truyền thông việt nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
Post on 28-Jul-2015
2.205 Views
Preview:
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TS. Lƣu Hồng Minh (Chủ biên)
TRUYỀN THÔNG VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA
(TUYỂN TẬP BÀI NGHIÊN CỨU
TRUYỀN THÔNG CỦA KHOA XÃ HỘI HỌC )
Nhà xuất bản Dân Trí
2009
2
Mục lục
Trang
PHẦN I : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Đặng Vũ Cảnh Linh: Toàn cầu hóa và sự biến đổi của hệ thống
truyền thông hiện nay
2. Lƣu Hồng Minh : Tổng quan nghiªn cøu tiÕp cËn ph¬ng tiÖn
th«ng tin ®¹i chóng vµ nhu cÇu c«ng chóng hiÖn nay
3. Đặng Vũ Cảnh Linh: Xu hƣớng phát triển nội dung thông tin và
loại hình truyền thông đại chúng việt nam dƣới tác động của toàn
cầu hoá
4. Đặng Vũ Cảnh Linh: Truyền thông Việt Nam trong bối cảnh tác
động của xu hƣớng phát triển “Kinh tế truyền thông”
5. Nguyễn Thị Tuyết Minh: Định kiến giới trong phim quảng cáo
trên truyền hình
6. Phạm Hƣơng Trà: Thông điệp giới trên thông tin đại chúng hiện
nay qua một số nghiên cứu
PHẦN II : TIẾP CẬN TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÖNG
7. Tuyết Minh: Tiếp cận truyền hình của ngƣời dân vùng Tây Bắc
8. Bùi Thu Hƣơng: Tiếp cận và sử dụng phát thanh của ngƣời dân
vùng núi phía bắc
9. Nhạc Phan Linh: Tiếp cận và sử dụng phát thanh của ngƣời dân
Đồng bằng sông Cửu Long
10. Nguyễn Thị Tỗ Quyên: Tiếp cận và đánh giá báo in của ngƣời
dân vùng Tây Bắc
11. Phạm Thị Vân: Tiếp cận Internet của ngƣời dân vùng tây Bắc
12. Phạm Hƣơng Trà: Vài nét về thực trạng tiếp cận Internet của
3
ngƣời dân Đồng Bằng Sông Cửu Long
PHẦN III : CÔNG CHÖNG, NHU CẦU TIẾP CẬN VÀ HIỆU
QUẢ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÖNG
13. Dƣơng Thu Hƣơng: Nhận diện công chúng của các chƣơng
trình phát thanh
14. Nguyễn Thị Tuyết Minh : Nhu cầu thông tin về sức khoẻ sinh
sản qua nghiên cứu thƣ gửi về chƣơng trình “cửa sổ tình yêu”,
chƣơng trình phát thanh thanh thiếu niên, đài tiếng nói Việt Nam
15. Phạm Hƣơng Trà : Thực trạng nguồn thông tin và mong muốn
của sinh viên về các chủ đề liên quan đến tính dục
16. Dƣơng Thu Hƣơng: Tác động của các chƣơng trình tiếp thị và
quảng cáo thực phẩm trên truyền thông đại chúng đến hành vi tiêu
dùng thực phẩm và sức khỏe của trẻ em.
17. Nguyễn Thị Tuyết Minh: Hình ảnh tính dục qua báo mạng
điện tử
18. Nhạc Phan Linh: Quảng cáo báo chí và công chúng hiện nay
19. Nhạc Phan Linh: Tác động tiêu cực của quảng cáo báo chí đến
yếu tố kinh tế của công chúng hiện nay
20. Dƣơng Thu Hƣơng: Hình ảnh nam giới trên truyền thông đại
chúng – sự kỳ vọng về vai trò nam giới và hành vi sức khỏe
21. Trần Thành Nam : Báo mạng điện tử và việc tuyên truyền
phòng chống HIV/AIDS
4
PHẦN I : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
TOÀN CẦU HOÁ VÀ SỰ BIẾN ĐỔI TRONG HỆ THỐNG
TRUYỀN THÔNG HIỆN NAY
Ths. Đặng Vũ Cảnh Linh
Để có thể nghiên cứu tác động của toàn cầu hoá tới các phƣơng tiện
thông tin đại chúng hiện nay, chúng ta cũng cần phải làm rõ đƣợc những
vấn đề lý luận và phƣơng pháp luận phân tích những nguyên nhân và xu
hƣớng biến đổi trong cơ cấu hoạt động của chính hệ thống truyền thông
toàn cầu. Nói một cách cụ thể là chúng ta cần phải tìm hiểu hoạt động
truyền thông trong bối cảnh toàn cầu hoá nhƣ là một hệ thống, có cơ cấu
tồn tại và vận hành thống nhất. Hệ thống đó bao gồm nhiều khu vực cấu
thành đang biến đổi không ngừng, đa dạng và phức tạp, có vị trí, vai trò,
chức năng và nhiệm vụ nhất định trong toàn bộ mạng lƣới truyền thông.
Thực tế cho thấy, trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, những biến
đổi to lớn trong hệ thống các hoạt động truyền thông đang đòi hỏi một nhu
cầu phải nghiên cứu và nhận thức lại về truyền thông một cách cơ bản.
Trong những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu và phân tích về hoạt
động truyền thông đã gọi những biến đổi này là “những cú sốc trong
truyền thông đại chúng”, là “cuộc cách mạng mới về thông tin”, “sự cấu
trúc lại hệ thống truyền thông”. Dƣới đây chúng tôi xin đƣợc phân tích
hai vấn đề có tính phƣơng pháp luận trong nhận thức về sự biến đổi của hệ
thống truyền thông hiện nay, đó là xu hƣớng truyền thông đa phƣơng tiện
và truyền thông đa chiều .
1. Toàn cầu hoá và hệ thống truyền thông đa phƣơng tiện
Sự phát triển của truyền thông đại chúng gắn liền với sự phát triển
của các phƣơng tiện truyền thông. Không có sự phát triển đa dạng của các
5
phƣơng tiện truyền thông thì cũng không thể có sự phát triển của truyền
thông. Chính vì vậy, nói đến sự biến đổi và phát triển không ngừng của hệ
thống thông tin đại chúng ngày nay, chúng ta không thể không nói đến sự
phát triển của các phƣơng tiện truyền thông. Chính sự biến đổi và phát
triển mạnh mẽ của các phƣơng tiện truyền thông mà, hệ thống truyền
thông ngày nay đã đƣợc gọi là “hệ thống truyền thông đa phƣơng tiện”, cơ
cấu hoạt động “đa phƣơng tiện” đã trở thành một đặc trƣng cơ bản của
truyền thông hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng chính sự xuất hiện của tiếng nói
và ngôn ngữ cách đây 36.000 năm đã là sự mở đầu vĩ đại nhất cho một
cuộc cách mạng về thông tin kéo dài suốt lịch sử của loài ngƣời1. Tuy
nhiên, cũng phải tới thế kỷ 15 với sự phát minh của Gutenberg ra chiếc
máy in đầu tiên nhằm in các loại sách thánh thì truyền thông đại chúng
mới thực sự có đƣợc những công cụ hữu hiệu của mình. Chính sự phát
minh này “đã mở màn cho hàng loạt các tiến bộ kỹ thuật, những kỹ thuật
đã làm biến đổi hệ thống thông tin một cách bền vững và sẽ tiếp tục biến
đổi trong tƣơng lai sau đấy và với một tốc độ ngày càng nhanh” 2.
Sự ra đời của những máy in đã là điều kiện cho những “tờ báo” đầu
tiên của nhân loại, vốn đƣợc viết bằng tay nhƣ những tờ tin kiểu tờ
“News” ở Anh Quốc thế kỷ 16 đƣợc thay thế bằng những tờ báo thực thụ
đƣợc in bằng máy. Cũng chính máy in đã giúp cho tờ báo nổi tiếng đầu
tiên, tờ “English Mercury” (ngƣời đƣa tin Anh Quốc) có điều kiện để
thông tin rộng rãi cho công chúng về những sự kiện quốc tế quan trọng3.
Ngày nay, bên cạnh những chiếc máy in, dù đƣợc cải biến một cách
triệt để nhƣng vẫn là một phƣơng tiện truyền thống để truyền bá thông tin,
cuộc cách mạng về công nghệ đã mang lại cho các phƣơng tiện truyền
thông một diện mạo hoàn toàn mới. Công nghệ truyền thông đã phát triển
1 Claudia Mast. Truyền thông đại chúng. Những kiến thức cơ bản. Nhà xuất bản Thong tin. Trang 45. 2 Claudia Mast. Truyền thông đại chúng. Những kiến thức cơ bản. Nhà xuất bản Thong tin. Trang 45
3 Xem : Dƣơng Xuân Sơn. Báo chí nƣớc ngoài. NXB Văn hoá thông tin.1996, trang 13.
6
một cách vƣợt bực so với nhiều ngành công nghệ khác. Nhiều nhà nghiên
cứu còn đƣa ra một sự so sánh thú vị giữa công nghệ thông tin với công
nghệ sản xuất xe hơi để thấy rõ hơn sự phát triển của công nghệ thông tin.
Họ cho rằng trong vòng 30 năm qua nếu nhƣ công nghệ sản xuất xe hơi
đạt đƣợc mức phát triển tƣơng đƣơng với công nghệ thông tin thì mỗi
chiêc ô tô ngày nay sẽ chỉ còn có giá bán bằng giá của một bao diêm.
Chính sự phát triển của công nghệ thông tin và các phƣơng tiện
truyền thông đã khiến cho hệ thống truyền thông đại chúng trên thế giới có
đƣợc một bộ mặt khác, trƣớc hết là ở các hình thức truyền thông. Ngày
nay, sự phát triển về kỹ thuật thu nhận và truyền dẫn thông tin đã đƣa vị
thế, vai trò và cách thức hoạt động của truyền thông đại chúng sang một
trang mới. Sự xuất hiện của thông tin điện tử, thông tin mạng đã góp phần
mạnh mẽ vào sự phong phú trong diện mạo hoạt động đƣợc gọi là “đa
phƣơng tiện” của truyền thông.
Công nghệ máy tính cùng với sự xuất hiện của các đƣờng truyền
dẫn siêu tốc nhƣ mạng cáp quang, các vệ tinh viễn thông (mà nhiều quốc
gia và tập đoàn truyền thông đã trang bị riêng cho mình) và các hệ thông
thông tin đƣờng dài, đã thâm nhập sâu sắc vào hệ thông truyền thông kiểu
cũ, làm đảo lộn tất cả, từ nhận thức đến hành vi hoạt động của những
ngƣời tham gia vào hệ thông truyền thông đại chúng. Tính “đa phƣơng
tiện” trong truyền thông đã làm đảo lộn cả cách thức hoạt động của những
tập đoàn truyền thông lớn.
Các phƣơng tiện thông tin cá nhân cũng tham gia trực tiếp vào hoạt
động truyền thông. Điện thoại, đặc biệt là điện thoại di động đã và đang
góp tiếng nói mạnh mẽ vào truyền thông, tạo ra một cuộc cách mạng mới
trong cách thức tiếp nhận và truyền dẫn thông tin. Những khoảng cách về
không gian và thời gian bị thu hẹp lại. Ranh giới giữa thông tin đại chúng
với thông tin cá nhân, giữa thông tin chính thống với thông tin dƣ luận,
giƣa những nhà truyền thông chuyên nghiệp với những sứ giả truyền
7
thông “nghiệp dƣ”, giữa ngƣời gửi và ngƣời nhận thông điệp đã không
còn cách biệt.
Sự xuất hiện và lên ngôi của báo điện tử đã đã tạo ra một sự biến
động lớn trong hệ thống truyền thông toàn cầu hoá. Nó đã khiến cho
không ít những tập đoàn và công ty truyền thông do thiếu sự nhạy bén với
thời cuộc mà lâm vào sự khủng hoảng. Hệ thống báo in hoạt động theo
phƣơng thức truyền thống đang tỏ ra lúng túng trong việc xử lý cái mà
nhiều nhà nghiên cứu gọi là “cú sốc Internet”. Một nghiên cứu xã hội học
vào tháng 3-2005 của Hiệp hội báo in Hoa Kỳ ( NNA) đã cảnh báo về một
hiện tƣợng mà những nhà nghiên cứu gọi là “báo in ngày càng trở thành
một phƣơng tiện truyền thông lỗi thời và thất thế”. Cuộc điều tra đã cho
thấy trong những năm gần đây hầu hết các tờ báo lớn của Mỹ nhƣ New
York times, Washington Post, Los Angeles times đều đã phải giảm số
lƣợng phát hành. Mặt khác, số lƣợng những ngƣời đọc các báo này qua
mạng đã cao hơn hẳn số ngƣời đọc qua báo in . Chẳng hạn, New York
times có 12,8 triệu ngƣời đọc qua mạng so với 5 triệu đọc báo in,
Washington Post : 7,8 triệu ngƣời đọc qua mạng so với 1,8 triệu đọc báo
in, Los Angeles times : 4,3 triệu ngƣời đọc qua mạng so với 2,4 triệu đọc
báo in1.
Cũng theo một nghiên cứu của Viện Carnegie, Hoa Kỳ, giới trẻ
ngày nay hầu hết đều sử dụng Internet làm nguồn thu nhận thông tin chính
thức của họ, trong khi báo chi giấy và truyền hình ngày càng ít đƣợc sử
dụng. Có 44% số ngƣời đƣợc hỏi đã nói rằng họ thƣờng dùng các “new
portal” nhƣ Yahoo ít nhất một lần một ngày, 37% sử dụng truyền hình địa
phuơng, trong khi đó báo in là 19%2.
Tờ báo nổi tiếng của Mỹ là US New đã cho biết, trong khi báo in
của họ đã chịu những sự thua thiệt thảm hại thì báo điện tử của họ thì lại
phát triển tới mức bùng nổ. Nói về điều này, trang điện tử
1 Hoàng Minh. Báo Mỹ khủng hoảng, báo điện tử lên ngôi. Vietnamnet. ngày 7-11-2005 2 Theo Vietnamnet ngày 7-11-2005
8
“Washingtonian.com” nhận xét: “báo in của US New and World Report
chỉ còn mỏng đến mức nó chỉ giống nhƣ một tờ newsletter (một tờ bản tin)
hơn là một tờ báo”. Trƣớc thực trạng này, US New đã phải cho nghỉ việc
một số lƣợng lớn nhân viên và đầu tƣ hơn 2 triệu USD cho các phƣơng
tiện truyền thông mới và thuê thêm ngƣời điều hành các website. Họ cũng
đƣa ra một công thức hoạt động mới của tờ báo, đó là “đa phương tiện và
ít nhân viên” 1.
Tình hình cũng diễn ra tƣơng tự nhƣ trên đối với các tờ báo giấy tại
châu Âu. Trong những năm gần đây, số lƣợng các tờ báo in tại châu Âu đã
sụt giảm trông thấy. Trong bài phân tích nhan đề “Báo châu Âu đi về đâu”
trên một trang báo điện tử, các tác giả đã đƣa ra con số cho thấy, số lƣợng
phát hành báo in tại các nứoc EU đã giảm đi rõ rệt. Chẳng hạn từ năm
2000 đến năm 2005 tỷ lệ này đã giảm 5,26%. Chính điều này cũng đã dẫn
đên những cuộc tranh luận bất tận về cách thức sử dụng các phƣơng tiện
truyền thông trong tƣơng lai. Câu hỏi đƣợc thảo luận là, chúng ta nên tập
trung vào báo in, báo hình hay vào mạng và còn những phƣơng tiện thông
tin nào khác nữa.
Bruno Patino, với tƣ cách là giám đốc điều hành các dự án về hoạt
động trực tuyến và số hoá của tờ báo tiếng Pháp nổi tiêng Le Monde đã
cho rằng trong bối cảnh của toàn cầu hoá và truyền thông đa phƣơng tiện,
những ngƣời làm truyền thông đại chúng nên có sự phân công rõ ràng hơn
đối với việc sử dụng các phƣơng tiện thông tin. Chẳng hạn, báo in nên tập
trung vào những bài điều tra sâu, báo mạng sẽ tập trung vào những thông
tin nhanh và ngắn gọn, tức là vào các đối tƣợng có ít thời gian.
Tuy nhiên, thực tế cuối cùng cũng diễn ra theo chiều hƣớng không
quá bi quan. Cho đến nay không ít những ngƣời tham gia vào công tác
truyền thông đại chúng lại nhận ra một thực tế là, chỉ có những kẻ bám giữ
vào cách thức tƣ duy cũ mới bi quan về cái gọi là “sự khủng hoảng của
1 theo Washingtonian.com. trích lại từ Vietnamnet ngày 7-11-2005
9
báo in” hay “cú sốc của Internet” mà thôi. Những ngƣời hội nhập nhanh
chóng với “thông tin đa phƣơng tiện” đều cho rằng việc hƣớng tới và chấp
nhận “thông tin đã phƣơng tiện” sẽ là một bƣớc tiến mới của ngành truyền
thông.
Giáo sƣ Neil Henry, giảng viên khoa báo chí trƣờng Đại học
Berkeley, California, khi đƣợc hỏi về việc ông có lo lắng tới điều mà
ngƣời ta tiên đoán về cái chết của báo in hay không, đã viện dẫn về việc
trƣớc đây câu hỏi này đã đƣợc đặt ra khi xuất hiện thế giới phong phú và
đa dạng của thông tin truyền hình. Ông cho rằng, nếu trƣớc đây truyền
hình đã không giết chết đƣợc báo in thì ngày nay báo điện tử cũng khó mà
có thể làm đƣợc điều này. Ngƣời ta vẫn mong muốn đƣợc ngồi uống cà
phê cùng với một tờ báo bay lất phất hơn là với một chiếc máy vi tính, lại
càng không muốn mang chiếc máy tính này lên giuờng ngủ. Vậy vấn đề là
ở đâu, theo Neil Henry, chúng ta cần phải sửa mình để chung sống với
truyền thông đa phƣơng tiện, bởi chính truyền thông đa phƣơng tiện sẽ
mang lại cho truyền thông những sức mạnh mới.1
Nhận ra tính tất yếu của xu hƣớng truyền thông đa phƣơng tiện, giới
truyền thông toàn cầu đang cố gắng chuyển hƣớng đầu tƣ sang các
phƣơng tiện phong phú của truyền thông bên ngoài báo in, đặc biệt là đầu
tƣ cho các công nghệ truyền thông mới.
Chẳng hạn, tờ Washington Post ở Mỹ đó cú một loạt cỏc thử
nghiệm trờn báo điện tử của họ trong nhiều năm qua để thu hút thêm
lƣợng độc giả: “đƣa kết nối đến các blogs về một bài báo, cho phép ngƣời
đọc chat trực tuyến với tác giả một bài báo, cho phép các cộng tác viên
đăng các blog của mỡnh trờn trang chớnh để độc giả có thể đối thoại gần
nhƣ trực tiếp với từng cộng tác viên. Tác dụng của các sáng kiến này đối
với danh tiếng và sự chuyên nghiệp báo chí cũng nhƣ tính đáng tin cậy của
tin tức thỡ cũn phải bàn cói thờm, nhƣng rừ ràng những hoạt động trực
1Xem. báo chí Mỹ.Cú sốc internet. Thời báo kinh tế Saigon. Ngày 20-10-2007.
10
tuyến này đó khiến cho ngƣời đọc cảm thấy gần gũi thân thiết hơn với tờ
báo điện tử, nhờ vậy thu hút đƣợc một lƣợng độc giả trung thành lớn” 1.
Sự việc cũng diễn ra tƣơng tự nhƣ vậy với tờ Wall Street Journal,
một trong những tờ báo có số lƣợng độc giả lớn nhất nƣớc Mỹ. Báo này
đang có những nỗ lực gắn kết báo điện tử với báo in. Báo điện tử của họ
đã ký thỏa thuận để đăng các “tít” quan trọng của cỏc tờ bỏo chõu Á và
chõu Âu trong mục “Across Asia” và “Across Europe”. Từ đó, ngƣời đọc
có thể sẽ đƣợc dắt đến link của các tờ báo này. Cũn cỏc mục tƣơng ứng
của tờ báo in thỡ đƣợc thu ngắn lại và có các “pointers” để chỉ đến các
web link. Thờm vào đó những ngƣời trả phí để đọc báo điện tử sẽ truy cập
vào đƣợc những phần truyền thông đa phƣơng tiện chỉ có trên mạng mà
không có trên báo giấy, đồng thời họ cũng có thể truy cập qua điện thoại
đa chức năng Blackberry và qua hệ thống phần mềm tổng hợp thụng tin
RSS.2
Thực tế trên đã cho thấy, sự chuyển hƣớng từ các phƣơng tiện
truyền thông truyền thống sang hệ thống truyền thông đa phƣơng tiện đã
không chỉ bao hàm ý nghĩa về một sự thay đổi hình thức chuyển tải thông
tin, mà còn quan trọng hơn, báo hiệu một cuộc cách mạng lớn về phong
cách làm báo. Bất kể một công ty truyền thông nào, nếu muốn thành công
thì đều phải nhận thức, đón đầu và phát triển sự chuyển biến này.
Truyền thông đa phƣơng tiện cũng thâm nhập vào chính hành vi
nghề nghiệp của các nhà truyền thông. Phƣơng tiện tối thiểu của ngƣời
làm báo bây giờ không còn chỉ là cây bút và chiếc máy ảnh đơn thuần, mà
còn là những chiếc máy tính có bộ nhớ siêu việt. Họ phải làm quen với rất
nhiều kỹ thuật và công nghệ truyền thông mới, các phƣơng tiện thu nhận
và truyền dẫn thông tin có khả năng truy cập và chuyển tải một khối lƣợng
thông tin đồ sộ trong một thời gian ngắn.
1 Báo in Mỹ khủng hoảng, báo điện tử lên ngôi. Hoàng Minh. Vietnamnet. Ngày7-11-2005 2 Báo in Mỹ khủng hoảng, báo điện tử lên ngôi. Hoàng Minh. Vietnamnet. Ngày7-11-2005
11
Phƣơng tiện và kỹ thuật truyền thông mới cũng thâm nhập vào hệ
thống biên tập của các cơ sở truyền thông, báo chí và xuất bản. Hệ thống
công nghệ mới xuất hiện cũng tạo điều kiện cho các biên tập viên có thể
dễ dàng thu thập, soạn thảo, lƣu giữ và quản lý các thông tin. Các biên tập
viên và phóng viên có thể ngồi trƣớc màn hình vi tính đƣợc nối mạng,
nhanh chóng chuyển tải thông tin, kiểm tra và thay đổi dữ liệu, kết nối
trực tiếp tới tổng biên tập cũng nhƣ tới bạn đọc. Nó cho phép các biên tập
viên có thể nhanh chóng điều chỉnh, thêm bớt hoặc cắt bỏ các thông tin
ngay tại bàn làm việc.
Truyền thông đa phƣơng tiện cũng đòi hỏi những vấn đề mới có liên
quan đến bộ khung pháp lý, những vấn đề về bản quyền thông tin, về việc
chuyển giao các dịch vụ truyền thông, về sự độc quyền và cạnh tranh
trong giữa các công ti, các tập đoàn, các nhóm xã hội và cá nhân tham gia
vào hoạt động truyền thông. Đây cũng chính là những xu hƣớng mới trong
hoạt động truyền thông.
2. Toàn cầu hoá và những vấn đề về truyền thông đa chiều
Truyền thông đại chúng theo cách nhìn trƣớc đây, dù có mở rộng
các phƣơng thức để tiếp cận với ngƣời nhận thông tin thông qua các
chuyên mục nhƣ “Hộp thƣ bạn đọc” hoặc “Ý kiến độc giả”, “Ý kiến bạn
xem truyền hình”...thì về cơ bản vẫn là phƣơng thức thông tin đơn chiều.
Điều đó có nghĩa là các thông điệp truyền thông sau khi đƣợc ghi nhận,
nhào nặn, sản xuất bởi những tập đoàn và công ty truyền thông sẽ đƣợc
truyền dẫn tới ngƣời nhận, tựa nhƣ những cơ sở sản xuất cung ứng sản
phẩm cho ngƣời tiêu dùng vậy.
Tính đơn chiều của thông tin tạo ra một mô hình truyền thông mà
trong đó chỉ có một chủ thể truyền thông duy nhất- đó là những ngƣời sản
xuất các thông điệp truyền thông và một khách thể của truyền thông duy
nhất- đó là những ngƣời tiếp nhận thông tin. Ngày nay mô hình này đã
hoàn toàn biến đổi.
12
Cuộc cách mạng về phƣơng tiện truyền thông trên thực tế đã tạo
dựng nên quanh ta một bầu khí quyển mới, khiến cho tất cả đều đƣợc bao
phủ bởi một quá trình tƣơng tác thông tin mà các nhà xã hội học gọi là
một không gian truyền thông đa chiều.
Truyền thông đa chiều đƣợc coi nhƣ một sự tƣơng thích với một xã
hội đa chiều, xã hội công dân, xã hội dân sự, trong đó mỗi thành viên dù
nhỏ yếu nhất cũng đều có thể đƣợc nói lên tiếng nói của mình, đóng góp ý
kiến của mình vào những vấn đề chung trong xã hội mà mình đang sống.
Mỗi công dân đều có thể xử lý và chuyển tải các nguồn thông tin theo
nhận thức riêng cả mình.Trong truyền thông đa chiều từ những nhà lãnh
đạo cao nhất đến những công dân bình dị nhất đều có thể đƣợc tiếp nhận,
xử lý và chuyển phát các thông điệp truyền thông.
Sự tƣơng tác thông tin trong không gian trực tuyến và đa tuyến
khiến cho mỗi cá nhân đều có thể tồn tại nhƣ một trạm tiếp nhận, xử lý,
nhận định, đánh giá và chuyển tải các thông điệp truyền thông. Điều đó đã
tạo ra một bộ mặt gắn kết liên tục và đa dạng của không gian truyền thông.
Cấu trúc của không gian truyền thông đa chiều này tạo nên một bề mặt lan
toả và tƣơng tác rộng lớn đƣợc gọi là chiều cộng cảm thông tin. Dƣ luận
của cộng đồng và của số đông sẽ là bộ lọc lớn nhất và trung thực nhất cho
nội dung các thông điệp truyền thông.
Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của báo điện tử trong thời gian qua
đã nhƣ một thế lực mới trong làng truyền thông. Nó không chỉ tạo ra một
sức sống mới cho hoạt động truyền thông đại chúng mà còn trở thành một
phƣơng tiện hữu hiệu cho sự phát triển của không gian truyền thông đa
chiều. Ƣu thế của báo điện tử là không thể bàn cãi khi nó tổng hợp đựoc
hầu nhƣ toàn bộ sức mạnh của công nghệ truyền thông mới, hội tụ đƣợc
tất cả những mặt ƣu điểm của nhiều loại nhiều truyền thông khác, không
chỉ chuyển tải văn bản, hình ảnh nhƣ báo giấy, mà cả âm thanh, video nhƣ
phát thanh, truyền hình.
13
Với báo điện tử, chúng ta cú thể truy cập thông tin bất kỳ lúc nào,
bất kỳ ở đâu miễn là có kết nối Internet. Nó cũng còn là một thƣ viện đúng
nghĩa, có khả năng lƣu giữ đƣợc các thông tin từ quá khứ, hiện tại và
đƣơng nhiên là trên cơ sở đó dự báo cả tƣơng lai. Ngƣời ta còn gọi báo
điện tử là báo giờ bởi khả năng cập nhật thông tin kịp thời của nó. Bên
cạnh khả năng khả năng truy xuất, lƣu giữ thông tin nhanh chóng, báo
điện tử còn tạo ra đƣợc khả năng tƣơng tác, phản hồi giữa độc giả với các
nhà sản xuất thông tin và cả với tòa soạn trong từng bài báo. Trong không
gian truyền thông đa chiều, nó còn có một ƣu thế mà không loại hình báo
chí nào có đƣợc, đó là tính trực tuyến. Thông qua tòa soạn, công chúng
trong nƣớc và quốc tế có thể đối thoại, giao lƣu trực tiếp với nhân vật mà
họ quan tâm, yêu mến và do vậy mà có tác động về mặt thông tin rất cao,
không chỉ trong nƣớc mà còn có ảnh hƣởng quốc tế
Trong một vài năm trở lại đây, một nhánh mới của lĩnh vực phát
hành thông tin điện tử đó xuất hiện và tạo nờn một cơn sốt mới trong
không gian truyền thông đa chiều. Đó chính là sự xuất hiện của website cá
nhân, tên gọi weblog hay blog. Sự xuất hiện của cac Blog cá nhân đã tạo
ra một diện mạo hoàn toàn mới cho không gian truyền thông đa chiều
Mặc dù về bản chất, blog cá nhân chỉ là những nhật ký trực tuyến
hay kờnh phỏt ngụn của cỏ nhõn nhƣng tầm ảnh hƣởng của nó trờn thực tế
đã lớn hơn rất nhiều so với ý tƣởng ban đầu của những ngƣời sáng tạo ra
nó. Thực tế cho thấy, với độ cập nhật thông tin nhanh và khả năng nhận
định, bình luận sắc sảo, nhiều Weblog đó nhanh chúng chiếm đƣợc cảm
tình của độc giả và thậm chí còn trở nên nổi tiếng hơn cả nhiều tờ báo điện
tử chính thống.
Ở một chừng mực nào đó, weblog cũng đó khẳng định vai trũ cỏch
mạng của nú trong tiến trỡnh phỏt triển của truyền thông đại chúng nói
chung và báo chí điện tử núi riêng. Hiện nay trên thế giới, thậm chí nhiều
weblog đó đƣợc các báo điện tử liên kết để vào nhƣ một phần nội dung
14
của họ. Một số tác giả weblog còn đƣợc mời về làm cho những hãng thông
tấn lớn.
Xu hƣớng trên không chỉ cho thấy sự nhạy bén của độc giả trẻ tuổi
trƣớc những ƣu thế của báo điện tử mà còn sâu xa hơn, phản ánh những
nhu cầu mới của các độc giả ở thời đại kỹ thuật số, muốn có thể truy cập
tin bất cứ lúc nào họ cần, muốn đƣợc “cá nhân hóa” tin tức mà họ đọc và
bỡnh luận và biểu đạt ý tƣởng ngay sau khi đọc xong và làm rõ đƣợc
những giả định và thiên vị của tác giả khi thông báo về một sự kiện nào
đó. Có thể núi độc giả ngày nay đang có xu hƣớng truy cập thông tin từ
các blog và các mục bình luận của cộng tác viên báo chí hơn là chỉ đọc tin
tức thuần túy từ các hãng truyền thông chính thống.
Để tăng cƣờng tính đa chiều trong thông tin, theo kinh nghiệm mà
tờ Washington Post đƣa ra thì “truyền thông cũng phải chuyển sang lắng
nghe nhiều hơn, văn phong cũng khụng thể dài dũng văn tự và mang tính
trịch thượng như báo chí truyền thống nữa. Nó cũng phải mang tính đối
thoại cao, trực tiếp hướng đến độc giả. Các mệnh đề đưa ra mang phải
tính giả định và dành chỗ cho phản biện của độc giả, chứ không cứng
nhắc “sách giáo khoa” như báo chí truyền thống”1.
Từ năm 2004 một trong những nhân vật nổi tiếng trong làng truyền
thông đã khai sinh ra mạng Facebook, bùng nổ vào năm 2007, trở thành
một mạng xã hội “hot” nhất thế giới. Với 69 triệu ngƣời tham gia,
Facebook trở thành một không gian ảo đƣợc đông đảo ngƣời tham gia nhất
thế giới. Chính Mark Zuckerberg khi nói về tính đa chiều của truyền thông
đã cho rằng với 69 triệu ngƣời tham gia vào mạng của mình, lúc nào ông
cũng có một số lƣợng phóng viên và biên tập viên cho Facebook là 69
triệu ngƣời. Tháng 10-2007, Microsoft đầu tƣ 240 triệu USD để sở hữu
1,6% cổ phần của Facebook. Giá trị của trang mạng xã hội này đó tăng lên
đến 15 tỉ USD.
1 Hoang Minh. Vietnamnet. sđd
15
Trong xu hƣớng truyền thông đa chiều, các hãng thông tấn cũng
đang tìm cách thay đổi phƣơng thức tác nghiệp, mang lại các sản phẩm
thông tin sinh động hơn để có thể đáp ứng những thay đổi về nhu cầu
thông tin của khách hàng. Đó là nhận định chung của các diễn giả và
nhiều đại biểu tại phiên thảo luận cuối cùng trong khuôn khổ Đại hội lần
thứ 2 các hãng thông tấn toàn thế giới diễn ra từ ngày 24 đến 27/10/2007
tại Estepona, Tây Ban Nha. Những ngƣời tham dự cũng cho rằng với sự
phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, ngày nay báo in hay truyền
hình truyền thống đã không còn nắm vị trí độc tôn vốn đƣợc hƣởng trong
nhiều thập kỷ qua. Vì vậy, các hãng thông tấn cần phải tạo ra các sản
phẩm tích hợp cả văn bản, hình ảnh tĩnh và các đoạn băng hình minh hoạ
để đáp ứng nhu cầu của ngƣời sử dụng dịch vụ thông tin là các thuê bao di
động, các weblog. Để làm đƣợc điều này, các hãng phải đổi mới phƣơng
thức tác nghiệp ngay từ trụ sở của mình.
Cũng trong đại hội này, một khái niệm mới đã đƣợc hình thành mà
tiếng Tây ban Nha gọi là netizen-journalist, (nhà báo - cƣ dân mạng) để
chỉ những ngƣời tham gia vào mạng không chỉ để đọc tin mà còn viết
nhận xét và bình luận trên mạng. Trong bài diễn văn bế mạc đại hội, Chủ
tịch Thƣợng viện Tây Ban Nha Javier Rojo đã phải lên tiếng kờu gọi cỏc
hóng thụng tấn hóy thực sự trở thành “tai, mắt” của ngƣời sử dụng thông
tin trong bối cảnh thông tin miễn phí trên mạng Internet do các nhà báo-cƣ
dân mạng (netizen-journalist) phát tán. Những thông tin này thƣờng không
đƣợc kiểm chứng về tính chính xác cũng nhƣ không thể hiện trách nhiệm
xó hội của ngƣời đăng tải thông tin1.
Cũng trong xu hƣớng truyền thông đa chiều, Ngày 31/1/2008, 3
công ty xuất bản báo chí lớn của Nhật Bản là Nikkei Inc., Asahi Shimbun
Co. và Yomiuri Shimbun Holdings khai trƣơng một website đặc biệt, cho
phép ngƣời sử dụng so sánh, bình luận và đóng góp ý kiến về các tin tức
1 Thông tấn xã Việt Nam. ngày 27-10-2007. Bản tin về Đại hội lần thứ 2 các hãng thông tấn toàn thế
giới.
16
của họ. Khi truy cập trang web có tên là Aratanisu này, ngƣời sử dụng có
thể tự rút ra những ý kiến riêng của mình khi so sánh các tin trên trang
nhất, tin thời sự tổng hợp và các bài bình luận của ba tờ báo1.
Theo các nhà phân tích, truyền thông đa chiều còn đƣợc mở rộng
với sự xuất hiện của hiện tƣợng mà các nhà truyền thông gọi là “truyền
thông di động”. Hiện nay, với sự phát triển không ngừng của điện thoại di
động, mà theo ƣớc tính đến năm 2010 sẽ có 3 tỉ ngƣời khắp thế giới dự
kiến đƣợc trang bị, điện thoại di động đang tỏ ra là một loại hình truyền
thông đầy triển vọng. Ngày càng có nhiều tờ báo tạo ra thu nhập từ
mobile. Năm 2007, DallasNews của Mỹ thu nhập 500.000 USD từ việc
độc giả truy cập tin tức qua điện thoại di động, trong khi Aftonbladet của
Thụy Điển thu nhập 600.000 euro. Từ 2002-2006, Asahi Shimbun của
Nhật Bản đó bỏn hơn 1 triệu đăng ký cho tin tức thể thao, 21.000 đăng ký
đọc báo qua điện thoại di động. Điện thoại di động còn trở thành một công
cụ hành nghề đắc lực cho những “nhà báo-công dân mạng”. Với điện thoại
di động, mọi ngƣời đều có thể vừa nhận tin vừa chuyển tin cho các hãng
truyền thông. Với chiếc điện thoại di động của mình, bất cứ một công dân
nào cũng có thể ghi lại tức thì những sự kiện xảy ra ngay tại nơi mình
chứng kiến, thay cho một nhà báo chuyên nghiệp nếu muốn tác nghiệp thì
phải mất khá nhiều thời gian và công sức để đến từ nơi khác.
Thông tin đa chiều một mặt đã nói lên những sự tiến bộ trong các
hoạt động truyền thông. Đó là sự mở rộng không gian truyền thông cả về
chiều rộng, chiều sâu và chiều cộng cảm giữa các chủ thể và khách thể
truyền thông. Nó vừa là một công cụ đắc lực cho quá trình toàn cầu hoá,
vừa là chất súc tác cho những tƣơng tác chính trị, kinh tế xã hội giữa các
quốc gia, dân tộc và các khu vực. Thông tin đa chiều cũng tạo nên một
bầu không khí mới trong quan hệ xã hội của con ngƣời với con ngƣời, tạo
điều kiện để con ngƣời ở nhiều khu vực địa lý khác nhau có thể hiểu biết,
1 Japan Times, Yomiuri Shimbun
17
cảm thông, chia sẻ những nhu cầu và thách thức chung. Sự phát triển của
thông tin đa chiều, đặc biệt là những truyền thông trực tuyến và đa tuyến
cũng tạo điều kiện để mở rộng quá trình dân chủ trong xã hội nói chung và
trong hệ thống chuyển tải và tiếp nhận thông tin nói riêng.
Tuy nhiên truyền thông đa chiều cũng đặt ra một loạt thách thức đối
với chính quá trình toàn cầu hoá, với xã hội cũng nhƣ với chính hệ thống
truyền thông. Ranh giới từ tính đa chiều của truyền thông hiện đại đến sự
nhiễu loạn thông tin dƣờng nhƣ chỉ có một khoảng cách rât nhỏ nhoi. Việc
mọi “cƣ dân trên mạng” đều có thể tham gia vào quá trình sáng tạo, làm
thay đổi và chuyển tải các thông điệp khiến cho ngƣời nhận khó phân biệt
và xử lý đƣợc một cách chính xác những vấn đề của thực tiễn. Hình ảnh
thế giới truyền thông giống nhƣ một khu chợ hỗn loạn những kẻ mua,
ngƣời bán, những “chính nhân quân tử” bên cạnh những “kẻ cắp bà già”,
sống chen nhau trong một bầu không khí đầy những tin đồn thật giả lẫn
lộn, đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu phác hoạ một cách đầy lo ngại.
Truyền thông đa chiều cũng đặt ra những thách thức mới trong việc
kiểm soát thông tin, nhằm ngăn chặn bầu không khí vẩn đục, thậm trí ác
độc của không gian truyền thông. Truyền thông đa chiều cũng không thể
trở thành một diễn đàn để cái xấu xa lấn át cái tốt đẹp, thành nơi để con
ngƣời bới móc, vu cáo lẫn nhau, cũng không thể trở thành một khu vực
con ngƣời phải tiếp cận với những giá trị thấp kém, những sản phẩm văn
hoá phi nhân bản với con ngƣời.
Về phƣơng diện này, để chống lại những khía cạnh tiêu cực của
truyền thông đa chiều, nhiều nƣớc trên thế giới đã quan tâm tới việc xây
dựng và điều chỉnh những quy chuẩn luật pháp trong truyền thông, đặc
biệt là xử lý những mặt tiêu cực trong truyền thông trên mạng. Quan điểm
và chính sách về phát triển truyền thông đại chúng của các nƣớc có hệ
thống truyền thông mạnh chắc chắn sẽ là những bài học kinh nghiệm bổ
ích đôi với nƣớc ta.
18
Tài liệu tham khảo
1. Claudia Mast (2006) Truyền thông đại chúng. Những kiến thức cơ bản. Nhà xuất
bản Thông tin, Hà Nội
2. Dƣơng Xuân Sơn (1996) Báo chí nƣớc ngoài. NXB Văn hoá thông tin Hà Nội
3. Hoàng Minh (2005) Báo Mỹ khủng hoảng, báo điện tử lên ngôi. Vietnamnet. ngày
7-11-2005
4. Thời báo kinh tế Saigon. Ngày 20-10-2007 : Báo chí Mỹ - Cú sốc internet
5. Thông tấn xã Việt Nam. ngày 27-10-2007. Bản tin về Đại hội lần thứ 2 các hãng
thông tấn toàn thế giới.
19
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU TIẾP CẬN PHƢƠNG TIỆN THÔNG
TIN ĐẠI CHÖNG VÀ NHU CẦU CÔNG CHÖNG HIỆN NAY
(So sánh trường hợp Đồng bằng Sông Cửu Long với khu vực Tây Bắc)
TS. Lưu Hồng Minh
I. GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong những năm gần đây, truyền thông đại chúng ở Việt Nam
ngày càng phát triển. Nếu nhƣ trƣớc đây chúng ta chỉ có báo in của các cơ
quan Trung ƣơng (TW) và duy nhất một đài phát thanh và truyền hình của
Việt Nam, thì ngày nay tất cả các tỉnh thành đã có các báo, đài phát thanh
và truyền hình với những chƣơng trình riêng. Tuy nhiên, sự phát triển còn
có sự khác biệt ở nhiều ngành, nhiều địa phƣơng do những yếu tố khách
quan và chủ quan khác nhau. Cùng với sự phát triển của truyền hình qua
vệ tinh và internet nhiều ngƣời dân tại các vùng xa xôi hẻo lánh cũng có
thể tiếp cận với không chỉ các sản phẩm của Truyền thông đại chúng
(TTĐC) trong nƣớc mà còn với các sản phẩm của TTĐC nƣớc ngoài.
Từ kết quả nghiên cứu “Sự tiếp cận các phƣơng tiện thông tin đại
chúng của ngƣời dân vùng Tây Bắc” cũng nhƣ một số nghiên cứu khác
liên quan cho thấy tỷ lệ ngƣời dân đƣợc tiếp cận các phƣơng tiện thông tin
đại chúng ngày càng tăng. Tuy nhiên những câu hỏi nghiên cứu đặt ra là:
vì sao nhiều ngƣời tiếp cận với các phƣơng tiện thông tin đại chúng, tập
trung trong một số loại hình mà họ ƣa thích, thực trạng và nhu cầu tiếp cận
của họ nhƣ thế nào, các phƣơng tiện thông tin đại chúng cần đổi mới nhƣ
thế nào để thu hút công chúng? đào tạo cán bộ hoạt động trong lĩnh vực
truyền thông đại chúng cần thay đổi nội dung và phƣơng pháp giảng dạy
nhƣ thế nào để đáp ứng nhu cầu đổi mới truyền thông đại chúng hiện
nay…
20
Nghiên cứu này đƣợc thực hiện với sự hỗ trợ của Viện Friedrich
Ebert (FES) tại Hà nội trong khuôn khổ sự hợp tác giữa Học viện Báo chí
Tuyên truyền và viện FES. Bên cạnh việc khảo sát thực trạng tiếp cận các
phƣơng tiện thông tin đại chúng nói chung, nghiên cứu này còn tập trung
vào việc tìm hiểu nhu cầu của ngƣời dân đối với các chƣơng trình phát
thanh trung ƣơng và địa phƣơng tại một tỉnh nơi mà đƣợc đánh giá là có
sự cạnh tranh cao của các cơ quan truyền thông đại chúng (tỉnh Đồng
Tháp). Kết quả nghiên cứu của đề tài không chỉ là tài liệu quan trọng phục
vụ cho việc đào tạo và nghiên cứu về TTĐC. Hơn thế nữa, các kết quả
nghiên cứu còn có thể đƣợc cung cấp cho các cơ quan TTĐC của TW và
địa phƣơng nhằm giúp họ có cơ sở để xây dựng lại về mặt hình thức cũng
nhƣ nội dung các chƣơng trình phù hợp với nhu cầu của ngƣời dân.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về thái độ, hành vi và nhu cầu của ngƣời dân đối với
các ấn phẩm của TTĐC là một trong những nội dung đã đƣợc nhiều nhà
nghiên cứu TTĐC và xã hội học nghiên cứu.
Năm 1910 M.Weber đã đƣa ra bộ môn xã hội học báo chí có nhiệm
vụ nghiên cứu:
+ Sự phục vụ Báo chí cho các tập đoàn, các tầng lớp xã hội khác
nhau.
+ Phân tích các yêu cầu của xã hội đối với nhà báo.
+ Tìm hiểu các phƣơng pháp phân tích báo chí.
+ Phân tích hiệu quả của báo chí đối với việc xây dựng con ngƣời.
Trong những năm chiến tranh thế giới thứ hai Lasswell và Hobland
đã có nhiều nghiên cứu về TTĐC, đặc biệt là về hiệu quả của chúng. Các
ông đã tiến hành nghiên cứu hiệu quả của mô hình truyền thông 1 chiều,
nghiên cứu uy tín của nguồn tin, thái độ tuyên truyền ảnh hƣởng nhƣ thế
nào đến hiệu quả truyền tin. Theo Hobland TTĐC là công cụ để duy trì
đảm bảo trật tự xã hội.
21
T. Parsons (1902-1979) nhà xã hội học ngƣời Mỹ đã đề cao vai trò
của thông tin. Theo ông, thông tin là quá trình cơ bản trong hệ thống xã
hội, vì vậy khi nghiên cứu về thông tin cần đặt nó trong sự vận hành của
hệ thống xã hội.
Theo A. Toffler làn sóng thứ ba đang tạo ra một thời đại mới, thời
đại của thông tin phi đại chúng hoá. Công chúng hiện nay không chỉ có
một nguồn thông tin mà họ có nhiều nguồn thông tin đa dạng. Do vậy họ
có thể chọn lựa thông tin nào phù hợp với chính bản thân mình. Chính
việc thay đổi môi trƣờng dẫn đến những thông tin xung quanh chúng ta
cũng thay đổi.
Trên thế giới đã có những công trình nghiên cứu về sự tác động của
truyền hình đối với dân chúng. Ở Anh vào đầu những năm 50 của thế kỷ
trƣớc, ngƣời ta bắt đầu nghiên cứu khán giả truyền hình. ITV-hãng truyền
hình thƣơng mại của Anh đã đo lƣờng khán giả truyền hình bằng thiết bị
đo lƣờng gắn với tivi của 2000 hộ. Vào những năm 60, tại Pháp đã có
nhiều nghiên cứu về số lƣợng khán giả truyền hình và sự yêu thích của họ
đối với các chƣơng trình truyền hình. Sau những năm 60 các phƣơng pháp
nghiên cứu về khán giả truyền hình ngày càng đƣợc hoàn thiện, nhiều đề
tài nghiên cứu về công chúng của TTĐC theo các phƣơng pháp định
lƣợng và cả định tính. Ngƣời ta đã sản xuất đƣợc thiết bị hiện đại gắn vào
các tivi để đo lƣờng hành vi của ngƣời sử dụng chuyển về trung tâm xử lý
và thông báo kết quả này hàng ngày cho các đài truyền hình.
Trong những năm qua TTĐC ở Việt Nam phát triển nhanh chóng và
mạnh mẽ nên nhu cầu nghiên cứu về công chúng của TTĐC nhằm nâng
cao hiệu quả truyền thông là rất cần thiết và có giá trị. Thực tế nƣớc ta,
những công trình nghiên cứu hay những đề tài khoa học nghiên cứu về hệ
thống TTĐC từ hƣớng tiếp cận của xã hội học báo chí còn chƣa nhiều.
Những năm 90, một số cơ quan báo chí và viện Xã hội học đã tiến hành
một số nghiên cứu với qui nhỏ.
22
Năm 1999, trung tâm Nghiên cứu Dƣ luận xã hội, Ban Tƣ tƣởng-
Văn hoá Trung ƣơng đã tiến hành cuộc điều tra “Về định hướng xem
truyền hình” ở Việt Nam tại 24 tỉnh thành trong cả nƣớc với 3475 phiếu
điều tra cá nhân. Cuộc điều tra này tập trung tìm hiểu hành vi xem truyền
hình của công chúng nhằm phục vụ trực tiếp một số yêu cầu cải tiến chất
lƣợng nội dung chƣơng trình và kỹ thuật của đài truyền hình Việt Nam.
Đến năm 2002 Trung tâm lại tiến hành một cuộc điều tra “Thăm dò dư
luận khán giả đài truyền hình Việt Nam” tại 19 tỉnh với số phiếu 2920.
Cuộc điều tra này cung cấp nhiều số liệu cơ bản về nhu cầu, thị hiếu, định
hƣớng và thói quen xem truyền hình của các tầng lớp nhân dân. Đánh giá
ƣu điểm cũng nhƣ hạn chế của các chƣơng trình truyền hình, thái độ của
khán giả đối với các chƣơng trình truyền hình. Từ đó nêu một số kiến nghị
đối với đài truyền hình Việt Nam.
Năm 2001, Trung tâm Đào tạo Phát thanh-Truyền hình thuộc đài
truyền hình Việt Nam đã thực hiện: “Nghiên cứu khán giả truyền hình Việt
Nam” tại 5 tỉnh với 2004 phiếu. Đề tài đã đƣa ra mức độ xem truyền hình
của các nhóm công chúng phân theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp… đối
với các chƣơng trình và chuyên mục của đài truyền hình Việt Nam và các
đài truyền hình địa phƣơng Hà Nội, Bình Dƣơng.
Năm 2001 Đài Tiếng nói Việt Nam và Ban Tƣ tƣởng Văn hoá TW
đã tiến hành điều tra trên 30 tỉnh, thành phố với 2615 ngƣời trả lời. Kết
quả nghiờn cứu đã mô tả đƣợc các nhóm công chúng của Đài, xác định
đƣợc những lý do thính giả không nghe đài, đánh giá về chất lƣợng phát
sóng, nguyện vọng và đề xuất của thính giả... Đến năm 2005 Đài Tiếng
nói Việt Nam tiếp tục thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học: “Một số giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra thính giả của Đài Tiếng nói Việt
Nam”. Đề tài này đã tổng kết công tác điều tra thính giả của Đài từ năm
1989 đến năm 2005 đồng thời tiến hành điều tra 1468 thính giả nhằm xác
định nhóm thính giả của chƣơng trình Hệ Thời sự Chính trị tổng hợp và
23
nhiều nội dung dung tƣơng tự đề tài trên để từ đó đƣa ra những thông tin
giúp Đài cải tiến và nâng cao chất lƣợng chƣơng trình.
Trong những năm qua các luận án tiến sĩ ở Việt Nam chủ yếu là
nghiờn cứu công chúng của các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Năm
2002, Trần Hữu Quang đã tiến hành bảo vệ luận án tiến sĩ về đề tài:
“Truyền thông đại chúng và công chúng-nghiên cứu trường hợp thành phố
Hồ Chí Minh”. Luận án đã mô tả về mô thức tiếp nhận thông tin từ TTĐC
của công chúng thành phố Hồ Chí Minh dựa trên trục nội dung thông tin
tiếp nhận.
Năm 2008, Trần Bảo Khánh đã tiến hành bảo vệ luận án tiến sĩ về
đề tài: “Đặc điểm công chúng truyền hình Việt Nam giai đoạn hiện nay”.
Luận án đã mô tả các đặc điểm của công chúng truyền hình Việt Nam năm
2005, đƣa ra một số dự báo về sự thay đổi đặc điểm của công chúng trong
thời gian tới. Đồng thời, luận án đƣa ra các đề xuất có tính khả thi để điều
chỉnh chiến lƣợc phát triển của truyền hình Việt Nam nhằm thích ứng với
đặc điểm của công chúng và nâng cao chất lƣợng chƣơng trình phù hợp
với các đòi hỏi của xã hội.
Cũng trong năm 2008 Trần Bá Dung đã bảo vệ luận án tiến sĩ với đề
tài: “Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng Hà Nội”. Luận
án mô tả nhu cầu và mô thức tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng
Hà Nội, đồng thời chỉ ra những nhân tố tác động, ảnh hƣởng đến những
nhu cầu tiếp nhận này.. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu luận án dự báo một
số xu hƣớng vận động của nhu cầu và đƣa ra các giải pháp nâng cao chất
lƣợng và hiệu quả hoạt động báo chí.
Năm 2004, Khoa Xã hội học Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và nhu cầu tiếp cận TTĐC của
sinh viên Hà Nội” tại 5 trƣờng đại học ở Hà Nội với 200 sinh viên. Đây là
một đề tài nghiên cứu với qui mô nhỏ kết hợp định tính và định lƣợng để
tìm hiểu về hành vi của sinh viên đối với các ấn phẩm và các chƣơng trình
trên phƣơng tiện TTĐC. Đề tài đã tổng hợp đƣợc những mong muốn của
24
sinh viên xem các kênh truyền hình, nội dung và các chƣơng trình truyền
hình cụ thể. Số liệu của đề tài để phục vụ lớp bồi dƣỡng của Hội Nhà báo
cho các phóng viên viết về thanh niên.
Năm 2006 Khoa tiếp tục triển khai đề tài “Sự tiếp cận với các
phƣơng tiện thông tin đại chúng của ngƣời dân vùng Tây Bắc” đề tài đã
nghiên cứu khá toàn diện về thái độ, hành vi, nhu cầu và đánh giá một
phần về hiệu quả truyền thông của 4 loại phƣơng tiện thông tin đại chúng:
truyền hình, phát thanh, báo in và Internet từ phía nghiên cứu công chúng.
Đề tài đã nghiên cứu tại 6 xã phƣờng thuộc tỉnh Lao Cai và Yên Bái.
Ngoài các đề tài nghiên cứu về công chúng nêu trên Khoa Xó hội
học còn đánh giá hiệu quả truyền thông của báo in, Internet bằng phƣơng
pháp phân tích nội dung các bài báo của nhiều tờ báo in và báo mạng về
nhiều chủ đề nhƣ: dân số và phát triển, HIV/AIDS, tính dục, đồng tính, bất
bình đẳng giới, dân tộc thiểu số...
Bên cạnh các đề tài nghiên cứu có tính hàn lâm đã nêu trên nhiều
công ty, doanh nghiệp, dự án thuộc các lĩnh vực truyền thông, quảng cáo,
nghiên cứu thị trƣờng... đã tiến hành nhiều cuộc điều tra có liên quan đến
công chúng các phƣơng tiện thông tin đại chúng.
Tóm lại, các đề tài nghiên cứu đã nêu trên do nhiều cơ quan tiến
hành phạm vi nghiên cứu hẹp, không thƣờng xuyên và còn nhiều hạn chế.
Chính vì vậy, cuộc điều tra: “Thực trạng tiếp cận các phương tiện thông tin
đại chúng của người dân và nhu cầu đối với đài phát thanh” qua nghiên cứu
tại tỉnh Đồng Tháp là hết sức cần thiết trƣớc hết để bổ sung cho các nguồn
số liệu còn thiếu của các đề tài nghiên cứu trƣớc đây, đồng thời giúp sinh
viên và giảng viên của Học viện BC & TT thực hành một đề tài có qui mô
khá lớn và có nhiều số liệu phục vụ công tác giảng dạy, bồi dƣỡng đối với
phóng viên báo phát thanh.
3. Mục đích của đề tài
a) Khảo sát thực trạng tiếp cận với các phƣơng tiện TTĐC (Báo in,
phát thanh, truyền hình, Internet) của ngƣời dân tỉnh Đồng Tháp.
25
b) Tìm hiểu nhu cầu của ngƣời dân tỉnh Đồng Tháp đối với các
chƣơng trình của đài phát thanh và các phƣơng tiện thông tin đại
chung khác.
c) Đề xuất khuyến nghị nhằm thay đổi về mặt hình thức, nội dung
cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng sản phẩm của các chƣơng trình
phát thanh nói riêng và truyền thông đại chúng nói chung tại tỉnh
Đồng Tháp và Trung ƣơng.
4. Phạm vi va phƣơng phap nghiên cứu
Thời gian thu thập thông tin tháng 9/2008 tại 2 phƣờng và 3 xã của tỉnh
Đồng Tháp:
o Phƣờng Tân Quy Đông thị xã Sa Đéc
o Phƣờng 4 thành phố Cao Lãnh
o Xã An Phong huyện Thanh Bình
o Xã An Bình A huyện Hồng Ngự
o Xã Phú Điền, huyện Tháp Mƣời
Tại mỗi xã/phƣờng điều tra bằng bảng hỏi định lƣợng 100 ngƣời từ
16 tuổi trở lên đồng thời tổ chức 2 cuộc thảo luận nhóm: 1 thảo luận nhóm
dành cho những ngƣời thƣờng xuyên nghe đài và 1 thảo luận nhóm dành
cho những ngƣời không nghe đài. Các xã/phƣờng đƣợc lựa chọn đại diện
cho tỉnh Đồng Tháp và cho các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, có
điều kiện thuận lợi để tiếp cận với TTĐC. Tại mỗi xã/phƣờng dựa trên
danh sách các cá nhân trong từng hộ gia đình chọn ngẫu nhiên hệ thống
cho đủ 100 cá nhân và mỗi ngƣời chỉ thuộc vào 1 hộ gia đình.
II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Cuộc điều tra định lƣợng đã tiến hành phỏng vấn theo bảng hỏi đối
với 500 ngƣời tại 5 xã, phƣờng thuộc tỉnh Đồng Tháp. Kết quả sự phân bố
mẫu điều tra đƣợc trình bày trong bảng 1.
26
Bảng 1: Phân bố mẫu điều tra
Các chỉ báo Tỷ lệ
(%)
* Độ tuổi
- Dƣới 21 tuổi
- Từ 21-30 tuổi
- Từ 31-40 tuổi
- Từ 41-50 tuổi
- Từ 51-60 tuổi
- Trên 60 tuổi
5.4
17.6
22.0
26.4
15.6
13.0
* Giới tính
- Nam
- Nữ
51.8
48.2
* Học vấn
- Chƣa bao giờ đi học
- Tiểu học
- Trung học cơ sở
- Trung học phổ thông
- Cao đẳng/ đại học,hoặc cao hơn
8.4
30.2
32.2
23.2
6.0
* Địa bàn cư trú
- Đô thị
- Nông thôn
40.0
60.0
Về độ tuổi của ngƣời trả lời, cơ cấu mẫu khảo sát phản ánh tuổi
ngƣời trả lời trung bình 43,15 tuổi, cao hơn so tuổi ngƣời trả lời cùng
nghiên cứu này đƣợc thực hiện tại Tây Bắc 3 tuổi, đƣợc phân bố cụ thể
với nhóm tuổi trên 60 tuổi tại Đồng Tháp cao gần gấp 2 lần so với nhóm
tuổi đó tại khu vực Tây Bắc (13% so với 7,3%).
Về giới tính ngƣời trả lời tại 2 khu vực nghiên cứu (Tây Bắc và
Đồng Tháp) là khá đồng đều với số nam giới cao hơn hơn so với nữ giới,
tuy nhiên tỷ lệ chênh lệch không đáng kể (51.8% so với 48.2%)
Đối với trình độ học vấn của ngƣời trả lời, kết quả mẫu khảo sát tại
Đồng Tháp cho thấy: Tỷ lệ ngƣời chƣa bao giờ đi học thấp hơn khá nhiều
27
so với vùng Tây Bắc (8,4% so với 13%), nhƣng tỷ lệ ngƣời có trình cao
đẳng/đại học và cấp bậc cao hơn cũng thấp hơn (6% so với 15,7%).
Do cách chọn mẫu tại 2 phƣờng và 3 xã nên cơ cấu phân vùng theo
đô thị và nông thôn đƣợc phân bố với tỷ lệ 60% ngƣời trả lời thuộc khu
vực nông thôn và 40% ngƣời trả lời thuộc khu vực đô thị.
Ngoài các chỉ báo trong mẫu cá nhân ngƣời trả lời, nhóm nghiên
cứu còn quan tâm đến các đặc điểm khác về gia đình nhƣ thu nhập, phân
tầng xã hội.
Theo số liệu của Tổng cực thống kê năm 2004 thu nhập bình quân
đầu ngƣời theo giá thực tế tại vùng Tây Bắc 265,7 nghìn
đồng/ngƣời/tháng và vùng Đồng bằng sông Cửu Long 471,1 nghìn
đồng/ngƣời/tháng. Nếu xét theo chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-
2010 (200 nghìn đồng cho nông thôn và 260 nghìn đồng cho đô thị) thì tỷ
lệ hộ nghèo năm 2004 tại vùng Tây Bắc là cao nhất so với các vùng khác
của cả nƣớc(46,1%). Trong khi đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long là
vùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp (15,3%), đứng vị trí thứ 3 so với 8 vùng khác,
chỉ đứng sau vùng Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng sông Hồng. Theo số
liệu điều tra của chúng tôi tại 5 xã/phƣờng nghiên cứu tỷ lệ hộ nghèo, đói
theo đánh giá của địa phƣơng thấp hơn khá nhiều so với vùng Tây Bắc
(chỉ bằng khoảng 1/3 vùng Tây Bắc, 7,2% so với 19%). Tỷ lệ này cũng
tƣơng tự nhƣ báo cáo của Tỉnh năm 2008 là tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 7%.
Kết quả phân bố mẫu thu nhập gia đình đƣợc phân bố tại Đồng
Tháp cụ thể với 7.0% số hộ thuộc diện nghốo, 0.2% thuộc diện đói, 70%
thuộc loại trung bình. Tỷ lệ các hộ khá giả chiếm 20.4% và số hộ giầu là
2.4%.
Dựa trên sự cung cấp thông tin về bình quân chi tiêu của hộ gia đình
chúng tôi đã xác định đƣợc định mức bình quân chi tiêu 1 ngƣời/tháng của
hộ gia đình ngƣời trả lời. Kết quả điều tra tại Đồng Tháp cho thấy bình
quân chi tiêu là 494 nghìn đồng/ngƣời/tháng cao hơn gần 2 lần so với kết
quả điều tra tại Tây Bắc năm 2006 (281 nghìn đồng/ngƣời/tháng). Nếu
28
dựa trên chuẩn nghèo năm 2006 là 200 nghìn đồng/ngƣời/tháng để từ đó
phân làm 5 nhóm về giàu nghèo ta có: Nhóm hộ nghèo có chi tiêu từ 200
nghìn đồng /ngƣời/tháng trở xuống; nhóm hộ trung bình kém từ 201-400
nghìn đồng/ngƣời/tháng; nhóm hộ trung bình từ 401-600 nghìn
đồng/ngƣời/tháng; nhóm hộ khá giả 601-800 nghìn đồng/ngƣời/tháng và
giàu trên 800 nghìn đồng /ngƣời/tháng. Theo sự phân chia này có thể so
sánh về phân tầng xã hội dựa kết quả điều tra tại Đồng Tháp và Tây Bắc
qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1: So sánh phân tầng xã hội giữa Đồng Tháp và Tây Bắc
Qua biểu đồ này có thể thấy tỷ lệ hộ nghèo tại Tây Bắc cao gấp 5
lần so với Đồng Tháp, ngƣợc lại tỷ lệ hộ giàu chỉ bằng 1/2 Đồng Tháp.
Các số liệu này cho thấy tại Đồng Tháp mức sống cao hơn khá nhiều so
với vùng Tây Bắc đồng thời sự phân hóa giàu nghèo cũng không nhiều
nhƣ vùng Tây Bắc.
1. Sở hữu các phƣơng tiện truyền thông đại chúng của ngƣời dân
Nhìn chung, thực tế những năm qua Đồng Tháp đã đạt đƣợc nhiều
thành tựu to lớn: tăng trƣởng kinh tế liên tục với tốc độ khá cao và tƣơng
đối ổn định. Năm 2007 tốc độ tăng trƣởng kinh tế là 15,26 và 6 tháng đầu
năm 2008 đạt 14,75, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hƣớng phát huy
đƣợc thế mạnh về nông nghiệp của địa phƣơng. Theo các số liệu thống kê
Nghèo TB kém
Tbình Kgiả Giàu
56
21
9 9
5
11.6
38
26.6
13 10.8
0
10
20
30
40
50
60
Đồng Tháp
Tây Bắc
29
của địa phƣơng, đến nay 100% xã của tỉnh đã có đƣờng ô tô đến trung tâm
xã, 95% dân có điện lƣới quốc gia. Mức sống của ngƣời dân Đồng Tháp
ngày càng đƣợc nâng cao điều này đƣợc thể hiện thông qua tỷ lệ các hộ
gia đình sở hữu các phƣơng tiện TTĐC.
Bảng 2: Các phƣơng tiện truyền thông gia đình ngƣời trả lời có
Tiện nghi % Tiện nghi %
1. Tivi 93.0 5. Điện thoại cố định 54.8
2. Đài radio/catxet 41.4 6. Điện thoại di động 68.8
3. Đầu đĩa hình (VCD) 71.0 7. Máy vi tính 15.4
4. Dàn âmt hanh/Karaoke 35.8
Kết quả khảo sát bảng 2 cho thấy tỷ lệ ngƣời dân sở hữu các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng đều cao hơn khá nhiều (từ 1,5 đến 3
lần) so với kết quả điều tra tại Tây Bắc. Ví dụ tỷ lệ ngƣời trả lời có điện
thoại di động ở ngƣời phỏng vấn tại Đồng Tháp gần 70% trong khi đó
vùng Tây Bắc chỉ đạt 20%. Bên cạnh đó, tỷ lệ hộ gia đình ngƣời trả lời có
tivi chiếm 93% (vùng Tây Bắc 79,2%) trong đó phần lớn (84%) là có tivi
từ năm 2005 trở về trƣớc. Tỷ lệ số hộ có tivi ngày càng tăng vì vào năm
2000 số hộ có tivi chỉ đạt 50%.
So với các tỉnh vùng Tây Bắc tại Đồng Tháp không có núi, đồi nên
các hộ dân trong tỉnh chỉ cần ăng ten thông thƣờng đã có thể bắt đƣợc rất
nhiều kênh truyền hình của TW (VTV1 và VTV3), khu vực và hàng chục
đài thuộc các tỉnh lân cận). Theo báo cáo của Ban Tuyên giáo cũng nhƣ
lãnh đạo đài PTTH tỉnh Đồng Tháp 100% các hộ gia đình ở Đồng Tháp có
thể bắt đƣợc sóng truyền hình và đài phát thanh AM, riêng sóng FM chỉ
đảm bảo đến đƣợc 85% dân cƣ. Số đài phát FM trong tỉnh gồm 1 đài của
tỉnh công suất 5KW, 11 đài của 11 huyện và 1 đài của quân đội công suất
phát từ 300-800W. Với địa bàn rộng và các đài phát công suất thấp và tính
chất xung đột giữa các đài phát nên phần lớn ngƣời dân tại Đồng Tháp lại
nghe tốt đài phát thanh (FM) của tỉnh Vĩnh Long.
Điều kiện để xem đƣợc các kênh truyền hình tại Đồng Tháp thuận
lợi hơn rất nhiều so với nhiều vùng khác ở phía Bắc. Bằng ăng ten thƣờng
30
họ có thể xem đƣợc hơn chục kênh truyền hình khác nhau. Tại đây nhiều
vùng đô thị nhƣ Sa Đéc, Cao Lãnh, Hồng Ngự ngƣời dân có thể xem đƣợc
truyền hình kỹ thuật số và truyền hình cáp. Theo kết quả từ mẫu điều tra
của chúng tôi tại Đồng Tháp có 3% xem kỹ thuật số và 7,6% xem truyền
hình cáp. Một khác biệt rất lớn đối với điều tra tại vùng Tây Bắc là tại
Đồng Tháp tỷ lệ ngƣời sử dụng ăng ten chảo rất thấp chỉ có 1 ngƣời chiếm
0,2% co sử dụng ăng ten chảo. Thông qua phỏng sâu lãnh đạo đài Phát
thanh-Truyền hình tỉnh Đồng Tháp cho biết trƣớc đây có một số hộ gia
đình tại khu vực đô thị có ăng ten chảo DTH nhƣng nay không rõ còn bao
nhiêu hộ sử dụng. Những lý do giảm ngƣời sử dụng là do 1 ăng ten chảo
chỉ nối đƣợc với 1 tivi và chi phí hàng tháng cao hơn xem truyền hình cáp.
Trƣớc năm 2000 tỉnh Đồng Tháp cũng cấp miễn phí khoảng 100 tivi và
vài nghìn chiếc radio cho nhóm đối tƣợng nghèo và vùng biên giới nhƣng
nay đã hỏng hết. Theo lãnh đạo đài PTTH Đồng Tháp mức sống của ngƣời
dân tăng lên và đài phát thanh rẻ nên không cần dự án cấp miễn phí cho
ngƣời nghe đài phát thanh.
2. TiÕp cËn th«ng tin cña ngêi d©n
Trong xã hội hiện đại, thông tin trở thành nhu cầu thiết yếu không
thể thiếu đối với cuộc sống con ngƣời. Ngƣời ta ví thế giới nhƣ một ngôi
làng nhỏ mà chìa khóa để vào cổng làng chính là thông tin. Do đó việc
dành khoảng thời gian nhất định để tìm kiếm thông tin là việc rất cần thiết
đối với mọi ngƣời trong xó hội thụng tin hiện nay.
Với câu hỏi “ông/ bà hãy chọn 3 công việc mà ông/ bà thường làm
nhất trong thời gian rỗi?”, kết quả cho thấy trong thời gian rỗi ngƣời dân
chủ yếu xem truyền hỡnh (70,8%), sau đó là dành thời gian để nói chuyện,
trao đổi với các thành viên trong gia đình (25,8%) và thứ 3 là dành khoảng
thời gian đó để nghỉ ngơi thuần túy (29,6%). Điều này cho thấy truyền
hình có vai trò quan trọng không chỉ cho việc cung cấp tin tức, thông tin
mà nó còn là phƣơng tiện giúp cho con ngƣời thƣ giãn trong khoảng thời
gian nhàn rỗi.
31
Biểu ®å 2: Mức độ tiếp cận hàng ngày với các phương tiện truyền thông đại
chúng (%)
80
19.615.2
2
0
20
40
60
80
Truyền hình Phát thanh Báo Internet
Nếu nhƣ so sánh với kết quả điều tra tại miền núi phía Bắc vị trí của
truyền hình vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, mức độ hàng ngày mà ngƣời
dân tại Đồng Tháp dành cho xem truyền hình là không nhiều. Có 80% số
ngƣời đƣợc hỏi cho rằng họ có xem truyền hình hàng ngày nhƣng phƣơng
tiện này vẫn chiếm ƣu thế hơn cả trong 4 loại phƣơng tiện (tivi, đài phát
thanh, sách báo và tạp chí, mạng Internet) mà chúng tôi đƣa ra. Số ngƣời
tiếp cận với phát thanh chỉ bằng ¼ và số ngƣời tiếp cận với báo chỉ bằng
1/5 so với số ngƣời tiếp cận với truyền hình. Tuy nhiên trong kết quả khảo
sát, vẫn còn một lƣợng nhỏ ngƣời dân không bao giờ tiếp cận các loại
phƣơng tiện truyền thông này (2,4%).
Tiếp nhận thông tin từ truyền hình có lợi thế hơn rất nhiều so với
các loại phƣơng tiện truyền thông đại chúng khác, đây là phƣơng tiện có
hiệu quả cao nhất hiện nay đối với công chúng. Số liệu điều tra cho thấy tỷ
lệ ngƣời dân ở Đồng Tháp có tivi khá cao, 93% số ngƣời trả lời là có tivi.
Theo nhƣ kết quả phỏng vấn sâu lãnh đạo Ban Tuyên giáo tỉnh Đồng Tháp
cho thấy mặc dù điều kiện kinh tế của các hộ gia đình ở đây không cao
nhƣng các hộ gia đình vẫn dành một khoản cho việc mua sắm tivi cho dù
đó chỉ là những chiếc tivi đen trắng với giá tiền khoảng 500 ngàn đồng/
chiếc.
Tỷ lệ số ngƣời tiếp cận với các phƣơng tiện truyền thông đại chúng
đƣợc sắp xếp giảm dần theo biểu đồ trên: thứ nhất là truyền hình, nghe
đài, đọc báo và cuối cùng là sử dụng máy tính. Các tỷ lệ không có sự thay
32
đổi đáng kể giữa ngày bình thƣờng (từ thứ 2 đến thứ 6) và ngày cuối tuần
(thứ 7, Chủ nhật). Một số tài liệu phân tích cho thây : trong những ngày
nghỉ cuối tuần, do mức sống cao cho nên một bộ phận cƣ dân đô thị tìm
đến các loại hình giải trí khác nhƣ: điện ảnh, du lịch, mua sắm…
Biểu ®å 3: Số người tiếp cận các phương tiện truyền thông đại chúng
(người)
0
100
200
300
400
500
Xem tivi Nghe đài Đọc báo Sử dụng máy tính
T2-T6
T7
CN
Trong khi đó, ở nông thôn, chiếc máy thu hình vẫn là phƣơng tiện
giải trí chƣa thể thay thế đƣợc. Nhƣng tại địa bàn nghiên cứu lại cho thấy
nhóm công chúng ở đô thị dành nhiều thời gian cho xem truyền hình hơn
nhóm công chúng ở nông thôn. Điều này có thể là do tại đô thị tỷ lệ các hộ
gia đình có tivi cao hơn ở nông thôn và nhiều gia đình có từ 2 chiếc tivi
trở lên, còn ở nông thôn tỷ lệ gia đình không có tivi chiếm tỷ lệ cao hơn.
Cách thức và nội dung tiếp nhận thông tin ở khu vực nông thôn cũng thiên
về hƣớng giải trí hơn là các thông tin thời sự chính trị và mở mang kiến
thức phục vụ cho phát triển nông nghiệp. Ngƣợc lại, ở khu vực đô thị
ngƣời xem có xu hƣớng tập trung hơn vào thông tin thời sự chính trị và
thông tin khoa học kỹ thuật.
Về thời lƣợng tiếp cận với các phƣơng tiện truyền thông đại chúng
(chỉ tính đối với những người có tiếp cận) số lƣợng thời gian dành cho
xem truyền hình của ngƣời dân xem truyền hình là cao nhất nhƣng nếu so
sánh với kết quả nghiên cứu của Lào Cai và Yên Bái thấy rằng thời lƣợng
tiếp cận của ngƣời dân ở Đồng Tháp là thấp hơn nhiều.
33
Bảng 3: Thêi lîng tiÕp cËn c¸c PTTT§C cña công chúng
miền núi phía Bắc (2006) và Đồng Tháp 2008 (tính bằng phút)
Họat động Thứ hai – thứ sáu Thứ bảy Chủ nhật
Lào Cai,
Yên Bái
Đồng
Tháp
Lào Cai,
Yên Bái
Đồng
Tháp
Lào Cai,
Yên Bái
Đồng
Tháp
Xem TV 227 153 238 153 244 154
Nghe đài 91 109 85 110 87 112
Đọc báo/ sách 54 55 46 49 45 51
Sử dụng internet 78 88 93 86 95 85
Đối với tỷ lệ ngƣời nghe đài có sự cải thiện đáng kể, khoảng thời
gian thính giả ở Đồng Tháp dành cho nghe đài cao hơn hẳn so với thời
gian công chúng ở vùng miền núi phía Bắc năm 2006. Điều này có thể
đƣợc lý giải rằng, do điều kiện về mặt địa lý của cùng miền núi phía Bắc
là vùng lòng chảo, sóng phát thanh rất yếu và khó bắt sóng hơn nữa ngƣời
dân ở đây có thể mua đƣợc truyền hình và ăng ten chảo lậu với giá khá rẻ
nên họ dành nhiều thời gian xem truyền hình hơn. Còn đối với công chúng
tại Đồng Tháp, đây là vùng giáp ranh với các tỉnh nhƣ Vĩnh Long, Cần
Thơ, Tiền Giang là những vùng có sóng phát thanh khá mạnh với các
chƣơng trình phát thanh khá phong phú, phù hợp với nhu cầu của nhóm
công chúng, hơn nữa hệ thống loa phát thanh cũng phát triển tại các khóm
ấp của địa bàn nghiên cứu nên việc tiếp cận với phát thanh dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, kết quả cho thấy ngƣời dân không dành nhiều thời gian
cho việc đọc sách, báo, tạp chí bởi một phần là do họ còn dành thời gian
cho công việc và sách báo là thứ khá xa xỉ với ngƣời dân ở vùng nông
thôn: “Nãi chung n«ng d©n th× hµng ngµy buæi s¸ng thøc dËy kho¶ng 4
giê, còng ra tËp thÓ dôc råi v«, cßn buæi chiÒu th× còng b¾t truyÒn h×nh ®Ó
coi tin tøc thêi sù, chø cßn nãi chung ë ®©y tiÕp cËn b¸o chÝ nµy kia th× ë
th«n quª hÎo l¸nh th× kh«ng cã c¸i ®ã, thµnh ra còng kh«ng ®îc ®äc”
(Thảo luận nhóm, Huyện Phú Điền, Đồng Tháp).
34
Đánh giá mức độ quan trọng về thông tin ngƣời dân nhận đƣợc là
thông qua kênh truyền thông nào (kênh giao tiếp đại chúng hay kênh giao
tiếp trực tiếp), chúng tôi có đƣa ra 3 nguồn thông tin quan trọng nhất. Kết
quả nghiên cứu cho thấy nguồn thông tin quan trọng nhất mà ngƣời dân ở
Đồng Tháp tiếp nhận là từ truyền hình, chiếm 91,8%, sau đó đến đài phát
thanh 25,6% và cuối cùng là hàng xóm và bạn bè 23,1%.
Từ các số liệu điều tra có thể nhận định rằng các thông tin từ các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò quan trọng trong đời
sống của mỗi con ngƣời. Cụ thể là với truyền hình thì ngƣời dân dù ở bất
kỳ khu vực nào cũng đánh giá thông tin nhận đƣợc từ chúng là rất quan
trọng. Mặc dù, trong xã hội hiện nay gần ½ lƣợng thông tin mà chúng ta
nhận đƣợc từ kênh giao tiếp đại chúng nhƣng cũng không thể phủ nhận
vai trò của kênh truyền thông liên cá nhân. Chính vì lý do đó ngƣời dân ở
khu vực này lựa chọn việc lấy thông tin thời sự từ hàng xóm và bạn bè
đứng thứ 3 trong 3 loại kênh thông tin mang lại nhiều tin tức nhất. Bởi
việc trao đổi sau khi xem các thông tin qua các phƣơng tiện truyền thông
sẽ giúp cho công chúng chia sẻ quan điểm cũng nhƣ bình luận về những
thông tin mà mình tiếp cận. Sự trao đổi này còn tạo ra một lớp công chúng
thứ cấp, đây là lớp công chúng do nhiều lý do khác mà không trực tiếp
nhận đƣợc thông tin từ các phƣơng tiện truyền thông đại chúng. Nhƣ vậy,
trao đổi thông tin sau khi xem các phƣơng tiện truyền thông diễn ra nhƣ
một tất yếu dƣới tác động của dòng chảy thông tin rất mạnh mẽ và đa dạng
hiện nay.
Tìm hiểu về mức độ trao đổi thông tin, kết quả nghiên cứu cho thấy
công chúng ở đây thƣờng trao đổi các thông tin thời sự với ngƣời thân
trong gia đình, chiếm 53%, sau đó tới bạn bè 24,4%, với hàng xóm chỉ có
6,4% lựa chọn, trong khi đó vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ ngƣời dân giữ
những thông tin này cho riêng mình mà không trao đổi với ai (15,5%).
35
3. Tiếp cận đài phát thanh và nhu cầu sử dụng phát thanh của ngƣời
dân Đồng Tháp
3.1. Tiếp cận đài ph¸t thanh
Tỷ lệ ngƣời nghe đài hàng ngày tại Đồng Tháp cao hơn rất nhiều so
vơi Tây Băc (Theo kêt qua điêu tra cua chung tôi ta i Lao Cai va Yên Bai
năm 2006 là 6%). Lý do quan trọng nhất dẫn đến việc ít ngƣơi nghe đai
hàng ngày là do nội dung các chƣơng trình phát thanh thanh không hấp
dẫn bằng các chƣơng trình của truyền hình, thơi lƣơng phap song it . Tiêp
đến là do yếu tố kỹ thuật, chất lƣợng sóng kém.
Mặc dù có tới 47,2% số ngƣời đƣợc hỏi cho biết đã từng nghe đài
nhƣng trong một tháng trở lại đây, tính tại thời điểm đƣợc phỏng vấn, con
số này giảm xuống chỉ còn 28,8% và nếu tính số ngƣời hàng ngày có nghe
đai chi đat đƣơc la 19,6%.
Về mức độ nghe đài , nhƣ phân trên đa trinh bay thơi gian nghe đai
của ngƣơi dân Đông Thap cao hơn ngƣơi dân vung Tây Băc kha nhiêu .
Với những ngƣời có thói quen nghe đài hàng ngày, những khung giờ nghe
đài nhiều nhất là buổi sáng sớm (05h30 – 07h30), buổi trƣa (11h30 –
13h30) và buổi chiều tối (17h00 – 22h00). Nêu so sanh vơi truyên hinh
chúng tôi thấy tỷ lệ ngƣời nghe đài từ 17h đên 22h không co sƣ biên đông
nhiêu nhƣng ty lê ngƣơi xem truyên hinh tƣ 17h đên 19h thâp hơn rât
nhiêu so vơi mui giơ tƣ 19h đên 21h. Nêu so sanh vơi vung Tây Băc thi
ngƣơi dân Đông Thap nghe đai nhiêu hơn vao buôi sang va buôi trƣa.
Kết quả nghiên cứu tại Đồng Tháp cho thấy thời lƣợng nghe đai vào
hai ngày cuối tuần thứ Bảy và Chủ nhật cao hơn ngay thƣơng . Điêu nay
hoàn toàn khác vơi vung Tây Băc khi ngày cuối tuần thời lƣợng nghe đài
của ngƣời dân ở khu vực này ít hơn.
Tuy ngƣơi dân Đông Thap tra lơi th ích nghe Đài Tiếng nói Việt
Nam nhiêu hơn nhƣng do chât lƣợng thu song kem hơn va ngôn ngƣ kho
36
nghe hơn nên ty lê ngƣơi nghe đai Đồng Tháp thƣơng xuyên lai cao hơn
so vơi Đài Tiếng nói Việt Nam. Tƣơng tƣ nhƣ sô liêu tai Tây Băc chƣơng
trình tin tức đƣợc ngƣời dân Đồng Tháp yêu thích nhất , tiêp đên la âm
nhạc, dân ca vong cô va thƣ ba la chƣơng trinh nông thôn . Vê tin tƣc ho
muôn nghe trên Đài Tiếng nói Việt Nam, nhƣng chƣơng trinh âm nhac ,
dân ca vong cô muôn nghe trên Đai Đông Thap va cac tinh lân cân.
3.2. Nhu câu tiếp cận đài ph¸t thanh
Hình thức phát thanh đƣợc ƣa thích nhất là việc phát riêng các nội
dung tin tức, âm nhạc, sân khấu, giáo dục v.v.. trên từng kênh sóng riêng
biệt. Việc kết hợp các nội dung nhƣ vậy với nhau trên cùng một sóng phát
thanh không dành đƣợc nhiều sự thiện cảm của thính giả địa phƣơng. Ở
đây, vị trí của Đài Tiếng nói Việt Nam trong việc phục vụ thính giả Nam
bộ cũng đƣợc khẳng định khi đáp ứng đƣợc nhu cầu của 42,8% lƣợng
ngƣời nghe đài thông qua các kênh sóng đã đƣợc khu biệt về nội dung
thông tin và đối tƣợng thính giả của mình.
Bảng 4: Thái độ đối với các hình thức phát thanh trên các kênh phát
thanh (%)
Stt Không
thích
Thích phát trên sóng
Đài
TNVN
Đài Đồng
Tháp
Đài tỉnh
khác
1. Kênh chuyên phát riêng về tin tức,
âm nhạc, sân khấu, giáo dục…
23,3 42,8 24,1 10,0
2. Kênh kết hợp tin tức và âm nhạc 35,6 12,1 31,0 21,2
3. Kênh kết hợp tin tức và sân khấu 45,6 6,6 24,3 23,6
4. Kênh kết hợp tin tức và giáo
dục/phổ biến kiến thức
38,9 18,6 25,8 16,7
Dù chỉ còn 41,4% số hộ gia đình còn sở hữu đài radio và 28,8%
còn giữ thói quen nghe đài, nhƣng điều đó không đồng nghĩa ngƣời dân
không còn nhu cầu thƣởng thức các chƣơng trình phát thanh. Có 65,7% số
37
ngƣời đƣợc hỏi cho biết vẫn có nhu cầu này và 66,3% mong muốn đƣợc
cấp phát miễn phí máy thu thanh. Và nếu chất lƣợng sóng phát thanh đƣợc
cải thiện, có 77,1% những ngƣời không nghe đài hiện nay do các nguyên
nhân liên quan đến bắt sóng khẳng định sẽ quay lại sử dụng đài radio.
Về thời điểm muốn nghe đài, qua kết quả khảo sát, có 58,1% những
ngƣời có nhu cầu nghe đài muốn nghe radio trƣớc khi đi ngủ buổi tối (kết
quả khảo sát thời điểm nghe hiện nay cho thấy 48% những ngƣời nghe đài
hàng ngày thƣờng sử dụng radio từ 21h00 trở đi). Còn lại, ngƣời dân
thƣờng muốn kết hợp việc nghe đài với những công việc hàng ngày cũng
nhƣ các hoạt động cá nhân nhƣ ăn cơm, tập thể dục, vệ sinh cá nhân v.v..
Biểu đồ 4: Thời điểm muốn nghe đài của người trả lời
Thời điểm muốn nghe đài
2.4
0.3
6.4
15.3
16.2
19.9
58.1
0 10 20 30 40 50 60 70
Khác .
Lúc đợi chờ tàu xe/ đang tham gia giao thông
Lúc mất điện
Lúc thực hiện các hoạt động cá nhân
Lúc có thời gian tập trung nghe đài
Vừa làm việc vừa nghe đài
Trước khi đi ngủ buổi tối
Nếu tính theo thời gian 24h trong ngày, các kết quả định lƣợng và
định tính đều cho thấy ba thời điểm ngƣời dân muốn nghe radio nhất là lúc
sáng sớm 5h00 – 7h00, buổi trƣa 11h00 – 13h00 và buổi tối khuya 21h00 -
23h00. Có thể thấy đây đều là những khung giờ diễn ra các hoạt động nghỉ
ngơi, thƣ giãn của cá nhân, sau những giờ làm việc vất vả.
Đối với nội dung muốn nghe đài, thực tế cho thấy nhu cầu về việc
phát triển các kênh phát thanh chuyên biệt về từng lĩnh vực của đời sống
đƣợc ngƣời dân đồng bằng sông Cửu Long thể hiện khá rõ. 80,2% thính
giả sẵn sàng mở đài trong thời gian rỗi, thậm chí 19,% nói rằng sẽ mở đài
liên tục trong ngày nếu Đài Tiếng nói Việt Nam có thêm các kênh phát
38
thanh chuyên cập nhật thông tin về tình hình giao thông, tình hình thiên tai
dịch bệnh, tình hình giá cả thị trƣờng v.v..
Với mỗi loại nội dung thông tin trên sóng phát thanh, ngƣời dân
cũng có nhu cầu đƣợc nghe vào những khung giờ và thời điểm khác nhau,
tập trung vào sáng sớm hoặc buổi chiều tối. Những khung giờ điển hình
đƣợc biểu thị trong bảng dƣới đây.
Bảng 5: Khung giờ muốn nghe các loại nội dung phát thanh
Stt Nội dung phát thanh Khung giờ muốn
nghe
1. Các kênh tƣơng tác: âm nhạc, phổ biến kiến thức, tƣ vấn
sức khỏe.....
5h00 – 6h00
20h00 – 22h00
2. Trọng tâm cập nhật thông tin về tình hình giao thông trên
kênh âm nhạc
19h00 – 21h00
3. Trọng tâm cập nhật thông tin về thời tiết, thiên tai, dịch
bệnh... trên kênh âm nhạc
18h00 – 21h00
4. Kênh tƣ vấn mua sắm, giá cả thị trƣờng, thông tin chứng
khoán, quảng cáo, xúc tiến thƣơng mại...
19h00 – 21h00
Từ 15 đến 30 phút là khoảng thời gian thính giả muốn các kênh cập
nhật thông tin về tình hình giao thông, thời tiết trong mỗi lần phát. Ý kiến
của ngƣời dân cho thấy, những thông tin này rất quan trọng đối với nhà
nông nên cần phải có đủ lƣợng thời gian để truyền tải, cũng nhƣ thuận tiện
cho việc nắm bắt đối với ngƣời nghe.
3.3. So sánh nhu cầu về phát thanh của người dân với một số hướng
triển khai nâng cao hiệu quả phục vụ của Đài Tiếng nói Việt Nam
Các kết quả nghiên cứu thu đƣợc đều cho thấy vai trò của Đài Tiếng
nói Việt Nam trong việc phục vụ nhu cầu thông tin, giáo dục, giải trí đối
với ngƣời dân khu vực đồng bằng sông Cửu Long là khá lớn. Với 67,9%
lƣợng thính giả thƣờng xuyên và 18.8% không thƣờng xuyên, chất lƣợng
phục vụ của Đài Tiếng nói Việt Nam thực sự có ý nghĩa đối với việc thu
hút khán thính giả miền Tây Nam bộ.
39
Với nhiệm vụ và truyền thống là kênh thông tin chính thức và hiệu
quả của Nhà nƣớc đối với ngƣời dân ở mọi miền tổ quốc, Đài Tiếng nói
Việt Nam đã đề ra nhiều giải pháp nhằm thu hút, tăng cƣờng sự chú ý của
ngƣời dân đối với các chƣơng trình phát thanh. Với các kết quả khảo sát
việc tiếp cận và sử dụng đài radio của ngƣời dân Đồng Tháp, chúng ta có
thể so sánh và rút ra một số nhận định về sự hiệu quả của một số kế hoạch
và dự định triển khai của Đài Tiếng nói Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ nhất là Thành lập kênh trực tuyến về giao thông, thương mại, sức
khỏe, thời tiết v.v..
Chủ trƣơng này của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) là khá thiết
thực, phù hợp với nhu cầu của ngƣời dân Đồng Tháp. 76,7% những ngƣời
có nhu cầu nghe đài cho biết muốn đƣợc tiếp cận các kênh chuyên về tin
tức, âm nhạc, sân khấu, giáo dục v.v.. Trong đó, 42,8% muốn nghe từ
sóng của VOV.
Với thế mạnh về nhân lực, chuyên môn và công nghệ, các kênh
sóng của VOV hoàn toàn có khả năng thực hiện đƣợc việc phát trực tuyến
các thông tin về từng lĩnh vực của đời sống một cách chủ động. VOV1 –
hệ chính trị, thời sự tổng hợp, có tổng số giờ phát sóng lên đến 19giờ/
ngày, cho biết với nhiệm vụ đƣợc phân công, khi có những sự kiện về đời
sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nƣớc, liên quan trực tiếp đến đời
sống của ngƣời dân thì sẽ phục vụ 24/24 giờ. Trong thực tế, VOV1 đã thể
hiện khả năng ứng phó ngay cả khi có những tình huống bất thƣờng nhƣ
thiên tai bão lũ. Sự ƣu việt của sóng phát thanh đƣợc thể hiện rõ nhất ở
khả năng phủ sóng khi tất cả các phƣơng tiện thông tin khác bị tê liệt tại
các khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. VOV1 đã phát liên tục
nhiều tiếng đồng hồ và thu hút đƣợc lƣợng thính giả lớn. Việc xử lý thời
gian chờ không gặp khó khăn khi VOV1 có thể sử dụng các chƣơng trình
ca nhạc và những thông tin mới cập nhật.
40
Nhƣ vậy, việc phát triển các kênh phát thanh chuyên biệt của VOV
là hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của ngƣời dân đồng bằng sông Cửu
Long.
Thứ hai, phát chương trình phục vụ các phương tiện di động như xe
bus, xe taxi
Việc phát sóng VOV trên các phƣơng tiện di động, cụ thể là xe bus,
xe taxi đang trong quá trình hiện thực hóa ý tƣởng. Kênh này sẽ do VOV3
- hệ âm nhạc/ thông tin giải trí và Trung tâm Quảng cáo của Đài đảm
nhiệm.
Tuy nhiên, các số liệu nghiên cứu cho thấy ngƣời dân Đồng Tháp
gần nhƣ không có nhu cầu thƣởng thức các chƣơng trình phát thanh trong
khi tham gia giao thông. Chỉ 0,3% mẫu nghiên cứu có nhu cầu này.
Nguyên nhân do sự bất tiện về hình thức nghe khi ngƣời dân chủ yếu sử
dụng xe gắn máy hai bánh hay các phƣơng tiện thô sơ, không thuận tiện
cho việc nghe đài.
Nhƣ vậy, hƣớng phát triển phát sóng của VOV trên các phƣơng tiện
giao thông thực sự chƣa nhắm trúng đối tƣợng là ngƣời dân nông thôn khu
vực Đồng bằng Sông Cửu Long.
4. Tiếp cận với truyền hình của ngƣời dân
Thời gian và mức độ xem truyền hình đối với khán giả truyền hình
Việt Nam thƣờng nhiều hơn hẳn so với nhiều loại phƣơng tiện TTĐC
khác. Đối với ngƣời dân vùng Tây Bắc và Đồng Tháp: tỷ lệ ngƣời xem
truyền hình hàng ngày và gần nhƣ hàng ngày trong tháng qua cao hơn rất
nhiều so với các phƣơng tiện TTĐC khác, gấp hơn 3 lần so với báo in là
phƣơng tiện đứng vị trí thứ hai.
Xem truyền hình hiện nay không đƣợc coi là quá khó khăn đối với
nhiều ngƣời dân, ngay cả ngƣời dân vùng cao. Tỷ lệ xem truyền hình của
41
ngƣời dân ở Đồng Tháp chủ yếu cũng đƣợc xem ở nhà. Tỷ lệ này cao hơn
một chút so với tỷ lệ ngƣời dân vùng Tây Bắc xem truyền hình ở nhà.
Biểu đồ 5: Số người tiếp cận Truyền hình
298
160
45 3661
354
6740
16 23
0
50
100
150
200
250
300
350
400
Hàng ngày Gần như hàng
ngày
Nhiều lần 1 tuần 1 lần 1 tuần Không xem
Tây Bắc
Đồng Tháp
Trong số những ngƣời trả lời có xem truyền hình ở Đồng Tháp, thời
lƣợng xem truyền hình của họ nhiều nhất là 1 – 2h/ngày, tỷ lệ thời lƣợng
xem nhiều thứ 2 là 3 – 4h/ngày. Điều này có sự khác biệt so với ngƣời dân
ở Tây bắc. Thời lƣợng xem truyền hình của ngƣời dân Tây Bắc bình quân
1 ngày mỗi cá nhân xem 3,78 giờ/ngày, cao hơn so với sinh viên Hà Nội
2005 (3h/ngày) và tƣơng đƣơng khán giả truyền hình Hà Nội 2002
(4h/ngày), đối với ngƣời dân vùng Đồng Tháp 2,54giờ/ngày. Nhƣ vậy, có
thể thấy rằng ngƣời dân ở Đồng Tháp xem truyền hình với thời lƣợng
trong ngày ít hơn khá nhiều so với ngƣời dân Tây Bắc và ngƣời dân Hà
Nội. Thông qua phỏng vấn sâu và tiếp xúc với nhiều ngƣời dân đồng bằng
sông Cửu Long chúng tôi thấy trong thời gian rỗi ngƣời dân ở đây thƣờng
ăn nhậu, uống giải khát... khá lâu do vậy có thể thời gian xem ti vi sẽ ít đi.
Kết hợp với các câu hỏi về công việc thƣờng làm vào thời gian rỗi nhiều
thứ hai và thứ 3 phần lớn là nói chuyện và không làm gì.
Biểu đồ 6:Thời lượng xem truyền hình trong ngày của người dân Đồng
Tháp (%)
62
30
71 0
0
10
20
30
40
50
60
70
1 - 2h 3 - 4h 5 - 6h 7 - 8h Trên 8h
42
Tại Đồng Tháp, tỷ lệ số hộ xem truyền hình từ 1 – 2h/ngày là cao
nhất, sau đó là 3 – 4h/ngày. Nhƣng tỷ lệ các hộ xem nhiều hơn nhƣ vậy là
rất thấp. Ngƣợc lại, số liệu điều tra ở Tây Bắc cho thấy số lƣợng hộ xem
tivi từ 3-4giờ/1 ngày và xem 5-6 giờ/ngày cao hơn hẳn các nhóm khác và
chiếm gần 50%, số hộ xem từ 1-2 giờ/ngày chiếm tỷ lệ thấp nhất trong 5
nhóm.
So sánh sự yêu thích của khán giả truyền hình với các chƣơng trình
truyền hình theo thứ tự ở Đồng Tháp với vùng Tây Bắc và với các vùng
khác nhƣ Hà Nội+ , Bình Dƣơng
+ (năm 2002) cho thấy khá giống nhau về
thứ tự đánh giá: thứ nhất là thời sự (68%), thứ hai là giải trí(21%), thứ ba
thể thao (3%) các chƣơng trình khác đều chiếm tỷ lệ rất thấp. Công chúng
Đồng Tháp yêu thích chƣơng trình thời sự với tỷ lệ cao nhất, cao hơn cả tỷ
lệ này ở Tây Bắc, Hà Nội, Bình Dƣơng. Có tới 72% ngƣời trả lời ở Đồng
tháp yêu thích nhất là chƣơng trình thời sự; giải trí đứng thứ 2 (17%) còn
các chƣơng trình khác thì tỷ lệ khán giả yêu thích thấp tƣơng đƣơng.
Về việc khán giả thƣờng tiếp cận với kênh truyền hình nào là nhiều
nhất có sự khác biệt đáng kể giữa ngƣời dân ở Đồng Tháp với ngƣời dân
Tây Bắc. Số liệu điều tra Tây Bắc cho thấy, đối với các kênh truyền hình
Việt Nam và đài truyền hình tỉnh tỷ lệ ngƣời xem kênh VTV3 thƣờng bao
giờ cũng cao nhất, tƣơng tự nhƣ đối với các số điều tra về khán giả truyền
hình Hà Nội+.
Biều đồ 7: Chương trình truyền hình khán giả yêu thích365
113
15 15 14 14
350
82
16 8 8 8
0
50
100
150
200
250
300
350
400
Thời sự Giải trí Thể thao Kinh tế Văn hóa XH KH - GD - NT
Tây Bắc
Đồng Tháp
43
Trong khi đó, tại Đồng Tháp tỷ lệ khán giả tiếp cận kênh truyền
hình Việt Nam ít hơn nhiều so với kênh của tỉnh. Kênh truyền hình của
Đồng Tháp có đƣợc số lƣợng khán giả tiếp cận nhiều hơn kênh truyền
hình trung ƣơng, kể cả VTV3 là kênh đƣợc nhiều ngƣời xem nhất ở Tây
Bắc thì Đồng Tháp tỷ lệ này còn thấp hơn VTV1. Điều này có thể dễ lý
giải, kênh truyền hình tỉnh ở Tây Bắc ngƣời dân không tiếp cận đƣợc
nhiều không phải vì họ không yêu thích hoặc không quan tâm đến tình
hình của Tỉnh mà do địa hình núi non hiểm trở gây trở ngại cho việc thu
hình từ kênh này. Nói cách khác, chất lƣợng thu sóng đài truyền hình Tỉnh
ở đây rất kém, có nhiều nơi không bắt đƣợc sóng. Ngƣợc lại, ở Đồng Tháp
đây không phải là lý do gây trở ngại với ngƣời dân. Do đó, họ tiếp cận
nhiều hơn với đài truyền hình của tỉnh.
Đánh giá về nội dung của các đài truyền hình Việt Nam và đài
truyền hình tỉnh về các tiêu chí: Phù hợp với chúng tôi; Hấp dẫn đối với
chúng tôi; Nội dung tin tức rất dễ hiểu; Ngôn ngữ tin tức dễ hiểu; Bàn về
những vấn đề mà chúng tôi quan tâm, Phản ánh đƣợc các ý kiến của chúng
tôi. Kết quả nghiên cứu tại Đồng Tháp cho thấy một sự khác biệt rất lớn
giữa ý kiến phản hồi của khán giả ở đây so với Tây Bắc. Đối với khán giả
Tây bắc, kết quả cho thấy mọi tiêu chí đều đánh giá rất cao về chƣơng
trình thời sự của trung ƣơng so với đài truyền hình tỉnh. Ngay cả các tiêu
chí nhƣ: Bàn về những vấn đề mà chúng tôi quan tâm, Phản ánh đƣợc các
ý kiến của chúng tôi, đều nhận đƣợc sự đánh giá cao của đài truyền hình
trung ƣơng (hơn từ 2đến6 lần).
Ngƣợc lại, ngƣời dân Đồng Tháp không đánh giá cao chƣơng trình
thời sự của đài Trung ƣơng. Tất cả các tiêu chí đánh giá thì kênh truyền
hình tỉnh đều đƣợc ngƣời dân đánh giá cao hơn kênh truyền hình Trung
ƣơng. Theo kết quả nghiên cứu này thì chƣơng trình thời sự trên kênh
Trung ƣơng chƣa phù hợp với ngƣời dân Đồng Tháp mà chƣơng trình thời
sự của kênh địa phƣơng mới phù hợp với họ. Do đó, chƣơng trình thời sự
trên kênh truyền hình Trung ƣơng không hấp dẫn đối với khán giả ở đây
44
mà kênh địa phƣơng mới hấp dẫn với họ. Về tiêu chí thời sự cập nhật thì
kênh truyền hình Trung ƣơng đƣợc thừa nhận là cập nhật với ngƣời dân ở
đây với tỷ lệ đồng ý cao nhất nhƣng cũng không vƣợt qua đƣợc đài địa
phƣơng. Gần nhƣ tất cả các tiêu chí đo lƣờng đều không đƣợc ngƣời dân ở
đây đánh giá cao chƣơng trình thời sự kênh Trung ƣơng. Điều này có thể
bổ sung sự giải thích vì sao ngƣời dân Đồng Tháp xem kênh địa phƣơng
nhiều hơn là kênh Trung ƣơng.
Biểu đồ 8: Đánh giá chương trình thời sự trên truyền hình (%)
13 14
25
14
8 6 5 5
4542
37
4339 40
42 42
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
Phù hợp Hấp dẫn Cập nhật Trung thực Nội dung
dễ hiểu
Ngôn ngữ
dễ hiểu
Phản ánh ý
kiến
Vấn đề
quan tâm
Kênh trung ương
Kênh Đồng Tháp
5. Tiếp cận với báo chí của ngƣời dân
Với 29,8% ý kiến trả lời cho biết có tiếp cận trong vòng một tháng
qua, báo chí chính là phƣơng tiện TTĐC đƣợc ngƣời dân đồng bằng sông
Cửu Long sử dụng nhiều thứ hai (sau tivi/truyền hình với 95,6%), đứng
trên đài phát thanh (28,8%) và Internet (11,8%). Số liệu trong cuộc điều
tra tại vùng Tây Bắc cũng cho nhận định tƣơng tự: báo chí là kênh thông
tin đƣợc ngƣời dân yêu thích hơn so với đài phát thanh và Internet.
Biểu đồ 9: Møc ®é tiÕp cËn víi b¸o chÝ trong 1 th¸ng qua
GÇn nh hµng ngµy, 3.6%
NhiÒu h¬n 1lÇn/tuÇn,
5.2%
1 lÇn/tuÇn hoÆc Ýt h¬n,
7.8%
Kh«ng ®äc b¸o, 70.2%
Hµng ngµy, 13.2%
45
Nếu chỉ tính riêng những ngƣời có tiếp cận với báo/tạp chí trong
vòng 1 tháng qua thì số ngƣời đọc hàng ngày chiếm gần một nửa (13,2%),
tiếp theo là mức độ 1 lần/tuần hoặc ít hơn (7,8%), nhiều hơn 1 lần/tuần
(5,2%) và gần nhƣ hàng ngày (3,6%). Điều này chứng tỏ báo chí tại Đồng
Tháp đã có một số lƣợng độc giả trung thành, gắn bó, thƣờng xuyên theo
dõi và tìm đọc.
Trong bảng xếp hạng những tờ báo/tạp chí đƣợc ngƣời dân Đồng
Tháp thích và tìm đọc nhiều thì báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh và
báo Tuổi trẻ đứng ở vị trí đầu tiên với số ngƣời yêu thích gần tƣơng đƣơng
nhau. Điều này khá dễ hiểu vì đây là hai tờ báo có số lƣợng phát hành lớn
nhất cả nƣớc, nội dung rất hấp dẫn, phong phú, thu hút đƣợc độc giả ở mọi
thành phần, lứa tuổi, giới tính …
Rất đáng chú ý là báo Đồng Tháp cũng có số lƣợng ngƣời yêu thích
đứng ở vị trí thứ ba, xếp trên so với báo An ninh thế giới, báo Thanh niên
và báo Nhân dân. Có thể lý giải nguyên nhân của sự yêu thích này là do
đây là tờ báo gần gũi, thƣờng xuyên cung cấp những thông tin sát sƣờn,
thiết yếu, ảnh hƣởng trực tiếp đến đời sống hằng ngày của ngƣời dân địa
phƣơng. Ngoài ra, ngƣời trả lời cũng có nhắc đến một số tờ báo/tạp chí
khác mà họ yêu thích nhƣ: báo Lao động, báo Thể Thao thành phố Hồ Chí
Minh, báo Pháp luật, báo Nông thôn ngày nay…
Biểu đồ 10: C¸c tê b¸o ngêi tr¶ lêi yªu thÝch
67
29
66
16
12 12
0
10
20
30
40
50
60
70
80
B¸o C«ng An
B¸o Thanh niªn
B¸o Tuæi trÎ
B¸o §ång Th¸p
B¸o An ninh
B¸o Nh©n d©n
Khi xét đến việc cập nhật các thông tin từ báo chí của độc giả hai
vùng Tây Bắc và đồng bằng sông Cửu Long, ta có thể thấy dƣờng nhƣ
46
ngƣời dân đồng bằng sông Cửu Long có nhiều thuận lợi hơn. Với những
thuận lợi về điều kiện giao thông, có tới 65,8% ngƣời đƣợc hỏi cho biết họ
đƣợc đọc các tờ báo ngày đúng ngày, chỉ có 8,7% chậm 3 - 5 ngày và
không có ai phải đọc báo chậm trên 6 ngày.
Trong khi đó, do điều kiện địa hình núi non hiểm trở, đi lại khó
khăn nên để các tờ báo đến với độc giả vùng Tây Bắc thƣờng mất nhiều
thời gian hơn. Chỉ có 40,8% ngƣời dân vùng này đƣợc đọc báo đúng ngày,
thậm chí còn có tới 12,8% đọc báo chậm trên 6 ngày.
Về địa điểm đọc báo của ngƣời dân đồng bằng sông Cửu Long, kết
quả khảo sát cho thấy gần 3/4 số ngƣời trả lời (72,5%) cho biết họ thƣờng
xuyên đọc báo tại nhà riêng. Trong khi đó, có 19,5% độc giả đọc báo tại
cơ quan, nơi làm việc. Đây chủ yếu là nhóm cán bộ, viên chức nhà nƣớc,
đƣợc cấp phát báo miễn phí. Có một điều đáng lƣu ý là việc sử dụng các
nhà văn hoá khóm/ấp và bƣu điện văn hoá xã/khóm/ấp dƣờng nhƣ chƣa
đƣợc quan tâm khi có rất ít ngƣời đến đọc báo tại đây (4% và 1,3%).
Nguyên nhân thƣờng đƣợc ngƣời trả lời đƣa ra là do tại các địa điểm này
có quá ít báo (nếu có cũng chỉ là các tờ báo chính luận đƣợc cấp miễn phí
nhƣ báo Nhân dân, báo Đồng Tháp ...) nên không thu hút đƣợc bà con đến
tìm đọc.
Khi đƣợc yêu cầu đánh giá về nội dung tin thời sự trên báo Trung
ƣơng, báo Đồng Tháp và báo Thành phố Hồ Chí Minh về 5 tiêu chí là: sự
phù hợp, mức độ hấp dẫn, nội dung dễ hiểu, tính cập nhật và sự trung
thực, chúng ta thấy báo trung ƣơng vẫn luôn đƣợc độc giả vùng đồng bằng
sông Cửu Long đánh giá cao.
Đối với cả 5 tiêu chí đƣợc đƣa ra, các tờ báo Trung ƣơng đều đƣợc
ngƣời đọc xếp ở vị trí thứ nhất. Điều này cũng khá dễ hiểu vì đây là những
tờ báo lớn, chính thống, với nội dung tin tức thời sự đƣợc cập nhật phong
phú, hấp dẫn, bao quát đƣợc nhiều mặt của đời sống, có khả năng phân
tích và bình luận chuyên sâu những vấn đề đang diễn ra trong nƣớc và
quốc tế.
47
Biểu đồ 11: §¸nh gi¸ vÒ tin thêi sù gi÷a c¸c b¸o
73 70 60 63 56
38 23
25 23 23
62
59 49 54
49
Phï hîp HÊp dÉn DÔ hiÓu CËp nhËt Trung thùc
B¸o Tp.HCM
B¸o §ång Th¸p
B¸o Trung ¦¬ng
Các tờ báo của Thành phố Hồ Chí Minh cũng đƣợc ngƣời dân đồng
bằng sông Cửu Long đánh giá cao trong việc đăng tải nội dung các tin tức
thời sự. Trong khi đó mức độ hấp dẫn, sự phù hợp, tính cập nhật … của tin
thời sự trên báo địa phƣơng (báo Đồng Tháp) vẫn có khoảng cách rất lớn
so với báo Trung ƣơng và báo Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng cách này
thƣờng là gấp đôi, cá biệt có tiêu chí khoảng cách lên đến gấp ba nhƣ mức
độ hấp dẫn với ngƣời đọc. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách đối với các tờ
báo địa phƣơng nói chung và báo Đồng Tháp nói riêng trong việc tự vận
động đổi mới và nâng cấp chất lƣợng cung cấp tin thời sự cho ngƣời dân
địa phƣơng.
6. Thực trạng tiếp cận Internet của ngƣời dân
Năm 1997 với sự ra đời của công ty Điện toán và truyền số liệu
VDC làm mốc cho sự thâm nhập của Internet vào Việt Nam. Lúc đó,
Internet còn quá xa lạ với ngƣời Việt Nam, thậm chí ngay cả với những
cán bộ khoa học làm trong lĩnh vực thông tin cũng ít cơ hội tiếp cận và sử
dụng công nghệ hiện đại này. Nhƣng sau hơn 10 năm vào Việt Nam,
Internet đó phỏt triển một cỏch mạnh mẽ, tất cả cỏc tỉnh thành phố trờn cả
nƣớc đều có mạng Internet, ngƣời dân ngày càng biết và tiếp cận với
phƣơng tiện truyền này.
Tuy nhiên, trong cuộc nghiên cứu tại tỉnh Đồng Tháp khi hỏi “Ông/
bà đó bao giờ nghe núi đến Internet chưa?”, có 36% số ngƣời đƣợc hỏi
cho rằng chƣa nghe nói về Internet. Điều này cho thấy ngƣời dân ở đây
48
vẫn chƣa đƣợc tiếp cận với phƣơng tiện này và những ngƣời chƣa nghe
đến Internet chủ yếu ở đô thị. Kết quả kiểm định thống kê Chi-square khi
xem xét mối tƣơng quan giữa địa bàn của ngƣời trả lời với việc họ có biết
về Internet hay không cho thấy có mối quan hệ mật thiết giữa hai yếu tố
này (P=0.00). Ngƣời dân ở đô thị tại Đồng Tháp có cơ hội và môi trƣờng
tốt trong việc tiếp cận với những phƣơng tiện hiện đại hơn so với khu vực
nông thôn. Cụ thể, có 153/200 trƣờng hợp chiếm 76,5% ngƣời dân ở đô
thị và 165/300 trƣờng hợp chiếm 55% ngƣời dân ở nông thôn có nghe nói
về Internet.
Có thể nói việc phát triển dịch vụ internet tại địa phƣơng sẽ giúp ích
cho ngƣời dân tiếp cận với phƣơng tiện truyền thông mới. Với nhiều tên
gọi khác nhau nhƣ Điểm truy cập internet công cộng, café Internet, café
Wifi, điểm dịch vụ mạng… Loại hình dịch vụ này ra đời và nhanh chóng
phổ biến tại các thành phố lớn đáp ứng nhu cầu truy cập của ngƣời dùng
trong điều kiện giá truy cập tại các máy đơn, tại gia đỡnh cũn cao với
ngƣời dân nhất là ở khu vực nông thôn. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong
tổng số 318 ngƣời trả lời có nghe nói đến Internet có tới 253 trƣờng hợp
(79.6%) cho biết có dịch vụ internet ở địa phƣơng.
Việc ngƣời dân biết có dịch vụ Internet cũng cho thấy ngƣời dân ở
khu vực này có quan tâm tới loại phƣơng tiện mới và hiện đại này nhƣng
cùng với việc họ có quan tâm hay không thì việc xem xét đến hành vi có
sử dụng phƣơng tiện này hay không sẽ cho thấy sự quan tâm của ngƣời
dân. Trong tổng số 318 ngƣời có nghe nói tới dịch vụ này có chƣa tới ¼ số
ngƣời trả lời đó từng sử dụng. Đây là một tỷ lệ rất ít, điều đó chứng tỏ
ngƣời dân tại Đồng Tháp còn đang rất lạ lẫm với loại hình truyền thông
mới này. Ngay cả với nhóm cán bộ viên chức nhà nƣớc và học sinh, sinh
viên là nhóm có cơ hội tiếp cận với Internet dễ dàng hơn cả với các nhóm
nghề khác nhƣ nông nghiệp, về hƣu, công nhân…cũng không có tỷ lệ
ngƣời sử dụng nhiều. Cụ thể là trong số 59 ngƣời trả lời đó sử dụng có 19
49
ngƣời là cán bộ viên chức và 12 ngƣời là học sinh, sinh viên đó sử dụng
Internet.
Biểu đồ 12: Tỷ lệ người đó sử dụng Internet tại địa phương (%)
18.6
81.4
Có sử dụng
Chưa sử dụng
Mặc dù mới xuất hiện ở Việt Nam nhƣng trong điều kiện đổi mới tƣ
duy cũng nhƣ sự đánh giá đúng mức của Nhà nƣớc về Internet nên loại
hình phƣơng tiện này đã nhanh chóng tiếp cận và khai thác những máy
móc, công nghệ mới của Internet trên thế giới. Theo trung tâm Internet
Việt Nam, vào tháng 1/2008 Việt Nam có 5.329.547 số lƣợng thuê bao qui
đổi và có 18.913.492 số ngƣời sử dụng Internet (Nguồn: Trung tâm
Internet Việt Nam, truy cập ngày 14/12/2008). Còn theo báo cáo của tỉnh
thì có khoảng 4000 thuê bao nếu nhƣ so sánh với số thuê bao trên toàn
quốc thì ở Đồng Tháp tỷ lệ này còn khá thấp. Lý giải cho điều này có thể
là do hiện nay mạng Internet mới chỉ phát triển và phổ biến với khu vực
đô thị của Đồng Tháp, trong khi tại Đồng Tháp ngƣời dân sống tại đô thị
không cao. Trong các cuộc thảo luận nhóm về phƣơng tiện mà ngƣời dân
tiếp cận hàng ngày cũng thể hiện điều này “Nói chung, Internet thì vùng
nông thôn mới có nay thôi, khoảng chứng tháng rưỡi. Phương tiện đó
cũng chưa có đại trà lắm, cũng ít sử dụng. Mà giời vô thì cũng chưa chắc
biết dùng” (Thảo luận nhóm, xã Phú Điền, huyện Tháp Mƣời).
Internet không đơn giản là một phƣơng tiện truyền thông với đủ các
tính năng và tác dụng của tất cả các phƣơng tiện truyền tin nhƣ báo in,
phát thanh, truyền hình mà nó còn trở thành một loại kênh truyền thông,
50
một loại công cụ giao tiếp thông qua chat hay email…, phƣơng tiện tƣ duy
và tình cảm với hình thức nhƣ các trang blog cá nhân…(Lê Ngọc Hùng,
2008). Kết quả điều tra định lƣợng cho thấy trong số 4 mục đích đƣa ra
những ngƣời đó sử dụng Internet đều đánh giá cao vai trò thông tin của
loại phƣơng tiện này, có tới 38/59 ngƣời đƣợc hỏi cho rằng họ truy cập
Internet để tìm kiếm thông tin, cũn việc dựng internet để viết thƣ điện tử
hay chơi trò chơi điện tử là rất ít (11,9%). Nhƣ vậy, với 2 nhóm thƣờng
xuyên có cơ hội tiếp xúc với Internet là nhóm học sinh, sinh viên và nhóm
cán bộ công chức thì mục đích nhƣ vậy là khá phù hợp.
Bảng 6: Mục đích sử dụng Internet
Mục đích Số lượng (Người) Tỷ lệ (%)
1. Chat 19 32,2
2. E-mail 7 11,9
3. Tìm thụng tin 38 64,4
4. Chơi trò chơi 7 11,9
5. Khác 1 1,7
Để đánh giá một cách kỹ càng hơn với đối tƣợng đó sử dụng
Internet, chúng tôi đƣa ra câu hỏi “Việc sử dụng Internet có thiết thực
trong công việc, sinh hoạt…với ông bà hay không?”, kết quả cho thấy chỉ
có một tỷ lệ rất nhỏ nhóm công chúng của loại phƣơng tiện này trả lời
rằng không hữu ích (5,1%), cũn lại đa phần trả lời rằng Internet rất có ý
nghĩa trong cuộc sống, sinh hoạt…của họ. Điều này cho thấy đối với
những ngƣời đó sử dụng họ đó nhận thấy đƣợc vai trò quan trọng của loại
hình truyền thông này.
Đối với nhóm có biết Internet nhƣng không sử dụng chúng tôi có
đặt ra câu hỏi về lý do để giải thích cho việc họ chƣa tiếp cận với phƣơng
tiện này. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa phần họ không sử dụng là do
không biết cách sử dụng nó nhƣ thế nào, tỷ lệ này chiếm tới 64,8% số
51
ngƣời đƣợc hỏi. Còn lý do về mặt không gian – dịch vụ xa nơi ở/ không
thuận tiện không phải là một rào cản khiến ngƣời dân không tiếp cận đƣợc
với Internet, chỉ có 1,2% số ngƣời có biết Internet lựa chọn phƣơng án
này. Tuy nhiên, một tỷ lệ đáng kể gần 1/3 số ngƣời biết tới Internet mà
không sử dụng trả lời rằng họ không thấy cần thiết phải sử dụng loại hình
này. Điều này có thể đƣợc giải thích rằng đa số những ngƣời đƣợc hỏi làm
ở những nhóm nghề chƣa cần phải sử dụng Internet nhƣ buôn bán, nông
nghiệp, làm thuê, về hƣu…hơn nữa họ cũn phải dành nhiều thời gian cho
công việc của mình nên không thể dành riêng một khoảng thời gian nhất
định để ngồi truy cập vào Internet.
Biểu đồ 13: Đánh giá về ý nghĩa của việc sử dụng Internet (%)
0
10
20
30
40
50
60
Rất hữu ích Hữu ích Không hữu ích
Cũng một phần do ngƣời dân ở khu vực đƣợc lựa chọn vào mẫu
nghiên cứu thấy rằng không cần thiết phải sử dụng Internet nên khi hỏi có
thích sử dụng hay không thì có tới 71,2% số ngƣời đƣợc hỏi trả lời rằng
không thích sử dụng phƣơng tiện này. Nếu so sánh về giới tính kết quả
nghiên cứu cho thấy nam giới thích sử dụng Internet hơn nữ giới (kiểm
định thống kê Chi-square với xác suất P=0.01). Cụ thể, có 33,5% nam giới
và 23,8% nữ giới trả lời có thích sử dụng Internet. Hơn nữa, kết quả cũng
cho thấy đối với những ngƣời tuổi càng cao sở thích sử dụng Internet càng
giảm, nếu nhƣ gần ½ nhóm dƣới 31 tuổi trả lời có thích sử dụng thì chỉ có
gần 18,2% nhóm trên 50 tuổi cho rằng có sở thích này.
Đối với những ngƣời chƣa sử dụng Internet chúng tôi hỏi xem họ có
nhu cầu sử dụng Internet hay không thông qua câu hỏi “Nếu có dịch vụ
52
Internet về tới khóm/ ấp, được hướng dẫn cách sử dụng, ông/ bà có muốn
sử dụng mạng không?”, kết quả có tới 59,2% trả lời không đồng ý, ngƣợc
với kết quả nghiên cứu tại Lào Cai và Yên Bái là có trên 50% đồng ý. Chỉ
cú 38,4% số ngƣời đƣợc hỏi là có nhu cầu sử dụng loại hình phƣơng tiện
này.
Biểu đồ 14: Tỷ lệ người dân có thích sử dụng Internet (%)
28.8
71.2 Có Không
Có thể nói, chỉ xét riêng về mặt định lƣợng, tổng số ngƣời sử dụng
Internet ở Việt Nam hiện nay chƣa tƣơng xứng với tính hiện đại của công
nghệ thông tin. Và tại địa phƣơng nghiên cứu số lƣợng ngƣời có nhu cầu
sử dụng không phải là nhiều, điều đó cho thấy ngƣời dân ở đây có thể
chƣa biết đến loại hình phƣơng tiện này hoặc do họ chƣa nhận thấy đƣợc
tầm quan trọng của Internet trong công việc cũng nhƣ trong đời sống sinh
hoạt của mình.
III. KẾT LUẬN
Tại tỉnh Đồng Tháp nói riêng và vùng Đồng bằng sông Cửu Long
núi chung ngƣời dân có nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp cận với các
phƣơng tiện thông tin đại chúng. Mức sống của ngƣời dân nơi đây đứng
thứ 3 trong số 8 vùng trên cả nƣớc, là vùng đồng bằng rộng nhất cả nƣớc
nên ngƣời dân có thể dễ dàng bắt đƣợc nhiều sóng phát thanh và truyền
hình của TW, khu vực và các tỉnh lân cận. Chƣơng trình phát thanh và
truyền hình của các đài địa phƣơng lận cận nhƣ Vĩnh Long, TP. Hồ Chí
Minh...thƣờng có nhiều chƣơng trình giải trí phù hợp sở thích, văn hoá,
ngôn ngữ.. của ngƣời dân phía Nam, hơn nữa chất lƣợng thu sóng tốt. Nhu
53
vậy, đứng về phía nguồn cung để tiếp cận với các thông tin của TTĐC của
ngƣời dân Đồng Tháp thuận lợi hơn rất nhiều vùng Tây Bắc và nhiều vùng
khác trên cả nƣớc.
Qua kết quả khảo sát tại Đồng Tháp có thể có một số nhận xét
chung về tiếp cận với các phƣơng tiện TTĐC (Báo in, phát thanh, truyền
hình và Internet):
1. Giống nhƣ tại nhiều vùng khác trên cả nƣớc tỷ lệ ngƣời tiếp cận với
truyền hình bao giờ cũng cao hơn rất nhiều so với các phƣơng tiện
khác: 96% ngƣời có xem tivi, 31% nghe băng/đĩa, 28% nghe đài,
27% đọc báo và 5,2% sử dụng Internet.
2. Tại vùng Tây Bắc tỷ lệ ngƣời đọc báo cao gần gấp 2 lần so với
nghe đài và nghe băng/đĩa. Nhƣng tại Đồng Tháp các tỷ lệ này
tƣơng đƣơng nhau và chỉ bằng chƣa đến 1/3 tỷ lệ ngƣời xem tivi.
3. Tỷ lệ ngƣời có xem truyền hình tuy cao nhƣ vậy nhƣng thời lƣợng
xem trung bình/ngày của ngƣời dân Đồng Tháp lại khá thấp
(2,53giờ) so với các vùng khác (Hà Nội+, Bình Dƣơng
+, vùng Tây
Bắc từ 3,5 đến 4giờ).
4. Về thời lƣợng xem tivi và tiếp cận với các phƣơng tiện TTĐC khác
không có sự chênh lệch nhiều giữa ngày thƣờng (thứ Hai-thứ Sáu)
và thứ Bảy, Chủ Nhật. Đặc điểm này giống vùng Tây Bắc nhƣng
khác với các vùng Hà Nội+, Bình Dƣơng
+
5. Về tiếp cận với truyền hình: Giống nhƣ tại nhiều vùng khác tỷ lệ
ngƣời thích xem chƣơng trình thời sự bao giờ cũng cao hơn rất
nhiều lần (trên 3 lần) so với các chƣơng trình khác. Các chƣơng
trình truyền hình TW thƣờng không đƣợc ngƣời dân phía Nam xem
nhiều nhƣ công chúng phía Bắc. Nhận xét này khá phù hợp với
đánh giá của công chúng Đồng Tháp về 8 tiêu chí đều cho rằng Đài
Đồng Tháp đƣợc xem nhiều hơn Đài TW.
6. Về tiếp cận với báo In: Tuy tỷ lệ ngƣời đọc báo ít hơn vùng Tây
Bắc (27% so với 44%) nhƣng phần lớn bạn đọc tại đây đọc báo
54
đƣợc in tại phía Nam nhƣ báo Tuổi trẻ, Cụng an TP. Hồ Chí Minh
chứ không phải báo Nhân Dân đƣợc đọc nhiều nhất nhƣ vùng Tây
Bắc.
7. Về tiếp cận với Internet: Tỷ lệ ngƣời đó từng sử dung Internet tại
Đồng Tháp thấp hơn vùng Hà Nội+, Bình Dƣơng
+ khá nhiều nhƣng
vẫn cao hơn vùng Tây Bắc (18,6% so với 11,5%)
Trên đây là những thông tin cơ bản về cuộc nghiên cứu, khảo sát
tiếp cận phƣơng tiện truyền thông đại chúng của ngƣời dân tại Đồng Tháp,
đại diện cho khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Để khai thác hết các
thông tin thu thập đƣợc cần có nhiều thời gian hơn để xử lý và phân tích
chi tiết nhằm xã hội hóa những thông tin này.
Tài liệu tham khảo
1. Trung tâm Nghiên cứu Dƣ luận xã hội, Ban Tƣ tƣởng-Văn hoá Trung ƣơng
(2002) Điều tra “Thăm dò dư luận khán giả đài truyền hình Việt Nam”
2. Trung tâm Đào tạo Phát thanh-Truyền hình thuộc đài truyền hình Việt Nam
(2001) “Nghiên cứu khán giả truyền hình Việt Nam”
3. Đài Tiếng nói Việt Nam và Ban Tƣ tƣởng Văn hoá TW (2001) “Nghiên cứu
Công chúng phát thanh”
4. Đài Tiếng nói Việt Nam (2005) Đề tài “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác điều tra thính giả của Đài Tiếng nói Việt Nam”.
5. Trần Hữu Quang (2002) “Truyền thông đại chúng và công chúng-nghiên cứu
trường hợp thành phố Hồ Chí Minh”. Luận án Tiến sĩ Xã hội học
6. Trần Bảo Khánh (2008)“Đặc điểm công chúng truyền hình Việt Nam giai đoạn
hiện nay”. Luận án Tiến sĩ
7. Học viện Báo chí và Tuyên truyền –Khoa Xã hội học (2004) Đề tài “Thực
trạng và nhu cầu tiếp cận TTĐC của sinh viên Hà Nội”
8. Học viện Báo chí và Tuyên truyền –Khoa Xã hội học (2006) Đề tài “Sự tiếp
cận với các phương tiện thông tin đại chúng của người dân vùng Tây Bắc”
55
XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN NỘI DUNG THÔNG TIN VÀ LOẠI
HÌNH TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÖNG VIỆT NAM DƢỚI TÁC
ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ
Ths. Đặng Vũ Cảnh Linh
1. Sự phát triển về công nghệ và mở rộng mạng lƣới nội dung thông
tin đại chúng
Cùng với quá trình đổi mới, đẩy nhanh, công nghiệp hóa và hiện đại
hóa đất nƣớc, Việt Nam đã và đang ngày càng hội nhập với sự phát triển
chung của khu vực và thế giới trên nhiều lĩnh vực kinh tế khoa học, công
nghệ, văn hóa, xã hội. Trong sự phát triển này, phải khẳng định vai trò của
các phƣơng tiện thông tin đại chúng trong quá trình chuyển tải, xây dựng
mạng lƣới thông tin, tạo nên những cầu nối đặc biệt quan trọng trong tiến
trình Việt Nam mở cửa ra thế giới.
Sự phát triển của các phƣơng tiện thông tin đại chúng Việt Nam từ
sau đổi mới đƣợc đánh dấu bắt đầu bằng những tác động trực tiếp từ cuộc
cách mạng về công nghệ, thông tin và viễn thông toàn cầu cuối thế kỷ XX,
điển hình là sự phát triển, phổ biến và lan rộng của mạng internet. Nắm
bắt xu thế chung của thời đại và đánh giá đúng tầm quan trọng của chiến
lƣợc phát triển công nghệ thông tin, ngay từ những năm đầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, chính phủ Việt Nam đã không ngừng đầu tƣ, tạo điều
kiện, cơ chế thuận lợi để giới truyền thông Việt Nam sớm ra nhập làng
công nghệ, thông tin và viễn thông toàn cầu.
Sự thành công của việc thiết lập hệ thống Internet ở Việt Nam đầu
tiên năm 1997 là cột mốc lịch sử khi Việt Nam chính thức hội nhập và có
tên trong những quốc gia đã tạo ra hệ thống liên thông thông tin với thế
giới qua mạng. Bên cạnh đó trong lĩnh vực viễn thông, quá trình phủ sóng
nhanh mạng lƣới điện thoại di động, phát triển công nghệ kỹ thuật số, điện
thoại di động, công nghệ thu phát vệ tinh...cũng đã góp phần không nhỏ
56
trong tiến trình phủ sóng thông tin, xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin,
mạng lƣới thông tin làm tiền đề cho việc phát triển các loại hình truyền
thông đại chúng, đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng, phù hợp với
xu thế của xã hội thông tin hiện đại .
Theo đánh giá của các chuyên gia và các tổ chức quốc tế, hơn 10
năm phát triển, có thể thấy ngành công nghệ thông tin và viễn thông của
Việt Nam đã có những bƣớc tiến bộ rất nhanh so với các chỉ tiêu đặt ra.
Đặc biệt sau khi Việt Nam ra nhập tổ chức thƣơng mại thế giới WTO,
chính thức tham gia vào sân chơi toàn cầu hóa thì tiến trình này lại có
những bƣớc tiến nhảy vọt nhanh hơn.
Theo thống kê ngành Bƣu chính viễn thông, năm 2005 cả nƣớc có
15 triệu máy điện thoại thì đến năm 2007 chúng ta đã đạt tới 29.54 triệu
thuê bao điện thoại (tăng gần gấp 2 lần so với các thời kỳ trƣớc đó). Tốc
độ tăng trƣởng của ngành công nghệ thông tin vẫn khá ấn tƣợng dao động
từ 25 -30%. Các sản phẩm phần mềm đạt 300 triệu USD. Hiện nay Việt
Nam cũng đã đƣợc tập đoàn công nghệ thông tin hàng đầu thế giới Intel
cam kết đầu tƣ 1 tỉ USD để xây dựng nhà máy lắp ráp, đo thử các loại chip
hiện đại nhất thế giới 1.
Đối với riêng tình hình phát triển mạng internet, có thể thấy từ
những năm sau 2003, tốc độ mở rộng của mạng internet ở Việt Nam là rất
nhanh và mạnh. Theo số liệu thống kê của Trung tâm internet năm 2003
tổng băng thông kết nối quốc tế của Việt Nam mới chỉ đạt 1035 Mbps và
tổng lƣu lƣợng trao đổi qua trạm trung chuyển VNIX 373.4 Gbytes, thì
đến năm 2007, tổng băng thông kết nối quốc tế của Việt Nam đã tăng lên
12580 Mbps và 15530017 Gbytes .
Với sự phát triển tốt về công nghệ và dịch vụ cung cấp mạng, tỷ lệ
thuê bao và số lƣợng ngƣời sử dụng internet cũng tăng lên rất nhanh. Năm
2003 chúng ta có 804.528 thuê bao, 3.098.007 ngƣời sử dụng internet
1 Nguồn : http:// www.vietnamnet.vn
57
(3.80% dân số), số là thì đến năm 2007, số thuê bao đạt mức 5.218987
thuê bao và 17.718.112 ngƣời sử dụng internet (20.45%). Tỷ lệ tên miền
tiếng Việt đƣợc đăng ký và tổng số địa chỉ IPv4 đã cấp cũng tăng nhiều
lần trong giai đoạn này. Mặt khác các số liệu thống kê cũng cho thấy, Việt
Nam cũng đang dần đuổi kịp các nƣớc phát triển trong khu vực về tỷ lệ
ngƣời dân có đủ điều kiện tiếp cận với mạng lƣới thông tin toàn cầu qua
việc sử dụng mạng internet hiện nay.
Trên nền tảng của sự liên tục đổi mới và phát triển công nghệ, chất
lƣợng và dịch vụ internet, nó đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình kết
nối thông tin từ các nhà truyền thông đến công chúng.
Ngày nay có thừa nhận thực tế mạng lƣới giao thông thông tin ở
Việt Nam đã trở nên khá phổ biến, nối liền các vùng nông thôn, các vùng
khó khăn với các khu đô thị, trung tâm kinh tế, chính trị văn hoá và đồng
thời mở rộng sự liên thông này đến với các nƣớc trong khu vực và thế
giới. Cũng có thể khẳng định, trên những trục đƣờng giao thông đã đƣợc
khai thông và xác định thì lƣợng thông tin trung chuyển giữa các khu vực
ngày càng nhiều hơn, kích thích sự gia tăng của mọi tầng lớp xã hội trong
việc tham gia vào quá trình truyền thông : cung cấp, chia sẻ, chuyển tải và
tiếp nhận thông tin.
Dƣới tác động của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, thì cả ba loại thông tin trong nƣớc,
thông tin đối ngoại (hoặc những vấn đề ít nhiều liên quan giữa Việt Nam
và quốc tế) và thông tin quốc tế đều đang phát triển nhanh và trở thành
những thông tin nóng, thời sự, hàng ngày, hàng giờ, thu hút sự quan tâm
của toàn bộ giới truyền thông và công chúng.
Về thông tin trong nƣớc, có thể thấy những năm qua từ những đòi
hỏi thiết thực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc,
lƣợng thông tin đƣợc phản ánh qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng là
khá nhiều và dầy đặc, bao quát mọi vấn đề của tình hình phát triển kinh tế
-xã hội và đời sống nhân dân trên khắp các vùng miền của cả nƣớc. Quá
58
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang tạo ra những sức sống sáng tạo
mới cho Việt Nam trên mọi lĩnh vực, nhƣng đồng thời cũng đặt Việt Nam
trƣớc hàng loạt những khó khăn, thách thức, những vấn đề bất cập, mặt
trái...mà ở đây vai trò của các nhà truyền thông đại chúng là phải thiết lập
một mạng lƣới thông tin nhanh nhạy, chính xác, kịp thời, liên kết mọi tầng
lớp, cá nhân, tổ chức hƣớng tới giải quyết những vấn đề đó.
Hàng loạt những sự kiện mới, vấn đề mới xuất hiện hàng ngày,
cùng với sự thuận lợi trong việc tiếp cận các nguồn tin, sự chia sẻ thông
tin từ các cá nhân, tổ chức, quá trình phản hồi thông tin liên tục từ các
cuộc thảo luận, các diễn đàn, dƣ luận xã hội đã tạo thành những tƣ liệu
phong phú cho giới truyền thông khai thác và sử dụng trong các hoạt động
viết, tin bài, xây dựng chƣơng trình.
Về thông tin đối ngoại và những thông tin phản ánh quan hệ Việt
Nam và quốc tế, đây cũng là lƣợng thông tin tăng lên đột biến từ sau
những năm đổi mới khi ngày càng có nhiều sự kiện thu hút sự quan tâm
của công chúng Việt Nam và thế giới. Việt Nam ngày càng trở thành một
điểm phát triển kinh tế nóng của khu vực, thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài,
trở thành môi trƣờng giao lƣu, hợp tác trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hoá, giáo dục với các nƣớc. Việt Nam cũng đang ngày càng chứng tỏ
những tiềm năng của mình trong việc tham gia tổ chức các sự kiện lớn,
đóng góp vào việc giải quyết những vấn đề của quốc tế....
Mặt khác, xu thế hội nhập và toàn cầu hoá cũng cho thấy mọi vấn
đề phát triển trong nƣớc cũng đã đều đƣợc nhà nƣớc, các tổ chức và các
tầng lớp xã hội đặt dƣới lăng kính nhìn nhận, lý giải, học hỏi từ kinh
nghiệm, mô hình của các nƣớc trên thế giới nên các chuyên mục, bài viết
về chủ đề này cũng tăng lên trong lƣợng thông tin đại chúng những năm
gần đây.
Về thông tin quốc tế, cùng với quá trình toàn cầu hoá thông tin, sự
liên kết giữa các tổ chức, phƣơng tiện thông tin đại chúng toàn cầu và
mạng lƣới internet, giới truyền thông Việt Nam đã dễ dàng hơn trong việc
59
nắm bắt, cập nhật các nguồn tin quốc tế. Thay vì việc phải có đội ngũ
phóng viên thƣờng trú rải khắp thế giới, thì hiện nay với xu hƣớng liên
kết, mua bản quyền, tuân thủ đúng các quy ƣớc và nguyên tắc về bản
quyền thông tin toàn cầu, Việt nam cũng có thể có đƣợc thông tin quốc tế
từ các hãng truyền thông lớn nhất thế giới để dịch thuật và chuyển tải đến
công chúng Việt Nam. Chính vì vậy hiện nay, thông tin về mọi lĩnh vực,
sự kiện đang diễn ra trên thế giới cũng đƣợc cập nhật hàng ngày và phong
phú, đa dạng trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng Việt Nam.
VNexpress nổi tiếng là một tờ báo điện tử hoạt động trong lĩnh vực
tin tức, thời sự, tuy nhiên có thể thấy khả năng bao quát thị trƣờng thông
tin của tờ báo này là khá đa dạng. Ngoài tờ báo chính, tờ báo này có thêm
5 Website phụ hoạt động trong những vực thông tin khá hấp dẫn với thị
trƣờng và giới trẻ hiện nay bao gồm Ngoisao.net (Dành cho những câu
chuyện về những ngƣời nổi tiếng trong giới thể thao, làng giải trí) ,
Sohoa.net (Dành cho những ngƣời yêu thích công nghệ mới), Dothi.net
(Dành cho những ngƣời quan tâm các vấn đề về bất động sản, thị trƣờng,
đời sống của cƣ dân đô thị), Gamethu.net (Dành cho những ngƣời thích
chơi game), Phimanh.net (Dành cho những ngƣời thích phim ảnh),
vieclam.net (Danh cho những ngƣời quan tâm đến lao động và việc làm).
Một ví dụ khác là đài truyền hình kỹ thuật số VTC (thuộc Tổng
công ty truyền thông Đa phƣơng tiện) ban đầu hoạt động với quy mô nhỏ
cung cấp cho khách hàng một vài kênh truyền hình giải trí nhƣ thể thao,
phim ảnh. Hiện nay VTC đã có chiến lƣợc phát triển nhanh trong lĩnh vực
truyền thông đa phƣơng tiện với 8 kênh truyền hình, nhiều dịch vụ cung
cấp trực tuyến qua mạng internet và điện thoại di động. Trong tiềm năng
và chiến lƣợc của mình, VTC lại đang chuẩn bị bƣớc sang lĩnh vực tin
tức, thời sự và sẽ là đối thủ cạnh tranh tiềm tàng với các đài truyền hình
trung ƣơng và địa phƣơng.
60
Nhìn chung với xu hƣớng phát triển công nghệ và quá trình toàn cầu
hoá thông tin đã tác động khá sâu rộng đến việc hình thành và phát triển
của mạng lƣới thông tin đại chúng Việt Nam, bao gồm hoạt động của cả
giới truyền thông và công chúng.
Đối với công chúng, nhu cầu thông tin ngày càng tăng nhanh và
mạnh, tỷ lệ ngƣời tiếp cận với các phƣơng tiện truyền thông đại chúng,
truy cập internet ngày càng cao, thì họ đòi hỏi nhiều hơn ở giới truyền
thông về khả năng cập nhật thông tin, số lƣợng và chất lƣợng thông tin, sự
đa dạng về nội dung, chủ đề, hình thức biểu đạt trong thông tin mà họ
mong muốn đƣợc tiếp nhận. Điều này đang tạo môi trƣờng cạnh tranh
thông tin mạnh trong toàn giới truyền thông Việt Nam và sức ép đối với
việc phải liên tục đổi mới thông tin, các sản phẩm truyền thông.
Một điểm dễ nhận thấy trong quan hệ giữa sự phát triển của mạng
lƣới thông tin và các phƣơng tiện thông tin đại chúng, đó là ngay nay một
mô hình truyền thông ở Việt Nam thƣờng phát triển theo công thức : xây
dựng những hạt nhân trong dịch vụ cung cấp thông tin của mình, sau đó
dần mở rộng và gia tăng các chuyên mục, chƣơng trình, xây dựng chiến
lƣợc dài hạn để phát triển, cạnh tranh và chiếm lĩnh các lĩnh vực thông tin
khác. Đây là một xu hƣớng đi đúng để các phƣơng tiện truyền thông đại
chúng Việt Nam ngày càng mở rộng lƣợng thông tin, dịch vụ cung cấp
thông tin và có đủ khả năng chiếm lĩnh thị trƣờng thông tin, một trong
những điểm mấu chốt nhất để có hình thành các tập đoàn truyền thông
mang tính quốc tế trong tƣơng lai.
Thực tế hiện nay trong xu thế toàn cầu hoá, hầu hết các tờ báo, cơ
quan truyền thông đại chúng của Việt Nam đều chú trọng tới vấn đề phát
triển thông tin với mục tiêu chuyển tải, cập nhật thông tin nhanh nhất,
nhiều nhất và những tin mang tính “độc quyền” cao nhất đến với công
chúng, độc giả của mình. Các bộ phận “săn lùng tin”, “mua bán, trao đổi
thông tin”, “dịch thuật” đều là những bộ phận quan trọng nhất của một cơ
quan hoạt động trong lĩnh vực truyền thông hiện đại. Điều này đã khiến
61
cho những dòng chảy thông tin luôn lƣu thông ồ ạt qua các phƣơng tiện
thông tin đại chúng. Không chỉ với những vấn đề thời sự trong nƣớc mà
ngay cả những sự kiện lớn của thế giới nhƣ bầu cử tổng thống Mỹ, chính
biến ở Thái Lan, các sự kiện thể thao, hội nghị quốc tế, những cơ quan
truyền thông lớn của Việt Nam hiện nay nhƣ Truyền hình Việt Nam, Báo
Thanh Niên, Vietnamnet, VNexpress...đều cử phóng viên đến các nƣớc để
tác nghiệp và hoà đồng xu thế làm chung của giới truyền thông quốc tế.
Bên cạnh đó, về phƣơng diện sản xuất và chuyển tải thông tin, có
thể thấy các phƣơng tiện truyền thông đại chúng cũng đã cố gắng trong
việc thay đổi các chƣơng trình, chuyên mục, đáp ứng nhu cầu của công
chúng, đặc biệt là nhu cầu hƣớng ra thế giới của ngƣời dân trong thời đại
toàn cầu hoá. Từ năm 2005, Truyền hình cáp Việt Nam đã xây dựng trạm
phát sóng 29 kênh truyền hình Việt Nam và quốc tế để phục vụ khách
hàng trong nƣớc, thì cho đến hết năm 2008, số kênh đã tăng lên là 48
kênh, trong đó hơn một nửa là các kênh truyền hình mua bản quyền, phát
sóng trực tiếp từ nƣớc ngoài. Nhiều kênh truyền hình nƣớc ngoài nổi tiếng
cũng đã đƣợc dịch và ghép phụ đề bằng tiếng Việt để tiện lợi cho việc
phục vụ công chúng.
Trong lĩnh vực báo chí, nhiều tờ báo cũng đã tăng lƣợng thông tin
quốc tế, cũng nhƣ có chủ trƣơng lồng ghép các vấn đề quốc tế trong nội
dung thông tin về các vấn đề của Việt Nam hiện nay. Bảng 1 cho thấy số
liệu phân tích từ một tờ báo điện tử đang có số lƣợng độc giả hàng đầu ở
Việt Nam cho thấy trong tháng 12/2008, với 12 chuyên mục chính, tờ báo
này đã đăng tải đƣợc tới 2171 tin, bài, trong đó tỷ lệ nội dung các bài viết
phần lớn phản ánh về các vấn đề quốc tế và Việt Nam trong tƣơng quan
với thế giới. Các bài viết về các vấn đề trong nƣớc chỉ chiếm 809 bài
(37.3%), trong khi còn lại những bài viết về Việt Nam có đan xen yếu tố
nƣớc ngoài là 549 bài (25.1%) và các bài về quốc tế là 813 (37.6%). Trong
một số chuyên mục cụ thể thì các bài viết về hai nội dung trên còn mang
62
tính áp đảo so với các bài viết thuần tuý về vấn đề trong nƣớc nhƣ ở các
lĩnh vực văn hoá, thể thao, giải trí...
Bảng 1 : Phân tích nội dung các bài viết tháng 12/2008 của báo điện tử
dantri. com.vn
TT Chuyên mục Loại thông tin phản ánh
Trong
nước
Việt Nam
và thế giới
Quốc tế Tổng số
1 Sự kiện trong ngày 317 62 x 379
2 Quốc tế x x 150 150
3 Giáo dục – khuyến học 69 9 18 96
4 Giải trí 13 214 257 484
5 Giới tính 63 x x 63
6 Sức khoẻ 84 59 x 143
7 Sức mạnh số x x 63 63
8 Nhịp sống trẻ 48 17 x 65
9 Ô tô 3 65 68 136
10 Chuyện lạ 37 1 40 78
11 Thể thao 56 112 172 340
12 Kinh tế 119 10 45 174
13 Tổng số 809 549 813 2171
So sánh với số liệu thống kê các bài viết của báo điện tử dantri.com,
trong tháng 12 năm 2008, tờ báo in Thanh niên đăng tải 2303 bài với cơ
cấu chuyên mục và tỷ lệ loại thông tin tƣơng đối khác biệt do đặc thù
riêng của từng loại báo chí.
Số liệu bảng 2 cho thấy tỷ lệ chênh lệch khá lớn giữa số bài viết
phản ánh về các vấn đề trong nƣớc là 1528 bài (chiếm 66.3%) so với các
bài về quốc tế là 555 (chiếm 24.1%) hay đƣa tin về tình hình Việt Nam và
thế giới chỉ có 220 bài (chiếm 9.6%). Các thông tin quốc tế thƣờng là tin
nhanh về tình hình quốc tế và một số bài viết phân tích sâu về các vấn đề
“nóng” đƣợc đông đảo bạn đọc quan tâm, do đó số lƣợng tin, bài phản ánh
63
tình hình thế giới hạn chế hơn so với báo điện tử. Trong khi đó, các tin tức
sự kiện mới nhất thƣờng cập nhật chủ yếu về tình hình trong nƣớc.
Bảng 2: Phân tích nội dung các bài viết tháng 12/2008 của báo
Thanh niên
TT Chuyên mục
Loại thông tin phản ánh
Trong
nước
Việt Nam
- thế giới
Quốc
tế Tổng số
1 Chào buổi sáng 30 1 x 31
2 Tin tức- sự kiện mới nhất 172 24 x 196
3 Theo dòng thời sự 563 25 49 637
4 Chính trị- xã hội 92 1 93
5 Kinh tế/ Tiền tệ- chứng khoán 156 9 1 166
6 Thanh niên & giáo dục và cuộc sống 158 23 1 182
7 Khoa học- đời sống 10 7 74 91
8 Hôn nhân- gia đình 18 4 x 22
9 Sức khoẻ- ẩm thực 48 x 55 103
10 Bạn đọc và Thanh niên 49 1 x 50
11 Văn hoá- nghệ thuật 148 36 45 229
12 Thể thao 84 86 65 235
13 Quốc tế x 3 265 268
14 Tổng số 1528 220 555 2303
Bên cạnh một số bài báo phân tích chuyên sâu theo từng chủ đề thu
hút bạn đọc và chuyên đề dài kỳ, số lƣợng các tin nhanh trong báo Thanh
Niên chiếm tỷ lệ tƣơng đối lớn trong mỗi số báo. Tuy nhiên ở lĩnh vực thể
thao và văn hoá- nghệ thuật, tỷ lệ bài viết có nội dung phản ánh về tình
hình trong nƣớc, thế giới và các vấn đề quốc tế và Việt Nam trong tƣơng
quan với thế giới là tƣơng đối đồng đều.
Nhƣ vậy về số lƣợng tin, bài trên cả hai loại hình báo chí là báo
điện tử và báo in nhìn chung không có sự chênh lệch, tuy nhiên sự khác
64
biệt căn bản giữa hai loại hình báo chí này về nội dung thông tin phản ánh
cũng nhƣ hình thức thông tin.
Dƣới tác động của xu thế toàn cầu hoá hiện nay, mặc dù chƣa phát
triển mạnh luồng thông tin từ Việt Nam ra nƣớc ngoài song cũng có một
số tờ báo Việt Nam đã bắt đầu hƣớng ra thu hút độc giả nƣớc ngoài. Ngoài
tờ báo đầu tiên phát hành bằng tiếng Anh là Việt Nam News, nhiều tờ báo,
tạp chí của ngành kinh tế, du lịch hiện nay cũng đã xây dựng đƣợc những
tờ báo dành riêng cho độc giả nƣớc ngoài nhƣ Vietnam Investment
Review, Time Out, Heritage, Viva Việt Nam (tiếng Hàn), Việt Nam vẻ
đẹp tiềm ẩn (tiếng Anh, Nhật). Các website điện tử của các cơ quan truyền
thông chính thống lớn, uy tín hàng đầu của Việt Nam cũng đều có website
bằng tiếng Anh để phục vụ công chúng quốc tế nhƣ Website của Đảng
cộng sản Việt Nam, Báo Nhân Dân, Báo Thanh niên, Vietnamnet,
Vnexpress, riêng website của Thông tấn xã Việt Nam đã xây dựng đƣợc 3
thứ tiếng Anh, Pháp và Tây Ban Nha. Truyền hình Việt Nam cũng đã xây
dựng các bản tin tiếng Anh, tiếng Pháp và riêng chƣơng trình truyền hình
VTV4 để phục vụ đồng bào Việt Nam đang sinh sống ở nƣớc ngoài.
Cùng với hàng loạt những vấn đề đặt ra trong bối cảnh Việt Nam
tham gia tiến trình toàn cầu hoá, công chúng thời gian qua đã đặc biệt
quan tâm đến những vấn đề nhƣ giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam, khơi
dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy bản lĩnh Việt Nam trên đấu
trƣờng quốc tế...Có thể nói nắm bắt đƣợc nhu cầu của công chúng và
những yêu cầu phát triển đất nƣớc trong thời đại mới, nhiều phƣơng tiện
truyền thông đại chúng mở ra các hàng loạt các chuyên mục, diễn đàn thảo
luận xung quanh vấn đề này, không chỉ thu hút đƣợc sự quan tâm của mọi
tầng lớp xã hội, mà còn góp phần liên kết thông tin, trí tuệ Việt Nam, đƣa
ra những sáng kiến giúp cho Đảng và nhà nƣớc giải quyết những vấn đề
bức xúc trong bối cảnh hội nhập hiện nay, bên cạnh đó, góp phần truyền
thông về hình ảnh Việt Nam, bản sắc Việt Nam ra với thế giới.
65
Một trong những diễn đàn lớn và gây tiếng vang lớn trong nƣớc và
khu vực là diễn đàn “Nƣớc Việt Nam nhỏ hay không nhỏ” do Báo Thanh
niên tổ chức năm 2006 đã thu hút hàng vạn ý kiến phê bình, đánh giá,
đóng góp của công chúng trong và ngoài nƣớc, kể cả những bạn bè nƣớc
ngoài quan tâm đến sự phát triển của Việt Nam. Hiện nay một trong
những tờ phụ san của Vietnamnet là Viettimes cũng đã xây dựng những
chuyên mục riêng để kéo dài sự bàn luận về bản sắc Việt Nam nhƣ “đối
thoại Việt”, “tính cách Việt” và rất nhiều website, tạp chí mới ra đời nhƣ
Văn Hiến, Hồn Việt...góp phần không nhỏ trong việc xây dựng mạng lƣới,
cơ sở dữ liệu quan trọng để đƣa thông tin Việt Nam ra thế giới trong
những giai đoạn phát triển tiếp theo của truyền thông đại chúng Việt Nam.
Nhìn chung trong tác động đầu tiên của quá trình toàn cầu hoá đến
truyền thông đại chúng Việt Nam những năm qua, có thể thấy đó là những
hệ quả tích cực trong việc tạo ra những cơ sở hạ tầng cần thiết để lƣu
chuyển thông tin, phát triển mạng thông tin đại chúng nhanh và rộng ở
môi trƣờng trong và ngoài nƣớc.
Với mạng lƣới thông tin phong phú và đa dạng, nhiều nguồn tin có
sẵn qua mạng internet, giúp cho giới truyền thông Việt Nam đã có nhiều
thuận lợi trong việc tiếp cận, khai thác và chuyển tải thông tin đến công
chúng. Cùng với sự liên thông và quay vòng thông tin, các sự kiện mới,
đề tài mới luôn xuất hiện trong quá trình tác nghiệp của giới báo chí,
truyền thông, càng giúp họ mở rộng phạm vi hoạt động, phục vụ, đáp ứng
yêu cầu ngày một cao của công chúng. Xu hƣớng thông tin, giao tiếp
thông tin ngày càng cởi mở, dân chủ tạo ra những mô hình truyền thông
đa chiều, những phản hồi tích cực từ công chúng đến giới truyền thông,
tạo nên những định hƣớng tốt trong dƣ luận xã hội về các vấn đề, sự kiện
đƣợc bàn luận, cũng góp phần xây dựng, đổi mới mội dung và phƣơng
thức truyền thông của Việt Nam.
Bên cạnh đó trong quá trình cầu hoá, việc xây dựng mạng lƣới
thông tin và truyền thông đại chúng ở nƣớc ta vẫn còn không ít khó khăn.
66
Trƣớc hết là đới với vấn đề công nghệ, thực tế hiện nay cho thấy nhiều
khu vực lƣợng ngƣời đăng ký thuê bao internet đã quá tải so với đƣờng
truyền, tuy nhiên các nhà cung cấp dịch vụ vẫn chƣa có biện pháp khắc
phục dẫn đến tình trạng tắc nghẽn giao thông mạng là khá phổ biến, ảnh
hƣởng trực tiếp đến vấn đề phát tiển mạng lƣới thông tin. Vấn đề an ninh
mạng, phòng chống, ngăn chặn việc truyền bá các tƣ tƣởng văn hoá phẩm
độc hại trên mạng đến với công chúng vẫn chƣa đƣợc giải quyết triệt để
làm ảnh hƣởng không nhỏ đến thế hệ trẻ và công chúng Việt Nam. Trong
vấn đề truyền thông, tình trạng nhiều loạn thông tin diễn ra phổ biến trong
thế giới thông tin đa chiều. Nhiều thông tin tích cực trong loại hình blog
(truyền thông cá nhân) phát triển nhanh nhƣng lại chƣa có chính sách và
cơ chế để phát huy. Trong khi những ảnh hƣỏng xấu từ các Website, các
blog đen, cổ vũ cho lối sống ăn chơi, buông thả, bệnh hoạn của một bộ
phận thanh niên hƣ hỏng, tha hóa đang lan tràn, ảnh hƣởng trực tiếp trong
giới trẻ lại chƣa đƣợc không đƣợc ngăn chặn và kiểm soát triệt để.
Đối với giới truyền thông đại chúng cũng gặp khá nhiều sai sót
trong quá trình tác nghiệp khi tiếp xúc với mạng lƣới thông tin rộng lớn
nhƣ hiện nay. Nhiều nguồn tin không đƣợc các phóng viên, toà báo có
điều kiện xác minh, điều tra làm rõ dẫn đến tình trạng sai lạc thông tin, vi
phạm luật báo chí, điển hình nhƣ một số trƣờng hợp nhà báo tác nghiệp
trong vụ PMU18. Vấn đề vi phạm bản quyền, trích dẫn vẫn khá phổ biến
trong việc đăng tải thông tin, đặc biệt là những thông tin trên mạng
internet.
Nhiều cuộc nghiên cứu cũng cho thấy công chúng phản ánh việc
đăng tải, lạm dụng quá nhiều tin tức theo kiểu “giật gân”, “lá cải”, “Xì
căng đan trong làng giải trí”, những bộ phim, chƣơng trình chất lƣợng nội
dung kém, xa rời với thuần phong, mỹ tục của ngƣời Việt cũng đã giảm uy
tín của nhiều tờ báo, cơ quan truyền thông.
Trong xu hƣớng hội nhập quốc tế vẫn còn khá nhiều cơ quan báo
chí, truyền thông tỏ ra chậm với việc đổi mới thông tin và dịch vụ cung
67
cấp thông tin đến với công chúng, đặc biệt là thông tin quốc tế. Dòng chảy
thông tin từ Việt Nam ra nƣớc ngoài vẫn còn phát triển chậm chƣa tƣơng
xứng với nhu cầu của công chúng và yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt
Nam hiện nay. Nhiều website lớn của các tổ chức truyền thông đại chúng
Việt Nam vẫn chƣa hoàn thiện trang tin tiếng nƣớc ngoài, thậm chí nhƣ
website của đài truyền hình Việt Nam đến hết 12/2008 vẫn chƣa thể đƣa
trang tin tiếng Anh vào hoạt động.
Bên cạnh đó còng có khá nhiều ví dụ trong thực tế cho thấy khi xảy
ra những vấn đề tranh chấp giữa Việt Nam và quốc tế nhƣ trƣờng hợp
những vụ việc xuất khẩu cá Sa, cá Ba tra, hàng dệt may, xuất khẩu lao
động, vấn đề cô dâu Việt Nam...hay nhƣ vụ kiện của nạn nhân chất độc
mầu da cam, thì tiếng nói của giới truyền thông Việt Nam còn yếu, thiếu
tập trung, chƣa đủ để thuyết phục, định hƣớng cũng nhƣ tranh thủ đƣợc
những sự ủng hộ rộng rãi của dƣ luận, cộng đồng quốc tế trong việc bảo
vệ những quyền lợi cho Việt Nam. Đây là một trong những vấn đề khá
quan trọng cần bàn đến trong việc đổi mới hoạt động của các phƣơng tiện
thông tin đại chúng trong các giai đoạn sắp tới.
2. Sự phát triển về công nghệ và loại hình truyền thông đại chúng
Cùng với xu thế toàn cầu hoá, sự phát triển của công nghệ truyền
thông và lƣợng thông tin phong phú nhƣ hiện nay đã tác động mạnh mẽ
đến giới truyền thông đại chúng Việt Nam trong việc đổi mới, phát triển
các loại hình truyền thông. Tƣ duy về công nghệ đang trở nên phổ biến
trong suy nghĩ và cách làm của các nhà truyền thông. Đa loại hình, đa
phƣơng tiện và sáng tạo đang là những nguyên tắc cơ bản nhất để giới
truyền thông Việt nam nâng cao chất lƣợng dịch vụ, thu hút công chúng
và hội nhập quốc tế.
Mặc dù chƣa có cơ chế khuyến khích, cấp phép ồ ạt cho các tờ báo,
các cơ quan truyền thông mới, hay phát triển mô hình báo chí, truyền
thông đại chúng tƣ nhân ở nƣớc ta, nhƣng trên thực tế thời gian qua, với
68
702 cơ quan báo chí, truyền thông và hơn 15.000 nhà báo trong cả nƣớc
cũng đã liên tục có những bƣớc đổi mới mạnh trong loại hình cung cấp
thông tin, tạo ra các sản phẩm thông tin ngày một phong phú, đa dạng đáp
ứng yêu cầu của công chúng và xu thế phát triển chung.
Cùng với việc xây dựng chiến lƣợc phát hành dựa trên nền tảng nội
dung thông tin, hầu hết các cơ quan báo chí, truyền thông đại chúng Việt
Nam đều có xu hƣớng mở rộng các hình thức xâm nhập vào thị trƣờng
nhƣ tăng trang báo, tăng chuyên mục, xây dựng và phát triển các website,
diễn đàn, tăng các loại hình nội dung báo viết nhƣ nguyệt san, tuần báo,
Mô hình hoạt động theo xu hƣớng phát triển vệ tinh của báo
chí Việt Nam
Báo Tuổi trẻ ngoài tờ Nhật báo đang có 6 vệ tinh hoạt động khác
nhau gồm: Tuổi trẻ cuối tuần (tuần báo), Tuổi trẻ cƣời (bán nguyệt san),
tuổi trẻ online (báo điện tử), áo trắng (tạp chí hàng tháng), tuổi trẻ mobi
(phiên bản của tuổi trẻ online dành cho điện thoại di động), Tuổi trẻ
media on line (ấn phẩm đa phƣơng tiện phát hành trên mạng).
Báo Tiền Phong có bao gồm : Tiền phong chủ nhật (tuần san), Tiền
phong cuối tháng (chuyên trang hàng tháng), Trí thức trẻ (chuyên đề),
Ngƣời đẹp Việt Nam (Tạp chí), Tiền phong Online.
Báo Thanh niên cũng có các sản phẩm nhƣ : Báo Thanh niên (Nhật
báo), Thanh Niên tuần san, Thanh nien daily (tiếng Anh), Thanh niên thể
thao, Thanh niên Online.
VnExpress ngoài website chính còn có các website khác nhƣ
Ngoisao.net, Sohoa.net, Dothi.net, Gamethu.net, Phimanh.net
Vietnamnet ngoài website chính còn có các website khác nhƣ:
Tintuconline, NETLIFE, Nhạc việt Plus, Vietnamnet TV, Tuần
Vietnamnet, VietnamJobs, Lãnh đạo trong kỷ nguyên mới, Ngƣời quan
sát, VietTime, Bóng đá 24h...
69
chuyên đề, phụ san, phụ chƣơng...với mục tiêu mở rộng phạm vi hoạt
động tối đa về thông tin, tăng năng lực chiếm lĩnh thị trƣờng, lƣu lƣợng
thông tin nhiều nhất đến công chúng trong một kỳ báo và nhiều loại báo.
Đây là mô hình hoạt động theo kiểu xây dựng các vệ tinh xoay quanh trục
chính của tờ Nhật báo.
Hiện nay hầu hết các tờ báo viết, báo in và nhiều tạp chí của Việt
Nam đã hoàn thiện quá trình xây dựng và phát triển các trang báo điện tử,
website điện tử để từng bƣớc chiếm lĩnh thị trƣờng thông tin, công chúng
qua mạng internet, tham gia vào các loại hình truyền thông đa phƣơng
tiện. Có thể thấy với uy tín và thƣơng hiệu lâu năm, nên nhiều website
điện tử của các tờ báo viết lớn, mặc dù ra đời muộn, phần lớn tin bài là sự
lặp lại của báo viết song vẫn thu hút đƣợc khá đông lƣợng độc giả và công
chúng truy cập, tạo nên những cuộc cạnh tranh thông tin ngày càng sôi
động qua NET.
Ngƣợc lại, đối phó với sự cạnh tranh này, các báo điện tử thuần túy,
ứng phó trong chiến lƣợc không ngừng đổi mới loại hình dịch vụ, phát
triển nhanh mô hình truyền thông đa phƣơng tiện. Có thể thấy ngoài việc
xây dựng các kênh giao lƣu trực tuyến, kết nối các blog,chia sẻ các video
clip trên mạng thì bản thân các báo điện tử cũng tấn công mạnh trong lĩnh
vực truyền thông, cung cấp dịch vụ qua điện thoại di động và đầu tƣ phát
triển trong lĩnh vực truyền hình. Hiện nay báo điện tử Vietnamnet cũng đã
có một kênh truyền hình riêng phát sóng cùng với hệ thống truyền hình
cáp Việt Nam.
Trong xu thế đổi mới, cạnh tranh không ngừng, chuyển hóa lẫn
nhau giữa các phƣơng tiện truyền thông đại chúng thì những ngƣời làm
truyền hình Việt Nam cũng đã có những bƣớc đột phá quan trọng trong
việc tấn công vào các mô hình truyền thông qua mạng internet. Từ năm
2004, Công ty Điện toán và truyền số liệu (VDC) đã xây dựng trang web
truyền hình đầu tiên tại địa chỉ www.vnntelevision.net. Năm 2005, truyền
hình cáp Việt Nam, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đã thành công trong
70
việc nâng cấp dịch vụ internet băng thông rộng làm cở cho việc phát sóng
truyền hình qua mạng.
Vừa qua công ty Cổ phần Viễn thông FPT đã phối hợp với Đài
truyền hình Hà Nội cung cấp băng thông rộng tại địa chỉ www.tv.fpt.vn và
phát sóng 32 kênh truyền hình. Theo cam kết dịch vụ của mình thì đây sẽ
là loại chất lƣợng dịch vụ truyền hình qua mạng tốt nhất Việt Nam với
chất lƣợng hình ảnh DVD. Có thể thấy với các dịch vụ truyền hình mới
mẻ này, công chúng có thể tiếp cận các kênh truyền hình Việt Nam từ
khắp các nơi trên thế giới, nhƣ đến với các loại hình truyền thông đại
chúng khác trên mạng internet.
Hiện nay do số lƣợng ngƣời dụng thuê bao điện thoại di động ngày
một tăng nên hầu hết các nhà truyền thông đều tính đến chiến lƣợc đổi
mới công nghệ để từng bƣớc chiếm lĩnh thị trƣờng mới mẻ này. Nếu nhƣ
các báo điện tử hoàn thành các phiên bản đọc báo điện tử dành cho điện
điện thoại di động thì Đài truyền hình kỹ thuật số VTV hợp tác với S-Fone
cũng đã hoàn thành việc cung cấp các dịch vụ truyền hình kỹ thuật số cho
các thuê bao điện thoại di động. Trong khi đó các công ty tƣ nhân cũng
đóng góp hàng loạt các hoạt động trong thị trƣờng này nhƣ cung cấp các
dịch vụ cho khách hàng tải các trò chơi, âm nhạc, hình ảnh, thông tin tƣ
vấn trên mọi lĩnh vực.
Xu hƣớng bùng nổ thông tin hiện nay cũng xuất hiện trên thị trƣờng
báo viết. Có thể thấy để đáp ứng yêu cầu của công chúng và thị trƣờng,
các nhà làm báo đã khai thác triệt để mọi chủ đề và loại hình để hoạt động
truyền thông. Trên các sạp báo hiện nay có hàng trăm tờ thuộc đủ các
chủng loại, hình thức khác nhau, trong đó nhiều nhất là dƣới dạng các loại
hình tạp chí, chuyên đề.
Khác với tạp chí của cơ quan nghiên cứu khoa học (Mã số ISSN) thì
các tạp chí theo kiểu Magazine này phát triển theo hàng loạt các khuynh
hƣớng khổ to, khổ nhỏ, trình bày khác nhau, hƣớng vào tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội thu hút sự quan tâm của các nhóm công chúng nhỏ từ
71
các chủ đề nhƣ hội họa, âm nhạc, nghệ thuật, công nghệ, kiến trúc, các
lĩnh vực nghề nghiệp cho đến giải trí cụ thể nhƣ ăn uống, mua sắm, ô tô,
xe máy, trồng trọt, nghe nhìn, quần áo, trang điểm, giầy dép...Ngoài ra
nhiều nhà truyền thông tƣ nhân do không có thẩm quyền và điều kiện làm
tạp chí, họ cũng “linh hoạt” để xin đƣợc cơ chế xuất bản các bài viết theo
kiểu chuyên đề “phóng sự xã hội” dài kỳ...
Nhìn chung các loại hình tạp chí, chuyên đề hiện nay tuy phát triển
với nội dung và loại hình tuy nhiên lại khá lộn xộn, ít tờ báo đƣợc đầu tƣ,
làm nghiêm túc theo quy trình của nghề báo hiện đại. Phần lớn các loại
hình này triển khai theo mô hình “giật gân”, “câu khách” và nhƣng những
nhà sản xuất vẫn tự tin theo kiểu “luôn theo kịp với thị trƣờng” và “có độc
giả riêng của mình”. Chính tình trạng này cũng đang góp phần làm nhiễu
loạn thông tin trên thị trƣờng báo chí Việt Nam.
Bên cạnh sự phát triển nhanh của các mô hình truyền thông đa
phƣơng tiện thì cùng với tác động của quá trình toàn cầu hóa, ở Việt Nam
hiện nay tiếp cận, ứng dụng và đa dạng hóa nhiều hơn với các loại hình và
phƣơng thức truyền thông khác nhau. Cùng với sự phát triển của thông tin
và cạnh tranh truyền thông, ngày nay công chúng không còn xa lạ với các
khái niệm “tổ chức họp báo”, “tổ chức sự kiện”, “game shows”, các cuộc
vận động, cuộc thi khác nhau, từ các vấn đề thời sự chính trị, kinh tế, xã
hội cho đến lĩnh vực văn hóa, vui chơi, giải trí...Chƣa kể các loại hình
quảng cáo, tiếp thị, hội chợ, các chƣơng trình bán hàng, khuyến mại đƣợc
các doanh nghiệp luôn đổi mới và ồ ạt tung ra thị trƣờng.
Nhìn chung quá trình bùng nổ thông tin và loại hình truyền thông
ngày nay đều biểu hiện trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực, đem đến
những lợi ích và đồng thời thiệt hại cho cả giới truyền thông và công
chúng. Điển hình nhƣ hoạt động tổ chức sự kiện chẳng hạn. Đây là hoạt
động đang lan tràn và khá phổ biến trong mọi lĩnh vực, mọi tầng lớp xã
hội, từ trung ƣơng đến địa phƣơng, trong khu vực nhà nƣớc cho tới khu
vực tƣ nhân, các cộng đồng. Ngƣời ta có thể thấy đâu đâu cũng là sự kiện
72
và tổ chức sự kiện từ miền quê nghèo cho tới thành phố, trung tâm chính
trị văn hóa, từ Việt Nam ra đến các nƣớc khác trong khu vực và thế giới.
Những bằng chứng thực tế cho thấy hiện nay, nhiều tổ chức truyền
thông coi việc tham gia tổ chức sự kiện là một hoạt động truyền thông
nghiêm túc, nhằm chuyển tải thông điệp, thông tin, củng cố hình ảnh,
thƣơng hiệu của quốc gia, địa phƣơng, các tổ chức có liên quan đối với đại
bộ phận công chúng trong nƣớc và quốc tế. Với các tổ chức này, các
chƣơng trình đƣợc nghiên cứu kỹ lƣỡng, bài bản, xây dựng các kịch bản
và tổ chức, thực hiện theo xu hƣớng chuyên nghiệp và hiện đại. Có
chƣơng trình còn mời sự tham vấn của các cá nhân, cơ quan chuyên tổ
chức sự kiện, truyền thông có uy tín trên thế giới. Hệ quả của các hoạt
động tích cực không chỉ đem lại thành công cho sự kiện đƣợc tổ chức mà
trong quá trình truyền thông còn tạo ấn tƣợng tốt, lâu dài cho công chúng,
giúp các nhà truyền thông Việt Nam tích lũy tri thức, kinh nghiệm để ngày
càng hƣớng tới mô hình truyền thông chuyên nghiệp hóa.
Tuy nhiên bên cạnh những hoạt động tổ chức sự kiện, truyền thông
thu đƣợc kết quả lớn nhƣ Đại lễ Phật Đản Vesak, Festival Huế, cuộc vận
động bầu chọn Vịnh Hạ Long làm kỳ quan thiên nhiên thế giới, Du lịch
miệt vƣờn Mekong Delta, Festival ICT...thì hiện nay cũng có quá nhiều
các hoạt động tổ chức sự kiện bừa bãi, thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu tinh
thần tôn trọng công chúng, gây ra những phản cảm sâu sắc trong dƣ luận.
Vấn đề này cũng đang có xu hƣớng bị thao túng bởi các công ty tƣ nhân,
các doanh nghiệp thiếu chuyên môn và công nghệ tƣơng xứng với tầm cỡ
của các sự kiện hay hoạt động đó.
Tƣơng tự nhƣ vậy, các phim truyền hình, game shows, các cuộc thi
giọng hát, sắc đẹp, thể thao, các sân chơi có sự vận động, tham gia của
quần chúng nhân dân,các diễn đàn thông tin cũng đang rơi vào tình trạng
khủng hoảng về nội dung, chủ đề và cách thức tổ chức truyền thông. Nếu
nhƣ trong thời gian đầu, Kênh truyền hình văn hóa, thể thao,giải trí VTV3
của đài truyền hình Việt Nam đã đi tiên phong trong việc mua bản quyền,
73
sáng tạo, xây dựng các chƣơng trình truyền hình chất lƣợng cao, tạo ra các
sân chơi lành mạnh, bổ ích, thu hút và liên kết sự đồng thuận giữa các
nhóm xã hội nhƣ trong “chƣơng trình SV”, “Chiếc nón kỳ diệu”, “Hành
trình văn hóa”, “Văn nghệ chủ Nhật”, “Con đƣờng âm nhạc”...Trong khi
sau nhiều năm phát triển số lƣợng các chƣơng trình, trò chơi trên truyền
hình Việt Nam gấp nhiều lần so với các giai đoạn trƣớc, tuy nhiên lại
không có nhiều chƣơng trình có chất lƣợng chuyên môn cao và đáp ứng
yêu cầu về chuyển tải giá trị văn hóa, nghệ thuật, tƣ tƣởng thẩm mỹ đến
với công chúng, chƣa nói đến việc lồng ghép, truyền thông tích cực cho
các đƣờng lối, chính sách của Đảng, nhà nƣớc, cổ vũ cho quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhiều ngƣời dân nông thôn đã lên tiếng phản ánh về nội dung, hình
thức các chƣơng trình vui chơi, giải trí, truyền thông của truyền hình Việt
Nam nói riêng và các phƣơng tiện truyền thông đại chúng khác nói chung
đang có xu hƣớng trở nên xa lại với họ, điển hình nhƣ bộ phim đình đám
một thời “Nhật ký Vàng Anh”. Gần đây, một diễn đàn của thanh niên khi
nêu chủ đề “Góp ý với Đài truyền hình Việt Nam” thì chỉ trong vài tháng
đã có hơn 3000 ý kiến phản hồi. Đáng buồn là gần nhƣ 100% ý kiến màn
tính phê bình, chê cách làm chƣơng trình của đài truyền hình hiện nay nhƣ
thiếu nghiêm túc, tùy tiện, thiếu tôn trọng khán giả, xu hƣớng thƣơng mại
hóa...
Trong xu thế tự do thông tin và dễ dàng làm chủ các phƣơng tiện
thông tin, truyền tin trong thời kỳ toàn cầu hóa thì cũng phải khẳng định
hiện nay đã xuất hiện khá nhiều loại hình truyền thông ngang cấp và
truyền thông ngƣợc nhƣ truyền thông từ cá nhân, các nhóm nhỏ đến xã
hội, từ nhóm này sang nhóm khác, từ công chúng đến giới truyền thông.
Đây là loại hình truyền thông theo kiểu nhà báo công dân đã phát triển rất
nhanh và mạnh qua phƣơng tiện sử dụng mạng lƣới blog của Việt Nam.
Có hàng loạt các blog đạt mức kỷ lục về lƣợng ngƣời truy cập với
các bài viết, đƣa tin, bình luận về các sự kiện xã hội nhƣ OnlyU, Tắc kè,
74
H2T2, Anh Ngọc, Quách Đại Ca...Nhiều blogger cũng tạo nên mạng lƣới
trung chuyển, liên kết chia sẻ thông tin với nhau để sức mạnh trong truyền
thông. Tuy nhiên, bên cạnh một số điểm tích cực thì phần lớn các “nhà
báo công dân” tỏ rất thiếu tính chuyên nghiệp trong việc điều tra cẩn thận
nguồn thông tin, nội dung bị giới hạn và chỉ hƣớng vào sự bàn luận vào
những vấn đề mặt trái, quan điểm phiến diện, phƣơng thức câu khách, thu
hút sự tò mò của ngƣời đọc...vì vậy chƣa thực sự thuyết phục và tạo đƣợc
sự ủng hộ rộng rãi của dƣ luận.
Kết luận và khuyến nghị
Xu hƣớng toàn cầu hóa một mặt thúc đẩy sự phát triển của các loại
hình truyền thông đa phƣơng tiện, đa chiều đã tạo nên những thuận lợi cho
việc xây dựng và củng cố mạng thông tin ở nƣớc ta, tạo nên sức sống mới
cho giới truyền thông, công chúng và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nhƣng bên cạnh đó vẫn còn khá nhiều những khó khăn, thách thức,
những vấn đề tồn tại đòi hỏi phải có những giải pháp khoa học, đồng bộ
hƣớng tới xây dựng những chính sách và cơ chế mới, góp phần ổn định và
phát triển một cách lành mạnh và tích cực cho các loại hình này.
Trên cơ sở những phân tích xu hƣớng phát triển nội dung thông tin
và loại hình truyền thông Việt Nam dƣới tác động của toàn cầu hoá, chúng
tôi xin phép đƣợc nêu lên một số khuyến nghị nhƣ sau :
Nhà nƣớc cần xây dựng và điều chỉnh các chính sách phù hợp với
xu hƣớng phát triển của ngành truyền thông đại chúng của xã hội hiện đại,
tăng cƣờng các trang thiết bị công nghệ hiện đại cho hoạt động truyền
thông, hƣớng tới việc xây dựng những tập đoàn truyền thông lớn, xứng
tầm với vị trí và vai trò của Việt Nam trong phát triển truyền thông đối nội
và đối ngoại.
Bộ Thông tin và truyền thông cần phải sớm tập trung xây dựng,
từng bƣớc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho
nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về truyền thông, báo chí, xuất bản. Tăng
75
cƣờng công tác kiểm tra lƣu chiểu báo chí, xuất bản, xử lý nghiêm minh,
kịp thời hơn các vi phạm trong hoạt động báo chí, xuất bản, nâng cao hiệu
quả hoạt động phát thanh, truyền hỡnh địa phƣơng, quản lý Internet, xây
dựng và ban hành Quy chế cải chính trên báo chí...
Thực hiện nghiêm túc công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dƣỡng cán
bộ, rà soát, kiện toàn, bố trí đúng cán bộ lãnh đạo và đội ngũ phóng viên
báo chí, biên tập viên xuất bản; bảo đảm tiêu chuẩn chính trị, nghề nghiệp;
kiên quyết thay thế những cán bộ, phóng viên, biên tập viên yếu kém về
phẩm chất, năng lực.
Cần phải đổi mới thƣờng xuyên về phƣơng thức hoạt động truyền
thông theo hƣớng đa dạng hoá, nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của các
hoạt động truyền thông, đổi mới và tăng cƣờng các hình thức truyền thông
đa phƣơng tiện và truyền thông đa chiều, mở rộng hơn nữa các hoạt động
giao lƣu, trao đổi cộng tác viên, mở rộng sự phối hợp và liên kết trong
truyền thông.
Các cơ sở truyền thông, báo chí cũng cần chú ý hơn tới các khía
cạnh kinh tế, tự chủ và sáng tạo trong hoạt động, nhằm tăng cƣờng lợi
nhuận trong kinh doanh để tái đầu tƣ, mở rộng và phát triển hơn nữa theo
hƣớng hoạt động của một tập đoàn kinh tế.
Nâng cao chất lƣợng truyền thông, phát huy đƣợc sức mạnh của
truyền thông, đáp ứng đƣợc những mối quan tâm và lợi ích của công
chúng, góp phần nâng cao tầm hiểu biết của họ, đóng góp vào việc hình
thành những nhân cách tốt đẹp của con ngƣời Việt Nam trƣớc những thách
thức của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
76
TRUYỀN THÔNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TÁC
ĐỘNG CỦA XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN “KINH TẾ TRUYỀN
THÔNG”
Ths. Đặng Vũ Cảnh Linh
Trong bối cảnh hiện nay, thông tin là một loại hàng hoá quan trọng,
một thứ nhu yếu phẩm không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của con
ngƣời. Nền kinh tế thị trƣờng của các nƣớc tƣ bản phát triển lâu nay,
truyền thông nói chung và truyền thông đại chúng nói riêng đƣợc nhìn
nhận là ngành kinh tế độc lập với các mô hình nhà nƣớc cho phép tƣ nhân
tham gia đầu tƣ trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh các ấn phẩm truyền
thông nhƣ báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, các ngành công
nghiệp giải trí... Tại nhiều quốc gia hiện nay, truyền thông là một ngành
kinh tế mũi nhọn hàng năm có thể thu về hàng trăm tỷ đô la từ việc mua
bán, sản xuất, trao đổi các sản phẩm truyền thông. Có những quốc gia trên
thế giới, truyền thông hoàn toàn do tƣ nhân nắm giữ, họ đại diện cho
quyền lợi của các tập đoàn kinh tế tƣ bản.
Trong xu thế phát triển và xâm nhập của nền kinh tế truyền thông,
các nhà làm truyền thông đại chúng Việt Nam sẽ phải học cách tƣ duy
thông tin là tƣ liệu sản xuất, truyền thông là một lĩnh vực kinh doanh bao
gồm đầy đủ các thành tố nhƣ các ngành kinh tế khác bao gồm vốn đầu tƣ,
quá trình sản xuất, công nghệ, trao đổi mua bán thông tin, sản phẩm,
quảng cáo, cổ phiếu, thị trƣờng... Những nét đặc thù của loại hình kinh
doanh trong lĩnh vực truyền thông là sản xuất, trao đổi mua bán thông tin
và tri thức, nó gắn liền với nền kinh tế tri thức và công nghệ. Lợi nhuận
thu đƣợc trong hoạt động kinh doanh nay chủ yếu là tiền quảng cáo, sau
đó mới đến bán sản phẩm truyền thông và các loại hình khác vì vậy, trong
bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay quá trình cạnh tranh giữa các tập đoàn, tổ
77
chức kinh doanh truyền thông diễn ra khá mạnh và gay gắt trong việc
dành giật thị trƣờng và công chúng.
Dƣới sự đổ bộ và tác động của các thƣơng hiệu truyền thông lớn
trên thế giới vào Việt Nam, việc xây dựng các thƣơng hiệu truyền thông
cũng sẽ phải trở thành mối quan tâm hàng đầu của những ngƣời làm công
tác truyền thông ở nƣớc ta nếu muốn hòa nhập với xu thế chung, kinh
doanh và phát triển ở lĩnh vực này. Bài học từ các nƣớc phát triển cho
thấy, một thƣơng hiệu truyền thông lớn có đầy đủ uy tín, đảm bảo chất
lƣợng của các nguồn thu phát thông tin, chất lƣợng công nghệ thì nó sẽ thu
hút lƣợng độc giả lớn và đồng nghĩa với việc chiếm đƣợc thị phần cao
trong giá trị quảng cáo mà các doanh nghiệp đem lại, đôi khi là các giá trị
kinh tế siêu lợi nhuận, nhƣ trƣờng hợp các tập đoàn BBC, CNN, Viacom,
News Corp hiện nay.
Quy luật quay vòng vốn cũng chứng minh rằng khi những tập đoàn
truyền thông lớn có doanh thu cao thì với các khoản tiền kếch xù đƣợc tái
đầu tƣ, đổi mới công nghệ, tăng cƣờng các hoạt động độc quyền, kiểm
soát về thông tin, nó lại ngày càng trở nên hấp dẫn và thu hút công chúng,
cũng nhƣ mở rộng lĩnh vực, phạm vi và thị trƣờng hoạt động trong bối
cảnh không có biên giới của toàn cầu hoá hiện nay. Ngƣợc lại với nếu chỉ
là những thƣơng hiệu truyền thông nhỏ lẻ, phát triển không ổn định, không
thoả mãn đƣợc yêu cầu, đòi hỏi của công chúng nó sẽ bị loại ra khỏi cuộc
chơi và nhƣờng chỗ cho các đối thủ cạnh tranh khác, có khi ngay trong thị
trƣờng của mình.
Tƣơng tự nhƣ lĩnh thông tin, thời sự, Việt Nam cũng sẽ chịu tác
động và đối mặt với thách thức lớn từ sự cạnh tranh trong các ngành công
nghiệp giải trí. Trên thực tế cùng với xu thế toàn cầu hóa văn hóa thì sự
cạnh tranh này không chỉ giữa các công ty truyền thông của Việt Nam với
thế giới mà đôi khi các công ty, hay các sản phẩm truyền thông còn đại
diện cho cả quốc gia, khu vực trong việc truyền bá hình ảnh, văn hoá, lối
sống của Việt Nam đến thế giới.
78
Kinh nghiệm cho thấy để tạo nên làn sóng văn hóa Mỹ trên phạm vi
toàn cầu, lâu nay ở nƣớc này quá trình đầu tƣ cho các sản phẩm truyền
thông của ngành công nghiệp giải trí là đặc biệt quan trọng. Nó là những
dòng chảy khổng lồ về tài chính, các khoản đầu tƣ trang thiết bị, trƣờng
quay, máy móc, các khoản trả tiền bản quyền, catxe cao hàng chục triệu
đô la cho các diễn viên, ngƣời nổi tiếng tham gia, sự công phu trong việc
dàn dựng những loại hình phong phú khác nhau nhƣ kịch bản phim,
chƣơng trình truyền hình, các trò chơi, giải trí, thậm chí là kiến tạo những
nhân vật, sự kiện thu hút sự quan tâm của công chúng...Thực tế cho thấy,
Mỹ đã thu về rất nhiều từ công nghiệp này với hiệu ứng truyền thông lan
tỏa toàn cầu, cũng nhƣ khá tƣơng xứng với chi phí mà các nhà truyền
thông bỏ ra cả về giá trị kinh tế và tinh thần khi giá trị Mỹ trong mắt thế
giới là không thể phủ nhận. Hiện nay làng giải trí của các nƣớc châu Á
nhƣ : Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc cũng học cách làm
Mỹ để tạo nên các làn sóng văn hóa của dân tộc mình đối với công chúng
khu vực và thế giới.
Đối mặt với những thách thức của một ngành công nghiệp mang
tính truyền thông mới mẻ này, Việt Nam sẽ phải thích nghi và có chiến
lƣợc nhƣ thế nào để chống lại những cuộc “xâm lược văn hóa” vô hình và
hữu hình đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ tác động đến suy nghĩ, thái độ,
nhu cầu, thị hiếu của mọi tầng lớp công chúng. Dƣờng nhƣ không muốn
công chúng quay lƣng với văn hóa nƣớc nhà để chịu ảnh hƣởng và sự dẫn
dắt nhiều hơn từ các sản phẩm truyền thông, văn hóa của nƣớc ngoài thì
truyền thông Việt Nam cần bƣớc ra khỏi “chiếc vỏ ốc” của mình để học
hỏi, tiếp thu những tinh hoa của nền văn hóa nhân loại, đồng thời biết đầu
tƣ công phu, nghiêm túc và sáng tạo trong các nội dung và loại hình
truyền thông của mình .
Khi truyền thông trở thành hoạt động kinh tế rộng lớn có sự tham
gia, cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu thì giới truyền thông Việt Nam cũng
cần thấy những tác động của toàn cầu hóa đang tạo nên một thị trƣờng
79
truyền thông mở. Ở thị trƣờng chung này sự liên kết, hình thành của các
tập đoàn, sự phân tách của các công ty, lĩnh vực hoạt động, sự phá sản của
các mô hình, hay quá trình hợp tác, ăn theo, mua bán, tranh chấp bản
quyền, thƣơng hiệu, những cuộc đấu tranh vô hình và hữu hình trong các
lĩnh vực thông tin, sự kiện diễn ra theo tính chất hàng ngày, hàng giờ.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế truyền thông, Việt Nam cũng đòi
hỏi phải có sự xác định nhanh chóng về chính sách và cơ chế cho các hoạt
động quản lý, phát triển hệ thống truyền thông, từng bƣớc thƣơng mại hóa,
xây dựng đƣợc những thƣơng hiệu mạnh, tập đoàn truyền thông ổn định
để có thể đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và phát triển đảm bảo lợi ích quốc
gia và dân tộc.
Kinh tế truyền thông là một khái niệm còn khá mới mẻ ở Việt
Nam, cho đến nay còn chƣa đƣợc nhìn nhận, đánh giá một cách khách
quan và đúng tầm trong các chính sách và cơ chế quản lý hoạt động truyền
thông của Việt Nam, cũng nhƣ đƣợc toàn bộ giới truyền thông và đông
đảo các tầng lớp xã hội chấp nhận, khi quan niệm hoạt động cung cấp, tổ
chức dịch vụ trong lĩnh vực truyền thông đại chúng vẫn thuộc về vai trò
của nhà nƣớc. Thực tế cho thấy trong sự tác động của kinh tế thị trƣờng và
xu thế toàn cầu hoá hiện nay, truyền thông đại chúng nói riêng và truyền
thông Việt Nam hàng ngày, hàng giờ vô hình chung đã tham gia vào quá
trình vận hành của nền kinh tế này khi các hoạt động cung ứng và tiếp
nhận thông tin đã đƣợc xác định trong mối quan hệ hàng hoá, từ quá trình
đầu tƣ, sản xuất, công nghệ, cho đến mua bán, trao đổi, tiếp thị, lƣu thông
các sản phẩm qua các hoạt động của thị trƣờng của thị trƣờng truyền
thông.
Quan hệ thị trƣờng trong lĩnh vực truyền thông đã đƣợc bắt đầu
ngay từ những năm sau đổi mới và phát triển nhanh trong thời gian gần
đây khi Việt Nam chính thức tham gia sân chơi toàn cầu hoá. Phần lớn các
hoạt động truyền thông đại chúng đều có sự đổi mới mạnh mẽ, xu hƣớng
thƣơng mại hoá, cải tiến công nghệ, dịch vụ, quy trình cung cấp các sản
80
phẩm truyền thông ngày càng phổ biến, hƣớng đến thị trƣờng công chúng
và coi thị trƣờng này là thƣớc đo cho thƣơng hiệu, chất lƣợng và sự sáng
tạo trong loại hình kinh doanh này. Có thể thấy với hầu hết các cơ quan
báo chí, truyền thông đã và đang hoạt động theo mô hình tự chủ có thu
thay vì chỉ dựa trên các nguồn ngân sách hàng năm của nhà nƣớc. Các sản
phẩm truyền thông cũng đƣợc bán trực tiếp và gián tiếp qua nhiều phƣơng
thức khác nhau trong đó doanh thu từ các hoạt động quảng cáo, PR là khá
lớn.
Qua khảo sát thực tế từ các toà soạn báo cho thấy, hiện nay với các
tờ báo in lớn doanh thu có thể đạt trên 100 tỷ đồng/năm trong đó trên dƣới
1/2 trong số đó là từ các hoạt động quảng cáo. Các tờ báo điện tử hoạt
động tốt cũng có thể đạt mức 30 – 40 tỷ đồng/ năm trong đó tỷ lệ tiền
quảng cáo trên tổng doanh thu còn cao hơn nhiều lần so với loại hình báo
in. Truyền hình cũng là lĩnh vực thu đƣợc rất nhiều tiền quảng cáo khi
mức giá mà truyền hình Việt nam đƣa ra là 60 triệu đồng cho 1 phút quảng
cáo trong các chƣơng trình phát sóng thu hút sự quan tâm của công chúng.
Với hầu hết các mô hình truyền thông nhỏ, các tờ báo, tạp chí nhỏ thì việc
thu hút quảng cáo hiện nay đã đƣợc xác định là quan hệ mang tính “sống
còn” cho việc duy trì các hoạt động của mình.
Trong các cơ quan truyền thông đại chúng hiện nay ngoài đội ngũ
phóng viên, biên tập viên, cán bộ làm kỹ thuật đã xuất hiện thêm các bộ
phận làm chuyên trách các công việc quảng cáo, PR, nghiên cứu thị
trƣờng, nghiên cứu công chúng. Sự xâu chuỗi giữa hàng loạt các bộ phận
này trong một tờ báo, cơ quan truyền thông đã tạo ra xu hƣớng thống nhất
trong việc xây dựng chiến lƣợc cho các hoạt động hƣớng đến cạnh tranh
và chiếm lĩnh các thị trƣờng thông tin khác nhau.
Hầu hết các cơ quan báo chí, truyền thông đều tính đến sự gia tăng
lƣợng phát hành và mở rộng thị trƣờng phát hành phục vụ độc giả tại các
vùng miền khác nhau, thậm chí dành cho cả cộng đồng việt kiều và ngƣời
nƣớc ngoài. Với tiềm lực mạnh và uy tín lâu năm, một số tờ báo lớn của
81
Việt Nam nhƣ Thanh niên, Tuổi Trẻ, Công An Nhân Dân, Công An Thành
phố Hồ Chí Minh, An Ninh Thủ đô đã mạnh dạn đổi mới nội dung thông
tin và hƣớng đến thu hút những độc giả xa hơn, đó cũng là điều kiện để
nâng số lƣợng phát hành lên khá cao.
Theo thống kê của VNExpress, hiện nay Báo Tuổi trẻ có số lƣợng
phát hành khoảng 450.000 bản/số, có thời kỳ lên tới 500.000 bản/số, trong
khi báo Thanh Niên cũng đã công bố đạt mức 450.000 bản/số vào tháng
10/2007 (Trong khi vào khoảng những năm 1980 số lƣợng phát hành cao
nhất của hai báo này chỉ trên dƣới 10.000 bản/số).
Bên cạnh đó các loại báo điện tử, mặc dù sinh sau, đẻ muộn song
trong quá trình cạnh tranh thông tin họ cũng không ngừng đổi mới nội
dung thông tin, tổ chức, phát huy lợi thế của mình để nâng cao số lƣợng
độc giả truy cập . Hiện nay Báo điện tử VNexpress (thành lập năm 2002)
đã lọt vào 100 website có lƣợng ngƣời truy cập nhiều nhất thế giới với
hơn 2,4 đến 7 triệu độc giả/ngày và theo từ điển bách khoa mở Wikipedia
thì Báo điện tử Dân trí cũng đạt mức 3,5 đến 4 triệu ngƣời truy cập/ngày.
Bên cạnh đó nhiều tổ chức truyền thông hiện nay cũng đang hƣớng
đến việc củng cố xây dựng thƣơng hiệu riêng cho mình, tìm cách giữ chân
công chúng với các sản phẩm của mình đồng thời không ngừng mở rộng
hoạt động sang các nhóm công chúng khác. Hoạt động tái đầu tƣ cho công
nghệ, sản xuất, con ngƣời đang đƣợc các nhà quản lý, tổ chức các hoạt
động truyền thông đặc biệt coi trọng.
Trong kết quả khảo sát mô hình hơn 25 tờ báo, cơ quan truyền
thông hiện nay cho thấy trong 3 năm từ 2005 - 2008, 100% các tổ chức
đều có sự đầu tƣ cho việc mua sắm các trang thiết bị, máy móc mới, cải
tiến công nghệ, đầu tƣ cho việc xây dựng, nâng cấp website1... Bên cạnh
đó, quá trình xúc tiến thƣơng mại, mua bản quyền các chƣơng trình truyền
thông trong nƣớc và quốc tế, cũng đang đƣợc các nhà truyền thông quan
1 Đặng Vũ Cảnh Linh (2008), Đề tài cấp bộ “Tác động của toàn cầu hóa tới sự phát triển của truyền
thông đại chúng Việt Nam, Học Viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
82
tâm để nâng cao năng lực cạnh tranh về thƣơng hiệu. Đi tiên phong và
hoạt động mạnh nhất trong lĩnh vực này, là những ngƣời làm truyền hình
đã không ngần ngại trong việc bỏ ra các khoản tiền lớn để mua các game
show, kịch bản phim truyền hình đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công
chúng Việt Nam trong việc tiếp cận các sản phẩm mới, đạt chất lƣợng
quốc tế.
Nhìn vào chế độ làm việc, đãi ngộ đối với các phóng viên, biên tập
viên của các tờ báo, cơ quan truyền thông hiện nay cũng có thể thấy quan
hệ thị trƣờng đƣợc biểu hiện nhƣ thế nào. Hiện nay thu nhập của những
ngƣời làm báo cao hơn nhiều lần so với mức thu nhập của một công chức
bình thƣờng. Thông qua các chế độ làm việc theo mô hình khoán sản
phẩm, trung bình thu nhập của các phóng viên tại các tờ báo lớn dao động
từ 8 – 15 triệu đồng/tháng, trong khi với những tờ báo nhỏ thì cũng đạt
mức 3 -5 triệu/ tháng bao gồm tiền chi trả cho lƣơng cứng, phụ cấp, bài
viết, tiền đi lại, giao dịch...1
Phóng viên, đội ngũ tác nghiệp cũng đƣợc các toà báo quan tâm,
đầu tƣ máy móc thiết bị khi hành nghề. Nhiều tờ báo đã mạnh dạn mua
máy tính xách tay, máy ghi âm, máy ảnh... cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
của mình để tạo thuận lợi trong quá trình tác nghiệp, viết tin, bài. Một
điểm nữa khá nổi bật là các cơ quan truyền thông hiện nay đều có những
quy định ngầm để khuyến khích nhân viên, cộng tác viên trong việc tìm
kiếm, mang những hợp đồng quảng cáo về cho tổ chức của mình. Qua
khảo sát cho thấy, số tiền thƣởng hoặc hoa hồng từ 10 - 20% giá trị hợp
đồng, thậm chí ở một số nơi còn lên tới 30% - 40% giá trị hợp đồng cho
những ngƣời đem quảng cáo về cơ quan của mình.
Nguyên tắc tác nghiệp ở nhiều tờ báo hiện nay cũng đƣợc xác định
khá rõ theo mô hình cạnh tranh trong kinh tế thị trƣờng. Qua khảo sát cho
thấy xu hƣớng phát triển độc quyền thông tin đang ngày đƣợc các nhà sản
1 Đặng Vũ Cảnh Linh (2008) , sđd
83
xuất, tổ chức truyền thông quan tâm và khá phổ biến với các tờ báo làm về
tin tức, thời sự chính trị, xã hội.
Phần lớn các tờ báo không cho phép phóng viên đƣợc sao chép,
dùng lại các nguồn tin của các báo khác, cũng nhƣ khuyến khích họ trong
việc tìm kiếm thông tin, các chủ đề mới. Để có các nguồn thông tin mới và
phong phú, các tờ báo cũng đã coi trọng sự liên kết với công chúng, độc
giả trong và ngoài nƣớc đối với quá trình cung cấp nguồn tin hay khuyến
khích họ tham gia viết tin, bài cho tờ báo. Một ví dụ trong lời giới thiệu
mục “Thông tin đa chiều” của Tuần Vietnamnet đã thấy các nhà truyền
thông tỏ ra tôn trọng và khuyến khích độc giả cung cấp thông tin nhƣ thế
nào :
“Bạn không bằng lòng về một bài báo, nhà báo, cơ quan truyền thông
nào đó về một thông tin mà bạn cho là chưa xác đáng đó được đăng tải?
Hoặc là sự tắc trách hay đi ngược lại tiêu chí nghề nghiệp trong quá trình
tác nghiệp của một nhà báo nào đó mà bạn được chứng kiến? Hãy gửi ý kiến
hoặc bài viết qua chuyên mục này. Tất nhiên, bạn sẽ chịu trỏch nhiệm về
phản hồi của mình”.1
Trong bối cảnh của quá trình cạnh tranh thƣơng hiệu có thể thấy
hiện nay các cơ quan truyền thông cũng đã chú trọng đến việc đƣa hình
ảnh của mình đến với công chúng không còn chỉ với ý nghĩa của các sản
phẩm truyền thông trực tiếp, thƣờng làm, mà còn rất nhiều hoạt động
phong phú khác nhƣ tham gia vào quá trình tổ chức các sự kiện lớn, phát
động các phong trào xã hội trong đó họ đóng vai trò là những ngƣời tài
trợ, đồng tài trợ cho các hoạt động này. Hàng loạt các hoạt động gắn với
thƣơng hiệu truyền thông đƣợc xuất hiện trong công chúng nhƣ cuộc thi
“Hoa hậu báo Tiền phong”, “Cúp bóng đá U21 Báo Thanh niên”, “Giải
bóng chuyền quốc tế VTV”, “Cuộc thi tiếng hát truyền hình Sao mai”...
Tất cả các hoạt động này đang làm cho xu hƣớng vận động theo nền kinh
tế truyền thông của Việt Nam ngày càng sôi động và khởi sắc hơn.
1 Theo www.tuanvietnam.net
84
Mặc dù ở Việt Nam cho đến nay luật pháp chƣa cho phép thành lập
các tờ báo, nhà xuất bản, truyền hình tƣ nhân, tuy nhiên trong hoạt động
của thị trƣờng truyền thông cho thấy mối liên hệ giữa truyền thông đại
chúng và khu vực kinh tế nhiều thành phần ngày càng bộ lộ rõ nét, có
khuynh hƣớng phát triển nhanh theo cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
Nắm bắt đƣợc hạn chế của các cơ quan truyền thông đại chúng do
nhà nƣớc quản lý gặp khó khăn trong các giao dịch thị trƣờng, từ sau
những năm 2000, nhiều công ty truyền thông tƣ nhân đã hoạt động mạnh
trong các lĩnh vực xúc tiến thƣơng mại, mua bán thông tin, sản phẩm
truyền thông, công nghệ, tổ chức mạng lƣới phát hành, quảng cáo, quan hệ
công chúng... Qua khảo sát cho thấy ngay cả các cơ quan truyền thông đại
chúng lớn nhƣ Truyền hình Việt Nam, đa phần các bản quyền về chƣơng
trình, các sản phẩm truyền thông mua đƣợc từ các tập đoàn truyền thông
quốc tế cũng phải thông qua các kênh giao dịch trong và ngoài nƣớc.
Ngay cả trong lĩnh vực sản xuất, những năm gần đây nhiều công ty
cũng đã trực tiếp hoặc gián tiếp tìm ra cơ chế để xâm nhập, tham gia trong
việc tổ chức, thực hiện sản xuất, mua bán các sản phẩm truyền thông theo
ý muốn của họ, đặc biệt nhƣ trong lĩnh vực giải trí nhƣ điện ảnh, thời
trang, ca nhạc... Đối với lĩnh vực báo in, nhiều tổ chức tƣ nhân cũng đã
tìm cách thâm nhập và hoạt động sản xuất của các tờ báo. Trừ các tờ nhật
báo chính, hiện nay nhiều cá nhân tổ chức ngoài công lập cũng đã cố gắng
“tìm tƣ cách pháp nhân” để cùng thực hiện các tờ phụ nhƣ phụ san,
chuyên đề, chuyên san, tạp chí... với danh nghĩa “chịu trách nhiệm nội
dung”, “tổ chức sản xuất”...
Có tờ tạp chí nổi tiếng nhƣ V... hiện nay có đến 3- 4 công ty cùng
làm, trong khi ngƣợc lại một công ty truyền thông T... với đội ngũ nhân
viên chƣa đến 20 ngƣời lại có thể tổ chức thực hiện 100% hoạt động của 3
tờ tạp chí và duy trì 4 tên miền website... 1Trong hoạt động mang tính kinh
1 Đặng Vũ Cảnh Linh (2008), sđd
85
doanh này, nhiều công ty còn mời các nhà khoa học các nhà báo có uy tín
tham gia “Hội đồng Biên tập”, đứng tên trên mặt báo nhƣng thực tế họ
chẳng có vai trò gì trong các khâu vận hành thực sự của tờ báo cả về nội
dung lẫn tổ chức, quan hệ thị trƣờng.
Nhiều vấn đề bất cập còn phát sinh trong hoạt động của mạng
Internet hiện nay thực tế cũng cho thấy nhiều website tƣ nhân vẫn hoạt
động sai chức năng, sai quy định trong việc đƣa tin, bài, quảng cáo nhƣ
chức năng báo chí vẫn chƣa bị phát hiện và xử lý theo quy định...
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trƣờng, hiện
nay, với vị trí và vai trò của mình truyền thông ngày càng có quan hệ chặt
chẽ với các ngành kinh tế khác trong những sự tƣơng tác vô hình và hữu
hình. Phải thừa nhận thực tế rằng, có không ít cơ quan truyền thông ở Việt
Nam đã bắt đầu phải phụ thuộc vào các giới doanh nghiệp khi các khoản
tiền tài trợ, quảng cáo là một trong những nguồn tài chính để duy trì hoạt
động ổn định và tăng trƣởng của cơ quan truyền thông. Đặc biệt với những
cơ quan truyền thông hoạt động kém hiệu quả thì dƣờng nhƣ nhiều hợp
đồng quảng cáo họ nhận đƣợc lại dựa trên “quan hệ” và những “cam kết
ngầm” nhiều hơn là các nguyên tắc phổ biến. Tình trạng giao dịch thị
trƣờng có thể dẫn đến hiện tƣợng làm sai lệch thông tin cũng là những
biểu hiện tiêu cực, mặt trái trong mối quan hệ cung cầu giữa doanh nghiệp
và truyền thông khi một bên là những tổ chức cần thông tin, có nguồn lực
tài chính mạnh, trong khi bên kia là tổ chức nắm giữ thông tin và có nhu
cầu về tài chính.
Nhiều tập đoàn kinh tế của Việt Nam đã trực tiếp thành lập các
công ty truyền thông riêng để tiện lợi cho hoạt động quảng cáo, PR, làm
thị trƣờng, giao dịch thông tin... Đây cũng khẳng định xu hƣớng thực tế
mà các tập đoàn kinh tế ngày nay đang có chiến lƣợc cho những có tham
vọng chinh phục thị trƣờng thông tin, áp đặt tiếng nói của mình với cá
nhóm công chúng tƣơng lai.
86
Nhìn chung, quá trình tƣ nhân hoá trong lĩnh vực truyền thông và
truyền thông đại chúng đang ngày càng có nhiều vấn đề phức tạp, thách
thức các cơ chế quản lý của Việt Nam, đây cũng là những vấn đề cần đƣợc
nhà nƣớc sớm đƣa ra bàn luận và ban hành những quy chuẩn chung, đặc
biệt là đóng góp ý kiến cho quốc hội xây dựng Luật Báo chí sửa đối nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển thị trƣờng truyền thông trong bối cảnh công
nghiệp hóa và toàn cầu hóa.
87
Định kiến giới trong phim quảng cáo trên truyền hình
(Nghiên cứu trƣờng hợp kênh VTV3 – Đài truyền hình Việt Nam)
Ths. Nguyễn Thị Tuyết Minh
CN. Nguyễn Thị Hƣơng Giang
A. TÓM TẮT
Những nỗ lực của chính phủ Việt Nam trong việc thu hẹp khoảng
cách bất bình đẳng giới giữa nam và nữ đƣợc đánh dấu bởi sự ra đời của
Luật Bình đẳng giới và các luật khác có liên quan. Nỗ lực này cũng đƣợc
thể hiện trên thực tế bởi hàng loạt các chƣơng trình, dự án can thiệp sâu
rộng dƣới nhiều cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, các nỗ lực nhằm rút ngắn
khoảng cách giới sẽ không bền vững nếu định kiến giới không thay đổi.
Các phƣơng tiên truyền thông đại chúng là một trong những môi
trƣờng góp phần tạo ra, duy trì và cũng góp phần thay đổi những định kiến
giới. Có thể nói, những thông điệp truyền thông hiện tại vẫn chứa đựng
các định kiến giới dƣới nhiều cấp độ khác nhau. Những định kiến giới này
vẫn đang hạn chế khả năng cũng nhƣ những đóng góp của cả hai giới
trong quá trình phát triển. Do đó, nhằm giảm thiểu những định kiến giới,
thu hẹp khoảng cách giới cần phải kể tới vai trò của truyền thông.
Nghiên cứu này đƣợc thực hiện nhằm rà soát thông điệp trong các
quảng cáo trên truyền hình nhằm tìm ra những thông điệp chứa đựng định
kiến giới hoặc có khả năng tạo ra định kiến giới. Từ đó, đề xuất những
biện pháp can thiệp dần loại bỏ các thông điệp mang tính định kiến hoặc
những nhân lên các thông điệp không chứa đựng định kiến giới.
Kết quả nghiên cứu này đã đƣợc sử dụng làm luận văn cử nhân Xã
hội học và bảo vệ thành công tại Hội đồng chấm khoá luận tốt nghiệp
chuyên ngành Xã hội học tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền năm 2008.
Đây là nghiên cứu trƣờng hợp với các quảng cáo trên kênh VTV3 – Đài
88
truyền hình Việt Nam, những kết quả nghiên cứu chỉ áp dụng cho mẫu
nghiên cứu nằm trong phạm vi khảo sát của đề tài.
Phƣơng pháp quan sát và kỹ thuật phân tích tài liệu đƣợc áp dụng
với 160 quảng cáo thƣơng mại phát sóng trên kênh VTV3 từ 19h đến 22h
trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến hết tháng 5 năm 2008.
Phƣơng pháp phỏng vấn sâu đƣợc áp dụng cho 20 trƣờng hợp
những ngƣời đang tham gia sản xuất các chƣơng trình này và công chúng.
Các kết quả định lƣợng đƣợc kiểm chứng, giải thích và bổ sung bằng
phƣơng pháp phân tích thông tin định tính.
B. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong khuôn khổ bài viết, các sản phẩm quảng cáo đƣợc sáp sếp theo
một số ngành hàng cụ thể dựa trên tính chất các sản phẩm đƣợc quảng cáo
nhƣ sau: Ngành hàng thực phẩm: bao gồm các loại đồ ăn, thức uống nhƣ:
mỳ ăn liền, bánh kẹo, nƣớc ngọt, sữa, bột nêm, nƣớc tƣơng…; Ngành
hàng dƣợc phẩm: bao gồm các loại thuốc chữa bệnh, sản phẩm dinh
dƣỡng ( nƣớc tăng lực); Ngành hàng hoá mỹ phẩm: các loại sản phẩm làm
đẹp: sữa rửa mặt, dầu gội đầu, kem dƣỡng da, son môi,… Các loại hoá
phẩm: bột giặt, nƣớc xả vải, kem đánh răng,…; Ngành hàng vật liệu xây
dựng: gồm có gạch lát nền, sơn tƣờng, gỗ xây dựng…; Ngành hàng điện
tử: gồm các sản phẩm ti vi, tủ lạnh, điều hoà, máy ảnh…; Ngành hàng
công nghệ cao: ô tô, xe máy, điện thoại di động…; Các ngành khác: dịch
vụ viễn thông, ngân hàng, dịch vụ vận tải… Các định kiến giới đƣợc khai
thác theo bốn khía cạnh, đó là: Nhân vật theo giới tính; Hành vi của nhân
vật theo giới tính; Phạm vi hoạt động theo giới; nghề nghiệp của nhân vật
theo giới tính.
Định kiến giới trong vị trí nhân vật theo giới tính
Các quảng cáo thƣơng mại xuất hiện trên truyền hình không chỉ đơn
thuần là đoạn thông tin mà đó thực sự là một thƣớc phim ngắn, có nhân
89
vật, nội dung và ý nghĩa cụ thể. Do đó, việc cơ cấu nhân vật chính hay
phụ cũng phản ánh vị trí và vai trò của nhân vật đó là quan trọng hay
không. Nhân vật theo giới tính đƣợc phân tích trên cơ sở tƣơng quan giữa
giới và vị trí nhân vật (nhân vật chính hay phụ) trong quảng cáo.
Kết quả khảo sát 160 phim quảng cáo cho thấy nam giới xuất hiện
trong vai trò là nhân vật chính, nhân vật trung tâm chiếm tỷ lệ cao hơn so
với nữ giới, ngƣợc lại, nữ xuất hiện trong vai trò là nhân vật phụ với tỷ lệ
cao hơn nam giới (xem bảng 1).
Bảng 1: Ngƣời làm chính các công việc gia đình theo giới tính
Nhân vật trong phim quảng cáo Số lượng ( % )
Nhân
vật
chính
Chỉ có nam 58 36,3
Chỉ có nữ 53 33,1
Cả nam và nữ 35 21,9
Không xác định đƣợc giới tính 1 0,6
Không có nhân vật chính 1 0,6
Không xác đinh đƣợc nhân vật chính
hay phụ
12 7,5
Nhân
vật
phụ
Chỉ có nam 17 10,6
Chỉ có nữ 24 15,0
Cả nam và nữ 39 24,4
Không xác định đƣợc giới tính 1 0,6
Không có nhân vật phụ 67 41,9
Không xác đinh đƣợc nhân vật chính
hay phụ
12 7,5
Tổng cộng 160 100
Quan sát 160 phim quảng cáo cho thấy, nhân vật chính thƣờng có
hành vi mang tính chất chủ động, ra quyết định. Ngƣợc lại, hành vi của
nhân vật phụ thƣờng xuất hiện có tính chất phục tùng, thừa lệnh đối với
nhân vật chính. Sự xuất hiện của nhân vật chính luôn tạo ra sự chú ý của
công chúng nhiều hơn. Vì vậy, sự lặp đi lặp lại nhân vật chính là nam giới
nhiều hơn lâu dài sẽ tạo cho công chúng định kiến giới rằng nam giới có
vai trò quan trọng hơn nữ giới, nam giới thƣờng ở vị trí trung tâm, nổi bật
hơn so với nữ giới. Theo đó, góp phần xây dựng định kiến giới rằng nam
90
giới phù hợp hơn với các vị trí quan trọng, nổi bật và các vị trí ra quyết
định hơn nữ giới.
Định kiến giới còn thể hiện khi phân tích cơ cấu nam hay nữ là nhân
vật chính hay phụ và từng ngành hàng cụ thể. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, trong 55 quảng cáo thuộc ngành hàng thực phẩm có 21/55 quảng cáo
(chiếm 38,2% ) nhân vật chính là nam, 12/55 quảng cáo (chiếm 21,8% )
nhân vật chính là nữ, 14/55 quảng cáo (chiếm 25,5% ) nhân vật chính
xuất hiện cả nam và nữ. Trong ngành hàng này, cơ cấu nhân vật chính là
nam giới xuất hiện nhiều hơn nhân vật chính là nữ giới. Nam giới xuất
hiện với tƣ cách là ngƣời sử dụng trực tiếp các loại thực phẩm, là ngƣời
đƣợc hƣởng lợi nhiều nhất từ các sản phẩm đó. Đó là các bé trai thông
minh, khoẻ mạnh nhờ uống sữa Cô gái Hà Lan 123 và 456; Đó là các bé
trai cao lớn vƣợt trội nhờ uống sữa Grow Advance IQ; Đó là ngƣời đàn
ông mạnh mẽ nhờ nƣớc tăng lực Lipovitan…. Còn nữ giới chỉ giữ vai trò
là ngƣời lựa chọn các sản phẩm, và ngầm hiểu là để chăm sóc, phục vụ
các nhân vật chính đƣợc nhƣ vậy, họ không trực tiếp sử dụng. Với sự xuất
hiện nhƣ vậy sẽ tạo ra định kiến giới và duy trì khuôn mẫu giới về vai trò
chăm sóc của phụ nữ. Họ đƣợc nhìn nhận tốt hơn trong vai trò chăm sóc
ngƣời khác. Ngƣợclại, nam giới không đƣợc nhìn nhận rằng họ phù hợp
với việc chăm sóc ngƣời khác mà phù hợp với việc nhận đƣợc sự chăm
sóc từ phía phụ nữ.
91
Bé trai uống sữa Grow Advance IQ với thông điệp “thật thông minh
và cao hơn”.
Trong các quảng cáo thực phẩm này, những nhà thiết kế quảng cáo
mƣợn hình ảnh gia đình (gồm cả nam và nữ) để tạo ấn tƣợng cho ngƣời
xem. Ngay cả trong bối cảnh nhƣ vậy thì nữ giới cũng đƣợc xuất hiện với
khuôn mẫu giới là ngƣời chăm sóc, phục vụ chồng con nhiều hơn. Ngƣợc
lại, chồng con đƣợc xuất hiện trong vai trò là ngƣời nhận đƣợc sự chăm
sóc, thụ hƣởng sự chăm sóc nhiều hơn. Thậm chí, các ông chồng còn đóng
vai thẩm định, nhận xét và thể hiện thái độ với sự chăm sóc đó.
Quảng cáo Chin- su mô tả khung cảnh gia đình hạnh phúc, vui vẻ với
hình ảnh người phụ nữ làm công việc nội trợ, chăm sóc chồng con.
Nhƣ vậy, vô hình chung các phim quảng cáo đã chuyển đi thông điệp
rằng phụ nữ phù hợp hơn với vai trò là ngƣời chăm sóc ngƣời khác, thụ
động. Ngƣợc lại, nam giới phù hợp hơn với vai trò ngƣời nhận sự chăm
sóc từ phụ nữ, chủ động.
Quảng cáo thuộc ngành hàng dƣợc phẩm, nhân vật chính và phụ là
nam và nữ tƣơng đối đồng đều. Mặc dù nhân vật chính là nam giới xuất
hiện nhiều hơn, tuy nhiên, tỷ kệ này là không đáng kể, nam nhân vật chính
có ở 9/28 quảng cáo so với nữ là 8/28 quảng cáo, còn lại là nhân vật chính
92
cả nam và nữ. Trong ngành hàng này, định kiến giới thể hiện không rõ
bằng định kiến về tuổi. Bởi vì, nhân vật chính xuất hiện chủ yếu là những
ngƣời ốm yếu, bệnh tật thƣờng ở vào độ tuổi trung niên và ngƣời già. Số
lƣợng nhân vật ở độ tuổi thanh niên trở xuống ít đƣợc nhắc đến trong các
quảng cáo ngành này.
Quảng cáo thuốc trị sỏi thận Cametan, Quảng cáo thuốc Cota
xoang: tràn ngập hình ảnh nhân vật ốm yếu ở độ tuổi trung niên
Ngƣợc lại, định kiến giới thể hiện khá rõ trong các quảng cáo liên
quan đến ngành hàng sản phẩm công nghệ cao (ô tô, xe máy, điện thoại di
động). Trong các quảng cáo này, nam nhân vật chính xuất hiện với tỷ lệ
cao hơn hẳn so với nữ nhân vật chính. Trong tổng số 9 quảng cáo thuộc
93
ngành này thì nam là nhân vật chính có trong 7/9 quảng cáo và chỉ có duy
nhất 1/9 quảng cáo có nữ là nhân vật chính và 1/9 quảng cáo có nhân vật
chính là cả nam và nữ. Nhƣ vậy, sự xuất hiện trong vai trò là nhân vật
chính gần nhƣ tuyệt đối trong các ngành hàng sản phẩm công nghệ cao là
nam giới nhƣ vậy vô hình chung tạo ra và duy trì (hoặc cũng có thể xuất
phát từ định kiến giới) định kiến giới rằng nam giới thƣờng năng động,
cấp tiến, sang trọng, thành đạt và đại diện cho những sản phẩm hiện đại,
công nghệ cao hơn là nữ.
Quảng cáo xe máy Suzuki- Revo tạo ấn tượng mạnh mẽ, năng động và
sành điệu về nam giới
Tƣơng tự nhƣ vậy, trong một số ngành khác nhƣ dịch vụ tài chính
ngân hàng, dịch vụ viễn thông, báo chí… tỷ lệ nam là nhân vật chính cũng
cao hơn nữ. Trong số 18 quảng cáo loại này thì có tới một nửa 9/18 quảng
cáo có nhân vật chính là nam; chỉ 3/18 quảng cáo nhân vật chính là nữ và
3/18 quảng cáo nhân vật chính là cả nam và nữ .
Ngƣợc lại, nữ giới lại đóng vai trò là nhân vật chính trong các ngành
hàng hoá mỹ phẩm, vật liệu xây dựng và điện tử ( ti vi, tủ lạnh, máy điều
hoà, máy giặt, máy chụp ảnh…). Đặc biệt là các quảng cáo thuộc ngành
hàng hoá mỹ phẩm ( dầu gội đầu, sữa tắm, sữa rửa mặt, kem dƣỡng da,
phấn trang điểm, lăn khử mùi, dung dịch vệ sinh…). Trong số 40 quảng
94
cáo thuộc ngành này thì có tới 23/40 quảng cáo ( chiếm 57,5%) nhân vật
chính là nữ , 11/40 quảng cáo nhân vật chính là nam (chiếm 27,5%) và
6/40 quảng cáo nhân vật chính là cả nam và nữ (chiếm 15%). Trong các
quảng cáo này, nữ giới đƣợc mô tả là ngƣời sử dụng trực tiếp các sản
phẩm hoá mỹ phẩm nhiều hơn nam giới, có nhu cầu “làm đẹp” nhiều hơn
và chăm chút cho ngoại hình nhiều hơn. Các cô gái, đa phần ở độ tuổi
thanh niên, xuất hiện trong các trang phục gợi cảm, tạo sự hấp dẫn và thu
hút đối với ngƣời khác.
Quảng cáo Double Rich: hình ảnh người phụ nữ trong trang phục và
tư thế gợi cảm, kích thích người xem.
Những cảnh quay trực tiếp hƣớng vào các bộ phận nhạy cảm trên cơ
thể ngƣời phụ nữ để thu hút sự chú ý của ngƣời xem đối với sản phẩm
đƣợc quảng cáo:
95
Quảng cáo lăn khử mùi làm trắng Nivea với những góc quay táo bạo
Một mặt, hình ảnh phụ nữ xuất hiện trong vai trò là ngƣời sử dụng các
sản phẩm này. Mạt khác, cách mà phụ nữ xuất hiện trên màn hình cho
thấy một định kiến giới khác. Đó là khi họ xuất hiện thì đó phần lớn là các
cô gái trẻ đẹp, đó là các trang phục hở hang, đó là các đƣờng nét khêu gợi
nhạy cảm. Nhƣ vậy, thông điệp trong quảng cáo không chỉ dừng lại ở việc
phụ nữ sử dụng các sản phẩm này mà thực chất hình ảnh của phụ nữ đang
bị lạm dụng nhằm thu hút sự chú ý của công chúng. Trong các cách thu
hút sự chú ý thì các hình ảnh có liên quan hoặc ẩn chứa các thông điệp
ngầm liên quan đến tính dục, tình dục tỏ ra hiệu quả hơn cả. Do đó, “Theo
các nhà quảng cáo thì bất cứ hình ảnh phụ nữ nào trong quảng cáo cũng
liên quan đến tính dục” (Trần Thị Kim Loan, 1998). Những hình ảnh nhƣ
thế này về ngƣời phụ nữ nếu đƣợc lặp đi lặp lại sẽ hạ thấp giá trị của họ,
bởi vì, họ đang trở thành đối tƣợng của tình dục, chủ yếu đƣợc biết đến
khía cạnh liên quan đến sự thu hút về tình dục hơn là khả năng về các lĩnh
vực khác. Vẻ đẹp tâm hồn, trí tuệ và tài năng của phụ nữ bị xem nhẹ khi
các quảng cáo chỉ tập trung đề cao cái đẹp hình thức, những đƣờng cong
96
trên cơ thể với những trang phục hở hang và ánh mắt đƣa tình, khêu gợi,
mời gọi. Đồng thời, nó cũng tạo ra một ảo tƣởng đối với khán giả nữ về
một làn da trắng, mái tóc óng ả hay một thân hình cân đối…
Còn nam nhân vật chính sử dụng các sản phẩm loại này là để “ tạo
nét quý phái và chinh phục”(Ramus men), để chứng tỏ là “ đàn ông đích
thực”(Xmen) hay là để “ tút lại vẻ đẹp trai”( Oxy )…Ngƣợc lại với phụ
nữ, hình ảnh nam giới xuất hiện trong các quảng cáo này thật bảnh bao,
hấp dẫn…để làm nổi bật sự thành đạt, sang trọng và đó là cách để “ khẳng
định đẳng cấp phái mạnh” (Romano) của họ.
Quảng cáo Romano với câu Sologan: “ Romano- khẳng định đẳng
cấp phái mạnh”
97
Hình ảnh người đàn ông mạnh mẽ như một “anh hùng cứu mỹ nhân”
trong quảng cáo X-men cùng với một thông điệp: “ X- men, đàn ông đích
thực”
Ngay cả là những quảng cáo hoá mỹ phẩm hƣớng tới ngƣời sử dụng
là nam giới cũng chứa đƣợng những định kiến giới. Đó là định kiến về
tính cách đàn ông, họ là những ngƣời mạnh mẽ, dũng cảmm quyết đoán.
Sự mạnh mẽ dũng cảm thể hiện trong thƣớc phim anh hùng cứu mỹ nhân.
Phụ nữ xuất hiện là những ngƣời yếu đuối, mỏng manh, cần đƣợc sự che
trở của ngƣời khác.
Mặc dù, ngành hàng vật liệu xây dựng là ngành hàng có ít quảng cáo
nhất trong thời gian khảo sát, 2/160 quảng cáo. Tuy nhiên, định kiến giới
cũng đƣợc thể hiện tƣơng đối rõ. Nhà sản xuất quảng cáo sử dụng nhân
vật nữ trong trang phục đƣợc thiết kế chỉ đủ để che những bộ phận cần
thiết để liên hệ sản phẩm với “ những nét đẹp hoàn mỹ nhất ” của sản
phẩm (Gỗ Konwood). Tƣơng tự nhƣ phân tích ở trên, quảng cáo sàn gỗ
nhƣng lại dùng hình ảnh của cô gái trẻ, trang phục hở hang, khêu
gợi….đây chính là sự lạm dụng hình ảnh ngƣời phụ nữ.
98
Tƣơng tự nhƣ vậy, với quảng cáo trong các ngành hàng điện tử, nữ
nhân vật chính cũng xuất hiện với tỷ lệ cao hơn nam giới. Trong tổng số 8
quảng cáo thuộc ngành này thì nam giới chỉ xuất hiện trong 1/8 quảng cáo
nhƣng nữ giới xuất hiện trong 5/8 quảng cáo. Hình ảnh phụ nữ xuất hiện
trong các quảng cáo này cơ bản cũng trong các trang phục thật hấp dẫn,
dáng vẻ cân đối bên cạnh các sản phẩm quảng cáo. Nhƣ vậy, vẻ đẹp của
phụ nữ đƣợc khai thác nhƣ một công cụ để chào hàng, để tăng doanh số và
tạo lợi nhuận.
Sắp đặt người phụ nữ với dáng vẻ cân đối và gương mặt tươi tắn bên
cạnh sản phẩm là cách để thu hút sự chú ý của khán giả truyền hình. Các
nhà quảng cáo đã lợi dụng bản năng tính dục để đưa hình ảnh vào quảng
cáo.
99
Tóm lại, xét trong từng ngành hàng cụ thể thì nam giới xuất hiện là
nhân vật chính cũng chiếm tỷ lệ cao hơn phụ nữ. Đặc biệt, nhân vật chính
là nam xuất hiện nhiều trong các quảng cáo về thực phẩm, dƣợc phẩm và
ngành hàng công nghệ cao. Trong khi đó, nữ giới lại xuất hiện là nhân vật
chính trong các quảng cáo hoá mỹ phẩm, điện tử. Tuy nhiên, nữ giới xuất
hiện trong vai trò chính không phải để khẳng định sự thành đạt, sang trọng
nhƣ nam giới mà chủ yếu là kích thích sự chú ý của ngƣời xem bằng vẻ
đẹp hình thể.
Định kiến giới còn thể hiện rõ thông qua việc xây dựng hệ thống
nhân vật phụ trong phim quảng cáo. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ cả
nam và nữ tham gia vào các quảng cáo với tƣ cách là nhân vật phụ cao
hơn so với tỷ lệ chỉ có nam hoặc chỉ có nữ đảm nhiệm vai trò này. Trong
đó, tỷ lệ nhân vật phụ là nữ cao hơn tỷ lệ nhân vật phụ là nam. Những
định kiến giới thể hiện khác nhau tuỳ thuộc vào nghành hàng mà nhà
quảng cáo muốn thể hiện.
Nếu ở các quảng cáo ngành hàng thực phẩm không có sự chênh lệch
giữa nam và nữ về tần suất xuất hiện trên phim. Số quảng cáo chỉ có nam
hoặc nữ là nhân vật phụ đều là 5/55; số quảng cáo có cả nam và nữ đóng
nhân vật phụ là 17/55. Ngƣợc lại, ở các quảng cáo ngành dƣợc phẩm, điện
tử và các sản phẩm công nghệ cao thì tỷ lệ nữ giới là nhân vật phụ cao hơn
nam giới khá rõ.
Ở ngành hàng dƣợc phẩm, không có quảng cáo nào mô tả nhân vật
phụ là nam thì có 5/28 quảng cáo xuất hiện nữ giới trong vai nhân vật phụ.
Thậm chí, định kiến giới còn thể hiện ở khía cạnh rằng khi nhân vật chính
là nam giới xuất hiện trong vai ngƣời bị ốm, cần sự chăm sóc thì phụ nữ
xúât hiện là nhân vật phụ trong vai trò là ngƣời chăm sóc những ngƣời đàn
ông đó. Sự lặplại khuôn mẫu này góp phần duy trì khuôn mẫu giới về vai
trò chăm sóc chỉ thuộc về phụ nữ, phù hợp với phụ nữ, họ đƣợc nhìn nhận
là nữ tính hơn khi chăm sóc ngƣời khác hơn là nhận tất cả điều này.
Ngƣợc lại, định kiến giới này vô hình chung miễn nhiệm cho nam giới
100
trong vai trò là ngƣời chăm sóc, lâu dài góp phần xây dựng định kiến răng
họ không phù hợp với việc này và trong các chuẩn mực đánh giá về ngƣời
đàn ông không bao gồm chi tiết chăm sóc ngƣời khác.
Quảng cáo thuốc Hotamin Ginseng: Người vợ luôn quan tâm, chăm sóc
chồng lúc chồng mệt mỏi để chồng chú tâm trong công việc và thành đạt.
Tƣơng tự nhƣ vậy, trong số 8 quảng cáo thuộc ngành hàng điện tử
thì không có quảng cáo nào có nhân vật phụ chỉ là nam nhƣng có 3/8
quảng cáo có nhân vật phụ là nữ và 3/8 quảng cáo có nhân vật phụ là cả
nam và nữ. Ngành hàng công nghệ cao cũng có sự xuất hiện nữ là nhân
vật phụ nhiều hơn nam với 1/9 quảng cáo có nhân vật phụ là nam, 3/9
quảng cáo có nhân vật phụ là nữ.
Tuy nhiên, tỷ lệ nhân vật phụ là nam cao hơn tỷ lệ này ở nữ trong
ngành hàng hoá mỹ phẩm và các ngành khác. Trong ngành hoá mỹ phẩm,
có 8/40quảng cáo có nhân vật phụ là nam, có 6/40 quảng cáo có nhân vật
phụ là nữ. Tuy nhiên, khi nam là nhân vật phụ thì họ cũng trong vai trò là
ngƣời thụ hƣởng, thẩm định hoặc là ngƣời khuyến khích phụ nữ sử dụng
các ngành hàng hoá mỹ phẩm. Ví dụ trong quảng cáo bột giặt thì nam
thƣờng xuất hiện là ngƣời bận bịu với công việc nên quần áo bẩn hoặc các
bé trai tinh nghịch nên quần áo bẩn và cần bàn tay chăm sóc giặt giũ thì
101
phụ nữ sẽ xuất hiện là ngƣời làm việc đó. Thậm chí, hàng loạt các nhân
vật phụ là nữ cũng nhìn đó để làm theo… Thực chất vẫn là sự duy trì và
góp phần tạo nên định kiến giới về vai trò khác biệt của nam và nữ.
Quan niệm này không chỉ tồn tại trong phim quảng cáo truyền hình mà
nó còn phổ biến trong nhiều sản phẩm truyền thông khác, trong đó có cả
sách giáo khoa dành cho học sinh phổ thông.
Khi xem xét cơ cấu nhân vật chính và nhân vật phụ trong quảng cáo
nói chung và trong từng ngành hàng nói riêng, kết quả cho thấy tỷ lệ nhân
vật chính là nam thƣờng cao hơn tỷ lệ nhân vật chính là nữ. Ngƣợc lại, nữ
giới đựơc mô tả là nhân vật phụ nhiều hơn nam giới. Bên cạnh đó, khuôn
mẫu giới gắn với sự xuất hiện của nam và nữ trong quảng cáo đợc thể hiện
rất rõ nhƣ nữ thƣờng xuất hiện trong vai trò là ngƣời chăm sóc, nam
thƣờng xuất hiện trong vai trò là ngƣời đƣợc chăm sóc. Nữ thƣờng xuất
hiện là ngƣời có nhu cầu làm đẹp, cố gắng làm đẹp để thu hút sự chú ý của
nam và nam thƣờng xuất hiện trong vai trò là ngƣời thẩm định sự thay đổi
đó; nữ thƣờng bị khai thác bản năng tình dục, bị lạm dụng hình ảnh nhiều
hơn nam; Nam thƣờng xuất hiện là ngƣời đại diện cho quan niệm hiện đại,
công nghệ cao nhiều hơn; Nam thƣờng xuất hiện là ngƣời mạnh mẽ, dũng
cảm, nhiều hơn, nữ thƣờng xuất hiện là ngƣời dịu dàng, yếu đuối, đảm
đang, chăm sóc ngƣời khác hoặc cần sự che chở của nam…
Nhƣ vậy, định kiến giới, khuôn mẫu giới đƣợc xuất hiện lặp đi lặp
lại nhƣ vậy sẽ góp phần duy trì và tạo ra những định kiến giới vốn đã ăn
sâu vào trong tiềm thức của công chúng. Nỗ lực rút ngắn khoảng cách giới
sẽ khó thực hiện và không bền vững nếu hàng ngày công chúng vẫn tiếp
thu các định kiến giới này, duy trì các khuôn mẫu giới này.
Định kiến giới thể hiện trong hành vi và phạm vi hoạt động của nhân
vật
R.Merton cho rằng truyền thông đại chúng có chức năng công khai và
chức năng tiềm ẩn. Chức năng công khai chính là hiệu quả thực sự mà nhà
truyền thông mong muốn đạt đƣợc, chức năng tiềm ẩn chính là những hiệu
102
quả xảy ra mà nhà truyền thông không có chủ ý tạo ra. Phim quảng cáo
cũng thực hiện những chức năng này. Bên cạnh chức năng thông tin (chức
năng công khai) thì quảng cáo còn giữ chức năng giáo dục (chức năng
tiềm ẩn). Mục đich chính của quảng cáo thƣơng mại nhắm đến công chúng
để công chúng có thông tin và lựa chọn sản phẩm đƣợc quảng cáo thì
chính tất cả những gì thể hiện trong thƣớc phim đƣợc vô hình chung đã
đang duy trì, thậm chí góp phần tạo ra những định kiến và khuôn mẫu giới
đối với công chúng nói riêng và xã hội nói chung. Điều này đƣợc thể hiện
rõ khi phân tích sâu về hành vi của nhân vật thể hiện trong phim quảng
cáo.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có định kiến giới thể hiện trong tính
chất hoạt động của các nhân vật nam và nữ. Đó là các nhân vật nam
thƣờng có hành vi chủ động, các nhân vật nữ thƣờng có hành vi thụ động.
Sự khác biệt này thể hiện rõ khi phân tích phạm vi hành vi của nhân vật
trong phim quảng cáo. Nghiên cứu phân chia phạm vi hoạt động của nhân
vật một cách tƣơng đối là trong gia đình và ngoài xã hội để phân tích rõ
hành vi của nhân vật.
Định kiến giới thể hiện ở hành vi và phạm vi hoạt động của nhân vật
trong gia đình
Hành vi lao động trong gia đình đƣợc tìm thấy trong các quảng cáo
bao gồm các công viêc chăm sóc và duy trì cuộc sống ổn định của gia
đình. Đó là công việc chăm sóc con cái, nấu ăn, giặt giũ, đi chợ, trông
nom, dọn dẹp nhà cửa và chăm sóc sức khoẻ cho các thành viên trong gia
đình. Đây là những công việc mang tính thụ động, ít quyền lực và không
đƣợc trả lƣơng. Ở lĩnh vực này thì sự xuất hiện của nữ giới chiếm ƣu thế.
Kết quả nghiên cứu cho thấy những công việc nội trợ xuất hiện
trong quảng cáo dƣờng nhƣ là “độc quyền” đối với phụ nữ. Trong tổng số
13 quảng cáo đề cập đến hoạt động nấu nƣớng thì có đến 12/13 quảng cáo
có nhân vật nữ trực tiếp làm công việc này và chỉ có duy nhất 1/13 quảng
cáo xây dựng hình ảnh ngƣời chồng nấu ăn cho vợ, do vợ quá bận rộn với
103
công việc (quảng cáo Mỳ Omachi). Nhƣ vậy, kết quả nghiên cho thấy có 2
vấn đề cơ bản mang định kiến giới thể hiện ở đây. Thứ nhất, liên quan đến
công việc bếp núc, nấu ăn thì gần nhƣ chỉ có phụ nữ xuất hiện và làm công
việc này. Thứ hai, nếu trong các quảng cáo khác có hình ảnh cả nam và nữ
cùng tham gia một hoạt động nào đó thì trong quảng cáo liên quan đến nấu
ăn, bếp núc thì không cso một quảng cáo nào xuất hiện hình ảnh cả nam
và nữ cùng tham gia.
Với định kiến giới thứ nhất mang thông điệp rằng công việc liên
quan đến bếp núc, nấu ăn chỉ phù hợp với phụ nữ, chỉ có phụ nữ làm
đƣợc, đƣơng nhiên là việc của phụ nữ. Định kiến giới này góp phần duy trì
khuôn mẫu giới rằng việc liên quan đến nấu ăn – bếp núc sẽ đƣợc quan
tâm giáo dục cho bé gái, nữ thanh niên và phụ nữ mà không đƣợc giáo dục
cho nam. Vô hình chung đã miễn nhiệm cho nam giới trong vai trò là
ngƣời làm trực tiếp công việc nuôi dƣỡng các thành viên khác trong gia
đình.
Với định kiến giới thứ hai mang thông điệp rằng công việc nấu ăn,
bếp núc là công việc không cần có sự chia sẻ từ phía nam giới. Một quan
niệm phổ biến rằng công việc nội trợ là công việc nhẹ, việc phụ, việc vặt
cho nên phụ nữ thƣờng tranh thủ làm tất cả những công việc này bằng thời
gian nghỉ ngơi của chính họ. Do đó, trong định kiến này không chứa đựng
và mong đợi sự sẻ chia của nam giới.. Tuy nhiên, thực tế đã chỉ ra rằng
công việc nội trợ là công việc tốn thời gian, tốn công sức, số lƣợng công
việc nhiều, là một trong những hoạt động chính và quan trọng cho sự tồn
tại của gia đình. Do đó, cần có sự nhìn nhận và chia sẻ của nam giới với
phụ nữ trong công việc này. Sự lặp lại những thông điệp qua hình ảnh phụ
nữ làm việc nội trợ một mình, không có sự chia sẻ của nam giới sẽ góp
phần duy trì định kiến và khuôn mẫu bất bình đẳng giới nhƣ đã phân tích
ở trên.
104
Sự chia sẻ của nam giới trong công việc nấu nướng ( quảng cáo mỳ
Omachi )
Vai trò của ngƣời phụ nữ trong hoạt động nấu nƣớng xuất hiện cả
trong những thông điệp bằng lời mà ngƣời xem có thể dễ dàng tiếp nhận.
Chẳng hạn nhƣ trong quảng cáo hạt nêm từ thịt Knorr:
105
Thông điệp mà quảng cáo đưa ra ở đây được thể hiện thông qua
lời của một đứa trẻ: “ Mẹ con nấu canh ngon nhất” đưa đến một khẳng
định ngầm rằng: Công việc nấu nướng là của người phụ nữ, thuộc về khả
năng của người phụ nữ và phụ nữ có thể làm công việc tốt hơn nam giới.
Tƣơng tự nhƣ vậy, trong các quảng cáo có liên quan đến công việc
giặt giũ hoàn toàn do phụ nữ đảm nhiệm. Trong tổng số 6 quảng cáo mô tả
hoạt động giặt giũ thì cả 6/6 quảng cáo xuất hiện hình ảnh phụ nữ làm
công việc này. Nam giới không hề xuất hiện với tƣ cách là ngƣời làm
chính công việc này hay chỉ là trợ giúp, chia sẻ với phụ nữ. Thậm chí, nam
giới còn đƣợc mô tả nhƣ là ngƣời không biết chút gì về công việc này.
Trong quảng cáo bột giặt Tide, khi áo của ngƣời đàn ông bị dính bẩn thì
anh ta đã thốt lên: “ Sao mà giặt ra bây giờ? vợ anh sẽ cho chú biết tay!”.
106
Hay trong quảng cáo Comfort 1 lần xả xuất hiện hình ảnh một ngƣời phụ
nữ với gƣơng mặt mệt mỏi đang giặt đồ bên cạnh hai chồng quần áo cao
nhƣ núi... Điều này đã tạo cho ngƣời xem một ấn tƣợng rằng công việc
giặt giũ là của phụ nữ và nam giới không cần phải tham gia giúp đỡ.
Hình ảnh người phụ nữ mệt mỏi với công việc giặt giũ ( quảng cáo
nước xả vải Comfort) cho thấy đây là một công việc không hề nhẹ nhàng.
Nó tiêu hao rất nhiều sức lực và thời gian của phụ nữ .
Những hình ảnh mô tả công việc giặt giũ luôn gắn với ngƣời phụ
nữ làm nhƣ vậy sẽ góp phần duy trì và tạo ra định kiến giới rằng đây là
công việc phù hợp với phụ nữ, phụ nữ làm tốt hơn, thậm chí quen thuộc
đến mức nhƣ là một “thiên chức” của phụ nữ. Và bản thân ngƣời phụ nữ
cũng làm công việc này một cách tự nguyện, xem đó nhƣ bổn phận của
mình mà không đòi hỏi sự chia sẻ từ phía nam giới. Thậm chí, ngƣời phụ
nữ còn cho rằng làm tốt công việc này là thể hiện sự “đảm đang” của
107
mình. Trong quảng cáo nƣớc xả vải Downy, nhân vật chính đã tỏ ra rất vui
mừng khi nói rằng: “ Sử dụng nƣớc xả vải Downy tiết kiệm đƣợc thời
gian. Thời gian đó Thảo có thể ôn bài cho con Thảo. Vì vậy, mình đƣợc
ông xã khen là ngƣời phụ nữ đảm đang”. Những hình ảnh và thông điệp
nhƣ vậy sẽ chỉ làm cho tƣ tƣởng bất bình đẳng giới càng hằn sâu trong tâm
trí của ngƣời tiếp nhận.
Nam giới có tham gia hoạt động mua sắm cho gia đình nhƣng chỉ
khi những vật dụng cần mua có giá trị nhƣ điện thoại (Home- fone,
Viettel), đồ trang sức (Masster Card). Còn việc đi chợ và mua các vật
dụng thiết nhƣ nƣớc mắm (Nam ngƣ), đồ ăn (Tràng vị khang)…vẫn là
công việc của ngƣời phụ nữ. Vì vậy mà sự xuất hiện của phụ nữ trong hoạt
động này cũng nhiều hơn nam giới. Trong số 6 quảng cáo đề cập đến hoạt
động mua sắm thì có 4/6 quảng cáo có nhân vật chính là nữ, 1/6 quảng cáo
có nhân vật chính là nam và 1/6 quảng cáo có cả nam và nữ cùng đi mua
sắm. Nhƣng thực chất là ngƣời đàn ông mua đồ trang sức cho phụ nữ
(Masster Carrd ). Trong quảng cáo này, hành vi mua sắm của nam giới có
tính chất chủ động hơn nữ giới. Cách xây dựng hình ảnh nam và nữ nhƣ
thề này khiến cho công chúng có suy nghĩ là nam giới chỉ tham gia hoạt
động mua bán khi đó với những đồ vật đắt tiền. Còn những thứ vật dụng
hàng ngày là trách nhiệm của ngƣời phụ nữ. Trong khi việc mua sắm
những vật dụng hàng ngày có vai trò thiết yếu và chiếm nhiều thời gian
hơn thì cách cơ cấu nhân vật nam - nữ nhƣ vậy lại một biểu tƣợng bất lợi
cho phụ nữ. Thời gian phụ nữ dành cho công việc nội trợ nhiều hơn đồng
nghĩa với việc cơ hội tham gia các hoạt động xã hội, nâng cao vị thế, vai
trò của họ giảm đi.
Cũng giống nhƣ công việc nấu nƣớng hay mua sắm, ngƣời phụ nữ
vẫn là ngƣời có vai trò chính trong việc chăm sóc con cái (đặc biệt là con
nhỏ), ngƣời già, ngƣời ốm trong gia đình. Có 49/68 quảng cáo có nữ giới
đảm nhiệm công việc này (chiếm 72 %); chỉ có 8/48 quảng cáo có nam
giới làm công việc này một mình khi không có phụ nữ bên cạnhvà 11/48
108
quảng cáo có cả nam và cùng tham gia hoạt động này. Nhƣ vậy, với số
lƣợng xuất hiện của phụ nữ trong công việc chăm sóc con cái, ngƣời già,
ngƣời ốm cao hơn rất nhiều lần nam giới cũng góp phần duy trì định kiến
giới rằng đây là việc và trách nhiệm của phụ nữ hơn là của nam giới.
Quảng cáo sữa Dumex Gold: Hình ảnh người mẹ dịu dàng chăm sóc
con nhỏ
Trong các quảng cáo này, nữ giới thƣờng thể hiện tính cách dịu dàng,
khéo léo và phục tùng ngƣời khác. Phân tích 61 quảng cáo có đề cập đến
tính cách dịu dàng, khéo léo kết quả nghiên cứu cho thấy không có bất kì
quảng cáo nào xây dựng nhân vật chính là nam có tính cách này mà 61/61
(100%) quảng cáo nhân vật có tính cách dịu dàng, khéo léo thuộc về nữ
giới. Bên cạnh đó, có tới 49/68 (chiếm 72,1%) nhân vật nữ trong quảng
cáo thể hiện hành vi phục tùng, thừa lệnh; trong khi nhân vật nam thể hiện
hành vi này chỉ có trong 8/68 quảng cáo.
109
Người phụ nữ được mô tả với những hành vi thật dịu dàng ( quảng
cáo Lifebuoy)
Sự quan tâm, chăm sóc của ngƣời phụ nữ đối với các thành viên
trong gia đình không chỉ đƣợc thể hiện qua hình ảnh mà còn đƣợc phản
ánh cụ thể trong từ ngữ của những đoạn phim quảng cáo. Chẳng hạn nhƣ
trong quảng cáo sữa Dielac có một đoạn tâm sự của ngƣời mẹ nói với con:
“ Mẹ chỉ muốn con yêu vượt gian khó; Hiểu con yêu mọi lúc con cần; Con
biết không, con là tất cả của mẹ, con yêu”. Những ngôn từ giàu sức biểu
cảm nhƣ thế này đã có tác động mạnh mẽ đến tình cảm của khán giả, đặc
biệt là khán giả nữ. Thông điệp đó đƣợc lặp đi lặp lại nhiều lần khiến cho
ngƣời xem tin rằng chăm sóc con là “thiên chức”, là đam mê và là tất cả
đối với ngƣời mẹ. Nhƣng thực chất đây là một công việc mà cả nam và nữ
đều có thể làm tốt mà không phải là “thiên chức” của nam hay nữ, đó là
vai trò xã hội, vai trò giới.
Hay trong quảng cáo bột ngọt Ajnomoto cũng có một đoạn nói về
mong muốn của ngƣời phụ nữ: “Con mong cha mẹ sống lâu trăm tuổi; Em
mong anh vững chãi một bờ vai; Mẹ mong con khoẻ mạnh chắc tương lai;
Nêm yêu thương đong đầy cho tất cả”. Không chỉ dành tình yêu thƣơng
cho con, ngƣời phụ nữ còn quan tâm, chăm sóc đến tất cả các thành viên
trong gia đình. Những mong ƣớc của họ đều dành cho các thành viên
110
trong gia đình mà không thấy có một mong ƣớc nào cho riêng mình và
ngƣợc lại mong ƣớc của ngƣời khác với họ.
Những thông điệp đó đƣợc truyền tới công chúng không làm cho
ngƣời phụ nữ trở nên “cao cả, vĩ đại” mà chỉ làm cho họ bị cột chặt vào
vai trò của một ngƣời bị động, lệ thuộc và luôn luôn phải chăm sóc, quan
tâm, lo lắng cho ngƣời khác.
Định kiến giới còn thể hiện qua hình ảnh về nội dung mà cha mẹ
giảng giải cho con cái kiến thức đời sống. Công việc dạy học cho con,
giảng giải cho con những điều thắc mắc xƣa vẫn đƣợc coi là trách nhiệm
của ngƣời cha. Bởi theo quan niệm phong kiến thì nam giới mới đƣợc đi
học, mới là ngƣời hiểu biết. Tuy nhiên, trên thực tế thì cả cha và mẹ đều
tham gia vào quá trình này, đặc biệt trong xã hội hiện đại. Ngày nay, trang
bị kiến thức cho con là trách nhiệm của cả bố và mẹ. Điều này cho thấy
định kiến giới đã thay đổi khá nhiều, coi trọng vai trò của cả cha và mẹ
trong việc này. Kết quả phân tích phim quảng cáo cho thấy tỷ lệ xuất hiện
hình ảnh nam giới và nữ giới trong công việc dạy học, giảng giải cho con
những điều thắc mắc là ngang nhau 6/6 quảng cáo.
Tuy nhiên, định kiến giới vẫn thể hiện trong nội dung câu chuyện
mà cha hoặc mẹ dạy con. Kết quả phân tích cho thấy những quảng cáo có
đề cập đến nội dung mà cha mẹ dạy cho con thì mẹ thƣờng xuất hiện khi
dạy cho con các kiến thức thông qua công việc nội trợ, trong khi cha xuất
hiện khi dạy cho con các kiến thức khoa học.
Ví dụ, trong quảng cáo Knorr : Con gái đi học về khoe với mẹ rằng
hôm nay học đƣợc từ “tự nhiên, không tự nhiên”. Rồi nó chỉ vào gói bột
nêm Knorr và hỏi mẹ là “ Cái đó có tự nhiên không mẹ?”. Ngƣời mẹ giải
thích cho con.
Trong quảng cáo Colgate bảo vệ 2 lần mô tả cảnh bố dạy con làm
hàng rào và thông qua đó giải thích rằng các kẽ hở trên hàng rào cũng
giống nhƣ răng. Nếu trên răng có các lỗ hổng thì dễ bị sâu…Nhƣ vậy, có
thể thấy rằng cả nam giới và phụ nữ đều tham gia vào việc dạy con học
111
nhƣng họ không cùng nhau làm việc đó và nội dung mà mỗi giới dạy cho
con cũng khác nhau.
Những hình ảnh xuất hiện trong quảng cáo cũng phản ánh sự khác
biệt trong nội dung dạy bảo của cha mẹ đối với con:
Hình ảnh người mẹ giải thích câu hỏi của con gái ( quảng cáo nước
mắm Chin-su) và hình ảnh người bố dạy con trai học tin học( quảng cáo
dầu ăn Neptune):
Nhƣ vậy, sự xuất hiện các vai trò trong quảng cáo của ngƣời nam
giới và nữ giới vẫn phản ánh và dựa trên định kiến về phân công lao động
theo giới truyền thống. Mặc dù, một số hình ảnh về công việc nhƣ nấu ăn,
mua sắm, chăm sóc các thành viên trong gia đình đã có sự chia sẻ của nam
giới với phụ nữ. Vai trò của phụ nữ trong việc dạy con học đã đƣợc đề
cao.Tuy nhiên, ngƣời phụ nữ vẫn đƣợc khắc hoạ là ngƣời đóng vai trò
quan trọng nhất và là ngƣời thực hiện hầu nhƣ các công việc nội trợ trong
gia đình. Nam giới gần nhƣ vẫn đƣợc miễn nhiệm và xuất hiện trong vai
trò chia sẻ với phụ nữ trong lĩnh vực này là không đáng kể.
Định kiến giới thể hiện qua hành vi và phạm vi hoạt động ngoài xã hội
của nhân vật
Hoạt động ngoài xã hội đƣợc xem xét nhƣ là một lợi thế với ngƣời
tham gia vào các hoạt động đó. Quan niệm truyền thống xem trọng vai trò
hƣớng ngoại của ngƣời đàn ông hơn phụ nữ. Công danh sự nghiệp đối với
112
đàn ông đƣợc mong đợi nhiều hơn phụ nữ. Định kiến này cũng đƣợc thể
hiện trong phim quảng cáo. Kết quả nghiên cứu cho thấy nam giới xuất
hiện nhiều hơn phụ nữ trong các hoạt động ngoài xã hội, hoạt động đòi hỏi
tính sáng tạo, năng động, có quan hệ rộng, phải tiếp xúc xã hội nhiều.
Trong tổng số 114 quảng cáo mà nhân vật chính có hành vi lao động ngoài
xã hội thì có 20% quảng cáo có nhân vật này là nam, so với 15,8% quảng
cáo có nhân vật này là nữ và 63% quảng cáo có nhân vật chính là cả nam
và nữ.
Thêm vào đó, trong các quảng cáo này, nhân vật nam không những
thể hiện sự dũng cảm, mạnh mẽ, thích phiêu lƣu trong các môn thể thao
mạo hiểm mà còn thể hiện cả sự thông minh trong hành động. Trong 21
quảng cáo đề cập đến hành vi dũng cảm, mạnh mẽ, thích phiêu lƣu, có
12/21 quảng cáo có nhân vật chính là nam trong khi chỉ có 5/21 quảng cáo
có nhân vật chính là nữ và 3/21 quảng cáo có cả nam và nữ là nhân vật
chính.
113
Hình ảnh nam giới khoẻ mạnh, dũng cảm trong các trò chơi mạo hiểm (
quảng cáo Yomost)
Tƣơng tự nhƣ vậy, những hành vi thể hiện sự thông minh, sáng suốt
đƣợc đề cập trong 33 quảng cáo, trong đó có tới 20/33 quảng cáo có nhân
vật chính là nam so với chỉ 5/33 quảng cáo có nhân vật chính là nữ và
3/33 quảng cáo có cả nam và nữ là nhân vật chính.
Định kiến còn thể hiện trong các tình huống khó khăn thì nam giới
luôn đƣợc mô tả là ngƣời tìm ra giải pháp tốt nhất và nhanh nhất. Chẳng
hạn nhƣ: bé trai đã lấy đƣợc quả bóng mắc trên cây trong quảng cáo Phô
mai Con bò cƣời hay trong quảng cáo Cô gái Hà Lan 123 và 456, ngƣời
xem cũng thấy chính bé trai là ngƣời nghĩ ra cách lấy đƣợc bóng quả bị rơi
trong bình….
Hình ảnh bé trai thông minh, cao lớn hơn hẳn các bạn cùng lớp(quảng
cáo GrowAdvance IQ)
Ngoài ra, định kiến giới còn thể hiện ở vị trí công việc ngoài xã hội
mà nam nữ đảm nhiệm trong phim quảng cáo. Kết quả nghiên cứu cho
thấy có sự khác biệt lớn về vị trí trong công việc mà nam và nữ đƣợc khắc
hoạ trong phim quảng cáo. Nữ giới thƣờng đƣợc khắc họa làm các công
việc nhân viên hay giáo viên… nhiều hơn. Trong khi nam giới lại xuất
114
hiện ở các vị trí lãnh đạo trong công việc nhiều hơn, có tới 27/28 quảng
cáo có nhân vật chính là nam giữ vai trò lãnh đạo nhƣng chỉ có 1/28 quảng
cáo có nhân vật chính là nữ đạt đƣợc vị trí này. Thêm vào đó, nam giới
xuất hiện trong các quảng cáo trong dáng vẻ sang trọng của ngƣời thành
đạt nhiều hơn nữ giới, trong khi có 20/29 quảng cáo thể hiện điều này có
nhân vật chính là nam thì chỉ có 5/29 quảng cáo có nhân vật chính là nữ.
Bởi vì, nữ thƣờng xuất hiện trong vai trò là ngƣời hƣớng nội, làm công
việc gia đình, chăm sóc gia đình nhiều hơn là xuất hiện trong vai trò là
ngƣời hƣớng ngoại với công việc và sự thành đạt ngoài xã hội. Ngƣợc lại,
nam lại đƣợc khắc hoạ là ngƣời hƣớng ngoại nhiều hơn là ngƣời hƣớng
nội. Đây chính là các định kiến giới, khuôn mẫu giới, phân công lao động
theo giới hiện tồn đƣợc thể hiện trong phim quảng cáo.
Nam giới là người thành đạt, sang trọng trong công việc( quảng
cáoMobi fone)
Nếu xét về sự tham gia của nam và nữ trong hoạt động ngoài xã hội
thì không có sự chênh lệch đáng kể, tuy nhiên, tính chất hành vi và vị trí
của mỗi giới lại có sự khác biệt căn bản. Nam giới thƣờng tham gia vào
các công việc nhƣ bác sỹ, kỹ sƣ, nhà nghiên cứu, giáo viên thể chất… và
thƣờng ở vị trí của ngƣời lãnh đạo, ra quyết định. Còn phụ nữ lại đảm
nhiệm các công việc đòi hỏi sự khéo léo, dịu dàng, cẩn thận và phục tùng
nhƣ nhân viên văn phòng, nội trợ…
115
Nhƣ vậy, phạm vi hoạt động của nhân vật có sự khác biệt đáng kể
giữa nam và nữ thể hiện rõ là các hoạt động diễn ra trong phạm vi gia
đình. Phạm vi hoạt động ngoài xã hội không có sự chênh lệch đáng kể.
Tuy nhiên, định kiến giới thể hiện cả ở hành vi của nhân vật trong gia đình
và xã hội. Trong gia đình, phụ nữ đƣợc mô tả là ngƣời chịu trách nhiệm
chính, phù hợp với công việc này và nam giới gần nhƣ đƣợc miễn nhiệm
công việc gia đình. Ngƣợc lại, trong công việc ngoài xã hội thì nam giới
đƣợc mô tả là ngƣời xuất hiện với vai trò lãnh đạo nhiều hơn, phụ nữ đƣợc
mô tả nhƣ là nhân viên nhiều hơn.
Cách xây dựng thông điệp nhƣ vậy sẽ tạo ra một hệ thống biểu
tƣợng giới, khuôn mẫu giới, định kiến giới về hình mẫu, hành vi và đức
tính tƣơng ứng với vai trò của giới nam và giới nữ. Truyền thông đại
chúng đƣợc xem là một trong những môi trƣờng quan trọng trong quá
trình xã hội hoá cá nhân. Cá nhân sẽ học hỏi các khuôn mẫu hành vi từ
thông điệp truyền thông này và sẽ có những nhận thức, thể hiện thái độ và
thực hành theo các khuôn mẫu định kiến giới đó, các cá nhân “tiếp thu sự
áp bức giới” một cách tự nhiên và thực hành nó nhƣ một thói quen khó
thay đổi.
Định kiến giới thể hiện ở nghề nghiệp của các nhân vật
Chỉ báo về nghề nghiệp cho phép đo lƣờng về vị trí của cá nhân
trong xã hội. Bởi vì, sẽ có những loại nghề nghiệp cho ngƣời lao động có
thu nhập cao, đòi hỏi sự sáng tạo, có cơ hội thăng tiến nhiều hơn. Ngƣợc
lại, có những nghề nghiệp mang lại cho ngƣời lao động thu nhập thấp hơn,
không đòi hỏi tính sáng tạo nhiều và ít có cơ hội thăng tiến. Nghiên cứu
tiến hành phân tích định kiến giới trong phim quảng cáo qua sự xuất hiện
của các nhân vật là nam và nữ và nghề nghiệp đƣơc mô tả để tìm khoảng
cách giới từ biến số này.
Kết quả phân tích cho thấy, nhìn chung các quảng cáo ít đề cập đến
các công việc lao động chân tay nhƣ sản xuất nông nghiệp, công nhân, lao
116
công… mà hầu hết đều đề cập đến các công việc đòi hỏi trí tuệ, sự sáng
tạo và đƣợc xã hội coi trọng: bác sỹ, kĩ sƣ, nhà nghiên cứu, giáo viên…
Bên cạnh đó, xét về tần suất xuất hiện theo giới tính trong các
ngành nghề thì không thể hiện sự khác biệt nhiều. Tuy nhiên, định kiến
giới lại thể hiện qua tính chất công việc mà nhân vật đảm nhiệm. Cùng
xuất hiện trong ngành y , tuy nhiên, nam thƣờng xuất hiện là những ngƣời
bác sĩ nhiều hơn nhƣng nữ thƣờng xuất hiện là y tá, ngƣời giúp việc cho
nam (là bác sĩ) nhiều hơn.
Hình ảnh nam giới là bác sỹ nha khoa ( quảng cáo kem đánh răng
Colgate) trong khi nữ giới chỉ đảm nhiệm vai trò là một y tá, giúp việc cho
bác sỹ ( quảng cáo Double Mint).
117
Trong 6 quảng cáo đề cập đến nghề nghiệp là nhà nghiên cứu hay kĩ
sƣ thì có 3/6 quảng cáo có nhân vật chính và nhân vật phụ là nam, 2/6
quảng cáo có nữ giới (nhân vật chính và nhân vật phụ) và 1/6 quảng cáo
xuất hiện cả nam và nữ cùng làm việc trong phòng thí nghiệm với vai trò
là những nhà nghiên cứu.
Nam xuất hiện trong vai trò là nhà nghiên cứu, bào chế thuốc ( quảng cáo
thuốc Rowatinex)
Trong số 6 quảng cáo có xuất hiện nghề giáo viên thì có 3/6 quảng
cáo có nhân vật chính và nhân vật phụ là nam giới và 3/6 quảng cáo có
nhân vật chính và phụ là nữ giới. Tuy nhiên, ở nghề nghiệp này định kiến
giới thể hiện ở tính chất công việc. Trong đó, nam giới thƣờng đảm nhiệm
giảng dạy, hƣớng dẫn bộ môn liên quan đến phát triển thể chất nhiều hơn
là truyền đạt kiến thức. Trong quảng cáo Ovaltine ngƣời thầy giáo hƣớng
dẫn cho học sinh tham gia 1 trò chơi vận động hay trong quảng cáo 0123-
Vinafone, thầy giáo- cũng chính là huấn luyện viên điền kinh. Ngƣợc lại,
nữ giới lại xuất hiện trong vai trò là một giáo viên truyền đạt kiến thức
nhiều hơn và giáo viên tiểu học nhiều hơn. Trong quảng cáo thuốc ho PH
và quảng cáo Cool air xuất hiện hình ảnh một cô giáo đang giảng bài cho
học sinh.
118
Nữ giới thường xuất hiện là giáo viên tiểu học nhiều hơn ( quảng cáo mỳ
Hảo Hảo)
Trong số 20 quảng cáo mô tả công việc là nhân viên văn phòng thì
nam giới xuất hiện trong 6 quảng cáo, nữ giới xuất hiện trong 5 quảng cáo
và cả nam - nữ cùng xuất hiện trong công việc này là 9. Tần suất xuất
hiện nam nữ trong lĩnh vực nghề nghiệp không có sự khác biệt đáng kể
cho thấy trong phim quảng cáo thể hiện đƣợc cơ hội và khả năng tham gia
vào nghề này khá cao cho cả nam và nữ. Tuy nhiên, định kiến giới lại
đƣợc thể hiện qua vị trí công việc mà nam hay nữ đảm nhiệm. Đó là nam
thƣờng xuất hiện là ngƣời lãnh đạo nhiều hơn và nữ thƣờng xuất hiện là
ngƣời thừa hành nhiều hơn.
Cả nam và nữ cùng tham gia trong quảng cáo với công việc nhân viên
văn phòng. Tuy nhiên, người có quyền lãnh đạo lại là nam giới ( quảng
cáo Rhumenol Flu 500)
Công việc liên quan đến nấu ăn – nội trợ hiện tại chỉ đƣợc công
nhận là nghề nghiệp khi ngƣời lao động làm việc trong một cơ quan,
119
doanh nghiệp, nhà hàng, khách sạn… đƣợc trả lƣơng. Tuy nhiên, cũng là
những công việc nhƣ vậy nhƣng ngƣời thực hiện công việc đó cho gia
đình riêng thì bản thân họ không đƣợc trả lƣơng và cũng không đƣợc thừa
nhận nhƣ là một nghề nghiệp. Trong phân tích này, giả sử những quảng
cáo xuất hiện những công việc liên quan đến nấu ăn – nội trợ đƣợc xem
xét nhƣ là nghề nghiệp thì khoảng cách giới thể hiện ở loại hình nghề
nghiệp này là khá rõ.
Trong tổng số 30 quảng cáo đề cập đến công việc này, chỉ có duy
nhất 1 quảng cáo có nhân vật chính và nhân vật phụ là nam giới nhƣng có
đến 29 quảng cáo có nhân vật chính và nhân vật phụ là nữ giới. Trong lĩnh
vực này sự xuất hiện của nữ giới chiếm tỷ lệ rất cao, gần nhƣ tuyệt đối so
xuất hiện của nam giới.
Phụ nữ làm công việc nội trợ nhiều hơn hẳn so với nam giới. Chính
cách thức xây dựng nhân vật như thế này đã khiến cho công chúng nhiều
khi lầm tưởng rằng nội trợ cũng là một thiên chức của người phụ nữ (
quảng cáo dầu ăn Ogold)
Đối với nghề lao động chân tay nhƣ công nhân công nghiệp, công
nhân làm việc trong các nông trƣờng, thợ xây, thợ mộc…xuất hiện ít so
với các công việc đã nói đến ở trên. Trong số 3 quảng cáo mô tả loại hình
công việc này, có 2/3 quảng cáo có nhân vật chính và nhân vật phụ là nam
120
và 1/3 quảng cáo có nhân vật chính và phụ là nữ. Về tần suất xuất hiện
không có sự chênh lệch nhiều. Tuy nhiên, sự khác biệt nằm ở tính chất
công việc. Cùng là công nhân nhƣng ngƣời nam xuất hiện trong vai trò là
công nhân xây dựng làm việc ở các công trƣờng (quảng cáo KFC và
quảng cáo sữa tƣơi Cô gái Hà Lan), trong khi ngƣời nữ lại đƣợc mô tả là
công nhân làm việc trong nông trƣờng - công nhân hái chè (quảng cáo trà
xanh O2).
Ngoài ra, nữ thƣờng đƣợc khắc hoạ trong một số ngành khác hoạ sỹ,
phóng viên, tiếp viên hàng không, buôn bán…
Tiếp viên hàng không (quảng cáo VRohto) Hoạ sỹ ( quảng cáo Honda
Việt Nam)
121
Phóng viên ( quảng cáo Comfort) Buôn bán nhỏ ( quảng cáo
Knorr)
Nhƣ vậy, định kiến giới về nghề nghiệp giữa nam và nữ đƣợc khắc
hoạ trong phim quảng cáo cho thấy khi xây dựng mẫu nhân vật, các nhà
truyền thông vẫn còn bị ảnh hƣởng bởi quan niệm truyền thống về phân
công lao động theo giới: Nhân vật nam thƣờng đảm nhiệm vai trò sản
xuất, liên quan đến các công việc đòi hỏi trí tuệ, khả năng sáng tạo và
đƣợc xã hội đánh giá cao. Ngƣợc lại, nhân vật nữ thƣờng đƣợc khắc họa
với công việc đơn giản, thậm chí chƣa đƣợc thừa nhận nhƣ là công việc
thực sự và đƣợc trả lƣơng (công việc liên quan đến nội trợ). Cả nam và nữ
đều xuất hiện là công nhân, nhƣng vẫn có sự khác biệt đó là công việc của
nữ liên quan chặt chẽ với hoạt động nông nghiệp, trong khi hoạt động của
nam giới mang tính chất công nghiệp nhiều hơn.
122
C. KẾT LUẬN
Nhìn chung định kiến giới, khuôn mẫu giới, phân công lao động
theo giới vẫn đƣợc thể hiện khá rõ trong phim quảng cáo. Định kiến giới,
khuôn mẫu giới và phân công lao động giới thể hiện qua hình ảnh minh
hoạ, nhân vật, nội dung và các câu sologan trong phim. Trong đó, phụ nữ
thƣờng mô tả nhƣ những ngƣời có tính cách dịu dàng, tình cảm, hoạt động
chủ yếu diễn ra trong khuôn khổ gia đình, thƣờng làm các công việc liên
quan đến lĩnh vực tái sản xuất. Ngƣợc lại, nam giới thƣờng đƣợc mô tả
nhƣ ngƣời có tính cách mạnh mẽ, thích sự phiêu lƣu, mạo hiểm, thƣờng
đảm nhiệm các công việc trong lĩnh vực sản xuất, có tính cơ động xã hội
cao và có vị trí lãnh đạo.
Định kiến giới thể hiện qua giới tính của nhân vật:
Nhìn chung tần suất xuất hiện nhân vật chính là nam giới chiếm tỷ
lệ cao hơn tỷ lệ nhân vật chính là nữ giới. Đặc biệt là trong các quảng cáo
về ngành hàng thực phẩm, dƣợc phẩm và các ngành hàng công nghệ cao.
Ngƣợc lại, nữ giới thƣờng xuất hiện với vai trò là nhân vật chính trong các
quảng cáo thuộc ngành hàng hoá mỹ phẩm, vật liệu xây dựng và điện tử.
Tuy nhiên, nữ giới xuất hiện trong các quảng cáo này thƣờng với trang
phục gợi cảm, phô diễn vẻ đẹp hình thể thu hút sựu chú ý của công chúng.
Ngƣợc lại, tỷ lệ nhân vật phụ là nữ giới lại cao hơn so với tỷ lệ nhân
vật phụ là nam giới trong hầu hết các quảng cáo thuộc mọi ngành hàng.
Cơ cấu giới tính nhân vật chính và phụ nhƣ vậy sẽ góp phần tạo ra và duy
trì định kiến rẳng nam giới quan trọng hơn nữ giới, do đó sự quan tâm
dành cho nam giới là nhiều hơn.
Định kiến giới thể hiện qua hành vi và phạm vi hoạt động của các
nhân vật:
Nhân vật nam và nhân vật nữ trong các đoạn phim quảng cáo có sự
khác nhau cơ bản về tính chất của hành động. Nhân vật nam thƣờng đƣợc
123
mô tả là ngƣời có hành động chủ động, còn các nhân vật nữ thì thƣờng bị
động hơn.
Quan niệm “nam ngoại nữ nội” đƣợc thể hiện rõ qua phân tích
phạm vi hoạt động của nhân vật trong phim quảng cáo. Phạm vi hoạt động
của các nhân vật nữ thƣờng đƣợc mô tả trong gia đình nhiều hơn nam giới.
Đặc biệt, sự xuất hiện của phụ nữ trong bếp gần nhƣ chiếm ƣu thế tuyệt
đối. Bên cạnh đó, hình ảnh ngƣời phụ nữ trong phòng khách cũng chiếm
một tỷ lệ cao hơn so với nam giới. Ngƣợc lại, phạm vi hoạt động của nam
giới thƣờng đƣợc mô tả nhiều hơn trong các môi trƣờng xã hội phong phú,
đa dạng nhƣ trƣờng học, các cơ quan, công trƣờng, nơi làm việc…
Những thông điệp mang định kiến giới này góp phần tạo ra và duy
trì hàng loạt các hệ biểu tƣợng giới trong tƣơng tác xã hội của các cá nhân
thông qua môi trƣờng xã hội hoá là truyền thông đại chúng.
Định kiến giới thể hiện qua nghề nghiệp của các nhân vật:
Qua phân tích vị trí, nghề nghiệp của nhân vật nam và nữ trong các
đoạn phim quảng cáo cho thấy: nam giới thƣờng đảm nhiệm các công việc
đòi hỏi trí tuệ và đƣợc xã hội đánh giá cao hơn phụ nữ.
Dƣới góc nhìn của quan điểm giới, nội trợ cũng đƣợc coi là một nghề
thực sự. Và lực lƣợng tham gia vào loại hình nghề nghiệp này gần nhƣ
hoàn toàn là phụ nữ.
Đặc biệt, với nghề công nhân thì tính chất công việc của nữ liên quan
đến nông nghiệp nhiều hơn, trong khi công việc của nam giới có tính chất
công nghiệp.
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng: phim quảng cáo hiện nay còn chịu ảnh
hƣởng nặng nề từ hình thức phân công lao động truyền thống. Điều này sẽ
tạo ra trong dƣ luận một áp lực bất lợi cho cả nam và nữ.
Tài liệu tham khảo
1. Barbara A. K Franklin ( 2001), Báo cáo phân tích đối tƣợng truyền thông và
chiến dịch truyền thông vì sự bình đẳng giới
124
2. Báo cáo 10 năm thực hiện Cƣơng lĩnh Bắc Kinh ở Việt Nam của các tổ chức
phi chính phủ, 2005
3. Báo cáo đề tài “ Nghiên cứu giới ở Việt Nam- một số vấn đề lý luận và thực
tiễn”
4. Csaga, Luật bình đẳng giới, Cập nhật ngày 20/3/2008
5. Desai, Jaiki ( 1995), “ Việt Nam qua lăng kính giới”, Báo cáo phát triển Liên
Hợp Quốc
6. Đào Hữu Dũng ( 2004), Quảng cáo trên truyền hình trong kinh tế thị trƣờng,
NXB Đại học Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh
7. Lê Ngọc Hùng ( 2000), “Truyền thông đại chúng và một số vấn đề xã hội học
về giới”, Tạp chí khoa học về Phụ nữ, số 2/ 2000
8. Nguyễn Văn Khang ( 2004), “ Xã hội học ngôn ngữ về giới: kỳ thị và kế hoạch
hoá ngôn ngữ chống kỳ thị đối với nữ giới trong sử dụng ngôn ngữ”, Tạp chí
Xã hội học, số 2/ 2004
9. Trần Thị Kim Loan ( 1998), “ Hình ảnh ngƣời phụ nữ trong quảng cáo trên
báo”, Tạp chí khoa học về Phụ nữ, số 3/ 1998
10. Phạm Phƣơng Mai, Nguyễn Quý Thanh ( 2004), “ Sự lạm dụng hình ảnh ngƣời
phụ nữ trong phim quảng cáo truyền hình”, Tạp chí khoa học về Phụ nữ, số 4/
2004
11. Mai Quỳnh Nam (1996), “ Truyền thông đại chúng và dƣ luận xã hội”, Tạp chí
Xã hội học, số 1/ 1996
12. Hoàng Trọng ( 1999), Quảng cáo, NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh
13. Tổng cục Thống kê ( 1999), Điều tra mức sống dân cƣ Việt Nam 1997- 1998,
Hà Nội
14. VTV. Org.vn, Kênh truyền hình, Cập nhật ngày 11/5/2008
125
THÔNG ĐIỆP GIỚI TRÊN THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG
HIỆN NAY QUA MỘT SỐ NGHIÊN CỨU
Ths. Phạm Hương Trà
Cùng với những thành tựu về kinh tế, Việt Nam cũng đã cải cách
thể chế để mang lại quyền hạn và cơ hội bình đẳng cho nam và nữ trên
mọi lĩnh. Cho đến nay, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều văn
bản luật và các quy định nhằm bảo vệ địa vị của phụ nữ, nâng cao bình
đẳng giới. Trong §iÒu 9, HiÕn ph¸p ®Çu tiªn cña níc ViÖt Nam D©n
chñ Céng hoµ n¨m 1946 ghi: “Phô n÷ b×nh ®¼ng víi nam giíi vÒ mäi
ph¬ng diÖn” và điều 19, chƣơng III của Luật Hôn nhân và gia đình có
viết “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau
về mọi mặt trong gia đình”. Điều 18 trong Luật Bình đẳng giới có ghi:
“Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự…Vợ, chồng có
quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng
trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết đình các
nguồn lực trong gia đình. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn
bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình
phù hợp...”
Giới trên truyền thông cũng là chủ đề đƣợc các nhà nghiên cứu ở
Việt Nam quan tâm. Những nghiên cứu về giới và truyền thông ở Việt
Nam đều chia sẻ quan điểm cho rằng truyền thông có tác động rất lớn tới
công chúng. Bởi truyền thông đại chúng với vai trò là công cụ, phƣơng
tiện giáo dục nhận thức thông qua việc truyền tải, giải thích, tuyên truyền,
vận động…góp phần tạo đƣợc dƣ luận xã hội và môi trƣờng thuận lợi cho
vịêc chuyển đổi thái độ và hành vi của các nhóm xã hội. Hơn nữa, nhiều
nghiên cứu đã cho thấy ½ lƣợng thông tin xã hội mà con ngƣời trong xã
hội hiện đại thu nhận đƣợc là thông qua hệ thống truyền thông đại chúng.
126
Tuy nhiên, các phƣơng tiện truyền thông hiện nay không phản ánh một
cách chính xác và đầy đủ về ngƣời phụ nữ (Chea Phalline, 2003, tr 76).
Các kết quả nghiên cứu đều cho thấy, hình ảnh giới ở một số phƣơng
tiện truyền thông hiện nay nhƣ tivi, báo chí.. còn mang định kiến giới.
Chính vì thế, tại Hội nghị Bắc Kinh và hƣớng tới thế kỷ 21 của phụ nữ
nhận định nhƣ sau: “Phƣơng tiện truyền thông điện tử và in ấn ở phần lớn
các quốc gia không cung cấp bức tranh cần bằng về cuộc sống đa dạng của
ngƣời phụ nữ và những đóng góp xã hội của họ cho một thế giới biến đổi”
(theo Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2006, tr 236). Là công cụ có ảnh
hửơng mạnh mẽ, đầy quyền lực trong xã hội, phƣơng tiện truyền thông
phải hoạt động với mục đích làm cho xã hội có cái nhìn tốt hơn, đúng hơn
về các vấn đề phụ nữ và làm thay đổi thái độ, quan niệm xã hội về vai trò
truyền thống của ngƣời phụ nữ.
Tuy nhiên, trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay còn khá ít ỏi phân
tích giới và truyền thông qui mô lớn. Trên toàn cầu có một số dự án lớn về
giám sát giới và truyền thông thực hiện ở qui mô 71 quốc gia do Media
Watch Canada tổ chức năm 1995, dự án giám sát truyền thông toàn cầu
“Who makes the news” năm 2000; Rà soát lại các chƣơng trình dự án làm
việc với Media mở rộng nhằm tăng cƣờng nhận thức của cộng đồng về
bình đẳng giới của Csaga và Oxfam tiến hành tháng 4/2008. Những dự án
này tập trung phân tích những vấn đề, xu hƣớng thể hiện hình ảnh phụ nữ
và nam giới, xem xét tới số lƣợng cũng nhƣ tần xuất những khuôn mẫu,
định kiến giới trong nội dung, sản phẩm truyền thông, vấn đề nhận thức
giới, quan điểm, tiếng nói, sự hiện diện của nam và nữ, hình ảnh bạo lực
nói chung trên truyền thông…(Ngô thị Tuấn Dung, 2007).
Chủ đề giới và truyền thông đã đƣợc đề cập trong nhiều nghiên cứu
từ nhiều chuyên ngành nhƣ xã hội học, ngôn ngữ, văn học... Trong 10 năm
trở lại đây những nghiên cứu về giới trên truyền thông đại chúng chủ yếu
đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Sự xuất hiện của quan điểm giới trên truyền
thông nhƣ thế nào? Hình ảnh giới trên truyền thông ra sao? Liệu có sự bất
127
bình đẳng giới trên các phƣơng tiện truyền thông hay không? Những công
trình này có thể chia theo các nhóm sau:
1. Những nghiên cứu theo hƣớng phân tích vai trò của truyền thông
đại chúng đối với vấn đề giới đều khẳng định truyền thông đại chúng góp
phần vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ và bình
đẳng giới. Thay vì những hình ảnh đã quá quen thuộc về phụ nữ với công
việc chăm sóc con cái, nội trợ…với nghề nghiệp là giáo viên, bác
sĩ…truyền hình đƣa ra nhiều hình ảnh về những ngƣời phụ nữ mạnh mẽ,
có địa vị trong xã hội, có khả năng quyết định sáng suốt, tham gia nhiều
vào các lĩnh vực mà trƣớc đây chỉ dành riêng cho nam giới nhƣ lái máy
bay, vệ sĩ…sẽ góp phần vào làm thay đổi quan niệm, cách nhìn nhận về
vai trò của vị thế của ngƣời phụ nữ trong xã hội
“Nhất là đối với chính phụ nữ, khi nhận thức đúng về vị trí, vai trò
và khả năng của chính mình, họ sẽ tự tin hơn rất nhiều trong việc đóng
góp công sức của mình cho xã hội. Những ngƣời đàn ông sẽ không còn
cảm thấy “thấp kém” khi chia sẻ công vịêc nhà với phụ nữ”(Dƣơng Thị
Minh, 2007)
Đồng quan điểm với Dƣơng Thị Minh, tác giả Serath – một phóng
viên của tờ Rasmei Kampuchia- cũng cho rằng truyền thông cần hạn chế
việc thể hiện phụ nữ là ngƣời thấp kém, không đƣợc coi trọng hay khai
thác họ nhƣ là đối tƣợng tình dục mà thay vào đó tăng cƣờng thể hiện hình
ảnh tích cực về ngƣời phụ nữ (Serath, 2003). Tác giả cũng cho kết luận
rằng nếu muốn thay đổi đƣợc nhận thức của các nhóm ngƣời trong xã hội
thì nhà báo cần đƣợc đào tạo thêm về các vấn đề xã hội và vấn đề giới.
Hơn nữa, các tập đoàn truyền thông cần phải thay đổi quan điểm bởi họ
cho rằng thông tin về phụ nữ không đƣợc xem là chuyên mục mang đến
lợi nhuận. Do đó, tờ báo hàng đầu của Camphuchia - tờ Rasmei
Kampuchia, trƣớc năm 2003 có hẳn một cột đều đặn đăng tải các bài viết
liên quan đến phụ nữ nhƣ bạo lực trong gia đình, giáo dục, vai trò của phụ
nữ trong xã hội… nhƣng đó cột báo này bị cắt đi. Lý do mà tác giả phân
128
tích đó là do lợi nhuận kinh doanh, thiếu ngƣời viết vì phóng viên của họ
điều là nam giới – họ lại không phải là những ngƣời viết những bài này
mà nó đƣợc các nhà văn tình nguyện hoặc độc giả gửi đến. (Serath, 2003)
Tƣơng tự với các tác giả trên, tác giả Sarayeth Tive cũng nêu ra
quan điểm rằng những ngƣời phụ nữ trong các câu chuyện trên báo chí
Khmer ở Campuchia đƣợc nói đến nhƣ những nạn nhân vì họ không lựa
chọn cách sống truyền thống (Sarayeth Tive, 2003 )
Hầu hết các tác phẩm trên đều đi đến sự tin tƣởng rằng vịêc phản
ánh hình ảnh ngƣời phụ nữ trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng có thể
làm tăng cƣờng, gia tăng ảnh hửơng cũng nhƣ nâng cao vị thế của ngƣời
phụ nữ trong xã hội. Chẳng hạn, ngƣời phụ nữ cần đƣợc xây dựng trong
các bài viết phải đƣợc thay đổi từ vị trí là một nạn nhân của các hành động
bạo lực thành những ngƣời đóng góp cho sự phát triển của xã hội nhƣ nam
giới. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc các phƣơng tiện truyền thông cần
đƣa tới công chúng của mình những hình ảnh về ngƣời phụ nữ lãnh đạo,
làm chủ trong cuộc sống gia đình và xã hội.
2. Nhóm những công trình tập trung vào phân tích về vai trò giới,
định kiến giới, bình đẳng giới, nhạy cảm giới trên các phƣơng tiện truyền
thông đại chúng. Theo hƣớng nghiên cứu này có thể kể tới một số công
trình tiêu biểu: “Một sự duy trì định kiến giới về vai trò của nữ và nam
trên báo in hiện nay” của tác giả Trần thị Minh Đức và Đỗ Hoàng đăng
trên tạp chí Tâm lý học, số 6/2004; Báo cáo Nhạy cảm giới trong các
chương trình truyền hình của Đài truyền hình Việt Nam do Csaga và
Oxfam thực hiện tháng 3/2008; Giới không có nghĩa là phụ nữ của
Nguyễn thu Phƣơng đăng trên Kỷ yếu Hội thảo Giới – Truyền thông và
phát triển năm 2003. Điểm chung khá tƣơng đồng và cũng là sự thành
công của những công trình nghiên cứu này chính là các tác giả tập trung
phân tích và chỉ ra những quan điểm dập khuôn này có vai trò duy trì,
củng cố, giáo dục sự bất bình đẳng trong xã hội một cách vô thức. Tác giả
Nguyễn Thu Phƣơng viết “cuộc sống hàng ngày của ngƣời phụ nữ giờ đây
129
thay đổi rất nhiều nhƣng những giá trị và quan niệm mang tính rập khuôn
về giới lại thay đổi rất ít so với thập kỷ trƣớc” (Nguyễn Thu Phƣơng,
2003). Trên thực tế, ngày nay các em gái đã tự tin, tự chịu trách nhiệm bản
thân, phát triển cái tôi hơn so với thế hệ trƣớc đó. Tuy nhiên, trên các
phƣơng tiện truyền thông hiện nay vẫn ca ngợi hình ảnh ngƣời phụ nữ dịu
dàng, nhẫn nhục, biết chăm lo cho gia đình, chiều lòng các thành viên
trong gia đình, trong khi những công việc hay phẩm chất này không còn là
niềm kiêu hành của ngƣời phụ nữ trong xã hội hiện nay (Trần thị Minh
Đức và Đỗ Hoàng, 2004, tr 17). Hay một quan điểm cho rằng việc ngƣời
phụ nữ lấy chồng ít tuổi hơn mình là điều bất thƣờng, khó có thể chấp
nhận. Rõ ràng đây là một định kiến giới đã tồn tại từ rất lâu xuất phát từ
thói quen và khuôn mẫu truyền thống đƣợc phổ biến trong đại đa số các
cộng đồng ngƣời Việt. Ngƣời ta thƣờng cho rằng, nam giới cần là ngƣời
trụ cột trong gia đình, là ngƣời có tiếng nói quyết định và nắm giữ quyền
lực. Do vậy, ngƣời chồng phải là ngƣời nhiều tuổi hơn để dễ dàng đảm
nhiệm đƣợc những vai trò này (Csaga, 2008)
3. Có thể nói nhóm những công trình nghiên cứu chuyên sâu đề cập
tới vấn đề giới trên các phƣơng tiện truyền thông đại chúng thông qua việc
phân tích những hình ảnh của nam và nữ giới đƣợc sử dụng trên các
chuyên mục. Đây là nhóm vấn đề đƣợc nhiều tác giả quan tâm nhất. Hình
ảnh về vai trò xã hội của phụ nữ và nam giới trên truyền hình trong nghiên
cứu thực nghiệm của Dự án Bình đẳng giới cũng cho thấy về vai trò của
nữ giới, khán giả nhìn thấy hình ảnh phụ nữ xuất hiện trên truyền hình khá
đa dạng trong các lĩnh vực nhƣ nội trợ, chăm sóc gia đình, dự họp, lãnh
đạo. Và một điểm đáng chú ý ở đây là số liệu định lƣợng cho thấy tỷ lệ
hình ảnh về vai trò của phụ nữ cao hơn ở vai trò là lãnh đạo (92,5%) và dự
họp (92,6%) so với hình ảnh phụ nữ với vai trò là nội trợ (90,8%) và chăm
sóc gia đình (91,9%), hơn nữa khán giả cũng thấy sự xuất hiện một cách
đáng kể của nam giới trong 2 vai trò là nội trợ (75.5%), chăm sóc gia đình
(77,1%). Điều này cũng này cũng có kết quả tƣơng tự với nghiên cứu của
130
Vũ Thị Gái. Qua tìm hiểu các chuyên mục trên chƣơng trình VTV1,
VTV3 nhƣ thời sự, phóng sự, đối thoại, giao lƣu, phim truyện, phim tài
liệu…tác giả nhận thấy hình ảnh phụ nữ không bị giới hạn, họ có mặt trên
truyền hình với những tấm gƣơng là một giám đốc giỏi, là một phụ nữ trí
tuệ, có bản lĩnh, độc lập và có quyền ra quyết định,là ngƣời phụ nữ chịu
thƣơng chịu khó, sống vì gia đình…(Vũ Thị Gái, 2003, tr81-83)
Tuy nhiên, khi tìm hiểu sâu hơn về mức độ xuất hiện hình ảnh của
nam giới và phụ nữ những nghiên cứu này điều cho thấy xét về mặt tần
xuất xuất hiện thì hình ảnh trên truyền hình vẫn mang định kiến giới khá
rõ.
“Một nghiên cứu về thông tin quảng cáo đăng trên báo và tạp chí
cuối thập kỷ 1970 cho biết trong ảnh nam thƣờng đúng cao hơn nữ; điều
này ngụ ý ƣu thế xã hội nổi trội của nam so với nữ; trong khi đó nữ
thƣờng xuất hiện trong tƣ thế nằm, ngồi (trên ghế, giƣờng) nhiều hơn nam.
Các tƣ thế của nam thƣờng biểu lộ năng lực tháo vát, hiểu biết, mạnh mẽ
còn phụ nữ biểu lộ sự mềm mại, tự vệ hoặc thụ động, phụ thuộc” (Lê
Ngọc Hùng, 2000, tr 154)
Một nghiên cứu khác về hình ảnh phụ nữ trong quảng cáo cho thấy,
các nhà quảng cáo lạm dụng quá nhiều hình ảnh phụ nữ dƣới dạng này hay
dạng khác nhƣ mặc váy ngăn, vai trần…để quảng bá cho sản phẩm
(Nguyễn Quí Thanh, 2004; Trần Thị Kim Loan, 1998; Vũ Thị Gái, 2003).
Hàng ngày 60% thời lƣợng quảng cáo sử dụng hình ảnh ngƣời phụ nữ.
Thống kê của các nghiên cứu cho thấy nhân vật đóng quảng cáo là nữ
chiếm tỷ lệ cao hơn nam. Có tới 82% là hình ảnh các cô gái trẻ. Hình ảnh
gây ấn tƣợng cho ngƣời tiêu dùng nhiều nhất là hình ảnh ngƣời phụ nữ ở
độ tuổi từ 20-30 trong khi đó hình ảnh nam giới ở độ tuổi này lại không
gây đƣợc ấn tƣợng. Ngoài ra 99% chƣơng trình quảng cáo về thiết bị gia
đình, thực phẩm, trang điểm…sử dụng hình ảnh phụ nữ, hình ảnh của phụ
nữ trong quảng cáo còn bị gắn chặt với quan niệm về vai trò đƣợc coi là
truyền thống nhƣ nấu ăn, giặt giũ còn hình ảnh về ngƣời phụ nữ thành đạt
131
hoặc tham gia công tác xã hội còn mờ nhạt. (Ngô thị Tuấn Dung,
2007;Nguyễn Quí Thanh, 2004; Trần thị Kim Loan, 1998)
Tác giả Lê Ngọc Hùng cho rằng các thông tin quảng cáo, chƣơng
trình thông tin khuyến mãi không những phản ánh vai giới trong văn hóa
nghe – nhìn mà còn củng cố, khuyến khích các hành vi giới nhất là hành
vi mua hàng theo vai giới. Những hình ảnh đó về phụ nữ gợi cho ngƣời
mua là nữ giới chọn những sản phẩm nhƣ bột giặt, mỹ phẩm, quần áo còn
nam giới mua sắm những thứ đắt tiền nhƣ xe ô tô hay sử dụng những mặt
hàng nhƣ bàn ghế cho một văn phòng sang trọng…(Lê Ngọc Hùng, 2000,
tr43).
Bên cạnh đó, hình ảnh đồ họa và ngôn ngữ thể hiện hạ thấp vị thế
phụ nữ, họ đƣợc coi nhƣ những đối tƣợng tình dục, hình ảnh ngƣời phụ nữ
đƣợc sử dụng nhƣ một phƣơng tiện, một công cụ chào hàng dùng thân thể
phụ nữ nhƣ món hàng để cạnh tranh sản phẩm và vô tình chà đạp lên nhân
phẩm phụ nữ (Trần Thị Kim Loan, 1998). Cũng đồng quan điểm giống
Trần thị Kim Loan, Sarayeth Ti Ve cho rằng một số tờ báo đã khắc họa
hình ảnh của ngƣời phụ nữ nhƣ vật mua vui, những nạn nhân qua việc
xuất bản những câu chuyện tục tĩu, ấn phấm khiêu dâm (Sarayeth Ti Ve,
2003, tr 88 ).
Có thể nói, các nghiên cứu này cho ta thấy cái nhìn nhiều chiều về
vai trò của nam giới và nữ giới thông qua các hình ảnh quảng cáo trên hai
phƣơng tiện truyền thông là báo hình và báo in. Những nghiên cứu đó chỉ
ra rằng những hình ảnh, vai trò giới còn mang nặng khuôn mẫu, định kiến
giới. Tuy nhiên, đây chỉ là những nghiên cứu trƣờng hợp và chủ yếu tập
trung ở tìm hiểu hình ảnh của phụ nữ trên mục quảng cáo, còn các chuyên
mục khác chƣa đƣợc nghiên cứu.
4. Đề cập tới vấn đề giới trên sách giáo khoa cũng là một lĩnh vực
đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm, bởi đây là thông tin chính thống đƣợc
giáo dục trong nhà trƣờng. Nghiên cứu ở khía cạnh này có thể kể tới các
công trình nghiên cứu sau: “Vấn đề giới trong sách giáo khoa Tiểu học ở
132
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Ngân; “Vấn đề giới trong các sách giáo
khoa Trung học cơ sở” của tác Phan Thanh Khôi; “Khuôn mẫu, định kiến
giới trong sách giáo khoa Trung học phổ thông – một số vấn đề quan tâm”
của Ngô Thị Tuấn Dung đều đƣợc đăng trong cuốn Những vấn đề giới: Từ
lịch sử đến hiện đại do nhà xuất bản Lý luận chính trị ấn hành năm 2007.
Bài viết “Có chăng sự nhạy cảm giới trong sách giáo khoa đạo đức cấp I”
của Nguyễn thị Minh Tứ đăng trên Tạp chí Khoa học về phụ nữ số 5/2001
và nghiên cứu của Kim Văn Chiến về “Xã hội hóa về giới trong sách giáo
khoa tiếng Việt lớp 2” đăng trên tạp chí Khoa học về phụ nữ số 1/2004. Có
thể nói đây là những công trình nghiên cứu rà soát lại những môn học của
tất cả các cấp học, từ bậc tiểu học đến trung học phổ thông có đề cập tới
vấn đề giới. Cùng với việc xã hội hóa ở gia đình thì nhà trƣờng cũng có
vai trò, ví dụ trên lớp những giá trị giới, vai trò giới…đƣợc cá nhân tiếp
nhận, nó chi phối cá nhân trong vịêc suy nghĩ, hành động.
Đặc điểm nổi bật của những nghiên cứu này chính là nêu lên đƣợc
mối quan hệ rất mật thiết của thiết chế giáo dục với vấn đề giới hiện nay.
Các sách giáo khoa ở các cấp học, ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp đều
có tinh thần về giới nhƣng nói chung là mang tính tự phát chứ không phải
tự giác (Phan Thanh Khôi, 2007, tr 184). Các công trình này đều chủ yếu
nghiên cứu vấn đề giới trong sách văn học, ngữ văn, tiếng việt, đạo đức và
những sách này thƣờng có khuynh hƣớng trình bày cho học sinh của mình
các hình ảnh, vai trò giới theo hƣớng phản ánh quá khứ hơn là hiện tại và
tƣơng lai. Điều này ngụ ý rằng các chủ đề mang tính thực tiễn cho trẻ em
gái, phụ nữ liên quan chặt chẽ tói một số vai trò hình mẫu tƣơng lai nhƣ
hình ảnh ngƣời vợ, nội trợ và đối với các em nam là sự chuẩn bị hứơng tới
việc tham gia vào những nghề nghiệp có vị thế, họat động xã hội, các cơ
hội phát triển và rộng mở…Những bài viết, câu chuyện, hình ảnh minh
họa trong sách…vô tình ít nhiều phản ánh và khắc sâu thêm khuôn mẫu
giới (Ngô thị Tuấn Dung, 2007, tr 189-202).
133
Thông qua sự phân tích các tác giả cung cấp những thông tin cần
thiết cho việc xây dựng, biên soạn, tuyển chọn các bài viết…nhằm nâng
cao nhận thức giới cho giáo viên, học sinh. Tuy nhiên, hầu hết các bài viết
chung chung chỉ có nghiên cứu của tác giả Ngô Thị Tuấn Dung đã sử
dụng bảng kiểm để thống kê định lƣợng những hình ảnh, ngôn từ, thông
điệp…đƣợc sử dụng trong các sách giáo khoa trung học cơ sở.
5. Ngôn ngữ không chỉ phản ánh quan niệm, cách nhìn nhận về giới
của con ngƣời mà có thể tác động, góp phần thay đổi nhận thức của con
ngƣời về giới (Nguyễn Văn Khang, 2004). Chính vì thế đã có một số
nghiên cứu về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới trong đó các tác phẩm
chủ yếu đề cập đến sự kỳ thị giới trong ngôn ngữ. Theo xu hƣớng nghiên
cứu này có thể kể tới các công trình: “Xã hội học ngôn ngữ về giới, kỳ thị
và kế hoạch hóa ngôn ngữ, chống kỳ thị đối với phụ nữ” của tác giả
Nguyễn Văn Khang đăng trên Tạp chí Xã hội học số 2/ 2004; “Sự kỳ thị
giới tính trong ngôn ngữ” (Trần Xuân Điệp, 2004); “Sự kỳ thị giới tính
trong ngôn ngữ trong các cách biểu đạt mang tính định kiến về giới nhìn
từ góc độ lịch sử”của Trần Xuân Điệp đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ số 3/
2002. Các công trình nghiên cứu đều thấy rằng chính ngôn ngữ đang đƣợc
sử dụng hàng ngày cũng phản ánh, lƣu giữ sự bất bình đẳng giới. Tác giả
Nguyễn Văn Khang cũng cho thấy chính những thiên chức làm mẹ và các
tác nhân khác nhƣ nghề nghiệp nhất là nghề thƣ ký văn phòng đã làm cho
họ có ngôn ngữ lịch sự.
6. “Vấn đề giới trong thông tin đại chúng: Nghiên cứu trường hợp
Internet” của tác giả Lê Ngọc Hùng là bài viết trong cuốn Những vấn đề
giới: Từ lịch sử đến hiện đại do nhà xuất bản Lý luận Chính trị ấn hành
năm 2007. Về nội dung của các thông điệp trên internet có thể trực tiếp
hoặc gián tiếp phản ánh hiện tƣợng bất bình đẳng trên một số lĩnh vực.
“Không nhiều ngƣời để ý tới vấn đề bất bình đẳng trong việc đi chợ ở Việt
Nam và một số nƣớc xung quanh. Nhƣng khi đƣa thông tin về hiện tƣợng
134
này trên Internet thì chắc chắn nhiều ngƣời sẽ ngạc nhiên và đặt câu hỏi:
Tại sao lại nhƣ thế. Cụ thể là tại sao chỉ có 3% đàn ông Việt Nam đi chợ?”
Điều này gợi ra cho chúng ta thấy rằng sự phân công lao động nghề
nghiệp theo giới. Một số nghề nghiệp đƣợc coi là của nữ giới, phù hợp với
phụ nữ và một số nghề đƣợc coi là công việc của nam giới, phù hợp với
nam giới. Tác giả cũng xem xét và phát hiện một số vấn đề giới nảy sinh
do sự lạm dụng Internet.
Nhƣ vậy, qua những nghiên cứu trên chúng ta thấy: Những hình
ảnh, vai trò giới đã đƣợc khảo sát trên hầu hết các phƣơng tiện truyền
thông đại chúng: báo chí, truyền hình, các ấn phẩm sách giáo khoa trừ
mạng Internet (Ngô thị Tuấn Dung, 2007, tr 206). Các nhà nghiên cứu đều
chỉ ra xu hƣớng rằng có sự biến đổi trong việc đƣa những hình ảnh, thông
điệp về giới, cụ thể là nội dung thể hiện, tƣ tƣởng kỳ thị, phân biệt đối xử
giữa nam và nữ đang giảm dần, các hình ảnh, biểu tƣợng, thông điệp về
giới trên truyền thông đang thay đổi theo chiều hƣớng tích cực. Tuy nhiên,
các nhân vật nam vẫn là ngƣời chủ yếu đƣợc giới thiệu ở địa vị lãnh đạo,
còn nhân vật nữ vẫn là những ngƣời nội trợ, chăm lo gia đình. Thứ 2, các
nghiên cứu đều chỉ ra rằng một số nghề nghiệp đƣợc coi là của nữ giới và
phù hợp với nữ giới. Nó thể hiện ngay cả trong ngôn ngữ đƣợc sử dụng
hàng ngày.
Tài liệu tham khảo
1. Csaga (2008), Báo cáo Nhạy cảm giới trong các chương trình truyền hình của
Đài truyền hình Việt Nam, Hà Nội
2. Ngô Thị Tuấn Dung (2007), Những vấn đề lý luận cơ bản về giới và kinh
nghiệm giải quyết vấn đề giới ở một số nƣớc trên thế giới, Viện Gia đình và
Giới.
135
3. Ngô thị Tuấn Dung (2007), Khuôn mẫu, định kiến giới trong sách giáo khoa
trung học phổ thông – một số vấn đề quan tâm, trong cuốn Những vấn đề giới:
Từ lịch sử đến hiện đại, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
4. Trần Xuân Điệp (2002), “Sự kỳ thị giới tính trong ngôn ngữ trong các cách
biểu đạt mang tính định kiến về giới nhìn từ góc độ lịch sử”, Tạp chí Ngôn ngữ,
3 (150), tr. 41–48.
5. Trần thị Minh Đức, Đỗ Hoàng (2004), “Một sự duy trì định kiến giới về vai
trò của nữ và nam trên báo in hiện nay”, Tạp chí Tâm lý học, số 6, tr 14- 22.
6. Vũ Thị Gái (2003), Hình ảnh ngƣời phụ nữ trên truyền hình Việt Nam, trong
Kỷ yếu Hội thảo Giới – Truyền thông và phát triển, Hà Nội
7. Lê Ngọc Hùng (2000), “Truyền thông đại chúng và một số vấn đề xã hội học
về giới”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 2, tr35-44.
8. Lê Ngọc Hùng (2007), “Vấn đề giới trong thông tin đại chúng: Nghiên cứu
trường hợp Internet”, trong cuốn Những vấn đề giới: Từ lịch sử đến hiện đại, Nxb
Lý luận Chính trị, Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Khang (2004), “Xã hội học ngôn ngữ về giới, kỳ thị và kế hoạch
hóa ngôn ngữ, chống kỳ thị đối với phụ nữ”, Tạp chí Xã hội học, số 2 (86).
10. Trần thị Kim Loan (1998), “Hình ảnh người phụ nữ trong quảng cáo trên
báo”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 3, tr 46-52.
11. Dƣơng Thị Minh (2007), “Giới trong truyền thông báo hình”, trong cuốn
Những vấn đề giới: Từ lịch sử đến hiện đại, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
12. Chea Phallin (2003), Vai trò của truyền thông với việc giải phóng phụ nữ,
trong Kỷ yếu Hội thảo Giới – Truyền thông và phát triển, Hà Nội
13. Nguyễn Thu Phƣơng (2003), Giới không có nghĩa là phụ nữ, trong Kỷ yếu
Hội thảo Giới – Truyền thông và phát triển, Hà Nội
14. Serath (2003), Giới – Truyền thông và phát triển, trong Kỷ yếu Hội thảo Giới
– Truyền thông và phát triển, Hà Nội
136
PHẦN II : TIẾP CẬN TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÖNG
TIẾP CẬN TRUYỀN HÌNH CỦA NGƢỜI DÂN VÙNG TÂY BẮC
(Nghiên cứu trường hợp Yên Bái và Lào Cai )
Ths. Nguyễn Thị Tuyết Minh
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiên cứu về tiếp cận thông tin đại chúng của ngƣời dân vùng Tây
Bắc là một trong những hƣớng nghiên cứu quan trọng về truyền thông góp
phần tìm hiểu công chúng Tây Bắc, đặc biệt là nhóm công chúng dân tộc
ít ngƣời, nhằm tìm hiểu thực trạng tiếp cận với truyền thông và hiệu quả
truyền thông với nhóm công chúng Tây Bắc. Từ đó, góp phần giúp các
nhà truyền thông nâng cao hơn nữa hiệu quả trong công tác tuyên truyền.
Bài viết là một phần trong một nghiên cứu trƣờng hợp, kết quả
nghiên cứu chỉ sử dụng cho các mẫu khảo sát. Mục đích của nghiên cứu
nhằm mô tả thực trạng tiếp cận và hiệu quả báo hình đối với ngƣời dân
Tây Bắc, hiểu các yếu tố tác động tới thực trạng và hiệu quả này.
Kỹ thuật thu thập thông tin định lƣợng bằng phƣơng pháp ankét với
mẫu 600 hộ gia đình ở Yên Bái và Lào Cai. Trong đó, số lƣợng công
chúng có xem truyền hình là 539 trƣờng hợp (chiếm 90%). Nhƣ vậy,
những trƣờng hợp sử dụng trong phân tích tiếp cận truyền hình chủ yếu
đƣợc phân tích với mẫu nghiên cứu này. Phƣơng pháp xử lý số liệu bằng
phần mềm SPSS nhằm lƣợng hoá đƣợc ảnh hƣởng của các yếu tố tới thực
trạng tiếp cận và hiệu quả báo hình tới công chúng Tây Bắc.
B. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng tiếp cận truyền hình
a. Về phƣơng tiện
Trong những năm qua Lào Cai và Yên Bái đã đạt đƣợc nhiều thành
tựu to lớn: tăng trƣởng kinh tế liên tục với tốc độ khá cao và tƣơng đối ổn
137
định, GDP tăng bình quân trên 10%/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng
hƣớng phát huy đƣợc thế mạnh của địa phƣơng.
Hơn 10 năm trƣớc 1 hộ gia đình nào đó có tivi là một điều hiếm có
đối với nông thôn vùng Tây Bắc. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy có gần 80% hộ trong mẫu nghiên cứu có tivi. Trong đó,
tất cả những hộ ở thành thị trong mẫu nghiên cứu đều có tivi và 20%
không có tivi là nhóm ở nông thôn. Chỉ báo này thể hiện rất rõ chất lƣợng
cuộc sống của những ngƣời dân vùng núi đã đƣợc nâng cao rất nhiều,
ngƣời dân có nhiều cơ hội để tiếp cận với những thông tin cập nhật, kịp
thời. Thêm vào đó, trong số 20% hộ (108hộ) còn lại chƣa có tivi thì có tới
84% (91hộ) sẽ mua tivi nếu mức thu nhập cao gấp 1,5 lần mức thu nhập
hiện tại của gia đình.
Để thảo mãn nhu cầu tiếp cận với truyền hình của các tỉnh miền núi
Tây Bắc Đảng và Nhà nƣớc đã đầu tƣ khá nhiều kinh phí. Mỗi tỉnh nghiên
cứu hiện có trên 100 trạm phát sóng truyền hình (bao gồm cả điểm DTH
phát công cộng tại các xã vùng cao). Tại Yên Bái đã phủ sóng truyền hình
Việt Nam trên 90% địa bàn dân cƣ, cấp không thu tiền 1282 máy thu hình
để tổ chức điểm xem truyền hình ở nông thôn, cấp không thu tiền 104
trạm DTH và TVRO cho các thôn bản xem truyền hình công cộng. Lào
Cai có địa hình phức tạp nên hiện nay mới chỉ đảm bảo phủ sóng truyền
hình đƣợc 67% số hộ gia đình, hầu hết dân cƣ trong vùng chỉ thu đƣợc
một chƣơng trình VTV1. Theo báo cáo của sở VHTT tỉnh Lào Cai hiện có
3000 hộ gia đình sử dụng ăng ten chảo trong đó có 20% hộ có dùng thẻ.
Biểu1. Gia đình có ăngten chảo, tivi (%)
5
34
21
40
05
1015202530354045
Cha cã ¨ngten
ch¶o
Kh«ng cã tivi Cã ¨ngten ch¶o
kh«ng thÎ
¨ngten ch¶o cã thÎ
138
Số liệu nghiên cứu cho thấy, nếu xét trong những hộ đã có tivi
(475hộ) thì có tới 49% (253hộ) đã có ăngten chảo để bắt các tín hiệu
truyền hình để xem.
Tại các tỉnh biên giới giáp Trung Quốc hiện có bán khá nhiều các
ăng ten chảo lậu với giá khá rẻ khoảng 500-600 ngàn đồng, so với 10 năm
trƣớc giá ăng ten chảo chỉ bằng 1/10, hơn nữa với mức sống của ngƣời
dân đã đƣợc nâng cao khá nhiều trong thời gian qua tạo điều kiện ngƣời
dân tiết kiệm tiền mua ti vi và ăng ten chảo để xem truyền hình Việt Nam.
Đối với những ngƣời dân sống tại đô thị đều có trạm phát sóng truyền
hình trực tiếp nên tỷ lệ hộ gia đình có ăng ten chảo rất thấp chiếm 17,5%.
Ngƣợc lại, đối với ngƣời dân sống tại nông thôn bị nhiều đồi, núi
che khuất không thu đƣợc sóng truyền hình trực tiếp nên tỷ lệ các hộ gia
đình có ăng ten chảo 71,7%. Điều này cho thấy ngƣời dân nông thôn vùng
Tây Bắc chịu khá nhiều thiệt thòi để tiếp cận với truyền hình, ngoài việc
phải mua tivi họ còn phải bỏ tiền ra để mua ăng ten chảo bất hợp pháp.
Trong số những ngƣời trả lời có mua thẻ xem ăng ten chảo thì phần
lớn họ sống tại đô thị (21 ngƣời ở đô thị và 9 ngƣời ở nông thôn). Để xác
định nhu cầu của ngƣời dân về ăng ten chảo chúng tôi đã đƣa ra phƣơng
án: Nếu Nhà nƣớc bán ăng ten chảo không thẻ theo hình thức trả góp
15.000đ/tháng kéo dài trong 3 năm thì gia đình ông/bà có mua không, có
61,72% hộ gia đình muốn mua theo hình thức này, phần lớn họ sống ở
nông thôn (73% ở nông thôn và 56% ở đô thị). Điều này cho thấy ngƣời
dân ở nông thôn Tây Bắc rất mong muốn đƣợc xem truyền hình Việt Nam
một cách hợp pháp mặc dù họ phải bỏ một khoản tiền mua ăng ten chảo.
b. Tiếp nhận thông tin của ngƣời dân vùng Tây Bắc
Truyền hình là phƣơng tiện phổ biến và hữu ích trong xã hội hiện
đại. Ngày nay, nó trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn
hoá tinh thần và phục vụ nhu cầu giải trí của đại bộ phận dân cƣ. Theo kết
quả điều tra trong thời gian rỗi ngƣời dân thƣờng xem truyền hình là chủ
139
yếu gấp hơn 3 lần so với đi thăm họ hàng bạn bè và gấp gần 6 lần so với
đọc sách báo.
Biểu 2. các hoạt động trong thời rỗi (%)
Thông qua việc theo dõi tin tức trên truyền hình con ngƣời không
chỉ nhằm hiểu biết tin tức mà còn là một hình thức để con ngƣời duy trì
mối liên hệ thƣờng xuyên với cộng đồng mà mình đang sinh sống. Khi
tiếp cận với thông tin con ngƣời cũng đồng thời thể hiện nhu cầu muốn
chứng tỏ mình quan tâm tới cộng đồng và mình thuộc về cộng đồng xã hội
đó.
Tiếp nhận thông tin từ truyền hình có lợi thế hơn rất nhiều so với
các loại phƣơng tiện TTĐC khác, đây là phƣơng tiện có hiệu quả cao nhất
hiện nay đối với công chúng, đặc biệt là ngƣời dân vùng Tây Bắc. Khi đời
sống ngày càng đƣợc cải thiện ngƣời dân đã đầu tƣ khá nhiều tiền của và
thời gian để xem truyền hình. Các số liệu điều tra cho thấy tuy số hộ gia
đình có tivi chỉ đạt 79,2% nhƣng số ngƣời trả lời có xem tivi đạt 89,6%,
hơn 10% những ngƣời này phải xem nhờ nhà hàng xóm hoặc tại nơi công
cộng. Đây là những ngƣời dân sống ở nông thôn tại các xã miền núi xa
xôi.
c. Thời điểm xem truyền hình
Thời điểm xem truyền hình của công chúng cũng thể hiện nhu cầu
xem truyền hình của họ. Mặc dù truyền hình là kênh tới đợc nhiều công
chúng nhất, tuy nhiên, thời điểm nào thì công chúng thƣờng xuyên tiếp
cận với truyền hình có sự khác biệt trong ngày. Nghiên cứu chia thành các
161719
48
0
10
20
30
40
50
60
Xem tivi Kh¸c Th¨m hä hµng -
b¹n bÌ
Kh«ng lµm g×/nghØ
ng¬i
140
múi giờ trong 24h/ngày để đo lƣờng thời điểm công chúng Tây Bắc có thể
tiếp cận với truyền hình vào giờ nào và đƣợc chia theo ngày thƣờng (từ
thứ 2 đến thứ 6) và ngày thứ 7 và chủ nhật với giả định rằng vào hai ngày
nghỉ công chúng sẽ tiếp cận với truyền hình nhiều hơn.
Biểu 3. Thời điểm xem truyền hình vào ngày thƣờng (từ thứ 2 – 6) (%)
Biểu 4. Thời điểm xem truyền hình vào ngày thứ 7 (%)
Biểu 5. Thời điểm xem truyền hình vào ngày chủ nhật (%)
50
2925
1714 13
104
5260
8087
0
20
40
60
80
100
19h-20h 20h-21h 21-22h 11h30-
13h30
17-19h 22-23h 5h30-
7h30
9-11h30 15-17h 7h30-9h 13h30-
15
sau 23h
47
38
29
21 2017
137
5559
7784
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
19h-20h 20h-21h 21-22h 11h30-
13h30
17-19h 9-11h30 22-23h 5h30-
7h30
15-17h 7h30-9h 13h30-
15
sau 23h
46
3831
20 19 17 15
7
5257
7379
0
20
40
60
80
100
19h-20h 20h-21h 21-22h 11h30-
13h30
17-19h 9-11h30 22-23h 15-17h 5h30-
7h30
7h30-9h 13h30-
15
sau 23h
141
Số liệu so sánh trên các biểu trên cho thấy không có sự khác biệt
quá lớn giữa ngày thƣờng và ngày nghỉ về thời điểm tiếp cận với truyền
hình của công chúng Tây Bắc. Kết quả nghiên cứu cho thấy có bốn múi
giờ đƣợc công chúng tiếp cận nhiều nhất với truyền hình. Thời điểm
nhiều công chúng tiếp cận truyền hình nhất thuộc nhóm “giờ vàng” từ 19
– 20h, tiếp đó là múi giờ 20-21h; múi giờ 21 – 22h và múi giờ 11h30 –
13h30.
d. Địa điểm xem truyền hình
Nếu cách trƣớc những năm đổi mới thì chỉ 25% hộ gia đình trong
mẫu điều tra có tivi thì đến những năm 1986 – 1995 con số này tăng lên
thêm 26% và gần một nửa (49%) số hộ có tivi còn lại có tivi sau năm
1996. Nhƣ vậy, nếu cách đây khoảng 10 năm thì công chúng Tây Bắc vẫn
gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với truyền hình. Đặc biệt là khó có
thể có trƣờng hợp mỗi nhà xem một tivi mà thông thƣờng sẽ là một nhà có
tivi và những nhà xung quanh xem cùng (nếu muốn hoặc đƣợc cho phép).
Hiện nay, với 79% số hộ đƣợc hỏi cho biết đã có tivi riêng thì việc bà con
đƣợc xem truyền hình ngay tại nhà mình không còn quá khó khăn giống
nhƣ trƣớc đây.
Bảng 1. Nơi xem truyền hình trong tuần (%)
Hàng ngày 3- 4ngày 1 - 2 ngày Không xem Tổng
ở nhà 84 3 1 12 100
Công cộng 0 1 9 90 100
Hàng xóm 3 5 22 70 100
Nơi khác 1 1 7 91 100
Bảng số liệu trên cho thấy, phần lớn bà con trong mẫu nghiên cứu
xem tivi ngay tại nhà mình. Trong số, 88% ngƣời đƣợc hỏi xem tivi tại
nhà thì có tới 84% thừa nhận xem tivi tại nhà là chuyện hàng ngày, trong
142
khi đó chỉ có 10% số ngƣời đƣợc hỏi cho biết thỉnh thoảng mới xem tivi
nơi công cộng. Bên cạnh đó, còn tới 21% số hộ gia đình trong mẫu nghiên
cứu không có tivi. Do đó, để đƣợc xem tivi họ sẽ chon giải pháp xem tivi
nhờ nhà hàng xóm. Số liệu nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ ngƣời trả lời xem
tivi nhờ ở nhà hàng xóm chỉ đứng sau tỷ lệ xem tivi ở nhà riêng. Tuy
nhiên, số lƣợng này cũng không quá nhiều, trong số 30% ngƣời trả lời
xem tivi ở nhà hàng xóm thì có tới 22% chỉ thỉnh thoảng mới xem.
Nhƣ vậy, để công chúng tiếp cận thƣờng xuyên đƣợc với truyền
hình thì điều kiện tiên quyết là bản thân gia đình họ (trong trƣờng hợp gia
đình cùng chung sống dƣới 1 mái nhà) phải có đƣợc phƣơng tiện, đó là
tivi.
Biểu 6. Mức độ tập trung khi xem truyền hình (%)
1
68
44
7274
21
27
3530
2521
0
10
20
30
40
50
60
70
80
ë nhµ C«ng céng Hµng xãm N¬i kh¸c
TËp trung Ýt tËp trung Kh«ng tËp trung
Thêm vào đó, việc xem truyền hình tại nhà riêng tỏ ra có hiệu quả
cao trong quá trình công chúng tiếp cận với truyền hình. Số liệu biểu trên
cho thấy, gần nhƣ chỉ xem tivi tại nhà thì ngƣời xem mới tập trung. Thêm
vào đó là xem tivi ở nhà hàng xóm thì ngƣời xem cũng tập trung hơn
những nơi khác. Đặc biệt, xem tivi nơi công cộng và nơi khác thì ngƣời
xem không hề tập trung.
e. Thời lƣợng xem truyền hình
Một trong những chỉ báo đo lƣờng nhu cầu xem truyền hình của
công chúng đó là thời lƣợng xem là bao nhiêu, tuỳ thuộc nhà nghiên cứu
143
tính thời lƣợng theo ngày hay theo tuần...Để đo lƣờng đƣợc thời lƣợng
xem truyền hình của công chúng Tây Bắc, một trong những câu hỏi hồi cố
đƣợc đặt ra cho ngƣời trả lời là “Tivi nhà ông/bà thƣờng đƣợc bật xem
mấy giờ trong ngày?”.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong số những ngƣời tiếp cận đƣợc
với truyền hình thì thời lƣợng/ngày dành cho xem truyền hình của ngƣời
dân vùng Tây Bắc đạt khá cao 227 phút (3,78 giờ), thời lƣợng này tƣơng
đƣơng với ngƣời dân vùng ĐBSH năm 2002 (222phút).
Số liệu nghiên cứu cũng chỉ ra không có sự khác biệt mang ý nghĩa
thống kê giữa thời lƣợng xem truyền hình trong ngày bình thƣờng và ngày
nghỉ cuối tuần của ngƣời dân Tây Bắc. Điều này có chút khác biệt so
ngƣời dân vùng ĐBSH.
Biểu 7. Tổng số giờ xem tivi trung bình trong ngày (%)
Mẫu nghiên cứu cho thấy chỉ có 17% là cán bộ – viên chức nhà
nƣớc và 14% là buôn bán – dịch vụ; 49% làm nông nghiệp và số còn lại là
công nhân, làm thuê, học sinh, ngƣời già yếu, không làm việc... Có thể
thấy phần lớn số ngƣời đƣợc hỏi không làm việc theo giờ hành chính, do
đó, ít có sự phân biệt thời gian làm việc giữa ngày thƣờng và ngày nghỉ
cuối tuần. Điều này có thể là một trong những lý do có thể lý giải việc
ngƣời dân ở đây xem truyền hình với thời lƣợng các ngày trong tuần là
không khác biệt, kể cả ngày nghỉ.
Số liệu nghiên cứu cho thấy, trong số những ngƣời trả lời có xem
truyền hình thì bình quân 1 ngày cả hộ gia đình xem là 4,72 giờ (mỗi cá
17
3944
0
10
20
30
40
50
5h trë lªn/ngµy 3-4h/ngµy 1-2h/ngµy
144
nhân xem 3,78 giờ/ngày), cao hơn so với sinh viên Hà Nội 2005 (3h/ngày)
và tƣơng đƣơng khán giả truyền hình Hà Nội 2002 (4h/ngày).
Số lƣợng hộ xem tivi từ 3-4giờ/1 ngày và xem 5-6 giờ/ngày cao hơn
hẳn các nhóm khác và chiếm gần 50%, số hộ xem từ 1-2 giờ/ngày chiếm
tỷ lệ thấp nhất trong 5 nhóm.
f. Kênh truyền hình đƣợc lựa chọn
Để tiếp cận đƣợc với các nội dung truyền hình thì một trong những
điều kiện cần là chất lƣợng các kênh truyền hình ở nơi này. Số liệu nghiên
cứu cho thấy, những kênh mà máy thu hình ở đây thu với chất lƣợng tốt
thì chủ yếu là kênh trung ƣơng, VTV1; VTV2; VTV3. Tuy nhiên, một
điều khá bất cập đƣợc phát hiện trong nghiên cứu này đó là sóng của kênh
VTV5 - một kênh dành cho dân tộc ít ngƣời - thì đƣợc 48% ý kiến đƣợc
hỏi cho biết tivi nhà họ không thu đƣợc sóng của chƣơng trình này. Thêm
vào đó, kênh truyền hình của đài truyền hình Tỉnh cũng có tới 58% ý kiến
khẳng định tivi của nhà họ không bắt đƣợc sóng.
Biểu 8. Kênh thu đƣợc và chất lƣợng
89
73
88
49
38
10 10 73 4
58
4
15
1
48
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
VTV1 VTV2 VTV3 VTV5 TØnh
Kh«ng thu ®îc Tèt Kh«ng æn ®Þnh kÐm
Nhƣ vậy, các kênh truyền hình trung ƣơng nhƣ VTV1, VTV2 và
VTV3 là những kênh mà công chúng Tây bắc có thể tiếp cận dễ dàng hơn
cả. Ngoài ra, các kênh truyền hình nƣớc ngoài nhƣ Lào, Thái Lan, Trung
Quốc gần nhƣ công chúng không tiếp cận vì tivi của nhà học không bắt
đƣợc sóng của các kênh này.
145
Mặc dù 3 kênh truyền hình trung ƣơng mà công chúng ở đây có thể
tiếp cận đƣợc nhƣ không có nghĩa 3 kênh này độc chiếm công chúng. Số
liệu biểu đồ dƣới cho thấy, kênh truyền hình VTV3 gần nhƣ là kênh mà
chiếm đƣợc nhiều công chúng nhất với 85% ý kiến đƣợc hỏi khẳng định
xem kênh này suốt tuần. Đứng thứ 2 là kênh VTV1 với 71% ý kiến trả lời
ngày nào cũng xem kênh này trong tuần. Mặc dù truyền hình tỉnh khó tiếp
cận, nhƣng cũng đã chiếm đƣợc ƣu ái của công chúng với 48% ý kiến trả
lời thừa nhận đã xem kênh này tất cả các ngày trong tuần, nhiều hơn kênh
VTV2 và VTV5.
Nhƣ vậy, số liệu trên gợi ra những suy nghĩ về phía nhà truyền
thông về việc kênh truyền hình VTV5 là kênh dành riêng cho đồng bào ít
ngƣời nhƣng bản thân nhóm công chúng này lại khó tiếp cận. Ngoài lý do
kỹ thuật không thu đƣợc sóng thì liệu còn lý do nào khác góp phần lý giải
vấn đề này? Liệu chất lƣợng về nội dung có trở thành một trong những lý
do khiến cho công chúng đích của kênh này không muốn tiếp cận?
Số liệu biểu dƣới cho thấy, nhìn chung công chúng đánh giá chất
lƣợng nội dung của các kênh truyền hình mà họ có thể tiếp cận đƣợc là tốt.
Trong đó, kênh VTV3 chiếm đƣợc sự ƣu ái nhất, thứ hai là kênh VTV1,
thứ 3 là kênh truyền hình Tỉnh, thứ 4 là kênh VTV2 và kênh VTV5 xếp
thứ cuối cùng.
Biểu 8. Đánh giá chất lƣợng nội dung các kênh
10
21
5
2319
0 1 0 2 1
80
95
77
90
75
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
VTV1 VTV2 VTV3 VTV5 TØnh
Tèt Trung b×nh KÐm
146
Nhƣ vậy, đài truyền hình Tỉnh chiếm đƣợc công chúng chỉ sau
VTV3 và VTV1. Ngƣợc lại, kênh dành riêng cho công chúng đích là dân
tộc ít ngƣời thì chƣa thực sự chiếm đƣợc sự ƣu ái của nhóm công chúng
này. Hai lý do cơ bản để lý giải cho vấn đề này, thứ nhất thuộc về lý do kỹ
thuật, không thu đƣợc sóng; thứ hai thuộc về lý do chất lƣợng nội dung
phát sóng chƣa thực sự đạt đƣợc nhƣ mong muốn của nhóm công chúng
này.
So sánh sự yêu thích của khán giả truyền hình vùng Tây Bắc với các
vùng khác nhƣ Hà Nội+ , Bình Dƣơng
+ (năm 2002) cho thấy khá giống
nhau về thứ tự đánh giá: thứ nhất là thời sự (68%), thứ hai là giải trí(21%),
thứ ba thể thao (3%) các chƣơng trình khác đều chiếm tỷ lệ rất thấp
Nhƣ vậy, chƣơng trình thời sự là chƣơng trình thu hút đƣợc nhiều
sự quan tâm của công chúng nhất. Nghiên cứu đánh giá về chƣơng trình
thời sự của các đài truyền hình Việt Nam và đài truyền hình tỉnh về các
tiêu chí: Phù hợp với chúng tôi; Hấp dẫn đối với chúng tôi; Nội dung tin
tức rất dễ hiểu; Bàn về những vấn đề mà chúng tôi quan tâm, Phản ánh
đƣợc các ý kiến của chúng tôi.
Biểu 9. Đánh giá chƣơng trình thời sự trên (%)
8394
1520
2731
37 35 36
25
86
979589
8691
0
20
40
60
80
100
120
Phï hîp HÊp dÉn CËp nhËt Trung thùc Néi dung dÔ
hiÓu
Ng«n ng÷
dÔ hiÓu
Ph¶n ¸nh ý
kiÕn chóng
t«i
Bµn vÒ vÊn
®Ò chóng t«i
quan t©m
Trung ¬ng §Þa ph¬ng
Kết quả cho thấy mọi tiêu chí đều đánh giá rất cao về chƣơng trình
thời sự của trung ƣơng so với đài truyền hình tỉnh. Ngay cả các tiêu chí
147
nhƣ: Bàn về những vấn đề mà chúng tôi quan tâm, Phản ánh đƣợc các ý
kiến của chúng tôi, đều nhận đƣợc sự đánh giá cao của đài truyền hình
trung ƣơng (hơn từ 2đến6 lần). Điều này phản ánh đúng sự thật về các đài
truyền hình của địa phƣơng số lƣợng phóng viên, biên tập viên ít trình độ
chuyên môn hạn chế, phƣơng tiện kỹ thuật lạc hậu. Chính điều này dẫn
đến chất lƣợng nội dung các chƣơng trình thời sự kém hơn rất nhiều so với
đài truyền hình trung ƣơng. Nếu nhận xét qua chỉ báo xem kênh VTV5
(dành cho đồng bào dân tộc ít ngƣời) giữa khán giả truyền hình đô thị và
nông thôn ta thấy tỷ lệ ngƣời dân ở nông thôn xem kênh VTV5 cao hơn
nhiều so với ngƣời dân đô thị (30% so với 6,5%).
Đúng nhƣ đánh giá của đài truyền hình tỉnh Lào Cai: “Đối với việc
sản xuất chương trình, phủ sóng… của đài PT-TH tỉnh Lào Cai hiện nay còn
chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người nghe, người xem,
nội dung chương trình còn nghèo, thời lượng ít, chất lượng chưa cao, phạm vi
nhỏ hẹp”.
Đối với các kênh truyền hình Việt Nam và đài truyền hình tỉnh tỷ lệ
ngƣời xem kênh VTV3 thƣờng bao giờ cũng cao nhất, tƣơng tự nhƣ đối
với các số điều tra về khán giả truyền hình Việt Nam. Tuy nhiên, tại đô thị
của vùng Tây Bắc 100% số ngƣời đƣợc hỏi có xem truyền hình và tỷ lệ
xem VTV3, VTV1 và truyền hình tỉnh đều trên 94%. Ngƣợc lại, đối với
ngƣời dân vùng nông thôn chỉ có 83% ngƣời đƣợc xem truyền hình, trong
số những ngƣời có xem truyền hình thì 100% xem VTV1, 93% xem
VTV3 và chỉ có 6% xem đài truyền hình tỉnh. Tỷ lệ ngƣời xem truyền
hình tỉnh ở nông thôn thấp vì rất ít hộ gia đình ở đây có thể xem đƣợc
truyền hình phát trực tiếp, mà chủ yếu xem qua ăng ten chảo.
2. Hiệu quả truyền thông của báo hình
Nhằm tìm hiểu về hiệu quả truyền thông các kênh truyền hình,
nghiên cứu đƣa ra các chƣơng trình cụ thể để công chúng tự đánh giá và
cho ý kiến của mình về các chƣơng trình đó. Thông qua các ý kiến và sự
148
đánh giá đó sẽ phản ánh đƣợc hiệu quả truyền thông của các kênh truyền
thông cụ thể.
a. Về sự kiện chính trị – xã hội
Khi hỏi về tin tức trên truyền hình mà ngƣời xem nhớ nhất thì kết
quả cho thấy tỷ lệ ngƣời trả lời có xem và có nhớ thấp hơn tỷ lệ có xem và
không nhớ (44% nhớ so với 48% không nhớ). Trong số những ngƣời nhớ
đƣợc các tin tức sau khi xem thì phần lớn là tin chính trị trong nƣớc
(chiếm 73%), điển hình tại thời điểm đó là tin tức về Đại hội Đảng X,
ngoài ra là tin tức về kinh tế và các vấn đề xã hội nhƣ tăng giá xăng hay
vụ tiêu cực PMU 18… Điều này cho thấy, khi xem các chƣơng trình
truyền hình thì mặc dù mức độ tập trung xem cao nhƣng ngƣời dân ở đây
chƣa thực sự quan tâm. Trong số những loại tin tức thì tin chính trị trong
nƣớc đƣợc quan tâm nhiều nhất.
Mặc dù có tới 73% công chúng biết về Đại hội Đảng X, nhƣng mức
độ nhớ đến chính xác Đại hội Đảng X diễn ra từ ngày nào đến ngày nào
thì chỉ 28% là biết đúng ngày, trong khi có tới 30% không biết ngày và
15% nhớ sai ngày. Trong đó, nhóm công chúng ngƣời Kinh biết về Đại
hội Đảng X với tỷ lệ lớn hơn nhóm công chúng thuộc dân tộc khác (89%
so với 57%). Thêm vào đó, nhóm công chúng ngƣời kinh nhớ chính xác
ngày đại hội đảng X diễn ra vào ngày nào cũng cao hơn nhóm dân tộc
khác (41% so với 15%); tỷ lệ nhóm dân tộc Kinh không nhớ ngày thấp
hơn nhóm dân tộc khác (28% so với 33%).
Thêm vào đó, sự khác biệt nơi cƣ trú cũng cho thấy có sự khác biệt
về hiệu quả truyền thông trong trƣờng hợp cụ thể này. Trong khi có 96%
công chúng ở thành thị biết về sự kiện Đại hội Đảng X thì tỷ lệ này ở
nhóm nông thôn thấp hơn nhiều, 62%. Trong đó, tỷ lệ công chúng biết
chính xác ngày diễn ra sự kiện này cũng cao hơn ở thành thị (57% ở thành
thị so với 14% ở nông thôn).
149
Biểu 10. Tƣơng quan giữa ngƣời thƣờng xuyên tiếp cận các phƣơng
tiện truyền thông và nhớ ngày Đại hội X diễn ra
6
1315
17
55 54
3532
16 16 17 18
23
17
33 33
0
10
20
30
40
50
60
Thêng xuyªn ®äc
b¸o
Thêng dïng internet Thêng xuyªn xem
tivi
Thêng xuyªn nghe
®µi
Kh«ng biÕt BiÕt ®óng ngµy BiÕt sai ngµy BiÕt, kh«ng biÕt ngµy
Số liệu nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, công chúng ở Yên Bái biết về
sự kiện Đại hội Đảng X với tỷ lệ cao hơn so với Lào Cai (82% ở Yên Bái
so với 65% ở Lào Cai). Theo đó, tỷ lệ công chúng ở Lào Cai biết chính
xác ngày diễn ra sự kiện này thấp hơn ở Yên Bái (21% ở Lào Cai so với
35% ở Yên Bái)
Tƣơng tự nhƣ vậy, tỷ lệ công chúng là nam giới biết về sự kiện Đại
hội Đảng X cao hơn nữ (81% nam so với 64% nữ) và tỷ lệ nam biết chính
xác ngày diễn ra sự kiện này cao hơn nữ (37% nam so với 18% nữ).
Bên cạnh đó, so sánh với các phƣơng tiện truyền thông khác thì
truyền hình đƣợc xếp thứ 3 sau báo in và internet. Mặc dù, truyền hình
đƣợc công chúng ƣu thích nhất nhƣng để thông tin in sâu trong trí óc công
chúng khiến họ có thể nhớ chính xác thì phải nói báo in tỏ ra lợi thế hơn.
Thông qua những phân tích trên có thể nhận thấy hiện nay phần lớn
ngƣời dân có quan tâm đến những sự kiện chính trị lớn của đất nƣớc. Tuy
nhiên, trong nhóm này thì nhóm dân tộc kinh tỏ ra tích cực hơn; nhóm
thành thị tiếp cận thông tin này chính xác hơn. Thêm vào đó, nhóm nghề
phi nông nghiệp tỏ ra có tính tích cực chính trị hơn nhóm nghề nông
nghiệp; nhóm học vấn thấp tỏ ra không tích cực bằng nhóm có học vấn
cao hơn; nhóm nam tỏ ra có tính tích cực chính trị hơn nhóm nữ.
150
Nhƣ vậy, ai là ngƣời không biết đến sự kiện Đại hội Đảng X? Kết
quả nghiên cứu cho thấy, trong số 161 trƣờng hợp không biết đên sự kiện
Đại hội Đảng X thì:
- Phần lớn họ ở Tỉnh Lào Cai (66% ở Lào cai so với 34% ở Yên Bái).
- Hầu hết là ở nông thôn (95%)
- Phần lớn là phụ nữ (63% so với 37% nam)
- Phần lớn là dân tộc Dao (45% dân tộc Dao so với 20% Kinh; 10%
H‟mông; 7% Nùng; 4% Tày và 14% khác)
- Chủ yếu là những ngƣời thuộc hộ gia đình có kinh tế trung bình
(48% so với 34% nghèo; 9% đói và 9% khá giả)
- Hầu hết nhóm trong độ tuổi từ 21 đến 40 tuổi (65%)
- Chủ yếu thuộc nhóm có học vấn thấp: 37% nhóm chƣa bao giờ đi
học; 37% nhóm tiểu học; 18% nhóm trung học cơ sở so với 8%
nhóm trung học phổ thông trở lên.
- Hầu hết thuộc nhóm nghề nông nghiệp (78%)
Nhƣ vậy, chúng ta có thể thấy đƣợc mối quan hệ giữa các yếu tố
trên nhƣ ngƣời dân ở nông thôn thông thƣờng có học vấn thấp hơn ngƣời
dân ở thành thị, nhóm dân tộc kinh thƣờng cƣ trú nhiều hơn ở đô thị và
thƣờng có học vấn cao hơn, và tất nhiên nhóm thành thị sẽ thiên về nghề
nghiệp phi nông nghiệp... thêm vào một số yếu tố khác nhƣ nhóm thành
thị tiếp cận với các phƣơng tiện truyền thông đa dạng hơn do đó nguồn
thông tin đa dạng hơn, thời lƣợng theo dõi truyền hình nhiều hơn... Do đó,
lát cắt nông thôn – thành thị trong nghiên cứu này là có sự khác biệt lớn về
hiệu quả truyền thông theo hƣớng hiệu quả truyền thông (truyền hình) ở
nhóm công chúng thành thị cao hơn nhóm nông thôn.
b. Về chuyên mục an toàn giao thông
Trong chuyên mục an toàn giao thông có một số chƣơng trình có sự
xuất hiện hình ảnh bà con dân tộc ít ngƣời tham gia giao thông. Chuyên
mục này đƣợc đƣa vào bảng hỏi với giả định rằng có hình ảnh của mình
thì nhóm công chúng này sẽ chú ý hơn. Bên cạnh đó, việc đƣa hình ảnh bà
151
con lên nhƣ vậy thì sẽ nhận đƣợc đƣợc đƣa ra tìm hiểu ý kiến công chúng
đầu tiên là chƣơng trình Tôi yêu Việt Nam mà có sự tham gia của ngƣời
H‟mông. Với câu hỏi hình ảnh ngƣời H‟mông đƣợc đƣa ra trong chƣơng
trình Tôi yêu Việt Nam có đúng với thực tế không?
Biểu 11. Nhận xét về hình ảnh ngƣời H’mông trong “Tôi yêu Việt Nam”
Kết quả nghiên cứu cho thấy, phân lớn công chúng cho rằng hình
ảnh ngƣời H‟mông xuất hiện trên truyền hình với những bối cảnh cụ thể
và thói quen tham gia giao thông là đúng với ngƣời H‟mông.
Tuy nhiên, số liệu nghiên cứu cho thấy sự khác biệt về dân tộc cũng
dẫn đến ý kiến khác biệt khi nhận xét về hình ảnh này. Sự khác biệt này
thể hiện trên biểu đồ dƣới đây, số liệu cho thấy theo nhóm dân tộc kinh thì
tỷ lệ ý kiến cho rằng hình ảnh này đúng và rất đúng với ngƣời H‟mông
thấp hơn so với chính ngƣời dân tộc khác nhận xét, thậm chí tỷ lệ ý kiến
nhóm dân tộc kinh cho rằng hình ảnh này là không đúng nhƣ ngƣời
H‟mông còn cao hơn các dân tộc khác nhận xét.
Thêm vào đó, số liệu nghiên cứu cũng cho thấy chính ngƣời
H‟mông lại cho rằng hình ảnh này đúng là hình ảnh của ngƣời H‟mông và
không một ý kiến nào cho rằng hình ảnh này không đúng với họ. Trong số
14 ngƣời đƣợc hỏi ý kiến thì có tới 12 ngƣời cho rằng hình ảnh ngƣời
H‟mông tham gia giao thông trên truyền hình nhƣ vậy là đúng nhƣ ngƣời
H‟mông, chỉ có 2 ý kiến nói rằng đúng 1 phần và không ý kiến nào cho
rằng hình ảnh đó không đúng.
Hoµn toµn
kh«ng ®óng
3%RÊt ®óng
15%kh«ng ®óng
13%
§óng 1 phÇn
39%§óng
30%
152
Biểu 12. Tƣơng quan giữa dân tộc và nhận xét về hình ảnh
ngƣời H’mông tham gia giao thông
8
2426
36
47
30
19
11
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
Kinh Kh¸c
RÊt ®óng §óng §óng 1 phÇn Kh«ng ®óng
Bên cạnh đó, công chúng thành thị tỏ ra khắt khe hơn khi có tới
29% ý kiến cho rằng hình ảnh này không đúng nhƣ ngƣời H‟mông trong
khi chỉ có 9% ý kiến này ở nông thôn. Công chúng thành thị chủ yếu cho
rằng hình ảnh này chỉ đúng 1 phần nhƣ ngƣời H‟mông (55%) thì tỷ lệ này
ở công chúng nông thôn là 31%. Ngƣợc lại, tỷ lệ công chúng ở nông thôn
có tới 60% cho rằng hình ảnh này đúng nhƣ ngƣời H‟mông, cao hơn nhiều
so với thành thị (16%).
Nhƣ vậy, công chúng thành thị hoặc là tỏ ra khắt khe hơn, yêu cầu
cao hơn hoặc là họ không tiếp cận nhiều với ngƣời H‟mông cho nên chƣa
thực sự hiểu rõ về ngƣời H‟mông. Ngƣợc lại, công chúng nông thôn tỏ ra
hoặc là dễ chấp nhận hơn hoặc là họ tiếp cận nhiều với ngƣời dân H‟mông
nên họ hiểu rõ hơn. Tuy nhiên, trong trƣờng hợp này thì sự khác biệt giữa
nông thôn và đô thị thực chất là sự khác biệt giữa nhóm dân tộc kinh và
các dân tộc khác. Bởi vì, tỷ lệ nhóm thành thị trong mẫu nghiên cứu chủ
yếu là ngƣời Kinh, chiếm 95% trong khi nhóm nông thôn thì các nhóm
dân tộc khác chiếm 73%.
Nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt nào giữa nam và nữ;
giữa công chúng tỉnh Lào Cai và Yên Bái khi nhận xét về hình ảnh ngƣời
H‟mông tham gia giao thông. Điều này cho thấy sự khác biệt trên chủ yếu
là sự khác biệt về nhóm dân tộc, có thể do nhóm dân tộc kinh không hiểu
153
hết về nhóm H‟mông. Điều này có ảnh hƣởng đến cảm nhận của công
chúng khi họ xem chƣơng trình cụ thể này.
Số liệu nghiên cứu cho thấy hơn 1 nửa ý kiến (51%) cảm nhận của
họ khi xem các chƣơng trình này là hài hƣớc - vui vẻ, 43% cảm thấy bình
thƣờng và có rất ít trƣờng hợp cảm thấy bực tức khi xem các hình ảnh đó.
Kết quả điều tra cũng cho thấy nhóm dân tộc Kinh không biểu lộ cảm xúc
với tỷ lệ cao hơn hẳn so với nhóm các dân tộc khác, trong khi, phần lớn ý
kiến thuộc nhóm dân tộc khác biểu lộ cảm xúc rõ ràng, họ cảm thấy vui vẻ
khi xem những hình ảnh đó. Điều này có thể giải thích rằng do nhóm dân
tộc Kinh không (tạm cho là) hài lòng với hình ảnh ngƣời H‟mông trong
chƣơng trình đó (vì không đúng, vì không nhƣ mong đợi hay cách nhìn
nhận chủ quan của họ), cho nên, hình ảnh này không ấn tƣợng, không để
lại cảm xúc gì cho họ.
Ngƣợc lại, phần lớn ý kiến nhóm dân tộc khác tỏ ra hài lòng với
hình ảnh cho nên hình ảnh này đã thu hút đƣợc sự quan tâm của họ và họ
cảm thấy vui vẻ khi xem. Thêm vào đó, số liệu nghiên cứu cho thấy phần
lớn nhóm H‟mông đƣợc hỏi cảm thấy vui vẻ khi xem hình ảnh ngƣời
H‟mông tham gia giao thông (10/14 trƣờng hợp) và không có trƣờng hợp
nào cảm thấy tức giận hay bực mình khi xem.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tƣơng quan giữa nông thôn và đô thị
cũng gần tƣơng đồng nhƣ kết quả tƣơng quan biến số dân tộc (vì 95%
nhóm đô thì là nhóm dân tộc Kinh; 73% nhóm nông thôn là nhóm dân tộc
khác) . Bên cạnh đó, số liệu nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt
lớn giữa yếu tố giới tính; tỉnh tới cảm nhận khi xem hình ảnh ngƣời
H‟mông trên truyền hình.
Tuy nhiên, mong muốn của công chúng trong những chƣơng trình
nhƣ vậy thì nên có ngƣời H‟mông tham gia. Với 71% ý kiến cho rằng
trong những chƣơng trình tƣơng tự nhƣ vậy thì nên có ngƣời H‟mông
tham gia. Số liệu nghiên cứu cho thấy mong muốn này ở nhóm dân tộc
khác cao hơn chút ít so với nhóm dân tộc kinh (72% so với 69% nhóm
154
Kinh). Tuy nhiên, nhóm H‟mông thì rất mong muốn chính ngƣời của dân
tộc mình đƣợc tham gia các chƣơng trình nhƣ vậy, nói rộng hơn là họ
mong muốn khi có hình ảnh ngƣời H‟mông xuất hiện thì đó phải là hình
ảnh của chính ngƣời dân tộc họ. Bởi kết quả nghiên cứu cho thấy 14/14 ý
kiến nhóm H‟mông đồng ý nhƣ vậy.
Nhƣ vậy, chƣơng trình này đã thu hút đƣợc sự quan tâm của công
chúng. Đặc biệt là công chúng thuộc nhóm dân tộc ít ngƣời. Tuy nhiên, sẽ
hiệu quả hơn nữa nếu nhà truyền thông đƣa ra thông điệp mà ngƣời nhận
hiểu rõ về cả bối cảnh bằng cách đƣa các hình ảnh.
c. Về các chƣơng trình phim truyện
Không chỉ khi xem thời sự mức độ nhớ đƣợc các chƣơng trình sau
khi xem không cao mà ngay cả khi xem các chƣơng trình mà công chúng
ƣu thích nhƣ các chƣơng trình giải trí thì mức độ nhớ đƣợc tên các
chƣơng trình cụ thể cũng không quá cao.
Thực tế ở các tỉnh vùng cao chủ yếu thu đƣợc sóng của đài trung
ƣơng và các nghiên cứu khác cho thấy kênh VTV1 và VTV3 thƣờng đƣợc
công chúng xem nhiều, đặc biệt là các chƣơng trình phim truyện trên
VTV1 lúc 21h và VTV3 lúc 18h. Do đó, hai chƣơng trình phim truyện này
đƣợc đƣa vào nghiên cứu nhằm đo lƣợng mức độ tiếp cận và cao hơn nữa
là mức độ tập trung, chú ý khi xem những chƣơng trình mà công chúng
yêu thích.
Biểu 13. Nhớ phim trên VTV3 và VTV1 tuần qua
30 31
18
5153
17
0
10
20
30
40
50
60
Phim 18h-VTV3 Phim 21h-VTV1
Kh«ng xem Cã xem, kh«ng nhí Cã xem, cã nhí
155
Nhƣ vậy, chƣơng trình phim truyện thu hút đƣợc gần một nửa số
ngƣời đƣợc hỏi. Thêm vào đó, tỷ lệ ngƣời có xem mà không nhớ tên phim
lại cao hơn tỷ lệ có xem mà có nhớ. Tuy nhiên, trong số những ngƣời có
nhớ tên phim thì phần lớn là nhớ chính xác tên phim và tên nƣớc sản xuất.
Mặc dù tỷ lệ hơn 50% số ngƣời trả lời thích phim trên truyền hình
vào hai thời điểm trên nhƣng công chúng vẫn không thể nhớ cụ thể đƣợc
họ đã nhìn và nghe những gì. Do đó, có thể phim chỉ mang tính chất giải
trí cho nên công chúng không cần thiết phải nhớ những gì mình xem và
nghe.
Số liệu nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt nhiều giữa nam
và nữ, nhóm dân tộc kinh và dân tộc khác, tỉnh về việc nhớ tên phim. Tuy
nhiên, so sánh giữa hai giờ xem phim khác nhau ở 2 kênh khác nhau thì có
sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa nhóm công chúng thành thị và
nông thôn trong việc nhớ tên phim họ vừa xem trong tuần qua. Tỷ lệ công
chúng đô thị nhớ chính xác tên phim họ vừa xem tuần qua vào 21h trên
VTV1 cao hơn công chúng nông thôn. Ngƣợc lại, tỷ lệ công chúng nông
thôn lại nhớ chính xác tên phim họ vừa xem tuần qua vào 18h trên VTV3
cao hơn nhiều so với nhóm thành thị.
Điều này có thể lý giải nhƣ sau, nhóm công chúng thành thị phân
lớn là nhóm công chức hoặc lao động vào giờ hành chính là chủ yếu. Do
đó, có thể việc xem truyền hình vào lúc 18h là không tập trung vì vào giờ
đó thông thƣờng họ sẽ tập trung cho việc chuẩn bị bữa tối hoặc chăm sóc
con. Giờ xem phim của họ có thể tập trung vào lúc 21h và họ nhớ đƣợc
phim mà họ xem nhiều hơn.
Ngƣợc lại, nhóm nông thôn thì phần lớn là nông nghiệp. Do đó, thời
gian lao động của nông dân không gò bó. Mặt khác, thời gian làm nông
nghiệp chủ yếu theo mùa vụ và thời điểm điều tra không rơi vào mùa vụ.
Cho nên, nông dân có thể có nhiều thời gian để xem phim lúc 18h và họ
nhớ tên phim hơn. Ngƣợc lại, ở nông thôn (đặc biệt là miền núi, vùng sâu)
ngƣời dân thƣờng đi ngủ sớm hơn trong khi nhóm thành thị xem tivi và
156
các hoạt động khác muộn hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy vào múi giờ
21 – 22h thì 53% công chúng nông thôn đã đi ngủ trong khi 73% công
chúng thành thị vẫn đang xem tivi. Do đó, công chúng thành thị tập trung
xem truyền hình lúc 21h hơn công chúng nông thôn.
Mặc dù, việc nhớ nội dung, tên phim, nƣớc sản xuất là khó nhƣng
điều đó không ngăn cản việc công chúng thích xem phim trên truyền hình.
Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu nhƣ công chúng đều thích phim trên
truyền hìnhvào lúc 21h – VTV1 và 18h – VTV3.
Biểu 14. Sự yêu thích phim trên truyền hình (%)
41
36
41
64
18
15
37
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
Phim 18h-VTV3 Phim 21h-VTV1
RÊt thÝch ThÝch B×nh thêng Kh«ng thÝch
Số liệu biểu trên cho thấy nhìn chung phim truyền hình vẫn chiếm
đƣợc sự ƣu ái của công chúng Tây Bắc. Tuy nhiên, mức độ thích phim vào
các giờ có chút khác biệt giữa công chúng thành thị và công chúng nông
thôn. Số liệu biểu so sánh dƣới đây cho thấy, công chúng nông thôn nhìn
chung thích phim cả hai giờ (18 và 21h) nhƣng công chúng đô thị tỏ ra
không “mặn mà” với phim trên truyền hình.
Thậm chí những công chúng thƣờng xuyên xem phim lúc 21h thì
công chúng nông thôn phần lớn là thích, ngƣợc lại, công chúng đô thị thì
phần lớn không tỏ thái độ vì họ cảm thấy bình thƣờng. Kết quả này cũng
gần tƣơng đồng với phim lúc 18h.
Có thể lý giải điều này bằng nhiều cách khác nhau, tuy nhiên, kết
nối các thông tin logic trong nghiên cứu có thể lý giải điều này nhƣ sau:
157
thời gian rỗi của công chúng thành thị ít hơn nông thôn nhƣng hoạt động
rỗi của công chúng thành thị phong phú hơn. Mặc dù hoạt động rỗi chính
của công chúng thành thị chủ yếu cũng là xem tivi, thậm chí cao hơn công
chúng nông thôn (66% thành thị so với 39% nông thôn).
Tuy nhiên, khi xem truyền hình thì công chúng thành thị thích xem
thời sự hơn và công chúng nông thôn thích xem phim hơn. Bên cạnh đó,
công chúng thành thị còn có nhiều hoạt động rỗi khác nhƣ đọc báo, chơi
thể thao và các hoạt động khác. Trong khi, công chúng nông thôn ngoài
xem tivi thì họ nghỉ ngơi thuần tuý/không làm gì và sang chơi nhà hàng
xóm.
Nhƣ vậy, có thể thấy hoạt động rỗi của công chúng thành thị và
nông thôn có sự khác biệt nhất định. Do đó, phim trên truyền hình có thể
không trở thành hình thức giải trí chính của công chúng đô thị, trong khi,
đối với công chúng nông thôn thì lại là hình thức giải trí chính của công
chúng nông thôn. Vì vậy, công chúng nông thôn thích phim trên truyền
hình nhiều hơn công chúng thành thị.
Bên cạnh đó, gần nhƣ các chƣơng trình trò chơi – giải trí trên truyền
hình đều đƣợc công chúng nhắc đến. Tuy nhiên, trò chơi mà công chúng
thích nhất có tỷ lệ lặp lại nhiều nhất là chƣơng trình “Ai là triệu phú”; thứ
hai là “Hãy chọn giá đúng”; thứ 3 là “Chiếc nón kỳ diệu” và thứ 4 là “Trò
chơi âm nhạc”.
Ngoài ra, chƣơng trình đƣợc giả định là nhiều công chúng quan tâm
là bóng đá thì với câu hỏi về các cuộc truyền hình trực tiếp trong tuần qua
cho thấy chỉ có 40% ngƣời trả lời khẳng định là có xem. Điểm đặc biệt thể
hiện ở đây là, mặc dù tỷ lệ có xem thấp nhƣng đã xem thì phần lớn công
chúng nhớ chính xác ngày giờ đá, tên đội bóng và tỷ số. Riêng bóng đá thì
không có sự khác biệt nhiều giữa nhóm dân tộc kinh và các dân tộc khác.
Tuy nhiên, có sự khác biệt lớn về giới tính theo hƣớng nhóm nữ không
xem bóng đá nhiều hơn nhóm nam (83% nữ so với 44% nam)
158
3. Nhận diện ngƣời không xem truyền hình
Trong 600 trƣờng hợp trong mẫu nghiên cứu thì có 61 trƣờng hợp,
chiếm 10% công chúng không xem tivi. Vậy họ là ai?
Kết quả nghiên cứu cho thấy:
- 100% họ thuộc nhóm công chúng nông thôn
- Hơn 1 nửa họ ở Lào Cai (59% Lào Cai so với 41% Yên Bái)
- Phần lớn là nữ giới (61% nữ so với 39% nam)
- Hơn 1 nửa họ thuộc nhóm dân tộc Dao (53% Dao; 15% H‟mông,
còn lại là khác)
- Phần lớn họ không biết đọc/viết tiếng Việt và dân tộc mình (63%)
- Phần lớn họ thuộc những hộ đói – nghèo (75%)
- Phần lớn thuộc nhóm tuổi từ 21 – 40 (66%)
Lý do công chúng không xem tivi chủ yếu là do không có tivi để
xem, chiếm 75%. Tuy nhiên, trong trƣờng hợp thu nhập của gia đình tăng
lên thì 74% nhóm công chúng nông thôn sẽ xem truyền hình nhiều hơn.
C. KẾT LUẬN
1. Trong những năm gần đây đời sống của nhân dân vùng Tây Bắc
đƣợc cải thiện rõ rệt. Điều này đã tạo cho ngƣời dân nơi đây có cơ hội
đƣợc tiếp cận nhiều hơn với các chƣơng trình truyền hình. Phần lớn ngƣời
dân ở đây đã tiếp cận đƣợc với truyền hình. Trong thời gian tới, nếu thu
nhập của ngƣời dân nơi đây đƣợc cải thiện chắc chắn một trong những
điều đầu tiên họ làm là sắm tivi và giành nhiều thời gian xem truyền hình,
đặc biệt là bà con ở nông thôn, các dân tộc ít ngƣời.
2. Do địa hình phức tạp phần lớn ngƣời dân tại vùng này phải xem
truyền hình qua ăng ten chảo, đặc biệt đối với vùng nông thôn nên chi phí
cho xem truyền hình khá cao. Tỷ lệ ngƣời mua thẻ xem chiếm 13% (thấp
hơn so với báo cáo của địa phƣơng là 20%) và phần lớn họ sống tại đô thị. Năm
2003 Bộ VHTT đã giao cho các sở VHTT tại các tỉnh miền núi xác định
các vùng “lõm” để cho phép sử dụng thiết bị TVRO (ăng ten chảo). Tuy
nhiên, theo kết quả nghiên cứu này cần có văn bản cụ thể hơn để ngƣời
159
dân đƣợc phép sử dụng hợp pháp (sử dụng ăng ten chảo không phải nhập
lậu) Nhà nƣớc và địa phƣơng nên hỗ trợ để ngƣời dân vùng miền núi có
thể dễ dàng tiếp cận với truyền hình Việt Nam. Nhà nƣớc cần tăng cƣờng
đầu tƣ phát triển các kênh truyền hình Việt Nam, đặc biệt là chƣơng trình
VTV3 và VTV5. Đài truyền hình tỉnh cần xây dựng nhiều sản phẩm gửi
cho đài truyền hình Việt Nam để đảm bảo phản ánh đƣợc tiếng nói của
ngƣời dân vùng Tây Bắc.
3. Cơ cấu hoạt động rỗi của ngƣời dân Tây Bắc về cơ bản thì giống
nhau ở hoạt động xem tivi, nhƣng khác biệt trong một số hoạt động khác
giữa nông thôn và đô thị. Hoạt động rỗi chủ yếu của ngƣời dân Tây Bắc là
xem tivi. Ngƣời dân thành thị ngoài xem tivi thì họ đọc sách báo, thể thao,
tham quan du lịch. Ngƣợc lại, hình thức nghỉ ngơi thuần tuý/không làm gì
và sang hàng xóm để chơi là hoạt động hiếm xuất hiện ở nhóm thành thị.
Đối với nhóm nông thôn, ngoài xem tivi cũng là hoạt động chính thì hoạt
động đọc sách báo, chơi thể thao, tham quan du lịch... ít xuất hiện. Ngƣợc
lại, hoạt động nghỉ ngơi thuần tuý/không làm gì và sang hàng xóm để chơi
là hoạt động lặp lại của nhóm nông thôn chỉ sau hoạt động xem tivi.
4. Thời điểm xem truyền hình không khác biệt nhiều giữa ngày
thƣờng và ngày nghỉ. Thời điểm công chúng Tây Bắc tiếp cận với truyền
hình nhiều nhất đều nằm trong múi “giờ vàng”, đó là 19 – 20h, tiếp đó là
các múi giờ theo thứ tự 20 – 21h; 21 – 22h và 11h30 – 13h30. Múi giờ
đƣợc công chúng tiếp cận nhiều nhất là 19 – 20h. Đây là chƣơng trình thời
sự trên cả kênh VTV1, VTV3 và đài truyền hình Tỉnh thì tiếp sóng đài
trung ƣơng. Chƣơng trình thời sự là chƣơng trình đƣợc công chúng yêu
thích nhất. Tuy nhiên, đánh giá cụ thể kênh truyền hình trung ƣơng và địa
phƣơng thì công chúng ƣu ái hơn với đài trung ƣơng khi cho rằng thông
tin chƣơng trình thời sự trên kênh của đài trung ƣơng cập nhật hơn, hấp
dẫn hơn, ngôn ngữ dễ hiểu, bàn về vấn đề mà họ quan tâm, nội dung dễ
hiểu và trung thực, phù hợp, phản ánh đƣợc ý kiến của họ hơn. .
160
5. Phần lớn công chúng Tây Bắc xem truyền hình tại nhà riêng.
Tuy nhiên, công chúng nông thôn thì thêm một địa điểm nữa đó là xem
tivi ở nhà hàng xóm. Và gần nhƣ chỉ xem tivi ở nhà thì công chúng mới
thực sự tập trung chú ý.
6. Thời lƣợng xem truyền hình của công chúng Tây Bắc tƣơng đối
ổn định, không khác biệt lớn giữa ngày thƣờng và ngày nghỉ. Phần lớn các
hộ gia đình giành thời gian xem truyền hình từ 3h trở lên. Trong đó, công
chúng thành thị xem truyền hình với thời lƣợng nhiều hơn công chúng
nông thôn.
7. Trong số các kênh mà tivi của các hộ gia đình thu đƣợc thì kênh
VTV1 đƣợc đánh giá chất lƣợng tốt nhất, thứ 2 là kênh VTV3, thứ 3 là
kênh VTV2. Tuy nhiên, kênh VTV5 thì hầu nhƣ không thu đƣợc còn đài
truyền hình tỉnh thì hơn 1 nửa cho biết tivi nhà họ không thu đƣợc. Theo
đó, các kênh của đài Trung ƣơng đƣợc công chúng Tây Bắc xem nhiều
nhất. Thứ nhất là kênh VTV3, thứ 2 là VTV1, thứ 3 là đài tỉnh, thứ 4 là
kênh VTV2 và cuối cùng là kênh VTV5. Ngoài ra, các kênh truyền hình
nƣớc ngoài nhƣ Trung Quốc, Lào, Thái lan hầu nhƣ không thu đƣợc và do
đó, ngƣời dân ở đây không tiếp cận với những kênh thông tin này.
8. Công chúng Tây Bắc tỏ ra hài lòng với chất lƣợng nội dung
thông tin từ các kênh truyền hình mà họ có thể tiếp cận đƣợc thông qua
việc hầu nhƣ công chúng đều đánh giá nội dung thông tin trên các kênh
này là tốt.
9. Truyền hình là một trong những phƣơng tiện tỏ ra có hiệu quả
trong việc tuyên truyền về các sự kiện lớn diễn ra trong nƣớc và quốc tế.
Đặc biệt, là những sự kiện chính trị – kinh tế- xã hội trong nƣớc, những sự
kiện ảnh hƣởng đến vận mệnh đất nƣớc. Đơn cử nhƣ sự kiện về Đại hội
Đảng X, phần lớn công chúng đều biết đến và quan tâm tới sự kiện này.
Tuy nhiên, mức độ cao hơn thì còn chƣa thực sự đạt đƣợc, nhƣ nhớ đƣợc
ngày diễn ra Đại hội. Công chúng ở nông thôn biết về sự kiện này mơ hồ
hơn công chúng thành thị, công chúng nữ biết về sự kiện này mơ hồ hơn
161
nam. Đặc biệt, báo in tỏ ra có ƣu thế lớn trong việc tuyên truyền và để lại
những dấu ấn nhớ lâu và chính xác hơn truyền hình.
10. Chƣơng trình sử dụng bối cảnh và ngƣời dân tộc ít ngƣời đƣợc
công chúng dân tộc ít ngƣời, nông thôn đón nhận hồ hởi hơn, cởi mở hơn
công chúng nhóm dân tộc kinh, thành thị. Nhóm dân tộc ít ngƣời mong
muốn trong các chƣơng trình tƣơng tự chính ngƣời của dân tộc họ sẽ thể
hiện hình ảnh của dân tộc họ.
11. Công chúng nông thôn yêu thích phim trên truyền hình nhiều
hơn công chúng thành thị. Tuy nhiên, giờ chiếu phim vào 18h tỏ ra hiệu
quả hơn đối với công chúng nông thôn. Mặc dù công chúng thành thị xem
tivi nhiều hơn, khuya hơn nhƣng hiệu quả không cao nhƣ công chúng
nông thôn, đặc biệt là phim truyện. Nhìn chung các chƣơng trình trò chơi
trên truyền hình nhƣ “ai là triệu phú” “hãy chọn giá đúng”... thu hút đƣợc
sự quan tâm của công chúng nói chung.
12. Những hộ gia đình chƣa có tivi (phƣơng tiện) khó tiếp cận đƣợc
với truyền hình và đây là lý do lớn nhất khiến họ không xem truyền hình.
Tuy nhiên, nếu thu nhập tăng họ sẽ sắm tivi và giành thời gian xem truyền
hình nhiều hơn.
162
TIẾP CẬN PHÁT THANH CỦA NGƢỜI DÂN VÙNG NÖI
PHÍA BẮC
Th.S. Bùi Thu Hương
Bài viết này nhằm mô tả thực trạng tiếp cận phƣơng tiện phát thanh
của ngƣời dân Tây Bắc qua khảo sát ở sáu xã phƣờng thuộc hai tỉnh Lào
Cai và Yên Bái. Nằm giáp ranh giữa hai vùng Tây Bắc và Đông Bắc Việt
Nam, hai tỉnh này có vị trí địa lý- kinh tế vô cùng quan trọng. Lào Cai
đƣợc mệnh danh nhƣ cửa ngõ giao thƣơng giữa Việt Nam và Tây Nam
Trung Quốc và Yên Bái là cửa ngõ của vùng Tây Bắc. Nơi đây còn có
hàng chục dân tộc cùng chung sống với những bản sắc văn hoá vô cùng
phong phú và đặc sắc1.
1. Vài nét về đặc điểm nhân khẩu học
Ngƣời trả lời (NTL) đƣợc lựa chọn từ hai phƣờng và bốn xã thuộc
hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Do đó, đa phần sinh sống tại địa bàn nông
thôn, chiếm 66,7% so với 33,3% thuộc các khu vực đô thị. Chênh lệch về
giới tính của NTL không lớn, 53% là nam so với 47% là nữ.
Đa phần NTL là dân tộc Kinh (49,7%), còn lại là các dân tộc nhƣ
Dao (22,8%), Nùng (12,8%), H‟Mông (4,5%), Tày (3,8%) và một số dân
tộc khác. Hơn 98% NTL không theo tôn giáo nào. 79,2% là các hộ gia
đình trung bình và khá giả.
Có 13% NTL chƣa bao giờ đi học và có 10,2% NTL không biết
đọc/ viết tiếng Việt và tiếng dân tộc của mình. Đa phần NTL thuộc lứa
tuổi từ 21 đến 50 (chiếm khoảng 75%). 88,8% NTL đang có vợ/ chồng.
Nghề chính của NTL là sản xuất nông nghiệp, chiếm 48,8%, cán bộ
viên chức là 17,5% và buôn bán dịch vụ là 13,8%, số ngƣời làm lâm
1Giới thiệu chung về tỉnh Lào Cai. Tài liệu trên mạng, truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2007, tại địa chỉ
http://www.laocai.gov.vn/home/view.asp?id=66&id_theloai=153; Giới thiệu chung về tỉnh Yên Bái.
Tài liệu trên mạng, truy cập ngày 21/04/2007, tại địa chỉ
http://vi.wikipedia.org/wiki/Y%C3%AAn_B%C3%A1i
163
nghiệp hay tiểu thủ công nghiệp nhƣ một nghề chính không đáng kể,
chiếm khoảng 7,0%. Có tới 69% NTL không làm thêm nghề phụ gì, bên
cạnh một tỷ lệ khá nhỏ NTL làm các nghề phụ nhƣ công nhân, tiểu thủ
công (8,2%), SX nông nghiệp (6,8%), buôn bán/ dịch vụ (5,8%) hay lâm
nghiệp (5,0%).
2. Tiếp cận phát thanh của ngƣời dân
Hệ thống truyền thông đại chúng cung cấp thông tin về mọi mặt của
đời sống xã hội, bao gồm tất cả các khía cạnh nhƣ chính trị, văn hóa, xã
hội… nhiều nghiên cứu cho thấy số lƣợng thông tin xã hội mà con ngƣời
trong xó hội hiện đại thu nhận đƣợc là thông qua hệ thống TTĐC.Phát
thanh đi đến với nhiều nhóm công chúng khác nhau phân bố nhiều vùng
trong cả nước và đến với nhóm người dân nghèo dễ dàng nhất và sóng
phát thanh có hầu hết trên cả nước kể cả vùng sâu vùng xa;
Theo báo cáo của Bộ Văn hoá Thông tin, ngày 19-1-2005, tại Hội nghị
Toàn quốc về Công tác quản lý Nhà nƣớc trong lĩnh vực truyền thanh:
Hệ thống phỏt thanh ở Việt Nam có hàng trăm đài phát sóng, riêng Đài
Tiếng Nói Việt Nam là đài quốc gia thuộc chính phủ, trực tiếp quản lý 11
đài với công suất 8.000 KW. Địa phƣơng: 64 đài phát thanh trực thuộc Uỷ
ban Nhân dân tỉnh thành. Ngoài ra, có 612 đài phát thanh cấp huyện;
7.916 truyền thanh cấp xã. Đài Tiếng Nói Việt Nam (Voices of Vietnam)
có 6 hệ chƣơng trình: VOV1: thời sự, chính trị; VOV2: văn hoá đời sống;
VOV3: âm nhạc, thông tin giải trí; VOV4: dành cho dân tộc thiểu số;
VOV5: dành cho ngƣời nƣớc ngoài; VOV6: dành cho ngƣời Việt Nam ở
nƣớc ngoài và ngƣời nƣớc ngoài. Tổng thời lƣợng của 6 hệ chƣơng trình:
452 chƣơng trình với 191 giờ mỗi ngày, hiện phủ súng 95% diện tích lãnh
thổ và 87% số dân cƣ. Số lƣợng máy thu thanh: khoảng 11 triệu cái, bình
quân 7 ngƣời 1 máy.
2.1. Mức độ thường xuyên nghe đài trong một tháng qua
Có tới 75.2% NTL không nghe đài trong tháng qua. Chỉ có 15.8%
NTL nghe đài gần nhƣ nghe hàng ngày và hàng ngày. (Xem phụ lục một
164
chiều bảng mức độ thường xuyên nghe đài trong một tháng qua trang 89).
Trong đó nam giới nghe đài nhiều hơn so với nữ giới, tỷ lệ này tƣơng ứng
là 33,3% và 15,2%. Điều này có thể lý giải là do phụ nữ còn phải làm
nhiều công việc gia đình hơn là nam giới, họ không có nhiều thời gian
rảnh rỗi để nghe đài.
Biểu 1: Tƣơng quan giữa điều kiện kinh tế hộ gia đình và
mức độ thƣờng xuyên nghe đài trong một tháng qua
25.4
74.6
29.8
70.2
15
85
0
20
40
60
80
100
Nghèo/đói Trung bình Khá giả
Có nghe đài
Không nghe đài
Qua biều trên ta thấy với nhóm hộ gia đình khá giả thời gian nghe
đài ít hơn so với hai nhóm hộ còn lại.
Với câu hỏi mức độ nghe đài Tiếng nói Việt Nam của NTL, thì kết
quả cho thấy 65,8% trả lời là thƣờng xuyên nghe so với 4,0% cho biết là
không bao giờ nghe. Trong khi đó, kết quả tƣơng ứng đối với đài địa
phƣơng là 32,9 so với 21,9% và đài nƣớc ngoài là 2,2% và 91,1%
2.2 Thời gian nghe đài
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về tổng số phút
lớn nhất mà NTL cho biết dành cho nghe đài vào ngày thƣờng, thứ Bảy
hay Chủ Nhật, khoảng 600 phút. Tuy nhiên lại có khoảng cách khá lớn
giữa giá trị min và max (2 phút so với 600 phút). Trung bình NTL dành
khoảng 90 phút (một tiếng rƣỡi) để nghe đài vào ngày thƣờng, và thời gian
này vào các ngày cuối tuần lại giảm đi, thứ bảy chỉ còn khoảng 84 phút và
Chủ nhật còn khoảng 86 phút. Thời gian trung bình NTL dành cho nghe
đài nói chung còn ít hơn cả thời gian họ dành sử dụng máy vi tính/ truy
165
cập internet (khoảng 94 phút vào thứ bảy và CN) và chỉ bằng 1/3 quĩ thời
gian họ dành cho xem truyền hình mỗi ngày. (Xem phụ lục số liệu một
chiều trang 21).
Thời điểm nghe đài mỗi ngày
Bảng 1: Nghe đài, xem truyền hình và các công việc khác NTL
thƣờng làm tại mỗi giờ trong ngày
Giờ Hoạt động NTL thƣờng làm
tại mỗi thời điểm
Nghe đài ở nhà
(%)
Xem truyền
hình ở nhà
(%) Hoạt động Phần trăm
NTL lựa chọn
5.30- 7.30 HĐ cá nhân 82.8 1.7 6.8
7.30-9.00 Đi làm việc 79.8 1.3 6.2
9.00-11.00 Đi làm việc 72.7 1.8 9.5
11.00- 13.30 HĐ cá nhân 52.0 3.0 30.8
13.30- 15.00 Đi làm việc 65.7 0.5 9.7
15.00- 17.00 Đi làm việc 71.3 1.3 8.7
17.00-19.00 HĐ cá nhân 52.0 3.3 21.8
19.00- 20.00 Xem TH 64.7 3.3 64.7
20.00-21.00 Xem TH 65.8 3.0 65.8
21.00- 22.00 Xem TH
HĐ cá nhân
48.8
40.2
4.2 48.8
22.00- 23.00 HĐ cá nhân 75.8 3.0 18.0
Sau 23.00 HĐ cá nhân 98.5 0.3 0.8
Bảng 1 (Nghe đài, xem truyền hình và các công việc khác NTL
thƣờng làm tại mỗi thời điểm trong ngày) cho thấy hai đặc điểm :
Thứ nhất, nghe đài ở nhà không phải là hoạt động chính của NTL
tại mỗi giờ lựa chọn nghiên cứu, dù tại mỗi giờ lựa chọn nghiên cứu đều
có ngƣời nghe đài; Khoảng hơn 3% NTL lựa chọn nghe đài là hoạt động
họ thƣờng làm trong khoảng các tiếng từ 17h- 23h mỗi ngày. Tuy nhiên,
so với các hoạt động mà đa số NTL lựa chọn là công việc họ thƣờng làm
mỗi giờ trong ngày thì số NTL nghe đài quá nhỏ bé;
166
Thứ hai, xem truyền hình ở nhà là một trong ba nhóm hoạt động
chính NTL thƣờng làm tại mỗi giờ trong ngày. Kể cả khi không phải là
hoạt động đƣợc đa phần NTL lựa chọn là hoạt động thƣờng làm tại mỗi
giờ thì số NTL lựa chọn xem truyền hình là hoạt động thƣờng làm cũng
đứng thứ hai.
2.4 Lý do không nghe đài
Lý do NTL lựa chọn nhiều nhất để giải thích vì sao không nghe đài
đó là họ không có đài (chiếm 64,8%). Đứng thứ hai là vì họ không thích/
không có nhu cầu (chiếm 18,6%). Không có thời gian là 10 % NTL. Trong
2,7% NTL lựa chọn các lý do khác, đáng kể là có khá nhiều lý do liên
quan đến truyền hình. Cụ thể có các ý kiến cho rằng: “Có ti vi”, “Ti vi là
đủ”, “Ti vi có đầy đủ chương trình rồi”, “Tin tức rất cập nhật trên truyền
hình” hay “Xem tivi và báo là đủ”.
Nếu nhƣ xét theo nhóm điều kiện kinh tế cho thấy có mối quan hệ
chặt (***) chẽ giữa điều kiện kinh tế với lý do không nghe đài. Với lý do
không có đài thỡ nhúm cú điều kiện kinh tế trung bình có tỷ lệ trả lời cao
nhất chiếm 54,9% (161 TH), sau đó là nhóm nghèo/ đói 22,9% (67 TH).
Đặc biệt là với lý do không thích và không có nhu cầu thì nhóm khá giả có
tỷ lệ trả lời cao nhất 54,8% (46TH) còn nhóm nghèo/ đói có tỷ lệ trả lời
thấp nhất 8,3% (7TH). Điều này có thể đƣợc lý giải là nhóm gia đình có
điều kiện kinh tế họ khá giả trở lên họ có nhiều hình thức để giải trí và họ
có khả năng chi trả cho việc mua sắm các trang thiết bị hiện đại trong nhà
nhƣ tivi, đầu video, dàn âm thanh. Do vậy họ không dành nhiều thời gian
cho việc nghe thông tin qua đài phát thanh. Đối với nhóm gia đình nghèo
thì họ không có phƣơng tiện gía rẻ tiền hơn là chiếc đài phát thanh.
Điều này cũng xảy ra tƣơng tự với 2 nhóm biết đọc/ viết một trong
các thứ tiếng (Việt hoặc tiếng dân tộc) và nhóm không biết đọc/ viết bất
kỳ một thứ tiếng nào, (P. Value: 0,001). Với nhóm biết đọc biết viết thì lý
do không thích/ không có nhu cầu có tỷ lệ cao nhất 95,2%, còn với nhóm
không biết đọc biết viết chỉ là 4,8%. Kết quả cho thấy dƣờng nhƣ những
167
ngƣời biết đọc biết viết họ có nhiều cơ hội tiếp cận với những thông tin xã
hội thông qua các phƣơng tiện truyền thông khác nhƣ truyền hình, báo,
sách…còn đối với nhóm kia thì đài phát thanh là cầu nối hữu hiệu hơn cả
đối với họ ra thế giới bên ngoài.
Tuy nhiên, một số câu hỏi kiểm tra khác đã cho thấy một số mâu
thuẫn trong các câu trả lời của NTL. Nhƣ trên lý do đƣợc nhiều ngƣời lựa
chọn để giải thích không nghe đài là do không có đài nhƣng khi đƣợc hỏi:
“Anh/chị có mong muốn được cấp phát máy thu thanh miễn phí không?”
thì chỉ có 19,2% NTL trả lời là có trong khi đó 75,2% NTL lựa chọn là
“Không nghe đài” theo tôi hiểu cũng là “Không cần” hay “Không”.
2.4. Tầm quan trọng của các chương trình phát thanh
Bảng 2. NTL lựa chọn các chƣơng trình PT quan trọng với bản thân (%)
Chƣơng trình Là chƣơng trình
quan trọng nhất
Là chƣơng trình
quan trọng thứ hai
Là chƣơng trình
quan trọng thứ ba
Tin tức 63,8 8,7 5,4
Chƣơng trình quân đội 4,0 10,1 7,4
Chƣơng trình âm nhạc 12,1 23,5 14,1
Thể thao 0,7 8,1 8,7
Kể chuyện 6,0 16,8 12,1
Chƣơng trình nông thôn 4,7 20,8 17,4
Sân khấu 4,0 2,7 21,5
Khác 3,4 9,4 12,8
Không biết 1,3 0 0,7
Tổng cộng 100 100 100
Đa số NTL (63,8%) cho rằng chƣơng trình phát thanh quan trọng
nhất đối với họ chính là tin tức. Đáng kể là, Chương trình âm nhạc trên
đài đƣợc 12,1% NTL (đứng thứ hai sau tin tức) lựa chọn là chƣơng trình
quan trọng nhất và 23,5% NTL lựa chọn là chƣơng trình quan trọng thứ
hai. Chƣơng trình nông thôn cũng chỉ đƣợc 20,8% NTL (đa phần sống ở
nông thôn và làm nông nghiệp) lựa chọn là chƣơng trình quan trọng thứ
168
hai. Bên cạnh đó, có 21,4% NTL lựa chọn Sân khấu là chƣơng trình quan
trọng thứ ba. Có thể thấy, cùng với phần trăm NTL lựa chọn các phƣơng
án khác nhƣ kể chuyện, thể thao nhƣ là chƣơng trình quan trọng thứ nhất,
nhì hay ba thì phát thanh cũng đƣợc NTL lựa chọn nhƣ một kênh tin tức
và giải trí là chính.
Biểu 2. Ba chương trình được lựa chọn nhiều nhất với mỗi câu hỏi
về chương trình quan trọng nhất, nhì, ba
2.5 Nhận xét về chương trình tin tức
Nhiều học giả cho rằng: hành vi theo dõi tin tức, thời sự trên các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng không chỉ là một hành vi nhằm hiểu
biết tin tức mà còn là một hình thái để con ngƣời duy trì mối liên hệ
thƣờng xuyên với cộng đồng mà mình đang sinh sống. Khi tiếp cận với
các thông tin con ngƣời cũng đồng thời thể hiện nhu cầu muốn chứng tỏ
mỡnh quan tâm tới cộng đồng xó hội của mỡnh và mỡnh thuộc về cộng
đồng xã hội này.
Bảng 3 (Nhận xét chung về chương trình tin tức đài quốc gia, địa
phương và nước ngoài) cho thấy chỉ có hơn 50% NTL cho rằng CT thời
sự ở Đài Quốc gia là phù hợp (57,7%) và cập nhật (54,4%). Còn lại với
các ý kiến nhận xét nhƣ CT thời sự trung thực, dễ hiểu hay hấp dẫn thì
phần trăm NTL đồng tình không cao. Phần trăm tƣơng ứng nhận xét CT
TS của Đài Quốc gia là 34,2%, 47% và 44,3% và Đài địa phƣơng là
81.9
60.1 53
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90
Ba CT quan trong nhat
Ba CT quan trong thu nhì
Ba CT quan trong thu ba
169
18,1%, 33,6% và 22,8%. Tỷ lệ NTL đồng tình với nhận xét “CT thời sự
phản ánh ý kiến của chúng tôi” còn thấp hơn, chỉ có 18,1% cho là đúng ở
CT TS của Đài quốc gia so với 22,1% ở Đài địa phƣơng và “CT thời sự
bàn về những vấn đề mà NTL quan tâm” là 28,2% ở Đài Quốc gia so với
24,8% ở Đài địa phƣơng.
Bảng 3. Nhận xét chung về chương trình tin tức đài quốc gia, địa
phương và nước ngoài (%)
Nhận xét Đài Quốc gia Đài địa
phƣơng
Đài nƣớc
ngoài
CT thời sự là phù hợp 57,7* 36,9 1,3
CT thời sự là hấp dẫn 44,3 22,8 1,3
CT thời sự cập nhật 54,4 26,8 2,0
CT thời sự trung thực 34,2 18,1 KTL
CT thời sự dễ hiểu 47,0 33,6 0,7
Ngôn ngữ của TS dễ hiểu 35,6 35,6 KTL
CT thời sự phản ánh đƣợc ý
kiến của NTL
18,1 22,1 KTL
CT thời sự bàn về những vấn
đề mà NTL quan tâm
28,2 24,8 0,7
* Phần trăm NTL lựa chọn đồng ý với ý kiến nhận xét CT thời sự, còn lại là KTL.
Nhìn vào bảng 3, có thể thấy rằng với các nhận xét về chƣơng trình
thời sự ở đài nƣớc ngoài, mà có lẽ chủ yếu là Đài Trung quốc (53,8%) và
đài Mỹ (23,1%), tỷ lệ NTL đồng tình không hề cao. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, chỉ có 9,9% NTL cho biết có nghe đài nƣớc ngoài. Có thể là do:
1) hạn chế về phƣơng tiện, 67,6% NTL cho biết là họ không có đài, 2) hạn
chế về ngoại ngữ và 3) chất lƣợng thu đài nƣớc ngoài rất thấp, có tới
61,2% cho biết là không thu đƣợc.
170
Biểu 3. Nhận xét chung về chương trình tin tức đài quốc gia và địa
phương
3. Kết luận
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy một bức tranh khá sinh động về khả
năng và nhu cầu tiếp cận các phƣơng tiện TTĐC mà trong trƣờng hợp này
là đài phát thanh. Tại hai tỉnh vùng núi phía Bắc lựa chọn nghiên cứu này,
số liệu cho thấy phát thanh không có vị trí quan trọng. Thậm chí là yếu thế
hơn nhiều so với truyền hình và internet. Rất nhiều hộ gia đình không có
đài (67,6%), không phải vì họ không thể mua mà vì họ không có nhu cầu
có đài hay nghe đài (75,2%). Đây cũng là lý do chính vì sao họ không
nghe đài -- họ không có đài. Họ không có đài vì họ không nghe và họ
không nghe nên họ không cần có đài.
Sự tiện dụng (dễ mang vác, dễ thu thanh, rẻ hơn, có thể dùng pin…)
của chiếc đài đối với ngƣời dân, đặc biệt là ở miền núi và những nơi
không có điện, không còn đƣợc đánh giá cao. Nhất là khi có sự xuất hiện
của truyền hình ở các tỉnh miền núi này và đặc biệt sự xuất hiện của các
phƣơng tiện thu hình hiện đại vừa rẻ vừa tốt nhập khẩu từ Trung Quốc
giúp cho các gia đình không chỉ có thể thu đƣợc các chƣơng trình truyền
hình đa dạng phong phú của đài quốc gia, địa phƣơng mà còn nhiều
0 10 20 30 40 50 60 70
Tỷ lệ %
Đài QG
Đài ĐP
171
chƣơng trình khác trong khu vực và thế giới. Thực tế này đã khiến NTL có
“nhiều lựa chọn thú vị” hơn mà bỏ qua đài phát thanh.
Một điều đáng lƣu tâm là các chƣơng trình trên đài chƣa thực sự
phong phú và hấp dẫn. Đài phát thanh cũng đƣợc coi là một kênh thông tin
giải trí (nhƣ đã đề cập ở trên), tuy nhiên, ngƣời nghe không có nhiều lựa
chọn. Theo NTL, chƣơng trình quan trọng nhất là tin tức thì cũng chƣa
thực sự hấp dẫn, trung thực, dễ hiểu. Chương trình thời sự kể cả ở Đài
Quốc gia hay địa phƣơng cũng chƣa phản ánh đƣợc tâm tƣ nguyện vọng
hay bàn về những vấn đề mà ngƣời dân quan tâm. Đặc biệt là Chương
trình nông thôn không đƣợc lựa chọn là một trong ba chƣơng trình quan
trọng nhất của NTL. Trên thực tế các chƣơng trình của Đài tiếng nói Việt
nam rất phong phú. Thậm chí có cả chƣơng trình riêng dành cho ngƣời
dân tộc và phát bằng tiếng dân tộc. Nhƣng trong nghiên cứu, không có
nhiều NTL đề cập đến vấn đề này 1. Có thể giải thích sự khuyết trống
trong nhận thức này ở chính lý do là họ không nghe đài bởi vì nghĩ rằng
chƣơng trình đài không hay và do vậy không biết và cũng không cần biết
rằng các chƣơng trình đó đã đƣợc cải thiện lên rất nhiều.
Theo chúng tôi, một trong những hạn chế khiến cho phát thanh
không còn chiếm vị trí độc tôn và thậm chí còn khiến đối tƣợng nghe đài
ngày càng giảm đó là vì phần lớn các chƣơng trình vẫn còn coi thính giả
nhƣ những đối tƣợng tiếp thu thông tin thụ động, một chiều mà chẳng hề
quan tâm đến việc họ có thực sự cần những thông tin mà mình cung cấp
hay không. Nhiều chƣơng trình còn nằm trong phạm vi „đóng‟ của một
kịch bản khô cứng, dựng sẵn, chƣa tạo một diễn đàn, một „sân chơi‟ cho
thính giả cùng tham gia chia sẻ, đóng góp ý kiến, thậm chí nên tạo cơ hội
cho họ đƣa ra những câu hỏi, vƣớng mắc, thể hiện thái độ của họ trƣớc
một vấn đề nào đó. Thực trạng này có thể sửa chữa rất dễ dàng bằng cách
ngay khi chƣơng trình đang phát sóng hay khi vừa kết thúc nên có một vài
1 Giới thiệu về Đài TNVN. Tài liệu trên mạng, truy cập ngày 21/04/2007 tại địa chỉ
http://www.tnvn.gov.vn/
172
câu hỏi về nội dung nào đó của chƣơng trình, yêu cầu bạn nghe đài nhắn
tin hoặc gọi điện đến số điện thoại dễ nhớ nào đó của chƣơng trình để
nhận giải thƣởng, v.v.
Những câu hỏi đơn giản, kiểm tra kiến thức, chủ yếu nhằm tạo ra sự
tƣơng tác, giao lƣu giữa chƣơng trình với bạn nghe đài, lôi kéo sự quan
tâm của họ (giống nhƣ các chƣơng trình truyền hình nhƣ: làm giàu không
khó, sức sống mới, tôi và chúng ta, khởi nghiệp… vẫn đang làm). Hoặc
thính giả có thể gọi trực tiếp vào studio khi chƣơng trình đang phát sóng
để đặt câu hỏi hay đƣa ra yêu cầu (giống nhƣ một số chƣơng trình âm
nhạc, bài hát theo yêu cầu trên phát thanh, vv.), và tất nhiên chƣơng trình
sẽ đƣợc xây dựng theo hƣớng „mở‟, hoàn toàn dựa trên các câu hỏi, yêu
cầu hay ý tƣởng phát triển nội dung nào đó của ngƣời nghe cho ngay
chƣơng trình đang phát hoặc cho những chƣơng trình sau. Sự cùng tham
gia còn thể hiện ở chính việc sử dụng những ý tƣởng, chƣơng trình, tin
tức, phóng sự phát thanh do các phóng viên không chuyên (là những thính
giả nghe đài) thực hiện của Đài phát thanh địa phƣơng và quốc gia.
Việc xây dựng các chƣơng trình phát thanh theo hƣớng „mở‟ này
đòi hỏi trƣớc hết là phải có kỹ thuật (nếu là tƣơng tác trực tiếp thì phải có
máy dừng lời… để kiểm duyệt nội dung câu hỏi trƣớc khi phát sóng, hệ
thống máy tính nối mạng, v.v), quan trọng hơn cả và có ý nghĩa quyết định
là đội ngũ phóng viên, biên tập viên tâm huyết, chuyên nghiệp, có bản
lĩnh, có trình độ, có khả năng ứng phó, có thể phối hợp và làm việc theo
nhóm, v.v. Cuối cùng, cũng không kém phần quan trọng là đội ngũ lãnh
đạo mạnh dạn, dám nghĩ dám làm và cam kết tạo điều kiện cho mọi sự đổi
mới tích cực trong Đài dựa trên những thông tin nghiên cứu đáng tin cậy
về đối tƣợng nghe đài.
Tuy vậy, đó mới chỉ là những diễn giải số liệu và giải pháp ban đầu.
Những số liệu thu thập đƣợc còn rải rác, chƣa tập trung, chủ yếu từ các địa
bàn dân cƣ có cuộc sống trung bình và khá giả, do vậy khó có thể suy rộng
cho toàn bộ ngƣời dân vùng núi phía bắc khác không tham gia vào nghiên
173
cứu. Để có thể hiểu rõ hơn những tâm tƣ, nguyện vọng của ngƣời nghe đài
nói chung và ngƣời nghe đài ở vùng núi phía bắc nói riêng, rất cần có
nhiều nghiên cứu định tính, sử dụng phƣơng pháp dân tộc học khác sâu
hơn, rộng hơn. Các thông tin sâu, đa dạng này sẽ giúp các chƣơng trình
phát thanh đổi mới nội dung và hình thức chƣơng trình một cách thực sự,
gần gũi hơn với ngƣời nghe, phản ánh đƣợc tiếng nói của ngƣời dân và
thực sự lôi kéo đƣợc ngƣời dân vào trong các quá trình xây dựng chƣơng
trình. Việc làm này sẽ củng cố và phát huy đƣợc thế mạnh vốn có của phát
thanh trong công tác truyền thông cho sự nghiệp phát triển của địa phƣơng
và đất nƣớc.
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo nghiên cứu sự tiếp cận các phƣơng tiện thông tin đại chúng của ngƣời dân
vùng núi phía Bắc. Khoa xã hội học- 2006.
2. Bộ số liệu một chiều về tiếp cận TTĐC của ngƣời dân Tây Bắc. Khoa Xã hội học-
2006.
3. Giới thiệu chung về tỉnh Lào Cai. Tài liệu trên mạng, truy cập ngày 21/04/2007, tại
địa chỉ http://www.laocai.gov.vn/home/view.asp?id=66&id_theloai=153.
4. Giới thiệu chung về tỉnh Yên Bái. Tài liệu trên mạng, truy cập ngày 21/04/2007, tại
địa chỉ http://vi.wikipedia.org/wiki/Y%C3%AAn_B%C3%A1i
5. Giới thiệu về Đài TNVN. Tài liệu trên mạng, truy cập ngày 21/04/2007 tại địa chỉ
http://www.tnvn.gov.vn/
174
THỰC TRẠNG TIẾP CẬN VÀ SỬ DỤNG ĐÀI PHÁT THANH
CỦA NGƢỜI DÂN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Ths. Nhạc Phan Linh - Lê Thu Hà
Nằm trong khuân khổ dự án phối hợp giữa Viện Friedrich Ebert
(FES) của Đức tại Hà Nội và Học viện Báo chí và Tuyên truyền, nghiên
cứu “Thực trạng tiếp cận các phƣơng tiện truyền thông đại chúng của
ngƣời dân và nhu cầu đối với đài phát thanh” đã đƣợc tiến hành tại khu
vực đồng bằng Sông Cửu Long trong năm 2008. Địa bàn đƣợc lựa chọn
làm mẫu để nghiên cứu bao gồm 01 thành phố, 01 thị xã và 03 huyện của
tỉnh Đồng Tháp. Có 500 phiếu điều tra anket và 10 thảo luận nhóm (TLN)
tập trung đã đƣợc triển khai thực hiện.
Bài viết này xin đƣợc giới thiệu một phần kết quả nghiên cứu về
thực trạng tiếp cận và sử dụng đài phát thanh của ngƣời dân đồng bằng
Sông Cửu Long.
1. Tiếp cận đài – Radio
Với sự đa dạng, tiện lợi về mẫu mã, chủng loại, cộng với giá thành
ngày càng hạ do sự phổ cập của công nghệ nhƣng chỉ 41,4% hộ gia đình ở
Đồng Tháp còn sở hữu đài radio (trong khi tivi là 93%). Những hộ không
có chỉ chiếm 3,8% số hộ đói và nghèo - theo đánh giá của cán bộ địa
phƣơng. Bên cạnh đó, chất lƣợng cuộc sống thấp cũng nhƣ điều kiện lao
động khó khăn cũng không giúp cho việc nâng cao tỷ lệ ngƣời nghe đài
radio tại khu vực nông thôn. Ngƣợc lại, số hộ thành thị sở hữu đài lại cao
hơn nhiều (51,5% so với 34,7%). Điều này chứng tỏ điều kiện kinh tế của
gia đình không phải là yếu tố quyết định đến việc ngƣời dân sử dụng đài
radio hay không.
175
Mặc dù có tới 47,2% số ngƣời đƣợc hỏi cho biết đã từng nghe đài
nhƣng trong một tháng trở lại đây, tính tại thời điểm đƣợc phỏng vấn, con
số này giảm xuống chỉ còn 28,8%. Lý do đƣợc lựa chọn nhiều nhất dẫn
đến việc ít tiếp cận radio của ngƣời dân là do nội dung các chƣơng trình
phát thanh không hấp dẫn bằng các chƣơng trình của truyền hình (54,6%),
trong đó, 37,9% cho biết đây là lý do quan trọng nhất.
Yếu tố kỹ thuật là lý do phàn nàn của khoảng ¼ số mẫu nghiên cứu.
Những số liệu cho rằng chất lƣợng sóng kém hay không thu đƣợc sóng
chƣơng trình mình ƣa thích sẽ minh chứng cho nhận định này (Bảng 1).
Bảng 1: Lý do ngƣời dân không nghe đài (%)
Stt Lý do không nghe đài Xếp vào lý
do quan
trọng nhất
Tổng
số lựa
chọn
1. Nội dung của đài không hấp dẫn bằng TV 37.9 54.6
2. Dò sóng mất thời gian/ Không dò đƣợc đài
muốn nghe 5 27.3
3. Chất lƣợng sóng kém, lúc bắt đƣợc lúc
không bắt đƣợc 5 24.2
4. Nội dung của đài không phù hợp với sở thích 2.5 21.7
5. Thông tin từ loa truyền thanh của ấp, xã đã
đủ đáp ứng nhu cầu 2.5 11.2
6. Không có địa điểm để nghe đài thích hợp 5.6 10.5
7. Thời điểm phát sóng không phù hợp với nhu
cầu 1.2 7.5
8. Khác 40 45.5
- Khu vực tôi ở toàn công nhân viên chức, 60% -70% hộ gia đình có
đài. Mất điện thì nghe Radio hết, nhưng có điện thì coi Tivi (Sađec:
nữ, viên chức).
176
- Tại nó hư nên bỏ đi, không nghe nữa. Giờ có Tivi thay thế rồi. Xem
sướng hơn! Sửa làm gì nữa tốn tiền (TLN Sađec: nam, sinh 1956,
làm ruộng).
- Radio cũ kỹ, mua mắc công. Đài rè rè, nghe không thấy hình. Tivi
vừa nghe vừa thấy được hình. Nguyên nhân nữa là vì sóng không
tốt (TLN Sađec: nam, sinh 1962, buôn bán).
Qua các ý kiến phỏng vấn sâu, một nguyên nhân góp phần đáng kể
làm sụt giảm số lƣợng ngƣời nghe là do radio cũ, hỏng và ngƣời dân ngại
đi sửa.
- Trước đây thích nghe Radio, nghe được nhiều chương trình. Bây
giờ vẫn thích nghe nhưng nó hư rồi, ngại không sửa (TLN Sađec:
nữ, sinh 1957, trồng hoa kiểng).
Sự thụ động trong việc nghe đài còn đƣợc thể hiện qua ý kiến sau:
- Trúng lúc nào nghe lúc đấy, tại buồn nghe thôi nên không rõ thích
nghe gì (TLN Sađec: nam, sinh 1956, làm ruộng).
- Con tui học đại học, giờ nó lên Internet. Tụi tui không biết sử dụng.
Lứa tuổi mình lạc hậu, thích không khí êm dịu. Nghe Radio cho đỡ
buồn (TLN Hồng Ngự: nam, sinh 1964, cán bộ nông nghiệp).
Đặc biệt, một lý do nữa dẫn đến việc không thích nghe radio đƣợc
phát hiện hiện liên quan đến hình thức phát sóng:
- Khuyết điểm lớn nhất của Radio là phát 1 chiều. Đài không biết là
có bao nhiêu người nghe, thích nghe gì (TLN Thanh Bình, nam,
sinh 1950, buôn bán tạp hoá).
Thời điểm những ngƣời đã từng sử dụng radio nhƣng đến nay
không tiếp tục nghe đài nữa chủ yếu xảy ra trong khoảng thời gian 10 năm
trở lại đây (Bảng 2), đặc biệt tăng lên từ năm 2003 (Bảng 3).
177
Bảng 2: Thời điểm ngƣời dân
không tiếp tục nghe radio (%)
Thời điểm Tỷ lệ
Trƣớc 1980 0.7
Từ 1980 - 1984 1.4
Từ 1985 - 1989 2.8
Từ 1990 - 1994 3.5
Từ 1995 - 1999 11.2
Từ 2000 - 2004 39.9
Từ 2005 - nay 42
Bảng 3: Tỷ lệ ngƣời dân dừng
nghe radio từ năm 2000 đến 2008
Năm Tỷ lệ
2000 6.9
2001 5.5
2002 4.8
2003 11.7
2004 10.3
2005 11.0
2006 11.7
2007 9.7
2008 9.0
Để làm rõ nguyên nhân sụt giảm lƣợng ngƣời nghe do yếu tố kỹ
thuật, những đánh giá về chất lƣợng các sóng phát thanh qua nhận xét của
ngƣời dân cũng rất cần thiết. Với danh mục các đài phát thanh đƣa ra, chất
lƣợng sóng của đài địa phƣơng (Đài Đồng Tháp) đƣợc 93,1% những
ngƣời nghe đánh giá tốt, tiếp đến là Đài Tiếng nói Việt Nam với 89,3%.
Do đặc điểm địa hình bằng phẳng nên một số đài địa phƣơng lân cận cũng
đƣợc đánh giá có chất lƣợng phủ sóng tốt tại địa bàn nghiên cứu là đài
Vĩnh Long (83,7%), đài TP. Hồ Chí Minh (75,7), đài An Giang (58,6%).
Một số đài nƣớc ngoài nhƣ Trung Quốc, Căm-Pu-Chia, Mỹ, Anh v.v..
cũng đƣợc ghi nhận có sự phủ sóng tại địa bàn nghiên cứu nhƣng chất
lƣợng kém và không ổn định.
Đánh giá về chất lượng sóng phát thanh
4.3 4.3 6.415.7
4.86.4
1217.9
25.749.7
57.4
60.355.7
45.7
43.431.9
23.4 2012.9
2.10%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Đài Đồng
Tháp
Đài Tiếng nói
Việt Nam
Đài Vĩnh
Long
Đài Tp. Hồ
Chí Minh
Đài PT An
Giang
Rất tốt
Tốt
Kém/ Không ổn định
Không thu được
178
2. Mức độ nghe đài
Nếu nhƣ ngƣời dân đồng bằng sông Cửu Long dành thời gian xem
truyền hình trung bình đạt 153 phút/ ngày thì khoảng thời gian trung bình
dành cho việc nghe radio chỉ là 105 phút/ ngày. Số liệu cụ thể về thời gian
nghe đài trong ngày đƣợc biểu thị trong Bảng 4 dƣới đây.
Bảng 4: Thời gian nghe đài trong một ngày (%)
Số giờ nghe đài trong ngày Tỷ lệ
Nghe dƣới 1 giờ/ ngày 27.1
Nghe từ 1h – 3h/ ngày 53.6
Nghe từ 3h – 6h/ ngày 15.7
Nghe từ 6h – 10h/ ngày 3.6
Bên cạnh đó, với những ngƣời có thói quen nghe đài hàng ngày,
những khung giờ sử dụng radio nhiều nhất là buổi sáng sớm (05h30 –
07h30), buổi trƣa (11h30 – 13h30) và buổi chiều tối (17h00 – 22h00). Kết
quả nghiên cứu cũng cho thấy lƣợng ngƣời nghe vào hai ngày cuối tuần
thứ Bảy và Chủ nhật hầu nhƣ không khác so với năm ngày còn lại trong
tuần (từ 28% đến 30% lƣợng thính giả).
37.5
9.7
7.6
28.5
8.3
10.4
23.6
20.8
25
28.5
15.3
4.2
0 5 10 15 20 25 30 35 40
Từ 05.30 đến 07.30 giờ
Từ 07.30 đến 09.00 giờ
Từ 09.0 đến11.30 giờ
Từ 11.30 đến13.30 giờ
Từ 13.30- 15.00giờ
Từ 15.00- 17.00 giờ
Từ17.00- 19.00 giờ
Từ 19.00- 20.00 giờ
Từ 20.00- 21.00 giờ
Từ 21.00- 22.00 giờ
Từ 22.00- 23.00 giờ
Sau 23.00 giờ
Thời điểm nghe đài trong ngày của những người có thói quen sử dụng radio
179
Với việc tiếp cận các kênh phát thanh nhƣ đã mô tả, mức độ tiếp
cận các nguồn thông tin ra sao?
Với ƣu thế là kênh thông tin chính thức của địa phƣơng, đài Đồng
Tháp thu hút đƣợc đến 71,8% lƣợng thính giả thƣờng xuyên. Kế tiếp là
Đài Tiếng nói Việt Nam với 67,9% và các đài khác trong khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long với trên 50% lƣợng thính giả thƣờng xuyên. Điều
này chứng tỏ nhu cầu về các kênh thông tin trên sóng phát thanh của mẫu
nghiên cứu khá đa dạng.
Mức độ nghe các kênh phát thanh
34.1
11.5
51.2
64.7
67.971.8 71.1
36.8
18.8
30.8
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Đài Đồng Tháp Đài Tiếng nói
Việt Nam
Đài Vĩnh Long Đài Tp. Hồ Chí
Minh
Đài PT An Giang
Thính giả thường xuyên Thính giả không thường xuyên
Kết quả này cũng chỉ ra rằng, so với các đài địa phƣơng, Đài Tiếng
nói Việt Nam đã chứng tỏ là một kênh truyền thông tin cậy, thu hút đƣợc
khá lớn lƣợng thỉnh giả là ngƣời dân Nam bộ. Sự tin cậy này còn đƣợc
khẳng định qua số liệu điều tra về ba đài phát thanh đƣợc ƣa thích nhất.
Ba đài phát thanh yêu thích nhất
42.5
17.819.8
32.1
43.6
12.314.3
16.7
29.2
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
Thích nhất Thích thứ hai Thích thứ ba
Đài Tiếng nói Việt Nam Đài Đồng Tháp Đài Vĩnh Long
180
Mặc dù tổng số ngƣời yêu thích thấp hơn Đài Đồng Tháp (80,1% so
với 88%) nhƣng xếp theo thứ tự ƣu tiên, Đài Tiếng nói Việt Nam lại đứng
đầu với 42.5% lƣợng thính giả yêu thích nhất. Lý do đƣợc đƣa ra chủ yếu
là:
- Thích đài Tiếng nói Việt Nam vì phát các nội dung trong cả nước.
Đài tỉnh chỉ có mỗi nội dung của tỉnh (TLN Thanh Bình: nam, sinh
1974, làm ruộng).
- Sóng của đài tỉnh yếu, nghe tạm được, không bằng TNVN: sóng
trong, âm lượng lớn. Đài Đồng Tháp tin tức chỉ riêng tỉnh. TNVN:
thời sự cả nước. Nói chung tin tức thời sự tỉnh không bằng (TLN
Hồng Ngự: nam, sinh 1958, cán bộ văn hóa Xã).
3. Đánh giá về các kênh sóng và nội dung phát thanh
Về nội dung các chƣơng trình phát thanh, chƣơng trình tin tức thời
sự thu hút đƣợc nhiều sự quan tâm nhất với 92,5% ngƣời lựa chọn, trong
đó, 66,1% cho rằng đây là chƣơng trình yêu thích nhất trên sóng phát
thanh.
Mức độ yêu thích các chương trình phát thanh của thính giả
56.651
41.1
27.5
1510.3
4.6
92.5
0.30.61.63.24.89.713.2
66.1
Tin tức Sân
khấu,
dân ca
vọng cổ
Chương
trình âm
nhạc
Chương
trình
nông
thôn
Thể thao Kể
chuyện
Chương
trình
quân đội
Khác
Yêu thích
Thích nhất
Với đặc điểm của văn hóa vùng miền, ngƣời dân Đồng Tháp nói
riêng và ngƣời dân đồng bằng sông Cửu Long nói chung rất thích các hoạt
181
động văn hóa văn nghệ mang đặc trƣng miền sông nƣớc. Do vậy, các
chƣơng trình sân khấu, dân ca vọng cổ thu hút đƣợc lƣợng thính giả nhiều
thứ hai sau các chƣơng trình tin tức thời sự với 56%. Các chƣơng trình về
đời sống nông thôn chỉ đứng thứ ba với 41,1% lƣợng thính giả yêu thích.
Với mỗi nội dung, chƣơng trình, ngƣời dân lại chọn những kênh
phát thanh khác nhau để thỏa mãn nhu cầu nghe đài của mình. Các
chƣơng trình tin tức, thời sự về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, an
ninh của đất nƣớc đƣợc khai thác nhiều qua sóng của Đài tiếng nói Việt
Nam. Trong khi đó, các chƣơng trình âm nhạc, sân khấu vốn là đặc trƣng
của mảnh đất Nam bộ chủ yếu đƣợc khai thác qua các đài địa phƣơng,
đứng đầu là đài phát thanh của tỉnh nhà – Đài Đồng Tháp.
Bảng 5: Lựa chọn nội dung yêu thích trên các sóng phát thanh (%)
Stt Đài
TNVN
Đài
Đồng
Tháp
Đài
Tp.HCM
Đài
tỉnh
khác
1. Tin tức 56,4 33,1 4,9 5,6
2. Âm nhạc 7,6 33,6 23,6 34,8
3. Sân khấu (tấu hài, ca
kịch)
5,0 31,4 24,3 39,3
4. Khác 30,0 46,7 20,0 13,3
Hình thức phát thanh đƣợc ƣa thích nhất là việc phát riêng các nội
dung tin tức, âm nhạc, sân khấu, giáo dục v.v.. trên từng kênh sóng riêng
biệt. Việc kết hợp các nội dung nhƣ vậy với nhau trên cùng một sóng phát
thanh không dành đƣợc nhiều sự thiện cảm của thính giả địa phƣơng. Bên
cạnh đó, kết quả khảo sát cũng cho thấy ở đây, vị trí của Đài Tiếng nói
Việt Nam trong việc phục vụ thính giả Nam bộ cũng đƣợc khẳng định khi
đáp ứng đƣợc nhu cầu của 42,8% lƣợng ngƣời nghe đài thông qua các
kênh sóng đã đƣợc khu biệt về nội dung thông tin và đối tƣợng thính giả
của mình.
182
4. Nhu cầu về phát thanh của ngƣời dân
Dù chỉ còn 41,4% số hộ gia đình còn sở hữu đài radio và 28,8% còn
giữ thói quen nghe đài, nhƣng điều đó không đồng nghĩa ngƣời dân không
còn nhu cầu thƣởng thức các chƣơng trình phát thanh. 65,7% số ngƣời
đƣợc hỏi cho biết vẫn có nhu cầu này.
- Không phải “có trăng quên đèn”. Nếu có Radio thì vẫn nghe. Vì
đang lao động không thể vào nhà xem tivi, có Radio mang theo
mình vẫn hay hơn (TLN Hồng Ngự, nam, sinh 1943, cán bộ thƣơng
binh xã hội).
66,3% mong muốn đƣợc cấp phát miễn phí máy thu thanh. Và nếu
chất lƣợng sóng phát thanh đƣợc cải thiện, 77,1% những ngƣời không
nghe đài hiện nay do các nguyên nhân liên quan đến bắt sóng khẳng định
sẽ quay lại sử dụng đài radio.
Bên cạnh đó, hệ thống loa truyền thanh ngoài chức năng thông tin
các vấn đề, tình hình của địa phƣơng còn có một chức năng rất quan trọng
là đảm bảo việc truyền tải, tiếp sóng các đài từ Trung ƣơng đến các đài
cấp tỉnh, huyện nhằm cung cấp thông tin kịp thời về các chủ trƣơng,
đƣờng lối, pháp luật, chỉ thị, chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc đến ngƣời
dân. Do vậy, hầu hết mẫu nghiên cứu định tính đều thể hiện nhu cầu và sự
quan tâm khá lớn đến phƣơng tiện truyền thanh này.
- Rất ủng hộ loa phát thanh tại các khu vực dân cư. Bà con rất có
nhu cầu nhưng không có loa nên không nắm bắt được nhiều thông
tin (TLN Thanh Bình: nam, sinh 1977, làm ruộng).
a. Nội dung muốn nghe đài
Nhu cầu về việc phát triển các kênh phát thanh chuyên biệt về từng
lĩnh vực của đời sống đƣợc ngƣời dân đồng bằng sông Cửu Long thể hiện
khá rõ. 80,2% thính giả sẵn sàng mở đài trong thời gian rỗi, thậm chí 19,%
nói rằng sẽ mở đài liên tục trong ngày nếu Đài Tiếng nói Việt Nam có
183
thêm các kênh phát thanh chuyên cập nhật thông tin về tình hình giao
thông, tình hình thiên tai dịch bệnh, tình hình giá cả thị trƣờng v.v..
Để nhận diện rõ hơn nhu cầu của ngƣời dân về các nội dung trên
sóng phát thanh, chúng tôi tập trung tìm hiểu cụ thể về các thể loại tin tức,
âm nhạc, sân khấu mà ngƣời dân mong muốn.
Nhu cầu về nội dung tin tức
Các số liệu phân tích cho thấy, đối với ngƣời dân đồng bằng sông
Cửu Long, các tin tức về tình hình thời tiết, thiên tai, dịch bệnh... luôn
đƣợc quan tâm nhiều nhất với 84,8% mẫu nghiên cứu lựa chọn. Nhu cầu
này cũng dễ hiểu bởi Đồng Tháp nói riêng và đồng bằng sông Cửu Long
nói chung vốn là khu vực trọng điểm về sản xuất nông nghiệp của cả nƣớc
nên năng suất và sản lƣợng phụ thuộc rất lớn vào tình hình thời tiết, thiên
nhiên, dịch bệnh.
Nhu cầu tin tức của ngƣời dân còn đƣợc tập trung vào các hoạt động
của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nƣớc. Điều này cho thấy, ngƣời dân nơi
đây cũng rất quan tâm đến tình hình chính trị của đất nƣớc (Bảng 6).
Bảng 6: Loại tin tức ƣa thích của ngƣời dân
Loại tin tức Rất
thích
Thích Bình
thƣờng
Không
thích
1. Tin về hoạt động của các vị
lãnh đạo Đảng và Nhà nƣớc 32.7 37.2 18.8 11.3
2. Tin về hoạt động của các
công ty, nhà máy, xí nghiệp
2.3 20.1 46 31.7
3. Tin giá cả thị trƣờng, tin tài
chính, chứng khoán..
8.1 43.5 27.3 21.1
4. Tin thời tiết, thiên tai, dịch
bệnh.. 26.2 58.6 8.4 6.8
5. Tin tai nạn và ách tắc giao
thông
19.0 57.5 14.4 9.2
184
Nhu cầu về nội dung sân khấu:
Bảng 7 đã cho ta biết việc thính giả nơi đây có nhu cầu về các
chƣơng trình sân khấu phát sóng trên các đài địa phƣơng trong khu vực
Nam bộ. Vậy, để làm sáng tỏ nhu cầu này, chúng tôi đã đƣa ra những thể
loại sân khấu tiêu biểu để mẫu nghiên cứu lựa chọn. Kết quả cho thấy,
những thể loại sân khấu đặc trƣng của miền sông nƣớc nhƣ cải lƣơng, tấu
hài luôn thu hút lƣợng thính giả cao. Trong khi đó, nhu cầu về kịch nói
hay các chƣơng trình đọc chuyện, kể chuyện chỉ thu hút đƣợc trên dƣới
30% lƣợng ngƣời nghe đài (Bảng 7).
Bảng 7: Thể loại sân khấu ƣa thích của ngƣời dân
Thể loại sân khấu Rất
thích
Thích Bình
thƣờng
Không
thích
1. Kịch nói 2.9 21.5 28 47.6
2. Tấu hài 18.2 48.7 12.7 20.5
3. Cải lƣơng/ tuồng chèo 21.3 32.6 19.7 26.5
4. Kể chuyện/Đọc chuyện 4.6 31.6 22 41.8
Nhu cầu về nội dung âm nhạc
Bảng 8: Thể loại âm nhạc ƣa thích của ngƣời dân
Thể loại âm nhạc Rất
thích
Thích Bình
thƣờng
Không
thích
1. Nhạc cổ điển (nhạc không
lời/giao hƣởng thính phòng)
1.0 11.6 15.6 71.9
2. Nhạc truyền thống (dân ca vọng
cổ) 19.5 44.5 13.6 22.4
3. Nhạc tiền chiến 11.4 31.4 24.5 32.7
4. Nhạc cách mạng 20.1 35.9 22 22
5. Nhạc vàng/Nhạc sến 10.8 20.9 23.5 44.8
6. Nhạc trẻ 5.3 12.5 20.5 61.7
185
Đại đa số (98,9%)ngƣời đƣợc hỏi mong muốn nghe âm nhạc của
Việt Nam trên sóng phát thanh và hầu nhƣ không có nhu cầu về âm nhạc
của nƣớc ngoài. Trong đó, thể loại nhạc truyền thống đặc trƣng của miền
sông nƣớc Cửu Long là dân ca vọng cổ luôn có lƣợng nhu cầu cao nhất
với 64%. Kế đến là thể loại nhạc cách mạng với 56% lƣợng thính giả
muốn nghe. Hai thể loại âm nhạc ít nhận đƣợc sự quan tâm của thính giả
nơi đây là nhạc cổ điển và nhạc trẻ (Bảng 8).
b. Thời điểm muốn nghe đài
Cùng với việc tìm hiểu những mong muốn về nội dung phát sóng
trên radio, việc tìm hiểu nhu cầu về thời điểm muốn nghe đài của ngƣời
dân cũng rất quan trọng.
Những số liệu thu về cho thấy 58,1% những ngƣời có nhu cầu nghe
đài muốn nghe radio trƣớc khi đi ngủ buổi tối (kết quả khảo sát thời điểm
nghe hiện nay cho thấy 48% những ngƣời nghe đài hàng ngày thƣờng sử
dụng radio từ 21h00 trở đi). Còn lại, ngƣời dân thƣờng muốn kết hợp việc
nghe đài với những công việc hàng ngày cũng nhƣ các hoạt động cá nhân
nhƣ ăn cơm, tập thể dục, vệ sinh cá nhân v.v..
Thời điểm muốn nghe đài
2.4
0.3
6.4
15.3
16.2
19.9
58.1
0 10 20 30 40 50 60 70
Khác .
Lúc đợi chờ tàu xe/ đang tham gia giao thông
Lúc mất điện
Lúc thực hiện các hoạt động cá nhân
Lúc có thời gian tập trung nghe đài
Vừa làm việc vừa nghe đài
Trước khi đi ngủ buổi tối
186
Nếu tính theo thời gian 24h trong ngày, các kết quả định lƣợng và
định tính đều cho thấy ba thời điểm ngƣời dân muốn nghe radio nhất là lúc
sáng sớm 5h00 – 7h00, buổi trƣa 11h00 – 13h00 và buổi tối khuya 21h00 -
23h00. Có thể thấy đây đều là những khung giờ diễn ra các hoạt động nghỉ
ngơi, thƣ giãn của cá nhân, sau những giờ làm việc vất vả.
- Thích nghe vào lúc 5h00 - 6h00 với các nội dung về giáo dục, chính
sách pháp luật. Nói chung, buổi sáng nghe thời sự là thích nhất.
Chương trình nên giảm bớt ca hát đi (TLN Thanh Bình, nam, sinh
1958, giáo viên/ bán thuốc tây)
Với mỗi loại nội dung thông tin trên sóng phát thanh, ngƣời dân
cũng có nhu cầu đƣợc nghe vào những khung giờ và thời điểm khác nhau,
tập trung vào sáng sớm hoặc buổi chiều tối. Những khung giờ điển hình
đƣợc biểu thị trong Bảng 9.
Bảng 9: Khung giờ muốn nghe các loại nội dung phát thanh
Stt Nội dung phát thanh Khung giờ
muốn nghe
5. Các kênh tƣơng tác: âm nhạc, phổ biến kiến thức, tƣ
vấn sức khỏe.....
5h00 – 6h00
20h00 – 22h00
6. Trọng tâm cập nhật thông tin về tình hình giao thông
trên kênh âm nhạc
19h00 – 21h00
7. Trọng tâm cập nhật thông tin về thời tiết, thiên tai, dịch
bệnh... trên kênh âm nhạc
18h00 – 21h00
8. Kênh tƣ vấn mua sắm, giá cả thị trƣờng, thông tin
chứng khoán, quảng cáo, xúc tiến thƣơng mại...
19h00 – 21h00
Từ 15 đến 30 phút là khoảng thời gian thính giả muốn các kênh cập
nhật thông tin về tình hình giao thông, thời tiết trong mỗi lần phát. Ý kiến
của ngƣời dân cho thấy, những thông tin này rất quan trọng đối với nhà
nông nên cần phải có đủ lƣợng thời gian để truyền tải, cũng nhƣ thuận tiện
cho việc nắm bắt đối với ngƣời nghe.
187
5. Kết luận
Nghiên cứu thực trạng tiếp và nhu cầu tiếp sóng đài phát thanh của
ngƣời dân đồng bằng Sông Cửu Long thông qua trƣờng hợp tỉnh Đồng
Tháp cho phép ta rút ra một số kết luận sau:
a. Giống nhƣ tại nhiều khu vực đại lý khác nhau trên cả nƣớc, tỷ lệ
ngƣời tiếp cận với sóng đài phát thanh thƣờng không cao, chỉ đạt tỷ
lệ 28% (trong khi tỷ lệ ngƣời xem truyền hình là 96%, nghe
băng/đĩa là 31%, đọc báo/ tạp chí là 27% và 5,2% sử dụng Internet).
b. Tuy có gần một nửa số ngƣời đƣợc hỏi trả lời đã từng nghe đài phát
thanh nhƣng cũng chỉ có gần một nửa số đó có nghe đài trong tháng
trƣớc thời điểm tiến hành điều tra. Những lý do không nghe đài thời
gian gần đây chủ yếu là do nội dung không hấp dẫn và chất lƣợng
thu sóng kém.
c. Vào ngày thƣờng (từ thứ 2 đến thứ 6), thính giả ở Đồng Tháp
thƣờng nghe đài Đồng Tháp và Đài tiếng nói Việt Nam, nhƣng vào
thứ Bảy và Chủ Nhật lại thƣờng nghe đài Vĩnh Long và TP. Hồ Chí
Minh hơn.
d. Thời lƣợng nghe đài mỗi ngày của thích giả Đồng Tháp cao hơn
khá nhiều so với thích giả Tây Bắc (105 phút so với 90 phút) và
không sự khác biệt nhiều giữa ngày thƣờng và ngày cuối tuần.
e. Thời điểm thƣờng thu hút ngƣời dân đồng bằng sông Cửu Long
nghe đài nhiều nhất là lúc sáng sớm từ 5h30 đến 7h30. Điều này
ngƣợc với truyền hình khi công chúng chủ yếu theo dõi vào buổi
tối. Những khung giờ khác cũng thu hút đƣợc thính giả là buổi trƣa
(12h00) và tối (từ 21h00-22h00) và ngƣời dân thƣờng nghe đài với
lúc thƣ giãn, nghỉ ngơi hay kết hợp khi lao động, làm việc.
188
f. Kết quả nghiên cứu có thể dự báo rằng số ngƣời muốn nghe đài có
thể tăng thêm hơn 2 lần so với hiện nay (65,7% so với 28,%) nếu
nhƣ chất lƣợng bắt sóng nghe đài tốt hơn.
g. Với các đặc trƣng về phƣơng thức sản xuất và văn hóa, lối sống của
đồng bằng sông Cửu Long, nhu cầu về loại thông tin trên sóng radio
của ngƣời dân tập trung vào các nội dung sau: các tin tức về tình
hình thời tiết, thiên tai, dịch bệnh, giá cả thị trƣờng, tình hình giao
thông; các chƣơng trình âm nhạc dân ca vọng cổ; và các chƣơng
trình sân khấu cải lƣơng, tấu hài.
h. Thích giả đồng bằng sông Cửu Long đang ngày càng có nhu cầu
cao với các kênh phát thanh chuyên biệt, cập nhật và có tính tƣơng
tác cao về những lĩnh vực của đời sống. Ngƣời dân mong muốn
đƣợc nghe riêng các nội dung tin tức, âm nhạc, sân khấu, giáo dục
v.v.. trên từng kênh sóng riêng biệt. Tuy nhiên, để tăng sự hấp dẫn
cho sóng phát thanh, thính giả cũng rất ủng hộ việc kết hợp các
chƣơng trình âm nhạc với các tin tức khác nhau về thời sự, giao
thông, thời tiết và dịch bệnh, nông vụ v.v..
189
TIẾP CẬN VÀ ĐÁNH GIÁ BÁO IN CỦA NGƢỜI DÂN
VÙNG TÂY BẮC
( Qua khảo sát tại hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai )
Ths. Nguyễn Thị Tố Quyên
Lào Cai và Yên Bái là hai tỉnh miền núi phía Bắc nƣớc ta. Nằm dọc
theo biên giới, nơi đây có cửa ngõ thông thƣơng giữa nƣớc ta với các nƣớc
bạn, là địa bàn rất quan trọng về quốc phòng và an ninh. Để đảm bảo sự
ổn định và phát triển đất nƣớc Đảng và Nhà nƣớc ta luôn quan tâm làm tốt
công tác tƣ tƣởng từ Trung ƣơng tới cấp cơ sở. Truyền thông đại chúng
đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần nâng cao nhận thức và thay
đổi hành vi của ngƣời dân. Qua các phƣơng tiện truyền thông đại chúng
mà những chủ trƣơng, chính sách, đƣờng lối của Đảng và nhà nƣớc đƣợc
lƣu chuyển tới ngƣời dân, hƣớng tới sự phát triển đúng đắn, đồng đều và
toàn diện.
Năm 2006 Khoa Xã hội học – Học viện Báo chí và Tuyên truyền
tiến hành đề tài khảo sát về tiếp cận truyền thông đại chúng của ngƣời dân
vùng Tây bắc thông qua nghiên cứu khảo sát tại hai tỉnh Lào Cai và Yên
Bái. Mẫu khảo sát lựa chọn là 600 hộ gia đình chia đều cho hai tỉnh. Ở
mỗi tỉnh đề tài chọn 3 phƣờng, xã trong đó một phƣờng ở đô thị, hai xã ở
khu vực nông thôn.Việc lựa chọn này với mong muốn tìm hiểu đƣợc sự
tiếp cận của ngƣời dân ở cả khu vực đô thị và nông thôn, ở những gia đình
có điều kiện kinh tế mua sắm đƣợc trang thiết bị và các phƣơng tiện
truyền thông cũng nhƣ các gia đình còn khó khăn phải sử dụng nhờ các
phƣơng tiện truyền thông với nhiều cách khác nhau. Trong bài viết này,
chúng tôi đi vào phân tích thực trạng đọc báo cũng nhƣ những đánh giá
của ngƣời dân vùng Tây bắc đối với các sản phẩm báo in bao gồm các báo
trung ƣơng và báo địa phƣơng.
190
Có thể hiểu báo in là một loại hình tuyên truyền của Đảng và Chính
quyền các cấp. Bất cứ một loại hình tuyên truyền nào cũng đều có công
chúng và trên thực tế công chúng là những ngƣời tham gia vào quá trình
tuyên truyền đóng vai trò ngƣời theo dõi, tiếp nhận và phản hồi thông tin.
Cũng nhƣ các loại hình khác báo in có công chúng của mình. Đối
tƣợng mà báo in tác động đến cũng chính là đối tƣợng của báo chí đó
chính là công chúng. Thực tế cho thấy, ngƣời dân miền núi do địa bàn dân
cƣ phân tán, điều kiện giao thông chƣa thuận tiện, trình độ dân trí còn
thấp, phong tục tập quán lạc hậu, đời sống ngƣời dân còn gặp nhiều khó
khăn. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức, nâng cao chất lƣợng cuộc sống
phải đƣợc đặt lên hàng đầu, cần thiết phải có sự tham gia của các phƣơng
tiện truyền thông vào hoạt động có ý nghĩa sống còn này. Khảo sát sự tiếp
cận và đánh giá của ngƣời dân tây bắc đối với sản phẩm báo in nhằm nâng
cao vai trò của báo chí đối với quá trình chuyển tải thông tin kinh tế, chính
trị, xã hội… tới ngƣời dân khu vực niềm núi. Thông qua đó góp phần giúp
cho báo in hoàn thiện hơn về cả hình thức và nội dung đáp ứng đƣợc nhu
cầu thị hiếu của công chúng đối với loại hình, phƣơng tiện truyền thông
này. Dƣới đây là một số kết quả khảo sát.
1. Thực trạng tiếp cận báo in của ngƣời dân vùng Tây Bắc:
Một vài nét về đặc điểm của các hộ dân trong mẫu nghiên cứu:
Bảng1. Phân loại hộ gia đình của các địa phương:
Số lƣợng Phần trăm
Đói 16 2.7
Nghèo 98 16.3
Trung bình 319 53.2
Khá giả 156 26.0
Giàu 11 1.8
Tổng 600 100.0
191
Kinh tế gia đình đóng vai trò khá quan trọng trong việc tiếp cận các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng. So với các gia đình đồng bằng, miền
xuôi thì điều kiện của ngƣời dân nơi đây còn gặp nhiều khó khăn, kinh tế
chủ yếu ở mức trung bình( 319 hộ), nhiều hộ nghèo( 98 hộ), tỉ lệ hộ giàu rất
thấp (11 hộ).
Tuy nhiên, ở vùng Tây Bắc việc tiếp cận với các phƣơng tiện truyền
hình bị tác động bởi kinh tế gia đình rất lớn thì việc tiếp cận báo in lại có
những đặc thù riêng. Báo in theo nhiều con đƣờng khác nhau đƣợc chuyển
đến thôn bản và đến với ngƣời dân vùng Tây Bắc. Việc tiếp cận báo in của
ngƣời dân phụ thuộc khá lớn vào công việc, vị thế, nơi làm việc… bởi các
dịch vụ phát hành báo còn rất hạn chế hất là ở vùng sâu, vùng xa. Trong
quá trình khảo sát chúng tôi đến xã Trịnh Tƣờng, huyện Bát Sát, tỉnh Lào
Cai là một xã vùng giáp biên. Ở đây các cửa hàng, sạp sách báo không có,
chủng loại báo cũng hết sức nghèo nàn, chỉ có thể tìm đƣợc báo Nhân
Dân, Quân Đội Nhân Dân, báo Phụ nữ, báo Nông thôn ngày nay, báo Lào
Cai, tạp chí Dân tộc và miền núi và một vài báo nữa. Các báo này cũng chỉ
có đƣợc khi vào các cơ quan đóng trên địa bàn xã, Uỷ ban nhân dân và
bƣu điện văn hoá xã và gia đình các cán bộ thôn, bản. Điều này ảnh hƣởng
lớn tới khả năng tiếp cận báo in của ngƣời dân ở đây.Tuy nhiên trả lời câu
hỏi: đọc báo ở đâu? Qua khảo sát 289 ngƣời đọc báo chiếm 48.2% trong
tổng số mẫu điều tra, có 195 ngƣời trả lời đọc tại nhà riêng chiếm 67.5%
trong tổng số ngƣời đọc báo, chỉ có 14 ngƣời đọc tại bƣu điện văn hoá xã
chiếm 4.8% và 12 ngƣời đọc tại nhà văn hoá thôn bản chiếm 4.2%.
Bên cạnh đó việc tiếp cận báo in cũng chịu ảnh hƣởng bởi trình độ
học vấn của công chúng rất lớn. Để tiếp cận đƣợc báo in một cách chủ
động dễ ràng thì ngƣời dân phải biết đọc chữ phổ thông. Trong tổng số
600 ngƣời đƣợc hỏi thì chỉ có 348 ngƣời biết đọc, biết viết tiếng Việt mà
hiện nay chƣa có báo in viết bằng tiếng các dân tộc. Điều này ảnh hƣởng
không nhỏ đến tỷ lệ đọc báo của ngƣời dân. Đặc biệt có hơn một nửa số
ngƣời không đọc báo ( 311 ngƣời ) với các lí do nhƣ không biết đọc ( 78
192
ngƣời ); không có báo để đọc ( 72 ngƣời ); không có thời gian (71 ngƣời);
không thích ( 45 ngƣời )... Nhƣ vậy, có cả lý do chủ quan và khách quan
dẫn tới hạn chế trong việc tiếp cận báo của ngƣời dân. Để ngƣời dân có
thể tiếp cận báo một cách thƣờng xuyên các toà soạn và các nhà quản lý
cần quan tâm tới việc khắc phục các nguyên nhân này.
2. Mức độ tiếp cận báo in của ngƣời dân vùng Tây Bắc:
a. Mức độ sử dụng các phƣơng tiện truyền thông:
Báo in là phƣơng tiện khá phổ thông và hữu ích trong xã hội phát
triển. Với đặc thù là cơ động, dễ vận chuyển, chuyển tải đƣợc những thông
tin đa chiều tới công chúng, song do nhiều nguyên nhân khác nhau báo in
đứng ở mức tiếp cận thứ 5 trong các phƣơng tiên truyền thông đƣợc đề
cập đến trong nghiên cứu này. Thời gian đọc báo của ngƣời dân vào ngày
thƣờng từ thứ 2 đến thứ sáu trung bình là 1.2h, ngày nghỉ thứ 7 và chủ
nhật là 1.h. So sánh với thời gian xem truyền hình trung bình là 3.7h ngày
thƣờng 4h ngày nghỉ và nghe đài là 1.7h ngày thƣờng và 2h ngày nghỉ
của ngƣời dân thì thời gian đọc báo không nhiều. Trong các phƣơng tiện
truyền thông đại chúng ngƣời dân tiếp cận đến báo in chƣa cao. Điều này
thể hiện qua mức độ sử dụng một số phƣơng tiện truyền thông vào ngày
thƣờng và ngày nghỉ của ngƣời dân Tây Bắc.
Biểu đồ 1: Mức độ sử dụng một số phương tiện TTĐC vào ngày thường
và ngày nghỉ của người dân vùng Tây Bắc
3.7
4
1.31.21.2
1.71.5
1
1.31.4
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
4.5
Xem truyÒn h×nh Nghe ®µi Nghe xem CD §äc b¸o Sö dông Internet
Ngµy thêng Ngµy nghØ
193
Nhìn vào biểu đồ ta thấy rằng vào ngày nghỉ thứ 7 và chủ nhật thời
gian ngƣời dân tiếp cận với các phƣơng tiện truyền thông cao hơn ngày
thƣờng nhƣng đối với báo in thì ngày nghỉ lại giảm đi trung bình khoảng
0.2 giờ. Điều này cho thấy vào những ngày nghỉ các phƣơng tiện truyền
thông khác đặc biệt là truyền hình có các chƣơng trình giải trí hấp dẫn
ngƣời dân hơn ngày thƣờng. Bên cạnh đó còn có nguyên nhân một số
lƣợng ngƣời trả lời ( 48 ngƣời) thƣờng đọc báo tại cơ quan công sở nơi
làm viêc dẫn tới việc thời gian đọc báo trung bình của ngƣời dân giảm
vào ngày nghỉ. Trong số 289 ngƣời đọc báo có 112( 38.8% ) ngƣời trả lời
tờ báo, tạp chí mà họ thƣờng đọc là hoàn toàn miễn phí; có cấp miễn phí,
thỉnh thoảng tự mua là 31 ngƣời( 10.7% ) và 68( 23.5% ) ngƣời tự mua
báo đọc. Nhƣ vậy số ngƣời đọc báo đƣợc cấp miễn phí chiếm tỷ lệ khá
lớn trong tổng số ngƣời đọc báo. Trƣớc đây thời gian ngƣời dân miền núi
nghe đài, đọc báo cao thì hiện nay có xu hƣớng ngày càng giảm và
nhƣờng chỗ cho các phƣơng tiện khác nhƣ truyền hình, internet.
b. Mức độ thƣờng xuyên đọc báo:
Báo chí là phƣơng tiện truyền thông đƣợc ngƣời dân Tây Bắc tiếp
cận nhiều thứ hai ( sau truyền hình ). Đảng và nhà nƣớc đã hỗ trợ rất nhiều
để ngƣời dân vùng sâu, vùng xa có thể tiếp cận đƣợc sách báo. Tại Lào
Cai và Yên Bái đều có cả báo in và báo ảnh cho các xã. Lào Cai có báo
Lào Cai thƣờng kỳ ( 3 số/ tuần ) và báo Lào Cai cuối tuần đƣợc cấp đến bí
thƣ chi bộ, trƣởng thôn, bản. Tờ báo ảnh vùng cao đƣợc cấp phát miễn phí
cho 1703 cán bộ thôn, bản. Tại Yên Bái cũng tƣơng tự nhƣ vậy, tuy không
có báo ảnh nhƣng có tạp chí văn nghệ Yên bái ra hàng tháng, mỗi số 500
bản cấp đến các xã trong tỉnh. Các chính sách ƣu đãi trên tạo điều kiện cho
nhiều ngƣời dân vùng Tây Bắc có thể đọc đƣợc báo, tạp chí trung ƣơng và
của địa phƣơng. Về mặt lý thuyết là nhƣ vậy nhƣng trên thực tế số lƣợng
ngƣời tiếp cận đến báo in ở khu vực thôn bản rất hạn chế.
Trong tổng số ngƣời đọc báo có 144 ngƣời đọc hàng ngày còn lại là
những ngƣời đọc không thƣờng xuyên. Bên cạnh đó những ngƣời thƣờng
194
xuyên đọc báo lại tập chung khá lớn ở khu vực đô thị ( 107 ngƣời ), còn ở
nông thôn chiếm một số lƣợng khá khiêm tốn (37 ngƣời ). Trong khi đó
tổng số mẫu điều tra chỉ có 1/3 là sống ở đô thị còn lại là ở nông thôn.
Nhƣ vậy có thể nói ngƣời dân sống ở khu vực nông thôn tiếp cận báo in
còn hết sức hạn chế. Điều này một mặt do hạn chế về trình độ học vấn,
mặt khác còn có nguyên nhân khách quan là ngƣời dân có ít thời gian đọc
báo và không có báo để đọc.
Biểu đồ 2: Mức độ thường xuyên đọc báo của người dân
311
144
73
72
Kh«ng ®äc
§äc thêng xuyªn
NhiÒu lÇn 1 tuÇn
1 lÇn 1 tuÇn
c. Về địa điểm đọc báo
Qua khảo sát 289 ngƣời đọc báo chiếm 48.2% trong tổng số mẫu
điều tra, có 195 ngƣời trả lời đọc tại nhà riêng chiếm 67.5% trong tổng số
ngƣời đọc báo, chỉ có 14 ngƣời đọc tại bƣu điện văn hoá xã chiếm 4.8%
và 12 ngƣời đọc tại nhà văn hoá thôn bản chiếm 4.2%. Đối với những
ngƣời thƣờng xuyên đọc báo cho kết quả nhƣ sau:
Biểu đồ 3: Địa điểm đọc báo của ngƣời dân
67.5
91.7
21.8
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Nhµ riªng N¬i c«ng céng Hµng xãm Kh¸c
195
Địa điểm đọc báo của ngƣời dân thƣờng đọc ở nhà riêng chiếm
67,5% trong số 144 ngƣời thƣờng xuyên đọc báo. Nơi đọc báo là điểm
bƣu điện văn hoá xã và nhà văn hóa thôn bản chỉ chiếm 9.0%; nơi đọc báo
là cơ quan công sở cũng khá cao. Điều này khác với suy nghĩ ban đầu của
chúng tôi khi tiến hành nghiên cứu này bởi vì địa điểm đọc báo cộng cộng
những ngƣời đọc báo thƣờng xuyên rất ít sử dụng. Mặt khác, báo cũng
đƣợc cấp miễn phí cho các cán bộ thôn bản nên số lƣợng phát hành lớn,
nhƣng thực tế để các tờ báo đến đƣợc với đông đảo tầng lớp nhân dân là
không nhiều.
Trong nghiên cứu của chúng tôi số ngƣời không đọc báo chiếm trên
50% trong tổng số ngƣời trong mẫu điều tra (311 ngƣời). Trong số này
Lào Cai 165 ngƣời chiếm 53.1%; tỉnh Yên Bái 146 ngƣời chiếm 46.9%.
Đa số những ngƣời không đọc báo sống ở khu vực nông thôn. Để báo in
thực sự đến đƣợc với đông đảo độc giả, nó phụ thuộc rất nhiều vào sự phát
triển của cơ sở hạ tầng, giao thông, các phƣơng tiện vận chuyển, phân
phối báo chí. Thực tế nghiên cứu cho thấy việc các đầu báo kể cả báo
trung ƣơng hay báo địa phƣơng đến đƣợc với độc giả vùng cao thƣờng
xuyên bị chậm so với ngày phát hành. Do đó chất lƣợng thông tin không
đƣợc cập nhật so với phát thanh và truyền hình.
Có thể thấy cùng với sự phát triển của điều kiện kinh tế xã hội các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng ngày càng phong phú và hấp dẫn hơn,
khả năng tiếp cận các phƣơng tiện truyền thông hiện đại của ngƣời dân
ngày càng phổ biến. Tuy nhiên việc tiếp cận báo in của ngƣời dân còn hạn
chế. Điều này đòi hỏi các toà soạn cần phải có những nghiên cứu đánh giá
khoa học nhằm thay đổi nội dung, hình thức và cách thức phân phối nhằm
thu hút đƣợc bạn đọc trên diện rộng.
3. Đánh giá về báo in của ngƣời dân vùng Tây Bắc:
Tiếp theo chúng tôi xin phân tích những đánh giá của bạn đọc đối
với một số khía cạnh của báo in hiện nay.
196
a. Mức độ yêu thích.
Trả lời câu nội dung: Hai tờ báo, tạp chí mà bạn yêu thích nhất có kết
quả nhƣ sau:
Bảng 2: Mức độ yêu thích của người dân
Loại báo Số lƣợng Phần trăm
Báo Nhân Dân 112 39.0
Báo địa phƣơng 89 31.0
Báo An ninh thế giới 56 19.0
Các báo khác 30 10.0
Tổng 289 100.0
Qua số liệu ở bảng trên ta thấy trong số 289 ngƣời đọc báo có 112
ngƣời thƣờng đọc báo Nhân dân chiếm 39%; đứng thứ 2 là báo Địa
phƣơng với 89 bạn đọc yêu thích chiếm 35.9%; đứng thứ 3 là báo An ninh
thế giới có 56 bạn đọc yêu thích chiếm 19.5%. Qua đó ta thấy ngƣời dân
vùng tây bắc quan tâm nhiều đến báo nhân dân. Báo nhân dân là cơ quan
ngôn luận chính thức của Đảng và Nhà nƣớc Việt nam. Đây là tờ báo
chuyển tải mọi chủ trƣơng chính sách, đƣờng lối về kinh tế, chính trị, văn
hoá xã hội của Đảng và Chính phủ tới nhân dân. Việc tiếp cận thƣờng
xuyên với báo Nhân dân của ngƣời dân giúp ngƣời dân nắm bắt và thực
hiện đƣợc đƣờng lối của Đảng đƣa các Nghị quyết của Đảng vào cuộc
sống. Bên cạnh đó báo địa phƣơng cũng là tờ báo đƣợc ngƣời dân quan
tâm yêu thích. Những thông tin chuyển tải trên tờ báo địa phƣơng có
những nội dung đƣợc ngƣời dân quan tâm vì nó gắn liền với lợi ích của
họ. Thông qua tờ báo này ngƣời dân nắm bắt khá kịp thời các hoạt động
đang diễn ra tại địa phƣơng mình. Nó góp phần làm cho ngƣời dân thực
hiện tốt vai trò làm chủ tại cơ sở.
b. Mức độ phù hợp:
Trong số 289 ngƣời đọc báo có 170 ngƣời trả lời đánh gía việc đƣa
tin tức thời sự trên báo Trung ƣơng và báo Địa phƣơng là phù hợp, trong
đó báo Trung ƣơng đƣợc 145 ngƣời đánh giá là phù hợp chiếm 85.3%, 25
197
ngƣời đánh giá là không phù hợp chiếm 14.7%; báo Địa phƣơng có 79
ngƣời trả lời là phù hợp chiếm 46.5% và 91 ngƣời trả lời không phù hợp
chiếm 53.5%. Nhƣ vậy chúng ta có thể thấy sự đánh giá của ngƣời dân về
độ phù hợp của báo Trung ƣơng cao hơn báo Địa phƣơng. Trong quá trình
đi nghiên cứu chúng tôi thấy cả hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái báo địa
phƣơng đƣợc cấp phát miễn phí đến tận chi bộ, thôn, bản. Đây là điểm tốt
và là sự cố gắng của toà soạn cũng nhƣ chính quyền địa phƣơng trong quá
trình thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội tại các tỉnh miền núi phía bắc.
Song bên cạnh đó tỷ lệ ngƣời trả lời là thông tin thời sự chƣa phù hợp của
báo địa phƣơng là khá cao( 53.5% ). Điều này đòi hỏi các báo địa phƣơng
cần phải chỉnh sửa nội dung và hình thức đƣa tin sao cho phù hợp với
trình độ nhận thức cũng nhƣ nhu cầu thông tin của ngƣời dân.
BiÓu 4: Tin tức thời sự trên báo in là phù hợp
Trung ương
85.3
14.7
Đúng
Sai
dia phuong
53.5
46.5
Đúng
Sai
c. Mức độ hấp dẫn:
Trong số 289 ngƣời đọc báo có 168 ngƣời trả lời đánh giá việc đƣa
tin tức thời sự trên báo là hấp dẫn trong đó báo Trung ƣơng đƣợc 159
ngƣời trả lời là hấp dẫn chiếm 94.6%, trả lời không hấp dẫn 9 ngƣời chiếm
5.4%. Đánh giá tin tức thời sự trên báo Địa phƣơng hấp dẫn đƣợc 47
ngƣời chiếm 28%, không hấp dẫn 121 ngƣời chiếm 72%. Nhƣ vậy độ hấp
dẫn của tin tức thời sự trên báo Trung ƣơng cũng đƣợc ngƣời dân đánh giá
cao hơn báo Địa phƣơng. Độ hấp dẫn của tin tức thời sự thƣờng gắn với
các sự kiện xã hội đang diễn ra. Điều này nói lên các sự kiện thời sự đang
198
diễn ra của đất nƣớc đƣợc ngƣời dân quan tâm đáng kể. Độ hấp dẫn của
tin thời sự phụ thuộc rất nhiều vào độ cập nhật, tính thời sự và tính chính
xác của thông tin. Bên canh đó nó còn phụ thuộc vào độ qua tâm của
ngƣời dân đối với sự kiện đƣợc nêu. Nếu tin tức thời sự nêu trên báo gắn
với quyền lợi và nghĩa vụ của ngƣời dân, tạo nên một luồng dƣ luận xã hội
rộng lớn nó sẽ hấp dẫn công chúng và ngƣợc lại. Để hấp dẫn ngƣời đọc thì
tin tức thời sự trên báo phải là những vấn đề mới mẻ thu hut đƣợc sự quan
tâm của ngƣời dân. Điều này đòi hỏi những ngƣời làm báo phải thức sự
cập nhật đƣợc thông tin có tính thời sự cao.
Biểu 5: Tin tức thời sự trên báo in là hấp dẫn
Trung ương5.4
94.6
Đúng
Sai
Địa phương
72
28
Đúng
Sai
d. Mức độ cập nhật:
Trong tổng số 289 ngƣời đọc báo có 169 ngƣời trả lời về độ cập
nhật của thông tin thời sự trên báo in, trong đó đối với báo Trung ƣơng có
150 ngƣời trả lời là rất cập nhật chiếm 88.8%, 19 ngƣời trả lời là chƣa cập
nhật chiếm 11.2%. Báo Địa phƣơng có 64 ngƣời trả lời là rất cập nhật
chiếm 37.9%, 105 ngƣời trả lời là chƣa cập nhật chiếm 62.1%. Nhƣ vậy ở
nội dung này ngƣời dân cũng đánh gia rất cao độ cập nhật của báo chí
Trung ƣơng( .88.8% ). Công chúng đánh giá độ cập nhật của báo Địa
phƣơng là rất thấp( 37.9% ). Nhƣ trên chúng tôi đã phân tích tin tức thời
sự có độ hấp dẫn cao chính bởi tính cập nhật của có. Nếu sự kiện đã trôi
199
qua lâu rồi mà báo mới đƣa tin thì tin tức không còn nhiều ý nghĩa và
không thu hút đƣợc sự quan tâm của ngƣời dân. Điều này đòi hỏi ngƣời
làm báo phải hết sức nhanh nhậy, năng động nắm bắt kịp thời các sự kiện
xã hội để đƣa tin “nóng hổi” tới ngƣời dân. Bên cạnh đó còn đòi hỏi ngƣời
làm báo phải có kiến thức sâu rộng và có khả năng săn lùng thông tin thì
thông tin đƣa mới đảm bảo độ chính xác và độ cập nhật cao. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế xã hội nói chung, báo chí cũng ngày càng phát
triển. Sự ra đời và phát triển phong phú của các loại hình báo chí hiện nay
cũng thể hiện nhu cầu tiếp cận ngày càng cao của ngƣời dân đối với các
thông tin kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội của đất nƣớc.
Biểu 6: Độ cập nhật của thông tin thời sự trên báo in
e. Mức độ tính trung thực:
Một trong những đòi hỏi cao đối với báo chí chính là tính trung thực
của thông tin. Làm thế nào để chuyển tải thông tin chính xác không sai
lệch đến với ngƣời dân là một trong những “tôn chỉ” của báo chí. Nếu đƣa
thông tin không chính xác hoặc sai lệch báo chí sẽ làm ảnh hƣởng tiêu cực
tới việc nhận thức các vấn đề xã hội của ngƣời dân, thậm chí nếu vấn đề
sai lệch tác động trên diện rộng có thể ảnh hƣởng tới sự ổn định và phát
triển xã hội.
Đ?a phương
37.9
62.1
Đúng
Sai
Trung ương
88.8
11.2
Đúng
Sai
200
Theo kết quả nghiên cứu ở trên trong 289 ngƣời đọc báo có 126 ngƣời
trả lời về độ trung thực của báo chí trong đó báo Trung ƣơng đƣợc 106
ngƣời đánh giá là trung thùc chiếm 81.1% và 20 ngƣời trả lời là không
trung thực chiếm 18.9%. Cũng với nội dung này trên báo địa phƣơng có
52 ngƣời trả lời là trung thực chiếm 41.3% và 74 ngƣời trả lời là không
trung thực chiếm 58.7%. Kết quả nghiên cứu cho thấy đánh giá của ngƣời
dân về độ trung thực của báo Trung ƣơng cao hơn nhiều so với báo Địa
phƣơng. Tuy nhiên trong nghiên cứu chúng ta cũng phải nắm bắt tâm lý
của ngƣời dân: Họ thƣờng có tâm lý cho rằng hoạt động nào của Trung
ƣơng cũng đƣợc đánh giá cao và tốt hơn địa phƣơng. Có thể vì vậy mà
những đánh giá của họ trong nghiên cứu này chƣa đƣợc thật khách quan
và công bằng. Nhƣng dù sao đây cũng là kết quả đánh giá của ngƣời dân
trong nghiên cứu của chúng tôi về tiếp cận truyền thông đại chúng của
ngƣời dân vùng Tây Bắc.
Biểu 7: Đánh giá tin tức thời sự trên báo chí là trung thực
Trung ương
15.9
84.1
Đúng
Sai
Địa phương
41.3
58.7
Đúng
Sai
g. Mức độ phản ánh được ý kiến của người dân:
Báo chí một mặt chuyển tải thông tin tới ngƣời dân, mặt khác nó cũng
gián tiếp phản ánh ý kiến của ngƣời dân về mọi mặt của đời sống kinh tế
201
xã hội. Đánh giá tin tức thời sự trên báo chí là “ phản ánh đƣợc các ý kiến
của chúng tôi” có kết quả nhƣ sau:
Biểu 8: Tin tức thời sự phản ánh được ý kiến của người dân
Trung ương
30.4
69.6
Đúng
Sai
Địa phương
59.5
40.5
Đúng
Sai
Ngƣời dân qua tâm tới báo chí cũng bởi báo chí giúp cho họ có
thêm các tri thức nâng cao hiểu biết, nhận thức góp phần nâng cao chất
lƣợng cuộc sống của con ngƣời. Ở nội dung này trong tổng số ngƣời đọc
báo chỉ có 79 ngƣời trả lời. Báo Trung ƣơng có 55 ngƣời đánh giá là phản
ánh đƣợc ý kiến ngƣời dân chiếm 69.6%, 24 ngƣời trả lời là chƣa phản
ánh đƣợc chiếm 30.4%. Báo Địa phƣơng có 47 ngƣời đánh giá là phản ánh
đƣợc ý kiến của ngƣời dân chiếm 59.5%, 32 ngƣời trả lời chƣa phản ánh
đƣợc chiếm 40.5%. Nhƣ vậy số ngƣời trả lời câu hỏi này không cao và sự
đánh giá của ngƣời dân về nội dung này cả ở báo Trung ƣơng và Địa
phƣơng đều khá khiêm tốn. Điều hết sức qua trọng của báo chí là phản
ánh đƣợc các ý kiến của ngƣời dân và những vấn đề mà họ quan tâm. Báo
chí bên cạnh việc chuyển tải thông tin đến ngƣời dân còn là cầu nối giữa
ngƣời dân với các cấp chính quyền.Thông qua hoạt động này báo chí giúp
cho việc phát huy quyền làm chủ của ngƣời dân ở cơ sở ngày càng đƣợc
nâng cao lên. Báo chí giúp cho ngƣời dân phát huy quyền làm chủ “ Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
h. Mức độ bàn về vấn đề người dân quan tâm:
202
Đánh giá tin tức thời sự trên báo chí bàn về vấn đề mà ngƣời dân quan
tâm có kết quả nhƣ sau:
Biểu 9: Tin tức thời sự trên báo chí bàn về những vấn đề mà người dân
qua tâm.
Trung ương
85.2
14.8
Đúng
Sai
Địa phương
44.4
55.6
Đúng
Sai
Trong tổng số ngƣời đọc báo có 135 ngƣời đƣa ra đánh giá về vấn
đề này. Đối với báo Trung ƣơng có 115 ngƣời cho rằng báo đã bàn về
những vấn đề mà đọc giả quan tâm chiếm 85.2%, 20 ngƣời trả lời chƣa
bàn đến chiếm 14.8%. Đối với báo Địa phƣơng có 60 ngƣời cho rằng báo
bàn về vấn đề mà họ quan tâm chiếm 44.4%, 75 ngƣời cho rằng chƣa phản
ánh đƣợc chiếm 55.6%. Nhƣ vậy đánh giá của ngƣời dân đối với nội dung
này cả ở Trung ƣơng và Địa phƣơng đều chƣa cao. Điều này đòi hỏi các
báo cần tìm hiểu thông tin mà ngƣời dân cần đƣợc cung cấp. Nếu đáp ứng
đƣợc điều này thì đọc giả của báo sẽ tăng lên đáng kể bởi lẽ ngƣời dân tìm
đƣợc những thông tin mà họ quan tâm trên báo chí. Để làm đƣợc điều này
các nhà báo phải nắm bắt đƣợc nhu cầu thông tin từ phía ngƣời dân, nắm
bắt đƣợc những vấn đề mà họ quan tâm để chuyển tới cho họ những thông
tin mà họ cho là cần thiết và hữu ích. Có nhƣ vậy báo chí mới thể hiện
đƣợc tính tiên phong trên mặt trận tƣ tƣởng văn hoá.
203
Biểu 10: Đánh giá về tin thời sự giữa báo Trung ương và báo Địa
phương
145
159150
106
55
115
79
47
64
5247
60
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
Phï hîp HÊp dÉn CËp nhËt Trung thùc Ph¶n ¸nh ®îc ý
kiÕn cña ngêi
d©n
Bµn vÒ vÊn ®Ò
ngêi d©n quan
t©m
Trung ¬ng §Þa ph¬ng
Từ biểu trên ta thấy đánh giá nội dung của báo Trung ƣơng và báo
Địa phƣơng về 6 tiêu chí, báo Trung ƣơng vẫn luôn đƣợc mọi ngƣời đánh
giá cao. Mức độ hấp dẫn, độ cập nhật của tin thời sự trên báo Trung ƣơng
vẫn có khoảng cách rất lớn so với báo tỉnh. Đối với tiêu chí phản ánh đƣợc
ý kiến của ngƣời dân cả trên báo Trung ƣơng và báo tỉnh đều chƣa đƣợc
ngƣời dân đánh giá cao.
Kết luận:
Trên đây là một vài phân tích của chúng tôi về sự tiếp cận và đánh
giá của ngƣời dân vùng Tây Bắc đối với báo in. Cảm nhận chung của
chúng tôi khi đọc kết quả nghiện cứu là tỉ lệ ngƣời dân đọc báo hiện nay
chƣa cao. Điều này một phần do trình độ dân trí của ngƣời dân niềm núi
phía Bắc còn hạn chế, kinh tế còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó cũng cần
phải kể đến nguyên nhân là khu vực khảo sát có rất nhiều ngƣời dân tộc
thiểu số sinh sống tỉ lệ ngƣời không biết đọc biết viết tiếng Việt khá cao.
Mạng lƣới phân phối và phát hàmh báo in thƣờng tập chung ở khu vực đô
thị , các xã vùng sâu vùng xa gần nhƣ không có. Đối với báo in, đặc điểm
của loại hình phƣợng tiện này là nội dung thông tin đƣợc truyền tải qua
204
văn bản in, ngƣời tiếp nhận ngoài việc biết chữ cần phải có trình độ nhận
thức nhất định. Xuất phát từ chính đặc điểm này, số lƣợng công chúng của
báo in bị thu hẹp hơn so với phát thanh và truyền hình. Sự đánh giá của
ngƣời dân về độ hấp dẫn, độ trung thực, cập nhật… của báo cả Trung
ƣơng và Địa phƣơng cũng còn có những hạn chế nhất định. Tất cả những
điều này đòi hỏi các nhà nghiên cứu cũng nhƣ các toà soạn cần phân tích
đánh giá một cách khách quan khoa học đƣa ra các giải pháp nhằm nâng
cao vai trò, hiệu quả của báo chí đối với sự phát triển đời sống xã hội của
ngƣời dân trong tình hình hiện nay. Thông qua nghiên cứu này chúng tôi
xin đƣa ra một vài khuyến nghị nhƣ sau:
1. Tiếp tục ƣu tiên phát triển cơ sở hạ tầng cho khu vực niềm núi,
vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là vấn đề giao thông nông thôn.
2. Làm tốt công tác phát hành tới tận thôn bản giúp ngƣời dân có
thể tiếp cận báo chí một cách rễ ràng.
3. Quan tâm tới nhu cầu thông tin để đáp ứng đƣợc những vấn đề
mà ngƣời dân quan tâm.
4. Nội dung thông tin cần xúc tích, đơn giản và dễ hiểu phù hợp với
trình độ dân trí của ngƣời dân, nhất là khu vực đồng bào dân tộc.
5. Có chính sách đãi ngộ xứng đáng cho ngƣời làm công tác phát
hành, mang những ấn phẩm báo chí đến với đồng bào các dân tộc vùng
cao.
Quan tâm tới sự tiếp nhận và đánh giá của của đọc giả giúp cho báo
chí ngày càng hoàn thiện, nâng cao khả năng chinh phục công chúng, đáp
ứng nhu cầu của công chúng là sự sống còn của báo chí trong xã hội hiện
đại. Cùng với sự đổi mới và phát triển của đất nƣớc, báo chí càng cần phát
huy những thế mạnh của mình phục vụ nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, chính
trị, khoa học kỹ thuật… của đất nƣớc. Để thực hiện đƣợc nhiệm vụ đó báo
chí Việt nam phải luôn luôn đổi mới về nội dung, hình thức đáp ứng nhu
205
cầu thông tin ngày càng cao của công chúng, tự vƣơn lên trở thành một
nền báo chí mạnh mẽ làm tốt công tác chính trị tƣ tƣởng trong tình hình
mới.
206
THỰC TRẠNG VÀ NHU CẦU TIẾP CẬN INTERNET
CỦA NGƢỜI DÂN VÙNG TÂY BẮC
(Qua khảo sát tại 2 tỉnh Yên Bái và Lào Cai)
CN. Phạm Thị Vân
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Internet là một trong bốn phƣơng tiện truyền thông đại chúng, tính
đến năm 2009, Internet đã du nhập vào Việt Nam đƣợc 12 năm. Mặc dù so
với các phƣơng tiện truyền thông đại chúng khác nhƣ truyền hình, phát
thanh, báo in, Internet du nhập vào Việt Nam khá muộn nhƣng nó đã phát
triển và lan rộng với tốc độ chóng mặt. Internet đã trở thành công cụ tiếp
cận tri thức quan trọng cho ngƣời dân. Theo điều tra của Quĩ nghiên cứu
Internet GOV3, Anh, công bố cuối năm 2005, Việt Nam nằm thứ ba trong
nhóm các quốc gia tiên phong về tốc độ phát triển mạng lƣới Internet với
số lƣợng ngƣời sử dụng Internet tăng hơn 27% trong 4 năm.
Theo dự báo của Bộ Bƣu chính viễn thông, trong giai đoạn (2007-
2010), tốc độ phát triển của Internet Việt Nam đƣợc ví nhƣ một cơn lốc.
Ƣớc tính, đến năm 2007, 30% số xã có điểm truy nhập Internet. Năm
2010, sẽ có 70% số xã có điểm truy cập dịch vụ Internet công cộng.
Mặc dù tốc độ phát triển của Internet ở nƣớc ta rất nhanh chóng,
cho đến nay, Internet mới chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, đặc biệt
là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tại các địa bàn nông thôn, đặc biệt
là miền núi, dịch vụ Internet còn hạn chế, có chăng mới chỉ tập trung ở các
trung tâm của tỉnh, huyện và các thị xã, thị trấn.
Bài viết này tập trung vào việc nhận diện thực trạng và nhu cầu tiếp
cận Internet của ngƣời dân vùng Tây Bắc (qua khảo sát tại 2 tỉnh Lào Cai
và Yên Bái). Mục đích nhằm chỉ ra những thuận lợi, khó khăn trong việc
tiếp cận Internet của ngƣời dân vùng núi cũng nhƣ tìm hiểu nhu cầu sử
dụng của ngƣời dân ở đây đối với loại hình dịch vụ này.
207
II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Ngƣời dân biết về Internet
Để có thể tiếp cận và sử dụng bất cứ dịch vụ nào, trong đó có
Internet, ngƣời dân phải biết về loại hình dịch vụ đó. Nếu nhƣ tại các
thành phố hiện nay, kể cả các vùng nông thôn đồng bằng thì từ “Internet”
không còn xa lạ với đại đa số ngƣời dân. Tuy nhiên, Lào Cai và Yên Bái
là hai tỉnh miền núi. Liệu ngƣời dân có biết về Internet hay không?
Cho đến nay, tỷ lệ ngƣời dân sử dụng dịch vụ này vẫn còn khiêm
tốn, chủ yếu tập trung vào các thành phố lớn nhƣ Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh. Tuy nhiên, qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng, qua hoạt
động của các đại lý Internet, các dịch vụ Internet công cộng… ngƣời dân
có thể đã nghe nói về dịch vụ này.
Trƣớc khi đi vào tìm hiểu xem ngƣời sử dụng Internet ở 2 tỉnh Lào
Cai và Yên Bái là ai thì chúng ta hãy xem ngƣời dân ở đây biết đến dịch
vụ này nhƣ thế nào.
Bảng 1: Tỷ lệ nghe nói về Internet của người trả lời tại các xã,
phường ở 2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái
Tỉnh Xã/phƣờng Tỷ lệ (%)
Lào Cai Phƣờng Kim Tân 79,0
Xã Tả Phìn 24,0
Xã Trịnh Tƣờng 21,0
Yên Bái Phƣờng Đồng Tâm 83,0
Xã Tân Nguyên 45,0
Xã An Lạc 58,0
Kết quả cuộc điều tra cho thấy, trong số 600 ngƣời đƣợc phỏng vấn
tại Lào Cai và Yên Bái, hơn một nửa (51,7%) đã nghe nói về Internet.
Trong số những ngƣời đã nghe nói về Internet ở đây thì phần lớn rơi vào
208
những ngƣời ở đô thị. Rõ ràng ở đô thị, tỷ lệ ngƣời dân có nghe nói về
Internet cao hơn hẳn so với vùng nông thôn với tỷ lệ tƣơng ứng cho hai
khu vực này là 81,0% và 37,0%. Trong số 6 xã/phƣờng đƣợc điều tra tại 2
tỉnh Lào Cai và Yên Bái, phƣờng Đồng Tâm (Yên Bái) và phƣờng Kim
Tân (Lào Cai), tỷ lệ ngƣời dân biết về loại hình dịch vụ này rất cao, với tỷ
lệ tƣơng ứng là 83,0% và 79,0%. Trong khi ở 2 xã Tả Phìn và Trịnh
Tƣờng, tỷ lệ biết/nghe nói về Internet lại thấp nhất (tỷ lệ tƣơng ứng là
24,0% và 21,0%).
Có thể thấy vẫn còn có sự cách biệt giữa ngƣời dân tộc Kinh và các
nhóm dân tộc thiểu số khác trong việc tiếp cận Internet. Trong cuộc khảo
sát này, có tới 95% những ngƣời sống ở đô thị (phƣờng Kim Tân và
phƣờng Đồng Tâm) là ngƣời Kinh, trong khi ở các xã khác thì tập trung
nhiều ngƣời dân tộc thiểu số. Trên địa bàn 2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái, đã
có các điểm truy cập Internet công cộng, đƣợc triển khai đến trung tâm
của các huyện. Tuy nhiên, ở những vùng xa trung tâm, nơi có điều kiện đi
lại khó khăn, dân cƣ thƣa thớt thì ngƣời dân vẫn chƣa đƣợc tiếp cận với
loại hình dịch vụ này. Chính vì vậy mà tỷ lệ ngƣời biết về sự có mặt của
Internet ở ngƣời Kinh lớn hơn nhiều so với các dân tộc khác nhƣ Tày,
Dao, Nùng, H‟Mông…
Kết quả cuộc điều tra cho thấy, ở những ngƣời chƣa bao giờ đi học
có tỷ lệ biết về Internet ít nhất, chỉ có 11,5% trả lời đã nghe nói về
Internet. Trong khi đó, những ngƣời có trình độ cao đẳng, đại học trở lên
thì tỷ lệ này là cao nhất, 90,4%. Không chỉ nghe về Internet nhiều hơn, mà
những ngƣời có trình độ học vấn cao có xu hƣớng biết về sự có mặt của
loại hình dịch vụ này tại địa phƣơng nhiều hơn. (biểu 1)
Xét ở khía cạnh nghề nghiệp, nhóm cán bộ, viên chức và học sinh,
sinh viên là 2 trong số 3 nhóm có tỷ lệ nghe về Internet cao nhất với tỷ lệ
tƣơng ứng là 87,6% và 73,3%. Xét theo giới tính, mặc dù tỷ lệ nữ trả lời
đã nghe nói về Internet ít hơn nam, tuy nhiên, sự cách biệt là không đáng
kể (nam: 54,4%; nữ: 48,6%). Tuy nhiên, một chỉ báo đáng mừng là mức
209
độ nghe nói về Internet tƣơng đối đồng đều giữa các nhóm tuổi khác nhau.
Biểu 1: Mức độ có nghe nói về Internet của người trả lời phân theo
trình độ học vấn
11.521.9
51.7
77.8
90.4
0
20
40
60
80
100
Cha bao giê
®i häc
TiÓu häc Trung häc c¬
së
Trung häc
phæ th«ng
Cao ®¼ng, ®¹i
häc trë lªn
%
Tóm lại, có hơn một nửa số ngƣời trong cuộc điều tra đã nghe về
Internet. Mức độ nghe nói về phƣơng tiện TTĐC này có liên quan tới địa
bàn cƣ trú và trình độ học vấn. Những ngƣời có trình độ học vấn cao có xu
hƣớng đƣợc nghe thông tin về Internet nhiều hơn những ngƣời có học vấn
thấp. Tại những khu vực đô thị, nơi tập trung đa phần là ngƣời Kinh,
Internet đƣợc cung cấp phổ biến hơn thì ngƣời dân ở đó cũng biết về loại
phƣơng tiện TTĐC này nhiều hơn so với các vùng nông thôn hầu nhƣ
không có dịch vụ này.
2. Chân dung người sử dụng Internet
Giữa biết và sử dụng dịch vụ cũng có một khoảng cách không nhỏ
vì nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan nhƣ: nhu
cầu sử dụng, khả năng tiếp cận và sử dụng (trong đó có cả từ phía ngƣời
cung cấp và sử dụng dịch vụ). Theo kết quả khảo sát tại Lào Cai và Yên
Bái, mặc dù 51,7% ngƣời trả lời đã nghe nói về Internet, chỉ có 69 ngƣời
(chiếm 11,5%) đã từng sử dụng dịch vụ này. Trong đó, tỷ lệ ngƣời sử
dụng Internet ở Lào Cai lớn hơn Yên Bái, số liệu tƣơng ứng cho 2 tỉnh là
16,3% và 6,7%.
210
Điều dễ nhận thấy ở đây là mặc dù với chính sách khuyến khích đƣa
Internet về tận thôn/bản, dịch vụ Internet mới chỉ tập trung ở các trung tâm
của đô thị, còn các vùng nông thôn thì vẫn vắng bóng dịch vụ này. Ở 2
phƣờng đô thị, mức độ sử dụng Internet cũng cao hơn hẳn so với các xã
nông thôn, với tỷ lệ tƣơng ứng là 27,5% và 3,5%.
Nhƣ trên đã đề cập, hai phƣờng Kim Tân (Lào Cai) và Đồng Tâm
(Yên Bái) là hai địa điểm có tỷ lệ ngƣời biết về Internet rất cao. Mặc dù
khoảng cách giữa biết về dịch vụ đến sử dụng dịch vụ còn khá xa, đây
cũng là 2 phƣờng có tỷ lệ ngƣời trả lời sử dụng Internet cao nhất trong số
các xã, phƣờng điều tra (ở Kim Tân là 38,0% và ở Đồng Tâm là 17,0%).
Tuy nhiên có thể thấy là mức độ sử dụng Internet ở Kim Tân là hơn gấp
đôi so với Đồng Tâm. Ngoài 2 phƣờng nêu trên, các xã còn lại trong cuộc
điều tra có tỷ lệ ngƣời sử dụng Internet rất thấp, đặc biệt là ở xã An Lạc,
không có ai trong cuộc điều tra đã từng sử dụng dịch vụ này.
Bảng 2: Tỷ lệ sử dụng Internet của người trả lời tại các xã,
phường ở 2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái
Tỉnh Xã/phƣờng Tỷ lệ (%)
Lào Cai Phƣờng Kim Tân 38,0
Xã Tả Phìn 5,0
Xã Trịnh Tƣờng 6,0
Yên Bái Phƣờng Đồng Tâm 17,0
Xã Tân Nguyên 3,0
Xã An Lạc 0,0
Mặc dù không có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi khác nhau về
mức độ nghe nói về Internet, những ngƣời sử dụng Internet lại chủ yếu rơi
vào nhóm tuổi trẻ. Điều này cũng phù hợp với xu thế chung vì Internet là
một sản phẩm của công nghệ hiện đại, mà thƣờng nhóm trẻ tuổi có xu
211
hƣớng tiếp cận và nắm bắt nhanh hơn so với các lứa tuổi lớn hơn. Trong 3
nhóm tuổi đƣợc phân chia trong nghiên cứu này thì nhóm dƣới 31 tuổi có
tới 23,8% ngƣời sử dụng, trong khi nhóm từ 31-50 tuổi là 8,0% và nhóm
trên 50 tuổi chỉ có 3,1%.
Biểu 2: Tỷ lệ người trả lời sử dụng Internet phân theo nhóm tuổi
23.8
8
3.1
0
5
10
15
20
25
Díi 31 tuæi Tõ 31-50 Trªn 50 tuæi
%
Mức độ sử dụng và nhu cầu sử dụng Internet liên quan mật thiết đến
trình độ học vấn của ngƣời trả lời. Học vấn càng cao càng có xu hƣớng
đƣợc tiếp cận và sử dụng loại dịch vụ này nhiều hơn. Trong số những
ngƣời tham gia cuộc khảo sát, có 78 ngƣời chƣa bao giờ đi học và không
ai trong số họ đã sử dụng Internet. Chỉ có 0,8% trong số những ngƣời có
trình độ học vấn ở bậc tiểu học sử dụng Internet. Số ngƣời sử dụng
Internet tăng lên rõ rệt ở những ngƣời đã học đến cấp trung học phổ thông
và cao đẳng, đại học trở lên, trong đó có tới 37,2% trong số những ngƣời
đã học đến cao học, đại học trở lên sử dụng Internet.
Biểu 3: Mức độ sử dụng Internet của người trả lời phân theo
trình độ học vấn
0.84
20.6
37.2
0
5
10
15
20
25
30
35
40
TiÓu häc Trung häc c¬ së Trung häc phæ
th«ng
Cao ®¼ng, ®¹i häc
trë lªn
%
212
Khi xem xét ở khía cạnh nghề nghiệp, có thể thấy là nhóm cán bộ,
viên chức nhà nƣớc và nhóm học sinh/sinh viên là hai nhóm có tỷ lệ sử
dụng Internet cao hơn cả so với các nhóm nghề khác. Có 40,0% trong tổng
số cán bộ, viên chức và 66,7% trong tổng số học sinh/sinh viên có mặt
trong cuộc điều tra sử dụng dịch vụ này. Trong khi đó, số ngƣời sản xuất
nông nghiệp chiếm gần một nửa mẫu nghiên cứu, tỷ lệ sử dụng Internet
trong nhóm này lại rất thấp (2,4%). Không có ai trong số những ngƣời ở
các nhóm lâm nghiệp, công nghiệp/tiểu thủ công nghiệp và nhóm về hƣu/
già yếu không làm việc sử dụng Internet.
Mặc dù tỷ lệ ngƣời nghe nói về Internet và sử dụng dịch vụ này ở
ngƣời Kinh lớn hơn so với các dân tộc khác, một thông tin đáng mừng là
các dân tộc khác nhau ở 2 tỉnh tham gia trong cuộc khảo sát cũng đã nghe
và sử dụng dịch vụ này nhƣ Tày, Dao, Nùng, H‟Mông, mặc dù tỷ lệ ngƣời
H‟Mông nghe nói về dịch vụ này thấp nhất.
Nhƣ vậy, có thể thấy là mới có một nhóm nhỏ trong số ngƣời dân ở
2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái sử dụng Internet. Họ, những ngƣời sử dụng,
chủ yếu tập trung ở địa bàn đô thị, nơi mà sẵn có dịch vụ này hơn. Trong
số những ngƣời sử dụng Internet, chủ yếu rơi vào nhóm thanh niên trẻ,
những cán bộ,viên chức công tác tại các cơ quan đóng trên địa bàn 2
phƣờng. Địa bàn đô thị ở đây cũng là nơi có tới 95% ngƣời Kinh sinh
sống, và đƣơng nhiên, ngƣời Kinh vẫn chiếm ƣu thế trong số những ngƣời
sử dụng Internet. Một chỉ báo quan trọng gần nhƣ không có sự khác biệt
nam nữ trong việc sử dụng Internet.
3. Mục đích sử dụng Internet
Cũng nhƣ các phƣơng tiện truyền thông đại chúng (TTĐC) khác,
chức năng chủ yếu của Internet là cung cấp thông tin, kiến thức và giải trí
cho nhân dân. Có rất nhiều tiện ích mà Internet có thể cung cấp cho ngƣời
sử dụng trong đó có cung cấp thông tin về mọi mặt của đời sống, liên lạc
bằng thƣ điện tử (e-mail), chuyện trò qua mạng (chát), chơi trò chơi trực
tuyến (game online)…
213
Kết quả điều tra cho thấy, trong số những ngƣời sử dụng Internet,
hơn 2/3 là nhằm mục đích tìm kiếm thông tin, đây là mục đích đƣợc nhiều
ngƣời hƣớng đến nhất. Đứng thứ hai là chát và thứ ba là e-mail với tỷ lệ
tƣơng ứng là 34,8% và 20%. Cũng đã có một số ngƣời lên mạng để chơi
trò chơi.
Biểu 4: Mục đích sử dụng Internet của người trả lời
34.8
20
71
10.1 8.7
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Ch¸t E-mail T×m th«ng tin Ch¬i trß ch¬i Môc ®Ých
kh¸c
%
So sánh giữa 6 xã/phƣờng điều tra thì thấy ở Kim Tân (Lào Cai)
không những có tỷ lệ sử dụng Internet cao nhất mà ở đây ngƣời sử dụng
cũng nhắm vào các chức năng khác nhau của Internet. Ngoài việc tìm
kiếm thông tin trên mạng vẫn là chủ yếu, đa số những ngƣời lên mạng để
chát, e-mail và chơi trò chơi rơi vào phƣờng này. Trong khi đó, ở phƣờng
Đồng Tâm (Yên Bái), tất cả những ngƣời sử dụng Internet đều nhằm mục
đích kiếm tìm thông tin, họ hầu nhƣ không sử dụng dịch vụ này vào các
mục đích khác.
Mục đích sử dụng Internet của các nhóm tuổi cũng cho thấy sự khác
biệt. Nhóm tuổi trẻ (dƣới 31 tuổi) sử dụng Internet với nhiều mục đích
khác nhau, nhƣng tìm thông tin và chát vẫn chiếm ƣu thế. Trong khi đó,
nhóm tuổi từ 31-50 sử dụng Internet chủ yếu nhằm mục đích tìm thông
tin, nhóm này mặc dù cũng lên mạng để e-mail, chát, chơi trò chơi…
nhƣng với tỷ lệ rất thấp. Đặc biệt, trong số lƣợng khiêm tốn ngƣời sử dụng
214
Internet ở nhóm trên 50 tuổi thì ngoài mục đích tìm thông tin, họ không sử
dụng dịch vụ này vào bất cứ mục đích nào khác.
Bảng 3: Mục đích sử dụng Internet phân theo nhóm tuổi (%)
Chát E-mail Tìm
thông tin
Chơi trò
chơi
Mục đích
khác
Dƣới 31
tuổi
53,7 26,8 56,1 14,6 12,2
Từ 31-50
tuổi
8,3 12,5 91,7 4,2 4,2
Trên 50 tuổi 0 0 100 0 0
Trong số các nhóm đối tƣợng khác nhau phân theo nghề nghiệp,
nhóm học sinh, sinh viên là nhóm đối tƣợng sử dụng Internet để chát là
chủ yếu. Trong khi nhóm cán bộ, viên chức nhà nƣớc và nhóm buôn
bán/dịch vụ chủ yếu tìm kiếm thông tin và e-mail. Hơn nữa, các nhóm có
học vấn càng cao, đặc biệt từ trung học phổ thông và cao đẳng, đại học trở
lên sử dụng Internet với mục đích tìm kiếm thông tin nhiều hơn các nhóm
có trình độ học vấn thấp hơn.
Mặc dù số lƣợng ngƣời sử dụng ở 2 địa bàn điều tra không cao,
thậm chí là thấp, một thông tin đáng mừng là tất cả những ngƣời đã sử
dụng Internet cho rằng dịch vụ này hữu ích và rất hữu ích đối với họ.
Trong đó, tỷ lệ ngƣời trả lời cho rằng rất hữu ích là 60,9%.
4. Khả năng chi trả cho dịch vụ Internet
Mặc dù Chính phủ cũng nhƣ Bộ Bƣu chính viễn thông có chủ
trƣơng cung cấp Internet miễn phí cho các vùng sâu, vùng xa. Có thể thấy
chủ trƣơng này hầu nhƣ chƣa đƣợc triển khai rộng rãi trong dân mà chủ
yếu tập trung ở các khu vực đô thị, tại một số cơ quan, doanh nghiệp đóng
trên địa bàn 2 tỉnh.
Trong số 69 ngƣời sử dụng Internet, có 26 ngƣời (chiếm 37,7%)
đƣợc sử dụng miễn phí, số ngƣời này lại rơi vào 2 địa bàn đô thị là
phƣờng Đồng Tâm, 13 ngƣời (chiếm 76,5% trong tổng số ngƣời sử dụng ở
phƣờng) và phƣờng Kim Tân là 13 ngƣời (chiếm 34,2%). Không ai trong
215
số những ngƣời sử dụng Internet ở 4 xã nông thôn trong mẫu khảo sát sử
dụng Internet miễn phí, mà họ phải trả tiền cho dịch vụ này.
Hầu hết đối tƣợng sử dụng Internet miễn phí là cán bộ, viên chức,
có 25 ngƣời (chiếm 59,5% trong tổng số nhóm đối tƣợng này sử dụng
Internet). Trong số những ngƣời làm các ngành nghề khác, duy nhất 1
trƣờng hợp làm thuê đƣợc sử dụng Internet miễn phí, còn lại tất cả họ phải
trả tiền khi sử dụng dịch vụ này.
Trong số những ngƣời phải trả tiền, có 2/3 cho rằng khoản tiền đó
phù hợp với điều kiện kinh tế của họ. Số những ngƣời cho rằng khoản tiền
họ phải trả cho sử dụng dịch vụ là không phù hợp với điều kiện kinh tế
của họ lại chủ yếu rơi vào phƣờng Kim Tân. Hơn nữa, chính trong số cán
bộ, viên chức lại không hài lòng với mức kinh phí mà họ phải trả cho việc
sử dụng Internet. Phải chăng đây là những hộ có lắp Internet và sử dụng
tại nhà.
Một thực tế cũng còn đang nổi cộm về mức thuê bao sử dụng
Internet của các đại lý tại 2 tỉnh là mức thuế tính trên đầu máy sử dụng
còn cao. Hơn nữa, giá cho khách hàng thuê là 2.000 – 3.000đ / 1 giờ/ 1
máy, mức giá này ngang với mức giá cho thuê tại Hà Nội. Nếu so với thu
nhập của ngƣời dân miền núi thì ít ngƣời dân mới có thể chi trả cho mức
giá này nếu nhƣ họ sử dụng dịch vụ này thƣờng xuyên.
5. Chân dung những người không sử dụng Internet
Có thể thấy, tại 2 tỉnh điều tra, đa số ngƣời dân chƣa từng sử dụng
Internet. Tỷ lệ ngƣời không sử dụng trong mẫu điều tra này là 88,5%. Trên
thực tế, con số này có thể lớn hơn nữa. Tại sao ngƣời dân không sử dụng
dịch vụ này? Trong tổng số 237 ngƣời trả lời đƣa ra lí do, lí do mà nhiều
ngƣời đƣa ra nhất đó là không biết sử dụng, tiếp đến là lí do không cần
thiết và dịch vụ xa nơi ở / không thuận tiện.
Có vẻ nhƣ những trở ngại lớn nhất là khả năng sử dụng Internet của
ngƣời dân. Việc không biết sử dụng Internet có thể do trình độ học vấn
thấp, không biết đọc, biết viết, không biết sử dụng máy tính; hoặc cũng có
216
thể do chƣa từng đƣợc tiếp cận với loại hình dịch vụ này, chƣa đƣợc ai
hƣớng dẫn…
Biểu 5: Lí do không sử dụng Internet
51.9
21.125.7
13.9
0
10
20
30
40
50
60
Kh«ng biÕt sö dông DÞch vô xa n¬i ë /
kh«ng thuËn tiÖn
Kh«ng cÇn thiÕt LÝ do kh¸c
Có thể thấy là ngƣời dân không chỉ đơn thuần đƣa ra 1 lí do cho
việc không sử dụng Internet của mình mà họ còn đƣa ra 2 lí do cùng một
lúc nhƣ vừa dịch vụ xa nơi ở/không thuận tiện vừa không biết sử dụng,
hoặc vừa không biết sử dụng vừa thấy không cần thiết. Thậm chí có một
số ngƣời còn đƣa ra cùng lúc cả 3 lí do (không biết sử dụng, dịch vụ xa
nơi ở/không thuận tiện, không cần thiết). Đây là một điều đặc biệt lƣu ý
khi các tỉnh muốn cung cấp dịch vụ này. Bởi vì chƣa chắc có dịch vụ là
ngƣời dân sẵn sàng sử dụng vì không biết sử dụng hoặc họ thấy không cần
thiết, hoặc có ngƣời thấy Internet cần thiết đối với họ nhƣng do họ không
biết sử dụng hoặc khó tiếp cận đến điểm có Internet…. Cần phải làm đồng
bộ, vừa tuyên truyền về tính tiện ích của Internet, hƣớng dẫn cách sử dụng
Internet vừa phải cung cấp dịch vụ đến địa điểm mà ngƣời dân có thể và
dễ dàng tiếp cận đƣợc.
Một vấn đề nữa mặc dù trong cuộc điều tra này không thấy nổi cộm,
nhƣng cung cấp dịch vụ với giá cả ƣu đãi, phù hợp với túi tiền của đại bộ
phận ngƣời dân hoặc miễn phí thì mới hy vọng ngƣời dân sẽ sử dụng dịch
vụ này rộng rãi. Khi họ chƣa sử dụng hoặc ít sử dụng thì chi phí sử dụng
không phải vấn đề lớn, nhƣng khi họ đã biết và sử dụng thƣờng xuyên mà
giá cả vƣợt quá thu nhập của họ thì họ cũng sẽ không sử dụng…
217
6. Đánh giá nhu cầu sử dụng Internet
Mặc dù không thể phủ nhận vai trò quan trọng của Internet trong
đời sống hiện nay, dịch vụ này vẫn còn xa lạ đối với nhiều ngƣời dân, đặc
biệt những ngƣời dân ở vùng miền núi. Khi chƣa nhận biết đƣợc vai trò
quan trọng của Internet thì có lẽ ngƣời dân sẽ còn thờ ơ với loại hình dịch
vụ này. Điều này đƣợc khẳng định ở câu hỏi về nhu cầu sử dụng Internet
của ngƣời dân khi có dịch vụ này về tới thôn/bản và có ngƣời hƣớng dẫn
cách sử dụng. Trong số những ngƣời không sử dụng, có tới gần một nửa
(chiếm 46,4%) trả lời không cho câu hỏi này.
Vậy ai là ngƣời có nhu cầu sử dụng Internet? Điều có thể khẳng
định đầu tiên là nhóm thanh thiếu niên là nhóm có nhu cầu sử dụng
Internet hơn cả so với các nhóm tuổi trung niên, cao tuổi. Mặc dù giữa các
nhóm tuổi, mức độ không biết sử dụng Internet không chênh nhau, có
nghĩa cả nhóm trẻ tuổi cũng có đến hơn một nửa không biết sử dụng dịch
vụ này. Tuy nhiên, xét về nhu cầu, nhóm trẻ tuổi có xu hƣớng muốn sử
dụng Internet cao hơn nhóm tuổi lớn hơn.
Biểu 6: Lí do không sử dụng Internet vì không cần thiết phân
theo nhóm tuổi
19.622.8
36.5
0
5
10
15
20
25
30
35
40
Díi 31 tuæi Tõ 31-50 tuæi Trªn 50 tuæi
Hơn nữa, mong muốn sử dụng Internet khi đƣợc cung cấp dịch vụ
này ở hai nhóm tuổi trẻ (với tỷ lệ tƣơng ứng ở nhóm dƣới 31 tuổi là
58,2%, nhóm 31-50 tuổi là 58,4% thì ở nhóm trên 50 tuổi là 37,9%.
218
Điều đáng ngạc nhiên là nhu cầu sử dụng Internet của các dân tộc
thiểu số khác cũng không cách biệt so với ngƣời Kinh, thậm chí có dân tộc
nhƣ Nùng còn có tỷ lệ mong muốn sử dụng dịch vụ này cao hơn cả dân
tộc Kinh. Trong số những ngƣời không sử dụng Internet thì nhu cầu sử
dụng dịch vụ này ở nhóm chƣa bao giờ đi học là thấp nhất (chỉ có 24,7%
trong tổng số ngƣời nhóm này muốn sử dụng).
Khi xem xét ở khía cạnh nghề nghiệp cho thấy, ngoài lí do dịch vụ
xa nơi ở / không thuận tiện, không có sự khác biệt giữa những ngƣời làm
nghề khác nhau khi đƣa ra lí do không sử dụng dịch vụ vì không biết sử
dụng và không cần thiết. Ngay trong số những ngƣời làm cán bộ công
chức cũng có đến 43,1% đƣa ra lí do cho việc không sử dụng Internet vì
không biết sử dụng và 35,3% cho rằng dịch vụ này không cần thiết đối với
họ.
Mặc dù nhu cầu sử dụng Internet trong ngƣời dân tại 2 tỉnh điều tra
không cao, có thể thấy là đối tƣợng có nhu cầu sử dụng dịch vụ này không
chỉ bó hẹp trong một vài nhóm nghề nghiệp mà rất đa dạng: từ những
ngƣời sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đến buôn
bán, dịch vụ, công nhân viên chức, học sinh, ngƣời già/về hƣu đến ngƣời
không có nghề nghiệp…
III. Kết luận và khuyến nghị
Mặc dù nhiều ngƣời dân ở 2 tỉnh miền núi (Lào Cai và Yên Bái)
biết về Internet, đa số họ, đặc biệt ở địa bàn các xã nông thôn chƣa có cơ
hội tiếp cận loại hình dịch vụ này. Số ngƣời sử dụng ở 2 tỉnh chủ yếu tập
trung ở vùng đô thị, rơi vào nhóm học sinh, sinh viên và cán bộ công
chức, ở nhóm ngƣời Kinh. Tỷ lệ sử dụng Internet ở nhóm trẻ tuổi (dƣới 31
tuổi) nhiều hơn so với các lứa tuổi lớn hơn.
Chi phí cho việc sử dụng Internet có vẻ nhƣ chƣa phải là vấn đề nổi
cộm đối với những ngƣời sử dụng dịch vụ phải trả tiền. Điều này có thể lí
giải ở chỗ tần suất sử dụng của ngƣời dân còn thấp.
219
Có 3 lí do chính dẫn đến việc đa số ngƣời dân không sử dụng
Internet, trong đó lí do chủ yếu là không biết sử dụng và 2 lí do nữa là
dịch vụ xa nơi ở/không thuận tiện và cho rằng dịch vụ đó không cần thiết.
Tất nhiên, đôi khi có những ràng buộc giữa các lí do khác nhau, nhƣ do
không có nhu cầu sử dụng, ngƣời dân không có ý định tìm hiểu và tiếp cận
dịch vụ này. Hoặc thậm chí cả 3 lí do cùng hội tụ dẫn đến việc ngƣời dân
chƣa sử dụng hoặc chƣa có cơ hội sử dụng dịch vụ này.
Mặc dù nhóm đối tƣợng sử dụng và có nhu cầu sử dụng Internet chủ
yếu rơi vào nhóm trẻ tuổi, có thể thấy đối tƣợng sử dụng cũng nhƣ có nhu
cầu sử dụng dịch vụ này rất đa dạng ở các ngành nghề khác nhau, các dân
tộc khác nhau.
Một điều đáng ngạc nhiên trong quá trình phân tích thực trạng và
nhu cầu sử dụng Internet của ngƣời dân 2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái là trong
các nội dung phân tích, hầu nhƣ không có sự khác biệt rõ rệt, thậm chí
không hề có sự chênh lệch giữa nam và nữ về nhận thức, hành vi cũng nhƣ
mong muốn sử dụng loại phƣơng tiện truyền thông này.
Khuyến nghị
Việc tăng cƣờng đƣa dịch vụ Internet về tới thôn/xã ở 2 tỉnh Lào
Cai và Yên Bái là cần thiết để ngƣời dân có cơ hội tiếp cận với loại hình
dịch vụ này nhiều hơn, để có thể bắt kịp với xu thế chung trên toàn quốc,
trong khu vực Đông Nam Á và cả thế giới. Rút ngắn khoảng cách biệt
giữa miền núi – nông thôn đồng bằng - đô thị về thông tin nói riêng, về
kiến thức cũng nhƣ trình độ phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, cần lƣu
ý:
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức của ngƣời dân về vai trò của
Internet, cách khai thác và sử dụng Internet một cách tích cực.
Thứ hai, khác với các loại phƣơng tiện truyền thông đại chúng khác,
Internet du nhập vào Việt Nam muộn hơn. Một mặt nó đem lại nhiều tiện
ích cho ngƣời sử dụng nhƣ: thông tin đa dạng, cập nhật… Mặt khác, nếu
không có sự quản lý chặt chẽ, bản thân những ngƣời kinh doanh dịch vụ
220
này vì mục đích lợi nhuận hoặc do thiếu kỹ năng, họ không ngăn cản
khách hàng vào những trang web có nội dung tiêu cực nhƣ những trang
sex, trò chơi bạo lực… Do vậy cần phải tập huấn, yêu cầu những ngƣời
kinh doanh dịch vụ này phải tối thiểu có chứng chỉ tin học ở mức nhất
định để có thể giải quyết những vấn đề trên.
Thứ ba, cũng cần phải cảnh báo về nguy cơ thanh thiếu niên có thể
sử dụng Internet quá nhiều, dẫn đến việc sao nhãng học hành, làm việc…
Đặc biệt, với công nghệ, kỹ thuật ngày càng hiện đại, các trò chơi trực
tuyến (game online) ngày càng trở nên hấp dẫn.
Thứ tư, ngoài việc tăng cƣờng cung cấp dịch vụ Internet về đến
thôn/bản cho ngƣời dân, kích cầu bằng cách tuyên truyền về tính hữu dụng
của Internet, các tỉnh cũng nên tập trung hơn để đầu tƣ về mặt nội dung,
đƣa những thông tin phù hợp với trình độ văn hoá, ngôn ngữ, đặc điểm
dân tộc cũng nhƣ kinh tế – xã hội của ngƣời dân lên trang web của tỉnh. Ví
dụ nhƣ có trang web cung cấp những nội dung về hoạt động sản xuất nông
nghiệp, nông nghiệp, chăn nuôi… phù hợp với đặc điểm địa lý, nghề
nghiệp của ngƣời dân ở đây.
Thứ năm, một trong những nguyên nhân dẫn tới hạn chế tiếp cận
với Internet của ngƣời dân miền núi là thu nhập của ngƣời dân còn thấp,
trong khi giá cả truy cập internet còn khá cao so với thu nhập của họ. Cần
tăng cƣờng dịch vụ Internet miễn phí và giá thấp cho ngƣời dân miền núi,
đặc biệt tới những xã nông thôn.
Thứ sáu, một hạn chế nữa là trình độ của ngƣời dân vùng núi còn
thấp, việc đọc báo in còn hạn chế chứ chƣa nói đến đọc báo trên mạng. Để
sử dụng đƣợc Internet, ngoài việc biết đọc đƣợc tiếng Việt, ngƣời sử dụng
phải có một chút kiến thức về tin học. Nên đào tạo tin học, internet cho
học sinh, tầng lớp thanh niên để từ đó họ có thể hƣớng dẫn cho những bậc
lớn tuổi hơn, thậm chí cả ngƣời già biết một số kỹ năng cơ bản để sử dụng
internet. Thêm vào đó, đội ngũ ngƣời cung cấp dịch vụ ở các đại lý, các
bƣu điện, văn hoá xã cũng tích cực hƣớng dẫn cho ngƣời dân cách tìm
221
kiếm và khai thác thông tin trên mạng.
222
VÀI NÉT VỀ THỰC TRẠNG TIẾP CẬN INTERNET CỦA
NGƢỜI DÂN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
(nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Đồng Tháp)
Ths. Phạm Hương Trà
1. Giới thiệu
Sự phát triển nhanh chóng, từng phút, từng giờ của các phƣơng tiện
thông tin đại chúng đã góp phần tạo nên một kỷ nguyên thông tin toàn
cầu. Chính vì thế, nhu cầu tiếp nhận thông tin ngày càng cao hơn, đa dạng
hơn, phong phú hơn. Ngƣời ta đón nhận thông tin từ nhiều chiều, theo
những cách thức khác nhau và Internet là một phƣơng tiện truyền thông
mới góp phần quan trọng trong thời đại thông tin này. Không ai có thể phủ
nhận vai trò của Internet trong đời sống xã hội, nó cung cấp lƣợng thông
tin khổng lồ, nhanh nhất, hiệu quả nhất và có tác động lớn đến đời sống xã
hội. Sở dĩ nó có yếu tố trên đó chính là do tính chất “đa phƣơng tiện” của
nó: nó có thể làm việc đƣợc với cả âm thanh, hình ảnh lẫn văn bản – điều
mà các phƣơng tiên truyền thông cũ nhƣ báo in, phát thanh và truyền hình
điều không làm đƣợc (Trần Hữu Quang, 2006, tr448).
Kết quả nghiên cứu này tác giả sử dụng bộ số liệu định lƣợng do
khoa Xã hội học thực hiện vào tháng 9/ 2008, điều tra tại địa bàn tỉnh
Đồng Tháp với tổng số mẫu là 500 c¸ nh©n thuéc c¸c hé gia ®×nh. Cách
lấy mẫu theo phƣơng pháp ngẫu nhiên phân chùm: phêng T©n Quy §«ng
thÞ x· Sa §Ðc; phêng 4 thµnh phè Cao L·nh; x· An Phong huyÖn Thanh
B×nh; x· An B×nh A huyÖn Hång Ngù; x· Phó §iÒn, huyÖn Th¸p Mêi; tại
mỗi địa điểm chọn 100 ngêi.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1 Đánh giá chung về thực trạng sử dụng Internet
Năm 1997 với sự ra đời của công ty Điện toán và truyền số liệu
VDC làm mốc cho sự thâm nhập của Internet vào Việt Nam. Lúc đó,
223
Internet còn quá xa lạ với ngƣời Việt Nam, thậm chí ngay cả với những
cán bộ khoa học làm trong lĩnh vực thông tin cũng ít cơ hội tiếp cận và sử
dụng công nghệ hiện đại này. Nhƣng sau hơn 10 năm vào Việt Nam,
Internet đã phát triển một cách mạnh mẽ, tất cả các tỉnh thành phố trên cả
nƣớc đều có mạng Internet, ngƣời dân ngày càng biết và tiếp cận với
phƣơng tiện truyền này. Tuy nhiên, trong cuộc nghiên cứu tại tỉnh Đồng
Tháp khi hỏi “Ông/ bà đã bao giờ nghe nói đến Internet chưa?”, có 36%
số ngƣời đƣợc hỏi chƣa nghe nói về Internet.
Biểu 1: Tỷ lệ người dân có nghe nói về Internet (%)
64
36Có nghe
Chưa nghe
Điều này cho thấy ngƣời dân ở đây vẫn chƣa đƣợc tiếp cận với
phƣơng tiện này và những ngƣời chƣa nghe đến Internet chủ yếu ở nông
thôn. Trái lại ngƣời dân ở đô thị tại Đồng Tháp có cơ hội và môi trƣờng
tốt trong việc tiếp cận với những phƣơng tiện hiện đại hơn so với khu vực
nông thôn. Cụ thể, có 153/200 trƣờng hợp chiếm 76,5% ngƣời dân ở đô
thị và 165/300 trƣờng hợp chiếm 55% ngƣời dân ở nông thôn có nghe nói
về Internet.
Có thể nói, việc phát triển dịch vụ internet tại địa phƣơng sẽ giúp
ích cho ngƣời dân tiếp cận với phƣơng tiện truyền thông mới. Với nhiều
tên gọi khác nhau nhƣ Điểm truy cập internet công cộng, café Internet,
café Wifi, điểm dịch vụ mạng… loại hình dịch vụ này ra đời và nhanh
chóng phổ biến tại các thành phố lớn đáp ứng nhu cầu truy cập của ngƣời
dùng. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong tổng số 318 ngƣời trả lời có nghe
224
nói đến Internet có tới 253 trƣờng hợp (79.6%) cho biết có dịch vụ
internet ở địa phƣơng.
Việc ngƣời dân biết có dịch vụ Internet cho thấy ngƣời dân ở khu
vực này có quan tâm tới loại phƣơng tiện mới và hiện đại này hay không.
Có thể nói, từ việc ngƣời dân nhận thức đƣợc vị trí quan trọng của Internet
đến việc có thái độ tích cực, ủng hộ và quan tâm tới nó đã góp phần cho sự
phát triển của mạng thông tin toàn cầu ở khu vực nhƣng phần quan trọng
hơn cả là liệu họ có sử dụng trong cuộc sống và công việc hàng ngày hay
không? Trong tổng số 318 ngƣời có nghe nói tới dịch vụ này có chƣa tới
¼ số ngƣời trả lời đã từng sử dụng. Đây là một tỷ lệ rất ít, điều đó chứng
tỏ ngƣời dân tại Đồng Tháp còn đang rất lạ lẫm với loại hình truyền thông
mới này. Ngay cả với nhóm cán bộ viên chức nhà nƣớc và học sinh, sinh
viên là nhóm có cơ hội tiếp cận với Internet dễ dàng hơn cả với các nhóm
nghề khác nhƣ nông nghiệp, về hƣu, công nhân…cũng có tỷ lệ ngƣời sử
dụng không nhiều. Cụ thể là trong số 59 ngƣời trả lời đã sử dụng có 19
ngƣời là cán bộ viên chức và 12 ngƣời là học sinh, sinh viên đã sử dụng
Internet.
Mặc dù mới xuất hiện ở Việt Nam nhƣng trong điều kiện đổi mới tƣ
duy cũng nhƣ sự đánh giá đúng mức của Đảng và Nhà nƣớc về Internet
nên loại hình phƣơng tiện này đã nhanh chóng tiếp cận và khai thác những
máy móc, công nghệ mới của Internet trên thế giới. Theo trung tâm
Internet Việt Nam, vào tháng 5/2008 Việt Nam có 5.834.289 số lƣợng
thuê bao qui đổi và có 19.774.809 ngƣời sử dụng Internet, tỷ lệ dân sử
dụng là 23,5% (Nguồn: Trung tâm Internet Việt Nam, truy cập ngày
14/12/2008). Còn theo báo cáo của tỉnh Đồng Tháp có khoảng 4000 thuê
bao và nếu nhƣ so sánh với số thuê bao trên toàn quốc thì ở Đồng Tháp tỷ
lệ này còn khá thấp. Lý giải cho điều này có thể là do hiện nay mạng
Internet mới chỉ phát triển và phổ biến với khu vực đô thị của Đồng Tháp,
trong khi tại Đồng Tháp ngƣời dân sống tại đô thị không nhiều. Trong các
cuộc thảo luận nhóm về phƣơng tiện mà ngƣời dân tiếp cận hàng ngày
225
cũng thể hiện điều này “Nói chung, Internet thì vùng nông thôn mới có
nay thôi, khoảng chừng tháng rưỡi. Phương tiện đó cũng chưa có đại trà
lắm, cũng ít sử dụng. Mà giời vô thì cũng chưa chắc biết dùng” (Thảo
luận nhóm, xã Phú Điền, huyện Tháp Mƣời).
2.2 Mục đích sử dụng Internet
Kết quả điều tra định lƣợng cho thấy trong số 4 mục đích đƣa ra
những ngƣời đã sử dụng Internet đều đánh giá cao vai trò thông tin của
loại phƣơng tiện này, có tới 38/59 ngƣời đƣợc hỏi cho rằng họ truy cập
Internet để tìm kiếm thông tin, còn việc dùng internet để viết thƣ điện tử
hay chơi trò chơi điện tử là rất ít (11,9%). Nhƣ vậy, với 2 nhóm thƣờng
xuyên có cơ hội tiếp xúc với Internet là nhóm học sinh, sinh viên và nhóm
cán bộ công chức thì mục đích nhƣ vậy là khá phù hợp.
Để đánh giá một cách kỹ càng hơn với đối tƣợng đã sử dụng
Internet, chúng tôi đƣa ra câu hỏi “Việc sử dụng Internet có thiết thực
trong công việc, sinh hoạt…với ông bà hay không?”, kết quả cho thấy chỉ
có một tỷ lệ rất nhỏ nhóm công chúng của loại phƣơng tiện này trả lời
rằng không hữu ích (5,1%), còn lại đa phần trả lời rằng Internet rất có ý
nghĩa trong cuộc sống, sinh hoạt…của họ. Điều này cho thấy đối với
những ngƣời đã sử dụng họ đã nhận thấy đƣợc vai trò quan trọng của loại
hình truyền thông này.
Biểu 2: Đánh giá về ý nghĩa của việc sử dụng Internet (%)
0
10
20
30
40
50
60
Rất hữu ích Hữu ích Không hữu ích
Đối với nhóm có biết Internet nhƣng không sử dụng chúng tôi có
đặt ra câu hỏi về lý do để giải thích cho việc họ chƣa tiếp cận với phƣơng
tiện này. Kết qủa là đa phần không sử dụng là do không biết cách sử dụng
226
nó nhƣ thế nào, tỷ lệ này chiếm tới 64,8% số ngƣời đƣợc hỏi. Nhƣ vậy,
khi đƣa Internet về địa phƣơng chúng ta cần tổ chức ngƣời hƣớng dẫn sử
dụng cho ngƣời dân để có thể hình thành một nhóm ngƣời biết sử dụng
thành thạo từ đó hƣớng dẫn cho những ngƣời khác. Do những rào cản về
trình độ học vấn và nhất là phong tục tập quán sản xuất dựa trên kinh
nghiệm cha ông để lại nên ngƣời dân chƣa nhận thức đƣợc tầm quan trọng
của các thông tin mà Internet mang lại đối với cuộc sống của mình.
Biểu 3: Lý do không sử dụng Internet (%)
0
20
40
60
80
Không biết sử
dụng
Dịch vụ xa nơi ở Không cần thiết Khác
Còn lý do về mặt không gian – dịch vụ xa nơi ở/ không thuận tiện
không phải là một rào cản khiến ngƣời dân không tiếp cận đƣợc với
Internet, chỉ có 1,2% số ngƣời có biết Internet lựa chọn phƣơng án này.
Tuy nhiên, một tỷ lệ đáng kể gần 1/3 số ngƣời biết tới Internet mà không
sử dụng trả lời rằng họ không thấy cần thiết phải sử dụng loại hình này.
Điều này có thể đƣợc giải thích rằng đa số những ngƣời đƣợc hỏi làm ở
những nhóm nghề chƣa cần phải sử dụng Internet nhƣ buôn bán, nông
nghiệp, làm thuê, về hƣu…hơn nữa họ còn phải dành nhiều thời gian cho
công việc của mình nên không thể dành riêng một khoảng thời gian nhất
định để ngồi truy cập vào Internet.
Khi hỏi có thích sử dụng hay không thì có tới 71,2% số ngƣời đƣợc
hỏi trả lời rằng không thích sử dụng phƣơng tiện này.
Nếu so sánh về giới tính kết quả nghiên cứu cho thấy nam giới thích
sử dụng Internet hơn nữ giới. Theo kết quả điều tra có 33,5% nam giới và
23,8% nữ giới trả lời có thích sử dụng Internet. Hơn nữa, kết quả cũng cho
227
thấy đối với những ngƣời tuổi càng cao sở thích sử dụng Internet càng
giảm, nếu nhƣ gần ½ nhóm dƣới 31 tuổi trả lời có thích sử dụng thì chỉ có
gần ¼ (18,2%) nhóm trên 50 tuổi cho rằng có sở thích này.
Có thể nói, chỉ xét riêng về mặt định lƣợng, tổng số ngƣời sử dụng
Internet ở Việt Nam hiện nay chƣa tƣơng xứng với tính hiện đại của công
nghệ thông tin. Và tại địa phƣơng nghiên cứu số lƣợng ngƣời có nhu cầu
sử dụng không phải là nhiều, điều đó cho thấy ngƣời dân ở đây có thể
chƣa biết đến loại hình phƣơng tiện này hoặc do họ chƣa nhận thấy đƣợc
tầm quan trọng của Internet trong công việc cũng nhƣ trong đời sống sinh
hoạt của mình.
Tài liệu tham khảo
1. Trần Hữu Quang, 2006, Xã hội học báo chí, Nxb Trẻ, Thời báo kinh tế sài gòn,
Trung tâm kinh tế Châu Á – Thái Bình Dƣơng, tr448
2. Lê Ngọc Hùng, 2008, Bài Vấn đề giới trong thông tin đại chúng: Nghiên cứu
trường hợp Internet trong “Những vấn đề giới: Từ lịch sử đến hiện đại”, Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội, tr 121-125.
3. http://www.vnnic.vn/, Trung tâm Internet Việt Nam-VNNIC, truy cập ngày
14/12/2008
228
PHẦN III : CÔNG CHÖNG, NHU CẦU TIẾP CẬN VÀ
HIỆU QUẢ CỦA TRUYỀN THÔNG
NHẬN DIỆN CÔNG CHÖNG QUA CHƢƠNG TRÌNH PHÁT THANH
(Nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Tháp)
Ths. Dương Thu Hương
Đặt vấn đề
Dƣới sự hỗ trợ của các công nghệ hiện đại, truyền thông đa phƣơng
tiện đang ngày càng phát triển và phát huy đƣợc những ƣu thế của mình
trong việc chiếm lĩnh thị phần công chúng của các phƣơng tiện truyền
thông nói chung. Đứng trƣớc xu thế đó, các phƣơng tiện truyền thông
truyền thống nhƣ báo viết, phát thanh, truyền hình rất cần có những bƣớc
đổi mới nhất định để “giữ chân” công chúng của mình. Mỗi một loại hình
báo chí đều có những ƣu thế nhất định, phù hợp ở mức nhất định đối với
công chúng khác nhau về tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp cũng nhƣ
các đặc điểm xã hội khác.
Riêng đối với loại hình báo phát thanh, trong bối cảnh bùng nổ
truyền thông ở Việt nam hiện nay, phát thanh thƣờng bị nhìn nhận nhƣ
một phƣơng tiện yếu thế vì chỉ có phần tiếng mà không có phần hình ảnh.
Tuy nhiên nó lại có những ƣu thế mà các loại hình báo chí khác không có
nhƣ: phƣơng tiện để có thể tiếp cận đƣợc với phát thanh thƣờng gọn gàng,
dễ mang theo mọi lúc mọi nơi, đầu tƣ chi phí cũng rất thấp, thậm chí
ngƣời ta có thể nghe các chƣơng trình phát thanh thông qua các phƣơng
tiện khác nhƣ: máy nghe nhạc, quạt tích điện, máy điện thoại ….
229
Để có cơ sở duy trì và mở rộng công chúng của phát thanh, rất cần
có những nghiên cứu nhận biết công chúng của phát thanh hiện nay là
những ai, họ mang những đặc điểm gì cũng nhƣ nhận diện những ngƣời
không tiếp cận với phát thanh và những lý do mà họ không tiếp cận với
phát thanh. Việc nhận diện này có ý nghĩa rất quan trọng, giúp cho các nhà
quản lý truyền thông có cơ sở để thiết kế các chƣơng trình phát thanh phù
hợp cho từng nhóm đối tƣợng với những đặc điểm nhân khẩu học và xã
hội cụ thể, giữ chân và lôi kéo đông đảo công chúng đến với phát thanh
hơn nữa.
1. Công chúng của phát thanh, họ là ai?
Trong nghiên cứu của chúng tôi, công chúng của phát thanh được
định nghĩa là những người nghe đài thường xuyên. Trong nhóm nghe đài
thường xuyên này, chúng tôi chia làm 2 nhóm với 2 mức độ tiếp cận khác
nhau với phát thanh: nhóm nghe đài hàng ngày và nhóm nghe đài một số
ngày trong tuần.
- Đặc điểm nhân khẩu học của công chúng phát thanh
Căn cứ vào đặc điểm về giới cho thấy nam giới thích nghe đài nhiều
hơn nữ giới: có 29,8% nam giới thƣờng xuyên hay một vài lần trong tuần
nghe đài, trong khi tỉ lệ này ở nữ chỉ có 24,1%.
Biểu đồ 1: Tỷ lệ nam/nữ thường xuyên nghe đài
29.8%
24.1%
0.0%
5.0%
10.0%
15.0%
20.0%
25.0%
30.0%
35.0%
Nam
Nữ
Xét về độ tuổi những ngƣời đứng tuổi (trên 30 tuổi) thƣờng thích
nghe đài hơn công chúng trẻ tuổi (dƣới 30 tuổi). Đặc biệt nhóm trên 50
230
tuổi là nhóm mà tỉ lệ nghe đài thƣờng xuyền hàng ngày cao nhất so với
những nhóm công chúng trẻ hơn.
Biểu đồ 2: Tuổi của người được hỏi và mức độ thường xuyên nghe đài
14.8%
19.8%
23.1%
7.0%
8.3%
6.3%
0.0%
5.0%
10.0%
15.0%
20.0%
25.0%
Dưới 30 31-50 trên 50
Thường xuyên
một vài lần trong tuần
- Đặc điểm kinh tế - xã hội
Nếu căn cứ vào những gì đƣợc cho là lợi thế của phát thanh nhƣ chi phí
đầu tƣ thấp, ít tốn kém, tiếp cận thuận tiện mọi lúc, mọi nơi thì có thể nhận
định rằng thính giả của các chƣơng trình phát thanh là những ngƣời có địa
vị kinh tế xã hội thấp, trình độ văn hoá thấp. Tuy nhiên, thực tế nghiên
cứu cho thấy, thính giả của đài phát thanh là những ngƣời có vị thế kinh tế
xã hội tƣơng đối cao và họ cũng là những ngƣời có trình độ trong xã hội.
Bảng 1: Tương quan giữa mức độ nghe đài và nghề nghiệp (%) Mức độ nghe
đài
Nông
nghiệp
Công nhân,
Tiểu thủ công
nghiệp
Buôn
bán, dịch
vụ
Cán bộ
nhà nƣớc
Làm
thuê
Học
sinh, sv
Thƣờng xuyên 19,8 19,8 14,6 34,9 9,9 21,1
1vài lần/tuần 6,6 19,0 6,1 16,3 6,2 10,5
1vài lần/tháng 1,1 0 1,2 4,7 3,7 5,3
1vài lần/năm 6,6 0 6,1 7,0 3,7 5,3
Không bao giờ 65,9 61,9 72 37,2 76,5 57,9
Nếu xét về số tuyệt đối thì số ngƣời nghe đài phát thanh thƣờng
xuyên nhiều nhất là nông dân vì cơ cấu nghề nghiệp nông nghiệp chiếm tỷ
trọng cao nhất so với các ngành nghề khác. Tuy nhiên điều này không có
231
nghĩa là đa số những ngƣời làm nông nghiệp nghe đài. So sánh mức độ
thƣờng xuyên và không thƣờng xuyên tiếp cận với phát thanh cho thấy tỉ
lệ thƣờng xuyên (hầu hết các ngày trong tuần hay một vài ngày/tuần) cao
nhất lại rơi vào nhóm có tri thức cao và nhóm có nghề nghiệp ổn định
(nhƣ công chức nhà nƣớc, học sinh, sinh viên). Bên cạnh đó, nhóm buôn
bán dịch vụ, nhóm làm thuê lại là nhóm không phải là công chúng thƣờng
xuyên của phát thanh.
Bên cạnh yếu tố nghề nghiệp thì yếu tố kinh tế cũng ảnh hƣởng đến
mức độ thƣờng xuyên nghe đài, hay nói cách khác, ngƣời có vị thế kinh tế
khác nhau thì không giống nhau về mức độ tiếp cận với phát thanh.
Biểu đồ 3: Số tài sản có giá trị đang sở hữu và mức độ thường xuyên
nghe đài
Mức độ tiếp cận phát thanh
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Hàng ngày 1 vài lần/tuần 1 vài lần/tháng 1 vài lần/nămK o b a o g i ờ
0
1 dến 4
5 đến 8
9 đến 12
Để đánh giá đặc điểm kinh tế hộ gia đình và mức độ nghe đài, một
biến mới có tên số tài sản có giá trị gia đình đang sở hữu đƣợc tạo ra. Biến
này là tổng số 12 biến hỏi về việc gia đình hiện có hay không sở hữu một
số tài sản có giá trị trong gia đình. Biến này sẽ chạy từ 0 đến 12: biến càng
lớn tức là gia đình ngƣời đƣợc hỏi đang sở hữu nhiều tài sản có giá trị,
ngƣợc lại, giá trị của biến càng thấp chứng tỏ gia đình sở hữu ít tài sản có
giá trị. Khi phân tích tƣơng quan giữa mức độ tiếp cận với đài phát thanh
và số tài sản có giá trị đang sở hữu thì thấy rất rõ những ngƣời đƣợc hỏi
mà trong gia đình họ sở hữu nhiều tài sản cũng là những ngƣời thƣờng
232
xuyên (hoặc vài lần trong tuần) tiếp cận với phát thanh, và ngƣợc lại,
những ngƣời sở hữu ít tài sản có giá trị cũng là ngƣời có ít cơ hội tiếp cận
với phát thanh (cụ thể ở bảng 2). Nếu nhƣ mức độ thƣờng xuyên nghe đài
(hàng ngày và một vài ngày trong tuần) tăng dần theo số tài sản có giá trị
gia đình đang sở hữu thì ngƣợc lại, tỉ lệ không bao giờ nghe đài giảm dần
cùng với mức tăng của số tài sản có giá trị gia đình đang sở hữu. Điều này
cũng phản ánh trong tƣơng quan giữa khả năng chi tiêu và mức độ thƣờng
xuyên tiếp cận với phát thanh: nhóm ngƣời thƣờng xuyên tiếp cận với phát
thanh cũng trùng với nhóm có mức chi tiêu cao hơn so với các nhóm khác
trong xã hội. Có thể giải thích vấn đề này bằng giả định nhƣ sau: các hộ
gia đình khá giả, có thể họ không phải quá lo toan với kinh tế, có nhiều
thời gian rảnh rỗi nghe đài và cũng biết tìm đến phát thanh để thỏa mãn
nhu cầu nghe đài hơn những hộ đang khó khăn về kinh tế.
Bảng 2: Tương quan giữa học vấn người được hỏi và mức độ thường
xuyên tiếp cận với phát thanh (%)
Mức độ tiếp cận Học vấn ngƣời đƣợc hỏi
Chƣa bao
giờ đi häc Tiểu học THCS THPT
Cao đẳng, ĐH
và cao hơn
Hàng ngày 16.7 15.9 13.7 29.3 36.7
1 vài lần/tuần 2.4 6.0 8.1 9.5 10.0
1 vài lần/tháng .0 3.3 1.2 2.6 3.3
1 vài lần/năm .0 6.0 6.8 6.9 6.7
Ko bao giờ 81.0 68.9 70.2 51.7 43.3
Khi phân tích mối quan hệ giữa trình độ học vấn và mức độ tiếp cận
với phát thanh, chúng tôi cũng nhận thấy rất rõ từ bảng tƣơng quan này là
những ngƣời có trình độ học vấn cao cũng có xu hƣớng tiếp cận thƣờng
xuyên với phát thanh, trong khi những ngƣời có trình độ học vấn thấp (ví
dụ nhƣ chƣa bao giờ đi học hoặc trình độ tiểu học) thì thƣờng là rất ít khi
nghe hoặc không bao giờ tiếp cận với phát thanh.
Một phát hiện nữa của nghiên cứu là những ngƣời thƣờng xuyên tham gia
các hoạt động xã hội, những ngƣời có tính năng động xã hội cũng là ngƣời
thích nghe đài. Để đo đƣợc tính năng động xã hội, chúng tôi cũng tạo ra
biến mới có tên “mức độ năng động xã hội” bằng cách cộng tám biến đã
233
có: nhƣ mức độ tham gia lễ hội văn hóa, hội họp, hoạt động phƣờng xã,
đoàn thể, nghỉ mát, du lịch, thể thao. Nhƣ vậy không phải là nếu nhƣ họ
dành thời gian tham gia các hoạt động này thì sẽ không có thời gian nghe
đài mà thực tế, những ngƣời nào có tính năng động xã hội cũng là ngƣời
thƣờng xuyên nghe đài hơn những ngƣời ít năng động xã hội.
Biểu đồ 4: Mức độ năng động xã hội và mức độ thường xuyên nghe đài
32.2%
11.0%
1.7%
9.3%
45.7%
15.9%
6.0%
2.5%5.0%
70.7%
0.0%
10.0%
20.0%
30.0%
40.0%
50.0%
60.0%
70.0%
80.0%
Hàng ngày 1 vài lần/tuần 1 vài lần/tháng 1 vài lần/năm Ko bao giờ
Thường xuyên
Ít khi
Qua điều tra, chúng tôi thống kê đƣợc có 41,4% số hộ gia đình còn
sở hữu đài radio nhƣng chỉ có 28,8% số ngƣời đƣợc hỏi (đại diện của mỗi
hộ) còn giữ thói quen nghe đài, trong đó tỉ lệ thƣờng xuyên nghe đài chỉ
còn 19,6%. Qua phân tích ở trên cho thấy, tỉ lệ những ngƣời thƣờng xuyên
nghe đài tập trung chủ yếu ở nhóm có trình độ học vấn tƣơng đối cao (từ
cấp 3 trở lên), làm những công việc mang tính chất ổn định (công nhân
viên chức nhà nƣớc, học sinh, sinh viên), và kinh tế gia đình tƣơng đối khá
giả. Tuy nhiên đây không phải là nhóm chiếm đa số tại địa bàn nghiên
cứu. Phân tích đặc điểm dân cƣ địa bàn điều tra cho thấy tại địa bàn
nghiên cứu, dân cƣ chủ yếu làm nông nghiệp, làm thuê hay buôn bán dịch
vụ là chính, trình độ dân trí tƣơng đối thấp (với 70% mẫu điều tra) có trình
độ từ PTCS trở xuống, và với mức chi tiêu thấp (gần 500 nghìn
đồng/ngƣời/tháng). Một câu hỏi đặt ra là phải chăng nội dung và giờ phát
234
sóng các chƣơng trình phát thanh chƣa thật sự phù hợp với đặc điểm kinh
tế, dân trí, xã hội của nhóm xã hội chiếm đa số này, chính vì vậy mà chƣa
thu hút đƣợc họ đến với phát thanh. Một bằng chứng cho thấy là mặc dù ở
địa bàn nông thôn với tỷ lệ cao những ngƣời làm nông nghiệp nhƣng
chƣơng trình phát thanh nông thôn không phải là chƣơng trình đƣợc yêu
thích nhất, hơn nữa tỉ lệ ngƣời đƣợc hỏi yêu thích chƣơng trình này nhất
rất thấp (4,8%).
Để tăng tỉ lệ ngƣời nghe đài, bên cạnh các chƣơng trình phục vụ
nhóm có trình độ thƣởng thức cao, chúng tôi thiết nghĩ cần hƣớng xây
dựng các chƣơng trình mang tính chất bình dân hơn nữa để phục vụ nhóm
xã hội đông đảo này. Cần xây dựng các chƣơng trình hƣớng cụ thể đến
nhóm tuổi, đặc điểm nghề nghiệp, và dân trí của họ vì thói quen và tâm lý
nghe đài thƣờng là nghe một mình và nghe cho bản thân mình. Điều này
khác hẳn với xem tivi : thƣờng là xem cùng gia đình, họ hàng, vừa xem
vừa cùng bình luận. Nhận định này đƣợc minh chứng rất rõ khi nhìn vào
thời điểm mà công chúng muốn nghe đài : trƣớc khi đi ngủ buổi tối
(58,1%), vừa làm vừa nghe đài (19,9%), lúc thực hiện các hoạt động cá
nhân (15,3%) ... đây là các thời điểm mang tính chất riêng tƣ nhiều hơn là
mang tính chất giải trí và chia sẻ thông tin.
Cũng từ đặc điểm tâm lý này, chúng tôi thiết nghĩ để có thể cạnh
tranh với truyền hình, phát thanh cần thiết kế các chƣơng trình hƣớng tới
công chúng là gia đình phát vào những giờ thƣờng có sự sum họp gia đình
nhƣ giờ ăn cơm và sau bữa ăn tối, hay vào những khung giờ nhất định của
ngày nghỉ. Các chƣơng trình nên thiết kế mang tính giải trí hoặc giải trí
lồng ghép với giáo dục và tiếp cận theo hƣớng có sự tham gia của các
thành viên trong gia đình, có nhƣ vậy mới có thể lôi kéo một phần khán
giả của truyền hình quay trở lại với phát thanh.
Bên cạnh đó, phát thanh cần có những hƣớng đi riêng, dựa vào thế
mạnh của mình để phát triển và cần xác định cho mình những nhóm công
chúng đặc thù khác với truyền hình. Qua phân tích sơ bộ công chúng của
235
truyền hình, chúng tôi thấy cũng có rất nhiều điểm tƣơng đồng với phát
thanh (về tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ học vấn) mặc dù sự phân
hoá là không rõ rệt nhƣ đối với phát thanh. Vì vậy nên phát thanh nên chú
ý phát triển công chúng mà hiện tại truyền hình còn đang bỏ trống chứ
không nên phát triển công chúng giống nhƣ công chúng của truyền hình.
2. Công chúng của phát thanh có phải là công chúng của các loại hình
báo chí khác ?
Một thực tế không thể phủ nhận đƣợc là truyền hình là một phƣơng
tiện truyền thông chiếm ƣu thế và phổ biến nhất so với các phƣơng tiện
khác, vừa thỏa mãn đƣợc cả phần nhìn và phần nghe, đồng thời thỏa mãn
đƣợc cả thói quen của công chúng : vừa xem vừa nói chuyên, chia sẻ
thông tin – lối sống mang tính cộng đồng cao và phù hợp với các cộng
đồng còn nặng lối sống truyền thống. Chính vì vậy mà có tới 93% tổng số
hộ trong mẫu điều tra có sở hữu ít nhất một chiếc ti vi. Cũng có tới 71%
ngƣời đƣợc hỏi trả lời công việc họ thƣờng làm nhất trong thời gian rỗi là
xem truyền hình. Với sự xâm lấn ngày càng mạnh mẽ của truyền hình,
chúng ta rất cần xác định những ngƣời là thính giả thƣờng xuyên của các
chƣơng trình phát thanh có mối liên quan nhƣ thế nào với các loại hình
báo chí khác, đặc biệt là truyền hình. Có cách nào để giữ chân những thính
giả thƣờng xuyên của phát thanh, đồng thời lôi kéo những ngƣời chƣa bao
giờ nghe phát thanh, những ngƣời đã rời bỏ đài phát thanh quay trở lại với
phƣơng tiện truyền thông này.
Thực tế cho thấy phát thanh vẫn là phƣơng tiện truyền thông đại
chúng đứng thứ hai, sau truyền hình, mà công chúng thƣờng xuyên tiếp
xúc hàng ngày. Tuy nhiên khoảng cách này là rất xa (80% so với 19,6%).
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy nguồn thông tin quan trọng nhất mà
ngƣời dân ở Đồng Tháp tiếp nhận là từ truyền hình, chiếm 91,8%, sau đó
đến đài phát thanh 25,6%.
236
Biểu đồ 5: Mức độ tiếp cận hàng ngày với các phương tiện truyền thông
đại chúng (%)
80
19.615.2
2
0
20
40
60
80
Truyền hình Phát thanh Báo Internet
Nếu không tính đến Internet trong mẫu điều tra (vì đây là loại hình
chƣa thật sự phổ biến trong mẫu nghiên cứu), thì chỉ có 6,2% toàn bộ số
ngƣời trong mẫu nghiên cứu thƣờng xuyên tiếp cận hàng ngày với cả ba
phƣơng tiện truyền thông đại chúng phổ biến : Truyền hình, phát thanh,
báo, tuy nhiên có tới gần 49% công chúng thƣờng xuyên xem tivi hàng
ngày hoặc một vài ngày trong tuần nhƣng không bao giờ đọc báo hoặc
nghe đài. Cũng có 6,6% ngƣời đƣợc hỏi vừa thƣờng xuyên đọc báo, xem
truyền hình hàng ngày nhƣng không nghe đài phát thanh.
Nếu xem xét mối tƣơng quan giữa phát thanh và truyền hình thì có
tới trên 62% công chúng của toàn mẫu nghiên cứu không bao giờ nghe
phát thanh nhƣng thƣờng xuyên hoặc một vài ngày trong tuần xem truyền
hình (trong đó thƣờng xuyên chiếm ƣu thế với 50% số ngƣời đƣợc hỏi).
Câu hỏi đặt ra là liệu những ngƣời thƣờng xuyên nghe đài có phải là khán
giả của các chƣơng trình truyền hình hay độc giả của báo in không.
Bảng 3 : Mối quan hệ giữa mức độ tiếp cận với truyền hình và mức độ
tiếp cận với phát thanh (%)
Mức độ tiếp cận với phát thanh
Hàng ngày 1 vài lần/tuần Ko bao giờ
Mức độ
Hàng ngày 84,7 81,1 77,2
1 vài lần/tuần 6,1 18,9 18,5
237
tiếp cận
với
truyền
hình
1 vài lần/tháng 3,1 0 1,2
1 vài lần/năm 2 0 0,6
Ko bao giờ 4,1 0 2,5
Tổng 100 100 100
Trong số những ngƣời thƣờng xuyên tiếp cận với phát thanh hàng
ngày hay vài ngày trong tuần thì cũng có tới từ 90 đến 100% hàng ngày
hay vài ngày trong tuần tiếp xúc với truyền hình. Nhƣ vậy họ là thính giả
thƣờng xuyên của phát thanh đồng thời cũng là khán giả thƣờng xuyên của
truyền hình. Ngƣợc lại, trong số những ngƣời không bao giờ nghe đài, thì
có tới trên 95% xem truyền hình hàng ngày hay vài ngày trong tuần. Điều
này có nghĩa là việc họ nghe đài thƣờng xuyên không có nghĩa là họ từ bỏ
ti vi, nhƣng xem ti vi thƣờng xuyên chƣa chắc đã có nhu cầu nghe đài.
Nhƣ vậy chƣơng trình truyền hình thỏa mãn nhu cầu công chúng hơn so
với phát thanh và chƣơng trình phát thanh chƣa thật hay, hấp dẫn để thính
giả trung thành của phát thanh cảm thấy thỏa mãn và không rời bỏ phát
thanh. Điều này càng đƣợc củng cố sâu sắc hơn khi xem xét đến lý do
công chúng không nghe phát thanh. Có 54,6% số ngƣời đƣợc hỏi cho
rằng nội dung của đài không hấp dẫn bằng tivi, trong đó có 38% cho rằng
đây là lý do quan trọng nhất vì sao họ không nghe đài.
Phát hiện trên cũng gợi mở cho chúng ta về mặt giải pháp: nếu cứ
tiếp tục bê nguyên xi các chƣơng trình truyền hình sang phát thanh thì
thính giả trung thành của phát thanh sẽ rời bỏ phát thanh vì họ cũng là
công chúng của truyền hình nên họ đâu cần mất thời gian xem lại một nội
dung đã đƣợc xem bên truyền hình.
Ngoài vấn đề về nội dung, sở thích, thói quen sinh hoạt, chúng tôi
cũng đi tìm hiểu xem phƣơng tiện có phải là một rào cản khiến cho ngƣời
dân không nghe đài thƣờng xuyên không.
Bảng 4 : Mối quan hệ giữa mức độ tiếp cận với phát thanh và số tivi đang
sở hữu
Mức độ tiếp cận
với pthanh
Số lƣợng tivi
Ko có 1 2 3 4
238
Hàng ngày 22.9 16.9 35.6 62.5 .0
1 vài lần/tuần 2.9 6.8 17.8 .0 .0
1 vài lần/tháng 2.9 1.7 4.4 12.5 .0
1 vài lần/năm 6.0 5.9 6.7 12.5 33.3
Ko bao giờ 64.8 68.7 35.6 12.5 66.7
Phân tích bảng trên cho thấy không có tivi (lý do cơ bản là do kinh
tế) cũng không phải là động lực cơ bản để ngƣời ta tìm đến phát thanh.
Cũng có thể nhóm này quá nghèo không đủ khả năng mua đài. Tuy nhiên,
nhƣ đã nói, chi phí đầu tƣ đài không phải là khó chấp nhận đƣợc với nhóm
nghèo. Vì vậy, về cơ bản, đây là nhóm còn mải lo cơm áo gạo tiền, không
có nhu cầu và trên hết là không nhận ra những nhu cầu của bản thân mà có
thể tự đáp ứng đƣợc thông qua các chƣơng trình phát thanh. Khi xem xét
đến nhóm có sở hữu tivi, mô hình gia đình có sở hữu một tivi chiếm đa số
trong mẫu nghiên cứu (trên 80%), và các gia đình sở hữu trên 4 tivi chiếm
tỉ lệ không đáng kể (6%). Nếu không tính đến nhóm có 4 ti vi, bảng số liệu
trên cho thấy rất rõ những hộ có càng nhiều tivi thì tỉ lệ thƣờng xuyên và
vài ba lần nghe đài trong tuần càng cao. Điều này có thể giúp loại bỏ giả
thuyết là những hộ tìm đến phát thanh vì họ không có tivi. Đồng thời, nó
cũng củng cố hƣớng tìm kiếm thông tin ở phía trên khi cho rằng những
thính giả phát thanh là những ngƣời thuộc gia đình khá giả, có trình độ
học vấn, năng động xã hội và thực sự có nhu cầu nghe phát thanh. Vì vậy
mà chƣơng trình phát thanh đƣợc yêu thích nhất không phải là chƣơng
trình nông thôn (4,8%), không phải là các chƣơng trình giải trí nhƣ sân
khấu, dân ca vọng cổ (13,2%), hay ca nhạc (9,7%) mà có tới 66,1% ngƣời
trả lời yêu thích chƣơng trình tin tức nhất.
Mặc dù phƣơng tiện không phải là rào cản mấu chốt của công
chúng khi tiếp cận với phát thanh, tuy nhiên nếu đƣợc mua giá rẻ, tặng
miễn phí thì đây cũng là bƣớc đệm tốt để công chúng đến với phát thanh.
Có 66,3% những ngƣời đƣợc hỏi mong muốn đƣợc cấp phát miễn phí máy
thu thanh. Tuy nhiên một điểm đáng lƣu ý là những ngƣời mong muốn
đƣợc cấp miễn phí đài phát thanh không phải hoàn toàn (hay đa số) rơi
239
vào nhóm chƣa có đài. Tỷ lệ có mong muốn đƣợc cấp phát đài phát thanh
miễn phí ở nhóm chƣa có đài chỉ cao hơn một chút so với nhóm đã có đài
(70,4% so với 63,3%). Nhƣ vậy những ngƣời có đài rồi họ vẫn mong
muốn có thêm chiếc đài mới để họ không phải chia sẻ phƣơng tiện với ai
hoặc để có phƣơng tiện mới nghe tốt hơn bởi vì họ thực sự muốn nghe đài.
Điều đáng nói ở đây là một tỉ lệ đáng kể những ngƣời hiện tại họ không có
đài nhƣng họ cũng sẵn sàng từ chối đài cấp phát miễn phí vì họ không có
nhu cầu và họ cũng không biết dùng đài để làm gì nếu đƣợc phát. Vì vậy
nếu cứ cấp phát đài miễn phí tràn lan thì thực sự là lãng phí mà không có
hiệu quả mở rộng công chúng mà cần tập trung vào tạo nhu cầu cho công
chúng, quảng bá đến họ và nâng cấp các chƣơng trình cũng nhƣ hạ tầng cơ
sở phát thanh trƣớc khi nghĩ đến tạo một bƣớc đệm mới là phát miễn phí
đài cho công chúng thì sẽ hiệu quả hơn rất nhiều.
Biểu đồ 5 : Mối quan hệ giữa nguyện vọng được phát miễn phí tivi và
thực trạng sở hữu đài phát thanh hiện tại
Vì vậy cần tính đến giải pháp để nâng cao tỉ lệ thính giả đến với
phát thanh bằng việc tập trung tạo ra nhu cầu mới cho các nhóm từ trƣớc
đến nay chỉ trung thành với truyền hình hoặc những ngƣời đã từ bỏ phát
thanh. Thực tế nếu hỏi họ về nhu cầu phát thanh có thể họ sẽ từ chối hoặc
trả lời không có nhu cầu vì có thể họ đã bội thực với truyền hình (đặc biệt
trong thời điểm bùng nổ các kênh nhƣ hiện nay). Tuy nhiên thiết kế các
chƣơng trình „đo ni đóng giày‟ cho họ, thích hợp cả về thời gian và sở
thích, đặc biệt là tăng cƣờng những quảng cáo về các chƣơng trình phát
63.3
36.7
70.4
29.6
0
10
20
30
40
50
60
70
80
có muốn ko muốn
có đài
ko có đài
240
thanh để đông đảo công chúng biết về phát thanh hơn cũng là cách để đƣa
phát thanh đến với đông đảo công chúng hơn nữa.
Kết luận
Qua nghiên cứu trƣờng hợp tại tỉnh Đồng Tháp cho thấy phát thanh
vẫn là phƣơng tiện TTĐC phổ biến thứ hai (sau truyền hình) mà công
chúng thƣờng xuyên tiếp cận. Tuy nhiên khoảng cách về số lƣợng công
chúng của hai loại hình này là rất lớn và có nguy cơ ngày càng dãn rộng.
Công chúng của phát thanh hiện nay tại tỉnh Đồng Tháp cũng mang
những đặc điểm nhất định nhƣ : là những ngƣời đứng tuổi, nghiên nhiều
về phía nam giới, có trình độ học vấn tƣơng đối cao và nghề nghiệp ổn
định (nhƣ công chức, học sinh, sinh viên). Đồng thời, họ cũng là những
ngƣời thuộc nhóm có hoàn cảnh kinh tế khá giả - xét cả về tài sản sở hữu
và mức chi tiêu. Bên cạnh đó, những ngƣời thƣờng xuyên nghe đài phát
thanh cũng là những ngƣời có tính tích cực chính trị xã hội cao, biết tự
nhận ra những nhu cầu của bản thân và mong muốn đƣợc đáp ứng bằng
các chƣơng trình của phát thanh.
Trong mối tƣơng quan với các loại hình báo chí khác thì công
chúng của phát thanh thƣờng cũng là những khán giả thƣờng xuyên của
truyền hình, điều này có nghĩa là họ vẫn có những nhu cầu mà phát thanh
chƣa thể thỏa mãn và họ phải tìm đến truyền hình. Ngƣợc lại một tỉ lệ rất
phổ biến công chúng hiện nay chỉ có nhu cầu xem truyền hình là đủ và
thỏa mãn mà không cần tìm đến các loại hình báo chí khác nhƣ phát thanh
hay báo in.
Qua phân tích ở trên cho thấy, các nhà quản lý rất cần tổ chức và
xây dựng lại các chƣơng trình phát thanh theo hƣớng hƣớng tới nhóm đối
tƣợng cụ thể. Chƣơng trình cần phù hợp về đặc điểm nhân khẩu học, kinh
tế xã hội của họ vì họ tìm đến phát thanh với những nhu cầu mang tính
chất cá nhân và trong những thời điểm thƣởng thức mang tính cá nhân hơn
là thƣởng thức tập thể. Bên cạnh đó, trong những khung giờ có sự xum
họp gia đình vào buổi sáng tối hay những ngày nghỉ, cũng nên thiết kế các
241
chƣơng trình hƣớng tới thính giả là nhóm gia đình, theo hƣớng có sự tham
gia của công chúng, nhƣ vậy sẽ hấp dẫn và thu hút đƣợc đông đảo công
chúng hơn. Đây cũng là hƣớng tiếp cận cần hƣớng tới trong hầu hết các
chƣơng trình của đài.
Ngoài ra, nhà đài cũng nên cải tiến hơn nữa các chƣơng trình vốn là
thế mạnh và đƣợc yêu thích trên phát thanh nhƣ thời sự và giải trí. Đối với
thời sự thì cần tăng cƣờng hơn nữa các bản tin mang tính cập nhật thông
tin đảm bảo tính chính xác và tính kịp thời, đa dạng hóa các loại bản tin
phục vụ các nhóm công chúng khác nhau nhƣ: học sinh, sinh viên, tiểu
thƣơng, nhà nông, làm thuê … Các chƣơng trình giải trí nhƣ ca nhạc cũng
cần làm mới hơn nữa về cách thức giới thiệu, hình thức thể hiện và chất
lƣợng các chƣơng trình.
Bên cạnh việc nâng cấp tính hấp dẫn về nội dung và hình thức thể
hiện thì các nhà quản lý cũng cần cải thiện các yếu tố về cơ sở hạ tầng,
chất lƣợng phát sóng, giúp gỡ bỏ những rào cản không đáng có góp phần
đƣa phát thanh đến với đông đảo công chúng hơn nữa.
242
Nhu cầu thông tin về sức khoẻ sinh sản qua nghiên cứu thƣ gửi về
chƣơng trình “cửa sổ tình yêu”, chƣơng trình phát thanh thanh thiếu
niên, đài tiếng nói Việt Nam
Ths. Nguyễn Thị Tuyết Minh
A. TÓM TẮT
Nghiên cứu nhu cầu thông tin của công chúng truyền thông là một mắt
xích quan trọng trong quá trình truyền thông nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả truyền thông. Truyền thông về sức khoẻ sinh sản trên các
phƣơng tiện thông tin đại chúng là vấn đề khá mới mẻ, thậm chí đƣợc
xem là nhạy cảm ở Việt Nam. Do đó, việc cung cấp thông tin đáp ứng
đƣợc nhu cầu thông tin của đối tƣợng đích là hết sức quan trọng.
Đây là một nghiên cứu trƣờng hợp, những kết quả nghiên cứu chỉ áp
dụng cho chƣơng trình đƣợc khảo sát. Mục đích của nghiên cứu nhằm mô
tả nhu cầu thông tin về sức khoẻ sinh sản của thính giả chƣơng trình “Cửa
số tình yêu”. Nghiên cứu đƣợc thực hiện bẳng phƣơng pháp phân tích nội
dung với 200 bức thƣ đƣợc lựa chọn ngẫu nhiên từ tháng 8/2001 đến
tháng 10/2002 của thính giả gửi về chƣơng trình “Cửa sổ tình yêu. Phân
tích các chƣơng trình đã đƣợc phát sóng trong bốn tuần liên tục của tháng
6/2001. Phƣơng pháp phỏng vấn sâu đƣợc tiến hành với ban biên tập, đội
ngũ chuyên gia trực tiếp thực hiện chƣơng trình (4 phỏng vấn sâu).
Phƣơng pháp quan sát tham dự đƣợc tiến hành với một chƣơng trình phát
sóng trực tiếp chƣơng trình "Cửa sổ tình yêu" tại phòng thu - phát, Trung
tâm thu thanh, Đài tiếng nói Việt Nam tại 39 Bà Triệu. Kỹ thuật phân tích
thông tin định lƣợng đƣợc áp dụng với phần mềm spss 10.0 và kỹ thuật
phân tích định tính đƣợc áp dụng với phần mềm Nvivo 2.0.
243
Bài viết là một phần kết quả từ luận án Thạc sĩ Xã hội học của tác giả
đƣợc bảo vệ trong Hội đồng chấm luận án thạc sĩ xã hội học của Viện Xã
hội học năm 2003.
B. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình chung về hoạt động của chƣơng trình "Cửa sổ tình yêu"
Năm 1999, trong khuôn khổ dự án VIE/97/P19 "Nâng cao năng lực
tuyên truyền vận động dân số và phát triển đội ngũ cán bộ thông tin đại
chúng", UNFPA đã lồng ghép thực hiện mục tiêu truyền thông các thông
tin về SKSS cho thanh niên và VTN thông qua đầu tƣ cho Ban phát thanh
Thanh Thiếu niên, Đài tiếng nói Việt Nam mở chƣơng trình phát thanh
trực tiếp "Cửa sổ tình yêu". Chƣơng trình này đã nhận đƣợc sự hỗ trợ về
kỹ thuật ban đầu của đài phát thanh BBC. Chƣơng trình “Cửa sổ tình yêu”
đƣợc phát trên sóng AM, Đài tiếng nói Việt Nam, vào 10 giờ sáng chủ
nhật hàng tuần, chƣơng trình phát sóng và nhận điện thoại của thính giả từ
khắp nơi gọi về số điện thoại 04.8262625
"Cửa sổ tình yêu" đƣợc xây dựng với mục tiêu trao đổi trực tiếp giữa
các chuyên gia tâm lý, SKSS và bác sĩ nhằm giải đáp thắc mắc của thính
giả về những vấn đề liên quan đến SKSSVTN, trên cơ sở đó tuyên truyền
cho thanh niên và VTN những kiến thức về SKSS. Chƣơng trình giải đáp
những vấn đề cụ thể về tình bạn, tình yêu, hôn nhân, những vấn đề về giáo
dục giới tính, những vấn đề về giáo dục tình dục, mang thai ngoài ý muốn,
vô sinh, các BPTT, những vấn đề về các bệnh phụ khoa, các bệnh lây
nhiễm qua đƣờng tình dục, HIV/AIDS, các vấn đề về SKSS khác. Chƣơng
trình cung cấp thông tin và kỹ năng xử lý tình huống trong các trƣờng hợp
mà thính giả có nhu cầu.
Chƣơng trình "Cửa sổ tình yêu" phát sóng lần đầu tiên vào ngày
7/3/1999, tính đến 30 tháng 6 năm 2002, chƣơng trình đã phát đƣợc 174
buổi, nhận đƣợc hàng ngàn cuộc gọi điện thoại và hơn năm vạn lá thƣ của
bạn nghe đài đề nghị giải đáp những thắc mắc, cung cấp những kiến thức
đúng đắn tình bạn, tình yêu, những kiến thức tâm sinh lý lứa tuổi, cách
244
phòng tránh thai và các bệnh lây truyền qua đƣờng tình dục... Trung bình
mỗi buổi phát sóng, chƣơng trình nhận đƣợc khoảng 40 cuộc gọi điện
thoại và mỗi tuần nhận đƣợc 400 - 500 lá thƣ của thính giả đề nghị giải
đáp thêm những thắc mắc mang tính riêng tƣ và góp ý cho chƣơng trình.
Tính từ thời điểm chúng tôi chọn lọc thƣ (tháng 8/2001 đến tháng 6/2002)
đã phát sóng đƣợc 44 chƣơng trình.
Chƣơng trình "Cửa sổ tình yêu" đƣợc xây dựng không chỉ xuất phát
từ nhu cầu bức xúc đang đặt ra về thực trạng SKSSVTN mà còn đƣợc
hình thành từ ý tƣởng của những ngƣời quan tâm đến thế hệ trẻ. Đại diện
Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc Việt Nam, Ban phát thanh Thanh Thiếu Nhi -
Đài tiếng nói Việt Nam và Ban quản lý Dự án VIE/97/P19 - Phân viện
Báo chí và Tuyên truyền thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
đã dành nhiều nỗ lực để chƣơng trình đƣợc phát sóng.
Chƣơng trình "Cửa sổ tình yêu" là một chƣơng trình phát thanh trực
tiếp, đây là một cách thức mới nhất trong báo phát thanh ở Việt Nam.
Thông thƣờng mỗi chƣơng trình phát sóng mà chúng ta thƣờng nghe hàng
ngày là chƣơng trình đã đƣợc thực hiện trƣớc khi phát sóng, với những nội
dung theo chủ đề đã có sắn mà đội ngũ phóng viên, biên tập viên đã chuẩn
bị. Chƣơng trình "Cửa sổ tình yêu" hoàn toàn khác, nội dung về mảng vấn
đề theo yêu cầu của chƣơng trình đƣợc định hƣớng trƣớc, đó là chƣơng
trình tƣ vấn kiến thức về SKSS cho đối tƣợng VTN. Tên của chƣơng trình
đã nói lên điều đó "Cửa sổ tình yêu" tức là chỉ đứng ở ngoài nhìn vào,
"liếc" vào chứ không phải là "cửa đại" để đi vào. Vì vậy, thông tin đƣợc
cung cấp nằm dƣới dạng thông tin theo chiều rộng và mang tính tƣ vấn là
chủ yếu. Tuy nhiên, nội dung cụ thể của từng buổi phát sóng phụ thuộc
vào những câu hỏi của thính giả khắp mọi miền đất nƣớc gọi tới, cho nên,
điều này rất bị động đối với ban biên tập.
Bên cạnh trả lời trực tiếp trên sóng, chƣơng trình còn dành thời gian
để trả lời qua thƣ cho thính giả, những ngƣời có nhu cầu sâu hơn hoặc
không thể liên lạc trực tiếp với chƣơng trình vì nhiều lý do khác nhau. Tuy
245
nhiên, ban biên tập chỉ lựa chọn một số bức thƣ để trả lời tuỳ theo tính cấp
bách của vấn đề trong thƣ và số lƣợng thƣ đƣợc trả lời còn phụ thuộc vào
khuôn khổ kinh phí mà chƣơng trình đƣợc tài trợ.
Thời gian phát sóng của chƣơng trình bắt đầu từ 10h sáng chủ nhật
hàng tuần, chƣơng trình đƣợc kéo dài trong 30 phút và không phát lại vào
buổi khác.
2. Nhu câu thông tin về sức khoẻ sinh sản của thính giả
Nhu cầu thông tin về giáo dục giới tính
Vấn đề giới tính và giáo dục giới tính đƣợc xem xét từ lâu nhƣng cho
đến nay vẫn còn nhiều vấn đề tranh cãi. NCTT về giáo dục giới tính là
một trong 3 lĩnh vực đƣợc thính giả quan tâm nhiều nhất. Nó đƣợc thể
hiện thông qua tần suất số lƣợt thính giả có nhu cầu đƣợc tƣ vấn qua thƣ
56 lần/200 thƣ chiếm 16%. Tuy nhiên, mục đích của chƣơng trình là cung
cấp kiến thức để giáo dục VTN là chính, cho nên khối lƣợng kiến thức
liên quan đến lĩnh vực này đƣợc giới hạn bởi kiến thức cơ bản về thay đổi
sinh lý ở tuổi VTN. Điều này khiến cho chuyên gia trả lời cũng cảm thấy
"đơn điệu" và nếu một chƣơng trình phát sóng phải tƣ vấn nhiều hơn 2 lần
về vấn đề này sẽ tạo cảm giác nhàm chán cho cả ngƣời nghe và chuyên
gia.
Chính vì vậy, trong các chƣơng trình phát sóng, ban biên tập cố gắng
không tạo sự trùng lặp nhiều. Trong 4 chƣơng trình phát sóng liên tục
tháng 6/2002, tổng số cuộc điện thoại đƣợc chuyên gia trả lời là 32 cuộc
và chỉ 5 lần tƣ vấn về những vấn đề liên quan đến giáo dục giới tính. Tính
trung bình 1 lần tƣ vấn về giáo dục giới tính trong 1 chƣơng trình phát
sóng.
Tỷ lệ theo nhu cầu giữa nam và nữ dƣờng nhƣ không khác nhau, nam
chiếm 52,3% (34/65TH) và nữ chiếm 47,7% (31/65TH). Nhƣng thực tế lại
có sự khác nhau về cƣờng độ, bởi vì tỷ lệ nhu cầu theo giới tính thì nam
có tỷ lệ cao hơn nữ: 34/81TH (chiếm 42%) trong khi nữ chỉ có 31/119TH
(chiếm 26,1%) cần thông tin về giáo dục giới tính
246
Sự khác nhau về giới tính là yếu tố cơ bản đƣa tới sự khác nhau về
NCTT ở lĩnh vực này. Yếu tố nhóm của NCTT xuất hiện tƣơng đối rõ: lứa
tuổi dậy thì VTN thƣờng bỡ ngỡ, lo lắng với những thay đổi về giới tính
trong cơ thể của họ. Trong đó, nhóm nam thƣờng đề cập tới những thông
tin liên quan tới sự phát triển sinh lý của nam nhƣ hiện tƣợng xuất tinh lần
đầu, mộng tinh, còn nhóm nữ lại cần thông tin về giáo dục giới tính nữ
nhƣ xuất hiện kinh nguyệt lần đầu, cơ thể phát triển không theo mong
muốn.
Tuy nhiên, vẫn có những thắc mắc qua thƣ cho thấy NCTT về giới
tính của thính giả chỉ dừng lại ở vấn đề rất sơ đẳng. Điều này cho thấy, ô
kiến thức về giáo dục giới tính của họ còn trống mặc dù họ cũng có tự trau
dồi tri thức về vấn đề này. Nhƣng vì hiểu không “đến đầu đến đũa" lại gây
thêm cho họ những hoang mang, bất ổn hơn về hành vi của mình.
Sự khác biệt nhóm tuổi cho chúng ta nhận thấy sự khác biệt về tần
suất và chiều sâu của NCTT của chủ thể nhu cầu. Trong tổng số 65/200TH
có NCTT về giáo dục giới tính thì VTN ở nhóm tuổi 14 - 19 quan tâm
nhất 48/65TH chiếm 73,8%; nhóm tuổi 20-25 là 14/65TH (21,5%); trên 26
tuổi là 3/65TH (4,6%)
NCTT xuất hiện và chịu ảnh hƣởng lớn của yếu tố nhóm tuổi, trạng
thái riêng của từng chủ thể: NCTT về giáo dục giới tính ở nhóm tuổi 20 -
25 và trên 26 không giống với lứa tuổi VTN. Lứa tuổi VTN, NCTT về vấn
đề này xuất hiện khi họ thấy có những biểu hiện không bình thƣờng trong
độ tuổi của mình. Đó là những NCTT giáo dục giới tính thuần tuý. Nhƣng
hai nhóm tuổi cao hơn, NCTT biểu hiện sự khác biệt hẳn về chất. Ở nhóm
tuổi này, NCTT không xuất hiện từ những lo lắng bản thân về sự phát
triển của cơ thể, mà nó gắn với mục đích và động cơ khác nhau nhƣ: quá
trình trải nghiệm, họ thấy rằng mình không bình thƣờng. Điều này gắn với
lợi ích thiết thân của họ, họ ý thức đƣợc họ muốn gì, mục đích rõ ràng. Ví
dụ nhƣ gắn với hôn nhân, gắn với tình yêu, gắn với tình dục…
247
Tình trạng hôn nhân là một trong những chỉ báo cho thấy mức độ,
động cơ thúc đẩy NCTT về giáo dục giới tính. Thính giả chƣa kết hôn có
NCTT về giáo dục giới tính nhiều hơn thính giả đã kết hôn, tuy nhiên yếu
tố này có liên quan chặt chẽ với sự khác nhau về giới tính và nhóm tuổi.
Trong tổng số 65/200TH có NCTT về giáo dục giới tính, nhóm chƣa
kết hôn chiếm tới 89,2% (58/65TH), chiếm 33,5% (58/173TH) theo tình
trạng hôn nhân, trong khi nhóm đã kết hôn chiếm 10,8% (7/65TH) và
26,9% (7/26TH)
Một trong những nhân tố xã hội ảnh hƣởng đến NCTT về giáo dục
giới tính tƣơng đối rõ nét là sự khác biệt về vùng miền. Trong đó, thính
giả nông thôn và miền núi, vùng sâu, vùng xa chiếm số lƣợng NCTT về
lĩnh vực này lớn hơn thành thị. Trong tổng số 65/200TH có NCTT về giáo
dục giới tính, nông thôn có tỷ lệ cao nhất 58,5% (38/65); thành thị 21,5%
(14/65); miền núi, vùng sâu, vùng xa 20% (13/65). Nhƣng xét về cƣờng
độ, thành thị chiếm 22,6% (14/62TH) thấp hơn nông thôn chiếm 37,9%
(39/103TH) và miền núi chiếm 34,3% (12/35TH).
Không có TH nào nói lên những hủ tục hoặc những thói quen xuất
phát từ văn hoá theo vùng miền ảnh hƣởng đến giáo dục giới tính, nhƣ tục
lệ cắt bao quy đầu để làm lễ trƣởng thành cho nam VTN, tục cắt âm vật để
làm lễ trƣởng thành cho nữ VTN ở một số nƣớc châu Phi.
Nhƣ vậy, NCTT về giáo dục giới tính đƣợc thính giả quan tâm nhiều.
Tuy nhiên, động cơ, mức độ và cƣờng độ của nhu cầu phụ thuộc vào
nhóm tuổi, tình trạng hôn nhân, giới tính, khu vực và địa bàn cƣ trú của
chủ thể. Về cơ bản, nhà truyền thông cần chú ý hơn trong việc cung cấp
thông tin ở các mức độ khác nhau cho các lứa tuổi và giới tính.
Nhu cầu thông tin về tình bạn, tình yêu, hôn nhân
Ở tuổi VTN với những thay đổi về sinh lý dẫn đến những thay đổi về
tâm lý. Sự thu hút giới tính, sự thay đổi trong quan hệ bạn bè khác giới và
nhóm này xuất hiện những xúc cảm đầu đời. Vì vậy, việc cung cấp thông
248
tin giáo dục về tình bạn, tình yêu trong sáng hay định hƣớng tới hôn nhân
trong tƣơng lai đối với các em là điều rất quan trọng.
Tần suất và cƣờng độ NCTT về tình bạn, tình yêu và hôn nhân đƣợc
nghiên cứu trong mối quan hệ, tác động của các yếu tố xã hội khác nhau
nhƣ đặc trƣng nhóm tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, nơi
cƣ trú...
Thông qua nghiên cứu thƣ thính giả cho thấy NCTT về tình bạn, tình
yêu và hôn nhân chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 46%. Tuy nhiên, tần suất
NCTT về tình bạn hay tình yêu hoặc hôn nhân cũng chênh lệch nhau.
Những nhu cầu này đƣợc phân chia cụ thể một cách tƣơng đối, bởi vì
không có lá thƣ nào trong 200 thƣ chúng tôi phân tích chỉ quan tâm tới
tình bạn cùng giới, tình yêu và hôn nhân thuần tuý, mà tình bạn, tình yêu
và hôn nhân có sự đan xen và phát triển theo chiều hƣớng từ tình bạn khác
giới dẫn tới tình yêu, ý thức về hôn nhân và chuẩn bƣớc vào hôn nhân.
Trong tổng số 186/200TH có NCTT về tình bạn, tình yêu và hôn nhân,
thì nhóm tuổi 14 - 19 tuổi là cao nhất 126/186TH (67,7%); nhóm tuổi
20-25 là 46/186TH (24,7%); nhóm tuổi trên 26 tuổi là 14/186TH
(7,5%). Nhƣng nếu tính tần suất này trong từng nhóm tuổi thì nhóm
trên 26 tuổi lại chiếm số cao nhất 14lần/13 thƣ và nhóm tuổi 20 - 25 là
46 lần/49 thƣ. Trong đó, sự giống nhau của các nhóm tuổi là đều quan
tâm nhiều nhất đến thông tin về tình yêu, sau đó là hôn nhân còn tình
bạn thì chỉ nhóm tuổi 14 - 19 quan tâm nhiều nhất.
Trong 4 chƣơng trình phát sóng liên tục trong tháng 6, trong tổng số
32 cuộc điện thoại đƣợc trả lời thì có tới 17 lƣợt chuyên gia tƣ vấn về tình
bạn, tình yêu và hôn nhân. Trong 17 lƣợt trả lời đó có 14 lƣợt tƣ vấn về
tình yêu, không có TH nào có nhu cầu cần tƣ vấn về tình bạn.
249
Kết quả nghiên cứu thính giả của Công ty tƣ vấn nghiên cứu dân số,
tình yêu là lĩnh vực đƣợc quan tâm nhất ở các độ tuổi cả khi đƣợc phát
trên sóng và nghiên cứu thƣ. Trong đó, qua thƣ chiếm 69,2%.
Nhƣ vậy, NCTT về tình yêu đƣợc thính giả quan tâm nhất sau đó đến
thông tin tƣ vấn về hôn nhân, điều này cũng phù hợp với tâm lý lứa tuổi
VTN. Những kết quả trên cho thấy, chƣơng trình đã tập trung đúng trong
việc đáp ứng NCTT của thính giả VTN. NCTT chịu ảnh hƣởng rất nhiều
từ năng lực hoạt động của chủ thể phát tin. Điều này thể hiện rõ thông qua
việc phát một số loại thông tin nhất định, trong quá trình lựa chọn cuộc
điện thoại để tƣ vấn trên sóng sẽ tạo cho chƣơng trình có những đặc điểm
riêng. Vì vậy, khi NCTT của thính giả xuất hiện họ sẽ hƣớng ngay đến nơi
mà họ cho là ở đó nhu cầu của họ có đƣợc thoả mãn.
Tuy nhiên, cƣờng độ NCTT về tình bạn, tình yêu và hôn nhân khác
nhau tuỳ thuộc vào một số nhân tố về vị thế và vai trò xã hội của chủ thể
nhu cầu:
Nhóm tuổi 14 -19 đang diễn ra những thay đổi về tâm lý và sinh lý
mà bản thân VTN không tự kiểm soát nổi. Sự phát triển sinh lý tuổi dậy
thì, sự rung cảm giới tính xuất hiện mà một trong những biểu hiện của nó
là VTN bắt đầu muốn thu hút sự chú ý của ngƣời khác giới. Nếu NCTT
của nhóm 14-19 tuổi về vấn đề này còn đơn giản thì nhóm tuổi 20-25 và
trên 26, nhu cầu cần tƣ vấn về những thông tin liên quan đến tình yêu và
hôn nhân ở mức độ cao hơn.
Trong số 26 TH đã kết hôn, có 5 TH đã kết hôn ở nhóm tuổi 14-19
tuổi, tuy nhiên họ lại không đề cập tới vấn đề tình bạn, tình yêu, hôn nhân.
Nhóm này phần lớn cần thông tin tƣ vấn về các BPTT, sinh con theo ý
muốn... Trên thực tế, VTN đã kết hôn ít có điều kiện tiếp xúc với các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng, không phải VTN nào cũng biết chữ
và có đủ tự tin để viết thƣ đến chƣơng trình. Bên cạnh đó, ở tuổi "ăn chơi"
mà các em đã phải thực hiện vai trò của các ông bố bà mẹ đầy trách nhiệm
250
với những khó khăn vất vả đời thƣờng. Do đó, họ không còn thời gian
cũng nhƣ khó có điều kiện vật chất để tiếp nhận thông tin.
Tình trạng hôn nhân ảnh hƣởng lớn đến động cơ và mục đích thúc
đẩy NCTT về tình bạn, tình yêu, hôn nhân của chủ thể. NCTT về lĩnh vực
này chủ yếu xuất phát từ chủ thể chƣa kết hôn với tần suất cao
172lƣợt/200TH (chiếm 86%) và cƣờng độ cao 172 lƣợt/174TH chƣa kết
hôn (98,9%). Thính giả chƣa kết hôn quan tâm nhiều nhất đến NCTT về
tình yêu 105/200 TH (52,5%), còn tình bạn đƣợc đề cập tới ở đây cũng là
tình bạn khác giới hoặc đang ở ngƣỡng giữa tình bạn và tình yêu. Trong
khi, nhóm đã kết hôn đề cập tới tình yêu và hôn nhân theo những khía
cạnh khác, với tần suất thấp hơn 13/200TH và cƣờng độ thấp hơn
13/26TH đã kết hôn.
Nhƣ vậy, chƣơng trình "Cửa sổ tình yêu" phục vụ nhóm công chúng
chính là VTN, nhƣng thực tế lại thu hút đƣợc nhóm công chúng là những
cặp vợ chồng không nằm trong lứa tuổi VTN cũng nghe và viết thƣ về
chƣơng trình. Những vấn đề họ cần tƣ vấn dàn trải ở nhiều nội dung,
trong đó có tình yêu và hôn nhân. Bằng cách này chủ thể truyền thông đã
kích thích đƣợc NCTT của ngƣời nhận tin.
NCTT của chủ thể phụ thuộc vào trình độ phát triển của kỹ thuật
truyền tin. Tuy nhiên, kỹ thuật truyền tin có phát huy đƣợc tác dụng hay
không lại còn phụ thuộc vào khả năng sử dụng các kỹ thuật truyền tin của
công chúng. Vì vậy, thông tin về SKSSVTN đƣợc truyền đi trên tất cả các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng, nhƣng vì sao chƣơng trình "Cửa sổ
tình yêu" lại thu hút đƣợc sự quan tâm đặc biệt của công chúng VTN, đặc
biệt là công chúng VTN ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Phải
chăng việc có đƣợc một chiếc đài nhỏ để nghe dễ hơn rất nhiều so với việc
mua một vô tuyến hay phải đặt mua báo hàng ngày.
Nhƣ vậy, nơi cƣ trú ảnh hƣởng nhiều đến NCTT của chủ thể. Yếu tố
xã hội này còn cho thấy NCTT của chủ thể chịu ảnh hƣởng bởi những thói
quen, phong tục tập quán… nơi mà họ sinh sống. Tuy nhiên, công chúng ở
251
thành thị, nông thôn và miền núi, vùng sâu, vùng xa đều có NCTT về tình
bạn, tình yêu và hôn nhân. Trong 110/200TH có NCTT về tình yêu, nhóm
công chúng nông thôn chiếm tỷ lệ cao nhất 49/110TH (44,5%), công
chúng thành thị 40/110TH (36,4%), công chúng miền núi 21/110TH
(19,1%). Trong 61/200 TH có NCTT về hôn nhân, công chúng nông thôn
là 32/61TH (52,5%); công chúng thành thị là 16/61TH (26.2%) và công
chúng miền núi là 13/61TH (21,3%)
Nhu cầu thông tin về tình dục, mang thai, vô sinh và các biện
pháp tránh thai
Nhu cầu tìm hiểu những kiến thức cần thiết về sự phát triển thể chất
của bản thân là nhu cầu thiết yếu gắn với hạnh phúc của từng cá nhân
trong xã hội. Đó là những NCTT về giáo dục giới tính, giáo dục tình dục,
những bệnh lây lan qua đƣờng tình dục… hoặc những NCTT cần thiết góp
phần hoàn thiện nhân cách của từng cá nhân. Trong thực tế, những ràng
buộc của lễ giáo phong kiến, thói quen, phong tục tập quán không cho
phép cá nhân tự do hoặc công khai thoả mãn nhu cầu thiết yếu đó, kể cả
việc tiếp xúc với những thông tin đó. Bởi vì, nhƣ vậy là "Vẽ đƣờng cho
hƣơu chạy". Nhƣng một thực tế đặt ra là ngƣời lớn hay xã hội không vẽ
đƣờng thì hƣơu vẫn chạy và do "chạy" không đúng hƣớng” cho nên để lại
những hậu quả nặng nề đó là trẻ em vô thừa nhận vì "bố mẹ nhí" chƣa đủ
khả năng, chƣa đủ lớn để làm cha mẹ, hoặc các cuộc nạo phá thai không
an toàn dẫn tới vô sinh, tử vong, hoặc ở một số địa phƣơng nạn tảo hôn
vẫn tồn tại…. là hậu quả xấu ảnh hƣởng đến tƣơng lai, nòi giống.
Trong 4 tuần phát sóng liên tục tháng 6/2002, trong tổng số 32 cuộc
tƣ vấn có 7 cuộc tƣ vấn (chiếm 21.9%); trong 31 cuộc điện thoại gọi đến
trong vòng 30 phút phát sóng mà chúng tôi trực tiếp tham dự, có 8 cuộc
(chiếm 25,8%) về tình dục, thai ngoài ý muốn, vô sinh và các BPTT. Mặc
dù quan điểm của ban biên tập là chủ yếu tập trung trả lời những vấn đề về
cung cấp kiến thức liên quan đến SKSS VTN, trọng tâm là tƣ vấn về tình
yêu, hôn nhân (chiếm hơn 50%). Trên thực tế, NCTT về tình dục, thai
252
ngoài ý muốn, vô sinh và các BPTT qua thƣ của công chúng không chỉ
dừng lại ở những con số khiêm tốn nhƣ tƣ vấn trực tiếp: trong 200 thƣ, có
tới 114 số lƣợt (chiếm 57%) công chúng mong muốn đƣợc tƣ vấn về
những vấn đề này.
Sự khác biệt giới tính cho chúng ta thấy một thực tế rằng hiện nay
không chỉ nữ giới quan tâm đến vấn đề về tình dục, thai ngoài ý muốn, vô
sinh và các BPTT mà nam giới cũng quan tâm không kém. Đây là một
trong những chỉ báo cho thấy công tác truyền thông của chúng ta về
DS/SKSS trong những năm qua đạt hiệu quả tƣơng đối cao trong việc “lôi
kéo” nam giới chia sẻ trách nhiệm đối với phụ nữ trong vai trò tái sản
xuất này.
NCTT về vô sinh ở nam và nữ đều xuất phát từ những vấn đề mà họ
đang gặp phải nhƣ: quan hệ tình dục nhiều lần nhƣng chƣa có kết quả,
những biểu hiện khác thƣờng về mặt giới tính ở các bộ phận sinh dục, điều
kiện làm việc không an toàn... khiến họ có sự nghi ngờ về khả năng có con
của mình. Còn NCTT về các BPTT có sự khác nhau tuỳ thuộc vào tình
trạng hôn nhân của khách thể.
Nhƣ vậy, ở cả nam và nữ, hiện tƣợng quan hệ tình dục trƣớc hôn nhân
ngày càng trở nên phổ biến hơn. Sự thiếu hụt thông tin cần thiết và kỹ
năng sống sẽ là nguyên nhân chính gây nên những hậu quả xấu mà bản
thân họ chƣa bao giờ ngờ tới. Đáp ứng NCTT về tình dục an toàn cho
VTN cần phải đƣợc nhìn nhận một cách nghiêm túc, cần nhìn thẳng vào
sự thật nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả không mong
muốn.
Tuy nhiên, tần suất và cƣờng độ của NCTT về lĩnh vực này tuỳ thuộc
vào nhóm tuổi của chủ thể. Về tần suất, nhóm tuổi 14-19 chiếm tỷ lệ cao
nhất 60lƣợt/200TH; nhóm 20-25 chiếm tỷ lệ 42 lƣợt/200TH; nhóm trên 26
tuổi thấp nhất với tỷ lệ 12 lƣợt/200TH. Nhƣng về cƣờng độ NCTT thì
nhóm trên 26 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 12/13TH (92,3%); nhóm tuổi
253
20-25 chiếm tỷ lệ cao thứ hai với 42/50TH (84%) và nhóm 14-19 tuổi lại
có cƣờng độ thấp nhất 60/137TH (43,8%)
NCTT về tình dục, mang thai ngoài ý muốn, vô sinh và các BPTT
đƣợc biểu hiện rõ nét thông qua nghề nghiệp của chủ thể nhu cầu. NCTT
về lĩnh vực này đƣợc dàn trải ở khắp các ngành nghề chúng tôi nghiên
cứu. Trong đó, nhóm học sinh 20/200TH chiếm 10%; nhóm sinh viên
14/200TH chiếm 7%; nhóm nông dân 44/200TH chiếm 22%; nhóm công
nhân và bộ độ 15/200TH chiếm 7,5%; các nhóm khác 21/200TH chiếm
10,5%. Tuy nhiên, tính chất và mức độ thông tin ở các nhóm cũng tƣơng
đối khác nhau.
Dù ở nhóm nghề nghiệp nào, nếu không có đƣợc sự đồng thuận hay
sự chia sẻ trách nhiệm của nam giới đôi khi đẩy phụ nữ vào sự lựa chọn
đƣợc mất mà họ không mong muốn. Vì vậy, NCTT về kỹ năng sống, kỹ
năng nói “không” với tình dục trƣớc hôn nhân phải xuất phát ở cả hai
phía.
Động cơ thúc đẩy NCTT thể hiện tƣơng đối rõ ở tình trạng hôn nhân
của chủ thể. Nhóm chƣa kết hôn có NCTT về tình dục, thai ngoài ý muốn,
vô sinh và các BPTT nhiều hơn nhóm đã kết hôn, cụ thể 79/200TH
(39,5%) ở nhóm chƣa kết hôn và 33/200TH (16,5%) ở nhóm đã kết hôn.
Tuy nhiên cƣờng độ NCTT theo tình trạng hôn nhân thì nhóm đã kết hôn
có cƣờng độ mạnh hơn: 33 lƣợt hỏi/26TH đã kết hôn; 79lƣợt hỏi/174TH
chƣa kết hôn.
NCTT về vấn đề này ở nhóm công chúng chƣa kết hôn có mối liên
quan nhƣ sau: tình dục gắn với thai ngoài ý muốn và phá thai, các BPTT
thƣờng xuất hiện sau gắn với tình dục không an toàn, vô sinh thƣờng gắn
với những kiến thức về giới tính và họ nghi ngờ về khả năng có con của
mình thông qua một số biểu hiện khác thƣờng về mặt giới tính. Còn ở
nhóm đã kết hôn, động cơ dẫn đến NCTT của họ hoàn toàn khác. Họ quan
tâm đến NCTT về tình dục khi bản thân họ đang gặp vấn đề không bình
254
thƣờng trong cuộc sống vợ chồng và điều này có ảnh hƣởng đến độ bền
vững cho hôn nhân của họ.
Nhóm công chúng đã kết hôn và chƣa kết hôn đều có NCTT về tình
dục, thai ngoài ý muốn, sảy thai, vô sinh và các BPTT. Tuy nhiên, động cơ
thúc đẩy sự xuất hiện nhu cầu đó là khác nhau, vì lợi ích tại thời điểm mà
họ cần thông tin mang lại là khác nhau. Vì vậy, trong quá trình cung cấp
thông tin nhà truyền thông cần phải tính đến những điểm khác biệt này.
Nói tóm lại, NCTT về tình dục, thai ngoài ý muốn và các BPTT là hệ
các nhu cầu có quan hệ mật thiết với nhau, đặc biệt là đối với nhóm VTN.
Đây là những NCTT mà các em đang thực sự cần đƣợc cung cấp. Trong
quá trình thông tin, nhà truyền thông không nên né tránh. Bởi vì, nếu đƣợc
thông tin một cách đầy đủ về tình dục an toàn, hậu quả của việc mang thai
ngoài ý muốn, các BPTT cũng nhƣ trách nhiệm của nam VTN đối với nữ
VTN thì các em sẽ chủ động hơn trong các hành vi của mình và giảm
thiểu đƣợc hậu quả không mong muốn.
Nhu cầu thông tin về các bệnh phụ khoa, các bệnh lây truyền
qua đƣờng tình dục và HIV/AIDS
Các bệnh phụ khoa, các bệnh lây truyền qua đƣờng tình dục, kể cả
HIV/AIDS đều ảnh hƣởng nghiêm trọng đến SKSS. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, NCTT về bệnh phụ khoa và bệnh lây nhiễm qua đƣờng tình dục
tƣơng đối thấp so với NCTT về tình yêu, giới tính, tình dục. Trong 4
chƣơng trình phát sóng liên tục của tháng 6/2002, chỉ có 3/32 (9,4%) cuộc
tƣ vấn đƣợc trả lời trên sóng về bệnh phụ khoa, bệnh lây nhiễm qua đƣờng
tình dục và HIV/AIDS. Trong chƣơng trình chúng tôi trực tiếp tham gia,
chỉ có 4/31 cuộc điện thoại cần tƣ vấn về vấn đề này.
NCTT về vấn bệnh phụ khoa, bệnh lây qua đƣờng tình dục và
HIV/AIDS còn tuỳ thuộc vào nhóm tuổi của chủ thể. Trong tổng số
26/200TH có NCTT về bệnh phụ khoa/STDs/HIV/AIDS thì nhóm công
chúng từ 14-19 tuổi là 19/26TH và nhóm 20-25 là 7/26TH, còn lại nhóm
trên 26 tuổi không xuất hiện NCTT này. Trong 26TH có NCTT về những
255
vấn đề này thì chủ yếu tập trung vào NCTT về bệnh phụ khoa, còn NCTT
về bệnh lây qua đƣờng tình dục và HIV/AIDS chỉ xuất hiện một vài TH.
Nhƣ vậy, không có nghĩa là VTN không có NCTT về các bệnh lây
qua đƣờng tình dục và HIV/AIDS. Chúng ta cần phải liên hệ tới cách lựa
chọn câu hỏi để trả lời của ban biên tập. Nội dung của chƣơng trình tập
trung chủ yếu vào vấn đề tƣ vấn cho VTN về tình yêu, sau đó đến tình dục
và thai ngoài ý muốn, tiếp đó là vấn đề giới tính. Mặc dù, nội dung của
từng buổi phát sóng tuỳ thuộc vào những cuộc điện thoại của công chúng,
nhƣng cách chọn vấn đề để tƣ vấn đã đƣợc ngầm quy định trƣớc. Điều
này, tự nó đã giới hạn NCTT của khách thể.
NCTT của nhóm công chúng 14-19 tuổi về bệnh phụ khoa chủ yếu
gắn với thông tin về giới tính và vệ sinh cá nhân. Thực tế, định kiến xã hội
cho rằng ngƣời có gia đình rồi thì mới mắc bệnh phụ khoa và đôi khi nó bị
gán vào tƣ cách đạo đức cá nhân, khiến cho ngƣời có bệnh "bất đắc dĩ"
mới phải đến bệnh viện.
Thông tin hạn chế, cha mẹ không trực tiếp nói chuyện với con cái về
vấn đề này nên khi gặp phải rắc rối, bản thân VTN không biết phải xoay
sở thế nào. Những thông tin họ viết nên cho chúng ta thấy rằng nhóm
VTN hầu nhƣ không biết đó là bệnh gì, họ bị mặc cảm, họ âm thầm chịu
đựng, có khi "tự chữa" theo cách riêng và thậm chí không biết phải đến
đâu để chữa bệnh. Điều này ảnh hƣởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực đời sống
hàng ngày của các em.
NCTT về bệnh phụ khoa, bệnh lây nhiễm đƣờng tình dục và
HIV/AIDS rất cần thiết, nhất là đối với lứa tuổi VTN. Trong TH này, nhà
truyền thông nên chú ý trong quá trình tƣ vấn cần gửi thông điệp để loại
bỏ những định kiến xã hội đối với những bệnh này và cần chú ý hơn nữa
tới khâu cung cấp thông tin đầy đủ.
Trong tất cả các bệnh viện chỉ có khoa phụ khoa, sản khoa để trị
những bệnh liên quan tới phụ nữ. Vậy nam giới không có bệnh "phụ
khoa"? Trong thực tế, cả nam giới và nữ giới đều có nguy cơ mắc các
256
bệnh phụ khoa, các bệnh liên quan tới đƣờng sinh sản và nó mang đặc
điểm cấu tạo giới tính riêng biệt. Tuy nhiên, do sự khác biệt về cấu tạo cơ
thể và chức năng sinh dục khác nhau, phụ nữ phải trực tiếp thực hiện thiên
chức làm mẹ thông qua các cuộc "vƣợt cạn". Chính những vấn đề liên
quan tới các cuộc "vƣợt cạn" này đã làm cho phụ nữ thuộc nhóm có nguy
cơ mắc các bệnh phụ khoa, bệnh lây nhiễm đƣờng tình dục và HIV/AIDS
cao hơn nam giới.
NCTT về lĩnh vực này ở nhóm công chúng nam có tỷ lệ thấp hơn
nhóm công chúng nữ (9/200TH; 17/200TH), nhƣng cƣờng độ NCTT thì
không kém nhau là bao nhiêu (9/81TH nam; 17/119TH nữ). Sự khác biệt
giới tính đƣa tới sự khác nhau về nội dung NCTT, tƣơng tự nhƣ NCTT về
giới tính. Nhóm công chúng nữ chủ yếu có NCTT về các bệnh phụ khoa
liên quan tới sinh dục nữ và nhóm công chúng nam lại có NCTT về các
bệnh liên quan tới sinh dục nam.
Về TH bị nhiễm HIV do chính ma tuý, mặc dù đã bị mắc nhƣng bản
thân họ cũng không hề có một chút kiến thức nào về cách phòng tránh
hoặc nơi làm xét nghiệm và "có chữa đƣợc không. Nhóm công nhân, bộ
độ và nhóm khác không xuất hiện NCTT nhiều về vấn đề này. Tuy nhiên,
những TH có NCTT về lĩnh vực này, về cơ bản cũng gần giống với nhóm
sinh viên. Theo quan sát của chúng tôi tại phòng thu, trong 31 cuộc điện
thoại gọi đến trong 30 phút thì có 3 cuộc có NCTT về HIV/AIDS, 2 trong
3 cuộc điện thoại đó là của nhóm bộ đội. Do có quan hệ tình dục với gái
mại dâm dẫn tới mắc HIV.
Nhƣ vậy, NCTT về bệnh lây nhiễm qua đƣờng tình dục và HIV/AIDS
là NCTT tiềm ẩn. Một khối lƣợng lớn NCTT về lĩnh vực này vẫn chƣa
đƣợc đáp ứng.
Nói tóm lại, NCTT về bệnh phụ khoa, STDs và HIV/AIDS là NCTT
tiềm ẩn nhƣng cũng không kém phần bức xúc ở hầu hết các nhóm đối
tƣợng. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào đặc điểm riêng theo nhóm của đối tƣợng,
NCTT của các nhóm không giống nhau kể cả về tần suất cũng nhƣ cƣờng
257
độ của NCTT. Trong quá trình truyền thông, nhà truyền thông nên chú ý
hơn nữa tới công tác tƣ vấn, thông tin một cách đầy đủ. Đặc biệt, không
những tƣ vấn về cách phòng và chữa bệnh mà còn góp phần thay đổi quan
niệm cũ, thái độ kỳ thị của xã hội đối với những ngƣời bị mắc các bệnh
trên. Không những không nên né tránh khi chọn vấn đề này để tƣ vấn mà
còn cung cấp thông tin một cách chủ động với khối lƣợng lớn tới nhóm
VTN, bởi vì, họ là nhóm có nguy cơ cao của các loại bệnh này.
3. Đánh giá và mong muốn của thính giả gửi về chƣơng trình “Cửa sổ tình yêu”
Về thời gian và thời lƣợng phát sóng
Một trong những biểu hiện NCTT của chủ thể đó là thời điểm thu
nhận thông tin. Vì vậy, đánh giá và mong muốn của thính giả về thời gian
và thời lƣợng phát sóng là chỉ báo quan trọng thể hiện nhu cầu của thính
giả đối với chƣơng trình. Đây là những hiểu biết ban đầu, thể hiện sự quan
tâm của thính giả đối với chƣơng trình. Bên cạnh đó, chỉ báo này còn cho
chúng ta thấy đƣợc mức độ hài lòng hoặc mong muốn của họ về thời gian
phát sóng.
Nghiên cứu của Công ty Nghiên cứu Tƣ vấn dân số, nhân 1 năm ngày
phát sóng của chƣơng trình (tháng 2/2000) cho thấy: trong số 432 ngƣời
đã từng nghe chƣơng trình thì chỉ có 31,3% biết chính xác số tháng phát
sóng. Nhƣ vậy, có nhiều ngƣời không nghe chƣơng trình này ngay từ đầu
và họ không quan tâm chƣơng trình có từ bao giờ.
Trong khi 81,5% nhớ ngày phát sóng nhƣng ngƣời biết chính xác giờ
phát sóng thì giảm xuống còn 67% và tỷ lệ thính giả biết thời lƣợng phát
sóng chỉ 62,1%. Những con số cho thấy, mặc dù tỷ lệ thính giả nghe
chƣơng trình là nhiều song có thể đó chỉ là ngẫu nhiên, họ chƣa thực sự
chờ mong hay chú ý để nghe chƣơng trình.
Số liệu của nghiên cứu này còn cho thấy, không có sự khác biệt nhiều
về giới tính với mức độ quan tâm tới chƣơng trình, nhƣng có sự khác biệt
về nhóm tƣơng đối rõ, nhóm tuổi 14-18 biết về ngày, giờ và thời lƣợng
phát sóng đều hơn các nhóm khác (84,1%, 69,4%; 67,1%). Đây là một
258
trong những biểu hiện của NCTT của nhóm VTN, bởi vì thời điểm và mục
đích tiếp nhận thông tin là những biểu hiện NCTT của chủ thể, VTN quan
tâm nhiều đến chƣơng trình xuất phát từ động cơ hoạt động của họ, đó là
những thay đổi sinh lý và tâm lý mà bản thân họ không tự kiểm soát đƣợc
cho nên đã gây cho họ sự lo lắng cũng nhƣ sự tò mò khám phá cơ thể của
mình.
Trong 200 thƣ chúng tôi nghiên cứu, không có thƣ nào cho biết rằng
họ biết đến chƣơng trình từ những lý do gián tiếp nào khác mà họ biết đến
chƣơng trình do đã từng nghe chƣơng trình, nhƣng vì họ muốn tìm hiểu
sâu hơn, cụ thể hơn vấn đề họ quan tâm mà phần lớn trong số họ không có
thời gian để nghe chƣơng trình phát hàng tuần hoặc họ không có điều kiện
để gọi điện thoại trực tiếp về chƣơng trình, hoặc có gọi điện về nhƣng lại
không đƣợc chọn để trả lời qua chƣơng trình phát thanh trực tiếp.
Mối quan hệ giữa trình độ phát triển của kỹ thuật truyền tin và khả
năng sử dụng chúng của chủ thể là nhân tố cơ bản ảnh hƣởng đến NCTT
của VTN, điều này đúng nhƣ giả thuyết của chúng tôi. Thông tin về
SKSSVTN đƣợc phát qua nhiều kênh khác nhau nhƣ truyền hình, báo in,
internet….dƣới nhiều hình thức khác nhau, nhƣng do nhóm thình giả VTN
ở nông thôn, miền núi vùng sâu vùng xa khó có những điều kiện cần thiết
để tiếp cận với những kênh thông tin đó. Vì vậy, chƣơng trình "Cửa sổ
tình yêu" đã có nhiều cơ hội để đến với nhóm thính giả này hơn. Chỉ số
vùng miền xuất hiện, nó cho chúng ta biết sự quy định của hoàn cảnh bên
ngoài cũng nhƣ ảnh hƣởng của các thành tố tâm lý xã hội tới NCTT của
chủ thể.
Nghiên cứu của Công ty Tƣ vấn nghiên cứu dân số đƣa ra sự khác
biệt về trình độ học vấn của thính giả và vấn đề họ biết về thời gian phát
sóng. Qua chỉ số về biết số tháng, giờ và thời lƣợng phát sóng Nghiên cứu
cho rằng: thính giả có trình độ cao hơn mong muốn hiểu biết về các vấn đề
SKSS nhiều hơn đối với thính giả có trình độ học vấn thấp hơn (Mẫu khảo
sát có 277 em là học sinh, sinh viên).
259
Nhu cầu xuất phát từ chủ thể nhƣng nó lại chịu ảnh hƣởng củ những
thói quen, phong tục tập quán hay sự khác biệt về khí hậu, đặc điểm thiên
nhiên. Trở lại với yếu tố vùng miền, nghiên cứu thƣ của chúng tôi có kết
quả trùng với kết quả nghiên cứu của Công ty tƣ vấn dân số đó là tỷ lệ biết
ngày giờ phát sóng của thính giả miền Bắc có tỷ lệ cao, còn miền Trung
và miền Nam khác biệt không nhiều. Trong 200TH đƣợc nghiên cứu, có
tới 139/200TH(70,5%) là thính giả miền Bắc, trong khi thính giả miền
Trung là 36/200TH(chiếm 16,5%) và miền Nam là 25/200TH (chiếm
12,5%).
Về tần suất nghe chƣơng trình, hầu nhƣ những thính giả gửi thƣ về
chƣơng trình là những thính giả thƣờng xuyên của chƣơng trình, có những
thính giả còn thổ lộ rằng "ngày hôm đó em không làm gì được không học
được nếu chưa nghe được chương trình " hoặc "từ ngày nghe chương
trình em thấy "nghiện" và không ít thƣ gửi đến chƣơng trình đầu thƣ họ tự
giới thiệu "em là thính giả thường xuyên của chương trình"...Đây chính là
những thông tin phản hồi cho thấy nhu cầu và động cơ thúc đẩy hành vi
của họ đối với chƣơng trình.
Về thời lƣợng, không phải thƣ nào thính giả cũng đề cập tới mong
muốn của họ về thời lƣợng và thời gian phát sóng của chƣơng trình mà
chủ yếu đi thẳng vào vấn đề mà họ quan tâm. Tuy nhiên, vẫn có những
bức thƣ nói lên mong muốn về thời lƣợng phát sóng của chƣơng trình,
không có một bức thƣ nào trong 200TH chúng tôi nghiên cứu cho rằng
thời lƣợng phát sóng nhƣ hiện nay là dài hay quá dài. Trong số những thƣ
nêu mong muốn của họ đối với chƣơng trình về thời lƣợng phát sóng, họ
cho rằng chƣơng trình kéo dài 30 phút là còn ngắn và mong muốn chƣơng
trình đƣợc phát lại vào một buổi khác, nhƣ buổi tối để họ có thể theo dõi
dễ dàng hơn. Vì buổi ngày, nông dân, công nhân và bộ đội phải đi làm còn
học sinh thì bận học....
Nhƣ vậy, NCTT của VTN nói riêng và thính giả nói chung về SKSS
là rất lớn. Số lƣợng cuộc gọi, cƣờng độ của các cuộc gọi, số lƣợng thƣ gửi
260
về chƣơng trình hàng ngày cho thấy một khối lƣợng lớn NCTT chƣa đƣợc
đáp ứng.
Về nội dung phát sóng
Đánh giá và mong muốn của thính giả về nội dung phát sóng thể hiện
chiều sâu, về chất của NCTT. Đó chính là thƣớc đo mức độ giải mã thông
điệp của chủ thể nhận tin, nếu họ giải mã đƣợc thông điệp tức là thông
điệp của chủ thể truyền tin đã gặp NCTT của chủ thể nhu cầu. Điều này
thể hiện qua sự đánh giá của thính giả thông qua thái độ của họ nhƣ thích
nghe chƣơng trình, hoặc chƣơng trình cung cấp thông tin bổ ích, hoặc
chính là những NCTT về SKSS của họ cần chƣơng trình tƣ vấn...
Nghiên cứu của Công ty Tƣ vấn dân số cho thấy, chƣơng trình "Cửa
sổ tình yêu" đƣợc thính giả nghe thƣờng xuyên hơn các chƣơng trình phát
thanh Thanh niên khác. Tỷ lệ số thính giả chƣa bao giờ nghe chƣơng trình
phát thanh Thanh niên khác chiếm 16,6%, cao gấp 3 lần so với chƣơng
trình "Cửa sổ tình yêu" chỉ 6,9%. Tỷ lệ thính giả đánh giá nội dung phát
sóng rất bổ ích là 31,2%; bổ ích là 59,8% và chỉ có 8,5% không có ý kiến.
Nhƣ vậy chƣơng trình đã phần nào khẳng định đƣợc vị trí của mình đối
với thính giả.
Trong số 31 cuộc điện thoại gọi đến trong buổi chúng tôi trực tiếp
tham gia, nội dung câu hỏi đƣợc phân thành: Nhu cầu "gỡ rối" về tình yêu
có tần suất cao nhất 9 lần hỏi, Nhu cầu gỡ rối về tình dục, thai ngoài ý
muốn có tần suất cao thứ 2 với 8 lần hỏi; Giáo dục giới tính với 7 lần hỏi;
Bệnh phụ khoa và lây nhiễm qua đƣờng tình dục với 4 lần hỏi và chủ yếu
là HIV; Hôn nhân và thông tin khác 3 lần hỏi.
Trong 200 thƣ, các vấn đề đƣợc thính giả quan tâm nhất là tƣ vấn về
tình yêu (28%); giáo dục giới tính 16%; giáo dục tình dục 16% và hôn
nhân 14%.
Đánh giá của thính giả về nội dung của chƣơng trình "Cửa sổ tình
yêu" qua nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu dƣ luận xã hội, Ban Tƣ
tƣởng Văn hoá Trung ƣơng cho thấy: "Cửa sổ tình yêu" là một trong 10
261
chƣơng trình đƣợc đánh giá là "hay" nhất và đứng thứ 5 trong số 17
chƣơng trình trên sóng hệ II, sau chƣơng trình "Tiếp chuyện bạn nghe
đài"; "Đọc chuyện đêm khuya"; "Diễn đàn các vấn đề xã hội"; "Câu lạc bộ
ngƣời cao tuổi". Trong số 1360 phiếu hỏi thì có 61,9% cho rằng "Cửa sổ
tình yêu" là chƣơng trình hay; 27,1% bình thƣờng; chỉ có 7% đánh giá
không hay và 4% khó nhận xét [1, tr25] .
Tuy nhiên trong đánh giá này, có ý kiến thính giả cho rằng: nếu đã tƣ
vấn về bệnh tật và cách phòng chống, chữa bệnh cho thính giả thì cần cụ
thể và rõ ràng chứ không nên sau mỗi lần tƣ vấn lại có câu: "bạn nên đến
bệnh viện để bác sĩ trả lời cụ thể hơn". Về ý kiến nhận xét này, chúng tôi
cho rằng vẫn còn thính giả chƣa hiểu hết đƣợc mục đích của chƣơng trình.
Đây là chƣơng trình tƣ vấn, cung cấp kiến thức về SKSS cho VTN chứ
không phải chữa bệnh qua sóng phát thanh, và trên thực tế không thể làm
đƣợc điều đó. Chƣơng trình chỉ đảm nhận khâu đầu tiên là cung cấp kiến
thức và kỹ năng sống, việc đáp ứng dịch vụ khách hàng là một việc hoàn
toàn khác. Vì vậy, những gợi ý của bác sĩ hƣớng chủ thể nhu cầu đến với
dịch vụ y tế là hoàn toàn đúng.
Những phân tích trên cho thấy, nội dung phát sóng hiện nay của
chƣơng trình đã đáp ứng đƣợc một phần NCTT của thính giả và thu hút
đƣợc số lƣợng lớn khách thể truyền thông khác nhau, đặt biệt là VTN. Kết
quả này còn cho thấy, NCTT về SKSS của VTN là rất lớn và thực sự cần
thiết.
Về những ngƣời thực hiện chƣơng trình
Sự phong phú của NCTT phụ thuộc vào năng lực hoạt động của chủ
thể truyền tin. Những ngƣời thực hiện chƣơng trình "Cửa sổ tình yêu", là
những con ngƣời cụ thể đại diện cho một thiết chế xã hội. Sự phong phú,
hấp dẫn của nội dung buổi phát sóng hoàn toàn phụ thuộc vào họ, về khả
năng lựa chọn nội dung, hình thức thông tin, cách tƣ vấn...
Một buổi phát sóng, chƣơng trình nhận trung bình khoảng 30 - 40 cú
điện thoại với những NCTT khác nhau, việc lựa chọn cú điện thoại nào để
262
tƣ vấn là một vấn đề hết sức quan trọng của chủ nhiệm chƣơng trình và
ban biên tập. Bên cạnh đó, các chuyên gia phải tƣ vấn nhƣ thế nào để vừa
giải quyết đƣợc vấn đề của một ngƣời, vừa thông qua đó để cho nhiều
ngƣời? Ngƣời dẫn chƣơng trình dẫn dắt vấn đề nhƣ thế nào để thu hút
đƣợc ngƣời nghe?...Hiệu quả chƣơng trình sẽ đƣợc thính giả đánh giá thể
hiện qua tình cảm của họ đối với những ngƣời thực hiện chƣơng trình.
Những đánh giá này cũng thể hiện NCTT của thính giả, bởi vì nhu
cầu mới chỉ xuất hiện khi nhu cầu hiện tại của họ đƣợc đáp ứng. Tức là
nhu cầu mới sẽ luôn luôn xuất hiện, tuỳ thuộc vào năng lực hoạt động của
chủ thể truyền tin, đáp ứng NCTT cho một ngƣời (ngƣời gọi điện thoại)
nhƣng sẽ kích thích những NCTT ở những thính giả khác. Trong những lá
thƣ gửi về chƣơng trình, không phải tất cả đều nói lên nhận xét của mình
về những ngƣời dẫn chƣơng trình. Nhƣng phần lớn, trƣớc khi đi vào vấn
đề cần hỏi họ luôn thể hiện tình cảm của mình với những ngƣời thực hiện
chƣơng trình. Họ coi những ngƣời thực hiện chƣơng trình nhƣ những
ngƣời cha mẹ, ngƣời anh em, ngƣời thân trong gia đình, ngƣời bạn đáng
tin cậy để họ bộc bạch tâm sự, những điều thầm kính nhất của mỗi cá
nhân. Trong số những bức thƣ có nêu tên những ngƣời thực hiện chƣơng
trình, không thƣ nào nói sai tên của chuyên gia là anh Đinh Đoàn, chị
Thuý Mùi, chị Thuý Hải, chị Minh Phƣợng hay anh Thành Văn ngƣời dẫn
chƣơng trình.
Nhƣ vậy, về cơ bản những ngƣời thực hiện chƣơng trình đã đáp ứng
đƣợc yêu cầu của chƣơng trình. Tạo đƣợc lòng tin cho thính giả và thúc
đẩy đƣợc NCTT của họ đối với chƣơng trình. Tuy nhiên, đội ngũ sản xuất
chƣơng trình cần phải đƣợc tập huấn để nâng cao kỹ năng tƣ vấn và nghệ
thuật ứng xử với thính giả chƣơng trình.
C. KẾT LUẬN- KHUYẾN NGHỊ
Kết luận
263
Quá trình tìm hiểu NCTT về SKSSVTN thông qua nghiên cứu thƣ
giử về chƣơng trình “Cửa sổ tình yêu”, ban Phát thanh Thanh Thiếu niên,
Đài tiếng nói Việt Nam cho thấy:
- Chƣơng trình “Cửa sổ tình yêu” là kênh truyền thông chính thức đã
chuyển tải một khối lƣợng lớn thông tin đáng tin cậy đáp ứng nhu cầu
cung cấp thông tin về SKSS cho thính giả là VTN. Đội ngũ những
ngƣời thực hiện chƣơng trình đã xây dựng đƣợc lòng tin, tình cảm của
thính giả. Họ không những giúp thính giả VTN xua đi những lo lắng,
thắc mắc kịp thời mà còn thúc đẩy NCTT của thính giả.
- NCTT của thính giả qua thƣ gửi về chƣơng trình cho thấy, nội dung
chƣơng trình mới chỉ đáp ứng về cơ bản nhu cầu tƣ vấn của thính giả ở
hầu hết tất cả các nội dung cụ thể và thực hiện đƣợc mục đích của
chƣơng trình là thông qua vấn đề của một ngƣời để cung cấp kiến thức
và kỹ năng cho nhiều ngƣời. Trên thực tế, VTN rất “đói” thông tin về
SKSS.
- NCTT về giáo dục giới tính là một những lĩnh vực đƣợc thính giả quan
tâm nhiều nhất. Nội dung thông tin chủ yếu là những thay đổi sinh lý
tuổi dậy thì, vì vậy, NCTT của thính giả gần nhƣ giống nhau. Tuy
nhiên, tuỳ thuộc vào một số yếu tố nhƣ nghề nghiệp, tuổi, nơi cƣ trú
...thì “độ sâu” của NCTT sẽ có những khác biệt. Vì NCTT về giáo dục
giới tính tƣơng đối giống nhau nên trong quá trình tƣ vấn tạo nên sự
đơn điệu đối với chuyên gia.
- NCTT về tình bạn, tình yêu và hôn nhân là lĩnh vực đƣợc thính giả
quan tâm nhiều nhất, kể cả trên chƣơng trình phát sóng và trên thƣ
thính giả. Trong đó nhóm VTN chiếm tỷ lệ NCTT cao nhất và về cơ
bản chƣơng trình đã đáp ứng đƣợc NCTT của VTN ở nội dung này.
Tuy nhiên, những dấu hiệu khác nhau về nhóm tuổi, nghề nghiệp, nơi
cƣ trú ảnh hƣởng lớn đến NCTT của chủ thể.
- NCTT về tình dục, thai ngoài ý muốn, vô sinh và các BPTT là nhu cầu
vƣợt ra khỏi cách thức thông thƣờng. Bởi vì, mặc dù chƣơng trình
264
không chú trọng vào lĩnh vực này, biểu hiện ở quan điểm chủ đạo của
ban biên tập cũng nhƣ số lƣợng cuộc tƣ vấn về những vấn đề này trên
sóng với tần suất thấp nhƣng NCTT của thính giả không dừng lại ở đó,
mà nó chiếm tới 57% số lƣợt mong muốn đƣợc tƣ vấn qua thƣ. Đây
thực sự là NCTT cấp bách của thính giả VTN.
- NCTT về các bệnh phụ khoa, các bệnh lây nhiễm đƣờng tình dục bao
gồm cả HIV/AIDS chiếm tần suất thấp nhất trong tất cả loại NCTT về
các vấn đề cụ thể đã đƣợc đề cập. Một trong những điểm chung nhất
của những ngƣời có NCTT về lĩnh vực này đó là sự mặc cảm, mặc cảm
với chính mình và mặc cảm với cộng đồng. Tuy nhiên, qua phân tích
nội dung thƣ cho thấy đây vẫn là một NCTT tiềm ẩn rất lớn chƣa đƣợc
đáp ứng.
- Kênh truyền thông không chính thức đƣợc thực hiện trong môi trƣờng
gia đình, trong các nhóm bạn đồng tuổi, đồng giới tính có vai trò đặc
biệt quan trọng. Nó có khả năng nhân rộng hiệu quả xã hội của các
thông tin đến từ các kênh chính thức nhƣ chƣơng trình “Cửa sổ tình
yêu”. Đối với thính giả nói chung và đặc biệt là thính giả VTN nói
riêng, kênh thông tin này có ảnh hƣởng trực tiếp đến NCTT cũng nhƣ
hành vi của họ. Vì vậy, thông tin nguồn cần có tính chuẩn xác cao.
- Ngày phát sóng của chƣơng trình về cơ bản đã đáp ứng đƣợc NCTT
của thính giả nhƣng thời lƣợng phát sóng còn chƣa đáp ứng đƣợc
NCTT của thính giả. Bên cạnh đó, chƣơng trình chỉ phát vào một thời
điểm, một buổi mà không phát lại vào một buổi khác nên nhiều thính
giả có NCTT khó có thể tiếp nhận thông tin. Vì vậy, NCTT của thính
giả thể hiện qua thƣ lớn hơn gấp nhiều lần những cuộc tƣ vấn trực tiếp
trên sóng phát thanh.
- Sự khác biệt trong hoạt động tiếp thu thông tin của VTN phụ thuộc
phần lớn vào các kênh truyền dẫn. Điều này ảnh hƣởng lớn tới NCTT
của các VTN. Tại khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa,
chƣơng trình đã tỏ rõ đƣợc ƣu thế đối với nhóm này.
265
- Việc thính giả viết thƣ về chƣơng trình mong đƣợc tƣ vấn về vấn đề họ
quan tâm với số lƣợng lớn thể hiện hành vi đi tìm thông tin này là hành
vi có mục đích. Bởi vì, có nhiều yếu tố ảnh hƣởng đến NCTT về SKSS
của VTN, một trong những nguyên nhân cơ bản là sự thiếu thông tin,
kiến thức của họ về vấn đề này. Cho nên, VTN phải đối mặt với nhiều
khó khăn, những tình huống khó xử mà bản thân họ khó có thể tự giải
quyết.
- Chƣơng trình “Cửa sổ tình yêu” không chỉ là ngƣời bạn thân mà còn
nhƣ những ngƣời anh, ngƣời chị đối với thính giả VTN giúp họ đƣợc
trau dồi, thay đổi về nhận thức các vấn đề về SKSS.
- NCTT của thính giả còn thể hiện sự thay đổi về nhận thức, thái độ và
hành vi của chủ thể đối với các vấn đề về SKSS. Bƣớc đầu thể hiện sự
chia sẻ trách nhiệm của nam VTN đối với nữ VTN trong việc chăm sóc
SKSS cho cả hai giới. Đây là hiệu quả thể hiện sự thay đổi về chất của
chƣơng trình cũng nhƣ truyền thông về dân số nói chung.
- Hiệu quả của chƣơng trình còn thể hiện ở việc thay đổi nhận thức và
hành vi của các nhóm thính giả khác. Đó là các bậc phụ huynh, các bậc
cha mẹ cũng gửi thƣ về chƣơng trình xin đƣợc tƣ vấn về những vấn đề
mà con cái họ đang gặp phải mà bản thân họ cũng không có đủ kiến
thức để giúp con giải quyết thắc mắc.
- Hoạt động truyền thông diễn ra nhƣ một quá trình xã hội vì vậy nó phụ
thuộc vào các mối quan hệ xã hội cụ thể. Các yếu tố trình độ học vấn,
khu vực cƣ trú, nghề nghiệp, giới tính cũng nhƣ các phong tục tập
quán đều có ảnh hƣởng đến NCTT của chủ thể.
Khuyến nghị
Việc khảo sát NCTT về SKSS VTN có thể dẫn đến những đề xuất
cho truyền thông về SKSSVTN trong Chiến lƣợc dân số Việt Nam 2001-
2010 và chiến lƣợc Sức khỏe sinh sản 2001-2010.
Giai đoạn 2001-2010 là giai đoạn Việt Nam thực hiện chiến lƣợc
phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001-2010. Công tác dân số, chăm sóc
266
SKSS là bộ phận quan trọng của chiến lƣợc phát triển đất nƣớc, là yếu tố
cơ bản để nâng cao chất lƣợng cuộc sống của từng ngƣời, từng gia đình
và toàn xã hội, góp phần quyết định để thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nƣớc.
Đẩy mạnh truyền thông thay đổi hành vi và cải thiện chăm sóc
SKSS/KHHGĐ là 2 trong 8 giải pháp thực hiện chiến lƣợc dân số 2001-
2010. Truyền thông thay đổi hành vi (BCC) là 1 trong 7 chƣơng trình
hành động để thực hiện chiến lƣợc dân số Việt Nam 2001-2010.
Một trong 7 mục tiêu của chiến lƣợc SKSS 2001-2010 là cải thiện
tình hình SKSS, SKTD của VTN thông qua việc giáo dục, tƣ vấn và
cung cấp các dịch vụ chăm sóc SKSS phù hợp với lứa tuổi. Chỉ tiêu cụ
thể của chiến lƣợc cho mục tiêu này là 80% cơ sở chăm sóc SKSS thực
hiện thông tin-giáo dục tƣ vấn về SKSS cho VTN; 70% VTN đƣợc thông
tin - giáo dục - tƣ vấn và có hiểu biết về chăm sóc SKSS và SKTD. Một
trong các giải pháp của chiến lƣợc là đẩy mạnh Thông tin - Giáo dục -
Truyền thông (IEC) và Tuyên truyền vận động (Advocacy).
Chƣơng trình “Cửa sổ tình yêu” đƣợc xây dựng từ chu kỳ quốc gia
5 nhƣng cho tới nay nó vẫn phù hợp với mục đích đƣợc đề ra trong hoạt
động truyền thông giành cho đối tƣợng VTN. Để làm tốt và phát huy hơn
nữa hiệu quả của chƣơng trình, dƣới đây là các khuyến nghị cụ thể:
- Dự án VIE/79/P19 đã kết thúc hoạt động, chƣơng trình “Cửa sổ tình
yêu” khó nhận đƣợc sự giúp đỡ về tài chính để hoạt động tiếp.
Chƣơng trình hiện đang hoạt động cầm chừng, thƣ của thính giả
không có kinh phí để trả lời. Vì vậy, chƣơng trình cần đƣợc chính
phủ, UNFPA và các tổ chức quốc tế tiếp tục hỗ trợ.
- “Cửa sổ tình yêu” nên phối hợp tốt hơn với các chƣơng trình SKSS
khác nhằm đáp ứng NCTT sâu hơn, phát huy tối đa thế mạnh và hiệu
quả của chƣơng trình. Ví dụ nhƣ, có thể kết hợp với các trung tâm tƣ
vấn SKSS cụ thể, có địa chỉ chính xác ở các tỉnh, thành, huyện...để
267
giới thiệu VTN tới nơi thuận tiện nhất nhằm đáp ứng NCTT của họ và
giới thiệu cung cấp dịch vụ cho họ.
- Nên tăng thời lƣợng phát sóng lên 45 phút và phát lại chƣơng trình
vào một buổi tối trong tuần.
- Ban biên tập nên nghiên cứu thƣ và đáp ứng những NCTT đƣợc nhiều
ngƣời quan tâm trong mỗi buổi phát sóng.
- Cần cân đối giữa nội dung tình bạn, tình yêu, tâm lý và nội dung tình
dục an toàn, các BPTT, STDs/HIV/AIDS... Không nên né tránh
những vấn đề mà chúng ta cho là “tế nhị”, “khó nói” hay “vẽ đƣờng
cho hƣơu chạy” bởi vì họ thực sự có NCTT về các vấn đề này.
- Một trong một hình thức cung cấp thông tin tƣ vấn hiệu quả của
chƣơng trình giúp nông dân làm kinh tế của Ban biên tập FM, Đài
tiêng nói nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đó là ngoài những thông
tin chung đƣợc phát sóng, ban biên tập xây dựng mạng lƣới thông tin
hoàn chỉnh về vấn đề cụ thể đó và đƣa lên mạng. Thính giả nghe và
đƣợc giới thiệu đƣờng dẫn để có đƣợc thông tin đó trên mạng. Đây là
mạng thông tin riêng của chƣơng trình đƣợc xây dựng và ngƣời sử
dụng đƣợc vào mạng đó đƣợc miễn phí từ máy gia đình. Để đáp ứng
NCTT ngày càng cao của thính giả nói chung và VTN nói riêng, Đài
tiếng nói Việt Nam nên phối hợp Bộ Bƣu chính viễn thông để xây
dựng tổng đài tƣ vấn miễn phí tới chƣơng trình hoặc xây dựng mạng
lƣới thông tin mạng về SKSS để cung cấp thông tin miễn phí hoặc trả
lời thƣ thính giả.
- Chƣơng trình nên phối hợp với một số kênh truyền thông khác có
cùng một vấn đề quan tâm về SKSSVTN nhƣ chƣơng trình “Me
xanh”, chƣơng trình “Dân số và phát triển” của Truyền hình Việt
Nam; các mục hỏi đáp của một số báo in nhƣ Báo Gia đình và Xã hội,
Phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ Thủ đô, Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh,
Sức khỏe và Đời sống, Thanh niên, Tuổi trẻ, Mực tím, Hoa học
trò....để tận dụng và phát huy tối đa hiệu quả của các kênh truyền
268
thông thông qua việc cung cấp thông tin dƣới nhiều hình thức khác
nhau đến với khán giả, độc giả và thính giả.
- Cần đào tạo, tập huấn dƣới nhiều hình thức về kỹ năng đối với những
ngƣời thực hiện chƣơng trình để nâng cao hơn nữa chất lƣợng chƣơng
trình.
- Cần tổ chức nghiên cứu định kỳ NCTT của thính giả để đáp ứng
NCTT cho VTN một cách chủ động, kịp thời.
Tài liệu tham khảo
1. Đặng Nguyên Anh. VTN ở Việt Nam: từ đặc điểm đến định hƣớng chính sách. Báo
cáo hội thảo “VTN: Sức khỏe và Phát triển” do Tổ chức Y tế thế giới và Viện Xã
hội học tổ chức. Hà Nội. Ngày 12/9/2001.
2. Điều tra biến động dân số và KHHGĐ 1/4/2001 những kết quả chủ yếu. NXB Thế
giới. Hà Nội. 2002
3. Bộ Y tế- Hội đồng Dân số. Sức khỏe sinh sản thanh thiếu niên. Hà Nội. 1997
4. Bộ Y tế. Chiến lƣợc quốc gia về chăm sóc SKSS giai đoạn 2001-2010.
5. BS.Khổng Ngọc Am. “Sức khỏe sinh sản trẻ em gái”. Tạp chí Thông tin Sức khỏe
sinh sản, số 1/1997. Trung tâm SKSS-GĐ.
6. Chu Xuân Việt. Tuổi vị thành niên với vấn đề tình dục và các biện pháp tránh thai.
Học viện Thanh, Thiếu niên Việt Nam và UBQG Dân số- KHHGĐ. Hà Nội. 1998
7. Dự án VIE/97/P12. Sức khỏe sinh sản vị thành niên. Hà Nội. 1999
8. Dự án VIE/97/P16. Báo cáo nghiên cứu đánh giá tình hình thực hiện chính sách
dân số ở Việt Nam. Hà Nội. 2000.
9. Khuất Thu Hồng. Kết quả nghiên cứu về tình dục và nạo thai trƣớc hôn nhân của
nữ thanh niên trên địa bàn Hà Nội. Viện Xã hội học. Hà Nội. 1996
10. Nguyễn Minh Thắng. Tình yêu của chúng em là không giới hạn. NXB Thanh niên.
Hà Nội 1999
11. Nguyễn Quỳnh Trang. Tuổi mới lớn, tuổi dậy thì, tuổi hoa. NXB Phụ nữ. Hà Nội.
1997.
12. Quỹ Dân số Liên hợp quốc – Dự án VIE/97/P12, Sức khỏe thanh niên và kỹ năng
sống. Tài liệu hƣớng dẫn nhóm trƣởng điều hành hoạt động của nhóm Hỗ trợ Sức
khỏe thanh niên và Kỹ năng sống.
269
13. Quỹ Dân số Liên hợp quốc- Công ty tƣ vấn nghiên cứu dân số. Nghiên cứu thính
giả chƣơng trình phát thanh trực tiếp Cửa sổ tình yêu. Hà nôi. 2000
14. Quỹ Dân số Liên Hợp quốc. Chƣơng trình hành động Hội nghi quốc tế về Dân số
và Phát triển ICPD/Cairo/94.
270
THỰC TRẠNG NGUỒN THÔNG TIN VÀ
MONG MUỐN CỦA SINH VIÊN VỀ CÁC CHỦ ĐỀ LIÊN QUAN
ĐẾN TÍNH DỤC
Ths. Phạm Hương Trà
Thông tin về tính dục vẫn là một chủ đề đƣợc coi là “nhạy cảm” đối
với không ít ngƣời dân Việt Nam. Vậy sinh viên – nhóm thế hệ tƣơng lai
sắp bƣớc vào lực lƣợng lao động và làm chủ đất nƣớc thƣờng tìm kiếm
thông tin này ở đâu? Câu hỏi này khá quan trọng khi chúng ta biết rằng
nhiều gia đình vẫn xem việc nói chuyện về tình dục là điều cấm kỵ và
nhiều bậc cha mẹ, thầy cô vẫn còn cảm thấy lúng túng khi đề cập đến vấn
đề này trƣớc con em và học trò của mình.
Nghiên cứu này muốn tìm câu trả lời cho câu hỏi về mức độ tiếp
cận và nguồn thông tin về tính dục của sinh viên cũng nhƣ những mong
muốn của họ đối với các chủ đề liên quan đến tính dục. Dựa trên các
nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn, bài viết xây dựng giả thuyết trả lời
cho hai câu hỏi nghiên cứu: (1)Sinh viên chủ yếu tiếp cận các thông tin
liên quan đến tính dục thông qua phƣơng tiện truyền thông đại chúng. (2)
Đa số sinh viên mong muốn biết đƣợc các kiến thức về tính dục thông qua
sách.
Về mặt thuật ngữ khoa học, tính dục (sexuality) được hiểu là khả
năng của con người thực hiện hành vi tình dục, tức là đáp lại các kích
thích tình dục và tìm kiếm sự thoả mãn từ các hoạt động tình dục như vuốt
ve, giao hợp, tự kích thích. Nói đến tính dục không chỉ nói đến cơ quan
sinh dục mà cả các vùng nhạy cảm của cơ thể, cũng như mong muốn, khát
vọng và tưởng tượng liên quan đến tình dục (Robert Goldenson &
Kenneth Andenson, Từ điển tính dục,1987, trích theo Khuất Thu Hồng,
2005)
271
Trong nghiên cƣu này , những vấn đề sau đƣơc coi là vấn đề liên
quan đến tính dục cân đƣơc quan tâm : Sức khỏe và sức khỏe sinh sản vị
thành niên ; Các bệnh lây nhiễm qua đƣờng tinh dục , HIV/AIDS; Thủ
dâm; Giới tính, giới; Kỹ năng ứng xử trong quan hệ với bạn bè khác giới ;
Hôn nhân, gia đình; Tình dục an toàn ; Sự thụ thai và tránh thai ; Bóc lột/
lạm dụng tinh dục; Sống thử/ sống chung trƣớc hôn nhân; Đồng tính; Mại
dâm.
Bài viết sử dụng số liệu định lƣợng cua đê tai “ Nhu cầu đào tạo
kiến thức về tính dục của sinh viên hiện nay” do khoa Xã hội học Hoc
viên Bao chi va Tuyên truyên thực hiện vào tháng 4/ 2007 tại 5 trƣờng đại
học ở Hà Nội là Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Đại học Bách Khoa,
Đại học Sƣ Phạm, Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Kinh tế quốc dân
với tổng số mẫu là 1000 sinh viên chia đều cho 5 trƣờng. Cách lấy mẫu
theo phƣơng pháp ngẫu nhiên phân chùm.
1. Nguồn thông tin về tính dục : mƣc đô va kha năng tiếp cận
Kết quả nghiên cứu cho thấy khi đƣợc hỏi “Bạn đã bao giờ nghe
nói đến các thông tin liên quan đến tính dục / tính dục chưa ?” thì có tới
991 sinh viên trên tổng số 995 sinh viên trả lời là có nghe nói đến những
thông tin này chiếm 99,6%. Cụ thể là vơi các mức độ thƣờng x uyên, thỉnh
thoảng, hiếm khi và không bao giờ thì có tới 44,5% sinh viên trả lời là
thƣờng xuyên nghe nói đến các thông tin liên quan đến vấn đề tính dục.
Biểu 1: Mức độ tiếp cận các thông tin liên quan đến tính dục của sinh
viên Đơn vị tính: %
30.4
44.552.1
Thƣờng xuyên
Thỉnh thoảng
Hiếm khi
Chƣa bao giờ
272
Điều này cho thấy với thời đại thông tin bùng nổ hiện nay, sinh viên
có nhiều cơ hội tiếp cận với các vấn đề mà trƣớc đây nhiều ngƣời cho rằng
đó là chuyện riêng tƣ của mỗi con ngƣời và ít khi đƣợc mang ra bàn tán
nơi công cộng. Hơn nữa mức độ tiếp cận thƣờng xuyên khá lớn, điều đó
cho thấy bên cạnh chủ chƣơng của Nhà nƣớc ta là phổ biến hơn nữa
những kiến thức liên quan đến tính dục thông qua các phƣơng tiện truyền
thông đại chúng thì sinh viên cũng đã rất chủ động trong việc tìm kiếm
thông tin cho mình.
Phân tích số liệu còn cho thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa trƣờng học
với mức độ tiếp cận với các thông tin liên quan đến tính dục (P=0.00).
Học viện Báo chí và Tuyên truyền có số lƣợng sinh viên nghe nói đến
những thông tin về tính dục nhiêu nhất trong cả 5 trƣờng, có tới 119/200
sinh viên thƣờng xuyên nghe nói đến các thông tin về tính dục, chiếm
59,5%, tỷ lệ này lần lƣợt ở các trƣờng Đại học Bách khoa: 38,8%, Đại học
Sƣ Phạm: 41,5%, Đại học Đông Đô: 39,7%, Đại học Kinh tế Quốc dân:
43% (Bảng 1).
Bảng 1: Mức độ tiếp cận thông tin theo trƣờng
Đơn vị tính: %
Mức độ Trƣờng
Thƣờng
xuyên
Thỉnh
thoảng Hiếm khi
Chƣa bao
giờ
Số ngƣời
trả lời
Học viện BC&TT 59,5 38,0 2,0 0,5 200
Đại học KTQD 43,0 54,5 2,0 0,5 200
Đại học Sƣ Phạm 41,5 52,5 6,0 - 200
Đại học Đông Đô 39,7 58,8 1,5 - 199
Đại học Bách
Khoa 38,8 56,6 3,0 1,0 196
Tổng số 443
(44,5)
518
(52,1)
30
(3)
4
(0,4)
995
(100)
Mối liên hệ chặt chẽ này đƣợc lý giải là do quá trình hợp tác giữa
Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội với Học viện Báo chí và Tuyên truyền
trong việc lồng ghép nội dung tính dục và sức khỏe sinh sản vào nội dung
giảng dạy và nghiên cứu trong trƣờng từ năm 2005. Bên cạnh đó, môn Xã
hội học đại cƣơng và môn Dân số là những môn đại cƣơng đối với hầu hết
273
các chuyên ngành của trƣờng nên sinh viên có cơ hội tiếp cận với những
thông tin liên quan đến tính dục nhiều hơn sinh viên các trƣờng khác là
điều dễ nhận thấy. Còn đối với các trƣờng khác, nhất là với Đại học Bách
Khoa và Đại học Đông Đô, tỷ lệ sinh viên trả lời không học môn nào
trong số các môn mà chúng tôi đƣa ra (Dân số học; Dân số và phát triển;
Giới; Sức khỏe sinh sản, SKSS vị thành niên; Giáo dục giới tính) là rất
cao. Có tới 172/200 sinh viên đại học Bách Khoa và 158/200 sinh viên
Đại học Đông Đô trả lời không học những môn trên . Ngay cả đối với sinh
hoạt ngoại khóa có lồng ghép những thông tin liên quan đến tính dục cũng
không nhiều đối với những trƣờng đại học trong mẫu nghiên cứu.
Đi vào tìm hiểu cụ thể hơn về những thông tin có liên quan đến tính
dục (đã đƣơc chia ra thành 3 nội dung lớn đó là Sức khỏe bệnh tật, Ứng xử
và quan hệ, Những vấn đề nhạy cảm và 12 nội dung cụ thể), kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy nhiều điều thú vị. Nhóm sinh viên của 5 trƣờng
đại học đƣợc yêu cầu cho biết họ nhận đƣợc thông tin về những nội dung
này từ những nguồn nào dựa vào 13 nguồn cho trƣớc. Các câu trả lời sau
đó đƣợc gộp lại thành 4 nhóm nguồn chính nhƣ sau:
- Thông tin đại chúng (truyền hình, đài phát thanh, báo/tạp chí, sách,
internet)
- Gia đình (bố/ mẹ, anh/chị/em)
- Những ngƣời có chuyên môn (thầy/ cô giáo, cán bộ địa phƣơng,
trung tâm tƣ vấn, cán bộ tuyên truyền)
- Bạn (bạn bè, ngƣời yêu)
Bảng 2 cho thấy vai trò cung cấp thông tin của gia đình và những
ngƣời có chuyên môn trong đó có thầy cô giáo là rất mờ nhạt. Giáo viên,
nhà trƣờng thƣơng có thể hỗ trợ các em phát triển kỹ năng sống và một số
vấn đề liên quan đến tính dục (SAVY, 2005). Ở nghiên cứu này , vai trò
của thầy cô giáo là rất mờ nhạt mặc dù ở tất cả các nội dung đều cho rằng
thầy cô có đề cập đến nhƣng tỷ lệ rất thấp, chỉ có duy nhất một nội dung là
Giới tính và giới có tỷ lệ cao nhất, 6,1% số sinh viên lựa chọn.
274
Bảng 2: Các nguồn thông tin mà sinh viên tiếp cận
Đơn vị tính: %
Néi dung Nguồn Thông
tin đại
chúng
Gia
đình
Những
ngƣời có
chuyên môn
Bạn
I. Sức khỏe bệnh tật
1- Sức khoẻ và sức khoẻ sinh sản vị
thành niên
87,9 2,2 6,9 3
2- Các bệnh lây nhiễm qua đƣờng
tình dục, HIV/AIDS
88,2 1 8 2,8
3. Thủ dâm 80,1 0,6 6,4 13
II. Ứng xử và quan hệ
4- Giíi tÝnh, giíi 71,6 6,6 9,6 12,1
5- Kü n¨ng øng xö trong quan hÖ víi b¹n bÌ kh¸c giíi
59,6 14,5 4,6 21,4
6- H«n nh©n, gia ®×nh 71,6 17,4 5,8 5,3
7- Tình dục an toàn 79,5 2,3 12,4 5,9
8- Sù thô thai vµ tr¸nh thai 79,2 2,7 13,3 4,9
9- Bóc lột/ lạm dụng tình dục 91,3 0,2 5,3 3,3
III. Những vấn đề nhậy cảm khác
a- Sống thử/ sống chung trƣớc hôn
nhân
77,3 1,8 4,7 16,1
b- Đồng tính 85,8 1,2 3,2 9,8
c- M¹i d©m 92,5 0,5 3 4,1
Về phía gia đình kết quả có khả quan hơn nhƣng chủ yếu tập trung
ở nhóm vấn đề về Ứng xử và quan hệ. Cụ thể là vấn đề Hôn nhân, gia
đình có 17,4% và Kỹ năng ứng xử trong quan hệ với bạn bè khác giới là
14,5%. Còn Bóc lột/ lạm dụng tình dục thì chỉ có 0,2% thông tin đƣợc biết
từ gia đình; Tình dục an toàn và Sự thụ thai và tránh thai có tỷ lệ thấp
tƣơng ứng là 2,3% và 2,7%. Lý giải cho điều này có thể là do các trƣờng
đại học thƣờng tập trung ở thành thị và nhiều sinh viên từ những nơi khác
đến đây học nên họ ít có thời gian gần gũi với gia đình trong 4-5 năm học
vì thế mà rất ít sinh viên nghe đến vấn đề này từ phía gia đình.
Một điều thú vị là duy nhất nội dung về Kỹ năng ứng xử trong quan
hệ với bạn bè khác giới có tỷ lệ sinh viên lấy thông tin từ bạn nhiều nhất,
chiếm ¼ lƣợng thông tin trong số 4 nhóm liệt kê ở trên.
275
Kết quả nghiên cứu con cho thấy thông tin liên quan đến vấn đề
tính dục đƣợc sinh viên tiếp cận chủ yếu thông qua các phƣơng tiện truyền
thông đại chúng đặc biệt với thông tin liên quan đến bóc lột/ lạm dụng tính
dục và vấn đề mại dâm. Cụ thể có trên 90% ngƣời trả lời cho rằng họ biết
đƣợc điều này qua thông tin đại chúng.
Đi sâu tìm hiểu trong nhóm thông tin đại chúng thấy rằng sách báo
là phƣơng tiện chiếm ƣu thế hơn cả mặc dù mức độ và thời lƣợng tiếp cận
với loại phƣơng tiện này không cao bằng xem truyền hình và sử dụng máy
tính/ internet (Biểu 2).
Biểu 2: Tiếp cận thông tin qua các kênh truyền thông đại chúng
Đơn vị tính: %
0
10
20
30
40
50
60
Thủ dâm kỹ năng ứng xử
với bạn bè khác
giới
sự thụ thai và
tránh thai
đồng tính
Truyền hình
phát thanh
sách/ báo
internet
Trong 12 vấn đề mà chúng tôi đƣa ra thì tỷ lệ sinh viên nghe đƣợc
các nội dung liên quan đến tính dục từ sách/ báo chiếm từ hơn 1/3 đến 1/2
số sinh viên đƣợc hỏi. Có rất nhiều cách lý giải vấn đề này nhƣng một
trong những nguyên nhân mà rất nhiều sinh viên đƣa ra đó chính là tâm lý
còn e ngại của sinh viên khi tiếp xúc với những phƣơng tiện truyền thông
có nội dung về tính dục ở những nơi công cộng, đông ngƣời. Họ không
dám chăm chú theo dõi hoặc bình luận sôi nổi đối với chủ đề này nơi đông
ngƣời. Ngoài ra sinh viên lựa chọn sách, báo là nguồn thông tin chủ yếu
cho mình để tìm hiểu về cấn đề liên quan đến tính dục bởi sự tiện dụng
276
của sách, báo. Họ có thể đọc chúng ở nhiều nơi và có thể chủ động về mặt
thời gian tiếp nhận thông tin của mình.
Cho đến nay, mặc dù chúng ta đã có sự cởi mở trong việc cung cấp
thông tin cho thanh niên về vấn đề liên quan đến tính dục, nhƣng những
vấn đề về tính dục ở Việt Nam vẫn còn đƣợc coi là những vấn đề khá nhậy
cảm. Những giá trị chuẩn mực của xã hội truyền thống vẫn còn ảnh hƣởng
không nhỏ tới xã hội Việt Nam hiện đại. Nhiều bạn sinh viên, nhất là các
bạn sinh viên nữ rất ngại ngùng, đỏ mặt khi gặp những câu hỏi nhạy cảm
nhƣ “Mức độ thân mật cao nhất trong các mối quan hệ này nhƣ thế nào?”
với các phƣơng án trả lời đóng là “Trao đổi thƣ từ tình cảm”, “Nắm tay”,
“Ôm hôn”, “Đã có quan hệ với nhau” và cả khi các bạn nhận đƣợc món
quà là “Bao cao su” sau khi trả lời bảng hỏi. Đó cũng là một trong những
lý do lý giải cho việc tại sao sinh viên lại chọn sách/ báo là kênh thông tin
hiệu quả hơn cả trong việc tìm hiểu về các vấn đề liên quan đến tính dục.
Các phƣơng tiện truyền thông đại chúng không chỉ là một phƣơng
tiện giải trí mà còn là một nguồn cung cấp thông tin hữu ích (SAVY,
2005) nhất là đối với những thông tin nhạy cảm về vấn đề tính dục. Tuy
nhiên việc tiếp cận các nội dung này có sự khác biệt giữa nhóm nam và
nữ, nhóm đã có ngƣời yêu và nhóm chƣa có ngƣời yêu, sự khác biệt giữa
các trƣờng đại học.
Trong các vấn đề thuộc về Sức khỏe bệnh tật và Những vấn đề nhạy
cảm khác, kết quả kiểm định thống kê Chi-square không cho thấy có mức
ý nghĩa thống kê (P>0,05) khi xem xét tƣơng quan giữa nhóm vấn đề này
với nhóm đã có ngƣời yêu và chƣa có ngƣời yêu. Điều này có nghĩa là dù
các bạn đã có ngƣời yêu hay không thì cũng không tác động đến việc tiếp
cận các nội dung nhƣ Sức khỏe và sức khỏe sinh sản Vị thành niên; Các
bệnh lây truyền qua đƣờng tình dục, HIV/AIDS; Sức khỏe tình dục; Sống
chung trƣớc hôn nhân; Đồng tính; Mại dâm qua các kênh thông tin khác
nhau. Còn đối với nhóm Ứng xử và quan hệ cho kết quả không mấy bất
ngờ bởi một số nội dung nhƣ Hôn nhân, gia đình; Tình dục an toàn; Sự thụ
277
thai và tránh thai đều cho thấy có mối quan hệ chặt chẽ với tình trạng có
ngƣời yêu hay chƣa (mức ý nghĩa thống kê với xác suất P< 0,05). Những
sinh viên đã và đang yêu tiếp cận với những nội dung trên qua sách; mạng
internet nhiều hơn so với nhóm sinh viên chƣa yêu nhƣng nhóm chƣa có
ngƣời yêu lại biết đến những thông tin này chủ yếu qua truyền hình, phát
thanh, báo/ tạp chí. Cụ thể là với nội dung về Tình dục an toàn nhóm chƣa
có ngƣời yêu có 71 trƣờng hợp (17,4%) biết từ truyền hình và tƣơng ứng
với nội dung Hôn nhân, gia đình; Sự thụ thai và tránh thai có tỷ lệ lần lƣợt
là 19%; 17% (Bảng 3)
Bảng 3: Tiếp cận các kênh thông tin theo tình trạng có ngƣời yêu hay
không Đơn vị tính: %
Nội dung Có
ngƣời
yêu chƣa
Kênh
Truyền
hình
Báo Sách Internet Bố
mẹ
Thầy
cô
Hôn nhân, gia
đình
P= 0.00
Có 14,8 30,8 10,8 9,5 17,1 3,2
Chƣa có 19 35,8 8,5 6,8 11,7 0.7
Tình dục an toàn
P= 0.001
Có 11,7 31,6 17,2 13,1 1,1 3,8
Chƣa có 17,4 34 12 9 1,2 2,2
Sự thụ thai và
tránh thai (P=
0.004)
Có 14,3 29,4 22,4 11 1,3 2,3
Chƣa có 17 31 16,5 8,4 1,1 2,9
Kết quả phân tích cho thấy thế mạnh của sách và mạng internet bởi
sự tin cậy và đảm bảo sự riêng tƣ nhất là đối với những vấn đề “nhạy
cảm” nhƣ tính dục. Mặc dù không có đƣợc ƣu thế về tính cập nhật liên
tục, về sự khổng lồ của kho tàng tri thức và về sự “riêng tƣ” nhƣ của
Internet song sách vẫn có những thế mạnh riêng không thể phủ nhận trong
việc cung cấp thông tin. .
Núi túm lại, cùng với sự khẳng định ƣu thế các phƣơng tiện truyền
thông đại chúng, qua những phõn tớch trên ta còn thấy sự mờ nhạt trong
vai trò cung cấp thông tin liên quan đến nội dung tính dục của các kênh
trực tiếp nhƣ gia đỡnh và nhà trƣờng.
278
2. Nhu câu tìm hiểu thông tin liên quan đên tinh duc của sinh viên
Điều dễ nhận thấy qua số liệu khảo sát tại 5 trƣờng đại học là tỷ lệ
mong muốn nhận đƣợc các kiến thức về tính dục của sinh viên rất cao, có
tới 916 trên tổng số 1000 trƣờng hợp đƣợc hỏi chiếm 91,6%. Sở dĩ nhóm
sinh viên có nhu cầu nhận đƣợc những thông tin này có thể là do ở độ tuổi
từ 18-25 tuổi sinh viên đã bắt đầu có sự trƣởng thành về mặt sinh học,
bƣớc vào tuổi yêu đƣơng và chuẩn bị tiến tới hôn nhân. Vì thế việc tìm
hiểu những kiến thức về tính dục là vô cùng cần thiết để từ đó họ có thể
trang bị kiến thức cho bản thân và những ngƣời xung quanh.
Kiểm định thống kê Chi-square cho thấy mức ý nghĩa thống kê
(P=0.00) trong quan hệ giữa trƣờng học và mong muốn nhận đƣợc các
kiến thức về tính dục (Biểu 3).
Biểu 3: Mong muốn nhận đƣợc kiến thức về tính dục theo trƣờng
Đơn vị tính: %
95
86
91.5 92.5 93
60
80
100
Học viện Báo chí
Đại học Bách khoa
Đại học Sƣ phạm
Đại học Đông đô
Đại học Kinh tế quốc dân
Sinh viên Đại học Bách khoa có tỷ lệ mong muốn nhận đƣợc thông
tin về kiến thức tính dục thấp hơn cả so với 4 trƣờng còn lại, Học viện Báo
chí là nơi có tỷ lệ sinh viên có nhu cầu cao nhất. Cụ thể là có 86 % sinh
viên Bách Khoa và 95% sinh viên Học viện Báo chí mong muốn nhận
đƣợc các kiến thức về tính dục. Một trong những giải thích có thể là sinh
viên Đại học Bách khoa có số tiết học trên lớp và số tiết phải thực hành
nhiều hơn các trƣờng khác nên không có nhiều thời gian để tìm hiểu, cũng
279
một phần là do các em không đƣợc học về các môn học có liên quan đến
phần này nên cho rằng chƣa cần thiết phải tìm hiểu chúng.
Nhu cầu có đƣợc kiến thức về tính dục đƣợc đa số sinh viên lựa
chọn nhƣng lại có sự khác nhau đáng kể giữa các nguồn thông tin. Qua
biểu dƣới đây cho thấy sinh viên mong muốn nhận đƣợc kiến thức về tính
dục thông qua nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể là thông qua 8 hình thức:
Sách, báo/ tạp chí; Giáo dục của nhà trƣờng, Mạng Internet, Truyền hình,
Phát thanh, Bạn bè, Trung tâm tƣ vấn, Bố mẹ.
Biểu 4: Mong muốn nhận đƣợc kiến thức tính dục qua các kênh
thông tin
Đơn vị tính: %
89
64
45 43 3933 30
23
0
20
40
60
80
100
sách/ báo,
tạp chí
Nhà trƣờng Internet truyền hình Bạn bè trung tâm
tƣ vấn
Bố mẹ Phát thanh
Nhƣ ở phần đầu đã phân tích ở trên thì sinh viên dành nhiều thời
gian hơn cả để đọc sách/ báo. Cũng chính vì thế mà kết quả phân tích cho
thấy nhu cầu tiếp nhận những kiến thức tính dục của sinh viên chủ yếu từ
sách/ báo, tạp chí chiếm tới 89%. Lý giải cho điều này ta thấy rằng sinh
viên là nhóm đối tƣợng có trình độ học vấn cao, có điều kiện tiếp cận với
sách/ báo hàng ngày. Hơn nữa hầu hết thông tin của sách/ báo, tạp chí có
độ chính xác cao, tin cậy do nó đƣợc kiểm nghiệm bởi các ban biên tập,
những nhà khoa học. Sách, báo cũng thƣờng viết cụ thể, khoa học và hệ
thống nên sinh viên có thể tiếp cận vấn đề dễ dàng. Thêm vào đó chủ để
giáo dục giới tính và tình dục xuất hiện ngày càng nhiều và càng phong
phú về hình thức, thể loại trên các trang báo, tạp chí.
Nếu sách, báo/ tạp chí đƣợc đánh giá cao nhất trong việc thỏa mãn
nhu cầu tìm hiểu thông tin liên quan đến tính dục của sinh viên, sau đó là
Internet (45%) và truyền hình (43%) thì Phát thanh lại là tỏ là là phƣơng
280
tiện kém hiệu quả nhất. Chỉ có gần ¼ số ngƣời đƣợc hỏi trả lời là mong
muốn nhận đƣợc kiến thức về tính dục qua phát thanh. Một trong những
hạn chế khiến cho phát thanh không còn chiếm vị trí độc tôn và thậm chí
còn khiến thính giả ngày càng giảm đó là vì phần lớn các chƣơng trình vẫn
coi thính giả nhƣ những đối tƣợng tiếp thu thông tin thụ động, một chiều
và ít quan tâm đến việc họ có thực sự cần những thông tin mà mình cung
cấp hay không. Nhiều chƣơng trình còn nằm trong phạm vi “đóng” của
một kịch bản khô cứng, dựng sẵn, chƣa tạo một diễn đàn, một “sân chơi”
cho thính giả cùng chia sẻ, đóng góp ý kiến.
Bên cạnh các phƣơng tiện truyền thông đại chúng thì quá trình giáo
dục của gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các thông tin
liên quan đến vấn đề tính dục. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này gia đình
mà cụ thể là cha mẹ chƣa thực sự là nơi con cái mong muốn cung cấp
thông tin về tính dục, chƣa đầy 1/3 số em đƣợc hỏi mong muốn nhận đƣợc
thông tin từ cha mẹ. Điều này cũng khá tƣơng đồng với kết quả của một số
nghiên cứu trƣớc đó (SAVY, 2005; Khoa Xã hội học, 2006). Theo kết quả
nghiên cƣu của đề tài : "Vị thành niên và các biện pháp tránh thai : Thực
trạng và những câu hỏi?” thi cha/ mẹ, ngƣời thân và thầy/ cô giáo không
đƣợc coi là những nguồn cung cấp thông tin chính về tính dục và sức khỏe
sinh sản cho vị thành niên (Bùi Thanh Mai và Hoàng Thị Hoa, 1999). Tác
giả Nguyễn Thúy Quỳnh trong nghiên cứu của mình cũng khẳng định hầu
hết sinh viên không tìm kiếm thông tin liên quan đến tính dục từ cha/ mẹ,
các cán bộ Đoàn, cán bộ tuyên truyền (Nguyễn Thúy Quỳnh, 2001).
Đáng chú ý là nhà trƣờng lại đứng thứ 2 trong tổng số 8 kênh thông
tin mà nghiên cƣu đƣa ra , có 64% số sinh viên mong muốn nhận thông tin
từ nhà trƣờng. Điều đó chứng tỏ rằng việc giảng dạy các nội dung có liên
quan đến tính dục ở nhà trƣờng là rất cần thiết. Nhƣ vậy, sinh viên có rất
nhiều nguồn để cung cấp thông tin về các chủ đề liên quan đến tính dục
nhƣng 2 nguồn cơ bản là sách, báo/ tạp chí và nhà trƣờng, còn cha mẹ và
trung tâm tƣ vấn vẫn chƣa phải là kênh thông tin mà sinh viên mong muốn
281
nhận đƣợc thông tin. Qua phân tích trên gợi ra một giải pháp nhằm nâng
cao hiểu biết của sinh viên đó là bên cạnh việc cung cấp các kiến thức về
tính dục, tình dục thi nhà trƣờng cân chu trong cung cấp thêm những tài
liệu tham khảo liên quan đến vấn đề này.
Kiên thƣc về giới tính và tình dục giúp cho thanh niên nói chung và
sinh viên nói riêng có trách nhiệm hơn đối với bản thân nhƣ phòng, tránh
thai ngoài ý muốn, hạn chế các bệnh lây nhiễm qua đƣờng tình dục…Do
đó sinh viên tại 5 trƣờng trong mẫu nghiên cứu đều rất mong muốn tìm
hiểu các kiến thức liên quan đến tính dục. Kết quả định lƣợng về mối quan
hệ giữa các hình thức mà sinh viên mong muốn nhận đƣợc kiến thức về
tính dục và trƣờng học cho thấy đa số các hình thức đƣa ra có mức ý nghĩa
thống kê. Điều này thể hiện ở bảng 4.
Bảng 4: Các hình thức mong muốn theo trƣờng
Đơn vị tính: %
Hình thức Trƣờng học
Học
viện
Báo chí
ĐH
Bách
khoa
ĐH
Sƣ
phạm
ĐH
Đông
đô
ĐH
Kinh
tế
1. Nhà trƣờng (P=
0.00)
75 53,4 75 53,5 61,9
2. Sách, báo (P= 0.01) 92,2 81,8 93,5 85 91,5
3. Truyền hình (P=
0.54)
44,3 42,6 42 51,3 36
4. Phát thanh (P= 0,12) 25 18,8 27,5 23 18
5. Trung tâm tƣ vấn
(P= 0,21)
31,8 27,8 39 32,6 31,2
6. Internet (P= 0,02) 50 52,8 41 42,8 38,1
7. Bạn bè (P= 0,01) 49 31,8 36,5 35,8 40,7
8. Bố mẹ (P= 0,00) 39,6 16,5 41 28,9 23,8
Nếu so sánh các hình thức cung cấp thông tin mà sinh viên mong
muốn nhận đƣợc kiến thức về tính dục cho thấy nhà trƣờng cũng tác động
rất lớn đến việc sinh viên có mong muốn nhận đƣợc thông tin từ nguồn
này hay không. Kết quả kiểm định thống kê (P<0,05) cho thấy rõ mối
quan hệ chặt chẽ giữa hai yếu tố này. Đối với những sinh viên đƣợc nhà
282
trƣờng cung cấp những kiến thức cơ bản về sức khỏe sinh sản, tình
dục…thông qua các môn học chính thức và hoạt động ngoại khóa thì luôn
có mong muốn tiếp tục nhận đƣợc thông tin từ nhà trƣờng nhƣ Học viện
Báo chí, Đại học Sƣ phạm. Còn đối với những trƣờng nhƣ Bách khoa,
Đông đô do sinh viên chƣa nắm rõ về những vấn đề này nên các em chƣa
xác định nhu cầu cụ thể của mình và thấy rằng có thể tìm đƣợc những
thông tin về tình dục, tính dục từ những nguồn khác nhƣ sách, báo, mạng
Internet….
Kết quả khảo sát ở bảng 4 cho thấy chỉ có hình thức thông qua
mạng Internet là sinh viên Đại học Bách khoa có tỷ lệ lựa chọn cao hơn
các trƣờng khác (52,8%). Nguyên nhân của điều này là do sinh viên Đại
học Bách khoa có điều kiện thuận lợi tiếp xúc với mạng internet trong quá
trình học tập. Còn đối với kênh thông tin từ bố mẹ thì kết quả lại ngƣợc
lại, sinh viên trƣờng Bách khoa mong muốn có đƣợc thông tin từ cha mẹ
là ít nhất chỉ chiếm 16,5% số ngƣời đƣợc hỏi, tỷ lệ cao nhất thuộc về
trƣờng Đại học Sƣ phạm (41%) sau đó là Học viện Báo chí (39,6%) với
mức ý nghĩa thống kê P= 0,00. Lý giải cho điều này là do trƣờng Bách
khoa là trƣờng có tỷ lệ sinh viên nam chiếm đa số mà nam giới lại rất ngại
chủ động hỏi cha mẹ mình về vấn đề này và ngƣợc lại. Điều này cũng khá
giống với kết quả đƣợc phân tích trong đề tài “Giao tiếp giữa cha mẹ và
con cái lứa tuổi vị thành niên về sức khỏe sinh sản” năm 2006 và cũng phù
hợp với kết quả nghiên cứu trong Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và
Thanh niên Việt Nam năm 2005 (SAVY, 2005). Theo SAVY, gia đình là
nguồn cung cấp thông tin thấp nhất về sức khỏe sinh sản. Kết quả trong
nghiên cứu này cũng chỉ ra sự khác biệt đáng kể giữa 2 giới. Mặc dù có
khoảng 1/2 số thanh thiếu niên kể chuyện này với ngƣời khác nhƣng nữ kể
nhiều hơn so với nam (SAVY, 2005).
Tuy nhiên, kết quả khảo sát định lƣợng tại 5 trƣờng đại học lại
không có đủ bằng chứng để khẳng định mối quan hệ có ý nghĩa về mặt
thống kê giữa trƣờng học và hình thức mong muốn nhận đƣợc thông tin
283
thông qua đài phát thanh, truyền hình và trung tâm tƣ vấn. Kiểm định
thống kê Chi-square khi xem xét mối tƣơng quan giữa 3 hình thức đã kể
trên với trƣờng học đều cho xác suất P>0,05.
Một điều khá thú vị là khi phân tích mối quan hệ giữa hình thức
mong muốn nhận đƣợc thông tin về tính dục với thông tin có ngƣời yêu
hay chƣa, kết quả kiểm định thống kê cho thấy hầu hết các hình thức mà
chúng tôi đƣa ra điều không có ý nghĩa về mặt thống kê. Chỉ duy nhất có
kênh thông tin từ Trung tâm tƣ vấn là có mối quan hệ chặt chẽ về mặt
thống kê (P<0,05).
Biểu 5: Mong muốn nhận đƣợc thông tin theo tình trạng có ngƣời
yêu hoặc không
88 89.8
35.1 28.6
30.6 29.4
0 50 100 150 200
Sách, báo
Trung tâm tƣ vấn
Bố mẹ
Có ngƣời yêu
Chƣa có ngƣời yêu
Kết quả ở biểu 5 cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm có
ngƣời yêu và chƣa có ngƣời yêu trong nhu cầu tiếp nhận thông tin về tính
dục từ trung tâm tƣ vấn. Những ngƣời có ngƣời yêu mong muốn nhận
đƣợc thông tin từ trung tâm tƣ vấn cao hơn nhóm chƣa có ngƣời yêu là
6,5%. Cụ thể là tỷ lệ nhóm sinh viên có ngƣời yêu là 181 trƣờng hợp trong
tổng só 918 ngƣời trả lời (chiếm 35,1%) trong khi nhóm chƣa có ngƣời
yêu là 112 trƣờng hợp (chiếm 28,6%). Theo thông tin trên một trang Web
thì tại các trung tâm tƣ vấn tình yêu – hôn nhân – gia đình số khách hàng
đang yêu chiếm khoảng 45% (http://www.langviet.net/forums/lofiversion/index.php/t29139.html )
Điều này có thể giải thích rằng những ngƣời có ngƣời yêu đã bắt
đầu có những mối quan tâm cụ thể hơn đến những vấn đề liên quan đến
sức khỏe sinh sản, tính dục…Hơn nữa họ mong muốn nhận đƣợc thông tin
phản hồi nhanh nhất khi họ có những thắc mắc liên quan đến những vấn
284
đề này. Chính lúc này các trung tâm tƣ vấn với những chuyên gia giàu
kinh nghiệm, có kiến thức về tâm lý sẽ là nơi đáng tin cậy để sinh viên
giãi bày thắc mắc của mình.
KẾT LUẬN
Sinh viên hiện nay dành một khoảng thời gian khá lớn cho việc đọc
sách/ báo, xem truyền hình và vào mạng internet. Chính điều này giúp cho
sinh viên chủ động hơn trong việc tìm kiếm thông tin nhất là những thông
tin “nhạy cảm”, liên quan đến sức khỏe sinh sản, tình dục – những thông
tin ít khi đƣợc trao đổi qua kênh giao tiếp trực tiếp . Kết quả nghiên cứu
cũng khẳng định giả thuyết mà nghiên cƣu đƣa ra “Sinh viên chủ yếu tiếp
cận các thông tin liên quan đến tính dục thông qua phƣơng tiện truyền
thông đại chúng” là chính xác và có căn cứ khoa học. Cụ thể là có tới 991
sinh viên trên tổng số 995 sinh viên trả lời là có nghe nói đến những thông
tin này chiếm 99,6% và những thông tin đó biết đƣợc chủ yếu thông qua
hệ thống truyền thông đại chúng với tỷ lệ cao gấp 6 lần so với kênh thông
tin cao thứ 2. Bởi vậy, việc nâng cao chất lƣợng của các chƣơng trình
truyền hình, xuất bản thêm nhiều ấn phẩm có liên quan đến tính dục nhằm
cung cấp thông tin cơ bản cho vị thành niên và thanh niên nói chung, sinh
viên nói riêng là điều rất cần thiết và cấp thiết hiện nay. Bên cạnh đó, thì
gia đình và nhà trƣờng cần nổ lực hơn nữa trong việc chủ động đƣa những
thông tin về tính dục vào giáo dục cho con em mình một cách chính thống
hoặc thông qua các hoạt động ngoại khóa.
Nhu cầu tiếp nhận các kiến thức và thông tin về tính dục trong sinh
viên là rất lớn, 91,6% sinh viên thừa nhận có nhu cầu này. Hình thức
truyền tài mà phần lớn các em mong muốn nhận đƣợc các kiến thức là
thông qua sách/ báo/ tạp chí (89%) và qua giáo dục của Nhà trƣờng
(64,1%). Kết quả này cũng gợi ý cho các nhà tổ chức chƣơng trình truyền
thông về tính dục và sức khỏe sinh sản vị thành niên và thanh niên là cần
tiếp tục đầu tƣ, cải tiến và cung cấp nhiều hơn nữa số lƣợng sách/ báo/ tạp
chí có nội dung liên quan đến tính dục cho sinh viên.
285
Tài liệu tham khảo
1. http://www.langviet.net/forums/lofiversion/index.php/t29139.html
2. Nguyễn Thuý Quỳnh, Mô tả hành vi tình dục và kiến thức phòng tránh thai
của nam nữ sinh viên chưa lập gia đình tuổi 17 – 24 tại một trường đại học
Hà Nội, Luận văn thạc sỹ, Đại học Y tế công cộng, 2001
3. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY), 2005
4. Bùi Thanh Mai và Hoàng Thị Hoa, Vị thành niên và các biện pháp tránh
thai: Thực trạng và những câu hỏi, 1999
5. Khuất Thu Hồng. Tập bài giảng về tính dục tại lớp tập huấn về Lồng ghép tính dục trong các
bài giảng cho sinh viên tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền , Hà Nội, 2005
6. Khoa Xã hội học, Đề tài: “Nhu cầu đào tạo kiến thức về tính dục của sinh
viên hiện nay”, 2007
286
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHƢƠNG TRÌNH TIẾP THỊ VÀ
QUẢNG CÁO THỰC PHẨM TRÊN TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÖNG
ĐẾN HÀNH VI TIÊU DÙNG THỰC PHẨM VÀ SỨC KHỎE TRẺ EM.
Th.s: Dương Thị Thu Hương
Trong bối cảnh xã hội hiện đại với sự bùng nổ của truyền thông đại
chúng, trẻ em ngày càng đƣợc tiếp cận với nhiều nguồn thông tin từ rất
sớm. Bên cạnh rất nhiều những ƣu điểm tích cực từ việc tiếp xúc với các
nguồn thông tin sớm do truyền thông đem lại, trẻ em cũng là đối tƣợng
phải gánh chịu một số các tác động không mong muốn xuất phát từ truyền
thông đại chúng. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến một trong các khía
cạnh tiêu cực đó: tác động của các chương trình quảng cáo, tiếp thị thực
phẩm trên truyền thông đại chúng đến hành vi tiêu dùng thực phẩm và sức
khỏe của trẻ em với mong muốn đi tìm hiểu những vấn đề cụ thể nhƣ sau:
- Sự bùng nổ của các chiến dịch tiếp thị quảng cáo thực phẩm trên
truyền thông đại chúng và những nguyên nhân trẻ em trở thành đối tƣợng
hƣớng tới của các chiến dịch này.
- Ảnh hƣởng của các chƣơng trình quảng cáo thực phẩm, đồ uống
trên truyền thông đại chúng đến hành vi tiêu dùng thực phẩm của trẻ em.
- Những vấn đề đặt ra đối với việc quản lý các chƣơng trình quảng
cáo tiếp thị thực phẩm, đồ uống nhằm vào đối tƣợng trẻ em.
Trẻ em- đối tượng của các chương trình tiếp thị quảng cáo thực
phẩm không có lợi cho sức khỏe trên truyền thông đại chúng.
Các nhà sản xuất thực phẩm và đồ uống ngày càng nhận ra rằng trẻ
em là khách hàng đầy tiềm năng của họ cũng nhƣ việc đầu tƣ vào các
chƣơng trình quảng cáo tiếp thị trên các phƣơng tiện truyền thông đại
chúng, đặc biệt là truyền hình, là cách ngắn nhất để sản phẩm của họ đến
gần với đối tƣợng trẻ em. Chính vì lý do đó mà trong chiến lƣợc phát triển
287
của các công ty chuyên sản xuất thực phẩm và đồ uống, họ không ngần
ngại bỏ những khoản tiền lớn để tiếp thị sản phẩm của mình trên truyền
thông. Theo thống kê năm 2006, các công ty xuyên quốc gia đã chi những
khoản tiền khổng lồ cho quảng cáo: 7,8 tỉ đô la dành cho quảng cáo đồ ăn,
4 tỉ đô la dành cho quảng cáo nƣớc ngọt, 1,1 tỉ đô la dành cho quảng cáo
bánh kẹo. ở Mỹ, xét về tần suất quảng cáo trên truyền thông đại chúng,
các quảng cáo về thực phẩm đứng vị trí thứ 2. Theo thống kê ở nƣớc này,
năm 2007 ƣớc tính tiền chi trả cho quảng cáo trên truyền hình chiếm 95%
tổng số dành cho quảng cáo thức ăn nhanh và 75% tổng số tiền dành cho
quảng cáo thực phẩm nói chung. Với những con số thống kê nhƣ vậy,
chúng ta có thể thấy tần suất xuất hiện các quảng cáo về thực phẩm và đồ
uống trên truyền hình là rất lớn. Bên cạnh đó, theo phân tích thì thực phẩm
và đồ uống đƣợc quảng cáo thông thƣờng là thực phẩm chứa nhiều đƣờng,
chất béo, muối, hàm lƣợng dinh dƣỡng và chất sơ thấp. Ví dụ nhƣ, ngƣời
ta ƣớc tính có tới 85% quảng cáo thực phẩm trên truyền hình Mỹ là quảng
cáo liên quan đến thực phẩm chế biến sẵn, thức ăn nhanh, kẹo, đồ uống
công nghiệp, trong khi đó chỉ có 2% là các quảng cáo liên quan đến trái
cây và rau quả.
Ở Việt nam, chƣa có một nghiên cứu nào đi thống kê đầy đủ về tần
suất xuất hiện các quảng cáo thực phẩm và đồ uống không có lợi cho trẻ
em trên truyền thông đại chúng, nhƣng thực tế quan sát tần số xuất hiện
trên truyền hình và các phƣơng tiện truyền thông khác cho thấy, đây là
một trong những loại quảng cáo phổ biến nhất hiện nay.
Liên quan đến các quảng cáo thực phẩm và đồ uống không có lợi
cho sức khỏe nói trên, đối tƣợng của các quảng cáo nhằm vào chủ yếu là
trẻ em. Các nhà cung cấp thực phẩm và đồ uống nói trên không ngần ngại
bỏ ra một khoản tiền khổng lồ chi trả cho truyền thông và nhắm vào đối
tƣợng là trẻ em vì họ biết rằng, trẻ em là nhóm khách hàng đầy tiềm năng.
Lý do thứ nhất đó là trẻ em ngày càng có quyền và có ảnh hƣởng lớn trong
việc chi tiêu và tiêu dùng thực phẩm trong gia đình. Một nghiên cứu ở
288
Canada vào năm 2002 cho thấy trẻ em Canada từ 9- 14 tuổi đã chi tiêu 1.9
tỉ đô la và có ảnh hƣởng đến những chi tiêu mua bán thực phẩm khác
trong gia đình khoảng 20 tỉ đô la. Một nguyên nhân quan trọng khác khiến
trẻ em là đối tƣợng hƣớng tới của các nhà sản xuất kinh doanh thực phẩm
và đồ uống đó là vì họ tin rằng trẻ em sẽ trở thành khách hàng đầy tiềm
năng trong tƣơng lai. Cơ sở cho niềm tin đó là hành vi ăn uống từ nhỏ ảnh
hƣởng lớn đến việc lập thói quen ăn uống trong tƣơng lai. Bên cạnh đó,
quảng cáo cũng thu hút trẻ em từ độ tuổi rất sớm, đặc biệt là quảng cáo
trên truyền hình. Từ hai tuổi trở lên, khi bắt đầu biết chú ý đến hình ảnh và
âm thanh, cũng là lúc trẻ em bắt đầu biết chú ý đến các quảng cáo, đặc biệt
những quảng cáo có âm thanh và hình ảnh phù hợp với lứa tuổi của chúng.
Từ những lý do nhƣ trên cho thấy trẻ em ngày càng có nguy cơ tiếp
xúc nhiều với các chƣơng trình quảng cáo, tiếp thị thực phẩm và đồ uống
không có lợi cho sức khỏe.
Tác động của các chương trình quảng cáo tiếp thị thực phẩm đến
hành vi tiêu dùng thực phẩm của trẻ em.
Trong một thời gian dài và cho đến tận hiện nay, những ngƣời có
liên quan nhƣ các nhà sản xuất và phân phối thực phẩm, các nhà truyền
thông, nhà quản lý, bảo vệ ngƣời tiêu dùng và các bậc cha mẹ đã tham gia
vào rất nhiều các cuộc tranh luận xoay quanh câu hỏi nhƣ các chƣơng
trình tiếp thị quảng cáo ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến hành vi tiêu dùng của
trẻ em và mức độ ảnh hƣởng đến đâu?
Trên cả phƣơng diện lý thuyết và những bằng chứng thực tế cho
thấy hành vi tiêu dùng thực phẩm của trẻ em bị ảnh hƣởng bởi các chƣơng
trình quảng cáo thực phẩm không có lợi cho sức khỏe.
Theo lý thuyết xã hội hóa, truyền thông là một trong bốn môi
trƣờng xã hội hóa quan trọng ảnh hƣởng đến sự phát triển của trẻ em (bốn
môi trƣờng đó bao gồm: gia đình, nhà trƣờng, truyền thông đại chúng và
nhóm bạn bè). Truyền thông là nguồn cung cấp những thông tin cơ bản và
tác động trực tiếp đến quá trình phát triển tƣ duy và hành vi con ngƣời
289
ngay từ nhỏ. Cũng theo quan điểm của nhà xã hội học Fischer, xã hội hóa
là một quá trình trong đó cá nhân vừa tiếp nhận khuôn mẫu, chuẩn mực
hành vi, vừa tái tạo một cách chủ động các khuôn mẫu chuẩn mực hành vi
đó. Tuy nhiên, nếu ở ngƣời trƣởng thành, sự phân tích thông tin để tiếp
nhận một cách có chọn lọc diễn ra mạnh mẽ thì ở trẻ em, xã hội hóa chủ
yếu dừng lại ở quá trình tiếp nhận những giá trị chuẩn mực có sẵn mà sự
chọn lọc hay tái tạo là rất yếu, thậm chí là chƣa xuất hiện ở giai đoạn nhỏ
tuổi. Chính vì vậy, trẻ em khi xem các chƣơng trình truyền hình thƣờng
không biết phân tích thông tin hay chắt lọc những thông tin họ nhận đƣợc
mà chủ yếu là tiếp thu một cách máy móc. Điều này cũng phản ánh rất rõ
ở các nghiên cứu thực tế trên trẻ em: ví dụ trẻ em ngay từ bé đã thuộc lòng
rất nhiều những thông điệp hay những đoạn quảng cáo trên phƣơng tiện
truyền thông đại chúng cũng nhƣ thuộc tên các nhãn hiệu phổ biến hay
đƣợc quảng cáo. Nghiên cứu ở trẻ em dƣới 8 tuổi cho thấy trẻ em dƣới 8
tuổi thƣờng tin tƣởng vào sự chuẩn xác, tính đúng đắn và công bằng qua
các mẫu quảng cáo. Nghiên cứu của các nhà xã hội học và tâm lý học ở
Canada cũng chỉ ra rằng trẻ em dƣới 5 tuổi hoàn toàn không phân biệt
đƣợc và không hiểu đƣợc có sự khác biệt giữa các chƣơng trình giải trí và
quảng cáo, vì vậy chúng thƣờng xem với sự chú ý ngang bằng nhau đối
với các chƣơng trình quảng cáo thƣơng mại và các chƣơng trình cung cấp
thông tin khác. Bên cạnh đó, trẻ em dƣới 8 tuổi không nhận biết đƣợc ý
định cơ bản của các nhà quảng cáo là để bán sản phẩm.
Nhƣ vậy, dƣới tác động của quảng cáo thƣơng mại đối với thực
phẩm và đồ uống dành cho trẻ em, trẻ em rất dễ trở thành những ngƣời
tiêu dùng thiếu kinh nghiệm. Quan điểm trẻ em là những ngƣời tiêu dùng
thiếu kinh nghiệm dƣới tác động của truyền thông đại chúng cũng đƣợc
chia sẻ bởi phân tích của nhà xã hội học M. Weber khi ông bàn về lý
thuyết lối sống khỏe mạnh (healthy lifestyle). Theo ông, “lối sống khỏe
mạnh” của các cá nhân đƣợc xác định bởi hai yếu tố: sự lựa chọn của cá
nhân đối với các hành vi liên quan đến sức khỏe “life choice” và những cơ
290
hội đến với cá nhân trong cuộc sống: “life chance”. Bên cạnh việc cho
rằng sự lựa chọn các hành vi liên quan đến sức khỏe của cá nhân bị tác
động của môi trƣờng bên ngoài (trong đó có truyền thông đại chúng) thì
ông đánh giá cao năng lực và khả năng tính toán của cá nhân trong việc
lựa chọn hành vi của họ: nhƣ khả năng diễn giải hoàn cảnh, suy tính
những mặt tích cực và tiêu cực của sự lựa chọn đó. Tuy nhiên đối với trẻ
em, năng lực tính toán để tối ƣu hóa hành động của mình là gần nhƣ
không có và họ cũng chƣa có kinh nghiệm gì liên quan đến các vấn đề về
sức khỏe. Vì vậy sự lựa chọn hành vi liên quan đến sức khỏe, trong đó có
việc tiêu dùng thực phẩm của trẻ em hầu nhƣ phụ thuộc vào tác động của
môi trƣờng bên ngoài, mà trong đó không thể không kể đến tác động của
các chƣơng trình tiếp thị, quảng cáo thực phẩm.
Bên cạnh đó, cũng theo lý thuyết niềm tin sức khỏe (health belief
model), khi các cá nhân đƣợc cung cấp rất nhiều thông tin về những mặt
tích cực của các loại thực phẩm từ các nhà sản xuất quảng cáo, những
nhận thức tích cực đó chính là cơ sở để thiết lập thái độ và hành vi tích
cực đối với sản phẩm đó. Thực tế từ các quảng cáo thực phẩm và đồ uống
dành cho trẻ em cho thấy, không có một nhà sản xuất nào bỏ một khoản
tiền lớn ra để quảng cáo sản phẩm mà không nói tốt về sản phẩm của
mình. Hơn thế nữa, họ thƣờng lờ đi những thông tin thực tế về giá trị dinh
dƣỡng, hàm lƣợng chất béo, khoáng chất và vitamin mà thay thế vào đó là
những thông tin về trúng thƣởng, khuyến mãi sản phẩm, những nhân vật
hoạt hình ngộ nghĩng, những thông điệp siêu thực hấp dẫn trẻ em nhƣ “lớn
mạnh nhƣ một cây to”, “trở thành siêu nhân”, „phát triển vƣợt trội‟, „tăng
trƣởng vƣợt bậc về chỉ số IQ”. Với những cách thức tiếp thị nhƣ vậy, trẻ
em- những ngƣời tiêu dùng thiếu kinh nghiệm khó tránh khỏi sự hấp dẫn
của những sản phẩm quảng cáo mà thông thƣờng là những sản phẩm
nghèo dinh dƣỡng nhƣng giàu hàm lƣợng đƣờng, muối, chất béo. Những
ví dụ mà tác giả bài báo “Trẻ béo phì vì thực phẩm quảng cáo” đăng trên
Vnexpress (18/3/2008) cho thấy rất rõ những tác động của quảng cáo đến
291
hành vi ăn uống của trẻ em ở Việt nam. Bé Hùng (7 tuổi), mặc dù đã có
dấu hiệu quá cân, từ một ngƣời không thích ăn phô mai nhƣng vì mê
những quảng cáo vui nhộn của sản phẩm này đã trở thành một ngƣời
nghiện phô mai và luôn đòi mẹ mua cho ăn. Cậu bé luôn lý sự nếu bị từ
chối: “sao mẹ không cho con ăn phô mai? Nó giúp con cao lên mà”. Hay
bé Trang Anh ở tập thể Bách Khoa, Hà Nội, mặc dù đã thừa 8 kg so với
tiêu chuẩn nhƣng luôn luôn thích ăn vặt, đặc biệt là ăn tất cả những thứ
quảng cáo trên ti vi vì theo nhƣ bé nói, ăn nhƣ thế mới là sành điệu.
Để đi tìm hiểu tác động của các quảng cáo thực phẩm và đồ uống
đến hành vi tiêu dùng của trẻ em, một số các nhà nghiên cứu trên thế giới
đã xây dựng những mô hình nghiên cứu thực nghiệm để kiểm chứng mối
quan hệ này. Ví dụ nhƣ nghiên cứu thực nghiệm của Gorn và Goldberg
(1982) tiến hành đối với trẻ em từ 5 đến 8 tuổi: trẻ em đƣợc chia vào các
nhóm khác nhau và mỗi nhóm sẽ đƣợc tiếp xúc với những thông điệp liên
quan đến thực phẩm và đồ uống khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy
nhóm trẻ em đƣợc tiếp xúc thƣờng xuyên và liên tục với các thông điệp
quảng cáo kẹo, bánh ngọt, nƣớc ngọt và thức ăn nhanh trong một khoảng
thời gian ngắn thì sẽ có xu hƣớng lựa chọn và tiêu dùng những đồ ăn đó.
Nhóm tiếp xúc nhiều với những thông điệp và chƣơng trình giáo dục liên
quan đến thức ăn và đồ uống có lợi cho sức khỏe nhƣ nƣớc hoa quả và rau
quả sẽ có xu hƣớng chọn những đồ ăn có lợi cho sức khỏe cho bản thân.
Cũng với cách làm tƣơng tự, bằng phƣơng pháp thực nghiệm, nghiên cứu
của Bannon và Schwartz (2007) cũng đƣa ra kết luận rằng; trẻ em nếu
đƣợc tiếp xúc nhiều với những thông điệp về thực phẩm có lợi cho sức
khỏe (tác dụng của việc thƣờng xuyên sử dụng rau và hoa quả trong các
bữa ăn) thì sẽ có tác động tích cực đến sự lựa chọn của chúng trong một
giai đoạn ngắn sau đó.
Nhƣ vậy, cả về phƣơng diện lý thuyết, bằng chứng thực nghiệm và
bằng chứng thực tế đều cho thấy có sự găn bó mật thiết giữa việc tiếp xúc
292
nhiều với những quảng cáo thực phẩm và đồ uống không có lợi cho sức
khỏe và ảnh hƣởng của nó đến hành vi tiêu dùng thực phẩm của trẻ em.
Vấn đề càng trở nên đáng quan tâm hơn khi trẻ em ngày càng tự do
và có quyền lực trong việc lựa chọn tiêu dùng thực phẩm hàng ngày. Với
sự bận rộn của bố mẹ ngày một tăng, trẻ em đƣợc lựa chọn ăn uống bên
ngoài nhiều hơn ăn tại gia đình và ăn những thức ăn đƣợc chế biến sẵn
nhiều hơn những thức ăn tƣơi tự chế biến. Bên cạnh đó, sự định hƣớng
của cha mẹ cũng nhƣ của các chƣơng trình giáo dục khác trở nên yếu thế
hơn so với tác động của truyền thông đại chúng. Những lời khuyên về sử
dụng thực phẩm nhƣ thế nào cho có lợi cho sức khỏe sẽ trở nên rất ít tác
dụng đối với trẻ em vì nó thƣờng khó hiểu đối với lứa tuổi của chúng. Hơn
nữa, trẻ em là đối tƣợng chƣa có kinh nghiệm gì về khái niệm sức khỏe và
bệnh tật, nên những khuyến cáo về thực phẩm không có lợi cho sức khỏe
sẽ mang lại hiệu quả rất thâp đối với đối tƣợng là trẻ em. Trong khi đó,
với kỹ thuật về âm thanh và hình ảnh hiện đại, những nhân vật hoạt hình
hấp dẫn, những thông điệp mà gắn kèm với đó là những ý nghĩa siêu thực
phù hợp với những mơ ƣớc của trẻ em sẽ tạo ấn tƣợng và có tính hấp dẫn
hơn rất nhiều so với các chƣơng trình giáo dục thông thƣờng hay lời
khuyên của cha mẹ. Bên cạnh đó, rất có thể sẽ xảy ra xung đột giữa sự
giáo dục của cha mẹ và nội dung quảng cáo. Trẻ em có thể sẽ tỏ ra nghi
ngờ những định hƣớng hay giáo dục của cha mẹ đối với chúng vì nội dung
giáo dục đó mâu thuẫn với những gì chúng đƣợc xem và nghe thƣờng
xuyên từ quảng cáo.
Mối quan hệ giữa quảng cáo, hành vi tiêu dùng thực phẩm và sức
khỏe của trẻ em.
Dinh dƣỡng đóng một vai trò quan trọng đối với trẻ em vì nó cần
thiết cho sự phát triển của trẻ cũng nhƣ ảnh hƣởng đến thói quen ăn uống
trong suốt quá trình phát triển và trƣởng thành. Ví dụ nhƣ nghiện thức ăn
nhanh là một trong những căn bệnh của giới trẻ ở các nƣớc công nghiệp
phát triển vì họ đƣợc làm quen với thức ăn công nghiệp từ lúc còn rất nhỏ.
293
Các cuộc phỏng vấn sâu đối với những ngƣời trẻ tuổi nghiện đồ ăn nhanh
cho thấy: họ thích dùng đồ ăn nhanh vì nhiều gia vị và đậm đà trong khi
đó họ lại cảm thấy chán ngán những món rau luộc nhạt nhẽo và vô vị.
Việc tiêu dùng những thực phẩm và đồ uống công nghiệp ảnh hƣởng
nghiêm trọng đến sức khỏe của trẻ em sau này vì hàm lƣợng chất béo,
muối và đƣờng cao trong những sản phẩm chế biến sẵn này chính là
nguyên nhân của tình trạng béo phì và hàng loạt các bệnh mãn tính khác.
Các nhà khoa học thuộc trƣờng đại học tổng hợp Liverpool của Anh và
các chuyên gia về dinh dƣỡng ở Đức đã đƣa ra xác nhận rằng trẻ em béo
phì là do quảng cáo. Đây cũng là lời lý giải hợp lý cho việc tỉ lệ béo phì
ngày càng gia tăng không những ở những nƣớc phát triển mà cả những
thành phố lớn ở nƣớc đang phát triển. Theo thống kê, trên thế giới có ít
nhất 22 triệu trẻ em dƣới 5 tuổi bị quá cân hoặc béo phì. Cũng theo nghiên
cứu, trẻ em bị béo phì thì thông thƣờng sẽ mãi mãi có nguy cơ thừa cân về
sau này.
ở Việt nam, bên cạnh việc phải tiếp tục giải quyết tình trạng thiếu
cân suy dinh dƣỡng ở trẻ em thì cũng bắt đầu phải đối mặt với tình trạng
béo phì và thừa cân ở các thành phố lớn. ở thành phố Hồ Chí Minh, có 6%
trẻ em dƣới 5 tuổi và khoảng 23% trẻ cấp 1 có cân nặng vƣợt quá mức tiêu
chuẩn và thậm chí ở Việt nam cũng đã xuất hiện những trƣờng hợp siêu
béo phì. Cũng theo ƣớc tính của tổ chức y tế thế giới, béo phì là nguyên
nhân liên quan đến 2,6 triệu ca tử vong trên thế giới và hàng loạt các căn
bệnh mãn tính khác nhƣ tim mạch, tiểu đƣờng, huyết áp.
Những vấn đề đặt ra đối với việc quản lý các chương trình quảng
cáo liên quan đến thực phẩm và đồ uống nhắm vào đối tượng trẻ em.
Những ảnh hƣởng của các tiếp thị quảng cáo thực phẩm và đồ uống
không lành mạnh đến hành vi tiêu dùng thực phẩm và sức khỏe của trẻ em
là không thể phủ nhận. Tuy nhiên biện pháp quản lý cần nhƣ thế nào cho
hợp lý và không xâm phạm lợi ích của các đối tƣợng liên quan vẫn là điều
chƣa thực sự đƣợc thống nhất. Thái độ cứng rắn nhất mà một số quốc gia
294
đã áp dụng nhƣ Anh hay Malaisia là cấm hoàn toàn quảng cáo thức ăn
dành cho trẻ em trên truyền hình và yêu cầu các nhà sản xuất phải thông
tin dinh dƣỡng đầy đủ trên bao bì. Một số quốc gia khác nhƣ Singapore
hay Brunei thì áp dụng hình thức quản lý linh hoạt mềm dẻo hơn: nhƣ cấm
quảng cáo trong những khoảng thời gian nhất định (ví dụ từ 6 giờ sáng
đến 9 giờ đêm) hay cấm dùng hình ảnh của những ngƣời nổi tiếng hay
những nhân vật hoạt hình nổi tiếng để lôi cuốn trẻ em.
Tuy nhiên cũng có rất nhiều ngƣời liên quan không đồng tình với quan
điểm cấm này. Họ cũng đƣa ra lý lẽ cho rằng béo phì và các vấn đề sức
khỏe khác của trẻ em là hệ quả của đa yếu tố tác động nhƣ yếu tố gen di
truyền, trách nhiệm gia đình, nhà trƣờng chứ không thể đổ lỗi cho riêng
mình truyền thông. Và ngƣời ta cũng nghi ngại về hiệu quả của việc cấm
quảng cáo: cấm quảng cáo sẽ góp phần giảm tỉ lệ béo phì đƣợc bao nhiêu
vì có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến béo phì. Chính vì những lý
lẽ đó mà các bên có lợi ích liên quan nhƣ các nhà sản xuất và phân phối
thực phẩm, các nhà truyền thông … cho rằng cấm hay hạn chế nhƣ vậy là
đối xử không công bằng đối với ngành sản xuất thực phẩm, đẩy ngành này
đi xuống, không phát triển đƣợc.
Trong ngày ngƣời tiêu dùng vừa qua (15/3), tổ chức Quốc tế ngƣời
tiêu dùng đã đƣa ra một số quy tắc tiếp thị thực phẩm và đồ uống không
cồn cho trẻ em và đề nghị Tổ chức Y tế Thế giới thông qua. Trong bản
quy tắc này, những quảng cáo giàu năng lƣợng nhƣng nghèo dinh dƣỡng
nhắm vào trẻ bị đề nghị cấm.
Với những phân tích về mức độ tác động của quảng cáo thực phẩm
và đồ uống không có lợi cho sức khỏe đến hành vi tiêu dùng và sức khỏe
của trẻ em bên trên cho thấy việc quản lý đối với quảng cáo thực phẩm
nhằm vào đối tƣợng trẻ em là cần thiết. Trong từng hoàn cảnh nhất định
mà mỗi một chính phủ có thể áp dụng hình thức cấm hay hạn chế khác
nhau cho phù hợp.
295
Riêng đối với Việt nam- một nƣớc đang phát triển, có lẽ vì chính
phủ còn đang mải mê với việc thanh toán tình trạng suy dinh dƣỡng và
đảm bảo dinh dƣỡng cho trẻ em hoặc có quan niệm rằng béo phì và thừa
dinh dƣỡng là bệnh của các nƣớc phát triển nên chƣa có những quan tâm
thích đáng đối với vấn đề này. Tuy nhiên, thực tế số liệu cho thấy, Việt
nam cũng nhƣ một số nƣớc đang phát triển khác cũng đang bắt đầu phải
đối mặt với vấn đề thừa cân và tác động của quảng cáo thƣơng mại. Nhất
là trong bối cảnh thƣơng mại hóa toàn cầu và sự phát triển của ngành công
nghiệp thực phẩm xuyên quốc gia, thì lo ngại này không còn là chuyện
của tƣơng lai xa. Để có một thế hệ mới trong tƣơng lai khỏe mạnh, có
năng lực lao động dồi dào, việc đƣa ra những biện pháp ngăn chăn tác
động tiêu cực của quảng cáo thực phẩm và đồ uống trên truyền thông đại
chúng là việc cần làm từ bây giờ trƣớc khi quá muộn.
Tài liệu tham khảo
1. Cockerham, W. 2006. „Health lifestyle theory in an Asian context‟. Health
Sociology Review 15(1): 5-15.
2. Gorn and Goldberg. 1982. “Behavioural evidence of the effects of televised food
messages on children”. Journal of consumer research, 9: 200 – 2005
3. Bannon K, Schwartz MB, 2007. “Impact of nutrition messages on children‟s food
choice: pilot study”, available at http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed
4. Story M, French S, 2004. “Food Advertising and marketing directed at children and
adolescents in the US”. International Journal of Behavioral Nutrition and
Physical Activity, 10 Feb, 2004
5. Katke K, 2007. The impact of television advertising on child health and family
spending – A case study. International Conference on Marketing & Society, 8-
10 April, 2007.
6. Targer market: children as consumers. Available at
http://www.aboutkidshealth.ca/News
7. Chất béo, đƣờng và muối: “sát thủ gây ra bệnh béo phì ở trẻ em”. Trích tại: Tin tuc –
Tin nhanh: http://tintuc.timnhanh.com/doi_song/suc_khoe
296
HÌNH ẢNH TÌNH DỤC TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
Ths. Nguyễn Thị Tuyết Minh
Nghiên cứu thông điệp về tính dục trên các phƣơng tiện truyền
thông đại chúng là một hƣớng nghiên cứu khá mới mẻ ở Việt Nam. Góp
phần tìm hiểu thực trạng việc thông điệp về tính dục chuyển tải đến công
chúng là gì? Các thông điệp này mới đƣợc chuyển tải cởi mở ở Việt Nam
trong ít năm trở lại đây. Các nhà truyền thông cũng thừa nhận rằng tính
dục, tình dục, các vấn đề về SKSS... là những vấn đề nhạy cảm và khó
trong việc chuyển tải các thông điệp đến công chúng vừa chính xác, vừa
đúng lại vừa đủ.
Đây là một nghiên cứu trƣờng hợp, những kết quả nghiên cứu chỉ
áp dụng cho các trang Web khảo sát. Mục đích của nghiên cứu nhằm mô
tả những nội dung các thông điệp về tính dục trên các trang Web, và
những yếu tố tác động tới các thông điệp này. Kỹ thuật thu thập thông tin
định lƣợng bằng phƣơng pháp phân tích tài liệu với mẫu 1173 bài báo
đƣợc thu thập từ 4 trang Web: http://vnexpress.net;
www.thanhnien.com.vn; http://www.gioitinhtuoitieen.org.vn;
www.dantri.com.vn trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 9/2006.
Phƣơng pháp xử lý số liệu SPSS đƣợc vận dụng nhằm lƣợng hoá
đƣợc ảnh hƣởng của các yếu tố tới các thông điệp này. Bên cạnh đó,
chúng tôi sử dụng những kết quả nghiên cứu có trƣớc nhằm hỗ trợ thêm
cho những nhận, những phát hiện, kết quả của nghiên cứu. Tôi sẽ sử dụng
phần mềm SPSS nhằm phõn tớch dữ liệu định lƣợng, nghiên cứu tiến hành
phân tích theo trình tự: Mô tả việc đƣa các thông điệp trên các trang báo;
Tập trung phân tích tƣơng quan nhị biến về sự ảnh hƣởng của các biến độc
đối với hình ảnh tình dục.
Những phân tích liên quan tới hình ảnh tình dục sẽ phân tích với
những biến số độc lập nhƣ Loại báo mạng; Hình thức đăng tải; Chuyên
297
mục đăng tải; Tác giả, nguồn đăng tải; Thời gian đăng tải nhằm tìm ra sự
khác biệt về thông điệp hình ảnh tình dục trên các trang báo mạng. Trong
số 1173 bài viết đƣợc sƣu tầm trên 4 trang web, tần xuất xuất hiện hình
ảnh về tình dục nói chung là 114 lần. Trong đó, 34 lần xuất hiện hình ảnh
dâm tục, 17 lần xuất hiện hình ảnh quảng cáo và 63 lần xuất hiện hình ảnh
khiêu dâm.
Loại báo mạng phân tích và hình ảnh tình dục
Hình ảnh về tình dục đƣợc phân tích trên ba khía cạnh: những hình
ảnh dâm tục, những hình ảnh quảng cáo và những hình ảnh khiêu dâm.
Kết quả phân tích trên các bài viết của ba trang Web cho thấy hình ảnh về
tình dục trên bốn báo đƣợc đăng tải không đồng đều nhau.
Biểu 1. Hình ảnh cụ thể so với các hình ảnh khác về tình dục trên báo
mạng
Biểu số liệu trên cho thấy, hình ảnh khiêu dâm xuất hiện với tần
xuất nhiều hơn ở tất cả các báo trong mẫu phân tích. Trong đó, hình ảnh
khiêu dâm xuất hiện trên www.thanhnien.com.vn so với hai nội dung còn
lại là cao nhất, sau đó đến http://www.gioitinhtuoitieen.org.vn và
www.dantri.com.vn. Tuy nhiên, số liệu bảng dƣới đây cho thấy, về những
hình ảnh dâm tục đƣợc phân tích thì chủ yếu xuất hiện ở
http://vnexpress.net, hình ảnh quảng cáo và hình ảnh khiêu dâm cũng xuất
hiện nhiều hơn ở trang báo này.
46
13
2925
15
38
1410
57
81
71 70
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
vnepress thanhnien gioitinhtuôihoa dantri
Dam tuc Quang cao Khieu dam
298
Bảng 1.Hình ảnh về
tình dục trên báo mạng
điện tử
Loai bao mang phan tich
Tæng
vnexpress
.net
thanhnie
n.com.vn
gioitinhtuo
itieen.org.
vn
dantri.co
m
T tëng d©m tôc
Sè lîng 25 2 2 5 34
% 73.5% 5.9% 5.9% 14.7%
100.0
%
Qu¶ng c¸o
Sè lîng 8 6 1 2 17
% 47.1% 35.3% 5.9% 11.8%
100.0
%
Sù khiªu d©m
Sè lîng 31 13 5 14 63
% 49.2% 20.6% 7.9% 22.2%
100.0
%
Trong 100% các hình ảnh về tính dục đƣợc phân tích trên báo mạng
thì hình ảnh dâm tục chiếm 35%. Hình ảnh dâm tục so với các hình khác
về tính dục trong khi phân tích trong tƣơng quan với loại báo mạng phân
tích cho thấy, sự khác biệt về hình này trên các trang báo có ý nghĩa thống
kê với hệ số Chi-Square là 0,05 với trang http://vnexpress.net xuất hiện
hình ảnh này nhiều nhất so với các trang khác trong nghiên cứu, và tƣơng
quan trong chính trang này thì trong 100% các hình ảnh tính dục đƣợc
nghiên cứu chiếm khoảng 46,3% là hình ảnh dâm tục, trong khi
www.thanhnien.com.vn chiếm 12,5% và www.dantri.com.vn chiếm 25%.
Trong 100% số hình ảnh dâm tục đƣợc phân tích trên bốn trang báo thì
hình ảnh này trên http://vnexpress.net cũng chiếm đa số với 73,5% (với
mức ý nghĩa Chi-Square là 0,055).
Về hình ảnh quảng cáo mang tính chất tình dục chiếm số lƣợng nhỏ
nhất trong ba hình ảnh đƣợc phân tích (hình ảnh dâm tục và hình ảnh
khiêu dâm). Số liệu phân tích cho thấy, trong 100% các hình ảnh về tính
dục đƣợc phân tích thì hình ảnh quảng cáo chỉ chiếm 17,5%. Trong phân
tích tƣơng quan giữa từng loại báo và hình ảnh quảng cáo cho thấy, hình
ảnh quảng cáo xuất hiện nhiều hơn ở www.thanhnien.com.vn. Ở trang báo
này, trong 100% hình ảnh tính dục đƣợc phân tích thì hình ảnh quảng cáo
chiếm 37,5% trong khi tƣơng tự nhƣ vậy thì http://vnexpress.net là 14.8%;
299
http://www.gioitinhtuoitieen.org.vn là 14.3% và www.dantri.com.vn chỉ
10%. Điều này vẫn đúng khi trong 100% hình ảnh quảng cáo liên quan
đến tình đƣợc phân tích thì hình ảnh này xuất hiện nhiều trên
http://vnexpress.net với 47.1%; xuất hiện nhiều thứ hai là
www.thanhnien.com.vn với 35.3%.
Trong 100% các hình ảnh tính dục đƣợc phân tích thì hình ảnh
khiêu dâm chiếm tần suất lớn nhất với 65%. Các hình ảnh khiêu dâm xuất
hiện nhiều nhất trên trang www.thanhnien.com.vn với 81% so với các
hình ảnh tính dục khác trên trang này; sau đó là trang
http://www.gioitinhtuoitieen.org.vn; www.dantri.com.vn và trang
http://vnexpress.net. Tuy nhiên, sự khác biệt này không lớn giữa các trang
nhƣng điểm chung là các trang nghiên cứu điều đăng tải nhiều hình ảnh
khiêu dâm.
Hình thức đăng tải
Hình thức đăng tải các hình ảnh tình dục đƣợc phân chia thành đăng
một kỳ và đăng nhiều kỳ. Số liệu phân tích cho thấy, phần lớn những hình
ảnh tình dục đƣợc đăng tải với hình thức một kỳ. Tuy nhiên, hình ảnh
quảng cáo đƣợc đăng nhiều kỳ chiếm tỷ lệ lớn hơn so với các hình ảnh
dâm tục hay khiêu dâm.
Bảng 2. Hình ảnh về tình dục
trên báo mạng điện tử
H×nh thøc ®¨ng t¶i bµi b¸o
Tæng
§¨ng mét kú
§¨ng nhiÒu
kú
T tëng d©m tôc
Sè lîng 29 5 34
% 85.3% 14.7% 100.0%
Qu¶ng c¸o
Sè lîng 12 5 17
% 70.6% 29.4% 100.0%
Sù khiªu d©m
Sè lîng 55 8 63
% 87.3% 12.7% 100.0%
Chuyên mục đăng tải
300
Phân tích chuyên mục đăng tải trong phân tích báo chí cũng là một
chỉ báo quan trọng cho thấy vị trí của các thông điệp theo cách sắp xếp
của nhà truyền thông. Những chuyên mục cơ bản của các trang báo điện tử
thông thƣờng có chuyen mục về chính trị - xã hội, văn hoá - nghệ thuật,
pháp luật, khoa học, sức khoẻ, đời sống, tình yêu, lối sống, nhịp sống trẻ,
thế giới trẻ hay chuyên trang về SKSS/tình dục... Các chuyên mục nhƣ đời
sống, tình yêu, lối sống, nhịp sống trẻ, thế giới trẻ có những nội dung
tƣơng đồng đƣợc phân chia vào thành một nhóm.
Khi phân tích các hình ảnh theo cách phân chia các chuyên mục này
cho thấy, có sự khác biệt đủ ý nghĩa thống kê về sự xuất hiện của các hình
ảnh tình dục trên các chuyên mục khác nhau. Bảng số liệu thống kê dƣới
đây cho thấy, chuyên mục Chính trị - văn hoá hầu nhƣ không có sự xuất
hiện các hình ảnh tình dục trong mẫu phân tích, sau đó là những mục pháp
luật; khoa học, sức khoẻ; chuyên trang về SKSS/tình dục cũng xuất hiện ít
những hình ảnh về tính dục. Các hình ảnh tính dục xuất hiện nhiều hơn
trong chuyên mục đời sống tình yêu, lối sống, nhịp sống trẻ, thế giới trẻ,
trong đó, hình ảnh khiêu dâm xuất hiện nhiều hơn trong trang này. Chuyên
mục xuất hiện nhiều nhất các hình ảnh về tính dục là trang văn hoá - nghệ
thuật với 70,6% tƣ tƣởng dâm tục trong chuyên mục này so với các
chuyên mục khác; 82,5% hình ảnh quảng cáo tình dục so với các chuyên
mục khác và 46% hình ảnh khiêu dâm so với các chuyên mục khác.
Bảng 3. Hình ảnh về tình dục
trên báo mạng điện tử
Chuyªn môc ®¨ng t¶i bµi b¸o
Tæng
ChÝnh trÞ, X·
héi
V¨n ho¸, nghÖ thuËt
Ph¸p luËt
Khoa häc, søc
khoÎ
§êi sèng, t×nh yªu, lèi sèng, nhÞp sèng trÎ,
thÕ giíi trÎ
Chuyªn trang vÒ SKSS/
t×nh dôc
T tëng d©m tôc
Sè lîng 0 26 1 1 5 1 34
% .0% 76.5% 2.9% 2.9% 14.7% 2.9%
100.0%
Qu¶ng c¸o
Sè lîng 0 14 0 0 3 0 17
% .0% 82.4% .0% .0% 17.6% .0%
100.0%
Sù khiªu d©m
Sè lîng 2 29 13 1 15 3 63
% 3.2% 46.0%
20.6%
1.6% 23.8% 4.8% 100.0
%
301
Bảng số liệu trên còn cho thấy, các hình ảnh dâm tục chỉ không xuất
hiện trong trang chính trị - xã hội, còn lại có xuất hiện trên tất cả các
chuyên mục. Tuy nhiên, tần xuất xuất hiện ở các chuyên mục khác nhau.
Các hình ảnh quảng cáo tình dục không xuất hiện ở nhiều chuyên mục hơn
nhƣ chuyên mục chính trị - xã hội, Pháp luật, Khoa học - sức khoẻ, chuyên
trang về SKSS/tình dục mà chủ yếu xuất hiện trong chuyên mục đời sống
tình yêu, lối sống, nhịp sống trẻ, thế giới trẻ (17,6%) và chuyên mục văn
hoá - nghệ thuật (82,4%). Ngƣợc lại, các hình ảnh khiêu dâm xuất hiện
trên tất cả các chuyên mục khác nhau. Nếu chuyên mục Chính trị - xã hội
không xuất hiện hình ảnh dâm tục và quảng cáo tình dục thì vẫn xuất hiện
những hình ảnh khiêu dâm.
Kết quả phân tích số liệu của đề tài còn cho thấy, có sự khác biệt
trong việc các trang Web đăng tải các hình ảnh tình dục trên các chuyên
mục khác nhau là khác nhau. Về các hình ảnh dâm dục xuất hiện trong
mẫu nghiên cứu của trang http://vnexpress.net thì 100% các hình ảnh này
xuất hiện trong chuyên mục văn hoá - nghệ thuật và không hề xuất hiện
trong các chuyên mục còn lại. Trong các trang khác, sự xuất hiện của hình
ảnh dâm tục với số lƣợng không đủ lớn để so sánh nhƣ trang
www.thanhnien.com.vn chỉ xuất hiện trên chuyên mục văn hoá nghệ
thuật, pháp luật còn các chuyên mục khác thì không có những hình ảnh
này; trang http://www.gioitinhtuoitieen.org.vn hình ảnh dâm tục xuất hiện
trên trang đời sống tình yêu, lối sống, nhịp sống trẻ, thế giới trẻ và chuyên
trang về SKSS/tình dục;
Tác giả, nguồn đăng tải
Nếu nội dung về tính dục tổng quát chủ yếu đƣợc trích theo các
nguồn nƣớc ngoài thì các hình ảnh về tình dục trên các trang báo mạng
trong phân tích phần lờn đƣợc trích từ các nguồn báo, tạp chí trong nƣớc.
Tuy nhiên, điều này cũng chƣa cho phép khẳng định là những tác giả của
302
những nguồn trích trong nƣớc này không trích từ các nguồn nƣớc ngoài
khác.
Bảng 4. Hình ảnh về tình dục
trên báo mạng điện tử
Ph©n lo¹i nhãm t¸c gi¶, nguån ®¨ng t¶i bµi b¸o
Tæng
C¸ nh©n b×nh
thêng
TrÝch theo b¸o,
t¹p chÝ níc
ngoµi
TrÝch theo b¸o,
t¹p chÝ trong
níc
T tëng d©m tôc
Sè lîng 2 7 25 34
% 5.9% 20.6% 73.5%
100.0
%
Qu¶ng c¸o
Sè lîng 1 2 14 17
% 5.9% 11.8% 82.4%
100.0
%
Sù khiªu d©m
Sè lîng 10 30 23 63
% 15.9% 47.6% 36.5%
100.0
%
Số liệu bảng trên cho thấy, những bài viết với những hình ảnh dâm
tục và hình ảnh quảng cáo đƣợc đăng tải trên các trang Web trong nghiên
cứu chủ yếu đƣợc trích từ các báo và tạp chí trong nƣớc. Những hình ảnh
khiêu dâm đƣợc trích từ báo và tạp chí nƣớc ngoài nhiều hơn trong nƣớc.
Kết quả nghiên cứu không cho thấy sự khác biệt về thời gian đăng
tải các nội dung này. Trong các tháng từ tháng 4 đến tháng 9, số lƣợng các
bài viết về nội dung này là tƣơng đƣơng nhau. Điều này cho thấy mức độ
ổn định của thông điệp về nội dung này trên các trang Web.
Mục đích đăng tải hình ảnh tình dục
Mục đích của các bài viết đƣợc xem xét dƣới một số khía cạnh cụ
thể nhƣ sau: mục đích thông tin về sự kiện xã hội liên quan đến tình dục;
Chia sẻ thông tin nghiên cứu về tình dục, SKSS, SK TD; Răn đe hành vi
tình dục lệch chuẩn liên quan đến luật pháp; Giáo dục, tƣ vấn về tình dục,
SKSS, SKTD; Không rõ mục đích.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, phần lớn mục đích đăng tải các hình
ảnh tình dục đều là thông tin về sự kiện xã hội liên quan đến tình dục. Tuy
nhiên, một số ít hình ảnh khiêu dâm đƣợc đăng tải với mục đích răn đe
hành vi tình dục lệch chuẩn liên quan đến luật pháp.
303
Bảng 5 ; Mục đích
đăng tải hình ảnh tình
dục
Mục đích đăng tải hình ảnh tình dục
Tổng
Không
rõ mục
đích
Thông tin
về sự kiện
xã hội liên
quan đến
tình dục
Chia sẻ
thông tin
nghiên cứu
về tình dục,
SKSS, SK
TD
Răn đe
hành vi
tình dục
lệch chuẩn
liên quan
đến luật
pháp
Giáo dục,
tƣ vấn về
tình dục,
SKSS,
SKTD
Dâm tục Số lƣợng 1 30 2 0 1 34
% 2.9% 88.2% 5.9% .0% 2.9% 100.0%
Qu¶ng c¸o
Số lƣợng 0 16 0 1 0 17
% .0% 94.1% .0% 5.9% .0% 100.0%
Khiªu d©m
Số lƣợng 0 38 0 13 11 62
% .0% 61.3% .0% 21.0% 17.7% 100.0%
Các hình ảnh tình dục xuất hiện trên các trang báo mạng trong phân
tích không phải để chia sẻ thông tin nghiên cứu về tình dục hoặc giáo dục,
tƣ vấn về tình dục, SKSS, SKTD.
Nhƣ vậy, có thể thấy hoặc là các nghiên cứu về hình ảnh tình dục
không nhiều để có thể chia sẻ trên các trang web hoặc là các kết quả
nghiên cứu về vấn đề này chƣa đƣợc chia sẻ trên các trang web. Bên cạnh
đó, báo mạng tỏ ra có ƣu thế khi chuyển tải các thông tin hình ảnh tình
dục hơn báo hình, báo in và báo phát thanh. Tuy nhiên, ƣu thế này chƣa
đƣợc áp dụng nhiều trong việc đăng tải các hình ảnh tình dục nhằm giáo
dục, tƣ vấn về tình dục, SKSS, SKTD.
Thông qua kết quả phân tích ở trên cho thấy hình ảnh tình dục đƣợc
chuyển tải khá phong phú trên các trang báo mạng. Trong đó, hình ảnh
khiêu dâm đƣợc chuyển tải nhiều nhất.
Trong bốn trang đƣợc phân tích, tƣ tƣởng dâm tục đƣợc đăng tải
nhiều nhất trên trang http://vnexpress.net; các trang còn lại đăng tải tƣ
tƣởng dâm tục với số lƣợng hình ảnh không đáng kể. Thêm vào đó, hình
ảnh quảng cáo liên quan đến tình dục đƣợc đăng tải nhiều trên trang
http://vnexpress.net và trang www.thanhnien.com.vn, ngƣợc lại, hai trang
web còn lại đăng tải về hình ảnh này không đáng kể. Hình ảnh khiêu dâm
đƣợc đăng tải nhiều nhất trên trang http://vnexpress.net, nhiều thứ hai trên
304
trang www.dantri.com.vn và đứng thứ ba là trang www.thanhnien.com.vn,
ngƣợc lại, trang http://www.gioitinhtuoitieen.org.vn đăng tải về hình ảnh
này không nhiều. Nhƣ vậy, hình ảnh tình dục chủ yếu xuất hiện trên các
trang web dành cho ngƣời lớn, thanh niên và những hình ảnh này không
đƣợc đăng tải trên trang dành cho vị thành niên. Điều này cho thấy nhà
truyền thông rất chủ động, thận trọng trong việc lựa chọn các thông điệp
hình ảnh tình dục cho từng đối tƣợng công chúng khác nhau.
Hình ảnh tình dục xuất hiện chủ yếu trên các chuyên mục văn hoá -
nghệ thuật và chuyên mục đời sống – tình yêu - lối sống - nhịp sống trẻ -
thế giới trẻ; các chuyên mục còn lại xuất hiện các hình ảnh tình dục
không đáng kể. Trong đó, các hình ảnh dâm tục không xuất hiện trên các
chuyên mục nhƣ chính trị - xã hội; các hình ảnh này xuất hiện không đáng
kể trên các chuyên mục pháp luật; khoa học - sức khoẻ; chuyên mục đời
sống – tình yêu - lối sống - nhịp sống trẻ - thế giới trẻ; chuyên trang về
SKSS/tình dục; các hình ảnh dâm tục chủ yếu xuất hiện trên chuyên mục
văn hoá - nghệ thuật. Tƣơng tự nhƣ vậy, hình ảnh quảng cáo liên quan đến
tình dục chủ yếu xuất hiện trên chuyên mục văn hoá - nghệ thuật; đời sống
– tình yêu - lối sống - nhịp sống trẻ - thế giới trẻ. Ngƣợc lại, các hình ảnh
này không xuất hiện trên các chuyên mục chính trị - xã hội; pháp luật;
khoa học - sức khoẻ; chuyên trang về SKSS/tình dục. Tuy nhiên, hình ảnh
khiêu dâm xuất hiện trên tất cả các chuyên mục, trong đó, chuyên mục văn
hoá - nghệ thuật; đời sống – tình yêu - lối sống - nhịp sống trẻ - thế giới trẻ
và pháp luật.
Về tác giả và nguồn đăng tải các thông điệp hình ảnh tình dục có sự
khác biệt so với các vấn đề khác trong nghiên cứu, nếu nhiều nội dung
khác chủ yếu đƣợc trích từ các báo, tạp chí nƣớc ngoài thì hình ảnh tình
dục chủ yếu đƣợc trích dẫn từ các báo, tạp chí trong nƣớc
305
QUẢNG CÁO BÁO CHÍ VÀ CÔNG CHÖNG HIỆN NAY
Ths. Nhạc Phan Linh và Lê Thu Hà
(Học viện Báo chí và Tuyên truyền)
Sự phát triển mạnh mẽ của báo chí hiện đại gắn liền với vai trò quan
trọng của quảng cáo (QC). Mở bất kỳ tờ báo nào ngƣời đọc cũng thấy QC,
bất kỳ chƣơng trình truyền hình hẫp dẫn nào cũng có các clip QC chen
vào. Dù muốn hay không thì QC cũng đã trở thành một hiện tƣợng thƣờng
nhật của đời sống xã hội Việt Nam. Hiện tại, cả nƣớc có hơn 3.000 đơn vị
chuyên kinh doanh hoặc có chức năng kinh doanh dịch vụ QC, trong đó có
gần 500 cơ quan báo chí với hơn 600 ấn phẩm báo in, hơn 60 đài phát
thanh - truyền hình 1.
QC trên các phƣơng tiện truyền thông đại chúng (PTTTĐC) giúp
doanh nghiệp, nhà sản xuất tiêu thụ nhanh, nhiều hàng hóa. Đồng thời,
thông tin QC cũng giúp ngƣời tiêu dùng tiết kiệm thời gian, lựa chọn mua
hàng hóa đúng đắn hơn. Một loạt các vấn đề chính trị, xã hội cũng đƣợc
QC chuyển tải đến công chúng, giúp họ có quyết định hợp lý. Vậy, công
chúng đang có sự tiếp cận QC trên các PTTTĐC nhƣ thế nào? Chúng tôi
đã có cuộc khảo sát các nhóm công chúng với 300 phiếu anket ở cả thành
thị và nông thôn.
1. Mục đích tiếp cận QC của công chúng
Giống nhƣ việc tiếp cận các PTTTĐC nói chung, việc tiếp cận QC
trên các PTTTĐC của công chúng cũng bao gồm nhiều mục đích khác
nhau. Kết quả điều tra cho thấy, mục đích tiếp cận QC của công chúng chủ
yếu là để giải trí và tìm kiếm thông tin phục vụ cuộc sống. Tuy nhiên,
những số liệu thu về chiếm tỷ lệ không cao (dƣới 30%) cho thấy việc chủ
1 http://www.vietnamad.com
306
động tiếp cận QC trên các PTTTĐC của công chúng không phải là phổ
biến.
Biểu đồ 1: Mục đích của công chúng khi tiếp cận QC
29,3%26,3%
28,7%
11,7%
0,0%
5,0%
10,0%
15,0%
20,0%
25,0%
30,0%
35,0%
Xem Quảng cáo để
giải trí
Tìm kiếm thông tin để
mua
Xem vì muốn biết
nhiều thứ
Khi không biết phải
làm gì
Thậm chí, việc đón nhận các thông điệp QC trở thành hành động bị
động của cá nhân khi có tới 11,7% mẫu nghiên cứu chấp nhận xem QC khi
không biết phải làm gì.
Trong mối tƣơng quan giữa hai nhóm công chúng nam và nữ, mặc
dù không có sự khác biệt lớn nhƣng mỗi giới cũng cho thấy những mục
đích tiếp cận khác nhau. Nếu nhƣ nam giới có nhu cầu lớn nhất khi theo
dõi QC là vì muốn biết nhiều thứ thì nữ giới lại coi QC là một kênh giải
trí.
Biểu đồ 2: Tương quan mục đích tiếp cận QC và giới tính (%)
24.7
28.6
32.734
24 24.7
11.3
12
0
5
10
15
20
25
30
35
40
Xem QC để giải trí Tìm kiếm thông tin để
mua
Xem vì muốn biết
nhiều thứ
Khi không biết phải
làm gì
Nam
Nữ
307
Ở hai khu vực sống khác nhau, có những sự khác về cách sinh hoạt,
cách sống. Việc tiếp cận QC của công chúng ở hai khu vực này cũng
mang nét đặc thù riêng biệt.
Bảng 1: Tương quan mối trường sống với mục đích tiếp cận QC (%)
Stt Mục đích tiếp cận QC Nông thôn Thành thị
1. Xem QC để giải trí 22 36,7
2. Tìm kiếm thông tin để mua 25,3 27,3
3. Xem vì muốn biết nhiều thứ 35,3 22
4. Khi không biết phải làm gì 10,7 12,7
Công chúng ở nông thôn chủ yếu xem QC vì muốn biết nhiều thứ
(35,3%). Còn ở thành thị chủ yếu xem QC để giải trí (36,7%). Kết quả này
phần nào thể hiện đƣợc sự khác biệt trong cuộc sống của hai khu vực.
Thành thị có nhiều thuận lợi hơn so với nông thôn trong việc tiếp cận các
thông tin. Điều đó phần nào đƣợc thể hiện qua mục đích tiếp cận QC.
Nhƣ vậy, cho dù có sự khác nhau về giới tính, độ tuổi, môi trƣờng
sống nhƣng công chúng đều có những mục đích tiếp cận QC trên
PTTTĐC phù hợp với giới tính, độ tuổi, môi trƣờng sống của mình.
2. Mức độ tiếp cận QC của công chúng
Kết quả khảo sát cho thấy công chúng bắt gặp QC xuất hiện trên các
PTTTĐC với nhiều mức độ khác nhau.
Bảng 2: Mức độ công chúng tiếp cận QC trên các PTTTĐC (%)
Stt Phƣơng tiện Xuất hiện QC
Chưa bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên
1. Báo/ Tạp chí 12,3 8,7 33 46
2. Tivi 0 3,3 12 84,7
3. Radio 17,7 28,7 29,7 24
4. Internet 35,7 14,7 15,3 34,3
Căn cứ vào bảng số liệu trên, ta thấy rằng, ngƣời xem truyền hình sẽ
có cơ hội tiếp cận với các QC nhiều nhất so với ba loại hình truyền thông
còn lại. Có tới 84,7% số ngƣời đƣợc hỏi cho biết bắt gặp các QC trên tivi
308
ở mức độ thường xuyên. Trong khi đó, các loại báo in và tạp chí vốn khá
quen thuộc và thuận tiện trong đời sống hàng ngày lại không có đƣợc vai
trò nhƣ vậy. Điều đó xuất phát từ khả năng hấp dẫn lớn của truyền hình –
một loại hình truyền thông đại chúng ảnh hƣởng mạnh mẽ tới công chúng.
Bên cạnh đó, Internet mặc dù là một hình thức thông tin hiện đại ngày
càng phổ biến nhƣng lại có tới 35,7% số ngƣời đƣợc hỏi cho biết chƣa
từng tiếp cận với QC thông qua phƣơng tiện này. Trong các nhóm công
chúng, thanh niên có mức độ thƣờng xuyên tiếp cận các QC trên các
PTTTĐC nhiều nhất: thường xuyên bắt gặp QC trên Báo/ tạp chí là 69%;
Tivi là 84%; Radio là 37% và Internet là 62%. Nhóm đối tƣợng Trung
niên có mức độ tiếp cận thấp nhất: thỉnh thoảng bắt gặp QC trên Báo/ Tạp
chí 34%; chưa bao giờ trên Radio là 30% và Internet là 50%.
Mức độ bắt gặp QC trên các PTTTĐC giữa các nhóm công chúng
chia theo môi trƣờng sống có sự chênh lệch khá lớn. Tỷ lệ ngƣời ở thành
thị thường xuyên tiếp cận QC trên tất cả các PTTTĐC đƣợc đƣa ra đều cao
hơn so với ở nông thôn, đặc biệt là qua Báo/ tạp chí và Internet.
Biểu đồ 3: Tương quan giữa việc tiếp cận thường xuyên
với QC báo chí và môi trường sống
90
50
130124
41
31
75
28
0
20
40
60
80
100
120
140
Báo/ Tạp chí Tivi Radio Internet
Thành Thị
Nông thôn
* Thời gian lâu nhất theo dõi một QC
Một chỉ báo nữa đƣợc sử dụng để tìm hiểu về mức độ tiếp cận của
công chúng đối với QC báo chí là việc chủ động theo dõi một QC. Kết quả
điều tra anket cho thấy chủ yếu công chúng quan tâm theo dõi QC nào đó
309
trong khoảng 1 tuần (60,7%). Tuy nhiên, cũng có những QC đƣợc công
chúng quan tâm theo dõi từ 1 năm trở lên (12,6%).
Biểu đồ 4: Thời gian lâu nhất theo dõi một QC báo chí
1 tuần,
60.70%1 tháng, 16%
6 tháng, 2%
3 tháng,
8.70%
1 năm, 4.30%
Hơn 1 năm,
8.30%
Nhƣ vậy, cho dù có sự khác nhau về giới tính, độ tuổi, môi trƣờng
sống nhƣng công chúng đều có sự tiếp cận QC thông qua các PTTTĐC
phổ biến. Tuy nhiên, mức độ tiếp cận giữa các nhóm đối tƣợng có sự khác
biệt nhất định, chủ yếu từ khác biệt về độ tuổi và môi trƣờng sống.
3. Thái độ tiếp nhận QC của công chúng
Để đánh giá thái độ của ngƣời xem đối với QC trên các PTTĐC,
phản ứng thƣờng thấy của cá nhân đƣợc coi là một chỉ báo quan trọng để
xem xét. Kết quả thu về đƣợc biểu thị dƣới bảng sau:
Bảng 3: Phản ứng của công chúng khi gặp QC trên các PTTTĐC (%)
Stt Phƣơng tiện Phản ứng cá nhân
Bỏ qua Xem
lướt
Thấy QC nào
bắt mắt thì
theo dõi
Chủ động
tìm nội
dung QC ưa
thích
Chăm chú
theo dõi tất
cả
1. Báo/ Tạp chí 18,3 10,0 23,3 9,7 8,7
2. Tivi 7,0 16,7 48,3 9,0 19,0
3. Radio 51,7 30,0 9,0 4,3 5,0
4. Internet 43,3 23,3 14,7 15,3 3,3
310
Nhƣ vậy, sự chủ động theo dõi QC hầu nhƣ không đáng kể, chủ yếu
là xem lướt hoặc thấy QC nào bắt mắt thì theo dõi. Thậm chí, với một loại
hình truyền thông ngày càng phổ biến nhƣ Internet, số ngƣời bỏ qua,
không cần quan tâm đến QC cũng lên tới 43,3%. Sự tích cực đáng kể nhất
về thái độ mà công chúng dành cho QC đƣợc thể hiện chủ yếu thông qua
truyền hình, đạt tỷ lệ 28%. Trong đó, có tới 19,0% mẫu nghiên cứu sẵn
sàng chấp nhận xem toàn bộ các QC trên Tivi. Điều này tƣơng đối dễ hiểu
bởi lợi thế về hình ảnh và âm thanh của truyền hình so với các PTTTĐC
khác.
Bổ sung cho thái độ thờ ơ của công chúng dành cho QC, kết quả
khảo sát cho thấy có tới 37,7% ngƣời đƣợc hỏi cho biết bị miễn cƣỡng
xem QC vì xen giữa các chƣơng trình họ đang theo dõi. Một chỉ báo khác
cũng thể hiện sự thiếu quan tâm của cá nhân tới các QC báo chí là có tới
12,7% ngƣời đƣợc hỏi cho biết không thích bất kỳ kênh QC nào.
Nhƣ vậy, QC trên các PTTĐC chƣa thực sự thu hút đƣợc sự quan
tâm của ngƣời tiếp nhận một cách chủ động và linh hoạt.
4. Thị hiếu về QC báo chí của công chúng
Với thái độ và mức độ tiếp cận QC nhƣ đã phân tích ở trên, câu hỏi
đặt ra là: phải chăng công chúng không có nhu cầu về QC trên các
PTTTĐC? Việc tìm hiểu thị hiếu QC của công chúng sẽ giúp ta giải đáp
câu hỏi này.
* Nội dung QC thu hút sự quan tâm của công chúng:
Trong các lĩnh vực đƣợc đƣa ra nhằm tìm hiểu nhu cầu về thông tin
QC trên các PTTTĐC của công chúng, nội dung QC có tỷ lệ đƣợc tiếp cận
nhiều nhất là lĩnh vực Lương thực - thực phẩm - ẩm thực (40,7%).
Với vai trò là ngƣời nội trợ chính trong gia đình, 51,3% nữ giới
trong mẫu nghiên cứu cho thấy sự quan tâm đối với các QC có nội dung
về vấn đề này. Xét theo độ tuổi, những ngƣời thuộc lứa tuổi trung niên,
ngƣời cao tuổi cũng thƣờng tiếp cận những nội dung QC liên quan đến
Lương thực - thực phẩm - ẩm thực (41% trung niên; 56% ngƣời cao tuổi).
311
Vì đây là lứa tuổi đã có gia đình, nên sự chú ý của họ về vấn đề này là
điều dễ hiểu. Trong khi đó, thanh niên lại dành sự quan tâm nhiều đến thời
trang - mỹ phẩm (41%).
Bảng 4: Nội dung QC được công chúng quan tâm (%)
Stt Những nội dung QC đƣợc quan tâm Giới tính
Tỷ lệ chung Nam Nữ
1. Lƣơng thực - thực phẩm - ẩm thực 45 77 40.7%
2. Giáo dục – đào tạo 37 30 22.3%
3. Thời trang - mỹ phẩm 19 44 21%
4. Giải trí 38 22 20%
5. Dƣợc phẩm 18 34 17.3%
6. Xây dựng - kiến trúc - nội thất 35 10 15%
7. Phƣơng tiện giao thông 19 21 13.3%
8. Công nghệ - bƣu chính – viễn thông 30 8 12.7%
9. Du lịch 10 19 9.7%
10. Môi trƣờng 9 17 8.7%
11. Đầu tƣ – tài chính 10 13 7.7%
12. Dịch vụ - cung ứng 13 8 7%
13. Nông – lâm - thủy sản 8 6 4.7%
14. Công nghiệp – năng lƣợng 7 2 3%
15. Tƣ vấn – môi giới 3 4 2.3%
Bên cạnh những lĩnh vực mà các QC đề cập, một mối quan tâm
nữa của ngƣời tiêu dùng khi theo dõi QC là các thông tin liên quan trực
tiếp đến sản phẩm đƣợc QC.
Do sự khác biệt về mặt giới tính nên hình thức tiếp cận các thông
tin về sản phẩm đƣợc QC là không giống nhau. Nam giới quan tâm nhất
tới giá sản phẩm (51,3%). Trong khi đó, nữ giới quan tâm nhất tới hạn sử
dụng (57,3%).
* Thị hiếu về hình thức QC:
312
Tỷ lệ dành cho những lý do thích xem QC của công chúng cũng gần
nhau. 35% vì hình thức thể hiện hấp dẫn; 33,7% do thuận tiện cho người
theo dõi; 30,3% vì dễ nắm bắt thông tin sản phẩm. Chỉ có 9,3% ý kiến cho
là mang lại cảm giác yên tâm đối với mặt hàng QC.
Biểu đồ 5: Mức độ rất quan tâm của công chúng về sản phẩm QC (%)
54
52
50.7
42
41.7
40.3
40.3
0 10 20 30 40 50 60
Giá sản phẩm
Hạn sử dụng
Công dụng s/p
Nhà sản xuất
Nhãn hiệu sản phẩm
Hướng dẫn sử dụng
Thông tin khuyến mãi
Với những hình thức xuất hiện khác nhau, QC giành đƣợc sự thiện
cảm của công chúng cũng khác nhau (Biểu đồ 6). Công chúng dành nhiều
thiện cảm nhất đối với hình thức QC đơn giản, đi ngay vào nội dung cần
giới thiệu (44,3%). Điều đó thể hiện đƣợc QC càng đơn giản, giới thiệu
đƣợc ngay những thông tin sản phẩm QC sẽ thu hút đƣợc sự chú ý theo
dõi của công chúng.
Biểu đồ 6: Hình thức QC giành được sự thiện cảm (%)
44.3
29.527.5
23.5
11.49.1
8.3 7.7
2
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
Đơn
giản, đi
ngay
vào nội
dung
Sôi
động,
náo
nhiệt
Hài
hước
Màu
sắc,
sặc sỡ
Xuất
hiện
của
người
nổi
tiếng
Xuất
hiện
của trẻ
em
Xuất
hiện
của
động
vật
Độc
đáo,
sáng
tạo
Trừu
tượng,
khó
hiểu
313
Bên cạnh đó, có những hình thức QC gây mất thiện cảm nhƣ: QC
xuất hiện quá nhiều cùng một thời điểm; quá khoa trương; kém chuyên
nghiệp/ không hiện đại; khó hiểu, trừu tượng; mang tính gợi tình/ sexy;
mang tính bạo lực... Việc quá nhiều QC xuất hiện cùng một thời điểm gây
công chúng mất thiện cảm nhất (52,3%).
Biểu đồ 7: Đánh giá về hình thức QC gây mất thiện cảm (%)
0
10
20
30
40
50
60
Series1 52.3 35.3 25.7 25.7 24 22 3.3
Quá
nhiều QC
xuất hiện
Quá khoa
trương
Kém
chuyên
nghiệp/
Khó hiểu/
trừu
tượng
Mang tính
bạo lực
Mang tính
gợi tình/
Sexy
Không
yếu tố
nào
*
Nhƣ vậy, với mỗi đối tƣợng công chúng khác nhau, sẽ có những
cách tiếp cận các vấn đề của QC theo các cách khác nhau. Ngƣời già
thƣờng có thời gian rảnh rỗi, họ theo dõi và đánh giá nhận xét dựa trên các
chuẩn mực đạo đức theo thế hệ đi trƣớc để lại nên cái nhìn có thể hơi khắt
khe. Ngƣời trung niên chủ yếu cần tới QC nhƣ một sự phục vụ tích cực
cho việc mua sắm trong gia đình, nên họ theo dõi QC có tính chủ đích
hơn. Lớp thanh niên coi QC mang tính tự phát, họ xem song thậm chí
không để tâm nhiều lắm vì ngân quỹ chi tiêu cho những sản phẩm mà họ
thích theo QC không nhiều. Khi nào có nhu cầu về sản phẩm nào đó cụ
thể, họ mới chủ động tìm kiếm thông tin về sản phẩm đó. Cuối cùng là trẻ
nhỏ, đối tƣợng xem QC đƣợc gọi là vô thức. Chúng thích xem tất cả các
QC dù chúng không thể hiểu đƣợc tất cả các QC đó.
Từ đó có thể thấy rằng, vấn đề đối tượng hóa công chúng xã hội
trong QC là hết sức cần thiết. Ngƣời làm công tác QC phải hiểu công
314
chúng, nắm rõ đƣợc những đặc điểm, nhu cầu, mong muốn của của từng
đối tƣợng công chúng. Nội dung và hình thức QC đều phải đáp ứng đƣợc
nhu cầu, sở thích và mong muốn đó. Việc định vị rõ đối tƣợng công chúng
sẽ giúp các PTTTĐC thu hút đƣợc nhiều khách hàng QC. Đồng thời, số
lƣợng cũng nhƣ đối tƣợng công chúng sẽ quyết định đƣợc giá quảng cáo,
dẫn đến tăng doanh thu – từ đó trở lại nâng cao chất lƣợng sản phẩm.
315
TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA QUẢNG CÁO BÁO CHÍ
ĐẾN YẾU TỐ KINH TẾ CỦA CÔNG CHÖNG HIỆN NAY
Ths. Nhạc Phan Linh - Lê Thu Hà
Quảng cáo (QC) là một hoạt động không thể thiếu trong sự vận
động và phát triển trong nền kinh tế hàng hóa ở nƣớc ta. Đặc biệt hiện
nay, QC trên báo chí trở thành một yếu tố tất yếu. Theo số liệu của Hiệp
hội QC Việt Nam, doanh thu QC đang đạt tốc độ tăng trƣởng chóng mặt,
từ 300 tỷ đồng năm 1994 lên gần 7.000 tỷ đồng năm 2004. Kết quả khảo
sát từ Ad age report 2004 cho thấy, mỗi năm, giá trị thị trƣờng QC truyền
thông (lĩnh vực QC mạnh nhất) trong nƣớc khoảng 200 triệu USD. Theo
tính toán, mỗi năm lĩnh vực này sẽ tăng trƣởng từ 30% - 40%. Năm 2006,
QC trên các phƣơng tiện truyền thông đại chúng (PTTTĐC) mang lại
nguồn thu gần 6.000 tỉ đồng. Dự kiến tới 2020, doanh thu QC Việt Nam
có thể đạt 24.000 tỷ đồng.1
Với mức độ tiếp cận thƣờng xuyên với QC trên các PTTTĐC hiện
nay, bên cạnh những ảnh hƣởng tích cực, công chúng đang chịu những tác
động tiêu cực không nhỏ từ QC. Trong các yếu tố cá nhân bị ảnh hƣởng,
yếu tố kinh tế bị tác động trên nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau. Việc
hình thành thói quen tiêu dùng, hay lối sống hƣởng thụ, xét cho cùng, đều
dẫn tới những thiệt hại đáng kể về kinh tế cho công chúng. Mua nhiều,
mua thƣờng xuyên, mua về xong không dùng tới, tích cực mua hàng hóa
đến mức mất khả năng thanh toán v.v... là một trong những minh chứng
tiêu biểu mà ngƣời tiêu dùng hay gặp phải do chịu sự tác động của QC
trên các PTTTĐC.
1 http://www.vietnamad.com
316
1. Tốn tiền mua sản phẩm/ dịch vụ không cần thiết
Có 17% số ngƣời đƣợc hỏi đã từng quyết định lựa chọn một địa
điểm vui chơi sau khi theo dõi một QC tỏ thái độ không hài lòng do đã
phải bỏ một khoản chi phí nhƣng chất lƣợng dịch vụ lại không nhƣ giới
thiệu QC.
Với câu hỏi “Có bao giờ việc mua một sản phẩm QC khiến bạn rơi
vào hoàn cảnh mua xong về chẳng dùng tới?”, có tới 25,3% mẫu nghiên
cứu cho biết họ đã từng rơi vào hoàn cảnh đó do chất lƣợng hoặc mẫu mã
sản phẩm không giống nhƣ trong QC.
- Chất lượng của nó làm cho mình cảm thấy không hài lòng. Nhiều
cái mua về chưa gì nó đã hỏng hoặc là dùng nó kém hơn như trên QC…
Nhiều cái mua về nhưng không dùng đến, hoặc chán luôn vì thấy nó không
đẹp như trên QC. (Nữ, 20 tuổi, sinh viên)
- Có những cái trên QC có thiết kế cũng như công suất khác với khi
về lắp ráp hay sử dụng. (Nam, 50 tuổi, viên chức nhà nƣớc)
Do là đối tƣợng tích cực mua hàng QC nhiều hơn nên nữ giới cũng
chính là nhóm công chúng cảm nhận về sự phung phí bởi những hàng hóa
vô ích rõ hơn nam giới (31,3% so với 19,3%) (chi tiết bảng 1).
Bảng 1: Tương quan giữa
việc mua một sản phẩm QC xong về chẳng dùng tới với giới tính (%) Giới tính
Nam Nữ Tổng
Có 19,3 31,3 25,3
Không 80,7 68,7 74,7
Tổng 100 100 100
Cùng xét hoàn cảnh này nhƣng so sánh giữa các nhóm theo môi
trƣờng sống, ta cũng thấy một sự chênh lệch rất đáng kể. Ở thành phố, có
tới 40,7% số ngƣời trả lời đã từng rơi vào trƣờng hợp mua một sản phẩm
QC về chẳng dùng tới, trong khi ở nông thôn, chỉ có 10% trả lời nhƣ vậy.
317
Bảng 2: Tương quan giữa việc mua một sản phẩm QC xong
về chẳng dùng tới với môi trường sống (%)
Mua một sản phẩm QC
xong về chẳng dùng tới
Môi trƣờng sống chủ yếu
Nông thôn Thành thị Tổng
Có 10 40,7 25,3
Không 90 59,3 74,7
Tổng 100 100 100
Có thể lý giải điều này là ngoài khả năng tiếp cận QC thấp hơn,
mức thu nhập của ngƣời dân ở nông thôn cũng thấp hơn so với ở thành
phố. Do đó, việc quyết định mua một sản phẩm QC nào đó của ngƣời dân
nông thôn sẽ đƣợc tính toán kỹ lƣỡng hơn. Mối liên quan giữa mức thu
nhập với các quyết định mua sản phẩm QC giữa các nhóm công chúng
đƣợc làm rõ hơn trong bảng 3 dƣới đây.
Bảng 3: Tương quan giữa việc mua một sản phẩm QC xong
về chẳng dùng tới với mức thu nhập (%)
Thu nhập/ Tháng Mua một sản phẩm QC
xong về chẳng dùng tới Tổng
Có Không
Phụ thuộc hoàn toàn 26.6 73.4 100
Dưới 1 triệu VND 4.3 95.7 100
Từ 1 - 3 triệu 32.3 67.7 100
Từ 3 - 5 triệu 37.1 62.9 100
Trên 5 triệu 41.2 58.8 100
Tổng 25.3 74.7 100
Bảng số liệu trên cho thấy càng có mức thu nhập cao, ngƣời ta càng
chi tiêu nhiều cho các sản phẩm đƣợc QC trên các PTTTĐC mà ít quan
tâm đến hiệu quả sử dụng. Sự lãng phí về kinh tế còn thể hiện rất rõ với
trƣờng hợp là học sinh, sinh viên chƣa có thu nhập, đang phụ thuộc vào
gia đình.
318
2. Mua sản phẩm QC khiến hết tiền chi tiêu, phải vay nợ
So với việc mua một sản phẩm QC về chẳng dùng tới, có ít ngƣời
rơi vào hoàn cảnh mua một sản phẩm QC khiến hết tiền chi tiêu hơn. Tuy
nhiên, cũng có 5% trong số 300 ngƣời đƣợc hỏi rơi vào hoàn cảnh này. Về
độ tuổi, thanh niên có 9%, nhóm ngƣời cao tuổi có 6%. Do thu nhập của
ngƣời trung niên thƣờng là thu nhập chính trong gia đình, việc chi tiêu chủ
yếu cũng do họ quản lý, họ luôn hạn chế việc làm cho tiền chi tiêu trong
gia đình trở nên cạn kiệt, nên việc mua một sản phẩm QC làm hết tiền chi
tiêu ở nhóm tuổi này không xảy ra.
Bảng 4: Tương quan giữa
việc mua một sản phẩm QC làm hết tiền chi tiêu với độ tuổi (%) Mua một sản phẩm
QC làm hết tiền chi
tiêu
Độ tuổi
Thanh niên Trung niên Ngƣời cao
tuổi
Tổng
Có 9 0 6 5
Không 91 100 94 95
Tổng 100 100 100 100
Bên cạnh đó, cũng còn một số ít ngƣời (1,3%) cho biết họ từng rơi
vào hoàn cảnh phải vay nợ do mua sắm theo QC. Điều này có thể dẫn đến
những ảnh hƣởng không nhỏ tới đời sống của công chúng.
Nhƣ vậy, bƣớc đầu, ta có thể thấy rằng QC báo chí gây ra một sự
lãng phí rất lớn về kinh tế cho các nhóm công chúng.
*
Có thể nói, QC là yêu cầu tất yếu trong nền kinh tế thị trƣờng. Vấn
đề là cần phải quản lý nhƣ thế nào để hạn chế những ảnh hƣởng tiêu cực
của nó. Hiện nay, chúng ta phải nhanh chóng bổ sung, hoàn thiện hành
lang pháp lý để điều chỉnh sự phát triển của báo chí phù hợp nhằm phục
vụ đắc lực những mục tiêu phát triển đất nƣớc. Các cơ quan quản lý nhà
nƣớc cần tăng cường vai trò quản lý, giám sát các hoạt động QC, bảo vệ
quyền lợi ngƣời tiêu dùng, giảm thiểu những ảnh hƣởng tiêu cực của QC.
Hiệp hội QC Việt Nam cho rằng: "Nhìn toàn cục, chúng ta chưa có
chiến lược, quy hoạch phát triển QC cho cả nước" [2]. Với nhiều bất cập
319
còn tồn tại, ngành QC Việt Nam muốn thực sự lớn mạnh nhất thiết phải
đƣợc quy hoạch một cách khoa học ở tầm vĩ mô và trong từng doanh
nghiệp, từng cơ quan báo chí. Việc xây dựng một quy hoạch ít nhất đến
năm 2020 là một yêu cầu cấp bách để tiến tới xây dựng ngành QC Việt
Nam nói chung và QC trên các PTTTĐC nói riêng ngày càng phát triển cả
về chiều rộng và chiều sâu.
320
HÌNH ẢNH NAM GIỚI TRÊN TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÖNG, SỰ
KỲ VỌNG CỦA XÃ HỘI VỀ VAI TRÕ NAM GIỚI VÀ MỐI QUAN
HỆ CỦA CHÖNG VỚI HÀNH VI SỨC KHỎE CỦA NAM GIỚI
Th.s Dương Thị Thu Hương
2. Giới thiệu:
Qua các nghiên cứu về sức khỏe, có một phát hiện đƣợc đƣa ra liên
quan đến nam giới và nữ giới đó là phụ nữ thƣờng hay ốm đau hơn nam
giới nhƣng tuổi thọ của họ lại cao hơn so với nam giới. Quy luật này
giƣờng nhƣ mang tính phổ biến ở hầu hết các quốc gia (bao gồm cả nƣớc
phát triển và nƣớc đang phát triển). Bên cạnh đó, một số những phát hiện
khác liên quan đến sức khỏe cũng đang thu hút đƣợc sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu nhƣ: phụ nữ thƣờng sử dụng nhiều dịch vụ khám chữa
bệnh hơn, sử dụng nhiều các loại thuốc truyền thống (đông y), thuốc bổ,
thuốc an thần, trong khi đó nam giới lại ít sử dụng các dịch vụ y tế, ít sử
dụng thuốc bổ và thuốc an thần. Đặc biệt, nếu so sánh tỉ lệ tự tử giữa nam
và nữ, thì thông thƣờng tỉ lệ nam bao giờ cũng cao hơn tỉ lệ nữ ở hầu hết
các độ tuổi.
Có rất nhiều lý do dẫn đến sự khác biệt về hành vi liên quan đến sức
khỏe giữa nam và nữ. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến hƣớng tiếp
cận từ ảnh hƣởng của truyền thông đại chúng trong việc tạo dựng hình ảnh
nam giới thông qua các thông điệp truyền thông, tác động của chúng đến
sự kỳ vọng của xã hội đối với nam giới và mối quan hệ của nó với các
hành vi liên quan đến sức khỏe.
321
3. Hình ảnh nam giới trên truyền thông đại chúng, sự kỳ vọng xã hội
về vai trò nam giới và mối quan hệ với hành vi liên quan đến sức
khỏe của nam giới
Với sự phát triển của công nghệ và nhu cầu của xã hội, truyền thông
đại chúng ngày càng xâm lấn sâu vào đời sống xã hội và trở thành một
phần không thể thiếu trong đời sống thƣờng ngày của hầu hết các xã hội.
Bên cạnh vai trò cơ bản nhất là cung cấp thông tin, thực hiện chức năng
giải trí, truyền thông còn tác động đến sự thay đổi văn hóa, thực hiện chức
năng xã hội hóa… Một cách có chủ định hay vô tình, truyền thông còn
góp phần tạo dựng hình ảnh, khuôn mẫu các nhân vật trong xã hội trong
đó có khuôn mẫu về giới và hình ảnh nam giới.
Khuôn mẫu về giới, trong đó có hình ảnh nam giới đƣợc tạo dựng
chủ yếu thông qua các nhân vật đƣợc sử dụng trên truyền thông, ví dụ nhƣ
nhân vật của truyền hình: (trên phim truyện, nhân vật các phóng sự, ngƣời
dẫn chƣơng trình, nhân vật của các quảng cáo) nhân vật trên báo in, phát
thanh, internet … Khuôn mẫu giới và hình ảnh nam giới đƣợc tạo dựng
không chỉ thông qua các thông điệp bằng lời nói mà còn đƣợc nhấn mạnh
và củng cố thông qua các hình ảnh nam giới đƣợc sử dụng trên truyền
thông đại chúng.
Những nhân vật trên truyền thông mà nam giới thƣờng đảm nhiệm
thông thƣờng là những nhân vật chính. Trong các bộ phim, phóng sự
truyền hình, nam giới thƣờng đóng vai là trụ cột gia đình, ngƣời kiếm tiền
chính, giám đốc, trƣởng phòng, ngƣời phụ trách. Nghề nghiệp họ đảm
nhận thông thƣờng là những nghề trọng trách của xã hội nhƣ kỹ sƣ, doanh
nhân, bác sỹ, trong khi đó nữ giới thƣờng đóng vai là những ngƣời nội trợ,
322
nhân viên, hay nghề nghiệp họ đảm nhận thƣờng là nhân viên văn phòng,
nhân viên chăm sóc khách hàng, y tá, làm dịch vụ vệ sinh hay dịch vụ
chăm sóc sắc đẹp. Ví dụ nhƣ nghiên cứu các chƣơng trình trên Đài truyền
hình Việt Nam (VTV) do CSAGA và Oxfam Anh khảo sát cho thấy trong
các chƣơng trình khách mời, khách mời là nam giới thƣờng chiếm đa số.
Định kiến giới còn thể hiện rõ qua sự bình luận của ngƣời dẫn chƣơng
trình, biên tập viên. Ví dụ, khi phỏng vấn một ngƣời làm tin học là nữ,
ngƣời dẫn chƣơng trình hỏi: tham gia trong lĩnh vực của nam giới, chị có
gặp đƣợc nhiều thành công không. Bằng cách hỏi nhƣ vậy, ngƣời dẫn
chƣơng trình đã mặc nhiên cho rằng đây là lĩnh vực thuộc về nam giới và
nam giới dễ có đƣợc thành công hơn nữ giới. Với rất nhiều lĩnh vực, hoàn
toàn nhân vật có thể là nữ giới, nhƣng hình ảnh nam giới vẫn đƣợc sử
dụng phổ biến hơn. Ví dụ trong các chƣơng trình có khách mời đƣợc
nghiên cứu ở VTV, nữ giới làm khách mời chỉ chiếm 39%. ở một số
chƣơng trình khách mời nam giới gần nhƣ chiếm 100% nhƣ “Sự kiện bình
luận”.
Khuôn mẫu giới còn thể hiện ngay trong việc tổ chức chƣơng trình
của nhà đài. Trong 80 chƣơng trình VTV đƣợc sử dụng cho nghiên cứu,
nữ giới chỉ đảm nhiệm việc biên tập và dẫn các chƣơng trình liên quan đến
chủ đề sinh hoạt thƣờng ngày hoặc giải trí nhẹ nhàng. Tỉ lệ nữ giới làm
ngƣời dẫn chƣơng trình chỉ chiếm 8,75%, còn chƣơng trình thể thao, trên
90% ngƣời dẫn chƣơng trình và bình luận viên là nam giới. Trên các loại
hình báo khác, hình ảnh nam giới cũng thƣờng đƣợc sử dụng phổ biến hơn
so với nữ giới và họ cũng thƣờng đóng những vai trò quan trọng trong các
sản phẩm truyền thông.
323
Bên cạnh các thông điệp bằng ngôn ngữ (trực tiếp hoặc gián tiếp),
truyền thông còn góp phần củng cố và tạo dựng hình ảnh nam giới thông
qua các hình ảnh nam giới mà họ sử dụng trên truyền thông. Hình ảnh
nam giới có thể là các nhân vật mà họ lựa chọn ghi hình hay chụp ảnh
trong các sản phẩm truyền thông. Ấn tƣợng qua các clips hay bức ảnh nam
giới trên truyền thông thông thƣờng là những ngƣời có thân hình cƣờng
tráng, khỏe mạnh và đầy chất nam tính. Hình ảnh nam giới này đƣợc phát
huy triệt để trong các bức ảnh hay clips quảng cáo. Hình ảnh của họ cũng
đƣợc sử dụng vào quảng cáo các dòng sản phẩm nhất định nhƣ động cơ ô
tô, xe máy, dầu nhớt … những dòng sản phẩm gắn liền với biểu tƣợng về
sức mạnh, sự dẻo dai.
Nhƣ vậy truyền thông đã vô tình tạo nên những khuôn mẫu về sự
khác biệt giới: khác biệt về vai trò và phẩm chất giữa nam giới và nữ giới.
Mặt tiêu cực của việc tạo dựng những khuôn mẫu giới này là tạo ra những
sự hiểu và nhìn nhận lệch lạc đối với vai trò nữ giới trong xã hội, khiến
phụ nữ gặp không ít rào cản trong quá trình khẳng định vai trò và vị trí của
mình trong xã hội. Bên cạnh đó, nam giới cũng không phải là không phải
đối mặt với những sức ép và kỳ vọng xã hội đối với vai trò của họ trong
gia đình và xã hội. Một cách tự nhiên, truyền thông đã góp phần tạo dựng
nên biểu tƣợng về ngƣời đàn ông trong xã hội, tạo dựng, củng cố và duy
trì giá trị xã hội về hình mẫu ngƣời đàn ông là ngƣời trụ cột gia đình,
thành công trong sự nghiệp, kiếm tiền chính, khỏe mạnh, độc lập, quyết
đoán. Chính áp lực từ sự kỳ vọng này ảnh hƣởng không ít đến thái độ,
hành vi của nam giới trong xã hội mà một trong số đó là nhóm hành vi
liên quan đến sức khỏe.
324
Nhƣ đã đƣợc nhắc đến trong phần mở đầu, có một nghịch lý là phụ
nữ thƣờng ốm đau và sử dụng nhiều thuốc cũng nhƣ sử dụng nhiều các
dịch vụ y tế hơn nam giới, trong khi đó ở hầu hết các quốc gia, nam giới
thƣờng có tuổi thọ ngắn hơn nhiều (thƣờng là 5 năm) so với nữ giới. Thực
tế qua các nghiên cứu cho thấy nam giới thƣờng không để ý đến những
biểu hiện sức khỏe của bản thân và thƣờng trì hoãn việc thăm khám bệnh.
Họ thƣờng chỉ tìm đến các cơ sở y tế hay những lời khuyên của bác sỹ khi
những biểu hiện bệnh tật thật rõ rệt hay khi đã gặp tình trạng nguy kịch.
Một trong những lý do giải thích cho hành vi mang tính chất rủi ro này
của họ bắt nguồn từ chính kỳ vọng xã hội (mà thể hiện một phần qua sự
tạo dựng hình ảnh của truyền thông đại chúng) về một mẫu hình đàn ông
khỏe mạnh (không có bệnh tật) để có thể trở thành ngƣời trụ cột, ngƣời
đóng các vai trò chính trong gia đình và xã hội. Vì vậy mà đàn ông thƣờng
không muốn thừa nhận, chấp nhận và không muốn ngƣời khác biết là
mình mang bệnh, mình có vấn đề về sức khỏe. Đây cũng là một trong các
lý do khiến họ thƣờng cố tình che dấu tình trạng sức khỏe hoặc coi thƣờng
bệnh tật, dẫn đến việc trì hoãn thăm khám hay chữa trị bệnh tật kịp thời.
Sự kỳ vọng, vai trò và khuôn mẫu giới cũng ảnh hƣởng đến hành vi
tự tử hay tìm đến cái chết tự nguyện của nam giới. Phụ nữ thƣờng hay gặp
phải những vấn đề căng thẳng thần kinh, trầm cảm hơn so với nam giới
nhƣng tỉ lệ tự tử thông thƣờng ở nam giới luôn cao hơn hẳn so với phụ nữ,
thậm chí ở một số quốc gia nhƣ Mỹ, Öc, tỉ lệ nam thƣờng cao gấp đôi so
với nữ. Khi đi tìm hiểu nguyên nhân cho vấn đề này, ngƣời ta phát hiện ra
rằng nam giới thƣờng khó chấp nhận sự thất bại trong sự nghiệp và cuộc
sống hơn nữ giới, và do đặc tính nam tính, họ cũng không sẵn sàng chia sẻ
325
những căng thẳng, những vấn đề mà họ gặp phải với những ngƣời thân mà
thƣờng họ tự chịu đựng một mình, thƣờng có tâm lý muốn che dấu cảm
xúc thật bọc trong một vẻ ngoài mạnh mẽ. Một điểm khác biệt nữa là khi
tìm đến cái chết tự nguyện, khi đã hành động họ rất ít khi sợ hãi, nghĩ lại
để rồi tìm hoặc gọi sự hộ trỡ cấp cứu, trong khi đó thái độ sợ hãi, nghĩ lại
và gọi sự hỗ trợ cấp cứu khi đã hành động (nhƣ uống thuốc ngủ, cắt mạch
máu …) thƣờng đƣợc thể hiện thƣờng xuyên hơn ở nữ giới hơn. Ngay cả
cách thức tìm đến cái chết ở nam giới cũng thể hiện sự mạnh mẽ và quyết
liệt hơn: tỉ lệ treo cổ ở nam giới thƣờng cao hơn (thậm chí gấp đôi nữ
giới).
Một trong những lý do khác góp phần vào lý giải tại sao tuổi thọ
nam giới thấp hơn nữ giới đó là nam giới thƣờng gặp tai nạn nhiều hơn
(tai nạn lao động hoặc tham gia vào các trò chơi mạo hiểm: bơi lội, đua
xe, leo núi). Điều này cũng liên quan đến sự mong muốn khẳng định hình
ảnh nam tính, mạnh mẽ và không sợ nguy hiểm và một phần mong muốn
đáp ứng sự kỳ vọng của xã hội đối với nam giới: họ là ngƣời đƣợc mong
đợi làm trong các ngành nghề đòi hỏi sức khỏe, có tính chất rủi ro, nguy
hiểm: nhƣ công nhân xây dựng, thám hiểm rừng, biển. Đặc biệt ở độ tuổi
vị thành niên, tỉ lệ tử vong do những hành vi mạo hiểm đối với nam giới
thƣờng rất cao do đặc tính tâm lý lứa tuổi muốn khẳng định nam tính. Vì
vậy, theo thống kê, khi sinh ra tỉ lệ nam giới thƣờng có xu hƣớng cao hơn
nữ (thƣờng là 105 đến 115 nam trên 100 nữ), nhƣng đến tuổi trƣởng
thành, tỉ lệ nam giới có phần thấp hơn so với nữ giới do tỉ lệ tử vong của
nam giới trong suốt độ tuổi trƣởng thành thƣờng cao hơn nhiều so với nữ.
Bên cạnh những hành động mạo hiểm thì những hành vi rủi ro liên quan
326
đến sức khỏe khác nhƣ hút thuốc, uống rƣợu cũng thƣờng phổ biến ở nam
giới hơn nữ giới. Một số các nghiên cứu về hành vi rủi ro liên quan đến
sức khỏe nhƣ hút thuốc và uống rƣợu, bia ở nam giới trong lứa tuổi vị
thành niên cho thấy họ tìm đến những sản phẩm này không phải vì họ
nghiện nặng mà sử dụng nó nhƣ những sản phẩm mang tính biểu tƣợng –
gắn liền với những thông điệp mà họ muốn truyền tải nhƣ sự mong muốn
khẳng định nam tính, sự độc lập, tự tin và từng trải của bản thân. Đây
cũng chính là một trong những lý do chính khiến các nam thanh niên tìm
đến những sản phẩm không có lợi cho sức khỏe này, và khi đến tuổi
trƣởng thành, khi họ nhận ra và bắt đầu trải nghiệm những vấn đề sức
khỏe liên quan đến thuốc lá và rƣợu bia thì cũng chính là lúc họ bị nghiện
nặng và rất khó từ bỏ chúng. Theo thống kê của WHO thì thuốc lá và rƣợu
bia đƣợc xếp vào hàng đầu trong các nguyên nhân gây nên các bệnh mãn
tính và tử vong trên thế giới hiện nay, và nó cũng chính là nguyên nhân
góp phần giải thích tại sao tuổi thọ của nam giới lại luôn thấp hơn so với
nữ giới ở hầu hết các quốc gia.
Truyền thông là một trong bốn môi trƣờng xã hội hóa quan trọng
(bên cạnh gia đình, nhà trƣờng, nhóm đồng đẳng) trong đó có góp phần
vào xã hội hóa vai trò giới. Rất khó có thể lƣợng hóa ảnh hƣởng của việc
tạo dựng nên các khuôn mẫu nam giới đến kỳ vọng và áp lực xã hội về vai
trò nam giới cũng nhƣ lƣợng hóa đƣợc mức độ ảnh hƣởng đến những hành
vi rủi ro liên quan đến sức khỏe của họ. Tuy nhiên, với cách tạo dựng hình
ảnh nam giới trên truyền thông đại chúng thông qua các thông điệp ngôn
ngữ và hình ảnh nhƣ hiện nay, sự ảnh hƣởng này là không thể phủ nhận.
Để có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này, rất cần có những nghiên cứu
327
cụ thể về hình ảnh và khuôn mẫu giới đƣợc tạo dựng trên các loại hình
phổ biến của truyền thông đại chúng hiện nay.
Tài liệu tham khảo
1. Andersen, Margaret L. Sociology : understanding a diverse society / Margaret L.
Andersen, Howard F. Taylor. Belmont, CA : Wadsworth/Thomson Learning, c2008.
2. Barry, Anne-Marie. Understanding the sociology of health : an introduction / Anne-
Marie Barry and Chris Yuill. Los Angeles : SAGE Publications, 2008.
3. Cockerham, William C. Medical sociology. Upper Saddle River, N.J. : Pearson
Prentice Hall, c2007.
4. David Wainwright. A sociology of health. Los Angeles ; London : SAGE, 2008
5. ITC News. Truyền thông vẫn còn ƣu ái nam giới. http://www.nghebao.com/BC/
6. John Germov. Second opinion : an introduction to health sociology. South
Melbourne : Oxford University Press, 2005.
7. Morrall, Peter. Sociology and health : an introduction for health practitioners / by
Peter Morrall. London : Routledge, 2008.
328
BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VÀ VIỆC
TUYÊN TRUYỀN, PHÕNG CHỐNG HIV/AIDS
Ths. Trần Thành Nam
Bài viết này tập trung vào việc phân tích vai trò của báo mạng điện
tử, cụ thể các báo vnexpress.net, dantri.com, thanhnien.com.vn, và
gioitinhtuoiteen.org.vn trong việc phòng chống đại dịch HIV/AIDS. Vai
trò của 4 tờ báo điện tử này sẽ đƣợc nhìn nhận thông qua việc phân tích
các nội dung liên quan nhƣ sự phân bố các bài viết về HIV/AIDS trên các
báo điện tử, sự phân bố các bài viết về HIV/AIDS trong các chuyên mục,
hình thức bài viết, tác giả/ nguồn xuất xứ, và mục đích của bài viết. Thông
tin đăng tải trên các báo đƣợc lựa chọn để phân tích trong khoảng thời
gian từ 1/4/2007 đến 30/9/2007. Các bài báo liên quan đến chủ đề nghiên
cứu đƣợc lựa chọn và mã hóa theo từng nội dung nghiên cứu dƣới dạng dữ
liệu định lƣợng.
Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam
Trƣờng hợp nhiễm HIV lần đầu tiên đƣợc phát hiện ở Việt Nam vào
năm 1990. Kể từ đó đến nay, đại dịch HIV lan rộng trên khắp các tỉnh
thành trong cả nƣớc. Sự lan tràn của đại dịch HIV/AIDS diễn ra ở hầu hết
các nhóm dân số, trong đó đặc biệt là những ngƣời tiêm chích ma túy, gái
mại dâm và nhóm đồng tính nam giới có quan hệ tình dục với nhau. Tỷ lệ
lây nhiễm HIV trong toàn bộ dân số dƣới 1%. Điều đáng chú ý là những
ngƣời nhiễm HIV ngày càng trẻ và lây nhiễm HIV giữa những ngƣời đồng
tính ngày càng gia tăng. Theo một báo cáo về lây nhiễm HIV, có 64%
những ngƣời nhiễm HIV dƣới 29 tuổi1. Trong số những ngƣời nhiễm HIV
1 National Committee for AIDS, Drugs and Prostitution Prevention and Control (1/2006). Second country
report on following up to the declaration of commitment on – Declaration commitment on HIV/AIDS adopted
at the 26th United
329
từ năm 2000 đến 2005, tỷ lệ nam giới so với nứ giới đã giảm từ 3:1 xuống
2:1. Cũng trong khoảng thời gian này, trong số nam giới nhiễm HIV, tỷ lệ
nhiễm lây qua đƣờng tiêm chích tăng 50% trong đó tỷ lệ nam giới trong
tổng thể ngƣời nhiễm tăng hơn 130%1.
Số ngƣời nhiễm HIV, ƣớc tính vào khoảng 22.000 ngƣời vào năm
1995, tăng lên gấp gần 12 lần vào 10 năm sau đó. Tính đến năm 2005, ƣớc
tính có 260 000 ngƣời sống chung với HIV, trong số đó, có 60,600 ngƣời
(24.8%) là những ngƣời nhiễm HIV qua con đƣờng tiêm chích ma túy,
10,700 ngƣời (4.4%) là gái mại dâm, 105,800 ngƣời (43.3%) là khách làng
chơi và nam giới, có 67,500 ngƣời (26,6%) là phụ nữ. Vào năm 2005, có
56,000 ngƣời đã chết vì AIDS2. Số liệu bên trên chỉ là ƣớc tính, con số
báo cáo chính thức thấp hơn rất nhiều. Các nghiên cứu trƣớc kia đã chỉ ra
rằng nếu không có sự hỗ trợ, chăm sóc, điều trị và đặc biệt là tuyên truyền
mạnh mẽ và hiệu quả thì trong khoảng 2005-2010, Việt Nam sẽ có thêm
khoảng 30,000- 40,000 trƣờng hợp nhiễm HIV mỗi năm, và tổng số ca
nhiễm HIV sẽ đạt đến con số 311,500 ngƣời vào năm 20103. Số ngƣời
chết hàng năm vì AIDS sẽ tăng đáng kể, từ 3000 vào năm 2000 lên 26,700
ngƣời vào năm 2010.
Vai trò truyền thông đại chúng và việc phòng chống HIV/AIDS
Các phƣơng tiện truyền thông đại chúng có vai trò quan trọng trong
việc tuyên truyền, ngăn ngừa và phòng chống HIV/AIDS từ những năm
đầu 19804. Hầu hết các nƣớc đang phát triển trên thế giới đã sử dụng một
vài hình thức của truyền thông đại chúng để đề cập đến HIV/AIDS. Ban
đầu, truyền thông đại chúng đƣợc sử dụng nhằm nâng cao nhận thức về sự
tồn tại của HIV/AIDS, cách thức lây nhiễm và phòng chống đại dịch này.
Nations General assembly special session in Jun 2001 (UNGASS)- Reporting period : January 2003 – December 2005 1 Ministry of Health, Viet Nam (2005). HIV/AIDS estimation and projection in Viet Nam for 2005 – 2010 period. 2 Ministry of Health, Viet Nam (2005). HIV/AIDS estimation and projection in Viet Nam for 2005 – 2010
period. 3 Ministry of Health, Viet Nam (2005). HIV/AIDS estimation and projection in Viet Nam for 2005 – 2010 period. 4 Pham Dinh Huynh và cộng sự. 2004. Dilemmas of Doi Moi. Safe sex and the media in southeast asia.
330
Giai đoạn tiếp theo, cuối những năm 1980 và những năm 1990, truyền
thông đại chúng tập trung nhiều hơn vào việc thay đổi hành vi liên quan
đến việc kiêng khem, giới hạn bạn tình, và sử dụng bao cao su. Trong
những năm gần đây, các chƣơng trình truyền thông đƣợc mở rộng nhằm
tập trung vào ngăn ngừa, điều trị, chăm sóc và hỗ trợ ngƣời nhiễm
HIV/AIDS. Hầu hết các chiến dịch truyền thông đại chúng đều tập trung
vào quảng đại quần chúng, đặc biệt, tập trung vào thanh niên, là nhóm có
nguy cơ cao về lây nhiễm HIV/ AIDS.
Liên quan đến điều này, Tổng thƣ ký Liên Hợp Quốc, Kofi Annan đã
từng nói “…Truyền thông đại chúng đạt được và có ảnh hưởng, đặc biệt
tới những người trẻ tuổi, những người đại diện cho tương lai và họ chính
là nhân tố quan trọng đối với cuộc chiến chống lại HIV/AIDS. Chúng ta
phải liên kết các phương tiện truyền thông đại chúng như những đối tác
trong cuộc chiến HIV/AIDS thông qua nhận thức, ngăn chặn và giáo
dục”.
Theo một cuộc điều tra đƣợc tiến hành tại Mỹ, có 72% ngƣời Mỹ cho
rằng tivi, đài, và báo là nguồn cung cấp thông tin quan trọng về
HIV/AIDS chứ không phải là bác sỹ, bạn bè và gia đình. Số liệu tƣơng tự
cũng đƣợc chỉ ra ở Anh và một số nơi trên thế giới. Trong một nghiên cứu
tại Ấn Độ, có hơn 70% ngƣời trả lời cho rằng họ nhận đƣợc các thông tin
về HIV/AIDS qua đài truyền hình1. Rõ ràng, truyền thông đại chúng có
ảnh hƣởng to lớn đến việc giáo dục và tác động đến cá nhân trong việc
phòng chống HIV/AIDS.
Giới thiệu về số liệu
Số liệu đƣợc phân tích trong bài này nằm trong bộ số liệu chung của
đề tài Khảo sát thông điệp về tính dục trên báo mạng do Khoa Xã hội học,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền tiến hành năm 2006. Cuộc khảo sát đã
lựa chọn 4 tờ báo điện tử để phân tích trong khoảng thời gian từ 1/4/2006
1 Media and HIV/AIDS: Making a difference, UNAIDS, 2004.
331
đến 30/9/2006, đó là vnexpress.net, dantri.com, thanhnien.com.vn, và
gioitinhtuoiteen.org.vn. Tiêu chí lựa chọn 4 tờ bào này đƣợc dựa trên
nguyên tắc phổ biến, có uy tín hơn so với một số báo điện tử khác, có độc
giả ở hầu hết mọi lứa tuổi, đặc biệt chú ý đến độc giả trẻ tuổi, thanh niên,
và thông tin đƣợc cập nhật hàng ngày. Trong số 4 tờ báo điện tử nói trên,
có hai tờ thanhnien.com.vn, và gioitinhtuoiteen.org.vn có đối tƣợng độc
giả chính là thanh niên. Tờ thanhnien.com.vn là Diễn đàn của Hội Liên
Hiệp Thanh Niên Việt Nam, tờ gioitinhtuoiteen.org.vn là chuyên trang
giải đáp thắc mắc các vấn đề liên quan đến tính dục, sức khỏe sinh sản…
do Trung ƣơng Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh phụ trách, phối
hợp với Ủy ban Dân số, Gia đình, và Trẻ em, có sự cộng tác của Báo Hoa
Học Trò.
Các bài báo đƣợc phân tích theo 9 chủ đề: tổng quát về tính dục
(chuẩn mực tính dục trong xã hội, tôn giáo và tính dục…), hình ảnh về
tính dục, sức khỏe sinh sản và sinh học tình dục, đặc điểm tình dục và
định huớng tình dục, hành vi tình dục, quan hệ tình dục, sức khỏe sinh
sản, sức khỏe tình dục, bạo lực tình dục.
Trong phạm vi bài viết này, ngƣời viết tập trung vào một nội dung
nhỏ nằm trong chủ đề Sức khỏe tình dục, đó là vấn đề HIV/AIDS với câu
hỏi vai trò của báo điện tử trong việc đấu tranh chống lại đại dịch
HIV/AIDS nhƣ thế nào, các báo điện tử đã làm gì để ngăn chặn đại dịch
này?
Vai trò của báo mạng điện tử trong việc phòng chống đại dịch
HIV/AIDS
Vai trò của 4 tờ báo điện tử này sẽ đƣợc nhìn nhận thông qua việc
phân tích các nội dung liên quan nhƣ sự phân bố các bài viết về HIV/AIDS
trên các báo điện tử, sự phân bố các bài viết về HIV/AIDS trong các
chuyên mục, hình thức bài viết, tác giả/ nguồn xuất xứ của bài viết, và
mục đích của bài viết.
332
Trong 6 tháng năm 2006, đã tìm đƣợc 1173 bài báo có liên quan đến
các chủ đề về tính dục. Báo dân trí và vnexpress là những tờ báo có số
lƣợng bài báo đăng tải về chủ đề này nhiều hơn báo thanhnien và
gioitinhtuoiteen.
Tuy nhiên trong số 1173 bài báo tìm đƣợc, chỉ có 70 bài báo có đăng
tải các nội dung liên quan đến HIV/AIDS. Phân bố cụ thể của 70 bài báo
này theo các báo đƣợc thể hiện ở biểu đồ 2. Báo điện tử dantri vẫn là
nguồn đăng tải thông tin về HIV/AIDS nhiều hơn báo khác (40% trong
tổng số bài báo HIV/AIDS), tiếp sau đó là chuyên trang gioitinhtuoiteen
(23%). Tỷ lệ đăng tải về nội dung HIV/AIDS ở hai báo vnexpress và
thanhnien.com giảm so với tỷ lệ đăng tải chung về tính dục.
Các chuyên mục đăng tải các bài báo về HIV/AIDS rất đa dạng, có
thể kể tên nhƣ chuyên mục chính trị- xã hội, văn hóa, pháp luật, khoa học
và sức khỏe, đời sống-tình yêu-lối sống, chuyên trang về sức khỏe sinh
sản, phóng sự. Kết quả khảo sát cho thấy trong cả 4 tờ báo điện tử, chuyên
mục lối sống đăng tải về HIV/AIDS nhiều nhất (32.9%), tiếp đến là
chuyên mục khoa học và sức khỏe và chuyên trang sức khỏe sinh sản
(23% và 17%). Có 2 chuyên mục ít đăng tin bài nhất về chủ đề này là
chuyên mục pháp luật (3%) và chuyên mục văn hóa (1.4%).
Phân tích tƣơng quan giữa các loại báo điện tử và các chuyên mục
đăng tải HIV/AIDS, có thể nhận thấy thông tin đăng trong chuyên mục
chính trị-xã hội thuộc về báo vnexpress. Thông tin đăng tải trong chuyên
mục khoa học- sức khỏe có nhiều bài tập trung trên báo dantri.com. Thông
tin đăng trong chuyên mục sức khỏe sinh sản thuộc về báo
gioitinhtuoiteen.org. Thông tin đăng trong chuyên mục đời sống- tình yêu-
lối sống xuất hiện trong báo dântri.com nhiều gấp gần hai lần so với các
báo khác (tỷ lệ 9:5).
Về hình thức đăng tải bài báo, có 90% tổng số bài báo về HIV/AIDS
đƣợc đăng tải theo hình thức đăng một kỳ. 10% còn lại đƣợc đăng tải
333
nhiều kỳ, đƣợc thể hiện trong các chuyên mục phóng sự, ký sự, đời sống
tình yêu, lối sống, nhịp sống trẻ.
Về tác giả/ nhóm tác giả/ nguồn gốc của các bài báo HIV/AIDS, 51%
các bài báo có xuất xứ từ các báo, tạp chí trong nƣớc và nƣớc ngoài, chủ
yếu các bài đƣợc trích dẫn từ báo và tạp chí nƣớc ngoài. Có 39% bài viết
có xuất xứ từ các cá nhân.
Chia se
31%
Ran de
6%
Tu van
16%
Khong ro
3%
Su kien
44%
Biểu đồ 1: Mục đích các bài báo viết về chủ đề HIV/AIDS
Một trong những nội dung đƣợc quan tâm đặc biệt trong quá trình
phân tích số liệu chính là mục đích của các bài báo viết về chủ đề
HIV/AIDS. Kết quả khảo sát cho thấy có gần 45% bài viết về HIV/AIDS
nhằm mục đích thông tin về sự kiện. 31% bài viết nhằm để chia sẻ những
thông tin liên quan đến chủ đề này. Số lƣợng bài báo viết nhằm mục đích
tƣ vấn chỉ chiếm 16%. Tỷ lệ bài viết để răn đe chỉ chiếm số lƣợng nhỏ, 6%
(xem biểu đồ 4). Nhƣ vậy, nếu chúng ta coi thông tin về sự kiện là biểu
hiện của việc nâng cao nhận thức cộng đồng về sự tồn tại của HIV/AIDS
và thông tin có tính chất chia sẻ là biểu hiện của báo điện tử nhằm ngăn
ngừa, điều trị, chăm sóc và hỗ trợ ngƣời nhiễm HIV/AIDS thì điều này có
nghĩa là các báo điện tử hiện nay một mặt vừa tập trung vào mảng nhận
thức của độc giả, tƣơng ứng với giai đoạn thứ nhất của các chƣơng trình
truyền thông trên thế giới, mặt khác cũng tập trung vào xu hƣớng hỗ trợ
của cộng đồng đối với những ngƣời nhiễm HIV/AIDS, tƣơng ứng với giai
đoạn thứ ba của các phƣơng tiện truyền thông đại chúng trên thế giới.
334
Điều này cho thấy các báo điện tử đã tạo ra môi trường/ diễn đàn để có
thể chia sẻ thông tin về đại dịch này, và đặc biệt đã tăng cƣờng truyền
thông chống phân biệt và kỳ thị đối với những ngƣời nhiễm HIV/AIDS.
Kết luận
Từ việc phân tích số liệu của cuộc điều tra Khảo sát thông điệp về
Sexuality trên báo mạng do Khoa Xã hội học, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền tiến hành trên các báo điện tử vnexpress, thanhnien.com,
dantri.com, và gioitinhtuoiteen.org trong khoảng thời gian từ 1/4/2006 đến
30/9/2006, chúng ta nhận thấy một vài đặc trƣng cơ bản của đại dịch
HIV/AIDS và vai trò của 4 tờ báo điện tử trong việc tuyên truyền, chống
lại đại dịch HIV/AIDS nhƣ sau:
Đại dịch HIV/AIDS lan rộng trên khắp các tỉnh thành trong cả
nƣớc. Sự lan tràn của đại dịch HIV/AIDS diễn ra ở hầu hết các
nhóm dân số, trong đó đặc biệt là những ngƣời tiêm chích ma túy,
gái mại dâm và nhóm đồng tính nam giới có quan hệ tình dục với
nhau. Điều đáng chú ý là những ngƣời nhiễm HIV ngày càng trẻ và
lây nhiễm HIV giữa những ngƣời đồng tính ngày càng gia tăng.
Các phƣơng tiện truyền thông đại chúng có vai trò quan trọng trong
việc tuyên truyền, ngăn ngừa và phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS.
Đặc biệt, truyền thông đại chúng có ảnh hƣởng to lớn đến việc giáo
dục và tác động đến mỗi cá nhân trong việc phòng chống
HIV/AIDS.
Chỉ có 70 bài báo trong tổng số 1173 bài đăng tải các nội dung liên
quan đến HIV/AIDS. Báo điện tử dantri là nguồn đăng tải thông tin
về HIV/AIDS nhiều hơn báo khác (40% trong tổng số bài báo
HIV/AIDS), tiếp sau đó là chuyên trang gioitinhtuoiteen (23%). Tỷ
lệ đăng tải về nội dung HIV/AIDS ở hai báo vnexpress và
thanhnien.com có giảm so với tỷ lệ đăng tải chung về tính dục.
335
Các chuyên mục đăng tải các bài báo về HIV/AIDS rất đa
dạng.Chuyên mục lối sống đăng tải về HIV/AIDS nhiều nhất
(32.9%), tiếp đến là chuyên mục khoa học và sức khỏe và chuyên
trang sức khỏe sinh sản (23% và 17%). Có 2 chuyên mục ít đăng tin
bài nhất về chủ đề này là chuyên mục pháp luật (3%) và chuyên
mục văn hóa (1.4%).
Có 90% tổng số bài báo về HIV/AIDS đƣợc đăng tải theo hình thức
đăng một kỳ. 10% còn lại đƣợc đăng tải nhiều kỳ.
Có 51% các bài báo có xuất xứ từ các báo, tạp chí trong nƣớc và
nƣớc ngoài. Có 39% bài viết có xuất xứ từ các cá nhân.
Có gần 45% bài viết về HIV/AIDS nhằm mục đích thông tin về sự
kiện. 31% bài viết nhằm để chia sẻ những thông tin liên quan đến
chủ đề này. Số lƣợng bài báo viết nhằm mục đích tƣ vấn chiếm
16%. Tỷ lệ bài viết để răn đe chiếm số lƣợng nhỏ, 6%.
Phải nói rằng đây là bộ số liệu đƣợc mã hóa dƣới dạng dữ liệu định
lƣợng từ các tài liệu tìm đƣợc dƣới dạng định tính cho nên thông tin sẵn có
để phân tích chƣa đƣợc đa dạng và có chiều sâu, chƣa thể hiện rõ đƣợc vai
trò của báo điện tử trong việc đấu tranh phòng chống HIV/AIDS ở một số
khía cạnh nhƣ cung cấp dịch vụ về HIV/AIDS, tư vấn giáo dục về
HIV/AIDS, lồng ghép, đưa vào chương trình hành động ưu tiên và khuyến
khích các nhà lãnh đạo phát động các chương trình hành động…Thiết
nghĩ đây chính là những vấn đề còn bỏ ngỏ mà các nghiên cứu sau này cần
tập trung tìm hiểu sâu hơn.
top related