báo cáo kiến tập
DESCRIPTION
aTRANSCRIPT
Mục lụcPhần mở đầu.....................................................................................................................2
I. Cơ sở lý thuyết.........................................................................................................2
1. Hợp tác xã là gì?...................................................................................................2
2. Đặc điểm của hợp tác xã?....................................................................................4
3. Đặc trưng của hợp tác xã nông nghiệp..............................................................4
II. Tình hình phát triển kinh tế hợp tác xã.............................................................5
1. Tình hình phát triển kinh tế hợp tác xã tại tỉnh Quảng Ngãi..........................5
1.1. Về số lượng, cơ cấu và kết quả phân loại.....................................................6
1.2. Về xã viên và quy mô vốn...............................................................................6
1.3. Về bộ máy quản lý và trình độ của đội ngũ cán bộ HTX.............................7
1.4. Về kết quả hoạt động kinh doanh và thu nhập của cán bộ quản lý HTX.. .8
1.5. Về thực hiện các chính sách phát triển đối HTX.........................................8
1.6. Về vai trò lãnh đạo của Cấp ủy và UBND xã trong phát triển HTX...........8
2. Tình hình phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp Thọ Trung...................9
III. Chính sách đối với hợp tác xã Tỉnh Quảng Ngãi............................................12
IV. Kết luận...............................................................................................................14
1
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC XÃ CỦA TỈNH QUẢNG NGÃI VÀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP THỌ TRUNG
Phần mở đầuSự phát triển kinh tế là một yếu tố rất quan trọng trong việc phát triển xã hội, nó
quyết định sự bền vững và giàu mạnh của một quốc gia, sự tồn vong của nền chính trị. Khi một quốc gia có một nền kinh tế phát triển mạnh thì sẽ thúc đẩy cả hệ thống chính trị phát triển. Đối với Việt Nam của chúng ta, là một nước đang phát triển, bên cạnh đó xuất phát điểm của Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, nên gặp rất nhiều khó khăn, chính vì lẽ đó việc phát triển kinh tế là không thể xem nhẹ. Trong khi đó, quá trình hội nhập kinh tế thế giới, các nước đòi hỏi Việt Nam phải có một nền kinh tế thị trường, cho nên, việc cấp thiết mà Nhà nước ta cần làm ngay là tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, từng bước xóa bỏ độc quyền Nhà nước trên nhiều lĩnh vực, xây dựng một nền pháp lý minh bạch, hợp lý để từ đó tạo điều kiện cho các nền kinh tế phát triển về quy mô, cũng như tiềm lực về tài chính. “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chu nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”. Chính vì vậy, nên hợp tác xã sẽ đóng một vai trò quan trọng trong phát triền kinh tế của đất nước. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, tạo điều kiện bằng nhiều chủ trương, đường lối, chính sách để tạo điều kiện cho hợp tác xã phát triển, phù hợp với điều kiện tình hình mới. Tuy nhiên, việc áp dụng, thực thi các chính sách của Đảng, Nhà nước về hợp tác xã còn gặp nhiều khó khăn. Hiệu quả về mặt kinh tế của hợp tác xã trong thời gian qua mang lại chưa cao, năng lực cạnh tranh của hợp tác xã so với các loại hình doanh nghiệp còn hạn chế, nhiều hợp tác xã làm ăn còn kém hiệu quả. Mặt khác, nền pháp lý về hợp tác xã vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc chưa được tháo gỡ. Hiện nay, chúng ta đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp lý về hợp tác xã (Luật hợp tác xã năm 2003) và Chính phủ cũng đã có nhiều văn bản đề ra những chính sách, hoạch định đường lối phát triển thành phần kinh tế này. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện nhằm tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế hợp tác xã phát triển một cách tương xứng với vị trí mà Đảng và Nhà nước ta định ra.
Thêm vào đó, do đăc trưng nghề nghiệp của Khoa và nguyện vọng của sinh viên. Chúng em đã được trực tiếp tham quan thực tế về tình hình hợp tác xã ở Tịnh Thọ- Quảng Ngãi để thấy được tầm quan trọng của mô hình kinh tế hợp tác xã rất gần gủi với người nông dân, tạo điều kiện cho gia đình và bản thân có một cái nhìn mới về hợp tác xã thời hiện đại.
I. Cơ sở lý thuyết1. Hợp tác xã là gì?
Hợp tác xã là một hình thức tổ chức kinh tế được ra đời rất sớm ở các nước. Năm
2
1769, tại làng Feujun ở Bắc Scotland, 12 thợ dệt đã hùn vốn tổ chức một hợp tác xã
tiêu dùng đầu tiên buôn bán bột lúa mạch. Về sau, Liên minh các hợp tác xã quốc tế
(International Coopative Alliance – ICA) được thành lập vào ngày 19/8/1895 tại
London với sự tham gia của 82 nước, gần 700 triệu xã viên, đã đưa vào phê chuẩn và
sử dụng những nguyên tắc Rochdale cho hoạt động của mình tới ngày nay.
Tại châu Á, các hợp tác xã được hình thành và phát triển kể từ cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX. Năm 1900, Luật Hợp tác xã được ban hành ở Nhật Bản; năm 1904, Luật
này được ban hành ở Ấn Độ thuộc Anh, đến nay những nội dung cơ bản của Luật này
vẫn được sử dụng trong Luật Hợp tác xã Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh và Mianma.
Năm 1915, Luật Hợp tác xã cũng được ban hành ở Thái Lan nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho sự ra đời và phát triển các Hợp tác xã. Có thể nói đến nay, hình thức hợp tác xã
đã trở thành rất phổ biến trong các nền kinh tế kể cả các nền kinh tế phát triển và đang
phát triển.
Như vậy, trên thế giới, hợp tác xã xuất hiện trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và
đầu tiên là ở nước Anh vào giữa thế kỉ XVIII. Để có thể tồn tại và phát triển trong nền
kinh tế tự do cạnh tranh, những người sản xuất nhỏ cần phải hợp tác, hợp vốn với nhau
theo tôn chỉ mục đích chung để nương tựa nhau chống lại sự chèn ép, bóc lột và bần
cùng hoá của các nhà tư bản lớn. Quá trình đó đã cho ra đời và hình thành các hình
thức liên kết, hợp tác tổ chức của những người lao động với nguyên tắc: dân chủ, bình
đẳng và cùng có lợi nên có nhiều đóng góp vào phúc lợi của dân chúng trong nhiều
nước. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của hợp tác xã là một tất yếu cả về phương diện
kinh tế và lịch sử.
Theo trang Wikipedia, hợp tác xã là một tổ chức kinh doanh thuộc sở hữu và điều
hành bởi một nhóm các cá nhân cho lợi ích lẫn nhau của họ. Hợp tác xã được xác định
bởi tuyên bố về việc xác định hợp tác xã của Liên minh quốc tế hợp tác xã "một hiệp
hợp tự trị của những người đoàn kết tự nguyện để đáp ứng nhu cầu chung của kinh tế,
xã hội và văn hóa và nguyện vọng thông qua các doanh nghiệp đồng sở hữu và kiểm
soát dân chủ ". Hợp tác xã cũng có thể được định nghĩa là một doanh nghiệp thuộc sở
hữu và kiểm soát đều cho các người sử dụng dịch vụ của mình hoặc những người làm
3
việc ở đó. Khía cạnh khác nhau liên quan đến doanh nghiệp hợp tác xã là trọng tâm của
nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế hợp tác xã.
Theo Luật HTX năm 2003, HTX được định nghĩa : “HTX là tổ chức kinh tế tập
thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu,
lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của luật này để phát
huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện
có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; HTX hoạt động như một loại
hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ
tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác theo quy định
của pháp luật”.
2. Đặc điểm của hợp tác xã?
Hợp tác xã có bộ phận tài sản chung, bao gồm các công trình phục vụ sản xuất,
công trình phúc lợi văn hoá, xã hội, kết cấu hạ tầng phục vụ chung cho cộng đồng
dân cư được hình thành từ quỹ phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi của hợp tác xã, các
nguồn vốn do Nhà nước trợ cấp, quà biếu, tặng của tổ chức, cá nhân trong nước và
ngoài nước. Đây là đặc điểm mang tính bản chất của hợp tác xã, đề cao giá trị cộng
đồng của hợp tác xã. Tài sản chung được hình thành và phát triển không có mục đích
tự thân, mà hướng đến việc phục vụ hiệu quả nhu cầu chung xã viên.
Tài sản chung không chia được xem là điều kiện thiết yếu cho sự phát triển hợp tác
xã bền vững. Thứ nhất, tài sản chung không chia bảo đảm sự tồn tại liên tục của hợp
tác xã, chống lại bất cứ sự mua bán cơ hội nào. Điều này có nghĩa là khi nào hợp tác xã
còn đủ điều kiện để hoạt động thì không ai có thể bán hay chuyển nhượng hợp tác xã
được. Điều này hoàn toàn khác với doanh nghiệp: chúng ta vẫn thường nghe đến hoặc
thậm chí tham gia vào việc mua bán, chuyển nhượng công ty. Thứ hai, tài sản chung
này là một trong những nguồn lực cơ bản để hợp tác xã khai thác, sử dụng, tích lũy để
tái đầu tư phát triển sản xuất hoặc dịch vụ phục vụ cho xã viên. Trong thực tế, không ít
hợp tác xã một mặt muốn dành phần lớn lãi để phân phối lại cho xã viên nhằm minh
chứng lợi ích của hợp tác xã và tạo sự phấn khởi trong nội bộ xã viên, mặt khác rơi vào
4
tình trạng thiếu vốn để hoạt động hoặc mở rộng sản xuất vì tỷ trọng dành trích lập quỹ
phát triển sản xuất quá thấp. Nếu hợp tác xã không chủ động giải quyết nghịch lý này
thì hợp tác xã sẽ rất khó khăn để tự phát triển ổn định và lâu dài.
3. Đặc trưng của hợp tác xã nông nghiệp
Một là, hợp tác xã nông nghiệp là tổ chức liên kết kinh tế tự nguyện của những
nông hộ, nông trại có chung yêu cầu về những dịch vụ cho sản xuất kinh doanh và đời
sống của mình mà bản thân từng nông hộ không làm được hoặc làm nhưng kém hiệu
quả.
Hai là, cơ sở thành lập của hợp tác xã là dựa vào việc cùng góp vốn của các
thành viên và quyền chủ hoàn toàn bình đẳng giữa các xã viên theo nguyên tắc mỗi xã
viên một phiếu biểu quyết không phân biệt lượng vốn góp ít hay nhiều.
Ba là, mục đích kinh doanh của hợp tác xã là nhằm trước hết dịch vụ cho xã
viên, đáp ứng đủ và kịp thời số lượng, chất lượng của dịch vụ, đồng thời cũng phải
tuân theo nguyên tắc bảo toàn và tái sản xuất mở rộng vốn bằng cách thực hiện mức
giá và lãi suất nội bộ thấp hơn giá thị trường.
Bốn là, hợp tác xã thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và
cùng có lợi.
Năm là, hợp tác xã là một tổ chức liên kết kinh tế chỉ liên kết những xã viên
thực sự có nhu cầu, có mong muốn không lệ thuộc vào nơi ở và cũng chỉ liên kết ở
những dịch vụ cần thiết và đủ khả năng quản lý kinh doanh. Như vậy trong mỗi thôn,
mỗi xã có thể cùng tồn tại nhiều loại hình hợp tác xã có nội dung kinh doanh khác
nhau, có số lượng xã viên không như nhau, trong đó một số nông hộ, trang trại đồng
thời là xã viên của một số hợp tác xã.
Sáu là, nông hộ trang trại xã viên vừa là đơn vị kinh tế tự chủ trong hợp tác xã
vừa là đơn vị kinh tế cơ sở hoạt động kinh doanh và hạch toán độc lập. Do vậy, quan
hệ giữa hợp tác xã và xã viên vừa là quan hệ liên kết, giúp đỡ nội bộ vừa là quan hệ
giữa hai đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân độc lập. Cơ chế liên kết của hợp tác
xã cần phản ánh được mối quan hệ phức tạp đó.
5
Bảy là, từ những đặc trưng trên có thể rút ra đặc trưng bản chất của hợp tác xã
là: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế liên kết cơ sở của các nông hộ và nông trại, mang tính
chất vừa tương trợ giúp đỡ, vừa kinh doanh.
II. Tình hình phát triển kinh tế hợp tác xã.1. Tình hình phát triển kinh tế hợp tác xã tại tỉnh Quảng Ngãi
Trong 15 năm qua, về cơ bản tỉnh Quảng Ngãi đã chuyển đổi các HTX kiểu cũ
sang hoạt động theo Luật HTX sửa đổi năm 2003. Đến nay, phong trào HTX của tỉnh
đã có sự chuyển biến nhất định từ quy mô, số lượng, chất lượng và hoạt động của HTX
dần dần phù hợp với với pháp luật về HTX, đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa quan
trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của tỉnh. Đặc biệt, trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn và nông dân, HTX chuyển giao tiến bộ khoa học-công nghệ cho xã
viên, cung cấp giống vật tư cho sản xuất, cùng với chính quyền xây dựng đời sống văn
hóa mới và bước đầu thực hiện an sinh xã hội, giúp cho kinh tế hộ nông dân nâng cao
năng suất lao động và tư duy sản xuất hàng hóa của bà con nông dân trong tỉnh được
nâng lên v.v… Tuy nhiên, so với mục tiêu và yêu cầu đặt ra của Đảng và Nhà nước, sự
chuyển đổi về tổ chức và quản lý hoạt động của không ít HTX vẫn chưa có sự thay đổi
lớn về lượng để có “bước nhảy” và cho ra đời cái mới là rất hạn chế. Do đó, vị trí, vai
trò của HTX trong nền kinh tế của tỉnh còn mờ nhạt và không đáp ứng được một số
nhu cầu thiết yếu của xã viên, không ít HTX hoạt động kém hiệu quả và thậm chí đã
ngừng hoạt động một thời gian dài mà chưa được giải thể… Từ đó, xã viên và nhân
dân thiếu niềm tin vào HTX, không ít cán bộ, đảng viên và cấp ủy cơ sở về sự tồn tại
HTX ở địa phương là không cần thiết. Vấn đề nầy được chúng tôi minh chứng qua kết
quả khảo sát thực tế ở 250/274 HTX của tỉnh.
1.1. Về số lượng, cơ cấu và kết quả phân loại.
Theo kết quả xử lý số liệu điều tra của chúng tôi, tính đến ngày 31 tháng 12 năm
2010 toàn tỉnh có 274 HTX. Trong đó có 195 HTX trong lĩnh vực nông nghiệp, 11
HTX giao thông vận tải, 13 quỹ tín dụng nhân dân, 7 HTX tiểu thủ công nghiệp, 16
HTX Dịch vụ thương mại và môi trường, 32 HTX dịch vụ điện. Kết quả phân loại
HTX năm 2010 (khảo sát 250 HTX chiếm 92,59% số HTX toàn tỉnh), có 20% HTX
6
yếu kém, 50% HTX trung bình, 30% HTX khá. Trong đó có 18,40% HTX kinh doanh
thua lỗ và 16,00% HTX hòa vốn và còn lại là kinh doanh có lãi, chiếm 65,6%. Điều
đáng quan tâm là số HTX trung bình và yếu kém còn quá nhiều tới 170 HTX, chiếm
70%. Trong khi đó, tỉ lệ HTX yếu kém của cả nước năm 2007 chỉ có 49,19% . Như
vậy, sau 7 năm chuyển đổi theo Luật HTX 2003 thì vị trí, vai trò kinh tế HTX của tỉnh
chưa đạt mục đích, yêu cầu đề ra.
1.2. Về xã viên và quy mô vốn.
Theo kết quả khảo sát và tổng hợp số liệu của chúng tôi, tính đến ngày
31/12/2012, khu vực HTX của tỉnh có 272.412 xã viên và 2.763 lao động làm việc
trong HTX. Trong đó, HTX nông nghiệp có 217.616 xã viên, chiếm 79,88%; Quỹ tín
dụng nhân dân có 14.617 thành viên chiếm 5,36%; Giao thông vận tải có 430 xã viên,
chiếm 0,16%; các loại hình HTX khác (cơ bản là xã viên HTX Dịch vụ điện) có 39.772
xã viên, chiếm 14,6%. Như vậy, HTX nông nghiệp có số xã viên đông nhất và xã viên
HTX nông nghiệp cơ bản chuyển từ HTX kiểu cũ sang (“xã viên toàn dân”) nên tính
trách nhiệm và nghĩa vụ của xã viên đối với HTX không cao. Xã viên của HTX giao
thông vận tải, quỹ tín dụng nhân dân và một số loại hình HTX khác mới thành lập thì ý
thức về trách nhiệm và nghĩa vụ của xã viên được nâng lên. Điều này là một trong
những cơ sở cho việc lý giải vì sao các HTX phi nông nghiệp mới thành lập hoạt động
hiệu quả hơn phần đông số HTX nông nghiệp chuyển đổi.
Về niềm tin của của xã viên đối với HTX, cộng đồng và đặc biệt là xã viên còn
thiếu niềm tin vào sự phục hồi và phát triển HTX của tỉnh trong thời gian qua.
Về việc xã viên tham gia gốp cổ phẩn vào HTX, nhiều xã viên đóng cổ phần chưa
đủ và chưa đóng, cùng với tâm lý ỷ lại của xã viên làm cho công nợ của xã viên đối với
HTX ngày càng tăng và đến năm 2010 xã viên nợ HTX khoảng trên 76 tỉ đồng.
Về tổng số tài sản của các HTX của tỉnh năm 2010 là 265.881 triệu đồng (trừ 13 Quỹ
tín dụng nhân dân) nên bình quân mỗi HTX là 970,37 triệu đồng. Riêng tài sản bình
quân của mỗi quỹ tín dụng là 7073,46 triệu đồng gấp 7 lần HTX.
1.3. Về bộ máy quản lý và trình độ của đội ngũ cán bộ HTX.
7
Đến nay bộ máy Ban quản trị được tinh gọn hơn và dần đi vào hoạt động theo
Luật HTX. Các HTX được tổ chức hoạt động và quản lý theo mô hình 1 bộ máy. Tuy
nhiên, so với yêu cầu phát triển HTX trong giai đoạn mới thì trình độ văn hóa, chuyên
môn và năng lực quản lý điều hành của Ban quản trị là rất yếu kém, không đáp ứng
được yêu cầu đổi mới HTX trong thời gian vừa qua và những vấn đề đặt ra của thể chế
kinh tế kinh tế thị trường trong thời gian tới. Chính điều này là một trong những nhân
tố cơ bản làm cho phong trào HTX của tỉnh phát triển chậm cả về lượng và chất lượng.
Bên cạnh sự bất cập về trình độ văn hóa và chuyên môn, đội ngũ cán bộ ban quản
trị HTX của tỉnh có độ tuổi trung bình bình quá cao (trên 45 tuổi, thậm chí có 3 chủ
nhiệm trên 65 tuổi) và đại bộ phận họ không an tâm làm việc lâu dài trong HTX. Còn
số trẻ có năng lực thì chưa tham gia quản lý HTX, nếu có tham gia và cho đi đào tạo thì
họ chỉ làm việc một thời gian ngắn rồi bỏ việc ra làm cho tư nhân.
Về tính minh bạch trong quản lý tài chính và xây dựng kế hoạch hoạt động của
HTX, qua làm việc với lãnh đạo xã và xã viên cho thấy đa phần các HTX chưa thực sự
minh bạch trong quản lý tài chính, cá biệt có không ít HTX đến cuối năm 2012 chưa
quyết toán cho các năm 2008, 2009 và 2010.
1.4. Về kết quả hoạt động kinh doanh và thu nhập của cán bộ quản lý
HTX.
Khảo sát điều tra kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh tại 250 HTX tính đến
ngày 31/12/2012, cho thấy: 175 HTX sản xuất, kinh doanh có lãi, chiếm 65,60%; 40
HTX kinh doanh hòa vốn, chiếm 16%; 46 HTX kinh doanh thua lỗ, chiếm 18,40%.
Trong thực tế các HTX kinh doanh hòa vốn và thua lỗ chính là những HTX yếu kém
nên tỉ lệ HTX yếu kém của tỉnh không dừng lại ở con số 20% (do HTX tự đánh giá
năm 2010) mà lên đến 34,40% (86 HTX) và trong đó số HTX hoạt động cầm chừng
chờ giải thể và ngừng hoạt động khoảng dưới 20 HTX, chiếm 8%.
1.5. Về thực hiện các chính sách phát triển đối HTX.
Thời gian qua nhà nước đã có nhiều chính sách tạo điều kiện cho HTX phát
triển nhưng trên thực tế, tính khả thi của các chính sách còn nhiều hạn chế, bất cập
(HTX chưa được hưởng lợi từ các chính sách đó). Cu thể: chính sách đất đai, chính
8
sách tín dụng, chính sách đào tạo cán bộ, việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ
HTX, chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.
1.6. Về vai trò lãnh đạo của Cấp ủy và UBND xã trong phát triển HTX.
Kết quả điều tra 380 người (cán bộ ban quản trị HTX), cho thấy vai trò lãnh đạo
của cấp ủy xã trong phát triển HTX ở địa phương được đánh giá chưa đáp ứng yêu cầu.
Tất cả những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ 5 nguyên nhân sau:
Năng lực nội tại, điều kiện triển khai các hoạt động kinh doanh của HTX (mặt
bằng, vốn, cơ sở vật chất, nhà làm việc… ) không đáp ứng được yêu cầu đổi mới HTX
và kinh tế thị trường. Ví dụ: Trong 270 HTX của tỉnh thì chỉ có 90 HTX có máy vi tính
và số máy được nối mạng không quá 30 máy; hầu hết nhà làm việc của các HTX
chuyển đổi chưa được xây mới, …
Nhiều HTX còn lúng túng, thiếu định hướng trong tổ chức hoạt động và nhất là
các HTX nông nghiệp chuyển đổi. Vì vậy, HTX vẫn còn tâm lý ỷ lại, trông chờ trợ cấp
nhà nước, chịu ảnh hưởng nặng nề của chính quyền địa phương; lợi ích mang lại cho
xã viên ít và chưa rõ nét, không đáp được nhu cầu của kinh tế hộ trong nền kinh tế
hàng hóa nên họ còn thờ ơ và thiếu gắn bó với HTX.
Đội ngũ cán bộ quản lý HTX còn nhiều yếu kém, bất cập; chưa được đào tạo,
bồi dưỡng về kiến thức HTX và quản trị kinh doanh. Chẳng hạn: qua khảo sát về trình
độ văn hóa và chuyên môn của 251 Phó chủ nhiệm HTX thì được biết. Về trình độ văn
hóa: Tiểu học 23 người, chiếm 9%; Trung học cơ sở 120 người, chiếm chiếm 48%;
Trung học phổ thông 108 người, chiếm 43%. Về trình độ chuyên môn: Chưa qua đào
tạo 105 người, chiếm 42%; Sơ cấp 83 người, chiếm 33%; Trung cấp 58 người, chiếm
23%; Cao đẳng, Đại học 5 người, chiếm 2%.
Ủy ban nhân dân các cấp chưa làm tốt trách nhiệm của mình trong quản lý Nhà
nước đối với kinh tế tập thể. Cụ thể: sự chồng chéo trong việc tổ chức bộ máy quản lý
hành chính, vấn đề nhân sự và việc triển khai thực hiện nhiệm vụ theo quy định của
pháp luật; xã viên và nhân dân về cơ bản chưa được học tập, quán triệt Luật HTX 2003
và các chính sách ưu đãi phát triển HTX. Đồng thời Cấp ủy các cấp thiếu sự quan tâm
đối với sự phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn.
9
Nhận thức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên về bản chất và mô
hình HTX kiểu mới chưa đầy đủ. Phần đông xã viên chưa hiểu đúng về HTX kiểu mới.
2. Tình hình phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp Thọ Trung.
- Về tên và biểu tượng HTX. Hợp tác xã nông nghiệp Thọ Trung.
- Về xã viên và quy mô: xã viên được xây dựng trên cơ sở đẩy mạnh tuyên
truyền vận động cá nhân, hộ gia đình tự nguyện làm đơn tham gia HTX (kể cả xã viên
cũ).
- Về sở hữu: Gồm hai phần là sở hữu tập thể (sở hữu chung của HTX) và sở
hữu thành viên (sở hữu cổ phần của xã viên).
+ Sở hữu tập thể là các nguồn vốn tích lũy tái đầu tư, các tài sản chung do tập
thể mua sắm, các nguồn vốn do quà biếu và Nhà nước hỗ trợ cho HTX.
+ Vốn góp của thành viên được chia lãi hàng năm và được hoàn lại khi xã viên
ra khỏi HTX. Xã viên có thể góp vốn bằng tiền mặt, tài sản, quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu trí tuệ và các giấy tờ có giá khác.
- Về tổ chức bộ máy:
+ Bộ máy quản lý được xây dựng vừa quản lý vừa điều hành (Trưởng ban quản
trị đồng thời là Chủ nhiệm HTX thực hiện chức năng quản lý HTX; Chủ nhiệm HTX là
người điều hành HTX và trường hợp này, Chủ nhiệm HTX phải là thành viên Ban quản
trị). Ban quản trị là bộ máy quản lý HTX do Đại hội xã viên bầu trực tiếp, gồm có
Trưởng ban quản trị và các thành viên. Số lượng Ban quản trị do Điều lệ HTX quy
định và trong trường hợp này có cơ cấu Ban quản trị 3 người và nhiệm kỳ của Ban
quản trị là 5 năm; thành viên Ban quản trị phải đáp ứng được các tiêu chí sau: xã viên
HTX; phẩm chất đạo đức tốt, đặc biệt có lòng nhiệt huyết với phong trào HTX; có
năng lực quản lý HTX; có trình độ chuyên môn phù hợp. Riêng Chủ nhiệm HTX phải
có trình độ Trung cấp trở lên;
+ Đại hội xã viên và các kỳ họp của Ban quản trị phải có Chủ nhiệm và thư ký
đề tài tham dự để tư vấn cho Ban quản trị.
10
+ Thành lập Ủy ban thường trực Đại hội xã viên với số lượng 7 thành viên và
hoạt động như phân tích ở phần trên.
+ Ban kiểm soát là bộ máy giám sát và kiểm tra mọi hoạt động của HTX theo
đúng pháp luật và điều lệ HTX do Đại hội xã viên quyết định. Trường hợp này, bầu 1
Trưởng ban và 1 thành viên Ban kiểm soát. Thành viên Ban kiểm soát phải đạt tiêu
chuẩn sau: đáp ứng các tiêu chuẩn như tiêu chuẩn của thành viên Ban quản trị; không
đảm nhiệm các chức vụ (thành viên BQT, Kế toán, Thủ quỹ và không phải là cha mẹ,
vợ chồng, con, anh chị em ruột của những người này).
+ Nhân lực thực hiện chức năng chuyên môn và thực hiện lao động trực tiếp. Đó
là, nhân viên kế toán, thủ quỹ, kỹ thuật, bán hàng… và những người lao động trực tiếp
trong HTX. Nguồn nhân lực này được tổ chức thành các tổ đội phục các lĩnh vực hoạt
động sản xuất, kinh doanh của HTX theo sự phân công của Ban quản trị. Chẳng hạn:
đội thủy lợi, đội xây dựng, tổ quản lý chợ, đội tổ chức hành chính và kế hoạch; tổ tín
dụng nội bộ, tổ sản xuất lúa giống và bảo vệ thực vật…
+ Tổ chức mua bảo hiểm xã hội và y tế cho người lao động trong HTX.
- Về phương án sản xuất, kinh doanh:
+ HTX tổ chức các dịch vụ nhằm phục vụ xã viên như sau: Nâng cao chất lượng
dịch vụ thủy lợi và tín dụng nội bộ; tổ chức mới dịch vụ xây dựng, sản xuất lúa giống,
tổ chức kinh doanh chợ, dịch vụ chăn nuôi bò thịt, dịch vụ bảo vệ thực vật.
+ Liên kết với một số doanh nghiệp, các siêu thị và các loại hình HTX khác
trong và ngoài tỉnh.
- Về nguồn vốn phát triển HTX:
Vốn khoản hơn 1 tỉ (chủ yếu là tài sản cố định), vốn của UBND xã hỗ trợ từ
Chương trình xây dựng nông thôn mới khoảng 700 triệu đồng, vốn góp từ xã viên và
nguồn vốn hỗ trợ từ đề tài khoa học.
11
- Về đất đai: Tổ chức dồn điền đổi thửa phần đất của xã viên HTX đang sử
dụng để hình thành các vùng chuyên canh lúa giống, lúa thương phẩm và rau sạch…
- Về phân phối lãi của HTX:
Toàn bộ lãi trong năm của HTX được thực hiện như sau:
+ Nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế;
+ Trừ các khoản tiền vi phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật thuộc trách nhiệm
của HTX;
+ Số lợi nhuận còn lại được phân phối như sau: Trích lập các quỹ bắt buộc theo
quy định gồm: quỹ sản xuất, quỹ dự phòng; trích lập các quỹ khác do Đại hội xã viên
quyết định tùy thuộc vào điều kiện của HTX; Chia theo tỷ lệ vốn góp, công sức đóng
góp của xã viên và theo mức độ sử dụng dịch vụ.
- Về Điều lệ và kế hoạch hoạt động HTX:
Trong quá trình xây dựng Điều lệ, kế hoạch hoạt động và phương án sản xuất
kinh doanh của HTX cần phải có sự tham gia của bà con xã viên. Đây là yêu cầu bắt
buộc Đề án đối với việc xây dựng mô hình hợp tác xã nông nghiệp Thọ Trung.
Tổ chức Đại hội xã viên và lập hồ sơ đăng ký kinh doanh, gửi đến phòng
kinh tế huyện Sơn Tịnh.
Tổ chức triển khai hoạt động của HTX.
Hợp tác xã nông nghiệp Thọ Trung được thành lập từ tháng 10 năm 1981. Đến nay,
HTX có 725 hộ xã viên tham gia, chiếm tỷ lệ 96,67%. Hợp tác xã kinh doanh các dịch
vụ chính như thủy nông, cung ứng vật tư nông nghiệp, tín dụng nội bộ, khuyến nông,
lâm nghiệp, xây dựng công trình, dịch vụ nghiền và cung ứng thức ăn gia súc. Trong 5
năm qua, kết quả sản xuất kinh doanh của HTX năm sau luôn cao hơn năm trước. Nếu
như tổng doanh thu của HTX năm 2007 hơn 2,4 tỷ đồng thì đến năm 2011 hơn 5,5 tỷ
đồng; nộp thuế vào ngân sách Nhà nước năm 2011 là 151 triệu đồng,…
Phát huy những kết quả đạt được, trong thời gian tới, HTX tiếp tục đổi mới, nâng
cao và mở rộng dịch vụ để đáp ứng nhu cầu hợp tác của xã viên, nâng tỷ lệ sử dụng
12
dịch vụ của xã viên từ 60% đến 80%. Chăm lo công tác đào tạo cán bộ nhằm nâng cao
năng lực quản lý trong HTX, nhất là cán bộ trẻ. Tiếp tục phát huy các nguồn vốn nhàn
rỗi trong xã viên và nguồn tín dụng từ ngân hàng để phát triển sản xuất kinh doanh, tạo
thu nhập cho xã viên và HTX.
III. Chính sách đối với hợp tác xã Tỉnh Quảng Ngãi.
Qua thời gian kiến tập tại xã Tịnh Thọ- Tỉnh Quảng Ngãi nhóm tìm hiểu được một
số thông tin và hiểu hơn về mô hình Hợp Tác Xã đã và đang được thực hiện trên toàn
nước nói chung và tại xã Tịnh Thọ nói riêng.
Về chính sách của nhà nước đối với Hợp Tác Xã- Tỉnh Quảng Ngãi. Củng cố, phát
triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức Hợp Tác Xã trên địa bàn tỉnh tới
năm 2015 và định hướng tới năm 2020.
1. Nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân về đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà Nước về KTTT.
2. Củng cố HTX hiện có, thành lập mới HTX ở một số lĩnh vực; HTX tác động tích
cực đối với phát triển kinh tế hộ thành viên, gớp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, xây dựng nông thông mới.
3. Thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ HTX theo quy định của Trung Ương.
Chính sách hỗ trợ khuyến khích thành lập HTX và chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi
dưỡng các đối tượng của HTX được áp dụng thực hiện mức chi tối đa theo quy định
của Trung Ương.
4. Ban hành và thực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích hỗ trợ HTX của tỉnh
phù hợp với đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ phát triển HTX trong giai đoạn mới.
a) Chính sách cán bộ, đào tạo và thu hút nguồn nhân lực.
- Các chức danh trnog Hội Đồng Quản Trị, ban Giám Đốc, Ban Kiểm Soát, Kế
Toán trong các HTX phi nông nghiệp tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng, được hỗ
trợ.
13
- Các đối tượng là sinh viên đã tốt nghiệp đại học và có tuổi đời dưới 35 tuổi, có
nguyện vọng và cam kết làm việc lâu dài tại HTX ( ít nhất là 5 năm) thì được
tỉnh hỗ trợ ngân sách.
- Các đối tượng trong HTX được đào tạo tập trung (Chính quy hay tại chức) tuổi
đời không quá 50 tuổi.
- Cán bộ quản lý, kỹ thuật đang công tác tại các cơ quan Nhà Nước trên địa bàn tỉnh
khi được tăng cường có thời hạn về làm việc tại HTX.
b) Chính sách hỗ trợ giải thể HTX, hợp nhất hoặc sáp nhập HTX.
- Ngân sách Tỉnh hỗ trợ hợp nhất hoặc sáp nhập HTX nông nghiệp theo quy mô xã.
- HTX giải thể tự nguyện trong thời gian từ ngày 01/01/2014 đến ngày 31/12/2015
mà không có kinh phí để chi cho việc giải thể thì được tỉnh xem xét hỗ trợ kinh phí tối
đa là 10 triệu đồng/ HTX.
c) Chính sách hỗ trợ HTX hoạt động.
- Chính sách tài chính, tín dụng.
- Chính sách hỗ trợ đầu tư.
- Chính sách hỗ trợ khoa học- công nghệ, khuyến công- nông –thương và chương
trình hỗ trợ phát triển HTX.
- Chính sách đối với Chủ nhiệm HTX ( Chủ tịch HĐQT, giám đốc HTX) làm việc
lâu năm trong HTX nông nghiệp.
- Chính sách ưu tiên hỗ trợ đối với những HTX thực hiện các dự án sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ đóng góp trực tiếp vào xây dựng nông thôn mới tại các địa phương và
các HTX thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ góp phần phát triển các
thương hiệu nông sản, thực phẩm mang tính đặc thù của Tỉnh.
d) Các HTX được thành lập theo đề án xây dựng và phát triển HTX dịch vụ và khai
thác hải sản xa bờ giai đoạn 2011-2015.
IV. Kết luận
Kinh tế tập thể là một thành phần kinh tế được Đảng và Nhà nước ta xác định cùng
với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, có vai trò rất quan
trọng trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Việc
14
mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế HTX trong các ngành kinh tế là
một đòi hỏi bức thiết đối với cả nước cũng như các tỉnh, thành phố.
Tóm lại, phát triển HTX là một xu thế chung của thời đại toàn cầu hóa và trên thế
giới HTX đã tồn tại được 200 năm lịch sử. Ở Quảng Ngãi, HTX tồn tại đến nay vừa tròn
30 năm và đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm theo phong trào phát triển HTX của đất
nước. Trong thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, HTX được hiểu là một tổ
chức kinh tế, xã hội mang tính tự nguyện và dựa trên tinh thần hợp tác nhằm đạt được lợi
ích vật chất, tinh thần của xã viên hay thỏa mãn nhu cầu chung của xã viên. HTX chỉ
được phát triển và thể hiện tính vượt trội của nó trong nền kinh tế khi và chỉ khi nó được
xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc HTX. Do đó, phát triển HTX là một quá trình lâu
dài, đòi hỏi sự kiên trì trong đường lối, chính sách và trong tổ chức thực hiện. Để phát
triển bền vững HTX của tỉnh trong thời gian tới, trước hết cộng đồng phải nhận thức
đúng, đủ bản chất và nguyên tắc HTX. Từ đó, Đảng bộ và Chính quyền sẽ thực hiện
đồng bộ và hữu hiệu những giải pháp vừa nêu cho phát triển HTX. Nâng cao hơn nữa
vai trò của Liên minh HTX tỉnh Quảng Ngãi trong phát triển hợp tác xã, thúc đẩy kinh
tế hộ phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa để hình thành nhu cầu hợp tác đích thực,
mạnh dạn đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật hiện đại, mang tính công nghiệp
vào hoạt động sản xuất kinh doanh; xây dựng mô hình HTX dịch vụ cho thuê công
nghệ cho sản xuất, kinh doanh đối với các HTX và chủ thể kinh doanh có nhu cầu, đẩy
mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động xúc tiến thương mại của các
HTX, hình thành quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, xây dựng mô hình hợp tác xã điểm
trong từng lĩnh vực và có từng giải pháp cụ thể cho từng loại hình HTX trong thời gian
tới. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trên và triển khai một số mô hình HTX hoạt
động có hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng trong toàn bộ quá trình đổi mới và phát
triển mô hình HTX của tỉnh, góp phần quan trọng vào sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng
nông thôn mới ở tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, cả nước nói chung.
15
16