Áo nghĩa thư upanishad
TRANSCRIPT
Áo Nghĩa Thư (Upanishad) –
Tri Thức Tối Thượng
Chú giải:Shri Aurobindo.
Upload bởi Ha Le
Katha Upanishad (Đối Thoại
Giữa Thần Chết Và Nachiketà Về Bản
Ngã) Áo Nghĩa Thư (Upanishad)
1. Tử thần nói: Cái tốt là một điều, cái khoái lạc là điều khác. Cả hai cái ấy
phục vụ cho những nhu cầu khác nhau, chúng đeo đuổi con người. Trong
hai cái, cái tốt theo sát con người để con người đạt tới cái thiện, nhưng kết
cục con người lại sai lầm chọn cái khoái lạc.
2. Cả cái tốt và sự khoái lạc tự chúng hiện diện trong con người. Tâm trí
thanh tĩnh có thể thẩm tra và phân biệt chúng rõ ràng. Vâng, con người thích
điều tốt hơn điều khoái lạc, nhưng kẻ khờ dại lại lựa chọn điều khoái lạc vì
tính tham lam và hám lợi.
3. Nachiketà, sau khi suy xét kỹ sự khoái lạc như có vẻ rất đam mê của Nó,
ngươi đã từ bỏ Nó tất cả. Ngươi không nên đi theo con đường giàu sang xa
hoa phú quý, nơi nhiều người chìm đắm trong Nó.
4. Hai điều này cách xa nhau và đưa tới những kết quả khác nhau: sự ngu
dốt và cái được hiểu biết giống như tri thức. Ta yêu mến ngươi, ơi
Nachiketà, ngươi là người ham muốn tri thức, để chính những sự khoái lạc
cũng đã không thể cám dỗ ngươi.
5. Những người ngu xuẩn ở trong tối tăm nhưng lại tự nghĩ rằng mình là
khôn ngoan và uyên bác, tự rơi vào vòng luẩn quẩn bằng những con đường
quanh co khác nhau, giống như người đui mù dắt dẫn người đui mù.
6. Kiếp sau không bao giờ tự Nó hé mở cho người không có nhận thức sáng
suốt, không chú ý và lúng túng bởi sự lừa gạt của giàu sang. " Chỉ có thế
giới này tồn tại", anh ta nghĩ "và không có thế giới khác". Không biết bao
nhiêu lần anh ta đến dưới sự thống trị của ta.
7. Có nhiều người không nghe theo Atman và qua việc nghe theo Atman,
nhiều người không lĩnh hội được Atman. Thật kỳ diệu là người diễn giải và
hiếm có người nghe; thực vậy, hiếm có người kinh nghiệm về Atman chỉ
dạy bởi người thầy tài năng.
8. Atman khi được diễn giải bởi một người thấp kém hơn, sẽ không dễ dàng
lĩnh hội thấu đáo, vì Atman được tranh luận bởi nhiều quan điểm khác nhau.
Nhưng khi Atman được giảng giải bởi người đã thể nhập làm 1 với Atman,
thì có thể không còn sự nghi ngờ về Nó. Atman là cái huyền ảo tế vi hơn cái
huyền ảo tế vi và Atman sẽ không hiểu biết được qua những tranh luận lý
luận.
9. Hiểu biết Atman không thể đạt được bởi lý luận. Atman sẽ trở nên dễ
dàng lĩnh hội khi được giảng giải bằng cách khác[1]. Bây giờ, ngươi đã đạt
được sự hiểu biết đó. Ngươi thật là một người có ý chí kiên quyết chân
chính. Mong cho chúng ta luôn có sự thẩm tra như ngươi!
10. Tử thần nói: ta biết rằng kết quả thu được từ hành động là không tồn tại,
bởi vì cái gì tồn tại không thể tạo thành từ cái không tồn tại. Tuy vậy, ta đã
thực hiện lễ hiến tế Nachiketà với sự giúp đỡ của những cái không tồn tại và
đạt được địa vị của của cái chỉ liên quan tới tồn tại.
11. Sự thực hiện những ước mơ, sự hình thành thế giới, sự không ngừng báo
ơn bằng lễ hiến tế, là chỗ dựa mà ở đó không có sự lo sợ, đó là cái đáng
kính trọng và vĩ đại, chốn rộng lớn và mục đích là tất cả cái ngươi hiểu rõ;
sống khôn ngoan, ngươi có ý chí vững chắc để từ chối tất cả mọi thứ.
12. người sáng suốt là người biết tập trung mọi ý chí vào Bản ngã và hiểu rõ
rằng từ cổ xưa, Đấng Một chói lọi, khó nhìn thấy, không biểu hiện, sâu kín,
người tồn tại trong trí năng và nghỉ ngơi nơi thể xác Người đã thực sự từ
bỏ cả niềm vui và nỗi buồn ở phía sau.
13. Người chết, kẻ đã nghe theo điều đó và có nhận thức hoàn toàn thấu đáo
về Nó, kẻ đã phân biệt rõ Atman, linh hồn chân chính của dharma với tất cả
đối tượng vật chất và hiểu rõ tính chất huyền ảo tế vi của Atman, anh ta vui
mừng vì anh ta biết được cái gì là căn nguyên của niềm vui đó. Ta tin rằng
từ nơi của Brahman sẽ rộng mở đối với Nachiketà.
14. Nachiketà thưa: cái mà Người hiểu như khác hơn với sự công bằng và
sự không công bằng, khác hơn tất cả nguyên nhân và kết quả, khác hơn với
những gì đã có và những gì sẽ có đó là cái Người đã chỉ dạy cho tôi.
15. Tử thần nói: mục đích mà tất cả kinh Veda trình bày, mục đích mà tất cả
sự nghiêm khắc của con người tập trung vào và cái mà con người mong ước
khi chúng dẫn dắt cuộc sống thế gian, ta có thể nói vắn tắt với ngươi: Nó là
Aum.
16. Tiếng Aum thiêng liêng đó chính là Brahman. Nó là tối cao. Bất cứ ai
hiểu biết từ này, người đó sẽ đạt được tất cả điều mong ước của mình.
17. Đây là ủng hộ tốt nhất, đây là người ủng hộ cao nhất. Bất cứ người nào
hiểu biết sự ủng hộ này, người đó sẽ kính yêu thế giới của Brahmà.
18. Nên biết rằng Bản ngã không sinh ra, không chết đi. Nó không bắt đầu
từ bất cứ cái gì và cũng không có gì bắt đầu từ Nó. Bản ngã tự tồn tại, vĩnh
viễn trường tồn và cổ xưa. Nó không hề bị tiêu diệt khi thể xác bị tiêu diệt.
19. Nếu kẻ giết nghĩ rằng anh ta giết được Bản ngã và nếu kẻ bị giết nghĩ
rằng anh ta bị giết, thì đều không hiểu đúng những điều này. Bản ngã không
bị giết, và không có gì giết được Nó.
20. Atman nhỏ hơn cái nhỏ nhất, lớn hơn cái lớn nhất, Atman ẩn giấu sâu
kín trong trái tim của tất cả loài vật đang sinh tồn. Người thoát khỏi sự ràng
buộc của dục vọng và thế giới vật dục là người thấy được vẻ uy nghiêm của
Atman qua sự yên tĩnh của tri giác và trí tuệ, người đó sẽ đạt được tự do từ
sự đau khổ.
21. Mặc dù yên tĩnh, nhưng Atman vẫn chuyển động rất xa; mặc dù nằm
một chỗ, nhưng Atman vẫn đi khắp mọi nơi. Ai, trừ chính ta, có thể biết
rằng Atman sáng chói vui mừng và không vui mừng?
22. Người thông minh hiểu rõ Atman như ở trong những thân xác không bất
tử nhưng chính Nó là bất tử, rộng lớn và thâm nhập tất cả, không có sự đau
buồn.
23. Atman không thể đạt được bởi sự nghiên cứu Veda, hay bằng trí thông
minh, bằng nghe theo các cuốn sách thiêng liêng. Atman chỉ đạt được bởi ai
biết chọn lựa Nó. Đến mức Atman duy nhất để lộ ra chính Nó và chính
mình là một với Atman.
24. Anh ta không là người đầu tiên loại bỏ sự độc ác, không giữ được thanh
tĩnh và nhẫn nhục, tư tưởng không an định thì anh ta không thể đạt tới
Atman. Atman chỉ được nhận thức rõ qua tri giác về thực tại.
25. Vậy thì ai là người biết được Atman, Đấng mà ở nơi đó những người
brahmin và những người kshatriyas chỉ là đồ ăn và cái chết tự Nó là đồ gia
vị?
O
1. Có hai cái tồn tại sâu kín trong thân xác con người, trong tri năng, trong
àkàs'a tối cao của trái tim, hưởng thụ những sự báo ơn do chính những hành
động của mình gây ra.những người hiểu biết Brahman diễn tả linh hồn cá
nhân và siêu ngã như ánh sáng và bóng tối, như những người chủ gia đình
họ đã hiến dâng những món quà tặng trong nghi lễ Ngũ lửa và cũng chính
họ thực hiện ba lần lễ hiến tế Nachiketà.
2. Chúng ta biết làm thế nào để thực hiện lễ hiến tế Nachiketà, mà Nó như
chiếc cầu cho những kẻ hiến tế vượt lên tới Brahman; và chúng ta cũng biết
rằng Brahman bất diệt, tối cao, được mưu cầu bởi những người mong muốn
vượt qua tới nơi mà ở đó không còn sự lo sợ.
3. Có thể coi người hiểu biết Atman như là chủ nhân của chiếc xe ngựa, mà
thể xác như là chiếc xe, tri năng là người đánh xe và trí tuệ là chiếc dây
cương vậy.
4. Các giác quan chúng như là những con ngựa; đối tượng của giác quan
như con đường. Tương hợp với thể xác, sự thông minh được gọi là Atman,
các giác quan và trí tuệ là sự thích thú của con người.
5. Nếu tri năng liên hệ với trí tuệ, là cái luôn luôn bị xao nhãng, mất đi sự
sáng suốt của Nó, thì các giác quan sẽ không được kiểm soát, kiềm chế,
giống như con ngựa tồi của người đánh xe ngựa.
6. Nhưng nếu tri năng liên hệ với trí tuệ luôn luôn được kiềm chế thận
trọng, có sự sáng suốt, thì các giác quan được nằm dưới sự kiểm soát, điều
khiển, giống như con ngựa tốt của người đánh xe ngựa.
7. Nếu tri năng liên hệ với trí tuệ mất đi sự sáng suốt của Nó và vì thế luôn
luôn không trong sạch, thì linh hồn hiện thân trong nhục thể không bao giờ
đạt tới mục đích mà lại rơi vào vòng luân hồi.
8. Nhưng nếu tri năng liên hệ với trí tuệ luôn luôn được kiềm chế thận
trọng, có sự sáng suốt và bởi vậy Nó luôn luôn thanh khiết, thì linh hồn thể
hiện trong thân xác đạt được mục đích từ đó Nó thoát khỏi sự tái sinh, luân
hồi.
9. Người thông minh có nhận thức rõ vai trò người đánh xe của mình, nắm
chắc dây cương trí tuệ, đi tới tận cùng con đường, đó chính là vị trí tối cao
của thần Vishnu.
1011. Vượt ra ngoài giác quan là đối tượng; vượt ra ngoài đối tượng là trí
tuệ; vượt ra ngoài trí tuệ là trí năng; vượt ra ngoài trí năng là Atman vĩ đại;
vượt ra ngoài Atman vĩ đại là Cái không hiển nhiên, vượt ra ngoài Cái
không hiển nhiên là Purusha. Ngoài Purusha[2] không có cái gì cả, đây là
mục đích, mục đích tối cao.
12. Bản ngã sâu kín trong tất cả sự sống O tỏa sáng, nhưng Nó được nhìn
thấy bởi các bậc thấu thị tinh tế qua khả năng nhận thức tinh tế và sâu sắc
của họ.
13. Người khôn ngoan, uyên bác sẽ hòa hợp lời nói của mình với trí tuệ của
mình, hòa hợp trí tuệ của mình với trí năng của mình. Anh ta sẽ hòa trí năng
của mình vào Trí tuệ vũ trụ và hòa hợp Trí tuệ Vũ trụ vào trong Bản ngã
thanh tĩnh.
14. Hãy xuất hiện! Hãy tỉnh ngộ! Đến gần bậc vĩ đại và học tập. Giống như
sự sắc bén của lưỡi dao cạo, đó là con đường mà người khôn ngoan gian
khổ đặt chân lên và khó khăn vượt qua.
15. Và nhận thức rõ rằng Atman là cái không có tiếng nói, không thể sờ
thấy, không hình dáng, không thể bị tiêu hủy, không mùi vị, tồn tại vĩnh
viễn, bất diệt; Atman không có khởi đầu và không có kết thúc, vượt lên trên
sự vĩ đại và không biến đổi Nó vượt qua cánh cửa của cái chết và hoàn
toàn tự do.
16. Người khôn ngoan, thông minh là người nghe và liên hệ với câu chuyện
bất tử của Nachiketà, người đó sẽ được sự chỉ bảo của thần chết và được
sùng bái trong thế giới của Brahman.
17. Và chính anh ta, người luôn luôn rèn luyện chế ngự bản thân, đọc và
giảng giải ý nghĩa huyền bí, cao siêu của các bản văn trong cuộc đàm đạo
của các Brahmin hay tại các nghi lễ S'ràddha, bằng cách ấy ông ta đã giành
được ân huệ vô tận. vâng, ông ta sẽ đạt được ân huệ vô tận.
O
1. Tử thần nói: Sự tồn tại Bản ngã chúa tể tối cao phải chịu tổn thương bởi
các giác quan trong việc tạo cho chúng hướng ra phía ngoài; bởi vậy người
ta chỉ trông ra đối tượng bên ngoài mà không nhìn vào trong Bản ngã.
Nhưng nhà hiền triết ước ao sự vĩnh cửu đã khép cánh cửa ngũ quan để nhìn
vào trong Bản ngã.
2. Những người với khả năng hiểu biết không phát triển, có cái nhìn tối tăm
và thèm muốn những niềm vui vật chất tầm thường, giống như những đứa
trẻ theo đuổi những niềm vui bên ngoài và rơi vào mạng lưới vây tỏa của cái
chết; những người có linh hồn sáng suốt hiểu biết cái gì là vĩnh viễn, bất tử,
sẽ không thèm muốn bất cứ cái gì không chắc chắn trong thế giới này.
3. Đó là cái nhờ Atman người ta biết được hình dáng, mùi vị, âm thanh, cảm
giác và những niềm vui nhục dục. Như vậy thì còn có cái gì đó chưa hiểu
biết về Atman? Đây, đích thực là Cái đó.
4. Đó là cái nhờ Atman người ta lĩnh hội được tất cả sự vật trong trạng thái
ngủ hay trong trạng thái tỉnh. Có hiểu biết sâu rộng rằng Atman thâm nhập
khắp nơi, người có tinh thần thanh tĩnh không đau buồn.
5. Anh ta, người biết được linh hồn cá nhân, cái trải qua những kết quả của
hành động, giống như Atman, luôn luôn gần gũi, là chúa tể của quá khứ và
tương lai, sẽ không tự giấu chính mình từ những cái khác. Đây đích thực là
Cái đó.
6. Anh ta quả thật biết Brahman là người biết Đấng sinh ra đầu tiên[3], trải
qua sự khắc khổ, tạo nên nước với các yếu tố trong sâu thẳm tâm hồn. Đây
đích thực là Cái đó.
7. Anh ta thực sự biết Brahman là người biết Aditi, linh hồn của tất cả các vị
thần, cái đã được sinh ra từ trong hình thức của Pràna, cái đã được tạo nên
với các yếu tố, cái gia nhập vào tâm hồn và ngụ ở trong đó. Đây đích thực là
Cái đó.
8. Agni, Người nằm sâu kín ở trong hai que lửa và được giữ gìn thận trọng
như đứa trẻ trong tử cung của người mẹ, ngày ngày được bảo vệ bởi những
người đánh thức Nó dậy và bởi những người dâng hiến đồ cúng tế trong lễ
hiến tế. Đây đích thực là Cái đó.
9. Từ đâu[4] mặt trời mọc lên và đi đến đâu, tất cả các vị thần bao gồm ở
trong ai và ai không thể vượt qua thế giới bên kia? Đây đích thực là Cái đó.
10. Cái gì ở đây và cũng như ở kia; cái gì ở kia cũng như ở đây. Anh ta đi từ
cái chết đến cái chết nhìn thấy bất cứ cái gì khác nhau ở đây.
11. Trí tuệ chỉ hiểu rõ Brahman khi người ta không thấy trong Nó bất cứ cái
gì. Anh ta đi từ cái chết đến cái chết thấy vô số cái ở trong Nó. Đây đích
thực là Cái đó.
12. Purusha ngụ trong thể xác, kích thước bằng một ngón tay cái. Người là
chúa tể của quá khứ và tương lai. Theo sự hiểu biết Người, người ta không
còn giấu giếm bản thân mình thêm cái gì nữa. Đây đích thực là Cái đó.
13. Purusha, kích thước một ngón tay cái, giống như ngọn lửa không có
khói. Chúa tể của quá khứ và tương lai, Người cũng như là hôm nay và
ngày mai. Đây đích thực là Cái đó.
14. Như nước mưa rơi xuống đỉnh ngọn núi chảy xuống tảng đá từ mọi phía,
mặc dù anh ta thấy các thuộc tính khác nhau từ Brahman đích thực, nhưng
anh ta lại chạy theo chúng khắp mọi phía.[5]
15. Như nước thanh khiết đổ vào nước thanh khiết chúng hòa vào làm một;
cũng như vậy, Gautama trở thành Bản ngã của nhà hiền triết, người có hiểu
biết sự hợp nhất của Atman và Brahman.
O
1. Có 1 trấn đô với 11 cửa thuộc về Atman chưa sinh ra của ý thức không bị
bóp méo, xuyên tạc[6] . Anh ta, người trầm tư về Người không gây đau
buồn nữa; được giải thoát khỏi gông cùm của ngu dốt; Anh ta trở thành tự
do. Đây đích thực là Cái đó.
2. Người là mặt trời ở trong thiên đường sáng chói. Người là không khí ở
giữa không trung. Người là ngọn lửa trên trái đất. Người là người khách ở
trong nhà. Người ở trong con người, trong các vị thần, trong chân lý, trong
bầu trời. Người sinh ra trong nước, trong đất, trong lễ hiến tế, trên các ngọn
núi. Người là Chân lý và sự Vĩ đại.
3. Người Linh hồn, Người ban cho sinh khí đi lên và dắt dẫn sự hấp thụ,
bài tiết dinh dưỡng đi xuống. Tất cả các thần tôn sùng đặt địa vị của Đấng
duy nhất tôn kính ở trung tâm.
4. Khi linh hồn đồng nhất với cơ thể và trú ngụ ở trong đó, Nó bị chính thể
xác hành hạ, Nó được giải thoát từ đó, khi ấy còn lại cái gì? Đây chính là
Cái đó.
5. Luôn luôn không có sự sống chết do sinh khí, không có sự đi lên hay đi
xuống bởi sự dinh dưỡng. Con người sống do một cái gì khác hơn mà nhờ
đó 2 điều này (sống chết) phụ thuộc vào.
6. Gautama, vậy thì tốt hơn ta sẽ chỉ dạy cho ngươi về sự sâu sắc này và về
Brahman bất diệt và ta cũng chỉ dạy cho ngươi cái gì xảy ra đối với Atman
sau khi gặp cái chết.
7. Có một vài Jiva (linh hồn) nhập vào tử cung sẽ hiện thân thành các sự vật
hữu cơ và một vài jiva đi vào vật chất vô cơ tùy theo hành động và tùy
theo tri thức của chúng. Đây chính là nghiệp.
8. Purusha, Người vẫn tỉnh trong khi các giác quan mê ngủ, uốn nắn cái này
đẹp đẽ từ những cái khác, đó chính là Tinh khiết, là Brahman và đó được
gọi là bất diệt. Tất cả thế giới đều chứa đựng bao hàm trong người, không
có bất cứ cái gì có thể vượt qua. Đây đích thực là Cái đó.
9. Cũng như ngọn lửa đồng nhất, không có sự phân biệt, sau khi đi vào thế
giới đã trở nên khác nhau tùy theo cái gì mà Nó đốt cháy, cũng như thế
giống như Atman đồng nhất, không phân biệt ở trong tất cả tồn tại đã trở
nên khác nhau tùy theo cái Nó nhập vào, hay hiện thân ở trong đó. Và Nó
cũng tồn tại ở bên ngoài.
10. Cũng như không khí đồng nhất, sau khi nhập vào thế giới, trở thành
khác nhau tùy theo những cái mà Nó nhập vào, cũng như thế giống như
Atman duy nhất ngụ ở tất cả tồn tại, trở thành khác nhau tùy theo cái mà Nó
nhập vào. Và Nó cũng tồn tại ở bên ngoài.
11. Như mặt trời giúp tất cả con mắt nhìn thấy; Nó không bị tác động, ảnh
hưởng bởi nhược điểm của mắt hay của sự vật bên ngoài được chiếu sáng
bởi Nó, cũng như vậy Atman duy nhất ngụ trong tất cả vạn vật, Nó không
bao giờ bị hư hỏng, ô uế do cảnh đau đớn, khổ sở của thế gian tồn tại ở bên
ngoài Nó.
12. Có một quy luật tối cao, là Bản ngã ở tận đáy lòng vạn vật, người nắm
giữ, sắp đặt cái nhiều vẻ, đa dạng của Người. Hạnh phúc vĩnh viễn thuộc về
bậc thông thái, người lĩnh hội được Người trong bản thân chúng không
phải với những cái khác!
13. Có một Đấng duy nhất, Người là thực sự vĩnh viễn giữa các sự vật
không vĩnh viễn, một thực thể có ý thức giữa các sự vật có ý thức và mặc dù
vậy, cái duy nhất vẫn làm thỏa mãn mong muốn của cái đa dạng. Thanh tĩnh
tuyệt đối là thuộc về bậc thông thái, người hiểu được Người trong chính họ
không phải cái nào khác.
14. Các nhà hiền triết hiểu rõ rằng Hạnh phúc tối cao như " Đây là Cái đó",
tức ta với Brahman là một. Ta có thể hiểu biết và thực hành Nó như thế nào?
Nó có phải là Bản ngã chói lọi? Nó có chiếu ánh sáng rực rỡ hay không?
15. Ở đó mặt trời không tỏa sáng, không ánh trăng và không các tinh tú,
không những tia sáng này không nói đến ngọn lửa này. Người tỏa sáng,
vạn vật được soi sáng bởi Người. Nhờ Người, nguồn sáng của tất cả được
thắp sáng.
O
1. Đây là Cái đó, Cây Asvattha bất diệt với rễ của Nó ở trên và cành nhánh
ở dưới. Rễ cây đó, thực vậy, gọi là sáng chói; đó là Brahman và chỉ Cái đó
là bất tử. Tất cả mọi thế giới bao hàm ở trong Cái đó và không có cái gì
vượt qua. Đây, chính là Cái đó.
2. Thế giới vẫn bình an vô sự, dù có sự rung động như thế nào bởi vì Nó từ
Brahman đi tới trước, mà tồn tại như nền tảng của Nó. Brahman đó là Đấng
rất sợ hãi như tiếng sét lơ lửng trên không trung. Nhưng điều đó, ai biết
được Nó sẽ thành bất diệt.
3. Từ sự sợ hãi Brahman, lửa đã thắp sáng; từ sự hãi sợ Brahman, thần sấm
sét, thần gió và thần chết chuyển động.
4. Nếu một người có khả năng hiểu biết Brahman, trước sự tan rã, tiêu hủy
của thể xác anh ta, khi đó anh ta được giải thoát, nếu không anh ta phải hiện
thân một lần nữa trong thế giới mới được tạo ra.
5. Như chiếc gương phản chiếu, tri năng cũng như vậy; như một giấc mơ,
trong thế giới của tổ tiên cũng như vậy; như trong nước, cũng như vậy thế
giới của Gandharvas[7] nhìn thấy trong Brahman; như trong ánh sáng và
bóng tối, cũng như vậy trong thế giới của Brahman.
6. Cần biết rằng các giác quan có nguồn gốc riêng rẽ của chúng, rằng chúng
tách biệt với Atman, và cũng cần biết rằng sự đứng lên và sắp đặt của chúng
thuộc về chúng, người thông minh không đau buồn gì hơn.
7. Ở phía bên kia các giác quan là trí tuệ, ở bên kia trí tuệ la trí năng, cao
hơn trí năng là Atman vĩ đại, cao hơn Atman vĩ đại là Cái không biểu hiện.
8. Bên kia cái không biểu hiện là con người, thâm nhập tất cả và tế vi không
thể nhận thấy được. Có sự hiểu biết về người, Bản ngã tự thể hiện trở nên tự
do tự tại và đạt tới sự bất tử.
9. Hình thể của Người không phải là vật nhìn thấy được; không ai có thể
nhìn thấy Người bằng mắt. Ai có thể hiểu được Người khi Người được phát
hiện ra bởi trí năng từ sự hoài nghi và bởi sự kiên trì trầm tư mặc tưởng. Ai
biết được điều đó sẽ trở thành bất tử.
10. Khi năm khí quan nhận thức cùng với trí tuệ đạt tới sự thanh tĩnh và khi
trí năng không vận động, đó chính là trạng thái siêu việt.
11. Sự điều khiển và kiểm soát chắc chắn, kiên định các giác quan, được gọi
là yoga. Khi đó người ta phải thận trọng, vì yoga có thể vừa có lợi, lại vừa
có hại.
12. Atman không thể đạt được bởi lời nói, tư tưởng hay bằng quan sát.
Atman có thể đạt được như thế nào ở con đường khác hơn bởi người quả
quyết nói rằng: " Ông ta là...".
13. Người thể hiện như sự tồn tại và thể hiện trong bản chất huyền ảo chân
thật của Người. Với 2 mặt này, Atman thể hiện như sự tồn tại đưa tới sự
nhận thức rõ bản chất chân chính của Atman.
14. Khi tất cả những dục vọng trong tâm hồn đã từ bỏ, khi cái chết trở thành
bất tử, thì người ta đạt được Brahman.
15. Khi tất cả sự trói buộc của trái tim đã cắt đứt ở đây, trên trần thế, cái
chết trở thành bất tử. Người ta sẽ đạt tới Brahman.
16. Có hàng trăm huyết mạch chảy về tim, 1 trong số đó chạy qua đỉnh đầu.
Đi lên bởi nó, con người (khi chết) đạt được sự bất tử. Nhưng khi sinh khí
của anh ta biến mất bởi con đường khác trong sự điều khiển khác, khi đó
anh ta tái sinh ở trần thế.
17. Purusha không lớn hơn ngón tay cái, Bản ngã thầm kín luôn luôn ở
trong tâm hồn con người. Hãy để con người tách Người ra khỏi thể xác của
anh ta với sự vững chắc, như tách mầm non khỏi lá của cây. Cho phép anh
ta hiểu rằng linh hồn như là ánh sáng, là sự bất tử, vâng, như ánh sáng và
bất tử.
18. Tiếp nhận sự dạy bảo thông minh này của vị chúa tể thần chết và tiến
trình toàn vẹn của yoga, Nachiketà đã đạt được tự do từ sự thanh khiết và
cái chết, đạt tới Brahman cũng có nghĩa là hiểu được linh hồn sâu kín trong
tận đáy lòng.
The end
===
Is'a Upanishad
Nghịch lý siêu việt mà nội tại, cái đơn nhất dưới cái đa dạng của thế giới
1. Tất cả những gì đang tồn tại trong thế giới đang biến đổi này đều được
bao bọc bởi vị Chúa tể. Hãy bảo vệ Bản ngã bằng sự hy sinh quên mình và
bằng sự từ bỏ tất cả lòng tham lam, vị kỷ, không ham muốn bất cứ sự giàu
sang nào của con người.
2. Nếu một người mong ước sống 100 năm trên thế gian này, anh ta phải
sống và làm việc. Đối với anh, người ấp ủ mong ước như vậy và coi chính
bản thân mình như con người đó, không có con đường nào khác qua đó anh
có thể tránh khỏi nghiệp đang bám chặt lấy mình.
3. Thực vậy, những thế giới kia của bọn ma quỷ bao phủ trong bóng tối mịt
mù và ngoài ra chúng còn phục hồi tất cả sau khi chết, những người là kẻ
sát nhân của Atman.
4. Dù không bao giờ chuyển động, nhưng Atman duy nhất ấy mau lẹ hơn ý
nghĩ. Các vị thần (các cơ quan tri giác) không thể với tới Nó, bởi vì Nó luôn
luôn vận động ở đằng trước. Qua sự đứng im của Nó, Nó đuổi kịp những cái
đang vận động. Bởi vì Atman vàyu (Linh hồn thế giới) sắp đặt sự vận động
cho tất cả.
5. Nó chuyển động, Nó không chuyển động; Nó ở xa và cũng ở gần; Nó ở
bên trong tất cả và cũng ở bên ngoài tất cả.
6. Người thông thái thấy tất cả sự sống trong Bản ngã và Bản ngã ở trong tất
cả sự sống; vì lẽ đó anh ta không thù ghét bất cứ ai.
7. Với cái nhìn thấu suốt, tất cả vạn vật có thể trở thành Bản ngã thực sự; cái
gì là lừa dối, cái gì là đau khổ, ở đó có thể giúp anh ta nhìn thấy được cái
duy nhất ấy?
8. Ngài là người bao quanh tất cả là người sáng chói, vô hình thể, không tì
vết hay không sức mạnh, thanh khiết và tội ác không thể xuyên qua; người
là Bậc thấu thị, thông suốt mọi sự, siêu việt và không ai sáng tạo ra. Ngài có
bổn phận phân định cho từng vị thần việc sáng tạo thế giới không ngừng của
họ.
9. Đi vào cảnh tối tăm mịt mờ, họ thuộc những kẻ sùng bái sự ngu dốt;
nhưng đi vào sự tối tăm hơn, họ là những người tiến hành hiểu biết một
cách đơn độc.
10. Một mặt, họ nói đã đạt được từ sự hiểu biết; mặt khác, họ lại nói đã đạt
được từ sự ngu dốt. Như thế, chúng ta có nghe theo bậc thông thái, người đã
giảng giải điều đó cho chúng ta.
11. Ngài là người nhận thấy rằng cả sự hiểu biết lẫn sự ngu dốt đều theo
đuổi lẫn nhau, chiến thắng cái chết, xuyên qua sự ngu dốt và đạt tới sự bất
tử qua sự hiểu biết.
12. Đi vào cảnh tối tăm mù mịt, họ là những kẻ chỉ tôn sùng cái Prakriti
không biểu hiện; nhưng đi vào cảnh tối tăm hơn, họ là những kẻ tôn sùng
cái biểu hiện Hiranyagarbha.
13. Một mặt, họ nói đã đạt được từ sự tôn sùng cái biểu hiện; và mặt khác,
họ nói đã giành được từ sự tôn sùng cái không biểu hiện. Như thế, chúng ta
đã nghe theo bậc thông thái, người chỉ dạy cho chúng ta điều này.
14. Anh ta, người biết cả cái không biểu hiện prakriti và cả cái biểu hiện
hiranyagarbha sẽ tôn sùng cả hai cái với nhau, anh ta chiến thắng cái chết
bằng sự tôn sùng Hiranyagarbha và đạt được sự bất tử qua sự hiến dâng cho
prakriti.
15. Bộ mặt của Chân lý được che phủ bằng một cái bình vàng. Hãy mở nó
ra, ơi Đấng nuôi dưỡng! Cởi bỏ nó ra để cho ta,người tôn sùng chân lý có
thể ngắm nhìn nó.
16. Ôi Đấng nuôi dưỡng, Đấng du hành đơn độc trong bầu trời, Đấng giám
sát, Đấng mặt trời, con cháu của Đấng sáng tạo tối cao! Hãy tụ hợp lại
những tia sáng của ngài; hãy thu vào những tia sáng của Ngài! Ta sẽ nhìn
thấy, qua vẻ duyên dáng của Ngài, hình thức đó của Ngài là đẹp nhất. Đó
đích thực là Ngài, Purusha, người ở đây.
17. Bây giờ có thể hơi thở của ta trở về thâm nhập tất cả, Pràna bất tử! thân
xác này có thể bị thiêu cháy thành tro tàn trong lễ hỏa táng! Aum. Ôi tinh
thần, hãy nhớ lại, hồi tưởng lại tất cả những gì ta đã làm.
18. Ôi Đấng thần Lửa thiêng liêng, bằng con đường tốt đẹp hướng dẫn
chúng tôi hưởng thụ kết quả việc làm của chính mình. Chúng tôi biết tất cả
việc làm của chúng tôi, ơi thần linh. Tiêu diệt tội lỗi lừa dối xấu xa của
chúng tôi. chúng tôi dâng hiến bằng những lời chào thuần phục của chúng
tôi tới Ngài.
===
Hết Chương 4: II. Is'a Upanishad
Kena Upanishad (Bởi Ai?)
Chương 1
1. Người học trò hỏi: Aum. Bởi ai điều khiển, chỉ đường mà trí tuệ tiến tới
đích của Nó? Ai chỉ huy mà chiếc xe làm tròn chức phận của nó trước nhất?
Ai làm cho con người phát ra lời nói? Và ai là vị thần điều khiển cho mắt
nhìn, tai nghe?
2. Người thầy trả lời: Nó là tai của tai, là trí tuệ của trí tuệ, là lời nói của lời
nói, là sự sống của mọi sự sống và là mắt của mắt. Bản ngã hoàn toàn độc
lập, không bị lệ thuộc (vào các giác quan) và thoát khỏi thế giới, sự uyên
thâm của Nó đạt tới Sự bất diệt.
34. Mắt không nhìn theo hướng đó, không lời nói,không ý thức. Chúng ta
không biết Nó. Chúng ta không hiểu vì sao ai có thể giảng giải về Nó. Nó
khác với cái hiểu biết; Nó ở trên điều không biết. Như vậy, chúng ta đã nghe
vị thông thái già dặn, người chỉ dạy về Nó cho chúng ta.
5. Cái đó, cái mà không thể diễn tả bằng ngôn từ, nhưng nhờ Nó ngôn từ
diễn tả biểu lộ được Cái đó chính là Brahman, chứ không phải là đấng mà
con người sùng kính ở cõi này.
6. Cái đó, cái mà không thể nắm bắt, không thể hiểu rõ bằng tư tưởng,
nhưng nhờ Nó tư tưởng nắm bắt, hiểu rõ Cái đó chính là Brahman, chứ
không phải là đấng mà con người sùng kính ở cõi này.
7. Cái đó, cái mà không thể trông thấy, không thể lĩnh hội bằng mắt, nhưng
nhờ Nó, mắt có thể trông thấy và lĩnh hội được Cái đó chính là Brahman,
chứ không phải là đấng mà con người sùng kính ở cõi này.
8. Cái đó, cái mà không thể nghe được bằng tai, nhưng nhờ Nó mà tai nghe
và lĩnh hội được Cái đó chính là Brahman, chứ không phải là Đấng mà con
người sùng kính ở cõi này.
9. Cái đó, cái mà không thể ngửi được bằng mũi, nhưng nhờ Nó mà mũi
ngửi được đối tượng Cái đó chính là Brahman, chứ không phải là đấng mà
con người sùng kính ở cõi này.
Chương 2
1. Người thầy nói: Nếu anh nghĩ : " Tôi sẽ hiểu Brahman", khi ấy chắc chắn
anh chỉ hiểu biết rất ít về hình thức của Nó, anh chỉ biết hình dáng của Nó
như trạng thái giống con người hay giống các vị thần. Vì vậy, ngay bây giờ,
việc thẩm vấn của anh về Brahman là đúng đắn.
2. Người học trò nói: Tôi nghĩ tôi đã hiểu biết được Brahman.
Tôi không nghĩ rằng tôi đã biết Nó hoàn toàn, tôi không nghĩ tôi không biết
Nó. Ông ta ở giữa chúng ta, người biết ý nghĩa của câu: " Không phải tôi
không biết mà cũng không phải tôi biết" là người biết được Brahman.
3. Bởi ai ông ta không biết được Brahman, mà lại biết Nó? Bởi ai ông ta biết
được Nó, mà lại không biết Nó? Nó không biết được bởi những người biết
Nó; Nó được biết bởi những người không biết Nó.
4. Brahman biết được khi Nó được nhận thức trong mỗi trạng thái của trí
tuệ, bởi vì bằng sự hiểu biết như vậy người ta mới đạt được sự bất tử. Bằng
Atman, người ta đạt được sức mạnh; bằng sự hiểu biết, người ta đạt được sự
bất tử.
5. Nếu một người hiểu biết được Atman ở cõi này, khi ấy ông ta đạt được
mục đích chân chính của cuộc sống. Nếu ông ta không biết được Nó ở cõi
này, thì một sự hủy diệt khủng khiếp chờ đợi ông ta. Có được sự hiểu biết
cái ngã trong mỗi sinh linh, bậc thông thái thoát ly thế gian này và trở thành
bất tử.
Chương 4
4. Đây là lời chỉ dẫn về Brahman với sự quan hệ tới các vị thần. Cái đó
giống như ánh sáng của nguồn sáng; Cái đó giống như sự nháy mắt của con
mắt.
5. Bây giờ là lời chỉ dẫn về Brahman có sự quan hệ đối với linh hồn cá
nhân: tư tưởng, có thể là như vậy, đến với Brahman. Người tìm kiếm nhờ
phương tiện trí tuệ, thông đạt nối liền với Cái đó thân thiết không biết bao
nhiêu lần. Điều này nhất định sẽ là ý chí của trí tuệ ông ta.
6. Brahman được gọi là Tadvana, Bậc đáng tôn kính của tất cả; Nó sẽ được
tôn sùng bởi tên tuổi của Tadvana. Tất cả vạn vật là người mong muốn ông
ta là người sùng kính Brahman như vậy.
7. Môn đệ hỏi người thầy rằng: "Ngài hãy giảng giải cho tôi về Upanishad".
Người thầy trả lời: "Ta đã chỉ cho anh về Upanishad. Ta nhất định sẽ chỉ cho
anh Upanishad về Brahman".
8. Sự nghiêm khắc, tự kiềm chế mình và nghi lễ cúng thần là bàn chân của
Nó và các Veda là tất cả những cánh tay của Nó. Chân lý là nơi ở của Nó.
9. Anh ta là người hiểu biết Upanishad như vậy đã rũ bỏ tất cả tội lỗi và
được thiết lập vững chắc trong vô tận và trên Thiên đường tối cao; vâng,
trên Thiên đường tối cao.
===
Hết Chương 5: III. Kena Upanishad (Bởi Ai?)
Mundaka Upanishad Sự Sắc bén
Mundaka Upanishad 1 chương 1
8. Brahman mở rộng bằng chính năng lực của mình và từ Brahman vật chất
đầu tiên đã được tạo ra; từ vật chất Pràna được tạo ra; từ Pràna trí tuệ được
tạo ra; từ trí tuệ[8] các yếu tố được tạo ra; từ các yếu tố[9], các thế giới
được tạo ra và từ những thế giới tạo nên những kết quả bất tử[10] của
chúng.
Mundaka Upanishad 1 chương 2
1. Đây là chân lý: Những việc hiến tế đã được biểu lộ bởi các bậc thấu thị
trong những thánh kinh được diễn giải bằng nhiều cách trong 3 kinh Veda.
Thực hành chúng, người ta khao khát đạt đến kết quả chân chính. Đây là
con đường của anh đưa đến những kết quả hành động của anh.
2. Khi ngọn lửa đã được hoàn toàn thắp sáng và bừng lên ánh sáng lung
linh, hãy để cho con người dâng đồ cúng tế của mình trong không gian giữa
hai phần bơ tan chảy.
3. Nếu lễ hiến tế Agni hotar của một người không theo đúng với lễ hiến tế
Dars'a và lễ hiến tế Paurnamàsa[11] thích hợp với lễ hiến tế tháng Tư và lễ
hiến tế tháng Tám[12]; nếu lễ hiến tế không được chú trọng bởi lòng mến
khách hay nếu đồ cúng tế không được dâng hiến vào thời điểm tốt đẹp; và
nếu lễ hiến tế không được tiến hành hợp với nghi lễ Vais'vadeva hay tiến
hành không thích hợp thì khi đó Nó sẽ phá hủy 7 thế giới của anh ta[13].
4. Thần Bóng tối (Kali), thần Sợ hãi (Karàli), màu đỏ chói (Sulohità), nhanh
như ý nghĩ (Manojavà), màu xanh hay màu đỏ tía (Sudhumravarnà), ánh
sáng lấp lánh (Sphulin gini) và sự rực rỡ (Vis'varuchi) 7 vị này lung linh
tứ phía tạo thành 7 cái lưỡi của ngọn lửa.
5. Một người tiến hành lễ hiến tế khi những ngọn lửa này tỏa sáng và dâng
đồ cúng tế vào thời điểm tốt lành, anh ta được mang theo bởi những đồ cúng
tế này trên những con đường của mặt trời tới nơi ở của vị thần duy nhất tối
cao.
6. Những vật cúng tế rực rỡ nói với người làm lễ hiến tế: Hãy đến đây! Hãy
đến đây! Và dắt dẫn anh ta theo những con đường của mặt trời, tôn kính anh
ta mọi lúc và chào đón anh ta với những lời dịu dàng: Đây là Thiên đường
linh thiêng của Brahmà, cái đã đạt được bởi những việc làm tốt của anh.
7. Nhưng những chiếc bè kia là thật sự mỏng manh, được điều khiển bởi 18
con người, ở trên đó vẫn còn kẻ làm việc thấp kém, vì thế chúng có thể bị
phá hủy. Những kẻ vui mừng trong họ là những kẻ ngu xuẩn giống như thần
Tối cao là vật hy sinh không biết bao nhiêu lần cho tuổi già và cái chết.
8. Những kẻ ngu xuẩn, ở trong cảnh tối tăm, còn những kẻ thông thái tự cho
mình là vĩ đại và dương dương tự đắc với sự thông thái hão huyền thì lạc lối
quanh co, chịu đau khổ với biết bao điều ác, giống như những người mù
được dẫn dắt bởi người mù.
9. Chìm đắm trong sự ngu dốt theo các cách khác nhau, những đứa trẻ tự
tâng bốc mình, nói: Chúng ta đã hoàn thành mục đích của cuộc sống. vì
những người thực hiện nghiệp này đã không biết được chân lý do lòng
quyến luyến của họ, họ đã rơi xuống từ Thiên đường, sự đau đớn, khổ sở
dày vò, khi mà kết quả hành động của họ đã kiệt sức.
10. Những kẻ ngu dốt tối tăm quan tâm tới những lễ hiến tế và những việc
làm nhân đạo như là điều cao nhất, họ đã không biết được bất cứ điều gì tốt
hơn. Đã có được phần thưởng của họ trên những đỉnh cao của thiên đường,
bởi những hành động tốt, họ lại rơi vào thế giới này hay một thế giới thấp
hơn.
11. Nhưng những người đàn ông thông minh trí tuệ tĩnh tại kia, họ sống
trong rừng sâu dựa vào sự bố thí, tu luyện, ăn năn, hối lỗi hợp với những địa
vị cuộc sống của họ và trầm tư mặc tưởng về các vị thần như
Hiranyagarbha, khi chết đi, họ thoát khỏi sự ô uế, bằng những con đường
của thần mặt trời, tới nơi mà ở đó con người bất tử trú ngụ, mà bản chất của
con người đó là bất diệt.
12. Để cho người brahmin, sau khi đã xem xét toàn bộ những thế giới này
đạt được bởi các hành động, được giải thoát khỏi những dục vọng: không
cái gì là tồn tại vĩnh viễn có thể được tạo ra bởi những cái gì không tồn tại
vĩnh viễn. trong thứ bậc ấy ông ta có thể hiểu được cái tồn tại vĩnh viễn cho
phép ông ta đến gần người thầy, người rất giỏi về kinh Veda và luôn luôn
hết lòng với Brahman.
13. Với người học trò ấy, người đã xứng đáng được đến gần ông ta, người
mà trí tuệ hoàn toàn trong sáng và các cơ quan cảm giác đã được kiềm chế,
người thầy thông thái nhất định sẽ truyền dạy một cách đúng đắn về tri thức
Brahman, qua đó người ta hiểu được cái bất di bất dịch và Purusha chân
thực.
Mundaka Upanishad 2 chương 1
1. Đây là chân lý: Như từ 1 ngọn lửa rực sáng đã phát ra hàng ngàn tia lửa
về bản chất là đồng loại của Nó, cũng như vậy, người bạn tốt của ta, vạn vật
khác nhau nảy sinh ra từ Brahman bất diệt và lại trở về với Brahman bất
diệt.
2. Người là linh hồn sáng chói và là Purusha không có hình thức rõ rệt,
không do ai tạo ra và tồn tại ở cả bên trong và bên ngoài. Người hoàn toàn
không sinh khí (pràna), không trí tuệ, tinh khiết và cao hơn cả Đấng bất diệt
tối cao.
3. Từ Người đã sinh ra pràna, trí tuệ và các cơ quan cảm giác, tinh khí
àkàsá[14], không khí,lửa, nước và đất, cái nuôi dưỡng tất cả.
.......
Mundaka Upanishad 2 chương 2
1. Brahaman chói lọi ở trong sâu thẳm của trái tim và được biết với sự
chuyển động ở nơi đó. Nó là sự nâng đỡ, ủng hộ to lớn nhất của tất cả; bởi
vì ở trong Nó tập trung tất cả mọi cái vận động, tất cả hơi thở và những cái
chớp mắt. Ơi các môn đệ, có biết rằng Linh hồn của các ngươi đó là cái
vừa thô sơ vừa tinh tế, đáng tôn kính, tối cao và ở ngoài tầm hiểu biết của
chúng sinh.
2. Đó là cái rực rỡ, sáng ngời, huyền ảo tế vi hơn cái huyền ảo tế vi, cái mà
nhờ đó tất cả các thế giới và những người sống trong thế giới đó được bảo
vệ, che chở Cái đó, đích thực là Brahman không thể hủy hoại được; Cái đó
là Pràna, là ngôn lời và trí tuệ; Cái đó là Chân lý và Cái đó là bất tử. Chỉ Cái
đó là nổi bật. Nó gây ấn tượng, làm cho tâm trí ngươi phải chú ý[15], người
bạn tốt của ta.
3. Nắm chắc Upanishad như nắm cây cung, vũ khí to lớn nhất, và đặt trên
Nó mũi tên đã mài sắc bằng sự trầm tư mặc tưởng. Sau đó, kéo Nó về phía
sau bằng sự tập trung trí tuệ hướng tất cả suy nghĩ vào Brahman[16], mục
tiêu thu hút sự chú ý nhất, ôi người bạn tốt của ta Cái đó là cái bất tử.
4. Aum là cây cung, Atman là mũi tên, Brahman được gọi là mục tiêu. Nó
gây sự tập trung chú ý bằng một trí tuệ không rối loạn. Khi đó Atman trở
thành hợp nhất làm một với Brahman, như mũi tên với mục tiêu.
5. Thiên giới, trái đất cùng với nơi ở giữa thiên giới và trái đất, tinh thần với
tất cả các cơ quan cảm giác đã được kết lại trong Người. Biết được Atman
không nhị nguyên, duy nhất người ta từ bỏ tất cả quan niệm khác. Người là
chiếc cầu đi tới sự bất tử.
6. Người vận động đây đó, thích hợp với tính nhiều vẻ, ở trong trái tim, nơi
các động mạch tụ họp giống như những chiếc căm xe được cố định chắc vào
trục bánh xe ngựa. Trầm tư mặc tưởng về Atman như từ Aum. Chào các
ngươi! Cầu cho các ngươi vượt qua đại dương tăm tối!
7. Người biết được tất cả và hiểu được tất cả, tất cả vinh quang trên thế gian
thuộc về người, Atman, đã được sắp đặt nơi sáng chói của Brahman. Người
mang các hình thức của tinh thần và dắt dẫn thể xác cùng với các giác quan.
Người ở trong thể xác, bên trong trái tim. Bằng sự hiểu biết về Cái tỏa sáng
như niềm hạnh phúc và Atman bất tử, bậc thông thái đã nhìn thấy người đầy
đủ trong tất cả mọi vật.
8. Những gông cùm của trái tim đã bị đập tan, tất cả sự nghi ngờ đã được
giải quyết và tất cả hành động không phải chịu kết quả, khi đó Người thấy
được ai là vừa cao cả vừa thấp hèn.
9. Chiếc bao bằng vàng, ở đó không gợn vết nhơ và Brahman tuyệt đối, vĩnh
viễn chiếu sáng ở trên cao nhất. Nó là thanh khiết; Nó là ánh sáng của ánh
sáng; Nó là cái cái mà họ biết[17] ai hiểu biết linh hồn.
10. Ở đó, mặt trời không chiếu sáng, không mặt trăng và các vì sao, không
những tia sáng này, không nói về ngọn lửa này. Khi người chiếu sáng,
không có bất cứ cái gì chiếu sáng sau người; nhờ ánh sáng của Người, tất cả
mọi cái đã được chiếu sáng.
11. Duy nhất Brahman bất tử ở đằng trước, Brahman đằng sau, Brahman ở
bên phải và bên trái. Duy nhất Brahman thâm nhập tất cả mọi vật ở bên trên
và bên dưới; vũ trụ này chỉ là Brahman tối cao đó.
Mundaka Upanishad 3 chương 1
1. Có 2 con chim luôn hòa hợp với nhau và được biết bởi cùng 1 tên[18],
dính sát vào nhau thân thiết trên cùng 1 cây[19]. Một con trong chúng ăn
trái cây ngọt thơm, con kia nhìn mà không ăn[20].
2. Ngồi trên cùng 1 cây, jiva kêu than, hoang mang bởi sự bất lực của mình.
Nhưng khi anh ta nhìn thấy 1 người khác, Đấng chúa tể được tôn kính bởi
tất cả và vinh quang của Người, khi đó anh ta trở nên thoát khỏi sự đau khổ.
3. Khi nhà tiên tri nhìn thấy Đấng sáng tạo linh hồn chói lọi, Đấng chúa tể
Purusha, tổ tiên của Brahma, khi đó, anh ta, nhà tiên tri thông thái, giũ sạch
thiện và ác, trở thành trong sạch và vươn tới Cái duy nhất tối cao.
4. Người đích thực là Pràna; Người chiếu sáng ra phía trước nhiều vẻ khác
nhau trong tất cả vạn vật. Kẻ thông minh là người hiểu biết về Người không
nói một cách không thể hiểu được (nói lúng túng). Ham mê trong Bản ngã,
vui sướng trong Bản ngã, thi hành các hành động, anh ta là người đứng đầu
trong những hiểu biết về Brahman.
5. Atman này rực rỡ và tinh khiết, cái mà những người sannyasins trong
sạch nhìn thấy ở trong thể xác, đạt được bởi sự tu luyện không ngừng tính
trung thực, nghiêm khắc, hiểu biết đúng đắn và tiết dục.
6. Chân lý chỉ thắng thế khi không sai lầm. Bởi chân lý là con đường đã
được sắp đặt, con đường của các thần, trên con đường đó các nhà tiên tri với
mọi mong muốn đã đạt được thỏa mãn, tiến lên nơi cao nhất của Chân lý.
7. Brahman tỏa sáng, vĩ đại, là linh hồn chói lọi, không thể nhận thấy, tế vi
hơn cái tế vi. Người xa hơn cái ở xa và tuy vậy, Người ở đây, rất gần ngay
bên. Thực sự, Người đã thấy ở đây, trong sâu thẳm trái tim những sinh linh.
8. Brahman không thể hiếu thấu được bằng mắt, bằng lời nói, bằng giác
quan khác, bằng sự hối lỗi hay những việc làm tốt. Một người sẽ trở nên
trong sạch qua sự trong sáng của trí năng; do vậy, trong sự trầm tư mặc
tưởng, anh ta nhìn thấy Brahman, người ở ngoài các bộ phận.
9. Atman tế vi đó sẽ được biết bởi trí năng ở đây trong thể xác, nơi mà
Pràna nhập vào gấp 5 lần. Do Atman, những trí năng của con người đã được
thâm nhập khắp các giác quan. Khi trí năng đã được tinh khiết, Atman tỏa
sáng khắp nơi.
Mundaka Upanishad 3 chương 2
1. Anh ta, người hiểu biết về linh hồn (Bản ngã), biết địa vị tối cao ấy của
Brahman, nơi chiếu sáng rực rỡ và ở trong đó vũ trụ dựa vào. Những người
thông minh là những người thoát khỏi những dục vọng và được sùng kính
như một người đã vượt qua được nguyên nhân của sự sinh ra.
2. Anh ta, người yêu mến những vật dục, thèm khát chúng, anh ta đã được
tái sinh ở thế giới này hay ở thế giới khác qau dục vọng của anh ta. Nhưng
đối với anh ta, khi những dục vọng đã được thỏa mãn và được thiết lập
trong linh hồn (Bản ngã), thì mọi dục vọng tiêu tan ngay ở đây trên thế
gian này.
3. Atman này không thể đạt được bằng sự nghiên cứu kinh Veda, hay bằng
trí thông minh, mà cũng không thể đạt được qua sự học tập nhiều. Anh ta
người lựa chọn Atman bởi chỉ anh ta là đạt tới Atman. Nó là Atman, cái
bộc lộ ra đối với người tìm kiếm bản chất thật sự của Nó.
4. Atman này không thể đạt được bởi một người không có sức mạnh hay
không có tính nghiêm chỉnh, Nó cũng không thể đạt được bởi người không
có sự hiểu biết kèm theo bởi sự hy sinh. Nhưng nếu một người thông thái cố
gắng bằng những phương tiện này, thì linh hồn của anh ta sẽ nhập vào địa vị
của Brahman.
5. Khi đã nhận thức rõ Atman, những nhà tiên tri trở nên thỏa mãn với tri
thức đó. Linh hồn của họ đã được đặt vào trong linh hồn tối cao, họ thoát
khỏi những đam mê và họ thanh thản trong tâm trí. Những linh hồn thanh
thản như vậy luôn luôn hết lòng với Bản ngã, nhìn thấy khắp nơi Brahman
đều có mặt và cuối cùng nhập vào Nó, cái là tất cả.
6. Khi đã tìm hiểu rõ ràng Bản ngã, mục đích của tri thức Vedanta, và sau
khi đã thanh tẩy tâm hồn của họ qua sự thực hành sannyàsa[21], những nhà
tiên tri không bao giờ giảm bớt cố gắng của họ, ở đây họ đạt được tính bất
tử tối cao và cũng là lúc đạt được mục đích cao quý hoàn toàn tự do trong
Brahman.
7. Mười lăm bộ phận trở về với những căn nguyên của chúng[22] và tất cả
các giác quan trở về với những vị thần của chúng; những hành động và
Atman được phản chiếu trong trí năng, trở thành một với Brahman tuyệt đối
tối cao, cái là Bản ngã của tất cả.
8. Như sự tuôn chảy của những dòng sông hòa tan vào biển cả, làm biến mất
cả tên tuổi và hình dáng của chúng, cũng như vậy người thông thái thoát
khỏi tên gọi và hình hài, đạt tới Purusha, Người vĩ đại hơn cái vĩ đại.
9. Anh ta, người biết Brahman tối cao, thực sự trở thành Brahman. Trong
dòng họ của anh ta không người nào chịu sự ngu dốt về Brahman. Anh ta
chiến thắng khổ đau, anh ta chiến thắng cái ác, thoát khỏi những gông cùm
của trái tim, anh ta trở thành bất tử.
10. Một câu thơ Rig Veda tuyên bố rằng: Tri thức về Brahman sẽ chỉ được
dạy cho những ai cho đã thực hiện những nghĩa vụ cần thiết, họ đã thông
thạo kinh Veda và sùng kính với Brahman, tràn đầy niềm tin, dâng hiến đồ
cúng tế trong lễ Ekarshi Fire và đã thi hành theo luật lệ nghi lễ mang lửa
trên đầu[23].
11. Như thế nhà tiên tri Angiras đã tuyên bố chân lý này từ xưa. Một người
đã không thực hiện lời thề, người đó nhất định sẽ không đọc được Nó. Chào
nhà tiên tri vĩ đại! Chào những nhà tiên tri vĩ đại!
===
Hết Chương 6: IV. Mundaka Upanishad Sự Sắc Bén
Chương 7: V. S'vetàs'vatara Upanishad
Chương một
1. Những bậc rishis[24] đàm luận về Brahman hỏi: Căn nguyên của
Brahman là gì? Chúng ta sinh ra từ đâu? Chúng ta sống bằng gì? Chúng ta
đi về đâu? Vâng, ai là người biết được Brahman, xin hãy chỉ cho chúng tôi
biết dưới sự dẫn dắt của ai mà chúng ta tồn tại trên cõi đời này với niềm vui
và sự đau khổ.
2. Có phải thời gian, tự nhiên, điều tất yếu, hay ngẫu nhiên, hay các yếu tố
vật chất được coi như là nguyên nhân? Hay là do ông ta, người gọi là
Purusha mà tự ngã tồn tại? Nguyên nhân không thể do sự kết hợp, pha trộn
của các thực thể đó để từ đó có một cái ngã tồn tại; Atman, sự kết hợp đã
được tạo ra từ mục đích của ai; nhưng Atman cũng không là nguyên nhân
để trong sự biến đổi Nó phụ thuộc vào cái tốt và cái xấu.
3. Nhà hiền triết say mê trong trầm tư mặc tưởng qua sự sắc bén của trí tuệ
đã phát hiện ra năng lực sáng tạo thuộc về chính bậc chúa tể và ẩn giấu
trong chính các gunas của Nó. Đấng sáng tạo duy nhất đó thống trị, chỉ huy
tất cả các nguyên nhân ấy thời gian, cái ngã và sự thanh thản.
4. Bậc hiền triết đã nhìn thấy bánh xe của Brahman, cái mà chỉ là một vành
bánh xe, ba phần chán nản mệt mỏi[25], 16 phần giới hạn[26], 50 nấc thang
với 20 nấc thang trái ngược[27], 6 bộ trong 8 bộ[28], một xâu chuỗi nhiều
vẻ; cái tiến lên với 3 mục đích khác nhau; và ảo ảnh từ 2 nguyên nhân.
5. Chúng ta trầm tư mặc tưởng về dòng sông mà 5 dòng chảy của Nó là 5 cơ
quan nhận thức, cái được tạo thành mạnh mẽ và quanh co bởi 5 yếu tố,
những làn sóng của Nó là 5 cơ quan hành động và nguồn gốc của Nó là trí
tuệ, nguồn gốc của 5 hình thức nhận thức. Dòng sông này có 5 xoáy nước
và sự mau lẹ của Nó là 5 lần sự đau khổ; và cuối cùng Nó có 50 nhánh và 5
sự khổ hạnh cản trở.
6. Trong bánh xe Brahma vĩ đại này, trong cái mà tất cả sự vật tồn tại và an
nghỉ cuối cùng, linh hồn lãng du đây đó xa tới mức Nó nghĩ cái ngã là khác
với Đấng điều khiển. Khi đó nhờ người ban phúc mà tự ngã đạt được sự bất
tử.
7. Đó là Brahman tối cao duy nhất không bị đụng chạm bởi các hiện tượng,
điều đó được chỉ ra trong các Upanishad. Trong Nó đã được thiết lập bộ 3
(sự thích thú, đối tượng vật chất và Đấng chúa tể là người kiểm soát, điều
khiển). Brahman là nền tảng bất di bất dịch; Nó không thể tiêu diệt được.
Bậc thông thái có sự hiểu biết Brahman là bản chất của các hiện tượng, trở
nên hết lòng với Người. Hoàn toàn hòa vào trong Brahman, họ đạt tới tự do
từ sự tái sinh.
8. Đấng Chúa tể, Thượng đế ủng hộ, nuôi dưỡng tất cả cái có sự kết hợp với
nhau giữa cái có thể bị tiêu diệt và sự bất diệt, giữa cái biểu hiện (kết quả)
và cái không biểu hiện (nguyên nhân). Cũng như thế, Chúa tể (linh hồn tối
cao) hoàn toàn mất hết quyền lực, trở nên có giới hạn vì thừa nhận quan
điểm của kẻ hưởng thụ.
Một lần nữa cái ngã jiva nhận thức Linh hồn tối cao và được giải thoát khỏi
sự trói buộc.
9. Chúa tể tối cao hiện ra như Isvara (Thượng đế) toàn trí toàn đức và có
quyền năng tuyệt đối; như jiva, tri thức có hạn và quyền năng cả 2 chưa sinh
ra.
Những điều này không phủ nhận thế giới hiện tượng; ở đó hơn nữa, tồn tại
prakriti không sinh ra, cái tạo nên kẻ hưởng thụ, sự đam mê thích thú và đối
tượng của sự đam mê thích thú. Atman là vô tận và thâm nhập khắp nơi, bởi
vậy hoàn toàn không có sự môi giới, trung gian.
Khi người mưu cầu hiểu biết 3 điều này ở Brahman, anh ta là tự do, giải
thoát khỏi xiềng xích trói buộc mình.
10. Prakriti có thể bị diệt vong. Hara[29], Đấng Chúa tể là bất diệt và tồn tại
vĩnh viễn. Linh hồn tối cao duy nhất điều khiển cả Prakriti là linh hồn cá
nhân.
Qua sự trầm tư mặc tưởng về Người, bằng sự hợp nhất với Người, bằng sự
ghi sâu tri thức về Người, người ta đạt được mục đích, chấm dứt sự lôi kéo
của thế giới hiện tượng có tính ảo giác.
11. Khi Đấng chúa tể sáng tạo biết chặt đứt mọi gông cùm trói buộc với sự
chấm dứt đau khổ[30], thì sự sinh và tử trở thành kết thúc. Từ sự trầm tư
mặc tưởng về Người, sau sự phân hủy của thể xác, trạng thái thứ 3 của
quyền lực vũ trụ xuất hiện ở đó. Cuối cùng, người có dục vọng mong muốn
cũng vượt qua trạng thái đó, an định trong hạnh phúc hoàn toàn của
Brahman.
12. Người hưởng thụ, những đối tượng của sự thích thú và Đấng thống trị
vũ trụ đó là bộ 3 được diễn tả bởi người biết Brahman tất cả không là cái
gì mà chỉ là Brahman. Brahman duy nhất, là tồn tại vĩnh viễn trong tự ngã
(linh hồn cá biệt), sẽ được biết. Ngoài Nó, đích thực không có gì khác được
biết.
13. Hình thức (có thể trông thấy được) của lửa, mà Nó nằm tiềm ẩn trong
nguồn gốc của Nó là không nhận thấy được; nhưng không thể có sự tiêu diệt
hình thức tế vi của Nó. Chính ngọn lửa đó lại có thể được tạo ra bởi khả
năng cọ xát của 2 thanh gỗ, đó là nguồn gốc của Nó. Giống như vậy, Atman
tồn tại trong 2 trạng thái có thể hiểu thấu được, giống như lửa tiềm tàng
trong gỗ, Atman có thể nắm chắc được trong chính cơ thể này bởi ý nghĩa
của từ Aum.
14. Bằng sự tạo ra thể xác là bộ phận thấp như gỗ và từ Aum như phần cao,
phần tinh túy và qua thực hành cọ xát của trầm tư mặc tưởng, người ta sẽ
nhận thức được linh hồn sáng chói rực rỡ, giấu kín như lửa giấu trong gỗ.
1516. Như dầu trong hạt mè, như bơ trong sữa, nước của dòng sông và lửa
tiềm ẩn trong gỗ, cũng như vậy linh hồn vũ trụ được nhận thấy (tồn tại )
trong linh hồn cá biệt (cái ngã), khi con người nhìn thấy Nó với ý nghĩa
đúng đắn và nghiêm chỉnh là khi con người thấy được Brahman, cái thâm
nhập tất cả vạn vật như bơ thâm nhập trong sữa, mà gốc rễ là tri thức Bản
ngã và sự nghiêm khắc, khổ hạnh. Đó là Brahman được giảng giải bởi
Upanishad, vâng, đó là Brahman được giảng giải bởi Upanishad.
S'vetàs'vatara Upanishad
Chương 2
1. Cầu mong mặt trời, tại lúc khởi đầu của yoga, nối liền trí tuệ của chúng ta
và các cơ quan khác của cơ thể với Linh hồn tối cao để chúng ta có thể đạt
tới Tri thức chân thực. Cầu xin Người cũng giúp thể xác, thực thể vật chất
cao nhất qua quyền lực của các vị thần, kiểm soát, điều khiển các cơ quan
cảm giác.
2. Tiếp nhận những niềm hạnh phúc của Mặt trời linh thiêng, hợp nhất trí
tuệ với Linh hồn tối cao, chúng ta sử dụng tốt nhất trí lực của chúng ta để
trầm tư mặc tưởng, qua đó chúng ta sẽ đạt tới Thiên đường (Brahmanaloka).
3. Cầu mong thần Mặt trời ban cho các giác quan và trí tuệ đặc ân bằng sự
hợp nhất chúng với Linh hồn, để từ đó các giác quan có thể hướng tới
Brahman hạnh phúc và có thể khám phá ra bằng những ý nghĩa của Tri thức.
Brahman hùng mạnh và sáng chói.
4. Đó là sự tôn kính của các tăng lữ Bàlamôn kia, những người tập trung các
cảm giác và tư tưởng của họ vào linh hồn tối cao để nói lên lời cầu khẩn cao
quý đối với Mặt trời thiêng liêng, có mặt ở khắp nơi, vĩ đại và toàn trí toàn
đức. Ông ta là duy nhất và chứng kiến tất cả, là người phân phát các lễ giết
vật tế thần.
5. Ôi các cơ quan, ôi các vị thần, người giúp đỡ chúng ta. Qua lời chào ta tự
hợp nhất với Brahman bất diệt, Người là nguồn gốc của chúng ta. Hãy để
cho lời ca ngợi, cầu nguyện của ta đi theo con đường đúng đắn của thần Mặt
trời tỏa ra khắp mọi hướng. Cầu xin những người con của thần Bất diệt,
những người chiếm giữ nơi thiên giới, nghe thấy những lời cầu nguyện đó.
6. Đầu tiên, nếu những lễ hiến tế được thực hiện không làm dịu vị thần mặt
trời, thì trí tuệ sẽ trở thành trói buộc với lễ hiến tế, trong đó lửa được thắp
lên với sự cọ xát (bằng 2 thanh gỗ), đồ cúng tế được dâng tặng lên thần Gió
và rượu Soma được uống thỏa thuê.
7. Phụng sự Brahman bất diệt với niềm phúc lành của thần mặt trời, căn
nguyên của thế giới. Miệt mài qua sự thiền định trong Brahman vĩnh hằng.
Như thế hành động của anh sẽ không trói buộc anh.
8. Người thông thái sẽ giữ thân thể của mình đúng đắn, với 3 bộ phận được
tạo dựng nên[31], xoay chuyển giác quan của anh ta, với sự giúp đỡ của trí
tuệ hướng tới trái tim và bằng phương tiện là chiếc bè Brahman vượt qua
dòng nước xiết khủng khiếp của trần thế.
9. Sự cố gắng điều hòa tốt của bậc yogi sẽ kiểm soát được hơi thở[32], khi
chúng đã yên tĩnh, bậc yogi sẽ hít thở qua lỗ mũi nhẹ nhàng. Khi đó cho
phép ông ta giữ sự tập trung tư tưởng của mình, như người đánh xe ngựa
kiềm chế con ngựa của anh ta.
10. Phải luyện tập yoga trong một hang động được bảo vệ tránh sự tác động
của gió lớn, hay ở nơi vắng lặng, thanh khiết, tránh khỏi sự ảnh hưởng của
sỏi đá, lửa, không bị làm phiền nhiễu bởi tiếng ồn ào của nước hay quán
chợ, những điều đó sẽ làm tập trung tư tưởng và không làm khó chịu đôi
mắt.
11. Khi thực hành yoga, những hình thức Brahman xuất hiện đầu tiên và
biểu lộ dần dần là những hình thức của tuyết rơi, khói, nắng, gió, lửa, lửa
bay, tinh thể và mặt trăng.
12. Khi đất, nước, lửa, khí và tinh khí xuất hiện, nghĩa là khi 5 vật tượng
trưng cho các yếu tố đã đề cập trong sách yoga trở thành hiển nhiên rõ ràng
thì khi đó thể xác của bậc yogi trở nên trong sạch bởi ngọn lửa của yoga và
anh ta trở thành tự do, thoát khỏi sự đau yếu, già nua và chết chóc.
13. Điềm báo trước của sự đạt được hoàn hảo trong yoga, đó là sự thanh
tịnh, thư thái và sự lành mạnh của cơ thể, không còn dục vọng, trong sạch,
thanh khiết, vui vẻ, nhẹ nhàng, bài tiết nhẹ nhàng.
14. Như vàng bị bao bọc bởi đất, được chiếu sáng bởi ánh sáng, sau khi nó
đã được gột sạch, cũng như vậy bậc yogi nhận thức được chân lý Brahman
và đạt được mục đích thoát khỏi mọi nỗi đau khổ.
15. Và khi bậc yogi nhìn rõ bản chất chân thực của Brahma qua sự hiểu biết
Linh hồn Bản ngã, sáng chói như ngọn đèn tỏa sáng và khi bậc yogi có sự
hiểu biết Đấng chúa tể sáng tạo vũ trụ vĩnh hằng và không bị sinh ra, không
bị lay chuyển bởi sự ngu dốt và kết quả của sự ngu dốt, anh ta sẽ thoát khỏi
mọi xiềng xích trói buộc.
16. Chính ông ta, Đấng chúa tể thâm nhập khắp nơi, Người sinh ra đầu tiên
và tồn tại ở trung tâm thế giới. Đó là Người, một lần nữa sinh ra trong tương
lai. Người ở đằng sau tất cả con người và Người hiện diện khắp mọi nơi.
17. Đấng chúa tể linh hồn sáng chói, Người ở trong lửa, trong nước; Người
thâm nhập toàn bộ thể giới, Người ở trong đất, trong cây cối hãy để nơi đó
tôn sùng Người! Vâng, hãy để nơi đó tỏ rõ lòng kinh yêu Người.
S'vetàs'vatara Upanishad
Chương 3
1. Cái bẫy không nhị nguyên[33] được điều khiển[34] bằng những quyền
năng của Người. Vẫn một mình Người và cũng như thế, bằng quyền uy của
mình Người thống trị tất cả thế giới trong sự biểu hiện và duy trì sự tồn tại
của chúng. Những người biết được điều này sẽ trở thành bất tử.
2. Rudra là duy nhất chân thực; đối với những người hiểu biết Brahman
không thừa nhận cái thứ hai. Chỉ duy nhất ông ta thống trị mọi thế giới bằng
những quyền năng của mình. Ông ta trú ngụ với tư cách là linh hồn của mỗi
sự vật đang sống. Sau khi tạo nên tất cả các thế giới, ông ta là người bảo vệ
của chúng, tiếp nhận chúng trở về trong chính mình tại thời điểm kết thúc.
3. Mắt của Người ở khắp nơi, Người hiện diện ở khắp chốn, tay của Người
ở khắp nơi và đôi chân của Người ở khắp chốn. Chính Người phú cho con
người đôi tay, loài chim đôi chân, đôi cánh để bay, và Người cũng phú cho
con người đôi chân. Tạo ra thiên đường và trái đất, Người vẫn hiển nhiên
như sự hiển hiện duy nhất của chúng.[35]
4. Đấng Rudra toàn trí toàn đức, Ông ta là người tạo ra các vị thần và ban
cho họ những quyền năng, bảo vệ và nuôi dưỡng thế giới. Trong sự bắt đầu,
Ông ta ban sự sinh sản cho Hyranyagarbha cầu mong Người phú cho
chúng tôi khả năng hiểu biết trọn vẹn.
5. Ô Rudra, Người ngụ trong thể xác và ban tặng sự hạnh phúc! Với hình
dáng thiêng liêng nhất của Người, Người nhìn chúng ta, với tất cả sự tốt
lành, Người không làm chúng ta khiếp sợ, với tất cả lòng thánh thiện.
6. Ôi Đấng ngụ trong thể xác và Đấng ban tặng hạnh phúc, với sự nhân từ
ấy mũi tên mà Người nắm giữ trong tay sẵn sàng phóng ra, ơi Đấng sáng tạo
của thể xác, xin Người đừng làm tổn thương con người hay thế giới này.
7. Đấng chúa tể tối cao cao hơn Virat[36], vượt xa hơn Hyranyagarbha.
Người rộng lớn bao la và ẩn giấu trong những thân xác của tất cả sinh vật
đang tồn tại. Với sự hiểu biết rằng chỉ có Người là Đấng thâm nhập khắp vũ
trụ, con người trở thành bất diệt.
8. Ta biết Purusha vĩ đại, Người sáng chói, như mặt trời và vượt lên sự tăm
tối. Chỉ bằng hiểu biết về Người, người ta mới vượt lên cái chết; không có
con đường nào khác đến với mục đích tối cao.
9. Toàn bộ thế giới được lấp đầy bởi Purusha, với Người không có gì không
tốt, từ Người không có gì khác nhau, không có gì lớn hơn hay nhỏ hơn
Người; Người chỉ dừng lại bất động như cái cây, thiết lập trong sự vinh
quang của chính mình.
10. Cái xa nhất từ thế giới này là cái không hình thể và không đau buồn. Họ
là những người không chỉ biết Nó sẽ trở thành bất tử mà còn biết những cái
khác thực sự chịu đau khổ.
11. Tất cả mặt là mặt của Người, tất cả đầu là đầu của Người; tất cả cổ là cổ
của Người. Người ngụ trong trái tim của tất cả các loài vật. Người là Đấng
thâm nhập tất cả Bhagavan. Vì vậy Người có mặt ở khắp nơi và là Chúa tể
tốt lành.
12. Ông ta đích thực là Purusha vĩ đại, Chúa tể của sự sáng tạo, bảo vệ và
hủy diệt, Người truyền cảm hứng linh cảm cho trí tuệ để đạt tới trạng thái
trong sáng. Người là kẻ thống trị thanh cao và bất tử.
13. Purusha không lớn hơn ngón tay cái, ở trong linh hồn, luôn luôn ở trong
trái tim con người. Ông ta được hiểu biết bởi trí tuệ, là người kiểm tra, điều
khiển tri thức và được nhận thức trong trái tim. Người nào hiểu biết Ông ta
sẽ trở thành bất tử.
14. Purusha có ngàn đầu, ngàn mắt, ngàn chân, ôm trùm trái đất mọi phía và
mở rộng qua Nó bằng bề rộng của 10 ngón tay.
15. Purusha là tất cả những gì đã có và sẽ có. Người cũng là chúa tể của bất
tử và của tất cả những gì sinh trưởng bằng thức ăn.
16. Tay và chân của Người ở khắp mọi nơi; mắt, đầu, mặt của Người ở khắp
mọi nơi; tai của Người ở khắp mọi nơi; Người tồn tại bao quanh tất cả.
17. Bản thân Người không có giác quan, Người soi sáng các chức năng của
các giác quan. Người là kẻ thống trị tài năng tất cả; Người ẩn giấu tất cả.
Người là bậc vĩ đại.
18. Người là thi sĩ thiên tài, là người thống trị chỉ huy toàn bộ thế giới;
thống trị, điều khiển tất cả những gì đang vận động và đứng yên; Người là
hiện thân của linh hồn và ở trong đô thị có 5 cửa hướng ra ngoài[37].
19. Người nắm giữ mà không cần tay, Người ăn mà không cần miệng; nhìn
mà không cần mắt; nghe mà không cần tai. Người biết cái gì biết và không
biết cái gì không biết. Vì vậy người ta gọi Người là đầu tiên, Vĩ đại và Hoàn
hảo.
20. Linh hồn tối cao nhỏ hơn cái nhỏ nhất, lớn hơn cái lớn nhất, ẩn giấu
trong tim vạn vật. Bậc thông thái nhờ ân huệ của Đấng sáng tạo nhìn thấy rõ
Chúa tể vũ trụ, oai vệ và tin tưởng để trở thành người tự do từ sự đau khổ.
21. Ta biết Đấng duy nhất nguyên thủy và không thể tiêu diệt này, Linh hồn
tối cao của tất cả vạn vật, tồn tại ở khắp nơi, thâm nhập tất cả và là cái mà
bậc thông thái bày tỏ sẽ thoát khỏi sự tái sinh. Thầy dạy Brahman, đích
thực, nói về điều đó như sự tồn tại vĩnh viễn.
S'vetàs'vatara Upanishad
Chương 4
1. Ông ta, Đấng duy nhất và không phân biệt với sự thể hiện nhiều vẻ quyền
lực sáng tạo của mình; lúc khởi thủy với vạn vật khác nhau, Người giấu kín
mục đích; và khi kết thúc, Người rút khỏi thế giới vào chính mình, Người
chính là tự ngã sáng chói (Linh hồn tối cao). Cầu xin người phú cho chúng
tôi trí năng toàn vẹn.
2. Linh hồn tối cao, đó là Agni (lửa), là Aditya[38], là Vàyu (thần gió), là
Chandramà (mặt trăng). Linh hồn tối cao là các vì sao rực rỡ, là
Hyranyagarbha[39], là nước, là Virat[40].
3. Người là đàn bà, là đàn ông; Người cũng là thanh niên và trinh nữ. Người
như người già chập chững dựa vào cây gậy chống; đó chỉ là Người duy
nhất, nhưng khi sinh ra đã mang nhiều hình dạng khác nhau.
4. Người là con ong xanh đen; là con vẹt màu xanh lá cây với đôi mắt đỏ.
Người là tiếng sét (giông tố), là mùa vụ, là biển cả mênh mông. Người là
căn nguyên khởi thủy và thâm nhập khắp nơi. Từ nơi Người, tất cả thế giới
đã sinh ra.
5. Có một cái không được sinh ra (thuộc về giống cái) màu đỏ (rajas), màu
trắng (sattva) và màu đen (tamas) nhưng Nó sinh ra nhiều tạo vật như
chính Nó[41]. Một cái khác cũng không được sinh ra (thuộc về giống đực),
Nó trở nên gắn chặt và giao hợp với giống cái[42], trong khi đó một cái
không được sinh ra khác (cũng thuộc về giống đực), rời bỏ cái giống cái sau
khi sự giao hợp đã hoàn tất.
6. Có 2 con chim[43] luôn luôn gắn bó với nhau và được biết bởi cùng một
tên, cung đậu trên 1 cây. Một con ăn đồ ăn thơm ngon và con kia chỉ nhìn
mà không ăn[44].
7. Đậu trên cùng 1 cây, jiva (linh hồn cá biệt The individual self) than vãn,
hoang mang bối rối vì sự bất lực của Nó. Nhưng khi Nó hiểu được Linh hồn
tối cao rực rỡ huy hoàng, vị Chúa tể được sùng kính bởi tất cả, Nó đã được
giải thoát khỏi mọi nỗi đau khổ.
8. Những kinh Veda có lợi ích gì đối với anh ta, kẻ không hiểu rằng cái bản
chất là không thể phá hủy được, Nó giống như tinh khí Brahman, Nó lớn lao
hơn điều không biểu lộ ra và ở đó Veda và tất cả các vị thần nương tựa. Chỉ
những người hiểu biết được Nó mới đạt được phúc lành.
9. Những vần thơ thiêng liêng, sự dâng hiến (yajna), lễ hiến tế (kratu), sự
hành xác hối lỗi (vrata), quá khứ, tương lai và tất cả điều Veda bày tỏ đã
được sáng tạo từ Brahman bất tử. Brahman tạo ra vũ trụ qua những quyền
năng mayà của Nó. Một lần nữa trong thế gian, Brahman ấy (với tư cách là
jiva) bị vướng mắc vào mayà.
10. Khi ấy biết rằng prakriti là màyà và rằng Thần vĩ đại là Chúa tể của
màyà. Toàn bộ thế giới chứa đầy sự vật, hiện tượng, chúng là những phần
tồn tại của Người.
11. Bằng sự nhận thức chân thực về Người, dù nhất nguyên, Người ngụ
trong Prakriti, ngụ cả trong cái đầu tiên và trong mặt thứ hai của Nó. Trong
Người toàn bộ thế giới này hòa tan cùng với nhau bởi sự hiểu biết chân
thực về Người, Đấng Chúa tể sáng tạo, Người sẽ ban tặng hạnh phúc, vị
thần tôn kính, người ta sẽ đạt tới sự yên tĩnh tuyệt đối.
12. Ông ta, người sáng tạo của các vị thần và ban tặng quyền năng cho họ,
Người bảo vệ, nuôi dưỡng thế giới, Rudra toàn trí toàn đức, Người đầu tiên
truyền sự sinh nở cho Hyranyagarbha. Cầu xin Người phú cho chúng tôi trí
năng toàn vẹn, hoàn hảo.
13. Ông ta, người tối cao của các vị thần. Trong Người, thế giới tìm thấy sự
giúp đỡ. Người thống trị trên hết tất cả sinh vật 2 chân và 4 chân. Hãy để
cho chúng tôi phụng sự vị thần đó, lộng lẫy và sung sướng, với đồ cúng tế.
14. Bằng sự hiểu biết về Ông ta, Người là cái tế vi hơn cái tế vi, Người ở
giữa cõi hỗn mang (của thế giới), Người là Đấng sáng tạo của vạn vật và đã
phú cho chúng nhiều hình dạng, Người là Đấng thâm nhập duy nhất của thế
giới và của tất cả sự thánh thiện. Bằng sự hiểu biết về Người, người ta đạt
được vị trí tối cao.
15. Đó là Ông ta, người trong thời gian chính đáng, trở thành người canh
giữ, chăm sóc của vũ trụ vạn vật và là bậc tối cao linh nghiệm của tất cả.
người giấu mình trong tất cả sinh vật, con người và ở trong cái mà các nhà
thông thái và các vị thần là hợp nhất. Với sự hiểu biết thực sự về Người,
người ta đã chặt đứt xiềng xích trói buộc của cái chết.
16. Ông ta, người hiểu biết Brahman là tất cả hạnh phúc, vô cùng huyền ảo
tế vi, như màng che phủ bề mặt của bơ và ẩn giấu trong vạn vật ông ta
người biết vị thần Sáng chói, Đấng thâm nhập khắp nơi duy nhất của vũ trụ
vạn vật, được thoát khỏi tất cả xiềng xích của mình.
17. Thượng đế, Người tạo ra vạn vật, linh hồn rực rỡ và thâm nhập tất cả,
Người luôn ở trong trái tim, tâm hồn con người. Người khám phá ra bởi sự
không giảng dạy, biết suy xét thông thái và thống nhất tri thức trên cơ sở sự
phản ánh. Ai biết được Người sẽ trở thành bất tử.
18. Khi không có bóng tối (của sự ngu dốt), không có ngày hay đêm, không
có tồn tại hay hư vô, chỉ có Brahman thanh khiết tồn tại. Đấng chân thực bất
biến đó là ý nghĩa của "Cái đó"; Nó đã được tôn kính bởi mặt trời. Từ Nó đã
phát sinh ra bậc thông thái cổ xưa.
19. Không ai có thể giữ được Người cả ở bên trên, bên kia hay ở chính giữa.
Không có bất cứ cái gì giống như Người. Tên Người là Vinh quang vĩ đại
(Mahad Yas'ah).
20. Hình thể của Người không nhìn thấy; không ai thấy Người bằng đôi mắt
của mình. Họ, những người qua hiểu biết thanh khiết và tri thức của sự hợp
nhất dựa trên sự trầm tư mặc tưởng, nhận thức rõ được Người như sự tồn tại
vĩnh viễn trong trái tim sẽ trở thành bất tử.
21. Bởi vì đó là Người. Ôi Đấng sáng tạo, là không sinh ra, làm sợ hãi một
số linh hồn (bởi sự sinh và tử), nắm giữ nơi ẩn náu trong Người. Ôi, Rudra,
cầu xin mặt tốt lành của Người luôn luôn che chở chúng tôi.
22. Ôi Rudra, đừng làm Người nổi giận, tiêu diệt con cháu chúng tôi. đừng
phá hủy cuộc sống của chúng tôi; đừng tiêu diệt những con bò cái hay con
ngựa của chúng tôi; đừng tiêu diệt những người đầy tớ khỏe mạnh của
chúng tôi. cho chúng tôi luôn luôn cầu khẩn Người, với lễ hiến tế, cầu xin
Người bảo vệ, che chở cho chúng tôi.
S'vetàs'vatara Upanishad
Chương 5
1.Trong sự vĩnh viễn, Brahman tối cao vẫn giữ kín 2 điều: sự hiểu biết và sự
ngu dốt. Sự ngu dốt mê lầm dắt dẫn đến trần tục; tri thức sáng suốt dẫn dắt
người ta đến bất tử. Brahmà, người điều khiển và kiểm tra cả tri thức và sự
ngu dốt, là cái khác với cả sự hiểu biết và sự ngu dốt.
2. Ông ta, Đấng Brahman duy nhất, người thống trị khắp nơi; Người điều
khiển, kiểm tra mọi hình thức và mọi nguồn gốc; Người trong sự bắt đầu,
hoàn hảo với sự hiểu biết Hyranyagarbha[45] toàn trí toàn đức, chính Người
sáng tạo, Người đã thấy Hyranyagarbha được tạo ra Người là cái hơn cả trí
tuệ và ngu dốt (vô minh).
3. Lúc sáng tạo ra thế giới, Đấng chúa tể trải mạng lưới ra khắp mọi vật
riêng lẻ bằng các con đường khác nhau và khi vũ trụ tan rã, người rút ra
khỏi chúng để nhập vào Prakriti vĩ đại. Thần thâm nhập khắp nơi một lần
nữa sáng tạo ra cơ thể và các giác quan, cả cái chung và cái riêng, cũng là
người điều khiển, kiểm soát chúng. Như vậy Người đã thực hiện địa vị
Chúa tể của Người.
4. Như mặt trời chiếu sáng rực rỡ khắp 4 phương 8 hướng ở trên, ở dưới
và 2 bên, cũng chính là Thần, linh hồn chói lọi đáng tôn thờ và duy nhất
điều khiển tất cả mọi vật, mà tự bản thân chúng có bản chất tự nhiên của
nguyên nhân.
56. Người là nguồn gốc của tất cả và cho phép tất cả vạn vật thực hiện chức
năng theo bản chất tự nhiên của chúng; Người đem lại cho tất cả sự cẩn thận
để tất cả có thể trở nên chín chắn; Người tồn tại duy nhất thống trị toàn bộ
vũ trụ vạn vật và giữ các gunas[46] theo chức năng riêng của chúng. Người
được giấu kín trong Upanishad và trong các bộ phận sâu kín của Veda. Thần
sáng tạo Brahmà đã biết được người, Người có thể biết được chỉ từ tính rõ
ràng, tính hiển nhiên của Veda. Các vị thần và các bậc thấu thị cổ xưa đã
biết được Người trở thành Brahman và đạt được sự bất tử.
7. Với các gunas được phú cho, linh hồn jiva thực hiện hành động, theo đuổi
kết quả của nó; và một lần nữa nó lại thu được kết quả từ những gì nó đã
làm. Nắm lấy tất cả các hình dạng và dắt dẫn chúng bởi 3 gunas, linh hồn cá
nhân jiva điều khiển hơi thở, sinh khí, đi theo 3 con đường, tùy theo hành
động của nó.
8. kích thước chỉ trong 1 ngón tay cái, nhưng sáng chói giống như mặt trời,
linh hồn bất tử bao hàm trong Nó cả ý muốn và tính bất tử. Nó đã phú cho
với phẩm chất với cả trí năng và Atman. Bởi vậy, Nó nhìn thấy như thực thể
khác tồn tại, dưới dạng thấp và nhỏ bé hơn giống như mũi nhọn cúa tất cả
các gậy nhọn.
9. Nên biết rằng linh hồn biểu hiện là 1% của 1 điểm của sợi tóc được phân
chia ra 100 lần; vâng, Nó là vô tận.
10. Nó không phải là giống cái, không phải là giống đực, không phải là
giống trung. Bất cứ thân xác nào cũng mang theo Nó, trở thành hợp nhất với
Nó.
11. Với ý nghĩa thèm muốn, tiếp xúc, ràng buộc và lừa dối, linh hồn hiện
thân sự chiếm giữ, kế tiếp, hình thức thể hiện của Nó thay đổi khác nhau ở
vị trí khác nhau, tùy theo kết quả hành động của Nó, xứng đáng với sự sinh
trưởng của cơ thể khi đồ ăn thức uống đổ vào Nó.
12. Linh hồn được hiện thân bởi ý nghĩa của điều tốt và điều xấu giam hãm
chính Nó, Nó mang nhiều hình thức, thấp kém, tồi tàn, thô lỗ và tốt đẹp,
thanh thoát. Với công dụng, kết quả những hành động của Nó cũng như của
đặc tính của trí tuệ như sự hiểu biết và dục vọng, linh hồn khoác những hình
thức thể xác khác nhau để được hưởng (phù hợp với) mục đích đã định
trước.
13. Ông ta là người biết Đấng chúa tể vũ trụ, Người không có khởi đầu và
không có kết thúc, Người đứng ở trung tâm vũ trụ hay cõi hỗn mang, Người
là Đấng sáng tạo của vạn vật và ban cho chúng nhiều hình dạng, Người là
người biết thần Rực rỡ, Đấng thâm nhập duy nhất, giải thoát tất cả khỏi
gông cùm trói buộc.
14. Những ai biết được Ông ta và có thể hiểu rõ Người bằng trái tim thanh
khiết, Người được gọi là vô hình thể, là nguyên nhân của sự sáng tạo và hủy
diệt, là tất cả điều tốt đẹp và sự sáng tạo của các bộ phận, những người đó
biết được Đấng chúa tể chói lọi là hiện thân của tự do.
S'vetàs'vatara Upanishad
Chương 6
1. Một vài học giả nói về bản chất vốn có của vạn vật và 1 vài người khác
nói về thời gian như là nguồn gốc của thế giới. Tất cả họ, thật vậy, là lừa
dối. chính sự vĩ đại của Đấng chúa tể linh hồn sáng chói là căn nguyên làm
bánh xe của Brahaman quay tròn.
2. Người là Đấng trí tuệ, là Đấng kiến tạo của thời gian, do Người mà toàn
bộ thế giới luôn luôn tràn ngập khắp nơi. Người là vô song và toàn trí toàn
đức. Chính từ mệnh lệnh của Người mà thế giới, cái được gọi là đất, nước,
lửa, khí và tinh khí xuất hiện thành vũ trụ vạn vật. tất cả được phản ánh bởi
nhà thông thái.
3. Bậc yogi người đầu tiên thực hành những hành động, sau đó chuyển
dịch ra xa chúng và là người rèn luyện 1,2,3[47] hay 8 phương pháp tu
luyện theo kỷ luật, liên kết hợp nhất nguyên tắc này với nguyên tắc khác và
với sự giúp đỡ của sự trau dồi đức hạnh bởi chính mình và của nghiệp tế vi
(đạt được từ hành động trước khi sinh), bậc yogi đó sẽ được giải thoát trong
tiến trình của thời gian.
4. Anh ta, người đạt được sự trong sạch tâm hồn bởi đã hoàn thành những
việc làm của sự dâng hiến tới Đấng chúa tể sáng tạo và hợp nhất Prakriti với
tất cả kết quả của nó trong Brahman, hiểu biết được tâm hồn chân chính của
anh ta và bằng cách đó vượt qua thế giới hiện tượng. Không có màyà, không
có cả cái chung và cái riêng, tất cả các hành động quá khứ của anh ta bị phá
hủy, đã mất hiệu lực (và anh ta trở thành tự do tuy vẫn ở trong thể xác). Sau
sự tiêu diệt nghiệp, anh ta đạt được sự giải thoát cuối cùng.
5. Đấng sáng tạo vĩ đại là khởi đầu, là nguyên nhân của sự hợp nhất linh
hồn và thể xác; Người ở trên 3 tầng thời gian (quá khứ, hiện tại, tương lai)
và nhìn thấu bên ngoài các bộ phận. Với sự tôn sùng vị thần đáng kính trong
tâm hồn Người sáng tạo ra mọi hình thức và là căn nguyên đích thực của
tất cả vạn vật người ta có thể đạt tới sự giải thoát cuối cùng.
6. Từ Người, vũ trụ này tiến lên cao và cao hơn tất cả các hình dạng của thế
giới và thời gian. Khi một người biết Người là động lực, là cái đem lại điều
tốt, tiêu diệt điều xấu xa, Chúa tể của quyền uy, Người là Đấng bất tử của tất
cả, thì người đó có thể đạt tới sự giải thoát cuối cùng.
7. Chúng tôi biết Người là Chúa tối cao của các vị chúa, là thần tối cao của
các vị thần, là kẻ thống trị của mọi quyền lực, Người cao hơn prakriti[48]
bất diệt và là linh hồn sáng chói, vị chúa tể đáng kính của thế giới.
8. Người không có thân thể hay các cơ quan của thân thể, không một ai
giống Người, hay tốt hơn so với Người. Kinh Veda nói về quyền năng tối
cao của Người, đó là quyền năng bẩm sinh và tài năng của sự sáng tạo ra
các kết quả khác nhau và cũng là sự tồn tại, toàn trí toàn đức của Người.
9. Người không là chủ nhân của thế giới, không thống trị và không có cả
dấu hiệu, tượng trưng (bằng cái mà Người có thể suy luận). Người là căn
nguyên, là chúa tể của chúa tể các cơ quan trong con người; và Người
không có tổ tiên, không người kiểm tra, điều khiển.
10. Cầu xin Đấng Chúa tể duy nhất, bằng quyền năng huyền ảo và mầu
nhiệm của Người, bao phủ lấy chính Người, như con nhện với những sợi tơ
kéo ra từ chính Nó, hãy hợp nhất chúng ta trong Brahman!
11. Đấng sáng tạo rực rỡ, duy nhất ở trong tất cả vạn vật. Người thâm nhập
tất cả, là linh hồn ở tận đáy lòng của tất cả sinh vật và con người, là động
lực đối với mọi hành động, tồn tại mãi mãi trong tất cả vạn vật; Người là
nhân chứng, là người cổ vũ và là Đấng hoàn toàn tuyệt đối, Người tự do từ
các gunas.
12. Là vị vua duy nhất của tất cả mọi hành động; Người nắm giữ 1 hạt
giống nhiều vẻ. Hạnh phúc bất diệt thuộc về bậc thông thái người nhận
thức được Người ở trong bản thân họ không phải là ai khác.
13. Người là Đấng bất tử của sự bất tử, là Bậc giác ngộ trong sự giác ngộ.
Ai có hiểu biết về Người, Đấng chúa tể rực rỡ, Đấng nguyên nhân vĩ đại,
được nhận thức bởi Samkhya (trí tuệ) và yoga, sẽ là người thoát khỏi tất cả
xiềng xích.
14. Mặt trời không chiếu sáng ở kia, không có trăng và không có các vì sao.
Không, những tia sáng này nhỏ hơn nhiều so với ngọn lửa này. Người tỏa
sáng, tất cả mọi vật được Người soi sáng. Nhờ ánh sáng của Người, tất cả
mọi vật được chiếu sáng.
15. Chỉ có bậc thi sĩ thiên tài (Linh hồn tối cao) tồn tại trong thế giới này.
Chính Người, như lửa, Người ngụ trong nước. Chỉ bằng sự hiểu biết Người,
con người mới vượt qua cái chết. Không có con đường nào khác đến với
Mục đích tối cao.
16. Người là kẻ giúp đỡ của cả prakriti không biểu lộ và cả jiva, Người là
chúa tể của 3 gunas và Người là nguyên nhân của cảnh tù tội, cuộc sống và
sự giải thoát khỏi luân hồi (samsàra). Thực vậy, Người là Đấng sáng tạo của
vũ trụ, là trí tuệ là linh hồn sâu kín của vạn vật và là căn nguyên của chúng
Bậc Chúa tể toàn trí toàn đức, Đấng sáng tạo thời gian, Người thống trị đức
hạnh, Người hiểu biết tất cả.
17. Người luôn luôn thống trị thế giới, là nguyên nhân đích thực của tù tội,
gông cùm ràng buộc và của sự tự do, giải thoát. Người tự thiết lập cho mình
sự vinh quang, Người là sự bất diệt, hiện thân của sự hiểu biết, là người bảo
vệ, che chở khắp mọi nơi của vũ trụ. Không có cái nào khác có thể thống trị
Nó.
18. Đi tìm sự giải thoát, ta nắm giữ nơi ẩn náu trong Đấng chúa tể sáng tạo,
khám phá tri thức linh hồn tối cao, cái bắt đầu sáng tạo ra Brahamn và ta
đọc Veda với Người.
1920. Khi con người thu mình lại một chỗ, dường như là 1 nơi ẩn náu, vậy
thì sẽ có sự chấm dứt sự đau khổ, không có sự trao đổi tri thức về Đấng
chúa tể của mình. Vị chúa tể đó không có sự tham dự, không hành động,
thanh thản, vô tội, không ràng buộc, đó là chiếc cầu tối cao đi tới sự bất tử,
giống như ngọn lửa được đốt cháy bằng tất cả nguyên liệu của nó.
21. Qua quyền năng của sự nghiêm khắc, khổ hạnh và qua ân huệ của Chúa
tể sáng tạo, bậc hiền triết S'vetàs'vatara hiểu biết Brahman và công bố tri
thức thiêng liêng tối cao, niềm yêu thương tối cao của bạn bè nhà tiên tri với
sannyàsins[49] ở giai đoạn cao nhất.
22. Điều huyền bí uyên thâm trong Vedanta đã được giảng giải trong chu
trình trước. Nó sẽ không mang lại cho người có cảm xúc mạnh mẽ hay giận
dữ không có sự kìm nén và không mang đến cho người không có con trai
hay không có một học trò.
23. Nếu những chân lý này được giảng giải với người có trí tuệ cao, người
đó cảm thấy sự tận tâm sùng kính cao nhất đối với Thần và với thầy của anh
ta như với Thần, khi đó chúng chắc chắn sẽ tỏa sáng, thực vậy,chúng chắc
chắn sẽ tỏa sáng lên phía trước.
===
Hết Chương 7: V. S'vetàs'vatara Upanishad
Chương 8: VI. Mandukya Upanishad
Chương 1: Gaudapàda Kàrika (Kàrika giải thích ngoài thơ Mundakya)
VII. Trạng thái toàn trí (Turiya) không phải là hiểu biết về thế giới bên trong
(chủ thể), không phải là hiểu biết về thế giới bên ngoài (khách thể), không
phải là trạng thái hiểu biết cả thế giới bên trong và thế giới bên ngoài, không
phải là tập hợp tổng số của ý thức. Đó không phải là ý thức đơn lẻ cũng
không phải là Nó không có ý thức. Nó không được nhận thức, không được
thuật lại, không thể lĩnh hội, không suy luận,không suy nghĩ và không thể
mô tả được. Bản chất của ý thức biểu hiện như tự ngã (trong 3 trạng thái).
Nó là sự cắt đứt với tất cả hiện tượng; Nó là tất cả sự yên tĩnh, tất cả niềm
hạnh phúc và duy nhất. Đây là sự hiểu biết như trạng thái thứ tư (Turiya).
Đó là Atman và điều này đã được nhận thức.
Bây giờ Kàrika bắt đầu giải thích thơ của Mandukya
10. Trạng thái toàn trí (Turiya) là quy luật biến hóa, là năng lực hủy diệt tất
cả đau khổ. Mọi thực thể khác tồn tại không thực, chỉ Turiya duy nhất (nhất
nguyên) được biết như sự sáng chói và thâm nhập tất cả.
11. Vis'va[50] và Taijasa[51] được quy định bởi nguyên nhân và kết quả.
Chỉ Pràjna[52] được quy định bởi nguyên nhân. Không có nguyên nhân và
kết quả nào tồn tại trong Turiya.
12. Pràjna không hề biết gì về linh hồn (tự ngã) hay phi linh hồn, chân lý
hay phi chân lý. Nhưng Turiya lại luôn luôn tồn tại và nhìn thấy tất cả.
13. Sự không hiểu biết của tính nhị nguyên là chung cho cả Pràjna và
Turiya. Nhưng Pràjna liên quan với giấc ngủ trong hình thức của nguyên
nhân và giấc ngủ này không tồn tại trong Turiya.
14. Hai trạng thái đầu (Vis'va và Taijasa) liên quan với giấc mơ và giấc ngủ
tương ứng với từng trạng thái; Pràjna liên quan với giấc ngủ, những giấc mơ
đã biến mất. Người biết Brahman không thấy giấc ngủ mà cũng không thấy
giấc mơ trong Turiya.
15. Giấc mơ là sự hiểu biết sai lệch và giấc ngủ là sự không hiểu biết về
Thực tại. Khi tri thức sai lầm trong 2 trạng thái trên được xóa bỏ, trạng thái
toàn trí Turiya được nhận thức.
16. Khi linh hồn cá nhân ngủ dưới ảnh hưởng của cái không có khởi đầu
màya, nó được đánh thức, khi đó nó thấy rõ cái không nhị nguyên là cái
không sinh, không ngủ, không mơ.
17. Nếu thế giới hiện tượng là có thật thì chắc chắn sẽ biến mất. Thế giới
nhị nguyên chỉ là ảo giác (màya); chỉ Cái duy nhất là Thực tại tối cao.
18. Nếu bất cứ ai nghĩ rằng tư tưởng là ảo giác, khi đó chúng sẽ tan biến.
những tư tưởng này là mục đích của lời chỉ dẫn. Khi Thực tại được nhận
thức, nhị nguyên luận chấm dứt tồn tại.
...............
Bây giờ Mandukya Upanishad kết luận:
XII. Trạng thái thứ tư là không có các bộ phận và không có mối quan hệ
mật thiết; Đó là sự gián đoạn, sự ngừng lại của hiện tượng; Đó là tất cả
những điều tốt lành và duy nhất. Aum này chính là Atman. Anh ta, người
biết hợp nhất linh hồn mình trong Atman vâng, anh ta, người biết điều này.
Chương 2:Vaitathya Prakarana (chương nói về ảo giác, ảo tưởng)
..........
29. Môn đệ chỉ hiểu thấu tư tưởng khi được dạy bởi người thầy của mình.
Atman mang hình thức của điều mà người thầy truyền dạy và theo cách đó
ông ta bảo vệ môn đệ. Say mê trong tư tưởng ấy, anh ta hiểu được Atman
giống như Atman.
30. Atman qua sự không khác nhau của tất cả ý niệm, xuất hiện sự khác
nhau. Anh ta, người thực sự hiểu biết sự lý giải này về ý nghĩa của Veda,
anh ta không có một chút sợ hãi.
31. Những giấc mơ, ảo giác và những lâu đài trong không khí được nhìn
thấy cũng như vũ trụ hiển hiện rõ ràng bởi nhà thông thái, người hoàn toàn
thông thạo Vedanta.
32. Không có sự hủy diệt mà cũng không có sự sáng tạo, không có ai trong
tù tội mà cũng không có ai thực hành kỷ luật khắc khổ. Không có ai theo
đuổi tự do mà cũng không có ai được tự do. Đây là Chân lý tuyệt đối.
33. Atman được quan niệm giống như những đối tượng không thực và được
quan niệm như cái hoàn toàn không nhị nguyên. Cũng vậy, các đối tượng
cũng được hình dung trong Atman duy nhất. Vì thế Đấng duy nhất là niềm
hạnh phúc nhất.
34. Sự đa dạng trong vũ trụ không tồn tại như sự tồn tại giống hệt với
Atman, Nó không tồn tại bởi chính Nó. Nó không là cái khác Brahman mà
cũng không là cái không khác Brahman. Đây là sự trình bày của nhà thông
thái.
35. Bậc thông thái, người thoát khỏi mọi sự trói buộc, sợ hãi và giận dữ, là
người hoàn toàn thông thạo kinh Veda, hiểu biết Atman, không có mọi sự ảo
tưởng và thoát khỏi từ ảo giác nhiều vẻ và như cái không nhị nguyên.
36. Bởi vậy, sự hiểu biết Atman như thế sẽ giữ chặt sự chú ý của anh vào
Đấng duy nhất. Có sự hiểu biết Đấng duy nhất sẽ cư xử hành động trong
trần thế giống như sự vật trơ ỳ.
37. Sannyàsin sáng chói không ca tụng thượng đế, không chào đón bất cứ
cái tối cao nào và không thi hành các nghi lễ để làm dịu lòng các tổ tiên ra
đi. Về cả thể xác và Atman như chốn trú ngụ của ta vẫn làm thỏa mãn
những gì số phận đem lại.
38. Hiểu biết chân lý có liên quan tới những gì tồn tại ở bên trong, cũng như
chân lý liên quan tới những gì tồn tại ở bên ngoài, anh ta trở thành hợp nhất
làm một với Chân lý và anh ta không bao giờ đi chệch khỏi chân lý.
Chương 3: Advaita Prakana (chương bàn về cái nhất nguyên)
1. Jiva trú ngụ nơi Brahman đem chính mình để sùng kính hết lòng. Jiva
nghĩ rằng trước sự sáng tạo tất cả đã có cùng bản chất giống như Thực tại
không sinh ra. Vì vậy anh ta được coi là có một trí năng hạn hẹp.
2. Cho nên bây giờ ta sẽ miêu tả Brahman, Đấng không được sinh ra, vẫn
vậy muôn thuở và thoát khỏi sự hạn hẹp. Từ đó người ta có thể hiểu được
rằng Brahman không trở thành sự sinh nở ngay ở mức độ không đáng kể, dù
Nó xuất hiện với sự thể hiện mình khắp mọi nơi.
3. Atman, cái giống như àkàs'a (khoảng không vô định), được coi là cái
được biểu hiện trong hình thức của các jiva, có thể giống như các àkàs'a
được đóng trong những cái bình. Cũng vậy, những thể xác được coi là sự
hiện thân của Atman đúng hệt như chiếc bình và những cái tương tự được
tạo ngoài àkàs'a. Về sự biểu hiện của Atman thì đây là một sự minh họa.
4. Khi đập vỡ những chiếc bình, thì các àkàs'a chứa kèm theo chúng hòa vào
àkàs'a rộng lớn, cũng giống như vậy, những jiva hòa nhập vào Atman.
5. Khi bụi bặm, khói,v.v.., làm bẩn àkàs'a chứa kèm theo 1 cái bình riêng
biệt thì dĩ nhiên không thể làm bẩn những àkàs'a khác chứa kèm theo những
chiếc bình khác. Cũng như vậy, sự hạnh phúc, sự đau khổ, v..v.., của 1 jiva
không ảnh hưởng đến những jiva khác.
6. Mặc dầu đa dạng về hình thức, chức năng và tên gọi của các àkàs'a [gắn
với những đồ chứa khác nhau] được nhận vào, tuy vậy điều này không bao
hàm ý nói về bất cứ sự khác nhau nào trong chính àkàs'a. Tương tự vậy, đó
cũng là kết luận đối với việc xem xét các jiva.
7. Giống như àkàs'a được chứa kèm theo trong bình không phải là kết quả
mà cũng không phải là 1 phần của àkàs'a thật sự, cũng như vậy, jiva cũng
không phải là kết quả mà cũng không phải là 1 phần của Atman.
8. Trẻ con coi àkàs'a cũng bị nhiễm bẩn bởi bụi bặm; cũng vậy, kẻ dốt nát
xem Atman cũng bị nhiễm bẩn tương tự như thế.
9. Đối với Atman khi xem xét tới cái sinh và cái tử của Nó, sự ra đi và trở
lại của Nó và việc Nó trú ngụ trong những thân xác khác nhau thì không
phải là không giống với àkàs'a.
10. Tất cả tổng số được sinh ra bởi màyà của Atman như trong 1 giấc mơ.
Không 1 lời biện minh nào có thể đưa ra để xác định tính thực tại của
chúng, dù chúng có những địa vị ngang bằng nhau hay dù có một số ở địa vị
cao hơn những cái khác.
11. Linh hồn tối cao là cái ngã của 5 vỏ bọc[53], giống như vật chất và sinh
khí. 5 vỏ bọc đó đã được trình bày trong kinh Taittiriya Upanishad. Linh
hồn tối cao đó giống như àkàs'a đã được trình bày.
12. Àkàs'a trú ngụ trong trái đất và trong dạ dày là 1, cũng giống như vậy,
Brahman trú ngụ trong 1 cặp là 1, được miêu tả trong kinh Madhu Brahman.
13. Sự đồng nhất của jiva và Atman đã được ca ngợi bằng việc chỉ ra tính
không nhị nguyên của chúng; còn tính đa nguyên đã bị phê phán. Vì vậy chỉ
duy nhất học thuyết không nhị nguyên là tránh được sai lầm.
14. Sự khác nhau của jiva và Atman đã được trình bày trong phần đầu của
kinh Upanishad, liên quan đến sự sáng tạo, hình tượng, ẩn dụ, bởi vì phần
này chỉ nói rõ cái gì sẽ xảy ra trong tương lai. Sự phân chia này không thể
có ý nghĩa thật sự của những đoạn trích.
15. Những sự trình bày trong kinh thánh liên quan tới sự sáng tạo, sử dụng
các thí dụ về đất, sắt và những tia lửa, là nhằm mục đích làm sáng tỏ trí tuệ.
Cái đa tạp thật sự không thể tồn tại dưới bất cứ hình thức nào.
16. Có 3 giai đoạn của cuộc sống phù hợp với 3 cấp độ nhận thức của con
người: bậc thấp kém, bậc trung bình và bậc cao siêu. Kinh thánh ngoài việc
kêu gọi lòng thương xót, còn dạy kỹ thuật này vì lợi ích của những gì chưa
được làm sáng tỏ.
17. Các nhà nhị nguyên hết sức lúng túng với những kết luận của họ, chúng
mâu thuẫn lẫn nhau. Các nhà nhất nguyên không thấy chút gì mâu thuẫn
trong chính mình.
18. Vì cái nhất nguyên là Thực tại tối cao, cái nhị nguyên được coi là kết
quả của Nó. Các nhà nhị nguyên xem cái nhị nguyên trong cả 2: cái tuyệt
đối và cái tương đối. Vì vậy vai trò của nhà nhất nguyên không xung khắc
với vai trò của nhà nhị nguyên.
19. Atman cái không được sinh nở trở thành nhiều vẻ khác nhau qua màyà
và không có cách nào khác. Vì nếu cái nhiều vẻ là tồn tại thực thì cái bất tử
sẽ trở nên khả tử.
20. Các nhà biện thuyết chủ trương rằng thực thể không được sinh ra
(Atman) trở thành được sinh ra. Làm sao người ta có thể cho rằng thực thể
là cái không được sinh ra và bất tử sẽ trở nên khả tử được chứ?
21. Cái bất tử không thể trở nên khả tử, cũng vậy, cái khả tử không thể trở
nên bất tử. Vì không bao giờ xảy ra tình trạng một sự vật lại thay đổi bản
chất của nó. Không bao giờ và không có cách nào đê một sự vật lại thay đổi
bản chất của mình. Ví như lửa không thể đổi bản chất của nó, đó là đặc tính
nóng.
4/14/2016 Chương 8: VI. Mandukya Upanishad, Áo Nghĩa Thư (Upanishad) –
Tri Thức Tối Thượng
http://kilopad.com/TongiaoTutuongc40/docsachtructuyenaonghiathuupani
shadtrithuctoithuongb3416/chuong8vimandukyaupanishadt132124 7/23
22. Làm sao người ta có thể tin rằng một thực thể với bản chất bất tử lại có
thể trở nên khả tử. Sao họ giám giữ ý kiến rằng cái bất tử sau khi đã vượt
qua những sự thay đổi, vẫn giữ lại được cái bản chất không thay đổi của nó?
23. Đi tới sự sinh ra có thể thật hay chỉ là ảo ảnh; cả hai quan điểm đó đều
được kinh thánh ủng hộ như nhau. Nhưng quan điểm được ủng hộ bởi Kinh
thánh và được khẳng định bởi lý trí là quan điểm duy nhất được thừa nhận,
còn quan điểm khác thì không.
24. Từ những đoạn trong kinh thánh như " Người ta không thấy cái nhiều vẻ
nào trong Atman" và "Indra (Đấng chúa tể tối cao), thông qua Màyà xuất
hiện nhiều hình thức khác nhau", người ta biết rằng Atman, mặc dù chưa
từng được sinh ra, sẽ xuất hiện trở thành đa dạng chỉ qua màyà.
25. Hơn nữa, bằng việc phủ định sự sáng tạo, dẫn tới sự sinh nở cũng bị phủ
nhận luôn. Nguyên lý nhân quả của Brahman bị từ chối bằng những câu
như: "Ai có thể khiến Nó để Nó sinh nở?".
26. Theo sự giải thích về bản chất không thể hiểu của Atman, Kinh thánh có
câu: "Không phải cái này, không phải cái này", điều đó phủ định tất cả
những tư tưởng của phái nhị nguyên gán cho Atman. Vì thế cho nên, Atman
không sinh nở duy nhất tồn tại.
27. Cái gì tồn tại luôn xuất hiện qua sinh nở bởi màya, từ quan điểm về thực
tại Nó không phải như vậy. Nhưng anh ta nghĩ rằng sự sinh nở là những sự
khẳng định thật sự, như những gì đã nói, rằng cái gì được sinh ra thì cũng có
khả năng sinh ra lần nữa.
28. Cái không thực không thể được sinh ra dù thực tế hay là thông qua
màyà. Vì không thể xảy ra chuyện một đứa con được sinh ra từ một phụ nữ
vô sinh dù là được sinh ra trong thực tế hay được sinh ra qua màyà.
29. Giống như trong những giấc mơ, tinh thần hoạt động thông qua màyà
(ảo giác), hiện diện sự xuất hiện của cái nhị nguyên, cũng thế trong trạng
thái đang thức tinh thần hoạt động thông qua màyà sẽ hiện diện sự xuất hiện
của cái nhị nguyên.
30. Không còn nghi ngờ gì nữa rằng tinh thần, cái ở trong thực tại nhất
nguyên, xuất hiện tính nhị nguyên trong những giấc mơ; cũng vậy, không
còn nghi ngờ gì nữa rằng cái gì nhất nguyên xuất hiện tính nhị nguyên trong
trạng thái thức.
31. Tất cả những sự vật đa dạng đều hàm chứa trong nó đặc tính chuyển
động và bất động, những sự vật ấy chỉ được nhận thức bằng trí tuệ mà thôi.
Vì cái nhị nguyên không bao giờ được nhận thức khi trí tuệ ngưng hoạt
động.
32. Khi trí tuệ, sau khi đã nhận thức được rằng chỉ Atman mới là thật sự, nó
trở thành tự do từ những tưởng tượng mơ hồ và vì thế nên trí tuệ không hiểu
biết bất cứ cái gì nữa, vì không còn đối tượng để nhận thức, nó chấm dứt đối
với trí tuệ.
33. Tri thức (Jnàna) không được sinh ra và nó thoát khỏi trí tưởng tượng,
được miêu tả bằng sự thông thái, như là cái không thể chia cắt ra khỏi khả
năng hiểu biết. Brahman không sinh nở và bất di bất dịch là mục đích của tri
thức, của sự hiểu biết. Cái thông minh (Brahman) được hiểu biết bằng cái
không sinh (Tri thức của thực tại).
34. Người ta sẽ biết hành vi của trí tuệ, cái được phú cho khả năng nhận
thức đúng đắn và thoát khỏi những ảo tưởng. Trạng thái của trí tuệ trong
giấc ngủ say không giống như cái chỉ là của một loại khác.
35. Trí tuệ bị rút ra khỏi trong giấc ngủ say nhưng nó không là như thế khi
trí tuệ được kiểm soát. Trí tuệ được điều khiển là Brahman không lo sợ gì
cả, ánh sáng của Người thông suốt mọi sự là sự thâm nhập khắp nơi.
36. Brahman không sinh, không ngủ, không mơ, không danh tính, không
hình thù. Nó là sự sáng chói vĩnh cửu và thông suốt vô cùng. Không phận
sự, có thể luôn luôn được hợp nhất với Nó trong bất cứ giác quan nào.
37. Atman là vượt ra khỏi tất cả sự diễn tả bằng những lời nói, từ ngữ và Nó
cũng vượt ra khỏi những thao tác của trí tuệ. Nó là sự an bình cực độ, sự tồn
tại vĩnh hằng, một sự thấu hiểu sâu xa, Nó không chuyển động và vô cùng
hùng mạnh.
38. Brahman là tự do từ những hoạt động tinh thần và từ đó Nó thoát khỏi
tất cả những tư tưởng về sự chấp nhận hay từ chối. Khi sự hiểu biết đã được
thiết lập trong Atman thì Nó đạt được sự không sinh nở và mãi mãi vẫn thế.
39. Yoga là sự kết hợp mật thiết giữa linh hồn cá nhân và Linh hồn siêu việt,
Nó không dính dáng với bất cứ thứ gì, đối với những người luyện tập Yoga
bình thường thì thật là khó để đạt được sự kết hợp đó. Người ta cảm thấy sợ
hãi sự kết hợp đó, vì người ta nhận thấy mình yếu đuối mà Linh hồn siêu
việt thì dũng mãnh.
40. Những người luyện tập yoga những không hiểu biết được cái nhất
nguyên thì thường dựa vào sự kiểm soát của trí tuệ để đạt được sự can đảm,
phá tan được đau khổ, có được tri thức, hiểu biết chính mình và có được sự
an bình vĩnh cửu.
41. Tinh thần phải phục tùng sự điều khiển, kiểm soát bằng sự cố gắng nỗ
lực không hề chán nản; nó công phu giống như tát cạn cả đại dương, từng
giọt từng giọt một, với sự giúp đỡ của một chiếc lá cỏ kus'a.
42. Trí tuệ bối rối bởi những dục vọng và những niềm vui thú phải phục
tùng sự điều khiển, kiểm tra nhờ những cách thức đúng đắn, thích hợp; cũng
như thế, trí tuệ thích điều vui thú trong sự biếng nhác, bất động (laya). Do
trạng thái của sự bất động biếng nhác cũng tác hại như trạng thái của những
dục vọng.
43. Trí tuệ quay trở lại từ sự ham muốn những khoái lạc, nên nhớ rằng
những khoái lạc, dục vọng chỉ là những thứ gây đau khổ. Đừng nhìn những
sự vật thụ tạo, hãy nhớ rằng tất cả là Atman không được sinh ra.
44. Nếu trí tuệ trở nên bất động, thì hãy đánh thức, khuấy động nó [từ laya];
nếu nó bị bối rối, hãy làm cho nó lặng lẽ, tịch mịch. Hãy hiểu bản chất của
tinh thần khi nó còn chất chứa mầm mống của sự ràng buộc[54] hay lòng
quyến luyến. Khi tinh thần đã đạt được những điều như vậy thì đừng làm
xáo trộn, mất yên tĩnh nó một lần nữa.
45. Người tập luyện yoga phải không được nếm mùi sung sướng [sinh ra từ
samashi]; anh ta sẽ phải nhất định tách mình ra khỏi nó bằng sự rèn luyện
khôn ngoan, sáng suốt hay sự suy xét và nhận thức đúng đắn. Nếu trí tuệ
của anh ta, sau khi đã đạt được sự chắc chắn, kiên định thì anh ta lại tìm
kiếm, theo đuổi những đối tượng bên ngoài. Anh ta phải làm cho trí tuệ của
mình hợp làm một với Atman bằng sự nỗ lực, cố gắng lớn.
46. Khi tinh thần không rơi vào tình trạng bất động, biếng nhác và không bị
bối rối bởi những dục vọng, điều đó có nghĩa là khi đó nó vẫn kiên định,
không thể lay chuyển được và không gây ra những cái được biểu hiện, thật
sự nó trở thành Brahman.
47. Niềm hạnh phúc tối cao này tồn tại trong Bản ngã. Nó là sự an bình; Nó
là sự giải thoát; không sinh nở và không thể miêu tả được bằng lời lẽ. Nó
được gọi là Brahman toàn trí, toàn năng, tồn tại hợp nhất với Bản ngã không
sinh ra, là đối tượng chân thật của tri thức.
48. Không bao giờ jiva sinh ra từ sự sống. Những cái tồn tại ấy không có
nguyên nhân để có thể tạo ra Nó. Chân lý tối cao là cái không bao giờ được
sinh ra.
Chương bốn: Alàtasànti Prakarana (chương bàn về sự dập tắt bè gây rối)
1. Tôi tôn kính Đấng thần linh cao cả gữa những con người, nhờ vào sự hiểu
biết cái giống như àkàs'a[55] và sự hiểu biết đó không khác với mục đích
của tri thức, con người đã nhận thức được bản chất của jivas (dharmas),
cũng vậy jivas là cái giống như àkàs'a.
2. Tôi bái phục phương pháp tu luyện yoga, được biết đến như cách cô lập
hóa, tách biệt mọi sự vật, mọi vương vấn (asparsa); phương pháp đó là được
dạy trong các kinh; nó khích lệ, phát huy niềm hạnh phúc và sung mãn của
tất cả các tạo vật, nó thoát khỏi những sự xung đột và những mâu thuẫn.
3. Một số nhà biện thuyết mặc nhiên công nhận rằng chỉ có thực thể đang
tồn tại mới có thể tái sinh ra sự tồn tại. Trong khi đó, những nhà biện thuyết
khác lại tự hào về trí năng của mình và cho rằng chỉ có một thực thể không
tồn tại mới có khả năng sinh ra sự tồn tại. Vì vậy họ đã cãi nhau.
4. Một thực thể đang tồn tại không thể được hưởng thừa kế sự tồn tại; cũng
vậy, một thực thể không tồn tại, thì không thể được hưởng thừa kế sự tồn
tại. Việc tranh luận giữa hai trường phái, vô hình chung đã thực sự thiết lập
quan điểm nhất nguyên về ajàti cái không sáng tạo.
5. Chúng ta tán thành ajàti đã được hai phái kia xác định như vậy. Chúng ta
không tranh cãi với họ. Bây giờ xin hãy nghe chúng ta bàn về thực tại tối
hậu, cái vượt ra khỏi tất cả những lời tranh luận.
68. Các nhà biện thuyết khẳng định rằng thực thể không được sinh ra
(Atman) trở thành được sinh ra. Làm sao người ta lại có thể nghĩ rằng một
thực thể không được sinh ra và bất tử sẽ trở thành khả tử?
Cái bất tử không thể trở nên khả tử, cũng vậy, cái khả tử không thể trở nên
bất tử, vì điều đó không bao giờ xảy ra đối với một sự vật thay đổi bản chất
của chính nó.
Làm sao người ta lại tin rằng một thực thể với bản tính bất tử lại trở nên khả
tử được? Làm sao người ta có thể biện hộ rằng cái bất tử sau khi đã trải qua
sự thay đổi lại có thể duy trì được bản chất không thay đổi của mình?
9. Bởi vì prakiti[56] hay bản chất của một sự vật phải được hiểu rằng khi đã
đạt được, Nó trở thành phần thiết yếu của một sự vật, cái là tính đặc thù của
sự vật, rằng Nó là bản chất không thể chuyển nhượng của Nó, đã có ngay từ
lúc Nó xuất hiện, rằng Nó không lấy gì thêm cho Nó và luôn luôn dừng lại ở
chính Nó.
10. Tất cả những jivas, bằng chính bản chất của mình, là thoát khỏi sự suy
yếu, già lão và cái chết. Nhưng chúng nghĩ rằng chúng lệ thuộc vào sự suy
yếu, già lão và sự chết và bằng chính năng lực của tư duy chúng, sai lệch
bản chất trung thực của chúng.
11. Theo kẻ biện thuyết đối với những ai cho rằng nguyên nhân tự nó là kết
quả phải giữ ý kiến rằng nguyên nhân được sinh ra cũng như là kết quả. Nếu
nó được sinh ra thì làm sao có thể nó được gọi là cái không sinh ra nó? Nếu
nó chịu sự thay đổi, thì làm sao nó có thể được gọi là cái vĩnh cửu?
12. Nếu như các người nói, kết quả không khác với nguyên nhân, thì kết quả
cũng phải không được sinh ra. Hơn nữa, làm sao nguyên nhân có thể là cái
vĩnh cửu nếu nó không khác với kết quả, cái được sinh ra?
13. Không có một minh họa nào để ủng hộ quan điểm cho rằng kết quả
được sinh ra từ một nguyên nhân không được sinh ra. Trở lại, nếu điều đó
được cho rằng kết quả được tạo ra từ một nguyên nhân, cái tự nó được sinh
ra, thì điều này dẫn tới một sự thụt lùi vô hạn.
14. Làm sao họ có thể khẳng định rằng kết quả là nguyên nhân của nguyên
nhân và nguyên nhân là nguyên nhân của kết quả và làm sao họ có thể giữ
quan điểm rằng không có sự bắt đầu của cả kết quả và nguyên nhân?
15. Những người cho rằng, kết quả là nguyên nhân của nguyên nhân và
nguyên nhân là nguyên nhân của kết quả, thì quả thật họ đã bảo vệ quan
điểm cho rằng sự sáng tạo theo lối sinh con rồi mới sinh cha (sinh ra cha là
từ con).
16. Nếu nguyên lý nhân quả được khẳng định, thì trật tự trong đó, nhân và
quả phải lần lượt được xác định. Nếu người ta cho rằng chúng xuất hiện
cùng một lúc, thì cũng giống như 2 cái sừng của một con vật, chúng không
thể liên quan gì đến nhau như nguyên nhân và kết quả.
17. Nguyên nhân mà các người khẳng định, không thể được xác định [như 1
nguyên nhân ] nếu nó được sinh ra từ 1 kết quả. Làm sao 1 nguyên nhân
chính nó không được xác định lại có thể đưa tới sinh ra kết quả?
18. Nếu nguyên nhân được tạo ra từ kết quả và kết quả lại được tạo ra từ
nguyên nhân, vậy thì cái nào trong 2 cái được sinh ra trước và cái nào phụ
thuộc vào sự sinh ra của cái nào?
19. Sự bất lực với việc giải đáp là do sự thiếu hiểu biết và việc không có
được sự xác lập trật tự kế tiếp rõ ràng đã làm cho sự hiểu biết được duy trì
học thuyết ajàti, hay sự không sáng tạo dưới tất cả những điều kiện.
20. Sự minh họa về hạt giống và mầm cây là điều vẫn còn phải chứng minh.
Sự minh họa mà chính nó vẫn chưa được chứng nghiệm thì sự minh họa đó
không thể được dùng để xác định một giả thuyết phải được chứng minh.
21. Sự không hiểu biết 1 cách rõ ràng đối với sự có trước và sự có sau của
nguyên nhân và kết quả xác nhận một cách rõ ràng không có sự sáng tạo.
Nếu jiva đã được sinh ra thật sự, thì tại sao các người không thể chỉ được
nguyên nhân trước nó là gì?
22. Không có bất cứ cái gì được sinh ra, dù của bản thân nó hay của một
thực thể khác. Không có cái gì đã từng được tạo ra, dù Cái đó là cái tồn tại
hay cái không tồn tại hoặc là vừa cả hai trạng thái tồn tại và không tồn tại.
23. Nguyên nhân không thể được tạo ra từ một kết quả không có khởi đầu;
hoặc là kết quả cũng không thể được tạo ra từ một nguyên nhân không có
khởi đầu. Mà cái không có khởi đầu thì tất nhiên thoát khỏi sự sinh nở.
24. Sự hiểu biết của chủ thể phải có một khách thể làm nguyên nhân của nó;
nếu không có, sự muôn màu muôn vẻ sẽ trở thành không tồn tại. Hơn nữa,
từ trong kinh nghiệm của sự đau khổ, sự tồn tại của các đối tượng bên ngoài
được chấp nhận bởi những lời thánh có tính nhị nguyên, phải được thừa
nhận.
25. Các nhà nhị nguyên bằng nỗ lực của lý trí đã khẳng định rằng có một
nguyên nhân của chủ thể nhận thức. Nhưng từ quan điểm đúng đắn về bản
chất chân thực của sự vật, chúng ta khẳng định rằng: cái nguyên nhân mà
các nhà nhị nguyên nói, rốt cuộc,không là nguyên nhân.
26. Tinh thần không liên quan đến những khách thể bên ngoài hay là những
tư tưởng đã được xem như là khách thể (đối tượng). Thật vậy, vì những đối
tượng là không tồn tại và những tư tưởng [cái được xem như những khách
thể hay những đối tượng bên ngoài] chúng không có sự khác biệt với tư
tưởng.
27. Trí tuệ không nhập vào quan hệ nhân quả trong bất cứ thời điểm nào của
3 thời kỳ (hiện tại, quá khứ, tương lai). Làm sao nó có thể luôn luôn lệ thuộc
vào sự sai lầm được, khi không có nguyên nhân đối với sự sai lầm như thế?
28. Vì thế cho nên không phải khách thể được nhận thức bởi trí tuệ được
sinh ra. Việc biết sự sinh ra của chúng cũng giống như đi xem những dấu
chân của những con chim bay trên bầu trời.
29. Nguyên nhân [Brahman] từ đó trí tuệ không sinh ra đã được các nhà nhị
nguyên khẳng định sẽ được sinh ra là chính Nó không được sinh ra [bởi vì
Brahman là không được sinh ra bao giờ] vì thế điều đó không bao giờ có thể
xảy ra với Nó khác hơn cái Nó là.
30. Nếu như các nhà nhị nguyên luận đã tranh luận rằng, thế giới không có
sự khởi đầu, thì thế giới không thể tồn tại vĩnh cửu. Moksha (sự giải thoát)
không có 1 sự khởi đầu và Nó là vĩnh hằng.
31. Nếu 1 sự vật không tồn tại vào lúc khởi đầu và vào lúc kết thúc, thì tất
yếu nó không tồn tại trong hiện tại. Các đối tượng mà chúng ta nhìn thấy thì
thật sự giống những ảo ảnh, thế nhưng chúng vẫn được xem như những cái
tồn tại thật sự.
32. Tính thiết thực hay sự có ích của các đối tượng trong kinh nghiệm khi
còn thức được xem là trái ngược trong giấc mơ; vì vậy chúng chắc chắn là
không thực. Bởi lẽ, cả 2 thứ kinh nghiệm kinh nghiệm lúc còn thức và
kinh nghiệm trong giấc mơ đều có khởi đầu và kết thúc.
33. Tất cả những thực thể được nhìn thấy trong giấc mơ là không thực, bởi
vì chúng được nhận thức ngay chính bên trong con người[57]. Làm sao
những điều đó có thể chấp nhận được đối với những sự vật, chúng được
nhận thức để tồn tại thật sự trong Brahman, cái không thể phân chia và đồng
nhất?
34. Chẳng có lý chút nào khi nghĩ rằng một người nằm mơ đã thực sự thoát
ra ngoài giấc mơ theo thứ tự để trải nghiệm các đối tượng [đã được thấy
trong mơ], bởi vì sự khác biệt về thời gian cần có cho một cuộc hành trình
như thế. Khi thức, anh ta tìm thấy chính mình trong các cương vị đã thấy
trong trong giấc mơ mà anh ta không làm được gì cả.
35. Người nằm mơ, sau khi tỉnh giấc, nhận ra những ảo giác của những cuộc
chuyện trò mà anh ta đã đàm đạo với bạn bè, với những người khác trong
mơ. Hơn nữa khi tỉnh giấc, anh ta chẳng có được những cái mà anh ta đã có
được trong lúc mơ.
36. Thân thể trong trạng thái mơ thì cũng không thực, vì lúc đó nó là thân
thể khác, khác với nó, nó đã được nhận thức. Cũng như thân thể trong trạng
thái mơ, tất cả những sự vật được nhận thức bằng trí tuệ là không thực.
37. Vì kinh nghiệm về những đối tượng trong giấc mơ giống với kinh
nghiệm về những đối tượng trong trạng thái đang tỉnh, nên kinh nghiệm
trong trạng thái thức được xem như là nguyên nhân của kinh nghiệm trong
mơ. Chỉ có kẻ mơ mới thừa nhận kinh nghiệm trong trạng thái thức là
nguyên nhân của kinh nghiệm trong trạng thái mơ. Chỉ bởi anh ta [người
nhận kinh nghiệm trong trạng thái tỉnh mới là nguyên nhân của kinh nghiệm
trong trạng thái mơ] mà kinh nghiệm trong trạng thái thức có thể được coi là
thực.
38. Tất cả những thực thể đều được xem là không được sinh ra vì sự sinh ra
không được xác định [như 1 thực tế]. Điều đó hoàn toàn không thể xảy ra
được đối với cái không thực được sinh ra từ cái có thực.
39. Một người đầy ắp những cảm giác về những đối tượng không thực đã
nhìn thấy trong trạng thái tỉnh, thì anh ta cũng sẽ nhìn thấy đúng những đối
tượng ấy trong lúc mơ. Nhưng khi tỉnh giấc anh ta sẽ không thấy lại được
những đối tượng không thực đã thấy trong mơ.
40. Cái ảo không thể có 1 cái không thực khác làm nguyên nhân của nó, cái
thực không thể có cái ảo để làm nguyên nhân của nó. Cái thật không thể là
nguyên nhân của cái thật. Và dứt khoát không thể xảy ra điều cho rằng cái
thực là nguyên nhân của cái ảo.
41. Cũng như một người khi ở trong trạng thái thức qua hiểu biết sai lầm
xuất hiện để nắm chắc các đối tượng, mà bản chất các đối tượng là bí hiểm,
không thể hiểu được [y như chúng là thực], cũng như vậy, trong giấc mơ,
anh ta lĩnh hội qua tri thức sai lầm, những đối tượng mà sự tồn tại của chúng
chỉ có hiện được trong giấc mơ.
42. Những nhà thông thái chỉ dạy nguyên lý nhân quả vì mục đích của
những người sợ hãi sự không sáng tạo, khẳng định sự thực tế của những đối
tượng bên ngoài, bởi vì họ nhận thức những đối tượng như thế và cũng bởi
vì họ bám víu vào những trách nhiệm xã hội và tôn giáo khác nhau.
43. Những người ấy vì sự sợ hãi của họ đối với chân lý về sự tuyệt đối, sự
không sáng tạo và cũng vì sự nhận thức của họ về những đối tượng bên
ngoài, họ đã phủ nhận ajàti là không bị ảnh hưởng bởi hậu quả xấu dựa trên
niềm tin và sự sáng tạo. Thứ tội lỗi này, nếu có, chỉ là vô nghĩa, phi lý.
44. Giống như một con voi được nhà ảo thuật cỡi lên được nắm giữ đó là sự
thật bởi vì nó được nhận thức là cái tồn tại và cũng bởi vì nó chịu trách
nhiệm cách cư xử và hoạt động [của con voi thực], cũng như vậy, những đối
tượng bên ngoài được chấp nhận là thực bởi vì chúng được lĩnh hội là tồn
tại, và bởi vì người ta có thể tiếp xúc được với chúng.
45. Vậy Thực tại tối cao là gì? Đó là ý thức, Vijinana[58], cái chỉ xuất hiện
ở sự sinh ra, ở sự chuyển động hay mang hình thức vật chất. Nhưng ý thức
này thực sự chưa bao giờ được sinh ra, nó bất động và thoát khỏi những đặc
tính của vật chất; nó hoàn toàn yên tĩnh và duy nhất.
46. Vì vậy, trí tuệ[59] không bao giờ phụ thuộc vào sự sinh ra. Tất cả mọi
tồn tại cũng vậy, chúng thoát khỏi sự sinh ra. Những kẻ hiểu biết điều đó thì
không rơi vào tri thức sai lầm.
47. cũng như 1 que lửa được huơ đi huơ lại, lúc thì có vẻ thẳng, lúc thì có vẻ
cong, ý thức cũng vậy, khi bắt đầu sự vận động thì hiện ra giống như chủ thể
nhận thức, một cái gì được nhận thức và cái giống như thế.
48. Như một que lửa, khi không vận động nó thoát khỏi mọi biểu hiện bề
ngoài và vẫn không bao giờ thay đổi, cũng như vậy, ý thức, khi không hoạt
động, nó thoát khỏi tất cả sự thể hiện bề ngoài và vẫn không bao giờ thay
đổi.
49. Khi một que lửa được đặt trong sự vận động, các hình thức biểu hiện bề
ngoài [mà chúng ta thấy được trong nó] không phải xuất phát từ một nơi
nào khác ngoài que lửa. Khi nó vẫn còn thì các hình thức bề ngoài không lìa
xa que lửa không chuyển động và không đi một nơi nào khác, chúng không
nhập bản thân nó vào que lửa.
50. Những hình thức biểu hiện bên ngoài không thể tách ra khỏi que lửa, bởi
vì tính chất của chúng không phải là cái thuộc về bản chất. Điều này được
áp dụng tương tự đối với ý thức[60], vì sự giống nhau của những hình thức
biểu hiện bên ngoài.
5152. Khi ý thức được liên kết với tư tưởng của sự hoạt động [giống như
trong các trạng thái thức và mộng] các hình thức biểu hiện bề ngoài [cái
được coi như thực] không xuất phát từ bất cứ nơi nào khác nữa. Khi ý thức
không ở trong trạng thái hoạt động [như trong giấc ngủ say], những hình
thức biểu hiện bề ngoài không rời ý thức không hoạt động và đến một nơi
nào khác, hoặc là chúng cũng không lẫn lộn vào trong ý thức. Những hình
thức biểu hiện bên ngoài không thể tách rời khỏi ý thức vì bản chất của
chúng không phải là bản chất thật. Chúng vô cùng khó hiểu, bởi vì chúng
không chịu sự chi phối của mối quan hệ nhân quả.
53. Một thực thể có thể là nguyên nhân của một thực thể khác và một phi
thực thể có thể là nguyên nhân của một phi thực thể khác. Nhưng jiva không
thể được coi như một thực thể hay một phi thực thể.
54. Bây những hình thức biểu hiện bên ngoài (những đối tượng) không có
nguyên nhân từ trí tuệ, hoặc là trí tuệ không thâm sâu phải là nguyên nhân
của chúng. Như vậy người có tư tưởng phải nắm chắc nguyên lý về sự
không sáng tạo tuyệt đối.
55. Chừng nào người ta còn bám víu niềm tin vào mối quan hệ nhân quả,
người đó sẽ tìm thấy nguyên nhân sinh ra kết quả. Nhưng khi sự ràng buộc
này với quan hệ nhân quả bị suy yếu dần, bị cắt đứt đi thì nguyên nhân và
kết quả trở nên không tồn tại.
56. Chừng nào người ta còn bám víu, tin tưởng vào quy luật nhân quả, thì
samsàra[61] sẽ tiếp tục bành trướng ra đối với anh ta. Nhưng khi sự ràng
buộc này đối với quy luật nhân quả bị suy yếu dần thì samsàra trở thành
không tồn tại.
57. Toàn bộ vũ trụ được sáng tạo ra bởi nhận thức sai lầm; vì thế chẳng có
gì là vĩnh cửu. ngược lại, mọi cái được xem là hợp nhất với thực tại tối
cao,cái không được sinh ra, vì thế chẳng có cái gì được coi là bị phá hủy.
58. sự sinh ra được gán cho các jiva; nhưng từ quan điểm về Thực tại, sự
sinh ra như thế không thể chấp nhận. sự sinh ra cũng giống như một đối
tượng ảo tưởng. Cái ảo tưởng thì không tồn tại.
59. Mầm ảo tưởng được sinh ra từ hạt giống ảo tưởng. Cái mầm ảo tưởng
đó vừa không bền vững lại vừa không hủy diệt được. Áp dụng cách hiểu đó
rất phù hợp để hiểu các jiva.
60. Thuật ngữ bền vững hay không bền vững không thể được áp dụng cho
các jiva không sinh ra. Cái gì không thể miêu tả bằng lời lẽ thì tất nhiên Nó
cũng không thể được phân biệt một cách rõ ràng về sự bền vững hay không
bền vững.
61. Cũng như trong những giấc mơ, trí tuệ hoạt động thông qua màyà, hình
thức biểu hiện bề ngoài của tính nhị nguyên hiện diện.
62. Không còn nghi ngờ gì nữa, tinh thần, cái thực chất là nhất nguyên,
nhưng lại xuất hiện là nhị nguyên trong giấc mơ; tương tự như vậy, không
còn nghi ngờ gì nữa, những cái gì nhất nguyên đều xuất hiện như trạng thái
nhị nguyên trong trạng thái tỉnh.
63. Kẻ chiêm bao đi lang thang khắp cả mười hướng trong giấc mơ của anh
ta, thấy tất cả những hình thức khác nhau của jiva, được sinh ra từ những
quả trứng, từ hơi ẩm ướt...
64. Những thực thể này, chúng là những khách thể của trí óc kẻ đang mơ,
chúng không tồn tại ngoài ý thức của anh ta. Cũng vậy, trí tuệ của người
chiêm bao là khách thể nhận thức riêng của người đang mơ.
6566. Một người đang tỉnh đi lang thang cả mười hướng trong tình trạng
tỉnh, anh ta gặp tất cả các trạng thái khác nhau của các jiva được sinh ra từ
những quả trứng, từ hơi ẩm,v.v.. Chúng là khách thể của ý thức của người
đang thức và chúng không tồn tại ngoài ý thức đó. Tương tự vậy, tinh thần
của người đang thức là khách thể của chính sự nhận thức của anh ta.
67. Cả hai (tinh thần và jiva) là những khách thể nhận thức của nhau. Làm
sao có thể cái này tồn tại mà không phụ thuộc vào cái kia? Câu trả lời của
kẻ khôn ngoan đó là lời từ chối, lời phủ định. Không có bằng chứng về sự
tồn tại của cái này mà không có cái kia; chúng được nhận thức chỉ thông
qua cái kia.
6870. Cũng như trong giấc mơ jiva tồn tại và biến mất, cũng vậy, các jiva
này [được nhận thức trong trạng thái tỉnh] xuất hiện và biến mất.
71. Không một jiva nào luôn được thừa hưởng sự tồn tại. Những cái tồn tại
này không nguyên nhân nào có thể sinh ra nó. Chân lý tối cao đó là không
có gì đã từng được sinh ra.
72. Thế giới nhị nguyên, cái được nhận thức là tồn tại và được mô tả đặc
điểm bởi mối quan hệ chủ thể và khách thể, nó thật sự là một sự vận động
của trí tuệ. Trí tuệ một lần nữa, [theo quan điểm về Thực tại] không tiếp xúc
với bất cứ đối tượng nào. Vì vậy, Nó được coi là vĩnh cửu và không bị ràng
buộc.
73. Cái mà tồn tại dựa vào sức mạnh của nhận thức sai lầm, được đặt trên trí
tưởng tượng thì không tồn tại thực. Một lần nữa, cái mà được cho là tồn tại
trên sức mạnh những quan điểm tiến bộ của các trường phái khác cũng
không tồn tại thật sự.
74. Atman được gọi là vô sinh (aja) từ cách nhìn của những hiểu biết sai
lầm dựa trên trí tưởng tượng; thực ra Nó không bao giờ là vô sinh. Atman
không sinh ra được coi là sự sinh ra từ quan điểm của tri thức sai lầm, được
bảo vệ bởi tư tưởng của các trường phái tư tưởng khác.
75. Người ta khăng khăng nắm giữ ý tưởng về tính không có thật (ví dụ như
tư tưởng về cái nhị nguyên). Nhưng cái nhị nguyên như thế không tồn tại.
một người đã nhận thức được sự không có cái nhị nguyên, thì kẻ đó không
bị sinh ra nữa,vì ở đó không còn nguyên nhân nào đối với việc sinh ra của
anh ta.
76. Khi trí tuệ đã tìm thấy cái không có nguyên nhân là tối cao, hạ đẳng,
hoặc trung bình, thì lúc đó Nó thoát ra khỏi sự sinh nở. Làm sao có kết quả
mà không có nguyên nhân?
77. Sự không sinh nở của trí tuệ, cái trở thành tự do từ sự biểu hiện và mối
liên hệ nhân quả, là có tính tuyệt đối và bất biến không thay đổi. Đối với cái
nhị nguyên [ví dụ như việc nhận thức ý thức và các khách thể của nó] chỉ là
sự khách thể hóa của tinh thần.
78. Nhận thức rõ việc không có mối quan hệ nhân quả như là chân lý cuối
cùng và không phải tìm một lý lẽ nào khác [đối với sự sinh ra], người ta đạt
được trạng thái giải thoát khỏi sự đau khổ, khoái lạc và sợ hãi.
79. Dựa trên sự giải thích về sự phụ thuộc đối với những đối tượng không
thực, trí tuệ theo đuổi những đối tượng như thế, [nhưng nó trở về với trạng
thái trong sạch của nó] khi nó đạt tới sự không bị phụ thuộc, thì lúc đó nhận
thức rõ tính không thật của chúng.
80. Trí tuệ thoát khỏi sự ràng buộc [đối với những đối tượng bên ngoài] và
không bị bối rối (bởi những đối tượng mới) lúc đó nó đạt tới trạng thái bất
di bất dịch. Người thông thái nhận thức được trí tuệ như là Brahman; Nó
không bị phân biệt, không sinh nở và không nhị nguyên.
81. Không có sự sinh nở, không mơ mộng và không ngủ say, thực tại bộc lộ
chính mình bởi chính mình; vì Dharma (Atman) qua bản chất thực sự của
Nó là linh hồn sáng chói.
82. Chúa tể (Atman) trở nên dễ dàng ẩn náu bởi vì sự ràng buộc với chỉ một
đối tượng và được bộc lộ với khó khăn lớn lao.
83. Sự dốt nát, với những trí óc ngây thơ của chúng, thực sự che đậy Atman
bằng sự thừa nhận về Nó như là sự tồn tại, không tồn tại, tồn tại và không
tồn tại và toàn bộ cái không tồn tại, nhận biết được những những đặc tính
này từ những quan niệm về sự biến đổi, sự bất động, sự kết hợp của biến
đổi, bất dịch và sự phủ định hoàn toàn [cái mà chúng liên hệ với Atman].
84. Có 4 học thuyết đề cập đến Atman, nhờ vào sự ràng buộc với cái mà Nó
vẫn luôn ẩn náu [từ quan điểm của con người]. Anh ta, người biết Chúa tể
tối cao là không bao giờ cảm thấy được, qua chúng, anh ta thực sự hiểu biết
tất cả.
85. Còn cái gì khác hơn điều anh ta vẫn ước ao là người đã đạt được trạng
thái của người brahmin một trạng thái của sự hoàn toàn thông suốt mọi sự
và không nhị nguyên, trạng thái không có bắt đầu, ở giữa hay cuối cùng?
86. Sự khiêm tốn (vinaya) của những người brahmin là tự nhiên. Sự bình
tĩnh của họ (s'ama) cũng là tự nhiên. Hơn nữa, quyền lực, sự chỉ huy, kiểm
soát các cơ quan (dama) đến với họ cũng là tự nhiên. Anh ta, người nhận
thức được Brahman, là người đạt được sự bình yên thanh thản.
87. Phái Vedànta thừa nhận trạng thái bình thường lúc thức trong trạng thái
nhị nguyên, bao hàm các đối tượng và tư tưởng trong khi tiếp xúc với các
đối tượng mang lại, điều đó đã được thừa nhận. Trường phái này cũng thừa
nhận trạng thái bình thường tinh khiết [trạng thái mơ], ở đó được trải
nghiệm cái nhị nguyên bao gồm các đối tượng và tư tưởng được sinh ra khi
tiếp xúc với các đối tượng ấy, mặc dù những đối tượng như thế không tồn
tại.
88. người thông thái, khôn ngoan nhận thức một trạng thái khác, trong trạng
thái ấy ở đó không tồn tại các đối tượng mà cũng không tồn tại những tư
tưởng có quan hệ với các đối tượng. Trạng thái này vượt ra khỏi tất cả
những kinh nghiệm có tính thực nghiệm của con người. Họ nói đến 3 thứ là:
tri thức,các đối tượng của tri thức và tri thức tối cao.
89. Hiểu biết tri thức và khả năng hiểu biết gấp 3 lần, cái này sau cái khác,
người hiểu biết được ban cho một trí năng tối cao, đạt được trong chính
cuộc sống này và trạng thái thông suốt mọi sự ở khắp mọi nơi.
90. Người ta sẽ phải có kiến thức về 4 điều, ngay từ sự bắt đầu. 4 điều đó
như sau: những điều phải tránh, mục đích phải nhận thức rõ, những kỹ luật
cần phải rèn luyện, tu dưỡng, trau dồi và những chiều hướng đáp lại trong
kết qủa. trong 4 điều này, không kể mục tiêu phải nhận thức rõ [như Thực
tại tối cao], tất cả chỉ tồn tại như là sản phẩm của trí tưởng tượng.
91. Tất cả Atman (dharmas) phải được nhận thức, với chính bản chất của
chúng, là không có sự bắt đầu và [không bị trói buộc] giống như àkàs'a.
Hoàn toàn không có trạng thái khác nhau trong chúng ở bất cứ mặt nào hay
vào bất cứ lúc nào.
92. Tất cả những jiva với chính bản chất của chúng, chúng được làm sáng tỏ
ngay từ lúc ban đầu. Ở đó không bao giờ còn có thể nghi ngờ gì về bản tính
của chúng nữa. Anh ta hiểu biết được điều này, không tìm kiếm tri thức xa
hơn nữa, chỉ anh ta có khả năng đạt được sự bất tử.
93. Các jiva, từ chính lúc khởi đầu và bằng chính bản chất của mình, là hoàn
toàn bình yên, không được sinh ra và hoàn toàn tự do. Chúng được đặc
trưng hóa bằng những cái có tính chất giống nhau và không phân tách nhau.
Atman không được sinh ra thì luôn luôn được xác định ở những cái có tính
chất giống nhau và sự tinh khiết.
94. Những kẻ thường xuyên sa vào vương quốc của những cái riêng biệt thì
họ không thể nhận thức được tính tinh khiết của Atman. Đầu óc họ hướng
về sự phân biệt và họ cố đi tìm cho được cái riêng biệt của các Atman. Vì
vậy người ta gọi họ là những kẻ có đầu óc hẹp hòi.
95. Chỉ có họ trên trần gian này được ban cho sự khôn ngoan cao cả, họ tin
tưởng chắc chắn về tính chất giống nhau và sự không được sinh ra của
Atman. Người bình thường không hiểu được như vậy.
96. Tri thức, cái là bản chất chính của những jiva không sinh ra, chính Nó
gọi là không được sinh ra và không liên hệ. Tri thức này được tuyên bố là
không bị ràng buộc vì Nó không có liên hệ [với bất cứ đối tượng nào khác].
97. Đối với những kẻ ngu si, họ tin rằng Atman có thể xa rời bản chất chân
thực của Nó ngay trong mức độ tối thiểu nhất. Đặc tính bất liên hệ một cách
vĩnh hằng của Nó đã bị mất. [trong trường hợp đó] Sự tàn phá của cái ác là
không còn nghi ngờ gì nữa.
98. Tất cả các jiva mãi mãi thoát khỏi sự ràng buộc và thanh khiết bởi bản
chất của chúng. Chúng hoàn toàn sáng láng và tự do từ ngay lúc đầu. Tuy
nhiên người thông thái nói về các jiva như là khả năng của sự hiểu biết
[thực tại tối cao].
99. Tri thức tối cao của người thông thái thì hoàn toàn sáng chói, không bao
giờ liên hệ với bất cứ đối tượng nào. Tất cả các jiva cũng như tri thức tối
cao, chúng không bao giờ được liên hệ với các đối tượng. Đây không phải
là quan điểm của phật tổ Buddha.
100. Nhận thức được Tri thức [về thực tại tối cao], cái khó hiểu thấu, sâu
thẳm, uyên nguyên, không sinh ra, cứ vẫn vậy muôn thuở, hoàn toàn sáng
láng và thoát khỏi tính đa tạp, chúng ta cúi chào Nó bằng sự tốt đẹp nhất mà
chúng ta có thể có.
===
Hết Chương 8: VI. Mandukya Upanishad
Chương 9: VII. Brihadàranyaka
Yàjnavalkya và Kahola
1. Tiếp đến, Kahola, con trai của Kushitaka đã hỏi ông ta.
"Yàjnavalkya", Kahola nói, "giải thích cho tôi Brahman cái được nhận thức
trực tiếp và tức thì Bản ngã, cái ở bên trong tất cả".
"Đó là Bản ngã của anh, cái ở bên trong tất cả".
"Bản ngã ở bên trong tất cả là gì, Yàjnavalkya?".
"Đó là cái vượt lên đói khát, đau khổ, lừa dối, tuổi già và cái chết. Có được
sự hiểu biết Linh hồn Bản ngã này, những người bà la môn từ bỏ mong
ước để được những đứa con trai, từ bỏ khát khao để được sự giàu có, từ bỏ
mong ước để được những thế giới và đã hướng dẫn cuộc sống của những
thầy tu hành khất. Điều mong muốn để được những người con trai là điều
mong ước về sự giàu có, và điều mong muốn để được sự giàu có là điều
mong muốn về các thế giới; để cho 2 điều này chỉ là mong ước. Vì vậy một
người bà la môn, sau khi đã từ bỏ đi sự uyên bác, ông ta sẽ thử sống bằng
sức mạnh là cái kết quả của sự thông thái uyên bác. Sau khi ông ta đã bỏ đi
sự uyên bác và sức mạnh ấy, ông ta trở nên trầm tư, và khi ông ta bỏ đi cả
tính hay trầm tư và tính không hay trầm tư, ông ta trở thành người hiểu biết
về Brahman".
"Người hiểu biết về Brahman ăn ở, cư xử như thế nào? Dù ông ta có thể ăn
ở cư xử như thế nào, ông ta thực sự là như vậy. Tất cả mọi cái khác chỉ là
cái bị diệt vong".
Do đó Kahola, con trai của Kushitaka, đã giữ được sự bình an của mình.
Phần thứ 4 chương 4
Cái chết và kiếp sau
1. Yàjnavalkya tiếp tục: Bây giờ, khi linh hồn trở nên yếu đuối và không
còn ý thức, có thể như vậy, thì các cơ quan tụ hợp lại quanh nó. Giữ được
trọn vẹn những phần nhỏ bé của ánh sáng, linh hồn đi đến trái tim. Khi sự
điều khiển mắt của thần trở lại từ tất cả mọi phía, thì người sắp chết mất dần
sự nhận biết màu sắc.
2, Mắt trở thành hợp nhất với thể xác tinh tế; khi đó người ta nói: "anh ta
không nhìn thấy". Mũi trở thành hợp nhất với thể xác tinh tế; khi đó người
ta nói: "anh ta không ngửi thấy". Lưỡi trở thành hợp nhất với thể xác tinh tế;
khi đó người ta nói: "anh ta không nếm được nữa". Cơ quan phát âm trở
thành hợp nhất với thể xác tinh tế; khi đó người ta nói: "anh ta không còn
nói nữa". Tai trở thành hợp nhất với thể xác tinh tế; khi đó người ta nói:
"anh ta không nghe". Tâm trí trở thành hợp nhất với thể xác tinh tế; khi đó
người ta nói: "anh ta không suy nghĩ". Da trở thành hợp nhất với thể xác
tinh tế; khi đó người ta nói: "anh ta không còn xúc giác". Trí năng trở thành
hợp nhất với thể xác tinh tế; khi đó người ta nói: "anh ta không biết".
Sự kết thúc trên của trái tim lóe lên và bằng ánh sáng đó linh hồn đã từ giã
thể xác qua (khe hở), không quan mắt, không qua đầu mà cũng không qua
bất cứ bộ phận nào của thể xác.
Và khi linh hồn ra đi, sinh khí cũng đi theo, khi hơi thở sinh khí ra đi thì tất
cả các cơ quan cũng đi theo.
Khi đó linh hồn được phú cho sự hiểu biết đặc biệt và nó vượt qua thể xác
để đạt tới sự hiểu biết đó.
Tri thức, hành động và kinh nghiệm quá khứ cũng đi theo linh hồn.
3. Giống như con đỉa di chuyển trên chiếc lá cỏ vươn ra hết sức của nó, lợi
dụng sự giúp đỡ của cái khác và nó cuốn mình về phía trước nó, cũng như
vậy, linh hồn, sau khi vứt bỏ thể xác này, nghĩa là sau khi làm cho nó không
còn hiểu biết, nhận giúp đỡ của sự giúp đỡ khác, nó thu hút chính nó cùng
về phía trước nó.
4. Cũng giống như 1 người thợ vàng lấy 1 ít vàng để tạo thành cái khác có
hình thức mới hơn và đẹp hơn, cũng như vậy, linh hồn sau khi vứt bỏ thể
xác này, nghĩa là sau khi làm cho nó không còn ý thức, tạo thành cái khác
1 hình thức mới hơn và đẹp hơn, thích hợp với các vong hồn, hoặc các
Gandharvas[62], hay các vị thần, Viràj, Hiranyagarbha hay những tồn tại
khác.
5. Cái ngã đó thực sự là Brahman; Nó cũng đồng nhất với trí năng, trí tuệ và
hơi thở sinh khí, với đối mắt và đôi tai, với đất, nước, khí và tinh khí àkàs'a,
với lửa và với cái khác lửa, với dục vọng và với cái không có dục vọng, với
sự giận dữ và với sự không giận dữ, với đức tính ngay thẳng và đức tính
không ngay thẳng, với tất cả đó là sự đồng nhất hóa, như là sự hiểu biết
hoàn toàn, với cái này và với cái kia. Tùy theo Nó hành động và tùy theo Nó
ứng xử như thế nào thì Nó trở thành như thế: bằng hành động tốt Nó trở nên
tốt và bằng hành động xấu Nó trở nên xấu. Nó sẽ trở thành tiết hạnh, đạo
đức qua việc làm tiết hạnh, đạo đức.
Tuy nhiên, những người khác lại nói rằng linh hồn chỉ đồng nhất với dục
vọng. Dục vọng của nó như thế nào thì sự mong ước của nó như thế ấy; và
sự mong ước của nó như thế nào thì hành động của nó như thế ấy; hành
động của nó như thế nào thì kết quả nó thu được như thế ấy.
6. Về vấn đề này có vần thơ tiếp sau rằng:
Vì sự ràng buộc, gắn bó mà linh hồn luân hồi cùng với hành động của nó,
nó đạt tới kết quả, tới cái mà thể xác tinh tế hay tinh thần của nó bám víu.
Những kết quả của bất cứ hành động nào nó đã làm trong cuộc sống này sẽ
bị kiệt sức trong thế giới khác, nó sẽ đáp lại từ thế giới đó đến thế giới này
với hành động mới.
Người làm như thế sẽ mơ ước đầu thai, luân hồi. Nhưng đối với người
không làm như vậy, anh ta không mong muốn gì cả anh ta không có dục
vọng, anh ta đã thoát khỏi dục vọng, nhưng ước muốn của anh ta được thỏa
mãn, đối tượng mong ước của anh ta chỉ là linh hồn tối cao các cơ quan
của anh ta không giã từ thể xác của mình[63]. Anh ta hợp nhất trong
Brahman.
7. Về vấn đề này có vần thơ tiếp theo:
Khi tất cả những dục vọng ở trong trái tim của anh ta đã được giải thoát, sẽ
làm cho con người khả tử trở thành bất tử và đạt được Brahman trong chính
thể xác này.
Như xác lột của một con rắn, đã chết và quăng trên một tổ kiến, thân xác
này cũng nằm đúng như thế. Khi đó linh hồn lìa khỏi xác và trở thành Tinh
thần bất tử, Linh hồn tối cao (Pràna), Brahman, Nguồn sống vũ trụ.
Janaka, hoàng đế xứ Videha đã nói: "Ta ban tặng cho ông, ngài đáng kính,
một ngàn con bò cái".
8. Về vấn đề này có những vần thơ sau đây:
Sự tinh tế, con đường cổ xưa[64] chạy dài ra xa đã được ta đi đến; hơn thế
nữa, ta đã có hiểu biết về Nó bởi chính ta. Bằng con đường này người khôn
ngoan, những người hiểu biết về Brahman tiến lên tới thiên cầu (Thiên
đường, sự giải thoát) sau sự suy sụp của thể xác này và đã có được tự do
[ngay trong lúc đang sống].
9. Một vài người nói rằng Nó (con đường) là màu trắng, những người khác
nói Nó như là màu xanh, màu xám, màu xanh lá cây hay màu đỏ. Con
đường này đã được nhận thức bởi người hiểu biết về Brahman và tiến lên
bởi bất cứ ai hiểu biết Brahman, đã thực hiện những việc làm tốt và đồng
nhất với Nguồn sáng tối cao.
10. Sự tối tăm mù quáng nhập vào những người mà họ tôn sùng sự không
hiểu biết; sự tối tăm hơn thế, nhập vào những người mà họ đã hết lòng tận
tụy với sự hiểu biết, có thể là như vậy.
11. Sự ảm đạm quả thực đã bao trùm những thế giới ấy bởi sự tối tăm mù
quáng. Sau khi cái chết đến với họ, những người đó ai là không hiểu biết và
thiếu khôn ngoan.
12. Nếu một người hiểu biết linh hồn như Ta là cái này (như Linh hồn tối
cao), thì dục vọng nào và với mục đích của ai anh ta sẽ đau khổ trong sự
khêu gợi của thể xác?
13. Bất cứ ai đã có sự hiểu biết và hiểu biết tường tận về linh hồn, mà rơi
vào sự hiểm nghèo này và nơi phức tạp (thể xác), sẽ là người sáng tạo của
vũ trụ; bởi vì anh ta là người sáng tạo của tất cả. Tất cả là linh hồn của anh
ta và anh ta, thực vậy là linh hồn của tất cả.
14. Ở trong chính thể xác này, chúng ta đã có được sự hiểu biết Brahman
bằng cách này cách khác; mặt khác chúng ta sẽ vẫn còn có sự ngu dốt và sự
hủy hoại lớn nhất sẽ bắt kịp chúng ta. Những người biết Brahman sẽ trở
thành bất tử, trong khi những người khác phải chịu cảnh đau khổ.
15. Khi một người noi theo sự truyền dạy kiến thức của thầy, lập tức anh ta
nhìn thấy Linh hồn chói lọi, Chúa tể của tất cả cái đã có và sẽ có, anh ta
không mong muốn gì hơn nữa với sự che giấu chính mình từ Nó.
16. Cái ở dưới, cái mà 1 năm với những ngày của Nó trôi đi[65] Cái đó ở
trên Ánh sáng bất tử của tất cả nguồn sáng các vị thần trầm tư vì sự sống
lâu.
17. Cái mà trong đó 5 nhóm của 5 yếu tố và àkàs'a trú ngụ chính là Atman
mà ta cho rằng đó là Brahman bất tử. Hiểu biết Brahman đó, Ta là bất tử.
18. Họ là những người hiểu biết sinh khí (pràna) của sinh khí, Mắt của mắt,
Tai của tai, Trí tuệ của trí tuệ, họ chính là những người hiểu biết Brahman
nguyên thủy, cổ xưa.
19. Chỉ qua trí tuệ Brahman sẽ được nhận thức. Trong Nó không có tính
nhiều vẻ. Anh ta đi từ cái chết đến cái chết, người nhìn thấy trong Nó tính
nhiều vẻ, có thể là như vậy.
20. Không thể biết và không thay đổi, Nó nhất định sẽ biết được chỉ trong
một hình thức. Linh hồn tối cao thoát khỏi sự nhơ bẩn, ô uế, vượt qua
àkàs'a, không sản sinh, vô tận và không thay đổi.
21. Người tìm kiếm thông minh về Brahman, chỉ hướng học tập về linh hồn,
sẽ rèn luyện sự thông thái. Đừng để anh ta suy nghĩ về quá nhiều từ, bởi vì
điều đó làm cơ quan nói kiệt sức.
22. Cái vĩ đại đó được đồng nhất hóa với trí năng (vijnànamaya khả năng
hiểu biết) là Linh hồn không sinh ra và là cái ở trong chính giữa các cơ quan
nằm trong àkàs'a ở trong trái tim. Nó là người điều khiển tất cả, là chúa tể
của tất cả, thống trị tất cả. Nó không trở thành vĩ đại hơn qua những hành
động tốt, hay không trở thành nhỏ bé hơn qua những hành động xấu. Nó là
chúa tể của tất cả, là kẻ thống trị của tất cả vạn vật, là người che chở bảo vệ
của vạn vật. Nó là rào chắn dùng làm ranh giới để giữ cho các thế giới khác
nhau tách biệt ra. Những người Brahman tìm kiếm sự hiểu biết Nó qua
nghiên cứu các kinh Veda, qua các lễ hiến tế, qua các quà dâng tặng và qua
sự tu luyện khổ hạnh, cái không dẫn tới sự hủy diệt. Chỉ có sự hiểu biết Nó,
người ta mới trở thành một nhà hiền triết (muni). Chỉ có mong ước để được
thế giới này (tức Linh hồn tối cao), những thầy tu mới từ bỏ những ngôi nhà
của họ.
23. Những người hiểu biết về Brahman cổ xưa, đã nói, không mong ước
được con cái: "Chúng ta sẽ làm gì với con cái, khi chúng ta, những người đã
đạt được Linh hồn tối cao này, Thế giới này?". Họ đã từ bỏ mong muốn của
mình về những đứa con trai, về sự giàu có và về những thế giới này và đã
hướng dẫn cuộc sống của những nhà tu hành khất. Điều thèm muốn về
những đứa con trai là điều thèm muốn về sự giàu có và điều thèm muốn về
sự giàu có là sự thèm muốn về những thế giới; cả 2 mong ước chỉ là mong
ước.
Linh hồn tối cao này là Cái đó, cái đã được diễn tả bằng không là cái này,
không là cái này. Nó rất nhỏ bé tinh tế, bởi vì Nó không thể lĩnh hội
được;không thể suy tàn, bởi vì Nó không bao giờ suy tàn; Nó không bị trói
buộc, bởi vì Nó không bao giờ trói buộc được; Nó không bị xiềng xích, bởi
vì Nó không bao giờ cảm thấy đau khổ và không bao giờ bị tổn hại.
Với ông ta [người biết điều này] không vượt qua 2 ý kiến này: Vì cái này ta
đã làm điều ác và vì cái này ta đã làm điều thiện. ông ta chiến thắng cả 2.
Những việc làm đã làm hoặc không làm không khiến ông ta đau buồn.
23. Điều này đã được bày tỏ bằng vần thơ Rig tiếp theo:
Đây là sự vinh quang vĩnh viễn của Brahman; Nó không tăng lên mà cũng
không giảm đi qua việc làm. Vì vậy, người ta nhất định sẽ biết được bản
chất của Cái đó. Hiểu biết Nó, người ta không bị tổn hại bởi hành động ác.
Vì thế, anh ta, người hiểu biết Nó như vậy, sẽ trở thành làm chủ bản thân
mình, trầm tĩnh, rút vào trong chính mình, kiên nhẫn và tự chủ; anh ta nhìn
thấy Linh hồn trong chính linh hồn của mình; anh ta nhìn thấy tất cả như
Linh hồn tối cao. Tội ác không khuất phục được anh ta mà anh ta chiến
thắng tất cả tội ác và cái xấu. Tội ác không làm đau buồn anh ta, nhưng anh
ta tiêu diệt mọi điều ác. Anh ta trở thành vô tội, trong sạch, thoát khỏi sự
nghi hoặc và là một Brahman chân chính. Đây là thế giới của Brahman, ôi
hoàng đế và ngài đã đạt được Nó. Yàjnavalkya đã nói như vậy.
Janaka đáp: "Ngài đáng kính, ta ban tặng cho ông đế chế Videha và chính ta,
với nó, cũng phục vụ ông".
24. Cái vĩ đại đó là người ăn thức ăn và người ban tặng sự giàu có là Linh
hồn không sinh ra. Ông ta biết được điều này, ông ta giành được sự giàu có.
25. Cái vĩ đại đó là cái không thể tàn lụi, bất diệt, không thể chết được,
không sợ hãi; Nó là Brahman, Brahman thực sự là cái không hề sợ hãi. Anh
ta biết được Nó, như thế anh ta trở thành Brahman không hề sợ hãi.
===
Hết Chương 9: VII. Brihadàranyaka Upanishad
Chương 10: VIII. Chhàndogya Upanishad
Phần thứ 6 Chương 1
Tính nhất nguyên của Bản ngã
1. Uddalaka nói với con mình là Svetaketu rằng: "Này Svetaketu, con hãy
chuẩn bị để trở thành một môn sinh Brahman. Con phải biết tìm một người
thầy xứng đáng để làm đệ tử. Vì cha sắp phải đi xa không thể dạy con
được".
Thế rồi,
2. Svetaketu đến nhà một ông thầy khi cậu mới 12 tuổi và cậu đã học thánh
kinh Veda, đến khi cậu trở về nhà cha mình, với vẻ nghiêm trang, tự xem
mình là người hiểu biết và tỏ ra rất kiêu ngạo.
3. Cha cậu bảo: " Cha nhận thấy con tỏ ra kiêu căng, tự đắc, tự mãn lắm đấy.
Vậy có bao giờ con đã được chỉ dạy rằng: "Người ta nghe tất cả những gì
không thể nghe được, người ta nhận thức tất cả những gì không thể nhận
thức được, người ta biết tất cả những gì không thể biết được".
Svetaketu hỏi: "Lời chỉ dạy ấy nghĩa là gì, thưa cha?"
46. Cha cậu đáp lại:
"Này con, cũng giống như chỉ bằng đất sét mà nhiều vật dụng được tạo ra
như chúng ta đã biết, mỗi một hình dạng có một tên khác nhau, tên của mỗi
cái do người ta đặt cho nó, trong khi thực chất chúng đều là đất sét.
Cũng vậy, nhờ một thanh vàng mà nhiều đồ trang sức được tạo ra như
chúng ta đã biết, mỗi đồ vật ấy có hình thức khác nhau, mang một tên khác
nhau do người ta đặt cho, nhưng thực chất tất cả chúng đều là vàng.
Cũng vậy, người ta chế ra nhiều thứ vật dụng từ sắt như dao, kéo... mỗi cái
một hình dạng khác nhau và được đặt tên khác nhau. Nhưng thực chất
chúng chỉ là sắt. Vậy, nhờ hiểu biết nguyên nhân người ta có thể nhận biết
được bản chất của kết quả, đó là lời chỉ dạy đó con".
Svetaketu thưa: "Thưa cha, chắc chắn người thầy đáng kính của con đã
không biết được điều đó. Vì nếu biết được, tại sao thầy ấy lại không dạy cho
con. Vậy xin cha hãy nói thêm cho con về điều ấy, thưa cha". Người cha
đáp: "Được con yêu".
Phần thứ 6 Chương 12
Sinh ra cái thô từ cái tinh
1. Người cha bảo:
"Mang lại đây cho cha một quả vả".
Người con mang đến và thưa:
"Thưa cha đây à".
"Hãy bổ ra", người cha bảo.
Người con bổ ra và nói:
"Thưa cha, nó đã được bổ ra rồi đây".
Người cha bảo: "Hãy bổ những hạt ấy ra".
Người con bổ ra một hạt và thưa: "Thưa cha, con đã bổ nó ra".
Người cha hỏi: "Con đã thấy gì?".
Người con thưa: "Thưa cha, chẳng thấy gì".
2. Người cha nói: "Này con, đó là cái bản chất tinh túy mà con không nhận
thấy được, từ bản chất rất tinh túy ấy mà cây vả to lớn mọc lên".
3. Từ đấy, cha muốn chỉ cho con biết rằng trong lòng tất cả mọi sự vật tồn
tại đều có linh hồn, Bản ngã chứa trong ấy. Mà linh hồn ấy chính là Đấng
chân lý, là linh hồn của toàn vũ trụ. Cái đó chính là con đấy, Svetaketu ạ".
Svetaketu thưa: "Xin cha vui lòng giải thích thêm nữa cho con".
Người cha đáp: "Được, con yêu".
Phần thứ 6 Chương 13
Điều không thể thấy (vô hình) của một sự vật tồn tại
Svetaketu thắc mắc: "Tại sao Đấng tồn tại tuyệt đối là nguồn gốc của mọi sự
tồn tại, nhưng tại sao người ta không nhận thấy được?".
Người cha tiếp tục giảng giải.
Ông nói tiếp với con: "Hãy bỏ cục muối này vào trong nước và sáng mai
con hãy đến đây gặp cha".
Người con đã làm như cha nói.
Người cha nói với con rằng: "Này con trai của ta, hãy mang cục muối mà
con đã bỏ vào trong nước tối hôm qua lại đây cho cha".
Tìm kiếm nó, nhưng người con không thấy nó đâu cả, vì nó đã tan ra hoàn
toàn vào trong nước rồi.
2. Người cha nói: "Này con trai của ta, hãy nếm thử một chút nước trên mặt
xem nó như thế nào?".
Người con nếm thử và nói:
"Thưa cha, nước mặn".
Người cha bảo: "Nếm thử một chút giữa bình xem nó như thế nào?".
Người con nếm và thưa:
"Thưa cha, nước mặn".
Người cha bảo: "Nếm thử một chút nước dưới đáy bình xem nó như thế
nào?".
Người con nếm và thưa:
"Thưa cha, Nó cũng mặn".
Người cha bảo: "Hãy đổ đi, và tới đây".
Người con đã đổ đi và thưa với cha: "Thưa cha, thực sự cục muối ấy đã tồn
tại trong ấy suốt thời gian".
Người cha bảo: "Ở đây cũng vậy con à, trong thân thể này, con không nhận
thấy Sat (Đấng tồn tại Brahman), nhưng thực ra Đấng ấy đã tồn tại trong
thân thể".
3. Cái đó là bản chất tinh túy nhất. Nhờ nó, mà mọi vật tồn tại đều có trong
mình Bản ngã linh hồn. Đó là Đấng chân lý, đó là linh hồn Bản ngã vũ
trụ. Cái đó cũng chính là con đấy, Svetaketu ạ".
Người con xin cha tiếp tục nói thêm
Phần thứ 8 chương 1
Brahman trong trái tim
1. Trong con người ta có một chỗ ở của Brahman, chỗ ấy nằm trong lòng
trái tim, trong lòng trái tim có một khoảng trống nhỏ. Cái mà chúng ta phải
tìm kiếm cho bằng được và đó cũng là điều mà mọi người ước ao được tìm
hiểu.
23. Có người sẽ đặt vấn đề rằng:
"Trong con người đã hạn hẹp, huống gì trong trái tim lại càng bị giới hạn,
vậy thì có cái gì ở nơi khoảng không (àkàsa) nhỏ bé đó mà phải kiếm tìm,
có cái gì nơi đó mà phải ước ao am hiểu?"
Người thầy trả lời: "Quả thực khoảng không (àkàsa) ấy là nơi hội tụ của trời
và đất, của lửa và không khí, của mặt trời và mặt trăng, của những tia chớp
và những vì sao, tất cả mọi tạo vật trên vũ trụ này đều tồn tại trong ấy".
4. Có người lại đặt vấn đề: "Tất cả mọi sự tồn tại trong một chút khoảng
không (àkàsa) ấy, vậy khi tuổi già đến, thân xác này bị thiêu hủy, vậy mọi
thứ tồn tại trong con người ấy cũng thiêu hủy luôn hay sao?".
5. Người thầy trả lời: "Thân xác con người già đi nhưng Brahman không già
đi, thân xác con người già đi nhưng Brahman trong ấy không chết được.
Brahman trong trái tim một người chính là linh hồn của con người, thoát
khỏi sự chi phối của không gian, thời gian, thoát khỏi sự chết không đói
khát gì".
===
Hết Chương 10: VIII. Chhàndogya Upanishad
Chương 11: IX. Adhyatma Upanishad
Trong khoang tim nằm bên trong thân thể có những kiếp sống vĩnh hằng
không sinh.
*
Đất là thân thể của Nó, Nó ở trong đất nhưng đất không hề biết về Nó.
Nước là thân thể của Nó, Nó ở trong nước nhưng nước không hề biết về Nó.
Ánh sáng là thân thể của Nó, Nó ở trong ánh sáng nhưng ánh sáng không
biết về Nó.
Không khí là thân thể của Nó, Nó ở trong không khí nhưng không khí
không biết về Nó.
Bầu trời là thân thể của Nó, Nó ở trong bầu trời nhưng bầu trời không biết
về Nó.
Tâm trí là thân thể của Nó, Nó ở trong tâm trí nhưng tâm trí không biết về
Nó.
Trí tuệ là thân thể của Nó, Nó ở trong trí tuệ nhưng trí tuệ không biết về Nó.
Bản ngã là thân thể của Nó, Nó ở trong Bản ngã nhưng Bản ngã O biết về
Nó.
Tâm trí lập luận là thân thể của Nó, Nó ở trong tâm trí lập luận nhưng tâm
trí lập luận không biết về Nó.
Cái không biểu lộ là thân thể của Nó, Nó ở trong cái biểu lộ nhưng cái
không biểu lộ không biết về Nó.
Cái không hủy diệt được là thân thể của Nó, Nó ở trong cái không hủy diệt
được nhưng cái không hủy diệt được không biết về Nó.
Cái chết là thân thể của Nó, Nó ở trong cái chết nhưng cái chết không biết
về Nó.
*
Nó là cái Ta bên trong nhất của tất cả những yếu tố này, mọi tội lỗi của Nó
đều bị tiêu hủy, và Nó là thiên thần thiêng liêng Narayana cái nâng đỡ cho
mọi người.
*
Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất phi linh hồn, và cảm giác về cái tôi
về chúng là adhyas ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên loại bỏ ảo tưởng này qua sự trung thành với
Brahman thực tại tuyệt đối.
*
Biết bản thân mình là sakshi partyagatma, linh hồn chứng kiến bên trong
của trí tuệ người ta và tất cả những khuynh hướng của Nó, và thu được
khuynh hướng rằng "Cái đó là tôi", từ bỏ đòi hỏi "của tôi" với mọi vật.
Từ bỏ theo đuôi lok, xã hội, anh ta từ bỏ theo đuôi cả thân thể. Từ bỏ theo
đuôi kinh sách, anh ta từ bỏ ảo tưởng cả về linh hồn
Được bắt rễ vào linh hồn mình, và thông qua các kỹ thuật, thông qua việc
lắng nghe, và thông qua tự chứng nghiệm, nhà yoga nhận ra bản thân mình
là linh hồn của tất cả và tâm hồn của anh ta bị triệt tiêu.
Không trao cơ hội cho việc ngủ, cho chuyện trò của xã hội, cho âm thanh,
động chạm, hình dạng, vị và các mùi các đối tượng của giác quan và
quên đi linh hồn, hãy suy tư về linh hồn bên trong.
*
Thân thể này được làm từ chất bài tiết của mẹ và cha và đầy những chất bài
tiết và thịt. Do đó bằng cách đi khỏi Nó như một từ Chandra, sudra, và trở
thành Brahman, thực tại tuyệt đối, là được hoàn thành. Hỡi người tìm kiếm
chân lý! Bằng cách biết cái Một của linh hồn và linh hồn tối cao, giống như
cái Một của ghatakash, bầu trời bên trong cái bình, và mahakash, bầu trời
bên ngoài cái bình, sự không phân chia bao giờ cũng an bình.
Việc trở thành cái hỗ trợ tự tỏa sáng, tự tạo của tất cả linh hồn và linh hồn
vĩnh cửu, Brahman thực tại tuyệt đối, là loại bỏ cảm giác về thân thể bạn và
cả thân vũ trụ, dường như đấy chỉ là cái hỗ trợ chất bài tiết. Làm cho cảm
giác Bản ngã, mà đã kiểm soát thân thể, trở thành cái ta ý thức phúc lạc, từ
bỏ thân thể thô kệch và thành linh hồn cô độc bất tử của bạn.
Hỡi con người hồn nhiên! Hãy như 1 thành phố có thể nhìn thấy được qua
phản xạ trong gương. Ta là Brahman đó, thực tại tuyệt đối, trong người mà
việc phản xạ thế giới này thành thấy được biết được điều này, hỡi cái 1
hồn nhiên, là được hoàn thành.
*
Chỉ người tự do khỏi nắm giữ vào Bản ngã mới đạt tới tự tính. Do đó, hãy
trở nên trong sạch hoàn toàn tựa như trăng tròn, người ta trở nên cực lạc và
tự tỏa sáng.
Dừng cảm giác làm thì mọi lo âu cũng dừng lại. Dừng lo âu thì mọi ham
muốn cũng dừng. Dừng các ham muốn là giải phóng và điều này được gọi
là jivanamukti, giải phóng trong khi sống. Thấy tất cả, mọi nơi, theo mọi
hướng, như Brahman, thực tại tuyệt đối trên sự chín muồi của cảm giác
thiện chí như thế mà ham muốn dừng lại. Chớ bao giờ lãng quên lòng trung
thành của bạn với Brahman, bởi vì đó là cái chết duy nhất, những người đã
bắt rễ vào Brahman nói thế.
Dù có bị gạt sang bên thì tảo vẫn chẳng mất thời gian để phủ kín lại mặt
nước. Tương tự, nếu một người khôn ngoan đi chệch lòng trung thành với
Brahman dù chỉ một thoáng chốc thì ảo tưởng sẽ bao phủ anh ta.
*
Người đã đạt tới cái Một với Brahman, Thực tại tuyệt đối, trong khi còn
sống, thì sẽ duy trì được điều đó sau khi rời khỏi thân xác. Do đó, hỡi con
người trong trắng! Hãy tỉnh thức để tránh tất cả những lựa chọn nhị nguyên.
Khi người ta thấy linh hồn nhất nguyên qua giác ngộ nirvikalpa sự thức
tỉnh không chọn lựa đó là khoảnh khắc cái nút vô minh trong tim tan biến
hoàn toàn.
Củng cố cái tôi, loại bỏ cái ngã, vân vân, vẫn luôn hiện hữu ung dung tự tại
cho họ, giống như ấm nước và quần áo, vân vân. Mọi danh hiệu từ brama,
Đấng sáng tạo, tới tảng đá đều là sai. Do đó, chỉ bắt rễ trong linh hồn bạn
mới thấy linh hồn mình ở mọi nơi.
Bản thân tôi là Brahman Đấng sáng tạo; bản thân tôi là Vishnu Đấng hàm
chứa; bản thân tôi là Shiva Đấng hủy diệt; bản thân tôi là Indra thủ lĩnh
của tất cả các thần; bản thân tôi là vũ trụ này, bản thân tôi là tất cả. Không
có gì khác hơn bản thân tôi.
*
Sự lừa dối trong linh hồn người ta là 1 hiện tượng bị áp đặt. bằng cách loại
bỏ Nó bản thân người thành Brahman, hoàn hảo, bất nhị và phi hành động.
Thế giới, cái dường như là 1 điều khác đi đối với linh hồn, gần như không
đúng nữa. Đâu là sự phân chia thành thực thể phi hình dạng và phi tổ chức,
thanh tịnh? Linh hồn tâm thức là tự do với các hành động của nhà tiên tri,
việc thấy và cái thấy, vân vân. Nó là miễn nhiễm và tràn đầy tựa đại dương
vào lúc đại hồng thủy.
Ngay cả bóng tối cũng tan biến trong ánh sáng, nguyên nhân của ảo tưởng
tan biến trong thực tại tuyệt đối vô song vốn không có tổ chức cho nên sự
phân chia trong Nó là ở đâu?
Thực tại tối cao là một điều kỳ diệu: làm sao có thể có sự phân chia trong đó
được? Trạng thái sushupti ngủ say, không mơ là phúc lạc; ai thấy được sự
phân chia trong đó?
*
Gốc rễ của sự phân chia này là tâm trí. Nếu có vô tâm thì không có phân
chia. Do đó hãy tập trung tâm thức bạn vào tâm thức vũ trụ cái vốn là lãnh
thổ của bạn.
Biết rằng bạn là linh hồn phúc lạc hoàn toàn, bao giờ cũng vui mừng trong
phúc lạc này, bên trong và bên ngoài chính linh hồn bạn.
Quà của vô tư là hiểu biết, quà của hiểu biết là thư thái, và sự an bình hạn
xuống từ việc chứng nghiệm cái từ phúc lạc chính là quả của thư thái.
Nếu từng điều đã nói trên không xảy ra liên tiếp thì hãy hiểu rằng điều trước
đó đã không cho quả. Việc thiếu vắng đối tượng cảm giác là trong chính bản
thân sự mãn nguyện tối cao và niềm phúc lạc vô song.
*
Người mang thuộc tính là hiện thân của ảo vọng, ảo tưởng, người là nguồn
gốc của vũ trụ, người có đặc trưng toàn thức, vân vân, và là hiện thân của
gián tiếp, vô số và chân lý, vân vân, đều được biết bởi từ Tat "Cái đó".
Người dường như là ủng hộ cho cái "tôi" như một kinh nghiệm cũng như là
một từ và người được chứng nghiệm như tách biệt khỏi ý thức, được gọi là
tvam "ngươi".
Có 2 thuộc tính: ảo vọng, ảo tưởng, cho linh hồn vũ trụ, cho linh hồn hiện
thân. Khi bỏ 2 Cái đó, có thấy được chính là Param Brahman phúc lạc, hoàn
toàn đúng đắn, ý thức Thực tại tối cao tối hậu.
*
Vậy, qua các phát biểu như Tattyamasi, Cái đó là bạn, theo đuổi các ý nghĩ
như tính mở cửa jiva, linh hồn cụ thể, và Brahman, là shravana, lắng nghe.
Và theo đuổi hợp lý ý nghĩa của bất kì cái gì đã được nghe chính là manan,
sự suy tư.
Việc thiết lập tâm trí bạn ngay trong ý nghĩa không thể nghi ngờ là đạt tới
được qua việc lắng nghe và suy tư này, việc làm hòa hợp với Nó chính là
nididhyassan, hấp thu.
Việc loại bỏ người thiền và việc thiền tương ứng, khi trầm ngâm, mục tiêu,
vẫn còn là mục đích duy nhất và tâm trí trở thành giống như ngọn lửa đèn
trong nơi không gió điều này được gọi là Samadhi, giác ngộ.
Trong giác ngộ, các đối tượng của chứng nghiệm không tách biệt với linh
hồn, do đó chúng không được chứng nghiệm. nhưng chứng nghiệm vinh
quang này của người tìm kiếm, người đã tới giác ngộ, được hàm ý thông
qua việc hồi tưởng tâm trí..
Trong thế giới vô thủy, hàng hàng triệu, hàng triệu nghiệp, dấu ấn hành
động đã được tích lũy. Tất cả chúng đều bị giác ngộ này phá hủy và pháp
thanh tịnh, bản tính tự nhiên trưởng thành.
Những người biết về yoga gọi Nó là dharmamegha đám mây mưa pháp
giác ngộ, bởi vì Nó trút xuống dòng suối cam lồ pháp, bản tính tự nhiên, tựa
như đám mây mưa rào.
Trong giác ngộ này, mạng lưới ham muốn tan biến hoàn toàn và những tầng
dầy nghiệp tích tụ, dù đức hạnh hay tội lỗi, đều bị nhổ bật mọi gốc rễ tại
chính ngọn nguồn của chúng.
Ban đầu phát triển vô hạn này tattvamasi, Cái đó là bạn là đúng, chỉ được
hiểu một cách gián tiếp, rồi tri thức trực tiếp, tựa như quả myrobalan trên
lòng bàn tay được sinh ra.
*
Khi không còn ham muốn về mọi vật đáng được tận hưởng, thì hãy biết điều
này là những điều tối cao trong vô tư. Khi không còn cái tôi nảy sinh thì hãy
biết điều này như điều này như điều tối cao trong hiểu biết khi ham muốn
tan biến không nảy sinh lại nữa thì đây là điều tối cao trong thư thái, và một
sthitpragya, người tìm kiếm, vững vàng trong, vẫn còn mãi trong phúc lạc.
Anh ta, người bạn thân đã bị cuốn hút vào trong đại ngã, thực tại tối hậu,
vẫn còn phi ham muốn và phi hành động. khi được thanh lọc bởi cái Một
với đại ngã và được đắm chìm trong sự mê ly cái Một, khi các hành động
của tâm trí là phi chọn lựa và chỉ còn như tâm thức, thì điều đó được gọi là
pragya, minh triết, anh ta, người bao giờ cũng có một pragya như vậy, được
gọi là jivanamukta, người giải thoát khi đang sống.
Một người không còn cái tôi cho thân xác và giác quan mình, và không còn
cái của tôi về các vật khác là một jivanamukta, người đã giải thoát khi đang
sống.
Khi không còn ham muốn về mọi vật đáng được tận hưởng thì hãy biết điều
này như điều tối cao trong vô tư. Khi không còn cái tôi nảy sinh thì hãy biết
điều này như điều tối cao trong hiểu biết.
*
Người chưa bao giờ qua trí tuệ biết tới bất kỳ sự khác biệt giữa jiva, linh
hồn hiện thân, và đại ngã hay giữa đại ngã và bản tính, Đấng sáng tạo được
gọi là jivanamukta, người được giải thoát khi sống. Được tôn kính bởi điều
tốt hay bị xúc phạm bởi điều ác, người vẫn giữ được điềm đạm được gọi là
jivanamukta.
Với người đã biết đến tinh hoa Đại ngã thì thế giới này không còn như trước
nữa. Nếu sự việc không như vậy thì anh ta còn chưa biết trạng thái của con
người Đại ngã và vẫn còn là một người hướng ngoại.
Chừng nào người ta vẫn còn kinh nghiệm hạnh phúc bình thường thì điều ấy
được gọi là prarabdha, dấu ấn hành động quá khứ được tích lũy, bởi vì việc
nảy sinh mọi kết quả đều từ hành động trong quá khứ. Không có quả ở bất
kỳ đâu không có hành động. Giống như hoạt động mơ dừng lại khi tỉnh
thức, tương tự thế hành động quá khứ được tích lũy qua hàng tỉ niên kỉ tan
biến tức khắc khi người ta biết "Ta là đại ngã"
*
Hiểu biết chính mình không gắn bó và vô tư như bầu trời, người yoga không
bị gắn bó chút nào sau đó vào mọi hành động tương lai. Cũng tựa như
không trung hiện hữu trong một vò rượu không bị ảnh hưởng bởi mùi rượu,
linh hồn vẫn còn không bị tác động bởi mọi điều xảy ra mặc dù hiện hữu
trong tất cả họ.
Giống như mũi tên bắn đi sẽ không dừng trước khi xuyên vào mục tiêu,
hành động được thực hiện trước khi xảy ra giác ngộ sẽ không dừng cho quả
sau khi giác ngộ đã xảy ra. Mũi tên bắn đi nhắm vào 1 con vật là hổ sẽ
không dừng lại giữa chừng nếu sau đó hiểu biết bừng lên rằng con vật đó là
bò. Mũi tên sẽ đâm trúng mục tiêu với toàn bộ sức mạnh của nó. Tương tự
vậy, hành động đã thực hiện sẽ đưa tới quả cho dù sau khi giác ngộ đã xảy
ra.
Người đã hiểu rằng anh ta bất tử và còn trẻ mãi thì vẫn còn là một với linh
hồn và chẳng có quan hệ gì với quả của hành động quá khứ của mình.
*
Nghiệp, hành động quá khứ, mang tới quả chỉ khi chúng ta có cảm giác về
cái của tôi đối với thân xác mình. Đừng bao giờ ham muốn có cảm giác về
cái của tôi đối với thân xác. Vậy, bằng cách từ bỏ cảm giác về cái của tôi
đối với thân xác người ta đoạn quả của nghiệp quá khứ.
Sự lừa dối này về việc thân xác là mình chính là nguyên nhân tạo ra trong
trí tưởng tượng ý tưởng về hành động quá khứ. Nhưng làm sao một điều nào
đó có thể đứng lại bị lợi dụng hay bị coi là sự lừa dối?
Một vật có thể sinh ra từ đâu mà đầu tiên là không thực? Cái thực không
sinh ra làm sao có thể bị diệt? Làm sao một vật không thật lại có thể có
hành động quá khứ?
Cái của tôi đối với thân xác là kết quả của sự vô minh của chúng ta và nó bị
phá hủy hoàn toàn bởi giác ngộ. Vậy thì làm sao thân xác vẫn còn lại?
Chính để thỏa mãn cho hoài nghi này của vô minh mà kinh sách đã quy sự
liên tục của thân xác là do hành động quá khứ.
*
Không phải giải thích cho người hiểu biết nhưng để thỏa mãn cho người vô
hiểu biết mà kinh sách nói rằng "thân xác vân vân là đúng", và rằng có
nghiệp tích lũy, có hành động quá khứ.
Thực tại chẳng có gì khác tồn tại ngoài cái Một và Đại ngã bất nhị, cái vốn
hoàn hảo, vô thủy vô chung, mênh mông, không đổi, nơi chân lý, nơi tâm
thức, nơi phúc lạc, vĩnh viễn, bất khả diệt, toàn diện, đều khắp, toàn thể, vô
hạn, tiến theo mọi hướng, không thể bị mất hay tìm được, phi hỗ trợ, độc
lập, trống rỗng mọi thuộc tính, phi hành động, vi tế, phi chọn lựa, không tì
vết, mơ hồ, bên ngoài tâm trí và lời nói, thực sự phong phú, hiển nhiên,
thuần khiết, có ý thức và không giống mọi thứ ta biết.
Vậy, việc hiểu biết qua chứng nghiệm của riêng bạn rằng linh hồn là không
thể phân chia được; là mãn nguyện và đựng đầy phúc lạc trong linh hồn phi
thay đổi.
*
Lắng nghe những giáo huấn này từ thầy, môn đệ trở nên giác ngộ và bắt đầu
nói: Tôi đã thấy thế giới hệt như bây giờ, nó đã đi đâu rồi? Ai đã đem nó đi
mất? Nó đã tan biến vào cái gì? Thật là một điều rất đáng ngạc nhiên! Nó
không tồn tại nữa sao? Trong đại dương Brahman này đầy những giọt cam
lồ của phúc lạc vô tận, tôi phải từ bỏ cái gì và phải lấy cái gì bây giờ đây?
Đâu là cái khác còn đâu là điều phi thường? Tôi chẳng thấy cái gì ở đây cả,
tôi chẳng nghe thấy gì cả và tôi cũng chẳng biết gì cả bởi vì tôi bao giờ cũng
trong linh hồn phúc lạc và bản thân tôi là bản tính của tôi. Tôi phi gắn bó,
tôi phi thân xác, phi giới tính, tôi là chính thượng đế; tôi tuyệt đối tĩnh lặng,
tôi là vô hạn, tôi là toàn bộ và cổ đại nhất. Tôi không là tác nhân, tôi không
là người đau khổ, tôi không thay đổi và không thể kiệt quệ, tôi là nơi tri
thức thuần khiết, tôi đơn độc và tôi là thiên thần vĩnh cửu.
Tri thức này do thầy trao cho Atpantaram, Atpantaram trao Nó cho Brahma,
Brahma trao Nó cho Ghorangiras, Ghorangiras trao Nó cho Raikva, Raikva
trao Nó cho Rama và Rama trao Nó cho mọi sinh linh. Đây là thông điệp
của niết bàn và đây là giáo huấn và môn phái của Veda.
Do vậy chấm hết Upanishad này.
===
Hết Chương 11: IX. Adhyatma Upanishad
Chương 12: X. Sarvasat Upanishad
Aum. Cầu cho điều thiêng liêng bảo vệ cả hai chúng ta; Cầu cho điều đó
chăm sóc cả hai chúng ta... Cùng nhau chúng ta có thể cố gắng. Sáng lạn là
việc biết của chúng ta. Cầu cho chúng ta không ghen tị. Aum, an bình, an
bình, an bình
Katham bandhah tù túng là gì? Katham mokshah giải thoát là gì? Vidya,
việc biết thật, là gì và avidya, việc biết giả là gì? Thức, mơ, ngủ và turiya
cái thứ tư bốn trạng thái này là gì? Năm thể này là gì? annamay, được tạo
nên từ thức ăn; pranamay, được tạo nên từ sinh lực; manomay, được tạo nên
từ năng lượng tâm lí; vigyanamay, được tạo nên từ nhận biết; anandamay,
được tạo nên từ phúc lạc. Người làm là gì? Linh hồn hiện thân này là gì?
Năm loại này là gì? Ai là người biết? Ai là nhân chứng? Ai là người ở chỗ
sâu nhất? Ai là người biết về tất cả các ý nghĩ và cảm giác? Jeevatma, linh
hồn cá nhân, là gì, và paramatma, linh hồn vũ trụ là gì? Maya, ảo tưởng là
gì?
Linh hồn là cả hai: vũ trụ và cá nhân. Qua việc đồng nhất với thân thể, vốn
là của cái ta mà không phải là linh hồn, linh hồn trở nên bị sở hữu bằng cảm
giác về bản ngã quanh thân thể. Cảm giác về bản ngã này là sự tù túng của
cá nhân, linh hồn được hiện thân. Khi cảm giác này về bản ngã dừng lại, thì
nó được gọi là giải thoát. Cái cho sinh thành ra cảm giác về bản ngã này
được gọi là avidya, việc biết giả, còn cái dẫn tới việc dừng của cảm giác bản
ngã này được goi là vidya, việc biết thật.
Trạng thái linh hồn có thể cảm nhận được những vật thô, như thính giác và
xúc giác, được gọi là jagrat, trạng thái thức của linh hồn. Những vật thô
được cảm nhận qua mười bốn công cụ tâm trí, trí tuệ, tâm trí tích luỹ, bản
ngã và mười giác quan (năm giác quan của cảm nhận và năm tổ chức giác
quan của hành động) được mặt trời và các thần khác hỗ trợ. Khi trong
thiếu vắng của các vật thô, như thính giác và xúc giác, và do những ham
muốn không được thoả mãn và kéo dài của trạng thái thức, qua mười bốn
công cụ linh hồn cảm nhận các vật thô đang có đó nhưng lại tạo ra những
ham muốn này trạng thái này được gọi là swapna, trạng thái mơ của linh
hồn.
Khi có bất hoạt và nghỉ ngơi của mười bốn công cụ thì có thiếu cảm nhận,
và các vật thô, như thính giác và xúc giác, không được kinh nghiệm. Trạng
thái này được gọi là sushupti, trạng thái ngủ của linh hồn. Tâm thức chứng
kiến một cách vĩnh hằng biết tới sự hiện diện hay vắng mặt của ba trạng
thái, và bản thân Nó vượt ra ngoài sự hiện diện hay vắng mặt, là turiya. Đây
là trạng thái thứ tư.
Việc lắp ráp các tế bào do thức ăn tạo ra là thể vật lí. Khi mười bốn gió khác
nhau, như gió prana, hoạt động trong thể vật lí, chúng tạo ra thể năng lượng.
Khi linh hồn, hợp tác với hai thể này, và qua trung gian của mười bốn công
cụ, quan niệm các sự vật như lời, thì nó được gọi là thể trí. Khi linh hồn,
hợp tác với ba thể này, trở thành ý thức tới mọi cảm nhận, thì Nó được gọi
là thể nhận biết. Khi linh h ồn, hợp tác với bốn thể này, vẫn còn trong sự
hồn nhiên về nguyên nhân của nó, giống như hạt mầm của cây tre, thì nó
được gọi là thể phúc lạc.
Tu ỳ theo khuynh hướng của người ta về vui thích hay đau đớn, khi người ta
tập trung vào hài lòng thì đó là tâm trí mang tính sướng, còn khi người ta
tập trung vào không hài lòng thì đó là tâm trí mang tính khổ. Người làm là
cái nảy sinh từ các hành động của linh hồn được hiện thân trong nỗ lực của
nó để đạt tới sướng và để tránh khổ. Các giác quan thính giác, xúc giác, thị
giác, vị giác, khứu giác đều là nguyên nhân cho cả sướng và khổ. Khi linh
hồn bị đồng nhất với thân thể có được do nghiệp thì đây là linh hồn được
hiện thân mắc bệnh.
Tâm trí, mạch sống, ham muốn, hiếu thảo và đức độ là năm nút cơ sở. Khi
linh hồn được hiện thân bị đồng nhất với bản chất của năm nút này, thì nó
không thể tự do khỏi chúng mà không tự hiểu mình. Vì năm nỗi ưu phiền
này linh hồn giống như bệnh tật tinh vi, nên linh hồn được biết tới như ling
sharir, sự đồng nhất thân thể. Đây là nút trong tim. Cái chiếu sáng tại đó khi
tâm thức là kshetragya, người biết.
Người biết việc sinh và sự tan biến của người biết, việc biết và đối tượng
của việc biết, thì là bản thân mình không có sinh hay tan biến, sự tự toả sáng
này được gọi là sakshi, nhân chứng. Cái cư ngụ trong tâm thức của mọi sinh
linh sống, từ Brahma, vị thần sáng tạo, tới con sâu bọ nhỏ nhất, và cái còn
lại ngay cả khi tất các những thân thể thô và tinh không còn nữa, được gọi là
Cái không thể huỷ diệt nổi. Chỉ như một sợi chỉ xuyên qua từng hột của
chuỗi hạt, linh hồn len vào từng tế bào của thân thể để cho nó có thể trở nên
nhận biết về bản tính đúng của mình từ trong các đặc trưng khác nhau. Cái
một này được gọi là antaryami, người biết về tất cả các ý nghĩ và cảm giác.
Linh hồn, Thực tại tối thượng, được gọi là twam, ngươi, khi tự do khỏi mọi
tướng mạo chân lí, trí huệ, cái vô hạn, chỗ của phúc lạc cũng như vàng
khi tự do khỏi mọi hình dạng vòng đeo hay mũ miện. Linh hồn vậy được
hiển lộ trong tự tính của riêng Nó, cảm nhận và ý thức. Brahman, thực tại
tối thượng, là chân lí. Nó là vô hạn và là chỗ của việc biết. Chân lí là không
thể huỷ diệt được. Cái không bị huỷ diệt, ngay cả như trung gian của không
gian, thời gian và sự vật bị phá huỷ, là avinashi, Cái không thể bị huỷ diệt
nổi.
Tâm thức vĩnh hằng, ở bên kia sáng tạo và huỷ diệt, được gọi là việc biết.
Tâm thức tràn đầy và tràn ngập toàn thể vũ trụ giống như đất sét trong
những thứ được làm từđất sét, giống như vàng trong những thứ được làm từ
vàng, và giống như sợi chỉ trong mọi thứ được làm từ sợi chỉ được gọi là
Cái vô hạn. Tâm thức vui sướng, phúc lạc đại dương không giới hạn, cái
vốn là bản chất tinh tuý của mọi niềm vui, là phúc lạc.
Cái là chân lí, việc biết, vô hạn và phúc lạc, và cái không đổi qua trung gian
của thời gian, không gian và vật chất là Tat, Cái đó, hay Paramatma, cái Ta
vũ trụ. Cái tách biệt khỏi người và Cái đó, là tinh tế như bầu trời, bản chất
duy nhất của Nó chỉ là hiện hữu; điều này chúng ta gọi là Param Brahman,
Thực tại tối thượng.
Cái không có bắt đầu nhưng lại kết thúc, cái hiện diện bình đẳng trong cả
cái được thấy và được không thấy, Cái không thực, không giả, không thực
giả, và cái bản thân nó dường như thuần khiết nhất, hoàn thiện nhất năng
lượng đó được gọi là maya, ảo tưởng. Nó không thểđược mô tả theo bất kì
cách nào khác. ảo tưởng là dốt nát, nó không có nghĩa và là giả. Nhưng với
người si mê, ảo tưởng là thật trong ba trạng thái thời gian: quá khứ, hiện tại
và tương lai. Do đó bản chất thực của nó không thể được truyền đạt chỉ bởi
nói, "Nó là thế...."
Ta chưa hề sinh ta không là thân thể, ta không là mười giác quan. Ta không
là trí tuệ. Ta không là tâm trí. Ta thậm chí không là Bản ngã vĩnh hằng. Ta
hiện hữu không có prana, hơi thở sống của cuộc sống. Ta hiện hữu không
tâm trí. Ta là tự tính thuần khiết . Ta là nhân chứng bên ngoài trí tuệ. Ta là
bản thân tâm thức vĩnh hằng. Về điều này không có hoài nghi.
Ta không là người làm không là người kinh nghiệm. Ta hiện hữu nhưng là
nhân chứng cho mọi biểu hiện. Chính bởi vì sự gần gũi của ta với chúng mà
thân thể, vân vân, dường như là ý thức, và bắt đầu vận hành tương ứng. Ta
là cái không thay đổi, cái vĩnh hằng. Ta bao giờ cũng là nhà của phúc lạc,
của thuần khiết và việc biết. Ta là toàn năng. Ta là linh hồn rõ ràng hiện
diện trong mọi sinh linh hữu tình như một nhân chứng. Về điều này, không
có hoài nghi.
Ta là Brahman này được biết tới bởi mọi Vedanta, trạng thái bên ngoài tri
thức. Ta không thể nhận biết được ngay như bầu trời và không khí vân vân,
Ta không hình dạng không tên tuổi không hành động. Ta là Brahman này,
thực tại tối thượng: chỗ cư ngụ của sat, chit, anand chân lí, tâm thức, phúc
lạc. Ta không là thân thể làm sao có thể có sinh và tử cho ta? Ta không là
hơi thở sống làm sao có thể có đói hay khát cho ta? Ta không là tâm trí
làm sao có thể có buồn rầu hay vui thích cho ta? Ta không là người làm
làm sao có thể có tù túng hay giải thoát cho ta? Như thế là bíẩn này.... Tại
đây kết thúc Upanishad.
===
Hết Chương 12: X. Sarvasat Upanishad
Chương 13: XI. Những Đoạn Kinh Chọn lọc
Người có sự hợp nhất với ý thức thanh khiết, vượt lên trên thế giới này và
đạt được tất cả sự mong muốn ước mơ trong cái thế giới thiên đường kia,
trở thành bất tử vâng, trở thành bất tử.
Sau đó Maitreyi đã nói: "Chính ở đây ông đã làm tôi hoang mang bối rối,
ngài kính mến, bởi lời nói rằng sau khi đạt được sự hợp nhất với cái Ngã,
người ta không có sự ý thức rõ hơn".
Yajnavalkya đáp: "Chắc chắn ta không nói điều gì làm nàng hoang mang
bối rối, nàng yêu quý của ta. Thực tại này là đủ đối với tri thức, ơi
Maitreyi!"
"Bởi vì khi có tính nhị nguyên như nó đã có, thì người ta ngửi thấy cái khác,
người ta sẽ nhìn thấy cái khác, sẽ nghe thấy cái khác, sẽ nói về cái khác, sẽ
nghĩ về cái khác, sẽ hiểu biết cái khác. Nhưng khi tất cả mọi cái đã được trở
thành cái Ngã, thì người ta sẽ ngửi cái gì và bởi cái gì, người ta sẽ nhìn cái
gì và bởi cái gì, người ta sẽ nói cái gì và bởi cái gì, người ta sẽ nghĩ cái gì và
bởi cái gì, người ta sẽ hiểu biết cái gì và bởi cái gì, do cái gì người ta biết
được? Cái đó nhờ có Nó mà tất cả được hiểu biết do cái gì, nàng yêu quý
của ta, người ta sẽ hiểu biết người hiểu biết".
"Cái Bản ngã ở bên trong tất cả là gì, Yàjnavalkya?"
" Anh không thể nhìn thấy sự nhìn của người nhìn; anh không thể nghe thấy
sự nghe của người nghe; Anh không thể nghĩ thấy sự suy nghĩ của người
suy nghĩ; Anh không thể biết được sự biết của người hiểu biết. Đó là Bản
ngã của anh, cái ở bên trong tất cả; tất cả cái khác chỉ là cái bị diệt vong".
Ông ta, người biết được hạnh phúc của Brahman, từ đó ngôn từ cùng với trí
tuệ quay đi, không có khả năng với tới Nó ông ta không sợ bất cứ cái gì và
không sợ bất cứ ai.
Ông ta, chính mình không còn đau buồn với suy nghĩ: Vì sao ta không làm
điều gì tốt? Tại sao ta không làm điều gì xấu? bất cứ ai biết điều này liên
quan tới cả 2 tốt và xấu như Atman và làm cho Nó vững chắc, thực sự ông
ta yêu thương cả 2 điều đó như Atman.
Điều đó, thực sự, là Upanishad (là bí mật tri thức về Brahman).
Đấng ấy là linh hồn trong trái tim, nhỏ hơn hạt tấm, nhỏ hơn hạt cải, nhỏ
hơn hạt kê, Đấng ấy là linh hồn tôi trong trái tim, Đấng ấy lớn hơn trái đất
này, Đấng ấy lớn hơn bầu không trung, lớn hơn cả vòm trời, lớn hơn tất cả
mọi thế giới.
Quả thật không khí luôn luôn lưu động, vì vậy không khí cũng là một loại
thanh tẩy, nhờ luôn lưu chuyển, không khí làm trong sạch mọi thứ, vì làm
sạch được mọi thứ nên không khí cũng là một thứ thanh tẩy.
Pràna được xem là Bản ngã của tất cả và Nó bao gồm tất cả hành động và
kết quả của hành động. Nó thể hiện trong 3 hình thức cơ bản: thân thể của
thần Hiranyagarbha, không khí bên ngoài, sinh khí bên trong của các tạo
vật. Tất cả đều tồn tại trong Pràna, nhờ có Pràna mọi vật có thể tồn tại và
phát triển. Nếu Pràna rời bỏ bất cứ sinh vật nào thì sinh vật ấy nhanh chóng
trở nên khô héo và chỉ còn thuần túy là một xác chết.
===
Hết Chương 13: XI. Những Đoạn Kinh Chọn Lọc
Chương 14: XII. Thánh Ca Bình An
Aum! Nguyện xin các chi thể của tôi, lưỡi tôi, mũi tôi, mắt tôi, tai tôi, tất cả
sức lực của tôi và tất cả các cơ quan giác quan của tôi được Ngài nuôi sống.
Tất cả, thật vậy, tất cả là Brahman như đã được tuyên xưng trong các kinh
Upanishad. Nguyện xin tôi không bao giờ chối từ Brahman và xin Brahman
đừng chối từ tôi. Xin đừng từ chối phần tôi. Ước gì tất cả những đức hạnh
đã được miêu tả trong các kinh Upanishad đều thuộc về tôi, tôi đã được hiến
dâng cho Atman, vâng, ước gì tất cả những đức hạnh ấy tôi đều có được!
Aum! Nguyện xin bình an, bình an, bình an.
[1] Nhận thức trực giác: intuition, suy tư chiêm nghiệm trong sự thanh tĩnh
của tâm hồn
[2] Tinh thần vũ trụ, cái Ta ở nơi tâm tất cả mọi vật
[3] Kim noãn, mầm mống đầu tiên của vũ trụ vạn vật
[4] Ám chỉ hơi thở, tinh khí, linh hồn thế giới,nó là mầm mống của tất cả sự
vật hữu hình trong vũ trụ
[5] Chạy theo, ý nói theo đuổi tồn tại vật chất riêng trong sự quan hệ với thế
giới. anh ta trở thành nạn nhân của cái chết lại diễn tả mãi mãi và O đạt tới
giải thoát.
[6] Trấn đô, chỉ thể xác, 11 cửa chính là 11 cơ quan của cơ thể tiếp xúc với
thế giới bên ngoài, gồm: 2 mắt, 2 tai, 2 lỗ mũi, miệng, rốn, 2 cơ quan hạ cấp
và lỗ ở đỉnh đầu, qua đó hơi thở sống của yogin thoát ra ngoài trong thời
gian chết.
[7] 1 cấp á thánh thần được xem như thi sĩ hay nhạc sĩ của thiên giới
[8] Ý muốn nói trí tuệ vũ trụ. Những trí tuệ cá nhân là chưa được tiến hóa.
[9] Các yếu tố gồm 5 yếu tố: Tinh khí, không khí, lửa, nước và đất. lúc tiến
hóa đầu tiên chúng hòa lẫn tế vi và không thể tạo thành những yếu tố thô.
Mỗi yếu tố thô bao gồm một nửa phần tế vi của nó và 1/8 của mỗi 4 yếu tố
kia đang ở dạng tế vi.
[10] Những kết quả bất tử là hành động (nghiệp) tạo ra dục vọng và dục
vọng xúi giục người ta hành động. nguyên nhân như vậy trong thế giới hiện
tượng, dòng chảy của nghiệp không bao giờ đi tới kết thúc. Chỉ có tri thức
về Brahman mới làm ngừng dục vọng và nghiệp.
[11] Dars'a là tuần trăng lu, Paurnamàsa là tuần trăng tròn
[12] Mùa hạ và mùa thu
[13] 7 thế giới là trái đất và 6 hành tinh xoay quanh, hay những từ biểu hiện:
đại tổ phụ, tổ phụ và cha của người hiến tế, bản thân người hiến tế, con trai,
cháu trai và chắt trai.
[14] Yếu tố đầu tiên trong 5 yếu tố cấu thành vũ trụ, thường được dịch là
"tinh khí", "ête"
[15] Ý nói sự tập trung tư tưởng vào Brahman
[16] Ý nói các giác quan sẽ rút ra khỏi đối tượng của nó và trí tuệ chỉ tập
trung vào Brahman.
[17] Bậc thông thái hiểu atman như người chứng kiến các trạng thái khác
nhau của tinh thần.
[18] 2 con chim, ở đây chỉ linh hồn bản ngã và linh hồn tối cao (paramâtma)
nhưng cùng được gọi bằng 1 tên đó là Atman.
[19] Tức là thể xác con người
[20] Ý nói jiva đồng nhất chính mình với thể xác và trải qua những kết quả
hành động.
[21] Là sự từ bỏ mọi hành động kèm theo sự tôn sùng hoàn toàn đối với
Brahman
[22] 15 bộ phận, là những cái được diễn tả trong Pras'na Upanishad là:
Niềm tin (sraddha), không gian (kham), không khí (vàgu), lửa (jyoti), nước
(ap), đất (prithivi), các cơ quan cảm giác (indriyas), tư tưởng (manas), thức
ăn (annam), khí lực (viryam), nghiêm khắc (tapas), thánh kinh (matras), lễ
hiến tế (karma), các thế giới (loka), tên (nàma).
[23] Bài này muốn nói đến lễ hiến tế được hiểu như Ekarshi và sự sám hối
của Sírovrata, trong đó nghi lễ này đòi hỏi mang lửa trên đầu của người làm
lễ. bằng phương tiện hiến tế và sự sám hối, con người mong muốn sẽ có
được sự tập trung tâm trí và sự trong sạch của trái tim. sau này anh ta có khả
năng bồi bổ tri thức về Brahman.
[24] Những người tìm chân lý, nghiên cứu khoa học về Brahman, hay bậc
thấu thị
[25] Là 3 dây đai hay 3 vòng tạo nên sự mệt, chán. Đó là 3 gunas: sattva,
rajas và tamas.
[26] Gồm: 5 yếu tố, 5 cơ quan nhận thức, 5 cơ quan hành động và trí tuệ.
[27] 50 nấc thang: cái truyền sự vận động cho bánh xe của vũ trụ, chúng kế
tiếp nhau: 5 nhận thức sai lầm hay cái loại khác của sự ngu dốt hoài nghi
(ngu dốt, tình yêu tự ngã, sự trói buộc, lòng căm thù, ham sống); 28 sự bất
tài là nguyên nhân của nhận thức sai lầm, 9 nghịch đảo của sự thỏa mãn, 8
nghịch đảo của sự hoàn hảo. 20 nấc thang trái ngược bao gồm: 10 cơ quan
nhận thức và hành động, 10 đối tượng tương ứng. chúng như những cái nệm
giữ chắc những nấc thang.
[28] 8 bộ: 8 cái của Prakriti: (tên, tinh khí, khí, lửa, nước, đất, tư tưởng, tri
năng và sự hiểu biết bản ngã) của 8 loại vật chất của thê xác (da, biểu bì,
thịt, máu, mỡ, xương,tủy, tinh dịch); 8 lực: siêu nhiên phú cho con người cái
mà con người tự tạo cho mình, nhỏ như nguyên tử, lớn như trái núi, sáng
như khí, có thể với tới bất kỳ đối tượng nào con người muốn, chỉ huy bất cứ
cái gì con người muốn; 8 trạng thái (đức, công chính hay pháp, tri thức hay
jnàna, sự từ bỏ uy nghi, không công chính,ngu dốt, không từ bỏ và sự nghèo
khổ); 8 bộ thần và tồn tại hợp nhất (Brahmà, Prajapati, deities, gandharvas,
yakshas, ràkshasas, linh hồn, tình bạn); và bộ 8 đạo đức (lòng thương người
(trắc ẩn), lòng khoan dung, không hiểm ác, sự trong sạch, không cố gắng,
lòng tốt, từ do giải thoát và không khát khao).
[29] Danh từ cũng có nghĩa như Siva, hay Rudra. Một trong những biểu
hiện khác của Brahman trong thế giới hiện tượng. trong 1 loạt tên gọi này
thì tên Chúa tể tối cao là thông dụng.
[30] Những đau khổ được mô tả như 5 sự đau đớn (vật chất và tinh thấn)
con người phải chịu: sự ngu dốt, lòng vị kỷ, tham dục, lòng ghanh ghét và
ham sống.
[31] Ngực, cổ và trái tim
[32] Kiểm soát hơi thở trong yoga: có 5 sự biểu hiện của hơi thở, biểu hiện
chức năng 5 bộ phận khác nhau của cơ thể. Điều đàu tiên trong tất cả là bậc
yogi sẽ phải kiểm soát chúng bằng quá trình nhận thức như sự tấy uế trí lực,
thần kinh
[33] Nondual: chỉ linh hồn tối cao, người giải thoát khỏi kinh nghiệm nhị
nguyên, không thực.
[34] Ensnarer: còn gọi là jàla, nghĩa là cái bẫy, hay lưới liên quan đến ảo
ảnh (maya)
[35] Sự không hiểu biết có thể nhìn thấy thế giới và các sự vật khác nhau
bao hàm trong nó và cũng có thể thấy đấng chúa tể như Người sáng tạo,
nhưng khi đạt được chân lý, biết tất cả tồn tại là Brahman thì chỉ có một,
không có cái thứ 2 tồn tại về bản chất.
[36] Brahman qua maya khắc ghi dấu ấn chính mình với toàn bộ thể xác,
gọi là Virat.
[37] Nghĩa là thân thể và 5 đường thoát của cơ thể: 2 mắt, 2 tai, 2 lỗ mũi,
miệng, hậu môn và đường tiểu.
[38] Nguyên lý tối cao. Có 12 nguyên lý tối cao, tức 12 tháng trong năm,
cũng có nghĩa là chư thần được coi là những người của Dyaus (thần mặt
trời) và Aditi (1 trong nhiều tên gọi của thần đất).
[39] Kim noãn, mầm mống đầu tiên của tất cả vạn vật, trạng thái, địa vị
Brahman bởi gia tố của tất cả tư tưởng.
[40] Trạng thái Brahamn bởi yếu tố khác thêm vào cúa tất cả thể xác.
[41] Chỉ tất cả các đối tượng vật lý như Prakriti và nguyên nhân của chúng
bao gồm ba gunas.
[42] Linh hồn cá nhân là cái đầu tiên, được quyết định bởi dục vọng và hành
động quá khứ của nó, nó trở thành đối tượng bởi các giá trị khác nhau. Như
vậy, nó quên mất bản chất chân thật của mình và xem mình như đối tượng
vật chất và thích thú hưởng thụ như đối tượng vật chất kia.
[43] Là hình ảnh của linh hồn cá nhân và linh hồn tối cao
[44] Ăn ở đây có nghĩa là sự trải qua kinh nghiệm
[45] Biểu hiện đầu tiên của Gaguna Brahman trong vũ trụ tương đối.
[46] Theo trường phái triết học Samkhya, prakriti (tự nhiên hay vật chất)
bao hàm trong đó 3 guna thường được dịch là "phẩm chất", "đức tính",
"năng lực" được gọi là sattva, rajas, tamas. Trong đó tamas có ý nghĩa là
sự tối tăm (vô tri, vô giác) hay tính trì trệ, ỳ; rajas là sự hiếu động, hoạt
động; sattva là sự sáng suốt, tính thăng bằng điều hòa. Chúng như 3 sợi dây
tạo thành chuỗi xoắn lại với nhau chi phối sự biến hóa của tự nhiên. Cũng
bởi 3 guna, con người bị ràng buộc vào thế giới tương đối này.
[47] One: sự giúp đỡ của thầy. Two: tình yêu thương của Thần và của thầy.
Three: kỷ luật Veda trong việc học tập nghiên cứu chân lý của kinh sách với
sự giúp đỡ của thầy (guru), suy luận về chúng và trầm tư mặc tưởng cuối
cùng về chúng (chân lý).
[48] Tự nhiên, vật chất cơ sở nguyên thủy tối sơ của sự sáng tạo, bao gồm
sattva, rajas, và tamas.
[49] Là những người từ bỏ thế giới có sự hiểu biết bản chất nhất thời của nó
và hiến dâng chính họ cho tri thức về Brahman. Có nhiều hạng của sự từ bỏ
thế giới này. Hạng mà chúng ta đang nói ở đây là hạng cao nhất.
[50] Chỉ trạng thái tỉnh hay mặt thứ nhất của Atman; cũng như Vais'vànara
(chức năng ý thức qua sự tổng hợp thể xác thô trong trạng thái tỉnh).
[51] Ý thức được hình thành trong trạng thái mộng.
[52] Sự hiểu biết, ý thức được hình thành trong trạng thái ngủ sâu.
[53] 5 vỏ bọc: annamayakhôngsa (vỏ bọc thể chất), prànamayakhôngsa (vỏ
bọc tinh thần), manomayakhôngsa (vỏ bọc trí tuệ), vijnanama yakhôngsa
(vỏ bọc trí năng tự ý thức) và anadamayakhôngsa (vỏ bọc của mầm mống
vui sướng, những gì đã trải qua trong giấc ngủ).
[54] Cái nhân của sự ràng buộc chính là trạng thái bất động, hoặc đam mê
khoái lạc.
[55] àkàs'a: Khoảng không vô định, được xem là 1 trong 5 yếu tố cơ bản tạo
nên vũ trụ.
[56] Bản chất nguyên sơ, nguyên thủy của sự vật
[57] Nhận thức hoàn toàn chủ quan vì sự vật thấy trong giấc mơ là do ảo
giác tạo ra.
[58] Trí tuệ trong trạng thái thoát khỏi quan niệm về nguyên lý nhân quả
được tạo ra bởi ảo ảnh
[59] Trí tuệ lúc này được xem là brahman
[60] Ý thức được hiểu ở đây là ý thức tối cao, là tinh thần của vũ trụ.
[61] Thế giới tương đối, vòng tròn không ngừng của sự sinh tử
[62] Những thành viên của đẳng cấp á thần trong thần thoại Ấn Độ, là
những nhạc sĩ của các vị thần.
[63] Điều này ý nói, trong trật tự thế giới khác. Trong chính cuộc sống này
anh ta trở thành Brahman. Anh ta không còn chờ đến cái chết trong thứ tự
để thấy rõ rằng anh ta không phải là ai khác mà chính là Brahman.
[64] Tồn tại vĩnh viễn, đã được biểu hiện bằng Veda vĩnh viễn. nó không
phải là kiểu học thuyết được công thức hóa bởi khả năng hiểu biết của luận
lý học (logic học).
[65] Năm là dấu hiệu của thời gian, cái đặt những giới hạn tất cả vạn vật
được tạo ra.
===
Hết Chương 14: XII. Thánh Ca Bình An
http://kilopad.com/Ton-giao-Tu-tuong-c40/doc-sach-truc-tuyen-ao-
nghia-thu-upanishad-tri-thuc-toi-thuong-b3416