c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ g¾n víi ph¸t triÓn kinh tÕ ... · g¾n víi ph¸t triÓn...
Post on 28-Oct-2019
8 Views
Preview:
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VƯƠNG PHƯƠNG HOA
C«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸G¾n víi ph¸t triÓn kinh tÕ tri thøc
ë thµnh phè ®µ n½ng
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2014
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VƯƠNG PHƯƠNG HOA
C«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸G¾n víi ph¸t triÓn kinh tÕ tri thøc
ë thµnh phè ®µ n½ng
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 62 31 01 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS AN NHƯ HẢI
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả số liệu nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các cơ quan chức
năng đã công bố. Những kết luận của luận án là kết quả
nghiên cứu của tác giả.
Tác giả luận án
Vương Phương Hoa
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VẤN
ĐỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC 6
1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phát triển kinh tế tri thức 6
1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức 9
1.2.1. Sách tham khảo, chuyên khảo 9
1.2.2. Đề tài khoa học, luận án tiến sĩ 15
1.2.3. Các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành 18
1.3. Những "khoảng trống" trong nghiên cứu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức trên phạm vi một tỉnh, thành phố 18
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
TRÊN PHẠM VI MỘT TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM 21
2.1. Quan niệm và sự cần thiết phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức 21
2.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế tri thức 21
2.1.2. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam 31
2.2. Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức trên phạm vi một tỉnh, thành phố ởViệt Nam 36
2.2.1. Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức trên phạm vi một tỉnh, thành phố ở Việt Nam 37
2.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức trên phạm vi một tỉnh, thành
phố ở Việt Nam 47
2.3. Kinh nghiệm của một số nước về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức 54
2.3.1. Kinh nghiệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng tri
thức của Singapore 54
2.3.2. Kinh nghiệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức của Hàn Quốc 58
2.3.3. Kinh nghiệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức của một số tỉnh/thành phố ở Việt Nam 61
2.3.4. Bài học kinh nghiệm rút ra để thành phố Đà Nẵng có thể tham khảo 65
Chương 3: THỰC TRẠNG CÔNG NGHIÊP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY 67
3.1. Thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội đối với
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở
thành phố Đà Nẵng. 67
3.1.1. Thuận lợi 67
3.1.2. Khó khăn 72
3.2. Quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 đến nay 74
3.2.1. Quán triệt và vận dụng đường lối, chủ trương của Đảng về đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức 74
3.2.2. Tình hình tổ chức tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức 75
3.3. Đánh giá thực trạng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng 92
3.3.1. Những kết quả đạt được 92
3.3.2. Những hạn chế, bất cập trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố
Đà Nẵng thời gian qua và nguyên nhân 98
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂNKINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 110
4.1. Dự báo và phương hướng tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng đến năm 2020 110
4.1.1. Dự báo tính hình thế giới và trong nước có ảnh hưởng đến việc
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng 110
4.1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng 112
4.1.3. Phương hướng tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng 117
4.2. Giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng 128
4.2.1. Tăng cường công tác dự báo, quản lý quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức 128
4.2.2. Khai thác, phát triển và sử dụng các nguồn lực 133
KẾT LUẬN 150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB : The Asian Development Bank
Ngân hàng phát triển châu Á
AFTA : Asean Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do Asean
APEC : Asia and Pacific Economic Cooperation
Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN : Association of South - East Asian Nations
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ASEM : The Asia-Europe Meeting
Diễn đàn hợp tác Á - Âu
CN : : Công nghệ
CNH : Công nghiệp hóa
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
FDI : Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GAP : Good Agriculturial Practices
Thực hành nuôi trồng tốt
GDP : Gross Domestic product
Tổng sản phẩm quốc nội
GMP : Good Manufacturing Practices
Thực hành tốt sản xuất thuốc
h : Hệ số hao mòn hữu hình
HĐH : Hiện đại hóa
ICT : Information and Communication Techonology
CN thông tin và truyền thông
Ihđ : Tỷ trọng thiết bị hiện đại
IMF : International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
KCN : Khu công nghiệp
KCX : Khu chế xuất
Kđm : Hệ số đổi mới thiết bị
KH : Khoa học
KH&CN : Khoa học và CN
KTTT : Kinh tế tri thức
Nxb : Nhà xuất bản
ODA : Official Development Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
R&D : Research & Deployment
Nghiên cứu và triển khai
TCCN : Trung cấp chuyên nghiệp
UBND : Ủy ban nhân dân
WB : World Bank - Ngân hàng thế giới
WHO : World Health Organization
Tổ chức y tế thế giới
WTO : World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Cơ cấu kinh tế ngành của thành phố Đà Nẵng 78
Bảng 3.2: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động ở
thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 - 2012 89
Bảng 3.3: Cơ cấu lao động theo ngành nghề từ năm 2001 đến nay 91
Bảng 3.4: Cơ cấu lao động một số ngành từ năm 2001 đến nay 91
Bảng 3.5: Diện tích quy hoạch và lĩnh vực đầu tư tại các khu Công
nghiệp của thành phố Đà Nẵng 93
Bảng 3.6: Trình độ CN của các ngành công nghiệp Đà Nẵng 100
Bảng 4.1: Dự báo GDP (giá 1994) và tăng trưởng kinh tế giai đoạn
2011 - 2020 115
Bảng 4.2: Dự báo cơ cấu kinh tế thành phố giai đoạn 2011 - 2020 116
DANH MỤC HÌNH
Trang
Hình 3.1: Cơ cấu kinh tế ngành của Đà Nẵng năm 2001 - 2012 78
Hình 3.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố Đà Nẵng từ
năm 2001 đến nay 94
Hình 3.3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng theo ngành
(tính đến 10-2013) 97
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hóa (CNH) là con đường tất yếu mà mọi quốc gia đều
phải trải qua trong quá trình phát triển để trở thành một nền kinh tế hiện
đại. Xét về lịch sử, CNH được diễn ra đầu tiên ở nước Anh vào 30 năm
cuối thế kỷ XVIII. Đến nay, đã có nhiều quốc gia hoàn thành CNH và đang
tiến mạnh vào nền kinh tế hiện đại với xu hướng nổi bật là phát triển nền
kinh tế tri thức. Tuy nhiên, còn không ít quốc gia, trong đó có Việt Nam,
chưa đạt tới nền công nghiệp phát triển mà vẫn còn trong tình trạng nền
kinh tế đang phát triển.
Đà Nẵng thành phố thuộc vùng Nam Trung Bộ, một trong 5 thành phố
trực thuộc Trung ương ở Việt Nam. Nằm ở vị trí trung độ của đất nước, có vị
trí trọng yếu cả về kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh. Đầu mối giao thông
quan trọng về đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không, cửa ngõ
chính ra biển Đông của các tỉnh Miền Trung, Tây Nguyên và các nước tiểu
vùng Mê Kông. Sau ngày giải phóng (năm 1975) đến nay, Đà Nẵng cùng với
cả nước bước vào thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Một trong những nhiệm vụ
quan trọng nhất đặt ra đối với Thành phố thời kỳ này là thực hiện CNH để
chuyển các hoạt động kinh tế-xã hội từ trình độ lạc hậu lên tiên tiến, hiện đại.
Trước đổi mới (năm 1986), CNH ở thành phố diễn ra trong bối cảnh
tình hình trong nước và quốc tế luôn diễn biến phức tạp và không thuận
chiều. Một mặt, thành phố phải cùng với cả nước đối phó với cuộc chiến
tranh biên giới phía bắc và sự cấm vận của Mỹ. Mặt khác, do chủ quan duy
ý trí trong nhận thức, tổ chức thực hiện, nên kết quả đạt được về CNH còn
hạn chế. Trình độ kinh tế-xã hội ở Đà Nẵng vẫn chưa ra khỏi tình trạng lạc
hậu và kém phát triển.
Từ khi đổi mới đến nay, nhận thức về con đường phát triển kinh tế-xã
2
hội của cả nước nói chung, thành phố Đà Nẵng nói riêng, đã có nhiều chuyển
biến tích cực. Theo đó, quan điểm, đường lối về CNH đã được nhận thức ở tầm
cao hơn và sâu sắc hơn. Kể từ sau Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khoá VII
của Đảng Cộng sản Việt Nam (1/1994), thành phố Đà Nẵng cùng với cả nước
bước sang một thời kỳ mới - thời kỳ CNH gắn với HĐH. Tiếp đến, từ Đại hội
IX của Đảng (năm 2001) đến nay, để tranh thủ cơ hội được tạo bởi bối cảnh
mới của thế giới, Đà Nẵng cùng với cả nước tiến hành công cuộc phát triển
kinh tế-xã hội lấy CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức làm nền tảng.
Nhìn lại 13 năm thực hiện, nhờ tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng,
cải thiện môi trường, giải quyết vấn đề an sinh xã hội, trình độ KH&CN của
Thành phố đã có nhiều tiến bộ; năng suất, chất lượng, hiệu quả của hoạt động
kinh tế-xã hội được nâng lên. Tăng trưởng kinh tế và mức sống của người dân
không ngừng được cải thiện, Đà Nẵng được coi là "thành phố đáng sống" của
Việt Nam. Tuy nhiên, so với tiềm năng hiện có và mục tiêu phát triển, những
kết quả đạt được vừa qua của Thành phố còn rất khiêm tốn. Tăng trưởng kinh
tế chưa ổn định, vẫn chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào khai thác tài nguyên,
lao động giá rẻ và tăng cường vốn đầu tư. Trình độ KH&CN của nhiều cơ sở
sản xuất còn lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng, chi phí sản xuất cao, năng
suất, chất lượng sản phẩm thấp. Để xây dựng thành phố văn minh, hiện đại,
phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm, của doanh nghiệp trên thị trường, hội nhập sâu hơn vào các quan
hệ kinh tế quốc tế. Quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở
Đà Nẵng còn rất nhiều vấn đề cần được giải quyết.
Để góp phần vào giải pháp cho vấn đề này, là một cán bộ giảng dạy và
nghiên cứu khoa học gắn trực tiếp với các hoạt động kinh tế - xã hội của Thành
phố, tôi lựa chọn đề tài: "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển
kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng" để nghiên cứu làm luận án tiến sĩ
chuyên ngành Kinh tế chính trị tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ sự cần thiết, xác định nội dung CNH, HĐH gắn với
phát triển kinh tế tri thức, luận án phân tích và đánh giá thực trạng CNH,
HĐH gắn với phát triển KTTT ở thành phố Đà Nẵng để đề xuất giải pháp
nhằm thúc đẩy hơn nữa tiến trình này, phấn đấu đưa Đà Nẵng sớm trở thành
thành phố công nghiệp theo hướng hiện đại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về CNH, HĐH gắn với phát
triển KTTT vận dụng trên địa bàn một tỉnh, thành phố.
- Phân tích và đánh giá thực trạng CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT
ở thành phố Đà Nẵng từ khi có chủ trương của Đảng và Nhà nước đến nay.
- Đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa CNH, HĐH gắn với phát
triển KTTT ở thành phố Đà Nẵng thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở thành phố
Đà Nẵng dưới góc độ Kinh tế chính trị.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Phạm vi cả nước và thế giới để nghiên cứu cơ sở lý
luận, kinh nghiệm thực tiễn. Địa bàn thành phố Đà Nẵng được xác định là
phạm vi nghiên cứu thực trạng để đề xuất giải pháp thúc đẩy phát triển.
- Về thời gian: Tác giả giới hạn phạm vi phân tích, đánh giá thực trạng
từ khi Đảng và Nhà nước có chủ trương gắn CNH, HĐH với phát triển kinh tế
tri thức (năm 2001) đến nay. Phần dự báo, đề xuất phương hướng, giải pháp
thúc đẩy CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT được tính từ nay đến năm 2020
và triển vọng đến giữa thế kỷ XXI, tức là đến thời điểm mà Đà Nẵng cùng với
4
cả nước trở thành một thành phố công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối chủ trương đổi mới của Đảng, pháp luật, chính sách
của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và đẩy mạnh CNH,
HĐH gắn với phát triển KTTT nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị
bao gồm: phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp kết hợp giữa phân tích
và tổng hợp, phương pháp logic kết hợp lịch sử và phương pháp so sánh để
tiến hành nghiên cứu đề tài.
- Bên cạnh đó, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế
học như phương pháp cân bằng, phương pháp toán học, phương pháp chuyên
gia. Đồng thời, luận án còn kế thừa, tiếp thu chọn lọc những thành tựu mới
của các công trình khoa học đã công bố có liên quan.
5. Đóng góp về khoa học của luận án
- Hệ thống hóa lý luận về CNH, HĐH, từ góc độ của kinh tế chính trị
học. Luận án đưa ra khái niệm và làm rõ nội dung CNH, HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức trên cơ sở kế thừa tư tưởng của C.Mác, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam và các công trình nghiên cứu trước đó. Qua đó, chỉ
ra sự cần thiết phải CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT; những nhân tố ảnh
hưởng đến CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT trên phạm vi một tỉnh, thành
phố ở Việt Nam.
- Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm phát triển CNH, HĐH của nước
Đông Á, một số tỉnh ở Việt Nam, luận án rút ra một số bài học kinh nghiệm
5
có khả năng vận dụng để phát triển CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở
thành phố Đà Nẵng.
- Phân tích và đánh giá thực trạng CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT
ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 đến nay, làm rõ những thành công, hạn
chế, nguyên nhân của quá trình này.
- Đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH gắn với phát
triển KTTT ở thành phố Đà Nẵng đến năm 2020.
- Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể làm tài liệu tham khảo cho
các cơ quan ban ngành có liên quan đến việc hoạch định chiến lược, chính
sách CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và
cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
bảng, danh mục hình và phụ lục, luận án được kết cấu thành 4 chương, 11 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN VẤN ĐỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT là con đường của nước đi sau
nhằm tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi
thế của đất nước để rút ngắn quá trình phát triển, sớm trở thành một xã hội
hiện đại. Đây là vấn đề còn khá mới mẻ. Đến nay vẫn chưa có những nghiên
cứu mang tính hệ thống lý luận chặt chẽ và giải pháp đồng bộ, có hiệu quả về
vấn đề này ở trên thế giới và trong nước. Tuy vậy, vẫn có thể tìm thấy những
ý tưởng, quan niệm và phương thức tổ chức thực tiễn có liên quan trực tiếp
đến CNH, HĐH gắn với KTTT. Dưới đây là tổng quan những kết quả nghiên
cứu đã công bố về vấn đề này những năm gần đây.
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI VỀ CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Dong Fureng trong cuốn Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn Trung
Quốc [134] đã hướng vào phân tích kinh nghiệm lịch sử của Trung Quốc về
CNH trong thời gian gần đây. Từ nhận thức vai trò của nông thôn trong quá
trình HĐH đất nước, tác giả đã tập trung phân tích thực trạng HĐH nông thôn
và chỉ ra rằng, có nhiều vùng nông thôn của Trung Quốc vẫn gặp phải những
vấn đề kinh tế, xã hội tương tự các nước đang phát triển khác như: dân số
nông thôn đông, năng suất lao động thấp, lực lượng lao động dồi dào nhưng
đội ngũ lao động có tri thức trong nông thôn còn mỏng, sản xuất phân tán,
manh mún, thiết bị về CN chế biến lạc hậu. Để hạn chế và khắc phục tình
trạng này, tác giả đã chỉ ra con đường phát triển nông thôn trong chiến lược
của Trung Quốc và đề xuất các giải pháp cụ thể. Theo tác giả, muốn thành
công trong CNH đất nước, Trung Quốc không thể không kết hợp giữa CNH
7
thành thị và CNH nông thôn. Phải xác định rõ mô hình phát triển công nghiệp
nông thôn, xác định rõ vai trò kinh doanh của hộ gia đình trong việc khai
thác, phát huy các nguồn lực, trong đó có nguồn lực lao động đang còn dư
thừa ở nông thôn. Phát triển kinh tế nông thôn theo hướng đa dạng hoá, CNH
phải được tiến hành theo "hai quỹ đạo": thành thị và nông thôn; lấy CNH
thành thị để thúc đẩy CNH nông thôn.
K.S. Jomo [136] bàn về một số vấn đề CNH ở khu vực các nước Đông
Nam Á bao gồm Singapore, Malaysia, Thái Lan và Indonesia. Và đặc biệt chú
ý phân tích, đánh giá sự thành công của khu vực này làm bài học kinh
nghiệm cho các nước. Trong đó, chỉ rõ việc CNH ở các nước Đông Nam Á là
cần thiết, nhưng nó lại tuỳ thuộc vào điều kiện địa lý, nguồn tài nguyên, lợi
thế của các nước mà tiến hành CNH có thể khác nhau. Trước những năm 70
của thế kỷ XX, các nước này áp dụng mô hình CNH thay thế nhập khẩu
nhưng sau đó chuyển sang CNH hướng vào xuất khẩu đã thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Qua phân tích, tác giả còn khẳng định để CNH nhanh, ngoài việc
sử dụng các nguồn nội lực, cần có những "cú huých" từ bên ngoài như đầu tư
nước ngoài, hỗ trợ của hệ thống tài chính. Tác giả còn đặt câu hỏi và tự trả lời
CNH như vậy có bền vững không, nếu chỉ phụ thuộc vào khai thác thiên
nhiên, xây dựng nhà máy, khu công nghiệp…mà không bảo vệ môi trường?
Kazushi Ohkawa [65] đã giới thiệu kinh nghiệm 100 năm CNH của đất
nước "mặt trời mọc" với những bài học mang tính phổ quát, có thể học hỏi
vận dụng được đối với những nước đi sau nhằm rút ngắn thời gian tiến hành
CNH. Qua cách tiếp cận về công nghiệp và thương mại trong phân chia giai
đoạn, cách thức phát triển dựa trên sự kết hợp truyền thống với hiện đại, các
nhân tố kinh tế, CN, xã hội, văn hoá..., tác giả cho rằng đây chính là các yếu
tố quyết định quá trình CNH rút ngắn. Trong công trình nghiên cứu này với 8
chương được chia làm hai phần: Phần I, tác giả chỉ rõ mối liên hệ thực tế giữa
cơ cấu thương mại và cơ cấu công nghiệp, xác định các sản phẩm công
8
nghiệp nào đem xuất khẩu, nhập khẩu qua từng giai đoạn (5 giai đoạn). Và
khẳng định phải coi trọng tiến bộ kỹ thuật trong phát triển các ngành công
nghiệp gia tăng sức cạnh tranh quốc tế. Cùng với sự đóng góp không nhỏ của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thị trường, cả vai trò của chính phủ trong
việc thúc đẩy sự khởi đầu những ngành công nghiệp mang tính chiến lược.
Phần II, qua việc phân tích các chính sách công nghiệp, phân tích, dự báo các
số liệu về vốn đầu tư nguồn lực con người, thực hiện chuyển giao CN…tác
giả cho thấy ảnh hưởng của các nhân tố này đối với việc phát triển công
nghiệp theo hướng xuất khẩu của Nhật Bản. Cuốn sách không chỉ nêu những
thành công mà còn đánh giá cả những thất bại trong CNH hướng vào xuất
khẩu của Nhật Bản để làm bài học cho các các nước đi sau nếu áp dụng mô
hình CNH hướng về xuất khẩu.
Medhi Krongkaew [138] đã cung cấp cái nhìn tổng quan, toàn diện về
CNH gần đây của Thái Lan, một trong các nền kinh tế năng động nhất khu vực
ASEAN. Tác giả chú ý phân tích vai trò của công nghiệp, nông nghiệp, xuất
khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát triển du lịch, coi các ngành kinh tế
này như động lực chính cho tăng trưởng kinh tế của Thái Lan. Bên cạnh đó, tác
giả cũng đã phân tích tác động của các chính sách về tài chính, chính sách tiền
tệ, chính sách đô thị hoá, chính sách phúc lợi hộ gia đình đối với CNH ở Thái
Lan. Với các chính sách thúc đẩy CNH của chính phủ Thái Lan đã làm thay đổi
bộ mặt nền kinh tế và tác động lớn đến nền chính trị, các giá trị xã hội, môi
trường, giáo dục, y tế, khoa học và CN. Tác giả còn khẳng định trong tương lai
không xa Thái Lan là một nước công nghiệp mới ở châu Á.
Dale Neef trong cuốn Kinh tế tri thức [133] tiếp cận dưới góc độ kinh
tế, đã vẽ một bức tranh toàn cảnh về sự xuất hiện và những hệ quả của nền
KTTT. Cuốn sách như là một phương tiện cung cấp câu trả lời cho bất cứ ai
quan tâm tới nền KTTT như: các nhà kinh doanh, các nhà hoạch định chính
sách, các học giả và các nhà nghiên cứu... Cuốn sách là tập hợp các bài báo đề
9
cập rất nhiều vấn đề có nghĩa thực tiễn trong nền KTTT như: sự thay đổi từ
việc sử dụng cơ bắp cho tới bộ não, ảnh hưởng của nó tới chính sách xã hội,
giáo dục và đào tạo, chênh lệch giàu nghèo, thay đổi cơ cấu của công nhân,
xuất hiện tầng lớp "công nhân tri thức"... Từ việc phân tích hệ quả của nền
KTTT, tác giả khẳng định trong nền KTTT với sự phát triển mạnh mẽ của
KH&CN, viễn thông, quá trình toàn cầu hoá làm cho các nền kinh tế trên thế
giới xích lại gần nhau hơn.
Loet Leydesdorff trong cuốn Nền kinh tế tri thức dựa trên: mô hình
hoá, thước đo, mô phỏng [137] đã tiếp cận dưới góc độ CN, giới thiệu bộ sưu
tập mang tính đột phá về lý thuyết và kỹ thuật để giúp người đọc hiểu động
lực nội tại của KTTT, bao gồm cả các vấn đề như sự ổn định, dự đoán và
tương tác giữa các thành phần. Sự kết hợp giữa lý thuyết, đo lường và mô
hình hoá, nêu sức mạnh cần thiết để giải quyết những vấn đề phức tạp của hệ
thống hiện đại nối mạng xã hội.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC VỀ CÔNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
1.2.1. Sách tham khảo, chuyên khảo
Cuốn sách CNH và HĐH ở Việt Nam và các nước trong khu vực do
Phạm Khiêm Ích và Nguyễn Đình Phan chủ biên [46] tập hợp nhiều bài
nghiên cứu về CNH và kinh nghiệm của các nước trong khu vực. Các tác giả
đều khẳng định CNH là phương hướng chủ đạo để phát triển đất nước dù cho
hoàn cảnh, điều kiện quốc tế, trình độ phát triển của nền kinh tế nước ta khác
nhiều so với năm 1960, năm mà Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng để ra đường lối CNH. Trong phần kinh nghiệm nước ngoài, dựa vào
kinh nghiệm CNH của Nhật, Thái Lan, Hàn Quốc… các tác giả chỉ rõ dù các
nước này CNH vào những thời điểm khác nhau, nhịp độ không giống nhau
nhưng CNH là con đường phát triển chung của các nước trên thế giới.
10
Đỗ Hoài Nam trong cuốn Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, và phát
triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam [63] đã luận giải một số
vấn đề lý thuyết cơ bản và kinh nghiệm thế giới về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành và phát triển ngành trọng điểm mũi nhọn trong thời kỳ CNH. Theo tác
giả, đánh giá mức độ thành công của quá trình CNH của một quốc gia, người
ta coi chuyển dịch cơ cấu ngành là một trong những chỉ tiêu đánh giá mức độ
thành công. Theo tính quy luật chung, CNH cũng là quá trình chuyển dịch cơ
cấu ngành trong đó tỷ trọng của nông nghiệp ngày càng giảm xuống, tương
ứng với mức tăng lên của hai ngành công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, do
mỗi nước có cách tiếp cận khác nhau về mô hình và chiến lược CNH, nên tiến
trình thay đổi cơ cấu ngành kinh tế có sự khác nhau. Tác giả đã phân tích thực
trạng cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam, qua đó định dạng cơ cấu ngành, lựa
chọn ngành trọng điểm trong những năm kế tiếp. Việc lựa chọn cơ cấu kinh tế
phải phù hợp với tương quan giữa các nguồn lực phát triển và mục tiêu tăng
trưởng nghĩa là ưu tiên phát triển một số ngành nhất định ở những mức độ xác
định trong từng giai đoạn cụ thể. Để có cơ cấu kinh tế phù hợp tác giả cũng đã đề
xuất các biện pháp kinh tế chủ yếu: huy động vốn, khuyến khích sự phát triển
khu vực tư nhân, các khuyến khích về tài chính, thuế quan…Tác giả còn đề xuất
giải pháp phát triển tối ưu các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu CN
cao, nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển ngành trọng
điểm, mũi nhọn.
Lê Bàn Thạch và Trần Thị Tri trong cuốn Công nghiệp hoá ở NIEs
Đông Á và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam [80] đã nêu lên đặc điểm,
bước đi, thành tựu, bài học của các nước Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan,
Hồng Kông trong quá trình thực hiện CNH và việc vận dụng kinh nghiệm của
các nước này trong chiến lược phát triển CNH, HĐH ở Việt Nam.
Cuốn Kỷ yếu hội thảo Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với
11
Việt Nam [93] gồm hai tập, bao gồm bài viết của các nhà khoa học, lãnh đạo
hàng đầu Việt Nam như: GS.TS Chu Tuấn Nhạ, GS.VS Đặng Hữu, GS.TS
Chu Hảo, GS.TS Vũ Đình Cự… Các bài viết đề cập tới xu hướng, khái niệm,
đặc điểm nền KTTT, thách thức của nền kinh tế này đối với nước ta và khẳng
định KTTT là con đường ngắn nhất giúp Việt Nam đuổi kịp các nước phát
triển. Cũng có một số bài viết đề cập tới CNH, HĐH trong nền KTTT với
những vấn đề cần giải quyết về thực trạng kinh tế nước ta hiện nay như: thay
đổi tư duy, xây dựng kế hoạch cụ thể và dài hạn, tạo khâu đột phá, có những
cơ chế chính sách phù hợp để tạo động lực thúc đẩy mọi người dân tham gia
vào nền kinh tế này.
Tác giả Phạm Thái Quốc trong cuốn Trung Quốc quá trình CNH
trong 20 năm cuối thế kỷ XX [76] đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về
CNH ở Trung Quốc, thực trạng CNH ở Trung Quốc từ năm 1979 đến nay chỉ
ra một số kết quả bước đầu, những tồn tại và hướng giải quyết. Qua đó, khẳng
định việc xem xét, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước có nhiều điểm tương
đồng với Việt Nam về kinh tế, văn hóa, địa lý…, đạt được những thành công
đáng kể trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và thực hiện CNH,
HĐH như Trung Quốc là rất bổ ích và có ý nghĩa thiết thực. Tác giả cho rằng
để có được thành công cần có những bước đi thận trọng và vững chắc, nắm
chắc thời cơ để có những đối sách phù hợp. Nhất là ngoài việc khéo léo dựa
vào các nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế khi mở cửa, thì phải biết lợi
dụng, khai thác tổng hợp các yếu tố địa lý và dân tộc. Hơn nữa trong giai
đoạn đầu, cần khuyến khích phát triển nhanh các ngành công nghiệp chế biến
có khả năng cạnh tranh cao, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho xuất khẩu.
Đây là kinh nghiệm dành cho các nước đi lên từ nông nghiệp và có điều kiện
phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động…
Cuốn Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam lý luận và thực tiễn
12
[9] tập hợp những bài viết của nhiều tác giả tiếp cận dưới các góc độ khác
nhau về quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam: văn hóa, triết học, kinh tế…Tuy
nhiên các bài viết đều nhấn mạnh CNH, HĐH ở nước ta cần áp dụng CN mới,
tiên tiến để rút ngắn so với các nước đi trước, trong đó nguồn lực quan trọng
nhất đó là con người, nguồn lực của mọi nguồn lực được đặt vào vị trí trung
tâm của chiến lược phát triển. Các tác giả còn chỉ ra sự cần thiết và nội dung,
vai trò CNH, HĐH trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của KH&CN trên thế giới. Đưa ra các giải
pháp quan trọng thúc đẩy quá trình này đặc biệt trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc để xây dựng đất nước ta ngày càng hiện đại.
Trần Đình Thiên trong cuốn Công nghiệp hóa ở việt Nam - Phác thảo
và lộ trình [86] đã đưa ra khái niệm CNH "là quá trình cải biến nền kinh tế
nông nghiệp dựa trên nền tảng kỹ thuật thủ công, mang tính hiện vật, tự cung
- tự cấp thành nền kinh tế công nghiệp - thị trường" [86, tr.23]. Tác giả còn
chỉ ra trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, để vượt qua tình trạng chậm phát
triển, CNH ở Việt Nam không thể thực hiện tuần tự như các nước đi trước mà
phải thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ: chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang
công nghiệp hiện đại; phát triển KTTT tham gia vào quá trình toàn cầu hóa.
Những nội dung này sẽ là những gợi mở để NCS kế thừa và phát triển trong
quá trình thực hiện luận án.
Lưu Ngọc Trịnh trong Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức ở một số
nước trên thế giới hiện nay [92] đã hệ thống hóa lại một số cách hiểu khác
nhau về nền KTTT, phân tích những đặc trưng cơ bản, mô tả chi tiết thực tế
và thực trạng của các quốc gia trong việc xây dựng nền kinh tế tri thức như
Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Malaysia, Ấn Độ, Hàn Quốc, Singapore,
Thái Lan…Qua đó, tác giả đã chỉ ra những chiến lược, chính sách khác nhau
giữa các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển khi tiến vào
13
nền KTTT. Đối với các nước đang phát triển với xuất phát điểm thấp, nền
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, thì tiếp cận nền kinh tế tri thức là một cơ hội
tốt để, đuổi kịp các nước phát triển, trong đó có Việt Nam không thể bỏ qua
xu thế này.
Nguyễn Kế Tuấn trong cuốn Phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh quá
trình CNH, HĐH ở Việt Nam [94] đã hệ thống hóa lý luận về KTTT, làm rõ
sự cần thiết và khả năng phát triển KTTT để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH
ở nước ta. Phác họa những kiến giải, khái quát mô hình chiến lược phát triển
CNH, HĐH trong điều kiện từng bước phát triển KTTT. GS cũng khẳng định
trong tiến trình CNH các nước đi sau vừa phải có bước đi "nhảy vọt", vừa có
bước đi tuần tự, vấn đề là lựa chọn lĩnh vực hợp lý để áp dụng mỗi loại bước
đi và kết họp chúng một cách tối ưu. Tác giả nêu lên những điều kiện cơ bản
nhằm từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta như phát triển nguồn
nhân lực, khoa học và công nghệ, định hướng đầu tư, huy động nguồn lực tài
chính và mở rộng hợp tác quốc tế.
Đặng Hữu trong cuốn Kinh tế tri thức thời cơ và thách thức đối với sự
phát triển của Việt Nam [45] đã tập trung nghiên cứu làm rõ khái niệm, đặc
trưng, lịch sử hình thành và phát triển của KTTT; kinh nghiệm phát triển
KTTT của một số nước để đưa ra gợi ý về định hướng và các giải pháp phát
triển KTTT ở Việt Nam; khẳng định con đường phát triển của Việt Nam là
"CNH định hướng xã hội chủ nghĩa",
Quá trình CNH phải là quá trình phát triển một cách hài hòa kinh tế
với văn hóa, xã hội, lấy con người làm trung tâm… Đó là phải là
CNH nhân văn. Đồng thời, CNH nước ta cũng phải là CNH sinh
thái, CNH mà giữ gìn được thiên nhiên, không làm suy thoái môi
trường [45, tr 200].
Với cách tiếp cận này, tác giả đã đưa ra những gợi ý để luận án kế thừa
14
để đề xuất giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT.
Vũ Đình Cự và Trần Xuân Sầm trong cuốn Lực lượng sản xuất mới và
kinh tế tri thứ” [18] khẳng định nói đến kinh tế tri thức không thể không nói
đến các ngành CN cao: CN thông tin, CN sinh học, CN vật liệu tiên tiến - CN
nano, CN năng lượng mới, với máy móc thông minh có trình độ vượt hẳn so
với các máy móc cơ khí cổ điển. Đây chính là nòng cốt của sự hình thành nền
KTTT cùng với những tác động xã hội to lớn như toàn cầu hóa, xã hội học
tập, xã hội thông tin nối mạng. Tác giả cũng đã dành chương cuối cùng nói
đến những nhận thức, quan điểm của Đảng về CNH, HĐH gắn với phát triển
KTTT ở Việt Nam hiện nay.
Phạm Thái Quốc và Hoàng Văn Hiển trong cuốn Quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của Hàn Quốc (1961-1993) và kinh nghiệm đối với Việt Nam
[75] đã nghiên cứu quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Hàn Quốc từ năm
1961 đến 1993; đưa ra hai mô hình chiến lược (hướng nội và hướng ngoại),
cơ cấu, cơ chế, chính sách, biện pháp… mà Hàn Quốc đã thực hiện trong quá
trình CNH, HĐH. Các tác giả chỉ ra những thành tựu tiêu biểu về kinh tế - xã
hội và những hạn chế của Hàn Quốc trong hơn ba thập niên CNH, HĐH đất
nước. Xác định các điều kiện, yếu tố bên trong, bên ngoài tác động đến quá
trình phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn này; rút ra những đặc điểm,
quy luật phát triển chung, những kinh nghiệm phát triển (cả thành công và
không thành công) của quốc gia này. Trong chừng mực nhất định, có thể tham
khảo, vận dụng trong sự nghiệp CNH, HĐH của Việt Nam hiện nay trên khía
cạnh gắn kết tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Trong cuốn Các mô hình CNH trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam [83] ở chương 1 tác giả đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận
chung về CNH. Ở chương 2 dựa trên các cách phân loại khác nhau tác giả đã
phân tích các mô hình CNH trên thế giới từ đó chỉ ra những điểm hợp lý và
15
bất hợp lý ở mỗi mô hình. Qua đó khẳng định CNH, HĐH ở mỗi giai đoạn,
nội dung, bước đi và cách thức thực hiện đã có những đổi khác, và cũng
không thể có một lời giải chung cho tất cả các quốc gia, mỗi nước đều có sự
lựa chọn thích ứng với điều kiện cụ thể của mình. Tác giả cũng đã phác họa
mô hình CNH được thực hiện tại Việt Nam qua hai thời kỳ trước và sau năm
1986, và chỉ rõ những bước chuyển lớn trong phát triển tư duy lý luận và thực
tiễn của đảng qua 40 năm thực hiện CNH đất nước. Chương 3 rút ra một số
kinh nghiệm CNH ở một số nước trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc,
Hàn Quốc, Sinhapore…vận dụng vào lựa chọn mô hình CNH ở Việt Nam
trong điều kiện mới.
Phạm Ngọc Dũng trong cuốn Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn từ lý luận đến thực tiễn ở Việt Nam hiện nay [24] đã đề
cập tới vai trò quan trọng của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong quá
trình CNH, HĐH đất nước, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn trong phát triển bền vững. Tác giả đã phân tích
thực trạng kinh tế - xã hội ở nông thôn nước ta cũng như nguyên nhân nảy
sinh vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn hiện nay. Từ đó đưa ra các giải pháp hợp lý có tính thực tiễn cao
nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát và lâu dài: xây dựng một nền
nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất
lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, CN
tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày
càng giàu đẹp… có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại.
1.2.2. Đề tài khoa học, luận án tiến sĩ
Đặng Hữu trong đề tài Phát triển kinh tế tri thức - rút ngắn quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta [44] đã đề cập đến ba nội dung quan
16
trọng trong ba phần của đề tài: Phần I Sự hình thành và phát triển kinh tế tri
thức; Phần II: Kinh nghiệm từ sự phát triển kinh tế tri thức các nước; Phần III:
Phát triển kinh tế tri thức để rút ngắn quá trình CNH, HĐH ở nước ta. Trong
phần III, tác giả đã đánh giá thực trạng nền kinh tế Việt Nam, qua đó đưa ra
định hướng phát triển KTTT ở Việt Nam, những yếu tố đảm bảo cho sự thành
công của CNH rút ngắn.
Phạm Văn Dần trong luận án tiến sĩ triết học Lý luận hình thái kinh tế -
xã hội với sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay [22] đã xác định cơ sở
khoa học của đường lối đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta hiện nay gồm 7 đặc
điểm cơ bản để chỉ ra sự khác nhau của quá trình CNH, HĐH hiện nay với
các kiểu CNH đã có trong lịch sử; 4 điều kiện cơ bản thực hiện CNH, HĐH.
Qua đó nêu lên những nội dung cụ thể của việc vận dụng các quy luật cơ bản
của lý luận hình thái kinh tế - xã hội để thực hiện thành công sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
Lê Kim Chung trong luận án tiến sĩ kinh tế Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ngành thủy sản ở duyên hải Nam Trung Bộ [11] đã phân tích cơ sở lý
luận và thực tiễn tiến hành CNH, HĐH ngành thủy sản, đặc biệt là xác định
những nội dung có tính quy luật về CNH, HĐH ngành thủy sản nói chung và
ở duyên hải Nam Trung Bộ nói riêng. Luận án đề xuất 3 phương hướng cơ
bản nhằm định hướng quá trình CNH, HĐH ngành thủy sản đến năm 2010 và
đưa ra các giải pháp cơ bản: huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, ứng dụng
khoa học CN hiện đại, phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện các chính sách
kinh tế vĩ mô, đây chính là đòn bảy thức đẩy ngành thủy sản của vùng sớm
khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn.
Lê Hữu Đốc trong luận án tiến sĩ kinh tế Công nghiệp thành phố Đà
Nẵng thực trạng và giải pháp phát triển [39] đã nêu nguyên tắc, các nhân tố
ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp ở một địa phương, xác định vị trí, vai
17
trò của ngành kinh tế trọng điểm trong phát triển kinh tế, chỉ ra 7 tiêu chí và
phương pháp xác định ngành công nghiệp trọng điểm dưới góc độ kinh tế
phát triển. Luận án cũng đã phân tích sự phát triển công nghiệp ở thành phố
Đà Nẵng qua các giai đoạn theo các yếu tố ảnh hưởng chủ yếu, những lợi thế
và hạn chế để phát triển công nghiệp của thành phố; đề xuất phương hướng,
giải pháp chủ yếu để phát triển nhanh, bền vững công nghiệp thành phố trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với xây dựng nền kinh tế tri thức.
Cao Quang Xứng trong luận án tiến sĩ kinh tế Tác động của kinh tế tri
thức đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân ở Việt
Nam [116] đã phân tích tác động của KTTT tới phát triển kinh tế xã hội và
quá trình CNH, HĐH của các nước đi sau. Phân tích thực trạng tiến trình
CNH, HĐH của nước ta dưới sự tác động của KTTT trong những năm gần
đây; khẳng định nước ta cần phải chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tận
dụng cơ hội của nền KTTT trong thời gian tới.
1.2.3. Các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành
Tác giả Chu Văn Cấp trong bài viết Tìm hiểu vấn đề: Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, trong văn kiện
Đại hội lần thứ X của Đảng" [7] đã khẳng định xu thế toàn cầu hóa kinh tế và
sự phát triển KTTT, đòi hỏi các nước đi sau CNH, HĐH phải đồng thời thực
hiện 2 quá trình: vừa xây dựng nền công nghiệp theo hướng hiện đại, vừa phải
phát triển KTTT trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Để đẩy mạnh CNH,
HĐH gắn với phát triển KTTT ở nước ta hiện nay cần phải hoàn thiện thế chế
kinh tế thị trưởng định hướng XHCN.
Phạm Ngọc Tuấn trong bài Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam [96] đã cho rằng CNH, HĐH
gắn với phát triển KTTT phải trở thành đường lối phát triển có tính chiến lược
của nước ta. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT có thể hiểu là
18
một phương thức CNH mới trong điều kiện của cuộc cách mạng KH&CN,
của xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ. Tác giả cũng
khẳng định muốn rút ngắn quá trình CNH, HĐH thì phải nắm bắt, khai thác,
sử dụng các thành tựu khoa học và CN hiện đại, cùng với những yếu tố của
nền KTTT.
Nguyễn Trọng Chuẩn trong bài Công nghiệp hóa theo hướng hiện đại
và sự phát triển bền vững [10] cho rằng dưới góc nhìn lịch sử, sự đánh giá của
Đảng về tính tất yếu, vị trí, vai trò của công cuộc CNH đất nước từ Đại hội III
(1960) đến Đại hội XI (2011) là nhất quán và xuyên suốt. Chúng ta không thể
sớm thoát khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển nếu không tiến hành CNH
theo hướng hiện đại và không từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức.
Tuy nhiên để kinh tế phát triển bền vững, thực hiện thành công CNH, HĐH
đất nước gắn với phát triển KTTT phải kết hợp hài hòa, có hiệu quả 3 mục
tiêu kinh tế, xã hội và môi trường.
Đinh Thế Phong trong bài Công nghệ: con đường duy nhất để công
nghiệp hóa ở thế kỷ 21 [67] trên cơ sở luận giải 3 đặc điểm chỉ sự khác biệt
giữa công nghiệp hóa kinh điển và công nghiệp hóa thế kỷ 21 đã khẳng định:
nếu không nghiên cứu, phát hiện quy luật và tìm cách hợp lý để "lách",
nghiên cứu các "đứt đoạn" hay còn gọi là các cửa sổ trong sự tiến hóa của CN
thì không thể CNH thành công.
1.3. NHỮNG "KHOẢNG TRỐNG" TRONG NGHIÊN CỨU CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC TRÊN
PHẠM VI MỘT TỈNH, THÀNH PHỐ
Các công trình và bài viết nêu trên đã tập trung vào nghiên cứu những
vấn đề liên quan đến CNH, HĐH và KTTT trên phạm vi một quốc gia. Những
vấn đề được phân tích và đã làm rõ ở đây là: CNH trong điều kiện mới của
cách mạng KH&CN là gì? CNH, HĐH chỉ thuần túy về mặt kinh tế hay CNH,
19
HĐH cả về mặt xã hội? Vì sao một nước đang phát triển lại có thể thực hiện
được con đường CNH rút ngắn? Để thực hiện thành công con đường đó cần
phải làm gì? Vai trò của nhà nước trong CNH, HĐH? Một số tác động của
CNH, HĐH về mặt kinh tế, xã hội cũng được một số tác giả bàn luận.
Riêng vấn đề KTTT đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu kể từ
giữa những năm 90 thế kỷ XX lại đây. Những vấn đề lý thuyết như nhận thức
KTTT là gì? Đặc điểm, sự khác biệt và tính hơn hẳn của KTTT so với kinh tế
công nghiệp. Tiêu chuẩn để xác định một nền kinh tế đạt trình độ KTTT và
con đường để hướng đến sự phát triển nền kinh tế này đối với một quốc gia,
kể cả quốc gia công nghiệp phát triển và quốc gia đang phát triển.
Tổng hợp các nghiên cứu về CNH, HĐH, phát triển KTTT như đã trình
bày ở trên cho thấy các công trình nghiên cứu về CNH, HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức còn rất ít. Chỉ có một vài công trình nghiên cứu về vấn đề
này như tác giả Đặng Hữu [44,45], Cao Quang Xứng [116] trên phạm vi cả
nước, chưa có công trình nào nghiên cứu về CNH, HĐH gắn với phát triển
KTTT trên địa bàn một tỉnh, thành phố ở Việt Nam, đây là vấn đề vẫn còn
đang "bỏ ngỏ". Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những kết quả nghiên cứu của
các nhà khoa học đi trước, việc bổ sung vào khoảng trống các vấn đề nghiên
cứu về lý luận và thực tiễn của CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT được
luận án xác định là hướng phát triển tiếp theo.
Những nội dung còn trống khi nghiên cứu về CNH, HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức cần tiếp tục nghiên cứu:
- Cần làm rõ thế nào là CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT? Những
căn cứ lý luận và thực tiễn của việc gắn CNH, HĐH với phát triển KTTT ở
nước ta trong đó có thành phố Đà Nẵng.
- Chỉ ra những nhân tố khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài
có ảnh hưởng đến tiến trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT trên phạm
20
vi một tỉnh, thành phố ở Việt Nam để có giải pháp thích hợp.
- Nội dung của CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT bao gồm những
gì? nó được tiến hành trong cơ chế nào?. Những công cụ cần thiết để thực
hiện quá trình gắn kết đó trên địa bàn một tỉnh, thành phố?
- Cần có những tổng kết, đánh giá khách quan, khoa học về thực trạng
tiến hành CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở thành phố Đà Nẵng trong
những năm gần đây; làm rõ những thành công, hạn chế và chỉ ra nguyên nhân
làm căn cứ xác định phương hướng và giải pháp thúc đẩy tiến trình này trên
địa bàn những năm tới.
Trên cơ sở hệ thống hóa khung lý thuyết và nghiên cứu kinh nghiệm
thực tiễn về CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT trên phạm vi một tỉnh,
thành phố Việt Nam, tham khảo kết quả của các công trình, bài viết trong
nước và trên thế giới, nghiên cứu sinh lựa chọn và thực hiện đề tài luận án
"Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành
phố Đà Nẵng" dưới góc độ Kinh tế chính trị. Đây là hướng và đối tượng
nghiên cứu mới, không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố mà
nghiên cứu sinh được biết cho tới nay. Với đối tượng nghiên cứu này, tác giả
luận án mong muốn góp phần vào lời giải cho vấn đề bức thiết hiện nay trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng.
21
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
TRÊN PHẠM VI MỘT TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM
2.1. QUAN NIỆM VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
2.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế tri thức
2.1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa
Khi nghiên cứu ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công
nghiệp: hiệp tác giản đơn, phân công công trường thủ công và đại công nghiệp
cơ khí, C. Mác cho rằng đây là quá trình chuyển nền kinh tế từ chủ yếu là nông
nghiệp lên kinh tế công nghiệp. Ông viết: "Cái máy điểm xuất phát của cuộc
cách mạng công nghiệp, đã thay thế người lao động chỉ sử dụng có mỗi một
dụng cụ, bằng một cơ cấu sử dụng ngay một lúc nhiều công cụ như nhau hoặc
cùng loại và do một động lực làm cho chuyển động" [56, tr.542]; "Vậy là nền
đại công nghiệp phải nắm lấy những tư liệu sản xuất đặc trưng của nó, tức là
bản thân máy móc, và dùng máy móc để sản xuất ra máy móc. Nhờ thế, nó đã
tạo ra được cho mình một cơ sở kỹ thuật thích hợp và đứng vững trên đôi chân
của mình" [56, tr.554]. Dựa trên cơ sở phân tích sự phát triển của máy móc tự
động, C.Mác đã chỉ rõ vai trò ngày càng quan trọng của KH&CN, khẳng định
trong xã hội công nghiệp máy móc sẽ dần thay thế cho lao động cơ bắp, lao
động trực tiếp trở thành lao động thứ yếu. Từ đó rút ra những vấn đề có ý nghĩa
thực tiễn về tăng năng suất lao động xã hội, xã hội hóa lao động, cách mạng kỹ
thuật trong quá trình chuyển biến của nền sản xuất xã hội từ sản xuất nhỏ, thủ
công, phân tán lên sản xuất lớn, cơ khí hóa, tập trung.
Cuối thế kỷ thứ XVIII, cuộc Cách mạng công nghiệp được diễn ra ở
nước Anh với sự xuất hiện "chiếc thoi bay" trong lĩnh vực se sợi. Nước Anh
22
trở thành quê hương của Cách mạng công nghiệp, là nơi tiến hành CNH đầu
tiên. Manchester là thành phố công nghiệp đầu tiên trên thế giới. Kể từ đây,
nhân loại bước vào một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn CNH. Sau Anh là
lần lượt các nước: Pháp vào đầu thế kỷ XIX, Mỹ, Ðức vào giữa thế kỷ XIX,
Nhật, Nga và nhiều nước châu Âu khác vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
đã trở thành nước công nghiệp.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai (giữa thế kỷ XX), nhiều nước
thuộc Thế giới thứ ba tiến hành quá trình này với Chiến lược CNH riêng của
mình. Một số dựa theo mô hình CNH của Liên xô (cũ), một số dựa theo mô
hình của Mỹ. Ðến nay, một số nước đã thực hiện CNH rút ngắn thành công,
trở thành nước công nghiệp. Tuy nhiên, còn không ít quốc gia trong đó có
Việt Nam vẫn là nước nông nghiệp, đang trong giai đoạn tiến hành CNH.
Do thời điểm lịch sử tiến hành CNH ở các nước không giống nhau nên
đã có những quan niệm khác nhau về CNH. Việc nhận thức đúng phạm trù
CNH trong một giai đoạn phát triển cụ thể của đất nước là rất cần thiết, nó
không chỉ có ý nghĩa về lý luận mà còn trong hoạch định và thực thi chính
sách phát triển.
Quan niệm giản đơn nhất về CNH cho rằng: "CNH là đưa đặc tính
công nghiệp cho một hoạt động, trang bị (cho một vùng, một nước) các nhà
máy, các loại công nghiệp..." [46, tr.48]. Quan niệm được khái quát từ thực
tiễn CNH ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, đối tượng CNH ở đây là ngành
công nghiệp, còn sự phát triển của các ngành khác chỉ là hệ quả của phát triển
công nghiệp.
G.A.Cudơlốp và S.P.Perơvusin các nhà khoa học Liên Xô (cũ), từ thực
tiễn tiến hành CNH nửa đầu thế kỷ XX, đã nêu quan niệm về CNH gắn với
tính chất chế độ xã hội ở Liên Xô lúc bấy giờ:
CNH xã hội chủ nghĩa là phát triển đại công nghiệp, trước hết là
phát triển công nghiệp nặng, nhằm bảo đảm cải tạo toàn bộ nền kinh
23
tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật cơ khí tiên tiến, bảo đảm hình thức
kinh tế xã hội chủ nghĩa chiến thắng hình thức kinh tế tư bản chủ
nghĩa và hàng hóa nhỏ, bảo đảm cho nước nhà không bị lệ thuộc về
kinh tế và kỹ thuật vào thế giới tư bản chủ nghĩa, tăng cường khả
năng quốc phòng [83, tr.12].
Theo quan niệm của Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc
(UNIDO), thì "CNH là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này
một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để
phát triển một cơ cấu kinh tế nhiều ngành với kỹ thuật hiện đại" [83, tr.50].
Với quan niệm này, CNH là quá trình phát triển bao gồm mọi mặt, mọi ngành
kinh tế nhằm đạt tới không chỉ mục tiêu kinh tế mà còn cả mục tiêu xã hội.
Ở Việt Nam, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động
Việt Nam (1960) xác định: "CNH là quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật,
thực hiện sự phân công mới về lao động xã hội và là quá trình tích lũy xã hội
chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng" [83, tr.15]. Quan
niệm đã nói lên mục tiêu, nội dung, tính chất xã hội chủ nghĩa của quá trình
CNH, nhưng dường như đã đồng nhất CNH với cuộc cách mạng kỹ thuật.
Ngoài những quan niệm trên, trong kho tàng tri thức của nhân loại còn
có những quan niệm khác về CNH dựa trên một số mục tiêu nhất định về
trình độ phát triển của tư liệu lao động, phương thức tổ chức sản xuất, thu
nhập quốc dân, cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghiệp, cơ cấu lao động, mức độ
phát triển công nghiệp chế tác, loại công cụ sản xuất, các hàm sản xuất cơ
bản, phương thức sản xuất...
Tuy có những quan niệm khác nhau về CNH, nhưng về cơ bản các
quan niệm trên vẫn có những điểm chung và có thể được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa hẹp, CNH là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp
(hay tiền công nghiệp) lên nền kinh tế lấy công nghiệp làm chủ đạo, từ chỗ tỷ
trọng lao động nông nghiệp chiếm chủ yếu giảm dần và nhường chỗ cho lao
24
động công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn hơn.
Theo nghĩa rộng, CNH là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp
(hay tiền công nghiệp) lên kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp lên xã
hội công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp. Nó
không chỉ đơn thuần là những biến đổi về kinh tế mà bao gồm cả các biến đổi
về văn hóa và xã hội từ trạng thái nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, tức là
trình độ văn minh cao hơn.
2.1.1.2. Quan niệm về hiện đại hóa
Thuật ngữ HĐH đã được nhiều sách báo trong và ngoài nước bàn đến
từ những thập kỷ cuối thế kỷ XX khi hàng loạt nước ở Châu Á hóa rồng. Đến
nay, cũng đã có những cách nhìn nhận khác nhau về HĐH:
Theo Nguyễn Thành Bang: "thực chất quá trình HĐH đất nước trong
thời đại ngày nay là quá trình phát triển CN nhằm làm thay đổi cơ cấu các
ngành sản xuất, cơ cấu lao động và cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu, không
ngừng nâng cao hiệu quả cũng như khả năng cạnh tranh của nền kinh tế"
[54, tr.90]. Quan niệm này đã đồng nhất HĐH với CNH, đồng thời hạn chế
quá trình HĐH chỉ trong phạm vi kinh tế.
Theo Nguyễn Thế Nghĩa, HĐH là "một quá trình, nhờ đó các nước
đang phát triển tìm cách đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến
hành cải cách chính trị và củng cố cơ cấu xã hội của họ, nhằm tiến tới một hệ
thống kinh tế, xã hội và chính trị giống hệ thống của những nước phát triển"
[54, tr.91]. Với quan niệm này, HĐH được hiểu là một quá trình thúc đẩy
kinh tế và một số mặt cụ thể của xã hội trở nên hiện đại hơn, tuy nhiên chưa
có tính khái quát và chưa đi vào thực chất của HĐH.
TS. Trần Hồng Lưu quan niệm "HĐH là quá trình sử dụng những
thành tựu KH&CN hiện đại và những kinh nghiệm lịch sử để đổi mới toàn
diện, triệt để mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển lên
một trạng thái mới về chất" [54, tr.94].
25
Trong các cuốn Từ điển Tiếng việt, "Hiện đại hóa" được hiểu là làm
cho một cái gì đó mang tính chất hiện đại, tiên tiến, mang tính chất của thời
đại ngày nay [84, tr.545].
Từ những phân tích trên, có thể hiểu HĐH là quá trình chuyển dịch căn
bản từ xã hội truyền thống lên xã hội hiện đại, quá trình làm cho nền kinh tế
và đời sống xã hội mang tính chất và trình độ của thời đại ngày nay. Đây
không chỉ là HĐH trong lĩnh vực kinh tế, mà nó còn bao hàm phạm vi rộng
lớn hơn, đó là HĐH toàn bộ đời sống xã hội. Đối với các nước phát triển,
HĐH là quá trình chuyển dịch từ xã hội dựa trên nền kinh tế công nghiệp lên
xã hội dựa trên nền kinh tế tri thức. HĐH là quá trình tăng tốc, rút ngắn lộ
trình phát triển để đuổi kịp các nước đi trước và phát triển hơn. Do tiến hành
CNH trong bối cảnh mới của thế giới nên bên cạnh việc dựa vào các nguồn
lực trong nước, các nước đang phát triển còn tranh thủ các nguồn lực từ bên
ngoài thông qua thu hút đầu tư để tìm kiếm nguồn vốn và CN mới. Đây chính
là kiểu CNH rút ngắn hiện đại.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại
về CNH và căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam là một nước đi
sau đang trong quá trình phát triển, Đảng ta tại Hội nghị Trung ương lần thứ
bảy khóa VII (năm 1994), nêu chủ trương tiến hành xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn mới bằng con
đường CNH, HĐH và nêu quan niệm:
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động với CN, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại,
dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học CN, tạo
ra năng suất lao động xã hội cao [32, tr.65].
Đây là một quan niệm mới dùng để chỉ quá trình tiến hành xây dựng cơ
26
sở vật chất - kỹ thuật cho phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta phải đồng thời
gắn kết hai quá trình CNH và HĐH trong từng bước phát triển.
2.1.1.3. Khái niệm về kinh tế tri thức
Nhân loại đã trải qua hai nền văn minh là văn minh nông nghiệp và
văn minh công nghiệp. Hiện nay đang trong giai đoạn quá độ chuyển lên
một nền văn minh mới cao hơn đó là nền văn minh trí tuệ. Theo đó, nền kinh
tế được chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp và đang quá
độ chuyển lên KTTT. Thực tế phát triển đúng như dự báo của C.Mác từ cuối
thế kỷ XIX1. Năm 1995, Tổ chức Hợp tác và phát triển của các nước phát
triển (OECD) đã đưa vào sử dụng thuật ngữ "Kinh tế tri thức" dùng để chỉ
một nền kinh tế mới thay thế cho nền kinh tế công nghiệp mà nhân loại đang
hướng đến. Đến năm 2000, tổ chức này cùng với Diễn đàn kinh tế khu vực
châu Á - Thái Bình Dương (APEC) nêu quan niệm: "Kinh tế tri thức là nền
kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực
chủ yếu của tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành
kinh tế" [45, tr.98].
Thuật ngữ KTTT được đưa vào Văn kiện Đại hội X và Đại hội XI của
Đảng ta và được hiểu: các hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng tri thức, tri
thức chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản phẩm xã hội và sự phát triển của nó
được dựa trên bốn trụ cột: "i) Lực lượng lao động trình độ cao, chất lượng
cao; ii) Hệ thống sáng tạo và ứng dụng CN có hiệu quả; iii) Hệ thống cơ sở hạ
tầng, thông tin, tin học hiện đại; và iv) Hệ thống thể chế xã hội và thể chế
kinh tế hiện đại" [85, tr.153].
Tuy đến nay đã có nhiều quan niệm và giải thích khác nhau về KTTT,
song nhìn chung các nhà khoa học đều có sự thống nhất trong nhận thức về
1 C.Mác đã dự báo: "Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ thuộcvào thời gian lao động và vào số lượng lao động đã chi phí..., mà đúng ra, chúng phụ thuộc vào trình độchung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sảnxuất" [57, tr 368-369].
27
bản chất của nền KTTT khác với hai nền kinh tế trước nó. Nếu trong quá trình
sản xuất của nền kinh tế nông nghiệp dựa chủ yếu vào sức cơ bắp của con
người và tài nguyên thiên nhiên, trong nền kinh tế công nghiệp tuy đã có sự
trợ giúp của máy móc nhưng sức cơ bắp của con người và tài nguyên thiên
nhiên vẫn giữ trọng yếu, thì trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò
quyết định hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Trên thực tế, xu hướng phát triển KTTT đã được khởi động cách đây
hàng chục năm, nhất là từ cuối những năm 70 thế kỷ XX khi trên thế giới bắt
đầu diễn ra cuộc cách mạng KH&CN hiện đại. Tuy nhiên, không có một nền
kinh tế nông nghiệp hay nền kinh tế công nghiệp thuần túy. Tức là trong nền
kinh tế nông nghiệp cũng đã chứa đựng một số yếu tố của nền kinh tế công
nghiệp và trong nền kinh tế công nghiệp cũng vẫn còn một số yếu tố của nền
kinh tế nông nghiệp. Trong nền kinh tế nông nghiệp, tri thức chủ yếu là những
kinh nghiệm được tích lũy từ các hoạt động thực tế, năng suất, chất lượng và
hiệu quả sản xuất đều hết sức thấp kém. So với nền kinh tế nông nghiệp, trong
nền kinh tế công nghiệp, tri thức đã chiếm vị trí ngày càng quan trọng hơn.
Nó không chỉ là kinh nghiệm từ các hoạt động thực tế, mà còn khám phá ra
những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy để đưa ra những sáng
chế, phát minh nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trong nền
KTTT, tri thức là bộ phận nguồn lực quan trọng nhất, quyết định nhất của lực
lượng sản xuất hiện đại, mà trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lại đóng
vai trò quyết định sự phát triển xã hội.
Khác với nền kinh tế công nghiệp, chủ thể là công nhân với các công
cụ cơ khí, cho năng suất lao động cao; còn nền KTTT, chủ thể là công nhân
trí thức với công cụ là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức. Có
thể hiểu kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và
sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của
cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
28
Phát triển KTTT là một xu hướng tất yếu trong thời đại ngày nay.
Trong xu hướng này, nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc và toàn diện
cả về trình độ CN, ngành sản xuất và cơ cấu sản phẩm. Tri thức, KH&CN, kỹ
năng của con người trở thành những yếu tố quyết định nhất của sản xuất và
trở thành lực lượng sản xuất quan trọng hàng đầu. Cuộc cách mạng KH&CN
hiện đại chính là bước quá độ chuyển nền kinh tế công nghiệp lên nền KTTT.
Trong nền KTTT, vai trò của con người trong lực lượng sản xuất tuy
không thay đổi, họ vẫn là chủ thể của quá trình sản xuất, sáng tạo và áp dụng
những thành tựu mới của KH&CN, nhưng tính chất hoạt động và yêu cầu đặt
ra đối với họ đã có sự thay đổi căn bản so với người lao động trong hai nền
kinh tế trước. Trong nền kinh tế tri thức, người lao động là người lao động trí
óc, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất, sản phẩm của họ là những phát minh
được ứng dụng ngay vào sản xuất. Tri thức, KH&CN là yêu cầu hàng đầu đối
với người lao động.
Phát triển KTTT đã và đang được diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở các nước
công nghiệp phát triển. Nhưng do sức hấp dẫn của nó đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội, mà KTTT đã và đang cuốn hút ngày càng nhiều nước đang phát triển.
Đã có một số nước đang phát triển thành công nhờ phát triển KTTT.
Nhận thức tầm quan trọng của KTTT trong quá trình CNH, HĐH đất
nước, kể từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001), nước ta bước vào giai đoạn
mới, giai đoạn CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Quan niệm CNH, HĐH
gắn với phát triển KTTT được hình thành trong bối cảnh mới của tình hình
thế giới và trong nước. Việt Nam không tiến hành CNH theo kiểu cũ, không
lặp lại sai lầm nóng vội, chủ quan của giai đoạn CNH trước đây. Tiến trình
CNH trong giai đoạn mới không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng
của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ
cấu gắn với đổi mới căn bản về CN. Con đường CNH, HĐH của nước ta cần
được rút ngắn về thời gian. Phải phát huy những lợi thế của đất nước, tận
29
dụng mọi khả năng để đạt trình độ CN tiên tiến, đặc biệt là CN thông tin, CN
sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ
biến hơn những thành tựu mới về KH&CN gắn với phát triển KTTT, tạo nền
tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh
tế quốc dân.
2.1.1.4. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Bối cảnh quốc tế có những biến đổi mới xu hướng toàn cầu hóa
và cách mạng KH&CN phát triển mạnh mẽ, một số nước công nghiệp phát
triển đang chuyển lên nền KTTT, để khắc phục nguy cơ tụt hậu khá xa về CN
và kinh tế thì nước ta phải tranh thủ áp dụng những thành tựu mới về
KH&CN để phát triển. Do vậy quá trình CNH ở nước ta hiện nay phải gắn với
HĐH; CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT như Đại hội Đảng lần thứ X đã
khẳng định:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức, chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế
tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
gắn với phát triển kinh tế tri thức [35, tr.28].
Một số nhà nghiên cứu khi nghiên cứu về tiến trình CNH ở nước ta
hiện nay đã đưa ra kết luận:
CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân ở nước ta phải đồng thời kết hợp
hai quá trình tuần tự và nhảy vọt, tuần tự từ thủ công lên nửa cơ khí
rồi lên cơ khí hóa và nhảy vọt lên công nghệ hiện đại ở những khâu
những ngành có điều kiện. Do đó, nước ta phải lồng ghép hai hệ
thống công nghệ: công nghệ cổ điển (cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy
lợi hóa…) và công nghệ hiện đại (công nghệ tin học, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa…) [41, tr.374].
30
Theo tử điển Tiếng Việt gắn có nghĩa là "có quan hệ chặt chẽ, không
tách rời nhau" [84, tr.474]. Như vậy CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri
thức ở nước ta hiện nay là hai quá trình có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau, là con đường, cách thức của nước đi sau nhằm rút ngắn quá trình phát
triển để sớm trở thành một nền kinh tế hiện đại.
Từ quan niệm chung về CNH, HĐH, kinh tế tri thức có thể hiểu một
cách khái quát CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức: là quá trình sử
dụng một cách phổ biến trí lực của con người, CN luôn được đổi mới sáng
tạo vào tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế tạo ra những ngành mới,
sản phẩm có giá trị gia tăng cao, nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy nền
kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở nước ta hiện nay được thể hiện ở
các nội dung sau: i) Kết hợp CN truyền thống và CN hiện đại; ii) Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp, dịch vụ có hàm
lượng tri thức, thúc đẩy tiến bộ xã hội; iii) Coi trọng việc gắn giữa nghiên cứu
và triển khai (Research and Deployment - R&D); iv) Coi trọng phát triển CN
thông tin; v) Kết hợp phát triển CN nội sinh và CN ngoại sinh; vi) Chuyển
dịch cơ cấu lao động theo hướng tri thức hóa.
CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở nước ta là con đường, cách thức
lựa chọn phát triển trong bối bối cảnh mới khi nhân loại bước vào thế kỷ 21.
Trong đó, điểm nổi bật là phải gắn kết CN truyền thống với CN hiện đại trên
cơ sở coi trọng yếu tố tri thức; phát huy lợi thế của đất nước, địa phương,
nâng cao năng lực sản xuất những ngành công nghiệp có tính nền tảng; đồng
thời phát triển mạnh các ngành kinh tế dựa vào tri thức, CN cao, CN tiên tiến
như CN thông tin, CN vật liệu, CN năng lượng… tạo ra nhiều CN mới, sản
phẩm mới, việc làm mới đạt tốc độ tăng trưởng cao, hội nhập có hiệu quả vào
nền kinh tế thế giới.
31
2.1.2. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
2.1.2.1. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức là cách thức để nhanh chóng thoát khỏi lạc hậu
CNH được bắt đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII
đây là con đường tất yếu của mọi quốc gia muốn phát triển, thoát khỏi đói
nghèo, lạc hậu. CNH tạo lập một nền kinh tế dựa trên nền tảng công nghiệp
hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến, thúc đẩy sản xuất đạt năng suất, hiệu
quả, chất lượng cao và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Còn
HĐH chỉ mới bắt đầu thực hiện và gắn liền với cuộc cách mạng khoa học - kỹ
thuật từ giữa thế kỷ XX đến nay. Thực chất HĐH là quá trình sử dụng những
thành tựu khoa học và CN hiện đại và những kinh nghiệm lịch sử để đổi mới
toàn diện, triệt để mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển
lên một trạng thái mới về chất làm cho nó trở nên hiện đại hơn, tiên tiến hơn.
Trong thời đại mà nền KTTT là tài sản chung của nhân loại; CN thông
tin và truyền thông đóng vai trò chủ chốt trong mọi lĩnh vực; các sản phẩm
công nghiệp có hàm lượng tri thức cao chiếm đa số; đầu tư vô hình cho con
người giáo dục, khoa học và văn hóa lớn hơn đầu tư hữu hình cho cơ sở vật
chất, CN đổi mới rất nhanh vòng đời CN được rút ngắn, tương lai trong thế kỷ
XXI không còn công nhân trực tiếp lao động chân tay vì nền sản xuất hoàn
toàn tự động hóa, thì việc áp dụng những thành tựu KH&CN vào quá trình
CNH, HĐH là điều mà không một quốc gia nào được bỏ lỡ. CNH, HĐH theo
quan điểm của Đảng ta là sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
CN, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại. Theo tác giả khi áp dụng
nền kinh tế tri thức để rút ngắn quá trình này chính là sử dụng một cách phổ
biến trí lực của con người cùng với CN, phương tiện hiện đại trong mọi lĩnh
vực luôn được đổi mới để phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội.
32
Vì vậy chúng ta không thể đi theo con đường CNH tuần tự của các
nước tư bản trước kia sẽ mất tới hàng trăm năm mà phải kết hợp giữa CNH
với HĐH, giữa CNH, HĐH với phát triển KTTT. Đối với Việt Nam để tồn tại
trong tiến trình toàn cầu hóa sâu rộng như hiện nay phải biết nắm lấy thời cơ,
tranh thủ nắm bắt tri thức khoa học và CN mới, những thành quả của kinh tế
tri thức chắc chắn sẽ giúp chúng ta từ một nước phát triển trung bình vươn lên
thành nước phát triển sánh vai với các nước trong khu vực và trên thế giới.
2.1.2.2. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức là giải pháp bắt buộc để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội hiện thực
Tiến trình phát triển của lịch sử loài người đã khẳng định rằng, mỗi
phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc trên
nền tảng cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Bất cứ quốc gia đang phát triển
nào muốn trở thành nền kinh tế hiện đại đều phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của một nền sản xuất hiện đại.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất là toàn bộ hệ thống các yếu tố
vật chất của lực lượng sản xuất phù hợp với trình độ kỹ thuật tương ứng mà
lực lượng lao động xã hội sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm
sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội
Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất hiện đại,
có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao, dựa trên trình độ
KH&CN hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sở dĩ chiến thắng được sản xuất
phong kiến là do tạo ra nền đại công nghiệp. Lênin đã từng nói chủ nghĩa xã
hội chỉ có thể chiến thắng phương thức sản xuất tư bản khi có nền sản xuất
hiện đại, có năng suất lao động cao hơn gấp nhiều lần so với chủ nghĩa tư bản
hiện có. Hay nói cách khác, chủ nghĩa xã hội hiện thực chỉ được xây dựng
33
trên cơ sở khi mà lực lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa cao hơn
nhiều nhiều lần so với chủ nghĩa tư bản, khi chưa có cơ sở vật chất kỹ thuật
lớn hơn của chủ nghĩa tư bản thì chủ nghĩa xã hội hiện thực là ước mơ mà
thôi. Để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã hội thì
phải CNH, HĐH đất nước đây là giải pháp bắt buộc nhất là đối với nước đi
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản như ở Việt Nam. Như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta
là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội", "Muốn
đảm bảo đời sống sung sướng mãi mãi, phải công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa" [58, tr.13-159].
Trong điều kiện cuộc cách mạng KH&CN đang diễn ra mạnh mẽ, kinh
tế thế giới sẽ có những biến động to lớn, theo chiều hướng chuyển mạnh sang
KTTT. Lực lượng sản xuất của xã hội loài người bước lên một thang bậc mới,
với sự tăng vọt về năng suất, chất lượng, hiệu quả, các nước không đủ khả
năng sẽ bị tụt hậu. Vì vậy để xây dựng thành công chủ nghĩa xã ở nước ta
hiện nay thì phải đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Theo đó có
thể nói, CNH, HĐH ở Việt Nam không chỉ khác với các nước đã tiến hành
CNH về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành mà cả mục tiêu
chiến lược. Chính sự khác biệt này đã làm nên tính đặc thù của sự nghiệp
CNH, HĐH mà chúng ta đang tiến hành.
2.1.2.3. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức bắt nguồn từ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy
đủ hơnNói tới hội nhập kinh tế là nói tới việc tham gia vào các tổ chức kinh tế
khu vực và thế giới. Hiện nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao đầy đủ với
169 nước trong đó có tất cả các nước láng giềng và các nước lớn có quan hệ
thương mại với trên 225 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên chính thức của
hầu hết các tổ chức quốc tế chủ yếu như: Thành viên của hiệp hội các quốc
34
gia Đông Nam Á (ASEAN) và bắt đầu tham gia khu vực mậu dịch tự do
Asean (AFTA); Việt Nam gia nhập diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) với tư
cách là thành viên sáng lập; Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình
Dương (APEC); đặc biệt 7/11/2006 nước ta đã chính thức trở thành thành
viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Cũng chính từ môi trường hòa bình, hợp tác, liên kết quốc tế và những
xu thế tích cực trên thế giới tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội
lực, lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực - nguồn vốn, CN mới, kinh nghiệm
quản lý mở rộng thị trường để phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH. Hội nhập vào
nền kinh tế thế giới là một xu thế tất yếu, ngày nay không một nền kinh tế nào
có thể đứng cô lập mà phát triển được, Việt Nam không thể nằm ngoài dòng
chảy đó.
Quá trình hội nhập kinh tế sẽ mang lại những cơ hội to lớn mà nếu biết
tranh thủ sẽ có tác động tích cực đến việc rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất
nước, song cũng đặt ra những thách thức hết sức gay gắt. Chủ động hội nhập
vào kinh tế thế giới là chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Không thể
thoát cảnh nghèo nàn, lạc hậu, nếu đứng ngoài, biệt lập với thế giới, đặc biệt
khi định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, càng không thể đóng cửa mà phải tận
dụng mọi nguồn lực, trong đó nguồn ngoại lực là quan trọng. V.I.Lênin đã
từng nói: Chủ nghĩa xã hội = Chính quyền Xô Viết + trật tự đường sắt Phổ +
Kỹ thuật và cách tổ chức các tờrớt Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ..., qua
đó chúng ta hiểu rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể được xây dựng thành công
trên cơ sở những thành tựu cao nhất của KH&CN hiện đại. Với lợi thế về
nguồn nhân lực và lợi thế của nước đi sau trong một vùng mà CN, tư bản và
tri thức kinh doanh đang di chuyển nhanh chóng, Việt Nam hoàn toàn có khả
năng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực. Tuy nhiên đó mới chỉ
là tiềm năng và cơ hội. Điều kiện đủ là phải quyết tâm thoát khỏi nguy cơ tụt
hậu, mạnh dạn đổi mới để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các
35
thành phần kinh tế, tích cực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đó là những
yếu tố quan trọng để tích lũy nhanh và kinh tế phát triển có hiệu quả.
Như vậy, bất cứ một tỉnh, thành phố nào ở Việt Nam muốn nhanh
chóng thoát nghèo, trở thành thành phố hiện đại thì việc thực hiện đường lối
CNH, HĐH với phát triển KTTT là việc cần thiết. Đây cũng chính là thực
hiện theo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy
nhiên còn tùy thuộc vào hoàn cảnh địa lý, đặc thù của địa phương mà đưa ra
những chính sách cụ thể, lựa chọn cho tỉnh hay thành phố mình những ngành
nghề phù hợp để phát triển.
2.1.2.4. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức do tác động nhiều mặt của quá trình này đối với đời sống
kinh tế, chính trị, xã hội
Tác động của CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT đối với xã hội loài
người vô cùng to lớn, nó không chỉ thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh
tế, mà còn kéo theo sự biến đổi trong phương thức sáng tạo của cải, trong lối
sống và tư duy của con người. Trong nền KTTT, các quy trình sản xuất đều
được tự động hoá. Máy móc không chỉ thay thế con người những công việc
nặng nhọc, mà thay thế con người ở những khâu phức tạp của sản xuất và
quản lý, không chỉ thay thế thao tác lao động của con người mà cả thao tác tư
duy. Trong nền kinh tế toàn cầu, với sự phát triển của internet, thương mại
điện tử đang trở thành một lĩnh vực phát triển rất mạnh mẽ, nó thúc đẩy các
ngành sản xuất dịch vụ trên phạm vi toàn thế giới, và đặc biệt quan trọng với
các nước đang phát triển, nhất là đối với vùng xa xôi hẻo lánh, các nước và
các vùng này có cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, mặt trái
CNH, HĐH, nền KTTT đang đặt ra những thách thức rất lớn, đó là sự cách
biệt giàu nghèo, sự phân hoá giữa một bên là các quốc gia, dân tộc biết nắm
bắt và khai thác những nguồn lợi từ KH&CN, và một bên là các quốc gia, dân
tộc không có hoặc chưa phát triển những CN đó. Vì vậy với sự phát triển như
36
vũ bão của KH&CN, quốc gia nào, dân tộc nào nhanh chóng nắm bắt và làm
chủ được CN thì sẽ khai thác được nhiều hơn, nhanh hơn lợi thế của mình.
Cũng chính từ đây nảy sinh một thách thức rất lớn đối với các nước đang phát
triển như nước ta đó là làm thế nào để phát huy được thế mạnh nguồn nội lực
thúc đẩy sự phát triển của xã hội mà không mất đi văn hoá truyền thống quý
báu của dân tộc. Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay tất yếu phải khai
thác được những tiềm năng thế mạnh của đất nước, thúc đẩy phát triển
KH&CN, coi đó là một điều kiện cần thiết để đạt được những mục tiêu của
giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Nhận thức tính tất yếu, sự cần thiết và tác động nhiều mặt của CNH,
HĐH trong bối cảnh mới của thế giới và trong nước, kể từ Đại hội IX, Đảng
ta nêu chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với từng bước phát triển KTTT.
Chủ trương này được tiếp tục khẳng định tại Đại hội XI với yêu cầu cấp thiết
hơn: " Phát triển mạnh khoa học, CN làm động lực đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh,
bền vững của đất nước" [36, tr 218].
2.2. NỘI DUNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI
THỨC TRÊN PHẠM VI MỘT TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM
Bất cứ tiến trình CNH, HĐH nào đều thực hiện hai nội dung cơ bản là:
phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhưng đối với quá trình CNH, HĐH gắn với
phát triển kinh tế tri thức ở một tỉnh, thành phố không phải chỉ thực hiện ở 2
nội dung, mà nó còn thể hiện ở sự phát triển KH&CN, thúc đẩy kinh tế phát
triển theo hướng bền vững, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tri
thức…và còn phụ thuộc vào các nhân tố ảnh hưởng khác nữa.
37
2.2.1. Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức trên phạm vi một tỉnh, thành phố ở Việt Nam
2.2.1.1. Kết hợp công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại
Trong "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020", Đảng ta
xác định:
Xây dựng và thực hiện chương trình đổi mới CN quốc gia, có chính
sách khuyến khích doanh nghiệp nhập khẩu CN hiện đại, trước hết
là đối với những ngành, lĩnh vực chủ lực, mũi nhọn; ưu tiên phát
triển CN; ứng dụng nhanh khoa học và CN vào lĩnh vực nông
nghiệp và công nghiệp nông thôn; sử dụng hợp lý CN dùng nhiều
lao động. Nhanh chóng hình thành một số cơ sở nghiên cứu - ứng
dụng mạnh, đủ sức tiếp thu, cải tiến CN và sáng tạo CN mới gắn với
hoạt động sản xuất kinh doanh [36, tr.134].
Theo mục tiêu trên, cần áp dụng kỹ thuật, CN tiên tiến của thế giới để
tạo ra những sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao, nâng cao sức cạnh tranh
sản phẩm trong tất cả các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, cụ thể
như sau:
Thứ nhất: Hiện đại hóa một số khâu giữ vai trò quyết định đối với CN
truyền thống chủ yếu là các ngành các ngành dựa trên cơ sở khai thác có hiệu
quả các lợi thế của địa phương và đất nước. Việc phát triển các ngành có
tiềm năng, lợi thế nhằm tích lũy vốn, giải quyết việc làm cho người lao động,
nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Đây chính là bước
đầu để tạo tiền đề cần thiết cho phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, ngành
CN cao để phát triển KTTT.
Tập hợp trong nhóm này là các ngành như may mặc, giày dép, đồ gỗ,
gia công các loại, lắp ráp đồ điện tử, chế biến lương thực - thực phẩm, thủy
hải sản, đồ uống, các lĩnh vực dịch vụ phục vụ đời sống và kinh doanh mang
tính truyền thống như buôn bán nhỏ, vận tải hàng hóa và hành khách, sửa
38
chữa phương tiện vận tải, đồ dùng gia đình và vô vàn các lĩnh vực khác...Tuy
giá trị gia tăng thu được từ nhóm ngành này về cơ bản không nhiều, nhưng
đem lại hiệu quả cao cho nền kinh tế vì có khả năng thu hồi vốn nhanh, linh
hoạt thích ứng với môi trường kinh doanh đối với điều kiện cụ thể của nền
kinh tế đang trong thời kỳ CNH. Trong khuôn khổ phát triển kinh tế tri thức ở
đây có hai vấn đề đặt ra cho ngành là: 1) Đẩy mạnh đổi mới, ứng dụng CN
mới, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. 2) Chủ động
thiết kế mẫu mã hàng hóa, đầu tư cho sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao
nhằm đáp ứng kịp thời thị hiếu của người tiêu dùng và tạo ra được những mặt
hàng xuất khẩu mới của riêng mình trong chuỗi cung ứng toàn cầu, tạo sự đột
phá trong xuất khẩu.
Thứ hai: Phát triển các ngành sử dụng CN tiên tiến, CN cao. Việc tập
trung phát triển một số ngành CN cao, CN tiên tiến gắn với sự hình thành nền
KTTT có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế đặc biệt đối với
những tỉnh/thành phố đang tiến hành CNH, HĐH như Đà Nẵng.
CN cao là CN hội tụ được những tri thức, phương tiện và kỹ năng tổ
chức để sản xuất [23, tr.15]. Đó là loại CN có hàm lượng cao về nghiên cứu
KH và phát triển CN; tạo ra các sản phẩm dịch vụ có chất lượng và giá trị gia
tăng cao; có khả năng hình thành các ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc HĐH
ngành sản xuất, dịch vụ hiện có. Nó đòi hỏi trang thiết bị khoa học tinh vi
nhất và kỹ thuật sản xuất tiên tiến [23, tr.14,15].
Đối với nước ta hay một tỉnh/thành phố nào hiện nay, việc lựa chọn
phát triển CN cao trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển
KTTT đòi hỏi phải ưu tiên các ngành CN thông tin, CN sinh học, CN vật liệu
mới, CN năng lượng mới và CN chế tạo, tự động hóa.
Nội dung của phát triển CN thông tin bao gồm phát các CN và phương
tiện hiện đại để thu thập, xử lý, lưu trữ, sản xuất và truyền thông tin phục vụ
cho việc khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin vào các
39
lĩnh vực sản xuất và đời sống. Đây được coi là một trong những ưu tiên hàng
đầu trong chiến lược phát triển CN của bất cứ thành phố nào ở Việt Nam .
Nội dung phát triển CN sinh học bao gồm các ngành nông nghiệp CN
cao, nông nghiệp sạch, công nghiệp dược phẩm và bảo vệ môi trường…, dựa
trên thành tựu tổng hợp của nhiều bộ môn khoa học như sinh học phân tử, di
truyền học, vi sinh vật, sinh hóa... Đây là loại CN cao cơ bản có vai trò quyết
định trong việc tăng năng lực tạo ra lương thực, thực phẩm và các sản phẩm
sinh học khác có chất lượng cao và an toàn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
lên của con người.
Nội dung phát triển CN vật liệu mới: đây là CN dựa trên khoa học vật
liệu, khoa học về cấu trúc các hệ đông đặc, khoa học mô phỏng hệ nguyên
tử... Việc tạo ra những vật liệu mới có tính năng sử dụng tốt, ứng dụng tốt
như: polyme, kim loại và hợp kim, compozit hữu cơ, kim cương, vật liệu siêu
cứng, vật liệu điện tử và quang tử, vật liệu biến đổi năng lượng, vật liệu từ
tính cao cấp, vật liệu cấu trúc nano... được sử dụng cho các ngành chế tạo
máy, chế tạo loại máy móc tí hon, rôbốt, y học... và nhiều ngành kinh tế khác
góp phần thúc đẩy nền KTTT và phát triển một xã hội tri thức bền vững.
Nội dung phát triển CN năng lượng mới: CN năng lượng mới bao gồm
CN năng lượng tái tạo và năng lượng hạt nhân. Đây là CN cao cơ bản nhằm
giải quyết các vấn đề rất phức tạp của giai đoạn sắp tới khi các nguồn năng
lượng hóa thạch đang đe dọa cạn kiệt và sự ô nhiễm do khí thải từ chế biến và
tiêu thụ năng lượng gây nên hiệu ứng nhà kính làm biến đổi khí hậu toàn cầu,
dẫn đến nhiều thảm họa.
Nội dung phát triển CN chế tạo, tự động hóa: Tập trung phát triển một
số chuyên ngành, sản phẩm cơ khí trọng điểm nhằm khai thác, phát huy tốt
nhất tiềm năng đáp ứng các yêu cầu cơ bản của công cuộc phát triển đất nước.
Nâng cao khả năng chuyên môn hóa, hợp tác hóa, nâng cao năng lực của
ngành cơ khí, tạo tiền đề phát triển các ngành công nghiệp khác của đất nước.
40
Các ngành cơ khí chế tạo chuyển sang sử dụng các CN mới nhất là vật liệu,
CN số hóa để chế tạo máy công cụ điều khiển theo chương trình với các dây
chuyền thiết bị tự động, các phương tiện vận chuyển hiện đại thì giá trị có thể
gia tăng nhiều lần, nhờ đó từng bước phát triển KTTT.
2.2.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành
công nghiệp, dịch vụ có hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cao, thúc đẩy
tiến bộ xã hội
Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố
có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong một không gian
và thời gian nhất định, trong những điều kiện xã hội cụ thể, được thể hiện cả
về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng lẫn chất lượng, phù hợp với
mục tiêu được xác định của nền kinh tế.
Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là cấu tạo hay cấu trúc của nền kinh tế
bao gồm các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế...và mối
quan hệ hữu cơ giữa chúng. Trong cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế
là quan trọng nhất, quyết định các hình thức cơ cấu kinh tế khác. Cơ cấu kinh tế
hợp lý là điều kiện tăng trưởng, phát triển, do đó CNH, HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là việc chuyển cơ cấu kinh tế từ trạng thái
này sang trạng thái khác, thay đổi tỷ trọng và mối quan hệ giữa các bộ phận
hợp thành trong nền kinh tế để tạo ra sức mạnh, hiệu quả, định hướng phát
triển mới của nền kinh tế.. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH,
HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay, được đặc trưng
bởi sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng các ngành kinh tế dựa
nhiều vào tri thức, các ngành kinh tế chủ yếu sẽ được thay thế bằng các ngành
kinh tế công nghiệp phần mềm với hàm lượng tri thức cao. Trong đó các yếu
tố như: thông tin, giáo dục, tri thức sẽ được coi là các ngành công nghiệp mới
và ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong nền kinh tế tri thức làm biến
41
đổi kết cấu và cơ cấu của các ngành công nghiệp truyền thống. Trong tương
lai không xa ngoài ba khu vực chính công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp sẽ
thêm một khu vực nữa CN tri thức, CN sáng tạo được nhận định là ngành
công nghiệp cốt lõi, đem lại giá trị kinh tế cao.
Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta hiện nay theo hướng
Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp hiện đại, hiệu quả. Để thực hiện mục
tiêu CNH, HĐH trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì tỷ lệ
nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm dần, mặc dù sản lượng nông
nghiệp không ngừng tăng, đáp ứng cao hơn những yêu cầu về sản lượng và
chất lượng cho con người. Nền sản xuất nông nghiệp truyền thống sẽ được
thay thế bởi nền sản xuất nông nghiệp hiện đại với sự trợ giúp đắc lực của
các thành tựu KH&CN tiên tiến. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch
vụ dựa vào tri thức tăng lên mạnh mẽ. Ở đây các hoạt động kinh tế từ dịch
vụ và CN cao trở thành chủ yếu, bởi khu vực này tạo ra giá trị gia tăng
nhiều nhất. Cụ thể là:
Ngành công nghiệp phát triển theo hướng kết hợp giữa các ngành sử
dụng nhiều lao động với đi nhanh vào một số ngành lĩnh vực có CN cao. Phát
triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc… Xây dựng có
chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng. Sản xuất tư liệu sản xuất
cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng, khai thác có hiệu
quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Ngành nông nghiệp phát triển theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn, tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ KH&CN nhất là CN sinh
học. Nâng cao chất lượng nguyên liệu đưa vào chế biến, đặt việc bảo đảm
chất lượng hàng hóa theo tiêu chuẩn quốc tế lên hàng đầu, coi trọng bảo đảm
vệ sinh công nghiệp trong chế biến, tạo tính đặc thù của sản phẩm và tạo lập
thương hiệu hàng hóa nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
42
Ngành dịch vụ phát triển theo hướng tập trung vào các lĩnh vực có tiềm
năng như du lịch, bảo hiểm vận tải hàng không, xây dựng, xuất khẩu lao
động… HĐH các ngành dịch vụ: thương mại, tài chính, ngân hàng, viễn
thông, logistic và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác, dịch vụ KH&CN, đó là
những ngành có hàm lượng tri thức cao và cho giá trị gia tăng cao nhất. Nâng
cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ, tăng cường sự hợp tác giữa các lĩnh vực dịch vụ.
Ðồng thời, tập trung tăng cường xuất khẩu dịch vụ và dịch vụ ngoại tệ tại chỗ
thông qua các hoạt động dịch vụ du lịch tài chính ngân hàng, thu kiều hối, và
bưu chính viễn thông, vận tải đường không và đường biển.
Trên cơ sở chiến lược cơ cấu kinh tế chung của cả nước, mỗi tỉnh,
thành phố phải xác định cho được một cơ cấu kinh tế phù hợp với điều kiện
và lợi thế của mình, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Để thực hiện tốt nội
dung này, điều quan trọng là việc hoạch định chính sách và cơ chế vận hành
của các tỉnh/thành phố phải được dựa trên tri thức, coi tri thức là nền tảng của
sự phát triển.
2.2.1.3. Coi trọng việc gắn giữa nghiên cứu và triển khai (Research
and Deployment)
Sự phát triển của KH sẽ tạo cơ hội giúp phát triển các CN mới, do đó
phát triển các ngành nghề theo hướng giảm thiểu tiêu hao sức cơ bắp sang coi
trọng yếu tố tri thức trong giá trị sản phẩm. Khoa học là yếu tố nền tảng cho
sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của một tỉnh/thành phố, quốc gia
cũng như của từng doanh nghiệp trong kinh tế thị trường.
Phát triển KH&CN mang lại rất nhiều lợi ích cho đất nước, đẩy nhanh
quá trình CNH, HĐH, với điều kiện những phát minh, đề tài nghiên cứu phải
thật sự có giá trị nghĩa là phải phù hợp với yêu cầu của sản xuất, của thị
trường, phải lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cao nhất. Hay nói cách
khác phát triển KH phải gắn với nghiên cứu và triển khai. Để làm được điều
43
này cần có sự kết hợp giữa đào tạo với sản xuất, nghiên cứu KH thực nghiệm
gắn với ngành nghề. Không ai khác chính các trung tâm, viện nghiên cứu,
thiết kế là đầu mối trong việc giải quyết các vấn đề trong CN sản xuất, xây
dựng qui trình sản xuất từ đó chuyển giao CN cho các doanh nghiệp. Hơn nữa
các công ty biết tập hợp, khai thác hiệu quả các nguồn tri thức tiên tiến trong
và ngoài nước, đặt hàng cho phòng thí nghiệm của các trường đại học, viện
nghiên cứu… đảm bảo cho việc nghiên cứu, triển khai thử nghiệm các CN
tiên tiến luôn đổi mới, sáng tạo CN, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm,
tăng khả năng cạnh tranh ở quy mô quốc gia và quốc tế. Như Nghị quyết
trung ương 2 khóa VIII đã đặt ra: giải đáp kịp thời những vấn đề lý luận thực
tiễn do cuộc sống đặt ra; đổi mới nâng cao trình độ CN trong toàn bộ nền kinh
tế quốc dân; xây dựng và phát triển có trọng điểm các ngành CN cao... đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Điều này chứng tỏ việc phát triển KH và lựa chọn CN dù hiện đại đến đâu
nhưng quan trọng nhất là phải đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của đất nước.
2.2.1.4. Coi trọng phát triển công nghệ thông tin
Tác động của CN thông tin đối với xã hội loài người vô cùng to lớn, nó
không chỉ thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế mà còn là chìa khoá
để mở cánh cổng vào nền KTTT. Ứng dụng và phát triển CN thông tin nhằm
thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hóa các ngành kinh
tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả
quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc dân, nâng cao chất lượng cuộc sống
nhân dân, bảo đảm an ninh quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực
hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH. Cũng như ở các nước trên thế giới, CN
thông tin có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của
Việt Nam, làm giảm đáng kể chi phí giao dịch trong kết nối bạn hàng và trong
thực hiện hàng hóa và dịch vụ. Đây cũng là ngành mà Việt Nam hay một số
tỉnh/thành phố trên đất nước có lợi thế phát triển đặc biệt, trên nền tảng nguồn
44
nhân lực trẻ, dồi dào và được đào tạo cơ bản, có nhiều khả năng sáng tạo và
sử dụng CN mới.
Yêu cầu của việc phát triển CN thông tin trong giai đoạn hiện nay: i)
Hình thành hệ thống mạng tích hợp theo CN thế hệ mới, băng thông rộng,
dung lượng lớn, mọi nơi, mọi lúc với mọi thiết bị truy cập, đáp ứng nhu cầu
ứng dụng CN thông tin và Truyền thông, rút ngắn khoảng cách số, bảo đảm
tốt an ninh, quốc phòng. ii) Ứng dụng CN thông tin và Truyền thông và
Internet sâu rộng trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quản
lý tạo nên sức mạnh và động lực để chuyển dịch cơ cấu, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, nâng cao hiệu suất lao động. iii) Khai thác có hiệu quả thông tin và tri
thức trong tất cả các ngành tiến tới xây dựng và phát triển Việt Nam điện tử
với công dân điện tử, chính phủ điện tử và doanh nghiệp điện tử, giao dịch và
thương mại điện tử. iv) Phát triển công nghiệp phần mềm; tập trung nghiên
cứu ứng dụng, chuyển giao CN, góp phần đổi mới tổ chức sản xuất, kinh
doanh, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Mục tiêu cuối cùng của
việc thúc đẩy phát triển và ứng dụng CN thông tin là để phục vụ người dân,
phục vụ doanh nghiệp, từ đó góp phần phát triển kinh tế xã hội.
2.2.1.5. Kết hợp phát triển CN nội sinh và CN ngoại sinhĐể đạt được mục tiêu trở thành nước hay một thành phố công nghiệp
hiện đại vào năm 2020 thì không có con đường nào khác ngoài hai con
đường: Phát triển CN nội sinh và tiếp nhận chuyển giao CN, nội sinh hóa CN
nhập để trang bị kỹ thuật và CN hiện đại, cho các ngành kinh tế . CN nội
sinh là tập trung nguồn lực, khai thác thế mạnh, tiềm năng khoa học và CN
trong mọi ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội, nâng cao tiềm lực khoa học và CN
của đất nước. Đây là CN được tạo ra thông qua quá trình nghiên cứu và triển
khai trong nước nên người sử dụng dễ dàng làm chủ được CN, dễ phát huy
hiệu quả, tiết kiệm được ngoại tệ, không phụ thuộc vào nước ngoài về kỹ
thuật, tận dụng được các nguồn lực sẵn có ở các địa phương. Các cơ quan
45
nghiên cứu triển khai thông qua nghiên cứu sáng tạo CN có điều kiện nâng
cao trình độ. Còn tiếp nhận chuyển giao CN, nội sinh hóa CN nhập nghĩa là
chủ động tiếp thu tối đa KH&CN thế giới, lấy nghiên cứu ứng dụng, chuyển
giao CN làm chủ đạo, tạo khả năng lựa chọn, thích nghi và làm chủ CN nhập,
đi thẳng vào các thế hệ tiên tiến, tiết kiệm nguyên liệu, CN thân thiện môi
trường, sáng tạo kỹ thuật, CN phù hợp với điều kiện trong nước. Đối với các
tỉnh, thành phố và nước ta hiện nay việc tiếp nhận chuyển giao CN sẽ nâng
cao trình độ kỹ thuật sản xuất, tận dụng nguồn lực sẵn có mà chưa khai thác
được vì thiếu CN nguồn, tránh được rủi ro nếu phải tự do mua bán CN và
quan trọng là khi tiếp nhận CN ngoại sinh phải thích nghi và làm chủ nó.
Trong phát triển CN nội sinh, sáng tạo CN mới là cốt lõi. Tiến trình
CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT của một tỉnh/thành phố hay một quốc
gia nhanh hay chậm là do năng lực sáng tạo và đổi mới CN, đổi mới sản
phẩm. Sự sáng tạo ra CN mới nghĩa là tạo ra nhiều sản phẩm mới không chỉ
có chất lượng cao hơn, giá thành thấp hơn mà còn giảm tới mức thấp hơn thời
gian đi tới người tiêu dùng. Trong nền KTTT thì sản xuất CN trở thành ngành
sản xuất chủ đạo, như C. Mác đã dự báo: "Phát minh trở thành một nghề đặc
biệt" [45, tr 105].
Đối với một tỉnh/thành phố ở Việt Nam, để rút ngắn tiến trình CNH,
HĐH cần vừa biết khai thác các lợi thế, dựa vào nội lực của địa phương theo
một trình tự hợp lý, đảm bảo kinh tế tăng trưởng bền vững; vừa đầu tư phát
triển các ngành kinh tế mũi nhọn, CN cao, các lĩnh vực CN tiên tiến theo xu
hướng chung của thế giới. Áp dụng thành tựu KH&CN tiên tiến, nhất là phải
đổi mới sáng tạo CN vào sản xuất trong tất cả các ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn ở giai đoạn sau.
2.2.1.6. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tri thức hóa
Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi về lượng các thành phần trong
lực lượng lao động để tạo nên một cơ cấu mới. Trong thời đại cách mạng
46
KH&CN, với xu hướng tri thức hóa các hoạt động sản xuất, kinh doanh, việc
chuyển dịch cơ cấu lao động tất yếu phải là quá trình chuyển dịch lực lượng lao
động từ các lĩnh vực sản xuất trực tiếp sang gián tiếp với những công việc dịch
vụ và làm văn phòng. Quá trình này phải được tiến hành đồng bộ với chuyển
dịch cơ cấu KH, CN và các yếu tố sản xuất khác trên cơ sở một cơ cấu hợp lý
nhất cho phép phát huy tối đa các nguồn lực cho sự tăng trưởng kinh tế.
CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT không chỉ đòi hỏi đổi mới tất cả
các ngành, mà còn là dịch chuyển cơ cấu trong từng ngành, đồng thời chuyển
dịch cơ cấu tất cả các ngành trong nền kinh tế theo hướng gia tăng hàm lượng
tri thức, tạo nhiều giá trị và kéo theo đó là chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng tri thức hóa. Có thể hình dung chuyển dịch cơ cấu lao động của một
tỉnh/thành phố theo hướng như sau:
- Chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ, làm
giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch
vụ trong tổng lao động xã hội.
- Chuyển từ lao động đơn giản, trình độ thấp sang lao động phức tạp,
có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao.
- Tăng tỷ trọng lao động trong các ngành, các lĩnh vực đòi hỏi lao động
phải có trình độ văn hóa ngày càng cao và lao động qua đào tạo, kể cả lao
động chuyên môn và lao động kỹ thuật nhằm tăng hàm lượng chất xám trong
sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao.
- Trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, tăng tỷ trọng lao
động trong ngành lâm nghiệp, thủy sản giảm tuyệt đối và tỷ trọng lao động
nông nghiệp thuần túy, tạo cơ cấu lao động nông, lâm ngư nghiệp đa ngành.
- Trong ngành công nghiệp, giảm lao động trực tiếp tạo ra sản phẩm,
tăng mạnh lao động trong ngành sử dụng CN cao (CN phần mềm, CN sinh
học, tự động hóa, sản phẩm cơ khí chất lượng cao...) hay công nhân tri thức
và trở thành lực lượng chủ yếu.
47
- Trong dịch vụ tăng nhanh lao động trong các ngành: du lịch, vận
tải, bưu chính, viễn thông, tin học, dịch vụ tài chính, ngân hàng, kiểm toán,
chứng khoán...
Xu hướng chuyển dịch lao động nêu trên phải xuất phát từ yêu cầu lựa
chọn con đường phát triển rút ngắn, dựa nhiều vào tri thức nhằm giải phóng
sức sản xuất, sức lao động của xã hội cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững. Để thực hiện việc chuyển dịch này, cần phải có một đội ngũ nhân lực
thích ứng. Nghĩa là phải phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, đào
tạo một lực lượng hùng hậu, không chỉ gồm các nhà chuyên môn, mà c̣òn
gồm các nhà CN, kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ trình độ cao, công nhân
kỹ thuật lành nghề, đội ngũ lao động kỹ thuật trình độ cao. Vì không ai khác
con người chính là chủ nhân sẽ quyết định sự thành bại của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
2.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức trên phạm vi một tỉnh, thành phố ở
Việt Nam
2.2.2.1. Tiềm năng về nguồn tài nguyên thiên nhiên
Việt Nam là cửa ngõ đầu mối giao thông của các tuyến đường quốc tế
quan trọng, nơi diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động và được coi là khu vực
phát triển năng động nhất hiện nay. Vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát triển
và giao lưu kinh tế. Do đó, chúng ta càng có điều kiện để mở rộng các hoạt
động kinh tế đối ngoại, thu thập và xử lý thông tin nhanh chóng. Bên cạnh đó
lại có nguồn tài nguyên phong phú bao gồm:
Tiềm năng đất có khả năng canh tác nông nghiệp khá lớn, nhất là đất
phù sa màu mỡ đã đưa Việt Nam thành một trong những nước xuất khẩu gạo
lớn trên thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi để các tỉnh, thành phố phát huy
lợi thế của địa phương đưa ra những sản phẩm nông sản có giá trị mang
thương hiệu Việt Nam cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
48
Việt Nam có bờ biển dài thuận lợi cho việc đưa vào sử dụng để khai
thác hoặc nuôi trồng thuỷ sản và phát triển kinh tế biển. Tài nguyên nước dồi
dào là cơ hội phát triển giao thông đường thủy, xây dựng thủy điện, chăn nuôi
hay đánh bắt hải sản nhất là đối với những tỉnh/thành phố có đường biển.
Nước ta có nhiều loại khoáng sản có quy mô lớn: than, Boxit, thiếc, sắt,
apatit, đồng, crom, vàng, đá quý, đá vôi, cát thủy tinh, dầu mỏ...Đây là tài
nguyên giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của công nghiệp, quy định
sự phát triển của các ngành. Dựa trên thế mạnh khoáng sản mà một số ngành
công nghiệp của các tỉnh/thành phố đã phát triển khá mạnh như dầu khí, hóa
chất, luyện kim, cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng…
Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới, bốn mùa xanh tươi. Địa hình có núi,
rừng, sông, biển, đồng bằng và cao nguyên. Núi non đã tạo nên những vùng
cao có khí hậu rất gần với ôn đới, nhiều hang động, ghềnh thác, đầm phá,
điểm nghỉ dưỡng và danh lam thắng cảnh.. Với hàng nghìn năm lịch sử, có
trên bảy nghìn di tích, rất nhiều đền, chùa, nhà thờ, các công trình xây dựng,
các tác phẩm nghệ thuật - văn hoá khác nằm rải rác ở khắp các địa phương
trong cả nước là những điểm tham quan du lịch đầy hấp dẫn. Với tiềm năng
du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo như thế, những năm gần đây ngành Du
lịch đã thu hút hàng triệu khách trong và ngoài nước, góp phần đáng kể cho
nền kinh tế quốc dân. Hơn thế, bằng tiềm năng và sản phẩm du lịch của mình,
ngành Du lịch đang tạo điều kiện tốt cho bè bạn khắp năm châu ngày càng
hiểu biết và yêu mến đất nước Việt Nam.
2.2.2.2. Tiềm năng trí tuệ của nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực, luôn luôn là động lực thúc đẩy sự tiến bộ và
tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Kinh nghiệm của nhiều nước CNH
trước đây cho thấy phần lớn thành quả phát triển không phải nhờ tăng vốn sản
xuất mà là hoàn thiện trong năng lực con người, sự tinh thông, bí quyết nghề
nghiệp và quản lý. Khác với đầu tư cho nguồn vốn phi con người, đầu tư cho
49
phát triển con người là vấn đề liên ngành, đa lĩnh vực và tác động đến đời
sống của các cá nhân, gia đình, cộng đồng của họ và đến toàn bộ xã hội nói
chung.
Lênin coi nhân tài, tri thức là nguồn tài nguyên quý nhất của xã hội, là
động lực phát triển mạnh mẽ của xã hội. Nhất là trong bối cảnh nền KTTT
ngày nay, nói tới nguồn nhân lực người ta thường nhắc tới tiềm năng trí lực,
nên việc nhận diện khai thác tiềm năng nguồn lực trí tuệ ngày càng trở nên
cần thiết. Vì vậy nhiệm vụ quan trọng của nhân lực ở một tỉnh/thành phố hiện
nay là phải sử dụng nguồn lực trí tuệ hiện có để nghiên cứu, ứng dụng các KH
kỹ thuật tiến bộ và CN mới, phát huy sáng kiến cải tạo kỹ thuật, hợp lý hóa
sản xuất tăng năng suất lao động thực hiện thành công sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam trở thành nước công
nghiệp hiện đại thì không thể thiếu đội ngũ đông đảo những công nhân lãnh
nghề, những nhà KH kỹ thuật tài năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, những
nhà doanh nghiệp tháo vát, nhà lãnh đạo, quản lý tận tụy, biết nhìn xa trông
rộng. Con người Việt Nam được đánh giá là hiếu học, thông minh, cần cù
trong lao động, dũng cảm trong chiến đấu. Đó là những đức tính hết sức quý
báu, đã giúp dân tộc ta tồn tại cho đến ngày nay, trải qua không ít thăng trầm
suốt mấy nghìn năm lịch sử. Không thể phủ nhận con người Việt Nam nói
chung và người lao động nói riêng hiếu học, chuộng tri thức, luôn sẵn sàng
học hỏi, tiếp thu những CN tiên tiến của thế giới, đây chính là nguồn lực vô
tận, nguồn lực của mọi nguồn lực thúc đẩy kinh tế phát triển trong thời đại
mới, thời đại tri thức.
2.2.2.3. Năng lực tạo lập nguồn vốn đầu tư phát triển
Bên cạnh tiềm năng về trí lực thì vốn đầu tư phát triển là một yếu tố
quan trọng của quá trình sản xuất, nhất là trong tiến trình CNH, HĐH gắn với
phát triển KTTT như ở nước ta hiện nay. Việc sử dụng vốn đầu tư hợp lý,
hiệu quả theo cách đầu tư trọng tâm, trọng điểm trên cơ sở quy hoạch, kế
50
hoạch đầu tư, xây dựng một cơ chế đầu tư hợp lý có tác dụng quan trọng
trong việc chuyển dịch, đổi mới cơ cấu kinh tế ngành, vùng, đổi mới cơ cấu
thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế thành thị, nông thôn…đồng thời góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao. Nói cách khác, kết quả của hoạt động sử
dụng vốn đầu tư hợp lý là sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng
hợp lý hơn, phát triển toàn diện hơn và theo hướng CNH, HĐH, điều này
đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Để có được vốn đầu từ thì quá trình tạo lập vốn, tạo nên nguồn tích lũy
trong nền kinh tế, là rất quan trọng. Vì tạo lập vốn chính là phương thức để
tạo ra sự tăng trưởng và phát triển đối với nền kinh tế, trong giai đoạn hiện
nay khả năng tạo lập vốn của nền kinh tế nước ta được nâng lên rất nhiều.
Điều này được thể hiện trước tiên là luật doanh nghiệp cho phép thành lập các
công ty tư nhân, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần do đó đã nâng cao
tính cạnh tranh của các đơn vị trong nền kinh tế. Nhà nước không can thiệp
sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, để các doanh
nghiệp tự chủ về sản xuất, làm ăn hiệu quả hơn, từ đó nguồn vốn tín dụng tích
lũy mở rộng sản xuất tăng lên. Tiếp đó là sự gia tăng không ngừng của các
ngân hàng thương mại nguồn vốn tiết kiệm trong dân ngày càng nhiều góp
phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó là môi trường đầu tư
thông thoáng nên đã thu hút được các nguồn vốn từ nước ngoài như: nguồn
vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn đầu tư trực tiếp (FDI)…, các
nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB… Như vậy ,
phải khẳng định năng lực tạo lập nguồn vốn ở nước ta là rất lớn, nhưng quan
trọng là sử dụng vốn đó như thế nào để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH.
2.2.2.4. Trình độ phát triển khoa học và công nghệỞ nước ta, vai trò và vị trí của KH&CN trong công cuộc CNH, HĐH
đã được Đảng và Nhà nước xác định giữ vị trí then chốt trong toàn bộ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là một động lực đưa đất nước ra khỏi
51
nghèo nàn lạc hậu và vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Dưới tác động
đổi mới của KH&CN sẽ cho phép nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản
phẩm, tăng năng suất lao động, sử dụng tiết kiệm nguyên liệu, bảo vệ môi
trường, cải thiện điều kiện sống và làm việc, nâng cao tỷ trọng lao động chất
xám, lao động có kỹ thuật, giảm lao động phổ thông, lao động giản đơn. Nhờ
vậy, sẽ tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng
nhanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nhưng thách thức lớn nhất đối với sự phát triển KH&CN ở Việt Nam
hiện nay là đội ngũ các nhà làm KH có trình độ đang ngày càng ít dần không
đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội, đầu tư cho KH&CN còn
quá thấp so với thế giới. Mỹ mỗi năm đầu tư 400 tỷ USD cho khoa học CN,
số người làm nghiên cứu là 1,4 triệu người. Nền kinh tế thứ hai thế giới là
Trung Quốc đầu tư cho KH&CN 178 tỷ USD, số người tham gia nghiên cứu
khoa học là 1,2 triệu. Đáng lưu ý là Hàn Quốc, một quốc gia 48 triệu dân
nhưng đầu tư khoa học là 53 tỷ USD mỗi năm, số tiền họ đầu tư còn lớn hơn
cả số dân. Còn Việt Nam hơn 80 triệu dân, số tiền đầu tư chỉ là 1 tỷ USD.
Đây cũng chính là nguyên nhân cho thấy trình độ KH&CN còn có khoảng
cách khá xa so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực.
Do vậy, để thực hiện rút ngắn quá trình CNH, HĐH phải nâng cao
nhanh chóng năng lực KH&CN. Thể hiện bằng việc: xây dựng các viện và
trung tâm nghiên cứu tiên tiến; thay đổi cách quản lý tài chính đối với cơ
quan, tổ chức và cá nhân tham gia nghiên cứu khoa học; đối với công tác
nghiên cứu và triển khai các đề tài khoa học theo hướng quản lý đề tài khoa
học theo các sản phẩm đầu ra; có những chính sách đãi ngộ đột phá đối với
nguồn nhân lực làm khoa học và kỹ thuật.
2.2.2.5. Độ mở của nền kinh tế với thế giới bên ngoài
Thực hiện nhiệm vụ chiến lược đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển
nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đạt mục tiêu đến năm
52
2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, việc
mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới có tầm quan trọng đặc biệt
đối với một nước phát triển muộn như Việt Nam. Thông qua quan hệ này,
chúng ta có thể phát huy thế mạnh của các nguồn lực và sản xuất trong nước
trên thị trường quốc tế, đồng thời tranh thủ được các nguồn lực nhất là nguồn
lực về vốn, KH&CN từ bên ngoài cho thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH gắn
với phát triển KTTT.
Mở cửa nền kinh tế với thế giới bên ngoài ở nước ta cũng như
tỉnh/thành phố nào hiện nay đem lại những tác động tích cực: thu hút nguồn
vốn, đổi mới thiết bị, kỹ thuật- CN, nâng cao trình độ quản lý, nâng cao tay
nghề cho người lao động, giải quyết việc làm. Việc nhập khẩu các sản phẩm
trung gian, thu hút đầu tư, chuyển giao CN, các ý tưởng từ những nước phát
triển, hàng hóa quốc tế có thể giúp nền kinh tế trong nước tăng trưởng và phát
triển nhanh hơn. Bên cạnh đó, cũng đặt ra những thách thức không nhỏ như:
mỗi biến động trên thị trường thế giới đã tác động rất nhanh, rất mạnh, rất
rộng, rất sâu đến thị trường trong nước, tạo sức ép cạnh tranh đối với các
doanh nghiệp trong nước, biến các nước đang phát triển thành bãi rác thải của
các nước phát triển, do họ chuyển sang những hàng hóa chất lượng kém, CN
cũ, điều này ngăn cản sự phát triển kinh tế của các nước đang phát triển;
không kiểm soát được dòng ngoại hối do họ mang ngoại hối vào hoặc ra khỏi
các nước đang phát triển. Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều
lợi ích kinh tế. Nhưng đó là những lợi ích tiềm năng chỉ thực sự phát huy đầy
đủ tác dụng khi trong nước chúng ta có nội lực vững mạnh với những chính
sách và thể chế bổ trợ.
2.2.2.6. Hiệu lực quản lý của nhà nước
Ngoài các yếu tố về vốn, con người, KH&CN…, một yếu tố không thể
thiếu để đẩy nhanh, mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở nước ta
hiện nay là hiệu lực quản lý nhà nước. Chỉ có nhà nước với quyền lực và chức
53
năng của mình mới có khả năng thu hút, phát huy mọi tiềm năng của đất
nước, tạo lập môi trường đầu tư mang tính cạnh tranh, ổn định chính trị và
kinh tế vĩ mô đảm bảo an toàn cho sự vận động của các hành vi kinh tế. Đưa
ra các định hướng kinh tế quan trọng phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, phát
triển kinh tế của đất nước thông qua các quyết định của luật pháp, chính sách
của nhà nước. Đối với quốc gia đang phát triển như ở Việt Nam hay tại các
tỉnh/thành phố trong nước hiện nay, trình độ cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội còn
yếu, vì vậy vai trò của nhà nước, chính quyền địa phương là hết sức quan
trọng trong việc huy động và phân bổ các nguồn vốn tập trung đầu tư để phát
triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội.
KTTT đem lại cơ hội và thách thức cho hệ thống quản lý, quản lý nhà
nước đã chuyển trọng tâm từ quản lý vật chất, cái hữu hình sang quản lý
nguồn lực tri thức, cái vô hình. Để thích nghi với tình hình mới chính phủ
phải trở nên linh hoạt và dễ thích nghi hơn, phải cải cách hành chính, đổi mới
hệ thống chính trị, để có năng suất và hiệu quả, khơi dậy sức mạnh của toàn
dân, mọi thành phần kinh tế phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức. Chính vì thế trong một nghiên cứu của Đại học Havard (Hoa
Kỳ) về nền kinh tế Việt Nam gần đây đã đưa ra nhận định rằng:
Quỹ đạo phát triển của Việt Nam trong tương lai phụ thuộc vào các
quyết định hiện tại của Nhà nước và những quyết định của ngày
hôm nay sẽ định hình bối cảnh kinh tế chính trị trong những năm,
thậm chí là những thập niên tiếp theo. Đặc biệt quan trọng, tiềm
năng phát triển của Việt Nam trong tương lai phụ thuộc một phần
lớn vào khả năng và ý chí của Nhà nước trong việc xây dựng một "
bức tường lửa" ngăn cách giữa quyền lực kinh tế và quyền lực chính
trị [83, tr.278].
Như vậy, trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng, luận án cho rằng
với lợi thế về địa lý, tài nguyên thiên nhiên, con người, ở mỗi tỉnh, thành phố
54
sẽ xây dựng kế hoạch, phương hướng phát triển kinh tế: CNH, HĐH gắn với
phát triển kinh tế tri thức, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp, xác định phát
triển ngành kinh tế mũi nhọn, tạo ra những sản phẩm mang thương hiệu đặc
thù riêng của địa phương…Quan trọng là phát huy tiềm năng, năng lực vốn
có, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững trở thành những thành phố
hiện đại ngang tầm với các thành phố trong khu vực và trên thế giới.
2.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Singapore và Hàn Quốc là hai quốc gia ở Đông Á có nền kinh tế phát
triển, cũng là hai quốc gia có nhiều giải pháp thúc đẩy quá trình CNH, HĐH
như: phát triển nguồn nhân lực, KH&CN, lựa chọn lĩnh vực công nghiệp ưu
tiên phù hợp với điều kiện đất nước, tạo nên sự trỗi dậy thần kỳ. Đây cũng là
những quốc gia có điểm tương đồng với Việt Nam và thành phố Đà Nẵng về
văn hóa, lịch sử phát triển, điều kiện tự nhiên, hải cảng với mực nước sâu tự
nhiên, vị thế chiến lược có nhiều ưu điểm…. Với ý nghĩa đó luận án lựa chọn
kinh nghiệm của các quốc gia này để làm minh chứng cho lập luận của mình.
2.3.1. Kinh nghiệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng tri
thức của Singapore
Giai đoạn CNH thay thế nhập khẩu (1960 - 1965), CNH hướng xuất
khẩu và sử dụng nhiều lao động (1969 - 1970) đã làm cho tốc độ tăng trưởng
nền kinh tế Singapore tăng nhanh ở thập niên 70, bắt đầu thời kỳ cất cánh. Trong
vòng 40 năm kể từ ngày dành độc lập, nước này đã có một thành tích tăng
trưởng hết sức ngoạn mục với tổng sản phẩm quốc nội tăng trung bình hàng
năm 8%, thu nhập bình quân đầu người 24.741 đô la Mỹ /người [135, tr.31].
Tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ của KH&CN, xu thế toàn cầu hóa kinh
tế đòi hỏi Singapore phải có sự thay đổi trong chiến lược CNH, HĐH để đưa
đất nước trở thành nước công nghiệp phát triển. Hiện nay Singapore là một
55
trong những nước đi đầu vào kinh tế tri thức, công nghiệp tri thức chiếm 57%
GDP, công nhân tri thức chiếm 38% [Dẫn theo 45, tr. 137]. Để đạt mục tiêu
đưa Singapore trở thành một nền kinh tế dựa trên tri thức chính phủ Singapore
đã đưa ra những giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất: Cải tổ cơ cấu nền kinh tế theo hướng hiện đại hóa CN và sử
dụng nhiều chất xám, được thực hiện qua hai thời kỳ:
- Thời kỳ đầu của "Cách mạng công nghiệp lần thứ 2" (1979 - 1986).
Singapore đã chuyển sang giai đoạn mới của chiến lược CNH hướng xuất
khẩu bằng việc sử dụng nhiều CN hiện đại và khả năng kỹ xảo của bàn tay
khối óc con người. Với mục tiêu là tạo ra nhiều mặt hàng xuất khẩu có giá trị
cao, đổi mới CN và sử dụng nhiều chất xám.
- Đổi mới và đa dạng hóa hơn nữa các hình thức hoạt động của công
nghiệp và dịch vụ (1986 đến nay). Chính phủ Singapore cho rằng để thực hiện
tốt cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2, đưa Singapore tiến gần hơn nền
KTTT. Cần phải kết hợp đồng bộ cùng một lúc đổi mới và nâng cấp tất cả các
ngành kinh tế trong đó có các ngành dịch vụ, tài chính, giao thông vận tải,
bưu điện viễn thông, dịch vụ, du lịch, kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất nội địa,
phát triển trung tâm thương mại và tài chính quốc tế.
Thứ hai: Xây dựng nguồn nhân lực trong và ngoài nước.
Thiếu đất đai và tài nguyên đã buộc Singapore tập trung vào phát triển
nguồn nhân lực - tài nguyên duy nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do đó,
ngay từ khi bắt đầu quá trình CNH chiến lược phát triển nguồn nhân lực được
Chính phủ Singapore đưa ra theo 2 hướng bao gồm nâng cao lực lượng lao
động trong nước và tuyển dụng lực lượng lao động chất lượng cao ở nước
ngoài [132].
- Đối với lực lượng lao động trong nước cần phải khuyến khích học tập
suốt đời. Tạo cơ hội cho mọi người thể hiện năng lực của chính mình thông
56
qua việc trao nhiều loại học bổng khác nhau và những lộ trình tiếp cận các cơ
hội được giáo dục để khai thác tài năng trong xã hội. Hai mục tiêu song song
được đặt ra là: đào tạo những thợ thủ công lành nghề và những nhà kỹ thuật.
Singapore đang cần những người này để phát triển công nghiệp, và để tránh
biến họ trở thành những người tốt nghiệp ra trường với hy vọng là những nhà
quản trị nhưng lại thất nghiệp.
- Tuyển lao động nước ngoài để tăng lực lượng lao động trong nước
bằng cách tuyển dụng những nhân công của các công ty đa quốc gia nước
ngoài, thực hiện một chính sách năng động để thu hút lao động có kỹ năng và
tài năng ở nước ngoài vào tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, bao gồm cả khu
vực công cộng. Trong quá trình chuyển đổi sang nền KTTT, nguồn nhân lực
nước ngoài đóng góp một vai trò then chốt đối với việc tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba: Đổi mới khoa học và CN.
Để trang bị cho đất nước CN tiên tiến, hiện đại, các bí quyết sản xuất
mới, điều này đòi hỏi Singapore có chiến lược phát triển và đổi mới KH&CN
của riêng mình. Năm 1991 một kế hoạch đổi mới KH&CN quốc gia được đưa
ra với chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng CN, khuyến khích hoạt động nghiên
cứu và phát triển (R&D) ở khu vực tư nhân, gia tăng sự phát triển của các
viện nghiên cứu, các trung tâm, số lượng của hoạt động nghiên cứu triển khai,
số lượng các nhà khoa học, kỹ sư và các bằng sáng chế. Để thực hiện tốt kế
hoạch đặt ra Singapore đã:
- Tập trung hoạt động R&D vào các lĩnh vực mà Singapore có khả
năng, dẫn tới thúc đẩy phát triển kinh tế, các lĩnh vực đó là phần mềm, lưu trữ
dữ liệu và CN sinh học.
- Khuyến khích các công ty đa quốc gia xác định vị trí của một vài
R&D hoạt động tại Singapore.
- Tăng cường nguồn nhân lực R&D thông qua sự cộng tác với chương
trình ở nước ngoài. Phát triển trường đại học và viện nghiên cứu khu vực tư
57
nhân thông qua các chương trình hỗ trợ ngành công nghiệp để tạo điều kiện
cho doanh nghiệp trong nước nâng cao trình độ CN.
- Tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi. Vừa phát triển CN trong
nước vừa tiếp tục tiếp nhận chuyển giao CN thông qua các mối liên kết với
các trung tâm CN trên toàn cầu.
Thứ tư: Ứng dụng và phát triển CN thông tin
Singapore nằm trong nhóm 10 nước đi đầu thế giới trong ứng dụng CN
thông tin, thương mại điện tử. Mục tiêu của Singapore là trở thành một chính
phủ điện tử để có thể phục vụ tốt hơn cho đất nước và nhân dân trong nền
KTTT. Do vậy mà bốn làn sóng ứng dụng và phát triển CN thông tin được
chính phủ đưa ra thực hiện [128].
Một là: Chương trình tin học hoá quốc gia đầu những năm 80 với mục
tiêu trọng tâm là tự động hoá các chức năng truyền thống và giảm các công
việc giấy tờ. Sau 8 năm triển khai, chương trình này đã thiết lập được 193 hệ
thống ứng dụng cho các cơ quan công quyền. Tin học hoá giúp tiết kiệm chi
phí hoạt động của chính phủ trên 70 triệu USD mỗi năm.
Hai là: Chương trình CN thông tin quốc gia giữa những năm 80. Mục
tiêu của chương trình này là một dịch vụ hành chính công hiệu quả, một
chính phủ một cửa, hoạt động liên tục. Kết quả của làn sóng thứ hai là vào
năm 1989, mạng máy tính quốc gia đã liên kết 23 trung tâm máy tính lớn
của chính phủ.
Ba là: Chương trình IT 2000 và PS 21vào đầu và giữa thập kỷ 90. Mục
tiêu của làn sóng này là biến Singapore thành một hòn đảo thông minh (bằng
kế hoạch tổng thể IT 2000 và một trung tâm CN thông tin toàn cầu, dịch vụ
hành chính công của Singapore sẽ trở thành dịch vụ công hàng đầu thế giới
trong thế kỷ 21. Làn sóng thứ 3 đã tạo ra một loạt dịch vụ công, tiêu biểu như
hệ thống hồ sơ điện tử trong lĩnh vực tư pháp; mạng quản lý lao động
Labournet; hệ thống nộp thuế điện tử, mạng xây dựng CoreNet...
58
Bốn là: Infocomm 21 từ cuối những năm 90, với mục tiêu đưa
Singapore trở thành thủ đô CN thông tin và viễn thông toàn cầu. Một loạt
chiến lược và lộ trình được chính phủ vạch ra hướng tới 3 mục tiêu chính: i)
Phát triển CN thông tin viễn thông thành một bộ phận chính yếu trong sự phát
triển nền kinh tế Singapore, đặt Singapore vào vị thế người sáng tạo hàng đầu
và nhà xuất khẩu số 1 các sản phẩm và dịch vụ ICT trên thị trường toàn
cầu.ii) Sử dụng ICT như một nền tảng chung để thúc đẩy hiệu năng của các
thành phần chính trong nền KTTT của Singapore. iii) dùng ICT là đòn bảy để
cải thiện chất lượng cuộc sống và tiêu chuẩn sống của người dân trong xã hội
tương lai.
2.3.2. Kinh nghiệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức của Hàn Quốc
Đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Hàn Quốc trở thành một trong
những "con rồng Châu Á", với hơn 40 năm công nghiệp hóa, Hàn Quốc đã đạt
được những thành tựu đáng để nước khác phải học tập. Sau khi chiến tranh
Nam - Bắc Triều Tiên chấm dứt vào tháng 7/1953, Hàn Quốc phải gánh chịu
những hậu quả kinh tế nặng nề do chiến tranh để lại, để khôi phục lại nền kinh
tế, Hàn Quốc đã thực hiện quá trình CNH, HĐH qua các giai đoạn cụ thể.
Mỗi giai đoạn ấy gắn với định hướng phát triển và những thay đổi về chất
lượng phát triển của nền kinh tế với mực tiêu xây dựng Hàn Quốc thành một
nền kinh tế CNH mới.
Giai đoạn 1962 - 1971 chuyển từ hướng nội sang hướng ngoại, mở đầu
quá trình CNH, HĐH tập trung vào những ngành công nghiệp nhẹ và điện tử.
Giai đoạn 1972 - 1980 tiếp tục chính sách CNH, chính sách hướng
ngoại mà Hàn Quốc nhằm tập trung nỗ lực vào 3 lĩnh vực sau: Phát triển công
nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất; Nỗ lực toàn dân trong việc đa dạng hóa
thương mại; Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp nhằm tự túc một số sản phẩm
cơ bản.
59
Từ những năm 1980 tới nay chuyển từ sản xuất CN trung bình sang CN
cao chính điều này đã làm cho Hàn Quốc năm 1996 đã có nền công nghiệp
phát triển, là thành viên của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế. Năm đó
cũng đánh dấu bước chuyển của kinh tế Hàn Quốc sang giai đoạn phát triển
mới: xây dựng KTTT
Vậy chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra những chính sách nào để đạt được
thành tựu như ngày nay ? Qua tìm hiểu tác giả đã nhận thấy giải pháp ưu tiên
của chính phủ Hàn Quốc là:
- Kế hoạch hành động ba năm nhằm triển khai chiến lược cho một nền
kinh tế tri thức. Kế hoạch gồm có năm lĩnh vực, 18 mục tiêu chung hạn và 83
tiểu kế hoạch hành động trong lĩnh vực chính là hạ tầng thông tin, phát triển
nguồn nhân lực, phát triển các ngành công nghiệp tri thức, phát triển
KH&CN, giảm khoảng cách số.
- Chính sách phát triển giáo dục đào tạo phục vụ công nghiệp hóa
+ Giáo dục được coi là bộ phận then chốt của chiến lược CNH. Phát
triển giáo dục đào tạo thực hiện song hành với tiến trình CNH. Nó được cụ
thể hóa bằng các kế hoạch phát triển giáo dục 5 năm, tương thích với các kế
hoạch phát triển kinh tế 5 năm. Đầu những năm 70 của thế kỷ XX, khi chiến
lược CNH tập trung vào phát triển công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất,
Luật thúc đẩy giáo dục công nghiệp và chương trình đào tạo công nghiệp đến
các bộ, ngành, nhà máy, đảm bảo sự phối hợp và gắn bó giữa nhà trường và
nhà máy [Dẫn theo 112, tr 182].
+ Giáo dục Hàn Quốc được chính trị hóa ở mức độ cao. Nếu công
nghiệp được coi là nền kinh tế thứ nhất vì sự thịnh vượng vật chất thì giáo dục
được coi là nền kinh tế thứ hai vì sự phát triển tinh thần, nhằm đào tạo thế hệ
trẻ thành lớp người có kỷ cương, trung thành với nhà nước Hàn Quốc.
+ Chính sách cơ bản để phát triển giáo dục phục vụ CNH là dựa vào sức
mạnh nhân dân. Đó là "Cơn sốt giáo dục" mà căn nguyên là truyền thống hiếu
60
học bắt rễ trong xã hội Hàn Quốc và thang giá trị được duy trì đến tận bây
giờ, trong đó tri thức được coi trọng nhất.
+ Cải cách giáo dục: Chính phủ đặt trọng tâm vào cải cách giáo dục nghề
nghiệp và giáo dục đại học. Chương trình "Chất xám Hàn Quốc" được tổ chức
thực hiện nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo gắn liền với nghiên cứu khoa học.
Quan hệ đối tác đại học - công nghiệp được tăng cường thông qua một dự án
mang tên "Gắn kết Hàn Quốc" [Dẫn theo 112, tr 191].
- Chính sách phát triển khoa học và CN
+ Các chương trình KH&CN phải gắn kết và phục vụ đắc lực cho từng
giai đoạn khác nhau của tiến trình CNH.
Cụ thể như sau: Giai đoạn 1960 - 1970 Hàn Quốc bước vào CNH với
nhiệm vụ chủ yếu là phát triển công nghiệp nhẹ hướng tới xuất khẩu. Chính sách
khoa học và CN lúc này là bắt tay vào thành lập các cơ quan nghiên cứu, xây
dựng hạ tầng khoa học; các doanh nghiệp mua và bắt chước CN nước ngoài.
Giai đoạn 1970 - 1990, chính sách của Hàn Quốc chuyển trọng tâm sang
việc củng cố hạ tầng KH&CN, phát triển các viện nghiên cứu, thành lập thành
phố khoa học Daedeok, ban hành Luật khuyến khích KH&CN, tập trung vào
chuyển giao và tiếp nhận CN tiên tiến trên thị trường [Dẫn theo 112, tr 208].
Từ 1990 cho đến nay chính phủ Hàn Quốc luôn đưa ra những chính sách
quy hoạch tổng thể và chính sách cho các chương trình CN chiến lược. Điều
phối việc đầu tư, các chương trình và các dự án nghiên cứu và phát triển
KH&CN quốc gia; Huy động và phát triển các chuyên gia và tổ chức CN...
+ Việc phát triển KH&CN phải được thực hiện theo một chiến lược nhất
quán và thực tế đòi hỏi nỗ lực của cả ba phía: chính phủ, giới học thuật và khu
vực tư nhân.
+ Trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, chuyển giao CN được coi là nền tảng
để sớm xây dựng một hạ tầng CN mạng tính cạnh tranh và bắt kịp CN tiên
tiến trên thế giới.
61
+ Kích cầu CN bằng các chính sách công nghiệp gắn với xuất khẩu; tăng
cường nhập khẩu CN, thiết bị kết hợp bắt chước một cách có hệ thống; xây
dựng mạng lưới hỗ trợ phổ biến CN
+ Phát triển KH&CN ở Hàn quốc được thực hiện theo nguyên tắc Nhà
nước giữ quyền chỉ đạo và kiểm soát, còn chi phí KH&CN được chia sẻ giữa
nhà nước và khu vực tư nhân.
+ Trong hạ tầng KH&CN, trọng tâm là xây dựng môi trường khoa học
và CN thuận lợi cho tự do tư tưởng, tư duy sáng tạo và canh tân.
+ Thúc đẩy tăng trưởng các hãng tư nhân khổng lồ trong nước, gọi là
các Chaebol để đi đầu trong CNH. Một trong những trụ cột của chiến lược
của CN Hàn Quốc là tạo ra các tập đoàn tư nhân lớn.
2.3.3. Kinh nghiệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức của một số tỉnh/thành phố ở Việt Nam
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được biết đến là hai thành phố có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao và là 2 trung tâm kinh tế lớn về văn hóa, giáo dục đào
tạo, KH&CN, ở hai đầu đất nước. Vậy điều gì đã làm cho Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh trở thành 2 thành phố hiện đại và năng động nhất hiện nay? Qua
tìm hiểu để lý giải cho vấn đề này, có rất nhiều ý kiến cho rằng các thành phố
này đã sớm xây dựng chiến lược nguồn nhân lực, KH&CN… phù hợp.
2.3.3.1. Kinh nghiệm của thành phố Hà Nội
Nghị quyết Đại hội XIII (2006-2010) và XIV (2011-2015) Đảng bộ
thành phố Hà Nội đã khẳng định phải chuyển hướng từ phát triển kinh tế ưu
tiên công nghiệp sang ưu tiên khu vực dịch vụ, nhất là các dịch vụ trình độ
cao, chất lượng cao, coi trọng chất lượng phát triển, xây dựng KTTT và phát
triển bền vững. Với tinh thần đó, Hà Nội đã đưa ra những hướng đột phá quan
trọng. Hướng đột phá thứ nhất, tăng cường các ngành, sản phẩm có hàm
lượng CN cao, chế biến sâu và giá trị gia tăng lớn, sử dụng CN tiên tiến, tiết
62
kiệm năng lượng. Phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chủ lực, các
ngành tạo ra sản phẩm có hàm lượng tri thức cao, có lợi thế cạnh tranh,
thương hiệu, như: điện tử, CN thông tin; cơ khí; chế biến thực phẩm, dược
phẩm, sản phẩm vật liệu mới, tập trung vào các ngành CN cao, kỹ thuật cao
trụ cột KTTT (như CN sinh học, vật liệu mới, CN thông tin....). Xây dựng khu
công nghiệp, CN cao, các cơ sở nghiên cứu-triển khai và ứng dụng CN mới,
mũi nhọn. Năm 2013, Hà Nội đã khai trương thêm hai khu công nghiệp mới
là Khu công viên CN thông tin Hà Nội (36 ha) và Khu công nghiệp hỗ trợ
Nam Hà Nội (72 ha); đã xây dựng 107 cụm công nghiệp với tổng diện tích
3.192 ha, tăng 5 cụm và tăng 2,8% về diện tích so với năm 2008 [127].
Hướng đột phá thứ hai, quan tâm đãi ngộ nhà khoa học, tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao cho quá trình CNH, HĐH. Điều này được thể hiện trên 3
phương diện: môi trường nghiên cứu, sáng tạo; thu nhập và điều kiện sống và
sự tôn vinh; bảo đảm quyền tự do sáng tạo, phát huy dân chủ, đề cao đạo đức
nghề nghiệp, trung thực, khách quan, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt
động khoa học và CN. Hàng năm Hà Nội luôn tuyên dương các thủ khoa xuất
sắc của các trường đại học trên địa bàn Thành phố và có chính sách, cơ chế
đặc thù, sẵn sàng tuyển thẳng các thủ khoa có nguyện vọng làm việc tại Hà
Nội theo quy định của Luật Cán bộ, Công chức, Viên chức. Ngoài ra Thủ đô
còn mời Việt kiều chuyển giao CN về nước, trọng dụng, đãi ngộ nguồn nhân
lực trình độ cao trong nước và thuê chuyên gia nước ngoài làm "tổng công
trình sư" chủ trì các nghiên cứu và công trình trọng điểm. Hướng đột phá thứ
ba, ban hành nhiều văn bản, chính sách đi trước cả nước đối với hoạt động
KH&CN, như cơ chế khoán gọn đến sản phẩm cuối cùng; áp dụng cơ chế
Quỹ phát triển KH&CN để cấp phép tài trợ các đề tài, dự án; tăng cường phối
hợp với các đơn vị lên kế hoạch đặt hàng triển khai các đề tài để đảm bảo tạo
ra hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Đây là kinh nghiệm mà Đà Nẵng cần
63
tham khảo. Ngoài ra, Hà Nội cũng là nơi đi đầu trong chủ trương duy trì 2%
ngân sách cho KH&CN. Từ năm 2008 - 2013 đã triển khai được 616 đề tài
nghiên cứu KH&CN; 56 dự án sản xuất thử nghiệm; thẩm định CN 138 dự án
đầu tư. Hà Nội hiện có 57 sản phẩm công nghiệp chủ lực của 48 doanh nghiệp
thuộc các ngành cơ khí - điện tử, hóa nhựa, dệt may - da giầy, chế biến lương
thực, thực phẩm. Hình thành vùng chuyên canh sản xuất hoa, cây cảnh, cây ăn
quả đặc sản với năng suất, giá trị thu nhập cao nhờ ứng dụng kỹ thuật, CN
tiên tiến vào sản xuất [122].
2.3.3.2. Kinh nghiệm của thành phố Hồ Chí Minh
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị có nguồn nhân lực lớn nhất nước, với
khoảng 4,7 triệu người trong độ tuổi lao động, tổng số người có việc làm hiện
vào khoảng 3,2 triệu người. Ðội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật có trình độ
chuyên môn cao trên địa bàn chiếm tới 30% so với cả nước [127]. Thực hiện
thành công sự nghiệp CNH, HĐH, thành phố đã xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao với các chương trình đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ quản lý
nhà nước và quản trị kinh doanh; ngành giáo dục đào tạo; thạc sĩ ngành CN
sinh học… Ưu tiên phát triển nhân lực đủ để cung cấp cho những ngành có
hàm lượng CN cao, có giá trị gia tăng cao. Ðó là bốn ngành công nghiệp: cơ
khí; điện tử - CN thông tin; hóa dược - cao-su; chế biến tinh lương thực, thực
phẩm và chín ngành dịch vụ: tài chính - tín dụng; ngân hàng - bảo hiểm;
thương mại; vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng, hậu cần hàng hải và xuất nhập
khẩu; bưu chính viễn thông và CN thông tin - truyền thông; kinh doanh tài
sản, bất động sản; dịch vụ thông tin tư vấn, KH&CN; du lịch, khách sạn, nhà
hàng; y tế, giáo dục - đào tạo. Các chương trình này đã cung cấp cho thành
phố một lực lượng cán bộ có năng lực, có trình độ chuyên môn đáp ứng một
phần đáng kể nhu cầu nhân lực cao trong quản lý hành chính, giáo dục, đào
64
tạo và nghiên cứu khoa học.
- Khuyến khích dự án CN cao đầu tư vào KCN, KCX
Năm 2013, các doanh nghiệp đã đầu tư vào các KCX, KCN thành phố
Hồ Chí Minh gần 609 triệu USD, tăng vốn đầu tư cả về quy mô và chất lượng.
Trong đó, doanh nghiệp FDI đầu tư trên 363 triệu USD (tăng 74,9% so với
năm 2012); các doanh nghiệp trong nước đầu tư hơn 5.153 tỷ đồng (khoảng
245,6 triệu USD), tăng 20,37% so với năm 2012 [126]. Để có được kết quả này
Ban Quản lý các KCX, KCN đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu đầu tư trong KCX,
KCN cũng như định hướng các chủ đầu tư phát triển hạ tầng KCN chuyển dần
sang mô hình KCN xanh; tổ chức xúc tiến đầu tư vào lĩnh vực CN cao, công
nghiệp phụ trợ cho CN cao; tăng cường phối hợp với các sở, ngành để hỗ trợ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; công khai minh bạch thủ
tục hành chính; phối hợp với các tổ chức tín dụng, ngân hàng để doanh nghiệp
có thể tiếp cận nguồn vốn vay với lãi suất phù hợp.
- Xây dựng và phát triển khu CN cao, vườn ươm CN
Thành lập vào 24/10/2002 tới nay, khu CN cao thành phố Hồ Chí Minh
với tổng diện tích 913 ha đã thu hút và cấp phép cho 66 nhà đầu tư. Trong đó
có các nhà đầu tư sản xuất CN cao lớn, có uy tín trên thế giới như Intel, Jabil,
Nidec, Datalogics với tổng vốn trên 2,2 tỷ USD, tỷ lệ lấp đầy 98% diện tích
đất giai đoạn I, nộp ngân sách bình quân 100 tỉ đồng/năm, giải quyết việc làm
cho gần 17.000 lao động. [129] Bên cạnh đó, khu CN cao còn tạo điều kiện
phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ để các doanh nghiệp trong nước tham gia
chuỗi cung ứng linh kiện, vật tư, thành phẩm và bán thành phẩm cho sản xuất
sản phẩm CN cao. Với kết quả này, khu CN đã góp phần tích cực cho tăng
trưởng kinh tế thành phố. Cũng từ đây, những sản phẩm CN cao được đóng
dấu "Made in Vietnam" được thế giới biết đến như chipset (Intel), module
cảm biến kỹ thuật số, thiết bị đọc mã vạch (Datalogic), dược phẩm, thuốc
chữa bệnh (Nanogen)…Gần đây Ban quản lý khu CN cao chú trọng vào đầu
65
tư phát triển khu "không gian khoa học", là để "tự đi trên đôi chân mình", phát
huy năng lực nội sinh của đất nước. Từ đây, chúng ta sẽ xây dựng được đội
ngũ nhân lực có trình độ, khả năng làm chủ CN, tư duy sáng tạo, là nền tảng
cho sự phát triển KH&CN đất nước.
2.3.4. Bài học kinh nghiệm rút ra để thành phố Đà Nẵng có thể
tham khảo
Qua tìm hiểu quá trình CNH và phát triển KTTT ở Singapore, Hàn
Quốc chúng ta nhận thấy mỗi nước đều có chính sách riêng phù hợp với hoàn
cảnh cụ thể và đều mang lại thành công. Trên cơ sở kinh nghiệm của một số
quốc gia trên thế giới và một số địa phương trong nước có thể rút ra những
bài học để Đà Nẵng tham khảo trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với
phát triển KTTT, như sau:
Một là: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. Bài học xây dựng nguồn nhân
lực trong và ngoài nước của Singapore và chính sách giáo dục Đào tạo của
Hàn Quốc là những bài học bổ ích mà thành phố Đà Nẵng cần tham khảo.
Như phải đổi mới hệ thống giáo dục cho phù hợp với quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế. Xây dựng quy mô và cơ cấu của đội ngũ trí thức, đặc biệt là trí
thức KH&CN đồng bộ với yêu cầu nhân lực trình độ cao theo từng giai đoạn
của tiến trình CNH. Sử dụng có hiệu quả các chuyên gia KH&CN trong và
ngoài nước. Xây dựng môi trường làm việc thuận lợi và thực hiện chế độ đãi
ngộ thỏa đáng là điều kiện để trí thức KH&CN hoàn thành nhiệm vụ có chất
lượng hiệu quả.
Hai là: Phát triển khoa học và CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH và
hội nhập quốc tế. Trên cơ sở kinh nghiệm của các nước trên thế giới, và địa
phương trong nước luận án cho rằng phát triển KH&CN để đẩy nhanh quá
trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở thành phố Đà Nẵng. Chính
quyền thành phố đưa ra những quy hoạch tổng thể qua từng giai đoạn và phát
66
triển trọng điểm một số ngành CN cao như CN thông tin, CN sinh học, CN
vật liệu mới… mà mình có lợi thế. Xây dựng các khu CN cao, CN phần mềm,
trung tâm nghiên cứu…để quy tụ nhân tài.
Ba là: Phát triển CN thông tin. Đây là giải pháp thành phố Đà Nẵng đã
làm và thu được những thành tựu đáng kể: xuất khẩu phần mềm, xây dựng
chính phủ điện tử… Tuy nhiên, mới chỉ là giai đoạn khởi đầu, bài học ứng
dụng và phát triển CN thông tin với 4 làn sóng của Singapore là bài học thú vị
để Đà Nẵng học tập.
Bốn là: Nhận thức đúng tầm quan trọng của CNH, HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức. Nghiên cứu kinh nghiệm của Singapore, Hàn Quốc, Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh chúng ta nhận thấy rằng các nước trên đều
nhận thức vai trò quan trọng của CNH, HĐH trong phát triển kinh tế. Trong
đó không ai khác Nhà nước luôn đóng vai trò chính trong trong từng giai đoạn
phát triển. Vì chỉ có Nhà nước mới có những hoạch định, chính sách cụ thể
thiết thực, phù hợp thúc đẩy CNH, HĐH. Đây cũng là bài học bổ ích đối với
Chính quyền, nhân dân thành phố Đà Nẵng.
Năm là: Xây dựng khu CN cao và vườn ươm CN
Để tiến gần hơn nền kinh tế tri thức thì việc quy hoạch xây dựng khu
CN cao và vườn ươm CN là cần thiết. Nhưng để thành công và thu được kết
quả tốt thì ngoài việc kêu gọi đầu tư KCN CN cao dành cho các doanh nghiệp
CN cao với chính sách ưu đãi đặc biệt. Thì phát triển khuôn viên sáng tạo với
các không gian nghiên cứu khoa học, nơi thúc đẩy hoạt động nghiên cứu phát
triển, sáng tạo và khởi nghiệp, thường gắn kết với các trường đại học, viện
nghiên cứu...mà thành phố Hồ Chí Minh đang làm là bài học mà Đà Nẵng cần
phải học tập. Coi phát triển khu CN cao vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ
chiến lược trong xu thế mới, trong giai đoạn mới.
67
Chương 3
THỰC TRẠNG CÔNG NGHIÊP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
GẮN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
3.1. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ
VÀ XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.1.1. Thuận lợi
3.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Đà Nẵng là một thành phố thuộc vùng Nam Trung Bộ, là trung tâm
kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học và CN lớn của khu vực miền Trung - Tây
Nguyên, một trong 13 đô thị loại 1 đồng thời là một trong 5 thành phố trực
thuộc Trung ương ở Việt Nam, với tổng diện tích là 1285,4 km².
Đà Nẵng nằm ở trung độ của đất nước, trên trục giao thông Bắc Nam
về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không. Đà Nẵng có một
vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi cho phát triển du lịch, giao thông, các hoạt động
kinh tế đối ngoại, hình thành các khu chế xuất, khu công nghiệp có khả năng
thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Địa hình của Thành phố Đà Nẵng khá đa dạng, vừa có đồng bằng, vừa
có núi, thuận lợi trong việc phát triển các loại hình sản xuất kinh doanh, dịch
vụ, du lịch biển. Trong đó, quan trọng nhất là nguồn đất phù sa ở vùng đồng
bằng ven biển thích hợp với các loại cây trồng như: lúa, rau và hoa quả ven
đô. Đất đỏ vàng ở vùng đồi núi thích hợp với các loại cây công nghiệp dài
ngày, cây đặc sản, dược liệu, chăn nuôi gia súc và có kết cấu vững chắc thuận
lợi cho việc bố trí các cơ sở công trình hạ tầng kỹ thuật.
Thành phố còn có hơn 546 ha mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy
sản. Với tiềm năng về diện tích mặt nước, tạo điều kiện tốt để các hộ gia đình
68
xây dựng thành vùng nuôi thủy sản với các loại chính như: cá mú, cá hồi, cá
cam, tôm sú và tôm hùm. Đây là một lợi thế cho các hộ phát triển ngành thuỷ
sản góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống cho người dân.
Rừng của thành phố thường xanh cả bốn mùa, nên nó là bộ máy khổng
lồ điều hòa nhiệt độ, gió, mưa, tạo nên một môi trường tự nhiên trong lành về
không khí và nước. Nếu việc khai thác rừng hợp lý thì ngoài ý nghĩa kinh tế ,
rừng còn có ý nghĩa về dân sinh và môi trường sinh thái. Rừng còn là tiềm
năng cho phát triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch
dã ngoại cho khách trong nước và nước ngoài. Đà Nẵng có các khu rừng như:
Khu bảo tồn Bà Nà, Danh thắng Ngũ Hành Sơn, Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn
Trà và Khu văn hóa lịch sử môi trường Nam Hải Vân.
Đà Nẵng có bờ biển dài, mức nước sâu, thuận lợi cho xây dựng hải
cảng lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển vận tải biển; có nhiều bãi tắm
và phong cảnh đẹp, ít ô nhiễm, lại nằm giữa các di sản thế giới nên thuận lợi
trong việc phát triển các loại hình kinh doanh, dịch vụ, du lịch biển. Khu hệ
động vật biển của Đà Nẵng rất phong phú, đa dạng và có nhiều loài đặc hữu
quý hiếm, có giá trị kinh tế cao như: cá thu bè, cá thu chấm, cá mú chấm
xanh, cá mú đen, cá vược trắng, tôm he, tôm hùm, mực nang tấm, mực ống
thẻ, bào ngư… Tổng trữ lượng hải sản các loại là 1.136.000 tấn, hàng năm có
khả năng khai thác 150.000 - 200.000 tấn.
3.1.1.2. Điều kiện kinh tế và xã hội
Đà Nẵng được xác định là một trong những trung tâm kinh tế - văn hóa
- xã hội và quá trình đô thị hoá lớn của cả nước.
- Về kinh tế, Đà Nẵng có ngành kinh tế khá đa dạng bao gồm cả công
nghiệp, nông nghiệp cho tới các dịch vụ về du lịch, thương mại, tài chính...
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, công
nghiệp và giảm tỷ trọng nông nghiệp. Tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ trong
tổng sản phẩm xã hội năm 2013 là 57,95%, công nghiệp - xây dựng là 39,68%
69
và nông nghiệp là 2,37% [118].
Hiện thành phố có 24 trung tâm thương mại và siêu thị với tổng mức
bán lẻ hàng hóa tăng 21,1%/năm trong 3 năm gần đây. Đà Nẵng còn là trung
tâm tài chính lớn nhất của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, với 60 chi
nhánh tổ chức tín dụng và 233 phòng giao dịch, điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm
với sự đa dạng về loại hình hoạt động: 55 ngân hàng thương mại, một ngân
hàng chính sách xã hội, một công ty tài chính, một công ty cho thuê tài
chính,... Mật độ tập trung cao các chi nhánh ngân hàng ở đường Nguyễn Văn
Linh khiến con đường này được mệnh danh là "Phố Wall" của miền Trung.
Đà Nẵng có nhiều làng nghề, trong đó có một số làng nghề truyền
thống. Nổi tiếng nhất là làng đá mỹ nghệ Non Nước nằm dưới chân núi Ngũ
Hành Sơn thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, làng chiếu Cẩm Nê,
làng nghề nước mắm Nam Ô thuộc phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu
v.v... với những sản phẩm nổi tiếng không chỉ trong vùng, trong nước mà còn
có mặt ở nhiều nước trên thế giới.
Trong những năm qua, kinh tế Đà Nẵng luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao
hơn bình quân chung của cả nước. Trong ba năm liền từ 2008-2010, chỉ số
năng lực cạnh tranh (PCI) của thành phố đứng đầu cả nước. Tổng sản phẩm
xã hội năm 2012 là 46.368,6 tỷ đồng với mức tăng trưởng là 9,1% so với năm
2011; năm 2013 là 41.570 tỷ đồng, tăng 8,11% so cùng kỳ năm 2012 (trong
khi tăng trưởng chung của cả nước là 5,4%). Tổng sản phẩm xã hội bình quân
đầu người năm 2013 là 2.686 USD, gấp 2,6 lần so với năm 2005 và gấp 1,4
lần mức bình quân chung của cả nước trong cùng thời kỳ [118], [119].
Kết cấu hạ tầng: Mạng lưới đường bộ trong đô thị của thành phố phát
triển mạnh. Với chủ trương "tạo vốn phát triển từ quỹ đất" thành phố đã triển
khai nhiều công trình quy mô lớn như đường: Ba Tháng Hai, Nguyễn Tất
Thành, Hoàng Sa - Trường Sa, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Hữu Thọ, Phạm
Văn Đồng… Từ 97 đường phố, với tổng chiều dài 299,973 km (1996) thì đến
70
nay đã có hơn 1.002 đường phố với tổng chiều dài 848,473km. Đà Nẵng còn
đầu tư xây dựng 6 cây cầu hiện đại bắc qua Sông Hàn như cầu: Rồng, Nguyễn
Văn Trỗi - Trần Thị Ly, Thuận Phước... Hạ tầng giao thông của đường thủy,
đường sắt, và đường hàng không liên tục được đầu tư mở rộng nâng cấp như:
Cải tạo, nâng cấp cảng Tiên Sa; Nhà ga sân bay quốc tế Đà Nẵng đạt công
suất phục vụ 6 triệu hành khách/năm.
Đầu tư phát triển của thành phố Đà Nẵng: Đầu tư phát triển xã hội
tăng nhanh cả về quy mô và tốc độ tăng trưởng, tạo nguồn lực cho phát triển
kinh tế. Phát triển kinh tế của thành phố dựa vào yếu tố vốn, vốn đầu tư xã hội
đã trở thành yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tăng trưởng của nền kinh tế
trong nhiều năm. Năm 2001 vốn đầu tư là 2.527,55 tỷ đồng đến năm 2013 tỷ
đồng 26.516 tỷ đồng, bằng 87% so với cùng kỳ năm 2012, gấp 10,5 lần năm
2001, [13], [118] điều này chứng tỏ tiềm lực kinh tế của thành phố đã tăng
lên, đồng thời là động lực chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Về đặc điểm xã hội
Dân số và lao động năm 2012, toàn thành phố có số dân là 973.838
người sống trên 6 quận (Cẩm Lệ, Hải Châu, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn, Sơn
Trà, Thanh Khê) và 2 huyện (Hòa Vang, Hoàng Sa). Tốc độ tăng dân số bình
quân giai đoạn 2001 - 2012 là 2,5%/ năm, cao hơn so với tốc độ tăng dân số
bình quân của cả nước trong cùng giai đoạn là 1,2%/năm. Kết cấu dân số theo
độ tuổi: số người dưới 15 tuổi 24,06%, từ 16- 59 tuổi chiếm 67,74%, trên 60
tuổi 8,2%, tuổi trung bình dân số thành phố Đà Nẵng là 30 tuổi. Mật độ dân
số năm 2012 là 757,60 người/km2. Dân cư phân bố không đều giữa các quận,
huyện; trong đó dân số tập trung cao nhất ở hai quận nội thành là Thanh Khê
(19.527,54 người/km2) và Hải Châu (8.688,62 người/km2) và thấp nhất là ở
huyện Hòa Vang với mật độ 169,88 người/km2 [16].
Quy mô nhân lực thành phố tương đối lớn, tăng nhanh và đang trong
thời kỳ "cơ cấu dân số vàng". Lực lượng lao động hiện có của Thành phố
71
515.018 người vào năm 2012 chiếm 52% số dân. Trình độ học vấn và chuyên
môn kỹ thuật của lực lượng lao động đang dần được cải thiện. Số công nhân
kỹ thuật năm 2012 là 36.961 người. Lực lượng lao động có trình độ cao đẳng,
đại học năm 2012 là 106.681 người [16]. Nguồn nhân lực đã qua đào tạo, có
chuyên môn kỹ thuật là lực lượng trụ cột của sự nghiệp CNH, HĐH gắn với
phát triển kinh tế tri thức của thành phố.
Đà Nẵng là một trong những trung tâm giáo dục và đào tạo lớn nhất
của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước. Năm 2013, trên địa bàn
thành phố có 15 trường đại học, học viện; 18 trường cao đẳng; 50 trường
trung học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề; 175 trường học ở cấp phổ (19
trường Trung học phổ thông, 54 trường Trung học cơ sở, 100 trường tiểu học
và 2 trường Phổ thông cơ sở). Bên cạnh đó còn có 136 trường mẫu giáo với
1.249 lớp học, 2.422 giáo viên và 37,8 nghìn học sinh. Hoạt động giáo dục và
đào tạo của Đà Nẵng đã và đang được đầu tư phát triển cả về số lượng lẫn
chất lượng [118].
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe: Hệ thống y tế của thành phố
ngày càng hiện đại, hoàn chỉnh và đồng bộ từ tuyến thành phố đến quận,
huyện và xã, phường. Năm 2012, thành phố Đà Nẵng có 82 cơ sở khám chữa
bệnh trực thuộc sở Y tế thành phố, trong đó có 23 bệnh viện, 3 trung tâm y tế
và phục hồi chức năng và 56 trạm y tế. Số giường bệnh trực thuộc sở Y tế Đà
Nẵng là 4.628 giường với 1.238 bác sĩ, 342 y sĩ, 756 y tá và 275 nữ hộ sinh,
tỷ lệ 13,84 bác sỹ/10.000 dân, 52 giường/10.000 dân. Đến cuối năm 2013, Đà
Nẵng đã hoàn thành mục tiêu Bảo hiểm y tế toàn dân, với 91,6% dân số tham
gia Bảo hiểm y tế, đi trước 2 năm so với cả nước (2014) [16], [119].
Văn hóa, thể dục - thể thao: Trên địa bàn thành phố hiện nay có khá
nhiều điểm vui chơi, văn hóa giải trí như Nhà hát Trưng Vương được xây mới
và khánh thành năm 2006 với sức chứa hơn 1.200 chỗ ngồi, Nhà hát tuồng
Nguyễn Hiển Dĩnh. Rạp chiếu phim MegaStar, Lotte Cinema Đà Nẵng, Lê
72
Độ... Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng, Bảo tàng Đà Nẵng, Bảo
tàng Hồ Chí Minh (chi nhánh Quân khu V). Đây cũng là những địa điểm mà
người dân hay khách du lịch thường tới khi đến thành phố. Đà Nẵng là nơi tập
trung các trung tâm huấn luyện, đào tạo thể thao thành tích cao: Trung tâm
Huấn luyện thể thao Quốc gia III, Trung tâm Thể thao Quốc phòng III và Đại
học Thể dục Thể thao III. Ngoài ra còn có Làng vận động viên và Khu tập
luyện bóng đá rộng gần 8 ha, hay Khu thể thao thành tích cao rộng 7 ha, nằm
ở khu đô thị mới Tuyên Sơn - Hòa Cường.
3.1.2. Khó khăn
3.1.2.1. Khó khăn về điều kiện tự nhiên
- Đà Nẵng nằm ở khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm hai mũa rõ rệt:
mùa mưa có lượng mưa nhiều, bão lũ thường xảy ra gây lũ lụt, ngập úng ở
nhiều vùng, thiệt hại lớn đến phát triển kinh tế; ngược lại mùa khô nắng nóng,
ít mưa dẫn đến hạn hán, một số sông bị nước mặn xâm nhập. Với lượng mưa
phân bố không đều, khí hậu khắc nghiệt ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp và đời sống dân cư thành phố.
- Diện tích đất trống, đồi trọc lớn và ngày càng gia tăng, đây là đặc
điểm quan trọng gây khó khăn cho phát triển nông nghiệp và lâm nghiệp ở
Thành phố.
- Do áp lực gia tăng dân số ngày càng lớn, đất rừng bị con người khai
phá biến thành đất canh tác nông nghiệp, đất thổ cư, làm đường giao thông,
xây dựng công trình công cộng, khu công nghiệp...
- Tài nguyên khoáng sản nghèo nàn, trữ lượng thấp, chủ yếu là nguyên
liệu sản xuất vật liệu xây dựng; cát trắng, đá xây dựng, cuội sỏi xây dựng...
Tại bồn trũng Đà Nẵng, cách bán đảo Sơn Trà theo hướng đông - đông bắc,
khoảng 70 hải lý, mới phát hiện một trữ lượng lớn khí dồi dào, song lại lẫn
nhiều khí khác, nên chưa thu hút được sự đầu tư của nước ngoài, vẫn còn nằm
trong dạng tiềm năng.
73
3.1.2.2. Khó khăn về điều kiện kinh tế và xã hội
- Tăng trưởng kinh tế vẫn theo chiều rộng chủ yếu dựa vào tăng vốn
đầu tư, sử dụng lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên và gia công hàng xuất
khẩu. Một số ngành, lĩnh vực phát triển chưa thật bền vững; vai trò động lực,
liên kết khu vực và sức lan tỏa còn yếu.
- Việc thu ngân sách không đảm bảo tiến độ so với dự toán do những
khó khăn về kinh tế, sản xuất kinh doanh, những khoản thu từ đất giảm thì
cũng kéo theo thu thuế và phí cũng giảm.
- Kết cấu hạ tầng đô thị được đầu tư phát triển nhanh, nhưng vẫn chưa
đồng bộ, một số dự án triển khai chậm, kéo dài tiến độ, làm tăng chi phí đầu
tư và chậm đưa công trình vào sử dụng; thậm chí có công trình đã đưa vào sử
dụng nhưng hiệu quả đầu tư không đạt như mong muốn và dự tính ban đầu.
- Mật độ dân số giữa các quận, huyện có sự chênh lệch khá cao là do
tốc độ đô thị hóa nhanh, do hiện tượng di dân của lực lượng lao động từ các
huyện ngoại thành và các tỉnh lân cận vào các quận trung tâm thành phố tìm
việc làm. Đây cũng là hiện tượng thường xảy ra đối với các thành phố đang
trên đà phát triển.
- Trình độ và cơ cấu nguồn nhân lực còn bất cập. Trên địa bàn thành
phố có trên 37 dân tộc và người nước ngoài cùng chung sống, trong đó có bộ
phận quan trọng là số dân thuộc dân tộc ít người như: người Ê Đê, Mường,
Gia Rai, Chơ Ro, Hà Nhì, Si La và Ơ Đu. Trình độ dân trí còn thấp, trình độ
chuyên môn kỹ thuật của lao động không đồng đều. Thừa lao động giản đơn,
nhưng thiếu lao động có kỹ năng, nhất là lao động trong các ngành CN mới và
các ngành dựa nhiều vào tri thức, CN chất lượng cao.
- Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đồng đều giữa các vùng; các lĩnh
vực văn hóa, văn nghệ phát triển chưa ngang tầm với tiềm năng, lợi thế của
thành phố.
74
3.2. QUÁ TRÌNH TIẾN HÀNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN
VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM2001 ĐẾN NAY
3.2.1. Quán triệt và vận dụng đường lối, chủ trương của Đảng về
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức ở Thành phố Đà Nẵng
Sau khi trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, Đảng bộ và chính
quyền thành phố Đà Nẵng đặt ra yêu cầu xây dựng và phát triển thành phố
trong giai đoạn mới. Ngày 16 - 10 - 2003, Bộ chính trị đã ra nghị quyết 33-
NQ/TW về "Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa". Đây là một nghị quyết quan trọng, có ý nghĩa hết
sức to lớn và lâu dài đối với sự phát triển của thành phố. Nghị quyết khẳng
định: "Đà Nẵng phải phấn đấu để trở thành một trong những địa phương đi
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cơ bản trở thành thành
phố công nghiệp trước năm 2020" [5]. Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng đã
ban hành: "Kế hoạch triển khai quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết 33-
NQ/TWcủa Bộ Chính trị" số 19-KH/TU, ngày 5-11-2003 và "Chương trình
hành động của Thành ủy thực hiện Nghị quyết 33/-NQ/TWcủa Bộ Chính trị
về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa" số 16-CTr/TU, ngày 19-11-2003.
Đại hội đại biểu lần thứ XX (tháng 9 - 2010) Đảng bộ thành phố Đà
Nẵng đã đưa ra mục tiêu, phương hướng tổng quát của 5 năm 2010 - 2015 và
tầm nhìn đến năm 2020 là:
Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một đô thị lớn của cả nước,
là trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung, là địa bàn giữ vị trí
chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của miền Trung và cả
nước, tạo nền tảng để xây dựng thành phố trở thành thành phố công
nghiệp trước năm 2020 [28, tr.29].
75
Trên cơ sở "Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
thành phố Đà Nẵng đến năm 2020" theo quyết định số 1866/QĐ-TTg, ngày
18/10/2010, cấp ủy và chính quyền thành phố Đà Nẵng đã xác định quan
điểm và phương hướng đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri
thức trên địa bàn. Trong đó, nhấn mạnh tập trung khai thác có hiệu quả tiềm
năng, lợi thế của thành phố nhằm tăng trưởng nhanh, bền vững gắn với đẩy
mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông
nghiệp và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Đà Nẵng phải là trung tâm kinh
tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật của vùng và cùng với các thành phố lân cận
hình thành hành lang kinh tế Bắc - Nam.
Tháng 10 - 2010 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định thành lập khu
CN cao Đà Nẵng với 6 nhóm ngành nghề thu hút đầu tư, gồm CN sinh học
phục vụ nông nghiệp, thủy sản và y tế; CN vi điện tử, cơ điện tử và quang
điện tử; CN tự động hóa và cơ khí chính xác; CN vật liệu mới, năng lượng
mới; CN thông tin, truyền thông và phần mềm tin học; CN môi trường, CN
phục vụ hóa dầu và một số CN đặc biệt khác.
Với chủ trương, quyết định trên, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đà
Nẵng nỗ lực xây dựng thành phố giàu về kinh tế, phát triển về văn hóa, khoa
học - kỹ thuật, sạch về môi trường và vững mạnh về an ninh quốc phòng, trở
thành thành phố công nghiệp trước năm 2020 như Đại hội đại biểu lần thứ
XX của Đảng bộ thành phố đã xác định.
3.2.2. Tình hình tổ chức tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
3.2.2.1. Trang bị CN tiên tiến, hiện đại cho các ngành kinh tếCác ngành sử dụng CN truyền thống ở thành phố chủ yếu là nông
nghiệp, chế biến thủy hải sản, giầy da, may mặc, dịch vụ ở trình độ
thấp…trong những năm trở lại đây đã có những thay đổi về CN đáng kể
trong sản xuất. Ngành thủy sản được coi là mũi đột phá, khai thác hải sản phát
76
triển theo hướng vươn khơi, các đội tàu đánh bắt xa bờ được trang bị các thiết
bị hiện đại để liên lạc tránh bão, việc cải hoán và đóng mới tàu thuyền công
suất lớn tăng lên. Đối với các ngành dệt may, da giầy, CN chế biến thực phẩm
đồ uống …do đổi mới CN hoặc chuyển đổi dần phương thức sản xuất từ gia
công sang sản xuất trực tiếp nên giá trị gia tăng của nhiều sản phẩm đã được
nâng lên. Một số cơ sở sản xuất chế biến thủy sản lớn đã bước đầu chuyển
hướng sang đầu tư chiều sâu, trang bị dây chuyền máy móc, thiết bị hiện đại
để sản xuất các sản phẩm tinh chế, có giá trị gia tãng cao.
Theo kết quả điều tra, đánh giá trình độ CN của các doanh nghiệp công
nghiệp trên địa bàn thành phố đến năm 2006 do Bộ Khoa học CN chủ trì, chỉ số
trình độ CN của các phân ngành chi tiết như sau: Tỷ trọng thiết bị hiện đại lĩnh
vực dệt may, da giầy chiếm 56% và tỷ trọng công nhân sử dụng được trang thiết
bị cơ khí hóa và tự động hóa là 75% cao hơn 13% so với mức trung bình là
51,85%. Đây là một trong những ngành công nghiệp được thành phố ưu tiên
phát triển trong thời gian qua. Công nghiệp chế biến thủy sản cũng là một trong
những ngành công nghiệp có lợi thế tại Đà Nẵng. Tốc độ đổi mới CN đạt mức
cao 27,69% năm, và tỷ trọng thiết bị hiện đại cao nhất với Ihđ= 93,17%, nên
đây là ngành có năng lực cạnh tranh cao. Ngành chế biến thực phẩm, đồ uống là
ngành có sản phẩm cạnh tranh gay gắt nhất trên thị trường nhưng lại không có
đầu tư gì ở giai đoạn này hệ số đổi mới thiết bị Kđm = 0 và tỷ trọng thiết bị hiện
đại Ihđ cũng chỉ chiếm gần 22% tổng giá trị thiết bị, vì vậy ngành công nghiệp
này có sức cạnh tranh thấp. Ngành hóa chất - dược phẩm có hệ thống thiết bị sản
xuất thuộc loại cũ nhất với hệ số hao mòn hữu hình h=1,86%, hơn nữa hệ số đổi
mới thiết bị Kđm = 0 và tỷ trọng thiết bị hiện đại Ihđ = 0 nên trình độ CN của
ngành này rất kém và sản phẩm không có sức cạnh tranh. Trong 15 ngành công
nghiệp được khảo sát thì có 3 ngành đạt mức trung bình tiên tiến (Chế biến thuỷ
sản; bia, rượi, nước giải khát; Dược-Thiết bị y tế), 10 ngành đạt mức trung bình
và 2 ngành ở mức lạc hậu. So với mức chuẩn thực trạng CN tiên tiến của các
77
nước trong khu vực và trên thế giới thì Đà Nẵng có 9 ngành đạt mức trung bình
và 6 ngành ở mức lạc hậu. Tuy nhiên để cạnh tranh sản phẩm trên thị trường, và
giữ vững thương hiệu, một số doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng nhà máy với
trang thiết bị tiên tiến nổi bật nhất là Công ty cổ phần dược Danapha có ba dây
chuyền đạt tiêu chuẩn GMP - WHO. Năm 2009 với mô hình dự án Nhà máy CN
dược nano - liposome đầu tiên tại Việt Nam đã gióng tiếng chuông khởi đầu cho
thập kỷ CN cao của ngành dược, trở thành doanh nghiệp dẫn đầu trong ngành
sản xuất dược, với hệ thống nhà máy quy mô, hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Đối với ngành công nghiệp cơ khí của thành phố với các lĩnh vực sản
xuất sắt thép xây dựng, gia công cơ khí, sản xuất máy móc thiết bị, xe có
động cơ, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền…chủ yếu do khu vực tư nhân đầu
tư quy mô nhỏ nên trình độ CN chưa cao. Chỉ có các nhà máy thuộc khu vực
nhà nước như : công ty Sông Thu (thuộc tổng cục CN Bộ Quốc phòng), nhà
máy sản xuất lắp ráp xe máy, nhà máy thép Đà Nẵng - Ý…trong thời gian vừa
qua đầu tư đổi mới CN. Công nghiệp đóng tàu đã thiết lập CN đóng tàu hiện
đại với các bước thiết kế kỹ thuật, thiết kế CN, lập kế hoạch sản xuất, lập quy
trình CN… được áp dụng trên máy vi tính theo hướng khép kín. Đồng thời
đầu tư, ứng dụng thiết bị, CN cao (như máy hàn hồ quang, máy hàn tự động,
máy cắt plasma, máy cắt CNC và thiết bị gia công hiện đại khác), những phần
mềm thiết kế (như phần mềm tribol, Nupas, Acad) vào sản xuất. Cụ thể, các
CN lắp ráp có tổng đoạn lớn, CN phóng dạng vỏ tàu bằng phần mềm thiết kế
trên máy vi tính, dây chuyền sản xuất vật liệu cắt và hàn hiện đại… được đưa
vào sử dụng, đã rút ngắn được thời gian thi công và nâng cao chất lượng tàu.
Đây là một hướng đi mới mà ngành đóng tàu thành phố đang tập trung đầu tư.
Việc phân tích trình độ CN, thiết bị một số ngành của thành phố, luận án
cho rằng CN sản xuất của các ngành công nghiệp của thành phố nhìn chung còn
ở trình độ thấp, không có thiết bị hiện đại, máy móc trong các dây chuyền sản
xuất hàng tiêu dùng, cũng như sản xuất công nghiệp hỗ trợ lâu nay nhập từ nước
78
ngoài với giá cao, đây là những dây chuyền đã lạc hậu của các nước phát triển
cần mau chóng thay đổi. Điều này một phần do các doanh nghiệp chủ yếu là
doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu vốn không đầu tư đổi mới CN, một phần do công
nhân không đủ trình độ, không có kỹ sư có trình độ cao sử dụng CN mới…
3.2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng
công nghiệp, dịch vụTừ năm 2001 đến nay, cơ cấu ngành kinh tế của thành phố có sự
chuyển dịch tích cực phù hợp với định hướng CNH, HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức. Số liệu thống kê sau đây cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế giữa các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp - xây
dựng; dịch vụ, (theo giá so sánh) diễn biến tương đối khác biệt qua các giai
đoạn sau: 2001 -2005; 2006 - 2013 như sau:
Bảng 3.1: Cơ cấu kinh tế ngành của thành phố Đà Nẵng
giai đoạn 2001 - 2013
Tỷ trọng các nhóm ngành kinh tế ( %)Ngành
2001 2005 2006 2012 2013
Nông - lâm - thủy sản 7,73 6,01 4,92 2,97 2,37
Công nghiệp - xây dựng 41,65 51,61 47,94 39,15 39,68
Dịch vụ 50,62 42,38 47,14 57,88 57,95
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Đà Nẵng 2006, 2012 [118].
Đơn vị tính: %
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Đà Nẵng 2006 [118]
Hình 3.1: Cơ cấu kinh tế ngành của Đà Nẵng năm 2001 và 2013
79
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong giai đoạn 2001 - 2005 ít có sự thay
đổi so với giai đoạn trước, tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp vào cơ
cấu GDP có xu hướng tiếp tục tăng lên; trong khi đó tỷ trọng này của ngành
công nghiệp và dịch vụ vẫn tiếp tục có xu hướng giảm xuống. Nông nghiệp
từ 7,73% xuống 6,01% mức giảm này không nhiều, nhưng đặc biệt ngành
có tốc độ giảm nhanh hơn trong cơ cấu GDP là dịch vụ từ 50,62% năm 2001
xuống 42,38% năm 2005 mặc dù tốc độ tăng bình quân của ngành trong giai
đoạn này 10,6%/năm cao hơn so với giai đoạn 1997 - 2000 là 9,83% [12].
Trong khi đó, công nghiệp đóng vai trò quyết định trong phát triển kinh tế
của thành phố với tốc độ tăng trưởng bình quân rất cao 25,29%. Đây được
xem là giai đoạn mà Đà Nẵng chuyển dịch theo hướng quy hoạch đã được
Chính phủ phê duyệt "Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp", cũng như các
thành phố lớn khác trong nước đều đề ra mục tiêu và mong muốn đi đầu
trong công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH bằng cách phát triển các khu công
nghiệp và cơ sở hạ tầng.
Giai đoạn tiếp theo 2006 - 2013 được xem là thời kỳ đánh dấu sự tăng
trưởng mạnh mẽ của ngành dịch vụ với tốc độ tăng trưởng bình quân
19,01%/năm, gấp hai lần so với hai giai đoạn trước, đóng góp 8,97% vào tăng
trưởng GDP và cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm
của thành phố 12,1%. Các ngành dịch vụ chất lượng cao phát triển đa dạng
hơn đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch đang
từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố. Ngành Bưu chính
- Viễn thông, Vận tải - Kho bãi, Thương mại, Tài chính - Ngân hàng phát
triển nhanh, các dịch vụ đào tạo, khoa học CN, tư vấn pháp lý có bước phát
triển khá.
Qua từng giai đoạn tốc độ phát triển của từng ngành là khác nhau phù
hợp với chủ trương phát triển của thành phố ở mỗi thời điểm như giai đoạn
1997 - 2000 và 2001 - 2005 thành phố chủ trương phát triển các ngành công
80
nghiệp. Nhưng ở giai đoạn tiếp theo 2006 - 2013 tỷ trọng đóng góp của ngành
công nghiệp vào cơ cấu GDP có xu hướng giảm dần, tỷ trọng đóng góp ngành
nông nghiệp giảm nhanh trong cơ cấu GDP trong khi đó thì tăng trưởng
ngành dịch vụ khá cao. Điều này cho thấy cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch
tích cực từ Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp sang Dịch vụ - Công nghiệp
- Nông nghiệp.
Phân tích trên cho thấy cơ cấu kinh tế theo 3 nhóm nghành của thành
phố qua hơn 10 năm phát triển từ 2001 - 2013 đã có sự chuyển dịch theo
hướng CNH, HĐH trong một nền kinh tế mở, phát triển mạnh công nghiệp và
dịch vụ, tăng dần tỷ trọng các ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao. Tỷ trọng
nông, lâm, thủy sản giảm đều đặn từ mức 7,73% năm 2001 xuống 2,37% năm
2013, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng đóng vai trò quan trọng tăng nhanh
trong thời kỳ đầu nhưng đã chậm lại và có xu hướng giảm đạt mức 39,68%
năm 2013, trong khi đó tỷ trọng dịch vụ giảm xuống trong thời kỳ đầu nhưng
đã tăng trở lại trong những năm gần đây chiếm tỷ trọng là 57,95% năm 2013.
Điều đó cho thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố đã đi
đúng hướng. Với cơ cấu kinh tế hiện có, thành phố có thể phát huy được các
nguồn nội lực và ngoại lực cho tăng trưởng kinh tế.
Cùng với chuyển dịch cơ cấu thành phố theo hướng hiện đại, du lịch
đã và đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, thiết thực góp phần phát triển
kinh tế xã hội và nâng cao chất lượng cho người dân và du khách. Chỉ 10 năm
trở lại đây, Đà Nẵng đã không ngừng xây dựng các công trình phục vụ dân
sinh và tạo thuận lợi cho phát triển du lịch như: Đường du lịch ven biển
Hoàng Sa, Trường Sa; đường lên đỉnh khu sinh thái Sơn Trà, Bà Nà - Suối
mơ, quy hoạch và mở rộng khu danh thắng Ngũ Hành Sơn… Đà Nẵng còn
mệnh danh là thành phố của những cây cầu: cầu Sông Hàn, Cầu Thuận
Phước,… 29/3/2013 cầu Rồng, cầu Trần thị Lý được khánh thành tạo nền
móng để du lịch Đà Nẵng có những bước vững chắc.
81
Năm 2006 chỉ có 29 dự án đầu tư về du lịch, tổng số vốn đầu tư 553,6
triệu USD, đến năm 2012 có 60 dự án đầu tư về du lịch với số vốn đầu tư
4004,2 triệu USD trong đó có 13 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư
1.457,4 triệu USD và 47 dựa án đầu tư trong nước với tổng vốn 2.546,8 triệu
USD [88]. Về cơ sở lưu trú năm 2001 chỉ có 65 khách sạn với 2324 phòng,
năm 2005 có 85 khách sạn với 2670 phòng, đến năm 2012 là 370 khách sạn
với 9450 phòng; trong đó có 110 khách sạn có sao [13],[16]. Bên cạnh đó,
hàng loạt sản phẩm du lịch ra đời có sức hấp dẫn du khách như Khu sinh thái
Bán đảo Sơn Trà, điểm du lịch văn hóa tâm linh chùa Linh Ứng, Bà Nà Hill
với hai kỷ lục thế giới,…cùng các khu vui chơi giải trí hiện đại, khu giải trí
quốc tế Crowne Plaza, khu du lịch Fusion Maia Resort, Hyatt Regency, khu
nghỉ mát Vinpeal Luxury (vượt chuẩn 5 sao)…; Các bãi tắm du lịch xanh
sạch đẹp như Mỹ Khê, Xuân Thiều, vịnh Tiên Sa…; Các sản phẩm mỹ nghệ
hàng lưu niệm chế tác tại làng nghề truyền thống đá Non Nước cùng với
những sự kiện đặc sắc như trình diễn pháo hóa quốc tế, Lễ hội Quan Thế Âm,
Đà Nẵng - Điểm hẹn mùa hè, đã thực sự hấp dẫn du khách.
Trong những năm qua, lượng khách du lịch đến Đà Nẵng đã tăng nhanh
và ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006-2010 đạt 22%;
trong đó khách quốc tế tăng bình quân 10%/năm, khách nội địa tăng bình
quân 27%/năm. Thu nhập xã hội từ hoạt động du lịch tăng bình quân 28% và
đạt 3097 tỷ đồng năm 2010. Năm 2013 tổng lượng khách du lịch đạt 3,1 triệu
lượt, tăng 17,2% so với năm 2012; trong đó khách quốc tế 743.000 lượt, tăng
17,8% so với cùng kỳ; khách nội địa 2.347.000 lượt, tăng 17% so với năm
2012. Doanh thu từ du lịch năm 2001 là 305,22 tỷ đồng, năm 2013 đạt
7.784,1 tỷ đồng tăng 25,5 lần [100]. Điều này cho thấy chính quyền thành phố
đã có những nỗ lực nhất định trong việc quy hoạch phát triển du lịch, thu hút
các dự án, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, đảm bảo
môi trường du lịch.
82
3.2.2.3. Phát triển CN thông tin - truyền thông trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn của thành phốCN thông tin - truyền thông, trong những năm qua, đặc biệt từ năm
2004 đến nay đã có bước phát triển nhanh, tốc độ tăng trưởng bình quân toàn
ngành là 63%. Doanh thu toàn ngành năm 2012 đạt 9.021.8 tỷ đồng gấp 11,83
lần so với năm 2005 là 762 tỷ đồng, tăng 10% so với năm 2011[119]. Những
kết quả đó đã được ghi nhận và liên tục trong 7 năm (2005 - 2011), Đà Nẵng
được xếp hạng là một trong 5 địa phương có chỉ số ứng dụng và phát triển CN
thông tin - truyền thông cao nhất nước. Năm 2009, 2010, 2011 Đà Nẵng được
xếp vị trí thứ nhất ICT Index, góp phần đưa Đà Nẵng 2 năm liền đứng đầu cả
nước về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (2009, 2010).
Với mục tiêu đưa "CN thông tin là động lực thúc đẩy phát triển công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa thành phố hướng tới phát triển bền vững",
Thành phố đã ban hành chính sách và giải pháp cụ thể nhằm khuyến khích
phát triển ứng dụng CN thông tin trong toàn thể cộng đồng. Nhờ đó, công
tác ứng dụng và phát triển CN thông tin trên địa bàn thành phố ngày càng
được xúc tiến mạnh mẽ, sôi động và mang lại những kết quả rất khả quan,
thiết thực.
Về CN truyền dẫn và kết nối, thành phố đã kết hợp nhiều phương thức
phát triển như: cáp quang biển, cáp quang trên bộ, cáp quang trên đường điện
lực, vi ba và vệ tinh. Đà Nẵng là một trong 3 điểm kết cuối quan trọng nhất
của mạng trung kế đường trục quốc gia (backbone) với tốc độ đường truyền
310Gbps và điểm kết nối trực tiếp đi quốc tế với tốc độ đường truyền 18,122
Gbps. Tổng dung lượng đường truyền nội hạt là 39 Gbps .
Về điện thoại, internet, máy tính đã có 100% cơ quan nhà nước có kết
nối internet; tổng số thuê bao cố định năm 2012 đạt 171 nghìn thuê bao, đạt
mật độ 20 máy/100 dân; 100% thôn, tổ có mạng lưới điện thoại hữu tuyến, vô
83
tuyến và kết nối internet, số lượng máy tính trong cộng đồng là 0,38 máy/hộ;
đối với doanh nghiệp tỷ lệ kết nối internet đạt 78% (không kể doanh nghiệp tư
nhân), số lượng máy tính bình quân 12,5 máy/doanh nghiệp…[16]. Hiện nay,
Đà Nẵng đã có trang thông tin điện tử gồm cả phiên bản tiếng Anh và tiếng
Nhật, đáp ứng nhu cầu thông tin về chủ trương, chính sách mới, các hoạt động
đối ngoại, đầu tư, các thông tin về sự phát triển của thành phố cho người dân
và doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Một điều đáng ghi nhận cho sự phát triển CN thông tin - truyền thông
là từ ngày 3/11/2012 dự án phủ sóng Wi-fi trên toàn thành phố do Sở thông
tin truyền thông và Ban quản lý dự án phát triển CN thông tin và Thành phố
Đà Nẵng triển khai thực hiện. Đà Nẵng sẽ đầu tư mạng không dây phủ sóng
toàn bộ các quận, huyện nhằm phục vụ nhu cầu thông tin cho người dân và du
khách khi đến thành phố…
So với Hà Nội và thành phố Hồ Chí minh, Đà Nẵng xuất phát muộn
hơn, gặp nhiều khó khăn thử thách trong việc ứng dụng CN thông tin vào các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Để có được những thành tựu nêu trên, sự đầu tư
ban đầu của thành phố là khá thuyết phục hơn 17 triệu USD (Chính phủ và
WB quyết định tăng thêm 10 triệu USD cho Đà Nẵng) trong dự án phát triển
CN thông tin và truyền thông Việt Nam, đầu tư xây dựng khu CN thông tin
với tổng kinh phí 530 tỷ đồng…Những con số ấy chứng minh một sự quyết
tâm đầu tư rất lớn của thành phố trong việc đẩy mạnh ứng dụng CN thông tin.
Thành tựu mà ngành CN thông - tin truyền thông đạt được trong nhiều
năm qua đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội của thành
phố, từng bước đưa CN thông tin trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đúng với
tinh thần của nghị quyết Đại hội lần thứ XIX của Đảng bộ thành phố nhiệm
kỳ 2005-2010. Đây là tiền đề, động lực quan trọng để ngành thông tin truyền
thông vươn tới những tầm cao mới trong tương lai.
84
3.2.2.4. Thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng CN tiên tiến trong các
ngành và doanh nghiệp
- Phát triển và ứng dụng CN thông tin trong khuôn khổ phát triển kinh
tế tri thức được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát
triển của thành phố. Điều này được thể hiện qua các kết quả, sản phẩm của
hoạt động CN thông tin đã phục vụ cho nghiên cứu, sản xuất, tiêu dùng…
đóng góp không nhỏ vào ngân sách của thành phố.
Công nghiệp điện tử, phần cứng máy tính: Hiện nay trên địa bàn thành
phố có khoảng 200 đơn vị hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp điện tử, phần
cứng máy tính, trong đó: gần 80% thực hiện các dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng,
sửa chữa máy tính; 72% các đơn vị nhập thiết bị máy tính, viễn thông; 5%
doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm điện tử với 6 doanh nghiệp nước ngoài
có tổng số vốn đầu tư là 125,1 triệu USD và 3 doanh nghiệp trong nước.[105]
CN phần mềm và nội dung số: Những năm qua, với sự hỗ trợ của chính
phủ, các chính sách của thành phố đã có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển
công nghiệp CN thông tin, trong đó, công nghiệp phần mềm của thành phố
được hình thành và phát triển khá nhanh. Doanh thu ngành phần mềm của
toàn thành phố năm 2001 chưa đến 20 tỷ đồng thì đến năm 2011, con số này
là hơn 973 tỷ gấp 48,65 lần; và đặc biệt lần đầu tiên vào năm 2006, kim ngạch
xuất khẩu phần mềm của Đà Nẵng được gần 1,3 triệu USD đến năm 2012 là
20,8 triệu USD, nộp ngân sách nhà nước 247,9 tỷ đồng [119]. Đây là một
thành tựu có ý nghĩa đối với Đà Nẵng, nó không chỉ khẳng định rằng công
nghiệp phần mềm của thành phố từng bước phát triển mà còn khẳng định tiềm
năng to lớn của thành phố trong xu hướng hội nhập vào thị trường phần mềm
thế giới; mở ra triển vọng lớn cho Đà Nẵng xây dựng một ngành công nghiệp
mới, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Tháng 3/2010 phòng Lab thế hệ mới thứ ba ở Việt Nam tại Đà Nẵng
của Juniper Networks, tập đoàn hàng đầu trong lĩnh vực mạng hiệu nâng cao
85
được chính thức khai trương. Phòng Lab được đặt tại khu Công viên phần
mềm Đà Nẵng đã trở thành phòng lab lớn và hiện đại nhất ở Việt Nam, giúp
các tổ chức, doanh nghiệp toàn khu vực miền Trung và Tây Nguyên có điều
kiện thuận lợi thử nghiệm các giải pháp mạng tổng thể trước khi khai thác các
dự án ứng dụng CN thông tin.
Với mục tiêu đẩy mạnh các hoạt động gia công, xuất khẩu phần mềm
đưa công nghiệp phần mềm thành phố tham gia được vào một mắt xích trong
dây chuyền sản xuất sản phẩm CN thông tin của thế giới, trong đó phát triển
dịch vụ gia công quy trình doanh nghiệp là hướng đi mới. Chính quyền thành
phố trong năm 2013 tiếp tục xúc tiến đầu tư xây dựng Khu Công viên phần
mềm số 2 tại Khu Đô thị mới Đa Phước với diện tích 10 ha và khởi công khu
CN thông tin tập trung Đà Nẵng.
- Phát triển và ứng dụng CN sinh học: Trong sản xuất nông nghiệp
thông qua 10 nhiệm vụ khoa học gắn với phát triển nông thôn mới, đã xây
dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng CN cao: sản xuất rau an
toàn theo hướng VietGap, sử dụng CN cao từ các sản phẩm nuôi cấy mô tạo
ra hoa đồng tiền, cúc, lily…; áp dụng nhiều CN cao trong phát triển chăn nuôi
theo hướng công nghiệp với CN tự động và bán tự động như trang bị hệ thống
máng ăn, uống tự động, xây dựng hầm biogas xử lý chất thải, bảo vệ môi
trường; một số chế phẩm sinh học được ứng dụng rộng rãi trong chăn nuôi và
phòng trừ bệnh hại trên cây trồng. Trên lĩnh vực y tế đã có bước phát triển
quan trọng trong công tác chuẩn đoán, theo dõi, điều trị và phòng bệnh cho
nhân dân. Các kỹ thuật sinh học hiện đại đã được sử dụng khá phổ biến trong
xét nghiệm chẩn đoán bệnh nhiễm virus, vi khuẩn, đặc biệt là bệnh viêm gan,
lao, sốt xuất huyết, ung thư cổ tử cung và một số bệnh khác... Trên lĩnh vực
bảo vệ môi trường, việc ứng dụng CN sinh học bước đầu có hiệu quả, đặc biệt
là tại các điểm nóng về môi trường của thành phố như: Hồ Đảo Xanh, Âu
thuyền Thọ Quang và xử lý rác thải tại bãi rác Khánh Sơn...
86
Với những kết quả bước đầu như trên, có thể thấy rằng việc ứng dụng
CN CN sinh học thông qua các mô hình chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa
học và CN, các đề tài nghiên cứu khoa học đã từng bước giúp thành phố chủ
động trong việc sản xuất cây giống, hoa sạch bệnh, có chất lượng tốt cho bà
con nông dân. Tuy nhiên cũng cần mở rộng việc ứng dụng, phát triển CN sinh
học trong các ngành khác như y dược, bảo vệ môi trường, năng lượng sạch…
như trong Đại hội lần thứ XX của thành phố đã xác định CN sinh học là một
trong năm hướng đột phá và là lĩnh vực ưu tiên thứ hai sau CN thông tin.
- Phát triển và ứng dụng CN vật liệu: Thành phố đã quan tâm phát triển
sản xuất các loại vật liệu mới được sử dụng trong xây dựng, dược phẩm, đóng
tàu… Nghiên cứu, ứng dụng đưa vào sản xuất các loại vật liệu mới hoặc các
giải pháp kết cấu thân thiện với môi trường để vừa đảm bảo tính bền vững,
thân thiện nhưng vẫn hiện đại: như lưới chắn rác bằng bê tông tính năng cao
(không có cốt thép) hoặc bằng vật liệu composite thay thế cho các lưới chắn
rác bằng gang, gạch lát vỉa hè có khả năng hút nước (để nước mưa có thể
thấm vào đất), lan can các công trình ven biển làm bằng vật liệu composite,
hay sửa chữa cải tạo kết cấu móng đường theo phương án tái chế tận dụng lại
móng cấp phối đá dăm tại chỗ, sửa chữa vết nứt mặt nhựa bằng loại vật liệu
tái sinh,...Ngoài ra trong xây dựng công trình trình cầu Rồng, cầu Trần Thị Lý
- Nguyễn Văn Trỗi và cầu Nguyễn Tri Phương tại Đà Nẵng đã sử dụng CN
dùng vật liệu Tyfo composite để tăng cường kết cấu cho các công trình.
Mặt khác, xuất phát từ định hướng xây dựng và phát triển của thành
phố môi trường nên không quy hoạch đầu tư phát triển công nghiệp vật liệu
xây dựng. Nhiều doanh nghiệp, dự án cũng hướng đến sử dụng và sản xuất
dòng sản phẩm thân thiện với môi trường, giảm thiểu tiêu hao điện năng, tiêu
tốn ít tài nguyên... Sản phẩm được sử dụng là bê-tông khí chưng áp. Sản
phẩm này có tỷ trọng tương đương 1/3 gạch đặc, 2/3 gạch rỗng hai lỗ và chỉ
bằng 1/5 tỷ trọng của gạch bê-tông thông thường. Việc sử dụng gạch bê-tông
87
khí cho phép giảm tải trọng tòa nhà, nâng cao khả năng chống chấn động, tốc
độ thi công nhanh, giảm tiêu hao nhân công. Ngoài ra, gạch bê-tông khí còn
có những ưu điểm nổi bật khác, như tính bảo ôn, cách nhiệt cao, cách âm tốt,
chịu nhiệt và gia công dễ dàng.
Phát triển sản xuất vật liệu mới dựa trên CN cao như vật liệu nano: ống
nano cacbon, nano y sinh, nano polyme… Nano polyme có ứng dụng rất rộng,
hầu như có thể áp dụng cho tất cả các ngành như nhựa, xây dựng, in ấn, xăng
dầu, y dược. Công ty dược Danapha (Đà Nẵng) cho ra đời một loạt các dược
phẩm được gói trong các hạt nano-liposome như liposomal estoposide điều trị
ung thư, glipizome (điều trị tiểu đường), amlodisome (trị huyết áp cao),
lovastasome (điều trị tim mạch, trình trạng cholesterol máu cao).
Với đặc tính cứng, chắc, nhẹ và chống ăn mòn tốt vật liệu composite đã
sử dụng thành công trong ngành công nghiệp hàng không và ô tô trong vài
thập niên gần đây. TS.Đoàn Thị Thu Loan (Đại học Đà Nẵng) tiến hành
nghiên cứu vật liệu composite từ nhựa vinyl este và sợi đay. Để tăng độ kết
dính, TS.Loan đã xử lý bề mặt sợi bằng dung dịch kiềm; kết hợp kiềm với
dung dịch isocyanate, đồng thời, áp dụng phương pháp gia công "Đúc chuyển
nhựa dưới chân không", giảm đáng kể lượng bọt khí trong sản phẩm và tăng
sự tiếp xúc giữa nhựa và sợi. Từ đó, tạo ra sản phẩm có tính năng tốt hơn
phương pháp gia công truyền thống "Lăn ướt".
- Phát triển và ứng dụng CN năng lượng: Thành phố đã xây dựng chiến
lược trong việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên và đặc biệt là các
nguồn năng lượng tái tạo. Đã quan tâm việc sản xuất năng lượng dựa trên sử
dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn năng lượng hóa thạch kết hợp với nghiên
cứu, ứng dụng các nguồn năng lượng tái tạo như mặt trời, gió, biogas, biomass,
thủy điện... được xem là giải pháp hữu hiệu và bền vững đối với thành phố.
Đà Nẵng có tiềm năng phát triển năng lượng mặt trời khá lớn, với số
giờ nắng trung bình 177 giờ/tháng và cường độ bức xạ trung bình 4,89
88
kWh/m2/ngày, xếp thứ 5 trong số 16 tỉnh thành có tiềm năng về nguồn năng
lượng này. Về năng lượng gió, có tốc độ trung bình hằng năm là 3,3 m/s, mật
độ năng lượng gió tại độ cao 65m là thấp hơn 200W/m2, diện tích đất liền là
950 km2 và thời gian có gió trung bình là 4.602h/1năm [119]. Với tốc độ gió
trung bình thấp, Đà Nẵng vẫn có tiềm năng phát triển điện gió với các loại
turbine công suất nhỏ (từ 300W đến 5KW) thích hợp cho các quy mô nhỏ như
hộ gia đình, cung cấp điện tại chỗ cho các khu dân cư, các khu du lịch sinh
thái. Đà Nẵng còn có năng lượng Biogas, năng lượng Biomass, năng lượng
thủy điện... Đây là những yếu tố thuận lợi để Đà Nẵng đẩy mạnh việc nghiên
cứu, sử dụng CN năng lượng, đặc biệt năng lượng mặt trời...
Từ năm 2005 đến nay, thành phố đã có 6 dự án tiết kiệm và sử dụng
năng lượng tái tạo đã và đang triển khai tới 75 đơn vị, doanh nghiệp, qua đó
giảm phát thải ra môi trường hơn 12.000 tấn CO2/năm, tiết kiệm tương đương
11,8 tỷ đồng/năm. Thành phố đã lắp đặt các loại đèn sử dụng phương pháp
Dimming và CN nano đối với công trình chiếu sáng công cộng; lắp đặt thí
điểm ở 10 trường học hệ thống chiếu sáng tiết kiệm và bảo vệ mắt cho học
sinh. Thành phố cũng xây dựng thí điểm làng năng lượng sạch, đẩy mạnh việc
lắp đặt các thiết bị sử dụng nguồn năng lượng tái tạo tại các khách sạn, các
nhà máy sản xuất. Thực tế, thời gian qua, hàng trăm hộ gia đình tại phường
Hoà Quý, quận ngũ Hành Sơn đã sử dụng bếp nấu parabol ứng dụng năng
lượng mặt trời để nấu thức ăn, đun nước...
Mới đây việc ứng dụng và đưa vào sử dụng hệ thống pin năng lượng
mặt trời hay hệ thống đèn LED giúp cho tàu cá đánh bắt xa bờ tiết kiệm điện
năng. Hệ thống điện từ pin năng lượng mặt trời đã đáp ứng nhu cầu điện sinh
hoạt trên tàu như sử dụng máy tầm ngư, bộ đàm, ICOM, bơm nước… mà
không phải vận hành động cơ của tàu. Qua đó, tiết kiệm một phần chi phí
nhiên liệu, tăng hiệu quả đánh bắt và đảm bảo việc liên lạc với đất liền khi có
sự cố trên biển một cách thường xuyên qua hệ thống thông tin liên lạc, hệ
89
thống định vị vệ tinh 24/24 giờ, góp phần giảm thiểu rủi ro…Năm 2011,
UBND thành phố Đà Nẵng đã phê duyệt triển khai đề án "Sử dụng năng
lượng hiệu quả và ứng dụng năng lượng tái tạo trên địa bàn thành phố giai
đoạn 2011 - 2015". Mục tiêu của dự án là tiết kiệm 5-8% tổng mức tiêu thụ
điện năng so với dự báo về phát triển năng lượng và phát triển kinh tế- xã hội;
tiết kiệm 11 - 12% sản lượng điện năng tiêu thụ tại các cơ quan, công sở Nhà
nước, chiếu sáng công cộng, qua đó giảm tối đa chất thải khí CO2 từ các
ngành có mức tiêu thụ điện năng lớn.
3.2.2.5. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tri thức hóa
- Cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật. Sự tăng lên của
quy mô dân số cùng với tốc độ đô thị hóa đã kéo theo sự tăng trưởng về quy
mô nhân lực trên địa bàn thành phố từ 330.827 người năm 2001 lên 515.018
người năm 2012, tăng bình quân 2,9%/năm.Bảng 3.2: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động
ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 - 2012
2001 2005 2010 2011 2012
Trình độSố người
Tỷlệ %
Sốngười
Tỷlệ %
Sốngười
Tỷ lệ%
Sốngười
Tỷ lệ%
Sốngười
Tỷlệ %
Lực lượng
lao động330.827 100 386.487 100 453.400 100 480.880 100 515.018 100
Công nhân kỹthuật
36.000 11,0 97.000 25,1 37.130 8,2 39.950 8,3 36.961 7,18
Trung cấp
ch.nghiệp15.000
4,529.027 7,5 25.500 5,6 27.440 5,7 35.126 6,82
Cao đẳng, đại
học29.700 9,0 56.048 14,5 81.770 18,0 88.000 18,3 106.681 20,7
Lao động
khác250.127 75,5 204.412 52,9 309.000 68,2 325.490 67,7 336.250 65,3
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố 2006, 2012 [13,16].
Lực lượng lao động xã hội năm 2012 của thành phố là 515.018 chiếm
52,7% dân số và chiếm 74,6% nguồn lao động, tăng 160.053 người so với
năm 2001. Lực lượng lao động đa số trẻ, lao động có độ tuổi dưới 35 chiếm
90
41,08%; phân bố chủ yếu ở khu vực đô thị chiếm 87,6%, khu vực nông thôn
chiếm 12,38%.
Đối với lực lượng lao động nhìn chung, trình độ kỹ thuật tăng lên rõ rệt
ở các cấp trình độ. Lao động chưa qua đào tạo giảm từ 75,5% năm 2001xuống 65,3% năm 2012; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 24,5% năm 2001lên 47,1% năm 2005, tăng 2,25 lần, đến năm 2012 giảm xuống 34,7%, giảm
xuống 1,02 lần so với năm 2005. Lao động qua đào tạo giảm xuống chủ yếu
giảm lao động công nhân kỹ thuật từ 97.000 người năm 2005 xuống 36.961
năm 2012, lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng - đại học
tăng tương ứng từ 44.700 người năm 2001 lên 85.075 năm 2005 và 141.807năm 2012. Điều này cho thấy trình độ lực lượng lao động tăng lên cả về thểlực và trí lực phù hợp với giai đoạn CNH, HĐH của thành phố.
Cơ cấu lao động theo ngành thời gian qua được đánh giá thông qua sốlao động làm việc trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Cơ cấu
nhân lực của Thành phố tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng lao
động làm việc trong các ngành dịch vụ (từ 39,02% năm 2001 lên 58,8% năm2012) và giảm lao động ngành nông nghiệp (từ 28,1% năm 2001 xuống còn
8,2% năm 2012); riêng tỷ trọng lao động trong lĩnh vực công nghiệp - xây
dựng dao động nhẹ và giữ ổn định ở mức khoảng 30% tổng nhu cầu lao động
trong giai đoạn 2001 - 2012 và đạt mức 33% năm 2012. Mặc dù xu hướng
chuyển dịch cơ cấu lao động có phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tếtheo định hướng của Thành phố, nhưng tỷ trọng đóng góp của các ngành vào
GDP của Thành phố chuyển biến chưa đạt yêu cầu. Chẳng hạn, lực lượng lao
động trong ngành dịch vụ tăng mạnh trong giai đoạn 1997-2009 nhưng tỷtrọng đóng góp của ngành dịch vụ vào GDP của Thành phố lại không tăngnhiều, cụ thể đạt 54,43% năm 1997, sau đó giảm đều trong giai đoạn 1997-
2000, 2000-2005, xuống mức thấp nhất vào năm 2005 (42,30%), rồi tăngnhanh trở lại trong giai đoạn 2005-2012 và đạt 58,8% năm 2012. Điều đó chothấy bên cạnh việc chuyển dịch cơ cấu lao động về số lượng thì lực lượng lao
91
động của Thành phố cũng cần được đầu tư nâng cao chất lượng để đóng góphiệu quả hơn vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố.
Bảng 3.3: Cơ cấu lao động theo ngành nghề từ năm 2001 đến nay
2001 2005 2011 2012
TT Chỉ tiêuSố lượng
(nghìnngười)
Tỷ lệ(%)
Sốlượng(nghìnngười)
Tỷ lệ(%)
Sốlượng(nghìnngười)
Tỷ lệ(%)
Sốlượng(nghìnngười)
Tỷ lệ(%)
1Nông, lâm,thủy sản
73,377 28,1 58,66 19,39 38,0 8,5 39,91 8,2
2Công nghiệp -xây dựng
85,755 32,88 112,38 37,16 150,83 33,76 160,15 33,0
3 Dịch vụ 101,82 39,02 131,42 43,45 257,95 57,74 286,67 58,8
Tổng số 260,952 100 302,46 100 446,78 100 486,73 100
Nguồn: Niên giám thống kê Đà Nẵng 2006, 2012 [13],[16].
Bảng 3.4: Cơ cấu lao động một số ngành từ năm 2001 đến nay
ĐVT: Người
Ngành 2001 2005 2011 2012CN chế biến 54.105 68.957 90.000 98.080
Xây dựng 28.868 34.100 48.500 48.680
Thương nghiệp 41.651 46.141 87.000 97.350
Khách sạn, nhà hàng 11.358 18.500 46.700 53.540
Vận tải, thông tin liên lạc 19.197 15.650 36.000 37.960
Tài chính, tín dụng 1.565 2.929 5.000 5.840
Giáo dục đào tạo 11.490 16.006 24.000 26.280
Y tế và xã hội 3.415 5.436 7.550 8.280
Tổng số 171649 207.719 344.750 376.010
Nguồn: Niên giám thống kê Đà Nẵng 2006, 2012 [13] ,[16].
Bảng 3.4 cho thấy, trong các ngành kinh tế thì ngành công nghiệp chế
biến và ngành thương mại có lực lượng lao động lớn nhất (chiếm lần lượt
20,1%, 20% tổng lao động). Lực lượng lao động trong lĩnh vực tài chính,
ngân hàng tăng vượt bậc trong những năm gần đây và đạt khoảng 5,4% tổng
số lao động trong các ngành.
Theo kết quả điều tra từ hơn 500 lao động tại các doanh nghiệp của
PGS.TS. Võ Xuân Tiến và các cộng sự (2008), trình độ đào tạo của người lao
92
động trong các ngành kinh tế - kỹ thuật và ngành CN cao khá khác biệt, cụ
thể: ngành kinh tế biển có tỷ lệ lao động phổ thông rất cao (80,6%), ngược lại
ngành tài chính - ngân hàng có đội ngũ nhân lực tốt nhất với 87% có trình độ
cao đẳng trở lên và chỉ có 4,3% là lao động phổ thông; kế đến là ngành CN
thông tin, với 46,4% có trình độ cao đẳng trở lên, 12,3% là lao động phổ
thông; ngành du lịch thì có cơ cấu trình độ khá đồng đều, lao động phổ thông
chiếm 31,7%, lao động qua đào tạo nghề hoặc có trình độ trung cấp chiếm
35,2%, lao động có trình độ cao đẳng trở lên chiếm 33,2%. Đặc biệt, nguồn
nhân lực có trình độ trên đại học chủ yếu phân bổ ở các ngành vật liệu mới,
lĩnh vực CN thông tin và nhiều nhất là trong các doanh nghiệp tự động hóa.
Qua phân tích, luận án nhận thấy trong mấy năm gần đây lao động
trong nhóm ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản liên tục giảm cả về số lượng
tuyệt đối, cả về tỷ trọng, lao động trong các ngành dịch vụ tăng lên cả về số
lượng tuyệt đối và cả về tỷ trọng trong tổng số. Điều này cho thấy cơ cấu lao
động của thành phố đang chuyển dịch phù hợp với cơ cấu phát triển kinh tế,
và quá trình CNH, HĐH. Trong khu vực dịch vụ, thương mại được xem là
phân ngành tạo việc làm lớn nhất tiếp đó là khách sạn, nhà hàng rồi đến vận
tải kho bãi, thông tin liên lạc.
3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆNĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.3.1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất: Phát triển các khu công nghiệp, khu CN cao
Năm 1997 chỉ 2 có khu công nghiệp (KCN) thì đến nay thành phố đã
đầu tư tương đối hoàn chỉnh 6 khu công nghiệp với tổng diện tích là 1.160,18
ha. Hiện thành phố còn đang đầu tư xây dựng thêm khu CN cao và khu CN
thông tin tập trung
Tính đến tháng 10 năm 2013, các KCN trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
đã thu hút được 373 dự án đầu tư, trong đó có 276 dự án đầu tư trong nước
93
với tổng vốn đầu tư trên 12.482 tỷ đồng và 87 dự án có vốn đầu tư nước ngoài
với tổng số vốn 1013,45 triệu USD. Năm 2012 giá trị sản xuất của các KCN
đạt 15.429,9 tỷ đồng, chiếm 35,7% giá trị sản xuất công nghiệp toàn thành
phố; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của các KCN đạt 536,39 triệu USD,
chiếm 59,4% so với giá trị kim ngạch xuất khẩu của thành phố. Các KCN đã
giải quyết việc làm cho khoảng 64 nghìn lao động phổ thông [124].
Bảng 3.5: Diện tích quy hoạch và lĩnh vực đầu tư tại các khu Công
nghiệp của thành phố Đà Nẵng
TT Khu công nghiệpDiện tích
quy hoạch (ha)Lĩnh vực đầu tư
1 Khu CN cao Đà Nẵng 1,010.90- Công nghiệp CN cao- Dịch vụ CN cao
2 Khu CN thông tin tập trung 131.00
3 Khu Công nghiệp Đà Nẵng 50.00
- Cơ khí lắp ráp- Công nghịêp hóa chất, nhựa, sản phẩm
sau hóa dầu- Chế biến nông, lâm, hải sản- Sản xuất giấy và bao bì- Sản xuất vật liệu xây dựng
4Khu Công nghiệp HòaKhánh
395.72
- Cơ khí lắp ráp, điện tử, may mặc- Sản phẩm sau hóa dầu: bao bì, nhựa- Chế biến nông, lâm, hải sản- Vật liệu xây dựng cao cấp với quy mô
trung bình và nhỏ
5 Khu dịch vụ Thủy sản 57.90- Công nghiệp chế biến thủy sản- Dịch vụ hậu cần cảng cá.
6Khu Công nghiệp HòaKhánh mở rộng
212.12
- Cơ khí lắp ráp- Công nghịêp hóa chất, nhựa, sản phẩm
sau hóa dầu- Chế biến nông, lâm, hải sản- Sản xuất giấy và bao bì- Sản xuất vật lịêu xây dựng
7Khu Công nghiệp LiênChiểu
307.71
- Công nghiệp nặng- Công nghiệp chế tạo- Công nghiệp hóa chất- Sản xuất vật liệu xây dựng- Kho ngoại quan
8 Khu Công nghiệp Hòa Cầm 136.73
Nguồn: Ban Quản lý các KCN&CX Đà Nẵng, IPC Đà Nẵng [125].
94
Với số liệu nêu trên phải khẳng định rằng quá trình hình thành và phát
triển các KCN trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã góp phần không nhỏ vào
việc thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển, tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng CNH, HĐH,
góp phần giải quyết nhu cầu việc làm cho một bộ phận lao động tại thành phố
Đà Nẵng cũng như các tỉnh lân cận.
Thứ hai, Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Là một trong 5 tỉnh, thành thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền Trung,
đóng vai trò hạt nhân tăng trưởng, tạo động lực thúc đẩy phát triển cho cả khu
vực. Đà Nẵng xác định tăng trưởng kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu,
không chỉ do xuất phát điểm của thành phố thấp mà tăng trưởng nhanh để
sớm đưa thành phố trở thành một thành phố hiện đại.
Nguồn: Niên giám thống kê Đà Nẵng 2006, 2012 [13], [16].
Hình 3.2: Giá trị sản lượng và tốc độ tăng trưởng kinh tế
của thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 đến nay
95
Tổng sản phẩm trong nước GDP của thành phố năm 2001 theo giá so
sánh năm 1994 là 3804,94 tỷ đồng, đến năm 2012 là 13.957 tỷ đồng tăng
3,7 lần, bình quân đạt 11,2% năm, so với bình quân cả nước là 6,92%/năm.
Với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong giai đoạn 2001 - 2012 nêu
trên, Đà Nẵng trở thành một trong những địa phương có tốc độ tăng trưởng
kinh tế khá cao trong cả nước, thật sự ấn tượng và đáng tự hào. Để duy trì
tốc độ tăng trưởng cao ở mức hợp lý và bền vững trong dài hạn, Đà Nẵng
đã gắn tăng thu nhập với tăng chất lượng cuộc sống, phấn đấu đến năm
2015 giảm hết 32.790 hộ nghèo theo chuẩn mới. Năm 2001, tổng vốn đầu
tư phát triển xã hội chỉ trên 2.527,55 tỷ đồng, đến năm 2013, con số này đã
lên trên 26.516 tỷ đồng, trở thành yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tăng
trưởng của nền kinh tế trong nhiều năm. Kim ngạch xuất nhập khẩu của
thành phố tăng cao gấp 28 lần, từ dưới 642 triệu USD năm 2001 lên mức
1.783,73 triệu USD năm 2012.
Thứ ba: Ứng dụng CN thông tin có những bước phát triển mới
Hạ tầng CN thông tin -truyền thông tại thành phố Đà Nẵng được mở
rộng theo hướng dịch vụ đa dạng, phong phú với chất lượng ngày càng cao
tạo nền tảng cho công tác xây dựng chính quyền điện tử. Hầu hết các cơ
quan thuộc thành phố, các quận, huyện và các doanh nghiệp đều đã được
trang bị máy vi tính và ứng dụng vào các hoạt động tác nghiệp hàng ngày.
Hệ thống mạng giữa các cơ quan hành chính và mạng Internet về cơ bản đã
được kết nối, hỗ trợ rất nhiều cho công tác chỉ đạo cũng như việc điều hành
tác nghiệp của lãnh đạo thành phố cũng như các sở, ban, ngành, quận,
huyện, góp phần tãng cýờng ứng dụng CN thông tin trong hoạt động quản lý
Nhà nước. Nguồn nhân lực CN thông tin trong cơ quan nhà nước tăng đáng
kể, cả về số lượng lãnh đạo cũng như số lượng cán bộ chuyên trách đạt chất
lượng. Toàn thành phố có hơn 70/% cán bộ chuyên viên sử dụng máy tính để
96
phục vụ công tác chuyên môn.
Thứ tư: Du lịch Đà Nẵng đã đạt được kết quả khả quan.
Lượng khách du lịch tăng nhanh và ổn định với tốc độ tăng trưởng bình
quân giai đoạn 2006-2010 đạt 22%; trong đó khách quốc tế tăng bình quân
10%/năm, khách nội địa tăng bình quân 27%/năm. Thu nhập xã hội từ hoạt
động du lịch tăng bình quân 28% và đạt 3097 tỷ đồng năm 2010. Năm 2013
tổng lượng khách du lịch đạt 3,1 triệu lượt, tăng 17,2% so với năm 2012;
trong đó khách quốc tế 743.000 lượt, tăng 17,8% so với cùng kỳ; khách nội
địa 2.347.000 lượt, tăng 17% so với năm 2012. Doanh thu từ du lịch năm
2001 là 305,22 tỷ đồng, năm 2012 đạt 7.784,1 tỷ đồng tăng 25,5 lần [100].
Điều này cho thấy chính quyền thành phố đã có những nỗ lực nhất định trong
việc quy hoạch phát triển du lịch, thu hút các dự án, đa dạng hóa và nâng cao
chất lượng sản phẩm du lịch, đảm bảo môi trường du lịch.
Thứ năm: Số lượng dự án đầu tư trong và ngoài nước được thu hút vào
các các mục tiêu phát triển của Thành phố ngày càng tăng
Thu hút vốn FDI đóng góp không nhỏ trong tiến trình CNH, HĐH của
thành phố. Theo thống kê của Trung tâm xúc tiến đầu tư, Đà Nẵng hiện đang
thu hút hàng trăm nhà đầu tư nước ngoài đến từ 30 quốc gia và vùng lãnh thổ,
đầu tư vào 18 ngành trong hệ thống kinh tế quốc dân. Ước tính, đến cuối năm
2013, Đà Nẵng thu hút 278 dự án FDI với vốn đầu tư gần 4 tỉ USD, trong đó
tập trung nhiều ở lĩnh vực, như: kinh doanh bất động sản, công nghiệp chế
biến, chế tạo, giáo dục, dệt may, y tế, CN thông tin... Biểu đồ dưới đây cho
thấy đến 55% vốn đầu tư tập trung vào bất động sản và du lịch, đây là lĩnh
vực đem lại nhiều lợi nhuận cho nhà đầu tư và đóng góp không nhỏ cải thiện
bộ mặt của thành phố. Tiếp đến là công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 15%
tổng vốn đầu tư, điều này cho thấy thành phố đã có những bước đi đầu tiên
thuận lợi cho định hướng phát triển các ngành CN cao.
97
Nguồn: Trung tâm xúc tiến đầu tư Đà Nẵng [124].
Hình 3.3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng theo ngành
(tính đến 10-2013)
Thu hút FDI vào thành phố đang có xu hướng tập trung vào 2 nhóm
ngành chính là dịch vụ và công nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp thân
thiện với môi trường, CN cao phù hợp với định hướng phát triển thành phố
môi trường vào năm 2020.
Thứ sáu: Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao
Thành phố đã có rất nhiều chủ trương, chính sách thu hút nguồn nhân
lực chất lượng cao ở các lĩnh vực: CN thông tin, CN sinh học, CN môi
trường, xây dựng, kiến trúc, y tế, tài chính, luật, kinh tế đối ngoại… Đối
tượng thu hút là giáo sư, phó giáo sư; người tốt nghiệp đại học, sau đại học;
nghệ nhân; người có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, quản lý giỏi… Theo
báo cáo của Ủy ban nhân dân thành phố từ năm 2001 đến nay, số "nhân tài"
mà thành phố thu hút được là 1044 đối tượng gồm: 1 phó giáo sư, 13 tiến sĩ,
224 thạc sĩ, 806 cử nhân - kỹ sư loại khá, giỏi.
Thực hiện mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự
phát triển của thành phố, từ năm 2005, Đà Nẵng đã triển khai hai chương
trình lớn là "Dự án hỗ trợ đào tạo bậc đại học tại các cơ sở giáo dục trong
nước và nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước dành cho học sinh các trường
98
trung học phổ thông trên địa bàn Đà Nẵng" (Đề án 47) và "Phát triển Nguồn
nhân chất lượng cao" (Đề án 922). Thực hiện Đề án này, mỗi năm thành phố
đã chi hơn 50 tỷ đồng cho công tác đào tạo, tất cả các học viên tham gia đều
được cấp 100% kinh phí. Tính đến nay, có 472 học viên tham gia đề án 922,
trong đó 376 học viên theo học đại học, 96 học viên học sau đại học gồm 19
tiến sỹ và 77 thạc sỹ [119]. Với lợi thế là thành phố chiến lược trong giáo dục,
đào tạo của khu vực miền Trung, Đà Nẵng đã và đang lát những viên gạch
đầu tiên đầy vững chắc cho công tác cán bộ.
3.3.2. Những hạn chế, bất cập trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phốĐà Nẵng thời gian qua và nguyên nhân
3.3.2.1. Những hạn chế và bất cập
- Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và thiếu đồng bộ. Trong
nội bộ mỗi nhóm ngành, sự chuyển dịch cơ cấu vẫn còn chậm, cụ thể như sau:
Ngành Công nghiệp: Công nghiệp điện - điện tử - tin học nói riêng và
những ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật - CN cao phát triển còn
chậm, chưa có đóng góp lớn cho tăng trưởng chung của toàn ngành công
nghiệp. Do còn phụ thuộc khá lớn vào nguyên liệu nhập khẩu hoặc mua từ
các địa phương khác, công nghiệp phụ trợ còn quá nhỏ bé, phát triển tự phát,
chưa được định hướng quy hoạch. Công nghiệp chủ yếu vẫn là gia công, sơ
chế, giá trị gia tăng ít.. Khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng
chưa nhiều, chưa khai thác hết tiềm năng, quy mô công nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài vẫn còn nhỏ so với toàn ngành.
Hiện tại, thành phố không có ngành công nghiệp nào được coi là ngành
công nghiệp chính, công nghiệp phụ trợ là những ngành sản xuất phục vụ cho
các nhu cầu phát triển bình thường của địa phương tuy đa dạng mọi ngành
nghề, quy mô sản xuất vừa phải nhưng còn yếu. Do hạn chế về vốn, đội ngũ
công nhân phải được đào tạo sau nhiều năm kinh nghiệm mới làm tốt… nên ít
99
người đầu tư. Ví dụ một chiếc xe ô tô mới sản xuất, trong quá trình vận hành
phải duy tu, bảo dưỡng…các quá trình này được thực hiện trong các cơ sở sửa
chữa ô tô, nhưng ở Đà Nẵng không nhiều nhất là những cơ sở dịch vụ. Đối
với ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo ngành chủ lực của quá trình CNH,
HĐH còn yếu, chưa có nhà máy chế tạo thiết bị máy móc lớn phục vụ công
nghiệp tại địa phương.
Nông nghiệp: kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn nhiều yếu
kém, chưa tạo động lực để đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Chưa phát huy lợi thế so sánh để tập trung phát triển sản xuất theo hướng
hàng hoá, nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế. Sản
xuất nông nghiệp còn quy mô nhỏ, chưa tạo lượng sản phẩm nông sản hàng
hoá lớn; các vùng chuyên canh rau, hoa chậm phát huy hiệu quả, chưa gắn
giữa sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Năng lực khai thác hải sản còn ở trình độ
thấp, qui mô nhỏ; các hộ ngư dân chưa có phối hợp, hỗ trợ nhau trong sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm. Công tác bảo quản sản phẩm sau khai thác chưa
được tập trung chú trọng. Cơ cấu tàu thuyền chưa hợp lý, số lượng tàu thuyền
công suất nhỏ vẫn chiếm tỷ trọng lớn, việc chuyển đổi nghề, nâng cấp tàu
thuyền còn chậm, chưa đảm bảo được yêu cầu phát triển sản xuất gắn với bảo
vệ nguồn lợi thuỷ sản.
Dịch vụ, du lịch vốn được xem là ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố
tuy nhiên vẫn chưa phát huy được tiềm năng thế mạnh. Vẫn còn tình trạng yếu
kém về cơ sở vật chất và phương thức hoạt động, các loại hình dịch vụ khác
như tài chính, ngân hàng, tư vấn, bảo hiểm chưa phát triển. Chưa thu hút được
dòng khách có khả năng chi trả cao, mức chi tiêu trung bình của du khách đạt
thấp. Thời gian lưu lại của du khách tại Đà Nẵng là tương đối ngắn. Trình độ
lao động hoạt động trong lĩnh vực du lịch còn chưa đáp ứng được nhu cầu của
thị trường. Đội ngũ cán bộ quản lý cũng còn thiếu kiến thức chuyên sâu lẫn
kinh nghiệm hoạt động du lịch trong bối cảnh Hội nhập kinh tế quốc tế.
100
- Trình độ kỹ thuật, CN của các ngành kinh tế còn nhiều yếu tố lạc hậu.
Trình độ CN của đa số doanh nghiệp ở mức thấp; mức độ lạc hậu về CN so
với Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh từ 1-2 thế hệ, đặc biệt ở một số ngành
lĩnh vực như: đóng sửa tàu thuyền, hóa chất, dược phẩm, cơ khí chế tạo. Thiết
bị sử dụng ở nhiều doanh nghiệp đã quá cũ, thậm chí có thiết bị đã sử dụng
trên 30 năm. Hệ số hao mòn hữu hình lớn, bình quân 45,9%. Có rất ít dây
chuyền thiết bị mới được đầu tư một cách đồng bộ.
Một cuộc khảo sát về thực trạng sử dụng CN trong 100 doanh nghiệp
hoạt động trên địa bàn TP. Đà Nẵng của Sở Khoa học và CN cho thấy, 76%
số doanh nghiệp đang sử dụng CN từ những năm 1990 trở về trước, 60% ở
những năm 1990 và 48% doanh nghiệp sử dụng CN sau năm 2000, tập trung
nhiều nhất trong lĩnh vực điện tử, viễn thông… So với nhu cầu phát triển của
thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực KH &CN, đây là những con số đáng báo
động cho thấy CN mà các doanh nghiệp đang sử dụng là quá lạc hậu, chỉ ở
mức trung bình so với thế giới. Bảng sau đây cho thấy trình độ CN của một số
ngành công nghiệp như sau:
Bảng 3.6: Trình độ CN của các ngành công nghiệp Đà Nẵng
Lĩnh vực sản xuất
Hệ sốđổi mới CN
(Kđm%)
Tỷ trọng thiếtbị hiện đại
(Ihđ%)
Tỷ trọng cơ khíhóa - tự độnghóa (Kck%)
Hao mònhữu hình
(h%)In 12,74 92,28 61,18 36,82Nhựa 12,09 58,06 71,28 83,94Chế biến th.phẩm 0,00 21,94 13,49 48,80Dệt - may - giầy 17,38 56,50 75,00 40,00Xây dựng 12,98 39,70 58,10 50,25Chế biến thủy sản 27,69 93,17 4,91 38,58Cơ khí 25,45 70,57 72,38 34,88Đóng tàu 10,78 0,00 47,48 52,24Giấy 34,37 0,00 0,00 61,17Hóa chất - dược 1,69 0,00 62,86 186,76Trung bình 15,90 61,74 51,85 63,30
Nguồn: Số liệu được tác giả tính toán từ nguồn của Sở Kế hoạch và Đầu tư
Đà Nẵng, 2006 [120]
101
Qua bảng trên ta thấy tình hình CN sản xuất của các ngành công nghiệp
của thành phố nhìn chung đang ở trình độ thấp, lạc hậu với tỷ trọng thiết bị
hiện đại mới ở mức 61% và nhiều ngành công nghiệp không có thiết bị hiện
đại. Hơn nữa hệ số hao mòn hữu hình đến 63,3%/năm, nhưng tốc độ đổi mới
chỉ 15,9%/năm đã làm giảm hiệu quả của ngành công nghiệp Đà Nẵng. Nhiều
cơ sở khu vực dân doanh còn sử dụng thiết bị cũ, lạc hậu; nhiều sản phẩm
chưa có thương hiệu hoặc thương hiệu chưa có uy tín, sức cạnh tranh thấp.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp chưa cao.
- Các lĩnh vực CN và dịch vụ dựa vào tri thức còn ít. Chưa tạo ra được
các sản phẩm CN cao.
Ngoài CN thông tin - truyền thông, CN năng lượng, CN sinh học, Đà
Nẵng đã áp dụng một số CN mới, CN tiên tiến để tạo ra sản phẩm chứa hàm
lượng tri thức cao phục vụ cho sản xuất và nhu cầu tiêu dùng. Tuy nhiên
những sản phẩm này rất ít, có thể nói là mới được ứng dụng ở Đà Nẵng, chỉ ở
dạng sơ khai, chủ yếu là sử dụng lại những quy trình, CN đã được nghiên cứu.
Còn hầu hết các lĩnh vực CN khác có thể nói là chưa phát triển như CN vật
liệu, CN chế tạo…mới chỉ là ở trong xây dựng kế hoạch, thu hút đầu tư. Vì
thực tế Đà Nẵng đang trong quá trình triển khai xây dựng dự án khu CN cao,
khu CN phần mềm… nên các sản phẩm CN cao chưa được tạo ra. Hy vọng
rằng trong tương lai Đà Nẵng sẽ nghiên cứu những quy trình CN mới, tạo ra
những sản phẩm CN cao xuất khẩu ra thị trường quốc tế.
- Nguồn nhân lực còn thiếu và yếu
Cơ cấu nhân lực của thành phố chưa thật hợp lý, sự phân bố nhân lực
giữa thành thị và nông thôn, giữa các ngành, các địa phương chưa đồng đều,
tình trạng thừa, thiếu nhân lực chưa được khắc phục. Đa số lao động có trình
độ chuyên môn cao ở Đà Nẵng lại đi tìm việc làm ở các tỉnh phía Nam, đặc
biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh, nơi có thu nhập cao hơn và có nhiều cơ hội
tìm được việc làm phù hợp. Do vậy, thành phố vẫn thiếu lao động lành nghề,
102
lao động có trình độ cao, có khả năng ngoại ngữ tốt và thiếu nhân sự quản lý.
Các nhà đầu tư nước ngoài gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển dụng công nhân
có trình độ tay nghề, nhất là trong các lĩnh vực cơ khí, chế tạo và điện công
nghiệp. Để có thể đáp ứng yêu cầu công việc, các doanh nghiệp thường phải đào
tạo lại hoặc thuê lao động từ nơi khác đến. Điều này có thể gây ảnh hưởng xấu
đến chất lượng và tiến độ công việc cũng như tăng chi phí về lao động.
Trên thị trường lao động đang thiếu các chuyên gia giỏi, nhất là trong
các lĩnh vực CN cao, quản trị doanh nghiệp, thiếu cán bộ đầu đàn có khả năng
hoạch định chính sách, các lập trình viên, kỹ thuật viên, các nhà quản lý am
hiểu về tài chính và tiếp thị với yêu cầu cơ bản về tiếng Anh, kỹ năng làm
việc, ham học hỏi…Với thực trạng như vậy, rất khó có thể hình thành một xã
hội học tập và một đội ngũ đông đảo các lao động tri thức.
Thực tế nguồn nhân lực ở Đà Nẵng hiện nay cho thấy, có hàng ngàn cử
nhân làm công nhân tại một doanh nghiệp với một lý do rất đơn giản đó là
không xin được việc làm sau khi học xong đại học. Điều này cho thấy ở Đà
Nẵng đang tồn tại thực trạng cử nhân, kỹ sư dôi thừa, thất nghiệp, nhưng cần
lao động nghề thì tuyển không ra. Đây quả thực là một sự lãng phí tiền của
cho bản thân người lao động, gia đình và cả xã hội.
3.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trên
- Nguyên nhân khách quan
Tình hình kinh tế, chính trị thế giới bất ổn định, những biến động bất
lợi của kinh tế như khủng hoảng tài chính: giá dầu, nguyên liệu tăng cao,
đồng đô la Mỹ biến động, giá vàng tăng giảm bất thường, dẫn tới tình trạng
lạm phát gía cả tiêu dùng, lãi suất cho vay duy trì ở mức khá cao, tình trạng
thiếu điện phục vụ sản xuất đã ảnh hưởng không nhỏ đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh và đầu tư công nghiệp, nhiều doanh nghiệp trong nước và ở
thành phố Đà Nẵng phải tạm ngừng sản xuất không có thời hạn, cắt giảm lao
động, giải thể...
103
Bên cạnh đó, kỹ thuật, CN đang là yếu tố năng động ảnh hưởng ngày
càng lớn đến tiêu thụ, sự gia tăng trong nghiên cứu, ứng dụng CN khoa học
vào thực tiễn sản xuất. Nó có tác động nhanh chóng và sâu sắc đến khả năng
cạnh tranh, chất lượng và giá thành sản phẩm. Do đó đòi hỏi các doanh
nghiệp phải quan tâm, phân tích kỹ lưỡng tác động này để ứng dụng ngày
càng tốt hơn trong sản xuất kinh doanh.
Ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2000 đến nay là giai đoạn quá trình đô thị
hóa và chỉnh trang đô thị tại Thành phố diễn ra mạnh mẽ, nhiều cơ sở công
nghiệp nằm trong khu dân cư, ngoài khu công nghiệp đều phải di dời. Việc
quy hoạch xây dựng và phát triển các cụm công nghiệp theo từng địa bàn
quận huyện không thực hiện được như quy hoạch cũ đã dự kiến, dẫn đến khó
khăn trong việc tập trung bố trí lại mặt bằng sản xuất cho các doanh nghiệp,
nhất là đối với doanh nghiệp nhỏ vừa và nhỏ.
Quá trình đô thị hóa còn ảnh hưởng đến sự phát sinh về lao động do
chuyển đổi ngành, nghề, di dời, giải tỏa, lao động di chuyển đến...và tác động
đến đời sống người dân.
Do thiếu các ngành công nghiệp phụ trợ nên so với một số địa phương
khác ở Việt Nam, chi phí cho các yếu tố đầu vào phục vụ sản xuất kinh doanh
ở Đà Nẵng thường cao hơn vì phải nhập khẩu nguyên liệu, phụ liệu, máy móc
hoặc phải thu mua từ các thành phố lớn ở miền Bắc, miền Nam.
Ngoài ra trong giai đoạn này, sản xuất kinh doanh của thành phố còn bị
ảnh hưởng bởi các đại dịch như dịch SARS, dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm
long móng ở gia súc, nhất là thiệt hại lớn do bão Xangsan (bão số 6, cấp 14)
gây ra vào tháng 10 - 2006, sau bão ngành công nghiệp ước tính thiệt hại vật
chất lên đến 500 tỷ đồng, chủ yếu do hư hại nhà xưởng, kho chứa nguyên
liệu, bán thành phẩm. Diễn biến thời tiết thất thường, số cơn bão mạnh ngày
càng tăng, tình hình nắng nóng, khô hạn, lũ lụt diễn biến khó lường ảnh
hưởng nặng nề đến hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, du lịch,
104
dịch vụ... Sự gia tăng cường độ và tần suất của thiên nhiên đã tác động đến
mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội thành phố.
-Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất: Nhận thức của cán bộ và người dân chưa theo hợp yêu cầu
đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Nghị quyết 33-NQ/TW là văn kiện quan trọng của Bộ Chính trị trực
tiếp đối với thành phố Đà Nẵng. Tuy vậy, việc nhận thức quán triệt Nghị
quyết 33 - NQ/TW với xây dựng chương trình hành động, kế hoạch triển khai
thực hiện của các sở, ban ngành, địa phương, đơn vị, từng cộng đồng dân cư
và của cá nhân mỗi cán bộ đảng viên chưa thật sự tạo chuyển biến thật sự
mạnh mẽ trong toàn thành phố trên tất cả các lĩnh vực. Vẫn còn một bộ phận
cán bộ, công chức chưa nắm bắt kỹ Nghị quyết, chủ trương, chỉ thị của Thành
phố, trình độ, năng lực còn hạn chế, chưa theo kịp với xu thế hội nhập khu
vực và thế giới nên khi giải đáp thắc mắc của người dân và doanh nghiệp còn
lúng túng. Một số người dân chưa nắm bắt kịp thông tin mới nhất là ở những
vùng sâu, miền núi, ngay cả những người dân sống ở thành phố nhiều người
còn chưa biết tới thế nào là "kinh tế tri thức", kỹ thuật tiên tiến... Do vậy trong
hoạt động sản xuất kinh doanh họ thường làm theo lối truyền thống, chưa tiếp
cận CN mới... nên kinh doanh thường kém hiệu quả, sản phẩm làm ra chỉ tiêu
thụ, trong một vùng, địa phương họ đang sống.
Thứ hai: Tổ chức, thực hiện CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri
thức còn nhiều lúng túng
Trên cơ sở quán triệt sâu sắc Nghị quyết 33-NQ/TW của Bộ Chính trị,
Đảng bộ thành phố ban hành Chương trình hành động của Thành ủy tổ chức
thực hiện, tới các sở, ngành, cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Đồng thời xây dựng Kế hoạch thực hiện phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ
thể của ngành, địa phương, đơn vị mình kế hoạch thực hiện phải cụ thể, thiết
thực, xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp. Tuy nhiên trong quá trình tổ
105
chức, thực hiện, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, doanh nghiệp thiếu
đồng bộ, chặt chẽ nên hiệu lực quản lý chưa cao; các quy hoạch ngành chưa
được tổ chức thực hiện tốt nên chưa có tác động nhiều đến định hướng đầu tư
của doanh nghiệp. Nhiều địa phương, đơn vị, đợi đến khi có văn bản nhắc nhở
mới thực hiện việc triển khai, thực hiện chậm, hiệu quả thấp. Bản thân các
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố nhìn chung chưa thật sự năng động, nhạy
bén trong việc tìm hướng đi mới trong sản xuất kinh doanh nhằm đạt được
hiệu quả cao hơn và phát triển lớn hơn về quy mô.
Định hướng phát triển kinh tế xã hội của thành phố gần đây có sự thay
đổi, đầu tư phát triển Công nghiệp ít được ưu tiên hơn so với các ngành du
lịch, dịch vụ tài chính công, CN thông tin. Điều này cho thấy sự phát triển
chưa thật sự cân bằng.
Thứ ba:Tiềm lực khoa học và CN, đổi mới CN còn yếu.
Chưa coi KH&CN là giải pháp thúc đẩy hoạt động của ngành, địa
phương và doanh nghiệp; do vậy, chưa có sự quan tâm thoả đáng đối với hoạt
động này. Chưa tạo nhu cầu thực sự đối với KH&CN. Chưa thực sự coi đầu
tư cho KH&CN là đầu tư cho phát triển. Đầu tư cho công tác nghiên cứu
KH&CN chưa đến 'ngưỡng' do thiếu các cơ chế, chính sách hỗ trợ đưa kết
quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống, đổi mới CN.
Cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động KH& CN còn nhiều bất cấp,
đặc biệt là việc quy định giá trị công lao động chất xám, các chế độ chi tiêu,
thủ tục thanh quyết toán.
Đối với nhiều doanh nghiệp, ứng dụng tiến bộ KH& CN chưa trở thành
nhu cầu bức thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh. Do vậy, đã không tạo nên
được yêu cầu đối với khu vực nghiên cứu để sáng tạo và phát triển CN. Các
trường đại học trên địa bàn thực sự chưa vào cuộc để đóng vai trò là 'người
cung cấp chính' trên thị trường KH&CN của thành phố.
Thiếu chiến lược qui hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ KH& CN.
106
Chưa có cơ chế, qui định về việc huy động, tập hợp lực lượng KH& CN trên
địa bàn, tinh thần cộng tác trong nghiên cứu KH& CN chưa cao.
Thứ tư: Chưa phát huy tốt động lực đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức. Thể hiện:
- Sự mất cân đối trong đầu tư phát triển
Trong những năm qua, thành phố Đà Nẵng đã phát triển rất mạnh về hạ
tầng, du lịch và bất động sản, điều này đã làm thay đổi diện mạo của thành
phố. Tuy nhiên lại không chú trọng đầu tư phát triển các ngành khác nên tỷ
trọng nguồn lực cũng như nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào bất
động sản và du lịch đã làm mất cân đối với các ngành khác điều này cho thấy
thành phố chưa thật sự thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động sản xuất công nghiệp và
tiềm năng hiện có. Một ví dụ về chi ngân sách 2010 cho thấy: tổng thu ngân
sách địa phương là 12.803.754 triệu đồng, trong đó chi đầu tư phát triển năm
2010 là 8.185.612 triệu đồng mà chủ yếu chi xây dựng cơ bản 8.028.249 triệu
đồng chiếm 62,7%; chi sự nghiệp giáo dục và dạy nghề 779.398 triệu đồng
chiếm 6,1%; chi sự nghiệp KH&CN: 24.387 triệu đồng chiếm 0,19% [42].
Việc đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở là điều kiện cần thiết vì đây cũng là một
yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư, nhưng chỉ xây dựng "hạ tầng
cứng" mà không quan tâm nhiều đến "hạ tầng mềm": nguồn nhân lực chất
lượng cao, sản xuất, khoa học và CN thì khó có thể đạt được sự tăng trưởng
bền vững.
- Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, bất cập trước yêu cầu CNH,
HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Cơ cấu đào tạo lao động còn bất hợp lý và chậm thay đổi. Năm 1997 cơ
cấu đào tạo (Cao đẳng, Đại học - Trung cấp - Công nhân kỹ thuật) là : 1 - 0,5
- 1,1; năm 2000 là 1 - 0,5 - 1,2; năm 2005 là 1 - 0,5 - 1,7 và năm 2012 còn 1 -
0,3 - 0,2. Cơ cấu này cho thấy Đà Nẵng đang trong tình trạng thiếu đội ngũ
công nhân kỹ thuật lành nghề, đã qua đào tạo bài bản. Các ngành dịch vụ giá
107
trị gia tăng cao và những ngành CN cao thì chưa có nguồn cung lao động chất
lượng cao.
Số lượng, chất lượng nguồn nhân lực tăng nhanh nhưng nhìn chung
không đều qua từng năm và chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển của
thành phố. So với dân số Đà Nẵng thì hàng năm ngành Giáo dục - đào tạo, tạo
ra số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao còn ít, mối liên hệ giữa cơ sở đào
tạo và người sử dụng lao động chưa được xây dựng và duy trì hiệu quả.
Cơ cấu đội ngũ trí thức cũng chưa đồng bộ, có sự mất cân đối trong tỉ
lệ trí thức giữa các nhóm ngành; sự liên kết giữa trí thức đang công tác tại các
cơ sở đào tạo với các tổ chức nghiên cứu và các doanh nghiệp còn yếu; chất
lượng các đề tài nghiên cứu còn thấp, hiệu quả ứng dụng còn hạn chế; một số
nội dung tư vấn chưa sắc sảo, phần đông thiếu mạnh dạn phản biện, hiến kế,
đề xuất cho lãnh đạo Thành phố về các kế sách phát triển. So với thành phố
lớn khác trong nước đội ngũ lao động còn nhiều bất cập chưa đáp ứng yêu cầu
và phát triển nhanh nền kinh tế. Các tổ chức khoa học và CN (viện, trung tâm
nghiên cứu) trên địa bàn còn hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, nguồn lực
khoa học và CN yếu kém, bất cập (cả đội ngũ và cơ sở vật chất - kỹ thuật) nên
hoạt động nghiên cứu triển khai còn yếu, đặc biệt là nghiên cứu ứng dụng.
Kết quả thu hút nguồn nhân lực của thành phố còn mất cân đối ở một
số chỉ tiêu: chẳng hạn trong số đối tượng thu hút được, nữ giới chiếm tỷ lệ
61%; các đối tượng thu hút chủ yếu tốt nghiệp ở khu vực miền Trung hơn
65%; số lượng tốt nghiệp từ các cơ sở đạo tạo nước ngoài còn ít 3%. Về trình
độ chuyên môn, thì các đối tượng là cử nhân đại học chiếm số lượng lớn 83%,
khả năng thu hút các nhà nghiên cứu, chuyên gia đầu ngành còn hạn chế
[119]. Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu nhằm tìm kiếm giải pháp cải
thiện trong thời gian đến.
Chính sách chiêu hiền đãi sỹ kết quả mang lại chưa cao, đặc biệt là thu
hút những người mà tài năng tương xứng với bằng cấp và chức danh khoa
108
học. Thực tế, trong các đối tượng về Đà Nẵng theo chính sách đãi ngộ, vẫn có
người ra đi, chuyển công tác. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong
đó có môi trường làm việc cũng như sự nhận thức, mục tiêu của mỗi cá nhân.
Một nguyên nhân nữa trong quá trình tiếp nhận đội ngũ nguồn nhân lực chất
lượng cao là các lãnh đạo cơ sở không thực sự quan tâm trong việc tiếp nhận
và sử dụng họ. Có đơn vị đăng ký nhu cầu nhưng không đồng ý tiếp nhận đối
tượng thu hút khi cơ quan có thẩm quyền phân bổ về đơn vị, do tâm lý kỳ thị,
khiến cán bộ thuộc nguồn nhân lực cao được trên cử về dễ rơi vào tình trạng
bị cô lập, yếu thế - dẫn đến tình trạng lãng phí chất xám.
- Doanh nghiệp chưa mạnh dạn vay vốn để đầu tư sản xuất và đổi mới CN
Các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố có quy mô vừa và nhỏ hoạt
động dưới hai hình thức là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn.
Lý do mà các doanh nghiệp đưa ra là với số vốn điều lệ hạn chế, việc đầu tư
mua sắm, thay mới các CN là điều hết sức khó khăn nên các doanh nghiệp sử
dụng CN lạc hậu, máy móc, thiết bị sản xuất, dây chuyền CN cũ, thiếu đồng
bộ... Nếu có đầu tư thì chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trên tổng doanh thu mà theo
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp quy đinh, các doanh nghiệp được trích 10%
lợi nhuận trước thuế để đầu tư đổi mới CN. Không ít doanh nghiệp trong thời
điểm hiện tại do gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, sản phẩm tiêu thụ
chậm, hàng tồn kho tăng…các doanh nghiệp đang nỗ lực cứu mình nên ít
quan tâm đến đổi mới CN.
Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới CN, UBND thành phố Đà Nẵng đã
ban hành quyết định số 08/2012/QĐ-UBND. Điều kiện doanh nghiệp được hỗ
trợ bắt buộc phải thực hiện đổi mới, cải tiến CN thuộc các lĩnh vực điện, điện
tử, tự động hóa; CN thông tin, CN sinh học phục vụ nông nghiệp, nông thôn,
y dược; vật liệu mới...và phải trích lập quỹ Phát triển KH&CN. Nhưng từ khi
ban hành quyết định số lượng doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng ký xin hỗ trợ chỉ
vỏn vẹn đếm trên đầu ngón tay với lý do đưa ra đơn giản: các doanh nghiệp
109
thờ ơ với đổi mới CN, nhiều doanh nghiệp ngỡ ngàng với những chính sách
hỗ trợ đổi mới CN. Thậm chí có doanh nghiệp còn không biết làm thủ tục hồ
sơ đăng ký ở đâu ngoài ra với tâm lý nghĩ rằng để được nhận hỗ trợ thì thủ tục
hành chính chắc cũng phức tạp.
Thứ năm: Phát triển thị trường trong và ngoài nước còn nhiều khó khăn
Cơ cấu hàng xuất khẩu của thành phố đã thay đổi theo xu hướng nâng
dần tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến, có hàm lượng CN cao. Tuy
nhiên, danh mục các mặt hàng xuất khẩu nhìn chung chưa ổn định, chưa có
bạn hàng lớn, lâu dài; khâu thiết kế sản phẩm chưa đa dạng, hiệu quả sản xuất
kinh doanh chưa cao. Hiện nay, các mặt hàng da, giầy, dệt may bị cạnh tranh
mạnh trên các thị trường EU, Nhật, Mỹ; hàng thủy sản gặp khó khăn do
những quy định nghiêm ngặt (như dư lượng kháng sinh) của các nước nhập
khẩu nhất là Mỹ.
Do tính cục bộ, địa phương của các tỉnh miền Trung và Đà Nẵng nói
riêng ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp khi muốn đầu tư sản xuất
kinh doanh ở các vùng lân cận dẫn đễn sự kết nối giữa các tỉnh trong đầu tư
kinh doanh rất khó khăn. Ví dụ đơn giản, một hãng taxi ở Đà Nẵng mà ra Huế
thì người dân Huế cũng ít đi, trong khi các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
không có khoảng cách này.
110
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
4.1. DỰ BÁO VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ĐẾN NĂM 2020
4.1.1. Dự báo tình hình thế giới và trong nước có ảnh hưởng đến
việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức ở thành phố Đà Nẵng
Cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đang đẩy thế giới, trước hết là các
nước công nghiệp phát triển, ra khỏi nền kinh tế công nghiệp để bước vào nền
KTTT - một nền kinh tế dựa chủ yếu vào sự phát triển mọi tiềm năng chưa
từng thấy của con người. Trong nền kinh tế này, tuy người lao động vẫn là
chủ thể duy nhất tạo ra giá trị mới, nhưng việc sản xuất các mặt hàng chế tạo
đã chuyển sang ngày càng dựa vào tri thức, CN và nhân lực chất lượng cao
nhiều hơn là dựa vào số lượng công nhân trực tiếp sản xuất và lắp ráp sản
phẩm. Theo đà phát triển của KH&CN, các quốc gia đều tiến hành điều chỉnh
lại cơ cấu của các ngành theo hướng Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp và
theo hướng KTTT nhằm tạo độ thích nghi cao, tăng thế mạnh cạnh tranh quốc
gia trong khu vực và trên thế giới.
Dưới tác động của cách mạng KH&CN, thúc đẩy phân công lao động
ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu. Trong mấy thập kỷ gần đây, xu
hướng toàn cầu hóa kinh tế cũng diễn ra hết sức nhanh chóng. Toàn cầu hóa
kinh tế, đưa đến việc xuất khẩu hàng hoá, xuất khẩu tư bản dưới các hình thức
đầu tư trực tiếp, cho vay, viện trợ... từ các nước tư bản phát triển vào các nước
đang phát triển ngày càng tăng lên. Đồng thời, ngày càng nhiều những hàng
111
hóa và dịch vụ được nhập vào các nền kinh tế phát triển từ các nền kinh tế
đang phát triển là nơi giá nhân công và nguồn nguyên liệu rẻ hơn.
Bối cảnh của kinh tế thế giới đã và đang làm xuất hiện những thời cơ
mới cho sự phát triển nhảy vọt của nước đi sau, tiến hành CNH muộn như
Việt Nam. Gia nhập vào nền kinh tế thế giới Việt Nam, Đà Nẵng có điều kiện
thuận lợi để mở rộng thị trường xuất khẩu sang tất cả các nước; các doanh
nghiệp Đà Nẵng sẽ được cung ứng các loại dịch vụ trên thị trường của các
nền kinh tế tiên tiến và có cơ hội phát triển các sản phẩm có lợi thế của mình.
Qua hơn gần 30 năm đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu to
lớn, mở ra những triển vọng tốt đẹp để đạt mục tiêu cơ bản, hoàn thành sự
nghiệp CNH, HĐH vào năm 2020. Mô hình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã dần rõ nét, tạo cơ sở lý luận và thực tiễn quan
trọng để thành phố tiếp tục đi tiếp những chặng đường phát triển mới. Thể chế
kinh tế thị trường ở nước ta ngày càng hoàn thiện, môi trường đầu tư kinh
doanh ngày càng thông thoáng, minh bạch sẽ tạo động lực mới cho các nhà
đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào thành phố Đà Nẵng.
Từ bối cảnh trong và ngoài nước sẽ có ảnh hưởng tích cực đến tăng
trưởng xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, thu hút và đào tạo
nguồn nhân lực và chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH của
thành phố Đà Nẵng. Bên cạnh đó cũng có những thách thức: Sự suy thoái nền
kinh tế khu vực và thế giới hiện nay sẽ ảnh hưởng lớn đến phát triển chung
của kinh tế Đà Nẵng; Chịu sức ép cạnh tranh ngày càng mạnh hơn; Quá trình
hội nhập đòi hỏi năng lực đáp ứng yêu cầu của cán bộ quản lý nhà nước,
doanh nghiệp, cán bộ khoa học kỹ thuât và đội ngũ công nhân không ngừng
vươn lên để sớm hội nhập với nền kinh tế thế giới… Tình trạng suy thoái đạo
đức xã hội; Khó khăn về thiên tại, bệnh dịch; Giá cả, lạm phát gia tăng và
những yếu kém bất cập trong quản lý nhà nước đang là những thách thức
không nhỏ đối với thành phố khi bước vào thời kỳ mới. Vì vậy Đảng bộ,
112
chính quyền thành phố Đà Nẵng cần đề ra mục tiêu, phương hướng với những
bước đi vững chắc qua từng giai đoạn, để đẩy mạnh tiến trình CNH, HĐH gắn
với phát triển KTTT.
4.1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng đến năm 2020
- Mục tiêu phát triển
Trên cơ sở Nghị quyết 33-NQ/TW của Bộ Chính trị và mục tiêu đại hội
Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XX, Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà
Nẵng đã xác định phương hướng, mục tiêu tổng quát của 5 năm 2010 - 2015
và tầm nhìn đến năm 2020:
"Tiếp tục xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những
đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung
với vai trò là trung tâm Dịch vụ; là thành phố cảng biển, đầu mối
giao thông quan trọng về vận tải và trung chuyển hàng hóa trong
nước và quốc tế; trung tâm bưu chính viễn thông và tài chính - ngân
hàng; một trong những trung tâm y tế, văn hóa - thể thao, giáo dục
đào tạo và khoa học CN cao của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí
chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của khu vực miền
Trung và cả nước. Phấn đấu đến năm 2020, Đà Nẵng có quy mô dân
số không vượt quá 2 triệu người, trở thành một thành phố có môi
trường đô thị văn minh và giàu tính nhân văn, có thiên nhiên trong
lành và đời sống văn hóa cao, làm giàu bằng kinh tế tri thức; một
trong những thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố
hấp dẫn và đáng sống" [28, tr.180].
Để thực hiện tốt mục tiêu tổng quát trên, Đại hội cũng đã đưa ra 5 đột
phá về phát triển kinh tế - xã hội: Một là, phát triển các ngành dịch vụ, nhất là
dịch vụ du lịch và thương mại; Hai là, phát triển công nghiệp CN cao, công
nghiệp CN thông tin; Ba là, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại; Bốn
113
là, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh và thực thi các chính sách xã hội
giàu tính nhân văn; Năm là, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2020
- Tăng trưởng kinh tế: duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế 12-13% năm.
Đà Nẵng thực sự trở thành địa bàn có sức thúc đẩy phát triển kinh tế các vùng
phụ cận, là đầu mối tập trung các dịch vụ chất lượng cao của miền Trung.
- Cơ cấu kinh tế: chuyển đổi theo hướng Dịch vụ - Công nghiệp, xây
dựng - Nông nghiệp. Vào năm 2020, GDP ngành dịch vụ của Đà Nẵng sẽ
chiếm tỷ trọng 55,6%, công nghiệp và xây dựng là 42,8%, nông nghiệp là
1,6%. Tỷ trọng GDP của thành phố chiếm khoảng 2,8 % GDP cả nước (hiện
tại khoảng 1,6%). GDP bình quân đầu người đạt 4500- 5000 USD; Duy trì tỷ
trọng thu ngân sách so với GDP 35 - 36%; Tốc độ đổi mới CN bình quân
hàng năm 25% [111, tr 112].
Coi trọng bảo vệ môi trường sinh thái trong phát triển bền vững. Để
đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT, cần khai thác sử dụng nhiều
nguồn tài nguyên như: đất đai, nước ngầm, tài nguyên biển, du lịch…và các
dự án phát triển, trong quá trình thực hiện cũng sẽ tác động không nhỏ đến
môi trường. Do đó bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong ba
trục của Chiến lược phát triển bền vững; đầu tư cho bảo vệ môi trường phòng
chống thiên tai là đầu tư phát triển, phương châm là lấy phòng ngừa và hạn
chế tác động xấu đối với môi trường là chính, kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc
phục suy thoái để cải thiện môi trường.
- Những nhiệm vụ trọng tâm và phát triển các khâu đột phá đối với nền
kinh tế thành phố
+ Xây dựng Đà Nẵng trở thành 1 trong 3 trung tâm kinh tế của cả
nước: với việc phát triển các ngành kinh tế chủ yếu sau: i) Kinh tế hàng hải:
các lĩnh vực vận tải biển, cảng biển hàng hải và hỗ trợ; ii) Du lịch và dịch vụ
biển, ven biển: tham quan, du lịch biển, di tích lịch sử, cảnh quan, vui chơi
114
giải trí,...iii) Khai thác và chế biến hải sản: khai thác hải sản xa bờ, chế biến
xuất khẩu, dịch vụ hậu cần và bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản; iv) Xây
dựng các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất ven biển gắn với phát triển
các khu đô thị ven biển.
+ Tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại: Đầu tư, nâng cấp cả quy
mô và chất lượng của hệ thống Cảng; nâng cấp hệ thống giao thông đối ngoại
cả đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển; hiện đại hóa hệ thống thông
tin liên lạc; hoàn chỉnh mạng lưới cấp điện, cấp thoát nước, xử lý ô nhiễm
môi trường đáp ứng nhu cầu của một trung tâm kinh tế lớn hiện đại
+ Xây dựng Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm thương
mại, du lịch, tài chính - ngân hàng và dịch vụ lớn của Việt Nam: Xây dựng
Đà Nẵng trở thành trung tâm du lịch, gắn với tổng thể du lịch Huế - Đà Nẵng
- Quảng Nam - Tây Nguyên, trong mối quan hệ quốc gia và khu vực Đông
Nam Á. Đẩy mạnh xuất khẩu theo hướng xuất khẩu CN cao,công nghiệp phụ
trợ, công nghiệp chế biến; phát triển các loại hình dịch vụ xuất khẩu như: tạm
nhập tái xuất, kho ngoại quan và xuất khẩu tại chỗ…Thúc đẩy phát triển các
dịch vụ đáp ứng nhu cầu đời sống, dịch vụ chất lượng cao như dịch vụ: tài
chính, viễn thông, vận tải, giáo dục đào tạo và chăm sóc y tế chất lượng cao,
tư vấn, khoa học CN. Các ngành dịch vụ cơ bản như: thương mại, khách sạn
nhà hàng, kinh doanh tài sản… cần khuyến khích phát triển.
+ Phát triển Đà Nẵng thành trung tâm khoa học CN cao, trung tâm
giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, một trong những trung tâm
y tế chuyên sâu của cả nước.
Xây dựng và phát triển CN thông tin trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
và là một trong ba trung tâm CN hàng đầu của quốc gia. Phát triển CN sinh
học đạt trình độ tiên tiến trong khu vực theo hướng phục vụ phát triển kinh tế
biển, nông nghiệp, y tế và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh ứng dụng các lĩnh
115
vực CN cao như CN bức xạ và hạt nhân, điện tử, CN gia công hiện đại phục
vụ cho phát triển kinh tế và khu vực.
Xây dựng và hoàn thiện Làng Đại học Đà Nẵng, trường đại học quốc tế
đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, đặc biệt là các chuyên gia giỏi về
quản lý và kỹ thuật. Định hướng đào tạo đội ngũ cán bộ đạt chuẩn khu vực và
quốc tế, đầu tư vào công tác đào tạo đáp ứng nhu cầu các tỉnh miền Trung và
Tây Nguyên.
Tiếp tục phát triển hệ thống y tế, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
hiện đại, các trung tâm y tế chuyên sâu, trong đó chú trọng khâu chuẩn đoán sớm
và điều trị kỹ thuật cao đủ sức phục vụ nhân dân thành phố và khu vực Miền
Trung - Tây Nguyên và các tỉnh địa phương lân cận của các nước bạn [111].
- Dự báo triển vọng CNH, HĐH đạt được vào năm 2020
+ Về tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm
1997 - 2011 của thành phố đạt 12,2%, tỷ trọng GDP so với cả nước đạt 1,6%,
với giả thuyết tốc độ tăng trưởng kinh tế cả nước thời kỳ 2011 - 2015 đạt 7 -
7,5%/năm, vào thời kỳ 2016 - 2020 đạt 9%/năm thì tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Đà Nẵng thời kỳ 2011 - 2020 tăng bình quân là 13% trong đó: giai đoạn
2011 - 2015 tăng 13,5%/năm và 2016 - 2020 tăng 12,5%/năm [111].
Bảng 4.1: Dự báo GDP (giá 1994) và tăng trưởng kinh tế giai đoạn
2011- 2020
Tăng trưởng (%)2010
(tỷ đồng)
2015
(tỷ đồng)
2020
(tỷ đồng)2011-
2015
2016-
2020
2011-
2020
Tổng GDP (giá 94) 10.400 19.550 35.304 13,5 12,5 13,0
Công nghiệp 4.470 7.000 10.594 9,4 8,6 9,0
Dịch vụ 5590 12.170 24.300 16,8 14,8 15,8
Nông nghiệp 340 380 410 2,2 1,5 1,9
Nguồn: Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
thành phố Đà Nẵng đến năm 2020 [111].
116
+ Về cơ cấu kinh tế: được chuyển dịch theo hướng dịch vụ và công
nghiệp đều tăng trưởng cao hơn song tốc độ tăng trưởng của dịch vụ luôn tăng
nhanh hơn công nghiệp. Tại thời điểm 2006, hệ số trượt giá 1994 là 2 lần, dự
kiến đến năm 2015 và 2020 GDP tính theo giá thực tế như sau:
Bảng 4.2: Dự báo cơ cấu kinh tế thành phố giai đoạn 2011 - 2020
Cơ cấu (%)2010
(tỷ đồng)
2015
(tỷ đồng)
2020
(tỷ đồng) 2010 2015 2020
Tổng số 30.260 74.700 171.350 100 100 100
Công nghiệp 14.070 32.700 73.300 46,5 43,78 42,78
Dịch vụ 15.270 40.500 95.300 50,46 54,22 55,62
Nông nghiệp 920 1.500 2.750 3,04 2,01 1,6
Nguồn: Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
thành phố Đà Nẵng đến năm 2020 [111].
Phát triển dân số, lao động và việc làm: Đẩy mạnh công tác dân số kế
hoạch hóa gia đình nhằm ổn định tỷ lệ tăng tự nhiên khoảng 1%; tăng dân số
cơ học khoảng 5%. Dự báo dân số Đà Nẵng năm 2015 khoảng 1.078 nghìn
người, năm 2020 khoảng 1.380 nghìn người. Trong đó dân số thành thị chiếm
khoảng 92% vào năm 2020 [111]. Giải quyết việc làm bình quân giai đoạn
2011 - 2020 là 3,5 - 4,5 vạn lao động/năm. Thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh
tế để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động chất lượng cao.
Phát triển giáo dục đào tạo: Phấn đấu đến năm 2020 có 90% thanh
niên Đà Nẵng trong độ tuổi đạt trình độ học vấn tương đương trung học phổ
thông. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động được đào tạo đạt trên 70% vào
năm 2020 từ trình độ sơ cấp đến trình độ trung cấp, cao đẳng và đại học. Mở
rộng hợp lý quy mô đào tạo Cao đẳng, Đại học đáp ứng yêu cầu của CNH,
HĐH; phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và tiềm lực khoa học CN của
thành phố. Xây dựng phát triển Đại học Đà Nẵng thành trung tâm nghiên cứu
khoa học đa ngành, đa cấp, chất lượng cao ngang tầm khu vực và quốc tế.
Phát triển y tế: Đầu tư cơ sở vật chất và các điều kiện khác cho y tế cơ
117
sỏ để 100% các trạm y tế phường, xã đạt tiêu chuẩn Quốc Gia về y tế. Đẩy
mạnh y tế chuyên sâu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, các thành tựu vào
các lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Tỷ lệ trẻ em suy dinh
dưỡng dưới 5 tuổi giảm xuống dưới 10%, có 13 - 14 bác sỹ/vạn dân, tuổi thọ
trung bình của người dân 74 [111].
Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công, đảm bảo 100% gia đình
chính sách có nhà ổn định, có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung
bình của nhân dân nơi cư trú. Tạo cơ hội phát triển sản xuất để hộ nghèo tự
lực vượt nghèo, thông qua chính sách. Hoàn thành mục tiêu giảm nghèo từng
giai đoạn theo chuẩn mới từng giai đoạn tương ứng
4.1.3. Phương hướng tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng đến năm 2020
4.1.3.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại
Thứ nhất: Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển
mạnh các ngành sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật chất lượng cao.
Đến năm 2020, công nghiệp tiếp tục là ngành kinh tế quan trọng, cơ
cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng Dịch vụ - Công nghiệp - Nông
nghiệp. Ưu tiên phát triển các ngành hàng và sản phẩm sử dụng CN hiện đại,
kỹ thuật tiên tiến, thân thiện với môi trường, có hàm lượng chất xám cao như:
công nghiệp CN thông tin, điện tử, cơ khí chính xác, dược phẩm, công nghiệp
hàng hải, công nghiệp chế biến, hàng tiêu dùng cao cấp...
Theo phương hướng này, Đà Nẵng phải tìm cho mình một số ngành
chính, sản phẩm công nghiệp chủ lực, lĩnh vực CN cao mà mình có khả năng,
lợi thế để khi nói tới Đà Nẵng ngoài những thành phố của những cây cầu
người ta còn nghĩ đến đây là nơi sản sinh ra sản phẩm có hàm lượng trí tuệ
cao. Như ngành công nghiệp CN thông tin (phần cứng, phần mềm), tự động
hóa, sinh học, vật liệu mới để từng bước đưa Đà Nẵng trở thành một trong
những trung tâm phát triển về KH&CN của đất nước.
118
- CN thông tin
+ Tập trung phát triển công nghiệp phần mềm theo hướng xuất khẩu
(bao gồm cả gia công và sản xuất xuất khẩu trực tiếp), phục vụ nhu cầu của
khu vực Miền Trung và Tây Nguyên với các sản phẩm phần mềm ứng dụng,
mang tính chuyên dụng và có giá đắt như: phần mềm điều hành cảng biển, sân
bay, kiểm soát thanh toán liên ngân hàng… phát triển phần mềm nhúng và
phần mềm thiết kế mẫu cũng là một trong những hướng đi chiến lược.
+ Sản xuất, lắp ráp các loại máy tính, thiết bị CN thông tin và viễn
thông, thiết bị điện, điện lạnh, điện tử dân dụng và chuyên dụng; chế tạo các
hệ thống chấp hành với phần mềm nhúng phục vụ điều khiển các quá trình tự
động hoá trong các ngành công nghiệp chế biến, lọc dầu, khai khoáng, điều
khiển giao thông... Xây dựng một số nhà máy quy mô lớn, CN hiện đại trong
lĩnh vực lắp ráp máy tính, sản xuất các thiết bị thông tin liên lạc, đặc biệt là
liên lạc trên không, trên mặt biển và dưới biển.
- CN sinh học
Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, CN sinh học vào sản xuất và đời
sống: thủy sản, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, nông lâm nghiệp, y
tế. Như sử dụng rộng rãi, có hiệu quả CN enzym protein vào chế biến nông
lâm sản; sản xuất các loại chế phẩm sinh học phục vụ nông nghiệp; CN bảo
quản nông sản thực phẩm, xử lý ô nhiễm môi trường, xử lý và chế biến rác
thải, sản xuất nấm cao cấp. Ứng dụng CN nuôi cấy tế bào động vật để sản
xuất một số chế phẩm phục vụ chuẩn đoán, chữa bệnh…
- CN tự động hóa và cơ điện tử
Lựa chọn, nghiên cứu, ứng dụng, làm chủ CN và từng bước thiết kế,
chế tạo các thiết bị tự động hóa, phụ kiện, modul phục vụ sản xuất; sản xuất
các bộ phận, linh kiện cung cấp cho các ngành công nghiệp kỹ thuật số, robot
công nghiệp, in ấn...Nghiên cứu sản xuất sản phẩm cơ khí thế hệ mới, có lợi
thế so sánh cho xuất khẩu. Giải mã các thiết bị nhập, cải tiến và nâng cao
119
trình độ tự động hóa dây chuyền hiện có, tiếp cận một số CN tự động hóa điều
khiển hiện đại.
- CN vật liệu mới
Nghiên cứu chế tạo các vật liệu mới thay thế các loại vật liệu truyền
thống có nguồn gốc sản xuất từ tài nguyên đất, sét, gỗ hay các loại vật liệu tái
sinh làm tấm lợp thay vật liệu kim loại hay ngói sử dụng trong xây dựng và
sản xuất hàng tiêu dùng. Nghiên cứu sản xuất vật liệu composit bằng nguyên
liệu địa phương và thiết lập quy trình chế tạo các vật dụng bằng vật liệu
composit. Nghiên cứu CN vật liệu mới; vật liệu nano cho ngành điện, y dược,
điện tử và vi mạch…
Thứ hai: Điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng các ngành thân
thiện với môi trường, sử dụng CN mới, CN sạch.
Theo Quyết định "Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội thành phố Đà Nẵng đến năm 2020", số 1866/QĐ-TTg của Thủ Tướng
Chính phủ đã xác định: chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đà Nẵng đến năm
2020 theo hướng là Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp. Tuy nhiên trong
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần thực hiện sản xuất sạch là nội dung
yêu cầu cơ bản của CNH dựa vào tri thức, đây là hướng đi CNH sinh thái. Để
phát triển kinh tế bền vững ngoài việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao, duy
trì tốt và nâng cao chất lượng cuộc sống trong đó còn có việc bảo vệ môi
trường. Như vậy trong quá trình phát triển kinh tế thành phố Đà Nẵng cần áp
dụng CN cao, CN sản xuất sạch, CN xanh, trong các ngành, lĩnh vực công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, trong mọi khâu của quá trình sản xuất, kinh
doanh nhằm bảo vệ môi trường và tạo ra các sản phẩm thân thiện với môi
trường như các sản phẩm sử dụng năng lượng mặt trời, bêtông xanh, xe hơi
xanh... Chẳng hạn trong CN nano do sử dụng vật liệu tối ưu, năng lượng tiêu
thụ ít hơn, là hướng đi đem lại nhiều lợi ích cho con người mà vẫn bảo vệ môi
trường. Ví dụ dùng động cơ hydro, nhiên liệu hydro cho pin nhiên liệu thì vấn
120
đề ô nhiễm do phương tiện ô tô gây ra sẽ được giải quyết có lợi cho môi
trường. Đặc biệt ở Đà Nẵng có số lượng giờ nắng khá lớn, lợi dụng điều kiện
thuận lợi này thành phố đã có dự án ứng dụng trong quá trình chế biến nông
sản, sưởi ấm, tạo ra điện năng trong các hộ gia đình và nhà máy nhưng giá
thành còn cao…nhưng hướng phát triển quan trọng là chế tạo pin mặt trời để
sản xuất điện năng phục vụ tốt hơn mọi nhu cầu của con người. Coi trọng áp
dụng các CN mới, CN sạch nhằm tạo ra những sản phẩm sạch, sản phẩm thân
thiện môi trường như: các sản phẩm năng lượng (sản phẩm năng lượng sinh
học, xăng dầu sinh học, biogas, các sản phẩm năng lượng tái tạo, tiết kiệm
năng lượng…); các sản phẩm nông nghiệp (sản phẩm rau an toàn, cà phê, trái
cây sạch, chăn nuôi sạch…); sản phẩm tái chế…
Thứ ba: Phát triển kinh tế biển
Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trung tâm kinh tế biển có
tốc độ phát triển cao trên cơ sở phát triển kinh tế, xã hội đi đôi với bảo vệ môi
trường, đảm bảo phát triển bền vững, phát triển kinh tế gắn kết chặt chẽ với
quốc phòng an ninh, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền vùng biển, cụ thể như sau:
Tăng cường đẩy mạnh khai thác hải sản xa bờ, hạn chế tối đa vùng ven
bờ, nhằm tái tạo nguồn lợi thủy sản, theo đó, phát triển nhanh số lượng tàu cá
công suất lớn và cải hoán nâng cấp tàu cá công suất nhỏ để vươn khơi. Tạo
điều kiện cho việc phát triển nghề cá theo hướng bền vững, hình thành các
khu đô thị, khu công nghiệp, cụm công nghiệp ven biển nhằm khai thác, chế
biến và xuất khẩu nguồn lợi thủy sản.…
Tiếp tục phát triển du lịch biển, đây không những là ngành kinh tế mũi
nhọn đối với Đà Nẵng, mà còn là phương tiện để mở rộng giao lưu văn hóa và
hợp tác quốc tế, góp phần làm cho hình ảnh của thành phố rõ nét hơn trên bản
đồ thế giới.
Khi nói đến kinh tế biển là nói đến cảng nước sâu, khu kinh tế, sân bay
tại các thành phố biển…Do đó Đà Nẵng cần xây dựng cho mình một cảng
121
biển nước sâu để làm cảng trung chuyển cho cả khu vực, có đủ sức cạnh tranh
với cảng các nước trong vùng thì hàng hóa xuất nhập khẩu của cả nước sẽ tập
trung về đó và còn thu hút được hàng hóa của nước Lào, Campuchia, Thái
Lan, Myanmar, vùng Tây Nam Trung Quốc…
Hợp tác có hiệu quả với các tỉnh/thành phố trong nước và nước ngoài
nhằm đấu tranh bảo đảm các cam kết quốc tế về biển. Kiên quyết, kiên trì bảo
vệ chủ quyền vùng biển, đảo gắn với phát triển kinh tế biển, tạo môi trường
thuận lợi để mở rộng quan hệ trao đổi khoa học kỹ thuật, đầu tư, đổi mới CN,
hiện đại hóa trang bị cho quốc phòng - an ninh.
Thứ tư: Phát triển nhanh các ngành dịch vụ thành phố có lợi thế, đi đôi
với nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh.
Tập trung phát triển các ngành dịch vụ có thế mạnh, có lợi thế, khuyến
khích phát triển các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Thực hiện chuyển dịch cơ
cấu các ngành dịch vụ theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu, thương mại, du lịch,
vận tải…nhằm nâng cao tỷ trọng GDP làm cơ sở nền tảng để chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Phương hướng
phát triển một số ngành dịch vụ như sau:
- Thương mại: Xây dựng ngành thương mại phát triển vững mạnh, có
hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối hiện đại. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa,
dịch vụ; phát triển dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ thông qua các hoạt động dịch
vụ du lịch, thu kiều hối và bán hàng tại chỗ để góp phần tăng kim ngạch xuất
khẩu. Hình thành khu thương mại tự do, các trung tâm thương mại, khu đô
thị, ngoài việc đáp ứng nhu cầu đa dạng của dân cư và khách du lịch còn tiếp
cận nguồn vốn, bí quyết kỹ thuật và CN tiên tiến, kinh nghiệm quản lý thông
qua thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Phát triển Đà Nẵng thành một
đầu mối trung chuyển, trung tâm giao thương tầm cỡ khu vực, làm trung gian
nhập khẩu hàng hóa để phát luồng cho mạng lưới phân phối, bán buôn, bán
lẻ… Khuyến khích phát triển đa dạng các loại hình doanh nghiệp kinh doanh
122
các loại hình dịch vụ logistic, dịch vụ xúc tiến thương mại phục vụ xuất nhập
khẩu và bán buôn.
- Vận tải, kho bãi: Phát triển các loại hình vận tải đa dạng với sự phân
chia hợp lý giữa các loại phương thức vận tải chủ yếu: vận tải biển đảm nhận
việc vận chuyển hàng hóa phục vụ giao thương quốc tế; vận tải bộ đảm nhận
việc gom hàng, tạo chân hàng, vận chuyển hàng hóa với cự lý ngắn và trung
bình; vận tải đương sắt chủ yếu vận tải hàng hóa, hành khách đường dài,…;
vận tải hàng không đảm nhận vận tải hành khách đường dài, quốc tế và hàng
hóa có giá trị kinh tế cao. Phát triển dịch vụ vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ
theo hướng nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp, hướng tới cung cấp
các dịch vụ trọn gói; nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ để tăng khả năng liên
kết hiệu quả giữa các phương thức vận tải, giảm đầu mối cung cấp.
- Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm: Xây dựng Đà Nẵng trở thành trung
tâm tài chính, ngân hàng, bảo hiểm lớn của khu vực miền Trung và cả nước.
Khuyến khích phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng đa dạng, đa tiện ích trên
cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ ngân hàng truyền
thống, đồng thời tiếp cận nhanh hoạt động ngân hàng hiện đại có hàm lượng
CN cao. Phát triển dịch vụ bảo hiểm theo hướng mở rộng các loại hình bảo
hiểm, các đối tượng bảo hiểm nhất là các loại hình phục vụ cho đại đa số
người lao động, nhân dân vùng sâu, vùng xa. Tạo điều kiện thuận lợi cho các
đơn vị bảo hiểm 100% vốn nước ngoài mở văn phòng hoạt động tại Đà Nẵng.
- Du lịch: Hướng đến mục tiêu trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn,
quy hoạch phát triển du lịch Đà Nẵng theo 3 hướng chính: Du lịch biển, nghỉ
dưỡng và du lịch sinh thái; Du lịch văn hoá, lịch sử, thắng cảnh, làng quê,
làng nghề; Du lịch công vụ, mua sắm, hội nghị- hội thảo. Phát triển du lịch Đà
Nẵng nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí của nhân dân,
kiều bào, khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và
phát triển kinh tế xã hội thành phố. Tập trung đầu tư phát triển du lịch Đà
123
Nẵng đồng bộ, đồng thời, chú ý trọng điểm nhằm tạo những bước đột phá, với
vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố. Phát triển du lịch trong mối
quan hệ hữu cơ với các ngành kinh tế - kỹ thuật của thành phố, đồng thời, bảo
đảm yêu cầu giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và môi trường.
Phát triển du lịch kết hợp chặt chẽ việc khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên
du lịch với việc bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử, danh lam, thắng cảnh nhằm
tạo ra và duy trì sản phẩm du lịch độc đáo, có chất lượng tốt.
4.1.3.2. Phát triển khoa học và CN hiện đại
Hiểu được sức mạnh của KH&CN Đại hội Đại biểu lần thứ XX Đảng
bộ thành phố Đà Nẵng đã xác định: "Phát triển khoa học và CN gắn với định
hướng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, làm động lực đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế tri thức".
Thúc đẩy lộ trình đổi mới CN theo hướng đi thẳng vào CN hiện đại,
tiên tiến; chuyển giao, làm chủ những CN mới, tạo đột phá trên một
số lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực liên quan mật thiết đến sự phát triển
của thành phố và bảo đảm anh sinh xã hội, như CN sinh học, CN thực
phẩm, chế biến, CN vật liệu mới, CN môi trường… [28, tr.105].
Điều này khẳng định quyết tâm của Lãnh đạo và người dân thành phố
phấn đấu đến năm 2020 Đà Nẵng trở thành thành phố công nghiệp thì việc
ứng dụng và phát triển các CN tiên tiến, CN cao, CN mới là điều hết sức cần
thiết. Phát triển CN tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao, tăng sức cạnh
tranh trên thị trường. Dựa trên những thành tựu KH&CN tiên tiến trên thế
giới; kế thừa, phát triển và nâng cao CN bản địa, CN truyền thống, tăng năng
lực tự chủ về CN. Chuyển giao CN có sự kết hợp hài hòa của các trình độ CN
phù hợp với từng cấp độ của các ngành kinh tế kỹ thuật, các lĩnh vực. Thúc
đẩy hoạt động R&D làm chủ CN, ươm tạo CN, đặc biệt là phát triển R&D ở
các doanh nghiệp. Đầu tư trang thiết bị CN đạt mức trung bình tiên tiến so với
thế giới. Tốc độ đổi mới CN bình quân hàng năm đạt 25% trong đó: Giai đoạn
124
2010-2015: tốc độ đổi mới CN bình quân 24 - 25% năm; Giai đoạn 2015-
2020: tốc độ đổi mới CN bình quân 25 - 26% năm [109].
Trong những năm tới phát triển KH&CN của thành phố gắn liền với
định hướng và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội; dựa trên cơ chế phối hợp sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực và cơ sở vật chất kỹ thuật trên địa bàn. Chủ
yếu dựa trên nguyên tắc ứng dụng và chuyển giao CN là chủ yếu, đồng thời
nghiên cứu đón đầu một số lĩnh vực CN có xu thế phát triển trên thế giới phù
hợp với đặc thù của thành phố, cụ thể như: Nghiên cứu, sản xuất các dây
chuyền chế biến đồng bộ chế biến thủy hải sản, bánh kẹo, hàng lâm sản…tạo
ra các loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, phù hợp với từng loại thị
trường xuất khẩu. Thực hiện tích hợp các phần tử tự động hóa trên cơ sở tiếp
nhận thiết kế và CN từ nước ngòai, làm chủ thiết kế phần mềm tích hợp hệ
thống điều khiển chuẩn đoán giám sát. Xác định và lựa chọn hợp lý CN gia
công trong chuỗi giá trị sản xuất sản phẩm, đầu tư vào nguồn nhân lực, kỹ
năng, trình độ CN để tham gia vào những chuỗi giá trị dựa trên chất lượng và
năng suất. Tiếp cận khoa học và kỹ thuật tiên tiến của thế giới trong chuẩn
đoán và điều trị bệnh. Áp dụng có hiệu quả các thành tựu CN bức xạ trong
lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, xử lý môi trường, trong y tế, trong sinh
học tạo giống cây trồng, chế tạo các chế phẩm sinh học.
4.1.3.3. Phát triển nguồn nhân lực, tạo nền tảng và động lực cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Phát triển nhân lực là yếu tố then chốt, có ý nghĩa quyết định, vừa là
yêu cầu vừa là động lực cho sự phát triển của thành phố Đà Nẵng. Phát triển
nhân lực là một trong những động lực quan trọng để hoàn thành cơ bản sự
nghiệp CNH, HĐH, là nhân tố quyết định phát triển xã hội, tăng trưởng kinh
tế nhanh, hài hòa và bền vững. Điều này được Văn kiện đại hội Đảng bộ lần
thứ XX khẳng định: "Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng của
nền kinh tế; xem phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố quyết
125
định nâng cao lợi thế cạnh tranh của thành phố" [28, tr.105].
Ngày nay để có lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế chính là sự cạnh
tranh về sử dụng và bồi dưỡng nhân tài, nhân lực có chất lượng cao. Nhân tài
đã, đang và sẽ trở thành yếu tố quyết định tạo nên vị thế mỗi quốc gia. Vì thế
theo luận án để phát triển nguồn nhân lực phải bảo đảm đủ về số lượng, chất
lượng, có cơ cấu phù hợp, có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất, nhân
cách, năng lực nghề nghiệp, thành thạo về kỹ năng, tác phong chuyên nghiệp,
năng động, sáng tạo phục vụ yêu cầu phát triển thành phố Đà Nẵng. Thành
phố cần có hướng đi cụ thể như sau:
- Nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn - kỹ thuật của nhân
lực: tập trung, đột phá vào các ngành kinh tế mũi nhọn, các lĩnh vực quan
trọng của Thành phố như du lịch, thương mại, vận tải - kho bãi, điện, điện tử,
điện lạnh, viễn thông, CN thông tin, cơ khí điện tử,...;
- Gây dựng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao trong các cơ
sở nghiên cứu và triển khai, các khu CN cao. Phải xác định đây là một việc
không đơn giản: Trước tiên phải xác định được lĩnh vực cần thu hút; Thứ hai:
dựa vào tiêu chí nào để xác định nguồn nhân lực chất lượng cao?; Thứ ba:
Nguồn nhân lực chất lượng cao đó lấy từ đâu ? trong nước, hay ngoài nước ?;
Thứ tư: Phải có chính sách nào để giữ chân nguồn nhân lực này?
- Đối chiếu với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm
2020, thành phố cần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ở các lĩnh vực
sau: khoa học - kỹ thuật - CN như: CN sinh học, vật liệu, CN thông tin, điện
tử, CN môi trường... ; Lĩnh vực kinh tế - xã hội: kinh tế quốc tế, xã hội học,
hành chính công, chính sách công, luật phát quốc tế; Y tế; Giáo dục...
Nhưng dựa vào đâu? để xác định nguồn nhân lực chất lượng cao, đã có
rất nhiều cách tiếp cận khác nhau, theo luận án phải là những người đạt được
4 tiêu chí sau: 1, Có trình độ chuyên môn từ cử nhân (loại giỏi) trở lên hoặc
những người từng làm trong lĩnh vực mình nghiên cứu; 2, Thành thạo ít nhất
126
một ngoại ngữ sử dụng tốt trong giao tiếp và nghiên cứu; 3, Trình độ tin học
đáp ứng nhu cầu công việc; 4, Có các công trình nghiên cứu khoa học hoặc
giấy khen, bằng khen, giải thưởng trong lĩnh vực mình nghiên cứu.
Nguồn nhân lực này không chỉ là những cán bộ nghiên cứu khoa
học, CN, kinh tế xã hội ở trong nước hay tại thành phố, mà còn là các nhà
nghiên cứu du học ở nước ngoài, hay các chuyên gia nước ngoài, đây là
nguồn lực quý báu, đóng góp rất lớn vào phát triển vào các ngành CN cao
và CN tiên tiến.
4.1.3.4. Xây dựng Khu công nghệ cao, vườn ươm công nghệKhu CN cao là nơi biến các tri thức mới, các phát kiến khoa học mới
thành CN và sản phẩm. Vì vậy một nước, một thành phố muốn phát triển
công nghiệp với tốc độ cao và bền vững, phát triển ngành CN cao, tiến dần
đến nền kinh tế tri thức phải xây dựng khu CN cao, vườn ươm CN .Với định
hướng phát triển thành phố công nghiệp CN cao, Khu CN cao Đà Nẵng - khu
CN cao thứ ba của Việt Nam đã chính thức được thành lập theo Quyết ðịnh số
1979/QÐ-TTg ngày 28/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ, tại xã Hòa Liên và
xã Hoà Ninh, huyện Hòa Vang, thành phố Ðà Nẵng.
Dự kiến khu CN cao này được thực hiện theo ba giai đoạn: giai đoạn1(
2012 - 2015), giai đoạn 2 (2016 - 2018), giai đoạn 3 (2019 - 2020). Theo quy
hoạch, khu CN cao gồm 8 khu chức năng: khu sản xuất CN cao; Khu nghiên
cứu - phát triển và ươm tạo CN; Khu quản lý - dịch vụ CN cao; Khu ở cho
công nhân và khu chuyên gia; Đất cây xanh, mặt nước, công viên, thể dục thể
thao; Đất giao thông, sân, bãi đậu xe; Khu công trình hạ tầng kỹ thuật đầu
mối; Khu hậu cần, dịch vụ logistic. Khu "vườn ươm doanh nghiệp" được bố
trí "trộn lẫn" với các hoạt động khác trong khu "không gian khoa học", nghiên
cứu và phát triển, đào tạo và các hoạt động sản xuất. Các điểm tập trung này
sẽ được kết nối thông qua các hoạt động tại khu "trái tim" của khu không gian
khoa học. Điều này sẽ cho phép các ngành nghề và các nhà nghiên cứu trao
127
đổi, phối hợp cùng nhau. Ngành nghề, lĩnh vực được đặc biệt ưu đãi tại đây là
đầu tư sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới, sản xuất sản phẩm CN cao, CN
sinh học, CN thông tin; cơ khí chế tạo. Ngoài ra còn có các sản xuất giống
nhân tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi mới; sử dụng CN, kỹ thuật hiện
đại; nghiên cứu, phát triển và ươm tạo CN cao…
Dựa vào lợi thế của mình, Đà Nẵng có thể phát triển CN và CN chất
lượng cao gắn tối đa với phát triển du lịch. Nó bao gồm cả việc xây dựng khu
CN cao Đà Nẵng phải phục vụ thiết thực cho việc phát huy các thế mạnh khác
của Đà Nẵng như kinh tế biển, hạ tầng cảng, hệ thống kho tiếp vận, đầu mối
giao thông đường bộ…Không gian CN và khu CN cao Đà Nẵng phải gắn với
việc trở thành một không gian sống và làm việc lý tưởng cho các nhà
KH&CN, các chuyên gia về quản lý, đầu tư tại Miền Trung và cả những
người nhập cư đến từ Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, và từ nước ngoài.
Trong điều kiện như vậy, Đà Nẵng sẽ có cơ hội để hợp tác, liên kết tốt hơn
với các khu công nghiệp, khu CN cao khác trong và ngoài khu vực, theo
hướng trao đổi chuyên gia, chia sẻ cơ sở vật chất kỹ thuật dùng chung.
4.1.3.5. Xây dựng "Đà Nẵng thành phố môi trường"
Tạo nên 1 danh hiệu "thành phố môi trường" cho Đà Nẵng; tạo sự an
toàn về sức khỏe và môi trường cho người dân, các nhà đầu tư, cho du khách
trong và ngoài nước khi đến với thành phố Đà Nẵng.
Ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm và suy thoái môi trường tại các khu dân
cư, khu công nghiệp, vùng ven biển; đảm bảo chất lượng môi trường nước,
đất, không khí, đặc biệt chú trọng đến vấn đề ô nhiễm không khí do giao
thông vận tải, xử lý nước thải công nghiệp và chất thải nguy hại, cụ thể như
sau: i) Bảo vệ môi trường nước: kiểm soát chất thải giảm tác động đến môi
trường nước, bảo vệ môi trường nước hồ trên địa bàn thành phố theo hướng
thân thiện với môi trường, nghiên cứu các mô hình tái sử dụng hoặc tuần hoàn
nước đảm bảo lượng nước nước sử dụng đạt 25% đến năm 2020…; ii) Bảo vệ
128
môi trường không khí: triển khai dự án giảm bụi giao thông, phát triển các
loại hình xe buýt, taxi chạy bằng gas, xây dựng các trạm cung cấp nhiên liệu
sạch, khuyến khích sử dụng các phương tiện thân thiện môi trường…; iii)
Kiểm soát ô nhiễm không khí do hoạt động công nghiệp và đô thị, từng bước
xây dựng khu công nghiệp thân thiện với môi trường; Khuyến khích các
doanh nghiệp tái chế, tái sử dụng chất thải, áp dụng CN sạch…; Quy hoạch
phát triển cây xanh tại các khu đô thị giảm thiểu lượng cacbon; Quản lý chất
thải rắn: phân loại chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp chất thải
rắn y tế nhằm mục đích xử lý, tái chế hay tái sử dụng; iv) Bảo vệ môi trường
đất: đẩy mạnh việc ứng dụng các tiên bộ khoa học kỹ thuật như chương trình
rau an toàn, nông nghiệp tốt (GAP), ngăn chặn kịp thời thuốc bảo vệ thực
vật…v) Đa dạng sinh học: bảo tồn đa dạng sinh học theo hướng bảo tồn
nguyên vị và bảo tồn chuyển vị đối với các loài đe dọa bị tuyệt chủng, thiết
lập cơ sở dữ liệu đa dạng sinh học…
4.2. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG
4.2.1. Tăng cường công tác dự báo, quản lý quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
4.2.1.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về tầm quan
trọng và nội dung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức
Việc nâng cao nhận thức cho toàn Đảng bộ và nhân dân thành phố hiểu
và thấy được để xây dựng Đà Nẵng trở thành thành phố công nghiệp hiện đại
trước năm 2020 có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây không phải chỉ là trách
nhiệm của Đảng bộ hay Chính quyền thành phố mà cần có sự đoàn kết, thống
nhất trong nội bộ, sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân. Trên cơ sở đó,
nâng cao lòng tự hào và xác định trách nhiệm trong việc phát huy ưu điểm,
129
tiềm năng thế mạnh; đồng thời khắc phục yếu kém, khuyết điểm, những thách
thức khó khăn, phấn đấu xây dựng thành phố thực sự giàu mạnh, văn minh,
xứng đáng với vị trí của Đà Nẵng là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của miền
Trung như nội dung Nghị quyết đã xác định.
Do đó, việc tổ chức tuyên truyền rộng rãi thông qua các hội nghị, hội
thảo, các phương tiện truyền thông như: Đài phát thanh - Truyền hình, báo
Đà Nẵng, Trang thông tin điện tử thành phố (danang.gov.vn), Cổng thông
tin điện tử thành phố (danangcity.gov.vn), Tạp chí Thông tin - Truyền thông
(ictdanang.vn) cùng trang thông tin điện tử, website các sở, ngành, quận
huyện, các trường đại học, cao đẳng…là việc hết sức cần thiết. Kết hợp
nhiều kênh tuyên truyền phù hợp với trình độ nhận thức của từng đối tượng.
Phát huy chức năng và thế mạnh của các cơ quan truyền thông của thành
phố, tạo thành một đợt tuyên truyền thường xuyên, liên tục với nội dung và
hình thức phong phú, kết hợp với các nội dung tuyên truyền khác theo
hướng dẫn của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương và của Ban Tuyên giáo
Thành ủy. Xác định sự hội tụ các kênh truyền thông với sự đa dạng, phong
phú về tần suất thường xuyên sẽ nâng cao nhận thức của người dân và doanh
nghiệp về quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức vì đây
chính là con đường ngắn nhất để thành phố Đà Nẵng trở thành thành phố
công nghiệp trước năm 2020.
Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về phát triển
nhân lực. Cùng với khoa học, CN, vốn và tài nguyên, thì con người chính là
một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy một tổ chức, một địa
phương hay một quốc gia phát triển. Chú trọng phát triển nhân lực là việc làm
cấp thiết để theo kịp nền kinh tế tri thức. Bên cạnh đó, cần có biện pháp tác
động đến nhận thức của đại bộ phận xã hội về các thang bậc giá trị trong xã
hội, từ đó thay đổi nhận thức của xã hội về hướng nghiệp và dạy nghề, nhằm
giúp người dân nhận thức được học nghề là cơ hội để tìm kiếm việc làm cho
130
bản thân, ổn định thu nhập gia đình và nâng cao chất lượng cuộc sống. Phát
triển đội ngũ chuyên gia am hiểu về tâm lý học nghề nghiệp, thông tin thị
trường lao động, am hiểu về thực tế ngành nghề xã hội, kinh tế học lao động
để thực hiện công tác hướng nghiệp.
Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò
của CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT đối với tăng trưởng kinh tế, cải
thiện đời sống nhân dân, áp dụng KH&CN tiên tiến, hiện đại trong sản xuất
kinh doanh nhất là CN thông tin như là công cụ để tiếp cận nền kinh tế tri
thức, nhằm hướng tới các ứng dụng lành mạnh, thiết thực, hiệu quả, góp phần
hình thành xã hội thông tin, bảo đảm các điều kiện để chuẩn bị cho việc quản
lý xã hội theo mô hình chính quyền điện tử.
4.2.1.2. Nâng cao chất lượng và coi trọng tính thiết thực của công tác
định hướng phát triển
Gắn việc nhận thức quán triệt Nghị quyết với xây dựng chương trình
hành động, kế hoạch triển khai thực hiện của từng địa phương, đơn vị, của
từng cộng đồng dân cư và của cá nhân mỗi cán bộ đảng viên, tạo chuyển biến
thật sự mạnh mẽ trong toàn thành phố trên tất cả các lĩnh vực, trước hết là
hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2015, tiến tới
hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XX đã đề ra.
Hoạch định cẩn thận các quy hoạch, chiến lược, chính sách về CNH,
HĐH, kinh tế tri thức phù hợp với thực tiễn của thành phố, phù hợp với lòng
dân nhằm đảm bảo sự thành công trong từng bước phát triển. Thành công này
khơi nguồn cho thành công khác cứ như vậy sẽ gây dựng được sự tin tưởng
trong nhân dân và các nhà đầu tư. Tuy nhiên, thực tế khi thay đổi chính sách
hay đưa ra mới sẽ có những chính sách không phù hợp lòng dân, không được
người dân ủng hộ, nhưng lại cần thiết cho sự phát triển thành phố trong tương
lai, thì không ai khác chính những người đứng đầu thành phố phải giải thích
131
một cách từ từ, kiên nhẫn bằng các buổi gặp gỡ trực tiếp với các cử tri, nhân
dân. Qua đó giúp người dân hiểu được tầm quan trọng của các chính sách mà
chính quyền thành phố đưa ra, có thể trước mắt không thấy được ích lợi của
nó, nhưng vì mục tiêu xây dựng thành phố trong tương lai, thì không ai khác
mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân hãy ủng hộ và giúp chính sách này đi vào
cuộc sống.
4.2.1.3. Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của chính quyền các
cấp và phát huy vai trò của hệ thống chính trịTrong thời đại khoa học và CN, kinh tế tri thức việc hoạch định các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tạo môi trường
pháp lý ổn định cho các hoạt động sản xuất kinh doanh; bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ... giữ vị trí vô cùng quan trọng trong quá trình CNH, HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức. Muốn vậy, Chính phủ phải trở nên linh hoạt hơn, năng
động, sáng tạo và quan trọng hơn phải có thành phần lãnh đạo ưu tú, có nhiều
cách nghĩ cách làm mới, dám chịu trách nhiệm, biết tập hợp, phát huy và nâng
cao vai trò lãnh đạo, điều hành của các ngành, các cấp, địa phương, đơn vị
trong quá trình tổ chức thực hiện các nhiệm vụ đề ra. Trong thời gian đến để
nâng cao năng lực quản lý của chính quyền Thành phố, theo tác giả cần đẩy
mạnh các giải pháp sau:
Xây dựng chính quyền điện tử: Đà Nẵng đã đầu tư một số tiền không
nhỏ để xây dựng triển khai các dự án ứng dụng CN thông tin cho các cơ quan
chính quyền của thành phố Đà Nẵng. Mục đích cuối cùng của việc đẩy mạnh
CN thông tin truyền thông vào cải cách thủ tục hành chính là nhằm giảm bớt
những phiền hà nhũng nhiễu cho công dân, cho tổ chức và doanh nghiệp.
Trong những năm tiếp theo cần thực hiện tốt chương trình Chính phủ điện tử
gắn với đổi mới phương thức điều hành, HĐH nền hành chính, tăng cường
ứng dụng CN thông tin trong quản lý, thực hiện cải cách hành chính. Tiếp tục
mở rộng việc tổ chức giao dịch hành chính với tổ chức, công dân, cung cấp
132
thông tin qua mạng, từng bước hình thành chính quyền điện tử.
Xây dựng đội ngũ cán bộ thành phố thực sự là công bộc của nhân dân:
Thực hiện tốt công tác cán bộ, chú trọng nâng cao năng lực cán bộ. Xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, đạo đức công vụ tốt, tính
chuyên nghiệp cao, có kỹ năng xử lý các tình huống khi thực thi công vụ. Đề
cao trách nhiệm cá nhân, đặc biệt là những người đứng đầu các cơ quan quản
lý hành chính các cấp. Áp dụng các chế tài, biện pháp ngăn chặn và xử lý các
trường hợp cán bộ, công chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhũng nhiễu, gây
phiền hà, bất bình trong nhân dân.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện, xử lý nghiêm những
cán bộ, công chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn, gây bất bình trong nhân dân,
rà soát, thay đổi ngay những cán bộ công chức, trì trệ có dư luận không tốt
liên quan đến tham nhũng. Nghiên cứu chính sách khen thưởng cho cán bộ,
công chức, viên chức có thành tích xuất sắc; chính sách trả lương công chức
theo hiệu quả công việc. Đào tạo, bồi dưỡng tính chuyên nghiệp, kỹ năng xử
lý tình huống; bố trí, sử dụng hiệu quả cán bộ thu hút và đào tạo theo các
chính sách của thành phố; đánh giá, rút kinh nghiệm và tiếp tục thực hiện thí
điểm mô hình Bí thư đồng thời là Chủ tịch cấp quận, phường.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục chủ trương chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước: Tuyên truyền, giáo dục chủ trương chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành phố trên các loại phương tiện khác nhau
làm sao khi đến với người dân dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ dàng áp dụng trong
công việc và sinh hoạt hàng ngày. Tăng cường hơn nữa đối thoại trực tiếp
giữa chính quyền với người dân và các thành phần doanh nghiệp tạo sự đoàn
kết trong toàn Đảng, nhân dân thành phố.Tổ chức triển khai thực hiện và cụ
thể hóa các quy định, chính sách về phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước.
Công khai, minh bạch hóa thủ tục hành chính: Mở rộng việc thực hiện
cơ chế "một cửa" ở các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của các cơ quan quản lý
133
nhà nước theo hướng giao cho một cơ quan tiếp nhận và giải quyết các thủ tục
trên cơ sở có quy chế, quy định về phối hợp giải quyết. Tiếp tục rà soát, sửa
đổi những thủ tục, loại bỏ những giấy tờ không cần thiết, những quy định, quy
chế không còn phù hợp, rút ngắn thời gian giải quyết các công việc. Tiếp tục
thực hiện chương trình tổng thể về cải cách hành chính, trọng tâm là nâng cao
chất lượng cải cách, thực hiện nguyên tác công khai, minh bạch, niêm yết
công khai quy chế, quy trình và các thủ tục hành chính rõ ràng, cụ thể tại công
sở, đặc biệt trong các lĩnh vực quy hoạch, đầu tư, đất đai, xây dựng cơ bản,
thuế, hải quan...Xây dựng, ban hành, triển khai thực hiện Kế hoạch tổng thể
cải cách hành chính 10 năm giai đoạn 2011 - 2020.
4.2.2. Khai thác, phát triển và sử dụng các nguồn lực
4.2.2.1. Ưu tiên phát triển nguồn nguồn nhân lực
Để đảm bảo cung cấp các nhà khoa học, kỹ sư, công nhân có trình độ
cao để thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH cho đất nước cũng như thành phố Đà
Nẵng theo tác giả cần có giải pháp cụ thể sau:
- Nội dung và phương pháp giáo dục cần chuyển trọng tâm của giáo
dục từ trang bị kiến thức sang bồi dưỡng rèn luyện phương pháp tư duy,
phương pháp giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, khả năng tự đào tạo.
Tăng tỷ lệ đầu tư cho giáo dục và chuyển đổi hệ thống giáo dục của
mình lấy các ngành công nghiệp, CN cao làm mục tiêu, cùng với đó Chính
phủ cùng với Bộ Giáo dục và đào tạo thực hiện kiểm soát chương trình, nội
dung giảng dạy sao cho có chất lượng và đảm bảo phù hợp với mọi nhu cầu
hoạt động sản xuất - kinh doanh. Sinh viên khi ra trường phải có kỹ năng giải
quyết vấn đề mới nảy sinh một cách nhanh nhạy, sáng tạo trong công việc,
luôn nghiên cứu áp dụng cCN mới, tiên tiến …trách nhiệm này thuộc về các
trường đại học, làm sao đào tạo sinh viên là ‘học cách học’. Chứ không phảo
đào tạo một đội ngũ lao động có tấm bằng cử nhân loại khá, giỏi trong tay
nhưng khi áp dụng vào thực tế công việc thì không thể làm được đây là một
134
thực tế ở nước ta cần phải thay đổi, điều này đang làm lãng phí một nguồn
vốn không nhỏ của nhà nước, gia đình và xã hội.
Hiện nay ở thành phố Đà Nẵng thiếu rất nhiều những công nhân lành
nghề trong việc điều hành các hoạt động dây chuyền phức tạp hay trong
ngành CN chính xác. Vì vậy doanh nghiệp phối hợp với chính quyền, các
trường trong và ngoài nước hay những khóa đào tạo kỹ thuật của những tập
đoàn lớn mở các khóa học để các công nhân có thể tham gia nâng cao kỹ năng
nghề nghiệp.
Cải tiến và tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành về phát
triển nhân lực trên địa bàn Thành phố. Xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa
các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị sử dụng lao động với các cơ sở đào tạo,
phát triển nhân lực (giữa các đơn vị hành chính, sự nghiệp với Sở Nội vụ,
Trung tâm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, giữa doanh nghiệp với
các trường ĐH-CĐ, TCCN, cơ sở dạy nghề…) để tìm sự thống nhất giữa cung
và cầu lao động trong thời gian đến, hạn chế đến mức thấp nhất sự lãng phí
trong phát triển nhân lực của cá nhân, tổ chức và xã hội. Đồng thời, tăng
cường sự chủ động, sáng tạo của từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong
công tác phát triển nhân lực.
- Đổi mới quản lý nhà nước về phát triển nhân lực
Đổi mới công tác dự báo, quy hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực.
Từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp cần quan tâm dự báo nhu cầu và xây
dựng kế hoạch phát triển nhân lực trong ngắn hạn cũng như dài hạn, trong đó
cần xác định cụ thể số lượng, ngành nghề, tiêu chuẩn, thời gian dự kiến tuyển
dụng, đào tạo để làm cơ sở cho các dự báo cầu lao động. Trên cơ sở cầu lao
động cụ thể, Thành phố phối hợp cùng các cơ quan quản lý ngành thực hiện,
điều chỉnh quy hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo, số lượng đào tạo phù hợp từng
chuyên ngành, tránh hiện tượng đào tạo tràn lan, gây lãng phí ở ngành này và
thiếu hụt lao động ở ngành khác. Thực hiện tốt cơ chế phối hợp ba bên: nhà
135
nước, cơ sở đào tạo và người sử dụng lao động từ khâu xây dựng quy hoạch,
đào tạo, tái đào tạo và sử dụng lao động.
Nâng cao năng lực quản lý của các cơ quan phát triển nhân lực: Sở Nội
vụ, Sở LĐ-TB&XH, Sở GD-ĐT, Trung tâm Phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao và các Phòng/Bộ phận phụ trách công tác tổ chức, nhân sự của các
cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, cơ sở đào tạo, doanh nghiệp trên địa
bàn thành phố. Từng bước áp dụng các mô hình và phương pháp quản trị
nhân sự hiện đại. Mỗi cơ quan, đơn vị phải xây dựng kế hoạch phát triển nhân
lực trong từng giai đoạn; xác định hệ thống vị trí việc làm và tiêu chuẩn nhân
sự phù hợp; thực hiện tuyển dụng công khai, minh bạch; có kế hoạch thu hút,
đào tạo, bồi dưỡng nhân lực; đổi mới phương pháp đánh giá năng lực công tác
và chế độ khen thưởng - kỷ luật; đổi mới phương pháp quản lý nhân lực theo
hướng hiện đại, hiệu quả.
- Phát triển thị trường lao động
Đổi mới và cải thiện thị trường lao động, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
của thị trường lao động; thành lập đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Lao động
thương binh và xã hội chịu trách nhiệm làm cầu nối cung cầu lao động cho thị
trường. Gắn hệ thống thông tin thị trường lao động của Thành phố với hệ
thống thông tin kinh tế - xã hội của Thành phố và kết nối với hệ thống thông
tin thị trường lao động quốc gia. Thực hiện các chính sách hỗ trợ lao động yếu
thế tham gia vào thị trường lao động như thành lập cơ quan tư vấn, giới thiệu
việc làm dành riêng cho các đối tượng lao động yếu thế, hỗ trợ dạy nghề, tái
đào tạo, giải quyết việc làm,…
- Chính sách đãi ngộ thu hút nhân tài
Đà Nẵng là một trong những thành phố có chính sách thu hút nhân tài
khá hiệu quả, trong những năm tới cần có cơ chế đột phá trong bố trí và sử
dụng nguồn nhân lực trẻ, được đào tạo cơ bản, tạo điều kiện cho công chức,
viên chức trẻ được thăng tiến, đề bạt, bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo,
136
quản lý. Thí điểm thực hiện trả lương, phân phối thu nhập theo năng lực và
kết quả công tác; có chính sách phụ cấp và đãi ngộ đặc biệt (nhà ở, đào tạo,..)
cho nhân lực có trình độ cao, tạo điều kiện cho các tài năng nâng cao thu nhập
bằng trí tuệ và năng lực của mình; Nghiên cứu thực hiện cơ chế thuê, hợp tác,
tư vấn đối với chuyên gia đầu ngành (trong và ngoài nước) trong các lĩnh vực
CN cao phục vụ cho việc xây dựng và phát triển khu CN cao, khu công
nghiệp CN thông tin của Thành phố.
Đối với việc thu hút nhân tài cho khu vực tư, Thành phố ưu tiên cải
cách thủ tục hành chính, nhất là trong các khâu cấp giấy phép lao động cho
người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài làm việc tại Đà
Nẵng; ưu tiên thu hút nhân tài làm việc cho khu CN cao thông qua chính sách
hỗ trợ thủ tục hành chính về cấp phép lao động và cấp sổ lao động trong khu
CN cao; hỗ trợ xây dựng khu vực lưu trú hiện đại về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và
cơ sở hạ tầng xã hội dành riêng cho đội ngũ trí thức làm việc tại khu CN cao;
cải tạo các tuyến giao thông nội thị và phát triển các loại hình giao thông hiện
đại nhằm kết nối các khu CN cao, khu công nghiệp, CN thông tin với trung
tâm Thành phố theo hướng thuận tiện và đa dạng.
Thành phố cũng cần có những chính sách thỏa đáng hơn nữa để giữ
chân nguồn nhân lực này: Chính sách ưu đãi về vật chất: cấp nhà, trả lương
thỏa đáng so với trình độ của họ; Đối với gia đình của nguồn lao động này
được ưu tiên nhận vào làm việc tại các cơ quan, đơn vị trực thuộc thành phố;
Có môi trường làm việc tốt phát huy được khả năng sáng tạo... ; Cần xây
dựng cơ chế sử dụng người hợp lý, tạo được nhiều nhân tài.
Bồi dưỡng nguồn nhân lực có những tố chất tốt. Ngoài những thù lao
vật chất mà họ được hưởng cần khơi dậy lòng yêu nước, sự trăn trở về sự tụt
hậu của đất nước, sự phát triển của thành phố và đơn vị từ đó họ cống hiến hết
sức mình cho sự phồn thịnh của thành phố, quốc gia; có tư tưởng tiến bộ, luôn
trau dồi, mở mang kiến thức vừa hiểu biết về khoa học CN lại vừa có kiến
137
thức về kinh tế; Tác phong làm việc khoa học, chuyên nghiệp...
- Mở rộng quan hệ hợp tác giáo dục đào tạo với nước ngoài.
Khai thác khả năng học tập, tiếp thu trình độ khoa học, kỹ thuật, CN
tiên tiến của quốc tế bằng biện pháp gửi sinh viên đi đào tạo đại học, sau đại
học, giáo viên đi thực tập sinh, trao đổi học giả ở các trường đại học có uy tín
trên thế giới. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phát triển nhân lực,
đặc biệt là đào tạo đại học và sau đại học để triển khai các dự án hợp tác đào
tạo, trao đổi cán bộ/sinh viên, tổ chức và tham gia các hội thảo quốc tế, mời
giáo sư nước ngoài tham gia giảng dạy một số môn hoặc thực hiện các buổi
seminar khoa học; mở rộng các chương trình đào tạo tiên tiến. Tiếp tục phát
huy các chương trình liên kết đào tạo với các trường đại học có uy tín chất
lượng trên thế giới. Khai thác các nguồn vốn tín dụng ưu đãi của các tổ chức
quốc tế như WB, OECD, ADB,... để phát triển hệ thống giáo dục - đào tạo,
khoa học - CN, phát triển nhân lực.
4.2.2.2. Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Để đáp ứng được nhu cầu đầu tư của thành phố giai đoạn 2011 - 2020,
cần phải có hệ thống biện pháp huy động vốn một cách rất tích cực và tập
trung, tạo ra sự "bùng nổ" trong đầu tư phát triển sản xuất. Vì vậy, huy động
tổng hợp các nguồn vốn đầu tư phát triển phải được xác định như một trong
những nhiệm vụ quan trong hàng đầu.
Đối với các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách tập trung (bao gồm nguồn
trung ương hỗ trợ, vốn các chương trình): Huy động tốt các nguồn thu từ
thuế, phí vào ngân sách đây là nguồn nội lực cơ bản của thành phố: đẩy mạnh
thực hiện cải cách hành chính trong các lĩnh vực thu ngân sách tạo điều kiện
thuận lợi nhất để nâng cao chất lượng phục vụ người nộp thuế và các tầng lớp
nhân dân. Triển khai thực hiện tốt công tác HĐH CN, áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật để nâng cao năng lực quản lý, điều hành ngân sách phù hợp với
138
tiến trình hội nhập quốc tế. Nâng cao chất lượng phục vụ doanh nghiệp, khách
hàng và nhân dân, cải tiến phương thức quản lý thu theo hướng nâng cao tính
tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc thực hiện cơ chế tự tính - tự
khai - tự nộp; đồng thời đảm bảo quản lý chặt chẽ, kiểm tra, kiểm soát được
hoạt động tài chính của các đối tượng để thu hồi đầy đủ, kịp thời các khoản
thu thuế phí vào ngân sách.
Khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên, đất đai, công sản, cụ thể
hóa cơ chế chính sách, cho phù hợp với điều kiện thực tế thành phố nhằm tạo
hành lang pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh hoạt động giao dịch bất động sản,
đẩy mạnh tổ chức bán đấu giá công khai quỹ đất, quỹ nhà; hoạt động có hiệu
quả Quỹ đầu tư phát triển thành phố Đà Nẵng nhằm huy động nguồn lực cho
đầu tư phát triển.
Đối với nguồn vốn tín dụng đầu tư: Tạo vốn thông qua tín dụng ngân
hàng: Để tạo sức hút đầu tư cho các thành phần kinh tế ngân hàng cần cải tiến
thủ tục tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc vay vốn như:
nới rộng điều kiện thế chấp, áp dụng mức lãi suất ưu đãi cho những khoản
vay dài hạn để đầu tư phát triển công nghiệp, triển khai và đẩy mạnh cho vay
theo hình thức bảo lãnh tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nguồn
vốn này tùy thuộc vào khả năng phát triển sản xuất. Vốn tín dụng đầu tư dài
hạn, vốn tín dụng từ quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia tập trung cho một số đơn vị
sản xuất kinh doanh theo đối tượng ưu tiên, nhất là các doanh nghiệp Nhà
nước hoạt động hiệu quả thuộc các ngành công nghiệp và sản xuất hàng hóa
xuất khẩu… Đồng thời các doanh nghiệp phải vay vốn trung và dài hạn, huy
động vốn tự có, vốn cổ phần các hình thức liên doanh liên kết…để tạo nguồn
cho đầu tư phát triển.
Đối với nguồn vốn đầu tư từ dân và doanh nghiệp: Khuyến khích các
thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, thu hút sự
tham gia của các thành phần kinh tế. Cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư
139
thông thoáng trong việc tiếp cận với các cơ hội kinh doanh, đơn giản hóa các
thủ tục, quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký kinh doanh,
gia nhập thị trường, tiếp cận với các nguồn vốn và các quan hệ tài chính, tín
dụng nhằm phát huy cao độ các nguồn lực để phát mạnh khu vực kinh tế tư
nhân góp phần tăng trưởng kinh tế thành phố.
Đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài: Xúc tiến việc quảng bá tạo cơ
hội thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, trọng tâm là: tuyên truyền quảng
bá hình ảnh môi trường đầu tư thuận lợi ở thành phố; xây dựng và quảng bá
thương hiệu các sản phẩm; tạo điều kiện thuận lợi về mặt bằng sản xuất - kinh
doanh và các công trình hạ tầng kỹ thuật…Điều chỉnh, bổ sung, ban hành mới
các chính sách khuyến khích về đầu tư và kinh doanh đổi mới CN, vào các
lĩnh vực CN cao, phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực, phát triển
mạnh các loại hình du lịch, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch và
mở rộng thị trường xuất khẩu…Công khai hóa các quy trình thủ tục hành
chính để đơn giản hóa thủ tục đầu tư, rút ngắn thời gian thẩm định, cấp phép
đầu tư, mở rộng diện đăng ký cấp phép đầu tư tạo điều kiện thuận lợi và thực
hiện các thủ tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà đầu tư nước ngoài.
4.2.2.3. Lựa chọn và phát triển mạnh khoa học và công nghệĐẩy mạnh phát triển KH&CN từng bước phát triển KTTT phục vụ
CNH, HĐH trong những năm tới thành phố cần chú trọng một số giải pháp
sau đây:
Thứ nhất: Lựa chọn, áp dụng CN phù hợp. Trong dây chuyền sản xuất
cần HĐH từng phần, từng công đoạn nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ
giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường trong và
ngoài nước. Lựa chọn áp dụng CN phù hợp với từng giai đoạn phát triển,
không nhập khẩu CN và thiết bị đã lạc hậu. Chú trọng phát triển khoa học CN
theo hướng mua hoặc nhập CN mới của các nước phát triển. Đồng thời đẩy
mạnh hoạt động nghiên cứu phát triển KH&CN trên địa bàn thành phố theo
140
hướng gắn kết chặt chẽ giữa tổ chức, cá nhân nghiên cứu với các đơn vị,
doanh nghiệp sử dụng kết quả, thực hiện nghiên cứu theo đơn đặt hàng của
doanh nghiệp, khuyến khích và hỗ trợ kinh phí từ nguồn ngân sách thành phố
cho các doanh nghiệp tự đầu tư nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, khai thác tốt và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn sự
nghiệp khoa học.
Thứ hai: Phát triển thị trường khoa học - CN. Phát triển các hoạt động
tư vấn dịch vụ, xúc tiến mua bán, chuyển giao CN - cầu nối giữa khoa học
và CN với sản xuất nhằm nhanh chóng ứng dụng KH&CN vào sản xuất.
Hình thành và phát triển các tổ chức xúc tiến mua bán CN. Phát triển dịch vụ
pháp lý về sở hữu trí tuệ và các dịch vụ pháp lý khác liên quan tới mua bán
CN. Khuyến khích các tổ chức tài chính cung ứng các dịch vụ tài chính hỗ
trợ đổi mới CN, chuyển giao và ứng dụng CN. Xây dựng cơ chế, quy định
trách nhiệm đối với các cơ quan chuyển giao và nhận chuyển giao đối với
kết quả nghiên cứu phục vụ công ích. Chuyển mạnh hoạt động nghiên cứu
ứng dụng và phát triển CN gắn với thị trường. Khuyến khích, thúc đẩy các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đặt hàng với các tổ chức khoa
học và CN trong nước và nước ngoài. Đẩy mạnh liên kết giữa viện nghiên
cứu, trường đại học, các tổ chức tài chính và doanh nghiệp. Khuyến khích
các doanh nghiệp nhập khẩu CN theo hướng nhập khẩu máy móc, thiết bị,
dịch vụ kỹ thuật.
Thực hiện tốt vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu công
nghiệp của cá nhân, pháp nhân gồm quyền sở hữu sáng chế, giải pháp hữu
ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, quyền sử dụng với tên gọi
xuất xứ hàng hóa,.. để khuyến khích việc nghiên cứu và sáng tạo khoa học-
CN. Cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin về, quy trình, giá cả, hay những
CN đã hết thời hạn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ… cho các doanh nghiệp (đối
với CN nhập khẩu từ nước ngoài) điều này giảm được thiệt hại do các nhà đầu
141
tư nước ngoài lợi dụng.
Thứ ba: Đổi mới cơ cấu và phương thức hoạt động của các tổ chức
khoa học - CN. Thực hiện chuyển các tổ chức KH&CN sang hoạt động theo
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Xây dựng cơ chế chính sách về chuyển
giao kết quả nghiên cứu sử dụng kinh phí từ ngân sách. Đổi mới công tác
thẩm định thông tin đối với các đề tài từ khâu xây dựng, xét chọn cho đến
đánh giá nghiệm thu. Thực hiện phương thức giao trực tiếp, từng bước mở
rộng phương thức tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ KH&CN,
trên nguyên tắc bảo đảm tính công khai, minh bạch và có tiêu chí rõ ràng. Đổi
mới cơ chế quản lý kinh phí ngân sách chi cho nghiên cứu khoa học theo
hướng khoán gọn trên cơ sở hợp đồng nghiên cứu đã ký kết nhằm tạo thuận
lợi và kích thích các nhà khoa học, các doanh nghiệp tham gia tích cực, hiệu
quả hơn trong nghiên cứu khoa học, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất.
Thứ tư: Có chính sách ưu đãi đối với cán bộ khoa học - CN
Có chính sách quan tâm đến đời sống của các nhà khoa học nhất là các
nhà khoa học thật sự tâm huyết, cống hiến hết mình vì hoạt động khoa học và
CN của thành phố. Đặt ra những quy định cụ thể về mức tiền thưởng, thù lao
xứng đáng đối với những cán bộ có năng lực sáng tạo, có những sáng kiến,
công trình khoa học được áp dụng vào thực tiễn.
Thứ năm: Xây dựng những cơ chế phù hợp đối với khu CN cao, vườn
ươm CN thúc đẩy phát triển khoa học - CN. Hoạt động của khu CN cao và
vườn ươm CN khác so với các doanh nghiệp vì vậy xây dựng cơ chế quản lý
trong khu CN cao phải có lợi cho quá trình đổi mới CN, phù hợp với sự phát
triển của CN cao, kích thích quyền tự chủ trong đổi mới CN. Để xây dựng
thành công khu CN cao đòi hỏi có môi trường pháp lý thuận lợi cho các nhà
đầu tư với cơ chế thông thoáng trong dạng "phi điều chỉnh" (đặc cách) về hoạt
động kinh doanh, chuyển giao CN, một số quy định đặc biệt về quyền sử
142
dụng đất đai, nhà ở, nhà xưởng, tạo sự an tâm cho các nhà đầu tư. Trong thời
gian đầu, thành phố có những quy định về chính sách đầu tư, hỗ trợ đầu tư,
chính sách thuế phù hợp đối với những nhà đầu tư có dự án đầu tư vào khu
CN cao như: miễn, giảm thuế (doanh nghiệp, thu nhập cá nhân), được giữ lại
khoản thu của khu CN cao (liên quan đến đất và thuế phát sinh) để đầu tư
phát triển. Xây dựng môi trường làm việc dân chủ, tôn trọng tri thức, nhân tài
tạo điều kiện tốt cho sự phát triển KH&CN.
Thứ sáu: Đa dạng hóa phương thức chuyển giao CN. Đây có thể nói là
một kênh tiếp nhận CN tiên tiến, CN cao dễ dàng nhất. Ở Việt Nam hay thành
phố Đà Nẵng CN được chuyển giao từ con đường đầu tư trực tiếp nước ngoài
là chủ yếu. Vì CN đi theo con đường này được chuyển giao đồng bộ từ khâu
nghiên cứu thị trường, thiết kế, lắp đặt cho đến sản xuất kinh doanh…Bên
cạnh đó cũng cần chú ý tới chuyển giao CN qua con đường các chuyên gia
nhập cư, tuy các chuyên gia nhập cư vào thành phố Đà Nẵng không nhiều
nhưng xét về tiềm năng đây là một cách chuyển giao CN có triển vọng. Một
phương thức nữa đó là chuyển giao CN qua con đường vay vốn hoặc tài trợ
của nước ngoài. Ở phương thức này phía nước ngoài chỉ là người hướng dẫn,
phía Việt Nam là người thực hiện nên phải làm chủ được CN nhập.
4.2.2.4. Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh doanh sản
phẩm mới, công nghệ mới
Doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn giữ vai trò to lớn trong mọi giai đoạn
phát triển của nền kinh tế. Ở Việt Nam hay thành phố Đà Nẵng cũng vậy phải
khuyến khích các doanh nghiệp này phát triển vì nó được xem như là một
phương tiện cần thiết để giải trừ thất nghiệp, ổn định xã hội, tăng thu nhập
cho người lao động góp phần làm tăng GDP hàng năm. Thúc đẩy doanh
nghiệp vừa và nhỏ phát triển cần có giải pháp cụ thể sau:
Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tham gia sản xuất
một khâu nào đó trong kết cấu sản phẩm CN mới, phức tạp được các công ty
143
xuyên quốc gia giao cho. Điều này giúp họ dễ dàng hòa vào mạng lưới thông
tin quốc tế, làm cho thông tin và năng lực sản xuất được nâng lên, tăng cường
năng lực ứng biến đối với thị trường, tạo cơ hội mới vươn ra thị trường thế
giới. Bên cạnh đó các doanh nghiệp này vẫn sản xuất các sản phẩm độc đáo
dựa vào kỹ nghệ truyền thống chuyên thỏa mãn nhu cầu đặc biệt của thị
trường khu vực. Dựa vào những thế mạnh và hiện trạng phát triển kinh tế của
Đà Nẵng trong những năm qua, các doanh nghiệp thành phố nên đầu tư vào
các ngành: du lịch, dịch vụ, công nghiệp là ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó
tập trung phát triển một số ngành công nghiệp chủ yếu: công nghiệp điện -
điện tử, công nghiệp CN thông tin, công nghiệp cơ khí, công nghiệp dịch vụ
hàng hải, công nghiệp chế biến… Hình thành và phát triển một số doanh
nghiệp CN sinh học nhằm sản xuất kinh doanh các sản phẩm CN sinh học
phục vụ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.
Ngoài ra, trên thực tế nhận thức của doanh nghiệp và người dân về
các sản phẩm thân thiện với môi trường còn chưa cao vì vậy theo tác giả
cần phải có những chính sách phát triển các sản phẩm này như: thúc đẩy
phát triển khoa học - CN phục vụ cho phát triển sản phẩm thân thiện môi
trường; Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư phát triển các sản
phẩm thân thiện môi trường; Khuyến khích tiêu dùng xanh và nâng cao
nhận thức cho người tiêu dùng về bảo vệ môi trường sử dụng sản phẩm
thân thiện môi trường.; Tạo lập các điều kiện phát triển thị trường sản
phẩm thân thiện môi trường…
Giai đoạn trước mắt, với các doanh nghiệp đã có, cần phải tăng cường
đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị CN để tăng năng suất, hạ giá thành nhằm
đứng vững và mở rộng thị phần trong cạnh tranh. Đối với các doanh nghiệp
xây dựng mới, ngay từ đầu phải có quan điểm tiếp nhận CN tiên tiến, đảm bảo
yếu tố bảo vệ môi trường, đón đầu, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn cơ bản
để định hướng phát triển, lựa chọn các dự án đầu tư và CN.
144
4.2.2.5. Mở rộng thị trường để thu hút và phát huy các nguồn lựcđẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế trithức
- Đối với thị trường nước ngoài
Mở rộng thị trường nước ngoài đây là cơ hội để cho thành phố xuất
nhập khẩu hàng hóa, khoa học CN, lao động... trong thời gian tới để tăng kim
ngạch xuất khẩu cho thành phố ngoài việc giữ vững và mở rộng các thị trường
đã có của thành phố như Mỹ, EU, Nhật thì cần tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu
và có chiến lược tiếp thị các thị trường mới như Trung Cận Đông, Mỹ La
Tinh, Asean. Nhất là thị trường ngay trong khu vực Asean là các thị trường
hứa hẹn tiềm năng xuất khẩu với doanh nghiệp thành phố: ví dụ thị trường
Indonesia nhu cầu tiêu dùng tăng nhanh do sự chuyển dịch dân số về mặt
thành thị, nhiều mặt hàng Đà Nẵng phù hợp với yêu cầu nơi đây như: da giầy,
may mặc, chế biến thủy sản... Hay thị trường Myanmar với 60 triệu dân
nhưng sản xuất nội địa chỉ đáp ứng 15% nhu cầu nước họ còn đâu là phải
nhập khẩu. Theo tác giả đây là 2 thị trường hứa hẹn tiềm năng xuất khẩu với
doanh nghiệp thành phố. Nhưng để đón đầu các doanh nghiệp cần lưu ý đến
các vấn đề về văn hóa, phương thức kinh doanh hay cách tiếp cận để có hệ
thống phân phối tại mỗi thị trường, phải đưa sản phẩm có tính độc đáo, có bản
sắc riêng chứ không nên mang các sản phẩm cùng loại để cạnh tranh về giá.
Để tiếp cận các nguồn vốn FDI, ODA... thì cần có môi trường đầu tư
thuận lợi bằng những chính sách khuyến khích đầu tư với những ưu đãi đặc
biệt cụ thể như sau: i) Cần tiếp tục đơn giản hoá thủ tục đăng ký đầu tư, ở
những lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Nghĩa là nhà nước chủ yếu xác định
những lĩnh vực không cần hoặc hạn chế đầu tư nước ngoài, còn lại thì các nhà
đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước được hưởng những qui định như
nhau; ii) Phân định rõ và xoá bỏ những chồng chéo về quản lý nhà nước đối
với hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chủ
145
yếu là giữa Bộ Kế hoạch - Đầu tư, chính quyền cấp tỉnh, thành phố thuộc
trung ương và Ban quản lý các KCX - KCN; iii) Để phát huy hiệu quả của
việc sử dụng nguồn vốn đầu tư trong phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường
đóng vai trò của pháp luật trong quản lý dự án đầu tư, hệ thống pháp luật về
đầu tư cũng phải được xây dựng một cách thống nhất, minh bạch, khả thi. iv)
Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý doanh
nghiệp, công chức nhà nước, và công nhân kỹ thuật có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, phương pháp hoạt động kinh tế đối ngoại, trình độ ngoại ngữ và
tay nghề kĩ thuật cao, đủ khả năng để đáp ứng tốt yêu cầu thu hút và quản lý
hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Đối với thị trường trong nước
Thị trường trong nước còn rất nhiều tiềm năng cần khai thác và tạo uy
tín đối với người tiêu dùng nội địa, trước hết là là vùng Duyên Hải miền
Trung, với các giải pháp sau:
Xây dựng mối liên hiệp hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trên địa
bàn để hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, cung cấp nguyên vật liệu..., tránh hiện tượng
tranh mua, tranh bán, chèn ép gây rối loạn thị trường. Phát triển thị trường
nội địa bằng cách đưa ra những sản phẩm tốt nhất có thể, kiểu dáng, mẫu mã
đẹp và đẳng cấp quốc tế nhưng giá thì bán chỉ giá Việt Nam.
Mở rộng hệ thống phân phối nhằm nâng cao thị trường nội địa bằng
việc quảng bá hình ảnh doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại
chúng, các trang web của ngành, thành phố tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp
tham gia Hội chợ, triển lãm...Bên cạnh việc mở rộng thị trường ở các thành
phố lớn thì các doanh nghiệp cũng phải chú ý tới thị trường nông thôn, đây là
thị trường đầy tiềm năng. Do sự chênh lệch về thu nhập nên thị trường này
thường bị các doanh nghiệp bỏ ngỏ. Hiện nay, đời sống người nông dân đã
nâng lên mức đáng kể nên nhiều mặt hàng trước kia coi là xa xỉ thì nay họ rất
cần nhất là đối với những mặt hàng công nghiệp tiêu dùng lâu bền mang tính
146
phổ biến như: tivi, phương tiện nghe nhìn, máy giặt, đồ điện tử... và các dịch
vụ phục vụ cuộc sống và sinh hoạt của con người.
Thành phố khuyến khích các doanh nghiệp và hỗ trợ một phần kinh phí
cho doanh nghiệp thuê các chuyên gia giỏi về kỹ thuật, quản lý trong một thời
gian nhất định để giúp doanh nghiệp chuyển giao CN, đổi mới phương pháp
quản lý nhằm tạo đột phá về năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, nhất là
đối với những ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố. Tăng cường hợp tác,
liên doanh, liên kết và phối hợp phát triển với các tỉnh, thành phố khác trên cơ
sở phát huy thế mạnh đặc thù của nhau để cùng phát triển, hai bên cùng có lợi
trên một số lĩnh vực như: phối hợp trong việc khai thác, sử dụng hệ thống
cảng Đà Nẵng; phối hợp trong việc phát triển du lịch; phối hợp với các địa
phương ven biển xây dựng và khai thác các trung tâm hậu cần nghề cá.
4.2.2.6. Mở rộng quan hệ đối ngoại
Thành phố Đà Nẵng trong những năm qua luôn chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ,
đối tác kinh tế và doanh nghiệp nước ngoài, thu hút đầu tư, kêu gọi các nguồn
hỗ trợ phát triển chính thức, viện trợ phi chính phủ, xúc tiến thương mại, du
lịch, quảng bá hình ảnh thành phố được đẩy mạnh. Để thúc đẩy các hoạt động
kinh tế đối ngoại, thành phố cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau:
- Đẩy mạnh công tác thông tin về ngoại giao kinh tế.
Xây dựng và hình thành cơ chế phối hợp, trao đổi thông tin giữa các cơ
quan, ban ngành làm công tác đối ngoại và kinh tế đối ngoại với các cơ quan
và cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn thành phố. Định kỳ hàng năm có kế
hoạch trao đổi thông tin định hướng về nhu cầu mở rộng thị trường, hợp tác
quốc tế để các cơ quan làm công tác đối ngoại và kinh tế đối ngoại kịp thời
nắm bắt và phục vụ công tác vận động, xúc tiến nhanh chóng, hiệu quả. Định
kỳ 6 tháng tổ chức giao ban kinh tế đối ngoại giữa lãnh đạo thành phố với các
sở, ban, ngành.
147
Hình thành cơ chế cung cấp thông tin định kỳ cho các cơ quan đại diện
Việt Nam tại nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam, các địa
phương nước ngoài có quan hệ hợp tác với thành phố nhằm duy trì quan hệ và
tranh thủ sự hỗ trợ của các cơ quan này trong việc xúc tiến và triển khai các
chương trình hợp tác đầu tư.
- Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công tác ngoại giao kinh tế
Bổ sung và tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và kinh
tế đối ngoại tại các cơ sở, ban, ngành, địa phương của thành phố. Đảm bảo tại
các cơ quan, doanh nghiệp trên địa bàn thành phố có ít nhất từ 1 đến 2 cán bộ
kiêm nhiệm được đào tạo về đối ngoại, am hiểu các vấn đề hợp tác quốc tế.
Phối hợp với Bộ Ngoại giao, các bộ, ngành, Trung ương thường xuyên tổ
chức các khóa đào tạo, tập huấn ngắn hạn về công tác ngoại giao kinh tế và
hội nhập kinh tế quốc tế cho cán bộ thành phố. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
năng lực đội ngũ biên phiên dịch của thành phố, sẵn sàng tham gia biên phiên
dịch cho các hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại của thành phố, các hội
nghị quốc tế lớn. Tập trung tuyển chọn và bồi dưỡng cán bộ giỏi các ngoại
ngữ: Anh, Pháp, Nhật, Hàn, Trung, Thái, Lào.
- Thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước, trong khu vực và trên thế giới
Tích cực tham gia các diễn đàn khu vực và quốc tế, các hiệp hội thành phố
lớn trên thế giới. Phát huy vai trò là thành viên của các mạng lưới như: Hành lang
Kinh tế Đông - Tây, hợp tác giữa các nước thuộc Tiểu vùng sông Mê Kông mở
rộng, mạng lưới khu vực các chính quyền địa phương quản lý dân cư, trung tâm
thông tin đô thị châu Á tại Kobe, diễn đàn các thành phố thế giới...
Hàng năm thành phố tổ chức các đoàn đi công tác nước ngoài để xúc
tiến quan hệ hợp tác theo hướng đưa nội dung kinh tế, tập trung xúc tiến đầu
tư, thương mại, du lịch, hợp tác khoa học kỹ thuật, giáo dục làm trọng tâm.
Tăng cường phối hợp với các cơ quan trung ương để lãnh đạo thành phố tham
gia các đoàn lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước thăm và làm việc tại các
148
quốc gia có tiềm năng hợp tác. Vận động các đoàn nguyên thủ quốc gia, đoàn
cấp cao và các tập đoàn kinh tế lớn đến thăm, làm việc và tìm hiểu cơ hội hợp
tác tại Đà Nẵng. Tranh thủ sự hỗ trợ và phối hợp của các cơ quan đại diện
Việt Nam tại nước ngoài trong công tác quảng bá hình ảnh thành phố, xúc
tiến đầu tư, thương mại, du lịch cũng như việc tư vấn, thẩm tra năng lực của
đối tác nước ngoài. Hàng năm, chủ động lập chương trình hợp tác giữa thành
phố Đà Nẵng với cơ quan đại diện Việt Nam tại một số quốc gia có tiềm năng
hợp tác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa kỳ, Úc, EU, ASEAN... và có đánh giá
định kỳ về kết quả chương trình hành động này.
Nghiên cứu, đề xuất thành lập văn phòng đại diện thành phố Đà Nẵng
tại những thị trường giàu tiềm năng, trước hết ở Mỹ, Hàn Quốc, xúc tiến, thúc
đẩy hợp tác theo mô hình của văn phòng đại diện Đà Nẵng tại Tokyo.
4.2.2.7. Ứng phó và khắc phục hậu quả các sự cố môi trường
Trong thời kỳ quy hoạch để đạt mục tiêu phấn đấu trở thành thành phố
công nghiệp trước năm 2020, nhiều dự án xây dựng khu công nghiệp, đô thị,
thành phố ngày càng được mở rộng ra…Nhưng bên cạnh đó sẽ có tác động
không nhỏ đến môi trường do: phát triển sản xuất công nghiệp, phát triển du
lịch, quá trình đô thị hóa dẫn tới làm mất đất rừng, ô nhiễm về nước thải, ô
nhiễm không khí, rác thải sinh hoạt…vì vậy theo tác giả cần có những giải
pháp cụ thể sau:
Đối với các khu công nghiệp và cơ sở công nghiệp: Có kế hoạch và
kiên quyết di dời các doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm lớn ra xa
các khu dân cư, chuyển vào các khu công nghiệp đồng thời đầu tư xây dựng
hệ thống thiết bị lọc bụi và hấp thụ khí độc ở các doanh nghiệp trước khi thải
vào môi trường không khí; ứng dụng CN tiên tiến đối với hệ thống xử lý nước
thải của doanh nghiệp, các khu, cụm công nghiệp trước khi xả vào hệ thống
sông ngòi.
Quản lý công nghiệp theo xu hướng hiện đại trên cơ sở tiếp tục thực
149
hiện có hiệu quả chương trình quản lý ô nhiễm công nghiệp thành phố, đưa
vào áp dụng phổ biến các giải pháp kỹ thuật trong quản lý công nghiệp trong
5 năm tới thực hiện sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, đổi mới
CN…từng bước xây dựng các khu công nghiệp sinh thái đến năm 2020. Sắp
xếp các loại hình công nghiệp phù hợp trong các khu công nghiệp và đầu tư
thêm các dự án xử lý hoặc tái chế chất thải tại chỗ, từng bước xây dựng khu
công nghiệp thân thiện môi trường. Thực hiện các chế tài xử phạt nghiêm
khắc đối với các cơ sở công nghiệp vi phạm vần để xả thải ra môi trường.
Đối với khí thải từ các dây truyền sản xuất cần phải thường xuyên
định kỳ quan trắc mức độ ô nhiễm, phân tích thành phần khí thải từ nguồn
thải và ở các khu vực dân cư lân cận. Nếu mức độ ô nhiễm vượt quá tiêu
chuẩn cho phép phải có biện pháp khắc phục ngay hoặc áp dụng biện pháp
đình chỉ, di dời các cơ sở sản xuất ra xa khu vực dân cư để đảm bảo an toàn
môi trường sống.
Đối với khu đô thị và nông thôn: Phát triển cây xanh nhằm đáp ứng các
mục tiêu môi trường của đề án xây dựng thành phố môi trường. Tăng cường
việc sử dụng các phương tiện công cộng, phương tiện sử dụng nhiên liệu gas
để giảm thiểu ô nhiễm và giảm thiểu phát thải khí nhà kính.
Thực hiện các mô hình quản lý mới nhằm nâng cao năng lực quản lý
rác thải cho thành phố theo hướng hiện đại. Tăng mạng lưới thu gom đến
những vùng nông thôn, chuyển đổi lịch thu gom vào ban đêm và thu gom trực
tiếp, xóa các trạm trung chuyển gây ô nhiễm, giảm dần thùng rác trên địa bàn,
tăng tỷ lệ rác tái sử dụng, tái chế, kiểm soát chặt chẽ việc đổ thải, phế thải.
Tuyên truyền và nâng cao nhận thức của người dân,tổ chức, doanh
nghiệp về bảo vệ môi trường: Các địa phương đoàn thể, cơ quan, đơn vị tiếp
tục thường xuyên hơn trong công tuyên truyền, ra quân vệ sinh môi trường để
cộng đồng có chuyển biến mạnh mẽ trong hành động. Phát huy vai trò của các
tổ chức đoàn thể trong việc tuyên truyền xây dựng hành vi thân thiện môi
150
trường, từng bước thay đổi thói quen tiêu dùng góp phần giảm thiểu rác thải.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về CNH, HĐH gắn với phát triển kinh
tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng, tác giả rút ra một số kết luận sau đây:
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là con đường cần thiết để
rút ngắn quá trình chuyển kinh tế xã hội của nước ta nói chung, thành phố Đà
Nẵng nói riêng sớm trở thành một xã hội hiện đại. Để thực hiện con đường
này, cần phải tìm ra được phương thức gắn kết ba quá trình trên trong một cơ
cấu và cơ chế thích hợp. Xuất phát từ điều kiện khoa học, CN và kinh tế trên
thế giới, trong nước hiện nay, con đường gắn kết CNH, HĐH với phát triển
kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng đòi hỏi phải kết hợp phát triển CN
truyền thống với CN hiện đại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng
nhanh các ngành công nghiệp, dịch vụ có hàm lượng tri thức và giá trị gia
tăng cao, thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển khoa học và CN, phổ cập CN
thông tin, kết hợp CN ngoại sinh và nội sinh.
Do CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là một quá trình kinh
tế-xã hội, nên việc thực hiện phải chịu tác động bởi nhiều yếu tố cả khách
quan và chủ quan. Đó là các nguồn lực, tiềm năng của đất nước, của địa
phương về tài nguyên, vốn, nhân lực và khoa học, CN; độ mở của nền kinh tế
với bên ngoài và hiệu lực quản lý của chính quyền nhà nước các cấp, sự năng
động của cộng đồng doanh nghiệp. Việc sử dụng và phát huy tốt các nguồn
lực, tiềm năng này là điều kiện bảo đảm thành công của sự nghiệp CNH,
HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức của mỗi tỉnh, thành phố.
Để có thêm căn cứ trong lựa chọn giải pháp phát triển trong giai đoạn
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức của thành phố Đà Nẵng, luận án
nghiên cứu kinh nghiệm của Singapore, Hàn Quốc, Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh về quá trình này, rút ra 5 bài học kinh nghiệm có thể vận dụng.
151
Dựa vào những phân tích lý thuyết, kinh nghiệm thực tiễn, tác giả luận
án đã khảo sát thực trạng CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở
thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 đến nay, chỉ ra những thành công, hạn chế
và nguyên nhân của thực trạng này. Thực tế cho thấy những kết quả đạt được
về CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng vẫn
chưa được như mong muốn. Thành phố đang vấp phải tình trạng phát triển
chủ yếu dựa vào tài nguyên, tăng lượng vốn và lao động kỹ năng thấp. Để đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, thành phố Đà Nẵng còn
nhiều việc cần phải làm. Phải chuyển sang phát triển theo chiều sâu, coi trọng
tri thức, khoa học và CN; phải phát triển và sử dụng nhân lực chất lượng cao,
nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền nhà nước các cấp.
Để thực thi có hiệu quả các yêu cầu trên trong thời gian tới, vấn đề là
phải đưa ra được các dự báo chính xác về bối cảnh, triển vọng, xác định đúng
phương hướng và đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ. Phương hướng
thúc đẩy CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là tiếp tục tìm ra
hướng để gắn kết các quá trình phát triển, phấn đấu đưa Đà Nẵng trở thành
thành phố công nghiệp phát triển bền vững vào trước năm 2020. Giải pháp để
thực hiện phương hướng này là tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao
nhận thức của cán bộ và người dân về tầm quan trọng và con đường CNH,
HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức; tăng cường công tác dự báo, nâng cao
hiệu lực quản lý của các cấp chính quyền thành phố; khai thác, sử dụng và
phát huy tốt các nguồn lực nhất là nguồn lực trong thành phố, trong nước về
nhân lực, khoa học, CN, vốn; coi trọng cơ chế thị trường trong phân bổ nguồn
lực và thu hút nguồn lực từ bên ngoài…
152
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Phan Quang Trung - Vương Phương Hoa (2012), "Ngoại giao kinh tế với phát
triển kinh tế ở thành phố Đà Nẵng", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 3 (112).
2. Vương Phương Hoa (2012), ''Kinh nghiệm phát triển kinh tế dựa vào tri
thức của Singapore và bài học đối với thành phố Đà Nẵng'', Tạp chí Giáo
dục lý luận, số 189.
3. Vương Phương Hoa - Phan Quang Trung (2013), ''Đà Nẵng với lựa chọn
định hướng xây dựng mô hình thành phố công nghiệp'', Tạp chí Giáo dục
lý luận, số 197.
4. Vương Phương Hoa (2013), ''Huy động vốn đầu tư cho công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng'', Tạp
chí Khoa học và phát triển, số 176.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Huyền Anh (2010), "Đà Nẵng hội tụ dự án CN cao", Báo Đầu tư, tr.16.
2. Nguyễn Kỳ Anh, Nguyễn Việt Quốc (2011), "Xây dựng mô hình phát
triển du lịch bền vững cho thành phố Đà Nẵng", Tạp chí Phát triển
kinh tế - xã hội Đà Nẵng, (18), tr.20.
3. Võ Thị Thúy Anh, Nguyễn Quốc Khánh (2010), "Một số giải pháp tăngcường thu hút FDI vào thành phố Đà Nẵng", Tạp chí Phát triển kinh
tế - xã hội Đà Nẵng, (1 + 2), tr.13.
4. Võ Thị Thúy Anh (2010), "Định hướng phát triển dịch vụ tư vấn tài
chính tại thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2010 - 2020", Tạp chí Phát
triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, (5 + 6), tr.9.
5. Bộ Chính trị (2003), Nghị quyết số 33 - NQ/TW của Bộ Chính trị về xây
dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
6. Bộ Kế hoạch đầu tư - Tổng cục thống kê (2012), Báo cáo Điều tra lao
động và việc làm Việt Nam năm 2011.
7. Chu Văn Cấp (2006), "Tìm hiểu vấn đề "Đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức" trong văn kiện Đại
hội lần thứ X của Đảng", Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý
luận tháng 8.
8. Triệu Khải Chính, Thiệu Dục Đồng (2010), Kỳ tích Phố Đông, Nxb
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa - Đặng Hữu Toàn (2002),
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
10. Nguyễn Trọng Chuẩn (2011), "Công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và
sự phát triển bền vững", Tạp chí Cộng sản, (827), tr. 49
11. Lê Kim Chung (2003), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản ở
Duyên hải Nam Trung Bộ, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh.
12. Ông Nguyên Chương, Trần Như Quỳnh (2010), "Dự báo phát triển khu
vực dịch vụ thành phố Đà Nẵng đến năm 2015 và một số gợi ý
chính sách", Tạp chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, (7+8),
tr.47.
13. Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng (2007), Niên giám thống kê Đà Nẵng
2006, Nxb Thống kê.
14. Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng (2010), Đà Nẵng 15 năm đổi mới và
phát triển 1996 - 2010.
15. Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng (2012), Niên giám thống kê Đà Nẵng
2011, Nxb Thống kê.
16. Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng (2013), Niên giám thống kê Đà Nẵng
2012, Nxb Thống kê.
17. Đỗ Minh Cương - Mạc Văn Tiến (2004), Phát triển lao động kỹ thuật ở
Việt Nam lý luận và thực tiễn, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
18. Vũ Đình Cự - Trần Xuân Sầm (2006), Lực lượng sản xuất mới và kinh tế
tri thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Vũ Đình Cự (2007), Khoa học CN thông tin và điện tử triển vọng phát
triển và ứng dụng trong hai thập niên tới, Nxb Khoa học và kỹ
thuật, Hà Nội.
20. Lương Minh Cừ, Đào Duy Hân và Phạm Đức Hải (2012), Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế thành phố Hồ Chí Minh
và Việt Nam theo hướng cạnh tranh đến năm 2020, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.
21. Nguyễn Văn Dân (2008), Diện mạo và triển vọng của xã hội tri thức,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Phạm Văn Dần (2000), Lý luận hình thái kinh tế xã hội với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến
sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
23. Phan Xuân Dũng (2008), CN tiên tiến và CN cao với tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
24. Phạm Ngọc Dũng (2011), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn từ lý luận đến thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
25. Nguyễn Văn Dụ, Hồng Hà và Trần Xuân Giá (2006), Tìm hiểu một số
thuật ngữ trong văn kiện đại hội X của Đảng, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
26. Tô Ánh Dương (2012), "Tổng quan kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 -
2011 và những thách thức chính sách", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế,
(6), tr.3.
27. Nguyễn Đình Dương, Nguyễn Thành Công (2013), Phát triển kinh tế tri
thức trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2020, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XX, Đà Nẵng.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
37. Nguyễn Bích Đạt (2007), "Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và CN nhằm
nâng cao hiệu quả của kinh tế", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (1), tr.15.
38. Ngô Văn Điểm (2004), Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Lê Hữu Đốc (2003), Công nghiệp thành phố Đà Nẵng thực trạng và giải
pháp phát triển, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
40. Hà Văn Hội (2011), "Một số kinh nghiệm từ chính sách phát triển dịch
vụ logistic của Singapore", Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính
trị thế giới, (11), tr.53.
41. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2012), Tập bài
giảng, Phần lý luận chính trị khối thứ nhất Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tư tưởng của Đảng ta, Nxb Chính
trị - Hành chính, Hà Nội.
42. Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng (2011), Kỷ yếu kỳ họp thứ 16,17
và kỳ họp tổng kết nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng
khóa VII (2004 - 2011).
43. Nguyễn Đắc Hưng (2005), Tri thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển
đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Đặng Hữu (2003), Phát triển kinh tế tri thức – rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta , đề tài khoa học cấp Nhà nước,
mã số KX.02.03
45. Đặng Hữu (2004), Kinh tế tri thức thời cơ và thách thức đối với sự phát
triển của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Phạm Khiêm Ích - Nguyễn Đình Phan (1994), Công nghiệp hóa và hiện
đại hóa ở Việt Nam và các nước trong khu vực, Nxb Thống kê, Hà
Nội.
47. Võ Duy Khương - Hồ Kỳ Minh - Nguyễn Việt Quốc (2010), "Thành tựu
phát triển kinh tế của thành phố Đà Nẵng giai đoạn 1997 - 2009",
Tạp chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, (3+4), tr.6.
48. Võ Duy Khương (2010), "Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu
kinh tế thành phố Đà Nẵng đến năm 2020", Tạp chí Phát triển kinh
tế - xã hội Đà Nẵng, (9+10), tr.2.
49. Đặng Mộng Lân (2002), Kinh tế tri thức những khái niệm và vấn đề cơbản, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
50. Nguyễn Thị Như Liêm - Trần Như Quỳnh (2010), "Một số vấn đề thực
trạng phát triển dịch vụ của thành phố Đà Nẵng", Tạp chí Phát triển
kinh tế - xã hội Đà Nẵng, (1 + 2), tr.6.
51. Bùi Khắc Linh (2011), "Một số phân tích định lượng vai trò ngành CN
sáng tạo trong nền kinh tế Việt Nam", Tạp chí Những vấn đề kinh tếvà chính trị thế giới, (10), tr.66.
52. Hoàng Thị Bích Loan (2008), Thu hút đầu tư trực tiếp của các công ty
xuyên quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Nguyễn Thị Luyến (2005), Nhà nước với phát triển kinh tế tri thức trong
bối cảnh toàn cầu hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
54. Trần Hồng Lưu (2011), Vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trịquốc gia, Hà Nội.
55. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. C.Mác, Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
57. C.Mác, Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 46, Phần II, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
58. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Hồ Kỳ Minh, Trần Như Quỳnh (2010), "Định hướng phát triển khu vực
dịch vụ của thành phố Đà Nẵng đến năm 2020", Tạp chí Phát triển
kinh tế - xã hội Đà Nẵng, (5 + 6), tr.2.
61. Hồ Kỳ Minh, Trương Sỹ Quý, Nguyễn Thị Bích Thủy và Nguyễn Việt
Quốc (2011), "Phân tích hành vi và đánh giá của khách du lịch quốc
tế đối với điểm đến Đà Nẵng", Tạp chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà
Nẵng, (16 + 17), tr.12.
62. Trần Văn Minh (2011), "Định hướng và giải pháp phát triển nhân lực
thành phố Đà Nẵng đến năm 2020", Tạp chí Phát triển kinh tế - xã
hội Đà Nẵng, (15), tr.2.
63. Đỗ Hoài Nam (1996), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển
các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
64. Nguyễn Văn Nam (2011), "Để phát huy hiệu quả tiềm năng của đội ngũ
tri thức trên địa bàn thành phố Đà Nẵng", Tạp chí Phát triển kinh tế
- xã hội Đà Nẵng, (15), tr.8.
65. Kazushi Ohkawa - Hirohisa Kohama (2004), Kinh nghiệm công nghiệp
hóa của Nhật Bản và sự thích dụng của nó đối với các nền kinh tế
đang phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
66. Nguyễn Đình Phan (2006), "Chuyển dịch cơ cấu ngành của công nghiệp
trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (114), tr.3.
67. Đinh Thế Phong (2011), "CN con đường duy nhất để công nghiệp hóa",
Tạp chí Quản lý kinh tế, (11 + 12), tr.74.
68. Bùi Văn Phú (2011), "Phát triển kinh tế bền vững thông qua phát triển
các sản phẩm thân thiện", Tạp chí Quản lý kinh tế, (7 + 8), tr.41.
69. Lê Văn Phục (2011), "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp
ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố
Đà Nẵng hiện nay", Tạp chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng,
(15), tr.14.
70. Vũ Văn Phúc (2012), "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển
nhanh, bền vững ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế,
(406), tr.3.
71. Đỗ Nguyên Phương (2004), "Bước phát triển mới của khoa học và CN
nước ta", Tạp chí Cộng sản, (6), tr.8.
72. Huỳnh Phước (2008), "Đà Nẵng với phát triển CN cao", Tạp chí Tiêu
chuẩn đo lường chất lượng, (18 + 19), tr.47.
73. Huỳnh Phước (2010), "Kết quả bước đầu thực hiện chiến lược phát
triển khoa học và CN thành phố Đà Nẵng đến năm 2010, định
hướng đến năm 2015", Tạp chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà
Nẵng, (11 + 12), tr.38.
74. Huỳnh Phước (2011), "Phát triển khoa học và CN gắn liền và phục vụ
mục tiêu kinh tế - xã hội", Tạp chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà
Nẵng, (16 + 17), tr.8.
75. Phạm Thái Quốc - Hoàng Văn Hiển (2008), Quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của Hàn Quốc (1961 - 1993) và kinh nghiệm đối với Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
76. Phạm Thái Quốc (2001), Trung Quốc quá trình công nghiệp hóa trong
20 năm cuối thế kỷ XX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
77. Hồ Tấn Sáng (2010), "Sự phát triển của thành phố Đà Nẵng giai đoạn
1997 - 2009 phân tích từ góc độ chính trị phát triển", Tạp chí Phát
triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, (11 + 12), tr.2.
78. Sở Tài nguyên và Môi trường (2010), Báo cáo hiện trạng môi trường thành
phố Đà Nẵng giai đoạn 2005 - 2010 và định hướng đến năm 2015.79. Trương Văn Tân (2010), Khoa học và CN nano, Nxb Tri thức, Hà Nội.
80. Lê Bàn Thạch, Trần Thị Tri (2000), Công nghiệp hóa ở NIEs Đông Á vàbài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội
81. Đỗ Thị Thạch (2008), "Tri thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất
nước và hội nhập quốc tế", Tạp chí Lý luận chính trị, (6), tr.53.
82. Bùi Tất Thắng (2006), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
83. Ngô Đăng Thành, Trần Quang Tuyến và Mai Thị Thanh Xuân (2010),
Các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Nguyễn Kim Thản, Hồ Hải Thụy và Nguyễn Đức Dương (2005), Từ điển
Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Sài Gòn.
85. Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Viết Thông (2011), Tìm hiểu một số thuật ngữtrong văn kiện đại hội XI của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. Trần Đình Thiên (2002), Công nghiệp hóa ở Việt Nam - phác thảo và lộtrình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Nguyễn Quang Thuấn, Nguyễn Xuân Trung (2012), "Kinh tế xanh trong
đối mới mô hình tăng trưởng kinh tế và tái cấu trúc nền kinh tế Việt
Nam", Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, (3), tr.33.
88. Thủ tướng chính phủ (8/10/2010), Quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng đến năm 2020.
89. Thủ tướng chính phủ (23/4/2007), Quyết định phê duyệt danh mục các
ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn giai đoạn 2007 -
2010, tầm nhìn đến năm 2020.
90. Hoàng Thủy (2009), "Khu công nghiệp - CN cao Đà Nẵng", Đầu tư, tr.13.
91. Tổng cục Thống kê (2012), Niên giám thống kê 2011, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
92. Lưu Ngọc Trịnh (2002), Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức ở một số
nước trên thê giới hiện nay, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
93. Trung tâm thông tin tư liệu khoa học và CN quốc gia (2000), Kỷ yếu hội
thảo kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam.
94. Nguyễn Kế Tuấn (2004), Phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
95. Nguyễn Kế Tuấn (2006), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và
nông thôn ở Việt Nam con đường và bước đi, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
96. Phạm Ngọc Tuấn (2011), "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam", Tạp chí Sinh hoạt lý
luận, (2), tr.15.
97. Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Thị Hạ Vy và Nguyễn Lê Bảo Ngọc (2010),
"Chính sách thu hút nguồn nhân lực của thành phố Đà Nẵng", Tạp
chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, (1 + 2), tr.26.
98. Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Thị Hạ Vy (2010), "Một số giải pháp thu
hút nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực công của thành phố Đà
Nẵng trong thời gian tới", Tạp chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà
Nẵng, (9 +10), tr.26.
99. Trần Văn Tùng (2001), Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục
Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
100. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng - Sở Văn hóa, thể thao, du lịch
(2013), Báo cáo kết quả hoạt động ngành văn hóa, thể thao, du lịch
năm 2013 và phương hướng nhiệm vụ năm 2014.
101. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2/3/2012), Quyết định Ban hành
Quy định một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới CN trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng.
102. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (5/4/2012), Quyết định Phê duyệt
đề án " Phát triển dịch vụ thành phố Đà Nẵng đến năm 2015, tầm
nhìn đến năm 2020".
103. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (21/8/2008), Quyết định Ban hành
đề án " Xây dựng Đà Nẵng - thành phố môi trường".
104. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2009), Quy hoạch phát triển công
nghiệp thành phố Đà Nẵng đến năm 2020.
105. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2010), Báo cáo tổng kết 10 năm
thực hiện chỉ thị 58 - CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị về
đẩy mạnh và phát triển CN thông tin phục vụ CNH, HĐH đất nước.
106. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2010), Đề án Quy hoạch phát
triển nhân lực thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2011 - 2020.
107. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2010), Quy hoạch phát triển nông
nghiệp Đà Nẵng đến năm 2020.
108. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2010), Quy hoạch phát triển văn
hóa, du lịch Đà Nẵng đến năm 2020.
109. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2010), Quyết định Quy hoạch tổng thể
phát triển ngành khoa học và CN thành phố Đà Nẵng đến năm 2020.
110. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2011), Báo cáo kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội năm 2012 thành phố Đà Nẵng.
111. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2011), Báo cáo Quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng đến năm 2020.
112. Viện Khoa học giáo dục Việt Nam (2008), Kinh nghiệm của một số nước
về phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học CN gắn với xây dựng
đội ngũ tri thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2001), Kinh tế tri thức vấn
đề và giải pháp kinh nghiệm các nước phát triển và đang phát triển,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
114. Hồ Đức Việt - Đỗ Trung Tá (2006), CN thông tin và truyền thông phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Bưu
điện, Hà Nội.
115. Ngô Doãn Vịnh (2011), Nguồn lực và động lực cho phát triển nhanh và
bền vững nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2020, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
116. Cao Quang Xứng (2008), Tác động của kinh tế tri thức đến quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam,
Luận án Tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
117. Website: http://www.baodanang.vn: Báo Đà Nẵng điện tử
118. Website: http://www.ctk.danang.gov.vn: Cục thống kê thành phố Đà Nẵng
119. Website: http://www.danang.gov.vn: Cổng thông tin điện tử thành phố
Đà Nẵng
120. Website: http://www.dpi.danang.gov.vn: Sở kế hoạch và đầu tư thành
phố Đà Nẵng
121. Website: http:// www.dost.danang.gov.vn: Sở Khoa học và Công nghệ
TP Đà Nẵng
122. Website: http://www.hanoimoi.com.vn
123. Website: http:// www.ictdanang.vn: Thông tin và truyền thông TP Đà Nẵng
124. Website: http:// www.ipc.danang.gov.vn: Trung tâm xúc tiến đầu tư Đà Nẵng
125. Website: http://www.iza.danang.gov.vn: Ban quản l các khu công nghiệp
và chế xuất Đà Nẵng
126. Website: http:// www. khucongnghiep.com.vn
127. Website: http://www.nhandan.com.vn
128. Website: http:// www.pcworld.com.vn/pcworld/printArticle
129. Website: http://www.shtpvn.org: Khu CN cao thành phố Hồ Chí Minh
130. Website: http://www.tapchicongsan.org.vn/, ngày 22/2/2013.
131. Lê Thành Ý (2012), "Khoa học và CN: Thực trạng và những vấn đề đặt
ra", Tạp chí Khoa học và Tổ quốc, (11), tr.26.
Tài liệu tiếng nước ngoài
132. Chia Siow Yue (2000), "Singapore: toward a knowledge - based economy",
http://www.nomurafoundation.or.jp, cập nhật ngày 27 -1 -2000.
133. Dale Neef (1997), The Knowledge economy, Publisher Butterworth-
Heinemann
134. Dong Fureng (1992), Industrialization and China's rural modernization,
Publisher Palgrave Macmillan
135. Henri Ghesquere (2008), Bài học thành công của Singapore, Publisher
Cengage Learning
136. K.S.Jomo (2001), Southeast Asia's Industrialization, Publisher Palgrave
Macmillan
137. Loet Leydesdorff (2006), The knowledge - based economy: modeled,
measured, simulated, Publisher Universal
138. Medhi Krongkaew (1995), Thailand's Industrialization and its
consequences, Publisher Macmillan / St. Martin Press.
139. Unictad (2005), World Investerment Report.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG
Nguồn: Trung tâm Xúc tiến Đầu tư Đà Nẵng[124]
PHỤ LỤC 2: TUYẾN HÀNH LANG KINH TẾ ĐÔNG TÂY
Nguồn: Trung tâm Xúc tiến Đầu tư Đà Nẵng [124]
PHỤ LỤC 3: QUY HOẠCH KHU CÔNG NGHIỆP, CÔNG NGHỆ CAO
ĐÀ NẴNG ĐẾN NĂM 2020
Nguồn: Ban quản lý các Khu công nghiệp và Chế xuất Đà Nẵng[125]
PHỤ LỤC 4: TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THÀNH PHỐ ĐÀNẴNG TỪ NĂM 2001 ĐẾN 2012
Năm GDP (tỷ đồng) Tốc độ tăng trưởng(%)
2001 3804,94 12,23
2002 4282,94 12,56
2003 4823,42 12,62
2004 5460,21 13,2
2005 6214,1 13,81
2006 6776,1 9,04
2007 7545,4 11,35
2008 8313,7 10,18
2009 9199,7 10,65
2010 10.400 11
2011 13.148,8 10,85
2012 13.957 11,2
Nguồn: Niên giám thống kê Đà Nẵng 2006,2012 [13,16]
PHỤ LỤC 5: VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ
THỜI KỲ 2001 -2012
(theo giá hiện hành) Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu 2001 2005 2010 2011 2012
Vốn đầu tư PT 2527,55 7.328,6 22.380,258 31.067,942 26.434,635
Vốn xây dựng cơ bản 1.876,59 5.152,3 12.679,765 20.369,028 17.271,174
1. Phân theo nguồn vốn
Vốn trong nước 2.243,014 6.800,8 20.447,974 27.148,528 23.492,267
Vốn ngoài nước 284,536 527,8 1.932,284 3.919,414 2.942,368
2. Phân theo ngành k.tếNông nghiệp 64,516 61,6 143,48 159,554 135,621
Công nghiệp - xây dựng 874,02 2.472,8 11.452,887 10.083,811 8.585,123
Dịch vụ 1.589,014 4.794,2 10.783,891 20.824,577 17.713,891
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Đà Nẵng năm 2006, 2012 [13,16]
PHỤ LỤC 6: KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TẠI ĐÀ NẴNG (2011- 2012)
Năm 2001 2005 2009 2010 2011 2012Doanh thu (triệu USD) 88,9 145 272 416 561 609,52
Kim ngạch xuất khẩu(triệu USD)
58,4 95,7 196,2 338,57 405,33 463,45
Nộp ngân sách (triệuUSD)
10,4 14,5 26,35 40,16 43,51 42,01
Giải quyết việc làm(người)
13.533 22.800 34.200 35.200 37.367 40.000
Nguồn: Báo cáo Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội qua các năm, Niên giám
thông kê 2006, 2012 [13,16]
PHỤ LỤC 7: TÌNH HÌNH THU HÚT ĐẦU TƯ
TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
STT Khu công nghiệpSố doanh nghiệpđang hoạt động
Doanh nghiệptrong nước
Doanh nghiệp cóvốn đầu tư nước
ngoài
1. Đà Nẵng 42 30 12
2. Hòa Khánh 183 133 50
3. Dịch vụ thủy sản Đà Nẵng 36 34 2
4. Hòa Khánh mở rộng 23 13 10
5. Liên Chiểu 30 26 4
6. Hòa Cầm 56 50 6
7 KCN Thông tin 1 1
8 Khu CN cao 2 2
Tổng số 373 276 87
Nguồn: Ban Quản lý các KCN&CX Đà Nẵng, IPC Đà Nẵng [125]
PHỤ LỤC 8: PHƯƠNG ÁN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
ĐÀ NẴNG ĐẾN NĂM 2020
2010 2015 2020Tăng trưởng
bình quân(%/năm)Các phân
ngành côngnghiệp GTSXCN
(Tỷđồng)
Tỷtrọng(%)
GTSXCN(Tỷ
đồng)
Tỷtrọng(%)
GTSXCN(Tỷ
đồng)
Tỷtrọng(%)
2011-2015
2016-2020
Tổng 14.500 100 27.000 100 48.000 100 13,24 12,2CN Điện tửCNTT
950 6,55 3.500 12,96 11.600 24,17 29,80 27,08
CN chếbiến NLTS
3.020 20,83 4.950 18,33 7.600 15,83 10,39 8,95
CN cơ khí 2.450 16,90 4.000 14,81 7.000 14,58 10,30 11,84CN Hóachất
1.600 11,03 4.050 15,00 7.750 16,15 20,41 13,86
CN Dệtmay-Dagiày
2.450 16,90 4.500 16,67 6.000 12,50 12,93 5,92
CN sản xuấtVLXD
2.000 13,79 2.900 10,74 4.000 8,33 7,71 6,64
CN khaithác
180 1,24 250 0,93 300 0,63 6,79 3,71
CN khác(in, tái chế,CB khác
900 6,21 1700 6,30 2500 5,21 13,56 8,02
CN SX&PPđiện, nước
950 6,55 1150 4,26 1250 2,60 3,90 1,68
Nguồn: Quy hoạch phát triển công nghiệp thành phố Đà Nẵngnăm 2020 [104]
PHỤ LỤC 9: DỰ BÁO SỐ LƯỢNG LAO ĐỘNG ĐÀO TẠOGIAI ĐOẠN 2011 - 2020
Lao động qua đào tạoNăm Tổng cầu laođộng (người) Số lượng Tỷ lệ (%)
2010 425.173 157.314 0,37
2011 454.695 184.606 0,41
2012 486.268 214.930 0,44
2013 520.033 248.576 0,48
2014 556.143 285.858 0,51
2015 594.760 327.118 0,55
2016 646.884 375.193 0,58
2017 703.577 429.182 0,61
2018 765.238 489.752 0,64
2019 832.303 557.643 0,67
2020 905.246 633.672 0,70
Nguồn: Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Đà Nẵngđến năm 2020 [106]
PHỤ LỤC 10: DỰ BÁO SỐ LƯỢNG LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠOPHÂN THEO TRÌNH ĐỘ GIAI ĐOẠN 2011 - 2020
CĐ-ĐH TCCN CNKT
Năm
Cầu laođộng quađào tạo(người)
Số laođộng
Tỷ lệ Số laođộng
Tỷ lệ Số laođộng
Tỷ lệ
2010 148.811 85.035 54,05% 29.762 18,92% 42.517 27,03%
2011 177.331 89.370 48,41% 34.840 18,87% 54.903 29,74%
2012 209.095 93.927 43,70% 40.784 18,98% 70.896 32,99%
2013 244.416 98.716 39,71% 47.743 19,21% 91.549 36,83%
2014 283.633 103.749 36,29% 55.888 19,55% 118.218 41,36%
2015 327.118 109.039 33,33% 65.424 20,00% 152.655 46,67%
2016 375.193 121.379 32,35% 77.141 20,56% 174.530 46,52%
2017 429.182 135.115 31,48% 90.956 21,19% 199.540 46,49%
2018 489.752 150.406 30,71% 107.246 21,90% 228.133 46,58%
2019 557.643 167.427 30,02% 126.453 22,68% 260.824 46,77%
2020 633.672 186.374 29,41% 149.099 23,53% 298.199 47,06%
CĐ-ĐH TCCN CNKTNăm
Tổng cầulao động(người)
Số laođộng Tỷ lệ Số lao
động Tỷ lệ Số laođộng Tỷ lệ
2010 425.173 85.035 20,00% 29.762 7,00% 42.517 10,00%
2011 454.695 89.370 19,65% 34.840 7,66% 54.903 12,07%
2012 486.268 93.927 19,32% 40.784 8,39% 70.896 14,58%
2013 520.033 98.716 18,98% 47.743 9,18% 91.549 17,60%
2014 556.143 103.749 18,66% 55.888 10,05% 118.218 21,26%
2015 594.760 109.039 18,33% 65.424 11,00% 152.655 25,67%
2016 646.884 121.379 18,76% 77.141 11,92% 174.530 26,98%
2017 703.577 135.115 19,20% 90.956 12,93% 199.540 28,36%
2018 765.238 150.406 19,65% 107.246 14,01% 228.133 29,81%
2019 832.303 167.427 20,12% 126.453 15,19% 260.824 31,34%
2020 905.246 186.374 20,59% 149.099 16,47% 298.199 32,94%
Nguồn: Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Đà Nẵngđến năm 2020[106]
PHỤ LỤC 11: DỰ BÁO DOANH THU VÀ VỐN ĐẦU TƯ LĨNH VỰCDU LỊCH ĐẾN 2020
CHỈ TIÊU ĐVT 2010 2015 2020
Doanh thu Tỷ đồng 1015 2560 4000
Vốn đầu tư Tỷ đồng 1170 2280 3670
Nguồn: Quy hoạch phát triển văn hóa thể thao - du lịch thành phốĐà Nẵng đến năm 2020[108]
PHỤ LỤC 12: DỰ BÁO LƯỢNG DU KHÁCH ĐẾN ĐÀ NẴNG
ĐẾN NĂM 2010
CHỈ TIÊU ĐVT 2010 2015 2020
Tổng lượt khách 103 người 1450 3200 5000
Khách quốc tế 103 người 350 700 1120
Khách trong nước 103 người 1100 2500 3880
Nguồn: Quy hoạch phát triển văn hóa thể thao - du lịch thành phốĐà Nẵng đến năm 2020[108]
PHỤ LỤC 13: DỰ BÁO CƠ CẤU GDP NGÀNH NÔNG NGHIỆP THÀNHPHỐ ĐÀ NẴNG ĐẾN NĂM 2020
(giá thực tế)
Giá trị (tỷ đồng) Cơ cấu (%)Chỉ tiêu2010 2015 2020 2010 2015 2020
Tổng số 1.053,0 1.658,5 2.563,3 100,0 100,0 100,01. Nông nghiệp 285,4 447,8 666,5 27,1 27,0 26,02. Thuỷ sản 716,0 1.121,2 1.768,7 68,0 67,6 69,03. Lâm nghiệp 51,6 89,6 128,2 4,9 5,4 5,0
Nguồn: Quy hoạch phát triển nông nghiệp Đà Nẵng đến năm 2020[107]
PHỤ LỤC 14: DỰ BÁO NHU CẦU VỐN ĐẦU TƯ NÔNG NGHIỆPGIAI ĐOẠN 2008 - 2020
2008 -2010 2011 -2015 2016 -2020TT Chỉ tiêu Tổngcộng
(tỷ đồng)Tỷ
đồng% Tỷ
đồng% Tỷ
đồng%
I Chia theo lĩnh vực 5.280 920 100,0 2.510 100,0 1.850 100,01 Nông nghiệp 900 180 19,6 450 17,9 270 14,62 Thuỷ sản 1.030 350 38,0 380 15 300 16,23 Lâm nghiệp 350 90 9,7 180 7,2 80 4,34 Thuỷ lợi 3.000 300 32,7 1.500 59,7 1.200 64,8II Chia theo nguồn vốn 5.280 920 100,0 2.510 100,0 1.850 100,01 Vốn ngân sách 3.180 330 35,8 1.640 65,3 1.210 65,42 Vốn tín dụng 800 210 22,8 310 12,3 280 15,13 Vốn nhân dân và vốn
khác1.300 380 41,3 560 22,3 360 19,4
Nguồn: Quy hoạch phát triển nông nghiệp Đà Nẵng đến năm 2020 [107]
PHỤ LỤC 15: PHƯƠNG ÁN TĂNG TRƯỞNG VÀ CHUYỂN DỊCH CƠCẤU NÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG ĐẾN NĂM 2020
Chỉ tiêu ĐVT Năm 2010 Năm 2015 Năm 2020
I. Chỉ tiêu tăng trưởng
1. Giá trị gia tăng (Giá SS) tỷ đồng 1.053 1.659 2.563
2. Giá trị gia tăng (Giá CĐ) tỷ đồng 433 560 695
3. Giá trị sản xuất (Giá CĐ) tỷ đồng 760 1.185 1.920
4. Cơ cấu kinh tế %
- Nông nghiệp % 27,1 27,0 26,0
- Thuỷ sản % 68,0 67,6 69,0
- Lâm nghiệp % 4,9 5,4 5,0
II. Chỉ tiêu sản xuất
1. Thuỷ sản Tấn
- Sản lượng khai thác Tấn 45.000 56.000 65.000
- Sản lượng nuôi trồng Tấn 1.370 1.685 2.250
2. Nông nghiệp
- Sản lượng lương thực Tấn 50.000 50.400 54.000
+ Lúa Tấn 45.000 44.600 48.000
+ Ngô Tấn 5.000 5.800 6.000
- Sản lượng rau các loại Tấn 35.000 40.000 50.000
- Sản lượng thịt hơi Tấn 18.000 24.000 30.000
3. Lâm nghiệp
- Trồng rừng Ha 800 1.000 1.200
- Khoanh nuôi tái sinh Ha 730 800 1.000
- Quản lý bảo vệ rừng Ha 15.000 20.000 20.000
Nguồn: Quy hoạch phát triển nông nghiệp Đà Nẵng đến năm 2020 [107]
top related