vẤn ĐỀ phỤ nỮ trÊn bÁo chÍ tiẾng viỆt trƢỚc cÁch mẠng...

42
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐẶNG THỊ VÂN CHI VẤN ĐỀ PHỤ NỮ TRÊN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2007

Upload: others

Post on 29-Aug-2019

6 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẶNG THỊ VÂN CHI

VẤN ĐỀ PHỤ NỮ

TRÊN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT TRƢỚC CÁCH

MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2007

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẶNG THỊ VÂN CHI

VẤN ĐỀ PHỤ NỮ

TRÊN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT TRƢỚC CÁCH MẠNG

THÁNG TÁM NĂM 1945

Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại

Mã số : 62 22 54 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS Đỗ Quang Hƣng

HÀ NỘI - 2007

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài ------------------------------------------------------------------- 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề--------------------------------------------------------- 3

3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu--------------------------------------------------8

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu--------------------------------------10

5. Đóng góp của luận án--------------------------------------------------------------12

6. Bố cục luận án-----------------------------------------------------------------------13

Chƣơng 1: BỐI CẢNH XUẤT HIỆN “VẤN ĐỀ PHỤ NỮ” TRONG

XÃ HỘI VIỆT NAM

1.1. Vai trò và địa vị phụ nữ trong xã hội Việt Nam truyền thống --------------------14

1.1.1. Những điều kiện tự nhiên và xã hội ảnh hưởng đến vai trò và địa vị

phụ nữ Việt Nam trong lịch sử -------------------------------------------------14

1.1.2. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với địa vị phụ nữ Việt Nam --------------------16

1.2. Những điều kiện mới của “vấn đề phụ nữ” -----------------------------------------20

1.2.1. Tình hình xã hội -------------------------------------------------------------------20

1.2.2. Ảnh hưởng của tình hình thế giới và sự xuất hiện của tư tưởng dân

chủ tư sản phương Tây ở Việt Nam ---------------------------------------------25

1.2.3. Ảnh hưởng của phong trào nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên thế

giới ---------------------------------------------------------------------------------27

1.3. Tình hình phụ nữ Việt Nam và sự xuất hiện "vấn đề phụ nữ" trong xã hội ----------34

1.3.1. Tình hình phụ nữ Việt Nam dưới chế độ thuộc địa ----------------------------34

1.3.2. Sự xuất hiện “vấn đề phụ nữ “ trong xã hội -------------------------------------37 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1------------------------------------------------------------------------------------------------.--------

40

CHÚ THÍCH CHƢƠNG 1 --------------------------------------------------------------------------42

Chƣơng 2: VẤN ĐỀ PHỤ NỮ TRÊN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT

TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1929

2.1. Vấn đề phụ nữ đầu thế kỷ XX và sự ra đời của tờ báo phụ nữ đầu tiên bằng tiếng Việt ở Việt Nam- báo Nữ giới chung năm 1918 -----------------------43

2.1.1.Tình hình báo chí và bối cảnh chung --------------------------------------------43

2.1.2. Sự xuất hiện “ vấn đề phụ nữ” trên báo chí tiếng Việt đầu thế kỷ XX --------45 2.1.3. Báo Nữ giới chung và sự tự nhận thức của phụ nữ về những vấn đề

của mình --------------------------------------------------------------------------56

2.2. Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt từ sau Chiến tranh Thế giới lần

thứ

nhất đến năm 1929 ---------------------------------------------------------------------62

2.2.1. Bối cảnh bùng nổ các “diễn đàn phụ nữ “ trên báo chí sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất--------------------------------------------------------------62

2.2.2. Vấn đề vai trò và địa vị của phụ nữ trong xã hội----------------------------- 67

2.2.3. Vấn đề nữ quyền và bình đẳng nam nữ-----------------------------------------

722.2.4. Bình đẳng về giáo dục và hôn nhân tự do- giải pháp cho vấn đề

phụ nữ----- 77 2.3. Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề phụ nữ trên báo Thanh niên

và báo Thân ái --------------------------------------------------------------------------84

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 --------------------------------------------------------------------------------------89

CHÚ THÍCH CHƢƠNG 2 --------------------------------------------------------------------------92

Chƣơng 3: VẤN ĐỀ PHỤ NỮ TRÊN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT

TỪ NĂM 1929 ĐẾN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

3.1. Ảnh hƣởng của phong trào phụ nữ trên thế thế giới và bối cảnh chính

trị, kinh tế, xã hội và văn hoá trong nƣớc-------------------------------------------93

3.1.1. Thuyết nữ quyền mác- xit và phong trào phụ nữ thế giới ---------------------93

3.1.2. Các chính sách chính trị, kinh tế, văn hoá của Pháp và hệ quả của nó -------97

3.1.3. Đường lối vận động phụ nữ của Đảng Cộng sản Việt Nam -------------------100 3.2. Sự ra đời của tờ Phụ nữ tân văn và sự phát triển của dòng báo phụ nữ

trƣớc

Cách mạng tháng Tám năm 1945 ---------------------------------------------------104

3.2.1. Báo Phụ nữ tân văn và quan điểm của giới trí thức đương thời về vấn đề phụ nữ----------------------------------------------------------------------------------

104

3.2.2. Sự phát triển của dòng báo phụ nữ trước Cách mạng tháng Tám năm

1945--------------------------------------------------------------------------------114

3.3.Vấn đề phụ nữ trên báo chí hợp pháp -------------------------------------------------127

3.3.1. Ảnh hưởng của khuynh hướng vận động nữ quyền tư sản---------------------127

3.3.2. Vấn đề giải phóng phụ nữ

13

3

3.3.3. Vấn đề phụ nữ với văn học và nghệ thuật---------------------------------------------143

3.3.4. Vấn đề mãi dâm -------------------------------------------------------------------146

3.3.5. Ảnh hưởng của đường lối vận động phụ nữ của Đảng Cộng sản trên

báo chí hợp pháp ------------------------------------------------------------------151

3.3.6. Những khuynh hướng mới của vấn đề phụ nữ trong thời kì Chiến

tranh Thế giới thứ hai-------------------------------------------------------------156

3.4.Vấn đề phụ nữ trên báo chí cách mạng------------------------------------------------163

3.4.1. Vấn đề tuyên truyền và vận động phụ nữ tham gia cách mạng ---------------163

3.4.2. Vấn đề tổ chức và hướng dẫn phụ nữ đấu tranh trong thời kì vận động

dân chủ 1936-1939 ---------------------------------------------------------------166

3.4.3. Vấn đề vận động phụ nữ tham gia phong trào giải phóng dân tộc trong

cuộc vận động Cách mạng tháng Tám 1945

--------------------------------------------------------------------------------------17

4 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3---------------------------------------------------------------------------------------

180

CHÚ THÍCH CHƢƠNG 3 --------------------------------------------------------------------------183

KẾT LUẬN ------------------------------------------------------------------------------------188

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI

DUNG LUẬN ÁN ------------------------------------------------------------------------------199

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN ----------------------------------------------201

MỤC LỤC CÁC BẢNG THỐNG KÊ

1. Bảng số 1 : Tỷ lệ công nhân nữ trang 35

2. Bảng số 2 : Tỷ lệ công nhân nữ ở nhà máy dệt Nam Định trang 35

3. Bảng số 3 : Tỷ lệ tiền công giữa nam và nữ trang 35

4. Bảng số 4 : Tỷ lệ tiền lương giáo viên nam so với lương giáo viên nữ trang 37

5. Bảng số 5 : Tóm tắt mục đích tôn chỉ của các tờ nữ báo trang 116

1. Tên báo viết tắt sử dụng trong luận án.

- NCMĐ : Nông cổ mín đàm

- ĐCTB: Đăng cổ tùng báo

- ĐDTC: Đông Dương tạp chí

- TBTV: Trung Bắc tân văn

- NP: Nam phong

- NGC: Nữ giới chung

- CL: Công luận

- TNDB: Thực nghiệp dân báo

- KHNB: Khai hoá Nhật báo

- HT: Hữu thanh

- ĐPTB: Đông Pháp thời báo

- THNB: Trung Hoà nhật báo

- TDB Tân dân báo

- TL: Trung lập

- ĐP: Đông Pháp

- ANTC: An Nam tạp chí

- VM: Văn minh

- TD: Tiếng dân

- TC: Thần chung

- HTNB Hà thành ngọ báo

- PNTV: Phụ nữ tân văn

- PNTĐ: Phụ nữ thời đàm

- TB: Thời báo

- PH: Phong hoá

- ĐTTC: Đông Thanh tạp chí

- PNTT: Phụ nữ tân tiến

- ZB: Zân báo

- HCTV: Hoàn cầu tân văn

- ĐBM: Đàn bà mới

- TT: Tân thời

- TA: Tràng An

- VB: Việt báo

- DH: Dân hiệp

- VN: Việt nữ (1937)

- PN: Phụ nữ

- ĐB: Đàn bà

- TBCN: Trung Bắc chủ nhật

- HP: Hạnh phúc

- NKTB: Nam Kỳ tuần báo

- VNĐL Việt Nam độc lập

- GP Giải phóng

- DC Dân chúng

- CQ Cứu quốc

2.Tên tổ chức viết tắt:

- HVNCMTN: Hội Việt Nam cách mạng thanh niên

- TVCMĐ : Tân Việt cách mạng Đảng

- ĐCSĐD : Đảng Cộng sản Đông Dương

- TLVĐ : Tự lực văn đoàn

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Giá trị lý luận

Với tư cách là một nửa xã hội, phụ nữ ở bất cứ đâu và trong bất cứ thời đại

nào cũng có những đóng góp vô cùng to lớn vào sự phát triển của lịch sử nhân loại.

Phụ nữ không chỉ là một lực lượng lao động xã hội quan trọng, mà còn giữ chức

năng sản sinh ra con người, những người có vai trò to lớn trong việc nuôi dưỡng và

giáo dục trẻ em, tương lai của loài người. Chính vì thế, khi nói về phụ nữ, các nhà

thơ, nhà văn trên khắp thế giới đều dùng những ngôn từ, những ý thơ hay nhất để

viết về họ. Ngạn ngữ cổ Trung Hoa cho rằng “phụ nữ nâng nửa bầu trời”... Với

Goethe- đại thi hào người Đức, thì “đàn bà bất tử”, còn với Mácxim Gocki - đại văn

hào Nga- lại khẳng định: “Không có người mẹ, nhà thơ, anh hùng đều không có”.

Phụ nữ Việt Nam trong những điều kiện lịch sử xã hội đặc biệt đã có những

đóng góp vô cùng to lớn trên tất cả mọi lĩnh vực sản xuất, chiến đấu và phát triển

văn hoá, nhưng trải qua thời kì phong kiến lâu dài, chịu ảnh hưởng nặng nề của tư

tưởng Nho giáo, họ chưa được đánh giá đúng, cũng như chưa được hưởng quyền lợi

tương xứng với những đóng góp của họ.

Từ cuối thế kỷ XIX, đặc biệt từ đầu thế kỷ XX, dưới ách áp bức, bóc lột của

chủ nghĩa thực dân Pháp, phụ nữ là những người chịu nhiều đau khổ, thiệt thòi nhất.

Do đó, giải phóng phụ nữ là một yêu cầu bức thiết có tính thời đại gắn liền với giải

phóng dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nói phụ nữ là nói một nửa xã

hội, nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng loài người, nếu không giải

phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa” [72, tr15].

Nhưng vấn đề giải phóng phụ nữ và quyền bình đẳng nam nữ ở Việt Nam

được đặt ra từ khi nào?

Như một hệ quả của quá trình tiếp xúc văn hoá Đông-Tây, cùng với sự du

nhập những tư tưởng dân chủ tư sản từ bên ngoài, sự xuất hiện và có vai trò ngày

càng lớn của tầng lớp tiểu tư sản thành thị vào những năm đầu thế kỷ XX, trong xã

hội Việt Nam đã dần dần xuất hiện “vấn đề phụ nữ” bên cạnh các vấn đề xã hội

khác. Cũng lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, báo chí xuất hiện và cùng với sự

xuất hiện của báo chí, vấn đề phụ nữ được nêu lên với những tư tưởng mới như bình

đẳng nam nữ, nữ quyền và giải phóng phụ nữ.

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, vấn đề giải phóng phụ nữ, vấn

đề vận động phụ nữ tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được Đảng

quan tâm hàng đầu. Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,

Cách mạng tháng Tám thành công đã chứng tỏ đường lối cách mạng đúng đắn của

Đảng, trong đó việc giải quyết vấn đề phụ nữ là một nhân tố quan trọng. Chính vì

vậy, nghiên cứu vấn đề phụ nữ không chỉ có ý nghĩa quan trọng góp phần nghiên

cứu lịch sử phụ nữ - một bộ phận của lịch sử dân tộc, mà còn làm sáng tỏ sự phát

triển quá trình nhận thức về vai trò và vị trí của phụ nữ trong xã hội nói chung, cũng

như sự tự nhận thức của chính bản thân phụ nữ về các vấn đề của giới mình.

Trong điều kiện xã hội Việt Nam, báo chí là lĩnh vực thể hiện rõ sự thay

đổi trong quá trình nhận thức về vấn đề phụ nữ, phản ánh quan điểm của tầng lớp

trí thức tư sản và tiểu tư sản, đồng thời cũng phản ánh cuộc sống sinh hoạt của

phụ nữ Việt Nam dưới chế độ thuộc địa. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu quá trình

nhận thức vấn đề nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên báo chí trước Cách mạng

tháng Tám còn có ý nghĩa làm phong phú thêm mảng lịch sử tư tưởng Việt Nam

thời kì cận đại.

1.2. Giá trị thực tiễn

Hiện nay, mặc dù hầu hết các quyền cơ bản của phụ nữ đã được quy định

trong hiến pháp và pháp luật, nhưng các quy định pháp luật về cấm phân biệt đối

xử với phụ nữ, hay tuyên bố về bình đẳng nam nữ tự chúng không đem lại sự biến

đổi vai trò của phụ nữ trong xã hội. Bản dự thảo Luật bình đẳng giới dù đã được

sửa chữa đến chín lần, vẫn còn nhiều điểm chưa đi đến sự nhất trí và tiếp tục được

thảo luận, sửa chữa. Điều này cho thấy, nhận thức về quyền bình đẳng vẫn chưa

thống nhất. Theo Trần Thị Vân Anh - Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu gia đình

và giới, thì từ những cuộc thảo luận về thế nào là bình đẳng nam nữ thời kì đầu

những năm 1930 của thế kỷ XX đến nay, mặc dù đã hơn 70 năm, nhưng “rõ ràng

là chưa đủ để hình thành những giá trị và quy tắc văn hoá mới một cách bền vững,

có tác động tích cực đến việc thực hiện các quyền cơ bản của phụ nữ” [7, tr59].

Nghị quyết của Bộ chính trị ngày 27/4/2007 về Công tác phụ nữ trong thời kì đẩy

mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đánh giá: “nhận thức của các cấp uỷ

Đảng, chính quyền ở nhiều địa phương, đơn vị về bình đẳng giới, về vai trò, năng

lực của phụ nữ còn hạn chế. Định kiến về giới còn tồn tại dai dẳng trong nhận

thức chung của xã hội do ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo và tập tục phong kiến lạc

hậu từ lâu đời” là nguyên nhân chủ yếu của những thách thức trong quá trình thực

hiện mục tiêu bình đẳng giới của Đảng ta. Do đó, nghiên cứu vấn đề phụ nữ trên

báo chí không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa học mà còn có giá trị thực tiễn góp phần

vào việc đẩy mạnh tiến trình thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam.

Trên những ý nghĩa đó, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “Vấn đề phụ nữ

trên báo chí tiếng Việt trước Cách mạng tháng Tám năm 1945” làm đề tài luận án

Tiến sĩ sử học của mình .

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Những nghiên cứu chung về phụ nữ

Cùng với sự phát triển của “nền văn hoá in ấn” và sự hình thành “vấn đề phụ

nữ”, trong xã hội Việt Nam trước năm 1945 xuất hiện ngày càng nhiều những ấn

phẩm viết về phụ nữ.

Trong những công trình nghiên cứu về phụ nữ trước Cách mạng tháng Tám

năm 1945, trước hết phải kể đến những bài viết của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trên báo

Người cùng khổ, trong cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, báo Thanh niên từ những

năm 1920. Những bài viết về Nỗi khổ nhục của người đàn bà bản xứ, Phụ nữ An

Nam và sự đô hộ của Pháp... của Nguyễn Ái Quốc thời kì này đã cho thấy tình cảnh

bị áp bức, bóc lột và chà đạp nhân phẩm của phụ nữ ở các nước thuộc địa, trong đó

có Việt Nam. Trong các bài viết này, Người bước đầu gắn việc vận động giải phóng

phụ nữ với nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Năm 1928, trước tình hình vấn đề phụ nữ đang ngày càng thu hút sự quan

tâm của xã hội và hình thành nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề bình đẳng nam

nữ, Đặng Văn Bẩy xuất bản cuốn Nam nữ bình quyền tại Sài Gòn khẳng định vấn

đề nam nữ bình quyền là “hợp với đạo trời và đạo người”. Tác giả ủng hộ việc đề

xuất nam nữ bình quyền bởi trong gia đình Việt Nam, phụ nữ vẫn phải chịu thân

phận “chồng chúa, vợ tôi”. Theo tác giả: cần phải đẩy mạnh việc giáo dục phụ nữ,

cần nhận thức lại quan niệm về chữ trinh và ủng hộ hôn nhân tự do, đạo vợ chồng

cần phải như thế nào... Năm 1929, Duy Tân thư xã ở Huế xuất bản cuốn Vấn đề

phụ nữ của Phan Bội Châu. Trong cuốn sách này, Phan Bội Châu đã lý giải

nguyên nhân lịch sử dẫn đến việc phụ nữ bị coi thường, bị coi là một loại hàng

hoá. Ông cũng phê phán phụ nữ Việt Nam hiện nay còn nhiều người thờ ơ với vận

mệnh đất nước, gắn khái niệm nữ quyền với tư tưởng dân quyền và đưa ra đề nghị

thành lập các tổ chức phụ nữ, liên kết các hoạt động của phụ nữ nhằm đẩy mạnh

phong trào vận động phụ nữ.

Từ sau năm 1930, trên báo chí công khai đương thời, cũng như các báo phụ

nữ chuyên biệt bắt đầu xuất hiện các bài nghiên cứu về địa vị của phụ nữ trong xã

hội Việt Nam truyền thống. Các bài nghiên cứu này chủ yếu khảo sát qua tục ngữ,

ca dao cổ và luật pháp thời phong kiến. Có thể kể tên một số tác giả như Phan Khôi,

Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Hải Trân, Đỗ Thiện, Hoàng Ngọc Phách... Nhìn

chung, các tác giả đều thấy được vai trò và đóng góp của phụ nữ Việt Nam, cũng

như những thiệt thòi của họ trong xã hội.

Năm 1932, Trần Thiện Tỵ và Bùi Thế Phúc xuất bản cuốn Vấn đề phụ nữ ở

Việt Nam bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt. Sau khi khảo sát địa vị phụ nữ trong

các xã hội cổ đại phương Tây (Hy Lạp, La Mã) và phương Đông (Trung Quốc và

Ấn Độ), các tác giả giới thiệu tình hình phụ nữ ở châu Âu hiện nay và phân tích

địa vị phụ nữ Việt Nam. Đối với phụ nữ Việt Nam, theo các tác giả, mặc dù do

ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa mà “con trai có vẻ được trọng vọng hơn”,

nhưng nếu xét về phong tục và luật pháp thì địa vị của phụ nữ Việt Nam không

đến nỗi thấp kém lắm. Hai ông khẳng định: “dân An Nam không phải là dân bạc

đãi đàn bà”. Cuốn sách cũng đề cập đến tất cả những vấn đề đang được thảo luận

sôi nổi trên báo chí như: vấn đề hôn nhân, giáo dục phụ nữ, phụ nữ chức nghiệp...

Quan điểm của các tác giả về vấn đề hôn nhân là làm sao đáp ứng được quyền lợi

của tất cả mọi thành viên trong gia đình. Các tác giả ủng hộ việc giáo dục phụ nữ,

phụ nữ thể thao, nhưng phản đối phụ nữ chức nghiệp vì cho rằng đàn bà ra ngoài

làm việc “kiểu gì cũng có hại”. Kết luận của hai tác giả là người nô lệ có thể trở

thành người tự do, còn phụ nữ dù có quyền lực đến đâu thì bao giờ cũng chỉ là phụ

nữ.

Năm 1938, trong điều kiện phong trào đòi dân chủ phát triển mạnh mẽ, thực

hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương về công tác vận động phụ nữ, Cựu

Kim Sơn và Văn Huệ viết hai tập sách Đời chị em và Chị em phải làm gì đã phân tích

kỹ tình cảnh của mọi tầng lớp phụ nữ Việt Nam dưới chế độ thuộc địa, đặt vấn đề “tại

sao phải giải phóng phụ nữ Đông Dương” và vạch ra con đường giải phóng phụ nữ

Đông Dương: Đó là cuộc vận động phụ nữ ở Đông Dương phải trở thành một bộ phận

của phong trào đấu tranh chung của dân tộc. Trong bối cảnh của cao trào vận động dân

chủ những năm 1936 -1939, các tác giả đã đưa ra những khẩu hiệu đấu tranh, hướng

dẫn thành lập các tổ chức phụ nữ và phương pháp hành động, giới thiệu phụ nữ Xô

Viết, phê phán quan điểm của Trần Thiện Tỵ và Bùi Thế Phúc trong cuốn Vấn đề phụ

nữ ở Việt Nam chỉ nhìn thấy cuộc vận động nữ quyền tư sản, bảo vệ gia đình tư sản...

Cũng trong năm 1938, Nguyễn Thị Kim Anh viết cuốn Vấn đề phụ nữ, giới thiệu quan

điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò và địa vị của phụ nữ trong xã hội loài người,

đấu tranh với quan niệm hô hào nữ quyền một cách hời hợt, hướng dẫn phong trào phụ

nữ, giới thiệu về Cách mạng tháng Mười Nga và phụ nữ Xô Viết... Có thể thấy rằng

những công trình trên phản ánh sự hình thành những khuynh hướng khác nhau về nhận

thức vấn đề phụ nữ trong xã hội Việt Nam .

Như vậy, cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, giới trí thức bắt

đầu nghiên cứu lịch sử phụ nữ Việt Nam, khảo sát tình trạng phụ nữ Việt Nam trong

xã hội phong kiến, xã hội thuộc địa, giới thiệu các quan điểm và học thuyết về phụ

nữ của các nhà tư tưởng nước ngoài... Đặc biệt, vấn đề vai trò và địa vị phụ nữ trong

gia đình và ngoài xã hội, phụ nữ có vai trò gì trong công cuộc giải phóng dân tộc và

xây dựng xã hội mới đã được nêu ra và thảo luận sôi nổi trên báo chí.

Từ sau năm 1954, đánh giá đúng vai trò và vị trí của phụ nữ trong lịch sử

cũng như khả năng đóng góp của phụ nữ trong công cuộc xây dựng xã hội mới,

Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến nghiên cứu, giáo dục và vận động phụ nữ.

Nhiều tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê nin và các lãnh tụ của Đảng và

Nhà nước ta viết về vấn đề phụ nữ và giải phóng phụ nữ được xuất bản làm cơ sở

lý luận cho việc nghiên cứu phụ nữ. Đến những năm 1970, một số công trình

nghiên cứu công phu và toàn diện về những đóng góp của phụ nữ trong lịch sử

dựng nước và giữ nước của dân tộc đã ra đời như: Truyền thống phụ nữ Việt Nam

(1972) của Trần Quốc Vượng, Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại (1973) của Lê

Thị Nhâm Tuyết. Các công trình này đã đánh giá đúng vai trò và vị trí của phụ

nữ Việt Nam trong lịch sử, nêu bật những cống hiến to lớn của phụ nữ trong

công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Sau năm 1975, đặc biệt từ cuối những năm 1980 trở lại đây, Trung tâm

nghiên cứu phụ nữ (sau thành Viện nghiên cứu Gia đình và giới) và tập san Khoa

học về phụ nữ (từ tháng 9/2006 đổi tên thành tạp chí Nghiên cứu Gia đình và

giới) đã tập hợp được nhiều nhà khoa học nghiên cứu về phụ nữ dưới nhiều góc

độ khác nhau. Nhiều bộ lịch sử phong trào phụ nữ như Lịch sử phong trào phụ

nữ Việt Nam (1981) do Nguyễn Thị Thập chủ biên và các cuốn Lịch sử phong

trào phụ nữ ở các địa phương được biên soạn đã cung cấp những hiểu biết và tư

liệu về phong trào phụ nữ trong cả nước cũng như đóng góp của họ trong sự

nghiệp cách mạng.

Những công trình tìm hiểu và giới thiệu về những đóng góp của phụ nữ

trong lĩnh vực văn học, báo chí và nghệ thuật cũng lần lượt được xuất bản…

Nhìn chung lại, có thể thấy hầu hết các công trình nghiên cứu về phụ nữ là

những công trình nghiên cứu về lịch sử phong trào phụ nữ, những đóng góp của

phụ nữ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, những nghiên cứu điều

tra xã hội học về thực trạng đời sống của phụ nữ hiện nay.

2.2. Những nghiên cứu về “Vấn đề phụ nữ” thời kì cận đại qua tư liệu báo chí

Trước hết phải kể đến bài viết của David Marr The 1920s women’s rights

debates in Vietnam (Cuộc thảo luận về nữ quyền ở Việt Nam trong những năm

1920) trên Journal of Asian Studies số 35 năm 1976. Bài viết này sau được bổ

sung và đưa vào chương 5 “Women questions” (Những vấn đề phụ nữ) trong

cuốn Vietnamese Tradition on Trial 1920-1945 (Truyền thống Việt Nam trong

thử thách 1920-1945). Đặt trong bối cảnh chung về những “thay đổi cơ bản về

chính trị và ý thức xã hội trong bộ phận dân chúng” ở Việt Nam những năm

1920 -1945 mà ông cho là “dù không phải có tính quyết định tất yếu thì ít nhất

cũng là tiền đề cho cuộc vận động quần chúng và chiến lược chiến tranh nhân

dân từ 1945 trở đi” [238, tr2], tác giả đã nhận thấy nổi bật lên “vấn đề phụ nữ”.

Theo ông, ngay từ những năm 1920, vấn đề phụ nữ đã nhanh chóng trở thành

“trung tâm điểm mà các cuộc thảo luận khác thường xoay quanh nó”. Cũng trong

chương này, tác giả đã chú ý đến các quan niệm truyền thống về vai trò và địa vị

của phụ nữ trong xã hội Việt Nam. Ông cho rằng “những học giả và quan lại

Việt Nam tất cả đều là đàn ông được giáo dục và rèn luyện trong một chế độ áp

bức rõ ràng đối với phụ nữ Việt Nam. Mặc dù sự áp bức này khác nhau tuỳ theo

từng giai cấp, nhưng tất cả phụ nữ đều chịu ảnh hưởng ở mức độ nào đó” [238,

tr199], và đó là lý do đầu thế kỷ XX phụ nữ bắt đầu lên tiếng phản kháng. Ông

cũng quan tâm tới sự ra đời của các tờ báo Nữ giới chung, Phụ nữ tân văn, Hội

nữ công của bà Đạm Phương ở Huế, chủ nghĩa Mác và vấn đề phụ nữ, cũng như

sự bùng nổ của các cuốn sách và cẩm nang cho phụ nữ...

Năm 1995, chương trình Đông Nam Á của Đại học Cornell ở Mỹ xuất bản

tập Essays into Vietnamese pasts (Những bài tiểu luận về Việt Nam xưa) trong

đó có bài: Printing and power: Vietnamese Debates over Women’s Place in

Society, 1918-1934 (Ấn phẩm và quyền lực: Các cuộc thảo luận ở Việt Nam xung

quanh vấn đề vị trí của người phụ nữ trong xã hội 1918-1934) của Shawn Mc

Hale. Bài báo đã phân tích ảnh hưởng của báo chí và sách trong thời gian đầu thế

kỷ XX đối với nhận thức của phụ nữ về vấn đề nam nữ bình quyền, cũng như ý

nghĩa của cuộc thảo luận trên hai tờ báo Nữ giới chung và Phụ nữ tân văn về vị

trí của phụ nữ trong xã hội.

Có thể nói, đây là hai công trình nghiên cứu hiếm hoi của học giả nước

ngoài có liên quan trực tiếp đến đề tài của luận án. Các tác giả cũng đồng thời là

những người đầu tiên đặt “vấn đề phụ nữ” trong bối cảnh những thay đổi về kinh

tế, xã hội và văn hoá ở Việt Nam thời kì cận đại. Tuy nhiên, hai công trình này

chủ yếu mới chỉ khảo sát hai tờ báo phụ nữ là báo Nữ giới chung và Phụ nữ tân

văn, trong khi hầu hết các báo xuất bản ở Việt Nam thời kì này đều có nhiều bài

viết về phụ nữ. Đặc biệt là sự xuất hiện của dòng báo phụ nữ, cũng như ảnh

hưởng của đường lối vận động phụ nữ của Đảng Cộng sản Việt Nam tới cuộc

thảo

luận trên báo chí thì chưa được khai thác bao nhiêu.

Năm 1997, chúng tôi đã hoàn thành bản Luận văn thạc sỹ với đề tài “Vấn

đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước và sau chiến tranh Thế giới lần thứ

nhất” (Qua trường hợp các tờ Đăng cổ tùng báo, Đông Dương tạp chí, Nam

phong, Nữ giới chung và Phụ nữ tân văn). Bản luận văn đưa ra những nhận định

cơ bản về việc hình thành “vấn đề phụ nữ” và những nhận thức ban đầu về vấn

đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Kết quả của luận

văn đã khuyến khích chúng tôi tiếp tục đi sâu vào đề tài này với phạm vi và đối

tượng khảo sát rộng hơn, nhằm dựng lại quá trình nhận thức của phụ nữ và của

xã hội về vấn đề phụ nữ trong thời kì cận đại.

Cuộc Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học lần thứ nhất tổ chức tại Hà Nội

năm 1998 có nhiều bài nghiên cứu về phụ nữ, trong đó có một số bài đáng lưu ý

liên quan đến vấn đề này như: Quan điểm của một số người có tên tuổi về vị trí của

người phụ nữ trong xã hội Việt Nam những năm 1930 của Phan Thị Minh Lệ, Vấn đề

nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ XX của Đặng Thị Vân Chi... Bằng cách tiếp cận

tư liệu báo chí và ấn phẩm, các tác giả đã bước đầu giới thiệu quan niệm của giới

trí thức Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ XX về vai trò của phụ nữ, về nữ

quyền và giải phóng phụ nữ .

Như vậy, mặc dù cũng đã có một số tác giả ở cả trong và ngoài nước

nghiên cứu về phụ nữ Việt Nam, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu

quá trình nhận thức về vấn đề phụ nữ trong một giai đoạn quan trọng của

lịch sử dân tộc từ đầu thế kỷ XX đến 1945, nhất là khảo sát qua tư liệ u báo

chí - một mảng tư liệu cực kỳ quan trọng phản ánh vấn đề này. Do đó, việc

nghiên cứu “Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước Cách mạng tháng

Tám năm 1945” là một việc làm cần thiết và đòi hỏi chúng tôi phải đi sâu

một cách nghiêm túc và độc lập.

3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu

Do nhu cầu của cuộc sống, cũng như xu thế phát triển chung của loài

người, đấu tranh cho quyền con người và quyền bình đẳng nam nữ là biểu hiện

của một xã hội văn minh và tiến bộ. Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu

về đóng góp của phụ nữ trong cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước có

khá nhiều, nhưng những nghiên cứu về quá trình nhận thức của xã hội, cũng như

của phụ nữ về các vấn đề phụ nữ trong thời kì đầu thế kỷ XX cho tới trước Cách

mạng tháng Tám năm 1945 thì hầu như chưa có ai nghiên cứu. Hơn thế, theo

chúng tôi, đây lại chính là điểm quan trọng để tạo nên những thay đổi căn bản

trong hành động của phụ nữ vì quyền lợi của bản thân họ. Như mọi người đều

thống nhất rằng: phụ nữ muốn được giải phóng, trước hết họ phải tự giải phóng

mình, cuộc đấu tranh đòi nữ quyền và giải phóng phụ nữ phải xuất phát từ nhận

thức của bản thân phụ nữ. Vì vậy, mục đích nghiên cứu của chúng tôi là tìm hiểu

“vấn đề phụ nữ” ở Việt Nam đã hình thành như thế nào trong một xã hội thuộc

địa nửa phong kiến, quá trình nhận thức của phụ nữ về các vấn đề của mình qua

báo chí tiếng Việt xuất bản ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Cũng qua tư liệu báo chí, chúng tôi muốn góp phần tìm hiểu những thay đổi

trong đời sống của phụ nữ, phong trào phụ nữ và những đóng góp của phụ nữ đối

với cuộc đấu tranh chung của toàn dân tộc.

Phụ nữ là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Không những

thế, trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX cho đến Cách

mạng tháng Tám năm 1945, phụ nữ ngày càng trở thành một lực lượng quan

trọng trên tất cả mọi lĩnh vực: văn hoá, kinh tế, xã hội và chính trị. Vì vậy,

những vấn đề liên quan đến phụ nữ được đăng tải trên cả báo chí tiếng Pháp lẫn

tiếng Việt là hết sức phong phú. Do đối tượng nghiên cứu rộng lớn, bao quát

nhiều khía cạnh của cuộc sống, được phản ánh trên một khối lượng khổng lồ các

báo xuất bản bằng tiếng Việt trong khoảng thời gian gần một nửa thế kỷ, trong

khuôn khổ của một luận án tiến sĩ, chúng tôi không có tham vọng giải quyết tất

cả các vấn đề đặt ra liên quan tới phụ nữ. Với mục tiêu làm sáng tỏ quá trình

nhận thức của phụ nữ, cũng như của xã hội về những vấn đề như vai trò, địa vị

của phụ nữ trong xã hội, vấn đề nữ quyền và giải phóng phụ nữ..., chúng tôi giới

hạn nghiên cứu và khảo sát của mình qua các bài báo có tính chính luận đề cập

tới quan niệm, nhận thức về vấn đề phụ nữ và một số tin tức có liên quan tới đời

sống phụ nữ... Đối với các sáng tác văn học, chúng tôi chỉ khai thác một số tác

phẩm được coi là những sáng tác tiêu biểu theo khuynh hướng vận động giải

phóng phụ nữ

của nhóm Tự lực văn đoàn, còn các tác phẩm khác, chúng tôi chưa có điều kiện

quan tâm.

Do báo chí tiếng Việt về cơ bản mới hình thành vào đầu thế kỷ XX, nên

về mặt thời gian, chúng tôi chỉ giới hạn mốc cuối là năm 1945 với nhận thức từ

sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, lịch sử Việt Nam đã bước sang một trang

mới. Đó là sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mà bản Hiến pháp

đầu tiên năm 1946 công nhận quyền bình đẳng nam nữ là kết quả của một quá

trình nhận thức và đấu tranh của phụ nữ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cũng từ

năm 1945, về mặt pháp lý, phụ nữ Việt Nam đã đặt được những viên gạch đầu

tiên cho việc xây dựng một xã hội mới thật sự dân chủ và bình đẳng, mặc dù để

mục tiêu dân chủ này trở thành hiện thực còn là một quá trình đấu tranh lâu dài,

đòi hỏi sự nỗ lực không chỉ của phụ nữ mà của toàn xã hội.

4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa

Mác- Lê nin, Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề phụ

nữ, cũng như những nghiên cứu về lịch sử phong trào nữ quyền thế giới là cơ sở lý

luận, là phương pháp luận để chúng tôi xem xét vấn đề. Các sách nghiên cứu, các

công trình chuyên khảo của các tác giả trong và ngoài nước là những gợi ý giúp

chúng tôi có thể tham khảo, tổng kết lại vấn đề phụ nữ trong lịch sử, để từ đó có thể

nhận thức rõ hơn thực chất, cũng như quá trình chuyển biến nhận thức về vấn đề

phụ nữ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Bên cạnh những công trình nghiên

cứu về phụ nữ, còn có các công trình nghiên cứu về báo chí, văn học, văn hoá, tác

giả, tác phẩm của những năm trước Cách mạng tháng Tám. Mặc dù không trực tiếp

nghiên cứu về phụ nữ, nhưng những công trình này cũng cung cấp tư liệu tham

khảo quan trọng giúp chúng tôi hiểu thêm nhiều mặt về tình hình sinh hoạt báo chí,

đời sống của phụ nữ, tình hình văn hoá xã hội trong thời kì này. Ví dụ như các hồi

ký của các nhà văn, nhà báo tiêu biểu như Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng,

Chúng tôi làm báo của Nguyễn Văn Trấn, Hồi ký Tô Hoài, Hồi ký Trần Huy Liệu,

Hồi ký Thanh Nghị, hồi ký của bà Trần Thị Như Mân..., hoặc hồi ký của các nữ văn

sĩ Anh Thơ, Tùng Long..., hồi ký của các nữ chiến sĩ cách mạng như Nguyễn Thị

Lựu, Bảo

Lương Nguyễn Trung Nguyệt, Tôn Thị Quế, Đường Thị Ân, Trương Thị Mỹ...

Với đề tài “Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước Cách mạng tháng

Tám năm 1945”, nguồn tư liệu chính của chúng tôi là toàn bộ báo chí tiếng Việt từ

khi xuất hiện đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tuy nhiên, do tình hình

lưu trữ tư liệu có nhiều hạn chế, nhiều tờ báo không còn được lưu trữ tại các thư

viện, nhiều tờ báo chỉ còn lưu trữ được một số năm, do đó chúng tôi chỉ có thể khai

thác được những tờ báo hiện còn lưu trữ trong các thư viện của Việt Nam. Một điều

rất may mắn là một số tờ báo phụ nữ quan trọng vẫn còn lưu trữ được khá đầy đủ

như tờ Nữ giới chung, Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm, Phụ nữ tân tiến, Đàn bà

mới...; và ở bất cứ giai đoạn nào cũng có một số tờ báo quan trọng còn được lưu

giữ. Mặc dù không khảo sát được toàn bộ các tờ báo với đầy đủ các số báo, nhưng

với 102 tờ báo gồm hàng ngàn trang báo về phụ nữ trên đủ các loại tuần báo, nhật

báo, báo tin tức thời sự thông thường, báo chuyên biệt... trong đó có hơn mười tờ

báo phụ nữ, chúng tôi hy vọng có thể dựng lại một cách khách quan quá trình nhận

thức của xã hội cũng như của phụ nữ về các vấn đề của phụ nữ.

Với tư cách là một nguồn sử liệu, báo chí có mặt mạnh là phản ánh khá toàn

diện các sự kiện lịch sử vào đúng thời điểm sự kiện xảy ra, đồng thời thể hiện được

tính phong phú, đa dạng và phức tạp trong cách đánh giá các sự kiện của xã hội

đương thời đối với các sự kiện. Không những thế báo chí còn cung cấp thông tin

nhiều mặt của cuộc sống. Đặc biệt, để phản ánh nhận thức, quan điểm của cá nhân

hay một tầng lớp xã hội về các vấn đề thuộc lĩnh vực văn hoá tư tưởng thì báo chí là

một nguồn tư liệu trực tiếp đáng tin cậy.

Với đối tượng nghiên cứu là “Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt

trước Cách mạng tháng Tám năm 1945”, chúng tôi phải vận dụng phương

pháp liên ngành: Nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu giới và nghiên cứu báo chí.

Đó là khi khai thác tư liệu báo chí, chúng tôi luôn đặt nó trong mối quan hệ lịch

đại và đồng đại, kết hợp với phương pháp tiếp cận xã hội học để nghiên cứu

giới phụ nữ trong lịch sử cận đại Việt Nam, từ đó rút ra được những nhận xét

khách quan sát với thực tế lịch sử.

Để làm rõ nội dung của vấn đề phụ nữ được nêu trên báo chí, chúng tôi cũng

sử dụng phương pháp phân tích, mô tả và so sánh các quan điểm phản ánh nội dung

của vấn đề phụ nữ dưới các dạng thông tin khác nhau trong cùng một tờ báo như xã

luận, tin tức, các mục như tạp trở, văn uyển, chuyện cười... hàm chứa quan điểm của

tác giả hay của chính bản thân tờ báo. Việc phân tích, so sánh nội dung được phản

ánh trong cùng một chủ đề trên các tờ báo khác nhau hoặc ở các giai đoạn khác

nhau cũng giúp chúng tôi thấy rõ khuynh hướng tư tưởng của một tờ báo, một dòng

báo và sự phát triển trong quá trình nhận thức vấn đề phụ nữ gắn với các giai đoạn

lịch sử quan trọng, cũng như tác động của các sự kiện chính trị đối với nhận thức về

vấn đề phụ nữ.

Trong trường hợp các báo còn được lưu giữ đầy đủ trong một khoảng thời

gian nhất định, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để nhận diện khuynh

hướng tư tưởng của tờ báo qua nội dung của các bài báo như trường hợp các tờ

Đăng cổ tùng báo, Đông Dương tạp chí, Nam phong...

Vì báo chí phản ánh thông tin nhiều chiều và thể hiện nhận thức chủ quan của

tác giả, nên bên cạnh việc khai thác nội dung thông tin phản ánh trên mặt báo, chúng

tôi còn chú ý đến những thông tin đằng sau mặt báo là hoàn cảnh của tác giả, điều kiện

chính trị, xã hội mà tờ báo chịu ảnh hưởng.

Tuy nhiên, tài liệu báo chí được khai thác tồn tại trong thời gian gần nửa thế kỷ

với những giai đoạn phát triển khác nhau trên tất cả các mặt văn hoá, chính trị và xã

hội, vì vậy tùy từng giai đoạn và với những tờ báo cụ thể, chúng tôi sử dụng linh hoạt

các phương pháp trên nhằm khai thác một cách hiệu quả nhất nguồn tư liệu, từ đó có

cái nhìn toàn diện, khách quan và cụ thể, phản ánh trung thực thực chất, cũng như ý

nghĩa của vấn đề phụ nữ trên báo chí trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

5. Đóng góp của luận án

Là công trình đầu tiên nghiên cứu “Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước

Cách mạng tháng Tám năm 1945”, luận án có những đóng góp cụ thể sau:

Làm rõ quá trình hình thành cũng như thực chất của vấn đề phụ nữ trong xã hội

Việt Nam dưới chế độ thuộc địa của Pháp những năm trước Cách mạng tháng Tám

năm 1945; Vạch ra được quá trình nhận thức của phụ nữ nói riêng và của xã hội nói

chung về vai trò và địa vị của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Đó là quá trình

nhận thức

từ thấp tới cao những khái niệm dân chủ tư sản về vấn đề phụ nữ như nữ quyền và giải

phóng phụ nữ.

- Cũng lần đầu tiên, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng giữa khuynh

hướng nữ quyền mác-xit với khuynh hướng nữ quyền tư sản được luận án khảo sát và

trình bày cụ thể, từ đó làm rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc vận

động phụ nữ tham gia vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và vì sự tiến bộ xã hội

của nhân dân Việt Nam.

- Qua vấn đề phụ nữ trên báo chí, luận án nêu lên những thay đổi trong xã hội

Việt Nam từ gia đình tới lối sống, sinh hoạt văn hoá của tầng lớp tiểu tư sản thành thị

nói chung và của phụ nữ đô thị nói riêng dưới tác động của chính sách cai trị của Pháp

và ảnh hưởng của sự tiếp xúc văn hoá Đông- Tây.

- Luận án cũng phản ánh những đóng góp của phụ nữ trí thức vào sự phát triển

của phong trào phụ nữ cũng như đóng góp của họ và toàn thể phụ nữ trong phong trào

giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.

- Cũng từ việc nghiên cứu vấn đề phụ nữ trên báo chí, luận án khẳng định vai

trò của báo chí trong việc định hướng nhận thức, tổ chức và hướng dẫn phụ nữ

trong công cuộc vận động giải phóng phụ nữ và giải phóng dân tộc .

- Tìm hiểu “vấn đề phụ nữ trên báo chí” cũng là góp thêm một nguồn sử liệu

phong phú, sống động phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn

nói chung và nghiên cứu phụ nữ nói riêng.

6. Bố cục của luận án

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án chia làm ba chương chính gồm

175 trang.

Chương 1: Bối cảnh hình thành “Vấn đề phụ nữ” trong xã hội Việt Nam

Chương 2: Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt từ đầu thế kỷ XX đến

năm 1929

Chương 3: Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt từ năm 1929 đến năm

1945. Phần Phụ lục: Gồm 199 trang giới thiệu 62 tờ báo từ đầu thế kỷ XX đến

năm 1945, các mục phụ nữ trên các tờ báo, những thông tin cơ bản về các tờ báo

phụ nữ, thống kê các bài xã luận trên các tờ nữ báo, một số bài báo về phụ nữ...

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Đặng Thị Vân Chi (1997), “Vấn đề giáo dục phụ nữ- nữ học qua báo chí những

năm trước và sau chiến tranh thế giới thứ nhất”. Kỷ yếu Hội nghị khoa học cán

bộ nữ, NXB Đại học Quốc gia, Số 2, tr7-12

2. Đặng Thị Vân Chi (1997),“Vấn đề nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên báo chí

đầu thế kỷ XX” T/c Khoa học về phụ nữ. Số 4 tr26-33

3. Đặng Thị Vân Chi (1998), “Những điều kiện tự nhiên và xã hội ảnh hưởng đến

vai trò và địa vị phụ nữ Việt Nam trong lịch sử”. Kỷ yếu Hội nghị khoa học

cán bộ nữ, NXB Đại học Quốc gia. Số 3 tr12-15

4. Đặng Thị Vân Chi (1998), “Phan Bội Châu với vấn đề phụ nữ đầu thế kỷ XX”.

Trong Phan Bội Châu, Con người và sự nghiệp (Nhiều tác giả ), Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn- ĐHQG Hà Nội, tr 303 - 317

5. Đặng Thị Vân Chi (1999), “ Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam đầu thế kỷ XX”, Tạp

chí Khoa học Đại học Quốc gia, t.XV, n0

5Tr1-7

6. Đặng Thị Vân Chi (2000), “Báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX với việc đánh giá

vai trò và địa vị phụ nữ Việt Nam trong lịch sử”, Kỷ yếu Hội Nghị Khoa học

Nữ Đại học Quốc gia Hà Nội lần thứ VNXB ĐHQG, tr5-9.

7. Đặng Thị Vân Chi (2001), “ Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ XX”, Việt

Nam học, kỷ yếu Hội thảo Quốc tế lần thứ nhất, Hà Nội 15-17.7.1998T. IV, NXB

Thế giới Tr 37-47.

8. Đặng Thị Vân Chi (2004) “Ảnh hưởng của văn hoá Đông - Tây đối với địa vị phụ nữ

Việt Nam trong lịch sử”. T/c Khoa học về phụ nữ. Số 3. (64) tr 47-55. Tham luận

trong Toạ đàm quốc tế “ Vị trí của phụ nữ Việt Nam - Hàn Quốc trong gia đình và

xã hội

9. Đặng Thị Vân Chi (2006), “Nguyễn Ái Quốc và vấn đề phụ nữ đầu thế kỷ XX”

T/c Khoa học về phụ nữ số 2 (75) tr 20-27)

10.Đặng Thị Vân Chi (2006). “Đường lối vận động phụ nữ của Đảng Cộng sản Việt

Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc 1930-1945”, T/c Nghiên cứu Gia đình và

giới, q16 số 1. Tr 11- 22 Báo cáo tham luận tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần

thứ II: Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập: Truyền thống và hiện đại.

Tháng 7-2004.

11. Đặng Thị Vân Chi (2006) “Dòng báo phụ nữ trước cách mạng tháng Tám năm

1945”. T/c Nghiên cứu Lịch sử số 11- (367), tr 48-61

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

I. Sách, tạp chí tiếng Việt

[1] Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hoá sử cương, HCM.

[2] Đào Duy Anh (2004), Nhớ nghĩ chiều hôm, (Hồi kí ), NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.

[3] Nguyễn Kim Anh (2003), “Về một thư quán của nữ lưu Nam Bộ đầu thế kỷ

XX”, T/c KHXH số 2 (60), tr.88-94.

[4] Nguyễn Thị Kim Anh (1938), Vấn đề phụ nữ, NXB Thân Dân, Chợ Lớn

[5] Phùng Thị Kim Anh (2004), “Các quan niệm nửa đầu thế kỷ XX về việc phụ

nữ tham gia lao động xã hội”, T/c KH về PN (số 6), tr. 32-40.

[6] Vũ Tuấn Anh (1995), “Phê bình nữ quyền”, T/c KH về PN số 1(19), tr.10.

[7] Trần Thị Vân Anh (2006), “Quyền con người và quyền của phụ nữ”, T/c NC

Gia đình và giới, q.16 số 1, tr.49-60.

[8] Ngô Vương Anh (2004), “Đồng chí Nguyễn Văn Cừ với báo chí cách mạng

Việt Nam”, Người làm báo, (số 3), tr.28-29

[9] Hoàng Thị Ái (1964), Một lòng với đảng (Hồi kí cách mạng), NXB Phụ nữ.

[10] Toan Ánh (1992), Nếp cũ-con người Việt Nam, HCM.

[11] Ăngghen. Ph. (1972), Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà

nước, NXB Sự thật, Hà Nội.

[12] Đường Thị Ân (1974), Nguồn vui duy nhất ( Hồi kí cách mạng), NXB Phụ nữ.

[13] Ban chỉ đạo kỉ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội -Hội nhà báo thành phố Hà

Nội (2004), Sơ thảo lịch sử báo chí Hà Nội (1905-2000), NXB Chính trị quốc

gia, H.

[14] Ban chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ Hải Phòng (2002), Lịch sử phong trào và

tổ chức hội phụ nữ Hải Phòng, NXB Hải Phòng.

[15] Ban chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ Hoà Bình (1999), Lịch sử phong trào

phụ nữ tỉnh Hoà Bình 1930-1996, NXB Phụ nữ.

[16] Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Nghệ An -Tiểu ban nghiên cứu Lịch sử Đảng (2000),

Nghệ An đỏ ( Hồi kí), NXB Nghệ An.

[17] Vũ Bằng (2001), Bốn mươi năm nói láo, NXB VHTT.

[18] Đặng Văn Bẩy (1928), Nam nữ bình quyền, Da kao .

[19] Mai Huy Bích (2002),“Giới và thuyết nữ quyền Phương Tây”, T/c KH về PN

số 5, tr.3-12.

[20] Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Đồng Tháp.

[21] Boudarel. G. (1997), Phan Bội Châu và xã hội Việt Nam ở thời đại ông, NXB

VHTT, H.

[22] Borton Lady (2003), Tiếp sau nỗi buồn, NXB Thế giới, H.

[23] Castellan Yvonne (2002), Gia Đình, NXB Thế giới, H.

[24] Phan Bội Châu-Huỳnh Thúc Kháng (1926), Nữ quốc dân tu tri, Huế.

[25] Phan Bội Châu (1929), Vấn đề phụ nữ, Duy Tân thư xã, Huế.

[26] Phan Bội Châu (2000), Toàn tập T7 Văn xuôi 1926-1940, NXB Thuận Hoá-

Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, H.

[27] Nguyễn Nam Châu (1959), “Phụ nữ Việt Nam với quan niệm hồng nhan bạc

mệnh”, T/c Đại học số 9 tháng 5, Sài Gòn, tr.122-152.

[28] Trường Chinh (1975), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, NXB Sự thật, H.

[29] Nguyễn Việt Chước (1974), Lược sử báo chí Việt Nam, Nam Sơn, Sài Gòn .

[30] Hồng Chương (1987), Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam , NXB SGK Mác Lênin.

[31] Cục lưu trữ nhà nước-Trung tâm lưu trữ quốc gia I (2001), Tuyên truyền cách

mạng trước năm 1945, (Sưu tập tài liệu lưu trữ), NXB Lao động, H.

[32] Sở Cuồng (1929), Nam quốc nữ lưu, Hà Nội

[33] Lê Duẩn (1976), Phải đứng trên quan điểm giai cấp mà nhận xét vấn đề phụ

nữ, NXB Phụ nữ, H.

[34] Đại sứ quán Hoa Kì (2006), Những người phụ nữ có nhiều ảnh hưởng ở nước

Mỹ, Ấn phẩm của chương trình thông tin quốc tế Bộ ngoại giao Hoa Kì, tháng

2, http:// Vietnamese usembassy.gove/doc_womenofineluence.htm

[35] Đại học Quốc gia Hà Nội-Trường đại học KHXH&NV(1997) Tân thư và xã

hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX , NXB CTQG, H.

[36] Đại học Quốc gia Hà Nội-Trường Đại học KHXH&NV (1997), Phan Bội

Châu con người và sự nghiệp, H.

[37] Đài tiếng nói Hoa Kì (2005), Điểm qua những tin tức và diễn biến liên quan

đến tình hình phụ nữ quốc tế,

http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2005-03- 22

[38] Đảng Cộng sản Việt Nam (1998 ), Văn kiện Đảng toàn tập T1, NXB Chính trị

Quốc Gia, H.

[39] Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện đảng toàn tập T2, NXB Chính trị

Quốc gia, H.

[40] Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện đảng toàn tập T3, NXB Chính trị

Quốc gia, H.

[41] Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện đảng toàn tập T4, NXB Chính trị

Quốc gia, H.

[42] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện đảng toàn tập T5, NXB Chính trị

Quốc gia, H.

[43] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện đảng toàn tập T6, NXB Chính trị

Quốc gia, H.

[44] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện đảng toàn tập T7, NXB Chính trị

quốc

gia, H.

[45] Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại Tập 1, NXB ĐH&THCN

[46] Phan Cự Đệ (1982), Phong trào thơ mới1932-1945, NXB KHXH.

[47] Trần Hữu Độ (1926), Hồi trống tự do, Tự do tòng thơ xuất bản, Sài Gòn .

[48] Trần Hữu Độ (1926) , Tờ cớ mất quyền tự do, Tự do tòng thơ xuất bản, Sài

Gòn.

[49] Ngô Đăng Đức, Ứng Chiêm, Bùi Công Trừng (1960), Người trước ngã, người

sau tiến (Hồi kí cách mạng), NXB Văn học, H.

[50] Hà Minh Đức (1997) (CB), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn , NXB

ĐHQG, H.

[51] Trần Thị Minh Đức (CB) (2006), Định kiến và phân biệt đối xử theo giới- Lý

thuyết và thực tiễn, NXB ĐHQG, H.

[52] Deborahg. Felder (2004), Những người đàn bà có ảnh hưởng lớn trong mọi

thời đại, NXB Phụ nữ, H.

[53] Vu Gia (1995), Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá văn học, NXB Văn hoá.

[54] Trần Hàn Giang (2003), “Lịch sử phát triển của lý thuyết nữ quyền và lý

thuyết giới” T/c KH về PN số 6 (61), tr 9-15.

[55]. Trần Hàn Giang (2004), “Về một số lý thuyết nữ quyền”, T/c KH về PN số

1(62), tr 11-19.

[56] Lê Sĩ Giáo, (1992), “Phụ nữ với việc phát minh ra nền văn minh nông nghiệp

trồng lúa”. T/c KH &PN số1.

[57] Phan Đình Giáp (1918), Nữ học luân lý tập đọc, Impr Mạc Đình Tư, H.

[58] Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Đặng Huy Vận...(1961), Lịch sử cận đại Việt

Nam Tập 3, NXB Giáo dục, H.

[59] Trần Văn Giàu (2003), Lịch sử tư tưởng Việt Nam Tác phẩm được giải

thưởng Hồ Chí Minh, NXB KHXH, H.

[60] Giới thiệu tác phẩm nữ Trung tùng phận , http:/www.personal.usyd.edu.au/-

cdao/booksv/nttp_dn_1htm

[61] Gourou Pierre (2003 ), Người nông dân ở đồng bằng Bắc Kỳ, NXB Trẻ TP Hồ Chí Minh

[62] Như Hạnh, Quan điểm Phật giáo về phụ nữ,

http:/www.thuvienhoasen.org/quandiemcuaphatgiaovephunu.htm

[63] Thy Hảo Trương Duy Hy (2003), Nữ sĩ Hùynh Thị Bảo Hoà.-Người phụ nữ

viết tiểu thuyết đầu tiên, NXB Văn học.

[64] Phạm Văn Hảo (1964), Trong rừng đá trắng (Hồi kí cách mạng), NXB Phổ

Thông.

[65] Trịnh Thu Hằng (1992) “Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong điêu khắc

đình làng”, T/c KH & PN số 2, tr 16-17.

[66] Hemery Daniel (2001), Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác, NXB Lao động.

[67] Nguyễn Trung Hiếu (Dịch) (1995), “ Phụ nữ ngày nay cần gì”, T/c KH về PN,

số1(19), tr11-13, số 3 (21), tr25-27

[68] Hồ Sĩ Hiệp- Hoài Anh (1990), Những danh sĩ miền Nam, Tiền Giang.

[69] Mai Huỳnh Hoa (1983), “Đôi nét về bà Sương Nguyệt Anh- chủ bút tờ tuần

báo Nữ giới chung”, T/c Văn học Số 3, tr.134 -144.

[70] Tô Hoài (2004) Hồi kí, NXB Hội nhà văn, H.

[71] Vũ Đình Hoè (2000), Hồi kí Thanh Nghị, NXB Văn học.

[72] Hồ Chủ Tịch với vấn đề phụ nữ (1960), NXB Phụ nữ.

[73] Trương Hoàn (1930), Nguyễn Tuyết Hoa-Học sinh nữ học đường, Impr

Đức Lưu Phương.

[74] Hồ Chí Minh toàn tập, 1,2,3 Đĩa CD

[75] Hồi kí về lực lượng vũ trang cách mạng (1962), Rừng Yên Thế, NXB QĐND

[76] Hội ái hữu cựu nữ sinh Gia Long, http://www.gialong.org/history.html

[77] Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2002), Phụ nữ Việt Nam bước vào thế kỉ 21 ,

NXB Chính trị quốc gia, H.

[78] Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Dự thảo luật bình đẳng giới,

http://hoilhpn.org.vn/newsdetail.asp? CatId=21&Newslang=3672&lang=VN

[79] Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Khi người phụ nữ đối diện cuộc sống ,

http://www.vneconomy.com.vn/evenst/pnvn/index.php?load=20

[80] Hội Liên hiệp Phụ nữ Thái Bình (2000), Lịch sử phong trào phụ nữ Thái bình

1927-2000, NXB Chính trị Quốc gia.

[81] Hội LHPN tỉnh Bắc Ninh ( 2000), Lịch sử phong trào phụ nữ tỉnh Bắc Ninh

[82] Lê Ngọc Hùng (2006), “Dự thảo luật bình ẳng giới nhìn từ góc độ khoa học”,

T/c Nghiên cứu gia đình và giới Số1(16), tr3-10.

[83] Đỗ Huy (1991), “ Vai trò của người phụ nữ trong văn hoá gia đình Việt

Nam”, T/c KH &PN, số 4

[84] Địa Dân Hồ Phi Huyền (1936), Nhân đạo quyền hành ,Vinh.

[85] Đỗ Quang Hưng (1995), “Tiếp xúc văn hoá Đông Tây ở Việt Nam”, T/c Xưa

nay số 4 (14), tr20-22.

[86] Đỗ Quang Hưng (Chủ biên), (2000) Lịch sử báo chí Việt Nam1865-1945.

NXB ĐHQG, H.

[87] Đỗ Quang Hưng (2004), Công hội Đỏ Việt Nam , NXB Lao động, H.

[88] Phùng Hưng (1996) , “Phụ nữ và văn hoá Việt Nam”, Tạp chí VHNT Tháng

12, tr.45-47.

[89] Khái Hưng- Nhất Linh (1991), Đời mưa gió, NXB ĐH& GDCN, H.

[90] Khái Hưng (1991), Nửa chừng xuân, NXB ĐH & GDCN, H.

[91] Khái Hưng (1989), Thoát ly, NXB KHXH, H.

[92] Khái Hưng- Nhất Linh (1999), Gánh hàng hoa, NXB văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.

[93] Khái Hưng (1999), Hồn bướm mơ tiên, NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.

[94] Khái Hưng (2001), Thừa Tự, NXB Văn Nghệ, TP Hồ Chí Minh.

[95] Thích nữ Huệ Hướng, Địa vị phụ nữ trong giáo lý Đức Phật

http://www.zencomp.com/greatwisdom/uni/u-diavi-phunu/phunu3.htm

[96] Đinh Thị Khang (1994), “Khát vọng giải phóng phụ nữ trong thơ Hồ Xuân

Hương”, T/c KH&PN số 2,tr 36-39

[97] Huỳnh Thúc Kháng (2000), Huỳnh Thúc Kháng niên phổ, NXB VHTT.

[98] Nguyễn Công Khanh (2006), Lịch sử báo chí Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh 1865-

1995, NXB Tổng hợp, TP Hồ Chí Minh.

[99] Phan Thị Mỹ Khanh (2001), Nhớ cha tôi- Phan Khôi, Đà Nẵng.

[100] Nguyễn Thị Tường Khanh (2001), Nữ giới chung- tờ báo phụ nữ đầu tiên ở

Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học

Quốc gia Hà Nội, H.

[101] Đinh Gia Khánh (1963), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục.

[102] Nguyễn Văn Khánh (1999), Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa

(1858-1945), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

[103] Nguyễn Văn Khánh- Nguyễn Quốc Bảo (2001), Một số vấn đề về trí thức

Việt Nam, NXB Lao động, H.

[104] Vũ Khiêu (CB) (2002), Phạm Tuấn Tài: cuộc đời và tác phẩm (Hồi kí), NXB

Chính trị Quốc gia, H.

[105] Nguyễn Văn Khoan (CB) ( 2001), Việt Minh thành Hoàng Diệu, NXB TP

HCM.

[106] Phan Khôi (2003), Những tác phẩm đăng báo 1928 , NXB Đà Nẵng.

[107] Phan Khôi (2005), Tác phẩm đăng báo năm 1930, NXB Hội nhà văn.

[108] Trần Khuê (1996), Nghiên cứu và tranh luận, NXB KHXH.

[109] Nguyễn Văn Ký (2001), “Phụ nữ Việt Nam qua những trang lịch sử, các

huyền thoại và khẩu truyền”, Việt Nam học -Kỉ yếu hội thảo quốc tế lần

thứ I T IV, NXB Thế giới, H, tr177-190.

[110] Khuyết danh (2005), Gia huấn diễn ca, NXB Phương Đông.

[111] Kolongtai. A,M (1961), Vấn đề giải phóng phụ nữ, NXB Phụ nữ.

[112] Tương Lai (CB) (1996), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam,

NXB KHXH.

[113] Phương Lan bà Bùi Thế Mỹ (1970), Nguyễn An Ninh- 1989-1943: Nhà cách

mạng, Sài Gòn.

[114] Bốc Tùng Lâm (2003), Thập đại tùng thư: 10 người đàn bà làm chấn động

thế giới, NXB VHTT.

[115] Đinh Xuân Lâm (CB) (1998), Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục.

[116] Đinh Xuân Lâm (CB) (2005), Lịch sử Việt Nam (1858-1945), t 3, Đề tài độc

lập cấp nhà nước.

[117] Phan Huy Lê (1999), Tìm về cội nguồn T2, NXB Thế giới.

[118] Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (CB), (T1: 1994 và T2:1996), Các giá trị

truyền thống và con người Việt Nam hiện nay , NXB CTQG.

[119] Phan Thị Minh Lệ (2001,) “Quan điểm của một số người có tên tuổi về vị trí

của người phụ nữ trong xã hội những năm 1930,” Việt Nam học -Kỉ yếu hội

thảo quốc tế lần thứ I T.IV, NXB Thế giới, H, tr196-206.

[120] Lịch sử Việt Nam (1985) tập 2, NXB KHXH, H.

[121] Lịch sử văn minh Ấn Độ (1971), NXB Lá Bối, Sài Gòn.

[122] Trần Huy Liệu (1927), Một bầu tâm sự , Impr Bảo Tồn, Sài Gòn

[123] Trần Huy Liệu,-Văn Tạo (1958), Cách mạng cận đại Việt Nam T5, Ban

nghiên cứu Văn Sử Địa.

[124] Trần Huy Liệu (1960), “30 năm đấu tranh của phụ nữ Việt Nam dưới sự lãnh

đạo của Đảng”, T/c NCLS Số 4, tr1-12.

[125] Trần Huy Liệu (1961), Đảng Thanh niên, Sử học.

[126] Trần Huy Liệu (1991), Hồi kí, NXB KHXH, H.

[127] Trần Huy Liệu (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh Lịch

sử 80 năm chống Pháp, NXB KHXH, H

[128] Lê nin với vấn đề giải phóng phụ nữ (1970), NXB PN.

[129] Đỗ Thị Bích Liên (1938), Vấn đề bình đẳng và tự do, Việt Dân, Phủ Lý.

[130] Hàn Vũ Linh (1992), “Bài thơ chữ Hán nổi tiếng của Nguyễn Du về số phận

oan nghiệt của một người phụ nữ”, T/c KH&PN số 3,

[131] Nhất Linh (1992), Đoạn tuyệt, NXB Đại học & Giáo dục chuyên nghiệp, H.

[132] Nhất Linh (1991), Đôi bạn, NXB Đại học & Giáo dục chuyên nghiệp, H.

[133] Nhất Linh. (1999) Lạnh lùng, NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.

[134] Bà Tùng Long (2003), Viết là niềm vui muôn thuở của tôi (Hồi kí), NXB Trẻ.

[135] Nguyễn Đức Lữ (1994), “Vị trí người phụ nữ trong tôn giáo tín ngưỡng ở

ViệtNam , T/c KH về PN số 4 (18), tr1-3.

[136] Nguyễn Thị Lựu (1985), Tình yêu và ánh lửa (Hồi kí), NXB Văn nghệ,

Thành phố Hồ Chí Minh.

[137] Cãc Mac- Angghen-Lênin-Xtalin (1967), Vấn đề giải phóng phụ nữ, ST. H.

[138] Đặng Thai Mai (1974), Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, NXB

VH.

[139] Nguyễn Đức Mậu (1990), “Gia đình đã thành vấn đề như thế nào” T/c Xã hội

học số 3, tr 85-88.

[140] John Stuart Mill (2005), Bàn về tự do, NXB Tri thức.

[141] Nguyễn Thị Minh (2001), Nguyễn An Ninh “ Tôi chỉ làm cơn gió thổi”, NXB

Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

[142] Montesquieu (2004), Bàn về tinh thần pháp luật, NXB Lý luận chính trị.

[143] Phan Thị Nga (2000), Mười một tháng trong lao Thừa phủ , NXB, Hội nhà

văn, H.

[144] Tuyết Nga (1957), “ Chung quanh vấn đề nam nữ bình quyền” T/c Bách

khoa số10, Sài Gòn, tr 41-42.

[145] Nguyễn Bích Ngọc (2005), Hai Bà Trưng trong văn hoá Việt Nam, NXB

Văn hoá Thông tin.

[146] Nguyễn Quang Ngọc (CB) (1995), Cơ cấu xã hôi trong quá trình phát triển

của lịch sử Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, H.

[147] Phan Ngọc (1994), Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, NXB VHTT.

[148] Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt (2003), Người con gái Nam Bộ (Hồi ký),

NXB Văn học.

[149] Vũ Dương Ninh (1997), Đại cương lịch sử thế giới cận đại T2, NXB Giáo

dục

[150] Những giới hạn thời gian trong Nữ trung tùng phận

http:/www.personal.usyd.edu.au/-cdao/booksv/nttp_dn_4htm

[151] Nữ sĩ Vân Đài (1999), Một thời thanh lịch, NXB Hội nhà văn.

[152] Nữ văn sĩ Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX (1997), NXB Phụ nữ.

[153] Vũ Ngọc Phan (1987), Những năm tháng ấy, NXB Văn học.

[154] Vũ Thị Phụng (1995), “Phụ nữ Việt Nam qua một số hương ước và phong

tục làng xã cổ truyền” , T/c KH về PN tr 6-10, 18.

[155] Vũ Trọng Phụng (2004), Lục xì, NXB Văn học.

[156] Đạm Phương nữ sử (1999), NXB Văn học .

[157] Đỗ Lan Phương (1996), “Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong văn hoá nghệ

thuật truyền thống”, VHNT số 12, tr 64-65,72.

[158] Phạm Quỳnh Phương (1994), “Khát vọng của phụ nữ Việt Nam qua truyền

thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh”, T/c KH về PN Số 4 (18), tr4-5.

[159] Trần Hữu Quang (2006), Xã hội học báo chí, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

[160] Phan Quang (2005), Nghề báo nghiệp văn, NXB Thông tấn, H.

[161] Hà Quế (1964), Nữ tự vệ chiến đấu, Hồi kí cách mạng, NXB Phụ nữ, H.

[162] Tôn Thị Quế (1972), Chỉ một con đường (Hồi kí cách mạng), Ban nghiên

cứu lịch sử Đảng tỉnh uỷ Nghệ An.

[163] Quốc triều hình luật (2003), Luật hình triều Lê- Luật Hồng Đức, NXB Tp

Hồ Chí Minh.

[164] Nguyễn Ái Quốc (1959), Lên án chủ nghĩa thực dân, NXB Sự thật. H.

[165] Nguyễn Ái Quốc (1960), Bản án chế độ thực dân Pháp, NXB Sự thật, H.

[166] Dương Kinh Quốc (2005), Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trứơc Cách

mạng tháng Tám năm 1945, NXB KHXH.

[167] Dương Trung Quốc (2000), Việt Nam những sự kiện lịch sử 1919-1945,

NXB Giáo dục.

[168] Lê Thị Quý (1992), “Vấn đề nhân quyền của phụ nữ trong xã hội phong

kiến” T/c KH&PN số 3, tr

[169] Phạm Quỳnh (2003), Pháp du hành trình nhật kí, NXB Hội Nhà văn.

[170] Rousseau Jean- Jacques (2006), Bàn về khế ước xã hội, NXB Lý luận chính trị.

[171] Trịnh Đình Rư (1926), Nữ sinh độc bản, Hải Phòng.

[172] Sơ lược và lịch sử thành lập và hoạt động của trường Nữ học đường Sài

Gòn.http://www.minh khai96.net/líchsu.htm

[173] Cựu Kim Sơn và Văn Huệ (1938), Đời chị em, Dân chúng.

[174] Cựu kim Sơn và văn Huệ (1938), Chị em phải làm gì, Dân chúng.

[175] Lưu Cự Tài (2001), Lịch sử tuyển chọn người đẹp, NXB Trẻ.

[176] Văn Tân (1967), “Truyền thống đánh giặc cứu nước của phụ nữ Việt Nam”,

T/c NCLS số 95.

[177] Hoài Thanh- Hoài Chân (1997), Thi nhân Việt Nam 1932-1941, NXB Văn

học, H.

[178] Thanh Việt Thanh-Thiên Mộc Lan (1988), Nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh,

NXB Văn Nghệ, HCM.

[179] Hàn Song Thanh (1996 ), Một bài học-một cuộc đời , Bảo tàng phụ nữ Nam bộ.

[180] Nguyễn Thành (1984), Báo chí cách mạng Việt Nam 1925-1945, NXB

KHXH.

[181] Nguyễn Thành (1985), Cuộc vận động Đại hội Đông Dương năm 1936,

NXB

TP HCM.

[182] NguyễnThành (1992), Lịch sử báo Tiếng dân, Đà Nẵng.

[183] Nguyễn Thành (1995), Sự nghiệp báo chí của chủ tịch Hố Chí Minh, NXB VHTT.

[184] Nguyễn Thành (2001), ( sưu tầm và tuyển chọn) Nguyễn Văn Nguyễn- Tháng

Tám trời mạnh thu, NXB trẻ, TP Hồ Chí Minh.

[185] Nguyễn Thành (2001), Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam, NXB văn hoá

thông tin, H.

[186] Nguyễn Thành (2003), Đồng chí Trường Chinh với báo chí , NXB Thanh

niên, H.

[187] Vũ Thị Minh Thắng (2000), “Bước đầu tìm hiểu về phong trào nữ quyền

phương Tây từ cội nguồn tư tưởng đến cuộc đấu tranh cho quyền đại diện

ngang bằng.’’ Hội nghị khoa học nữ đại học quốc gia Hà Nội, NXB ĐHQG,

tr88-94.

[188] Nguyễn Thị Thập (1960 ), Con đường giải phóng của phụ nữ Việt Nam,

NXB PN, H .

[189] Nguyễn Thị Thập (1981), Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam T1, NXB

PN.

[190] Nguyễn Q Thắng (1996), Quảng Nam đất nước và nhân vật, NXB Văn Hoá.

[191] Chương Thâu (1982), Đông kinh nghĩa thục, H.

[192] Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hoá Việt Nam, HCM.

[193] Ngô Đức Thịnh (1996), Đạo Mẫu ở Việt Nam, VHTT, H.

[194] Anh Thơ (2002), Từ bến sông Thương, NXB Phụ nữ, H.

[195] Cao Huy Thuần- Nguyễn Tùng- Trần Hải Hạc- Vĩnh Sính (CB) (2005), Từ

Đông sang Tây, NXB Đà Nẵng.

[196] Tạ Thị Thuý (CB) (2007), Lịch sử Việt Nam T VIII 1919-1930, NXB

KHXH.

[197] Nguyễn Tài Thư (CB), (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, NXB KHXH.

[198] Nguyễn Tài Thư (CB) (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo

đối với con người Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, H.

[199] Hoàng Tiến (1994), Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỷ

XX

T1, NXB Lao động.

[200] Minh Tiến (1957), “ Tứ đức mới của người phụ nữ Việt Nam” T/c Bách khoa

số 2, Sài Gòn, tr 62-64.

[201] Nguyễn An Tịnh (1996), Nguyễn An Ninh, NXB Trẻ.

[202] Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chi, truyện ngắn, tiểu thuyết

và thơ mới, NXB TP Hồ Chí Minh.

[203] Huỳnh Văn Tòng (2000), Báo chí Việt Nam từ khởi thuỷ đến 1945, NXB TP

HCM.

[204] Phạm Hồng Toàn (2002), Nguyễn Bá Học Con người và tác phẩm, NXB Hội

nhà văn-Trung tâm ngôn ngữ văn hoá Đông Tây.

[205] Tocqueville (2007), Nền dân trị Mỹ T1& T2, NXB Tri thức.

[206] Ngô Tất Tố (2005), Tiểu phẩm báo chí, NXB Hội nhà văn.

[207] Tổ sử phụ nữ Nam bộ(1989), Truyền thống cách mạng của phụ nữ Nam Bộ

thành đồng, Thành phố Hồ Chí Minh.

[208]. Tăng Thị Thành Trai (1959), “ Vấn đề giải phóng phụ nữ”, T/c Đại học Số 9

Tháng 5, Sài Gòn, tr112-121.

[209] Nguyễn Văn Trấn ( 2001), Chúng tôi làm báo (Hồi kí), NXB Văn nghệ TP HCM.

[210] Đinh Gia Trinh (1997), Hoài vọng của lý trí , H.

[211] Trung tâm nghiên cứu phụ nữ (1990), Bác Hồ và sự nghiệp giải phóng phụ nữ,

H.

[212] Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây (2002), Nguyễn Bá Học- Con người

và tác phẩm, NXB Hội nhà văn.

[213] Lê Thị Nhâm Tuyết (1973), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, NXB

KHXH.

[214] Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở Bắc bộ , NXB KHXH, H.

[215] Ngọc Tự, Hứa Khắc Ân (1967), Niềm tin không bao giờ tắt, NXB Phụ nữ, H.

[216] Tự lực văn đoàn con người và văn chương (1990), NXB Văn học. H.

[217] Trần Thiện Tỵ và Bùi Thế Phúc (1932), Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam.

[218] Phạm Xanh (2000), Nguyễn Ái Quốc với sự truyền bá chủ nghĩa Mác -Lê

nin vào Việt Nam (1921-1930), NXB Chính trị quốc gia.

[219] Phạm Xanh (1996), “ Báo Thanh niên- ngọn nguồn của ngày hội báo chí

hôm nay”, T/c Xưa-Nay số 16, tr 6-7.

[220] Đặng Nghiêm Vạn (2001), “Dòng họ ,gia đình và vai trò phụ nữ”, Việt Nam

học Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ I TIV, NXB Thế giới , H, tr30-37.

[221] Phạm Thanh Vân (1994), “ Địa vị pháp lý của lao động nữ trong bộ luật lao

động mới của nước ta”, T/c KH về PN số 4 (18), tr27-29.

[222] Văn thơ Đông Kinh nghĩa thục (1997), NXB Văn hoá.

[223] Vấn đề giải phóng phụ nữ. (1974), NXB Sự thật.

[224] Nguyễn Hữu Viêm (1999), “ Hoàng Tích Chu người đầu tiên cách tân báo

chí Việt Nam, T/c Xưa - nay, số 61(3), tr16-17.

[225] Phạm Thị Thuỳ Vinh (2003), Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh

sinh hoạt làng xã, NXB Văn hoá thông tin, H.

[226] Trần Thị Vinh (1992), “Quốc triều hình luật và làng xã đối với phụ nữ trong

xã hội Việt Nam cổ truyền” T/c KH&PN số 3- tr.

[227] Hoài Việt (2001), Nữ sĩ Mộng Tuyết, NXB Văn học, H.

[228] Trần Quốc Vượng (1972), Truyền thống phụ nữ Việt Nam, NXB Phụ nữ.

[229] Trần Quốc Vượng (1996), “Nguyên lý mẹ của nền văn hoá Việt Nam”, T/c

VHNT tháng 12, tr43- 44.

[230] Nguyễn Vỹ (2006), Tuấn- Chàng trai nước Việt, NXB Văn học.

[231] Xô viết Nghệ Tĩnh (2000), NXB Nghệ An.

[232] Yu. InSun (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỉ XVII-XVIII, NXB KHXH.

[233] In sun Yu (2001), “Mô hình xã hội lưỡng hệ và địa vị phụ nữ Việt Nam truyền

thống”, Việt Nam học- kỉ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ I, NXB Thế giới, H,

tr285-299

II.Tiếng nƣớc ngoài

1. Tiếng Anh

[234] Ducker William (2000 ), Ho Chi Minh -a life, Hyperion, New York

[235] Judge.Sophie Quinn (2001), “Women in the early Vietnamese communist

movement: sex, lies, and liberation”. South East Asia Research, November

[236] McHale.Shawn Frederick (1995), Printing, power, and the transformation of

Vietnamese cultture, 1920-1945, dissertation, Cornell University

[237] Marr David G. (1976), “ The 1920s women’s rights debates in Vietnam”,

Journalof Asian Studies, Vol 35, No 3 (may) 1976, p 371-389.

[238] MarrDavid G (1995), Vietnamese tradition on Trial.1920-1945, University

of California Press Berkeley, California .

[239] Susan Ware. Modern American Women. A documenttary history . The Dorsey

Press. Chicago, Illinois 60604.

[240] Huệ-Tâm Hồ Tài (1992), Radicalism and the Origins of the Vietnamese

Revolution Harvard University Press

[241] Taylor KW and Jonh. K.Whitmore(1995), Editor. Essays in to Vietnamse

pasts. Cornel University NewYork.

2. Tiếng Pháp

[242] Nguyễn Văn Ký (1995), Lá societé Vietnamienne face à la modernité. Le Tonkin de

la fin du XIXe siecle à la seconde guerre mondiale, Paris, L Harmattan,cll,

Recherches asiatiques

[243] Trịnh Văn Thảo (1995), L école Francaise en Indochine, Paris, Karthala.

[243b] Trịnh Văn Thảo (Bản dịch )Trường học Pháp ở Đông Dương. Tư liệu Khoa Lịch sử

IV. Những tờ báo đã khảo sát (Xếp theo thứ tự thời gian năm xuất bản)

Ghi chú:

1. Những báo in nghiêng đậm là báo chí cách mạng phát hành bí mật hoặc phát

hành trong vùng căn cứ địa cách mạng nguồn Bảo tàng Cách mạng Hà Nội

2. Những báo in thẳng đậm là báo phụ nữ

3. Những báo in nghiêng là báo cách mạng phát hành công khai trong thời kì 1936-

1939. Nguồn Thư viện Quốc gia và Bảo tàng Cách mạng Hà Nội, Nhà xuất bản

Lao động

4. Chữ viết tắt :-KH- Kí hiệu

- TVQG- Thư viện Quốc gia

-VTTKHXH-H. Thư viện Viện thông tin khoa học xã hội Hà Nội

-BTCM-H - Bảo tàng Cách mạng Hà Nội

-VSH - Thư viện Viện sử học.

-KLS - Phòng tư liệu khoa Lịch sử Đại học KHXH&NV

-TVKHTH - Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh

-BTTP - Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh

-VKHXH - Thư viện Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí

Minh

I.Từ đầu thế kỉ XX đến kết thúc chiến tranh thế giới I năm 1918.

1. Nông cổ mín đàm (1-8-1901-4-11-1924) KH:002.6(05) N455CVKHXH

2. Đăng cổ tùng báo (28-3-1907-14-11-1907) Ban NC Lịch sử Đảng

3. Đông Dương tạp chí (15-5-1913-15-6-1919) KH:80/CV51 VTTKHXH-H

4.Trung Bắc tân văn (Bộ mới 1.1.1915-4.1941) KH: P10 56 VTTKHXH-H

5. Công luận (29-8-1916-1939) KH: J.137 TVQG

6. Nam phong (7.1917-1935) KH: 80/CV49 VTTKHXH-H

7. Nữ giới chung (2.1918) KH:B.424 TVKHTH

II.Từ 1919 đến 1929

8. Thực nghiệp dân báo (12.7.1920-1935) KH: J8M TVQG

9. Khai hoá nhật báo (15.7.1921-31.8.1927) KH: J7 TVQG

10. Hữu thanh (1.8.1921-15.9.1924) KH:TC-30/HT01-04 KLS

11.Đông Pháp thời báo (2.5.1923-2.1929) KH: J80 TVQG

12.Trung hoà báo nhật báo (8.9.1923-1942) KH: J54 TVQG

13.Trung lập (16.1.1924-30.5.1933) KH: J18 M TVQG

14. Tân dân báo (18.11.1924-20.5.1925) KH: J43 TVQG

15. Đông Pháp (1925-3.1945) KH: J132M TVQG

16 Thanh niên (21.6.1925-1929) KH:TL.289. VSH

17 Hồn Nam Việt (4.1926-3.1927) KH :6615/Gy4974 BTCM-H

18. An Nam tạp chí (1.7.1926-1.5.1933) KH:V’371 VSH

19. Văn minh (12.1926-23.1.1931) KH: J24 TVQG

20. Hà thành ngọ báo (1.6.1927-15.8.1931) KH:J97 TVQG

21. Tiếng dân (10.8.1927-14.4.1943) KH: J52M TVQG

22. Kì Lân (số 2 ngày 18.8.1928-25.5.1929) TVKHTH

23.Đuốc nhà Nam (26.9.1928-6.7.1937) KH:J84 TVQG

24. Thân ái (1.10.1928-1929)KH:6657-6660/Gy5016-5019 BTCH-H

III. Từ 1929-1945.

25. Thần chung. (1929-24-3-1930) KH:J51 TVQG

26. Lao động (1929) KH:1890/Gy585 BTCM-H

27. Phụ nữ tân văn (2.5.1929-21.4.1945) KH: C271M TVQG

28. Nam nữ giớ ichung (28.3.1930-28.1.1931) KH:B423 TVKHTH

29. Tranh đấu (15.8.1930 KH:1889/Gy584 BTCM-H

30. Búa liềm (1.10.1929-5.2.1930) KH:6335-6337/Gy 4694-4696 BTCM-H

31. Người lao khổ (5.1930- số đặc biệt 5.9.1930 KH:6609/Gy 4967 BTCM-H

32.Phụ nữ thời đàm (8.12.1930- 1931)) KH:B366 TVKHTH

Phụ nữ thời đàm (bộ mới) (1933-1934) KH: V’372 VSH

33. Cờ vô sản (1931) KH:6121/Gy4480 BTCM-H

34. Chỉ đạo (1931 KH:1897/Gy592 BTCM-H

35. Gương vô sản (1931) KH:6125-6127/Gy4484-4486 BTCM-H

36.Con đường sống (1931) KH: 6128/Gy 4487 BTCM-H

37 Công Nông binh (1931) KH:6123-6124/Gy 4482-4483 BTCM-H

38. Đông Dương báo (18.6.1931-27.9.1931) KH:J79 TVQG

39. Thời báo (15-16.1.1931--17.4.1931) KH: J49 TVQG

40. Vô sản (1932) KH:6122/Gy 4481 BTCM-H

41. Sài thành (2.3.1932--30.4-1933) KH:J41 TVQG

42. Phong hoá (16.6.1932-5.6.1936) KH:CVN.184 VKHXH.

43.Đông thanh tạp chí (1.7.1932-1938) KH: Q80 170

VTTKHXH

44. Phụ nữ tân tiến (29.7.1932-5.4.1934) KH: CV370 TVKHTH

45. Zân (1.4.1933-11.1933 KH:J11 TVQG

46. Sài Gòn (3.5.1933-1939) KH:J40 TVQG

47. Hoàn cầu tân văn (24.8.1933-3.1938) KH:J206 TVQG

48. Hồn Lao động (số 5. tháng 5.1934) KH:1899/Gy 594 BTCM-H

49. Loa (8.2.1934-2.1936) KH:C.1356 M TVQG

50. Giải phóng (1934-1936 NXB.Lao Động 1998

51.Đàn bà mới (1.12.1934-1-1937) KH:233 TVQG

5. Ngày nay (30.1.1935-7.9.1940) KH:C563M TVQG

53.Tân thời tuần báo (17.1.1935-6.2.1936) KH:J236 TVQG

54. Tràng An (1.3.1935-1945) KH:J254 TVQG

55. Đời mới ( 24.3.1935-11.4.1935 KH:6135-6138/Gy4494-4497 BTCM-H

56. Duy tâm Phật học (10.1935-7.1943) KH: C.607 TVQG

57. Đuốc Tuệ (10.12.1935-8.1945) KH: C625 TVQG

58. Tiến bộ (1.1936-3.1936) KH:J268 TVQG

59. Ý dân ( 27.3.1936-10.1938) KH:8869-8905/Gy6365-6401 BTCM-H

60. Hồn trẻ tập mới (6.6.1936-27.8.1936) KH:C585M TVQG

61. Việt báo (18-19.8.1936-9.2.1942 KH: J286 TVQG

62. Tân xã hội (10.10.1936-17.10.1936) KH:6293-6295/Gy4652-4654 BTCM-H

63. Dân hiệp (26.11.1936-12.1942) KH:J298 TVQG

64. Nhành lúa (15.1.1937-19.3.1937) KH:6217-6225/Gy4576-4584 BTCM-H

65. Việt nữ (7.3.1937-11.1937) KH: C702M TVQG

66. Bạn dân (24.4.1937-11.1937) KH:6338-6368/Gy4697-4691 BTCM-H

67. Quần chúng (1937) KH:8629/Gy6166 BTCM-H

68.Hà thành thời báo (1937) KH:6649-6650/Gy5008-5009 BTCM-H

69. Phụ nữ (16.2.1938-4.1939)

70. Tin tức (2.4.1938-19.10.1938) KH:6210-6216/Gy4569-4575 BTCM-H

71. Ngày mới (19.4.1938-23.2.1939) KH:6634-6636/Gy4993-4995 BTCM-H

72. Dân (6.7.1938-7.10.1938) KH:6296-6312/Gy4655-4671 BTCM-H

73. Dân chúng (22.7.1938-30.8.1939) NXB Lao động, H.2000

74. Zân mới (5.9.1938-9.1939) KH:J375 TVQG

75. Thế giới (15.9.1938-13.9.1939) KH:6250-6251/Gy4609-4610 BTCM-H

76. Dân tiến (27.10.1938-22.12.1938)KH:6266-6270/Gy4625-4629 BTCM-H

77. Lao động (29.11.1938-14.7.1939) KH:6661-6679/Gy5020-5038 BTCM-H

78. Đời nay (1.12.1938-29.9.1939) KH:6139-6144/Gy4498-4503 BTCM-H

7.9 Dân Muốn (29.12.1938-5.1.1939) KH:6271-6272/G4630-4631 BTCM-H

80. Đàn bà (24.3.1939-1945) KH:C811M TVQG

81. Mới (1.5.1939-30.9.1939) KH:6701-6707/Gy5060-5066 BTCM-H

82. Hà Nội Tân Văn (31-10.1939-30.12.1941) KH: J421 TVQG

83.Trung Bắc chủ nhật(3.3.1940-12.8.1945) KH:CVN.85 VKHXH

84. Phá ngục ( ngày 1.5.1940) KH:1900/Gy595 BTCM-H

85. Tiền Phong (số 2 ngày 22.12.1940) KH:1901/Gy596 BTCM-H

8.6 Tự do (số 4 ngày 10.3. 1941) KH:6654-6656/Gy5013-5015 BTCM-H

87. Thanh Nghị (25.4.1941-11.8.1945) KH:C911M TVQG

88. Hạnh phúc (16.3.1941-1944) KH: CVV.711 TVKHTH

89. Tri tân (3.6.1941-16.7.1946) KH:ĐVv218,220-221,223-225 VSH

90. Tiến (7.1941-7.1942) KH:CVN-0394 VKHXH

91. Việt Nam độc lập (1.8.1941-15.12.1945) NXB Lao động.H.2000

92. Cứu quốc (25.1.1942-7.1945) KH:4696-4520/Gy4853-4879 BTCM-H

93.Nam Kỳ tuần báo (3.9.1942-1945) KH:CVN403 VKHXH

94. Mê Linh (số 2 ngày 15.8.1942) KH:1903/Gy597 BTCM-H

95. Đuổi giặc nước (8.1942-1945) KH:6229-6240/Gy4588-4599 BTCM-H

96. Chiến đấu (1942) KH:6316-6321/Gy4675-4680 BTCM-H

97. Tiên phong (1943) KH:6601-6607/Gy4960-4966 BTCM-H

98. Bắc sơn (1944) KH:6621-6622/Gy4980-4990 BTCM-H

99. Kèn gọi lính (1944) KH:6619-6620/Gy4978-4979 BTCM-H

100. Hiệp lực (5.3.1944) KH:6652-6653/Gy5011-5012 BTCM-H

101. Việt nữ (1945-1946) KH:C702M TVQG

102. Bạn gái (1945-1946)) KH: J511 TVQG