vietnam at a_glance_jan_2013_vn
DESCRIPTION
TRANSCRIPT
News Release
PUBLIC - Được phát hành bởi
NH TNHH một thành viên HSBC (Việt Nam)
Trụ sở chính tại:
235 Đồng Khởi, Quận 1, Tp Hồ Chí Minh
Web: www.hsbc.com.vn
Ngày 3 tháng 1 năm 2013
KINH TẾ VĨ MÔ VIỆT NAM TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
Khởi đầu với một nền tảng mạnh mẽ hơn
Năm 2012, kinh tế Việt Nam phát triển chậm chỉ đạt 5% như dự kiến so với mức
5,9% trong năm 2011nhưng sự đánh đổi không phải là vô ích
Xét về mặt vĩ mô, năm 2013 nhiều khả năng sẽ là một năm tươi sáng hơn so với
năm 2012 trong bối cảnh nhu cầu nội địa và quốc tế đang cải thiện chậm và
những nỗ lực cải tổ gần đây của Việt Nam đã có những kết quả ban đầu
Tiếp tục theo dõi những cải cách cụ thể hơn đặc biệt là những nỗ lực nhằm giảm
nợ xấu trong hệ thống tài chính và cải thiện môi trường kinh doanh để giúp Việt
Nam có nhiều năng lực cạnh tranh hơn
Nhiều việc cần phải hoàn thành
Đối với một quốc gia có nhiều tiềm năng như Việt Nam, tỷ lệ tăng trưởng 5% cho cả
năm 2012 không phải là tin đáng mừng vì chỉ số tăng trưởng này không đủ nhanh để
Việt Nam vươn lên được tầm phát triển mới. Nhưng con số này nên được diễn giải
trong bối cảnh những thách thức mà Việt Nam đã, đang và sẽ đối mặt. Kể từ khi Việt
Nam chuyển dịch từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường vào cuối những
năm 80 và đầu những năm 90, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng trung bình 7% mỗi
năm. Nhờ vào những nỗ lực cải cách như tăng cường quyền sở hữu tài sản, tự do
hoá thị trường và mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã nâng cao
năng lực sản xuất một cách đáng kể ở những năm 1990. Nhưng hiện tượng bùng nổ
năng lực sản xuất cũng dần chậm lại vào những năm 2000 do đầu tư công tăng đáng
kể. Và đa số các dự án đầu tư công lại nhằm vào các doanh nghiệp nhà nước được
điều hành không hiệu quả, các doanh nghiệp này sau đó tiếp tục cần nguồn vốn dồi
dào để bao cấp cho các hoạt động của mình . Điều đó đã làm tỷ lệ tăng trưởng mạnh
PUBLIC
trong thập niên trước không thể duy trì và cái giá phải trả là sự không ổn định của
kinh tế vĩ mô và năng lực sản xuất thấp hơn. Chính vì vậy, những hành động của
Chính phủ trong năm 2011 và 2012 nhằm ưu tiên tăng trưởng bền vững hơn là tăng
trưởng nhanh được đánh giá là dấu hiệu tích cực đối với triển vọng phát triển kinh tế
lâu dài tại Việt Nam.
Nhưng chúng ta thật sự cần nhiều cải cách hơn nữa và những cải cách này nên
được thực hiện càng sớm càng tốt. Tình hình nợ xấu đang treo lơ lửng vẫn cần
được giải quyết. Môi trường kinh doanh và cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho doanh nghiệp
cần được cải thiện. Việt Nam, trong khi vốn được xem là điểm đến hấp dẫn với thị
trường đang phát triển và nguồn lao động giá rẻ, lại đang tuột hạng trong các bảng
xếp hạng năng lực cạnh tranh quan trọng. Mặc dù nguyên nhân của sự sụt giảm
nguồn vốn đăng ký FDI một phần là do tình hình trì trệ của nền kinh tế toàn cầu
nhưng điều đó cũng phản ảnh Việt Nam đang dần mất đi năng lực cạnh tranh.
Tuy còn nhiều thách thức, nhưng năm 2012 vẫn để lại một vài điểm sáng cho nền
kinh tế. Xuất khẩu tăng gần 20% dù nhu cầu từ bên ngoài vẫn còn yếu. Thặng dư
thương mại đã xuất hiện. Chỉ số phụ về việc làm của PMI ngành sản xuất của Việt
Nam trong tháng 12 tăng. Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam tăng phản ánh Việt Nam
vẫn là quốc gia có nguồn nhân lực và điểm đầu tư hấp dẫn. Nhưng những yếu tố này
có được duy trì hay không phụ thuộc mạnh mẽ vào việc quá trình cải tổ sẽ được
thực hiện nhanh như thế nào. Chúng tôi sẽ tiếp tục quan sát những hành động cụ thể
mà Chính phủ sẽ thực hiện trong thời gian sắp tới.
Biểu đồ 1: Tăng trưởng năm 2012 chậm lại, lĩnh vực cộng
nghiệp giảm mạnh nhất (so với năm ngoái)
Nông nghiệp
Sản xuất
Công nghiệp
Dịch vụ
Biểu đồ 2: Xét theo quý có điều chỉnh mùa vụ, nền kinh tế đang
ổn định và trên đà hồi phục mặc dù chậm (so sánh theo quý)
Nông
nghiệp Công
nghiệp
Dịch vụ
PUBLIC
Một năm tươi sáng hơn nhưng không thiếu khó khăn
Với sự lạc quan đầy cẩn trọng, chúng tôi hy vọng năm 2013 sẽ là một năm tươi
sáng hơn so với năm 2012. Các quan chức về tài chính trên toàn cầu đang làm
những gì có thể để kích cầu nội địa. Nhật Bản, một thị trường quan trọng đối với các
nhà xuất khẩu Việt Nam dường như đang chứng kiến những rủi ro bề mặt đối với
tăng trưởng kinh tế nhờ vào quan điểm hỗ trợ của Thủ tướng Abe cũng như chính
sách nới lỏng rất xông xáo của Ngân hàng Nhà nước Nhật Bản (BOJ). Số liệu từ Mỹ
cũng gợi ý rằng tình hình bất động sản phục hồi là có thực, có nghĩa là lòng tin của
người tiêu dùng đang được hỗ trợ (mặc dù vẫn đầy cẩn trọng đối với những lo ngại
về vực thẳm tài khóa). Cùng với điều này, Uỷ ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC)
đang làm những gì có thể để vực dậy nền kinh tế Mỹ. Trung Quốc đang trên đà phục
hồi kinh tế và những khó khăn trong quá trình này có thể được giải quyết bằng chính
sách tài khóa. Các nước thuộc Khu vực đồng tiền chung châu Âu, thị trường lớn nhất
đối với Việt Nam có lẽ đã ra khỏi đáy trong quý IV.2012
Biểu đồ 3: Lĩnh vực sản xuất đang phục hồi nhờ vào lạm
phát giảm, nhu cầu trong nước ổn định và kinh tế Trung
Quốc đang hồi phục
Biểu đồ 4: Tăng trưởng chậm ở các nước phát triển, đặc biệt
là EU làm nhu cầu hàng dệt may và giầy dép chậm lại,
nhưng đầu tư nước ngoài mới ở lĩnh vực điện tử đã đẩy xuất
khẩu lên 2 con số (so với năm trước)
Chỉ số PMI
GDP ngành sản xuất (so sánh theo quý
Điện tử
Dầu thô
Dệt may
Tổng cộng
PUBLIC
Điều này có nghĩa về mặt chi tiêu, nhu cầu từ nước ngoài đối với hàng hoá Việt Nam
đang được kỳ vọng sẽ cải thiện. Xuất khẩu vẫn còn tăng mạnh ở mức 18,3% dù
chậm hơn so với mức 34,2% của năm 2011. Đa phần sự sụt giảm đáng kể là ở các
mặt hàng dệt may, quần áo và giày dép do nhu cầu ở thị trường thuộc Khối đồng tiền
chung châu Âu kém hơn. Nhưng nhờ vào hoạt động đầu tư nước ngoài mới tập
trung vào lĩnh vực điện tử vốn thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng điện tử tăng mà tổng kim
ngạch xuất khẩu vẫn duy trì lực tăng mạnh. Dù vẫn duy trì đà tăng mạnh nhưng tỷ lệ
tăng các mặt hàng điện tử có nhiều khả năng chậm lại do tác động của hoạt động
đầu tư bùng nổ một lần biến mất. Xuất khẩu các mặt hàng không thuộc hàng điện tử
tăng đã bù vào xuất khẩu hàng điện tử chậm lại và sự sụt giảm xuất khẩu dầu thô.
Nguyên nhân của hiện tượng này là do khả năng lọc dầu tăng làm nhu cầu nội địa
đối với mặt hàng dầu thô cũng gia tăng (và giới hạn nhu cầu nhập khẩu sản phẩm
tinh chế).
Ngành sản xuất về mặt triển vọng sẽ được lợi từ nhu cầu mạnh hơn từ nước ngoài
cũng như lạm phát được kiềm chế. Điều này tạo điều kiện cho các nhà sản xuất áp
dụng chiến lược giảm giá. Ngành sản xuất đã có một năm 2012 đầy khó khăn vì nhu
cầu trong nước giảm và nhu cầu nước ngoài yếu. Nhưng trong tương lai, chúng tôi
hy vọng bức tranh toàn cầu sẽ được cải thiện. Ngay cả ở trong nước, sau hai năm
thắt chặt chi tiêu, người tiêu dùng đang nới lỏng việc tiêu xài của mình. Biểu đồ 3 cho
thấy chỉ số PMI ngành sản xuất của HSBC đã theo đúng mô hình tăng trưởng sản
xuất của chỉ số GDP, mặc dù chỉ số PMI biểu thị sự tụt giảm mạnh trong quý III. Kể
từ quý III, các hoạt động sản xuất được hỗ trợ bởi sự cải thiện của các điều kiện tín
Biểu đồ 5: Kể từ tháng 6.2010, tăng trưởng xuất khẩu vượt
nhập khẩu theo quý giúp thu hẹp thặng dư thương mại
Xuất
khẩu
Nhập
khẩu
Biểu đồ 6: …nhờ vào tái tập trung vào lĩnh vực sản xuất.
Nguồn vốn FDI vào sản xuất trong năm 2012 (% tổng vốn
FDI đăng ký)
Điện,
gas,
máy
lạnh
Sức
khoẻ
con
người
Xây
dựng
Vận
chuyển
Truyề
n
thông
Bản
sỉ/
lẻ
Bất
độn
g
sản
Sản
xuất
PUBLIC
dụng trong nước cũng như thị trường Trung Quốc đang dần phục hồi. Nhưng tiến
trình phục hồi toàn cầu còn rất mong manh cũng như những dàn xếp tài khóa tại Mỹ
vẫn chưa đươc giải quyết sẽ khiến quý I.2013 vẫn sẽ còn nhiều khó khăn.
Các chỉ số phụ của chỉ số PMI ngành sản xuất tháng 12.2012 chỉ ra rằng hoạt động
sản xuất ổn định ở ngưỡng gần mức 50 điểm nhưng vẫn chưa thật sự khởi sắc do
chi tiêu cả trong nước lẫn nước ngoài vẫn đang rất cẩn trọng. Đơn đặt hàng xuất
khẩu mới tiếp tục cho thấy nhu cầu nước ngoài tiếp tục giảm sút và sẽ còn tiếp tục
giảm trong quý I sắp tới. Lưu ý rằng mặc dù nhu cầu xuất khẩu yếu nhưng sự ổn
định của sản lượng cũng như sự gia tăng việc làm vẫn đang tồn tại. Điều này phản
ánh các điều kiện tín dụng trong nước đang dần cải thiện cũng như lạm phát chậm
lại (biểu đồ 9) đã tạo điều kiện cho các nhà sản xuất giảm giá xuất xưởng để kích
thích nhu cầu. Nhưng hiện tượng hàng tồn kho tiếp tục sụt giảm lại gợi ý rằng những
biện pháp để giải phóng hàng tồn kho đang được tiếp tục thực hiện và các nhà quản
lý đang chờ đợi dấu hiệu tăng trưởng mạnh mẽ hơn để thúc đẩy sản xuất. Trong khi
chuẩn bị cho tăng trưởng thông qua việc gia tăng nhân công, các nhà sản xuất vẫn
đang triển khai một cách cẩn trọng.
BẢNG 1: CHỈ SỐ PMI NGÀNH SẢN XUẤT VIỆT NAM VÀ NHỮNG CHỈ SỐ PHỤ
Tháng
12.2012
Tháng
11.2012
Tháng
10.2012
Trung bình dài
hạn
Chỉ số PMI toàn phần 49,3 50,5 48,7 49,3
Sản lượng 49,6
Đơn đặt hàng mới 49,4
Đơn đặt hàng xuất khẩu mới 49,9
Công việc chưa được thực hiện 48,4
Tồn kho hàng thành phẩm 49,6
Việc làm 50,3
Giá cả đầu ra 51,1
Giá cả đầu vào 57,2
Thời gian giao hàng của nhà cung cấp 52,6
Tồn kho hàng mua 47,7
Số lượng hàng mua 48,7
PUBLIC
Trong khi đó, lĩnh vực dịch vụ đang tiếp tục tăng trưởng (biểu đồ 1 và 2) mặt dù tăng
chậm hơn chỉ đạt 6,4% trong năm 2012 so với mức 8,2% trong năm 2011. Sự tăng
trưởng này bắt nguồn từ dân số Việt Nam đang gia tăng mạnh mẽ và thu nhập đang
được cải thiện – vốn là điều kiện cần có để phát triển một số lĩnh vực dịch vụ như tài
chính, vận chuyển, sức khoẻ, giáo dục và sửa chữa điện tử… Trong khi đó, bất động
sản lại đang bị ảnh hưởng bởi tình hình trì trệ trong nước khi nợ xấu chưa được giải
quyết rõ ràng. Tương tự, lĩnh vực này cũng bị đóng băng do tiến trình trả nợ vốn dần
được khôi phục nhưng vẫn còn rất ngổn ngang và các ngân hàng vẫn thích đáo nợ
xấu. Điều này có nghĩa rằng trừ khi Nhà nước giải quyết rốt ráo vấn đề nợ xấu, thì
sự điều chỉnh giá bất động sản ở điểm cung đáp ứng cầu khó có thể diễn ra. Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) kỳ vọng vấn đề này sẽ giải quyết được bằng cách dành ra
20 – 40 ngàn tỷ đồng để cho người mua nhà vay trong năm 2013 nhằm kích cầu thị
trường bất động sản. Nhưng mặc dù việc thúc đẩy nhu cầu bất động sản thành công
thì vấn đề nợ xấu đang tồn tại sẽ vẫn còn giữ nguyên, điều đó có nghĩa những nguy
cơ mang tính hệ thống sẽ vẫn còn nếu vẫn không nói là sẽ phát triển lớn thêm. Khi
các ngân hàng cẩn trọng hơn và ưu tiên tín dụng có chất lượng thì bất kỳ việc cho
vay mới nào cũng sẽ phụ thuộc vào hồ sơ tín dụng uy tín của người đi vay. Chính vì
vậy, chúng tôi không dự báo sẽ có sự đột phá lớn về tăng trưởng tín dụng trong năm
2013. NHNN dự báo tăng trưởng tín dụng sẽ đạt 12% trong năm 2013 từ mức 6,4%
trong năm 2012, gần với mức dự đoán của chúng tôi là 13%. Nếu tính cả lạm phát,
tín dụng thực tế sẽ chỉ đóng góp rất nhỏ vào tăng trưởng.
Biểu đồ 7: Hoạt động sản xuất ổn định nhưng còn nhiều
chông gai do…
Chỉ số
PMI
Sản
lượng
Biểu đồ 8: … do các điều kiện kinh tế toàn cầu còn yếu và
nhu cầu trong nước trì trệ
Đơn đặt
hàng mới Đơn đặt hàng
XK mới
PUBLIC
Những con số về tài chính cho cả năm phản ánh nhu cầu nội địa yếu, thâm hụt tài chính
giảm từ 54,4 ngàn tỷ đồng của năm 2011 xuống còn 16 ngàn tỷ đồng phần lớn là do sự
sụt giảm thu chi ngân sách nhà nước. Tổng thu ngân sách từ đất và nhà ở giảm 24,7%
trong năm 2012 trong khi thu từ thuế giá trị gia tăng nhập khẩu giảm 3,2%. Nền kinh tế
đang giảm sút ở tất cả lĩnh vực, thu ngân sách từ thuế thu nhập doanh nghiệp cũng
giảm xuống 16% so với mức 24,5% trong năm 2011, và thu thuế VAT cũng giảm từ
mức 26,1% trong năm 2011 xuống còn 10,4%. Điều này có thể được hiểu là tổng thu
ngân sách nhà nước giảm từ mức 24,3% trong năm 2011 xuống còn 10,8% trong năm
Biểu đồ 9: Giá xuất xưởng tiếp tục giảm nhờ vào lạm phát
chậm lại
Biểu đồ 10: Việc làm tiếp tục tăng do kỳ vọng phục hồi
nhưng các nhà SX vẫn cẩn trọng và tiếp tục giải quyết tồn
kho
Giá xuất
xưởng
Giá đầu
vào
Tồn kho thành
phẩm
Nhân
công
Biểu đồ 11: Tăng trưởng KT chậm đã ảnh hưởng đến thu
ngân sách mặc dù chi tiêu công giảm giúp thu hẹp cán cân
ngân sách
Biểu đồ 12: Lạm phát sẽ tiếp tục kiềm hãm trong năm 2013
với mức tăng nhẹ do nhu cầu được cải thiện và giá cả không
thuận lợi
Chi tiêu
Cân bằng ngân sách
Thu từ thuế Lạm phát toàn
phần
Lạm phát
cơ bản
PUBLIC
2012. Để thực hiện chính sách thống nhất tài khoá, Chính phủ đã kiềm chế chi tiêu công,
giảm từ mức 35,5% trong năm 2011 xuống còn 18,9%. Chi phí vốn đã có mức giảm nhẹ.
Điều này giúp giảm thâm hụt ngân sách cũng như cắt giảm những khoản chi tiêu công
hoang phí. Chúng tôi kỳ vọng khuynh hướng này sẽ tiếp tục trong năm tới với tăng
trưởng nhập khẩu được kiềm chế bởi nhu cầu nội địa yếu mặt dù sẽ có vài cải thiện
trong việc thu ngân sách vì nhập khẩu được kỳ vọng sẽ phục hồi nhẹ. Trong khi việc thu
ngân sách chậm và việc chi ngân sách giảm để thu hẹp cân bằng ngân sách, một chính
sách kích thích tài chính để thúc đẩy tăng trưởng sẽ khó có thể diễn ra trong năm 2013
khi Chính phủ không có quỹ cũng như mong muốn để thực hiện điều đó.
Tóm lại, mặc dù tăng trưởng chậm, năm yếu tố phát triển chính được đánh giá là tích
cực trong năm 2012 đóng vai trò nền tảng cho tăng trưởng bền vững hơn là: 1) cán cân
thương mại thặng dư nhờ vào tăng trưởng nhập khẩu yếu đi và xuất khẩu tăng mạnh; 2)
lạm phát chậm lại còn 6,8% trong tháng 12.2012 so với mức 17,8% trong tháng 1.2012;
3) thâm hụt ngân sách đã được thu hẹp khiến các khoản nợ của Việt Nam được hạ thấp;
4) dự trữ ngoại tệ tăng đáng kế; 5) dòng vốn FDI từ Nhật tăng mạnh – một dấu hiệu lạc
quan cho quá trình công nghiệp hoá của Việt Nam.
Biểu đồ 13 chỉ ra rằng nguồn vốn đăng ký FDI từ Nhật Bản đã tăng. Con số đầu tư FDI
của các doanh nghiệp Nhật Bản vào một quốc gia có thể là minh chứng rằng quốc gia
đó đã tăng khả năng sản xuất và nâng cao chuỗi cung ứng giá trị. Tóm lại, nguồn vốn
FDI của Nhật Bản mang giá trị tập trung thương mại hơn là nguồn vốn FDI của Mỹ, điều
đó có nghĩa là các doanh nghiệp Nhật Bản tại châu Á có khuynh hướng xây dựng các
Biểu đồ 15: Đầu tư chậm lại từ các quốc gia hàng đầu (trừ
Nhật) đã phản ảnh năng lực cạnh tranh giảm sút, con số cao
hơn phản ảnh xếp hạng thấp hơn
Biểu đồ 16:Vẫn còn có vài lợi thế, bao gồm tăng trưởng dân
số cao có thể là 100 triệu người đến giữa những năm 2020
(% tỷ lệ tăng trưởng dân số lao động)
PUBLIC
khu sản xuất ở nước ngoài như là một chi nhánh của đại bản doanh tại Nhật. Kết quả là
các doanh nghiệp Nhật Bản đóng vai trò của một người khởi đầu và hướng dẫn lĩnh
vực công nghiệp hoá ở các quốc gia kém phát triển. Tại Việt Nam, năm quốc gia có
đóng góp lớn nhất cho nguồn vốn FDI đều đến từ châu Á phản ánh một khuynh hướng
của các công ty đa quốc gia đang dịch chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc nhằm cắt
giảm chi phí. Các quốc gia như Việt Nam, Indonesia đang tận dụng cơ hội để hưởng lợi
từ quá trình tái cấu trúc này vì chi phí nhân công tương đối thấp và dân số năng động
để hỗ trợ cho nhu cầu nội địa đang ngày càng tăng (biểu đồ 16).
Tuy nhiên, Việt Nam có thể làm được nhiều hơn để thu hút đầu tư nước ngoài nhằm hỗ
trợ quá trình phát triển. Như đã trình bày, với những chính sách tài khóa kiềm hãm, cần
có thêm nhiều nguồn đầu tư nước ngoài để phục hồi đầu tư trong nước vốn đang uể oải.
Thêm nữa, nhu cầu về cơ sở hạ tầng đang rất lớn, từ vấn đề thiếu điện đến hệ thống
giao thông công cộng, sẽ thu lợi từ kỹ thuật mang tiêu chuẩn thế giới mà các doanh
nghiệp nước ngoài mang lại. Nhưng để làm được điều đó, Việt Nam sẽ cần nâng cao
môi trường kinh doanh, đa phần là loại bỏ quan liêu và tạo ra một mội trường luật pháp
rõ ràng hơn để giải quyết vấn đề nợ khó trả. Không thực hiện được điều này, các doanh
nghiệp thâm nhập vào thị trường Việt Nam chỉ để tận dụng lợi thế nhân công giá rẻ hơn
là tận dụng thế mạnh thị trường nội địa năng động. Điều này chỉ rõ trong việc sụt giảm
nguồn vốn đăng ký FDI (ngoại trừ Nhật Bản) khi họ đang có những thị trường khác hấp
dẫn hơn như Indonesia và Thái Lan để đến đầu tư.
Chính vì vậy, để Việt Nam thực hiện được những tham vọng của mình, cải tổ cần phải
được thực hiện không chỉ để loại bỏ nợ xấu mà còn để cải thiện hiệu quả của nền kinh
tế.
Việt Nam: Chỉ số kinh tế vĩ mô
1Q 12
2Q 12 3Q 12 4Q 12 1Q 13f
2Q 13f
3Q 13 f
4Q 13f
2011 2012 2013f
Tăng trưởng GDP (% theo năm) 4,1 4,7 5,4 5,5 7,5 5,5 4,5 4,7 5,9 5,0 5,5
CPI, trung bình (% theo năm) 17,2 11,0 5,9 6,8 7,2 9,6 11,1 9,9 18,6 9,3 9,5
Thặng dư thương mai (%GDP) 0,9 -1,1 0,9 0,3 -4,6 -0,5 1,3 0,8 -9,8* 0,2* -2,2*
Lãi suất OMO, cuối quý (%) 13,0 10,0 8,0 7,0 7,0 7,0 7,0 8,0 14,0 7,0 8,0
Tỷ giá VND/USD, cuối quý 20900 20905 20860 20900 21000 21000 21500 21500 21034 20900 21500 Nguồn: CEIC, dự đoán của HSBC
Lưu ý: * chỉ giá trị thực bằng tỷ USD