· web view- phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các...

38
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN HỖ TRỢ TƯ VẤN TÂM LÝ HỌC ĐƯỜNG CHO HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG, PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ Do TS. Hoàng Gia Trang (Viện KHGDVN) biên soạn kết hợp cùng tư liệu nghiên cứu tâm lý học sinh của nhà trường (TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ) 1

Upload: others

Post on 28-Jan-2020

7 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TÀI LIỆUBỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN HỖ TRỢ TƯ VẤN TÂM LÝ HỌC ĐƯỜNG CHO HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG, PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ

Do TS. Hoàng Gia Trang (Viện KHGDVN) biên soạn kết hợp cùng tư liệu nghiên cứu tâm lý học sinh của nhà trường

(TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ)

Ngày 28 tháng 01 năm 2016

1

Page 2:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

MỤC LỤC

Chuyên đề 1: Những vấn đề chung về tư vấn, hỗ trợ tâm lý cho học sinh Trang

1. Khái niệm tư vấn và tham vấn 3

2. Một số nguyên tắc cơ bản trong tư vấn tâm lý 4

3. Các giai đoạn tư vấn tâm lý cho học sinh 5

4. Lập hồ sơ tư vấn cho học sinh 7

5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tư vấn tâm lý 8

6. Đặc điểm tâm lý của học sinh, học sinh dân tộc 8

Chuyên đề 2: Các kỹ năng tư vấn, hỗ trợ tâm lý cho học sinh dân tộc

1. Kỹ năng tư vấn là gì? 16

2. Kỹ năng lắng nghe tích cực 16

3. Kỹ năng hỏi 18

4. Kỹ năng phản hồi 21

5. Kỹ năng thấu cảm 22

6. Kỹ năng dẫn dắt giải quyết vấn đề 23

Danh mục tài liệu tham khảo 24

Phụ lục 25

2

Page 3:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

Chuyên đề 1

Những vấn đề chung về tư vấn, hỗ trợ tâm lý cho học sinhMục tiêu

Cung cấp những thông tin cơ bản về tư vấn tâm lý trong trường phổ thông, phổ thông DTNT.

Kiến thức

- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS

- Biết cách lập hồ sơ tư vấn cho HS

- Hiểu được đặc điểm tâm lý của HS, HS dân tộc và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác tư vấn tâm lý hiện nay.

Kỹ năng

- Vận dụng các nguyên tắc tư vấn tâm lý trong việc hỗ trợ HS giải quyết các khó khăn

- Xây dựng hồ sơ tư vấn tâm lý cho HS để thu thập thông tin, xác định vấn đề và cùng HS tìm ra giải pháp phù hợp.

1. Khái niệm tư vấn và tham vấn

1.1. Tư vấn

Tư vấn là quá trình trợ giúp của nhà tư vấn (nhà chuyên môn) đối với thân chủ (người cần sự hỗ trợ) bằng cách sử dụng tối đa những kiến thức chuyên môn và kỹ năng mà nhà tư vấn có để thu thập thông tin, chẩn đoán vấn đề thân chủ đang vướng mắc nhằm giúp thân chủ giải quyết những vấn đề khó khăn đang gặp phải.

1.2. Tham vấn

Tham vấn là một tiến trình tương tác giữa người làm tham vấn - người có chuyên môn và kỹ năng tham vấn, có phẩm chất đạo đức của nghề tham vấn và được pháp luật thừa nhận, với thân chủ - người đang có vấn đề khó khăn về tâm lý cần được giúp đỡ. Thông qua các kỹ năng trao đổi, chia sẻ thân mật, tâm tình, giúp thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của chính mình

Chúng ta thấy, giữa tư vấn và tham vấn có sự giống nhau, đó là quá trình trợ giúp người khác, song có khác nhau về mức độ, kết quả và cả cách thức hỗ trợ, khác nhau về phạm vi thực hiện. Tư vấn có phạm vi can thiệp, tác động rộng hơn đến học sinh cần tư vấn. Tư vấn cho học sinh trong nhà trường có tính định hướng giáo dục rõ ràng. Tham vấn dựa vào khả năng vốn có học sinh khơi dậy nội lực, tìm cách hỗ trợ để học sinh tự giải quyết vấn đề của mình . Quá trình tự quyết sẽ giúp thân chủ mạnh lên, dám nghĩ và dám đương đầu với vấn đề khó khăn của mình.

Trong môi trường học đường, thân chủ được hiểu là những người dâng có khó khăn tâm lý; có thể là học sinh, giáo viên, cha mẹ học sinh… cần được trợ giúp của nhà chuyên môn,

1.3. Giáo viên hỗ trợ học sinh với vai trò là nhà tư vấn hay tham vấn?

Trước hết, có thể khẳng định, hoạt động tham vấn ở nước ta chưa có tính chuyên nghiệp. Chúng ta chưa có mã nghề cho công việc này. Vì vậy, việc giám sát chất lượng hoạt động tham vấn còn bỏ ngỏ. Trong bối cảnh chưa có đội ngũ làm công tác tư vấn, tham vấn chuyên nghiệp trong trường phổ thông, GV để có thể kiêm nhiệm công tác hỗ trợ cho HS có khó khăn tâm lý là một giải pháp có tính khả thi. Tuy nhiên, GV vẫn phải đảm nhiệm nhiệm vụ chuyên môn chính của mình (Ví dụ: dạy Toán, Văn, Hóa học, Lý…) hay là tổ chức các hoạt động của nhà trường (VD: Cán bộ Đoàn). Để đảm nhận thêm công tác hỗ trợ tâm lý cho HS khi các em có nhu cầu thì GV cần được bồi dưỡng thêm kiến thức và kỹ năng tối thiểu cần thiết để hoàn thành công việc được giao. Chính vì thế, GV không phải là những nhà tư vấn, tham vấn chuyên nghiệp, không được đào tạo bài bản, chính quy trong lĩnh vực này. Đối với những nhà tư vấn, tham vấn chuyên nghiệp ở các nước, họ thường được đào tạo chuyên sâu về chuyên môn và có bằng thạc sĩ, trải qua từ 400 - 1000 giờ thực hành mới được cấp chứng chỉ để có thể hành nghề.

Ngoài ra, do nhiều vấn đề nảy sinh trong các trường học mang tính ‘sự vụ’ nhất thời, HS, cha mẹ HS… cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ nhanh chóng để giải quyết vấn đề. Thêm vào đó, đặc điểm tâm lý của HS, nhất là HS dân tộc có phần rụt rè, e ngại, thiếu tự tin, khả năng giao tiếp còn hạn chế... Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi cho rằng GV đóng vai trò là nhà tư vấn sẽ hợp lý hơn.

Tài liệu tập huấn này mang tính giản lược nội dung kiến thức để phù hợp với giáo viên, cán bộ quản lý trong các trường phổ thông, phổ thông dân tộc nội trú. Các tình huống nêu ra cũng dựa trên những vấn đề học sinh, giáo viên đang gặp phải tại các trường học. Vì vậy, tài liệu này cố gắng hướng đến nội dung thực hành nhiều hơn.

2. Một số nguyên tắc cơ bản trong tư vấn tâm lý

3

Page 4:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

Trong cuộc sống, ai cũng có thể gặp khó khăn, vướng mắc mà tự mình không thể giải quyết được. Vì vậy, chúng ta tìm đến sự giúp đỡ từ những người xung quanh. Người được nhờ giúp có thể là người thân trong gia đình, bạn bè, những người lớn tuổi, thầy cô giáo… Hình thức giúp đỡ, khuyên bảo, hỗ trợ tinh thần là một phần quan trọng trong cuộc sống lành mạnh của con người. Mặc dù vậy, khi gặp những vấn nạn phức tạp, vượt khỏi tầm hiểu biết của những người không chuyên nghiệp, con người cần tìm đến những người được đào tạo, bồi dưỡng để làm công tác tư vấn.

Đối với những người không được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng chuyên môn, khi người giúp đỡ người khác thì có thể có gặp một số hạn chế sau đây:

- Có thể đưa ra lời khuyên không nhằm phục vụ quyền lợi cao nhất của người đang cần được giúp đỡ. Ví dụ, cha mẹ có khi cũng có thể cho con cái những lời khuyên quan trọng (trong học tập, chọn ngành nghề…) nhằm đáp ứng mong đợi của cha mẹ chứ không phải vì nhu cầu của con. Có trường hợp, cha mẹ thích một ngành nghề nào đó nhưng không thực hiện được thì nay khuyên con thi vào ngành học đó để thỏa mãn nhu cầu, nguyện vọng của họ trước đây.

- Có thể cho những lời khuyên không thích hợp đối với người cần sự hỗ trợ. Ví dụ: “Thôi bố mẹ có đánh mắng em cũng là vì yêu thương mình, em không được cãi lại bố mẹ hoặc bỏ nhà”.

- Có thể áp đặt những giá trị, chuẩn mực, quan điểm cá nhân của người tư vấn cho người cần được giúp đỡ một cách không thích hợp. Ví dụ: Trong giờ học, em không tập trung lại còn nói chuyện với bạn, thầy cô mắng là phải rồi. Em phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình thôi…

- Thể hiện sự không chấp nhận vấn đề của người cần tư vấn. Ví dụ: Em đã yêu cô chị và đã có quan hệ tình dục với nhau, vậy mà khi đến nhà chơi lại còn để cô em tán tỉnh. Con chuột còn biết lách qua khe cửa, mình phải biết cách thoát ra khỏi tình huống đó chứ. Khi đến nhà chơi mà cô chị không có ở nhà thì ở lại làm gì?

Từ những hạn chế trên, người làm công tác tư vấn tâm lý cần hiểu và thực hành một số nguyên tắc cơ bản sau:

2.1. Người làm công tác tư vấn phải có đạo đức nghề nghiệp

Đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi người làm công tác tư vấn:

- Không ngừng trau dồi kiến thức chuyên môn để có thể đáp ứng quyền lợi cao nhất của thân chủ. Chính vì vậy, người tư vấn cần có kiến thức sâu rộng về các lĩnh vực khác nhau.

- Luôn luôn sẵn sàng giới thiệu thân chủ đến nhà tư vấn có chuyên môn phù hợp khi thân chủ trình bày những khó khăn không thuộc phạm vi chuyên môn của bản thân.

- Biết kiểm soát cảm xúc của bản thân và không để các quan điểm cá nhân ảnh hưởng đến việc hỗ trợ cho thân chủ. Ví dụ, khi phát hiện có cảm xúc yêu hay ghét thân chủ thì sẵn sàng giới thiệu thân chủ đi nơi khác. VD: Một HS đến nhờ GV tư vấn vì em đánh nhau với bạn và bị nhà trường kỷ luật. Trước đó, GV này có con cũng bị bạn hành hung đến mức phải nhập viện. GV rất phẫn nộ với hiện tượng bạo lực học đường. Vì thế, khi nghe HS đến nhờ tư vấn vì bị kỷ luật do đánh bạn, GV rất tức giận. Trong tình huống đó, GV không nên tư vấn cho HS mà nên giới thiệu cho GV khác.

- Giữ bí mật. Trong quá trình tư vấn, hỗ trợ cho thân chủ, người tư vấn cần giữ kín thông tin trao đổi. Người tư vấn chỉ được phép tiết lộ nội dung của quá trình tư vấn khi được thân chủ cho phép hoặc trong những trường hợp được luật pháp cho phép hoặc ảnh hưởng đến sự an toàn, tính mạng của thân chủ hay của người khác.

2.2. Mối quan hệ giữa người tư vấn và thân chủ là quan hệ công việc

Đây là mối quan hệ nghề nghiệp duy nhất có thể có giữa người làm công tác tư vấn và thân chủ, không mối quan hệ nào khác được có bên cạnh mối quan hệ công việc. Không thể là quan họ hàng hoặc bạn bè… để ảnh hưởng đến tính khách quan trong tư vấn. Mục đích duy nhất của mối quan hệ nghề nghiệp là giúp thân chủ tìm được giải pháp cho vấn nạn của họ. Để đạt được mục đích này, người làm công tác tư vấn có trách nhiệm tạo ra một môi trường thích hợp trong đó thân chủ có cảm giác an toàn, được tôn trọng vô điều kiện, không bị phán xét và có thể tin cậy hoàn toàn vào khả năng, tư cách, đạo đức, cũng như kiến thức chuyên môn của người làm công tác tư vấn. Nếu không tạo được mối quan hệ nghể nghiệp đúng đắn này công tác tư vấn sẽ khó có thể đạt kết quả và khách hàng cần được giới thiệu đi nơi khác. Nếu mối quan hệ nghề nghiệp không đạt được do lỗi của người làm công tác tư vấn (ví dụ, không thắng được ác cảm với thân chủ), người làm công tác tư vấn có thể cần tự tìm kiếm tư vấn tâm lý từ đồng nghiệp hoặc để giải tỏa khó khăn của bản thân.

2.3. Thân chủ có khả năng tự giải quyết vấn đề

Quan điểm này cho rằng, mỗi người đều có khả năng của mình. Họ chính là người hiểu rõ nhất vấn đề đang gặp phải, biết được nguyên nhân gây ra tình trạng đó. Ngoài ra, họ cũng là người nắm rõ được hoàn cảnh, điều kiện của bản thân, những điểm mạnh và hạn chế. Chính vì thế, họ có khả năng tự giải quyết vấn đề vướng mắc. Người tư vấn khi tin tưởng vào thân chủ thì sẽ có cách đặt câu hỏi để biết được cảm nghĩ của thân chủ trong việc giải quyết vấn đề.

4

Page 5:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

Công việc của người làm công tác tư vấn là giúp thân chủ tìm ra được giải pháp ẩn náu đâu đó trong chính họ chứ không phải do người làm công tác tư vấn nghĩ ra.

2.4. Giải pháp do một mình người tư vấn nghĩ ra không phải là giải pháp

Người làm công tác tư vấn thiếu kinh nghiệm hoặc không chuyên thường nghĩ ngay ra giải pháp cho khó khăn của thân chủ vì cho rằng mình là chuyên gia và am hiểu vấn đề. Suy nghĩ lạc quan này chưa thực sự hợp lý vì thân chủ mới chính là chuyên gia về cuộc đời và vấn nạn của họ, chính họ mới biết giải pháp nào sẽ không mang lại kết quả, lý do tại sao; và giải pháp nào có thể giải quyết được vấn nạn. Tất nhiên thân chủ không thể tự mình giải quyết vấn nạn vì một số trở ngại, và nhiệm vụ chính của người làm công tác tư vấn là giúp thân chủ khắc phục những trở ngại đó và tạo sức mạnh, tạo niềm tự tin cho họ để họ mạnh dạn tiến hành những giải pháp do chính họ nghĩ ra hoặc góp phần tìm ra.

Ngay trong trường hợp giải pháp do người làm công tác tư vấn nghĩ ra là giải pháp đúng, nếu người làm công tác tư vấn không khéo léo dẫn dắt, tạo điều kiện cho khách hàng tham gia vào quá trình tìm ra giải pháp đó, giải pháp cũng khó được áp dụng thành công vì đó là giải pháp áp đặt từ bên ngoài chứ không phải từ chính thân chủ.

2.5. Người tư vấn chỉ cho lời khuyên trong một số rất ít trường hợp

Lời khuyên chính là một hình thức giải pháp và vì vậy chỉ đạt hiệu quả khi phát xuất từ chính thân chủ. Ngoại lệ trong trường hợp này là khi người làm công tác tư vấn đã tạo được một mối quan hệ nghề nghiệp lý tưởng với thân chủ, nghĩa là có được sự tuyệt đối tôn trọng và tin cậy lẫn nhau, hoặc trong bối cảnh thân chủ và người làm công tác tư vấn chỉ gặp nhau một lần, VD: những trường hợp thân chủ sử dụng dịch vụ tư vấn qua điện thoại, hoặc trong những trường hợp khủng hoảng nghiêm trọng.

2.6. Quá trình tư vấn phải dẫn đến kết quả tốt cho thân chủ

Kết quả tốt có thể là thay đổi nhận thức, một ứng xử hay cảm xúc tiêu cực, VD: thói quen xấu hay cảm xúc buồn chán. Kết quả tốt cũng có thể là một quan điểm mới, nhận thức mới, lạc quan hơn về mình, về người và về thế giới xung quanh, và nhờ vậy có được quan hệ tốt đẹp hơn trong gia đình, trường học, với bạn bè, GV… Hoặc một nhận thức mới về những giá trị của đời sống, của học tập...

Quan trọng hơn nữa là thay đổi khả năng ứng phó của thân chủ đối với những thách đố của cuộc sống, trong đó có khả năng xác định và vận dụng được những thế mạnh sẵn có của bản thân, bạn bè, gia đình và cộng đồng.

Công tác tư vấn sẽ mất hết ý nghĩa, sẽ làm mất thì giờ, phí tài nguyên của cả thân chủ lẫn người làm công tác tư vấn nếu nó không mang lại thay đổi tích cực nào cho thân chủ.

3. Các giai đoạn tư vấn tâm lý cho học sinh

3.1. Mô hình tư vấn 3 giai đoạn

3.1.1. Thiết lập bầu không khí thoải mái, thân thiện

Bắt đầu một cuộc tư vấn (NTV) cần tạo bầu không khí thoải mái, thân thiện để tăng cường sự hợp tác, trao đổi với thân chủ.

Với nụ cười chân thật, một cái bắt tay thân thiện, một câu chào lịch sự, tôn trọng, ánh mắt quan tâm trìu mến, giọng nói ấm áp, vị trí, tư thế ngồi không quá xa cách… của NTV sẽ tạo nên cảm giác thoải mái ở thân chủ. NTV có thể dành vài phút đầu để nói về các chuyện thời sự, thời tiết, lễ hội…; không nên đi sâu vào chuyện riêng tư quá sớm, điều này khiến thân chủ ngại ngùng.

Nói tóm lại, trước khi bắt đầu tư vấn vấn đề của thân chủ, NTV và môi trường diễn ra cần phải chuyển đến một thông điệp cho thân chủ: “Tôi chào đón bạn, tôi chấp nhận các giá trị vốn có ở con người bạn, tôi muốn hiểu bạn hơn, tôi muốn chúng ta hãy cởi mở và trung thực với nhau. Tôi hi vọng rằng chúng ta có thể làm việc với nhau lâu dài nếu bạn thấy nó có ích và hiệu quả với bạn”.

3.1.2. Thực hiện quá trình tư vấn

Sau giai đoạn chuẩn bị, quá trình TV được thực hiện nhằm hướng đến mục đích là trợ giúp thân chủ giải quyết vấn đề của mình. Quá trình thực hiện này được chia thành các bước nhỏ, bắt đầu là thiết lập quan hệ với thân chủ, khai thác thông tin để xác định vấn đề của thân chủ, thế mạnh của thân chủ, tìm kiếm các giải pháp, triển khai thực hiện các giải pháp, đánh giá kết quả thực hiện. Đây là giai đoạn dài nhất trong 3 giai đoạn, đòi hỏi NTV phải sử dụng kiến thức, kỹ năng TV trong quá trình TV để đạt hiệu quả cao. Những vấn đề cụ thể ở từng bước được trình bày ở mục 3.3.

3.1.3. Kết thúc quá trình tư vấn

Khi vấn đề của thân chủ đã được giải quyết; thân chủ cảm thấy họ có thể đương đầu, đối mặt với những thử thách, khó khăn trong cuộc sống sau này mà không cần sự hỗ trợ của NTV thì quá trình tư vấn kết thúc.

3.2. Mô hình tư vấn 5 giai đoạn

5

Page 6:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

Đây là mô hình TV khá phổ biến hiện nay. Nó đặc biệt hữu ích trong việc giúp đỡ thân chủ làm rõ các vấn đề và mang lại nhiều cách giải quyết khả thi khác nhau.

3.2.1. Thiết lập quan hệ

Đây là giai đoạn NTV xây dựng mối quan hệ công việc và lòng tin với thân chủ thông qua việc áp dụng các kỹ năng và thái độ TV. Thiết lập quan hệ là giai đoạn quan trọng trong quá trình TV. NTV có thu thập được các thông tin, xác định được các vấn đề của thân chủ cũng như trợ giúp thân chủ giải quyết vấn đề hay không là phụ thuộc vào tính chất mối quan hệ giữa NTV và thân chủ. Một mối quan hệ tin cậy sẽ tạo cho thân chủ cảm giác thoái mái và sự hợp tác tích cực với NTV.

Tạo được thiện cảm ban đầu với thân chủ là một yếu tố quan trọng để thiết lập quan hệ. Vì vậy, khi tiếp xúc với thân chủ, NTV cần chú ý đến các yếu tố dễ tạo ấn tượng như trang phục, cử chỉ điệu bộ, ánh mắt, nét mặt, giọng nói…

Trong buổi TV đầu tiên, điều cơ bản là giải thích cho thân chủ hiểu rõ tính chất hoạt động TV và NTV làm như thế nào để giúp đỡ mọi người vượt qua hoàn cảnh. Vì vậy, NTV cần nhấn mạnh những vấn đề sau với thân chủ:

Vai trò, trách nhiệm của mỗi bên

Một số nguyên tắc trong TV, trong đó nhấn mạnh đến nguyên tắc tôn trọng thân chủ, bí mật thông tin và các trường hợp ngoại lệ của việc giữ bí mật…

Khả năng tự giải quyết vấn đề của thân chủ.

Trong quá trình TV, yếu tố cơ bản để xây dựng được mối quan hệ tin cậy với thân chủ đó là thái độ và kỹ năng của NTV. NTV cần thể hiện rõ các thái độ chủ yếu trong TV: Quan tâm đến thân chủ; tôn trọng, không phán xét, lên án đạo đức; nhiệt tình; chân thành và thông cảm. Trong giai đoạn xây dựng mối quan hệ, NTV cần sử dụng nhiều hơn kỹ năng lắng nghe tích cực và thấu cảm. NTV cần lưu ý một cách chăm chú, cẩn thận khi thân chủ nói về những khía cạnh cảm xúc, tình cảm; giữ bình tĩnh, kiên trì khi thân chủ không hợp tác; theo dõi thân chủ qua giọng nói, biểu hiện nét mặt, điệu bộ, cách ngồi, cách dùng từ. Việc trò chuyện những vấn đề chung để tìm sự thoải mái, tin tưởng không nằm ngoài mục tiêu TV.

Đối với một số thân chủ, việc thiết lập quan hệ có thể mất một thời gian dài. Do đó, giai đoạn thiết lập mối quan hệ không chỉ diễn ra trong buổi gặp mặt đầu tiên mà nó có thể kéo dài vài buổi.

3.2.2. Tập hợp thông tin, xác định vấn đề và nhận ra thế mạnh của thân chủ

Sau khi thiết lập mối quan hệ với thân chủ, NTV cần sử dụng các kỹ năng TV để tập hợp các thông tin về thân chủ, các vấn đề của thân chủ cũng như một số thông tin liên quan khác, trên cơ sở đó NTV xác định rõ ràng các vấn đề của thân chủ để đề ra các mục đích phù hợp, định hướng cụ thể cho cuộc TV, tránh sa vào những chủ đề không có mục đích. Mặt khác, trong giai đoạn này, khi thu thập các thông tin về thân chủ, NTV cần xác định những mặt mạnh và hạn chế của thân chủ, điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng giải quyết vấn đề của thân chủ.

Khi phân tích bản chất vấn đề của thân chủ, NTV cần phải làm rõ nguyên nhân sâu xa của vấn đề. Muốn vậy, NTV cần tìm hiểu thêm các thông tin như hoàn cảnh gia đình, các mối quan hệ xã hội như bạn bè, tình trạng sức khỏe, cuộc sống trong quá khứ và hiện tại của thân chủ có liên quan đến vấn đề tâm lý của thân chủ. Khai thác suy nghĩ, cảm xúc của thân chủ trước các vấn đề là rất quan trọng, điều này có thể giúp NTV hiểu rõ nguồn gốc của vấn đề và phát hiện những vấn đề mới. Các câu hỏi NTV vấn cần sáng tỏ để hiểu về suy nghĩ, cảm xúc của thân chủ là:

- Thân chủ cảm thấy như thế nào?

- Thân chủ suy nghĩ như thế nào về vấn đề?

- Thân chủ có mong muốn gì?

- Thân chủ có ý định gì? …

Giai đoạn này, NTV có thể sử dụng các công cụ hỗ trợ để làm rõ hơn vấn đề của thân chủ như các trắc nghiệm tâm lý. Nếu cần làm sáng tỏ vấn đề của thân chủ từ các nguồn thông tin khác, NTV cần thông báo với thân chủ về những người quen mà NTV muốn gặp và những vấn đề cần hỏi thêm. Sau khi tập hợp các thông tin trên, NTV và thân chủ cùng đánh giá hoàn cảnh hiện tại, hợp tác để xác định phạm vi vấn đề cụ thể cần giải quyết. Nếu thân chủ có nhiều vấn đề thì cần phải xác định vấn đề chính của thân chủ là gì, đây chính là cơ sở để đưa ra hướng giải quyết ưu tiên.

Quá trình TV hướng tới thân chủ tự giải quyết vấn đề của chính mình dựa trên điểm mạnh của bản thân. Có thể khám phá các điểm mạnh của thân chủ ở các khía cạnh như: sự hỗ trợ xã hội (bạn bè, gia đình, người thân, GV…), năng lực nhận thức, điều chỉnh cảm xúc, tính độc lập tự chủ, niềm tin, sức khỏe thể chất, nhu cầu, sở thích, mong muốn… của thân chủ. Dựa vào những thông tin này, NTV xác định thế mạnh của thân chủ và hỗ trợ thân chủ lựa chọn giải pháp phù hợp với họ.

6

Page 7:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

3.2.3. Xác định kết quả

Mục đích của giai đoạn này là giúp thân chủ xác định một định hướng thiết thực cho vấn đề của thân chủ. Giai đoạn này có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp thân chủ và NTV xác định xem thân chủ muốn thay đổi cuộc sống của họ như thế nào. Mục đích và phương hướng của thân chủ và NTV cần phải hài hòa, hợp lý và thân chủ nên đóng vai trò chủ đạo trong việc thiết lập những mục tiêu này. Song không phải thân chủ nào cũng biết rõ họ mong muốn cái gì và yêu cầu được giúp đỡ. Để hỗ trợ thân chủ, NTV có thể hỏi:

- “Em muốn điều gì xảy ra?”

- “Nếu mọi chuyện xảy ra như em muốn thì sẽ như thế nào?”

- “Nếu em có 3 điều ước, em sẽ ước gì?” ...

3.2.4. Tìm kiếm, đề ra các giải pháp và kế hoạch thực hiện

Khi vấn đề và mục tiêu đã được làm sáng tỏ, NTV và thân chủ cần tìm kiếm và đề ra các giải pháp cho vấn đề của thân chủ và xây dựng kế hoạch thực hiện. Đây có thể là giai đoạn dài nhất trong quá trình tư vấn. NTV cần nhận thức rằng thân chủ có những suy nghĩ, nhận thức riêng và có thể đưa ra quyết định của bản thân. Một giải pháp mà NTV cho là “đúng đắn”, nhưng có thể thân chủ lại nghĩ không phù hợp với họ, điều quan trọng là NTV hỗ trợ thân chủ đưa ra các giải pháp phù hợp với nguyện vọng và hoàn cảnh của họ. Do đó, NTV không nên đưa ra các giải pháp cho thân chủ, mà hãy lắng nghe và dẫn dắt họ.

Mở đầu giai đoạn này, NTV có thể đặt câu hỏi: “Theo em có bao nhiêu cách để giải quyết vấn đề này?”hay “Em đã nghĩ giải pháp nào cho vấn đề này?” để thân chủ dễ dàng giải quyết vấn đề của họ, NTV cần chia vấn đề thành các bước nhỏ, có thể thực hiện được (Ví dụ: xác định nguyên nhân cụ thể của vấn đề, sau đó vạch ra các cách khác nhau để giải quyết từng nguyên nhân). Khi đã đề xuất được các giải pháp, cần giúp thân chủ tưởng tượng về tương lai và kết quả về mặt tinh thần của các lựa chọn thay thế có thể có ích cho họ; xác định rõ những điều cụ thể thân chủ có thể thực hiện để cải thiện tình hình của các em và đồng thời cùng với thân chủ đặt thứ tự ưu tiên cho các giải pháp khả thi.

Trong trường hợp thân chủ bế tắc, không đưa ra được các giải pháp thì NTV gợi ý cho họ lựa chọn giải pháp thông qua việc cung cấp thông tin (“Một số người trong hoản cảnh giống như em đã từng làm như thế này…”), phân tích cái mạnh, cái hạn chế của từng giải pháp, trên cơ sở đó thân chủ sẽ lựa chọn giải pháp phù hợp với họ.

NTV cần lưu ý là để thân chủ có quyền tự quyết định hướng đi của họ hay nói cách khác là để trách nhiệm giải quyết vấn đề cho thân chủ. Chỉ khi thân chủ ra quyết định cho giải pháp của họ thì họ mới có trách nhiệm thực hiện giải pháp và tham gia tích cực để đeo đuổi giải pháp đó, đồng thời qua đó phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề của thân chủ.

Kết quả của giai đoạn này là các giải pháp tối ưu đã được lựa chọn. NTV và thân chủ lập kế hoạch hành động để thực hiện giải pháp: xác định mục đích, mục tiêu, cách thức tiến hành, thời gian thực hiện, người chịu trách nhiệm... Thân chủ cần hiểu rõ trách nhiệm của họ là tích cực tham gia giải quyết vấn đề bằng cách thực hiện kế hoạch đã đặt ra. NTV động viên, khích lệ thân chủ thực hiện đúng bản kế hoạch.

Các kỹ năng cần thiết cho NTV trong giai đoạn này là: kỹ năng lắng nghe, kỹ năng thấu cảm… để củng cố mối quan hệ; kỹ năng luận giải nhằm đi sâu vào thế giới bên trong của thân chủ.

3.2.5. Đánh giá và kiểm soát

Trước khi thân chủ triển khai thực hiện các giải pháp, NTV phải kiểm soát để biết thực sự thân chủ đã có các mục tiêu cụ thể, rõ ràng để theo đuổi chưa. Bởi lẽ, trong thực tế, không ít thân chủ tham gia quá trình tư vấn nhưng không biết làm gì để thay đổi hành vi. Do đó, các mục tiêu xác định càng cụ thể càng tốt. Việc xác định mục tiêu cụ thể cho mỗi lần tư vấn cho thân chủ là rất hiệu quả.

Sau khi thân chủ triển khai kế hoạch thực hiện các giải pháp, NTV cần có sự đánh giá kết quả. Việc đánh giá dựa trên các mục tiêu đã đặt ra. Thân chủ đã giải quyết được vấn đề gì? Học được cái gì? Đã sử dụng nguồn lực hỗ trợ nào để đạt được kết quả như vậy? NTV cần ghi nhận những tiến bộ của thân chủ, dù là rất nhỏ, để động viên, khuyến khích thân chủ. Sự thay đổi của thân chủ không thể xảy ra sau một đêm, vì vậy, cần phải kiên nhẫn. Nếu thân chủ chưa hoàn thành nhiệm vụ thì không nên trách móc, mà cần tìm ra nguyên nhân và đưa ra hướng khắc phục cho thân chủ. Khi nhận thấy thân chủ đã kiểm soát được bản thân thì đây chính là thời điểm để kết thúc hoạt động tư vấn.

4. Lập hồ sơ tư vấn

Một hồ sơ tư vấn bao gồm các phần cơ bản sau:

4.1. Thông tin cá nhân

Những thông tin cá nhân như: họ và tên, giới tính, tuổi, trình độ văn hóa, địa chỉ thường trú…

4.2. Hoàn cảnh đến

7

Page 8:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

Thân chủ tự đến hay ai dẫn thân chủ đến, lý do thân chủ đến gặp NTV. NTV cần ghi lại cảm nhận về vẻ bề ngoài của thân chủ (thái độ, tâm trạng, diện mạo…).

4.3. Vấn đề của thân chủ

Trong phần này NTV cần mô tả các thông tin:

- Vấn đề hiện tại của thân chủ: những sự kiện xảy ra làm ảnh hưởng tới thân chủ, khiến thân chủ xin tư vấn; lịch sử của vấn đề; tính chất của vấn đề; các kết quả trợ giúp trước đây (nếu có); tình hình hiện tại của vấn đề; cảm nhận, suy nghĩ của thân chủ trước vấn đề…

- Hoàn cảnh gia đình, các mối quan hệ xã hội, tình hình sức khỏe, cuộc sống trong quá khứ và hiện tại của thân chủ có liên quan đến vấn đề tâm lý của thân chủ.

- Các kết quả thăm khám y khoa và đánh giá tâm lý (nếu có) thông qua các phương pháp phóng chiếu (vẽ tranh, kể chuyện…), trắc nghiệm tâm lý…

- Tóm lược và nhận xét của NTV về những thông tin thân chủ trao đổi để xác định hướng giải quyết vấn đề.

4.4. Quá trình giải quyết vấn đề

- Đánh giá các khả năng và hạn chế của thân chủ.

- Thứ tự các vấn đề cần giải quyết. Kết quả mong đợi trong từng vấn đề.

- Các giải pháp giải quyết từng vấn đề.

- Kết quả thực hiện giải quyết vấn đề của thân chủ.

- Đánh giá kết quả thực hiện.

4.5. Kết luận

- Nhận xét về cái được và cái chưa được trong việc thực hiện ca tư vấn.

- Điều cần làm để thay đổi, cải thiện, về phía NTV.

- Định hướng những việc cần quan tâm trong thời sau khi tiến hành tư đối với thân chủ.

5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tư vấn tâm lý cho học sinh

5.1. Yếu tố chủ quan (thuộc về NTV)

Yếu tố thuộc về NTV là những đặc điểm cá nhân của họ, bao gồm chuyên môn được đào tạo; kỹ năng thực hành, kinh nghiệm sống, quan điểm cá nhân, sự say mê, hứng thú với công việc. Yếu tố này có ảnh hưởng nhiều tới kết quả và sự thành công của hoạt động tư vấn.

5.1.1. Chuyên môn đào tạo: Đây là yếu tố có tính quyết định đến chất lượng hoạt động TV. Một người không thể làm tốt công tác TV nếu không được đào tạo bài bản và có kiến thức chuyên môn vững vàng. Khi có kiến thức đầy đủ, chúng ta không phải dò dẫm và tránh được sai lầm trong công việc.

5.1.2. Sự say mê, hứng thú: của người làm công tác TV được coi là yếu tố giữ vai trò quan trọng đối với thành công của hoạt động TV. Khi làm việc với sự say mê, hứng thú, con người sẽ dành sự tập trung cao độ cho công việc để mang lại hiệu quả cao nhất. Sự hứng thú đối với công việc giúp cá nhân sẽ tìm được cách thức giải quyết vấn đề nhanh nhất và có hiệu quả nhất.

5.1.3. Kỹ năng tư vấn: Kỹ năng được hình thành trên nền tảng kiến thức và việc vận dụng kiến thức đó vào giải quyết có hiệu quả các công việc trong cuộc sống. Trong công tác TV cũng vậy, sự trải nghiệm của người làm công tác này sẽ giúp cho họ có sự nhạy cảm, nhìn nhận vấn đề nhanh, chính xác và hỗ trợ học sinh tốt hơn. Mặt khác, học sinh cũng có cảm giác tin tưởng hơn vào NTV.

5.1.4. Giá trị và thái độ: Trong công tác TV, nếu NTV có định kiến hoặc thái độ phán xét đối với vấn đề học sinh gặp phải thì họ khó có thể hỗ trợ các em tìm ra giải pháp cho vấn đề đó. Giá trị và thái độ sẽ định hướng cách ứng xử của người làm công tác TV khi trao đổi và gỡ rối khó khăn của học sinh.

5.2. Yếu tố khách quan

Nhận thức về tư vấn: Nếu học sinh, cha mẹ và giáo viên nhận thức đúng và rõ ràng vai trò của TV tâm lý trong trường học thì sẽ ủng hộ và hợp tác chặt chẽ trong công tác này. Họ có thể cung cấp thông tin, đưa ra những nhận xét, dấu hiệu hành vi của học sinh đề từ đó NTV cân nhắc và lựa chọn và xác định rõ ràng hơn vấn đề học sinh gặp phải. Nếu không có sự hợp tác này thì việc TV sẽ gặp nhiều khó khăn, trở ngại.

6. Đặc điểm tâm lý học sinh dân tộc

8

Page 9:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

6.1. Đặc điểm tình cảm

6.1.1. Khái niệm tình cảm

Tình cảm là những thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối với những sự vật, hiện tượng có liên quan đến nhu cầu và động cơ của con người.

6.1.2. Những đặc điểm cơ bản của tình cảm

- Tính nhận thức: Tình cảm được nảy sinh trên cơ sở những xúc cảm của con người trong quá trình nhận thức đối tượng. Hay nói cách khác, yếu tố nhận thức, rung động và phản ứng cảm xúc là ba yếu tố làm nảy sinh tình cảm. Trong đó, nhận thức được xem là “cái lý” của tình cảm, nó làm cho tình cảm có tính đối tượng xác định.

- Tính xã hội: Tình cảm mang tính xã hội, thực hiện chức năng xã hội và được hình thành trong môi trường xã hội chứ không phải là những phản ứng sinh lý đơn thuần.

- Tính ổn định: Tình cảm là những thái độ ổn định của con người đối với hiện thực xung quanh và đối với bản thân. Chính vì vậy mà tình cảm là một thuộc tính tâm lý, một đặc trưng quan trọng của nhân cách con người.

- Tính chân thực: Tính chân thực của tình cảm được thể hiện ở chỗ, tình cảm phản ánh chính xác nội tâm thực của con người, ngay cả khi con người cố che dấu, ngụy trang bằng những động tác giả như giả vờ không buồn, nhưng thực ra lại rất buồn.

- Tính đối cực : Hay còn gọi là tính hai mặt, tính đối cực của tình cảm gắn liền với sự thỏa mãn nhu cầu của con người. Trong một hoàn cảnh nhất định, một số nhu cầu được thỏa mãn, còn một số nhu cầu lại bị kìm hãm hoặc không được thỏa mãn, tương ứng với điều này, tình cảm của con người được phát triển và mang tính đối cực : Yêu – ghét; Buồn – vui; Tích cực – tiêu cực;…

- Tính khái quát : Tình cảm có được là do tổng hợp hóa, động hình hóa, khái quát hóa những xúc cảm đồng loạt. Tính khái quát của tình cảm biểu hiện ở chỗ, tình cảm là thái độ của con người đối với cả một loại hay một phạm trù các sự vật, hiện tượng chứ không chỉ với từng sự vật, hiện tượng như lòng yêu nước, tình cảm gia đình, tình bạn,…

6.1.3. Đặc điểm tình cảm của HS dân tộc

HS dân tộc có đặc điểm tâm lý chung như những HS phổ thông khác. Song bên cạnh đó, các em cũng có những đặc điểm riêng như sau:

Tình cảm của các em HS dân tộc rất chân thực, mộc mạc, yêu ghét rõ ràng, không có hiện tượng quanh co. Tình cảm của các em rất thầm kính, ít bộc lộ ra ngoài. Chúng ta khó thấy HS dân tộc biểu lộ tình cảm của mình một cách rõ rệt, sôi nổi, mạnh mẽ. Sự biểu lộ tình cảm này tương đối ổn định, kèo dài đến các lứa tuổi sau, thậm chí cả trưởng thành.

Cuộc sống của các tộc người miền núi rất đặc biệt. Họ sống thành cụm dân cư hoặc sống lẻ từng gia đình. Vì thế, tình cảm gia đình của đồng bào các dân tộc rất sâu nặng. Các em HS rất gắn bó với gia đình, bản làng, quê hương. Hầu hết các em không muốn xa gia đình. Khi phải đi học xa như vào các trường DTNT, các em rất nhớ nhà, có em nằm khóc hàng tuần. Đã nhiều em trốn về thăm nhà. Thậm chí, có em phải đi tàu xe hàng trăm km và đi bộ hàng chục km chỉ để được ở nhà một buổi. Do đó, ngoài việc dạy học trên lớp thì cần phải tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao để thu hút các em tham gia vui chơi nhằm hình thành ở HS dân tộc tình cảm đối với bạn bè, thầy cô, trường lớp….

Tình cảm của HS dân tộc rất độc đáo, vài ba em cùng tuổi, họp tính, hợp nết chơi thân với nhau là kết bạn tri kỷ, đó là tình bạn dựa trên đặc điểm cùng tuổi, cùng cảnh và cùng học… và tình cảm đó có thể được các em giữ gìn đến hết cuộc đời. Người dân tộc thiểu số khi kết bạn tri kỷ thì họ thân nhau như anh em ruột. Họ phân thứ bậc và quy định tất cả những mối quan hệ như trong gia đình. Họ có trách nhiệm với nhau cả đời, sẵn sàng chia ngọt, sẻ bùi cho nhau. Việc kết bạn tri kỷ (người Tày gọi là “Lao tồng”) là một tập quán, một đặc điểm tình cảm đẹp từ xưa đến nay của các dân tộc Tày, Nùng và một số dân tộc khác.

Bên cạnh những ưu điểm của tình cảm bạn bè như nêu trên thì cũng có một vài hạn chế. Bởi vì khi các em đã thân nhau thì sẽ bảo vệ nhau đến cùng. Ví dụ, một em học sinh vi phạm, trong lớp nhiều bạn khác biết, nhưng khi GV hỏi thì cả lớp đều im lặng. Một tuần lẽ liền GV cho bỏ phiếu kín để tìm xem ai vẽ thì chỉ có một phiếu ghi là “bạn lớp trưởng biết”, còn lại đều ghi phiếu là “không biết”. Nhà trường gọi em lớp trưởng lên, ba ngày sau, em lớp trưởng mới chịu nói ra ai là người vi phạm. Do đặc điểm này nên GVCN các trường DTNT rất khó điều tra khi HS vi phạm đánh nhau, bỏ học, đi chơi điện tử, yêu đương hay các hiện tượng tiêu cực khác.

Học sinh lứa 12-18 là lứa tuổi có nhiều chuyển biến mạnh mẽ cả về thể chất vả tâm lý. Các em dễ có phản ứng mãnh liệt trước sự đánh giá thiếu công bằng của người lớn. Đôi khi các em có những phản ứng tiêu cực như bỏ học, tiếp tục đánh nhau, bỏ nhà… Các em sống bằng tình cảm và muốn giải quyết các vấn đề bằng tình cảm. Mỗi khi các em có khuyết điểm, nếu GV biết thuyết phục, giải quyết nhẹ nhàng, tình cảm và phân tích đúng sai cho các em thì hiệu quả giáo dục cao hơn. Nếu cứng nhắc dùng biện pháp đe dọa thì các em sẽ phản ứng lại mạnh mẽ.

9

Page 10:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

Một điều cần lưu ý nữa là lứa tuổi này các em bước vào tuổi dậy thì. Đối với HS khác sẽ là bình thường, nhưng đối với HS dân tộc, do ảnh hưởng của hoàn cảnh núi rừng, khí hậu mát mẻ, phong tục tập quán sớm gả chồng cho con gái, lấy vợ cho con trai của từng dân tộc, lại muốn có nhiều con để thêm người lao động… nên sự phát dục ở lứa tuổi này của HS dân tộc có đặc điểm riêng. Đời sống tinh thần của các em vốn phóng khoáng, ít căng thẳng nên tình yêu đôi lứa cũng nảy nở sớm. Bên cạnh đó, những tập tục về tình yêu lứa đôi, về cưới hỏi sớm cũng ảnh hưởng đến tình cảm khác giới của các em. Đôi khi các em nhận thức vấn đề này còn đơn giản, chưa phù hợp với đặc điểm phát triển tâm sinh lý của bản thân. Do đó, việc tư vấn, hỗ trợ tâm lý cho HS dân tộc là rất cần thiết nhằm giúp các em tránh được những hành vi không mong muốn và để lại những hậu quả đáng tiếc.

Các em HS dân tộc ở trường PT còn những nét ngây thơ, chưa nhận biết rõ ràng tình cảm và hành vi của mình, cũng như chưa biết xây dựng mối quan hệ với bạn khác giới. Do vậy, các em cần được giúp đỡ để hiểu đúng đắn về sự phát triển tình cảm, không làm cho các em e ngại, xấu hổ, bi quan dẫn đến bỏ học. Đây cũng là lứa tuổi có khó khăn về tâm lý, đặc biệt là vấn đề tình cảm. Tình cảm của các em còn mang tính bồng bột, dễ xúc động, dễ vui buồn…nếu bị trách mắng không đúng dễ gây ra sự tổn thương cho các em. Hoặc một lời phê bình của GV, hay bị yêu cầu nhận khuyết điểm một cách thô bạo… thì dễ nảy sinh những phản ứng khó lường từ HS. Do vậy, trong công tác giáo dục HS dân tộc, cần chú ý những điểm sau:

+ Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, tăng cường các hoạt động tập thể để giúp các em hòa đồng trong môi trường học tập mới;

+ Lưu ý trong đánh giá, nhận xét… về HS để tránh những phản ứng bột phát tiêu cực của các em;

+ Tạo sự say mê, hứng thú học tập, gắn bó với nhà trường cho HS bằng việc sử dụng các hình thức dạy học khác nhau, các hoạt động ngoại khóa văn thể lành mạnh....

6.2. Đặc điểm tính cách

6.2.1. Khái niệm

Tính cách là một thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, bao gồm một hệ thống thái độ của nó đối với hiện thực, và thể hiện trong hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng tương ứng.

- Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường dùng các từ “tính tình”, “tính nết”, “tư cách” để chỉ tính cách. Những nét tính cách tốt thường được gọi là “đặc tính”, “tấm lòng”, “tinh thần”,...Những nét tính cách xấu thường được gọi là “thói”, “tật”,...

- Tính cách mang tính ổn định và bền vững, tính thống nhất và đồng thời cũng mang tính độc đáo, riêng biệt, điển hình cho mỗi cá nhân. Vì thế, tính cách của cá nhân là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cái điển hình và cái cá biệt. Tính cách của cá nhân chịu sự chế ước của xã hội.

6.2.2. Đặc điểm của tính cách

+ Tính cách thuộc về bản chất cá nhân, mang nặng dấu ấn của chủ thể. Vì vậy, khi hiểu tính cách con người có thể đoán được cách cư xử của người ấy trong một tình huống cụ thể nào đó.

+ Tính cách không phải là bẩm sinh, di truyền, mà nó được hình thành trong quá trình sống và hoạt động, giao tiếp của con người với tư cách là một thành viên của xã hội.

+ Tính cách cá nhân phụ thuộc rất nhiều vào thế giới quan, niềm tin, lý tưởng và vị trí xã hội của người ấy.

- Những nét tính cách thể hiện thái độ của cá nhân đối với xã hội, đối với người khác, được thể hiện như sau :

+ Tinh thần tập thể: cá nhân coi mình là một bộ phận không thể tách rời của nhóm, của tập thể, từ đó tôn trọng tập thể, muốn tham gia vào công việc chung của tập thể.

+ Tính nhân đạo, đó là thái độ ân cần, thân ái với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ người khác khi cần, quan tâm, thông cảm với những người xung quanh, biết động viên, khuyến khích người khác.

- Các nét tính cách thể hiện thái độ của con người đối với hoạt động, đối với lao động, đối với công việc đang thực hiện :

+ Lòng yêu lao động, yêu công việc đang thực hiện, có nhu cầu hoàn thành công việc, tận tâm với công việc, và muốn hoàn thành sớm nhất công việc, có sáng kiến với công việc,…

+ Tính tiết kiệm, thái độ tôn trọng công cụ lao động, sản phẩm lao động, tôn trọng người lao động,…

- Thái độ đối với bản thân :

+ Khiêm tốn, hiểu rõ được thành tích của tập thể, của những người khác quan trọng hơn của cá nhân, không cố nhấn mạnh mặt trội của mình so với người khác, giản dị, tự nhiên trong giao tiếp với mọi người.

10

Page 11:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

+ Tự phê phán và yêu cầu cao đối với bản thân, tự trọng trên cơ sở ý thức được giá trị của bản thân.

6.2.3. Một số đặc điểm tính cách của HS dân tộc

Tính cách của HS dân tộc cũng có đặc điểm chung của tâm lý lứa tuổi, song cũng có một số đặc điểm tính cách riêng như sau:

Các em sống rất hồn nhiên, giản dị, thật thà, chất phác. Trong quan hệ với mọi người, các em rất trung thực, ít có sự gian dối. Các em thường nghĩ thế nào thì nói ra tương ứng, không có chuyện thêm bớt nội dung câu chuyện. Vốn mộc mạc, chân thành nên các em muốn mọi người cũng phải sống chân thành với các em. Các em muốn mọi người tôn trọng các em trong mọi trường hợp và không muốn ai xúc phạm mình.

Ví dụ: Ở một trường PTDTNT của một huyện, có một HS nữ đi thăm chị gái cách trường 10 km. Hôm đó là ngày chủ nhật. Đến sáng thứ hai, chi đoàn tổ chức lao động tập thể. Do chị gái bị ốm, em ở lại chăm sóc chị nên không về tham gia lao động được. Chiều thứ hai, em HS về gặp GVCN, chưa kịp xin lỗi, đã bị mắng em là vô kỷ luật, nói em là HS ‘cá biệt’ và yêu cầu em phải viết kiểm điểm để kỷ luật. Ba giờ sáng hôm sau, em trốn trường, đi bộ 5km ra bến xe đi về nhà... Trong tình huống này, nếu GV nhẹ nhàng hỏi lý do vì sao em không về lao động hoặc để HS trình bày lý do vắng mặt thì sự việc đã không diễn ra như vậy. Từ đó khiến em HS cho rằng GV không hiểu tình cảm của em dành cho chị gái, không thông cảm với hoàn cảnh của em. Vì thế GV kết luận oan cho mình, coi thường mình nên đã bỏ học.

Nét tính cách khác điển hình của HS dân tộc là rụt rè, ít nói, tự ti và ngại giao tiếp với người lạ. Nguyên nhân là do các em còn hạn chế về ngôn ngữ Tiếng Việt và ít có cơ hội giao tiếp xã hội và tham gia các hoạt động khác. Ngoài ra, do sự hiểu biết về kiến thức còn hạn chế, nói ra sợ sai, sợ thầy cô, các bạn chê cười nên các em rất ngại phát biểu ý kiến trong lớp. Sự tự ti, rụt rè khiến các em ngại va chạm, không dám đấu tranh với những biểu hiện sai trái của bạn bè xung quanh, đồng thời cũng không muốn ai động chạm đến mình. Chúng ta có thể thấy nét tính cách này của HSDT khi tiếp xúc lần đầu tiên với người lạ thì các em rất e ngại nói chuyện hoặc làm quen với người lạ, các em thường co cụm lại thành từng nhóm. Tuy nhiên, khi các em được tạo điều kiện tham gia các hoạt động tập thể, hoạt động giao lưu thì các em trở nên mạnh dạn hơn, và hòa đồng hơn với các bạn và mọi người xung quanh.

HS dân tộc có lòng tự trọng cao, đặc biệt là hay tự ái và tủi thân. Nếu HS cảm thấy không được tôn trọng, hoặc thái độ đối xử của GV không thân thiện, đe nẹt thì có thể dẫn đến việc HS sẽ bỏ học. Và trong nhiều trường hợp không chỉ có HS đó mà còn các bạn khác cũng sẽ bỏ học cùng. Ở trường DTNT, do HS chưa thích nghi với môi trường mới nên sinh hoạt chưa ngăn ngắp, chưa hợp vệ sinh. Ngoài ra, cách nói năng của HS cũng tự do, nói thiếu chủ ngữ là do thói quen của HS ở gia đình. Do đó cần hỗ trợ HS hòa nhập với cuộc sống mới và thực hành nội quy của trường DTNT.

Một đặc điểm tính cách quan trọng nữa của HS dân tộc là dễ tin người song cũng dễ nghi ngờ. Khi HS đã tin tưởng ai thì dường như không có bất cứ sự e ngại nào nữa. Tuy nhiên, nếu HS phát hiện ra bị lừa dối thì niềm tin đó không thể nào lấy lại được nữa. HSDT không ưa dối trá mà thường là thẳng thắn, chân thật. Khi đã tin và yêu quý ai thì sẵn sàng giúp đỡ người khác nhiệt tình.

6.3. Đặc điểm giao tiếp

6.3.1. Khái niệm

Giao tiếp là phương thức đặc biệt của mối quan hệ giữa con người với con người. Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người, qua đó con người trao đổi thông tin, biểu cảm, kích thích hành động và định hướng giá trị.

Nói cách khác, giao tiếp là quá trình xác lập mối quan hệ người – người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác.

Giao tiếp vừa mang tính chất xã hội, vừa mang tính chất cá nhân. Tính chất xã hội của giao tiếp được thể hiện ở chỗ, nó được nảy sinh, hình thành và phát triển trong xã hội và được sử dụng các phương tiện do con người làm ra, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tính cá nhân thể hiện ở nội dung, phạm vi, nhu cầu, phong cách, kỹ năng,…giao tiếp của mỗi người là khác nhau.

6.3.2. Đặc điểm giao tiếp của học sinh dân tộc

Trong giao tiếp, HSDT bộc lộ cảm xúc rõ rệt, song thiếu kỹ năng định vị. Khi giao tiếp với người thân, với bạn bè, các em đều thẳng thắn, bình đẳng, lời nói ít quan tâm đến chủ ngữ, hay nói trống không, với GV ít thưa gửi. Gặp người lạ, các em khó tiếp xúc, ngại trao đổi, chủ yếu là tò mò, quan sát. Kỹ năng định hướng trong giao tiếp của HSDT chưa được hình thành chắc chắn. Mặc dù sinh sống với nhiều dân tộc khác, song điều này không làm biến đổi nhiều về phong cách giao tiếp của HSDT.

Như vậy có thể thấy, trong giao tiếp, HSDT thường rụt rè, chưa mạnh dạn trong các hoạt động, chưa chủ động trong các mối quan hệ giao tiếp. Điều này cản trở sự tiếp xúc và thiết lập các mối quan hệ mới.

6.4. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh phổ thông và phổ thông dân tộc nội trú

11

Page 12:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

6.4.1. Học sinh THCS:

6.4.1.1. Các đặc điểm tâm sinh lý cần chú ý và những rối loạn có thể xảy ra với trẻ THCS:

Học sinh THCS DTNT có tuổi đời thiếu niên. Hiện nay, tuổi dậy thì của trẻ em ở đầu bậc THCS (em trai thường chậm hơn em gái 2 năm). Với hiện tượng dậy thì- một hiện tượng sinh lý trong phát triển, nhưng do liên quan đến biến đổi nội tiết nên cũng dễ dẫn đến các rối loạn, biến đổi “giao thời” trong đời sống tâm sinh lý của các em. Đối với tuổi thiếu niên, có một số các rối loạn tâm lý mang tính chất đặc trưng. Nếu như có rối loạn phát triển tâm lý từ trước, thì đến tuổi thiếu niên, chúng cũng sẽ có những biến đổi nhất định.Tuổi thiếu niên ở trong khoảng từ 11- 14 tuổi (2 năm). Đây là thời gian xảy ra rất nhiều các biến đổi ở các mức độ khác nhau trong cơ thể trẻ; sự hình thành nhân cách được hoàn thiện. Ở góc độ nội tiết, sự hoạt hóa của tuyến yên, của các tuyến sinh dục, của tuyến thượng thận được tăng cường, dẫn đến sự tăng trưởng mạnh về chiều cao, trọng lượng cơ thể, các dấu hiệu sinh dục phụ xuất hiện. Tuy nhiên, người lớn (cha mẹ, thầy, cô giáo, người nuôi dưỡng trẻ) phải ý thức rằng, những phát triển trong cơ thể trẻ lúc này diễn ra chưa đồng bộ và với diện mạo “to cao” bên ngoài như vậy, các em vẫn chưa là người lớn thực thụ về tất cả các chức năng trong cơ thể. Về trí tuệ, ở giai đoạn lứa tuổi này, tiếp tục diễn ra sự phát triển của trí nhớ, đặc biệt trí nhớ ý nghĩa, chú ý có chủ định, và vận động, tư duy lôgic và trừu tượng cũng phát triển mạnh. Trẻ- thiếu niên hoàn toàn có khả năng tiếp thu các khái niệm Toán học, Vật lý học và Triết học trừu tượng.

Mặt khác, sự thay đổi trong lĩnh vực động cơ của nhân cách cũng diễn ra cùng với động cơ học tập( động cơ số 1), nhu cầu trong giao tiếp bạn bè, việc lĩnh hội các chuẩn mực và giá trị môi trường của thiếu niên cũng bắt đầu diễn ra. Trong quan hệ với cha mẹ, xuất hiện các dấu hiệu từ phản ứng, muốn thoát khỏi sự áp đặt quan điểm của người lớn về các vấn đề khác nhau đến việc bỏ trốn khỏi nhà. Liên quan tới việc hình thành tính tích cực nhân cách trong giai đoạn này là việc đẩy nhanh tính chất mạnh mẽ trong hình thành  các đặc điểm nhân cách ở trẻ. Chính sự đẩy nhanh tốc độ cả về cơ thể lẫn nhân cách là bước chuyển từ trạng thái trẻ em sang người lớn. Sự phụ thuộc vào cha mẹ và người lớn dần phải được thay thế định hướng cho trẻ hướng tới tương lai của chính bản thân nó. Sự chuyển dịch này đưa ra yêu cầu khá cao không chỉ đối với hệ thần kinh trung ương, mà cả hệ thống giá trị, chuẩn mực, niềm tin vốn đã được hình thành trước đó ở trẻ.

Với những trẻ thiểu năng trí tuệ mức nhẹ, vào tuổi thiếu niên, việc định hướng cuộc sống, các kỹ năng tự phục vụ và lao động được cải thiện. Tuy nhiên, một số chức năng vào lúc này cũng không thể được bù trừ, chẳng hạn như thoát khỏi ức chế tình dục, xâm kích hay thích tham gia vào các nhóm thiếu niên lịch lãm với tư cách là thành viên. Với trẻ phát triển theo kiểu nhi tính, chậm phát triển tâm lý có thể được bù trừ, nhưng nhân cách, cũng như động cơ vẫn không thoát khỏi nhi tính.Còn với trẻ thiếu niên, nhi tính do căn nguyên tâm sinh lý thì chậm phát triển tốc độ chín muồi sinh dục vẫn diễn ra. Ở các thiếu niên có tổn thương thực thể hệ thần kinh trung ương các rối loạn trí tuệ có thể được phục hồi tương đối, nhưng hiện tượng mệt mỏi và rối loạn hành vi lại tăng cường. Nếu trẻ bị động kinh từ nhỏ, và không được điều trị kịp thời, thì vào tuổi thiếu niên, các khiếm khuyết trí tuệ, sự thay đổi nhân cách, biểu hiện sự dữ tợn, càng tăng hơn.

6.4.1.2. Những nét tính cách tăng đậm (NTCTĐ): Đây là hiện tượng thường gặp ở trẻ THCS, là các nét của tính cách được tăng cường có phần tăng đậm  thái quá.

Rơi vào hiện trạng này, ở trẻ thiếu niên xuất hiện tính nhạy cảm tăng cường với một số các tác động gây chấn thương tâm lý xác định, trong khi lại ổn định với các tác động khác. Tính cách phát triển mạnh theo nhiều kiểu khác nhau, mỗi kiểu trong đó đều để lại dấu vết về điểm yếu của mình và đó cũng là dấu hiệu để phân biệt các dạng  phát triển tính cách  tăng đậm.

Sự phát triển tính cách tăng đậm thường bộc phát ở tuổi thiếu niên, vào giai đoạn hình thành tính cách và theo bám tương đối chặt chẽ với các giai đoạn phát triển tiếp theo của trẻ. Các nghiên cứu về sự phát triển tính cách tăng đậm đầu tiên là của K.Lêôngarđô, A.E.Litrcô, A.A.Alêcxanđrôv và các tác giả khác. Tần suất hiện diện của các nét tính cách này cũng khác nhau ở thiếu niên: từ 42% đến 62%  học sinh trong các nhà trường phổ thông bình thường; 66% trong số trẻ có hành vi lệch chuẩn, và 87% - trẻ phạm pháp.

Tính cách phát triển tăng đậm không phải là bệnh lý, mà là các phương án phát triển bình thường nhưng rất dễ dẫn đến các hành vi lệch chuẩn và lâu dài, nếu không được chỉnh trị hoặc uốn nắn sẽ dẫn đến các bệnh thái nhân cách (và lúc đó đòi hỏi phải có sự tham gia, can thiệp của các nhà tâm thần học).

Có 3 đặc điểm để nhận dạng về NTCTĐ, đó là: xuất hiện chủ yếu vào tuổi thiếu niên, chỉ xuất hiện vào các tình huống cụ thể, không gây cản trở đến việc thích nghi xã hội (có khả năng trở về chuẩn bình thường). Có các dạng phát triển NTCTĐ sau đây:

+ NTCTĐ dạng 1: Trẻ có khí sắc tốt, trương lực cuộc sống cao, khó kiềm chế được tính tích cực hoạt động. Những trẻ này có tính hướng ngoại cao, có khát vọng trở thành các thủ lĩnh không chính thức trong nhóm bạn bè. Tính linh hoạt cao của các quá trình thần kinh làm cho trẻ dễ thích nghi với môi trường mới, luôn luôn thay đổi. Tự đánh giá của trẻ cao hơn so với bản thân, kế hoạch cho tương lai tương đối khả quan nhưng rất hay thay đổi, có khuynh hướng bỏ công việc, không hoàn thành công việc đến cùng.

12

Page 13:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

Sự rối loạn thích nghi nảy sinh khi bắt những đứa trẻ này vào sinh hoạt theo chế độ, đòi hỏi phải tuân thủ về giờ giấc... nhất định, yêu cầu chúng phải đơn độc thực hiện các công việc buồn tẻ. Trẻ sẽ bỏ việc và các rối loạn hành vi sẽ xuất hiện. Trẻ dễ bị rơi vào các nhóm bạn có hành vi chống đối xã hội.

+ NTCTĐ dạng 2: Đặc trưng là sự dao động khí sắc ngắn hạn (1- 2 tuần) từ hưng đến trầm cảm. Nếu vào pha trầm cảm, sẽ quan sát thấy sự giảm sút khả năng làm việc, mất hứng thú với việc học hành, với mọi ham mê, với nhóm bè bạn. Những thất bại hay những mâu thuẫn dù nhỏ nhặt cũng làm cho trẻ day dứt mạnh và đôi khi dẫn đến suy nghĩ tự buộc lỗi về mình  hoặc do bản thân chưa hoàn thiện. Vào pha cảm xúc này, mọi thay đổi định hình của cuộc sống (chuyển nhà, chuyển trường...) đều gây khó chịu cho trẻ. Còn khi rơi vào pha hưng cảm, trẻ có những đặc điểm giống như trẻ có tính cách dạng 1. Tự đánh giá có tính mâu thuẫn cao: tự đánh giá lúc thì cho rằng mình là người tích cực, lúc lại là người thụ động, cho mình là người cởi mở, đồng thời cũng là người thu mình, khép kín. Khi được hỏi, phỏng vấn sâu, tỷ mỷ, sẽ quan sát thấy hiện tượng thay đổi thất thường của khí sắc.

+ Dạng tính cách dễ bị thay đổi (bẻ vỡ): Đặc điểm chính là tính cực kỳ hay biến đổi của khí sắc, thậm chí vài lần trong ngày do những cớ không đâu, mà người bình thường bên ngoài không cảm nhận thấy. Trẻ dạng này cảm nhận chính xác thái độ của mọi ngườì xung quanh với chúng và tập trung, định hướng vào đó. Trẻ đòi hỏi cao sự đồng cảm, sự cùng trải nghiệm của người thân với nó. Trẻ không có khát vọng trở thành thủ lĩnh của nhóm, luôn hướng tới những quan hệ tình cảm thân thiện với nhóm nhỏ bạn bè. Sự hắt hủi về tình cảm từ phía người thân hoặc sự mất đi người nào đó của họ là những dấu ấn khó có thể bù đắp. Do không thể bù trừ những nỗi đau trên, nên trong hành vi thường thể hiện sự tăng cường tính dễ thay đổi của tình cảm, khóc lóc, giảm sút khí sắc, khả năng xảy ra tự sát, việc bỏ nhà đi hoàn toàn có thể xảy ra.

+ Dạng tính cách nhạy cảm: Có 2 đặc điểm nổi bật là ấn tượng mạnh và khả năng tự đánh giá giảm sút. Trong hoàn cảnh lạ, không quen biết, trẻ hay thu mình, lo sợ. Giao tiếp với người không quen rất hình thức, hời hợt, nhưng với người quen thì rất cởi mở, vui vẻ. Khi tự đánh giá, trẻ dạng này hay tìm ra các khiếm khuyết của bản thân, đặc biệt là các phẩm chất ý chí. Trẻ không chấp nhận những tình huống buộc lỗi cho chúng không đúng, những quan tâm không có tình người của người thân xung quanh. Những điều tệ hại trên dễ  làm cho trẻ rơi vào trạng thái trầm cảm và rối nhiễu hành vi.

+ Dạng tính cách suy nhược tâm lý: Đặc trưng là tính không quyết đoán, có khuynh hướng thích tranh luận (tranh luận lâu và không đi đến kết cục), hay nghi ngại cho tương lai của mình và cho người thân, có khuynh hướng tự phân tích. Tính lưỡng lự càng thể hiện mạnh trong các tình huống phải đưa ra sự tự lựa chọn (chẳng hạn như bầu lớp trưởng hay bí thư chi đoàn...trong nhóm bạn bè cùng lớp). Khi sợ hãi tăng, rất dễ xảy ra sự quấy nhiễu và việc thực hiện các lễ nghi không cần thiết. Tự đánh giá có phần thấp, đôi khi chứa đựng cả mâu thuẫn không chỉ gồm những nét tính cách có trong thực tế mà thể hiện cả những gì mong muốn.

+ Dạng tính cách suy nhược- loạn thần kinh chức năng: Đặc điểm nổi bật là sự mệt mỏi tăng cao, luôn trong trạng thái bị kích thích, luôn lo sợ về tình trạng sức khỏe của bản thân. Sự mệt mỏi đôi khi chỉ xuất hiện trong tình huống làm các công việc trí óc, hay trong các cuộc đua ( thể thao...). Trẻ dạng này khó đáp ứng được với các yêu cầu như nhất thiết phải đạt được thành tích cao trong học tập hay trong các cuộc thi. Khi mệt mỏi, có thể quan sát thấy các biểu hiện dễ bị kích thích do các nguyên nhân vô cớ; sự lo sợ cho trạng thái sức khỏe cũng tăng cường dẫn đến loạn thần kinh chức năng.

+ Dạng tính cách kiểu tâm thần phân liệt: Đặc trưng là tính thu mình và thiếu linh cảm trong giao tiếp. Rất khó khăn trong việc thiết lập các mối quan hệ cho dù chỉ là quan hệ hình thức, đặc biệt với bạn bè cùng trang lứa. Thế giới nội tâm của trẻ luôn đóng chặt với mọi người xung quanh và chất đầy các huyền thoại, các đam mê.

Các tình huống khó vượt qua hơn cả liên quan đến việc cần thiết phải xác lập các quan hệ tình cảm xã giao hoặc khi cha mẹ, GV muốn tìm hiểu về thế giới nội tâm của trẻ, hoặc hạn chế các đam mê của chúng. Tự đánh giá tương đối phù hợp. Không có biểu hiện rối loạn tư duy.

+ Dạng tính cách kiểu động kinh: Đặc trưng là sự tích lũy dần dần các kích thích rồi đi tìm các đối tượng để trút bỏ mọi tức giận lên đó. Có thể xảy ra  tình trạng khí sắc giận dữ, buồn rầu. Bùng nổ cảm xúc xảy ra thường xuyên và kéo dài. Tính thích làm thủ lĩnh thể hiện ở việc hay chỉ đạo công việc cho các bạn đồng trang lứa. Tính ỳ của các quá trình tâm lý biểu hiện ở tất cả mọi hoạt động. Để bù trừ tính ỳ chậm luân chuyển, có thể dẫn đến sự cầu kỳ, cố chấp, Có khuynh hướng ngăn nắp, gọn gàng thái quá.

+ Dạng tính cách kiểu hysteria: Đặc trưng là khát khao được mọi người quan tâm, được thán phục, là trung tâm của mọi sự chú ý. Biểu hiện có tính phô trương, biểu diễn ra bên ngoài không thường xuyên đồng nhất với cảm xúc. Trẻ thuộc dạng này luôn gặp thấy đầy ắp, thừa thãi những mơ mộng hão huyền, như là một hình thức khêu gợi sự chú ý tới bản thân. Trường hợp trẻ khó có thể vượt qua là sự phủ nhận những nét tính cách phô trương của chúng từ phía người thân hay bạn bè cùng lứa và được thể hiện dưới dạng rối loạn hành vi như tự nói chuyện với bản thân, hoặc tự bỏ nhà đi trước mặt người thân.

13

Page 14:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

+ Dạng tính cách không bền vững: Đặc điểm chính là luôn luôn có khát vọng với mọi sự tiêu khiển, với sự thỏa mãn, và sự thay đổi các cảm xúc. Khi cần phải thực thi một nhiệm vụ nào đó, hoặc phải đạt được một mục đích nào đó (do cha mẹ đặt ra chẳng hạn) sẽ thấy xuất hiện tính thiếu kiên trì. Những đứa trẻ nhóm này thường dễ rơi vào các nhóm “tế nhị”, khó xử, mà ở đó, chúng luôn chỉ giữ vị trí tuân thủ. Đứa trẻ thường thờ ơ với tương lai của chúng, không có khả năng dự báo về các tình huống phát triển tiếp theo. Tình huống khó khăn thể hiện rõ nhất và hành vi biểu hiện bị rối loạn khi trẻ không được theo dõi chặt chẽ hoặc trong các cuộc dạo chơi lang thang, không mục đích.

+ Dạng tính cách kiểu a dua: Trẻ, thiếu niên dạng này luôn có xu hướng thích nghi tuyệt đối với môi trường xung quanh. Chúng sống theo nguyên tắc: suy nghĩ “theo mọi người”, hành động “như mọi người”, không nên tách mình khỏi bạn bè. Điều tồi tệ sẽ xảy ra nếu trẻ rơi vào môi trường khó xử. Trẻ sẽ rất khó thích nghi với môi trường mới, phải chuyển đổi các định hình của cuộc sống đã có trước đây. Những suy luận để đi đến đánh giá chỉ có thể có được khi dựa vào ý kiến của người khác.

+ Dạng tính cách hỗn hợp: ở đây sẽ có sự xuất hiện những nét tính cách mới với cấu trúc phức tạp và theo qui luật riêng.

Sự phát triển tính cách mạnh mẽ thái quá của trẻ trong các tình huống  không thuận lợi đều có thể phát triển xấu và chuyển thành bệnh thái nhân cách. Quá trình này ở thiếu niên diễn ra phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện giáo dục, hoàn cảnh gia đình, sự cố gắng của chính bản thân đứa trẻ (vươn lên tự điều chỉnh và điều chỉnh các đặc điểm nhân cách chưa phù hợp của mình). Do ở tuổi thiếu niên, cơ chế bù trừ chức năng thường hình thành chưa đầy đủ, nên dễ dẫn đến các hành vi lệch lạc. song nếu được quan tâm đầy đủ và được giáo dục tế nhị thì mọi lệch lạc đều có thể được điều chỉnh và đứa trẻ hoàn toàn có cơ hội phát triển bình thường ở những giai đoạn phát triển tiếp theo.

6.4.1.3. Xây dựng mối quan hệ thầy - trò từ hiểu biết về tâm sinh lý học sinh THCS:

Những đặc điểm tâm sinh lý đặc trưng ở lứa tuổi thiếu niên được mô tả ở trên cho thấy, lứa tuổi này, đúng như nhận định của nhiều nhà nghiên cứu trước đây, là lứa tuổi khó dạy. Nhưng cũng như các khuyến cáo đã đưa ra, trẻ sẽ phát triển bình thường hay không trong tương lai phụ thuộc vào chính sự quan tâm và cách giáo dục của người lớn với trẻ. Vấn đề chỉ thực sự được giải quyết kết hợp từ nhiều phía: nhà trường, gia đình, xã hội. Với tư cách là nơi giáo dục (theo nghĩa rộng) chính thống cho trẻ- nhà trường, mà cụ thể là các thầy cô giáo cần biết về sự phát triển của học sinh, vận dụng chúng trong giao tiếp, trong giải quyết các vấn đề liên quan đến các sản phẩm giáo dục của mình. Có như vậy, quan hệ thầy – trò mới trở thành nền tảng vững chắc, để từ đó xây dựng các lâu đài đầy ắp tri thức.

6.4.1.4. Đối với học sinh THCS DTNT:- GV cần quan tâm tìm hiểu tính đặc thù văn hóa của đồng bào dân tộc để có biện pháp tâm lý phù hợp.

- Ngoài các đặc điểm tâm sinh lý chung của lứa tuổi THCS, học sinh PTDTNT còn có đặc điểm riêng: Trong quan hệ cộng đồng, quan hệ xã hội, các em coi trọng tín nghĩa, thẳng thắn, yêu ghét rạch ròi, các em yêu lao động, quý trọng tình thầy trò, tình bạn trung thực, gắn bó, trong học tập và rèn luyện ở môi trường nội trú phần lớn các em có tâm lý tự ti, mặc cảm, hay đôi khi có tính tự ái dân tộc khá cao, tính cách này thể hiện nhiều trong các sinh hoạt tập thể vui chơi giải trí. Vì là học sinh dân tộc thiểu số đến từ các vùng miền khác nhau, thành phần dân tộc khác nhau, có ngôn ngữ, phong tục tập quán sinh hoạt riêng, hơn nữa, khả năng tư duy và nhận thức có mặt hạn chế nên còn tư tưởng ngại học, sợ học; các em thường thích sống tự do, không thích bị ràng buộc bởi nền nếp, quy định tập thể, nhiều thói quen chưa tốt như tác phong lề mề, chậm chạp, thiếu ngăn nắp. Tình cảm của học sinh dân tộc thiểu số thầm kín, ít biểu hiện ra ngoài một cách mạnh mẽ, khi hòa nhập với cuộc sống tập thể các em còn bỡ ngỡ, lúng túng.

Tóm lại, học sinh ở lứa tuổi THCS tâm lý có nhiều biến đổi, tình cảm và diễn biến nhanh, phức tạp. chưa sâu sắc và không bền vững. Bên cạnh đó mỗi cá nhân lại có những đặc điểm riêng về tâm, sinh lý, có vốn sống riêng của mình nên trong quá trình giáo dục học sinh các thầy, cô giáo phải nắm bắt được tâm lý học sinh, hiểu biết về phong tục tập quán đặc trưng của mỗi dân tộc, mỗi địa phương các em sinh sống để từ đó lựa chọn hình thức, phương pháp tổ chức hoạt động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất, khơi dậy hứng thú và phát huy được năng lực của học sinh.

6.4.2. Học sinh THPT:

Lứa tuổi học sinh THPT là ở tuổi thanh niên từ 15,16 đến 17,18 tuổi (hoặc có thể lớn hơn 1-2 tuổi), là “thế giới thứ ba” tồn tại giữa trẻ em và người lớn, các em có cơ thể phát triển cân đối, khỏe đẹp, đa số các em có thể đạt được những khả năng về cơ thể như người lớn (xương được hoàn thiện; sức mạnh cơ bắp tăng rất nhanh; cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng não phát triển; cấu trúc của tế bào bán cầu đại não có những đặc điểm cấu trúc não người lớn; số lượng dây thần kinh liên hợp, liên kết các phần khác nhau của vỏ não được tăng lên). Hoạt động trí tuệ của các em có thể phát triển tới mức cao, tư duy ngôn ngữ và những phẩm chất ý chí có điều kiện phát triển mạnh, ở lứa tuổi này các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo hơn. Thái độ của học sinh đối với việc học tập cũng có những chuyển biến rõ rệt, các em ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời tự lập. Sự tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của học sinh THPT, có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của lứa tuổi này. Biểu hiện của sự tự ý thức là nhu cầu tìm hiểu và tự đánh giá những đặc

14

Page 15:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

điểm tâm lý của mình theo chuẩn mực đạo đức của xã hội, theo quan điểm về mục đích cuộc sống… Điều đó khiến các em quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, những phẩm chất nhân cách và năng lực riêng. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội tương lai. Các em không chỉ chú ý đến vẻ bên ngoài mà còn đặc biệt chú trọng tới phẩm chất bên trong. Các em có khuynh hướng phân tích và đánh giá bản thân mình một cách độc lập dù có thể có sai lầm khi đánh giá. Ý thức làm người lớn khiến các em có nhu cầu khẳng định mình, muốn thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn người khác quan tâm, chú ý.

Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi quyết định sự hình thành thế giới quan của bản thân, về các nguyên tắc, quy tắc ứng xử và xác định được ý nghĩa của cuộc sống, các em quan tâm nhiều đến những vấn đề có liên quan đến con người, quyền và nghĩa vụ của thanh niên.

Đời sống tình cảm ở lứa tuổi này rất đa dạng, phong phú, nhu cầu về tình bạn tâm tình cá nhân được tăng lên rõ rệt, quan hệ bạn bè được mở rộng và xuất hiện tình bạn khác giới. Các em coi tình bạn là những mối quan hệ quan trọng nhất của con người do vậy tình bạn của học sinh trung học phổ thông khá bền vững. Đây là lứa tuổi phát triển rất phong phú: xuất hiện tình cảm lớn đối với quốc gia, dân tộc, có lòng nhân ái, sống tình nghĩa, có khát vọng hướng đến cái Chân-Thiện-Mỹ; muốn tỏ rõ vai trò của người lớn và tích cực tham gia vào các phong trào của tập thể đặc biệt là hoạt động văn thể mỹ; có khả năng giao lưu phong phú, phóng khoáng, hào hiệp, nhiệt tình, hăng hái trong công việc.

Là lứa tuổi giàu ước mơ, hoài bão nhưng bị phân hóa bởi khả năng học tập của bản thân nên có những định hướng khác nhau. Một số có ý chí quyết tâm học tập để đạt mục đích tốt nghiệp THPT và thi đỗ vào đại học để tiến thân, lập nghiệp, phần nhiều các em mong muốn tốt nghiệp THPT và thi đỗ vào các trường cao đẳng chuyên nghiệp, cao đẳng nghề để lập nghiệp, một số khác có ước muốn phát triển năng khiếu của mình để hòa nhập vào cộng đồng nhằm khẳng định vị trí của mình trong xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh mặt tâm lý tiến bộ lứa tuổi này vẫn bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục như: có xu hướng thực dụng, đua đòi, dễ bị lôi cuốn, sa ngã vào tệ nạn xã hội, nhạy cảm và hiếu động, thiếu kinh nghiệm sống và khả năng tự kiềm chế.

Ngoài các đặc điểm tâm sinh lý chung của lứa tuổi THPT, học sinh PTDTNT còn có đặc điểm riêng: Khác với HS THCS, ở lứa tuổi này về thể lực học sinh dân tộc thiểu số có phần trội hơn học sinh người kinh. Còn lại, các tính cách của các em cũng như HSDTNT bậc THCS; trong quan hệ cộng đồng, quan hệ xã hội, các em coi trọng tín nghĩa, thẳng thắn, yêu ghét rạch ròi, các em yêu lao động, quý trọng tình thầy trò, tình bạn trung thực, gắn bó, trong học tập và rèn luyện ở môi trường nội trú phần lớn các em có tâm lý tự ti, mặc cảm, hay đôi khi có tính tự ái dân tộc khá cao, tính cách này thể hiện nhiều trong các sinh hoạt tập thể vui chơi giải trí. Vì là học sinh dân tộc thiểu số đến từ các vùng miền khác nhau, thành phần dân tộc khác nhau, có ngôn ngữ, phong tục tập quán sinh hoạt riêng, hơn nữa, khả năng tư duy và nhận thức có mặt hạn chế nên còn tư tưởng ngại học, sợ học; các em thường thích sống tự do, không thích bị ràng buộc bởi nền nếp, quy định tập thể, nhiều thói quen chưa tốt như tác phong lề mề, chậm chạp, thiếu ngăn nắp. Tình cảm của học sinh dân tộc thiểu số thầm kín, ít biểu hiện ra ngoài một cách mạnh mẽ, khi hòa nhập với cuộc sống tập thể các em còn bỡ ngỡ, lúng túng.

Tóm lại, học sinh ở lứa tuổi này dồi dào về thể lực, phong phú về tinh thần, biến đổi về tâm lý, tình cảm. Tuy nhiên đây cũng là thời kỳ nhận thức và hiểu biết các phẩm chất, nhân cách sâu sắc hơn. Bên cạnh đó mỗi cá nhân lại có những đặc điểm riêng về tâm, sinh lý, có vốn sống riêng của mình nên trong quá trình giáo dục học sinh các thầy, cô giáo phải nắm bắt được tâm lý học sinh, hiểu biết về phong tục tập quán đặc trưng của mỗi dân tộc, mỗi địa phương các em sinh sống để từ đó lựa chọn hình thức, phương pháp tổ chức hoạt động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất, khơi dậy hứng thú và phát huy được năng lực của học sinh.

15

Page 16:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

Chuyên đề 2 Các kỹ năng tư vấn,

hỗ trợ tâm lý cho học sinh, học sinh dân tộcMục tiêu

Cung cấp cho người học những kỹ năng tư vấn tâm lý cơ bản. Vì vậy, người học cần đạt được:

Kiến thức

- Hiểu được nội dung các kỹ năng tư vấn tâm lý cho học sinh.

Thái độ

- Luôn tích cực vận dụng kỹ năng đã học trong công tác tư vấn, hỗ trợ tâm lý cho học sinh, học sinh dân tộc.

Ký năng

- Vận dụng thành thạo các kỹ năng tư vấn tâm lý trong việc hỗ trợ học sinh giải quyết các khó khăn

Để có thể hỗ trợ tâm lý cho học sinh, ngoài việc trang bị kiến thức, các nguyên tắc trong tư vấn thì một nội dung quan trọng là hình thành ở giáo viên các kỹ năng tư vấn cơ bản cần thiết sau đây:

1. Kỹ năng tư vấn

2. Kỹ năng lắng nghe tích cực

3. Kỹ năng hỏi

4. Kỹ năng phản hồi

5. Kỹ năng thấu cảm

6. Kỹ năng dẫn dắt giải quyết vấn đề

Phần dưới đây sẽ trình bày chi tiết từng kỹ năng nêu trên.

1. Kỹ năng tư vấn là gì?

Kỹ năng tư vấn có thể được hiểu là sự vận dụng tri thức chuyên môn, kinh nghiệm của bản thân, kết hợp với kỹ năng và nguyên tắc của người tư vấn nhằm tạo lập mối quan hệ hợp tác với người có khó khăn tâm lý cần sự hỗ trợ. Qua đó giúp họ nhận thức được vấn đề, hiểu được sức mạnh của bản thân, cân nhắc các điều kiện hiện tại để đưa ra cách giải quyết vấn đề một cách có hiệu quả.

2. Kỹ năng lắng nghe tích cực

2.1. Thế nào là lắng nghe tích cực

Lắng nghe là một kỹ năng giao tiếp cơ bản, quan trọng trong cuộc sống nói chung và tư vấn nói riêng. Tục ngữ Việt Nam có câu “Nói là gieo, nghe là gặt”.

Quá trình tư vấn đòi hỏi NTV phải thấu hiểu những cảm xúc, suy nghĩ cũng như vấn đề và con người của thân chủ, để làm được điều đó, trước hết nhà tham vấn phải có kỹ năng lắng nghe. Không biết lắng nghe thì không thể trở thành NTV. Vậy lắng nghe là gì? nghe và lắng nghe có khác nhau không? Để hiểu rõ điều này, chúng ta hãy làm bài tập sau đây: Nhắm mắt lại 1 phút. Chúng ta nghe được gì? Những gì chúng ta nghe được gọi là nghe thấy. Nghe thấy là quá trình sóng âm đập cơ quan thính giác của chúng ta. Lúc chúng ta ngủ, quá trình đó vẫn xảy ra.

Bây giờ chúng ta hãy làm bài tập thứ hai: Nhắm mắt lại và cố nghe xem người ở phòng bên cạnh đang nói gì?Đây chính là quá trình lắng nghe. Quá trình này nối tiếp ngay sau quá trình nghe thấy. Nó biến đổi sóng âm thanh thành ngữ nghĩa. Quá trình này cần sự tập trung và chú ý rất cao.

Như vậy, nghe và lắng nghe là hai hoạt động hoàn toàn khác nhau. Nghe là một chức năng tự động có tính chất vật lý. Khi bạn nghe một số từ không nhất thiết là bạn đang lắng nghe. Lắng nghe đòi hỏi sự tập trung tổng hợp; nó là sự tìm kiếm về nghĩa tích cực. Lắng nghe một cách hiệu quả là lắng nghe như thể bạn là một thầy thuốc đang bắt mạch, chẩn đoán bệnh cho bệnh nhân hay thậm chí như thể bạn là một phi công đang tiếp xúc với đài kiểm soát mặt đất trong một cơn bão vậy. Có thể nói rằng kỹ năng lắng nghe là kỹ năng tập trung chú ý để giải mã sóng âm thanh thành ngữ nghĩa, quá trình này đòi hỏi sự nỗ lực của ý thức và ý chí rất lớn.

Lắng nghe tích cực trong tư vấn là sự tập trung chú ý đến lời nói, tâm trạng, các cảm xúc ẩn chứa bên trong của thân chủ và hiểu được suy nghĩ, cảm xúc, mong muốn của họ. Neukrug đã diễn tả việc lắng nghe của NTV như sau: Trước hết là lắng nghe bằng tai với tất cả các khả năng của mình và lắng nghe không phải bằng tai, mà là một trạng thái như một cái ao hồ phẳng lặng. Nó hoàn toàn yên tĩnh và khi ta ném một viên đá xuống đó, nó sẽ tạo nên những gợn sóng

16

Page 17:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

nhỏ và biến mất. Tôi nghĩ sự lắng nghe bên trong là sự lắng nghe không phải bằng tai, một trạng thái nơi mà tinh thần hoàn toàn yên tĩnh và khi một câu hỏi xuất hiện trong tâm tưởng, câu trả lời sẽ là một gợn sóng nhỏ. Như vậy, lắng nghe không chỉ là sự im lặng bên ngoài mà còn là sự im lặng bên trong. Việc lắng nghe đích thực làm cho người nghe quên mình và tự làm trống rỗng hồn mình để đón nhận người khác.

Lắng nghe, NTV nghe nhiều hơn nói; nói lại các câu của thân chủ hơn là đặt câu hỏi; cố gắng thấu hiểu các cảm xúc của thân chủ, không chỉ là suy nghĩ hay là vấn đề của thân chủ; đáp lại thân chủ với sự chấp nhận và thấu cảm.

Lắng nghe tích cực là kỹ năng không thể thiếu được đối với NTV. Với sự lắng nghe, NTV có thể tiết kiệm được nhiều thời gian trong tư vấn, thu thập nhiều thông tin về thân chủ và quan trọng hơn là hiểu được những suy nghĩ, cảm xúc của thân chủ để có thể thấu cảm với họ. Lắng nghe thể hiện sự tôn trọng đối với thân chủ. Do đó, NTV sẽ dễ dàng thiết lập được mối quan hệ tin cậy với thân chủ và thân chủ sẽ cởi mở hơn để chia sẻ khó khăn của mình.

2.2. Các biểu hiện của kỹ năng lắng nghe tích cực

Kỹ năng lắng nghe tích cực biểu hiện ở các yếu tố: Những đáp ứng không lời, những yếu tố khuyến khích, nhấn mạnh và mở rộng, phản chiếu nội dung và cảm nghĩ, đáp ứng ngôn ngữ, tóm tắt và lưu ý điều thiếu sót.

2.2.1. Những đáp ứng không lời

Khi lắng nghe, NTV thể hiện những đáp ứng không lời (còn được gọi là những hành vi phi ngôn ngữ) phù hợp với những thông tin thân chủ đang chia sẻ. Những đáp ứng không lời của nhà tham vấn thể hiện rằng họ đang lắng nghe thân chủ nói và rất quan tâm đến vấn đề của thân chủ và tôn trọng thân chủ. Những đáp ứng này bao gồm:

- Duy trì sự tiếp xúc thích hợp bằng mắt. Lưu ý rằng, sự tiếp xúc bằng mắt với mỗi thân chủ là khác nhau. Điều này phụ thuộc vào văn hóa, thói quen, mức độ tự đánh giá bản thân. Một số thân chủ cảm thấy thoải mái hơn khi NTV tránh sự tiếp xúc bằng mắt một cách quá trực diện, hoặc ngồi gần hay xa hơn.

- Công nhận điều đã nói bằng cách gật đầu.

- Biểu lộ vẻ mặt phù hợp với tâm trạng của thân chủ.

- Đáp ứng phù hợp với những động tác và tư thế thân thể của thân chủ. Ví dụ: thân chủ ngồi thoải mái thì nhà tham vấn cũng đáp ứng lại một cách thoải mái.

2.2.2. Những yếu tố khuyến khích

Khuyến khích thân chủ nói thể hiện rằng NTV đang lắng nghe và rất muốn nghe vấn đề của thân chủ. Nhà tư vấn có thể sử dụng các yếu tố khuyến khích thông qua những lời đáp ngắn gọn như: “ừ”, “à”, “phải”, “đúng”, “được lắm”, “vâng, tôi hiểu”, “vâng, tôi đang nghe anh (chị) nói”, “tiếp tục đi”… Khi đáp ứng thân chủ, giọng nói, tốc độ, âm lượng của nhà tư vấn cần tương ứng với kiểu cách, đặc điểm của thân chủ.

Những đáp ứng trên có thể biểu hiện thái độ chấp nhận hoặc không chấp nhận vấn đề của thân chủ hay con người thân chủ. Do đó, để giữ được sự khách quan trong câu chuyện của thân chủ, nhà tư vấn tránh dùng những từ ngữ thể hiện sự tán thưởng hay không tán thưởng như: “ối”, “sao lại như vậy”, “kinh khủng quá”…

2.2.3. Nhấn mạnh và mở rộng

Nhấn mạnh và mở rộng bao gồm sự kết hợp các thông điệp phản hồi bằng lời hoặc không bằng lời (cử chỉ, nét mặt, cường độ, nhịp độ giọng nói) và nhấn mạnh điều thân chủ đã nói. Kỹ năng này giúp NTV xác định điều thân chủ đang nói và chứng tỏ sự khuyến khích, ủng hộ thân chủ tiếp tục câu chuyện.

2.2.4. Phản chiếu nội dung và cảm nghĩ

Là kỹ năng rất quan trọng trong tư vấn, nó được đề xuất bởi Rogers. Phản chiếu nội dung là sự nhắc lại những điều thân chủ mới nói. Ví dụ: Thân chủ là một học sinh, chia sẻ trong thời gian vừa qua, thân chủ và người yêu thường xảy ra các xung đột, NTV có thể phản chiếu lại: “Như vậy là thời gian gần đây, em và bạn trai xảy ra xung đột khá nhiều” hay “Em vừa nói với cô là em và bạn trai gần đây đã nảy sinh những xung đột, mâu thuẫn”. Phản chiếu cảm nghĩ là sự nhắc lại cảm xúc nhận được từ thân chủ. Đây là những cảm xúc thân chủ nói với NTV hoặc NTV tự suy luận thông qua những hành vi không lời. Ví dụ: “Bây giờ, em đang rất buồn và lo lắng”. Nhiều khi việc phản chiếu nội dung và cảm nghĩ được kết hợp với nhau. Ví dụ: “Như vậy, giờ em đang rất buồn trước rạn nứt trong mối quan hệ với bạn trai”.

Sự nhắc lại nội dung và cảm nghĩ có 3 mức độ cơ bản: nhắc lại (repeating), diễn giải (paraphrasing), phản chiếu (reflecting).

Ở mức độ thứ nhất, NTV nhắc lại vấn đề bằng cách sử dụng chính xác các từ ngữ mà thân chủ đã dùng. Ở mức độ thứ hai và ba, NTV cần phải suy nghĩ, lý giải, làm sáng tỏ vấn đề của thân chủ trước khi nói lại cho thân chủ. Tuy nhiên, ở mức độ thứ hai, NTV diễn giải vấn đề của thân chủ bằng cách sử dụng các từ, ngữ tương tự như thân chủ đã dùng; còn ở mức độ thứ ba, NTV diễn đạt lại theo cách riêng của mình.

17

Page 18:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

Như vậy, khi phản chiếu, NTV phải chọn ra những nội dung quan trọng, không được lặp lại những từ ngữ thân chủ đã nói và phải dùng ngôn từ của chính mình để diễn đạt lại cho thân chủ.

Để có thể phản chiếu tốt, NTV cần phải hiểu và làm sáng tỏ các vấn đề của thân chủ. Điều này đòi hỏi NTV không chỉ nắm bắt được các thông tin thân chủ trao đổi mà cần phải nhạy cảm với những thông tin có ý nghĩa và chú ý đến những tín hiệu phi ngôn ngữ. Chẳng hạn, khi thân chủ mô tả những sự việc khiến họ khó chịu, buồn bực, cần để ý đến nhịp thở (không lời), tiếp xúc mắt, miệng, tay, dáng ngồi…

2.2.5. Đáp ứng ngôn ngữ của thân chủ

Để tạo ra sự thoải mái trong quá trình tư vấn, nhà tư vấn cần chú ý lắng nghe để đáp ứng lại ngôn ngữ của thân chủ. Có 3 cách để đáp ứng ngôn ngữ là: sử dụng từ vựng, kiểu nói biểu trưng và dùng ẩn dụ.

- Sử dụng từ vựng: Một số thân chủ thường sử dụng từ ngữ mang tính chất văn hóa đặc trưng cho họ. Ví dụ khi tư vấn cho những học sinh thuộc một dân tộc cụ thể nào đó, NTV nên sử dụng ngôn ngữ quen thuộc, tự nhiên, thoải mái với các em.

- Đáp ứng kiểu nói biểu trưng: Theo Grinder và Randler (1976), khi nói, con người có 3 kiểu biểu trưng khác nhau: suy nghĩ hình tượng, suy nghĩ tượng thanh và suy nghĩ theo kiểu cảm nhận. Cũng là việc khó khăn khi làm lành với bạn trai của thân chủ, những người suy nghĩ theo kiểu hình tượng nói rằng: “em khó mà nhìn thấy mình làm lành với bạn ấy”, những người suy nghĩ theo kiểu tượng thanh có thể nói: “em không thể nào nghe mình nói những điều làm lành với bạn ấy”, còn những người suy nghĩ theo kiểu cảm nhận lại nói “em cảm thấy khó chịu khi chủ động làm lành với bạn ấy”. NTV cần lưu ý xem thân chủ sử dụng kiểu biểu trưng nào để đáp lại cho phù hợp.

- Sử dụng ẩn dụ: Một số thân chủ thường nói theo cách ẩn dụ. Ví dụ khi nói về những mâu thuẫn, bất đồng giữa các bạn học sinh trong lớp học, thân chủ có thể ẩn dụ: “Có một trận cuồng phong đang xảy ra trong lớp học của em”. Trong trường hợp này nhà tư vấn nên tiếp tục sử dụng ẩn dụ của thân chủ.

3. Kỹ năng hỏi

3.1. Thế nào là kỹ năng hỏi?

Hỏi là kỹ năng cơ bản, có ý nghĩa quan trọng trong tư vấn. Theo nghĩa thông thường, hỏi được hiểu là hành động nói với người khác việc mình muốn biết và muốn người ta trả lời, hay nói cách khác đây là quá trình tìm kiếm thông tin. Hỏi trong tư vấn khác nhiều với hỏi trong cuộc sống đời thường. Theo Bùi Thị Xuân Mai và cộng sự (2008), đây là quá trình nêu vấn đề, khích lệ thân chủ chia sẻ nhằm khám phá thông tin, đồng thời giúp họ tự nhận thức về bản thân và hoàn cảnh vấn đề để thay đổi.

Mục đích chính của việc hỏi trong tư vấn là nhằm khám phá các thông tin về vấn đề của thân chủ, nhận thức, cảm nghĩ, cuộc sống, hoàn cảnh gia đình, các mối quan hệ xã hội của thân chủ và các yếu tố khác liên quan đến vấn đề của thân chủ. Ngoài ra, trong tư vấn, những câu hỏi mang tính chất gợi mở, không áp đặt được sử dụng khá nhiều nhằm khích lệ thân chủ tự nhận thức về bản thân và tự thay đổi. Hỏi cũng là công cụ để giúp thân chủ sáng tỏ được các vấn đề của mình cũng như những mong muốn, xu hướng giải quyết vấn đề của bản thân. Nói tóm lại, hỏi trong tư vấn để làm rõ mọi khía cạnh, để khơi dậy, để khám phá và để thân chủ suy xét cho hành động (Bùi Thị Xuân Mai và cộng sự, 2008).

3.2. Các loại câu hỏi thường sử dụng trong tư vấn

3.2.1. Câu hỏi đóng và câu hỏi mở

- Câu hỏi đóng là loại câu hỏi đòi hỏi có phương án trả lời cụ thể, thường phương án trả lời có hoặc không hay chỉ có một phương án trả lời. Ví dụ: “Em có nói thạo tiếng Việt không?”, “Em học lớp mấy?”

Câu hỏi đóng được sử dụng khi muốn biết về thông tin cụ thể, hoặc nhằm khoanh vùng nội dung thảo luận. Đôi khi nó được sử dụng như một kỹ thuật để kiểm soát những thân chủ nói nhiều, hay một công cụ giúp thân chủ trấn tĩnh lại trong những tình huống bất an. Tuy nhiên, câu hỏi đóng làm hạn chế câu trả lời của thân chủ, do đó, nó cung cấp ít thông tin cho người hỏi. Mặt khác, khi hỏi theo câu hỏi đóng, ít nhiều thân chủ chịu sự ảnh hưởng bởi quan điểm của NTV mà không trả lời đúng với thực tế vấn đề của thân chủ, vì vậy, trong một số trường hợp, tính khách quan không cao. Trong tư vấn, không nên cùng một lúc sử dụng nhiều câu hỏi đóng, nếu làm như vậy buổi tư vấn có nguy cơ trở thành một phiên hỏi và đáp.

- Câu hỏi mở là câu hỏi có nhiều phương án trả lời. Những câu trả lời mang tính chất mô tả. Câu hỏi mở khuyến khích thân chủ nói về mình nhiều hơn và cho phép họ bày tỏ những trải nghiệm, cảm xúc hay suy nghĩ về vấn đề đang xảy ra. Chính vì vậy, NTV có thể khai thác vấn đề của thân chủ sâu hơn.

Câu hỏi mở thường bắt đầu bằng những từ như: “Điều gì…”, “Cái gì…”, “Vì sao…” hoặc kết thúc bằng từ “Như thế nào?”,“Ra sao?”. Ví dụ: “Điều gì khiến em cảm thấy lo lắng?”, “Khi bị thầy giáo trách phạt không đúng, em cảm thấy như thế nào?”

18

Page 19:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

Trong tư vấn, câu hỏi mở tỏ ra hữu dụng hơn, bởi nó khuyến khích câu trả lời có tính đàm thoại và làm cho việc tự bộc lộ dễ diễn ra hơn.

3.2.2. Câu hỏi trực tiếp và gián tiếp

Câu hỏi trực tiếp hay gián tiếp đề cập đến tính chất tác động của câu hỏi, nhằm khẳng định hay thăm dò thông tin.Ví dụ: “Chắc chị rất tức giận khi con trai chị bỏ học?” (trực tiếp), “Chắc chị có có nhiều cảm xúc liên quan đến việc con trai chị bỏ học?” (gián tiếp). Trong tư vấn, cuộc nói chuyện có thể cởi mở hơn nếu vấn đề được hỏi một cách gián tiếp.

3.2.3. Câu hỏi tìm thông tin chung

Trong buổi tư vấn đầu tiên, NTV thường hỏi những thông tin chung về thân chủ để có những hiểu biết ban đầu về họ. Ví dụ: “Sau những giờ học căng thẳng, em thường làm gì?”, “Có vẻ như em rất thích chơi thể thao, vậy em yêu thích môn thể thao nào nhất?”, “Em thích làm gì vào thời gian rỗi?”…

3.2.4. Câu hỏi về cảm xúc, suy nghĩ và hành vi

Khi muốn tập trung khám phá về cảm xúc, suy nghĩ hay hành vi của thân chủ, nhà tư vấn có thể sử dụng loại câu hỏi này.

Ví dụ:

“Em cảm thấy như thế nào khi cô giáo kiểm tra bài mà em không trả lời được, mặc dù em học bài rất kỹ?”

“Em suy nghĩ gì về những xích mích giữa các bạn trong lớp học của em?”

“Em sẽ làm gì khi bố mẹ không muốn em học đại học?”

Mặt khác, loại câu hỏi này có thể giúp thân chủ nâng cao sự nhận thức về bản thân họ, khích lệ họ nói lên những suy nghĩ bên trong khó nói ra.

3.2.5. Câu hỏi vòng vo

Thân chủ thường có những cơ chế tự vệ khi trả lời những câu hỏi trực tiếp về bản thân mình. Câu hỏi vòng vo sẽ hạn chế được phần nào điều này. Đây là loại câu hỏi không đi thẳng vào suy nghĩ, cảm nhận, thái độ của thân chủ về một vấn đề nào đó mà thường thông qua “người thứ ba” để làm sáng rõ các thông tin về thân chủ. Ví dụ: “Trong giờ sinh hoạt lớp. Tổ trưởng nêu tên bạn Ksor A không tham gia lao động, nhưng A có lao động và A không phản biện được vì tính nhút nhát, A đã đá ghế và bỏ ra ngoài. Theo em, trong trường hợp đó, bạn ấy nên làm gì?”, “Học sinh Vừ Mí Tráng rất chăm chỉ, chịu khó học bài nhưng không được cô giáo kiểm tra bài cũ nên em rất buồn và khóc trong giờ học, nếu em là bạn đó, em sẽ phản ứng như thế nào khi cô giáo không gọi kiểm tra bài? ”. Thân chủ thường nói về những cảm nhận, suy nghĩ cũng như thái độ của chính bản thân họ để bày tỏ sự đồng ý hay không đồng ý về việc làm, hành động của nhân vật trong tình huống mà chúng ta đưa ra.

3.2.6. Câu hỏi hướng tới khai phá vấn đề

Đây là loại câu hỏi nhằm xác định nguyên nhân, hậu quả của vấn đề hay thăm dò để tập trung vào một vấn đề cụ thể. Ví dụ như: “Như vậy, theo em, một số bạn bỏ học không ra lớp sau kỳ nghỉ hè là do các bạn đó ham chơi phải không?”

3.2.7. Câu hỏi tăng năng lực, tập trung vào giải pháp

Để nâng cao năng lực giải quyết vấn đề cho thân chủ, NTV có thể đặt câu hỏi: “Học sinh ở nội trú ra khỏi phòng thường quên tắt điện, tắt quạt, quên khóa nước, khi học sinh ngủ thì hay quên mắc màn hoặc quên chốt cửa. Để giải quyết vấn đề này, em nghĩ cần phải làm gì?”. Câu hỏi này khích lệ thân chủ tư duy, suy nghĩ về khả năng giải quyết vấn đề.

3.2.8. Câu hỏi chuyển tiếp

Khi muốn chuyển sang một phương diện hay một vấn đề khác, NTV có thể sử dụng câu hỏi chuyển tiếp. Ví dụ:

“Đây là những suy nghĩ của em, còn bố mẹ em nghĩ gì về việc này?”

“Trước đây, chị luôn phản đối công việc mà con gái chị đã chọn, giờ chị nghĩ sao về vấn đề đó?”

3.2.9. Câu hỏi về ngoại lệ

Những câu hỏi ngoại lệ có mục đích đẩy mạnh sự thay đổi bằng cách đưa ra sự chú ý tới những thời điểm hoặc những hoàn cảnh mà một hành vi xấu không xảy ra. Nó thường bắt đầu bằng những cụm từ như: “Có khi nào”, “Có bao giờ?”, “Trong trường hợp nào”… Ví dụ:

“Có khi nào em và mẹ không cãi nhau?”

19

Page 20:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

“Trong trường hợp nào em có thể kiểm soát được cơn giận của mình?”

“Có bao giờ em cảm thấy không chán nản?”

Loại câu hỏi này giúp thân chủ phát hiện ra có những thời điểm, hoàn cảnh, họ đã không tiến hành hành vi không phù hợp và biết được điều gì đã giúp họ làm được như vậy, từ đó kiểm soát tốt hành vi của mình.

3.2.10. Câu hỏi kỳ diệu

Câu hỏi này được sử dụng để giúp thân chủ bắt đầu tìm ra giải pháp giả định cho những vấn đề họ đang trải qua, đòi hỏi họ phải vận dụng trí tưởng tượng để tìm hiểu xem thế giới sẽ khác đi như thế nào nếu hoàn cảnh thay đổi tốt hơn. Chẳng hạn như: “Vào tuần tới khi em thức dậy và một phép lạ đã xảy ra. Mối quan hệ giữa em và bạn cùng lớp đã tốt lên rất nhiều, em sẽ cư xử với các bạn khác đi như thế nào?”

“Học sinh Páo vi phạm nội quy của trường: mất trật tự trong giờ học, đánh bạn. Khi bị cô giáo khiển trách em đã chống đối bằng cách bỏ học về nhà, Bố mẹ đã đưa em trở lại trường và xin lỗi cô giáo nhưng Páo vẫn tỏ thái độ chống đối. Nếu sự việc đổi thay như phép lạ thì việc học tập của em sẽ như thế nào?”

3.2.11. Câu hỏi hướng về mục đích

Xuất phát từ việc tìm kiếm các giải pháp để các vấn đề trở nên khác đi, câu hỏi hướng về mục đích giúp thân chủ nhận thấy được sự thay đổi lớn mà họ muốn thực hiện. Loại câu hỏi này khuyến khích thân chủ nhìn thẳng tới tương lai. Ví dụ:

“Em nghĩ cuộc sống của em sẽ như thế nào nếu em và mẹ không còn cãi nhau?”

“Em muốn sự việc sẽ trở nên như thế nào?”

“Nếu có một việc cần phải làm liên quan đến mối quan hệ giữa em và mẹ em thì việc đó là gì?”

3.3. Các biểu hiện của kỹ năng hỏi

Kỹ năng hỏi thường thể hiện ở việc xác định đúng nội dung hỏi, có cách hỏi và thái độ hỏi phù hợp.

3.3.1. Nội dung hỏi

Theo Bùi Thị Xuân Mai và cộng sự (2008), khi hỏi, NTV cần chú ý đến các thông tin sau:

- Hỏi về cảm xúc, suy nghĩ, hành vi của thân chủ, không chỉ hỏi về diễn biến, nguyên nhân vấn đề.

- Hỏi về thông tin liên quan đến hiện tại chứ không chỉ về quá khứ.

- Không né tránh hỏi về cảm xúc, hay vấn đề “tế nhị”.

- Hỏi về suy nghĩ, mong muốn, nhu cầu và hướng giải quyết của chính đối tượng.

- Chú ý hỏi về những điều thân chủ quan tâm.

3.3.2. Cách hỏi

- Sử dụng các loại câu hỏi 1 cách linh hoạt.

- Không nên sử dụng nhiều câu hỏi đóng (chỉ trong những trường hợp cần thiết).

- Tránh sử dụng nhiều câu hỏi bắt đầu bằng tại sao? vì sao?

- Tránh sử dụng câu hỏi đa nghĩa, câu hỏi có nhiều từ hỏi dễ tạo cảm giác bị hỏi dồn dập. Ví dụ: Bố em có đồng ý cho em nghỉ học không? Còn mẹ thì như thế nào? Ông bà nữa?

- Chú ý đến tần suất hỏi: Nên hỏi vừa phải, từng câu và chú ý đến phản ứng của thân chủ khi hỏi. Điều quan trọng nhất trong tư vấn là làm sao để thân chủ tự nói ra câu chuyện của mình.

- Thời điểm hỏi và loại hình câu hỏi cần phù hợp với tính chất từng giai đoạn khi tư vấn.

3.3.3. Thái độ hỏi

Thái độ hỏi là một yếu tố quan trọng. Khi hỏi, các NTV cần:

- Lắng nghe, tôn trọng, không phê phán và chú ý quan sát những phản ứng của thân chủ.

- Tôn trọng sự im lặng, dành thời gian cho thân chủ suy nghĩ.

- Không dẫn dắt “mớm lời” theo ý kiến của người trợ giúp.

- Không hối thức, không vội vàng.

20

Page 21:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

- Có hành vi khích lệ: phản hồi, tóm lược, khen ngợi…

- Thể hiện sự thấu cảm với những cảm xúc của thân chủ.

4. Kỹ năng phản hồi

4.1. Thế nào là phản hồi?

Theo nghĩa thông thường, phản hồi là đưa ra thông tin xác nhận lại hay đóng góp những ý kiến để phát triển những thông tin có được. Trong tư vấn, một trong những biểu hiện của việc lắng nghe tích cực, tôn trọng, quan tâm đến thân chủ là đưa ra những phản hồi. Phản hồi là sự nói lại bằng ngôn ngữ của mình hoặc nhắc lại lời của thân chủ một cách cô đọng hay làm sáng tỏ điều thân chủ cảm thấy….

Việc phản hồi lại vấn đề của thân chủ là rất cần thiết, có thể đem lại những lợi ích sau:

- Tăng cường sự hiểu biết của NTV về thân chủ.

- Giúp thân chủ làm sáng tỏ suy nghĩ của họ thông qua việc lắng nghe suy nghĩ của mình và khuyến khích thân chủ tập trung vào các vấn đề quan trọng.

- Giúp thân chủ trải nghiệm cảm xúc: cho phép thân chủ có cơ hội cảm nhận và bộc lộ cảm xúc, trải nghiệm cảm giác được quan tâm, chăm sóc từ phía NTV, từ đó chấp nhận, tôn trọng các cảm xúc của mình.

- Tạo cơ hội cho thân chủ cung cấp thêm thông tin hoặc sửa lại những hiểu nhầm và giả định của NTV.

- Khuyến khích thân chủ nói thêm.

- Đảm bảo cho thân chủ thấy rằng NTV hiểu và đã luôn lắng nghe thân chủ đồng thời thể hiện sự quan tâm và chăm sóc của NTV đến thân chủ và muốn trợ giúp họ.

4.2. Các cách thức cung cấp thông tin phản hồi trong tư vấn

Ngoài việc sử dụng kỹ năng phản chiếu và tóm tắt (đã trình bày trong kỹ năng lắng nghe tích cực), theo Geldard, K. và Geldard, D. (2002), việc cung cấp thông tin phản hồi có thể được tiến hành theo một số cách như: cho lời khen, đưa ra xác nhận, tác động khích lệ, bình thường hóa, lên khung lại, sử dụng những lời nói. Dưới đây, chúng tôi sẽ trình bày một số cách cơ bản.

4.2.1. Cho lời khen

Khi thân chủ thực hiện những quyết định hoặc những hành động thể hiện sự nỗ lực, cố gắng thì việc cho lời khen là hết sức cần thiết để giúp thân chủ củng cố lại hành động và tự tin, hài lòng hơn về chính bản thân mình. Lời khen đưa ra như là sự phản hồi có thể cho thấy NTV đã nghe và hiểu câu chuyện của thân chủ. Ví dụ: Một thân chủ là học sinh trung học phổ thông thường không kiểm soát được cơn giận của mình, đặc biệt khi bị người khác khiêu khích. Qua quá trình hỗ trợ, em có tiến bộ. Gần đây, một nhóm bạn trong lớp đã đến khiêu khích em, song em đã kiểm soát được bản thân, không đánh lại như trước đây mà đã nói chuyện với một người bạn thân để giải tỏa căng thẳng. Sau nghe câu chuyện, NTV có thể nói: “Em giỏi thật, làm được như thế hẳn là khó lắm!”. Tuy nhiên, lời khen phải được sử dụng tế nhị, thích hợp để thân chủ cảm thấy dễ chịu và tiếp tục phát triển niềm tin.

4.2.2. Đưa ra xác nhận

Xác nhận tức là nhìn nhận, củng cố một sự thật xảy ra với thân chủ mà thân chủ đã phát hiện và chia sẻ với NTV. Ví dụ: Một thân chủ tâm sự rằng thời gian gần đây, em đã rất cố gắng thay đổi cách cư xử để cải thiện mối quan hệ giữa em và cô giáo và đã đạt được kết quả tốt. NTV có thể đưa ra lời xác nhận: “Rõ ràng là em đã có cách cư xử rất tuyệt”. Xác nhận hoàn toàn khác với phản chiếu. Nếu phản chiếu thì nhà tư vấn sẽ nói: “Cô tin rằng em đã có cách cư xử rất tuyệt với cô giáo”. Đây không phải là sự xác nhận của nhà tư vấn với hành động của thân chủ.

4.2.3. Tác động khích lệ

Tác động khích lệ được sử dụng khi thân chủ đã sử dụng những hành vi tích cực và khác với những vi không phù hợp đã được sử dụng từ trước đến nay; thân chủ đã làm chủ và chịu trách nhiệm về những đổi thay đã xảy ra. Mục đích của việc dùng phản hồi tác động khích lệ là củng cố các giải pháp để thay đổi hành vi ở thân chủ, giúp thân chủ nhận lấy trách nhiệm và cảm thấy tự hào về sự tiến bộ. Điều này củng cố ý tưởng là thân chủ có thể nhận trách nhiệm và làm chủ hành vi của mình. Tác động khích lệ được sử dụng dưới dạng câu hỏi hoặc lời nói. Ví dụ:

“Em đã làm thế nào để kiểm soát cơn giận khi nhóm bạn kia đến khiêu khích?”

“Tốt lắm. Điều ấy quả thật là khó làm. Em đã làm như thế nào?”

“Cách cử xử của em với thầy cô thật là tuyệt vời!”

“Việc làm của em có vẻ hay đấy!”

21

Page 22:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

4.2.4. Bình thường hóa

Bình thường hóa được sử dụng khi thân chủ phóng đại quá mức về cảm xúc và hành vi của mình so với hoàn cảnh thực tại. NTV cần cho thân chủ biết rằng những điều thân chủ trải qua là bình thường đối với hoàn cảnh của họ.

4.2.5. Lên khung lại

Một số thân chủ thường có cái nhìn bó hẹp về thế giới của họ và không thể thấy bức tranh rộng lớn hơn. Điều này có thể dẫn đến những nhận định tiêu cực, thiếu thực tế. Việc lên khung lại khuyến khích thân chủ không chỉ xem xét phần bức tranh họ đã nhận thức, mà xem xét phần bức tranh của họ như là một phần của một bức tranh rộng lớn để họ chấp nhận hoàn cảnh thực tại bằng cách nhìn tích cực hơn. Điều cốt yếu của việc lên khung là không cắt xén hoặc chối bỏ phần bức tranh đã được lưu ý ngay từ đầu, mà chỉ lồng phần này vào một bức tranh rộng lớn hơn. Việc lên khung lại phải bao gồm nhận thức của thân chủ, xây dựng trên nhận thức đó và mở rộng ra. Có như vậy, thân chủ mới nhận ra rằng điều họ nói ra đã được tin và họ có thể chấp nhận việc lên khung lại.

Ví dụ: Một học sinh than phiền rằng, cũng nằm trong ban cán sự lớp, nhưng em lại làm nhiều việc hơn các bạn khác. Trong trường hợp này, NTV cần mở rộng bức tranh, cho thấy thân chủ làm việc nhiều có thể là do thân chủ làm việc chu đáo, hiệu quả, có trách nhiệm và được tập thể tin cậy, tín nhiệm.

5. Kỹ năng thấu cảm

5.1. Thế nào là thấu cảm

Thấu cảm là sự cảm nhận thế giới bên trong của thân chủ một cách chính xác, cảm nhận thế giới riêng tư của thân chủ như thể là của chính mình, nhưng vẫn bảo đảm tính khách quan của NTV. Thực chất, thấu cảm là khả năng hiểu thân chủ ở cả mức độ nhận thức (họ đang nghĩ gì) và mức độ cảm xúc (họ đang cảm thấy gì), trong đó sự thấu hiểu các cảm xúc của thân chủ được xem là quan trọng nhất. Do đó, nhiều tác giả quan niệm thấu cảm là khả năng cảm nhận cảm xúc bên trong của của thân chủ (Bùi Thị Xuân Mai, 2008; Trần Thị Minh Đức, 2009).

5.2. Các mức độ thấu cảm

Theo Carkhuff (1969) có 5 mức độ thấu cảm:

Mức độ 1: Chưa để ý đến cảm xúc, suy nghĩ những điều thân chủ chia sẻ cả bằng lời cũng như hành vi;

Mức độ 2: Đã chú ý phần nào tới cảm xúc của thân chủ nhưng chưa nêu lên được cảm xúc đó của thân chủ;

Mức độ 3: đã có quan tâm tới cảm xúc của thân chủ của thân chủ và phản hồi lại cảm xúc đó của thân chủ;

Mức độ 4: đã chú ý và đưa ra được những cảm xúc mà thân chủ cảm nhận trong sâu thẳm;

Mức độ 5: hoàn toàn thấu hiểu một cách sâu sắc, chính xác cả những gì tiềm ẩn mà ngay chính bản thân họ cũng chưa xác định được.

Theo ông, hai mức độ đầu là chưa đạt đến sự thấu cảm, bởi NTV chưa đề cập đến cảm xúc của thân chủ, còn từ mức độ ba trở đi, NTV đã có sự thấu hiếu.

Thấu cảm vừa được xem là kỹ năng, là thái độ, là phẩm chất và là một yếu tố không thể thiếu được ở NTV. Nó có một vai trò rất quan trọng trong quá trình tư vấn. Nó giúp NTV có thể hiểu được đối tượng một cách chính xác; tạo lập được mối quan hệ tương tác, tin cậy với thân chủ; giúp thân chủ đưa ra các giải pháp phù hợp. Sự thấu cảm sẽ định hướng NTV tới hành vi lắng nghe, thái độ tôn trọng và chấp nhận, đồng thời hạn chế khuynh hướng tra hỏi hay giải thích nhiều trong khi tư vấn. Về phía thân chủ, sự thấu cảm của NTV sẽ tạo ra môi trường an toàn để thân chủ tin tưởng, chia sẻ vấn đề của mình và hợp tác với NTV giải quyết vấn đề. Rogers (1980) nhấn mạnh rằng, thấu cảm còn quan trọng hơn cả những gì gọi là kỹ năng đơn thuần, bởi thái độ nồng ấm, tôn trọng và lắng nghe của thấu cảm sẽ tạo nên sự chuyển động tâm lý trong chính thân chủ và họ có thêm dũng khí “động chạm” tới được những cảm xúc sâu lắng vô thức đã từng bị né tránh do sợ hãi (Bùi Thị Xuân Mai và các cộng sự, 2008).

5.3. Các biểu hiện của kỹ năng thấu cảm

Để đạt đến sự thấu cảm, nhà tham vấn phải có những kỹ năng như: chú ý, lắng nghe tích cực, cung cấp thông tin phản hồi… Vì vậy, một người có kỹ năng thấu cảm thường biểu hiện:

- Chú ý, quan tâm thực sự đến các nhu cầu, mong muốn của thân chủ.

- Lắng nghe, tôn trọng mọi cảm xúc, suy nghĩ của thân chủ, chấp nhận không phán xét (thống nhất trong suy nghĩ và biểu hiện bên ngoài).

- Đặt mình vào hoàn cảnh của thân chủ và đánh giá đúng vấn đề của thân chủ. Ở đây, nhà tham vấn như tự động đặt mình vào vị trí của thân chủ, thử nhìn sự vật như thân chủ nhìn chúng.

- Đảm bảo sự khách quan trong quá trình nhận định.

22

Page 23:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

- Chú ý đến những suy nghĩ, cảm xúc bên trong của thân chủ.

- Phản hồi lại những cảm nhận và suy nghĩ của thân chủ bằng ngôn ngữ, thái độ và hành vi phù hợp.

6. Kỹ năng dẫn dắt giải quyết vấn đề

Kỹ năng dẫn dắt giải quyết vấn đề là quá trình nhà tư vấn cùng thân chủ phân tích vấn đề, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng, đặt ra mục tiêu và tìm ra các giải pháp cho vấn đề đang gặp phải trên cơ sở phù hợp với điều kiện của thân chủ.

Trong quá trình này, NTV cần dẫn dắt và gợi mở để thân chủ nhận ra những điểm mạnh và hạn chế của bản thân, điều kiện thực tế, và nguồn lực hỗ trợ có thể huy động. Từ đó, thân chủ sẽ cân nhắc mặt thuận lợi và và khó khăn của từng giải pháp và lựa chọn cho mình giải pháp tối ưu nhất. NTV có thể đặt ra một số câu hỏi định hướng giải pháp cho thân chủ như sau:

- Em suy nghĩ gì về biện pháp cho vấn đề đang gặp phải?

- Cách giải quyết tốt nhất cho vướng mắc của em là gì?

- Ai có thể hỗ trợ em để giải quyết những khó khăn hiện tại?

- Em có nghĩ rằng nên nói chuyện trực tiếp với các bạn không?

- Trong tình huống này, một số bạn đã làm thế này (…), em suy nghĩ thế nào về cách thức của các bạn?

Bằng cách đặt câu hỏi định hướng như đã nêu trên, NTV vẫn tạo điều kiện để thân chủ cân nhắc và suy nghĩ về các giải pháp khả thi cho vấn đề của bản thân. Và khi tự mình lựa chọn giải pháp phù hợp, thân chủ sẽ nỗ lực thực hiện để đạt kết quả tốt nhất cho khó khăn gặp phải.

23

Page 24:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thị Minh Đức (2009),Giáo trình tham vấn tâm lý. Hà nội NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

2. Trần Thị Minh Đức (2010), Kỹ năng tham vấn cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Tổ chức Plan tại Việt Nam

3. Trần Thị Giòng (2006),. Vấn đề đạo đức trong tư vấn (tham vấn) và trị liệu. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Tư vấn tâm lý – giáo dục: lý luận, thực tiễn và định hướng phát triển” . Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam.

4. Nguyễn Huy Hoàng (2006). Kỹ năng lắng nghe. Truy cập ngày 30/5/2010 từ: HRVietnam.com.

5. Bùi Xuân Mai (chủ biên), Nguyễn Thị Thái lan, Lim Shaw Hui (2008), Giáo trình tham vấn, Hà nội, NXB Lao động-Xã hội.

6. Nguyễn Văn Sáng (chủ biên) (2012), Đặc điểm tâm lí của học sinh dân tộc thiểu số, NXB Giáo dục.

7. Nguyễn Thơ Sinh (2006), Tư vấn tâm lý căn bản, TP Hồ Chí Minh: NXB Lao động.

8. Trần Đình Tuấn (2009), Tư vấn tâm lí, Bài giảng khóa bồi dưỡng sau đại học cho Trường ĐHKHXH-NV Hà Nội

9. Unicef (2005).Tài liệu tập huấn kỹ năng cơ bản trong tham vấn.

10. Unicef (2005).Tài liệu tập huấn tham vấn cơ bản dành cho cộng đồng.

11. Geldard, K., Geldard, D. (2002).Tham vấn thanh thiếu niên (Bản dịch của Nguyễn Xuân Nghĩa và Lê Lộc). Đại học mở bán công.

12. Nguyễn Minh Tiến. Mối quan hệ hỗ trợ. Truy cập ngày 15/8/2011 từ http://tamlytrilieu.com/moiquanhe-hotro.htm

13. Sypher, B. D., Bastrom, R. N., and Seibert, J.H. (1989). Listening, Communication Abilities, and Success at Work. Journal of Business Communication 26. 4, 293-301.

14. Clarke (1998). “Do You Hear What I Hear?” Dot Yandle, “ Listening To Understand”. Report Management Newsletter Supplement 15. 18, 13.

15. Patterson. C. H. (1985).The therapeutic relationship.Monterey, California: Brooks/ Coles.

16. “Tài liệu sưu tầm” PGS.TS. Võ Thị Minh Chí Viện Nghiên cứu Sư phạm – ĐHSPHN.

24

Page 25:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

PHỤ LỤC

MẪU HỒ SƠ TÂM LÝ

1. Thông tin cá nhân

Họ tên học sinh:………………………………………………………………

Mã số học sinh:……………………………………………………………….

Giới tính: …………………………………………………………………….

Ngày sinh:…………………………………………………………………….

Là con thứ: ……………………………………………………………………

Dân tộc: ……………………………………………………………………….

Lớp: …………………………. Trường: …………………………………….

Địa chỉ:………………………………………………………………………..

2. Thông tin về gia đình:

Họ tên Bố,……………………………… Nghề nghiệp………………………

Tuổi: ……………………………………. Sức khỏe: ………………………..

Họ tên mẹ,……………………………… Nghề nghiệp………………………

Tuổi: ……………………………………. Sức khỏe: ………………………..

3. Bối cảnh tư vấn

Thân chủ tự đến hay ai dẫn thân chủ đến, lý do thân chủ đến gặp NTV.

………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

Ấn tượng của nhà tư vấn về thân chủ:

Sắc mặt: ……………………………………………………………………….

Tâm trạng: ……………………………………………………………………

Thái độ: ……………………………………………………………………….

Trang phục: …………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………..

………………………………………………………………………………...

4. Vấn đề của thân chủ

Vấn đề hiện tại của thân chủ (ghi rõ khó khăn tâm lí mà thân chủ đang gặp khiến thân chủ xin tư vấn) :…………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

Diễn tiến của sự việc (mô tả thời điểm bắt đầu và diễn ra của sự kiện):

………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

Nhận thức của thân chủ về vấn đề:

25

Page 26:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

Cảm xúc của thân chủ về vấn đề:

………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

Ứng xử của thân chủ về vấn đề

………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

Kết quả thăm khám y khoa (nếu có)

………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

Kết quả đánh giá tâm lý (nếu có)

………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

Nhận xét của NTV về những thông tin thân chủ trao đổi.

5. Quá trình giải quyết vấn đề

Điểm mạnh của thân chủ: …………………………………………………….

………………………………………………………………………………...

Điểm hạn chế của thân chủ: ……………………………………………….....

………………………………………………………………………………...

Thứ tự các vấn đề cần giải quyết. Kết quả mong đợi trong từng vấn đề.

………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

Các giải pháp giải quyết từng vấn đề.

………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

Nguồn lực hỗ trợ

………………………………………………………………………………..

………………………………………………………………………………...

Kế hoạch thực hiện

………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

Đánh giá kết quả thực hiện.

………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

6. Kết luận

- Nhận xét về cái được và cái chưa được trong việc thực hiện ca tư vấn.

26

Page 27:  · Web view- Phân biệt được khái niệm tư vấn và tham vấn và nắm vững các nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho HS - Biết cách lập hồ sơ tư vấn

………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

- Điều cần làm để thay đổi, cải thiện.

………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

- Định hướng những việc cần quan tâm trong thời sau khi tiến hành tư đối với thân chủ.

………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...

27