ƯƯỜỜnngg tthhccss--tthhpptt nngguuyyỄỄ · pdf file · 2017-02-12lời...
TRANSCRIPT
TTTRRRƯƯƯỜỜỜNNNGGG TTTHHHCCCSSS---TTTHHHPPPTTT NNNGGGUUUYYYỄỄỄNNN KKKHHHUUUYYYẾẾẾNNN
TTTỔỔỔ GGGIIIÁÁÁOOO DDDỤỤỤCCC CCCÔÔÔNNNGGG DDDÂÂÂNNN ––– KKKỸỸỸ NNNĂĂĂNNNGGG SSSỐỐỐNNNGGG
DDDựựự ááánnn::: GGGiiiữữữ hhhồồồnnn qqquuuêêê VVViiiệệệttt
NNNhhhóóómmm nnnggghhhiiiêêênnn cccứứứuuu ––– 111000AAA222
1
Giữ hồn quê Việt
Mục lục
Nội dung Trang
Phần I:GIỚI THIỆU CHUNG
Lời nói đầu .......................................................... 2
Phần II: CÁC THỂ LOẠI
Hò ........................................................................ 5
Lí .......................................................................... 7
Hát ru .................................................................. 10
Đờn ca tài tử ........................................................ 18
Cải lương ............................................................. 25
Nhạc lễ ................................................................. 27
Âm hưởng dân ca ................................................. 32
PHẦN III: THỰC TRẠNG THƯỞNG THỨC ÂM
NHẠC DÂN TỘC HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP
Phần IV: KẾT LUẬN
Lời kết ........................................................................ 37
2
Giữ hồn quê Việt
LỜI NÓI ĐẦU
Thân gửi bạn đọc!
Lời Mở Đầu Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc với một nền văn minh lâu đời, có một nền âm
nhạc dân gian đa dạng ,phong phú. Những tiết tấu, âm điệu đặc trưng của dân ca phần
lớn phát nguồn từ những câu đồng dao dù bình dị đơn giản, hay những câu ca dao thâm
thúy khúc chiết và loại vần thơ vần như lục bát được gạn lọc, bổ sung qua nhiều giai
đoạn khác nhau rồi thở thành những thể loại ca hát dân gian khác nhau của từng địa
phương, từng vùng miền. Độc đáo nhất vẫn phải kể đến là dân ca Nam Bộ giàu chất trữ
tình, đậm màu thi vị và rất phong phú về thể loại như: hò, lý, hát ru, hát huê tình, đồng
dao, nói thơ, nói vè. Ngoài ra còn phải nhắc đến loại hình âm nhạc dân tộc đờn ca tài tử
đầy tình cảm, sâu sắc. Âm nhạc truyền thống Nam bộ là sự kết hợp hoàn hảo của
những nhạc cụ dân tộc độc đáo.
Trong cuốn sách này , chúng tôi muốn giới thiệu đến các bạn nét đẹp của dân ca Nam
Bộ thông qua những loại hình nghệ thuật như hò, lý , ,hát ru, đờn ca tài tử … nhằm
giúp các bạn hiểu hơn về giá trị văn hóa phi vật chất mà ông cha ta để lại cho chúng
ta , giúp chúng ta cảm nhận được nét đẹp, yêu thích từ đó giữ gìn và phát huy mang
đậm nét bản sắc dân tộc , thể hiện tích cách của con người Việt Nam .
Nhóm nghiên cứu lớp 10A2
3
Giữ hồn quê Việt
PHẦN II: GIỚI THIỆU CHUNG
NAM BỘ
4
Giữ hồn quê Việt
rong nền âm nhạc dân tộc dân gian, Hò là một trong những thể loại gắn bó thân thiết với
sinh hoạt lao động của người dân Việt. Hò có thể chỉ là một làn điệu duy nhất, nhưng cũng
có khi là một tập hợp nhiều làn điệu có chung thuộc tính về nội dung cũng như hình thức
biểu hiện nghệ thuật.
Đã có một thời, những điệu hò được xem như món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc
sống. Từ miền sơn thượng với bao thác ghềnh hiểm trở, đến miền đồng bằng phì nhiêu, bao la bát
ngát, cho tới tận những nơi cửa biển hay ngoài khơi xa sóng to gió cả, đâu đâu cũng vang vọng
những giọng hò. Hò bảng lảng dọc triền sông, hò lãng đãng trên những cánh đồng lúa chín mùa thu
hoạch, hò xuất hiện trong sinh hoạt hàng ngày ở mỗi miền quê… tất cả đã góp phần tạo nên một
kho tàng phong phú và đa dạng các loại hò.
Cũng như tên nhiều miền của đất nước, hò là một điệu dân ca phổ biến ở Nam Bộ nói riêng.
Hò được gắn liền với sông nước, với khung cảnh êm ả, phẳng lặng. Với một âm hưởng phóng
khoáng, tự do, mang ít nhiều nhân tố "tự sự", "vịnh thán", hò thường được dùng để ngợi ca hay đề
cao một đạo lý tốt đẹp nào đấy như lòng chung thủy sắt son, niềm tin yêu chặt dạ bền lòng... Âm
điệu của các thể loại hò ở từng địa phương thường không giống nhau về chi tiết luyến láy, về cách
xử lý các "âm điệu" giữa câu, hay có đôi khi cũng khác nhau về kết cấu toàn bộ. Thí dụ như: hò
Đồng Tháp thì kết ở một nốt thuộc "át âm", nhưng trong lúc đây, tuy cùng một điêu thức "xon",
nhưng hò Miền Đông, hò Bạc Liêu, hò Gia Ninh, thì lại dùng nốt chủ âm để kết hoàn toàn.
Việc xử lý kếu cấu này tùy thuộc vào phong cách, vào nội dung của từng vùng, nhằm thể hiện được
tính cách riêng biệt, màu sắc độc đáo, chứ không phải là không có dụng ý. Thông thường do ý nghĩa
của nội dung lời hò giữ vai trò quyết định, nên giai điệu của hò này được tiến hành theo đường nét
bình ổn, "lên dần" hoặc "xuống dần", cố tránh những bước nhảy quãng đột xuất, nhằm tạo ra một
phong vị êm đềm, nhẹ nhàng như kiểu "ngân nga, tự sự", nặng đi vào chiều sâu lắng hơn là ầm ĩ,
huyên náo. Hoàn cảnh xã hội ngày càng thay đổi, nên nội dung và hình thức hò cũng được cải biên
và bổ sung cho thích hợp. Ví dụ như, khi Mặt trận Bình dân bên Pháp chiếm được nhiều thắng lợi
trên địa hạt chính trị, thì ở Nam Bộ, kế bên những loại hò mộc, hò huê tình, hò đối, hò thơ, hò
truyện... lại xuất hiện thêm một loại hò gọi là hò quốc sự. Nội dung hò quốc sự đề cập đến những
vấn đề chính trị cổ vũ và động viên tinh thần yêu nước của quần chúng:
T
5
Giữ hồn quê Việt
hò ơi! Trên đời mọi vật bẩn nhơ
Hò ơi! Em ơi trải bao thế hệ oai hùng
Nước nhà lâm nạn anh hùng ra tay
Hi sinh bao quản thân dài
Máu đào từng rửa, "nước" rày thành trong
Nội dung lớn của hò phần lớn dựa trên cơ sở của lối thơ lục bát, nhưng khi xử lý thì có thể giữ
nguyên, hoặc có khi lại mở rộng dài hơn để khớp với âm điệu của câu hò. Vì thế việc sáng tác ra
những câu hò được đông đảo quần chúng tham gia dễ dàng và nhanh chóng thu hút được sự hâm
mộ của quần chúng. Về tháng bảy âm lịch, thường là mùa cấy rộ và cũng là lúc mà các "vạn" cấy
(như phường, hội) được có dịp trổ tài vừa cấy giỏi lại vừa hò hay... và dĩ nhiên sau những lần gặp
gỡ, biết mặt... biết tài nhau... là đến những lời hò hẹn cho những ngày sau mùa gặt hái...
Ngày nay, đời sống hiện đại, làn sóng công nghiệp hóa cùng biết bao thăng trầm của thời
cuộc đã làm lãng quên rất nhiều sinh hoạt nghệ thuật dân gian. Đi canô, xuồng máy, người ta không
còn cần đến những điệu hò… ơ… trên sông nước mỗi sớm chiều. Phương thức gặt lúa, đánh bắt
trên sông đã không còn như xưa, khiến mất dần những giai điệu của Hò cấy lúa, cũng như Hò giựt
chì, Hò leo dốc, Hò kéo gỗ… Thẩm mỹ, nhu cầu nghệ thuật của các lớp con cháu thế hệ mới đã
thay đổi cơ bản với khá nhiều những nét văn hóa nói chung, âm nhạc nói riêng du nhập từ nước
ngoài. Và, cũng như nhiều thể loại âm nhạc dân gian khác, các điệu hò dường như chỉ còn tồn tại
trong ký ức của một thời vang bóng. Tuy vậy, để bảo tồn những giá trị của thể loại âm nhạc này,
đây đó, người ta đang nỗ lực phục dựng, bảo lưu một vài điệu hò được xem như có tính nghệ thuật
cao, nhằm tạo dựng một bức tranh khái quát về Hò của người Việt, giúp những thế hệ sau có thể tìm
hiểu được những nét độc đáo nhất về một thể loại âm nhạc đã từng có thời gian gắn bó thân thiết
với cuộc sống của biết bao thế hệ người dân Việt.
6
Giữ hồn quê Việt
KHÁI NIỆM
“Lý” là một làn điệu dân ca đặc trưng của những người nông dân mộc mạc chất phát. Những
lời ca trong những điệu “Lý” luôn nói lên tinh thần tích cực và sức sống mạnh mẻ của nông dân, lời
lẽ thường chân thật và mộc mạc, không văn chương, nhưng diễn tả tình cảm bộc trực mà đậm đà.
NGUỒN GỐC
Theo các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian, lý Nam Bộ có xuất phát từ nguồn gốc lao động,
không do bàn tay nghệ sĩ tạo nên mà chỉ là một hình thức nghệ thuật tự phát của quần chúng nhân
dân. Trong quá trình khai phá và chinh phục vùng đồng bằng Nam Bộ, trước một vùng đất màu mỡ,
bao la, từ những vườn cây ăn trái bạt ngàn của vùng Long Khánh, Biên Hòa (Đồng Nai), cho đến
những cánh đồng lúa bông vàng trĩu hạt phơi mình dưới ánh nắng chói chang ở miền châu thổ Cửu
Long, đã khơi nguồn cảm hứng dạt dào cho người dân sinh sống tại mảnh đất hiền hòa này sáng tạo
ra nhiều làn điệu lý mang nét đặc trưng riêng, đậm chất trữ tình, ngọt ngào, sâu lắng.
Lý Nam Bộ xuất hiện khá nhiều trong sinh hoạt văn hóa dân gian và thường được dùng như
một chất liệu để làm phong phú thêm cho một số làn điệu âm nhạc cổ truyền Nam Bộ.
ĐẶC ĐIỂM
Từ buổi đầu đi khai phá miền đất mới phương Nam, người nông dân đồng bằng Nam Bộ đã
lấy văn học nghệ thuật truyền miệng để nói lên ước vọng của mình trong cuộc sống. Việc sử dụng
thể thơ lục bát vào điệu lý, kết hợp những từ, cụm từ, lặp từ, tiếng đệm, âm hơi ngỡ như thừa thãi
nhưng đó lại là nghệ thuật thể hiện đầy đủ và rõ ràng nhất các cung bậc tình cảm của con người
Nam Bộ, lúc thiết tha, da diết, khi thì phấn khởi, vui tươi một cách rất tự nhiên, bình dị. Lý Nam Bộ
không chỉ phong phú về số lượng mà cả về đề tài, nội dung cũng như đặc tính âm nhạc.
Cái hay của các điệu lý Nam Bộ trước hết bởi nó là một loại dân ca sinh động về nội dung,
phong phú về điệu thức, đa dạng về ngôn từ. Thứ hai là nó có thể xuất hiện trong hầu hết các loại
hình nghệ thuật dân gian của miền Nam, thường được xen vào các bài ca vọng cổ, vở tuồng cải
lương. Lời ca thì chân chất, mộc mạc, dễ hiểu, dễ thuộc, dễ hát nên nó thường được sử dụng rộng
rãi trong mọi sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, trong mọi thôn cùng ngõ hẻm ở quê hương Nam Bộ.
7
Giữ hồn quê Việt
Ai cũng có thể hát lý và hát bất cứ nơi đâu như: khi chèo xuồng, lúc ru em, khi làm đồng;
hoặc vào các dịp lễ, tết, hội hè, giỗ chạp… Nhờ vậy mà lý đã được người dân Nam Bộ bình chọn là:
“Nhất Lý, Nhì Ngâm, Tam Nam, Tứ Oán”. Lý Nam Bộ như là một món ăn tinh thần thiết yếu của
cư dân đồng bằng Nam Bộ đến nỗi trong dân gian có câu thơ như sau: “Con Cua quậy ở dưới hang/
Nó nghe giọng lý kềnh càng bò lên”. Quả thật, lý Nam Bộ có sức quyến rũ lòng người và thật
không sai khi nói lý Nam Bộ là viên ngọc quý trong kho tàng dân ca Việt Nam.
Trong dân ca miền Nam, lý là một làn điệu dân ca đặc trưng của những người nông dân mộc
mạc. Những lời ca trong những điệu lý luôn nói lên tinh thần tích cực và sức sống mạnh mẽ của
người nông dân. Lời lẽ thường chân thật và mộc mạc, không văn chương bóng bẩy, nhưng diễn tả
được tình cảm, thể hiện được cá tính bộc trực, phóng khoáng của người Nam Bộ. Mặc dù lời ca của
những điệu lý miền Nam đa phần giống với những câu hát của ca dao, hò, vè vì chúng có vần điệu
dễ hát, nhưng khác với ca dao, hò, vè ở chỗ lý mang tính nhạc (hát), trong khi các thể loại dân gian
kia mang thuộc tính của thi ca (thơ).
Lý Nam Bộ có đặc điểm là ngắn gọn, mỗi bài chỉ có một lời, giai điệu có những quãng nhảy
xa tạo nên sắc thái sâu lắng trầm mặc hơn so với các điệu lý ở các vùng, miền khác. Mỗi điệu lý
Nam Bộ đều có một nội dung rõ rệt, hoặc phổ biến những kinh nghiệm sản xuất như Lý đất giồng,
Lý kéo chài chẳng hạn; hoặc ca ngợi những đức tính tốt của con người trong cuộc sống như Lý Ba
Tri, ca ngợi cái đẹp trong thiên nhiên như Lý chim xanh; hoặc oán trách nhau như Lý lu là; hoặc
mỉa mai, châm biếm bọn cường hào, ác bá như Lý con khỉ, Lý bình vôi, Lý con sam.
Nghiên cứu về dân ca Nam Bộ, ta thấy rằng, hầu như trong các điệu lý miền Nam đều có hình
bóng con sông, bến nước, làng quê với những giai điệu thật trữ tình, tha thiết, luôn chứa đựng tình
cảm của người dân phương Nam luôn nhớ về quê hương, nhớ về ký ức của lứa đôi nơi quê nhà.
CÁC BÀI LÍ NAM BỘ PHỔ BIẾN
Đến với Lý Chiều chiều - một bài Lý giao duyên tâm tình với tiết tấu nhẹ nhàng, với ca từ mộc
mạc, với tình cảm nồng nàn, gợi cho người nghe cảm giác buồn man mác: “Chiều chiều ra đứng
tây lầu tây. Thấy cô tang tình gánh nước. Tưới cây tưới cây ngô đồng. Xui khiến xui trong lòng,
trong lòng tôi thương. Thương cô tưới cây ngô đồng”.
Khi tiết tấu Lý sôi nổi thì đó cũng là lúc tâm thế con người được thăng hoa nhất: “Kêu cái mà
quạ kêu, kêu cái mà quạ kêu. Quạ kêu nam đáo, lắc đáo nữ phòng, người dưng khác họ, chẳng nọ
thời kia. Nay dìa (về) thời mai ở, ban ngày thời mắc cỡ, tối ở quên dìa. Rằng a í a ta dìa, lòng
thương nhớ thương. Rằng a í a ta dìa lòng thương nhớ thương” (Lý Quạ kêu).
Hay bài Lý Cây bông: “Bông xanh bông trắng rồi lại vàng bông, ơi bạn ơi. Bông lê cho bằng
bông lựu ơi bạn ơi. Là a í a đố nàng, bông rồi lại mấy bông là a í a đố nàng, bông rồi lại mấy
bông…”.
8
Giữ hồn quê Việt
Lý cây bông
9
Giữ hồn quê Việt
NGUỒN GỐC:
ấy từ ca dao, đồng dao, hay trích từ các loại thơ hoặc hò dân gian được truyền miệng từ bà
xuống mẹ, thế hệ trước sang thế hệ sau. Do đó, những bài hát này rất đa dạng, mang tính
chất địa phương, gần như mỗi gia đình có một cách hát riêng biệt.
KHÁI NIỆM:
Hát ru là những bài hát nhẹ nhàng đơn giản giúp trẻ con ngủ. Phần lớn các câu trong bài hát
ru con.Hát ru Nam bộ là một loại hình văn hoá nghệ thuật dân gian, truyền miệng từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Hát ru của miền Nam nói chung (có thể khác nhau ở Tây Nam bộ và Đông
Nam bộ) gọi là hát đưa em, chịu ảnh hưởng của công việc, hoàn cảnh và khí hậu vùng miền nên hát
ru của Nam bộ nghe giản dị đơn sơ mà gần gũi. Trong cái ngọt của hát ru Nam bộ đặc biệt là miền
Tây Nam bộ, toát lên sự man mác, thiết tha, phóng khoáng, bao dung của hò Đồng Tháp, của các
điệu lý - câu hò sông nước Cửu Long. Bài hát ru thường được bắt đầu bằng những mô típ
quen thuộc như “ầu ơ….ví dầu“hay “ơ…ầu ơ…” và đoạn sau là phần lời của những câu ca
dao, những khúc hát thường có kết cấu lục bát, ví dụ:
“ Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.”
hay:
“Ầu ơ… Gió đưa cây cải về trời
Rau râm ở lại chịu đời đắng cay”
“À ơi..! Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con... À ơi…!”
L
10
Giữ hồn quê Việt
Một đặc điểm cần đề cập đến nữa là lời hát ru Nam bộ có một làn điệu rất nhẹ
nhàng, êm ã, như những dòng sông chở đầy phù sa, như sự lênh láng của cánh đồng quê
vào mùa nước nổi. Lời hát ru vừa ngân nga vừa sâu lắng, vang xa chất du dương êm ã, tạo
cho trẻ thơ một cảm giác rất êm tai, và từ đó dễ đưa các em đi vào giấc điệp.
NỘI DUNG:
Về lời ca, như đã biết, người hát Ru con có thể sử dụng bất cứ câu thơ, chùm thơ hay cả
một bài thơ lục bát có sẵn làm lời ca. Bên cạnh đó, người ta cũng có thể giãi bày nỗi niềm tâm sự.
Điều đó có nghĩa nội dung lời ca của các làn điệu hát ru thật rộng mở. Có thể nói, những câu hát
ru Nam Bộ đã thể hiện rất sinh động và khá toàn diện đời sống của người Việt ta xưa. Ở
đây, có thể tìm thấy rất nhiều chủ đề, từ cảnh quan thiên nhiên, quê hương, đất nước, cánh cò, cây
đa, bến sông, bến chợ, sân đình... cho đến tâm tư tình cảm của con người. Trong đó, sẽ thấy những
chiều cạnh khác nhau như sau:
+Tâm sự của người hát với đứa trẻ (đối tượng ru ngủ)
+Tâm sự của người hát với những người xung quanh
+Tâm sự của người hát với chính mình, than thân, trách phận...
Như vậy, bên cạnh mục đích ru ngủ, làn điệu hát Ru con còn là cơ hội để mỗi cá nhân có thể
bộc lộ những khả năng nghệ thuật âm nhạc và thơ ca nhất định. Đồng thời, người ta có thể mượn
hát Ru con làm nơi bộc bạch nhiều tâm tư tình cảm chan chứa nhất, thỏa mãn những cái mà không
thể nói thẳng trong cuộc sống hàng ngày. Ở góc độ khác, thông qua hát Ru con, mọi người cũng có
cơ hội để thấu hiểu người thân trong gia đình. Những âm điệu đậm đà mầu sắc dân tộc ấy cứ thấm
dần, thấm dần qua giấc ngủ, ngày này qua ngày khác.., thẩm thấu và khắc sâu mãi vào trong tâm
hồn trẻ thơ, tình cảm yêu thiên nhiên yêu cuộc sống, nhen nhóm lên ngọn lửa yêu thương và bắt đầu
hình thành nhân cách con người từ những lời hát ru của mẹ.
Ý NGHĨA TRI THỨC:
Lời hát ru, xét về mặt tác dụng của nó đối với trẻ thơ trong những lúc lắc võng, đưa
nôi chỉ là để dỗ giấc các em, bên cạnh đó, lời hát ru còn là sự phản ánh sinh động đời
sống, tình cảm, những quan hệ xã hội cũng như cách cư xử văn hoá của người Việt ta
ngày xưa.
1. Tình cảm thiêng liêng cao cả của ông bà, cha mẹ được con cháu ghi tạc trong lòng:
Có câu hát như sau:
“ Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chày thức đủ vừa năm
Lại có câu:
Công cha như núi Thái Sơn
11
Giữ hồn quê Việt
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Những lời hát ru trên dường như phổ biến đến mức trong hát ru trẻ ngủ của người
dân Nam Bộ không thể thiếu những câu ca nằm lòng ấy. Với nét đẹp của ca từ, phải chăng
lời hát ru còn muốn vươn đến những đối tượng khác, những thành viên khác trong gia
đình chăng? Chính điều này khẳng định người Việt ta từ xưa đã rất xem trọng đạo nghĩa
và rất có hiếu với cha mẹ vì cha mẹ là đấng sinh thành dưỡng dục với một sự gắn bó qua
từng tháng ngày ta khôn lớn.
Bởi thế lời hát ru còn có câu như sau:
“Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi
Khó đi mẹ dắt con đi
Con đi trường học, mẹ đi trường đời.”
12
Giữ hồn quê Việt
Văn hoá Việt Nam rất thiên trọng nữ tính, bởi người Việt Nam từ lúc còn thơ bé đã
rất gần với mẹ, người mẹ luôn bên con, quan tâm chăm sóc từng bước chân của con mình.
Qua bài ca còn cho ta thấy dân tộc ta xưa rất có ý thức học tập, thích cầu tiến; học tập
này bao gồm cả học kiến thức khoa học lẫn kiến thức đời sống xã hội, con đi trường học,
mẹ đi trường đời. Có thể khẳng định rằng, ngoài vốn tri thức tiếp thu ở trường, người học
trò nhỏ còn tiếp nhận được một lượng kiến thức về đạo đức, về vốn sống thực tế rất lớn từ
người mẹ nữa.
Chính vì công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ to lớn như trời trời biển, nên trong kho
tàng hát ru lại có câu:
“ Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.”
Đây phải chăng là tấm lòng của những cô gái lấy chồng xa xứ; cứ mỗi chiều về nhớ
mẹ, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn nên trong lòng với một nỗi ưu tư thương nhớ. Tình cảm
ấy đã chuyển hoá thành nỗi đau vừa cụ thể, vừa rất trừu tượng: ruột đau chín chiều.
2. Đời sống người Việt xưa trọng sùng hiếu đạo:
Do người Việt ta xưa ý thức rất rõ về công lao to lớn của ông bà, cha mẹ, nên lời
hát ru thể hiện sâu sắc sự hiếu đạo đối với họ.
Câu ca mộc mạc mà chứa đựng một tấm lòng cao đẹp:
“Gió đưa gió đẩy về rẩy ăn cồng
13
Giữ hồn quê Việt
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua
Bắt cua làm mắm cho chua
Gửi về cho ngoại khỏi mua tốn tiền.”
Ngoài việc cung phụng từ miếng ăn, thức uống, đâu đó còn là tiếng lòng, là nỗi
niềm cảm thương tha thiết:
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu.”
Từ tình cảm tha thiết, sự hiếu đạo của con cháu đối với ông bà, cha mẹ - mà khi những
lúc bị quở trách, đánh mắng, người con luôn tìm cách bộc lộ chữ hiếu của mình để được
giảm nhẹ trận đòn:
“Má ơi đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau má nhờ.”
Ngày xưa, điều kiện thiên nhiên chưa được khai phá phổ biến, càng đi về phía Nam
của Nam bộ càng vắng vẻ hoang sơ. Người con gái vì lẽ đó mà càng không muốn rời xa
mẹ:
“Má ơi đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu
Nhà má ở tại đám dâu
Bước qua đám đậu đầu cầu ngó qua
Ngó qua đám bắp trỗ cờ
Đám dưa trỗ nụ, đám cà trỗ bông”
3. Những cung bậc tình cảm từ tình yêu lứa đôi cho đến tình cảm vợ chồng:
Nhiều bài hát ru Nam bộ đã thể hiện đầy đủ những phương diện của tình cảm từ
tình yu lứa đôi đến mối quan hệ vợ chồng một cách toàn diện.
Trước hết là cách thể hiện lễ độ đối với đấng song thân của người yêu:
“ Đi qua nhà má, hai tay tôi sá, hai cẳng tôi quỳ
Vì thương con má sá gì thân tôi.”
Thực tế, người con trai không phải hành lễ như trong câu hát. Đó là đấu hiệu nghệ
thuật của lời hát ru nhằm thể hiện sự tôn trọng và tỏ hành vi lễ phép của người con trai
muốn cầu hôn cô gái.
Vượt lên trên sự khó khăn đó, điều đáng lo ngại trong tình yêu còn là sự ngăn sông
cách núi mà ông cha ta một khi đã yêu thì dẫu gian nan đến đâu cũng vượt qua:
14
Giữ hồn quê Việt
“Thương nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”
Trong tình yêu người Việt rất dễ thông cảm cho nhau, nhưng do ta chú trọng sự
điềm đạm, hoà nhã của con người nên, người con gái sẵn sàng chờ đợi người con trai đến
khi nào anh ta đã tu dưỡng được tính tình của mình:
“Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về anh học chữ nhu
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ”
Và trong tình yêu cũng có những trái ngang, xa cách, lúc đó nỗi thương nhớ cũng
hoá thành nỗi đau:
“Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau.
Khi con người rơi vào trạng thái thất tình thì câu ca lại được thể hiện ở một
cách khác:
Lan huệ sầu ai lan huệ héo
15
Giữ hồn quê Việt
Lan huệ sầu tình trong héo ngoài tươi.”
Sự tan vỡ trong tình yêu do cha mẹ không ưng thuận cũng là một nỗi đau cần được
cảm thông:
“ Cây da trốc gốc, thợ mộc đương cưa
Đôi ta đi ra cũng xứng, đứng lại cũng vừa
Tại cha với mẹ kén lừa xui gia.”
Sự vất vả của người vợ khi gia đình bị đổ vỡ hoặc những bê tha của người chồng:
Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ
Con thơ tay ẵm tay bồng
Tay nào xách nước, tay nào vo cơm.”
4. Những khía cạnh khác của đời sống người Việt xưa:
Sự vất vả, cô đơn:
“ Gió đưa cây cải về trờ
Rau răm ở lại chịu đời đắng cay.”
Lao động sản xuất tăng gia là đời sống vui tươi:
“Đất thanh bình mạ xanh em cấy
Một hạt mầm là mấy tình thương
Ngó lên mảnh đất quê hương
Dâu xanh la tốt vấn vương tơ tằm.”
Luôn có ý thức về cái đẹp trong ăn nói:
16
Giữ hồn quê Việt
“Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.”
17
Giữ hồn quê Việt
ờn ca tài tử là một dòng nhạc dân tộc của Việt Nam đã được UNESCO công nhận là di
sản văn hóa phi vật thểvà là một danh hiệu UNESCO ở Việt Nam có vùng ảnh hưởng
lớn, với phạm vi 21 tỉnh thành phía nam. Đờn ca tài tử hình thành và phát triển từ
cuối thế kỉ 19, bắt nguồn từ nhạc lễ, Nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian.
Đờn ca tài tử là loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của vùng Nam Bộ. Đây là một loại hình nghệ
thuật của đàn và ca, do những người bình dân, thanh niên nam nữ nông thôn Nam Bộ hát ca sau
những giờ lao động. Đờn ca tài tử xuất hiện hơn 100 năm trước, là loại hình diễn tấu có ban nhạc
gồm 4 loại là đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và đàn bầu (gọi là tứ tuyệt), sau này, có cách tân bằng cách
thay thế độc huyền cầm bằng cây guitar phím lõm. Những người tham gia đờn ca tài tử phần nhiều là
bạn bè, chòm xóm với nhau. Họ tập trung lại để cùng chia sẻ thú vui tao nhã nên thường không câu
nệ về trang phục.
2. NGUỒN GỐC
Loại âm nhạc này đúng ra là một loại nhạc thính phòng thường trình diễn trong phạm vi
không gian tương đối nhỏ như trong gia đình, tại đám cưới, đám giỗ, sinh nhật, trong các lễ
hội, sau khi thu hoạch mùa vụ, thường được biểu diễn vào những đêm trăng sáng ở xóm làng.
Nguồn gốc của nhạc tài tử là ca Huế, pha lẫn âm nhạc từ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Loại nhạc này mang đậm tính cách giải trí vui chơi chứ không thuộc loại nhạc lễ.
3. GIÁ TRỊ
Đờn ca tài tử thể hiện tính cách phóng khoáng và nếp sống sông nước miệt vườn của con
người Nam bộ, vì thế đã đi sâu vào trong tiềm thức của mỗi người dân, là món ăn tinh thần
không thể thiếu trong những ngày hội, dịp vui của đồng bào. Do đó, đờn ca tài tử có sức lan
toả mạng mẽ không chỉ gói gọn trong một địa bàn, địa phương hay một vài tỉnh, thành phố
mà có mặt hầu hết các tỉnh, thành khu vực phía Nam. Đi đâu chúng ta cũng nghe đờn ca tài tử,
đi đâu chúng ta cũng thấy những hoạt động sôi nổi của các câu lạc bộ, đội, nhóm đờn ca tài tử.
Sức sống mãnh liệt, tầm ảnh hưởng văn hoá rộng, giá trị nghệ thuật độc đáo, không nhằm lẫn
với bất cứ loại hình nghệ thuật nào khác chính là lý do thuyết phục nhất để lựa chọn Đờn ca
tài tử là một trong những di sản văn hoá phi vật thể tiêu biểu của miền Nam nói riêng và Việt
Nam nói chung.
Đ
18
Giữ hồn quê Việt
3. PHẠM VI VÀ NHẠC CỤ
Nghệ thuật Đờn ca tài tử hiện đang được phát triển ở 21 tỉnh, thành phố phía Nam Việt Nam
là: An Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bạc Liêu, Bến Tre, Bình Dương,Bình Phước, Bình Thuận, Cà
Mau, Cần Thơ, Đồng Nai, Đồng Tháp, Hậu Giang, TP Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Long An, Ninh
Thuận, Sóc Trăng, Tây Ninh, Tiền Giang, Trà Vinh và Vĩnh Long. Trong đó, Bạc Liêu, Bình
Dương, Tiền Giang và TP. Hồ Chí Minh là những tỉnh, thành phố có nhiều người hát đờn ca tài tử
nhất.
Nhạc cụ trong "Đờn ca tài tử" gồm đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn kìm, đàn cò, đàn
tam, sáo thường là sáo bảy lỗ (phụ họa). Hiện nay có một loại đàn mới do các nghệ nhân Việt Nam
cải biến là Guitar phím lõm. Loại nhạc cụ này được khoét lõm các ngăn sao cho khi đánh lên nghe
giống nhạc cụ Việt Nam nhất (âm cao).
4. TRÌNH DIỄN
Ban nhạc tường dùng năm nhạc cụ, thường gọi là ban ngũ tuyệt gồm đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn
kìm, đàn cò, và đàn tam. Phụ họa thêm là tiếng sáo thường là sáo bảy lỗsong lan (nhạc cụ bằng gỗ
để gõ nhịp) hoặc cả Ghita lõm.
Về trang phục, những người tham gia đờn ca tài tử phần nhiều là bạn bè, chòm xóm với nhau
nên thường chỉ mặc các loại thường phục khi tham gia trình diễn. Khi nào diễn ở đình, miếu hoặc
trên sân khấu họ mới mặc các trang phục biểu diễn.
Những năm gần đây nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch nên các nhóm nhạc tài tử hợp lại
với nhau thành các câu lạc bộ đờn ca tài tử mang tính bán chuyên nghiệp. Bên cạnh nghề nghiệp
chính, họ phục vụ văn nghệ khi có yêu cầu.Một số người nói rằng từ "tài tử" có nghĩa là nghiệp dư.
Trong thực tế, từ này có nghĩa là tài năng và ngụ ý rằng những người này không dùng nghệ thuật để
kiếm kế sinh nhai,mà chỉ để cho vui hoặc những lúc ngẫu hứng. Tuy nhiên, điều này không có
nghĩa là họ không phải là chuyên gia. Ngược lại, để trở thành một nghệ sĩ trong ý nghĩa xác thực
nhất của từ này, họ phải thực hành trong một thời gian dài.Đối với hình thức âm nhạc, vai trò của
các ca sĩ và nhạc sĩ đều bình đẳng. Ca trù hát và người ca (bài hát truyền thống từ miền Bắc và miền
Trung) là phụ nữ, trong khi đờn ca tài tử bao gồm các ca sĩ nam nữ và họ có vai trò bình đẳng.
Loại hình âm nhạc không chỉ ở các lễ hội và các bên mà còn trong thời gian sau thu hoạch.
Ngoài ra, nó có thể được chơi trong bóng mát của cây, con thuyền hoặc trong đêm trăng sáng...
19
Giữ hồn quê Việt
Ban đờn ca tài tử Nguyễn Tống Triều dự hội chợ các nước thuộc địa ở Marseille, Pháp năm 1906.
Khu lưu niệm Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ và Nhạc sĩ Cao Văn Lầu
Nguồn: Wikipedia
20
Giữ hồn quê Việt
1. Khái niệm
iải thích chữ "cải lương" (改良) theo nghĩa Hán Việt, giáo sư Trần Văn Khê cho rằng:
"cải lương là sửa đổi cho trở nên tốt hơn", thể hiện qua sân khấu biểu diễn, đề tài kịch
bản, nghệ thuật biểu diễn, dàn nhạc và bài bản. Ở đây là đã cải lương (cải cách, đổi
mới) nghệ thuật hát bội. Từ một động từ theo nghĩa thông thường đã trở thành một
danh từ riêng. Sau khi cải lương thì nghệ thuật Cải Lương đã khác hẳn với nghệ thuật hát bội cả về
nội dung và hình thức
2. Nguồn gốc
Cải lương ra đời vào những thập niên của đầu thế kỷ XX ở địa bàn miền Tây Nam Bộ. Cải lương
được hình thành từ những lối ca hát tài tử, cũng có nhiều người cho rằng: cải lương là hình thức ca
ra bộ và dần dần phát triển thành những kịch bản được diễn xuất trên sân khấu, nhằm đáp ứng nhu
cầu của khán thính giả lúc bấy giờ. Lúc này, đã có nhiều đoàn cải lương chuyên nghiệp, hoạt động
một cách rộng rãi ở nhiều tỉnh Nam Bộ, rồi lan dần ra miền Trung và ngay cả miền Bắc cũng đón
nhận giọng ca cải lương này. Có thể nói rằng: cải lương là một loại hình sân khấu nghệ thuật tổng
G
21
Giữ hồn quê Việt
hợp, được đúc kết và diễn đạt trên phương diện của nhiều tư tưởng. Nói cách khác, đây là một loại
hình sân khấu được đúc kết và có sự giao thoa giữa cái cũ và cái mới (kim cổ giao duyên).
Có thể nói: quá trình hình thành nghệ thuật cải lượng, là một qúa trình khá phức tạp. Vì, đất
nước chúng ta còn nghèo về nhiều mặt, đặc biệt là về khía cạnh của cải vật chất, muốn hình thành
một đoàn cải lương trước hết phải có tài chánh, nếu không thì không tạo tinh thần cho những người
đến với ngành nghệ thuật một cách bền vững.
3. Giá trị
a. Giá trị văn hóa
Trong đời sống của con người, vô cùng những khía cạnh nói về văn hóa có giá trị thực chất.
Nhưng, dù sao đi nữa, bất kỳ một di sản văn hóa nào, thì cũng có những giai đoạn phát triển của nó
và ở đỉnh cao hay còn gọi là điểm son. Thì, trong nghệ thuật cải lương cũng vậy, nó cũng có những
giai đoạn biến chuyển, thay đổi. Vì thế, tôi xin đề cập đến đỉnh cao của nghệ thuật cải lương.
Ngay trong chính bản thân nghệ thuật cải lương, về thi pháp, sáng tạo, thì nó đã hàm chứa hai
đặc điểm có vẻ trái ngược, nhưng lại rất thống nhất, đó là: sự khép kín mang tính định hình của
những qui ước sân khấu truyền thống ( các bài bản ca hát, các giai điệu âm nhạc, các qui ước biểu
diễn của diễn viên…) và sự mở ra của các hình thái nghệ thuật sân khấu ở khả năng thích hợp của
nó. Mặt khác, nghệ thuật cải lương còn có một khuôn mặt riêng khả ái, mang đầy chất nữ tính. Cho
nên, vừa đậm đà sắc thái truyền thống, lại vừa ngời ngời một ánh sáng hiện đại, làm cho con người
cảm thấy cuộc sống thanh thản và sống lạc quan yêu đời hơn. Nhưng con người cũng đừng qúa lạm
dụng thời gian, mà làm ánh hướng tới công việc của gia đình cũng như những công việc của xã hội.
22
Giữ hồn quê Việt
b. Giá trị nhân văn
Cải lương đã đưa lại một giá trị tinh thần cho người Việt Nam khá sâu sắc và cụ thể. Nó khai
thác thế giới tâm hồn của con người, bằng cảm nhận của tinh thần, đạo lý và tâm lý triết học
phương Đông, Phật Giáo ( với 14 điều răn dạy) trong đó có sự chấp nhận, bao dung, tha thứ và đoàn
viên là các tố chất chính.
Thế giới tình cảm được chắt lọc ( như chất liệu) và được thăng hoa ( qua ngôn ngữ và phương
tiện nghệ thuật biểu diễn đầy sức truyền cảm của diễn viên) tác động mạnh và trực tiếp nhận thức
tình cảm của người xem. Sự đồng cảm giữa con người với nhau cũng xuất hiện từ đây, thậm chí
người xem còn tác động trở lại, nhằm đẩy sự khích lệ lên cao hơn nữa ở nơi diễn viên. “ Nhất là khi
diễn viên ca những bài Oán, khi họ hoàn thành một cách ngọt ngào về phần lời nói lối gối sang câu
và chữ “ đổ” bài vọng cổ … và được công chúng vỗ tay tán thưởng, thì người diễn viên đã biết chắc
là yên tâm rồi và lúc đó càng có tinh thần diễn xuất hay hơn!” Có những câu chữ nghề nghiệp mà
chỉ ngành cải lương mới có, như: ca “ có ngầu”, ca “ quên sầu”, ca “ mùi mẫn” và ca lấy nước mắt
khán giả…, đều thể hiện một tính chất sâu thẳm của con người Việt Nam.
Qua đó cho chúng ta thấy: cả người sáng tạc lẫn người xem đều mong muốn một kết thúc “ có hậu”,
vì vậy cách đặt vấn đề của kịch bản và vở diễn lúc ban đầu có thể khác nhau, nhưng khi đi vào giải
quyết và kết thúc vấn đề, thì không còn khác nhau nữa. Ví dụ: chuyện cổ thì được giải oan, chuyện
kim thì sau những giải thích, thì không còn hiểu lần nữa, sau khi đã nhận ra thì “ cải tà quy chính”,
23
Giữ hồn quê Việt
còn những người đã từng bị hành hạ, đau khổ sẽ lại tha thứ, bao dung hoặc báo trước một điều kiện
“ cho quay lại”.
Với những đặc trưng dễ nhận thấy đó, thì cải lương đã để lại nhiều vở diễn mang đậm “ tình
cảm” được ghi nhận ở từng giai đoạn khác nhau, nhưng đều mang một đặc tính là thể hiện nhân
cách con người.
24
Giữ hồn quê Việt
uê hương Bạc Liêu rất tự hào là một trong những địa phương góp phần rất lớn vào việc phát
triển nhạc lễ cổ truyền đồng thời góp phần khai sinh phong trào đờn ca tài tử Nam bộ. Người
có công lao lớn nhất đặt nền móng ấy chính là Hậu tổ Nhạc Khị và Sư Nguyệt Chiếu. Đó là
những người con ưu tú của vùng đất Bạc Liêu.
1.Khái niệm
Theo GSTS Trần Văn Khê thì nhạc lễ là loại hình âm nhạc gắn liền với nghi lễ và tôn giáo.
Thật vậy, nhạc lễ là loại hình âm nhạc chỉ có bản đờn chứ không có kèm lời ca như nhạc tài tử và
chỉ phục vụ cho việc thực hiện các nghi lễ tín ngưỡng và tôn giáo.
2.Nguồn gốc
Theo nhiều nguồn sử học, nhạc lễ nước ta xuất hiện từ thời Nhà Lý năm 1121, dựa trên nền
của âm nhạc tế tự cung đình. Vào thời Nhà Nguyễn, ở Đàng Trong, nhạc lễ phát triển khá rực rỡ,
triều đình có cả một đội nhạc. Trong tiến trình mở mang bờ cõi, nhạc lễ cung đình không còn tồn tại
duy nhất ở Triều đình mà đã theo bước chân của những quan nhạc, những nghệ nhân và những
người khẩn hoang du nhập vào đất Nam bộ.
Trong cuộc hành trình vào Nam, nhạc cung đình dần dần được canh tân, kết hợp với những sáng tác
mới để hình thành loại hình nhạc lễ cổ truyền Nam bộ. Nhạc lễ cổ truyền Nam bộ lúc này được
dùng phổ biến trong các đám cúng kiến, tang ma, giỗ chạp tại gia thất hay tổ chức hát cúng tại đình
làng. Ban đầu nhạc cụ của nhạc lễ khá đồ sộ như: Bộ gõ (có trống chiến, trống cái, bạc lớn, bạc nhỏ,
mõ …); bộ vỗ (có trống cơm, bồng …); bộ hơi (có kèn đại, kèn trung, kèn tiểu …); bộ kéo (đờn cò,
gáo …); bộ gảy (có đờn kìm, sến, tranh, độc huyền, …). Dần dần các nhạc cụ này tinh gọn lại phù
hợp với điều kiện thực tế, thường chỉ còn các nhạc cụ gảy, gõ và dây kéo vĩ, không dùng các loại
trống nhạc, kèn rầm rộ nữa, dùng song lang thay cho trống nhạc để giữ nhịp điệu, tiết tấu… Ban
nhạc lễ cũng được tổ chức lại một cách gọn nhẹ hơn. Những Ban nhạc lễ nhỏ gọn như vậy người ta
còn có tên gọi là nhóm đờn cây.
3.Đặc điểm Các bài bản của nhạc lễ cổ truyền dần dần được điển hóa chủ yếu là 7 bài Bắc lớn (Xàng xê,
Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, Long đăng, Long Ngâm, Tiểu khúc, Vạn giá); kèm theo các bài Nam
(Nam ai, Nam xuân, Đảo ngũ cung)… vừa tạo ra sự phù hợp với hoàn cảnh, vừa thể hiện được yêu
Q
25
Giữ hồn quê Việt
cầu nghiêm túc, trang nghiêm khi hành lễ. Ông Ba Đợi, một nhạc sư của Triều đình Huế có câu nói
khá nổi tiếng : “Lễ phải có nghi, nhạc phải có hòa, tiếng đờn phải đủ cả trầm, bổng nhặt khoan”.
Đối với Đờn ca tài tử, theo nhiều nhà nghiên cứu thì loại nhạc này có nhiều tên gọi khác nhau tùy
theo từng nơi, từng vùng, có người gọi là “Đờn ca tài tử” hoặc “Đàn ca tài tử”, người khác thì gọi là
“Âm nhạc tài tử”, cũng có người gọi là “Ca nhạc tài tử”, gọi cách nào cũng có nghĩa, nhưng thông
dụng vẫn sử dụng là “Đờn ca tài tử Nam bộ”, nhưng dù có tên gọi như thế nào, các nhà nghiên cứu
âm nhạc đều cho rằng loại hình nghệ thuật này thoát thai từ hoạt động nhạc lễ và hình thành ở Nam
bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, do các nhạc quan, nhạc sĩ triều đình Huế theo phong trào
Cần Vương vào Nam mang vào. Trên bước đường Nam tiến, dòng nhạc này đã nhạy bén tiếp thu
những tinh hoa của âm nhạc địa phương, thêm thắt một chút nét nhạc mới, cách tân phong, cách
diễn tấu hay đặt thêm lời ca vào lòng bản nhạc …Từ đó Đờn ca tài tử được ra đời.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở Nam bộ đã hình thành nhiều nhóm ca nhạc tài tử và tranh đua
với nhau về nghệ thuật, ra sức cải tiến, nâng cao sáng tác thêm nhiều bài bản mới. Ở Vĩnh Long, có
ông Trần Quan Quờn (Ký Quờn); Long An có ông Ba Đợi (Nguyễn Quang Đại); Cần Thơ có Mộc
Quán Nguyễn Trọng Quyền; Bạc Liêu có ông Nhạc Khị và Sư Nguyệt Chiếu, …Nghệ nhân Nhạc
Khị lúc sinh thời có nói 1 câu khá nổi tiếng: “Chơi đàn ca tài tử là coi như ra trận, hễ ca sai lời, sai
nhịp, sai giọng, đờn sai nhạc, sai nhịp là coi như không phải đờn ca tài tử”. Các Ông và học trò của
mình đã ra sức nghiên cứu, canh tân, hiệu đính các bài nhạc lễ, cải biên các bài bản gốc của ca nhạc
Cung đình Huế, tiếp thu những đặc sắc của âm nhạc dân gian địa phương, cách tân lối bắt nhịp
(nhịp nội, nhịp ngoại, nhịp lơi), song vẫn tôn trọng lòng bản, để tạo một giai điệu hòa hợp với ngôn
ngữ, phong cách của người dân Nam bộ. Như vậy, nhạc lễ và đờn ca tài tử có mối quan hệ hữu cơ
rất đặc biệt.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, nhạc lễ cổ truyền và đờn ca tài tử Nam bộ đều dựa theo học thuyết âm
– dương ngũ hành với ngũ cung: Hò - Xự - Xang - Xê - Cống (Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ), và
dựa trên nền tảng lễ nghĩa, đạo đức, bản chất luân lý con người phương Đông.
Nếu nhạc lễ biểu trưng cho văn hóa cung đình, thì đờn ca tài tử biểu hiện đặc sắc của văn hóa dân
gian Nam bộ. Nếu nhạc lễ mang nét trang trọng cung kính thì nhạc tài tử vừa da diết, ngọt ngào, dễ
hòa vào tâm hồn những con người vừa định cư ở vùng đất mới. Nhạc lễ chủ yếu là sử dụng nhạc khí
để hòa đờn, phối khí, còn đơn ca tài tử ngoài việc hòa đờn, phối khí còn phải có phần ca diễn.
Bài bản của Nhạc lễ chủ yếu là 7 bài Bắc lớn, kèm theo các bài Nam, còn Đờn ca tài tử thì phong
phú hơn nhiều, có đủ 4 điệu: Bắc, Hạ, Nam, Oán, có cả 4 hơi: Xuân, Ai, Đào, Ngự; Các bài bản của
nhạc lễ cổ truyền đa số là bản tổ của Đờn ca tài tử (3 Nam, 6 Bắc, tứ Oán, 7 bài)… Các bài bản và
cách thể hiện của Đờn ca tài tử thì hết sức đa dạng, phù hợp với phong cách của vùng, miền, người
ta chỉ cần thay lời mới để sát hợp trong mọi hoàn cảnh: quan, hôn, tang, tế, biệt ly, thất tình, thất
sủng…
26
Giữ hồn quê Việt
Đội nhạc lễ cổ truyền. Nguồn ảnh: Báo Đại Đoàn Kết điện tử
Mục đích của nhạc lễ cổ truyền chủ yếu là phục vụ việc tế lễ, cúng kiến nghiêm túc trong các
đám tang ma, cúng đình, còn đờn ca tài tử thì phục vụ “vô tư” cho các lễ hội, đình đám, cưới hỏi,
giỗ chạp, liên hoan, không đặt yêu cầu thù lao, gọi là “giúp vui”, mang tính cộng đồng sâu sắc, bình
đẳng giữa mọi người.
Các hoạt động của nhạc lễ cổ truyền và đờn ca tài tử tuy có mục đích khác nhau nhưng thực tế luôn
kết hợp vì có mối quan hệ hữa cơ cùng dựa vào nhau để dễ dàng phát huy và phổ biến rộng rãi trong
công chúng.
Đối với Bạc Liêu, trước thế kỷ XX đã hình thành hoạt động nhạc lễ nhưng còn mang tính gia truyền
nên chưa phổ biến rộng rãi. Đến khi thiết chế đình làng ở địa phương được thiết lập, trong đình có
Hương nhạc để chăm lo việc cúng tế thì nhu cầu nhạc lễ cúng đình cũng như cúng kiến tại tư gia bắt
đầu được chú ý.
Năm 1930, với sự hợp tác của Sư Nguyệt Chiếu, ông Nhạc Khị thành lập Ban nhạc lễ đầu tiên trên
vùng đất Bạc Liêu. Lúc đầu, Ban nhạc này chỉ chuyên đờn phục vụ cúng đình và các đám ma chay,
tế lễ. Dần dần, theo yêu cầu của gia chủ và một số người hâm mộ, Ban nhạc bổ sung thêm người
biết ca để phục vụ sau giờ hành lễ, từ đó quy mô Ban nhạc cũng được mở rộng từ việc phục vụ cúng
kiến, tế lễ dần dần mở rộng phục vụ cả đám cưới hỏi, tiệc tùng, liên hoan, tiếp tân, khánh tiết…Ban
nhạc lễ hôm nào, giờ đây vô hình chung đã trở thành Ban nhạc đờn ca tài tử.
GSTS Trần văn Khê đã coi ông Nhạc Khị là một người lạ thường, ông chuyên về nhạc lễ và rất rành
về nhạc tài tử, ông thường ngồi trong mùng một mình để biểu diễn một lúc nhiều món nhạc khí.
Người nghe tưởng rằng có đầy đủ cả một Ban nhạc. Đồng thời, với Nhạc Khị, Sư Nguyệt Chiếu đã
có công lớn trong việc canh tân, hiệu đính 7 bài Bắc lớn để ứng dụng vào trong nhạc lễ cổ truyền và
nhạc Phật giáo Nam bộ.
Hoạt động nhạc lễ và đờn ca tài tử từ khi xuất hiện ở Bạc Liêu đến nay đã trên một thế kỷ, hai
dòng nhạc này đã góp phần rất lớn để thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần ngày càng cao
27
Giữ hồn quê Việt
và đa dạng của nhân dân. Ngày nay, hoạt động nhạc lễ và đờn ca tài tử ở Bạc Liêu phát triển rất
rộng rãi, hầu như không có đám cúng đình nào hoặc đám tang nào mà không có nhạc lễ; tương tự
như vậy từ vùng nông thôn hẻo lánh hay tại khu vực đô thị, hầu như cuộc liên hoan, hội nghị, tiệc
tùng nào cũng có hơi hám của đờn ca tài tử. Hiện nay Bạc Liêu có khoảng trên 100 Đội, nhóm,
CLB đờn ca tài tử hoạt động dưới hình thức xã hội hóa và các tổ chức này không ngừng mang
những lời ca, bản đờn phục vụ cho những người hâm mộ.
Bên cạnh những đóng góp tích cực của hoạt động nhạc lễ, đờn ca tài tử qua nhiều thời kỳ khác nhau,
2 dòng nhạc này không ngừng được củng cố, hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh
thần cho nhân dân. Song, mặt trái của nó cũng mang lại không ít những tiêu cực ảnh hưởng đến sinh
hoạt văn hóa lành mạnh của nhân dân. Có nhiều Ban nhạc lễ hay Ban nhạc tài tử khi hoạt động còn
thể hiện các bản đờn hay các món nhạc khí nhiều khi còn tùy tiện; môi trường trình diễn thiếu lành
mạnh, thiếu nghiêm túc, không còn giữ được tôn chỉ mục đích ban đầu, thậm chí bị thương mại hóa
làm mất đi bản chất tốt đẹp của dòng nhạc mang nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Mặt
khác, 2 dòng nhạc này còn mang nặng tính chất dân gian và gia truyền, nên trong quá trình phổ biến
trên 1 thế kỷ qua ít nhiều cũng bị mai một, vì vậy các ngành chức năng cần quan tâm hơn trong việc
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa này trên địa bàn tỉnh.
Đã qua, cùng với nhiều nơi khác, Bạc Liêu đã góp phần rất lớn vào việc phát triển nhạc lễ cổ truyền
và góp phần khai sinh ra hoạt động đờn ca tài tử Nam bộ. Nhạc lễ và đờn ca tài tử ngày nay đã trở
thành di sản văn hóa quý báu, không những của Nam bộ mà còn của vùng đất, con người Bạc Liêu.
Hai di sản này luôn có mối quan hệ đặc biệt, tuy hai mà một, tuy một mà hai, cùng dựa vào nhau để
cùng phát triển. Các tiền nhân Bạc Liêu như Nhạc Khị, Sư Nguyệt Chiếu … đã có công lớn trong
việc tạo ra hoạt động nhạc lễ và đờn ca tài tử thì chúng ta hôm nay cũng như thế hệ mai sau phải có
trách nhiệm giữ gìn, bảo tồn, phát huy hai dòng nhạc này mãi mãi được trường tồn, để 2 di sản văn
hóa truyền thống này của dân tộc không ngừng phát triển phục vụ cho yêu cầu của quê hương đất
nước.
28
Giữ hồn quê Việt
m nhạc dân tộc (ANDT) Việt Nam là một phần trong văn hóa dân gian cổ truyền của
Việt Nam, trải qua mấy ngàn năm trầm tích, tiềm ẩn vô cùng tận. Đừng cho rằng âm nhạc
dân gian đã bị khai thác cạn kiệt. Nói như thế là chưa hiểu hết trữ lượng của quặng mỏ quý
giá này, hoặc có khi chỉ thấy lớp đất mặt mà không thấy kho trầm tích dưới sâu.
Vài năm gần đây, một số tác giả trẻ nỗ lực sáng tạo theo phong cách được gọi là “dân gian
đương đại”, đây là những cố gắng thể nghiệm đáng trân trọng
Âm nhạc cổ truyền và dân ca Việt Nam có vô vàn làn điệu phong phú của nhiều vùng miền;
mỗi một điệu thức đều chứa đựng một thang âm (scale) của riêng nó; chưa kể những điệu thức tam
âm, tứ âm... khu biệt. Ngoài ra, với sự sắp xếp và phát triển khéo léo các bậc (quãng), những đặc
điểm hoa mỹ nhấn, rung, mổ... của ANDT, ta sẽ tạo ra được những giai điệu bay bổng, độc đáo mà
vẫn đậm đà bản sắc dân tộc Những thủ pháp trên đã được những nhạc sĩ tiền bối áp dụng và tạo
nên những tác phẩm mang giai điệu phong phú tuyệt vời và thuần chất âm nhạc Việt.
Để mang hơi thở đương đại thì phần hòa âm, phối khí có thể vận dụng những nghệ thuật âm
thanh của thế giới, từ cổ điển, thính phòng đến những trào lưu đương đại (thậm chí dùng cả loop,
Â
29
Giữ hồn quê Việt
effect sounds- hiệu ứng âm thanh...) tạo nên một background (phông nền) đầy đặn, một bệ đỡ tôn
vinh phần giai điệu thuần Việt lên, theo tôi cách kết hợp như thế là hợp lý –vừa mang hơi thở đương
đại vừa tôn vinh bản sắc âm nhạc Việt. Thậm chí, khi không có nhạc đệm, chỉ cần nghe giai điệu,
người nghe đã biết đó là âm nhạc Việt Nam.
30
Giữ hồn quê Việt
PHẦN III: THỰC TRẠNG THƯỞNG THỨC ÂM
NHẠC DÂN TỘC HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP
Qua một cuộc khảo sát được thực hiện bởi bộ phận khảo sát, chúng tôi đã nhận được kết quả với
không ít bất ngờ
Trường THCS & THPT Nguyễn Khuyến
Tổ GDCD- KNS
Lớp 10A2
BẢNG KHẢO SÁT
Kiến thức về Dân ca Nam Bộ, thị hiếu của giới trẻ dành cho dân ca và Dân ca Nam Bộ
Họ và tên: ………………………………Lớp…………..Tuổi…………….
Trường……………………………………………………………………...
Câu 1: Bạn hiểu dân ca là: “
A. Những bài hát cổ truyền do nhân dân sáng tác được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
B. Bài hát của người dân
C. Là tất cả bài hát của người Việt
D. Tất cả đểu đúng
Câu 2: Nguồn gốc Dân ca Nam bộ?
A.An Dương Vương truyền lại
B. Là dân ca ở Nam Bộ.
C.Là dân ca được đưa vào Nam Bộ bởi những người di cư từ Bắc và Trung bộ vào.
D.Tất cả trên đều đúng
Câu 3: Bài nào sau đây là dân ca Nam Bộ ?
A.Hò cống chùa C.cà phê miệt vườn
B.Lí sáo đậu D.lí cây bông
Câu 4: nghệ thuật sân khấu cải lương có từ bao giờ ?
A.Thế kỷ X C.Thế kỷ XV
31
Giữ hồn quê Việt
B.Thế kỷ XVII D.Thế kỷ XIX
Câu 5: Đờn ca tài tử được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thế giới vào năm nào ?
A.2012 C.2014
B.2013 D.2011
Câu 6: Ai sau đây là tác giả bản vọng cổ: Dạ cổ hoài lang?
A.Cao Văn Lầu C.Út Trà Ôn
B. Năm Châu D.Thanh Tòng
Câu 7: Dân ca Nam Bộ gồm các thể loại gì ?
A.Hò,lí, đờn ca tài tử , cải lương C Hò, lý, hát xaon.ca trù, ví dặm
B.Quan họ, trống quân, hò , lý, cải lương D.Nhã nhạc cung đình
Câu 8 :Những loại nhạc cụ dùng để biểu diễn đờn ca tài?
A.Đàn tranh, đàn tì bà C.Đàn sến, sáo trúc
B.Đàn ghita D.Đàn kìm, cò, tranh, bầu, ghita phím lõm
Câu 9: Những điệu lý Nam bộ được đặt tện theo:
A. Nội dung của lời hát, B.Một số từ đầu của câu hát:,
B. Tếng đệm lót hoặc tiếng láy đưa hơi, theo địa anh: D. Tất cả đều đúng
Câu 10.phạm vi ảnh hưởng của đờn ca tài tử?
A.Lục tỉnh Nam Kỳ C.Cả Việt Nam
B. 21 tỉnh Nam Bộ D. đồng bằng sông Cửu Long
Câu 11.Mức dộ yêu thích của bạn với dân ca?
A. like B. dislike C. ok
Vì………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
Câu 12.bạn cảm thấy thế nào khi nghe nhạc dân ca ?
A.Rất hưng phấn C.Chán
B.Cũng được D.Cảm xúc khác…………………………..
32
Giữ hồn quê Việt
Câu 13: Cần làm để âm nhạc dân tộc đặc biệt là dân ca tồn tại và phát triển trong đời sống hiện đại?
A.Đưa vào dạy trong nhà trường C. Thi tìm hiểu về dân ca
B.Tổ chức các cuộc thi hát dân ca D. Biểu diễn nơi công cộng
Ý kiến khác………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………
Câu 14: Có ý kiến cho rằng khi đất nước chúng ta bắt đầu phát triển, sự du nhập của âm nhạc
nước ngoài khiến cho các loại hình âm nhạc truyền thống dần bị lãng quên và mai một, trong
lòng công chúng đặc biệt là giới trẻ chúng ta, bạn có suy nghĩ gì về vấn đề này?
rất thích 45%
cũng được 22%
chán 33%
Mức độ yêu thích của học sinh với dân ca
33
Giữ hồn quê Việt
Hầu hết các bạn được phỏng vấn đều trả lời rất nghiêm túc và chân thật. Gần một nửa số học
sinh đều yêu thích nhạc dân ca và có hiểu biết về truyền thống âm nhạc tốt đẹp và lâu đời này. Mặc
dù hiện nay có rất nhiều dòng nhạc mới lạ như EDM du nhập vào Việt Nam nhưng bản sắc dân tộc
lâu đời vẫn được ưa chuộng. Đây là một điều thật đáng mừng
dạy trong trường 33%
tổ chức thi hát dân ca
45%
thi tìm hiểu về dân ca
11%
biểu diễn nơi
công cộng 0% khác
11%
Ý kiến của học sinh về cách phát triển Dân ca
trả lời đúng
50% trả lời sai
48%
không trả lời 2%
Mức độ hiểu biết của học sinh về dân ca
34
Giữ hồn quê Việt
Phần IV: KẾT LUẬN
Chúng ta đều biết, không ai có thể phủ nhận được giá trị lịch sử, giá trị nhân văn của nền âm
nhạc dân tộc, bởi vì không có nó, dân tộc sẽ không thể vượt qua khỏi đêm trường nghìn năm Bắc
thuộc, không thể vượt qua những khúc quanh cam go, khắc nghiệt của chiến tranh nối tiếp chiến
tranh và lịch sử dựng nước và giữ nước của dòng dõi Lạc Hồng. Đó là các làn điệu hát ru, hát đồng
dao, hát giao duyên, hát mừng nhà mới, mừng được mùa... của 54 dân tộc anh em trên dải đất hình
chữ S (Việt Nam).Đó chính là ý chí Việt Nam, tâm hồn Việt Nam qua mọi thời đại, qua mọi thăng
trầm mà vẫn giữ được cốt cách của chính dân tộc mình. Hy vọng cuốn sách này sẽ giúp các bạn
hiểu và yêu hơn dòng âm nhạc đậm đà bản sắc này. Hãy giữ hốn quê Việt bằng việc giới thiệu
những sản phẩm của chúng tôi đến với mọi người các bạn nhé. Xin chân thành cảm ơn!
Nhóm nghiên cứu lớp 10A2
35
Giữ hồn quê Việt
Du Đỗ Lan Chi Nguyễn Vương Quốc Thanh
Thượng Thành Đạt Dương Phước Thiện
Huỳnh Lê Tuyết Anh Vi Thị Anh Thư
Nguyễn Hữu Hà Khanh Nguyễn Nhất Thống
Nguyễn Ngọc Lan Anh Phạm Ngọc Y Sa
Nguyễn Huỳnh Phương Thảo Nguyễn Phương Dung
Trần Thanh Thảo Nguyễn Minh Thắng
Trường THCS và THPT Nguyễn Khuyến - Cơ sở Bình Dương Địa chỉ: A26B, đường A3 (Võ Văn Tần), phường Hòa Phú, TP.Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương
ĐT: 0650.222 0903 - 0650.222 0999 - Fax: 0650.222 0922
Email: [email protected]
Tổ GDCD – KNS Website: novackjohnson.atavist.com/dan-ca-nam-bo-10a2