xuất khẩu gạo việt nam sang trung quốc 2005-2013
Post on 20-Oct-2015
117 Views
Preview:
DESCRIPTION
TRANSCRIPT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CƠ SỞ II TẠI TP.HCM
---------***--------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Quản trị Kinh doanh
XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC
Họ và tên sinh viên: Lưu Thành Nhân
Mã sinh viên: 1001025505
Lớp: A3
Khóa: K49A
Người hướng dẫn khoa học: Trần Văn Hoàng
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2013
NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2013
Người hướng dẫn khoa học
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ XUẤT KHẨU VÀ TẦM QUAN TRỌNG
CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM SANG THỊ
TRƯỜNG TRUNG QUỐC ................................................................................... 3
1.1. Tổng quan về xuất khẩu ............................................................................. 3
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm ........................................................................... 3
1.1.2. Phân loại ............................................................................................... 4
1.2. Giới thiệu về gạo Việt Nam....................................................................... 10
1.2.1. Chủng loại ........................................................................................... 10
1.2.2. Diện tích .............................................................................................. 11
1.2.3. Chất lượng sản phẩm ........................................................................... 11
1.2.4. Hệ thống chế biến ................................................................................ 12
1.3. Thị trường Trung Quốc và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc giai đoạn 2004-2013 .. 12
1.3.1. Tổng quan về thị trường Trung Quốc ................................................... 12
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang
thị trường Trung Quốc ................................................................................... 14
1.4. Tầm quan trọng của xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc ......... 17
1.4.1. Về lợi ích kinh tế .................................................................................. 18
1.4.2. Về xã hội .............................................................................................. 19
1.4.3. Về hội nhập quốc tế.............................................................................. 19
1.4.4. Về sự phát triển ngành nông nghiệp nói chung và ngành gạo nói riêng
của Việt Nam ................................................................................................. 19
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN
2004-2013 ............................................................................................................. 21
2.1. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc giai
đoạn 2004 – 2013 .............................................................................................. 21
2.1.1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu ....................................................... 21
2.1.2. Chất lượng và cơ cấu sản phẩm ........................................................... 32
2.1.3. Giá cả .................................................................................................. 32
2.1.4. Kênh phân phối .................................................................................... 37
2.1.5. Hình thức xuất khẩu và phương thức thanh toán .................................. 37
2.2. Phân tích thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo của Việt
Nam sang thị trường Trung Quốc .................................................................. 38
2.2.1. Các yếu tố trong nước .......................................................................... 38
2.2.2. Các yếu tố ngoài nước ......................................................................... 40
2.3. Nhận xét .................................................................................................... 42
2.3.1. Thành tựu............................................................................................. 42
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ...................................................................... 43
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 44
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN 2014 - 2020 .................... 45
3.1. Dự báo về triển vọng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc giai đoạn 2014 – 2020 ................................................................. 45
3.1.1. Nhu cầu nhập khẩu và môi trường cạnh tranh...................................... 45
3.1.2. Triển vọng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc .. 45
3.2. Mục tiêu phát triển và định hướng triển khai hoạt động xuất khẩu gạo
của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc .................................................... 46
3.3. Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc ...................................................................................................... 47
3.3.1. Giải pháp về phát triển và ứng dụng giống lúa mới.............................. 47
3.3.2. Giải pháp đối với hoạt động chế biến, bảo quản và xuất khẩu.............. 49
3.4. Một số kiến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan liên quan đến hoạt
động sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam .............................................. 57
3.4.1. Chính sách về đất đai, khuyến nông ..................................................... 57
3.4.2. Chính sách hỗ trợ chế biến, bảo quản và xuất khẩu gạo ....................... 58
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 61
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 63
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu Diễn nghĩa từ bằng tiếng Anh Diễn nghĩa từ bằng tiếng Việt
APEC Asia-Pacific Economic
Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu
Á-Thái Bình Dương
ASEAN Association of Southeast Asian
Nations
Hiệp hội các Quốc gia Đông
Nam Á
Bộ
NN & PTNT
Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH Đồng bằng sông Hồng
ĐNB Đông Nam Bộ
EU European Union Liên minh châu Âu
GAC Global Assessment Certificate Chứng nhận đánh giá chất
lượng toàn cầu
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
GlobalGAP Good Agricultural Practice Thực hành nông nghiệp tốt toàn
cầu
HACCP Hazard Analysis and Critical
Control Points
Phân tích mối nguy và điểm
kiểm soát tới hạn
MOFCOM Ministry Of Commerce
People's Republic Of China
Bộ Thương Mại nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa
OECD The Organisation for Economic
Co-operation and Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế
USD United States Dollar Đồng đola
VietGAP Vietnamese Good Agricultural
Practices
Thực hành sản xuất nông nghiệp
tốt ở Việt Nam
XK Xuất khẩu
WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Bảng biểu Tên bảng biểu Trang
Bảng 1.1 Giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam sang
một số thị trường trên thế giới
18
Bảng 2.1 Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung
Quốc giai đoạn 2004 – 8/2013
21
Bảng 2.2 Xuất khẩu gạo Việt Nam sang Trung Quốc năm 2010 23
Bảng 2.3 Giá trị xuất khẩu gạo Việt Nam sang Trung Quốc năm
2011
24
Bảng 2.4 Xuất khẩu gạo Việt Nam sang Trung Quốc năm 2012 25
Biểu đồ 1 Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2012 27
Bảng 2.5 Xuất khẩu gạo Việt Nam sang Trung Quốc 7 tháng đầu
năm 2013
28
Bảng 2.6 Sản lượng nhập khẩu gạo Việt Nam của Trung Quốc giai
đoạn 2004-2012
31
Biểu đồ 2 Giá gạo thơm của Việt Nam và Thái Lan
giai đoạn 7/2012 – 8/2013
34
Biểu đồ 3 Giá gạo 25% tấm của Việt Nam và Thái Lan
giai đoạn 7/2012 – 8/2013
35
Biểu đồ 4 Giá gạo 5% tấm của Việt Nam và Thái Lan
giai đoạn 7/2012 – 8/2013
35
Bảng 2.7 Sản xuất, tiêu thụ, nhập khẩu và dự trữ của Trung Quốc
giai đoạn 2006-2013
41
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền nông nghiệp đã tồn tại từ những ngày đầu của nước Việt Nam. Nhờ có
điều kiện tự nhiên thuận lợi, hệ thống sông ngòi dày đặc, nông nghiệp ở nước ta
phát triển trên phạm vi cả nước. Một trong những sản phẩm nông nghiệp điển hình
ở Việt Nam được cả thế giới biết đến đó là gạo. Hoạt động xuất khẩu gạo đang được
Việt Nam duy trì cũng như phát triển mạnh về qui mô cũng như chất lượng trên
phạm vi thế giới. Trong những năm gần đây, một trong những thị trường tiêu thụ
gạo lớn của thế giới và đầy tiềm năng đã gia nhập thị trường nhập khẩu gạo của
Việt Nam là Trung Quốc.
Mối quan hệ của Việt Nam và Trung Quốc đã có từ rất lâu, có nhiều nét tương
đồng và hiểu nhau rất rõ. Với dân số hơn 1,3 tỷ người, thị trường Trung Quốc luôn
là thị trường đầy tiềm năng đối với bất kỳ sản phẩm lương thực nào trên thế giới.
Tuy là một nước sản xuất gạo hàng đầu thế giới, nhu cầu nhập khẩu gạo của Trung
Quốc trong khoảng 2 năm trở lại đây có xu hướng tăng khá nhanh và thị trường
Việt Nam đang là thị trường nhập khẩu gạo số một của Trung Quốc – theo các số
liệu thống kê. Điều này giúp Việt Nam có cơ hội mở rộng kim ngạch xuất khẩu và
tăng thêm nguồn ngoại tệ cho nền kinh tế, phát triển bền vững nền nông nghiệp
trong nước.
Trong tình hình hiện tại, việc nghiên cứu, phân tích thực trạng xuất khẩu mặt
hàng này sang Trung Quốc là rất cần thiết. Các phân tích cụ thể sẽ giúp đề ra giải
pháp phù hợp có tính chiến lược lâu dài để giải quyết những khó khăn, tồn tại mà
ngành gạo của Việt Nam đang gặp phải. Đây là lý do tác giả chọn đề tài “Xuất khẩu
gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. Kết
cấu khóa luận được chia thành 3 phần như sau:
Chương 1: Tổng quan về xuất khẩu và tầm quan trọng của hoạt động
xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Trung Quốc
Chương 2: Thực trạng về hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc giai đoạn 2004 – 2013
Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc giai đoạn 2014-2020
2
2. Mục tiêu nghiên cứu
Thứ nhất, phân tích thị trường Trung Quốc và sự cần thiết của việc đẩy mạnh
xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc.
Thứ hai, phân tích và đánh giá tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc giai đoạn 2004 – 2013.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan
ban ngành có liên quan nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc giai đoạn 2014– 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi thời gian: Phạm vi phân tích tình hình thực tế là giai đoạn
2004 – 2013, phạm vi áp dụng các giải pháp là giai đoạn 2014 – 2020.
+ Phạm vi không gian: Nghiên cứu tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam
sang thị trường Trung Quốc.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp các thông tin, tư
liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu từ sách, báo, Internet, báo cáo của ngành và
các đề tài nghiên cứu khác.
Để hoàn thành bài khóa luận, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc
đến cán bộ, giảng viên trường Đại học Ngoại Thương Cơ sở II tại thành phố Hồ Chí
Minh, đặc biệt là giáo viên hướng dẫn khoa học Trần Văn Hoàng, người đã tận tình
hướng dẫn tác giả trong quá trình viết khóa luận này.
Do giới hạn về thời gian, dung lượng của khóa luận, kinh nghiệm và kiến thức
của người viết nên nội dung của khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, khiếm
khuyết. Rất mong sự đóng góp của thầy cô, các bạn sinh viên và những người quan
tâm để xây dựng khóa luận tốt hơn. Xin chân thành cám ơn.
3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ XUẤT KHẨU VÀ TẦM QUAN
TRỌNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC
1.1. Tổng quan về xuất khẩu
Xuất khẩu là một trong những hoạt động kinh doanh quan trọng của ngoại
thương, phản ánh mối quan hệ thương mại, buôn bán giữa các quốc gia trong khu
vực và trên thế giới. Hoạt động xuất khẩu hiện nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu,
trong tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền kinh tế, từ vật phẩm tiêu dùng đến tư
liệu sản xuất, từ các chi tiết linh kiện nhỏ nhất đến các loại máy móc phức tạp, các
loại công nghệ kỹ thuật cao, không chỉ có hàng hóa hữu hình mà cả hàng hoá vô
hình và với tỷ trọng ngày càng lớn.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm
1.1.1.1. Khái niệm
Xuất khẩu hàng hóa là việc bán, cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho các quốc gia
khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán, trong đó có sự chuyển dịch
hàng hóa ra khỏi biên giới hải quan. Hoạt động xuất khẩu không chỉ đơn thuần
mang lại lợi nhuận cho các bên chủ thể tham gia vào hoạt động này mà còn có ý
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Hoạt động xuất khẩu mang
lại nguồn thu ngoại tệ, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, nâng cao năng lực sản xuất
trong nước, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ổn
định và nâng cao từng bước đời sống nhân dân (Dương Hữu Hạnh, 2008, tr.5).
1.1.1.2. Đặc điểm
Hoạt động xuất khẩu có sự chuyển dịch hàng hóa, dịch vụ qua biên giới hải
quan. Theo luật Thương mại Việt Nam 2005, xuất khẩu được định nghĩa như sau:
“Xuất khẩu hàng hóa là việc đưa hàng hóa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào
khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng
theo quy định của pháp luật” (điều 28, mục 1, chương 2, luật Thương mại Việt Nam
2005).
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi phạm vi rộng cả về không
gian lẫn thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn và cũng có thể
kéo dài, diễn ra hàng năm. Thị trường xuất khẩu rất rộng lớn và đa dạng, không
4
chỉ giới hạn trong một hai nước mà mở rộng trong phạm vi khắp thế giới. Do yêu
cầu của việc hội nhập kinh tế thế giới, các hoạt động thương mại quốc tế, trong đó
việc xuất khẩu được đẩy mạnh hơn nữa thông qua việc tham gia các tổ chức, các
khối kinh tế như tổ chức ASEAN, tổ chức WTO, khối EU nhằm mở rộng quan hệ
hợp tác với nhiều nước, thiết lập các thỏa thuận có lợi cho các bên tham gia hoạt
động thương mại.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên nhiều ngành nghề. Nếu như khởi điểm của
xuất khẩu chỉ bao gồm các loại hàng hóa thuộc lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp
như giày dép, nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc… thì hiện nay xuất khẩu
dịch vụ cũng được xem là một trong những hoạt động đóng góp lớn vào nền kinh tế
trong nước. Hiện nay, các sản phẩm xuất khẩu rất đa dạng, từ xuất khẩu tiêu dùng,
xuất khẩu lao động, tri thức cho đến tư liệu sản xuất, máy móc, hàng hóa hóa công
nghệ cao.
Hoạt động xuất khẩu chịu tác động của nhiều yếu tố môi trường nước ngoài
như chính trị, pháp luật, xã hội, địa lý… Mỗi quốc gia cần chú ý đến những yếu tố
này nhằm đảm bảo việc xuất khẩu đạt được những kết quả thuận lợi, vượt qua
những rào cản, khó khăn và thu về lợi nhuận cao. Đây là một điều tất yếu quan
trọng trong suốt hoạt động xuất khẩu, từ nghiên cứu, định hướng thị trường, đối
tượng tiêu dùng đến các hoạt động vận chuyển, phân phối, thanh toán hàng hóa,
dịch vụ.
Hoạt động xuất khẩu mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp và Nhà
nước. Nó thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp về quy mô sản xuất và quy mô
hoạt động, tạo điều kiện cho đất nước rút ngắn thời gian thực hiện việc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nhờ các khoản thu ngoại tệ, các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài
cho hoạt động sản xuất trong nước, đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế với các nước
và tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới.
1.1.2. Phân loại
1.1.2.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu từ nước người bán (nước xuất
khẩu) sang trực tiếp nước người mua (nước nhập khẩu) không thông qua nước thứ
ba (nước trung gian). Theo hình thức này, nhà sản xuất trực tiếp bán sản phẩm cho
5
khách hàng nước ngoài ở khu vực thị trường nước ngoài thông qua tổ chức, chi
nhánh của mình, có thể là công ty con hoặc chi nhánh bán hàng tại nước ngoài và
thu lại lợi nhuận.
Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là các nhà xuất khẩu tiếp xúc trực tiếp thị
trường và khách hàng, nắm bắt tình hình chính trị, văn hóa, pháp luật, xã hội của thị
trường rõ ràng và cụ thể, kiểm soát được nhiều hơn tiến trình xuất khẩu. Nhờ đó,
hoạt động xuất khẩu thực hiện nhanh, chất lượng sản phẩm đáp ứng đúng nhu cầu
của khách hàng. Các doanh nghiệp xuất khẩu không phải chia sẻ quyền lợi của mình
với các tổ chức trung gian nên lợi nhuận cao hơn và có điều kiện tiếp thu kinh
nghiệm xuất khẩu sang môi trường quốc tế.
Tuy nhiên, hạn chế của hình thức này là doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phải chịu
rủi ro lớn, tốn nhiều thời gian, chi phí để tìm hiểu, mở rộng thị trường và tự tổ chức
hoạt động xuất khẩu. Bên cạnh đó, những doanh nghiệp nhỏ khó có cơ hội để thâm
nhập các thị trường mới, nhất là những thị trường khó tính khi doanh nghiệp vẫn
chưa có thương hiệu và uy tín cao trên thị trường.
1.1.2.2. Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức mà doanh nghiệp thông qua dịch vụ của tổ
chức độc lập đặt ngay tại nước xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu sản phẩm của nước
mình ra nước ngoài. Trong hình thức này doanh nghiệp có thể sử dụng các trung
gian phân phối như công ty quản lý xuất khẩu, nhà môi giới xuất khẩu, nhà ủy thác
xuất khẩu...
Loại hình này giúp cho các công ty nhỏ có một phương thức để thâm nhập vào
thị trường nước ngoài mà không phải đương đầu với những rắc rối và rủi ro như
trong xuất khẩu trực tiếp. Bên trung gian nắm rõ phong tục tập quán của thị trường
nên có khả năng đẩy nhanh việc mua bán và giảm rủi ro cho các doanh nghiệp xuất
khẩu. Doanh nghiệp xuất khẩu cũng giảm được chi phí thâm nhập thị trường do các
tổ chức trung gian thường có sẵn cơ sở vật chất, đồng thời doanh nghiệp xuất khẩu
cũng sẽ có được các thông tin về thị trường, về các đối thủ cạnh tranh thông qua các
tổ chức.
Nhược điểm của hình thức xuất khẩu này là các doanh nghiệp xuất khẩu
không tiếp cận trực tiếp với thị trường, khách hàng nên ít có khả năng đáp ứng đúng
6
các nhu cầu của khách hàng tiềm năng. Theo thỏa thuận với bên trung gian, doanh
nghiệp phải chia sẻ lợi nhuận sau khi xuất khẩu hoàn tất.
1.1.2.3. Buôn bán đối lưu (xuất khẩu hàng đổi hàng)
Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp
chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua. Khối lượng hàng hoá
được trao đổi có giá trị tương đương. Mục đích của xuất khẩu không phải thu về
một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một khối lượng hàng hoá với giá trị tương
đương. Tuy tiền tệ không được thanh toán trực tiếp nhưng nó được làm vật ngang
giá chung cho giao dịch này.
Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm mục đích tránh được các rủi ro về sự
biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối, tiết kiệm được ngoại tệ.
1.1.2.4. Tái xuất
Trong hoạt động tái xuất khẩu người ta tiến hành nhập khẩu tạm thời hàng hoá
từ bên ngoài vào, sau đó lại xuất khẩu sang một thị trường thứ ba.
Hình thức này được áp dụng khi một doanh nghiệp không sản xuất được hay
sản xuất được nhưng với khối lượng ít, không đủ để xuất khẩu nên phải nhập vào để
sau đó tái xuất.
Hoạt động giao dịch tái xuất bao gồm hai hoạt động nhập khẩu và xuất khẩu
với mục đích thu về một khoản ngoại tệ lớn hơn lúc ban đầu bỏ ra. Các bên tham
gia gồm có: nước xuất khẩu, nước tái xuất khẩu và nước nhập khẩu.
1.1.2.5. Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá và dịch vụ chưa vượt qua ngoài biên
giới hải quan nhưng hoạt động xuất khẩu vẫn được thực hiện. Theo đó, một người
mua ở nước ngoài, sau khi kí hợp đồng nhập khẩu hàng hóa của một doanh nghiệp
tại một nước, sẽ chỉ định giao hàng hóa cho một khách hàng khác, đã có thỏa thuận
với người mua, ngay tại nước đó.
Hoạt động này có thể đạt được hiệu quả cao do hàng hoá không cần phải vượt
qua biên giới quốc gia nên doanh nghiệp tránh được một số thủ tục rắc rối của hải
quan, không phải thuê phương tiện vận chuyển, mua bảo hiểm hàng hoá trong khi
vẫn có thể thu được ngoại tệ. Do đó, giảm được một lượng chi phí khá lớn.
1.1.2.6. Gia công xuất khẩu
7
Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh trong đó một bên (nhận gia
công) nhập khẩu nguyên liệu hay bán thành phẩm của bên khác (bên đặt gia công)
để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao gia công
(phí gia công).
Hình thức xuất khẩu gia công quốc tế đang phát triển mạnh mẽ và được nhiều
quốc gia, trong đó đặc biệt là quốc gia có nguồn lao động dồi dào, tài nguyên phong
phú, áp dụng rộng rãi vì thông qua hình thức gia công, ngoài việc tạo việc làm và
thu nhập cho người lao động, họ còn có điều kiện đổi mới và cải tiến máy móc kỹ
thuật công nghệ mới nhằm nâng cao năng lực sản xuất. Đối với bên đặt gia công, họ
thu được lợi nhuận cao hơn nhờ tận dụng giá nhân công và nguyên phụ liệu tương
đối rẻ của nước nhận gia công. Hình thức xuất khẩu này chủ yếu được áp dụng
trong các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu như dệt may,
giày da…
Trong số các hình thức xuất khẩu đã đề cập ở trên, hoạt động xuất khẩu gạo
của Việt Nam được thực hiện chủ yếu qua hình thức xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp.
Các doanh nghiệp Việt Nam chủ động trong việc thu mua nguồn hàng trong nước
và thực hiện xuất khẩu sang các nước (trực tiếp) hoặc xuất khẩu thông qua các công
ty ủy thác (gián tiếp). Các nhà nhập khẩu thường nhập khẩu trực tiếp các sản phẩm
lúa gạo để tiêu thụ, phân phối cho các nhà bán buôn, đại lý, các nhà bán lẻ hoặc tiếp
tục chế biến thành các sản phẩm khác.
1.1.3. Vai trò, vị trí
1.1.3.1. Xuất khẩu tạo ra nguồn thu ngoại tệ cho nhập khẩu, phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Hiện nay, ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong mua bán trên thế giới nên việc
dự trữ ngoại tệ, nhất là các ngoại tệ mạnh là điều rất quan trọng. Dựa vào nguồn
ngoại tệ tích lũy được, quốc gia có thể nhập khẩu các máy móc thiết bị, công nghệ
hiện đại đáp ứng cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra thuận lợi,
giúp quốc gia ngày càng phát triển. Đồng thời, doanh nghiệp dựa vào nguồn thu
ngoại tệ này để nâng cao hệ thống dây chuyền sản xuất cũng như quy mô doanh
nghiệp, khả năng cạnh tranh trước thị trường toàn cầu rộng lớn. Trên thực tế, các
quốc gia có thể huy động nguồn thu ngoại tệ thông qua các hoạt động xuất khẩu
8
hàng hóa, dịch vụ, các khoản đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp, vay nợ viện
trợ, kiều bào nước ngoài gửi về… (Thư viện học liệu mở Việt Nam, 2011). Trong
đó, khoản thu ngoại tệ từ xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ là tích cực nhất vì nó
không gây ra các khoản nợ nước ngoài cho Chính phủ cũng như các nhà kinh doanh,
Chính phủ không phụ thuộc vào những ràng buộc, thỏa thuận từ các nguồn đầu tư,
tài trợ bên ngoài. Do đó, xuất khẩu là một phương cách tích lũy ngoại tệ hữu hiệu
cho quốc gia, tránh tạo ra tình trạng nợ nước ngoài và thâm hụt cán cân thương mại.
1.1.3.2. Hoạt động xuất khẩu là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Xuất khẩu đóng góp tích cực vào sự phát triển của quốc gia nhờ vào các tác
động tích cực của xuất khẩu đến nguồn nhân lực, quy mô hoạt động, sự phát triển
của các doanh nghiệp và nâng cao vị thế của quốc gia trên thị trường thương mại
thế giới.
Thứ nhất, các nguồn lực trong nước sử dụng hiệu quả hơn nhờ vào xuất khẩu.
Trước khi xuất khẩu, các quốc gia sẽ bị hạn chế rất nhiều về thị trường tiêu thụ nên
các hoạt động sản xuất thường chỉ ở mức trung bình, trình độ công nghệ, kĩ thuật
lúc này chưa cao. Từ khi đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, nguồn lực về vốn, trí tuệ,
kĩ thuật, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất được nâng cao, hiện đại hóa hơn, mở ra
những hướng đi đầy triển vọng cho sản xuất trong nước
Thứ hai, việc mở rộng quy mô xuất khẩu tạo ra sự phân công lao động hợp lý
và có hiệu quả trong nội bộ doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp với nhau. Đây
là điểm quan trọng đối với các đơn vị kinh tế tham gia chính vào hoạt động xuất
khẩu hàng hoá và dịch vụ. Dựa vào sự phân công lao động, các lợi thế so sánh của
quốc gia được phát huy hơn nữa, góp phần vào sự chuyên môn hóa, phân công lao
động quốc tế ngày càng chuyên nghiệp, thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển theo
kịp sự phát triển của thế giới.
Thứ ba, xuất khẩu là phương thức tồn tại và phát triển của nhiều doanh nghiệp,
mang lại lợi ích cho quốc gia, nhất là trong thời đại toàn cầu hóa hiện này. Để có thể
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và không ngừng nâng cao tỷ trọng kim ngạch xuất
khẩu, các nhà sản xuất phải biết tận dụng các lợi thế của mình đồng thời luôn đổi
mới công nghệ, trang thiết bị phục vụ sản xuất, nắm bắt nhanh biến động thị trường
và phản ứng linh hoạt để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao thì mới tăng
9
được khả năng cạnh tranh hàng hoá của trên thị trường thế giới. Chính sự đầu tư đó,
doanh nghiệp sẽ tạo ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao, xây dựng
được lòng tin đối với khách hàng và tạo được thương hiệu trên thị trường toàn cầu.
Xây dựng thương hiệu doanh nghiệp đóng góp phần nào vào việc quảng cáo về
quốc gia mình, giới thiệu về quốc gia mình và với những sản phẩm chất lượng cao,
tạo uy tín với các quốc gia khác, nâng cao vị thế của nước ta trong quan hệ chính trị
và thương mại, tạo điều kiện cho kinh tế quốc gia phát triển.
1.1.3.3. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Nhận thấy các lợi ích từ hoat động xuất khẩu, các nhà đầu tư ngày có xu
hướng đầu tư vào những ngành có triển vọng xuất khẩu lâu dài, tạo lợi nhuận cao,
đẩy mạnh xuất khẩu sang nhiều thị trường khác nhau. Sự phát triển của các ngành
này sẽ tạo ra sự gia tăng nhu cầu đầu vào, giúp các ngành nghề hỗ trợ như điện,
nước, nguyên phụ liệu, máy móc thiết bị… gia tăng doanh thu. Đồng thời, sự phát
triển của xuất khẩu giúp cho thu nhập quốc dân tăng lên, dân số có thu nhập cao sẽ
chi tiêu vào các sản phẩm công nghệ cao và các dịch vụ đa dạng như các loại máy
móc hiện đại, các dịch vụ nghỉ dưỡng cao cấp. Nhự vậy, thông qua các mối quan hệ
trực tiếp, gián tiếp, xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát
triển, tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần ổn định và mở
rộng sản xuất, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai
thác tối đa năng lực sản xuất trong nước và đặc biệt đã góp phần chuyển dịch cơ cấu
nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hội nhập hóa, phù hợp với xu thế phát
triển của kinh tế thế giới.
1.1.3.4. Xuất khẩu có tác động đến đời sống xã hội
Xuất khẩu tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện
đời sống nhân dân.Việc đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi gia tăng sản xuất hàng xuất
khẩu, hoạt động này tạo thêm việc làm cho nhiều đối tượng lao động, nhất là lao
động ở những ngành nghề có đông nhân lực, giảm bớt tình trạng thất nghiệp trong
nước và tăng thu nhập cho người dân.
Xuất khẩu gia tăng làm tăng GDP, tăng thu nhập quốc dân, nâng cao đời sống
nhân dân. Nhu cầu tiêu dùng hàng hóa càng tăng lên với chất lượng ngày càng cao.
Việc xuất khẩu hàng hóa cũng tạo nguồn vốn cho việc nhập khẩu những vật phẩm
10
tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao
của người dân.
Có thể thấy rằng, hoạt động xuất khẩu đã đóng góp rất lớn vào việc đẩy mạnh
hoạt động thương mại giữa các nước với nhau, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa,
dịch vụ, tạo nguồn vốn để phục vụ cho các hoạt động nhập khẩu, đầu tư quy mô,
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh, góp phần nâng cao đời sống
của nhân dân và tạo những điều kiện thuận lợi đối với quá trình phát triển kinh tế
của một quốc gia. Trong xu thế thế giới hiện nay đang đẩy mạnh khu vực hóa, toàn
cầu hoá, các quốc gia ngày coi trọng phát triển thương mại quốc tế nói chung và
hoạt động xuất khẩu nói riêng.tranh của các doanh nghiệp kinh doanh, góp phần
nâng cao đời sống của nhân dân và tạo những điều kiện thuận lợi đối với quá trình
phát triển kinh tế của một quốc gia. Trong xu thế thế giới hiện nay đang đẩy mạnh
khu vực hóa, toàn cầu hoá, các quốc gia ngày coi trọng phát triển thương mại quốc
tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng.
1.2. Giới thiệu về gạo Việt Nam
Việt Nam có hai vùng trồng lúa chính là đồng bằng sông Hồng ở phía bắc
và đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam. Hàng năm sản lượng của cả nước đạt
33-34 triệu tấn thóc, trong đó chỉ sử dụng khoảng 8 triệu tấn (tương đương 4 triệu
tấn gạo sau khi xay xát) cho xuất khẩu, còn lại là tiêu thụ trong nước và bổ sung dự
trữ quốc gia.
1.2.1. Chủng loại
Ở mỗi miền Việt Nam có các giống lúa khác nhau. Có thể nói gạo Việt Nam
rất đa dạng về chủng loại. Ở miền Bắc, các giống lúa được chia làm 3 loại chính
gồm: giống lúa thuần Trung Quốc như Q5, Khang Dân 18, Ải 32, Bắc Thơm 7, Kim
Cương 90; giống lúa lại Trung Quốc như Nhị Ưu 838, D-Ưu 527; giống lúa thuần
Việt Nam như U17, XI 23, C70, CR 203, IR 64. Ngoài ra có thể kể đến một số loại
lúa cổ truyền của Việt Nam như Nếp Cái Hoa Vàng, Tám Xoan…Ở miền Nam nổi
bật có các giống lúa OM 576-18, IR 50404, OMCS 95-5, IR 62032, VND 95-20,
OM 1490…và các giống lúa cạn đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện như
LC 93-1 và LC 93-2. Tuy đa dạng về chủng loại như vậy, nhưng Việt Nam xuất
khẩu 3 loại gạo chính đó là gạo 5% tấm, gạo 25% tấm và gạo thơm.
11
Đặc điểm của lúa gạo Việt Nam là gạo phẩm cấp thấp và giá rẻ. Người nông
dân Việt Nam chủ yếu trồng giống IR50404 – là giống lúa gạo phẩm cấp thấp – để
phục vụ nhu cầu trong nước, nhu cầu gạo chất lượng thấp trên thế giới và nguyên
liệu cho chế biến. Bắt đầu từ năm 2012, Việt Nam tiến hành chuyển đổi sang trồng
các chủng loại gạo xuất khẩu từ gạo cấp thấp sang gạo cấp cao (5% tấm) và các loại
gạo thơm trên các cánh đồng mẫu lớn. Trong 11 tháng năm 2012, sản lượng gạo cao
cấp 5%, bao gồm cả gạo thơm, nếp, tấm… xuất khẩu được hơn 4,25 triệu tấn, chiếm
gần 60% tổng lượng gạo xuất khẩu cả năm và tăng 78% so với cùng kỳ năm 2011
(theo vass.org.vn).
1.2.2. Diện tích
Theo thống kê năm 2012, cả nước có tổng diện tích 4.068.000 ha lúa, trong đó
có 3.949.000 ha lúa nước và 119.000 ha lúa nương. Riêng diện tích trồng lúa nước
giảm 319.000 ha so với năm 2000 chủ yếu chuyển sang công nghiệp, tập trung ở
các vùng đồng bằng sông Hồng (Hải Dương giảm 1,3 nghìn ha/năm, Vĩnh Phúc 1,2
nghìn ha/năm, Hưng Yên 1,1 nghìn ha/năm); Đông Nam Bộ (TP.Hồ Chí Minh giảm
3,1 nghìn ha/năm, Tây Ninh 2,6 ha/năm, Bình Dương 1,2 nghìn ha/năm, Đồng Nai
1,9 nghìn ha/năm); còn đồng bằng sông Cửu Long chuyển sang nuôi trồng thủy sản
(Cà Mau giảm 8,5 nghìn ha/năm, Bạc Liêu 6,4 nghìn ha/năm, Sóc Trăng 4,2 nghìn
ha/năm). Đồng bằng sông Hồng có diện tích trồng lúa khoảng 15 000 km2. Đồng
bằng sông cửu long diện tích trồng lúa là 1,5-1,6 triệu héc ta, 3 vụ 1 năm: gồm vụ
mùa (1,5 triệu ha), vụ đông xuân (70-80 vạn ha) và vụ hè thu (1,1 triệu ha).
Hiện nay do tiến bộ kĩ thuật của sản xuất lúa, công tác thủy lợi cũng đã được
giải quyết khá mạnh mẽ nên nhiều vùng trước đây ngập nước đã được cải tạo. Do
vậy, phần lớn diện tích ở đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu là gieo sạ, cuối vụ vẫn
còn một số diện tích lúa nổi.
1.2.3. Chất lượng sản phẩm
Trong những năm qua, chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam tuy đã được
cải thiện song vẫn ở mức thấp hơn so với các nước xuất khẩu gạo khác của thế giới.
Hiện các loại gạo phẩm cấp cao của Việt Nam không nhiều và chủ yếu vẫn là loại
gạo phẩm cấp trung bình. Trong tỷ trọng xuất khẩu gạo 2001 thì gạo chất lượng cao
5% tấm chiếm 25%, gạo tấm 25% chiểm 32%, gạo 100% tấm chiếm 5%. Đến năm
12
2010 tỷ trọng gạo 5% tấm cũng chỉ tăng lên khoảng 30%, gạo 7-10% tấm chiếm
khoảng 8%, các loại gạo 15% tấm và 25% tấm chiếm tỉ trọng lớn nhất tới trên 55%
kim ngạch xuất khẩu. Năm 2012, trong cơ cấu gạo xuất khẩu của nước ta, chất
lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam còn kém, các loại gạo phẩm cấp cao như gạo 5%
tấm, gạo nếp, gạo thơm mới chiếm khoảng 50%.
Chất lượng gạo xuất khẩu 8 tháng đầu năm 2013 qua như sau: gạo trắng cao
cấp chiếm tỷ trọng 35,9%; loại trung bình 21,8%; loại cấp thấp 16,6%; tấm 5,1%;
gạo thơm 12,9%; nếp 5,1%; gạo đồ 1,6%; gạo lứt 0,4% và lúa 0,4%. So với cùng kỳ
năm 2012, tỷ lệ gạo trắng xuất khẩu đã giảm mạnh đến 32,1%; loại trung bình tăng
4% và loại gạo cấp thấp tăng 26,6%; đặc biệt loại gạo thơm tăng mạnh đến 78,2%.
1.2.4. Hệ thống chế biến
Thông thường xay xát gạo gồm 6 bước: phơi khô, làm sạch, bỏ lớp vỏ trấu bên
ngoài, bỏ lớp cám, làm bóng và phân loại.
1.3. Thị trường Trung Quốc và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc giai đoạn 2004-2013
1.3.1. Tổng quan về thị trường Trung Quốc
Trung Quốc nằm ở phía đông châu Á, bờ tây Thái Bình Dương. Biên giới đất
liền của Trung Quốc dài hơn 20.000km, phía đông giáp Triều Tiên, phía đông bắc
giáp Nga, phía bắc giáp Mông Cổ, phía tây bắc giáp Nga, Kazakhstan, phía tây giáp
Kyrgyzstan, Tajikistan, Afganistan, Pakistan, phía tây nam giáp Ấn Độ, Nepal,
Bhutan, phía nam giáp Myanmar, Lào và Việt Nam. Đông và đông nam trông ra
biển. Trung Quốc là quốc gia lớn thứ 3 thế giới về tổng diện tích (sau Nga và Hoa
Kỳ). Diện tích của Trung Quốc theo con số chính thức do Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa đưa ra là 9,6 triệu km2. Trung Quốc có 31 tỉnh và thành phố (có 3 thành
phố nằm trong top 55 thành phố lớn nhất thế giới là Thượng Hải, Thiên Tân và Bắc
Kinh) và 2 đặc khu hành chính là Ma Cao và Hồng Kông, cụ thể có 22 tỉnh, 5 khu
tự trị và 4 thành phố trực thuộc Trung ương. Ngoài hai đảo lớn là Trung Quốc và
Hải Nam, bên ngoài vùng lãnh hải của Trung Quốc còn có nhiều đảo lớn nhỏ.
(Wikipedia, 2013).
Trung Quốc thuộc khu vực gió mùa, khí hậu đa dạng từ ấm đến khô. Nhiệt độ
trung bình toàn quốc tháng 1 là -4,7oC, tháng 7 là 26
oC. Ba khu vực được coi nóng
13
nhất là Nam Kinh, Vũ Hán, Trùng Khánh. Khu vực sản xuất nông nghiệp của Trung
Quốc tập trung ở nửa phía Đông của Trung Quốc. Các sản phẩm nông nghiệp chủ
yếu của Trung Quốc gồm gạo, lúa mì, hạt nấu dầu, bông và trà. Là quốc gia chiếm
1/5 dân số thế giới, vấn đề lương thực của Trung Quốc luôn được đặt lên hàng đầu.
Tuy vậy, Trung Quốc được biết như là một đất nước có nhiều thiên tai như lũ lụt,
hạn hán và động đất, điều này ảnh hưởng khá nhiều đến sản xuất nông nghiệp của
Trung Quốc. (Wikipedia, 2013).
1.3.1.1. Kinh tế
Gần 30 năm thực hiện cải cách mở cửa, Trung Quốc đã thu được những thành
tựu to lớn, đưa Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn trên thế giới. Từ năm 1979 đến
2005, GDP bình quân hàng năm của Trung Quốc tăng trên 9,4%, đạt mức cao nhất
thế giới. Tính riêng năm 2005, năm cuối cùng thực hiện “kế hoạch 5 năm lần thứ
10”, GDP của Trung Quốc tăng trưởng 9,9%, đạt khoảng 2200 tỷ USD (gấp 50 lần
so với năm 1978), xếp thứ 4 trên thế giới; thu nhập bình quân của cư dân ở thành thị
đạt khoảng 1295 USD, ở nông thôn đạt khoảng 403 USD. Về kinh tế đối ngoại,
Trung Quốc kết thúc thời gian quá độ sau khi gia nhập WTO; tổng kim ngạch
thương mại đạt 1422 tỷ USD, tăng 23,2%, xếp thứ 3 trên thế giới (gấp 60 lần so với
năm 1978); dự trữ ngoại tê đạt 941 tỷ USD, đứng đầu thế giới. Kể từ năm 2003,
Trung Quốc đã vượt qua Mỹ trở thành nước thu hút đầu tư nước ngoài FDI lớn nhất
thế giới; năm 2005 FDI thực thế đạt 60,3 tỷ USD, đưa tổng số vốn đầu tư thực tế
vượt 620 tỷ USD. Năm 2009 tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đạt 2% với mức dự
trữ ngoại tệ đạt 2.399,152 tỷ USD. Năm 2011, tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc
đạt 9,5%, tương đương tăng trưởng GDP 6.989 tỷ USD. (Phòng thương mại và công
nghiệp, 2013)
Năm 2012, Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, chỉ sau Mỹ, là thành
viên của WTO, APEC và G-20. GDP năm 2012 của Trung Quốc là 8.358 nghìn tỷ
USD, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2012 đạt 7,8%. Ngành là nông nghiệp 10,1%
trong cơ cấu GDP của Trung Quốc, trong khi công nghiệp chiếm 45,3%, dịch vụ
chiếm 44,6%. Tỷ lệ lạm phát công bố tháng 12/2012 là 2,5%. Tỉ lệ thất nghiệp là
vào quý IV 2012 là 4,1%. Nợ công là 22,15%, tương đối cao so với thế giới.
Trong lĩnh vực đối ngoại, năm 2012, xuất khẩu của Trung Quốc đạt 2.021
14
nghìn tỉ USD, chiếm 27,3% tổng giá trị GDP, trong đó giá trị xuất sang các thị
trường lớn là Mỹ 17,2%, Hồng Kông 15,8%, Nhật Bản 7,4% và Hàn Quốc 4,3%.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm: máy móc thiết bị điện, máy móc gia công,
chế biến, sắt thép, dụng cụ y tế. Về nhập khẩu, tổng giá trị năm 2012 là 1.78 nghìn
tỷ USD, chiếm 24,5% tổng giá trị GDP, trong đó tỉ lệ các thị trường trọng yếu là
Nhật Bản 9,8%, Hàn Quốc 9,2%, Mỹ 7,1%, Đức 5,1% và Australia 4,3%. Các sản
phẩm nhập khẩu chủ yếu gồm: máy móc thiết bị điện, nhiên liệu, thiết bị y tế, quặng
kim loại, chất dẻo.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc năm 2012 là 253,4 tỉ USD,
tăng 10,84% so với năm 2011, trong đó quý I chiếm 25,09%, quý II chiếm 21,46%,
quý III chiếm 20,62%, quý IV chiếm 32,83%. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Trung Quốc năm 2012 là 62,4 tỉ USD, tăng 28,9% (tổng hợp từ Wikipedia 2012 và
OECD).
1.3.1.2. Dân số, xã hội
Trung Quốc là quốc gia đa dân tộc với 56 dân tộc được chính thức công nhận.
Trung Quốc là nước có dân số lớn nhất thế giới khoảng 1,35 tỉ người, tốc độ tăng
dân số năm 2012 là 0,4%. Dân tộc chủ yếu là người Hán chiếm tới 93% số dân cả
nước và là dân tộc chính trên một nửa diện tích Trung Quốc. Người Kinh (người
Việt) tạo thành một nhóm nhỏ tập trung ở vùng ven biển Quảng Tây.
Là một nước đông dân, chính phủ có “chính sách một con” từ năm 1979 để
hạn chế tăng dân số. Trung Quốc có tình trạng mất cân bẳng dân số nghiêm trọng
khi mà chi số này ở mức cao trong 4 năm liên tiếp gần đây – năm 2009 là 119,45,
năm 2010 là 117,94, năm 2011 là 117,78 và 2012 là 117,7 (mức tự nhiên là 106).
Dân số Trung Quốc có xu hướng già đi. Lực lượng lao động của Trung Quốc bắt
đầu giảm, lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ trở lại đây, giảm đi 3,45 triệu lao động,
xuống còn 937 triệu lao động, trong năm 2012.
Thu nhập bình quân theo đầu người của Trung Quốc năm 2012 là 6.071
USD/người, đứng thứ 87 trên thế giới. Trung Quôc được biết là thị trường tiêu thụ
gạo lớn nhất thế giới. Năm 2009, tổng sản lượng gạo tiêu thụ của Trung Quốc ước
đạt 156,3 triệu tấn, chiếm 29,4% của cả thế giới.
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu Gạo của Việt Nam
15
sang thị trường Trung Quốc
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam. Dưới
đây là một số yếu tố ảnh hưởng chính đến hoạt động xuất khẩu gạo trong tình hình
hiện nay:
1.3.2.1 Các nhân tố trong nước
Là những yếu tố nội tại, có thể chủ động kiểm soát, điều chỉnh hoặc hạn chế
được.
- Điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng: Khí hậu nhiệt đới gió mùa ở Việt Nam
cực kỳ thích hợp để trồng lúa, đặc biệt là ở Đồng Bẳng sông Cửu Long khi nhiệt độ
bình quân hàng năm cao (26,9oC) và ít biến động; không có mùa đông giá lạnh và
đầy ánh sáng; mùa khô thường khô hơn; mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 7, lượng
mưa hàng năm 1500 - 2000 mm; độ ẩm không khí bình quân 82%. Nước ta còn có
hệ thống sông ngòi dày đặc, đất đai màu mỡ, 2 vùng đồng bằng chính là sông Hồng
và đồng bằng sông Cửu Long được phù sa bồi đắp hàng năm, diện tích rộng lớn,
bằng phẳng, rất thuận lợi để phát triển nền nông nghiệp lúa nước. Tuy nhiên, bên
cạnh những thuận lợi về đất đai, thổ nhưỡng, ảnh hưởng của thời tiết theo từng vùng
miền cũng tạo ra áp lực lớn đối với việc trồng lúa, nhất là khi nước ta thường xuyên
chịu ảnh hưởng của bão, áp thấp nhiệt đới, hạn hán kéo dài làm giảm năng suất, gây
thiệt hại cho nông dân và mất đi cơ hội xuất khẩu.
- Nguồn nhân lực: Nhân lực ở đây bao gồm nguồn nhân lực trong hoạt động
nông nghiệp, bao gồm nông dân, nguồn nhân lực tại các doanh nghiệp, các chuyên
viên nghiên cứu, phát triển nông nghiệp. Hiện tại, lực lượng lao động trực tiếp trồng
trọt chiếm tỷ lệ lớn trong lao động cả nước, khoảng 75% lực lượng lao động của cả
nước, đặc biệt người nông dân Việt Nam có kinh nghiệm trồng lúa từ lâu đời. Bên
cạnh đó, các hoạt động nghiên cứu về giống, các biện pháp bảo vệ cây trồng ảnh
hưởng rất lớn đến việc chăm sóc và thu hoạch lúa gạo để xuất khẩu. Các kĩ sư tại
các cơ sở nghiên cứu giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hay các thiết bị máy
móc hỗ trợ cho công việc chăm sóc, thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch đang
đóng vai trò không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả của ngành lúa gạo Việt Nam,
tạo điều kiện nâng cao giá trị của hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra, nguồn nhân lực tại
các doanh nghiệp thu mua, chế biến, xuất khẩu cũng ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị
16
xuất khẩu lúa gạo thông qua các hoạt động chế biến, tìm kiếm thị trường và thỏa
thuận về giá cả cho lô hàng.
- Điều kiện cơ sở hạ tầng, sự phát triển của khoa học, kỹ thuật: Hệ thống
kênh rạch, tưới tiêu, hệ thống dẫn điện chiếu sáng, đường sá trong những khu vực
chuyên canh lúa gạo tương đối hoàn thiện. Tuy nhiên, máy móc hỗ trợ người nông
dân trong sản xuất và thu hoạch còn ở tỉ lệ thấp. Thống kê của viện Cơ điện nông
nghiệp và công nghệ sau thu hoạch (Bộ NN&PTNT) cho thấy, mức độ trang bị
động lực của nông nghiệp Việt Nam bình quân chỉ đạt 1,16 cv/ha canh tác, vùng
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có mức độ trang bị động lực cao nhất cả nước
cũng chỉ đạt 1,85 cv/ha. Con số này chưa bằng 1/3 của Thái Lan (4 cv/ha), 1/4 của
Hàn Quốc (4,2 cv/ha) và chỉ xấp xỉ 1/6 của Trung Quốc (6,06 cv/ha)…… Thành tựu
duy nhất đến ngày nay của ta chỉ là chế tạo được chiếc máy kéo, còn lại hầu hết các
máy móc trong sản xuất đều nhập khẩu từ Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Hệ
thống bảo quản của người nông dẫn vẫn còn rất thô sơ. Công đoạn làm khô chủ yếu
dựa vào năng lượng mặt trời, sân phơi không đảm bảo kỹ thuật, tỷ lệ áp dụng máy
sấy còn rất thấp, công nghệ sấy cũng như chất lượng máy sấy còn lạc hậu; tỷ lệ hao
hụt ở khâu này đối với lúa 3,3% - 3,9%. Phương tiện bảo quản, cất trữ nông sản
trong dân còn hết sức thô sơ chủ yếu là hòm, gỗ, thùng, chum, vại nên mức tổn thất
có thể lên đến 4% sau 3 tháng tồn trữ (agroviet.gov.vn).
- Tác động của Nhà nước và Chính phủ: Các quyết định, chính sách của
Nhà nước gồm thu mua lúa gạo của nông dân, qui định giá gạo hay qui định phần
trăm lãi trên 1 kg gạo cho người nông dân là động lực cho người nông dân tiếp tục
sản xuất. Các chính sách cũng hỗ trợ các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc xuất
khẩu gạo. Các quy định về hàm lượng thuốc hóa học, phân bón và các chính sách
hỗ trợ khác giúp cho nông dân thuận lợi hơn trong việc mở rộng chủng loại, diện
tích cây trồng, áp dụng khoa học tiên tiến vào trồng trọt, tăng năng suất cũng như
chất lượng của gạo Việt Nam.
1.3.2.2 Các nhân tố ngoài nước
Những yếu tố sau có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu gạo của
Việt Nam mà nước ta cần linh hoạt, chủ động nắm bắt tình hình, diễn biến để củng
cố, phát triển xuất khẩu gạo.
17
- Các yêu cầu, tiêu chuẩn của nước nhập khẩu: Các yêu cầu về vệ sinh an
toàn thực phẩm, dịch tễ, về hạn ngạch nhập khẩu, thuế, về yêu cầu giấy phép ảnh
hưởng trực tiếp đến việc xuất khẩu gạo của nước ta. Đây là một yếu tố mà các
doanh nghiệp cũng như Chính phủ cần thường xuyên theo dõi nhằm thực hiện đúng,
tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh xuất khẩu gạo những năm sau.
- Nhu cầu và thị hiếu: Nhu cầu gạo của thế giới trong những năm gần đây đã
tác động mạnh vào sản lượng và giá cả gạo xuất khẩu của nước ta, đặc biệt là Trung
Quốc. Do các năm gần đây thiên tai trên thế giới nhiều hơn và mức độ thiệt hại
cũng cao hơn, nhu cầu về gạo để đảm bảo an ninh lương thực của các quốc gia cũng
tăng theo. Về phía Trung Quốc, do một số chính sách gần đây mà giá gạo trong
nước đã tăng lên đáng kể, vì thế nhu cầu gạo giá rẻ tăng lên đột biến. Việc trồng trọt
trong nước cần được phân công rõ để đảm bảo được nguồn cung, sẵn sàng đáp ứng
các đơn hàng lớn của đối tác nước ngoài, nhất là các nước đang có nhu cầu nhập
khẩu gạo của nước ta. Đây sẽ là cơ hội tốt cho hoạt động xuất khẩu sau này. Đồng
thời, doanh nghiệp trong nước cần nắm bắt diễn biến nhu cầu và giá cả để đạt được
những hợp đồng có giá trị cao, mở rộng thêm thị trường.
- Sự cạnh tranh: Gạo Việt Nam trên thị trường thế giới có lợi thế về giá so
với giá chung của thế giới, tuy nhiên lại kém về chất lượng. Có thể lấy ví dụ như
Gạo Khao Dawk Mali của Thái Lan được đánh giá là trắng và mềm cơm hơn so với
gạo Trắng Việt Nam, dễ nấu hơn và ngọt hơn so với gạo Việt. Tuy vậy, giá của loại
gạo Thái trên khoảng 50 000 VND/kg so với chỉ 38 000 VND/kg của gạo Việt. Yếu
tố địa ly cũng là một điểm mạnh của Việt Nam. Chúng ta có đường biên giới với
Trung Quốc vì thế xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung Quốc có lợi thế hơn
trong việc vận chuyển và cũng điều đó cũng giúp giảm giá thành. Thương hiệu gạo
xuất khẩu cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến sự cạnh tranh, trong đó giá và chất
lượng là hai yếu tố thể hiện rõ nhất năng lực cạnh tranh nhất của các nước xuất khẩu
gạo. Thương hiệu của gạo quốc gia càng mạnh thì hoạt động xuất khẩu càng được
đảm bảo, kim ngạch xuất khẩu được duy trì và phát triển ổn định.
1.4. Tầm quan trọng của xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc
Gạo Việt Nam hiện tại xuất khẩu trên 28 nước trên thế giới. Các thị trường lớn
của chúng ta gồm Indonesia, Philippins, Malaysia, Bờ Biển Ngà… Cả năm 2012
18
nước ta đã xuất khẩu 8,02 triệu tấn gạo, thu về 3,67 triệu USD (tăng 12,71% về
lượng và tăng nhẹ 0,45% về kim ngạch so với năm 2011).
Bảng 1.1: Giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam sang
một số thị trường trên thế giới
Đơn vị: Nghìn USD
Năm
Một số thị trường xuất khẩu gạo chủ lực của Việt Nam
Indo Philippins Malaysia Bờ Biển
Ngà
Singapore China
2004 18.780 171.673 103.142 31.089 23.912 19.185
2005 27.308 462.382 116.401 78.979 10.509 12.587
2006 104.617 429.249 139.551 52.953 26.753 12.442
2007 378.980 468.157 116.684 40.042 25.912 15.958
2008 34.823 1.178.032 271.426 74.997 41.222 1.426
2009 7.214 917.227 272.193 136.969 134.936 8.297
2010 346.017 947.379 177.689 119.197 227.810 55.569
2011 1.019.301 478.279 292.092 138.811 197.938 160.689
2012 458.392 475.264 403.158 203.373 131.360 898.430
(Tổng hợp từ Vinanet.com.vn và Intracen)
Nếu từ năm 2011 trở về trước, giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung
Quốc là rất nhỏ sang thị trường Trung Quốc thì vào năm 2012, Trung Quốc vượt lên
là thị trường lớn nhất tiêu thụ gạo của Việt Nam với 898,43 triệu USD, chiếm
24,46% tổng kim ngạch, tăng 459,11% về kim ngạch so với năm trước. Hiện tại,
trong năm 2013, Trung Quốc vẫn đang là thị trường chủ lực của xuất khẩu gạo Việt
Nam.
1.4.1. Về lợi ích kinh tế
Xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc tạo thu nhập ngoại tệ cho quốc gia.
Nguồn ngoại tệ này sẽ dùng để nhập khẩu các máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại
phục vụ cho các ngành sản xuất trong nước cũng như cho chính ngành nông nghiệp.
Tính đến hết 10 tháng/2013, lượng xuất khẩu gạo đạt 5,85 triệu tấn, trị giá 2,57 tỷ
USD. Trong 10 tháng năm 2013, Việt Nam xuất khẩu gạo thị trường Trung Quốc
tổng giá trị là 1,93 triệu tấn, bằng 25% kế hoạch năm.
19
1.4.2. Về xã hội
Nhờ vào việc đẩy mạnh xuất khẩu gạo, người nông dân áp dụng các giống cây
mới, các biện pháp chăm sóc và tiêu chuẩn về chất lượng, giúp cho năng suất sau
thu hoạch cao, giá xuất khẩu lại cao, từ đó nâng cao đời sống nhân dân. Thêm vào
đó, việc đẩy mạnh xuất khẩu gạo sang Trung Quốc sẽ giúp giải quyết việc làm cho
những người thất nghiệp, giúp người dân ở Việt Nam giảm chênh lệch về mức sống
và xã hội tăng trưởng ổn định hơn.
1.4.3. Về hội nhập quốc tế
Trung Quốc hiện tại là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của nước ta, vượt cả
những thị trường truyền thống trước đây như Indonesia, Malaysia và Philippins.
Việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc có thể giúp nước ta duy trì
cũng như tiếp tục nâng cao vị thế mặt hàng gạo trên thế giới nhờ việc không ngừng
khẳng định thương hiệu của nhiều loại gạo chất lượng của nước ta. Từ đó, hoạt
động xuất khẩu gạo có điều kiện mở rộng sang các nước lân cận và các nước lớn
trên thế giới, giúp việc xuất khẩu gạo phân tán bớt rủi ro khi có các biến động thị
trường toàn cầu. Việt Nam lại có thể xây dựng với quan hệ kinh tế, chính trị với các
nhiều nước khác trong quá trình hội nhập quốc tế, tạo điều kiện phát triển kinh tế
trong nước. Ngoài ra, chúng ta sẽ có cơ hội thâm nhập nhiều hơn vào các thị trường
khó tính như Mỹ, EU và Nhật Bản.
1.4.4. Về sự phát triển ngành nông nghiệp nói chung và ngành gạo nói riêng
của Việt Nam
Nhờ vào xuất khẩu, các nguồn lực tiềm năng về khí hậu, thổ nhưỡng, khí hậu
được đẩy mạnh khai thác. Với khí hậu hoàn toàn phù hợp cho việc trồng lúa nước,
sự phân bổ về địa hình cùng với các vùng đất giàu dinh dưỡng, nhiều chủng loại
gạo năng suất cao và thâm canh 2-3 vụ/năm, gạo không chỉ đáp ứng tốt nhu cầu
lương thực trong nước mà còn sẵn sàng đáp ứng cho việc xuất khẩu. Hoạt động
trồng trọt cũng được phân bổ dựa theo điều kiện về đất đai, thời tiết để thu hoạch
được sản lượng gạo cao nhất với chất lượng tốt và đồng đều. Ngoài ra, khi hoạt
động xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc càng được đẩy mạnh thì các doanh
nghiệp, hộ nông dân càng chú trọng vào việc áp dụng các biện pháp chăm sóc, chế
biến, bảo quản tiên tiến nhất nhằm nâng cao giá trị gạo và đáp ứng được những yêu
20
cầu của thị trường này về an toàn thực phẩm, dịch tễ…, giúp nâng cao chất lượng
của gạo và giảm thiểu chi phí trong việc trồng trọt, chế biến và xuất khẩu. Đồng
thời, thông qua xuất khẩu, ngành nông nghiệp sẽ có sự chuyển dịch về cơ cấu,
ngành gạo được tập trung phát triển các loại có thế mạnh xuất khẩu. Ngành gạo
cũng sẽ có chuyển biến về cách canh tác, chúng ta đang áp dụng nhiều loại giống
lúa mới cho năng suất và chất lượng cao hơn các giống truyền thống, đồng thời tiến
hành xây dựng thương hiệu và hoàn thiện qui trình thu hoạch, chế biến và xuất khẩu.
Nhờ vào đó, hoạt động sản xuất và gạo Việt Nam sẽ chuyên nghiệp hơn với sự hình
thành rõ các vùng chuyên canh gạo phục vụ cho tiêu dùng trong nước và để xuất
khẩu.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 tập trung giới thiệu về gạo Việt Nam, về thị trường Trung Quốc
cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam, tầm
quan trọng của hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc.
Với những thuận lợi về diện tích trồng trọt lớn, thổ nhưỡng tốt, vị trí địa lý thuận lợi,
nguồn cung lớn, giá cả thấp… là cơ sở để đẩy mạnh phát triển hoạt động xuất khẩu
gạo sang các nước trên thế giới, trong đó có Trung Quốc. Trung Quốc đã có quan hệ
kinh tế với Việt Nam từ lâu, gần đây là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt
Nam và vẫn đang tiếp tục gia tăng nhập khẩu gạo từ nước ta với nhiều chủng loại
mới. Hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung Quốc không chỉ tác động
đến sự phát triển kinh tế mà còn đến đời sống nhân dân, khả năng hội nhập quốc tế
và sự phát triển của ngành nông nghiệp, gạo của nước ta. Dựa vào chương 1,
chương 2 sẽ tiến hành phân tích thực trạng và các thành tựu, hạn chế trong hoạt
động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong giai đoạn 2004
– 2013.
21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO
CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC TRONG GIAI
ĐOẠN 2004-2013
2.1. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc giai
đoạn 2004 – 2013
2.1.1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung Quốc
giai đoạn 2004 – 8/2013
Đơn vị: Nghìn USD
Năm
Tổng kim
ngạch xuất
khẩu sang
Trung Quốc
Tỷ lệ tăng
trưởng so với
năm trước (%)
Tổng kim
ngạch xuất
khẩu ra thế
giới
Tỷ lệ kim ngạch
xuất khẩu sang
Trung Quốc so với
thể giới (%)
2004 19.185 950.315 2,02
2005 12.587 -34,39 1.408.379 0,89
2006 12.442 -1,15 1.275.895 0,98
2007 15.958 28,26 1.490.180 1,07
2008 1.426 -91,06 2.895.938 0,05
2009 8.297 481,84 2.666.062 0,31
2010 55.569 569,75 3.249.502 1,71
2011 160.689 189,17 3.659.212 4,39
2012 898.430 459,11 3.673.102 24,46
8/2013 671.610 2.140.000 31,38
(Nguồn: Tổng hợp từ Intracen, Hải quan Việt Nam, Vinanet, Vinachina)
Từ năm 2004, đến năm 2010, gạo Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc
chiếm mức cao nhất chỉ khoảng 2% tổng giá trị xuất khẩu của cả năm. Năm 2011 tỷ
trọng này có tăng lên 4,39%. Bắt đầu từ năm 2012, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu
gạo sang Trung Quốc so với tổng kim ngạch xuất khẩu gạo tăng vọt lên 24,46%.
Nguyên nhân là do vào năm 2012, Trung Quốc nhận định sản xuất trong nước
không đem lại hiệu quả kinh tế cao như trước, mặt khác gạo trên thị trường thế giới
có giá hợp lý và chất lượng ổn định, vì thế Trung Quốc tăng cường nhập khẩu gạo
22
từ bên ngoài để phục vụ nhu cầu trong nước. Hiện tại, theo số liệu ước tính đến
tháng 8 năm 2013 thì tỷ trọng xuất khẩu gạo sang Trung Quốc của Việt Nam đạt
31,38% - gần một phần ba so với tổng giá trị xuất khẩu gạo cả nước. Theo một số số
liệu gần hơn vào tháng 10/2013, khối lượng gạo xuất khẩu sang Trung Quốc đạt
50% tổng khối lượng gạo Việt xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Năm 2004, do ở Trung Quốc thời tiết không tốt, mùa màng bị thất bát làm sản
lượng gạo giảm đáng kể, ảnh hưởng an ninh lương thực. Trước tình hình đó, vào
cuối năm 2004, Trung Quốc đã tăng cường nhập khẩu gạo từ Việt Nam. Tuy nhiên,
chúng ta đã không tận dụng được cơ hội này do áp lực từ đối thủ cạnh tranh trực
tiếp là gạo Thái Lan. Sản lượng gạo nhập khẩu từ nước ta năm 2004 không quá lớn,
và chủ yếu qua đường tiểu ngạch do thương lái Trung Quốc nhập vào.
Năm 2008, nhu cầu tiêu dùng gạo của Trung Quốc là 127 triệu tấn. Tuy nhiên
trong năm này nên nông nghiệp Trung Quốc hứng chịu thiên tai nặng nề, đặc biệt là
năng suất cây lương thực và sản lượng giảm đáng kể. Tháng 1 và 2/2008, tuyết rơi
dày ở Trung Quốc khiến đất nước này bị mất mùa và đẩy giá gạo trong nước tăng
cao. Tháng 5/2008, trận động đất lớn xảy ra ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc đã gây
thiệt hại nặng nề lên tỉnh Tứ Xuyên – là tỉnh nông nghiệp lớn ở Trung Quốc với các
vùng trồng lúa, lúa mỳ, ngô và chăn nuôi lợn, và là tỉnh đứng hàng thứ 5 về sản
lượng gạo của Trung Quốc. Vì vậy, nhu cầu nhập khẩu gạo của Trung Quốc từ thế
giới tăng cao để cân đối thiếu hụt và bổ sung dự trữ. Tuy nhiên, trong năm này
chúng ta lại không xuất khẩu được nhiều gạo sang thị trường Trung Quốc. Tổng
kim ngạch giảm mạnh đến 91,06%, tỉ lệ trong tổng kim ngạch chỉ còn 0,05%,, gần
như không xuất khẩu gì. Lý do vì chất lượng gạo yêu cầu của Trung Quốc khá cao,
trong khi đặc điểm của gạo Việt là giá rẻ và chất lượng thấp, không phù hợp với yêu
cầu gạo của Trung Quốc.
Năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung Quốc
tăng trở lại, 1,426 triệu USD lên 8,297 triệu USD, tăng 481,94%, tuy nhiên vẫn
chiếm một giá trị rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam ra thế
giới (0,31%) và vẫn chưa trở lại mốc 16 triệu USD năm 2007.
Nhìn chung giai đoạn 2004 – 2009, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam
sang Trung Quốc chỉ chiếm một tỉ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu
23
gạo của Việt Nam.
Bảng 2.2: Xuất khẩu gạo Việt Nam sang Trung Quốc năm 2010
Đơn vị: Sản lượng: Nghìn tấn; Kim ngạch: Triệu USD
07/2010 08/2010 11/2010 12/2010
China Total China Total China Total China Total
Sản lượng 14,110 853,531 18,573 614,548 4,950 497,344 12,805 499,726
Tỉ lệ (%) 1,65 3,02 1,00 2,56
Kim ngạch 5,668 359,408 7,458 229,275 2,685 244,233 7,530 259,835
Tỉ lệ (%) 1,58 3,25 1,10 2,9
Sản lượng từ đầu năm 79,2 4.317 98,08 4.951 110,58 6.378 124,47 6.883
Tỉ lệ (%) 1,83 1,98 1,73 1,81
Tổng kim ngạch
từ đầu năm 32,93 2.09 40,49 2.327,68 46,631 2.983,8 54,636 3.247,8
Tỉ lệ (%) 1,57 1,74 1,56 1,68
(Nguồn: Tổng hợp từ Hải quan Việt Nam và Vinanet)
Năm 2010 đánh dấu sự thay đổi đáng kể của hoạt động nhập khẩu gạo Việt
Nam sang thị trường Trung Quốc. Tính đến tháng 7 năm 2010, chúng ta xuất khẩu
được 79,208 nghìn tấn sang thị trường Trung Quốc, trị giá 32 triệu USD, chiếm
1,83% về lượng và chiếm 1,6% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam. Ngoài
ra, trong tháng 8/2010, Trung Quốc vươn lên đứng thứ 3 trong số các thị trường
nhập khẩu gạo Việt Nam. Tổng giá trị xuất khẩu gạo trong tháng đạt 7,5 triệu USD,
tăng hơn 31,58% so với tháng trước và chiếm 3,25% tổng giá trị xuất khẩu trong
tháng. Tháng 8 cũng là tháng có tổng sản lượng nhập khẩu cao nhất năm, ở mức
18,5 nghìn tấn, tăng 31,6% so với thang trước và chiếm 3,02% so với tổng sản
lượng trong tháng.
Là một trong 19 thị trường mới tham gia vào danh mục xuất khẩu gạo Việt
Nam từ tháng 7/2010 nhưng hết 11 tháng Trung Quốc đạt 110,58 nghìn tấn, trị giá
46,63 triệu USD (chiếm 1,73% về lượng và 1,56% tổng kim ngạch). Cả năm, Việt
Nam xuất khẩu được gần 6,9 triệu tấn gạo sang Trung Quốc, tổng giá trị khoảng
54,6 triệu USD, chiếm 1,81% về lượng và 1,68% tổng kim ngạch). Dù tỉ trọng về
giá trị không cao, tuy nhiên năm 2010 xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung
Quốc đã vượt rất xa mốc 16 triệu USD xuất khẩu gạo sang Trung Quốc cao nhất
trong giai đoạn 2004-2009.
24
Bảng 2.3: Giá trị xuất khẩu gạo Việt Nam sang Trung Quốc năm 2011
Tháng/2011 Sản lượng (nghìn tấn) Kim ngạch (triệu USD)
China Total % China Total %
01 2,385 536,291 0,44 1,681 279,542 0,60
02 7,32 493,85 1,48 4,512 241,023 1,87
03 63,62 891,757 7,13 30,528 446,065 6,84
04 82,979 799,75 10,38 38,586 375,993 10,26
05 37,679 644,293 5,85 19,186 314,51 6,10
06 27,929 667,953 4,18 13,951 321,453 4,34
08 14,627 763,526 1,92 8,146 394,774 2,06
09 13,178 454,518 2,90 7,405 253,065 2,93
10 7,19 449,915 1,60 4,667 256,677 1,82
11 4,675 403,026 1,16 3,605 240,978 1,50
Cả năm 306,0509 7.105 4,31 153,4297 3.507 4,37
(Nguồn: Tổng hợp từ Hải quan Việt Nam và Vinanet)
Tháng 01/2011, gạo Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 77,67%,
đạt 1,68 triệu USD.
Tháng 3/2011, xuất khẩu sang Trung Quốc tăng rất mạnh cả về lượng và trị
giá so với tháng trước cũng như so với cùng kỳ năm ngoái và đạt 636 nghìn tấn, trị
giá 30,5 triệu USD, đứng vị trí 3 về trị giá xuất khẩu trong tháng, chỉ sau thị trường
Philippin và Indonesia.
Bắt đầu từ quí II/2011, tháng 4, xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc đạt
82,979 nghìn tấn, là tháng xuất khẩu sang Trung Quốc cao nhất trong cả năm,
chiếm lần lượt là 10,38% về tổng sản lượng và 10,26% về tổng kim ngạch xuất
khẩu gạo.. Sang tháng 5/2011, xuất khẩu gạo sang Trung Quốc giảm đáng kể, chỉ
đạt 37,68 nghìn tấn, giảm 54,59% so với tháng 4/2011. Cùng trong tháng này, xu
hướng giảm trền hầu hết các thị trường chủ lực khác của gạo Việt Nam như
Malaysia giảm 30,11%, CuBa giảm 3,46%, Singapore giảm 50,89%,…
Những tháng cuối năm 2011 chứng kiến sự giảm sút trong xuất khẩu gạo sang
Trung Quốc.Dù vậy, Trung Quốc vẫn gia nhập thị trường xuất khẩu hơn 100 triệu
USD của Việt Nam, với giá trị xuất khẩu đạt 143,48 triệu USD, chiếm 4,84%. Tính
25
chung cả 9 tháng đầu năm 2011, xuất khẩu gạo sang Trung Quốc vẫn tăng về lượng
và kim ngạch so với cùng kỳ, tăng 171,84% về lượng và tăng 230,5% về kim
ngạch). Tính đến cuối tháng 10 năm 2011, gạo Việt nam xuất khẩu sang Trung
Quốc đạt giá trị 148,14 triệu USD.
Bảng 2.4: Xuất khẩu gạo Việt Nam sang Trung Quốc năm 2012
Tháng
/2012
Sản lượng (nghìn tấn) Kim ngạch (triệu USD)
China Total % China Total %
04 393 872 45,07 183,54 380 48,30
05 205 750 27,37 85,723 330,17 26,00
06 140 877 15,96 59,2884 383 15,48
07 230 911 25,25 101,357 395 25,66
08 270 816 33,09 124,538 365 34,12
10 117,29 657 17,85 53,371 311,67 17,00
11 85,947 601 14,3 40,941 291,96 14,00
12 164,68 518 31,79 72,6915 245 29,67
Cả năm 2.501,9 8.872 28,2 1.167,6 3.674 31,78
(Nguồn: Tổng hợp từ Hải Quan Việt Nam, Vinanet)
Đây được xem là năm đột biến về xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung
Quốc khi mà mọi chỉ số đều tăng vọt. Điểm nhấn đầu năm 2012 là chỉ trong 20
ngày đầu tháng 1/2012 đã xuất khẩu được 184.558 tấn gạo các loại sang Trung
Quốc, trị giá FOB 103,308 triệu USD, bằng 67,3% so với cả năm 2011.
Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy trong tháng 4/2012, lượng
gạo xuất khẩu đạt 872 nghìn tấn và trị giá đạt 380 triệu USD, tăng 39,6% về lượng
và tăng 32% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết 4 tháng/2012, tổng lượng
gạo xuất khẩu của cả nước đạt gần 2,2 triệu tấn, trị giá đạt 1,03 tỷ USD, giảm
19,2% về lượng và giảm 23,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2011. Trong đó, gạo
của Việt Nam xuất sang các châu lục đều giảm nhưng lại tăng đột biến sang thị
trường Trung Quốc. Đặc biệt, trong tháng 4/2012 xuất khẩu gạo sang Trung Quốc
đạt 393 nghìn tấn, tiếp tục tăng mạnh so với các tháng trước đó. Tính đến hết tháng
4/2012 tổng lượng gạo xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 680 nghìn tấn, tăng gấp hơn
4,4 lần và chiếm 31% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước.
26
Tháng 5/2012, Trung Quốc tiếp tục là nhân tố tạo nên sự khác biệt và tác động
mạnh đến thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất khẩu gạo
sang thị trường Trung Quốc đạt 85,72 triệu USD, chiếm 26% tổng kim ngạch xuất
khẩu gạo trong tháng của cả nước, trong khi hai khách hàng lớn nhất cách đây 2
năm là Indonesia và Philippines chỉ chiếm lần lượt 11% và 7% thị phần. Về sản
lượng, chúng ta xuất khẩu sang Trung Quốc khoảng 205 nghìn tấn, chiếm 27,37%
tổng sản lượng trong tháng. Sản xuất gạo trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng chính là nguyên nhân khiến cho lượng đơn hàng nhập khẩu gạo của Trung
Quốc tăng vọt. Tuy là nước sản xuất lúa gạo lớn nhất thế giới, nhưng do lượng gạo
dự trữ chỉ chưa đến 47 triệu tấn, đẩy giá gạo nội địa lên cao, buộc nước này phải tìm
nguồn gạo từ bên ngoài với giá rẻ hơn. Thời điểm này, gạo Việt Nam có giá khá
cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt so với Thái Lan, cộng với đường vận chuyển
gần. Đó là lý do vì sao gạo Việt Nam được Trung Quốc lựa chọn.
Tháng 6/2012, cả nước xuất khẩu 877 nghìn tấn gạo, tăng 19%, trị giá đạt
383 triệu USD, tăng 16% so với tháng trước. Tính đến hết 6 tháng/2012, lượng gạo
xuất khẩu là 3,82 triệu tấn, giảm 6% và trị giá đạt 1,75 tỷ USD, giảm 12,2% so với
cùng kỳ năm trước. Thị trường Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng. Sản lượng nhập
khẩu sang Trung Quốc chỉ còn khoảng 140 nghìn tấn, chỉ chiếm 16% tổng sản
lượng xuất khẩu trong tháng.
Tháng 7/2012, cả nước xuất khẩu 911 nghìn tấn, tăng 3,9%, trị giá đạt 395
triệu USD, tăng 3,1% so với tháng trước. Tính đến hết 7 tháng/2012, lượng xuất
khẩu nhóm hàng này là hơn 4,73 triệu tấn, tăng 0,3% và trị giá đạt 2,15 tỷ USD,
giảm 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến hết tháng 7, Trung Quốc trở thành
đối tác lớn nhất nhập khẩu gạo của Việt Nam với 1,34 triệu tấn, tăng gấp hơn 5 lần
so với cùng kỳ năm 2011.
Tháng 8/2012, cả nước xuất khẩu 816 nghìn tấn, giảm 10,5%, trị giá đạt 365
triệu USD, giảm 7,6% so với tháng trước. Nếu tính từ đầu năm, lượng xuất khẩu
nhóm hàng này là 5,56 triệu tấn, tăng 1,4% và trị giá đạt 2,52 tỷ USD, giảm 7,3% so
với cùng kỳ năm trước. Tính đến hết tháng 8/2012, Trung Quốc trở thành đối tác
lớn nhất nhập khẩu gạo của Việt Nam với 1,57 triệu tấn, tăng gấp 5,8 lần so với
cùng kỳ năm 2011.
27
Tháng 10/2012, lượng gạo xuất khẩu của cả nước trong tháng là 657 nghìn tấn,
giảm 2,5%, trị giá đạt 312 triệu USD, tăng 2,9% so với tháng trước. Như vậy, tính
đến hết tháng 10/2012, lượng xuất khẩu nhóm hàng này là 6,9 triệu tấn, tăng 8% và
trị giá đạt 3,13 tỷ USD, giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong 10 tháng
qua, Trung Quốc là đối tác lớn nhất nhập khẩu gạo của Việt Nam với 1,84 triệu tấn,
tăng gấp hơn 6 lần so với cùng kỳ năm 2011.
Tháng 11/2012, lượng gạo xuất khẩu của cả nước trong tháng 11 là 601 nghìn
tấn, giảm 8,5%, trị giá đạt 292 triệu USD, giảm 6,3% so với tháng trước. Như vậy,
tính đến hết tháng 11/2012, lượng xuất khẩu nhóm hàng này là 7,5 triệu tấn, tăng
10,5% và trị giá đạt 3,43 tỷ USD, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong 11
tháng qua, Trung Quốc là đối tác lớn nhất nhập khẩu gạo của Việt Nam với 1,92
triệu tấn, tăng gấp 6,5 lần so với cùng kỳ năm 2011.
Biểu đồ 1: Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2012
(Nguồn: Hải quan Việt Nam)
Tháng 12/2012, lượng gạo xuất khẩu của cả nước trong tháng là 518 nghìn tấn,
giảm 13,8%, trị giá đạt 245 triệu USD, giảm 16,2% so với tháng trước. Tính đến hết
năm 2012, lượng xuất khẩu đạt hơn 8 triệu tấn, tăng 12,7% và trị giá đạt 3,67 tỷ
USD, tăng nhẹ 0,4% so với năm 2011. Trong đó, thị trường Trung Quốc là thị
trường xuất khẩu gạo lớn nhất và quan trọng nhất của nước ta, với 2,501 triệu tấn
28,20%
13,20%
12,10%
11,00%
8,30%
6%
4,50%
4,00% 3,80%
3,40% 3,00% 2,80% Trung Quốc
Khác
Malaysia
Indonesia
Philippin
Bờ biển Ngà
Ganna
Singapore
Hong Kong
Senegal
Taiwan
Cuba
28
gạo với tổng giá trị ước tính 1,167 tỉ USD, chiếm tới 28,2% tổng sản lượng và
31,78% tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của nước ta.
Bảng 2.5: Xuất khẩu gạo Việt Nam sang Trung Quốc 7 tháng đầu năm 2013
Tháng
/2012
Sản lượng (nghìn tấn) Kim ngạch (triệu USD)
China Total % China Total %
01 163,431 517,653 32 71,318 244,746 29
02 186,552 362,717 51 75,989 160,116 47
03 358,407 767,922 47 146,220 335,190 44
04 204.,912 652,939 31 91,724 290,742 32
05 226,754 704,593 32 92,064 313,131 29
06 162,528 643,256 25 65,465 277,135 24
07 178,734 650,011 27 73,096 274,884 27
(Nguồn: tinthuongmai.vn)
Tháng 01/2013, lượng gạo xuất khẩu của cả nước trong tháng 01/2013 đạt
517,653 nghìn tấn, trị giá đạt 244,746 triệu USD, giảm 14,2% về lượng, giảm 17%
về trị giá so với tháng trước. Trung Quốc là quốc gia nhập khẩu gạo của Việt Nam
nhiều nhất với 163,431 tấn (chiếm gần 32%)
Tháng 2/2013, Trung Quốc đứng đầu trong các thị trường tiêu thụ gạo của
Việt Nam, với 186,552 triệu tấn, chiếm trên 51% tổng kim ngạch, đạt mức tăng
trưởng mạnh so với cùng kỳ (tăng 701,4% về lượng và tăng 538% về kim ngạch).
Lượng gạo xuất khẩu của cả nước trong tháng 02/2013 là gần 363 nghìn tấn, giảm
18,3%, trị giá đạt 160 triệu USD, giảm 21,2% so với tháng trước. Như vậy, tính đến
hết tháng 02/2013, lượng xuất khẩu nhóm hàng này là 809 nghìn tấn, tăng 15,3% và
trị giá đạt 364 triệu USD, giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 2 tháng đầu năm, Trung Quốc là đối tác lớn nhất nhập khẩu gạo của
Việt Nam với 350 nghìn tấn, tăng gấp 8,4 lần so với cùng kỳ năm 2012.
Tháng 3/2013, gạo xuất khẩu của cả nước tăng 200% so với tháng 2/2012, sản
lượng đạt mức 767,922 triệu tấn, đạt kim ngạch 335,190 triệu USD, trong đó, xuất
khẩu sang Trung Quốc chiếm 358,407 nghìn tấn, chiếm 47% tổng sản lượng và đạt
kim ngạch 146,220 triệu USD, chiếm 44% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo trong
29
tháng. So với tháng trước thì cả sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của tháng
này đều tăng trên 200%.
Tính chung cả quí I/2013 cả nước xuất khẩu 1,57 triệu tấn gạo, thu về 697,8
triệu USD (tăng 20,39% về lượng và tăng 8,33% về kim ngạch so với cùng kỳ năm
ngoái); trong đó riêng tháng 3 lượng gạo xuất khẩu đạt 767922 tấn, tương đương
335,19 triệu USD (tăng mạnh so với tháng trước đó với mức tăng 111,7% về lượng
và tăng 109,34% về kim ngạch). Trung Quốc tiếp tục dẫn đầu là thị trường tiêu thụ
gạo lớn nhất của Việt Nam, chiếm tới trên 45% về lượng và chiếm 41,66% về kim
ngạch, với 708322 tấn, thu về 290,72 triệu USD.
Trong 4 tháng đầu năm 2013, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 2,22 triệu tấn;
trị giá 985,33 triệu USD; giá bình quân 445 USD/tấn. So với cùng kỳ năm 2012, số
lượng gạo xuất khẩu tăng 0,94%; nhưng kim ngạch lại sụt giảm 4,58%; giá bình
quân giảm 28,16 USD/tấn. Riêng trong tháng 4 xuất khẩu gạo bị giảm đáng kể cả về
lượng và kim ngạch so với tháng trước đó. Lượng gạo xuất khẩu chỉ đạt 652.939 tấn,
tương đương 290,74 triệu USD (giảm 14,97% về lượng và giảm 13,26% về kim
ngạch). Thị trường tiêu thụ gạo nhiều nhất vẫn là Trung Quốc tháng 4 năm cũng sụt
giảm đáng kể so với tháng 3 (giảm 42,83% về lượng và giảm 37,27% về kim ngạch),
nhưng tính chung cả 4 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo sang thị trường này vẫn tăng
so với cùng kỳ, đạt 910.153 tấn, trị giá 381,17 triệu USD (tăng 33,9% về lượng và
tăng 29,72% về kim ngạch). Trong 4 tháng đầu năm này, Trung Quốc chiếm đến
38,69% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Tháng 5/2013, Trung Quốc công bố phát hiện tình trạng nhiễm độc kim loại
nặng cadmium trong gạo. Xuất khẩu gạo, sau khi bị sụt giảm cả về lượng và kim
ngạch trong tháng 4, sang tháng 5 đã đạt mức tăng trưởng trở lại (tăng 7,91% về
lượng và tăng 7,7% về kim ngạch so với tháng 4), nhưng tính chung cả 5 tháng đầu
năm, lượng gạo xuất khẩu vẫn bị sụt giảm nhẹ 0,39% so với cùng kỳ và giảm 4,74%
kim ngạch, chỉ đạt mức 2,92 triệu tấn, tương đương 1,3 tỷ USD. Khối lượng gạo
xuất khẩu tháng 6 ước đạt 649.000 tấn, giá trị đạt 289 triệu USD, đưa khối
lượng xuất khẩu gạo 6 tháng đầu năm 2013 ước đạt xấp xỉ 3,57 triệu tấn, giá trị đạt
1,58 tỷ USD, giảm 6,8% về khối lượng và giảm 9,8% về giá trị so với cùng kỳ năm
ngoái. Trung Quốc vẫn duy trì là quốc gia nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam
30
(chiếm 38,9% về lượng và chiếm 36,44% trong tổng kim ngạch). Khối lượng
gạo xuất khẩu sang thị trường này trong 5 tháng đầu năm tăng trưởng mạnh, đạt
1,13 triệu tấn, với trị giá đạt 472,39 triệu USD, tăng 27,88% về khối lượng và tăng
25,1% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Tháng 6/2013, lượng gạo xuất khẩu đạt 643 nghìn tấn, trị giá là 277 triệu
USD, giảm 8,7% về lượng và giảm 11,5% về trị giá so với tháng trước. Tính đến
hết tháng 6/2013, lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước đạt 3,58 triệu tấn, trị
giá đạt 1,58 tỷ USD, giảm 6,4% về lượng và giảm 9,9% về trị giá so với 6
tháng/2012. Như vậy trong quí II/2013, Việt Nam có tới 2 tháng lực xuất khẩu gạo
bị giảm mạnh so với tháng trước là tháng 4 và tháng 6.
Trong nửa đầu năm 2013, Việt Nam xuất khẩu gạo sang Trung Quốc đạt 1,29
triệu tấn. Xuất khẩu gạo trong tháng 6 bị sụt giảm ở hầu hết các thị trường. Trong
đó, xuất sang Trung Quốc – thị trường lớn nhất cũng bị giảm gần 29% cả về lượng
và kim ngạch so với tháng trước (đạt 162.528 tấn, trị giá 65,46 triệu USD), nhưng
tính chung cả 6 tháng đầu năm xuất khẩu gạo sang thị trường này vẫn tăng 20% về
lượng và tăng 16,75% về kim ngạch.
Tháng 7/2013 lượng gạo xuất khẩu tăng nhẹ 1,05% so với tháng 6, nhưng giá
trị xuất khẩu lại giảm 0,81%. Tính chung cả 7 tháng đầu năm xuất khẩu gạo vẫn sụt
giảm cả về lượng và kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 4,23 triệu tấn, tương
đương 1,86 tỷ USD (giảm 10,56% về lượng và giảm 13,47% về kim ngạch so với
cùng kỳ).
Tính chung cả 7 tháng đầu năm, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu gạo
lớn nhất của Việt Nam khi khối lượng và giá trị xuất khẩu tăng lần lượt 9,59% và
6,84% so cùng kỳ (đạt 1,47 triệu tấn, tương đương 609,13 triệu USD).
Có thể thấy thị trường Trung Quốc hiện đang là thị trường xuất khẩu gạo chủ
lực của Việt Nam bắt đầu từ năm 2012. Sản lượng nhập khẩu gạo của Trung Quốc
từ Việt Nam tăng rất nhanh và đột biến, vượt qua tất cả các thị trường truyền thống
như Philippin, Malaysia, Singapore…hay các thị trường chủ lực như Ghana, Bờ
Biển Ngà, Senegal,… Theo một đánh giá mới nhất của Bộ Nông nghiệp Việt Nam,
giai đoạn cuối năm 2013 (từ tháng 9 đến tháng 12) Việt Nam có thể sẽ không đủ
gạo để xuất khẩu.
31
Bảng 2.6: Sản lượng nhập khẩu gạo Việt Nam của Trung Quốc (chính
ngạch) giai đoạn 2004-2012
Đơn vị: Nghìn tấn
Năm Tổng sản lượng nhập
khẩu gạo từ Việt Nam
Tổng sản lượng gạo
Trung Quốc nhập khẩu
Tỉ lệ phần trăm
(%)
2004 29439 756498 3,89
2005 41534 514181 8,08
2006 35550 718989 4,94
2007 27328 472341 5,79
2008 1316 295570 0,45
2009 2899 337537 0,86
2010 56089 366171 15,32
2011 233775 578383 40,42
2012 1545079 2344622 65,90
(Nguồn: Intracen)
Trung Quốc là thị trường sản xuất, tiêu thụ và dự trữ lúa gạo lớn nhất thế giới.
Do đó, nhu cầu nhập khẩu gạo của Trung Quốc thường là không cao. Nhà cung cấp
gạo lớn nhất cho Trung Quốc là Thái Lan. Giai đoạn 2004-2009, gạo Việt Nam
cũng được nhập khẩu sang Trung Quốc, tuy nhiên tỉ lệ cao nhất chỉ khoảng 8% tổng
sản lượng gạo Trung Quốc nhập khẩu trong năm đó. Hầu hết các giao dịch này đều
chỉ qua thương lái, tiểu ngạch vào thị trường Trung Quốc, do đó giá trị và sản lượng
cũng không cao. Tuy nhiên vào năm 2010, Trung Quốc bắt đầu có những hợp đồng
quốc gia với Việt Nam về nhập khẩu gạo Việt, điều này khiến tỉ lệ gạo Việt vào thị
trường Trung Quốc tăng lên 15,32% tổng sản lượng gạo Trung Quốc nhập vào cùng
năm đó.
Năm 2011, Trung Quốc tiếp tục nhập khẩu gạo từ Việt Nam với số lượng lớn.
Tỉ lệ gạo Việt Nam trong tổng sản lượng gạo nhập khẩu của Trung Quốc năm 2011
chiếm 40,42%, tăng hơn 25% so với năm 2010.
Năm 2012 là một năm thành công chưa từng có của xuất khẩu gạo Việt Nam
sang thị trường Trung Quốc. Nước ta chiếm đến 65,9% lượng gạo mà Trung Quốc
nhập khẩu. Nếu như giai đoạn trước, Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu từ thị trường
32
Thái Lan, Pakistan, thì từ năm 2011, gạo Việt Nam hoàn toàn lấn lướt các thị
trường kể trên, vươn lên chiếm một tỷ lệ cực lớn trong gạo nhập khẩu của Trung
Quốc. Điều này có được do gạo Việt Nam có giá rẻ hơn tương đối so với gạo Thái
Lan và Pakistan, là những nhà cung cấp truyền thống của Trung Quốc.
2.1.2. Chất lượng và cơ cấu sản phẩm
Trong những năm qua, chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam tuy đã được
cải thiện, song vẫn ở và thấp hơn so với các nước xuất khẩu gạo chính trên thế giới.
Các loại gạo xuất khẩu phẩm cấp cao của Việt Nam không nhiều và chủ yếu vẫn là
loại gạo phẩm cấp trung bình. Trong tỉ trọng xuất khẩu gạo năm 2001 thì gạo chất
lượng cao (5% tấm) chiếm 25%, gạo tấm 25% chiếm 32%, gạo 100% tấm chiếm
5%. Đến năm 2010, tỷ trọng gạo 5% tấm cũng chỉ tăng lên khoảng 30%, gạo 7-10%
tấm chiếm khoảng 8%, các loại gạo 15% tấm và 25% tấm chiếm tỉ trọng lớn nhất
tới trên 55% kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên trong năm 2012, chúng ta đã thay đổi
đáng kể cơ cấu xuất khẩu gạo. Các loại gạo cao cấp như gạo thơm, 5% tấm chiếm
hơn 59% tổng sản lượng gạo xuất khẩu, trong khi gạo phẩm cấp thấp chỉ xuất đi
khoảng 11%. Đó là lí do chính giúp gạo Việt Nam đã chiếm lĩnh và soán vị trí số
một của Thái Lan ở thị trường Trung Quốc.
Việt Nam cũng có nhiều loại gạo có phẩm cấp cao, đáp ứng nhu cầu của thị
trường như Glutimous, Jasmine,… Những loại gạo này chỉ mới được tập trung sản
xuất vào năm 2012. Tuy nhiên theo một số báo cáo, khi vào tay thương lái bị trộn
lẫn với các loại gạo cấp thấp khác để làm giảm giá trị. Hiện tại, Việt Nam vẫn tiếp
tục gieo trồng trên diện rộng loại lúa có chất lượng thấp như IR50404 nhưng có
năng suất cao. Hiện tại, diện tích gieo trồng loại gạo này vẫn vượt trên 20%.
Các loại gạo có tỷ trọng xuất khẩu lớn tiếp theo trong thống kê vào tháng
7/2013 là gạo 25-35% tấm, đạt 112.375 tấn, chiếm 19,5% tổng khối lượng xuất
khẩu, gạo 15-20% tấm, đạt 79.122 tấn, chiếm 13,73%, và gạo thơm các loại, đạt
73.375 tấn, chiếm 12,73%.
2.1.3. Giá cả
Giá cả trên thị trường thế giới không chỉ bị chi phối bởi giá trị mà còn phụ
thuộc vào chất lượng, điều kiện thương mại và quan hệ cung cầu. Các yếu tố cạnh
33
tranh trên thị trường sẽ xác định giá cả của từng loại gạo. Ngoài ra, giá cả còn phụ
thuộc vào tình hình cung cầu trong nước và quốc tế và thời vụ sản xuất lúa gạo.
Giá gạo trên thị trường thế giới trong những năm qua thường xuyên biến động,
do đó giá gạo của Việt Nam cũng có sự dao động theo giá gạo thế giới. Tuy nhiên
giá gạo của Việt Nam lại thường xuyên thấp hơn so với giá gạo thế giới do gạo của
chúng ta chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu tiêu chuẩn nghiêm ngặt của thị
trường.
Trên thị trường thế giới, gạo Việt Nam vẫn bị đánh giá là gạo rẻ, chất lượng
kém và có nhiều thuốc hóa học. Từ năm 2004, cùng một loại gạo như nhau nhưng
giá của gạo Việt Nam rẻ hơn gạo Thái Lan từ 50-70 USD/tấn.
Tháng 2/2011, giá gạo xuất khẩu trung bình trong tháng ở mức 487,9 USD/tấn,
giảm 6,4% so với tháng trước. Trong đó, 2 chủng loại giảm giá mạnh nhất là gạo
10% tấm với 549,97 USD/tấn, giảm 16,1% và gạo 4% tấm với 661,85 USD/tấn,
giảm 9,4%. Các loại gạo còn lại giảm từ 2-7%.
Ngày 18/03/2011, gạo Việt Nam tiếp tục thay đổi giá sàn xuất khẩu đối với
gạo 5% tấm là 480 USD/tấn, còn gạo 25% tấm là 460 USD/tấn, cùng giảm 20
USD/tấn so với giá trước đó. Tính chung trong tháng 3/2011, giá xuất khẩu đạt 500
USD/tấn, tăng 3% so với tháng 2/2011, còn so với cùng kỳ năm 2010 lại giảm 7%.
Nhìn chung, giá xuất khẩu gạo trong 3 tháng đầu năm 2011 đều đứng ở mức
cao và duy trì ở mốc 487 – 521 USD/tấn. Như vậy, tính chung quý 1/2011, giá gạo
xuất khẩu trung bình đạt 502 USD/tấn, giảm 9% so với cùng kỳ năm trước. Tuy
nhiên so với quý III/2010 lại tăng 3,2%.
Đơn giá gạo xuất khẩu trung bình của Việt Nam trong tháng 5/2011 đạt mức
488,1 USD/tấn, so với tháng trước tăng nhẹ 3,8% và tăng 6,5% so với tháng 5/2010.
Cụ thể, giá gạo Việt 5% là 469 USD / tấn (FOB) so với 2010 là 401 USD/tấn, tăng
17,0%. Giá gạo Việt 25% là 432 USD/ tấn (FOB) so với 2010 là 375 USD/tấn, tăng
15,3%. Giá gạo Thái 5% là 509 USD /tấn (FOB) so với 2010 là 505 USD/tấn, tăng
0,7%. Giá gạo Thái 25% là 472 USD /tấn (FOB) so với 2010 là 448 USD/tấn, tăng
5,4%. Tuy vậy, đơn giá xuất khẩu gạo bình quân trong 5 tháng vừa qua của nước ta
chỉ đứng ở mức 492,3 USD/tấn, giảm nhẹ 4,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong
tuần cuối tháng 5/2011, giá gạo loại 25% được chào bán quanh mức 435 USD/tấn
34
(FOB), giảm 5 USD/tấn so với tuần trước đó. Giá gạo 5% tấm ở mức 470 USD/tấn
(FOB), giảm 10 USD/tấn. Nguyên nhân khiến giá gạo xuất khẩu giảm là do có sự
trở lại của các nhà xuất khẩu gạo Myanamar sau 2 tháng ngừng giao thương. Nước
này cung ứng gạo 25% tấm với giá 400 USD/tấn (FOB), thấp hơn của Việt Nam và
của Thái Lan với giá 450- 455 USD/tấn. Bên cạnh đó, nguồn cung từ Việt Nam và
Thái Lan đang rất dồi dào do đã hoàn thành vụ thu hoạch.
Tháng 8/2011, giá xuất khẩu gạo của Việt Nam duy trì ổn định, cụ thể: gạo
thành phẩm 5% tấm dao động 545-550USD/tấn; gạo 25% đạt 500 USD/tấn.
Tháng 12/2011, giá gạo thành phẩm 5% tấm, FOB hiện khoảng 445 USD/tấn.
Giá gạo 15% tấm khoảng 410 - 420 USD/tấn và gạo 25% tấm khoảng 390 – 405
USD/tấn, giảm khá sâu so với đầu năm.
Biểu đồ 2: Giá gạo thơm của Việt Nam và Thái Lan
giai đoạn 7/2012 – 8/2013
Đơn vị: USD/tấn
(Nguồn: Gafin.vn và Oryza.com)
Ở phân khúc gạo cấp cao, giá gạo Việt Nam thua gạo Thái Lan trung bình
khoảng 350-380 USD/tấn. Trong giai đoạn cuối năm 2012, giá gạo cấp cao của Việt
Nam tăng khoảng 60-80 USD/tấn, trong khi gạo loại này của Thái Lan giảm nhẹ
khoảng 20-40 USD/tấn. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2013 trở đi, trong khi giá gạo
0,00
200,00
400,00
600,00
800,00
1000,00
1200,00
1400,00
Jasmine Việt Nam
Hom Mali Thái Lan
35
Thái Lan tăng mạnh lên mức 1100 USD/tấn thì giá gạo Việt Nam liên tục giảm, đến
giữa năm 2013 chỉ còn khoảng 500-530 USD/tấn.
Biểu đồ 3: Giá gạo 25% tấm của Việt Nam và Thái Lan
giai đoạn 7/2012 – 8/2013
Đơn vị: USD/tấn
(Nguồn: Gafin.vn và Oryza.com)
Biểu đồ 4: Giá gạo 5% tấm của Việt Nam và Thái Lan
giai đoạn 7/2012-8/2013
Đơn vị: USD/tấn
(Nguồn: Gafin.vn và Oryza.com)
0,00
100,00
200,00
300,00
400,00
500,00
600,00
25% tấm Việt Nam
25% tấm Thái Lan
0,00
100,00
200,00
300,00
400,00
500,00
600,00
700,00
5% tấm Việt Nam
5% tấm Thái Lan
36
Ở phân khúc gạo 5% tấm và gạo 25% tấm, xu hướng giá gạo khá giống nhau.
Giai đoạn tháng 7 đến tháng 10 năm 2012, giá các loại gạo này của Việt Nam tăng
khoảng 50-60 USD/tấn, trong khi gạo Thái có xu hướng giữ giá, chỉ giảm nhẹ 5-10
USD/tấn. Tuy nhiên sau đó giá gạo Việt Nam lại giảm mạnh khoảng 50-80 USD/tấn
cho đến tháng 01/2013, sau đó đi vào ổn định ở mức 370-380 USD/tấn đối với gạo
25% tấm và 390-400 USD/tấn với gạo 5% tấm. Giai đoạn giữa năm 2013, do một số
chính sách thu mua gạo của nhà nước Thái Lan khiến gạo của nước này khó xuất
khẩu, dẫn đến giá gạo giá gạo Thái Lan lao dốc giảm khoảng 100-120 USD/tấn.
Nhờ thế, gạo Việt Nam tăng giá trở lại, khoảng 20-30 USD/tấn, góp phần thu hẹp
khoảng cách giữa giá gạo 2 nước trên thị trường quốc tế.
Tháng 01/2013 Giá xuất khẩu bình quân gần 454 USD/tấn, giảm 35,68% so
với tháng trước nhưng tăng 44,64% so với cùng kỳ năm ngoái. Tiếp đó, trong 4
tháng liên tiếp, giá gạo xuất khẩu vẫn duy trì ở mức thấp. Giá gạo xuất khẩu bình
quân 5 tháng đầu năm đạt 445 USD/tấn, giảm 7,7% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá gạo giao dịch trong tháng 4 giảm từ 10 - 15 USD/tấn so với tháng 3 và
tiếp tục sụt giảm đã ảnh hưởng đến việc thực hiện các hợp đồng đã ký trước có giá
cao hơn và tâm lý người mua chờ đợi giá giảm thêm để tránh rủi ro. Cùng trong
tháng này, giá gạo 25% tấm của Việt Nam – được sử dụng làm giá tham chiếu cho
thị trường châu Á.
Tháng 5/2013, gạo là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá bình quân giảm
mạnh nhất nhưng lượng xuất khẩu lại tăng cao nhất so với cùng kỳ năm ngoái. Cụ
thể, lượng gạo xuất khẩu trong quí I/2013 đạt 1,57 triệu tấn, tăng gần 18% so với
cùng kỳ năm ngoái và giá xuất khẩu bình quân chỉ đạt 440 USD/tấn, giảm 10%.
Bước sang quí 2/2013, giá gạo xuất khẩu chẳng những không được cải thiện mà còn
giảm thêm, từ mức 400 - 410 USD/tấn (gạo 5% tấm) cuối tháng 4 xuống còn 375 -
385 USD/tấn từ tháng 5 đến nay.
Từ giữa tháng 7/2013, giá chào bán gạo Việt Nam đã tăng thêm khoảng 10
USD/tấn, lên mức 410 – 415 USD/tấn. Giá xuất khẩu trung bình của gạo Việt Nam
trong tháng 7/2013 đạt 413USD/tấn, tăng so với mức 410USD/tấn hồi tháng 6.
Trong tháng 7, loại gạo xuất khẩu nhiều nhất là gạo 2-10% tấm, đạt 261.927 tấn,
chiếm 45,44% tổng lượng xuất khẩu trong tháng. Giá gạo xuất khẩu nói chung vẫn
37
đang tiếp tục giảm, giá trung bình 8 tháng đầu năm 2013 đạt 438,55 USD/tấn, giảm
14,36 USD/tấn so với cùng kỳ năm 2012.
Tháng 10/2013, giá gạo Việt Nam tăng khoảng 30 USD/tấn (gần 10%) so với
một tháng trước đó và về ngang với giá hồi đầu tháng 8/2013, với gạo 5% tấm xuất
khẩu giá chào bán đạt 400-410 USD/tấn vào ngày 22/10, gạo 25% tấm đạt khoảng
370-380 USD/tấn.
Có thể thấy, tuy là nước xuất khẩu gạo lớn hàng đầu thế giới, song giá gạo
chúng ta vẫn không có ảnh hưởng đến giá gạo thế giới mà còn bị hiện tượng phụ
thuộc giá gạo của thế giới. Nguyên nhân chủ yếu là do gạo Việt Nam vẫn chưa có
thương hiệu rõ ràng, chất lượng chưa đồng nhất và chưa được cao.
2.1.4. Kênh phân phối
Ở Việt Nam, gạo được phân phối hai đường chính là chính ngạch và tiểu
ngạch. Trong đó, chính ngạch thường là kênh phân phối chính, là kênh truyền thống
của ta. Đây cũng là kênh xuất khẩu chủ yếu qua các thị trường truyền thống như
Philippin, Indonesia, Singapore, các nước châu Phi… Giá trị hợp đồng xuất khẩu
qua đường tiểu ngạch thường rất lớn, chiếm tỉ trọng cao trong tổng giá trị xuất khẩu.
Tuy nhiên, đối với thị trường mới nổi từ năm 2010 đến nay là Trung Quốc,
gạo được xuất khẩu chủ yếu qua đường tiểu ngạch. Các thương lái Trung Quốc sang
Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu với nông dân, thương nhân Việt Nam. Theo thống
kê của VFA, đến khoảng tháng 10/2013, Trung Quốc đã mua khoảng 3 triệu tấn gạo
của Việt Nam (tăng nửa triệu tấn so cả năm 2012), trong đó có 1,8 triệu nhập qua
đường chính ngạch, 1,2 triệu tấn còn lại theo đường tiểu ngạch. Sản lượng xuất
khẩu tiểu ngạch chiếm tới 40% tổng sản lượng xuất khẩu của Việt Nam trong giai
đoạn này.
2.1.5. Hình thức xuất khẩu và phương thức thanh toán
Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước, chương trình xuất
khẩu gạo của Việt Nam chủ yếu là đổi hàng và trả nợ. Thời gian sau đó chúng ta đã
sử dụng phương thức xuất khẩu trực tiếp và qua trung gian. Đối với những thị
trường dễ tính như Châu Phi thì Việt Nam thực hiện phương thức xuất khẩu trực
tiếp, vì đối với những thị trường này yêu cầu về chất lượng sản phẩm không cao,
chúng ta có thể dễ dàng đáp ứng. Còn đối với những thị trường như Mỹ, Nhật Bản
38
thì họ lại yêu cầu sản phẩm với chất lượng cao và đòi hỏi sử dụng trung gian. Đối
với Trung Quốc, những năm gần đây, chủ yếu sử dụng hình thức thanh toán L/C
trong hợp đồng xuất khẩu gạo, dưới điều kiện FOB của Incoterm.
2.2. Phân tích thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo của Việt
Nam sang thị trường Trung Quốc
2.2.1. Các yếu tố trong nước
2.2.1.1. Điều kiện tự nhiên, đất đai, thổ nhưỡng
Là một quốc gia thuộc vùng khí hậu nhiệt đới, trong đó có hai vùng đồng bằng
sông Hồng (ĐBSH) và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là hai vựa lúa lớn nhất
của cả nước. Đồng bằng các tỉnh Duyên hải Miền trung chiếm 17,1% về diện tích
và 18,8% về sản lượng lúa cả nước.
Việt Nam được xếp vào hàng những quốc gia có nguồn nước dồi dào, kể cả
nước ở trên và nước dưới đất. Diện tích mặt nước lớn và phân bố đều ở các vùng.
Tài nguyên nước dồi dào là một trong những lợi thế nổi bật trong nghề trồng lúa
nước ở Việt Nam. Bên cạnh những thuận lợi trên, những khó khăn về điều kiện thời
tiết do ảnh hưởng bão, áp thấp nhiệt đới… cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến kim
ngạch xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam. Cụ thể như Việt Nam nằm trong vùng nhiệt
đới gió mùa, là một trong 5 ổ bão của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, ước tính
tổn thất về kinh tế hàng năm do thiên tai, bão lũ gây ra tương ứng khoảng 3,6 tỷ
USD hay hiện tượng sương mù xuất hiện vào sáng sớm ở khu vực Nam Bộ (Diễn
đàn môi trường, 2012).
2.2.1.2. Nguồn nhân lực
Theo số liệu của tổng cục thống kê, năm 2011 dân số Việt Nam là 87,8 triệu
người, trong đó 69,4% dân số đang sống ở vùng nông thôn và 55% dân số trong độ
tuổi lao động. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ. Yếu tố nhân
lực không chỉ có ưu thế về số lượng mà còn có ưu thế về sự tinh thông, am hiểu
nghề trồng lúa, cho phép chúng ta khai thác triệt để những lợi thế của các điều kiện
thiên nhiên. Mặc dù hoạt động phát triển, nâng cao nguồn lực ở các đơn vị nghiên
cứu và phát triển nông nghiệp, nông thôn luôn được đẩy mạnh trong các năm qua
nhưng hiệu quả của các hoạt động này vẫn chưa cao. Nguồn nhân lực hoạt động
trong lĩnh vực công nghệ sinh học và nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam đang
39
rất thiếu. Việt Nam hiện giờ trong tổng số trên 60 triệu nông dân, chỉ có trên 4.800
cán bộ khuyến nông chuyên trách, được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, hơn
10.500 cán bộ khuyến nông không chuyên trách và trên 15.700 cộng tác viên
khuyến nông phục vụ các thôn bản (Rfa, 2010).
2.2.1.3. Cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ kỹ thuật
Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đầu
tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.và đạt được nhiều thành tựu
đáng kể. Từ năm 2000 đến nay, Nhà nước đã huy động được trên 29 nghìn tỷ đồng
để xây dựng giao thông nông thôn. Năm 2006, 8.488 xã có đường ô tô đi lại được
quanh năm, có 6.356 xã (chiếm 70%) đường ô tô được nhựa, bê tông hóa. Về thủy
lợi, cả nước có trên 1.952 hồ chứa nước lớn, 10.000 trạm bơm, 1000 km kênh trục
chính… Về điện lưới quốc gia, 97,95% huyện có hệ thống điện, 10.522 xã phường
có điện lưới quốc gia, đạt 96,80%... Nhờ đầu tư cho hạ tầng nông nghiệp, nông thôn,
sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn được tạo điều kiện phát triển, giải quyết
việc làm, nên thu nhập của người dân đã được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn
đã giảm rõ rệt. Thu nhập bình quân 1 hộ nông thôn hiện tại đạt 26,1 triệu đồng, tăng
11,3 triệu đồng (75,8%) so với năm 2002; tỷ lệ hộ nghèo nông thôn là 18% giảm
3,2% so 2004 (Tin kinh tế, 2010).
2.2.1.4. Chính sách của nhà nước
Chính phủ, Nhà nước Việt Nam đã và đang tiếp tục tạo điều kiện cho hoạt
động xuất khẩu lúa gạo Việt Nam được thuận lợi hơn thông qua các luật, chính sách,
quyết định, nghị định… Chính phủ đã ban hành, sửa đổi, bổ sung nhiều luật, chính
sách như Quyết định số 497/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ nông dân
mua máy móc, thiết bị, hỗ trợ xây dựng và sửa chữa nhà ở. Thực hiện các Nghị định
của Chính phủ như Nghị định 02/2010/NĐ-CP về công tác khuyến nông, Nghị định
61/2010/NĐ-CP về chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn, Nghị định 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát
triển nông nghiệp, nông thôn; Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg ngày 15/10/2010 của
Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông
sản, thủy sản; văn bản số 2910/BNN-TT ngày 26 tháng 8 năm 2013 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn về việc báo cáo tình hình và đăng ký kế hoạch
40
chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên lúa giai đoạn 2014 - 2020.
Riêng lĩnh vực xuất khẩu gạo, ngày 17/06/2011, Bộ Tài chính đã bãn hành
Thông tư số 89/2011/TT-BTC hướng dẫn phương pháp xác định giá sàn gạo xuất
khẩu. Theo đó, giá sàn gạo sẽ được tính theo hai phương pháp chính là phương
pháp chi phí và phương pháp khấu trừ, qui định chi tiết theo từng tiêu chuẩn phẩm
cấp gạo. Điều này rất cần thiết, vì nó giúp thống nhất giá trên thị trường, đồng thời
giúp người nông dân đảm bảo kinh phí tối thiểu để tiếp tục duy trì hoạt động sản
xuất của mình. (Bản tin xuất khẩu số 225 – ngày 11/07/2011)
Bộ NN & PTNT phối hợp với các Bộ ngành liên quan vẫn đang thực hiện vai
trò chủ chốt của mình trong việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các
ngành, lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi và phát
triển nông thôn trong phạm vi cả nước; quản lý Nhà nước đối với các dịch vụ công
trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ. Ngành trồng trọt được Bộ
NN & PTNT quản lý, giám sát, hỗ trợ thông qua thông qua việc thường xuyên cập
nhật, sửa đổi các thông tư, quyết định, danh mục… Hiện nay, Bộ NN & PTNT cũng
thường xuyên cập nhât các danh mục giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật được
phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng tại Việt Nam… nhằm đảm bảo chất lượng lúa
gạo của Việt Nam, đáp ứng được mục tiêu xuất khẩu, phù hợp với các tiêu chuẩn
nhập khẩu của thế giới và Trung Quốc.
2.2.2. Các yếu tố ngoài nước
2.2.2.1. Tiêu chuẩn, qui định về nhập khẩu gạo của Trung Quốc:
Trung quốc chọn nhập khẩu hạn ngạch. Hệ thống nhập khẩu của Trung Quốc
chia hàng hóa thành ba loại: cho phép, hạn chế và cấm. Gạo nằm trong nhóm hàng
hóa hạn chế của Trung Quốc, cùng với lúa mì, ngô, đường, bông, len. Hạn ngạch
những mặt hàng này được qui định tỷ lệ thuộc hạn ngạch thuế quan hành chính
Trung Quốc. Việc nhập khẩu gạo được theo dõi thông qua hạn ngạch, giấy phép.
Hàng hóa nhập khẩu trong hạn ngạch phải chịu thuế suất thấp hơn, và hàng hóa
nhập khẩu ngoài hạn ngạch phải chịu mức thuế suất cao hơn.
Các công ty tìm cách nhập khẩu ở mức thuế thấp hơn hạn ngạch thuế phải áp
dụng cho MOFCOM giao hạn ngạch giữa 15 tháng 10 và 30 tháng 10 mỗi năm.
Trung Quốc thực hiện một hệ thống quản lý cấp giấy phép xuất khẩu. Có ba loại
41
cấp phép xuất khẩu ở Trung Quốc: Giấy phép hạn ngạch xuất khẩu (ví dụ như lúa
mì, ngô , bông , dầu thô), Đấu thầu hạn ngạch xuất khẩu (ví dụ magiê), Giấy phép
xuất khẩu (ví dụ thịt bò , thịt lợn , thịt gà). MOFCOM và GAC cùng phát hành một
danh mục hàng hoá xuất khẩu phải có giấy phép trên cơ sở hàng năm . Năm 2013,
có 48 loại hàng hóa thuộc diện quản lý cấp giấy phép xuất khẩu. Mỗi giấy phép xuất
khẩu chỉ có thể được sử dụng cho một lô hàng. Thời gian hợp lệ dài nhất của một
giấy phép xuất khẩu là sáu tháng và phải được sử dụng trong năm hiện tại của ngày
phát hành . Nếu một giấy phép xuất khẩu không được sử dụng trong thời gian hợp
lệ , các nhà điều hành có thể áp dụng cho một phần mở rộng trong thời gian hiệu lực
của giấy phép xuất khẩu và giấy phép xuất khẩu mới sẽ được phát hành.
2.2.2.2. Khả năng sản xuất, nhu cầu của thị trường Trung Quốc
Hiện tại, Trung Quốc đang tiếp tục thời kỳ ổn đinh diện tích và chất lượng đất
trồng trọt. Với các đặc điểm là giá thấp, vị trí địa lý thuận lợi, gạo Việt Nam có đã
và đang có cơ hội là đối tác số một của Trung Quốc trong xuất khẩu gạo.
Bảng 2.7: Sản xuất, tiêu thụ, nhập khẩu và dự trữ của Trung Quốc
giai đoạn 2006-2013
Đơn vị: triệu tấn
Sản xuất Nhập khẩu Tiêu thụ Dự trữ
China World % China World % China World % China World %
2006-
2008 128,9 442,3 29,14 1 30,4 3,29 125,4 427,4 29,34 56,9 106,3 53,53
2009-
2011 136,3 470,2 28,99 1,1 32,4 3,40 128,8 451 28,56 70 138,2 50,65
2012 141,1 489,9 28,80 3 38,6 7,77 132,4 469,5 28,20 84,7 161,7 52,38
2013 142,8 499,1 28,61 3 37,6 7,98 134 478,4 28,01 94,4 173,7 54,35
(Nguồn: FAO Outlook 2010 và 6/2013)
Theo số liệu thống kê của FAO, giai đoạn từ 2006-2013, sản lượng sản xuất
của Trung Quốc ước đạt khoảng 29% tổng sản lượng sản xuất của thế giới, tiêu thụ
ước đạt 28-29% tổng sản lượng tiêu thụ của thê giới và dự trữ luôn trên 50% tổng
lượng gạo dự trữ của thế giới.
Trung Quốc không phải là quốc gia nhập khẩu nhiều gạo. Từ năm 2006-2011,
Trung Quốc chỉ nhập trung bình khoảng 1 triệu tấn gạo 1 năm, chỉ chiếm khoảng
42
3% sản lượng nhập khẩu của cả thế giới. Tuy nhiên, giai đoạn 2012 và 2013 chứng
kiến sự tăng vọt của sản lượng gạo nhập khẩu của Trung Quốc khi sản lượng tăng
gấp 3 lần so với thời kỳ 2006-2011, chiếm tới 7,77% (2012) và 7,98% (2013) tổng
sản lượng gạo nhập khẩu của thế giới. Có thể thấy rằng Trung Quốc hiện đang là
một thị trường xuất khẩu gạo rất tiềm năng trong những năm sắp tới, khi mà sản
xuất gạo ở Trung Quốc giai đoạn 2012-2013 chững lại, chỉ tăng hơn 1,5 triệu tấn
gạo so với năm trước, trong khi nhu cầu tiêu thụ tăng 1,6 triệu tấn.
2.2.2.3. Đối thủ cạnh tranh
Hiện tại, các thị trường cạnh tranh gay gắt với gạo Việt Nam gồm có Ấn Độ,
Campuchia, Pakistan và Thái Lan. Mỗi quốc gia có đặc điểm gạo khác nhau. Đặc
điểm gạo của Việt Nam là giá rẻ, phẩm cấp chất lượng thấp, chất lượng không đồng
đều và cũng không có thương hiệu rõ ràng. Việt Nam tuy xuất khẩu sản lượng lớn
nhưng kim ngạch thu lại không cao. Tuy nhiên hiện tại, nhờ yếu tố giá nên gạo Việt
Nam đang rất thu hút thị trường Trung Quốc. Điều này khiến nhà cung cấp chủ lực
trước đây của Trung Quốc là Thái Lan bị thừa gạo, giá gạo Thái Lan vì thế bị kéo
xuống đáng kể. Gần đây Thái Lan đang có những điều chỉnh chủ động nhằm giá
gạo xuống ngang mức giá của Việt Nam để đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là nhằm
giành lại thị trường Trung Quốc – là thị trường truyền thống của Thái Lan – và đã
ký lại được một số hợp đồng gạo với Trung Quốc vào cuối năm 2013. Một quốc gia
khác hiện cũng rất cạnh tranh đó là Campuchia khi mà chất lượng gạo và giá cả của
gạo Campuchia cũng ngang bằng so với của Việt Nam, trong khi được đánh giá là ít
sử dụng thuốc hóa học hơn.
2.3. Nhận xét
2.3.1. Thành tựu
Xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc trong giai đoạn 2012-2013 tăng
đột biến. Trung Quốc trong 2 năm này trở thành thị trường chính xuất khẩu gạo Việt
Nam, chúng ta đã chiếm được một trong những thị trường lớn của Thái Lan và thế
giới. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã thay thế các thị trường truyền thống là Singapore,
Philippin, Malaysia, Indonesia, các nước châu Phi… Điều này có được là do nhiều
yếu tố.
Thứ nhất, giá gạo Việt Nam thấp hơn nhiều so với gạo thế giới nói chung và
43
gạo Thái Lan nói riêng. Giá gạo của chúng ta thường thấp hơn từ 50-70 USD/tấn so
với gạo Thái Lan đối với gạo cùng chủng loại, ở phân khúc gạo thơm cao cấp chúng
ta thấp hơn gạo Hom Mali của Thái Lan đến 400-500 USD/tấn. Điều này có được
do Việt Nam chủ yếu sản xuất gạo giá thấp, phẩm cấp từ trung bình trở xuống. Mặt
khác, do vị trí địa lý, chúng ta ở sát Trung Quốc, do đó giảm được chi phí vận
chuyển hơn so với các nước khác.
Thứ hai, do Trung Quốc đang trong giai đoạn ổn định lại hoạt động sản xuất
gạo trong nước. do đó chủ trương nhập khẩu gạo từ bên ngoài. Gạo Việt Nam có giá
thấp, phù hợp với nhu cầu của Trung Quốc trong giai đoạn hiện tại. Có thể lấy ví dụ
tương tự ở một quốc gia khác cũng đang khát gạo như Philippin: Việt Nam vừa
trúng thầu xuất khẩu 120.000 tân gạo sang Philippin cho mục đích an ninh lương
thực của nước này – đất nước vừa chịu siêu bão Haiyan tháng 11/2013. Ở phía
ngược lại, Việt Nam lại không hạn chế sản lượng gạo xuất khẩu, khiến việc thương
lượng giá giữa thương lái Trung Quốc và người nông dân Việt Nam diễn ra dễ dàng
hơn, và từ đó hoạt động xuất khẩu phát triển.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Tuy Trung Quốc trở thành thị trường xuất khẩu gạo số một của nước ta, vẫn
có những điểm khuất phía sau tình trạng ấy.
Thứ nhất, sản lượng tuy là lớn nhất, tuy nhiên giá gạo xuất khẩu chúng ta
không phải là người quyết định, chỉ đơn giản là chấp nhận giá thị trường hoặc thậm
chí giá do thương lái Trung Quốc đưa ra. Có nhiều trường hợp thương lái Trung
Quốc sau khi lấy gạo về, trộn với gạo khác phẩm cấp, khiến chất lượng không ổn
định và suy giảm, quay lại ép giá người nông dân Việt Nam. Trung Quốc có đặc
điểm không mua gạo để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước theo dạng hợp đồng
tập trung của Chính phủ, mà chủ yếu do thương nhân thu mua phân phối lại để
hưởng chênh lệch nên giá thấp, doanh nghiệp Trung Quốc mua gạo Việt Nam về
với mục đích kéo giá trong nước xuông chứ không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ
trong nước, nên thường họ mua giá thấp để đảm bảo lợi nhuận Do vậy, mặc dù
thương nhân Trung Quốc chào giá thấp nhưng DN Việt Nam vẫn phải chấp nhận
bán vào thị trường này với giá thấp vì các thị trường khác không có nhu cầu.
Thứ hai, Trung Quốc được biết là một thị trường phức tạp và kém uy tín. Hợp
44
đồng ký với thương lái Trung Quốc có rủi ro bị hủy rất cao. Theo thống kê của bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, trong tháng 1/2013, số lượng hợp
đồng hủy hoặc hết hạn trong tháng 1 trên 47.000 tấn, phần lớn là hợp đồng với
Trung Quốc. Tính đến tháng 4/2013, tổng cộng hợp đồng bị hủy trong 4 tháng 2013
là 280.000 tấn, gồm có 190.000 tấn hợp đồng 2012 chuyển sang và 90.000 tấn hợp
đồng ký trong năm 2013; trong đó chủ yếu là Trung Quốc 141.000 tấn. Điều này là
khó tránh khỏi khi mà những đơn hàng từ Trung Quốc chủ yếu qua kênh tiểu ngạch,
khó kiểm soát. Bên cạnh đó, hệ thống quản lý xuất nhập khẩu của nước ta vẫn chưa
hoàn thiện.
Thứ ba, thị trường Trung Quốc không ổn định. Tuy nhập khẩu gạo Việt số
lượng lớn, nhưng không ai biết sự thật Trung Quốc đang có bao nhiêu gạo, và nhu
cầu của họ có thực hay không. Những tiểu thương Trung Quốc được khuyến khích
nhập khẩu gạo Việt, dù trong nước không có nhu cầu cao đến mức như vậy. Họ có
thể ngưng nhập khẩu gạo với Việt Nam bât cứ lúc nào. Trong khi nếu xuất khẩu
sang Trung Quốc quá nhiều, chúng ta có thể thiếu gạo cho những thị trường truyền
thống như Philippin, Indonesia, các nước châu Phi…
Tiểu kết chương 2
Trên cơ sở lý thuyết được xây dựng ở chương 1, chương 2 đã phân tích tình
hình thực trạng của hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung
Quốc trong giai đoạn 2004 – 2013 thông qua các yếu tố kim ngạch, giá cả, chất
lượng, cơ cấu, kênh phân phối, các loại hình xuất khẩu và thực trạng của một số yếu
tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường này.
Thông qua đó, đánh giá các thành tựu đạt được, những hạn chế còn tồn tại và
nguyên nhân gây ra các hạn chế. Đây sẽ là cơ sở để xây dựng các giải pháp trong
chương 3.
45
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT
NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN 2014 - 2020
3.1. Dự báo về triển vọng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung
Quốc giai đoạn 2014 – 2020
3.1.1. Nhu cầu nhập khẩu và môi trường cạnh tranh
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đã hạ dự báo sản lượng gạo toàn cầu 2013-2014
xuống 473,2 triệu tấn gạo, giảm khoảng 3,6 triệu tấn so với dự báo trước đó nhưng
vẫn tăng gần 1% so với năm 2012-2013. Dự báo tiêu thụ gạo toàn cầu 2013-2014
cũng đã được hạ 1,4 triệu tấn xuống 473,1 triệu tấn, vẫn là mức cao kỷ lục. Đồng
thời, USDA cũng đã hạ dự báo sản lượng gạo của Trung Quốc, chủ yếu là do điều
kiện thời tiết bất lợi. Sản lượng lúa gạo của Trung Quốc dự kiến sẽ đạt khoảng
141,5 triệu tấn, giảm khoảng 500.000 tấn so với dự báo trước đó. (Gafin -
25/11/2013).
Còn theo tổ chức nông nghiệp thế giới FAO, dự báo nhập khẩu gạo của Trung
Quốc có thể sẽ vẫn ở mức cao trong năm 2012-2013 và 2013-2014, nhưng có thể
giảm nếu giá gạo toàn cầu tăng. Theo dự báo của FAO, sản lượng gạo thế giới
2013-2014 giảm xuống khoảng 494 triệu tấn, nhưng vẫn tăng khoảng 1% so với
2012-2013 do triển vọng vụ mùa xấu đi ở Trung Quốc và Ấn Độ. Dự báo tiêu thụ
gạo toàn cầu 2013-2014 sẽ đạt 489 triệu tấn, tăng khoảng 2,6% hoặc 12 triệu tấn so
với năm trước.
Trong năm 2014, Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với rất nhiều thị trường mạnh
khác như Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan và gần đây nhất là Campuchia. Hơn nữa,
Indonesia, một trong những thị trường chủ lực của ta được dự báo có thể tự túc gạo
trong năm 2014, điều này gián tiếp làm tăng sản lượng gạo dùng xuất khẩu trong
năm 2014, níu giữ giá gạo xuất khẩu của Việt Nam.
3.1.2. Triển vọng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất thê giới, đồng thời cũng là nước sản
xuất gạo và tiêu thụ và dự trữ gạo lớn nhất thế giới. Gạo là nguồn lương thực chủ
yếu trong bữa cơm hằng ngày của người Trung Quốc, do đó, nhu cầu gạo của Trung
Quốc luôn ở mức cao. Hiện tại chính phủ Trung Quốc đang tiến hành ổn định đất
đai để đất trồng trọt màu mỡ trở lại do trước đây đã thâm canh quá nhiều, mặt khác,
46
do lượng sản xuất từ các quốc gia khác trên thế giới khá dồi dào, khiến giá gạo nhập
khẩu ở mức thấp, việc nhập khẩu thay vì tự sản xuất trở nên kinh tế hơn. Vì thế,
Trung Quốc chuyển sang nhập khẩu gạo nhiều hơn, một phần nữa do họ đang muốn
tăng dự trự gạo quốc gia do lo ngại những dự báo không tốt về kinh tế và đặc biệt là
tình hình thiên tai ngày càng nghiêm trọng hơn trên thế giới, ảnh hưởng rất nhiều
đến khả năng sản xuất nông nghiệp của các quốc gia.
3.2. Mục tiêu phát triển và định hướng triển khai hoạt động xuất khẩu gạo
của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc
Trung Quốc là thị trường lớn nhất thế giới, được mọi mặt hàng xuất khẩu thèm
khát. Với dân số 1,35 tỉ người, Trung Quốc được xem là thị trường có thể tiêu thụ
bất cứ sản phẩm nào. Nếu từ năm 2011 trở về trước, Trung Quốc chủ yếu nhập gạo
của Thái Lan, thì từ năm 2012 trở đi, Trung Quốc đã chuyển sang nhập khẩu gạo
Việt Nam với số lượng hơn 3 triệu tấn mỗi năm, tăng gấp 3 lần so với giai đoạn
trước đó.
Trong ngắn hạn, Việt Nam có thể chấp nhận xuất khẩu gạo ưu tiên số lượng
sang thị trường Trung Quốc. Như vậy vừa đảm bảo được đầu ra cho sản phẩm, tạo
thu nhập cho người nông dân, vừa tăng cường quan hệ ngoại giao với Trung Quốc.
Bên cạnh đó, phải chú trọng giữ các thị trường truyền thống của ta, vì chúng vẫn
chiếm một tỉ trọng nhất định trong toàn bộ hoạt động xuất khẩu gạo của nước ta.
Mặt khác, cần cẩn trọng khi xuất khẩu gạo sang Trung Quốc, có chính sách và kế
hoạch xuất khẩu hợp lý, cân đối giữa xuất khẩu chính ngạch và tiểu ngạch, không
để Trung Quốc chi phối toàn bộ thị trường gạo của nước ta.
Về dài hạn, chúng ta cần tiếp tục duy trì các mô hình như “cánh đồng mẫu
lớn”, chuyển đổi giống lúa từ phẩm cấp thấp sang phẩm cấp cao hơn. Từ giai đoạn
2011 trở về trước, có thể thấy Trung Quốc vẫn ưa thích nhập khẩu gạo chất lượng
cao của Thái Lan. Trong tháng 11/2013, Trung Quốc vừa ký hợp đồng nhập khẩu
1,2 triệu tấn gạo từ Thái Lan, giao ngay trong tháng 12/2013. Điều này cho thấy nhu
cầu thực sự của Trung Quốc vẫn là gạo chất lượng cao. Gạo Việt Nam nên có định
hướng chuyển sang giống lúa phẩm cấp cao để trước mắt là cạnh tranh với gạo Thái
Lan, về lâu dài có thể mở rộng sang các thị trường khó tính hơn như Mỹ, Nhật Bản,
EU…
47
3.3. Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc
3.3.1. Giải pháp về phát triển và ứng dụng giống lúa mới
Một trong những nguyên nhân khiến cho chất lượng, sản lượng gạo xuất khẩu
của Việt Nam còn thấp là do việc sử dụng các giống cây đã qua nhiều thế hệ, dễ bị
bệnh tật và năng suất không cao. Phát triển và ứng dụng giống mới vào hoạt động
trồng trọt sẽ giúp đảm bảo ngay từ đầu vào của hoạt động trồng trọt, giúp chống
được các bệnh dịch phổ biến, phát triển trên cơ sở tận dụng các lợi thế của từng
miền, nâng cao năng suất, chất lượng gạo, đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu gạo tăng
và chủng loại gạo đa dạng hơn.
Hoạt động phát triển và ứng dụng giống gạo bao gồm việc đẩy mạnh duy trì,
bảo tồn, cung ứng các giống gốc, giống nguyên chủng, cây đầu dòng… đồng thời
với việc nghiên cứu, sản xuất và cung ứng các giống gạo mới và việc đẩy mạnh ứng
dụng trồng các giống mới trên quy mô lớn nhằm đáp ứng nguồn cung dồi dào cho
xuất khẩu sang Trung Quốc với chất lượng, sản lượng và lợi nhuận ngày càng tăng.
Hoạt động phát triển và ứng dụng giống bao gồm sự tham gia của Nhà nước, Chính
phủ, Bộ NN & PTNT, các Bộ ngành liên quan, Viện Nghiên cứu gạo Việt Nam và
các trung tâm, cơ sở nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật nông nghiệp của vùng, tỉnh,
địa phương.
Viện Nghiên cứu gạo Việt Nam và các trung tâm, cơ sở nghiên cứu và ứng
dụng kỹ thuật nông nghiệp tại các vùng, tỉnh, địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh
hoạt động nghiên cứu, phát triển, sản xuất và cung ứng giống gạo, bao gồm: bảo tồn
và khai thác quỹ gen, nghiên cứu, chọn tạo giống mới, nâng cao chất lượng giống
và cung ứng giống trên cơ sở ứng dụng công nghệ sinh học, nhất là công nghệ biến
đổi gen. Họat động nghiên cứu, sản xuất và cung ứng các giống gạo phải phù hợp
với các lợi thế có sẵn của vùng, mục tiêu phát triển gạo của Việt Nam và định
hướng xuất khẩu gạo sang Trung Quốc. Các cơ sở nghiên cứu giống cây gạo tại địa
phương cần tiến hành nghiên cứu giống cây gắn liền với điều kiện tự nhiên của
vùng miền, tập quán canh tác và nguồn vốn người nông dân thường đầu tư cho cây
giống trong suốt quá trình canh tác và thu hoạch nhằm đảm bảo hiệu quả về năng
suất của cũng tính kinh tế của giống gạo. Các cơ sở nghiên cứu và ứng dụng giống
48
phải liên kết chặt chẽ với các Vụ, Cục thuộc Bộ NN & PTNT thông qua các báo cáo,
nghiên cứu khoa học, kế hoạch… như liên kết với Cục Trồng trọt để nắm bắt tình
hình triển khai trồng các giống cây mới, Cục Bảo vệ Thực vật để tổng hợp các bệnh
dịch phổ biến với từng loại gạo và từng vùng miền, báo cáo thực hiện của các năm
và định hướng kế hoạch của Vụ Kế hoạch, Vụ Hợp tác quốc tế để nắm bắt định
hướng phát triển gạo trong nước và hoạt động xuất khẩu sang ra nước ngoài cũng
như Trung Quốc, từ đó đề ra chiến lược đầu tư nghiên cứu các giống gạo cần được
cải thiện, nâng cao, tạo ra các giống phù hợp với từng vùng nhằm đáp ứng nguồn
cung cho xuất khẩu như Jasmine, Khao Dawk Mali, Tám Thơm, Huyết Rồng. Hoạt
động lai tạo, phát triển giống mới có thể được thực hiện trên các giống cây vốn có
trong nước và các nguồn gen, giống mới được nhập từ nước ngoài để tận dụng
những thành tựu khoa học công nghệ mới của thế giới. Ngoài ra, các cơ sở nghiên
cứu cần liên kết với nông dân thông qua Hội Nông dân các tỉnh, địa phương để tổng
hợp thực tế về hoạt động trồng trọt, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, tạo cơ sở
nghiên cứu các giống cây thích ứng với thực tế đó và đánh giá về việc ứng dụng các
giống thông qua các tiêu chí về sản lượng, chất lượng và giá trị kinh tế mang lại. Sự
liên kết này sẽ là cầu nối giữa việc nghiên cứu và triển khai trồng trên quy mô lớn
và là cơ sở dữ liệu để các cơ sở nghiên cứu giống tiếp tục áp dụng phương thức lai
tạo, biến đổi gen cho các giống gạo khác có cùng đặc điểm về sinh học.
Hoạt động sản xuất và cung ứng giống cũng hết sức quan trọng trong việc tạo
nguồn cung giống dồi dào cho nông dân. Các đơn vị nghiên cứu giống và các cơ sở,
vườn ươm cung cấp giống trên khắp cả nước cần tập trung sản xuất và cung cấp
giống gốc, giống siêu nguyên chủng, giống nguyên chủng, cây đầu dòng đối với
những loại gạo đạt được chất lượng tốt và các giống gạo mới được thử nghiệm
thành công, đảm bảo các yêu cầu về sản lượng, chất lượng, chi phí trồng trọt và
chăm sóc của người nông dân, không được cung cấp các giống cây giả, không đồng
đều về chất lượng giống và các giống cây đã bị lai tạp qua nhiều đời làm cho cây
trồng phát triển không ổn định, khả năng kháng bệnh dịch kém.
Nông dân cần đẩy mạnh trồng trọt các giống cây gốc, nguyên chủng hay các
giống cây mới được mua từ các cơ sở nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật nông nghiệp
và các cơ sở, vườn ươm giống có uy tín, đảm bảo giống cây có nhãn mác và tên rõ
49
ràng. Để áp dụng thành công các giống gạo mới, nông dân có thể trực tiếp liên hệ
với cơ sở nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật nông nghiệp tại địa phương, tìm hiểu các
giống cây được lai tạo thành công và đang được gieo trồng đại trà hoặc tìm hiểu
thông tin về giống thông qua cơ sở dữ liệu về giống lai tạo trên trang web của các
trung tâm nghiên cứu này và các trang web chuyên cập nhật về giống như trang web
của Tài nguyên di truyền thực vật Việt Nam. Nông dân cần chủ động nêu lên các
khó khăn về sâu bệnh, khả năng tăng trưởng, chất lượng của gạo gặp phải trong khi
trồng các giống cây mới cho các trung tâm nghiên cứu giống để tạo dữ liệu cho các
trung tâm này nghiên cứu các giải pháp khắc phục và tạo ra các giống cây khác phát
triển tốt hơn.
Bộ NN & PTNT tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về giống phù hợp với yêu
cầu hội nhập quốc tế, tăng cường năng lực cho hệ thống quản lý, kiểm soát chất
lượng giống ở tất cả các khâu từ sản xuất, lưu thông, kiểm tra chất lượng giống, xây
dựng tiêu chuẩn giống gốc, giống siêu nguyên chủng, giống nguyên chủng, cây đầu
dòng. Bộ NN & PTNT chịu trách nhiệm chỉ đạo thực hiện đề án phát triển giống
trên phạm vi cả nước, trực tiếp triển khai thực hiện các dự án do các đơn vị thuộc
Bộ làm chủ đầu tư và tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư thực hiện đề án của địa phương
để cân đối ngân sách, hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện, định kỳ báo
cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả thực hiện đề án giống.
Chính phủ cần ra chính sách xây dựng, phát triển hệ thống nghiên cứu và cung
cấp giống cho nông dân ở những vùng sản xuất gạo trọng điểm như đồng bằng sông
Cửu Long, Đông Nam Bộ, trung du miền núi phía Bắc. Đồng thời, Chính phủ cần
sửa đổi nội dung biện pháp xử phạt hành chính, cấm kinh doanh đối với các cơ sở
cung cấp nguồn giống giả, chất lượng kém, gây ảnh hưởng đến chất lượng gạo của
nhiều hộ nông dân được quy định trong nghị định 57/2005/NĐ-CP và
172/2007/NĐ-CP về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giống cây
trồng nhằm thực hiện nghiêm ngặt việc bảo vệ nông dân và ngành gạo. Bộ NN &
PTNT cần đầu tư ngân sách cho việc nghiên cứu khoa học về giống, giữ nguồn gien,
nhập nội nguồn gien, nhập công nghệ mới cũng như đầu tư hạ tầng cơ sở, chế biến
giống và xây dựng trại giống đầu dòng.
3.3.2. Giải pháp đối với hoạt động chế biến, bảo quản và xuất khẩu
50
3.3.2.1. Đẩy mạnh phát triển công nghệ, quy mô hoạt động chế biến của các
doanh nghiệp chế biến
Gạo Việt Nam xuất khẩu qua Trung Quốc đòi hỏi chất lượng cao, nếu không
sẽ bị tình trạng các thương lái ép giá. Trong khi đó, công nghệ chế biến tại các cơ sở
chế biến của Việt Nam đa phần là lạc hậu, dẫn đến chất lượng không đồng nhất.
Yêu cầu đổi mới, nâng cấp công nghệ chế biến gạo đang được nhấn mạnh trong
những năm gần đây. Phát triển công nghệ và quy mô hoạt động chế biến gạo nhằm
nâng cao độ an toàn của sản phẩm gạo, đáp ứng được các tiêu chuẩn về vệ sinh an
toàn thực phẩm, tăng cường sự đa dạng về hình thức chế biến mới, giảm thiểu chi
phí chế biến và gia tăng giá trị kinh tế của gạo, giúp gia tăng kim ngạch xuất khẩu
gạo của Việt Nam sang Trung Quốc.
Các doanh nghiệp chế biến phải đảm bảo tiêu chuẩn về cơ sở hạ tầng, quy mô
công xưởng cho hoạt động chế biến phù hợp với chủng loại gạo cũng như quy mô
của khu vực trồng lúa. Các nguồn lực về nhân công, cơ sở máy móc cần đầy đủ,
luôn sẵn sàng để thực hiện bảo quản, chế biến cho những đơn hàng lớn.
Các doanh nghiệp chế biến phải đảm bảo các loại máy móc, công nghệ chế
biến, nguyên phụ liệu chế biến, bảo quản đáp ứng được tiêu chuẩn của Cục An toàn
vệ sinh thực phẩm, Cục tiêu chuẩn Đo lường chất lượng về yêu cầu kỹ thuật đối với
máy móc, công nghệ, độ an toàn của gạo sau khi chế biến, bảo quản. Có ý kiến cho
rằng gạo Việt Nam nên bỏ qui trình sấy khô vì như vậy sẽ làm chất lượng gạo
không thống nhất, dẫn đến giảm chất lượng và giá bán. Các cơ sở chế biến có thể cử
cán bộ quản lý tham quan mô hình tổ chức cơ sở chế biến của một số nước tiên tiến
như Mỹ, Nhật Bản. Về hoạt động bảo quản, việc đầu tư các phương tiện bảo quản,
khu vực, thiết bị bảo quản rất cần thiết để sản phẩm sau khi chế biến vẫn giữ
nguyên chất lượng, giá trị, có thời hạn sử dụng lâu. Do đặc tính nước ta là nhiệt đới,
gạo rất dễ bị ẩm mốc. Các khu vực bảo quản phải được vệ sinh thường xuyên, nâng
cấp, giúp gạo chế biến luôn sạch sẽ, không bị nhiễm khuẩn, bao túi không bị mục...
Bộ NN & PTNT, Bộ Công nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình cần xây dựng, rà soát, điều chỉnh quy hoạch cơ sở chế biến trên phạm vi cả
nước theo hướng cơ sở chế biến phải gắn với vùng nguyên liệu và từng bước hình
thành cụm, khu công nghiệp chế biến nông, lâm sản thực phẩm trình cấp có thẩm
51
quyền phê duyệt. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng,
rà soát, điều chỉnh và tổ chức chỉ đạo thực hiện quy hoạch chi tiết cơ sở chế biến và
vùng nguyên liệu tập trung phù hợp với quy hoạch chung của cả nước và quy hoạch
phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng đầu
tư và phát triển Nông thôn cần tạo điều kiện cho các cơ sở này vay vốn, mở rộng
quy mô, nâng cấp cơ sở máy móc hoặc nhập mới hoàn toàn, đáp ứng được hoạt
động chế biến gạo cho xuất khẩu trong thời gian tới.
3.3.2.2. Phát triển hệ thống thu mua và phân phối gạo
Hệ thống thu mua và xuất khẩu gạo của nước ta cần có sự linh hoạt, chủ động
hơn. Hoạt động thu mua cần giảm thiểu các đối tượng trung gian, mở rộng các hình
thức mua thay vì chỉ mua theo hình thức nhỏ lẻ, không đảm bảo về sản lượng. Các
doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu có thể ký hợp đồng trực tiếp với các hộ nông dân
sản xuất với quy mô lớn hoặc ký hợp đồng với đại diện của bên sản xuất (hợp tác xã,
tổ chức dịch vụ…), từ đó tạo liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu thụ. Điều này sẽ
giúp các doanh nghiệp xuất khẩu chủ động hơn trong nguồn hàng, hạ giá thành gạo
do loại bỏ được các trung gian mua bán gạo, đảm bảo được chất lượng, sản lượng
gạo do không phải vận chuyển nhiều.
Dựa vào nội dung của hợp đồng thỏa thuận hỗ trợ đầu tư và tiêu thụ với nông
dân, doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu có thể ứng trước các yếu tố đầu vào như
giống, phân bón, thuốc trừ sâu hoặc hỗ trợ vốn, kỹ thuật canh tác trong suốt quá
trình trồng trọt gạo để tạo sự ràng buộc giữa doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu và
nông dân. Đến vụ thu hoạch, doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu sẽ mua toàn bộ gạo
theo thỏa thuận hợp đồng. Doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu đóng vai trò chủ động
trong việc định hướng nguồn hàng thông qua các hợp đồng với nông dân, đặc biệt
doanh nghiệp xuất khẩu có thể chủ động về nguồn hàng gạo chế biến, bảo quản
bằng cách xây dựng các cơ sở chế biến hoặc có hợp đồng chế biến lâu dài với cơ sở
chế biến có uy tín với hệ thống máy móc hiện đại, đảm bảo an toàn, vệ sinh và chất
lượng cho gạo. Hợp đồng tiêu thụ gạo giữa doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu và
nông dân phải được kí kết theo những quy định của Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa
52
thông qua hợp đồng nhằm đảm bảo tính pháp lý và hiệu lực của hợp đồng, bảo vệ
quyền lợi của các bên tham gia.
Chính phủ và Bộ NN & PTNT cần đẩy mạnh khuyến khích liên kết tiêu thụ
giữa doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu với nông dân trên phạm vi cả nước nhằm tạo
ra sự gắn kết giữa hoạt động trồng gạo và chế biến, xuất khẩu gạo, giúp các nông
dân đảm bảo lợi ích kinh tế, doanh nghiệp xuất khẩu chủ động trong việc định
hướng nguồn hàng gạo, điều tiết sản lượng và đảm bảo chất lượng theo yêu cầu của
người dân Trung Quốc hay của các đối tác nhập khẩu Trung Quốc. Bên cạnh đó,
đây là cơ sở để tạo liên kết chặt chẽ với các đối tác Trung Quốc nhờ duy trì mối
quan hệ mua bán lâu dài, tạo cơ hội để phát triển gạo của từng vùng về quy mô và
đẩy mạnh nâng cao về chất lượng bằng cách cách chế biến mới, đa dạng hơn.
Kênh phân phối sang Trung Quốc cần mở rộng hơn, xây dựng thêm các đại lý
ủy quyền tại Trung Quốc và trực tiếp xây dựng, mở rộng mua bán với các nhà bán
buôn, bán lẻ của Trung Quốc để đẩy mạnh sản lượng gạo được xuất khẩu, đạt được
các thỏa thuận cao về giá và cung cấp đúng nhu cầu của người dân để giữ vững mức
gạo xuất khẩu. Ngoài ra, doanh nghiệp xuất khẩu có thể thành lập các đại lý ủy
quyền ở nước ngoài để chủ động tìm kiếm thị trường ở Trung Quốc, xúc tiến họạt
động quảng bá thương hiệu gạo Việt Nam thông qua các cửa hàng giới thiệu gạo,
nắm bắt chính xác sự thay đổi nhu cầu của người dân theo mùa và các thời điểm
tiêu thụ nhiều trong năm, xu hướng thay đổi giá cả của từng loại gạo và từng loại
hình chế biến, tiếp nhận các đơn đặt hàng xây dựng các đại lý ở Trung Quốc và liên
lạc với doanh nghiệp mẹ để quyết định việc tiến hành kí kết hợp đồng. Các cửa
hàng giới thiệu gạo xây dựng gần các cửa hàng bán lẻ, các cửa hàng kinh doanh gạo
tươi, gạo an toàn để giới thiệu gạo của nước ta đến nhiều đối tượng. Doanh nghiệp
xuất khẩu có thể liên kết với Cục Xúc tiến Thương mại để thu thập các thông tin
nghiên cứu thị trường, thông tin về các đối tác nhập khẩu nhiều gạo của Việt Nam
và tận dụng uy tín của Cục Xúc tiến Thương mại nhằm đẩy mạnh quy mô đơn hàng
nhập khẩu.
Cơ sở hạ tầng trong hoạt động xuất khẩu gạo cũng cần cải thiện, tăng cường
như phương tiện vận chuyển, kho lạnh… Hiện nay, vào mùa thu hoạch, gạo của
Việt Nam rất nhiều lên đến cả trăm nghìn tấn nên nhu cầu về kho bãi rất cần thiết.
53
Doanh nghiệp xuất khẩu cần đầu tư vào phương tiện vận tải, có đầy đủ hệ thống làm
mát, giữ ẩm, vào trang thiết bị đóng gói để xuất khẩu, phải có bao bì đạt tiêu chuẩn
về sự rõ ràng nhãn mác, đảm bảo chất lượng và độ an toàn của gạo. Cục Xúc tiến
Thương mại cũng cần có những chính sách hỗ trợ, ưu đãi doanh nghiệp xuất khẩu
trong việc mở rộng đầu tư kho bãi, hệ thống đường sá để phục vụ việc bảo quản gạo
và đảm bảo chất lượng gạo trước khi tiến hành vận chuyển sang Trung Quốc thông
qua việc đầu tư xây dựng, tu sửa các kho bãi, đề xuất lên Chính phủ các dự án về
việc mở rộng xuất khẩu tại các cảng biển khác như cảng Cái Lân, nhóm cảng số 5
thuộc thành phố Hồ Chí Minh và Bà Rịa – Vũng Tàu để giảm thiểu chi phí, thời
gian vận chuyển, giảm thiểu sự ùn tắc hàng trong thời gian cao điểm về xếp dở hàng
tại cảng, giúp đảm bảo chất lượng gạo và tiến độ xuất khẩu sang Trung Quốc.
3.3.2.3. Xây dựng và phát triển thương hiệu gạo của Việt Nam
Thương hiệu gạo chưa mạnh là một hạn chế của gạo xuất khẩu của Việt Nam
tại thị trường thế giới nói chung và Trung Quốc nói riêng. Trên thế giới, gạo Việt
Nam chỉ được biết đến gồm 2 loại là gạo Trắng và gạo Thơm chứ chưa có một
thương hiệu riêng nào. Đây là một trong những nguyên nhân chính làm giảm khả
năng cạnh tranh của gạo Việt Nam. Xây dựng thương hiệu phải được xem là một
phần không thể thiếu trong hoạt động xuất khẩu gạo ở Trung Quốc nhằm xây dựng,
củng cố và phát triển hình ảnh gạo Việt Nam. Thông qua việc xây dựng và phát
triển thương hiệu, gạo của nước ta sẽ xây dựng được lòng tin tiêu dùng đối với
người dân Trung Quốc, tạo vị thế riêng của nước ta trong danh sách các mặt hàng
gạo nhập khẩu của Trung Quốc, giúp kim ngạch xuất khẩu tăng và mặt hàng của
Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác. Hoạt động xây dựng
và phát triển thương hiệu gạo của Việt Nam hiện tại cần được thực hiện dựa trên cơ
sở xây dựng hình ảnh hưởng về chất lượng và dần hướng đến cạnh tranh về giá cả.
Tuy nhiên cũng phải chấp nhận một thực tế rằng chúng ta không hội đủ những
yếu tố căn bản để xây dụng thương hiệu một cách bài bản. Trên thị trường gạo chất
lượng cao, Thái Lan và Pakistan đã gần như đã phủ kín, việc cạnh tranh trên thị
trường này không hề đơn giản. Với 90 triệu dân mà chỉ có khoảng 4,1 triệu ha đất
lúa, Việt Nam chỉ có thể trồng lúa có năng suất cao, thâm canh 2-3 vụ 1 năm và chất
lượng vừa phải để đảm bảo mục tiêu an ninh lương thực (trong khi đó ở Thái Lan
54
có tới 10 triệu ha đất lúa và chỉ có 60 triệu dân, họ hoàn toàn có thể sản xuất và xuất
khẩu 10 triệu tấn gạo cấp cao/năm). Như vậy, chúng ta chỉ có thể cạnh tranh ở thị
trường gạo chất lượng thấp, đồng nghĩa với việc khó cạnh tranh được trên thị
trường thế giới. Do đó, để xây dựng thương hiệu, Việt Nam cần có những nước đi
thận trọng hơn và chấp nhận thị trường chủ lực là thị trường gạo cấp thấp.
Thứ nhất, việc tổ chức sản xuất cần phải có liên kết chặt chẽ giữa doanh
nghiệp và nông dân. Doanh nghiệp đặt hàng nông dân trồng sản phẩm gì để xuất
khẩu và xây dựng hệ thống chế biến. Việc này thực sự cần sự chủ động từ cả 2 phía
doanh nghiệp và nông dân. Doanh nghiệp cần có chính sách hoạt động rõ ràng, nhất
quán trong hoạt động thu mua và xuất khẩu gạo. Người nông dân cần có ý thức duy
trì và bảo tồn giống lúa mình đang trồng, đảm bảo cung cấp cho doanh nghiệp sản
phẩm lúa gạo với chất lượng và năng suất ổn định, tránh trường hợp trồng bừa bãi
các giống lúa, sẽ gây khó cho doanh nghiệp trong quá trình thu mua. Có như vậy thì
mới tránh được tình trạng lúa sản xuất ra nhiều nhưng không có đầu ra, áp lực phải
bán tăng lên khiến giá giảm xuống và dẫn đến tình trạng bị các thương lái trung
gian ép giá. Nếu có sự liên kết tốt giữa doanh nghiệp và nông dân, các bước trung
gian sẽ giảm đi đáng kể, chi phí giảm xuống và lợi nhuận của cả nông dân và doanh
nghiệp cũng sẽ tăng lên do ít bị chia sẻ.
Thứ hai, doanh nghiệp phải chia sẻ với nông dân về mặt lợi nhuận của toàn
chuỗi giá trị, coi nông dân như là một cổ đông chứ không “cưa đứt, đục suốt” như
hiện nay. Doanh nghiệp nên có ý thức bảo vệ người nông dân, hợp tác với họ để đôi
bên cùng phát triển, không lợi dụng sự ít hiểu biết của họ để “làm giá” gạo vì mục
đích lợi nhuận cá nhân. Người nông dân cũng cần duy trì mối quan hệ trung thành
với các doanh nghiệp, tôn trọng các yêu cầu và qui trình sản xuất do doanh nghiệp
đề ra để sản phẩm đạt chất lượng thống nhất, đúng như yêu cầu của doanh nghiệp.
Thứ ba, nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp để xây dựng thương hiệu. Thông qua
các hội chợ, triển lãm quốc tế, DN quảng bá cho sản phẩm theo nhu cầu của thị
trường, ví dụ, Trung Đông hướng vào gạo đồ, Đông Bắc Á hướng vào gạo hạt
tròn...Nhà nước có thể tạo trang web xuất khẩu gạo Việt Nam, một mặt nhằm thu
hút các đối tác nước ngoài, mặt khác tập trung các doanh nghiệp trong nước lại với
55
nhau, tạo nên một “diễn đàn” lúa gạo để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lúa gạo Việt
Nam.
Thứ tư, nhà khoa học nghiên cứu tạo ra giống lúa theo đặt hàng của DN, cùng
tham gia sản xuất với nông dân. Với nhiều điểm yếu hiện nay, chúng ta chưa thể
hoàn toàn chuyển đổi sang sản xuất gạo chất lượng cao. Tuy nhiên chúng ta phải
xác định rằng để giá trị xuất khẩu gạo được cao thì buộc phải có gạo phẩm cấp cao.
Trước mắt có thể tạo ra một số vùng hoặc diện tích chuyên gạo phẩm cấp cao cho
mục đích xuất khẩu, vừa “thăm dò” phản ứng của thị trường đối với gạo chất lượng
cao Việt Nam, vừa tích lũy kinh nghiệm trong việc trồng đối với các loại lúa này.
3.3.2.4. Chủ động nắm bắt tình hình thị trường Trung Quốc
Để đảm bảo hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung Quốc diễn ra
thuận lợi và tiếp tục tăng trưởng kim ngạch, mở rộng cơ cấu mặt hàng gạo xuất
khẩu, việc nắm bắt tình hình về sự thay đổi chính sách, quy định về tiêu chuẩn đối
với gạo nhập khẩu từ các nước và từ Việt Nam của Trung Quốc, các biến động về
kinh tế, chính trị, xã hội của thị trường này cũng như xu hướng thay đổi nguồn cung
gạo, nhu cầu và thị hiếu của Trung Quốc phải luôn được thực hiện thường xuyên.
Trung Quốc chỉ mới tăng cường nhập khẩu gạo từ Việt Nam bắt đầu từ năm
2012, chủ yếu nhập khẩu gạo chất lượng cao nhưng lại theo đường tiểu ngạch. Với
tình hình hiện tại, chúng ta không chắc chắn được nhu cầu nhập khẩu gạo từ Trung
Quốc trong các năm tới có ổn định hay không. Mặt khác, dù là nhập khẩu số lượng
lớn, nhưng chủ yếu lại theo đường tiểu ngạch, rất khó để quản lý sản lượng cũng
như về chất lượng các lô hàng, hợp đồng gạo xuất khẩu. Các hợp đồng với Trung
Quốc tuy nhiền nhưng thường xuyên bị hủy, cho thấy đối với Việt Nam, thị trường
Trung Quốc vẫn còn rất nhiều rủi ro. Và trên hết, sản phẩm gạo Trung Quốc yêu
cầu là gạo phẩm cấp cao, trong khi chúng ta sản xuất chủ yếu là gạo phẩm cấp thấp.
Sản lượng gạo xuất khẩu sang Trung Quốc có được cho đến thời điểm này chủ yếu
là từ “cánh đồng mẫu lớn” – là các vùng chuyên canh gạo chất lượng cao. Do đó,
chúng ta cần nên có các biện pháp quản lý hoặc giới hạn khối lượng gạo xuất khẩu
sang Trung Quốc, chuyển từ tiểu ngạch sang chính ngạch, mặt khac theo dõi tình
hình của thị trường này thường xuyên, tránh tình trạng một khi nhu cầu nhập khẩu
56
gạo của Trung Quốc giảm, gạo Việt Nam không có đầu ra sẽ dẫn đến bị rớt giá,
hoặc bị Trung Quốc thao túng nền sản xuất gạo của nước ta.
Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn cần phối hợp với Hiệp hội gạo Việt
Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Cục Xúc tiến thương mại
thường xuyên cập nhật các thông tin liên quan đến tiêu chuẩn nhập khẩu như quy
định nồng độ dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, các thuốc bảo vệ thực vật cấm sử
dụng trên gạo nhập khẩu, quy định về bao bì, điều kiện bảo quản gạo hay các biến
động về tốc độ tăng trưởng kinh tế, chính trị, xã hội, khí hậu của Trung Quốc và
phổ biến đến các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thông qua trang web của Hiệp
hội gạo Việt Nam, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam, Cục Xúc tiến thương mại và các Bộ ngành liên quan. Đồng
thời, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn cần yêu cầu Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố phổ biến lại cho nông dân các vùng chuyên canh, Hội nông dân, các
trung tâm nghiên cứu và ứng dụng giống để đảm bảo hoạt động trồng trọt ngay từ
việc lựa chọn giống đến việc ứng dụng các kỹ thuật canh tác và thu hoạch vào cuối
vụ. Bộ NN & PTNT cần dựa trên thay đổi tiêu chuẩn nhập khẩu gạo của Trung
Quốc đề sửa đổi, bổ sung các quyết định, chính sách, tiêu chuẩn… trong nông
nghiệp, đồng thời đưa ra các kiến nghị với Chính phủ để hỗ trợ nông dân, doanh
nghiệp chế biến, xuất khẩu.
Doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu tiến hành thay đổi chủng loại xuất khẩu,
phương thức chế biến dựa vào các báo cáo trong nước của Cục Xúc tiến thương mại,
Bộ NN & PTNT, Trung tâm thông tin Công nghiệp và Thương mại… và ngoài
nước từ Bộ NN & PTNT Trung Quốc, hệ thống thông tin Nông nghiệp quốc tế về
biến động khả năng sản xuất gạo của Trung Quốc, nhu cầu và thị hiếu của người
dân Trung Quốc. Điển hình là nhu cầu nhập khẩu gạo chất lượng cao của Trung
Quốc trong những năm gần đây luôn ở mức cao, doanh nghiệp. Tương tự như ở
Việt Nam, gạo là lương thực chính trong bữa cơm hằng ngày của người dân Trung
Quốc. Cùng với dân số 1,3 tỉ người, vấn đề an ninh lương thực luôn là vấn đề hàng
đầu ở Trung Quốc và luôn được chính phủ quan tâm đặc biệt. Chính vì thế, luôn có
cơ hội cho các quốc gia xuất khẩu gạo gia nhập vào thị trường này. Việt Nam có lợi
thế về địa lý khi mà có chung đường biên giới phía Bắc với Trung Quốc, việc lưu
57
thông qua lại rất dễ dàng, tăng thêm lợi thế xuất khẩu cho gạo Việt Nam.
Mục tiêu cần đạt được là thông tin thị trường Trung Quốc được tuyên truyền
đến tất cả các nhà nông, cơ sở chế biến và doanh nghiệp xuất khẩu, giúp tạo định
hướng về sản lượng, chủng loại gạo xuất khẩu trong từng giai đoạn.
3.4. Một số kiến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan liên quan đến hoạt
động sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam
3.4.1. Chính sách về đất đai, khuyến nông
Chính phủ tiến hành nghiên cứu, cải tiến các chính sách về đất đai như giảm
thuế đất đai canh tác, tạo điều kiện về diện tích đất trồng ở những địa điểm thuận
tiện, phù hợp với loại gạo chuyên canh, khuyến khích người nông dân đẩy mạnh
trồng trọt gạo hàng hoá trên quy mô lớn, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thị
trường nhằm khuyến khích các tổ chức trong và ngoài nước tăng cường đầu tư vào
nông nghiệp, các cơ quan nghiên cứu, các doanh nghiệp mở rộng hoạt động nghiên
cứu, chuyển giao công nghệ vào sản xuất. Đặc biệt cần tiếp tục phát triển mô hình
“cánh đồng mẫu lớn“ – khu vực chuyên canh lúa gạo chất lượng cao để chuyển đổi
cấu trúc gạo từ phẩm cấp thấp sang phẩm cấp cao. Chính phủ cũng cần tăng cường
đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, đặc biệt là các loại hình
công nghệ cao, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất,
như chính sách thành lập các trung tâm nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật nông
nghiệp tại các vùng chuyên canh, đầu tư vốn cho các trung tâm này phát triển giống,
công nghệ máy móc hiện đại, hạn chế việc nhập khẩu máy móc từ nước ngoài.
Chính phủ tiếp tục hoàn thiện chính sách khuyến nông như cung cấp chi phí tổ
chức các khóa học nâng cao nghiệp vụ chăm sóc gạo cho nông dân các vùng, xây
dựng cơ sở hạ tầng cho các vùng miền xa xôi, phù hợp với chiến lược phát triển
nông nghiệp, nông thôn... với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động trồng trọt, đảm
bảo 100% các vùng chuyên canh trong cả nước đều có cán bộ khuyến nông, có cơ
sở hạ tầng điện nước, đường sá khang trang. Bên cạnh đó, Chính phủ cần đẩy mạnh
công tác thực hiện an toàn về chất lượng sản phẩm, quản lý việc sử dụng thuốc bảo
vệ thực vật và thuốc kích thích, bảo quản gạo, huy động sự tham gia của toàn thể
cộng đồng, xã hội. Đồng thời, cần xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm
pháp luật về hướng dẫn phát triển gạo, công tác giám sát, quản lý, kiểm tra hoạt
58
động trồng trọt, chế biến, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm...
Bộ NN & PTNT triển khai các chính sách khuyến nông của Chính phủ trên cơ
sở tạo lòng tin cho nông dân trong vùng chuyên canh, tạo sự đồng lòng và thống
nhất về định hướng trồng của vùng. Muốn đạt được điều này, cần thực hiện kêu gọi
các nông dân áp dụng thành công hoạt động khuyến nông phối với cán bộ khuyến
nông tổ chức các buổi chất vấn, trao đổi về hiệu quả của chính sách nhằm tạo đưa ra
triển vọng cụ thể ngay tại địa phương. Đồng thời, khuyến khích người dân chủ động
báo cáo về tình hình hoạt động, trình bày các khó khăn để Bộ ngành đẩy mạnh
nghiên cứu các biện pháp khắc phục, nhất là các khó khăn về giống, đất đai bị bạc
màu, thiếu nguồn nước tưới tiêu...
Để người nông dân thực hiện đúng các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực
phẩm gạo trong trồng trọt, Bộ NN & PTNT cần nâng cao ý thức của người dân,
trình bày các ảnh hưởng của việc sử dụng nhiều thuốc bảo vệ thực vật và các loại
chất kích thích thông qua các tài liệu có hình ảnh minh hoạ. Điển hình như việc sử
dụng chất kích thích nhiều sẽ làm gạo bị giảm trọng lượng trong quá trình bảo quản,
mau bị hư và chất lượng lại không cao, ảnh hưởng đến hoạt động chế biến và xuất
khẩu, từ đó gạo Việt Nam bị mất thương hiệu trong thị trường Trung Quốc. Các cơ
sở nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật nông nghiệp cần nghiên cứu các loại phân hữu
cơ, thuốc vi sinh có giá thành rẻ, giúp người dân nâng cao chất lượng, sản lượng,
hạn chế sử dụng các loại thuốc hóa học có nồng độ mạnh.
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Nông thôn cần hỗ trợ các vùng chuyên canh
gạo bằng chính sách cho vay ưu đãi, chính sách thuế, hỗ trợ các nghiên cứu. Trong
đó, đối tượng được ưu tiên vay là các vùng chuyên canh các gạo xuất khẩu chính
của Việt Nam sang Trung Quốc, các vùng còn hạn chế về quy mô, công nghệ kỹ
thuật trong trồng trọt.
3.4.2. Chính sách hỗ trợ chế biến, bảo quản và xuất khẩu gạo
Chính phủ cần tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế về hệ thống
điện, đường sá ở các khu vực chế biến, thực hiện chính sách ưu đãi tín dụng đầu tư
cho cơ sở chế biến có quy mô lớn và cần mở rộng nhiều máy móc cho việc đẩy
mạnh các hình thức chế biến hiện đại, định hướng nâng cao quy mô hoạt động, năng
suất chế biến và chất lượng gạo chế biến của các cơ sở chế biến. Doanh nghiệp xuất
59
khẩu cần được Chính phủ đầu tư vốn trong việc đẩy mạnh quảng bá hình ảnh, xây
dựng thương hiệu nhằm tạo thương hiệu cho gạo của Việt Nam.
Hoạt động chế biến, xuất khẩu gạo vẫn còn gặp khó khăn do quy mô nhiều cơ
sở còn nhỏ, hoạt động xuất khẩu còn phát sinh nhiều chi phí cao như phí vận
chuyển nội địa, phí thuê tàu. Để tạo thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động chế
biến và xuất khẩu, Chính phủ cần xem xét đưa các dự án sản xuất, chế biến, bảo
quản gạo vào danh mục các dự án được vay vốn từ quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà
nước với lãi suất đặc biệt ưu đãi 3% một năm, thời gian trả nợ từ 12 – 15 năm, thời
gian ân hạn từ 3 – 5 năm, giãn thời gian trả nợ từ 12 – 15 năm đối với các dự án đã
đầu tư, cho khoanh nợ đối với các dự án đặc biệt khó khăn. Đồng thời, tiến hành
miễn giảm thuế cho các khu vực, cơ sở chế biến, xuất khẩu gạo với quy mô lớn, tạo
động cho các cơ sở, doanh nghiệp này chủ động tìm kiếm, mở rộng nguồn cung gạo
từ nông dân, tiếp tục duy trì và mở rộng công nghệ chế biến, bảo quản hiện đại hơn.
Bộ Công thương cần phát huy vai trò trong việc tổ chức các hội chợ giới thiệu
gạo của Việt Nam tại Việt Nam, kêu gọi các nhà nhập khẩu gạo thế giới và Trung
Quốc tham gia nhằm thu hút các nhà nhập khẩu gạo mới; phối hợp với các Bộ
ngành của Trung Quốc giao lưu, hợp tác trao đổi về giới thiệu thành tựu trong nông
nghiệp, tạo điều kiện cho Việt Nam ứng dụng các thành tựu của Trung Quốc về
cách thức khuyến nông, tổ chức trồng trọt.
Bộ NN & PTNT phối hợp với bộ Tài chính cần ban hành các quyết định gắn
kết giữa nông dân và doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu như chính sách ưu tiên giảm
thuế đối với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu có hợp đồng dựa theo sản lượng
thỏa thuận tiêu thụ và giá bán trên thị trường, chính sách ưu đãi hỗ trợ về vốn đầu tư
trồng trọt đối với các vùng chuyên canh thực hiện trồng gạo có triển vọng xuất khẩu
sang thị trường Trung Quốc và vốn sản xuất đối với các doanh nghiệp đẩy mạnh
chế biến gạo theo các mô hình tiên tiến, tạo ra các chế phẩm từ gạo có chât lượng
cao hơn và giá trị kinh tế cao hơn và nâng cao chất lượng về giá trị dinh dưỡng, độ
an toàn, thời gain bảo quản, sử dụng... Điều này sẽ tạo chuỗi giá trị toàn ngành, giúp
người nông dân, doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu đạt được lợi nhuận cao, xây
dựng được thương hiệu vững mạnh cho doanh nghiệp và sản phẩm của doanh
nghiệp xuất khẩu.
60
Theo Quyết định về việc thành lập Tổ công tác điều hành xuất khẩu gạo,
nhiệm vụ của Tổ công tác là tư vấn về các vấn đề liên quan đến điều hành xuất khẩu
gạo giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành trong điều hành xuất
khẩu gạo, góp phần nâng cao hiệu quả công tác điều hành xuất khẩu gạo. Tổ công
tác cũng có nhiệm vụ theo dõi diễn biến tình hình thị trường thóc, gạo thế giới và
trong nước để tư vấn những biện pháp điều hành xuất khẩu gạo, báo cáo định kỳ
hoặc đột xuất với Thủ tướng Chính phủ về tình hình xuất khẩu gạo và những vấn đề
phát sinh trong hoạt động xuất khẩu gạo.
Đồng thời, nghiên cứu, đề xuất biện pháp, cơ chế chính sách liên quan đến sản
xuất, tiêu thụ, xuất khẩu thóc, gạo để đề xuất với Thủ tướng Chính phủ hoặc tham
gia với các Bộ, ngành, địa phương liên quan như: điều kiện kinh doanh, quy chuẩn,
quy hoạch kho chứa, cơ sở xay, xát, thóc, gạo; vấn đề thu mua, tạm trữ thóc gạo,
xây dựng vùng nguyên liệu, điều tiết bình ổn thị trường nội địa, tín dụng đầu tư, tín
dụng xuất khẩu; tổ chức nghiên cứu, khảo sát, học tập kinh nghiệm trong nước và
ngoài nước trong lĩnh vực sản xuất, điều hành và kinh doanh xuất nhập khẩu lương
thực, thóc gạo.
Trong đó, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) đóng vai trò quan trọng ở
khâu theo dõi, bám sát tình hình thị trường; thiết lập liên kết doanh nghiệp xuất
khẩu – nông dân – tổ chức tham gia xuất khẩu gạo. Đặc biệt, VFA sẽ phối hợp Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xác định nguồn cung, đảm bảo sản lượng gạo
phù hợp cho hoạt động xuất khẩu của năm 2014, góp phần cơ cấu lĩnh vực nông
nghiệp. Nhanh chóng phát hiện và xử lý các doanh nghiệp không đủ năng lực về hệ
thống hạ tầng như kho bãi, nhà máy xay, xát… không đủ năng lực trong đàm phán
hợp đồng. Như vậy sẽ giúp giảm tình trạng nhiều doanh nghiệp làm ăn theo tính
chất ngắn hạn, đặc biệt là cạnh tranh không lành mạnh, gây ảnh hưởng rất lớn đến
thương hiệu gạo Việt Nam, ảnh hưởng đến giá cả xuất khẩu gạo. Trong Quy hoạch
Thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo, Bộ Công Thương cần xác định mục tiêu cụ
thể từ nay đến năm 2015 phải kiện toàn, ổn định số lượng thương nhân, đảm bảo tối
đa số lượng đầu mối; gắn địa bàn hoạt động của thương nhân với các vùng sản xuất
lúa hàng hóa lớn.
61
Tiểu kết chương 3
Xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong thời
gian qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng mừng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu đó thì hoạt động này vẫn còn nhiều hạn chế cần phải được khắc phục. Trên cơ
sở các thành tựu và hạn chế trong chương 2 cùng với những quan điểm, định hướng,
mục tiêu xuất khẩu gạo sang Trung Quốc từ năm 2012 đến năm 2020, tác giả đã đề
ra hệ thống các giải pháp đối với các đối tượng liên quan từ Chính phủ, Bộ ngành,
Hiệp hội cho đến doanh nghiệp, người nông dân và một số kiến nghị đối với Chính
phủ, các Bộ ngành liên quan đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc.
62
KẾT LUẬN
Hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung Quốc vẫn đang tăng
trưởng về kim ngạch, tạo cơ hội đóng góp vào nền kinh tế quốc gia, nâng cao đời
sống nhân dân cũng như góp phần làm chuyển dịch cơ cấu ngành của nước ta. Hoạt
động xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường này đã đạt được thành tựu về kim
ngạch, chủng loại và chất lượng. Nhiều loại gạo được tiêu thụ mạnh trong những
năm gần đây, nhất là gạo thơm, gạo phẩm cấp cao đã phần nào khẳng định chất
lượng gạo ngày càng tăng của Việt Nam, tạo động lực cho ngành gạo tiếp tục đẩy
mạnh trồng trọt, chế biến và xuất khẩu. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế trong
hoạt động xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc mà bắt nguồn là từ hoạt động
trồng trọt, chế biến, xuất khẩu chưa chuyên nghiệp, thiếu linh hoạt, chỉ đạo thực
hiện của Chính phủ, các Bộ ngành chưa thực hiện hiệu quả. Những hạn chế này đã
làm sản lượng và giá cả gạo Việt Nam chưa tương xứng với nhau, giá cả còn thấp
so với mặt bằng chung của thể giới, chưa thực sự xứng đáng với vị trí quốc gia xuất
khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Sau khi tìm hiểu và phân tích về thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang
Trung Quốc, khóa luận đưa ra một số giải pháp trong hoạt động trồng trọt bao gồm
hoạt động nghiên cứu và chuyển đổi gạo từ giống phẩm cấp thấp sang phẩm cấp cao,
phát triển các vùng chuyên canh gạo chất lượng cao như cánh đồng mẫu; trong hoạt
động chế biến, bảo quản và xuất khẩu như đẩy mạnh phát triển công nghệ, phát
triển hệ thống thu mua và phân phối gạo, xây dựng và phát triển thương hiệu gạo
của Việt Nam và chủ động nắm bắt tình hình thị trường Trung Quốc. Ngoài ra, tác
giả xin đưa một số kiến nghị đối với Chính phủ và các Bộ ngành liên quan về chính
sách đất đai, khuyến nông và chính sách hỗ trợ chế biến, bảo quản, xuất khẩu gạo
của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. Những giải pháp, kiến nghị này hi vọng
sẽ giúp khắc phục những hạn chế, tận dụng các thành tựu của hoạt động xuất khẩu
của Việt Nam sang thị trường này, giúp hoạt động trồng trọt, chế biến, bảo quản và
xuất khẩu ngày càng hiệu quả hơn, tạo điều kiện tăng trưởng về kim ngạch xuất
khẩu gạo, giữ vững và nâng cao vị trí của Việt Nam trong danh sách các thị trường
xuất khẩu gạo chính sang thị trường Trung Quốc.
63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu sách, tạp chí tiếng Việt
1. Lê Ngọc Hải, 2011, Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu, Thư viện học
viện mở Việt Nam.
2. Dương Hữu Hạnh, 2008, Hướng dẫn thực hành kinh doanh xuất nhập khẩu,
NXB Thống Kê.
3. Luật Thương mại Việt Nam 2005.
4. Nguyễn Công Thành, 2012, Bàn về chất lượng gạo xuất khẩu của nước ta,
Viện khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam, TPHCM.
5. Phạm Huyền Diệu, 2012, Xuất khẩu gạo Việt Nam sang trong giai đoạn hiện
nay, Luận văn thạc sỹ ngành Kinh tế chính trị, mã số 60 31 01.
6. Trần Tiến Khai, 2010, Chính sách xuất khẩu lúa gạo Việt Nam và những vấn
đề cần điều chỉnh, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học xã hội và Phát triển bền vững
vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
7. Trung tâm Thương mại Quốc tế UNCTAD/WTO (ITC) và Cục Xúc tiến
Thương mại Việt Nam (VIETRADE), 08/2005, Đánh giá tiềm năng xuất
khẩu của Việt Nam.
Tài liệu Internet tiếng Việt
8. Agroviet, Chế tạo máy cho nhà nông, dễ mà khó,
http://www.agroviet.gov.vn/Pages/news_detail.aspx?NewsId=19560&Page=
2, ngày truy cập 08/11/2011
9. BBC UK, Cạnh tranh khốc liệt thị trường gạo,
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2013/04/130430_vietnam_rice_e
xports.shtml ngày truy cập 06/11/2013
10. BBC UK, Gạo Việt Nam được giá sau bão Haiyan,
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2013/11/131121_philippines_viet
_rice.shtml ngày truy cập 27/11/2013
11. Báo BinVIet, Gạo ồ ạt chảy sang biên giới,
http://beforeitsnews.com/vietnamese/2013/11/gao-o-at-chay-sang-bien-gioi-
108684.html, ngày truy cập 19/11/2013
64
12. Báo CafeF, Hạn ngạch nhập khẩu gạo của Trung Quốc là 532 triệu tấn năm
2014, http://cafef.vn/nong-thuy-san/han-ngach-nhap-khau-gao-cua-trung-
quoc-la-532-trieu-tan-nam-2014-201309280720366900ca52.chn, ngày truy
cập 19/11/2013
13. Báo mới, Trung Quốc dự kiến sẽ tăng cường xuất khẩu gạo,
http://www.baomoi.com/Trung-Quoc-du-kien-se-tang-cuong-nhap-khau-
gao/45/12250748.epi, ngày truy cập 19/11/2013
14. Báo Sài Gòn Times, Giảm diện tích lúa để tăng thu nhập nông dân,
http://www.thesaigontimes.vn/Home/nongsan/tintucthitruong/102992/, ngày
truy cập 02/11/2013
15. Báo Trung Nguyên, Gạo thơm ST ra thế giới,
http://www.trungnguyen.com.vn/tin-tuc/sang-tao-vi-khat-vong-viet/gao-
thom-st-ra-the-gioi/, ngày truy cập 23/11/2013
16. Báo Việt Nam Plus, Xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam để đẩy mạnh xuất
khẩu, http://www.vietnamplus.vn/xay-dung-thuong-hieu-gao-viet-nam-day-
manh-xuat-khau/228772.vnp, ngày truy cập 03/11/2013
17. Báo Vneconomy, Thượng nguồn Mê Kông khát gạo Việt Nam,
http://vneconomy.vn/20131025024947759P0C19/thuong-nguon-me-kong-
khat-gao-viet-nam.htm, ngày truy cập 04/11/2013
18. Bình Thuận mobile, Bài học xuất khẩu gạo,
http://m.baobinhthuan.com.vn/vn/chi-tiet-
tin.aspx?news_id=59630&cat_id=633, ngày truy cập 19/11/2013
19. Dân Việt, Thái Lan xả hàng và giảm mạnh giá gạo: Lúa gạo Việt chao đảo,
http://danviet.vn/kinh-te/thai-lan-xa-hang-va-giam-manh-gia-gao-lua-gao-
viet-chao-dao/20130903100639747p1c25.htm, ngày truy cập 13/11/2013
20. Dân Việt, Thiếu gạo, lỡ cơ hội xuất khẩu, http://danviet.vn/kinh-te/thieu-gao-
lo-co-hoi-xuat-khau/2013112210382937p1c25.htm, ngày truy cập
13/11/2013
21. Diễn đàn dạy và học, Xây dựng thương hiệu cho lúa gạo Việt Nam,
http://dayvahoc.blogspot.com/2010/07/creating-after-jump-summaries.html,
ngày truy cập 13/11/2013
65
22. Diễn đàn vietfood, Khi Chuyển Mục Đích Sử Dụng Đất Lúa Nước Phải Có
Kế Hoạch Bù Đắp Lại Diện Tích Đã Mất,
http://www.vietfood.org.vn/data/items/5448/1103.htm, ngày truy cập
23/11/2013
23. Doanh nhân sài gòn, Xuất khẩu gạo đang hướng đến thị trường Trung Quốc,
http://www.doanhnhansaigon.vn/online/tin-tuc/kinh-
te/2012/06/1065416/xuat-khau-gao-dang-huong-den-thi-truong-trung-quoc/,
ngày truy cập 19/11/2013
24. Nông nghiệp - nông thôn Việt Nam, Đẩy mạnh xuất khẩu gạo sang Trung
Quốc, http://xttm.mard.gov.vn/Site/vi-vn/72/51/123/77424/Default.aspx,
ngày truy cập 19/11/2013
25. Sài gòn Tiếp thị, Gạo xuất khẩu: Món nợ chất lượng,
http://sgtt.vn/oldweb/cacsobaotruoc/482_36/p04_monnochatluong.htm, ngày
truy cập 14/11/2013
26. Sài Gòn Tiếp thị, Hai mươi năm vẫn chưa thay đổi qui cách gạo xuất khẩu,
http://sgtt.vn/Ban-doc/178921/Hai-muoi-nam-van-chua-thay-doi-quy-cach-
gao-xuat-khau.html, ngày truy cập 04/11/2013
27. Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn TPHCM, Kế hoạch chuyển đổi cơ
cấu cây trồng trên lúa giai đoạn 2014 - 2020,
http://www.sonongnghiep.hochiminhcity.gov.vn/tintuc/lists/posts/post.aspx?
Source=%2ftintuc&Category=TIN+TR%E1%BB%92NG+TR%E1%BB%8
CT&ItemID=2769&Mode=1, ngày truy cập 23/11/2013
28. Thị trường Lúa gạo, http://thitruongluagao.com/trang-chu, ngày truy cập
15/11/2013
29. Thời báo ngân hàng, Xuất khẩu gạo thiệt 600 triệu USD,
http://www.thoibaonganhang.vn/tin-tuc/5-xuat-khau-gao-thiet-600-trieu-usd-
14296.html, ngày truy cập 04/11/2013
30. Tổng cục đường bộ Việt Nam, Giao thông nông thôn trong công cuộc xây
dựng nông thôn mới và hiện đại hóa nông thôn,
http://www.drvn.gov.vn/webdrvn/index.php?q=content/giao-thong-nong-
thon-trong-cong-cu%E1%BB%99c-xay-d%E1%BB%B1ng-nong-thon-
66
m%E1%BB%9Bi-va-hi%E1%BB%87n-d%E1%BA%A1i-hoa-nong-thon-0,
ngày truy cập 19/11/2013
31. Trang web tỉnh Tiền Gian, Thị trường lúa gạo sôi động trở lại,
http://www.tiengiang.gov.vn/xemtin.asp?cap=3&id=19641&idcha=10054,
ngày truy cập 19/11/2013
32. Viện thổ nhưỡng nông hóa, Cơ hội lớn cho ngành lúa gạo Đông Nam Á,
http://sfri.org.vn/TinTucChiTiet.aspx?MenuId=3&Id=90, ngày truy cập
04/11/2013
33. Vnexpress, Giá gạo Việt xuất khẩu tăng nhờ Philippins,
http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/hang-hoa/gia-gao-viet-xuat-khau-
tang-nho-philippines-2898701.html, ngày truy cập
34. VOV, 20 nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD,
http://vov.vn/Kinh-te/20-nhom-hang-co-kim-ngach-xuat-khau-tren-1-ty-
USD/293056.vov, ngày truy cập 04/11/2013
35. VOV, Gạo Việt tăng giá, sức cạnh tranh giảm, http://vov.vn/Kinh-te/Gao-
Viet-tang-gia-suc-canh-tranh-giam/290091.vov, ngày truy cập 04/11/2013
36. VOV, Xuất khẩu gạo đạt 4678 triệu tấn, http://vov.vn/Kinh-te/Xuat-khau-
gao-dat-4678-trieu-tan/279999.vov, ngày truy cập 04/11/2013
Tài liệu Internet nước ngoài
37. Ehow, China’s Majo agricultural products
http://www.ehow.com/facts_5215142_china_s-major-agricultural-
products_.html ngày truy cập 05/11/2013
38. China Briefing, China’s Import and Export Licensing Framework,
http://www.china-briefing.com/news/2013/03/19/chinas-import-and-export-
licensing-framework.html, ngày truy cập, 15/11/2013
39. Wikipedia, Natural disaster in China,
http://en.wikipedia.org/wiki/Natural_disasters_in_China ngày truy cập
26/11/2013
40. Wikipedia, Rice environmental impacts,
http://en.wikipedia.org/wiki/Rice#Environmental_impacts ngày truy cập
25/11/2013
67
Các trang web thống kê số liệu
41. Custom.gov.vn
42. Fao.org (FAO outlook 2012 & FAO outlook 6/2013)
43. Gafin.vn
44. Intracen.org
45. Oryza.com
46. Tinthuongmai.vn
47. Vaas.org.vn
48. Vinachina.com
49. Vinanet.com.vn
top related