2. thực trạng tình hình sản xuất và xuất khẩu lúa gạo tại việt nam
TRANSCRIPT
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU MẶT HÀNG GẠO VIỆT NAM
TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG
The solutions to promote sustainable growth of the export Viet Nam’s rice
ThS. Nguyễn Thị Huyền Trâm
Nông nghiệp là một ngành sản xuất đặc biệt, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của một quốc gia. Ngày nay, nhờ có sự phát triển của khoa học công nghệ, nông nghiệp
đã ngày càng trở nên hiện đại, tiên tiến hơn. Việt Nam là một nước đang phát triển, nền sản xuất nông
nghiệp vẫn theo quy mô nhỏ lẻ và manh mún, chưa ứng dụng triệt để lợi thế của khoa học - kỹ thuật tiên
tiến vào sản xuất nên hiệu quả kinh tế thấp. Sự phát triển nền nông nghiệp Việt Nam thời gian qua góp
phần tăng trưởng kinh tế nhưng sự tăng trưởng này chưa thật sự bền vững do Việt Nam vẫn chưa dành
được thế chủ động trong xuất khẩu; tỷ lệ nông hộ nghèo đói nhìn chung thì có giảm, nhưng vẫn có
không ít nông hộ còn đói nghèo hơn so với mặt bằng chung; tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng
cao . Vì vậy, phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững là một vấn đề cấp thiết đối với Việt
Nam. Để giải quyết được vấn đề nêu trên, tác giả chọn đề tài “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt
hàng gạo việt nam tăng trưởng bền vững” để nghiên cứu.
Abstract
Agriculture is a special production(industry) and plays a critical role to social-economic
development of a country. Nowadays, thanks to the development of science and
technology, agricultural production becomes more and more efficient. However, as a developing
country, Việt Nam has a small scale of agricultural production with limited application of advanced
technologies, causing low efficiency. Recently, although the development of Việt Nam’s agriculture
has contributed greatly to the growth of the economy, this development is not sustainable because
(1) Việt Nam has not controlled the export of agriculture products yet, (2) a considerable number of
local peasants are under-educated and under-living, and (3) the natural environment is more and
more polluted. Therefore, the sustainable development of agricultural production would definitely
be a main concern, among others. To address this issue, the author proposes the study of “The
solutions to promote sustainable growth of the export of Viet Nam’s rice”.
1
1. Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu hàng
hóa và tăng trưởng bền vững
1.1 Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu
hàng hóa
1.1.1 Khái niệm về xuất khẩu hàng hóa
Để hiểu về hoạt động xuất khẩu hàng hóa,
trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là “thương
mại quốc tế” bởi xuất khẩu hàng hóa là một
phần quan trọng trong hoạt động này. Thương
mại quốc tế là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ
giữa các chủ thể kinh tế có quốc tịch khác nhau
(trong đó đối tượng trao đổi thường vượt ra
ngoài phạm vi điạ lý của một quốc gia) thông
qua hoạt động mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới.
Hoạt động thương mại quốc tế ra đời sớm nhất
trong các quan hệ kinh tế quốc tế và ngày nay nó
vẫn giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ kinh
tế quốc tế.
Thương mại quốc tế bao gồm nhiều hoạt
động khác nhau. Trên giác độ của một quốc gia
đó chính là hoạt động ngoại thương. Nội dung
của thương mại quốc tế bao gồm:
- Xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa hữu
hình.
- Xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa vô
hình.
- Gia công thuê cho nước ngoài hoặc/và
thuê nước ngoài gia công
- Tái xuất khẩu và chuyển khẩu
- Xuất khẩu tại chỗ
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu
hàng hóa
Thứ nhất, về người tiêu dùng, khách hàng
trong hoạt động xuất khẩu là các cá nhân, tổ
chức, hay các quốc gia nước ngoài.
Thứ hai, thị trường xuất khẩu rộng lớn và
phức tạp hơn nhiều so với thị trường trong nước
vì thị trường xuất khẩu chứa đựng nhiều rủi ro.
Thứ ba, hình thức mua bán trong hoạt động
xuất nhập khẩu thường là mua bán qua hợp đồng
xuất khẩu với khối lượng lớn thì hoạt động này
mới có hiệu quả.
Thứ tư, các nghiệp vụ liên quan đến hoạt
động này đều phức tạp và chứa đựng nhiều rủi
ro cho cả bên mua và bên bán như: thanh toán,
vận chuyển, ký kết hợp đồng....
Tóm lại, hoạt động xuất khẩu là một hoạt
động mang lại nhiều lợi ích cho bên xuất khẩu
nói riêng và cả toàn thế giới nói chung nhưng
cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Để hoạt động này
được đẩy mạnh thì cần có sự hợp tác của tất
cả các bên.
2
1.1.3 Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong
nền kinh tế thị trường
Xét về vai trò của hoạt động xuất khẩu,
chúng ta cần xem xét trên 2 góc độ: đối với toàn
bộ nền kinh tế quốc dân và đối với bản thân các
doanh nghiệp.
- Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn cho
nhập khẩu, phục vụ CNH-HDH đất nước.
Thứ hai, xuất khẩu thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển.
Thứ ba, xuất khẩu giúp giải quyết công ăn
việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và
thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại.
- Đối với doanh nghiệp.
Doanh nghiệp ngoại thương là đối tượng
trực tiếp thực hiện hoạt động xuất khẩu, vì thế
nên xuất khẩu có vai trò to lớn đối với các doanh
nghiệp này.
Thứ nhất, xuất khẩu đem lại lợi ích kinh tế
cho các doanh nghiệp này để lại tiếp tục duy trì
hoạt động của mình.
Thứ hai, nhờ xuất khẩu các doanh nghiệp
buộc phải cạnh tranh với các nước trên thị
trường thế giới về giá cả, chất lượng, chủng loại
sản phẩm.
Thứ ba, quá trình sản xuất hàng hóa xuất
khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao
động, vừa tăng được qui mô sản xuất lại vừa
giúp người lao động có thu nhập.
Thứ tư, xuất khẩu khuyến khích phát triển
mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy, với những lý luận ở trên, ta thấy
hoạt động xuất khẩu rõ ràng đóng một vai trò
quan trọng và tác động tích cực đến sự tồn tại và
phát triển của một quốc gia.
1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
1.1.4.1 Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối
đoái
Tỷ giá hối đoái tác động tới nhiều mặt
khác nhau của nền kinh tế, quan trọng nhất là
hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, tín dụng quốc
tế.
Tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp tới hoạt
động ngoại thương thông qua kênh giá cả.
Thông qua tỷ giá hối đoái ta có thể tính giá xuất
nhập khẩu của một loại hàng hóa của nước này
theo tiền tệ của một nước khác. Do vậy tỷ giá
thay đổi kéo theo sự thay đổi của giá cả hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
3
1.1.4.2 Chính sách quản lý vĩ mô của nhà
nước
Một là, Chính sách thuế: Các khoản thuế
phí này tăng làm tăng giá thành và làm giảm
cung về hàng hóa. Ngược lại việc giảm các loại
thuế này có tác động kích thích làm tăng cung về
hàng hóa, qua đó các chính sách này tác động tới
cung hàng hóa cho thị trường xuất khẩu.
Hai là, Chính sách tín dụng: Các hợp
đồng kinh doanh xuất khẩu thường có giá trị lớn
và chịu các chi phí lớn khác như: chi phí vận
chuyển, chi phí kiểm định, chi phí thuê kho
ngoại quan, thuế nhập khẩu, chi phí cho thanh
toán...
Ba là, Chính sách đầu tư: Đầu tư cho cơ
sở hạ tầng, đầu tư công nghệ chế biến... sẽ có tác
dụng phát huy tối đa hiệu quả kinh tế trong sản
xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông sản.
Bốn là, Các yếu tố chính trị: Mỗi sự kiện
chính trị đều có ảnh hưởng tới các hoạt động
kinh tế. Sự thay đổi về chính trị làm thay đổi
chính sách kinh tế, chính vì vậy làm tăng mức
độ rủi ro cho các doanh nghiệp.
Năm là, Yếu tố văn hóa – xã hội như: tín
ngưỡng tôn giáo, thị hiếu tiêu dùng, tục lệ...có
ảnh hưởng khá lớn tới các hoạt động kinh tế
quốc tế nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu
nói riêng.
Sáu là, Hệ thống pháp luật: Hành lang
pháp lý của một quốc gia càng thông thoáng,
minh bạch và cụ thể, phù hợp với thông lệ quốc
tế thì càng tạo điều kiện thuận lợi và giảm
thiểu chi phí trung gian trong xuất nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ.
Bảy là, Phương thức giao thông vận tải,
thông tin liên lạc: Giao thông vận tải và thông
tin liên lạc là một phần không thể thiếu
trong xuất nhập khẩu, nó ảnh hưởng trực tiếp tới
chi phí cho hoạt động này và sự đảm bảo chất
lượng cho hàng hóa.
Tám là, Hệ thống tài chính, ngân hàng:
Yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong kinh
doanh ngoại thương. Mọi thanh toán trong kinh
doanh quốc tế đều thông qua hệ thống ngân
hàng.
1.2 Tăng trưởng kinh tế và phát triển bền
vững
1.2.1 Khái niệm:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của
GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu
người trong một thời gian nhất định. Tăng
trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của
nền kinh tế.
Trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005
của Việt Nam, quan điểm phát triển bền vững
được thể hiện như sau: “Phát triển bền vững là
4
phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện
tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng
nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở
kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh
tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi
trường”. Theo tác giả thì đây là định nghĩa có
tính tổng quát và nêu bật những yêu cầu và mục
tiêu trọng yếu nhất của phát triển bền vững, phù
hợp với điều kiện và tình hình ở Việt Nam.
1.2.2 Tiêu chí đánh giá phát triển bền
vững
Nhìn chung, trong các văn kiện này đã xác
định cụ thể, rõ ràng ba tiêu chí cần phát triển bền
vững: đó là kinh tế, xã hội và môi trường. Điều
đó có nghĩa là mục tiêu phát triển của các quốc
gia không chỉ là một nền kinh tế thịnh vượng với
khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại mà còn phải
chú trọng đến các vấn đề an sinh xã hội, phát
triển con người và bảo vệ môi trường sinh thái.
Phát triển bền vững phải giải quyết được hài hòa
các mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế - xã hội và
môi trường.
1.2.3 Mục tiêu phát triển bền vững ở Việt
Nam
Từ nội hàm khái niệm PTBV, ta có thể
thấy, để đạt được mục tiêu PTBV cần giải quyết
các vấn đề thuộc ba lĩnh vực là kinh tế, xã hội và
môi trường. [Error: Reference source not found]
Thứ nhất, bền vững về kinh tế. Mỗi nền
kinh tế được coi là bền vững cần đạt được những
yêu cầu sau: Có tăng trưởng về GDP và GDP
đầu người đạt mức cao; Sự chuyển dịch cơ cấu
GDP cũng là vấn đề quan trọng vì chỉ khi tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cao
hơn trong nông nghiệp thì tăng trưởng mới có
thể đạt được bền vững; Tăng trưởng kinh tế phải
là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp nhận
tăng trưởng bằng mọi giá.
Thứ hai, bền vững về xã hội. Tính bền
vững về phát triển xã hội ở mỗi quốc gia được
đánh giá bằng các tiêu chí như HDI, hệ số bình
đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế,
phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra,
bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã
hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng
trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch
giàu nghèo không cao quá và có xu hướng gần
lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền
không lớn.
Thứ ba, bền vững về môi trường. Quá trình
CNH-HDH, phát triển nông nghiệp, du lịch; quá
trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới,... đều
tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu
cực đến môi trường, điều kiện tự nhiên. Bền
vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự
nhiên đó, chất lượng môi trường sống của con
người phải được bảo đảm.
5
1.3 Tầm quan trọng của việc xuất khẩu
bền vững mặt hàng gạo
1.3.1 Vấn đề an ninh lương thực
An ninh lương thực có thể được hiểu theo
cách sau “đủ lương thực cung cấp cho mọi
người và những người làm nghề nông có cuộc
sống tốt đẹp như những ngành nghề khác”.
Về vấn đề an ninh lương thực của Việt
Nam, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khoảng
130 triệu người vào năm 2035 phải cần tới 36
triệu tấn thóc. Từ chỗ phải nhập khẩu lương
thực, Việt Nam đã có một sự chuyển mình đáng
tự hào, là nước xuất khẩu lúa gạo đứng hàng thứ
hai trên Thế giới..
1.3.2 Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
Xuất khẩu gạo sẽ thu được ngoại tệ, góp
phần vào tăng thu nhập quốc gia. Xuất khẩu gạo
bền vững không chỉ đóng góp giá trị vào sự tăng
trưởng GDP mà còn duy trì ổn định mức tăng
này, tạo nên tính ổn định cho tăng trưởng kinh
tế. Đồng thời chất lượng tăng trưởng nhờ
chuyển dịch cơ cấu, tăng năng suất, sử dụng
hiệu quả các yếu tố đầu vào… tạo điều kiện phát
triển cho các ngành khác giúp tăng trưởng kinh
tế đồng bộ.
1.3.3 Giải quyết việc làm, tăng thu nhập và
ổn định xã hội
Xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo góp
phần xóa đói giảm nghèo cho khu vực nông
thôn, giúp tạo công ăn việc làm cho người nông
dân. Khi gạo được xuất khẩu ngày càng nhiều,
cộng thêm chất lượng gạo cao hơn thì giá trị
xuất khẩu tăng, từ đó, thu nhập của người nông
dân cũng được cải thiện.
1.3.4 Góp phần bảo vệ môi trường
Việc sản xuất lúa gạo sẽ ảnh hưởng đến
các nguồn tài nguyên như đất, nước vì dư lượng
chất độc hại thải ra trong quá trình sản xuất sẽ
ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên. Cho nên,
xuất khẩu bền vững gạo sẽ hướng đến hoạt động
sản xuất và xuất khẩu lúa gạo hiện đại, sử dụng
kỹ thuật công nghệ ít làm tổn hại đến môi
trường như công nghệ sinh học, biến đổi gen,
phân vô sinh…
2. Thực trạng tình hình sản xuất và xuất
khẩu lúa gạo tại việt nam trong giai đoạn
2010-2014
2.1 Tình hình sản xuất và xuất khẩu lúa
gạo ở Việt Nam
2.1.1 Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam
Trong suốt một phần tư thế kỷ qua, ngành
sản xuất gạo của Việt Nam đã phát triển một
6
cách nhanh chóng và bền vững. Kết quả đạt
được này là do sự tăng năng suất đất đai và thâm
canh sản xuất. Sản xuất lúa gạo trong nước về
cơ bản đã tăng dần theo các năm từ 2000 đến
năm 2013, mặc dù diện tích đất lúa chỉ thay đổi
chút ít (Bảng 2-1).
Bảng 2-4 Diện tích, sản lượng và năng
suất lúa gạo của Việt Nam, 2000 - 2013
2.1.2 Tình hình xuất khẩu lúa gạo tại Việt
Nam
Biểu đồ 2-1: Khối lượng và giá trị xuất
khẩu gạo từ 2008 đến 2014 [Error: Reference
source not found]
Theo thống kê, xuất khẩu gạo năm 2014
đạt gần 6,38 triệu tấn, trị giá 2,96 tỷ USD (giảm
3,25% về lượng nhưng tăng nhẹ 1,03% về kim
ngạch so với năm 2013). Giá xuất khẩu bình
quân (giá FOB) là 436,92 USD/tấn. Ngoài ra,
xuất khẩu biên mậu thị trường Trung Quốc đạt
khoảng 1 triệu tấn. Năm 2014, Trung Quốc vẫn
là thị trường nhập khẩu gạo nhiều nhất của Việt
Nam với 2,09 triệu tấn, trị giá 891,19 triệu USD
(chiếm 31,64% về lượng và 30,16% tổng kim
ngạch). Như vậy, tổng lượng gạo xuất khẩu
trong năm 2014 đạt 7,5 triệu tấn. Ước tính khối
lượng gạo xuất khẩu tháng 1/2015 đạt 312.000
tấn, trị giá 152 triệu USD, giảm 14,5% về lượng
và giảm 12,7% về giá trị so với tháng 1/2014.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có một số thị
trường lớn đạt kim ngạch trên 100 triệu USD
như: Philippines (đạt 1,35 triệu tấn, tương đương
608,53 triệu USD), Malaysia (đạt 472.893 tấn,
tương đương 216 triệu USD), Indonesia (đạt
327.648 tấn, tương đương 150,62 triệu USD),
Gana (đạt 322.131 tấn, tương đương 177,86
triệu USD), Bờ biển Ngà (đạt 214.204 tấn,
tương đương 104,92 triệu USD).
Một thực tế đáng buồn trong xuất khẩu gạo
của Việt Nam không chỉ là Việt Nam chưa có
thương hiệu mạnh mà là gạo Việt Nam mang
7
Năm 2000 2005 2010 2011 2012 2013
Diện tích trồng
lúa (triệu ha)
6,67 7,33 7,49 7,65 7,75 7,9
Tổng sản lượng
(triệu tấn)
32,51 35,64 39,99 42,31 43,7 44,1
Năng suất
(tạ/ha)
42,4 48,9 53,4 55,3 56
thương hiệu Trung Quốc. Trong khi gạo
Campuchia “ngồi” chễm chệ trên kệ hàng trong
các siêu thị ở Trung Quốc, các nước châu Âu thì
gạo Việt Nam vừa cập cảng đã bị các doanh
nghiệp nước nhập khẩu “thay tên, đổi họ”.
Chính vì vậy, người tiêu dùng nước nhập khẩu
không biết đến thương hiệu gạo Việt.
2.2 Đánh giá thực trạng xuất khẩu bền
vững của mặt hàng gạo
2.2.1 Bền vững về mặt kinh tế:
- Quy mô tăng trưởng sản xuất và xuất
khẩu: Như đã trình bày ở trên, sản lượng gạo
xuất khẩu của Việt Nam tăng đều qua các năm.
Năm 2012, sản lượng gạo xuất khẩu đạt mức
cao nhất, sau đó giảm dần qua các năm 2013 và
2014. Điều đó cho thấy, việc xuất khẩu gạo của
Việt Nam đã có chiều hướng giảm do phải cạnh
tranh gay gắt với các nước bạn. Song, việc giảm
sản lượng gạo xuất khẩu vẫn chưa đáng quan
ngại bằng việc giảm giá trị kim ngạch thu được
từ xuất khẩu. Đơn cử là trường hợp năm 2012,
sản lượng gạo xuất khẩu cao hơn năm 2011
nhưng giá trị kim ngạch thu về lại thấp hơn
2011. Điều đó chứng tỏ giá xuất khẩu của gạo
Việt Nam giảm nghĩa là chất lượng gạo xuất
khẩu của Việt Nam chưa cao. Sang năm 2013 và
2014 thì giá trị kim ngạch thu về lại có chiều
hướng đi xuống nhanh hơn. Như chúng ta đã
thấy, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
gạo còn phụ thuộc nhiều vào biến động nhu cầu
và giá cả trên thị trường, Việt Nam chưa dành
được thế chủ động. Sở dĩ như vậy là do hoạt
động xuất khẩu gạo Việt Nam còn nhiều hạn chế
và yếu kém sau: Thứ nhất, sản xuất nhỏ, phân
tán, chưa có tổ chức nên bị giảm năng lực mặc
cả, vì vậy nông dân sẽ là người chịu thiệt thòi;
Thứ hai, tổ chức kênh phân phối hàng có nhiều
trung gian và chưa hiệu quả nên khả năng truyền
thông tin kém; Thứ ba, năng lực đàm phán ký
kết hợp đồng còn yếu, năng lực đánh giá và
nghiên cứu thị trường chưa cao dẫn đến những
kế hoạch xuất khẩu không hợp lý; Thứ tư, còn
kém trong xây dựng thương hiệu, đóng gói bao
bì nhãn mác; Thứ năm, do phần lớn các doanh
nghiệp xuất khẩu gạo có năng lực tài chính hạn
chế, không đủ vốn và chủ yếu dựa vào vốn vay
ngân hàng, nên sức cạnh tranh yếu.
- Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu:
Sau nhiều năm chỉ chú trọng tăng về quy mô khi tham gia thị trường xuất khẩu gạo thì đến nay, Việt Nam đã và đang quan tâm đến việc cải thiện chất lượng gạo để nâng cao dần giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, cho đến nay, dù Việt Nam là cường quốc thứ 2 thế giới
về xuất khẩu gạo, nhưng phần lớn gạo xuất khẩu
vẫn là gạo chất lượng thấp, chưa có những
thương hiệu gạo mạnh. Những tồn tại trên do nhiều nguyên nhân: Thứ nhất, sản
8
xuất lúa chưa thật sự chú trọng đến việc nâng cao chất lượng, nhiều địa phương còn sử dụng các loại giống lúa cũ thoái hóa, các giống lúa cao sản ngắn ngày nhưng chất lượng thấp; Thứ hai, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ chế biến, bảo quản lúa gạo xuất khẩu còn thô sơ và phân bố chưa đều; Thứ ba, sản xuất lúa đặc sản theo hướng liên kết sản xuất và tiêu thụ trong thời gian qua cũng chưa bền vững, một số doanh nghiệp còn thiếu nguồn vốn và nhân lực thực hiện, tổ chức sản xuất của nông dân còn rời rạc.
- Mức đóng góp của xuất khẩu vào tăng
trưởng kinh tế: Như đã trình bày ở trên, rõ ràng
Gạo là mặt hàng nông sản xuất khẩu lớn nhất
trong các loại hàng nông sản của Việt Nam,
hàng năm kim ngạch xuất khẩu gạo khoảng trên
dưới 3 tỷ USD, đóng góp một phần đáng kể vào
thu nhập quốc dân.
2.2.2 Bền vững về mặt xã hội:
Dân số Việt Nam hiện nay có trên 90 triệu
người, trong đó dân số sống bằng nghề nông
chiếm 70% dân số cả nước, mà ngành nông
nghiệp nước ta chủ yếu là trồng lúa, (Theo thông
tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát trển Nông thôn,
tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản
của toàn ngành nông nghiệp đạt 30,86 tỷ USD,
trong đó kim ngạch xuất khẩu gạo là 3,04 tỷ
USD– năm 2014), vì thế việc đẩy mạnh sản xuất
và xuất khẩu lúa gạo không chỉ giải quyết được
vấn đề an ninh lương thực và an sinh xã hội của
quốc gia mà còn góp phần quan trọng ổn định xã
hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động, ổn
định phát triển kinh tế.
Như chúng ta đã biết, lao động trong nông
nghiệp là lao động vất vả nhưng thu nhập có
được lại không cao, một trong những lý do đó là
năng suất thấp.
2.2.3 Bền vững về mặt môi trường
Đóng góp khoảng 24% GDP và 30% giá trị
xuất khẩu, sản xuất nông nghiệp có vai trò quan
trọng trong nền kinh tế nước ta. Song, bên cạnh
những thành tựu đạt được, tình trạng ô nhiễm
môi trường trong sản xuất nông nghiệp và nông
thôn vẫn diễn ra ngày càng nghiêm trọng, một số
ví dụ cụ thể:
- Theo thống kê, mỗi năm khu vực nông
thôn nước ta phát sinh trên 13 triệu tấn rác thải
sinh hoạt, khoảng 1,3 triệu m³ nước thải và
7.500 tấn vỏ bao thuốc bảo vệ thực vật, hầu hết
đều xả thải trực tiếp ra môi trường xung quanh.
- Do thâm canh tăng vụ, tăng sản lượng,
tình trạng sâu bệnh gia tăng đi kèm với sự suy
giảm độ phì nhiêu của đất khiến nông dân gia
9
tăng việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân
bón vượt mức cho phép nhiều lần. Việc lạm
dụng thuốc bảo vệ thực vật, không tuân thủ các
quy trình kỹ thuật sử dụng đã làm cho đất bị
chai cứng, nguồn nước bị ô nhiễm, có thể gây
đột biến gen trên một số loại cây trồng.
3. Giải pháp thúc đẩy tình hình xuất khẩu
mặt hàng gạo tại việt nam tăng trưởng bền
vững.
3.1 Quan điểm của Đảng về về phát triển
bền vững và xuất khẩu phục vụ phát triển
bền vững ở Việt Nam thời kỳ 2011-2020
3.1.1 Quan điểm của Đảng về phát triển bền
vững thời kỳ 2011-2020
“PTBV là cơ sở để phát triển nhanh, phát
triển nhanh để tạo nguồn lực cho PTBV. Phát
triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với
nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách
phát triển kinh tế - xã hội”.
3.1.2 Quan điểm về xuất khẩu phục vụ phát
triển bền vững ở việt nam thời kỳ 2011-2020
Trên cơ sở quan điểm của Đảng về phát
triển kinh tế thời kỳ 2011-2020, quan điểm cụ
thể để phát triển xuất khẩu ở Việt Nam trong
thời gian tới là:
Thứ nhất, Phát triển xuất khẩu trên cơ sở
khai thác triệt để lợi thế so sánh và lợi thế cạnh
tranh, đảm bảo tốc độ và chất lượng tăng trưởng
cao, góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững.
Thứ hai, Phát triển xuất khẩu trên cơ sở
khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên, hạn chế
ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên, nâng
cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu
chuẩn môi trường của hàng hóa xuất khẩu.
Thứ ba, Phát triển xuất khẩu góp phần
thực hiện các mục tiêu xã hội như xóa đói giảm
nghèo, tạo nhiều việc làm đảm bảo công bằng xã
hội, chia sẻ lợi ích hợp lý giữa các thành phần
tham gia xuất khẩu.
3.2 Giải pháp xuất khẩu mặt hàng gạo
Việt Nam tăng trưởng bền vững
3.2.1 Giải pháp đảm bảo xuất khẩu gạo tăng
trưởng cao
Thứ nhất: Hoàn thiện cơ chế, chính sách:
Nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính
sách về đất đai; chính sách tín dụng và đầu tư
cho sản xuất lúa gạo. Bổ sung, đổi mới chính
sách và giải pháp thị trường, chú trọng phát triển
các ngành công nghiệp hỗ trợ trực tiếp cho sản
xuất, chế biến và lưu thông lúa gạo, như sản
xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công cụ
cơ giới nông nghiệp, các cơ sở chế biến, bảo
quản, vận chuyển,... Bên cạnh đó, Bộ, ngành
chức năng, địa phương và VFA cần rà soát việc
thực hiện các cơ chế, chính sách liên quan để
10
góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất là
những khó khăn về vốn, tín dụng, tài chính để
tạo điều kiện hỗ trợ hoạt động kinh doanh của
thương nhân, thúc đẩy xuất khẩu gạo.
Thứ hai: Thay đổi cơ cấu gạo xuất khẩu
theo hướng tăng tỷ trọng gạo chất lượng cao,
đảm bảo chất lượng đồng nhất và an toàn vệ
sinh thực phẩm.
Để làm tốt điều này, trong thời gian tới,
Việt Nam cần phải tập trung vào một số hướng
chính sau: Quy hoạch vùng sản xuất lúa gạo
xuất khẩu với chất lượng cao; Cơ cấu lại giống
lúa theo hướng nâng cao chất lượng để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu;
Thực hiện chính sách bảo hiểm sản xuất lúa gạo
để nông dân yên tâm đầu tư phát triển các loại
lúa mới có chất lượng cao.
Thứ ba: Đầu tư vùng nguyên liệu xuất
khẩu: Để mở rộng qui mô sản xuất, cải thiện
chất lượng giống lúa và nâng cao lợi thế cạnh
tranh trên thị trường thế giới, cần xây dựng các
vùng nguyên liệu theo qui mô sản xuất lớn
(nông trại từ 1.000 ha – 5.000 ha), tiến hành cơ
giới hóa việc canh tác, thu hoạch, xử lý sau thu
hoạch để không chỉ giảm tổn thất về số lượng,
nâng cao chất lượng gạo, mà còn đảm bảo đáp
ứng được yêu cầu truy xuất nguồn gốc nguyên
liệu của các nhà nhập khẩu. Đồng thời, cần phải
đẩy mạnh công tác nghiên cứu lai tạo giống lúa
đảm bảo cho các vùng chuyên canh lúa xuất
khẩu sử dụng đầy đủ giống lúa đã qua xác nhận,
lúa hàng hóa có độ thuần chủng cao để đáp ứng
nhu cầu cao của khách hàng theo từng thị trường
riêng biệt.
Bên cạnh đó, phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ trực tiếp cho sản xuất, chế biến và
lưu thông lúa gạo như: sản xuất phân bón, thuốc
bảo vệ thực vật, công cụ cơ giới nông nghiệp,
các cơ sở chế biến, bảo quản, vận chuyển,...
Thứ tư: Xây dựng thương hiệu cho gạo
xuất khẩu.
Thứ năm: Mở rộng thị trường xuất khẩu:
Thực hiện chiến lược đa dạng hóa thị trường với
các biện pháp như: tiếp tục giữ vững thị trường
quen thuộc và truyền thống như Malaysia,
Singapore, Trung Đông, Nam Phi,…; chinh
phục các thị trường mới như Châu Âu, Mỹ….
Thứ sáu: Huy động vốn và hỗ trợ vốn cho
xuất khẩu gạo
Đầu tư nước ngoài vào ngành nông nghiệp
đặc biệt là sản xuất và xuất khẩu gạo là rất ít. Do
đó cần có các chính sách thu hút nguồn vốn đầu
tư từ nước ngoài (FDI) cho các dự án đầu tư sản
xuất nguồn giống có chất lượng cao, nâng cao
năng lực sau thu hoạch, đầu tư vào quá trình sản
xuất và bao tiêu sản phẩm, có cơ chế hỗ trợ về
thuế, về ưu đãi đầu tư, rút ngắn và đơn giản hóa
thủ tục đầu tư; Khuyến khích các công ty lương 11
thực có tiềm lực về tài chính đầu tư vốn cho
nông dân sản xuất lúa và bao tiêu sản phẩm bằng
các hình thức khác nhau như hỗ trợ nguồn vật tư
đầu vào, cung cấp giống có chất lượng cao; Nhà
nước có chính sách về tín dụng cho nông dân
thông qua các hình thức tín chấp qua các tổ,
nông hội, hội phụ nữ…để đảm bảo nguồn vốn
vay; Đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ cho nông
thôn.
Thứ bảy: Hoàn thiện và tăng cường liên
kết 4 nhà (nhà nông - nhà khoa học - nhà doanh
nghiệp - nhà nước)
Có thể nói liên kết 4 nhà là một trong
những phương thức tốt nhất cho phép người
nông dân tận dụng được nhiều lợi thế để phát
triển sản xuất; nhà khoa học có điều kiện để thực
hiện năng lực chuyên môn và tăng thu nhập; nhà
doanh nghiệp có cơ hội tìm được những sản
phẩm đáp ứng được nhu cầu thị trường; Nhà
nước có điều kiện thể hiện rõ vai trò của mình
với tư cách người nhạc trưởng; Nhà nông cần
đứng chung với doanh nghiệp, nhà khoa học
dưới sự tác động hỗ trợ của chính sách nhà
nước. Các chủ thể này phải liên kết với nhau vì
lợi ích của mình và tôn trọng lợi ích của các chủ
thể khác trong chuỗi ngành hàng
3.2.2 Giải pháp giải quyết hài hòa giữa tăng
trưởng xuất khẩu với yếu tố xã hội
Tăng trưởng xuất khẩu phải đảm bảo vấn đề an ninh lương thực quốc gia: Cần phải thành lập một cơ quan chuyên trách về “hệ thống thông tin an ninh lương thực”, với các nhiệm vụ: Kiện toàn và tăng cường hệ thống giám sát, theo dõi diễn biến sản xuất, dự báo sản lượng lương thực đối với cả nước và từng địa phương đến cấp huyện, cảnh báo diễn biến bất lợi thời tiết tác động tới an ninh lương thực để có các giải pháp ứng phó kịp thời có hiệu quả; Hoàn thiện hệ thống thông tin và dự báo thị trường lương thực trong nước và quốc tế vừa để ổn định thị trường và an ninh lương thực quốc gia, vừa không để lỡ cơ hội xuất khẩu có hiệu quả.
Tăng trưởng xuất khẩu phải đảm bảo nâng cao thu nhập cho người nông dân: Cần thiết phải xem sản xuất lúa là một nghề chuyên nghiệp và có chính sách hỗ trợ một bộ phận nông dân duy trì sản xuất lúa vì hiện nay thu nhập của người trồng lúa là thấp nhất so với các loại hình sản xuất nông nghiệp khác, trong khi đó họ lại
12
có những đóng góp quan trọng cho chiến lược an ninh lương thực. Để làm tốt điều này, Chính phủ cần thực hiện một số chính sách như: Tiến hành thực hiện bảo hiểm giá lúa cho nông dân, xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích bình đẳng (chính sách giá, chính sách thu mua lúa gạo) trong xuất khẩu gạo tránh tình trạng người nông dân thực hiện nhiều công việc nhất nhưng lại hưởng ít lợi ích nhất mà lợi nhuận chủ yếu rơi vào tay thương lái và công ty xuất khẩu; Giảm bớt khâu trung gian mua lúa, tối ưu hoá hệ thống kinh doanh: gạo của nông dân - nhà máy xay lúa - nhà xuất khẩu; Cơ giới hoá trong sản xuất để giảm chi phí sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân; đồng thời hướng việc sản xuất lúa PTBV theo hướng công nghiệp hóa. Bên cạnh đó, cần có các biện pháp đào tạo nâng cao trình độ cho người nông dân, trước tiên là giáo dục nhận thức cho họ, sau đó là đào tạo về kỹ thuật, nâng cao khả năng tiếp nhận công nghệ,… để hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại.
3.2.3 Giải pháp giải quyết hài hòa giữa tăng
trưởng xuất khẩu với yếu tố môi trường
Sản xuất lúa gạo ngoài việc nâng cao năng suất chất lượng để tăng trưởng xuất khẩu, nâng cao thu nhập cho người trồng lúa cũng cần phải chú ý đến việc duy trì độ phì nhiêu cho đất, bảo vệ môi trường sinh thái và an toàn sinh học. Một số giải pháp cụ thể như sau:
Trước tiên, nâng cao nhận thức về môi trường đối với cơ quan quản lý, doanh nghiệp và nhất là người nông dân bởi vì quá trình trồng lúa ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường đất. Tổ chức tuyên truyền cho nông dân ý thức về môi trường xung quanh hoạt động trồng lúa, từ đó hướng dẫn, tập huấn cách sử dụng các loại phân bón hữu cơ, cách canh tác giúp tái tạo lại đất, sử dụng các loại thuốc trừ sâu thân thiện với môi trường, ít dư lượng có hại cho môi trường và con người. Đồng thời rà soát, nâng cao năng lực quản lý
nhà nước về môi trường; hướng dẫn các quy
định về quan trắc môi trường, đánh giá môi
trường chiến lược và đánh giá tác động môi
trường nông nghiệp; kiểm soát ô nhiễm và cảnh
13
báo dịch bệnh trong các lĩnh vực sản xuất của
ngành nông nghiệp;
Thứ hai, thực hiện bảo vệ và cải thiện
môi trường, chống ô nhiễm tài nguyên đất trong
sản xuất nông nghiệp.
Trong thời gian tới cần triển khai thực hiện
các giải pháp như tăng năng suất nông nghiệp
thông qua việc tăng cường sử dụng các kiểu gen
có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh và thích
ứng các điều kiện khó khăn, duy trì độ phì của
đất, tính đa dạng của cây trồng, áp dụng luân
canh cây trồng. Cần lai tạo ra những giống cây
trồng kháng bệnh, ít sâu bệnh hại, chống chịu tốt
đối với môi trường sống và nhanh chóng đưa
vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp.
Tiếp tục triển khai nhiều chương trình huấn
luyện cho nông dân, đặc biệt là chương trình
IPM và “3 giảm, 3 tăng”, “5 phải, 1 giảm”;
VietGAP, GlobalGAP…
Thứ ba, tiến tới một nền nông nghiệp hữu cơ: Trong nông nghiệp hữu
cơ, nông dân không sử dụng phân bón hóa học và các chất kích thích tăng trưởng; không sử dụng các hóa chất bảo vệ thực vật hoặc các chất diệt cỏ và các chế phẩm biến đổi gen. Do đó, sản phẩm nông nghiệp hữu cơ có chất lượng cao và bảo đảm an toàn cho sức khỏe con người và thân thiện với môi trường.
Tóm lại, các biện pháp về kinh tế, xã hội môi trường đều có sự liên hệ với nhau. Khi áp dụng các biện pháp để tăng trưởng xuất khẩu về mặt kinh tế, cần tính toán sự ảnh hưởng của nó đến xã hội và môi trường, để hài hòa các mục tiêu sao cho xuất khẩu tăng trưởng bền vững. Có những biện pháp chỉ đáp ứng được mục tiêu kinh tế mà không giải quyết được các mục tiêu xã hội và môi trường thì cần xem xét và tìm giải pháp để hài hòa cả 3 yếu tố với nhau.
14
15