»Œc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh hÀ thỊ hƯƠng lan c¤ng nghiÖp hç trî...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HÀ THỊ HƯƠNG LAN
C¤NG NGHIÖP Hç TRî TRONGMéT Sè NGµNH C¤NG NGHIÖP ë VIÖT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2014
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HÀ THỊ HƯƠNG LAN
C¤NG NGHIÖP Hç TRî TRONGMéT Sè NGµNH C¤NG NGHIÖP ë VIÖT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 62 31 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. HOÀNG THỊ BÍCH LOAN
HÀ NỘI - 2014
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học độc lập của riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong
luận án có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, đã công bố theo đúng
quy định.
Nghiên cứu sinh
Hà Thị Hương Lan
ii
MỤC LỤCTrang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 5
1.1. Những công trình khoa học đã được nghiên cứu liên quan đến đề tài 5
1.2. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 26
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆPHỖ TRỢ 29
2.1. Cơ sở lý luận về công nghiệp hỗ trợ 29
2.2. Vai trò của phát triển công nghiệp hỗ trợ đối với nền kinh tế quốc dân
nói chung và ngành công nghiệp nói riêng 49
2.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia về phát triển công nghiệp hỗ trợtrong một số ngành công nghiệp và bài học cho Việt Nam 64
Chương 3: THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘTSỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 - 2013 78
3.1. Những thuận lợi, khó khăn và nhân tố mới ảnh hưởng đến phát triển
công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam 78
3.2. Thực trạng công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp xe máy, dệt
may và điện tử ở Việt Nam 86
3.3. Đánh giá chung về công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp
ở Việt Nam 107
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁTTRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG
NGHIỆP Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 118
4.1. Quan điểm cơ bản nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ trong một sốngành công nghiệp ở Việt Nam 118
4.2. Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ trong một sốngành công nghiệp ở Việt Nam 127
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢLIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 165
iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN The Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam ÁAPEC Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình DươngBOI Ủy ban đầu tư Thái LanCNHT Công nghiệp hỗ trợCNPT Công nghiệp phụ trợCNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóaCCN Cụm công nghiệpCLKN Cụm liên kết ngành
CNCNC Công nghiệp công nghệ caoCSDL Cơ sở dữ liệuDNNN Doanh nghiệp nhà nướcDNNVV (SMEs) Doanh nghiệp nhỏ và vừaFDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GTSX Giá trị sản xuấtKCN Khu công nghiệpKH-CN Khoa học - công nghệMOI Bộ Công nghiệp Thái LanMITI (METI) Bộ Kinh tế công nghiệp và Thương Mại Nhật BảnMLSX Mạng lưới sản xuấtMNCs Công ty đa quốc giaJETRO The Japan External Trade Organization
Cơ quan xúc tiến ngoại thương Nhật BảnJICA Japan International Cooperation Agency
Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật BảnTNCs Công ty xuyên quốc giaUNIDO The United Nations Industrial Development Organization
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp QuốcVCCI Vietnam Chamber of Commerce and Industry
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt NamVDF Việt Nam Development Forum
Diễn đàn phát triển Việt Nam
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: GTSX công nghiệp lĩnh vực sản xuất linh kiện phụ tùng 88
Bảng 3.2: Lao động trong lĩnh vực sản xuất linh kiện phụ tùng 89
Bảng 3.3: Quy mô của doanh nghiệp CNHT xe máy 91
Bảng 3.4: Tỷ lệ nội địa hóa của một số hãng xe máy 93
Bảng 3.5: GTSX công nghiệp CNHT ngành dệt may 96
Bảng 3.6: Lao động lĩnh vực CNHT ngành dệt may 97
Bảng 3.7: Doanh thu của các doanh nghiệp CN dệt may từ 2000 - 2012 98
Bảng 3.8: Tình hình nhập khẩu của ngành dệt may từ năm 2006 - 2012 99
Bảng 3.9: Số lượng doanh nghiệp CNHT ngành Điện tử 2006 - 2013 103
Bảng 3.10: Tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm công nghệ thông tin từ
năm 2008 - 2013 106
Bảng 3.11: Đánh giá SWOT về công nghiệp hỗ trợ Việt Nam 117
Bảng 4.1: Nhóm chỉ tiêu phấn đấu của ngành công nghiệp 120
v
DANH MỤC CÁC BIỂU
Trang
Biểu đồ 3.1: Số lượng doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng 87
Biểu đồ 3.2: Giá trị sản xuất công nghiệp một số ngành công nghiệp 88
Biểu đồ 3.3: Lao động trong công nghiệp chế biến, chế tạo 89
Biểu đồ 3.4: Doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng xe máy 93
Biểu đồ 3.5: Trị giá hàng dệt may xuất khẩu từ 2000 - 2013 95
Biểu đồ 3.6: Số lượng các doanh nghiệp CNHT ngành dệt may năm 2012 95
Biểu đồ 3.7: Vốn đầu tư của doanh nghiệp sản xuất sợi và dệt vải 96
Biểu đồ 3.8: Tổng doanh thu công nghiệp điện tử Việt Nam 102
Biểu đồ 3.9: Vốn kinh doanh bình quân của doanh nghiệp sản xuất sảnphẩm điện tử, máy vi tính 103
Biểu đồ 3.10: Kim ngạch nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử &
linh kiện theo tháng, giai đoạn 2010 - 2012 105
Biểu đồ 3.11: Cơ cấu đầu tư trong ngành điện tử 106
DANH MỤC CÁC HỘPTrang
Hộp 2.1: Ngành chế tạo ôtô: sau động đất, sóng thần 11/3/2011 tại Nhật Bản 53
Hộp 2.2: Rủi ro của các nhà cung ứng linh kiện ô tô 63
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 2.1: Các phạm vi của CNHT 31
Sơ đồ 2.2: CNHT theo nghĩa rộng 33
Sơ đồ 2.3: Các lớp cung ứng hỗ trợ 35
Sơ đồ 2.4: Chuỗi giá trị trong một ngành công nghiệp 51
Sơ đồ 2.5: Cấu trúc chuỗi giá trị giữa linh kiện và lao động 57
Sơ đồ 4.1: Mô hình Cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ quốc gia 138
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ và quá trình toàn cầu hoá kinh tế mở rộng hiện nay, các nền kinh tế quốc
gia, khu vực đang có xu hướng hợp nhất và trở thành một bộ phận, một hệ thống
quan trọng trong mạng lưới hợp tác phân công lao động toàn cầu. Mọi quốc gia
muốn phát triển phải gắn phân công lao động quốc gia vào hệ thống phân công
lao động quốc tế. Khi trình độ phân công lao động quốc tế và phân chia quá trình
sản xuất đạt đến mức độ cao, không một sản phẩm công nghiệp nào được sản
xuất tại một không gian, địa điểm hay một công ty duy nhất của một quốc gia;
chúng được phân chia thành nhiều công đoạn ở các công ty cắm nhánh tại các
địa phương, quốc gia, châu lục khác nhau. Ngành công nghiệp hỗ trợ ra đời như
một tất yếu xuất phát từ đòi hỏi của nền sản xuất công nghiệp mới với nội dung
cơ bản là chuyên môn hóa sâu sắc các công đoạn của quá trình sản xuất.
Việt Nam, là một nước đang phát triển, đang trong tiến trình đẩy nhanh
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển công nghiệp hỗ trợ có
vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. Thực tiễn ở một số nước
trên thế giới và Việt Nam đã chứng minh, sự phát triển đúng hướng của ngành
công nghiệp hỗ trợ là tiền đề quan trọng đóng góp vào quá trình phát triển nền
kinh tế quốc dân; phát triển công nghiệp hỗ trợ trở là nhân tố đóng vai trò quyết
định sự phát triển của các ngành công nghiệp. Công nghiệp hỗ trợ phát triển góp
phần làm tăng tỷ lệ nội địa hoá, giảm nhập khẩu, giảm giá thành sản phẩm, giảm
sự phụ thuộc vào “bên ngoài”, đảm bảo tính chủ động cho nền kinh tế. Công
nghiệp hỗ trợ phát triển góp phần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, phát huy cao độ các yếu tố nội lực, phát triển nguồn nhân lực, mối
liên kết công nghiệp và sử dụng công nghệ cao, tăng giá trị gia tăng của sản phẩm
công nghiệp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, nó đáp ứng
một cách linh hoạt, kịp thời trước nhu cầu phải thay đổi tính năng, kiểu dáng, mẫu
2
mã, dây chuyền, công nghệ của nhà sản xuất công nghiệp do thị hiếu tiêu dùng
ngày càng cao và cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Ngoài ra, phát triển công nghiệp
hỗ trợ sẽ góp phần cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao sức hút đầu tư vào những
lĩnh vực công nghiệp mà công nghiệp hỗ trợ đó đi trước một bước để “mở
đường”. Chính vì vậy, công nghiệp hỗ trợ phát triển sẽ nâng cao sức cạnh tranh
của sản phẩm công nghiệp, ngành công nghiệp nói riêng cũng như của cả nền kinh
tế quốc dân nói chung đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển bền vững.
Tuy nhiên, Việt Nam hiện nay, hệ thống Luật pháp và chính sách chưa đủmạnh để tạo điều kiện về môi trường pháp lý, định hướng và khuyến khích đầutư, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Hiện ngành công nghiệp hỗ trợ còn khá
non trẻ, quy mô nhỏ, tính cạnh tranh thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của cácngành công nghiệp chế tạo và lắp ráp. Phát triển công nghiệp hỗ trợ là vấn đềmới, phạm vi rộng và nội dung phức tạp liên quan đến các lĩnh vực sản xuất và
dịch vụ công nghiệp. Việt Nam, với nguồn lực hạn hẹp, quy mô các ngành kinh
tế hạn chế, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ đòi hỏi nguồn vốn lớn, côngnghệ cao, lao động chất lượng, đây là khó khăn lớn. Để phát huy lợi thế so sánh,đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nói riêng, quá trình hội nhập quốc tếnói chung, phù hợp với thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì lựa chọnphát triển công nghiệp hỗ trợ trở thành một vấn đề mang tính khách quan và thiếtthực. Đây là một vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, với ý nghĩa đó tácgiả chọn đề tài: “Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở ViệtNam” làm luận án tiến sỹ, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án2.1.Mục đích nghiên cứuTrên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về CNHT, đặc biệt làm
rõ vai trò và những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển CNHT; Luận án phân tích,đánh giá thực trạng CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam, chỉ ranhững kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong pháttriển CNHT. Từ đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triểnCNHT trong một số ngành công nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứuLuận án chủ yếu tập trung vào những nhiệm vụ cơ bản sau:- Luận giải những vấn đề lý luận chung về CNHT. Đặc biệt làm rõ vai
trò của CNHT.- Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển CNHT của một số quốc gia. Từ đó
rút ra một số bài học có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.- Phân tích, đánh giá thực trạng CNHT trong một số ngành công nghiệp ở
Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2013. Từ đó chỉ ra những kết quả đạt được, hạnchế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với phát triển CNHT trong một sốngành công nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển CNHTtrong một số ngành công nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận ánĐối tượng nghiên cứu của Luận án là CNHT trong một số ngành công
nghiệp ở Việt Nam, cụ thể là tập trung nghiên cứu CNHT ở 03 ngành chủ yếu là xe
máy, dệt may và điện tử dưới góc độ kinh tế chính trị.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án- Về không gian: Luận án nghiên cứu CNHT trong một số ngành công
nghiệp Việt Nam, trong đó tập trung nghiên cứu CNHT của 03 ngành xe máy, dệtmay, điện tử trên phạm vi cả nước.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu CNHT trong một số ngành công
nghiệp ở Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2013.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án4.1. Cơ sở lý luậnLuận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc
biệt là lý luận về phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất.Luận án sử dụng một số lý thuyết và mô hình kinh tế học như liên kết
kinh doanh (business linkages), chuỗi giá trị (value chain), cụm liên kết doanhnghiệp công nghiệp (industrial cluster) để phân tích và làm rõ vấn đề nghiên cứu.
4
4.2. Phương pháp nghiên cứu- Tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
nền tảng cơ sở phương pháp luận.
- Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương
pháp cụ thể như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp lôgic -
lịch sử, kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê...
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án- Làm rõ nội hàm và các nhân tố ảnh hưởng tới CNHT.
- Những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của CNHT.
- Luận giải rõ vai trò mang tính hai mặt của phát triển CNHT đối với nền
kinh tế quốc dân nói chung và ngành công nghiệp nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng CNHT ngành xe máy, dệt may và điện tử
giai đoạn 2006 - 2013.
- Trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2020.
6. Kết cấu của luận ánNgoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án bao gồm 4 chương, 10 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƯỢC NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
CNHT không phải là một vấn đề mới trên thế giới, rất nhiều nước nhận
thức rõ vai trò của nó trong phát triển kinh tế - xã hội và sớm quan tâm, xây
dựng hệ thống lý thuyết, chính sách phát triển cho ngành CNHT như: Nhật Bản,
Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia... Hiện nay, có một số công trình khoa học của
các nước nghiên cứu về CNHT dưới các khía cạnh khác nhau mà tác giả được
biết, cụ thể như sau:
1.1.1. Một số công trình khoa học của nước ngoài
1.1.1.1. Nhóm công trình khoa học lý luận chung về công nghiệp hỗ trợ
và vai trò của công nghiệp hỗ trợ
- Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), (1995), “ Investigation report
for industrial development: Supporting industry sector”, Tokyo. Tài liệu đã đưa
ra báo cáo điều tra phát triển công nghiệp về: “ngành Công nghiệp hỗ trợ”, báo
cáo đã đánh giá vai trò quan trọng và thực trạng CNHT trong các ngành công
nghiệp Nhật Bản; và kết luận về mối liên hệ, tính liên kết trong sản xuất sản
phẩm cũng như những yêu cầu và điều kiện thúc đẩy CNHT Nhật Bản phát triển
phục vụ cho ngành công nghiệp nói riêng, nền kinh tế Nhật Bản nói chung.[26]
- Prema-Chandra Athukorala, (2002), “Đầu tư nước ngoài trực tiếp và
xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo: cơ hội và chiến lược”, Đề án Khoa kinh tế
Trường Nghiên cứu Châu Á Thái Bình Dương, Đại học Quốc gia Australia. Đề
án phân tích về vai trò và mối quan hệ của sản phẩm chi tiết, công nghiệp chế tạo
hỗ trợ cho quá trình sản xuất sản phẩm chính đối với việc thu hút FDI. Từ đó, tác
giả chỉ ra những cơ hội, thách thức trong thu hút FDI và để thu hút FDI hiệu quả,
cần quan tâm phát triển công nghiệp chế tạo, đó là chìa khóa cho việc thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.[58]
6
- Do Manh Hong, (2008), “Promotion of Supporting Industries - The key
for attracting FDI in developing countries” (Xúc tiến CNHT - chìa khóa cho thu
hút FDI ở các nước đang phát triển). Tác giả đã chỉ ra vai trò ngày càng quan
trọng của CNHT trong quá trình phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Để
thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững, các nước đang phát triển cần tạo mọi
điều kiện để thu hút FDI, song để thu hút được nhiều vốn FDI và sử dụng có
hiệu quả nguồn FDI, các nước đang phát triển chỉ có một con đường duy nhất là
thúc đẩy và xây dựng một nền CNHT đủ mạnh để thu hút và thẩm thấu được
nguồn vốn FDI đem lại hiệu quả và sự phát triển bền vững cho nền kinh tế của
các nước đang phát triển.[129]
1.1.1.2. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về phát triển các ngành
công nghiệp hỗ trợ
- Bộ Công thương Nhật Bản (MITI, nay là Bộ Kinh tế, Công nghiệp và
Thương mại, METI), (1985), “White paper on Industry and Trade” (Sách trắng
về hợp tác kinh tế), Tokyo. Trong cuốn sách này, thuật ngữ CNHT lần đầu tiên
được nhắc đến để chỉ các DNNVV có đóng góp cho việc phát triển cơ sở hạ
tầng công nghiệp ở các nước Châu Á trong trung và dài hạn hay đó chính là các
công ty sản xuất linh phụ kiện. Trong tài liệu, các tác giả đã đánh giá vai trò
của các công ty sản xuất linh phụ kiện trong quá trình CNH, HĐH và phát triển
các DNNVV ở các nước ASEAN, đặc biệt là ASEAN 4 (gồm bốn nước:
Indonesia, Malaysia, Philipines và Thái Lan). Việc thúc đẩy phát triển hệ thống
các DNNVV chính là việc thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp hỗ trợ trong
quá trình CNH, HĐH.[141]
- Goh Ban Lee, (1998), “Linkage between the Multinational Corporations
and Local Supporting Industries” (Liên kết giữa các tập đoàn đa quốc gia và các
ngành CNHT nội địa), Đại học Sains, Malaysia. Tác giả phân tích mối quan hệ chặt
chẽ trong hợp tác, phân công lao động với các tập đoàn đa quốc gia trong việc thúc
đẩy nền kinh tế Malaysia phát triển. Đó chính là việc liên kết, hợp tác trong quá
7
trình sản xuất sản phẩm công nghiệp. Tác giả chỉ rõ tầm quan trọng của chính sách
phát triển nguồn nhân lực và các chính sách hỗ trợ liên kết của Chính phủ Malaysia
đối với các tập đoàn điện tử gia dụng của Nhật Bản với các doanh nghiệp nội địa
trong sản xuất linh kiện cho ngành điện tử tại Malaysia.[136]
- Cục xúc tiến Ngoại thương Nhật Bản (JETRO), (2003), “Japanese -
Affiliated Manufactures in Asia” (Các nhà sản xuất Nhật Bản tại Châu Á) báo
cáo phân tích tình hình thuê ngoài và các nhà cung ứng sản phẩm hỗ trợ cho các
doanh nghiệp sản xuất của Nhật Bản ở Châu Á (ASEAN và Ấn Độ). Từ đó, chỉ
ra những cơ hội thách thức, những thuận lợi khó khăn của các nhà sản xuất Nhật
Bản tại Châu Á.[133]
- Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), (2004), Tổng hợp, xây
dựng báo cáo điều tra, khảo sát: “Survey report on overseas business operations
by Japanese manufacturing companies” (Báo cáo khảo sát các bộ phận ở nước
ngoài của các công ty lắp ráp Nhật Bản). Báo cáo phân tích thực tế quá trình
sản xuất của chi nhánh thuộc các tập đoàn Nhật Bản ở Châu Á, đặc biệt là Thái
Lan, Malaysia, Indonesia đã sử dụng hệ thống thầu phụ được hình thành với vai
trò mạnh mẽ của các doanh nghiệp sản xuất linh kiện có vốn đầu tư từ Nhật
Bản. Đó chính là các doanh nghiệp CNHT. Hệ thống thầu phụ này cung cấp
các nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng cho các nhà sản xuất, lắp ráp tại các nước
Châu Á như: Thái Lan, Malaysia, Indonesia, giúp cho các nước này hoàn chỉnh
quá trình sản xuất sản phẩm.[132]
- D. McNamara, (2004), “ Integrayting Supporting Industries - APEC
next Challege”, Trung tâm nghiên cứu Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương (APEC). Tác giả đã luận giải những vấn đề: làm thế nào để
các thành viên APEC cùng nhau thúc đẩy mạng lưới SMEs hiệu quả hơn
nhằm hỗ trợ của các công ty sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài. Dù đã có
nhiều chính sách được đưa ra nhưng vấn đề cung cấp sản phẩm CNHT được
đề cập đến như là mô hình kịp thời để giải quyết mối quan hệ lợi ích và khắc
8
phục những hạn chế của APEC trong quá trình chuyển đổi sang suy giảm
hoặc tăng trưởng nhanh chóng. Bởi các nhà sản xuất thành phần chính sẽ
tham gia vào đối thoại và đại diện phần nào cho mạng lưới nhà cung cấp vừa
và nhỏ mà họ phối hợp và do đó cần xây dựng mạng lưới được phân biệt rõ
giữa nhà cung cấp lớn hơn và nhỏ hơn, sau đó tìm cách để kết hợp lại các ý
kiến về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực chính.[127]
1.1.1.3. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về giải pháp phát triển
công nghiệp hỗ trợ
- GS. Porter E. Michael (1990), “The competitive advantage of nations,
Harvard business review” (Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia), Trường Đại học
Havard - New York Mỹ. Tác giả là nhà quản trị chiến lược nổi tiếng của Mỹ,
trong bài viết tác giả đã phân tích, giải thích thuật ngữ “Công nghiệp liên quan và
hỗ trợ”. Tác giả phân tích khá sâu sắc thuật ngữ này thông qua việc đưa ra lý
thuyết về khả năng cạnh tranh quốc gia qua mô hình “viên kim cương”. Trong đó,
công nghiệp liên quan và hỗ trợ được coi là một trong bốn yếu tố quyết định đến
lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. “Công nghiệp liên quan và hỗ trợ” được coi là
sự tồn tại của ngành cung cấp và ngành công nghiệp liên quan có năng lực cạnh
tranh quốc tế. Tác giả đã chia yếu tố này thành hai phần là CNHT và công nghiệp
liên quan. Theo đó, sự phát triển của một ngành công nghiệp đạt được phải dựa trên
khả năng sáng tạo, đổi mới và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư thông qua mối
quan hệ tác động qua lại và sự liên kết bền vững như cấu trúc tinh thể của kim
cương giữa bốn nhóm yếu tố, trong đó có nhấn mạnh vai trò của CNHT.[146]
- Ryuichiro, Inoue, (1999) “Future prospects of Supporting Industries in
ThaiLand and Malaysia” (Tương lai của ngành CNHT Thái Lan và Malaysia).
Các tác giả đã khảo sát tình hình phát triển CNHT ở Thái Lan và Malaysia sau
cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997. Từ đó, chỉ ra sự cần thiết phải điều chỉnh
chiến lược phát triển các ngành công nghiệp cho phù hợp sau khủng hoảng. Các
tác giả đã đưa ra một loạt giải pháp nhằm điều chỉnh chính sách công nghiệp sau
9
khủng hoảng như: tăng cường phát triển các ngành CNHT ô tô, điện tử... đẩy
mạnh mô hình liên kết công nghiệp, xây dựng các khu, cụm công nghiệp..., trong
đó nhấn mạnh sự cần thiết xây dựng một hệ thống CNHT hoàn chỉnh.[148]
- Ratana. E, (1999), “The role of small and medium supporting industries in
Japan and Thailand” (Vai trò của CNHT vừa và nhỏ ở Nhật Bản và Thái Lan),
Trung tâm nghiên cứu IDE APEC, Working Paper Series 98/99 Tokyo. Tác giả đã
đi sâu phân tích mối quan hệ giữa DNNVV với CNHT tại hai quốc gia là Nhật Bản
và Thái Lan, từ đó chỉ ra mối liên hệ mật thiết giữa DNNVV với CNHT. Nghiên
cứu chỉ rõ, CNHT chủ yếu do DNNVV thực hiện, do đó muốn CNHT phát triển,
phải tạo điều kiện thúc đẩy DNNVV phát triển. Nghiên cứu khẳng định vai trò quan
trọng của CNHT trong thúc đẩy hệ thống các DNNVV phát triển.[147]
- Halim Mohd Noor, Roger Clarke, Nigel Driffield (2002), “Multinational
cooperation and technological effort by local firm: a case study of the Malaysia
Electronics and Electrical Industry” (Tập đoàn đa quốc gia và các nỗ lực công
nghệ của doanh nghiệp địa phương: trường hợp nghiên cứu ngành công nghiệp
điện và điện tử Malaysia). Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những giải pháp phát triển
CNHT cho ngành công nghiệp điện tử và đặc biệt nhấn mạnh vai trò quan trọng từ
phía Chính phủ trong việc hỗ trợ đổi mới và phát huy sáng tạo của các doanh
nghiệp nội địa nhằm cung ứng hỗ trợ cho ngành điện tử phát triển.[137]
- Tổ chức năng suất Châu Á (Asian productivtity Orgnisation), (2002),
“Strengthening of supporting Industries: Asian Experiences” (Đẩy mạnh CNHT:
các kinh nghiệm của Châu Á). Đây là tài liệu quan trọng và bổ ích cho các
nước đang phát triển, tài liệu đã đúc kết kinh nghiệm phát triển CNHT, tập
trung phân tích chính sách phát triển CNHT qua các thời kỳ ở Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan; đặc biệt, thông qua việc phân tích tình hình phát triển
CNHT và các chính sách thúc đẩy CNHT phát triển ở Nhật Bản, Hàn Quốc và
Đài Loan các tác giả đã chỉ rõ vai trò quan trọng của các chính sách bằng việc
tập trung vào phân tích vai trò thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển CNHT,
10
cũng như những quy định về tỷ lệ nội địa hoá và các chính sách hỗ trợ mạnh
mẽ có hiệu quả từ phía Chính phủ dành cho quá trình liên kết doanh nghiệp, tất
cả các chính sách này được coi như là điều kiện tiên quyết để phát triển CNHT
ở các nước Châu Á. [125]
1.1.1.4. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về công nghiệp hỗ trợ
với phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung
- Peter Larkin, the President and CEO of the National Grocers Association
(NGA), (2011), “Comprehensive Supporting Industries” ThaiLand Board of
Investment North America”, Supporting industries in Thailand. Khẳng định ngành
CNHT phát triển toàn diện của Thái Lan cho phép các nhà đầu tư, các nhà sản xuất,
lắp ráp giảm thời gian, giảm chi phí và tăng hiệu quả sản xuất thông qua việc tìm
nguồn cung ứng đầu vào ngay tại Thái Lan. Bài viết khẳng định một ngành CNHT
sôi động, hoạt động hiệu quả đã thúc đẩy nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng ổn định,
lâu dài và bền vững. Đây cũng chính là yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh nhằm
thu hút FDI của Thái Lan so với các nước. Chính vì thế, từ lâu Thái Lan đã được
coi là một trong những điểm đến hấp dẫn nhất của các nhà đầu tư trên thế giới.[146]
- Goodwill Consultant JSC và diễn đàn phát triển Việt Nam (VDF), (2011),
“Survey on comparision of backgrounds, polycy measuares and outcomes for
development of supporting industries in ASEAN (Malaysia and Thailand in
comparion with VietNam)” (Điều tra so sánh bối cảnh, biện pháp, chính sách và
kết quả phát triển CNHT ở ASEAN), Publishing House of Communication and
Transport, Nhà xuất bản Giao thông Vận tải. Trong tài liệu này, các tác giả đi
sâu vào phân tích Malaysia và Thái Lan, là hai trong số các nước ở ASEAN đã
có rất nhiều chương trình dành cho CNHT từ những năm 1980. Thông qua việc
phân tích các vấn đề về: bối cảnh; tổ chức chính sách và các bên liên quan; định
nghĩa và phạm vi của CNHT; các biện pháp chính sách; ảnh hưởng chính sách và
kết quả đạt được... các tác giả đưa ra những so sánh với Việt Nam trên cơ sở
nghiên cứu hiện trạng CNHT Việt Nam, những thành tựu và bất cập về khung
11
chính sách. Từ đó, đưa ra 07 phát hiện chính từ kết quả so sánh, đó là: khủng
hoảng - chất xúc tác cho chính sách; tác động qua lại giữa lợi ích quốc gia và lợi
ích nước ngoài thời kỳ toàn cầu hóa; xúc tiến mở và xúc tiến bắt buộc; áp dụng
có điều chỉnh; sự quan tâm đến xúc tiến CNHT; các biện pháp chính sách và việc
tổ chức thực hiện. Từ những phân tích đó, các tác giả chỉ ra nét tương đồng và sự
khác biệt rất lớn về chính sách của hai quốc gia này, song dù bằng cách nào, mỗi
quốc gia đều thiết lập cho mình một phương thức hoạch định chính sách công
nghiệp tiên tiến và Việt Nam có thể học hỏi một cách có chọn lọc từ những kinh
nghiệm khác nhau nhưng vô cùng sâu sắc của hai quốc gia này.[130]
- Thomas Brandt, (2012), “Industries in Malaysia Engineering
Supporting Industry”, (CNHT cơ khí tại Malaysia), Malaysian Investment
Development Authority (MIDA). Bài viết đã phân tích thực trạng ngành
CNHT cơ khí tại Malaysia, trên các tiêu chí về khuôn mẫu và khuôn chết, gia
công, công nghiệp chế tạo máy, công nghiệp cán kim loại, công nghiệp đúc,
công nghiệp xử lý nhiệt, công nghiệp xử lý bề mặt…, từ đó khẳng định máy
móc đã phát triển nhanh chóng trong vòng 3 thập kỷ qua song song với sự
phát triển tổng thể của ngành công nghiệp sản xuất quốc gia. Malaysia đã
được quốc tế công nhận về khả năng và chất lượng sản xuất trong rất nhiều
lĩnh vực của ngành cơ khí. Từ đó đưa ra kết luận về sự đóng góp vô cùng to
lớn của ngành CNHT cơ khí cho quá trình phát triển ngành công nghiệp nói
riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Do đó, để phát CNHT cơ khí đòi hỏi
phải duy trì lợi thế cạnh tranh thông qua kỹ năng học tập tiên tiến, chuyên
môn, kỹ năng và kinh nghiệm bao trùm những hoạt động phức tạp này, bằng
cách: Giảm tổng chi phí; giảm thời gian đưa ra thị trường; theo dõi và quản lý
các sản phẩm phức tạp và giới thiệu hiệu quả hơn các sản phẩm mới; quản lý
hoạt động toàn cầu; dịch vụ phục vụ nhu cầu của khách hàng và nhà cung cấp
nhanh chóng; thiết lập trung tâm dịch vụ giá trị cao có khả năng phát triển với
sự tăng trưởng của doanh nghiệp.[150]
12
1.1.2. Một số công trình khoa học nghiên cứu trong nước
Hiện nay, ở Việt Nam CNHT là vấn đề mới, là chủ đề có tính thời sự cao,
bước đầu cũng đã có một số công trình nghiên cứu về CNHT dưới nhiều khía
cạnh, góc độ, phạm vi khác nhau được nghiên cứu và trình bày trong rất nhiều đề
tài, chuyên đề, bài báo, hội thảo... của các tác giả Việt Nam và các tác giả người
nước ngoài viết về CNHT ở Việt Nam. Tác giả đã sưu tầm, tham khảo cụ thể ở
một số nhóm vấn đề sau:
1.1.2.1. Nhóm công trình khoa học lý luận chung về công nghiệp hỗ trợ
và vai trò của công nghiệp hỗ trợ
- Kyoshiro Ichikawa, Tư vấn đầu tư cao cấp, Cục Xúc tiến Ngoại thương
Nhật Bản tại Hà Nội (JETRO), (2004), “Xây dựng và tăng cường ngành công
nghiệp phụ trợ tại Việt Nam”. Báo cáo này được coi là tài liệu đầu tiên đánh giá
về thực trạng ngành CNPT ở Việt Nam. Tác giả đã khẳng định CNPT ở Việt
Nam đã bắt đầu hình thành. Mặc dù CNPT có vai trò rất quan trọng nhưng nhận
thức của các cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp về CNPT còn rất thấp và chưa
đầy đủ, các doanh nghiệp tư nhân và khối doanh nghiệp FDI đang vươn lên và
khá chủ động trong việc nắm bắt các cơ hội để thúc đẩy CNPT phát triển đóng
góp vào thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và đảm bảo nền kinh tế tăng
trưởng ổn định, bền vững.[138]
- GS. Trần Văn Thọ, Đại học Waseda Nhật Bản, (2005), “Biến động kinh
tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam” và “Công nghiệp phụ trợ
mũi đột phá chiến lược”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Tác giả đã phân tích
con đường phát triển công nghiệp ở Việt Nam theo hướng toàn cầu hoá, thông
qua phát triển CNPT như là lĩnh vực của hệ thống DNNVV; đồng thời, chỉ rõ vai
trò quan trọng của phát triển CNPT ở Việt Nam hiện nay. Coi CNPT như là một
mũi đột phá chiến lược để trong thời gian ngắn khắc phục các mặt yếu cơ bản
của công nghiệp Việt Nam và Việt Nam cần tập trung tất cả các năng lực về
chính sách cho mũi đột phá chiến lược đó.[75]
13
- PGS, TS. Phan Đăng Tuất, (2005), “Trở thành nhà cung cấp cho các doanh
nghiệp Nhật Bản - Con đường nào cho Việt Nam”, Tạp chí Công nghiệp, ký 1,
tháng 12. Thông qua bài viết, tác giả đã khẳng định những vai trò quan trọng của
CNHT đối với nền kinh tế, đồng thời chỉ ra những yêu cầu về phát triển DNNVV,
trên cơ sở đó phân tích con đường phát triển CNHT của Việt Nam cần thúc đẩy
quan hệ hợp tác với Nhật Bản thông qua việc trở thành vệ tinh hay nhà cung cấp các
sản phẩm đầu vào phục vụ cho ngành lắp ráp Nhật Bản thúc đẩy CNHT ở Việt Nam
phát triển. Từ sự phân tích, tác giả khẳng định, đối với Việt Nam cần quan tâm đầu
tư cho CNHT phát triển ngay, nếu không “muốn quá muộn”. Tác giả đã đưa ra 10
đề xuất, gợi ý cho quá trình phát triển CNHT ở Việt Nam. [92]
- Nguyễn Đức Hải, (2005), “Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở nước tatrong giai đoạn hiện nay”, Thông tin số 6: Những vấn đề kinh tế - chính trị học,
Viện Kinh tế chính trị học, Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Bài viết đã chỉ rõ vai trò và tầm quan trọng của vấn đề phát triển CNPT ở Việt Nam
hiện nay. Từ đó, đưa ra một số gợi ý cho phát triển CNPT ở Việt Nam.[38]
- Lê Thị Thanh Huyền, (2006), “Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ”, Tạp
chí Tài chính số 3 (tháng 3). Trong bài viết, tác giả nêu rõ vai trò của CNHT, đánh
giá khái quát hiện trạng CNHT của các ngành lắp ráp, đúc nhựa và ngành dệt may.
Trên cơ sở đó đưa ra một số định hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển CNHT,
trong đó nhấn mạnh giải pháp về vốn cho phát triển CNHT.[39]
- PGS, TS Nguyễn Văn Thanh, (2006), “Xây dựng Khu công nghiệp và
khu chế xuất theo hướng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam”, Tạp
chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, số 12. Tác giả đã phân tích
diễn biến của dòng FDI trên thế giới và chỉ ra những cơ hội cho Việt Nam
trong quá trình phát triển. Tác giả đã phân tích sự cần thiết và những nhân tố
ảnh hưởng đến quá trình phát triển ngành CNHT. Trên cơ sở đó, đưa ra những
giải pháp thúc đẩy các khu công nghiệp, khu chế xuất phát triển tạo điều kiện
phục vụ cho CNHT phát triển.[68]
14
- Diễn đàn phát triển Việt Nam - VDF, (2007), “Xây dựng công nghiệp hỗ
trợ tại Việt Nam”, GS. Kenichi Ohno chủ biên, Nhà xuất bản Lao động Xã hội.
Cuốn sách đã đưa ra kết quả khảo sát về thực trạng các ngành CNHT; trong
Chương 1 “Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam dưới góc nhìn của các nhà sản xuất
Nhật Bản”, với 11 nội dung đánh giá tổng quan về thực trạng và vấn đề phát
triển CNHT hiện nay ở Việt Nam; Chương 2 “Công nghiệp hỗ trợ: Tổng quan về
khái niệm và sự phát triển”, đã tổng kết lịch sử ra đời và năm khái niệm liên
quan đến CNHT và đề xuất khái niệm cho Việt Nam. Đặc biệt trong Chương IV:
“Thiết kế và quản lý cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ”, tác giả Junichi Mori
đã đề xuất việc xây dựng cơ sở dữ liệu về CNHT, tác giả đã đưa ra những
nguyên nhân đòi hỏi cần phải xây dựng cơ sở dữ liệu trong quá trình phát triển
CNHT và chỉ ra những yêu cầu, đặc điểm của cơ sở dữ liệu. Thông qua đó, tác giả
chứng minh việc xây dựng cơ sở dữ liệu là yêu cầu cấp bách, là “dầu bôi trơn” cần
thiết trong chiến lược phát triển CNHT do FDI dẫn dắt và mang lại lợi ích cho các
doanh nghiệp trong nước.[27]
- PGS, TS Vũ Chí Lộc, (2010), “Vai trò của các công ty xuyên quốc gia
trong quá trình phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ tại các quốc gia đang
phát triển”, Tạp chí Thương Mại (số 19). Tác giả đã phân tích một số nhân tố
ảnh hưởng đến phát triển các ngành CNHT trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các công ty xuyên quốc gia. Theo tác
giả, chính các công ty xuyên quốc gia sẽ là “diễn viên” chính trong “vở kịch”:
“Chuyên môn hóa sản xuất quốc tế”, còn CNHT chỉ là “diễn viên quần chúng”
nhưng không thể thiếu được trong nền kinh tế toàn cầu. Thông qua bài viết, tác
giả muốn khẳng định vai trò không ngừng tăng lên của ngành CNHT Việt Nam
trong quá trình phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế. [47]
- Trương Đình Tuyển - nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, (2011), “Phát
triển công nghiệp hỗ trợ. Kiến nghị cách tiếp cận và chính sách cho Việt Nam”.
15
Bài viết trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Chính sách tài chính phát triển công
nghiệp hỗ trợ” do Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính) và Viện
Nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp (Bộ Công thương) tổ chức. Bài
viết đã phân tích và làm rõ khái niệm CNHT và vị trí của CNHT trong chuỗi
giá trị, từ đó chỉ ra việc lựa chọn sản phẩm CNHT cho Việt Nam. Đặc biệt,
trong giải pháp tổ chức sản xuất các sản phẩm CNHT và những ưu đãi cho
CNHT, tác giả đưa ra mô hình tổ chức sản phẩm CNHT theo sơ đồ hình thang
với bốn giai đoạn, thông qua đó chỉ ra Việt Nam mới ở giai đoạn III và IV, sản
xuất phần lớn những sản phẩm chi tiết có độ phức tạp không cao. Do đó, Việt
Nam cần tạo mọi điều kiện cho CNHT phát triển lên đỉnh hình thang thông qua
việc làm trước mắt là xây dựng và ban hành Nghị định, Luật về CNHT cũng
như chương trình hành động quốc gia về CNHT và lập Cục Công nghiệp hỗ trợ
thuộc Bộ Công thương để quản lý và phát triển CNHT.[96]
1.1.2.2. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về phát triển các ngành
công nghiệp hỗ trợ
- Viện Kinh tế Việt Nam, (2007), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ: nghiên
cứu trường hợp công nghiệp hỗ trợ cho ngành sản xuất ô tô, xe máy”, đề tài
nghiên cứu khoa học cấp viện do TS. Nguyễn Trọng Xuân chủ nhiệm. Nhóm tác
giả đã đánh giá khái quát CNHT Việt Nam, những thuận lợi và khó khăn trong
quá trình phát triển, đặc biệt là đi sâu phân tích thực trạng CNHT trong hai ngành
ô tô và xe máy thông qua việc nghiên cứu nhu cầu về sản phẩm hỗ trợ và thực
trạng cung cấp sản phẩm hỗ trợ trong hai ngành này. Trên cơ sở đó đưa ra một loạt
các giải pháp phát triển cho hai ngành ô tô và xe máy, đặc biệt là quan tâm, xây
dựng một hệ thống CNHT đảm bảo phục vụ ngành công nghiệp ô tô, xe máy nói
riêng, cũng như toàn ngành kinh tế nói chung.[112]
- Đại học Ngoại thương, (2008), “Nghiên cứu chuỗi giá trị toàn cầu và khả
năng tham gia của các doanh nghiệp ngành điện tử Việt Nam”. Đề tài khoa học
cấp Bộ, TS. Nguyễn Hoàng Ánh chủ nhiệm. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, trong
16
chiến lược phát triển các ngành công nghiệp, Việt Nam nên lựa chọn, định hướng
phát triển ngành công nghiệp điện tử trở thành ngành mũi nhọn, mang tính đột phá
chiến lược vì có nhiều ưu thế và lợi thế cạnh tranh. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện
nay và sắp tới, trong chuỗi giá trị toàn cầu Việt Nam nên tập trung vào công đoạn
sản xuất, là khâu có thể tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ của các tập đoàn điện tử quốc
tế, chứ chưa nên tham gia vào khâu thiết kế, phân phối của chuỗi giá trị. Trong
quá trình đó, ở công đoạn sản xuất Việt Nam cần quan tâm, đầu tư nhiều hơn nữa
hệ thống các sản phẩm hỗ trợ cho phát triển ngành công nghiệp điện tử.[5]
- Nguyễn Ngọc Sơn, (2008), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành dệt
may Việt Nam”, Tạp chí Công nghiệp số 359. Bài viết đưa ra các quan điểm về
CNHT và CNHT ngành dệt may trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trên cơ sở
đó phân tích thực trạng ngành dệt may Việt Nam ở các tiêu chí như: lĩnh vực sản
xuất xơ sợi tổng hợp, công nghiệp cơ khí ngành dệt may, công nghiệp hóa chất
phục vụ ngành dệt may, tình hình sản xuất phụ liệu ngành dệt may... Trên cơ sở
đó, tác giả đã đánh giá chung những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và
chỉ ra nguyên nhân yếu kém của ngành dệt may và đưa ra giải pháp thúc đẩy
CNHT ngành dệt may phát triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.[64]
- Trương Thị Chí Bình, (2010), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong
ngành điện tử gia dụng ở Việt Nam”; Luận án tiến sĩ kinh tế, Khoa Quản trị
kinh doanh, Viện Đào tạo sau đại học, Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Tác
giả đã phân tích các luận cứ lý thuyết và thực tiễn về cách thức phát triển CNHT
ngành điện tử gia dụng. Làm rõ bản chất, thành phần, các nhân tố ảnh hưởng đến
phát triển CNHT, từ đó khẳng định quan điểm “hợp lý” về phát triển CNHT cho
Việt Nam là dựa trên mạng lưới của “lý thuyết trò chơi”, với vai trò tích cực của
các TĐĐQG và các nhà cung ứng quốc tế. Tác giả còn phân tích quy trình sản
xuất các sản phẩm điện tử gia dụng, xác định phạm vi của CNHT ngành điện tử
gia dụng bao gồm quá trình sản xuất 3 nhóm sản phẩm chính: linh kiện điện và
điện tử, linh kiện kim loại, linh kiện nhựa và cao su. Nghiên cứu lý do CNHT
17
ngành điện tử gia dụng ở Việt Nam chưa phát triển và khẳng định, CNHT ngành
điện tử gia dụng có thể phát triển, khi Việt Nam tham gia được vào các lớp cung
ứng trong mạng lưới sản xuất của các TĐĐQG. Trên cơ sở các luận cứ này,
Luận án kiến nghị một số giải pháp chính để phát triển CNHT ngành điện tử gia
dụng: Xây dựng định hướng phát triển CNHT ngành ĐTGD Việt Nam với việc
tập trung cung ứng các linh kiện kim loại và nhựa cho các lớp cung ứng trong
mạng lưới sản xuất của các TĐĐQG, từ đó đề xuất chương trình phát triển
CNHT ngành điện tử gia dụng; kiến nghị điều chỉnh Quy hoạch phát triển CNHT
Việt Nam: xác định CNHT theo các ngành cung ứng; thu hẹp khái niệm CNHT;
lựa chọn lĩnh vực ưu tiên và xây dựng chương trình hành động; xây dựng mô
hình phát triển CNHT ngành ĐTGD theo 03 mức: Khu CNHT, Cụm liên kết
ngành và Vườn ươm doanh nghiệp CNHT.[7]
- Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách công nghiệp - Bộ Công
thương, (2011), “Công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam”, đề tài khoa học
cấp Bộ. Đề tài đã đánh giá tổng quan thực trạng phát triển CNHT của ngành dệt
may. Đề tài được chia làm ba phần nghiên cứu, trong Phần I, nhóm tác giả đi
sâu phân tích năng lực của các doanh nghiệp CNHT trong ngành dệt may Việt
Nam trên các mặt như: năng lực tài chính, năng lực công nghệ, năng lực thị
trường và nguồn nhân lực... Từ đó, đánh giá những tiềm năng, lợi thế trong
phát triển ngành dệt may Việt Nam. Trong Phần II, các tác giả đã tập trung
nghiên cứu mối liên kết trong ngành dệt may Việt Nam hiện nay, đồng thời
cũng nghiên cứu những kinh nghiệm xây dựng và vận hành mô hình liên kết
phù hợp với bối cảnh phát triển CNHT ngành dệt may Việt Nam trong thời
gian tới. Trên cơ sở đó, trong Phần III, nhóm tác giả đã đưa ra những giải pháp
thúc đẩy CNHT ngành dệt may phát triển, trong đó đặc biệt nhấn mạnh hai giải
pháp: nâng cao năng lực các doanh nghiệp CNHT ngành dệt may và vận hành
có hiệu quả các mô hình liên kết.[103]
- Nguyễn Thị Dung Huệ, (2012), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành
dệt may của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sĩ
18
kinh tế, chuyên ngành Kinh tế thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế, Đại học
Ngoại thương Hà Nội. Tác giả luận án đã luận giải làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn về phát triển CNHT ngành dệt may như: khái niệm CNHT ngành dệt may,
mối quan hệ giữa ngành công nghiệp dệt may và CNHT ngành dệt may, vai trò
của ngành CNHT dệt may với sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may. Từ
đó tác giả đưa ra những tiêu chí đánh giá sự phát triển của ngành dệt may, trên
cơ sở những tiêu chí đánh giá thực trạng ngành công nghiệp dệt may và CNHT
ngành dệt may. Tác giả đã đưa ra những giải pháp ở cả tầm vĩ mô và vi mô để
thúc đẩy CNHT ngành dệt may Việt Nam phát triển.[43]
- Đỗ Minh Thụy, (2012), “Công nghiệp hỗ trợ ngành giày dép - nghiên
cứu đối với ngành giày dép ở Hải Phòng”, Luận án tiến sĩ chuyên ngành quản lý
kinh tế, Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương. Tác giả đã luận giải cơ sở lý luận
và thực tiễn về CNHT, các chỉ tiêu đánh giá và yếu tố ảnh hưởng đến phát triển
CNHT ngành giày dép ở Việt Nam, từ đó xác định điểm mạnh, yếu, cơ hội và
thách thức trong phát triển CNHT ngành giày dép ở Việt Nam. Đồng thời,
nghiên cứu thực trạng và nhu cầu về CNHT tại các doanh nghiệp giày dép ở Hải
Phòng, từ đó xác định quan điểm, phương hướng, đề xuất 04 nhóm giải pháp
phát triển CNHT ngành giày dép ở Việt Nam trong thời gian tới.[81]
- PGS, TS. Nguyễn Đình Tài, (2013), “Mô hình nào cho cụm liên kết
ngành ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính số 4. Bài viết đánh giá vai trò quan trọng
của cụm liên kết ngành và coi đó như là một công cụ chính sách quan trọng, bởi
sự lớn mạnh của một cụm liên kết ngành thường kéo theo sự gia tăng và phát
triển của các doanh nghiệp trong ngành CNHT. Các DNNVV trong hoạt động
CNHT sẽ có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn đầu tư, thị trường đầu tư và dây
chuyền công nghệ hiện đại. Bài viết khẳng định sự phát triển cụm liên kết ngành
sẽ là điều kiện cần thiết cho sự phát triển ngành CNHT. Mặt khác, CNHT cũng
là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển công nghiệp bởi quá trình phát triển cụm
liên kết ngành thực sự sẽ phải dựa vào sự phát triển của nhóm ngành CNHT.
19
Cụm liên kết ngành sẽ dễ dàng chinh phục được những thị trường mà các
DNNVV không thể thâm nhập nếu hoạt động riêng lẻ. Việc gắn kết phát triển
các khu công nghiệp, cụm công nghiệp với phát triển CNHT được nhìn nhận như
một giải pháp tích cực và hiệu quả trong quá trình hội nhập và nỗ lực tham gia
vào chuỗi giá trị toàn cầu. [66]
1.1.2.3. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về giải pháp phát triển
công nghiệp hỗ trợ
- PGS, TS Trần Quang Lâm, Ths. Đinh Trung Thành, (2007), “Phát triển
công nghiệp phụ trợ Việt Nam trước làn sóng đầu tư mới của các công ty xuyên
quốc gia Nhật Bản”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương số 21 - 22. Các
tác giả đã phân tích thực trạng CNPT Việt Nam, chỉ rõ những yếu kém và tính
tất yếu khách quan phát triển CNPT ở Việt Nam, đảm bảo thu hút đầu tư nước
ngoài nói chung và của Nhật Bản nói riêng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế. Các tác giả đưa ra một số gợi ý nhằm phát triển CNPT ở Việt Nam hiện nay.[46]
- PGS, TS Lê Thế Giới (chủ nhiệm), (2008), “Các giải pháp phát triển
các ngành công nghiệp hỗ trợ của thành phố Đà Nẵng”. Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Thành phố. Đề tài đã tìm hiểu thực trạng và đánh giá tiềm năng của các
ngành CNHT thông qua các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thành phố,
thông qua việc mô tả một cách tổng hợp thị trường sản phẩm và dịch vụ hỗ trợ.
Đánh giá tiềm năng sử dụng sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ của các doanh nghiệp
thành phố. Đánh giá tiềm năng cung ứng sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ của các doanh
nghiệp trong thành phố và nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia thị
trường các sản phẩm hỗ trợ của các doanh nghiệp. Đề tài nghiên cứu cũng đã
đưa ra một số định định hướng cho phát triển CNHT của thành phố Đà Nẵng
trong thời gian tới.[37]
- TS. Đặng Thu Hương, Th.s Trần Ngọc Thìn, (2009), “Thực trạng công
nghiệp hỗ trợ tại Việt nam và một số giải pháp khắc phục”, Tạp chí Kinh tế và
Phát triển, số 139 đã đánh giá thực trạng ngành CNHT ở Việt Nam và chỉ ra
20
nguyên nhân của sự yếu kém đó chủ yếu là do thiếu nguồn nhân lực công
nghiệp chất lượng cao và thiếu hụt thông tin giữa các nhà sản xuất trong nước
và nước ngoài, đồng thời môi trường và chính sách không ổn định cũng như sự
lỏng lẻo trong liên kết của các doanh nghiệp nội địa là những nguyên nhân cơ
bản dẫn đến sự kém phát triển của CNHT tại Việt Nam trong thời gian qua. Từ
đó, các tác giả đưa ra 04 nhóm giải pháp thúc đẩy CNHT Việt Nam phát triển
như: tăng cường nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng mạng lưới thông tin,
và tăng cường sự liên kết.[44]
- Trường Đại học Ngoại thương, (2010), “Công nghiệp hỗ trợ - kinh
nghiệm từ các nước và giải pháp cho Việt Nam”, đề tài khoa học cấp Nhà nước
do GS, TS Hoàng Văn Châu làm chủ nhiệm, các tác giả đã đi sâu phân tích
những vấn đề chung về CNHT. Từ đó làm cơ sở phân tích kinh nghiệm phát
triển CNHT của thế giới, trong đó đặc biệt phân tích phát triển CNHT các nước
ở khu vực Châu Á như: Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia... từ đó rút
ra những bài học kinh nghiệm cho quá trình phát triển CNHT tại Việt Nam.
Ngoài ra, đề tài còn đánh giá thực trạng CNHT Việt Nam và đề xuất những giải
pháp thúc đẩy CNHT Việt Nam phát triển.[24]
- Trường Đại học Ngoại thương, (2010), “Chính sách phát triển công nghiệp
hỗ trợ của Việt Nam”, GS, TS Hoàng Văn Châu chủ biên, Nhà xuất bản Thông tin
và truyền thông. Cuốn sách được kết cấu thành năm chương: Trong Chương I, các
tác giả nêu những vấn đề khái quát chung về CNHT và các mô hình phát triển
CNHT; Chương II, các tác giả đã đi sâu phân tích chính sách phát triển CNHT của
một số nước như Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia... từ đó rút ra những
bài học kinh nghiệm cho quá trình phát triển CNHT tại Việt Nam. Chương III, trên
cơ sở đánh giá thực trạng năm ngành chủ đạo trong công nghiệp là: ô tô, điện tử, dệt
may, da giày, cơ khí chế tạo, thông qua đó các tác giả đã đánh giá khái quát thực
trạng CNHT Việt Nam. Trong Chương IV, các tác giả đi vào phân tích chính sách
phát triển CNHT đối với một số ngành. Từ đó đánh giá việc thực hiện và hiệu quả
21
của những chính sách theo nhóm doanh nghiệp và nhóm tác giả. Đặc biệt, ở chương
V, trên cơ sở dự báo những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển CNHT của Việt
Nam đến năm 2020, nhóm tác giả đã nêu ra quan điểm phát triển CNHT Việt Nam
đến năm 2020. Từ đó, đề xuất thể chế và chính sách phát triển CNHT cho từng
ngành công nghiệp nói chung và cả ngành CNHT nói riêng.[25]
- Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách công nghiệp - Bộ Công
thương, (2010), “Nghiên cứu chính sách tổng thể phát triển công nghiệp hỗ trợ
trong điều kiện hội nhập”, đề tài khoa học cấp Bộ. Đề tài đã đưa ra những vấn đề
chung về CNHT như: khái niệm, những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
CNHT, sự cần thiết phải phát triển CNHT ở Việt Nam và các lựa chọn ưu tiên
cho phát triển CNHT. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đã phân tích thực trạng phát
triển CNHT tại Việt Nam thông qua phân tích thực trạng trong các ngành: cơ khí
chế tạo, lắp ráp ô tô, công nghiệp điện tử, dệt may và da giày. Từ những đánh giá
chung về CNHT, nhóm tác giả đã đề xuất các chính sách và giải pháp phát triển
CNHT Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.[101]
- TS. Phạm Tất Thắng, (2013), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ: một số vấn
đề đặt ra”, Tạp chí Cộng sản điện tử, số tháng 10. Bài viết được tác giả phân tích
tương đối sâu về vai trò của CNHT và thực trạng CNHT, trên 04 khía cạnh và
khẳng định CNHT ở Việt Nam đã tồn tại và đang phát triển một cách tự phát và
đạt được một số kết quả nhất định nhưng còn nhiều hạn chế cả về môi trường thể
chế, thông tin thị trường, nguồn nhân lực đến quy mô, trình độ công nghệ của
doanh nghiệp... Chính sự yếu kém của CNHT cũng góp phần vào thâm hụt cán
cân thương mại của Việt Nam. Từ sự phân tích, tác giả chỉ ra 04 khó khăn, yếu
kém và 04 thách thức đối với quá trình phát triển CNHT ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra 06 quan điểm và 06 giải pháp thúc đẩy CNHT trong
thời gian tới phát triển đúng hướng.[71]
- Viện Chiến lược và Chính sách tài chính - Bộ Tài chính, (2013), “Giải
pháp tài chính phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ”, đề tài khoa học cấp Bộ do
22
TS. Vũ Nhữ Thăng chủ nhiệm. Đề tài đã đưa ra khái niệm CNHT và sản phẩm
CNHT, phân tích các chính sách ưu đãi tài chính phát triển CNHT, phân loại các
chính sách và tác động của các chính sách ưu đãi tài chính đối với phát triển
CNHT, trên cơ sở đó phân tích thực trạng CNHT và thực trạng chính sách tài
chính phát triển ngành CNHT, đưa ra quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển
ngành CNHT và đề xuất 02 nhóm giải pháp ưu đãi tài chính cho các ngành công
nghiệp hạ nguồn và cho các ngành CNHT trong thời gian tới.[70]
- Trường Đại học Đà Nẵng, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Ngãi,
(2013), “Điều tra, đánh giá thực trạng công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi và đề xuất giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2011 -
2015 định hướng 2020”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh do PGS, TS Nguyễn
Trường Sơn chủ nhiệm. Đề tài đã tổng hợp và xây dựng cơ sở lý luận về phát triển
CNHT của tỉnh Quảng Ngãi; Đánh giá đúng thực trạng, xác định đúng nguyên
nhân hạn chế sự phát triển CNHT của tỉnh; Đánh giá tiềm năng, dự báo xu thế và
xác định phương hướng phát triển CNHT của tỉnh; Xây dựng hệ thống cơ sở dữ
liệu về CNHT tỉnh Quảng Ngãi (chủ yếu dữ liệu về Cung - Cầu về CNHT) làm
căn cứ tham chiếu cho các doanh nghiệp trong việc hoạch định chiến lược kinh
doanh; Đề xuất các chính sách mang tính hệ thống và khả thi nhằm phát triển
CNHT của tỉnh Quảng Ngãi. Với việc phân tích một cách tổng quát sự phát triển
của CNHT dựa trên nhiều góc nhìn và cách tiếp cận khác nhau như quan điểm về
xây dựng chính sách công nghiệp, lý thuyết về cạnh tranh khu vực, sự phát triển
ngành công nghiệp và các lý thuyết kinh doanh hiện đại, đề tài đã đề xuất các giải
pháp để thực hiện các mục tiêu trên. Muốn vậy, các giải pháp phải đảm bảo
nguyên tắc về phát triển kinh doanh dựa trên các yếu tố thị trường và chính sách
hỗ trợ của Nhà nước. Trên quan điểm đó, đề tài đề xuất hai nhóm giải pháp tổng
hợp cho sự phát triển CNHT khu vực tỉnh Quảng Ngãi là: tập trung vào xây dựng
các cơ sở công nghiệp quan trọng nhất của CNHT và các doanh nghiệp hỗ trợ và
hướng vào việc thiết lập các điều kiện và lợi thế cho các liên kết giữa các doanh
nghiệp cần hỗ trợ và các doanh nghiệp hỗ trợ.[65]
23
- Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2013), “Kế hoạch trợ giúp phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn thành
phố giai đoạn 2013 - 2020”, Kế hoạch số 131/KH-UBND, ngày 13 tháng 8 năm
2013. Kế hoạch đưa ra 04 quan điểm, 03 định hướng và mục tiêu, nhiệm vụ trợ
giúp phát triển DNNVV đến năm 2020, đồng thời đưa ra 02 nhóm giải pháp, đó là
nhóm giải pháp liên quan đến chính sách, thể chế cho DNNVV trong lĩnh vực
CNHT, nhóm giải pháp hỗ trợ thông qua các chương trình, dự án trợ giúp
DNNVV trong lĩnh vực CNHT, như: phổ biến công nghệ kỹ thuật sản xuất các sản
phẩm CNHT dành cho DNNVV; trợ giúp DNNVV trở thành nhà cung ứng cho các
tập đoàn đa quốc gia trong lĩnh vực chế tạo ở Việt Nam; hỗ trợ DNNVV áp dụng
các hệ thống quản lý trong sản xuất; đào tạo nguồn nhân lực cho DNNVV trong
lĩnh vực CNHT. Kế hoạch còn đưa ra 06 chương trình, dự án trợ giúp phát triển
DNNVV trong lĩnh vực CNHT trên địa bàn thành phố giai đoạn 2013 - 2020.[97]
- Ủy ban nhân dân tỉnh Long An, (2013), “Quy hoạch phát triển công
nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Long An đến năm 2020, định hướng đến năm
2030”, Quyết định số 3533/QĐ-UBND ngày 10 tháng 10 năm 2013. Bản Quy
hoạch đã đưa ra quan điểm chủ đạo và quan điểm phát triển của từng ngành, lĩnh
vực trọng điểm về CNHT tại tỉnh Long An. Trên cơ sở đó, đưa ra mục tiêu chung,
mục tiêu cụ thể và định hướng phát triển CNHT ở tỉnh Long An đến năm 2020. Đặc
biệt, quy hoạch đã đưa ra 16 danh mục kêu gọi đầu tư và 12 danh mục dự án ưu tiên
đầu tư về CNHT; bản Quy hoạch còn đánh giá tác động môi trường chiến lược của
quy hoạch phát triển CNHT trên địa bàn tỉnh Long An đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 và 08 nhóm giải pháp chủ yếu để thực hiện quy hoạch.[98]
1.1.2.4. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về công nghiệp hỗ trợ
với phát triển nền kinh tế nói chung
- Junichi Mori (2005), “Phát triển CNHT cho quá trình công nghiệp hóa
của Việt Nam: tăng cường tính ngoại hiện tích cực theo chiều dọc thông qua đào
tạo liên kết”, Master thesis, Trường Fletcher, Đại học Tufts, Hoa Kỳ. Trong
24
phần đầu, tác giả đã phân tích 09 nội dung liên quan đến sự phát triển kinh tế
thông qua sự phát triển của CNHT, tác giả chỉ ra sự phát triển của CNHT gặp 02
trở ngại: quy mô và thông tin. Quy mô nhỏ do thị trường đầu ra nhỏ, không có
nhiều liên hệ giữa nhà sản xuất trong nước và các công ty đa quốc gia. Tác giả đã
phân tích ngành CNHT tại Việt Nam thông qua những tiêu chí: Nhu cầu hạn hẹp
từ các công ty đa quốc gia đối với việc sản xuất phụ tùng trong nước; nguồn cung
bị hạn chế: những rào cản hạn chế sự phát triển của ngành CNHT; làm thế nào để
các chính sách công loại bỏ các khó khăn trong việc phát triển ngành CNHT; phát
triển công nghệ để cải thiện vấn đề và đề xuất chính sách: khuyến khích các
chương trình hợp tác đào tạo về các đề nghị chính sách cụ thể hơn.[52]
- Chính phủ, (2007) “Quy hoạch phát triển CNHT Việt Nam đến năm
2010, tầm nhìn đến năm 2020”, do Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách -
Bộ Công nghiệp (cũ, nay là Bộ Công thương) soạn thảo. Trong Quy hoạch này,
khái niệm CNHT được chính thức hóa ở Việt Nam. Bản Quy hoạch được chia
làm bốn phần, chủ yếu tập trung vào một số ngành đã và đang định hình một
cách rõ nét về quy trình sản xuất và sản phẩm như: công nghiệp sản xuất lắp ráp
thiết bị điện - điện tử; công nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô - xe máy; công nghiệp
dệt - may, da - giày; công nghiệp cơ khí chế tạo và gia công kim loại và chủ yếu
đi sâu vào lĩnh vực phát triển phần cứng (phần sản xuất và cung cấp vật tư, phụ
tùng, phụ kiện hỗ trợ). Từ đó, Quy hoạch đưa ra những đánh giá về hàm lượng
CNHT của từng ngành quy hoạch và xây dựng phương hướng phát triển CNHT
cho những ngành công nghiệp này trong thời gian tới với sáu nhóm giải pháp
quan trọng nhằm đưa công nghiệp Việt Nam chủ động tham gia vào quá trình
sản xuất khu vực và thế giới trong phần cao hơn của chuỗi giá trị.[13]
- PGS, TS Trần Đình Thiên (chủ nhiệm) (2007), “Phát triển ngành công
nghiệp hỗ trợ - đánh giá thực trạng và hệ quả”, đề tài khoa học cấp Bộ. Đề tài đã
tập trung phân tích và làm rõ khái niệm CNHT, xác định vai trò, chức năng và
yêu cầu phát triển CNHT trong việc thực hiện chiến lược CNH, HĐH của Việt
25
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, đề tài còn phân tích và
đánh giá thực trạng ngành CNHT ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất
phương hướng và giải pháp phát triển các ngành CNHT trong tổng thể chiến
lược CNH, HĐH của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.[73]
- Ohno, Kenichi (VDF), (2008), “Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, từ quy
hoạch đến Kế hoạch hành động thông qua quan hệ đối tác Monozukuri Việt Nam
- Nhật Bản”, Kỷ yếu Hội thảo “Kế hoạch hành động và phát triển công nghiệp
phụ trợ”. Bài viết phân tích, mở cửa và tiếp nhận FDI có thể giúp một nước đạt
đến mức thu nhập trung bình, nhưng mức thu nhập cao hơn cần có chính sách tốt
và khu vực tư nhân năng động, do đó Việt Nam cần tạo ra giá trị nội địa thay vì
chỉ cung cấp lao động giá rẻ và đất xây dựng. Bài viết phân tích bài học kinh
nghiệm từ Thái Lan và Malaysia, chỉ ra những thách thức đối với Việt Nam. Bài
viết chỉ ra thúc đẩy CNHT là bước đi quan trọng trong quan hệ hợp tác Việt
Nam - Nhật Bản, do đó trong thời gian tới Việt Nam cần thay đổi cách hoạch
định sách công nghiệp, đưa ra mục tiêu và kế hoạch hành động cụ thể, học hỏi
sản xuất tích hợp, sử dụng vốn ODA hiệu quả, giải quyết các vấn đề xã hội, quản
lý vĩ mô hợp lý để tạo nên 3 trụ cột của sức mạnh công nghiệp bao gồm, CNHT,
nguồn nhân lực công nghiệp và dịch vụ hậu cần hiệu quả.[57]
- Nguyễn Thị Kim Thu, (2012), “Công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
Tác giả đã phân tích làm rõ bản chất, vai trò và tiêu chí đánh giá sự phát triển của
CNHT. Phân tích điều kiện và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển CNHT
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tác giả còn phân tích những cơ hội và
thách thức đối với CNHT mà hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cho Việt Nam. Trên
cơ sở đó chỉ ra 04 nội dung nói lên sự cần thiết phát triển CNHT ở Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thông qua việc đánh giá thực trạng CNHT
trong 03 ngành điển hình: ô tô, dệt may, cơ khí chế tạo, tác giả đề xuất 03 quan
26
điểm, phương hướng phát triển ở 03 ngành ô tô, dệt may và cơ khí chế tạo. Từ đó,
chỉ ra các giải pháp phát triển CNHT nói chung và CNHT của 03 ngành trên nói
riêng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.[76]
Như vậy có thể thấy, CNHT đã và đang là lĩnh vực được quan tâm, nghiên
cứu và đầu tư nhiều nhất ở các quốc gia châu Á, phổ biến là ở Nhật Bản, sau này
là Hàn Quốc, Thái Lan... và Việt Nam.
1.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC
NGHIÊN CỨU
1.2.1. Đánh giá chung về những kết quả của các công trình khoa học
đã nghiên cứu
Dù tiếp cận dưới góc độ lý luận hay thực tiễn, các công trình nghiên cứu
trên đã đề cập và phản ánh nhiều góc cạnh trên các giác độ khác nhau về
CNHT và phát triển CNHT ở Việt Nam; đây là những công trình có ý nghĩa đối
với các cơ quan nghiên cứu và giúp cho việc hoạch định các chính sách thúc
đẩy CNHT Việt Nam phát triển. Một số vấn đề đã được tập trung phân tích
như: lý luận chung về CNHT, bước đầu chỉ ra những quan niệm khác nhau về
CNHT, cấu trúc ngành CNHT, phân tích cơ sở lý luận chung về CNHT trong
một số ngành như điện tử gia dụng, dệt may, da giày.... Làm rõ một số đặc
điểm của CNHT trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Phân tích các nhân tố
ảnh hưởng, vai trò và sự cần thiết phát triển CNHT trong nâng cao sức cạnh
tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế, đặc biệt phân tích làm rõ vai trò của
CNHT trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Các nghiên cứu cũng
trình bày kinh nghiệm của một số nước trong phát triển CNHT trên các khía
cạnh chiến lược phát triển CNHT, thu hút đầu tư nước ngoài cho CNHT,... từ
đó chỉ ra một số kinh nghiệm, gợi ý cho quá trình hoạch định cơ chế, chính
sách phát triển CNHT ở Việt Nam.
Một số công trình đã bước đầu nghiên cứu tổng quan thực trạng ngành
CNHT trong quá trình phát triển của một số ngành công nghiệp điển hình như:
27
xe máy, ô tô, điện, điện tử gia dụng..., chỉ rõ ưu điểm, thành tựu, hạn chế và
những nguyên nhân trong phát triển CNHT của các ngành, qua đó đi đến khẳng
định sự hạn chế, yếu kém của CNHT không chỉ làm giảm sức cạnh tranh của sản
phẩm công nghiệp nói riêng, nền kinh tế quốc dân nói chung, mà còn tác động
làm thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam trong hội nhập quốc tế, ảnh
hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững kinh tế - xã hội của Việt Nam trong các
giai đoạn tiếp theo. Ngoài ra, các công trình còn đề cập đến phát triển CNHT ở
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chỉ rõ những thuận lợi, khó khăn
trong phát triển CNHT ở Việt Nam, từ đó đưa ra những gợi ý, giải pháp định
hướng phát triển ngành CNHT trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và chỉ ra
những định hướng phát triển CNHT cho một số ngành công nghiệp ở Việt Nam
hiện nay. Trong đó nhấn mạnh việc phát triển các KCN, CCN, khu chế xuất,
DNNVV và vấn đề liên kết doanh nghiệp trong phát triển CNHT là những yếu tố
quan trọng thúc đẩy CNHT phát triển trong thời gian tới.
Những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trên là tài liệu có
giá trị tham khảo tốt cho tác giả trong quá trình thực hiện đề tài.
1.2.2. Những vấn đề còn trống cần tiếp tục nghiên cứu
Mặc dù có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu, điều tra, khảo sát
về CNHT, song ở tầm vĩ mô, các công trình khoa học nghiên cứu vẫn chưa
luận giải rõ và đề cập đến:
- Nội hàm của CNHT dưới góc độ kinh tế chính trị.
- Vai trò của CNHT đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành
công nghiệp Việt Nam nói riêng.
- Những thuận lợi, khó khăn và nhân tố mới ảnh hưởng đến phát triển
CNHT hiện nay ở Việt Nam
- Đánh giá thực trạng CNHT trong một số ngành công nghiệp xe máy,
dệt may và điện tử,...
- Giải pháp nhằm phát triển CNHT ngành xe máy, dệt may và điện tử.
28
Trong Luận án, tác giả đi sâu nghiên cứu vấn đề: CNHT trong một số
ngành công nghiệp ở Việt Nam. Bằng nghiên cứu về CNHT, tác giả đi sâu làm
rõ vai trò của phát triển CNHT đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và
ngành công nghiệp ở Việt Nam nói riêng; đặc biệt là nghiên cứu sâu và làm rõ
vai trò có tính hai mặt trong điều kiện gia tăng của xu hướng toàn cầu hoá kinh
tế, quá trình phân công lao động quốc tế sâu rộng, liên doanh, liên kết ngày
càng phát triển, sự gia tăng mối quan hệ trong sản xuất các sản phẩm công
nghiệp, theo những tài liệu tác giả tham khảo được thì chưa có công trình nào
đề cập, nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và dưới góc độ kinh tế chính
trị. Trên cơ sở phân tích, khảo cứu đánh giá thực trạng CNHT trong 03 ngành
chủ yếu là xe máy, dệt may và điện tử để thấy được những thành công, hạn chế
và những vấn đề đặt ra trong phát triển CNHT. Từ đó, đề xuất cơ sở khoa học
cho những giải pháp, cũng như biện pháp triển khai nhằm phát triển CNHT
trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam thời gian tới.
Tác giả xác định đề tài luận án là mang tính thực tiễn cấp thiết cần được
nghiên cứu và làm sáng tỏ.
29
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
2.1.1. Quan niệm về công nghiệp hỗ trợ
Công nghiệp hỗ trợ theo tiếng Anh là Supporting Industry - SI, còn được
gọi là công nghiệp phụ trợ hay công nghiệp bổ trợ. Khái niệm CNHT, bắt đầu
xuất hiện ở Nhật Bản và sau này là các nước công nghiệp trẻ ở châu Á như Đài
Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, nơi mà chi tiết các sản phẩm thường được gia công ở
một đơn vị sản xuất khác với nơi chế tạo, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh cuối
cùng. Tuy nhiên, theo từng quan điểm, hoàn cảnh, mục đích mà mỗi quốc gia
đều có cách định nghĩa riêng về CNHT. Cụ thể:
Ở Nhật Bản, năm 1985, lần đầu tiên MITI (sau đổi tên thành METI - Bộ
Kinh tế Công nghiệp và Thương mại) sử dụng thuật ngữ này trong “Sách trắng về
hợp tác quốc tế năm 1985”; và được dùng để chỉ “các DNNVV góp phần tăng
cường cơ sở hạ tầng công nghiệp ở các nước Châu Á trong trung và dài hạn hay là
các DNNVV sản xuất phụ tùng và linh kiện” [141]. Do tăng giá của đồng Yên so
với đồng Đôla sau Hiệp định Plaza vào tháng 9 năm 1985, đã ảnh hưởng rất lớn
tới các doanh nghiệp xuất khẩu của Nhật Bản, các doanh nghiệp phải chuyển
hoạt động sản xuất sang các nước có nguồn lao động rẻ hơn. Nhưng các nhà lắp
ráp Nhật Bản ở nước ngoài vẫn phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các DNNVV ở
Nhật Bản, vì các doanh nghiệp nội địa các nước sở tại chưa phát triển, không thể
đáp ứng việc cung cấp các linh phụ kiện quan trọng. Thuật ngữ CNHT lúc này
được sử dụng để chỉ tình trạng thiếu công nghiệp sản xuất phụ tùng linh kiện tại
các nước này. Năm 1987, MITI sử dụng thuật ngữ này với các nước Châu Á
trong kế hoạch phát triển công nghiệp Châu Á mới (New AID plan); với một
chương trình hợp tác kinh tế toàn diện trên các mặt đầu tư, viện trợ và thương
mại. Thời điểm này, thuật ngữ CNHT được định nghĩa là các ngành cung cấp
những gì cần thiết như nguyên vật liệu thô, linh phụ kiện và hàng hoá, cho các
30
ngành công nghiệp lắp ráp. Năm 1993, trong chương trình phát triển CNHT
Châu Á, METI đã định nghĩa CNHT là ngành công nghiệp sản xuất những vật
dụng cần thiết như nguyên liệu thô, phụ tùng và hàng hóa tư bản…cho công
nghiệp lắp ráp (gồm ô tô, điện, điện tử)… Hiện nay, CNHT ở Nhật Bản được hiểu
là “một nhóm các hoạt động công nghiệp cung ứng các đầu vào trung gian (không
phải nguyên vật liệu thô và các sản phẩm hoàn chỉnh) cho các ngành công nghiệp
hạ nguồn” [144].
Ở Thái Lan, định nghĩa CNHT của một số cơ quan, tổ chức cũng khác nhau.
Bộ Công nghiệp Thái Lan (MOI) định nghĩa: CNHT là những nhà sản xuất linh phụ
kiện cho ô tô và điện - điện tử, như: gia công kim loại, ép nhựa, khuôn mẫu, đúc,
thử nghiệm… Văn phòng phát triển CNHT Thái Lan cho rằng: CNHT là các ngành
cung cấp các linh phụ kiện, máy móc, thiết bị và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất như
đóng gói, kiểm tra sản phẩm ... cho các ngành công nghiệp cơ bản [148]. Trong khi
đó, Cục Phát triển CNHT Thái Lan: CNHT là các ngành cung cấp các linh phụ kiện
máy móc và các dịch vụ kiểm tra cho các ngành công nghiệp cơ bản. Còn Ủy ban
đầu tư Thái Lan (BOI) khẳng định: “CNHT là các doanh nghiệp sản xuất linh phụ
kiện được sử dụng trong các công đoạn lắp ráp của các ngành công nghiệp ô tô,
máy móc và điện tử” [77]. Như vậy, các định nghĩa về CNHT của một số cơ quan,
tổ chức Thái Lan đều có điểm chung là hướng đến các nhà chế tạo linh phụ tùng và
các nhà gia công trong lĩnh vực ô tô, điện, điện tử.
Ở Đài Loan, theo Bộ Công nghiệp thay vì sản xuất sản phẩm với tất cả
các bộ phận chi tiết (sản xuất trọn gói), các công đoạn sản phẩm sẽ được chuyên
môn hoá thành từng phần và mỗi ngành công nghiệp chỉ sản xuất một phần của
sản phẩm đó. Quá trình chuyên môn hoá như vậy được hiểu là CNHT.
Mỹ - một nước có nền công nghiệp phát triển bậc nhất thế giới định nghĩa:
“CNHT là các ngành cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện và thực hiện quá trình
hỗ trợ việc sản xuất các nguyên vật liệu và linh kiện đó nhằm phục vụ việc lắp
ráp các sản phẩm công nghiệp cuối cùng”.[101, tr.3]
31
Các nước châu Âu không sử dụng cụm từ CNHT mà thường gọi lĩnh vực
này là “các ngành cung ứng” (Supplier Industries), chỉ việc cung cấp sản phẩm
từ các doanh nghiệp bên ngoài. Thực chất, tính chất phụ trợ, hỗ trợ thường bị che
lấp bởi mối quan hệ trao đổi nội bộ giữa các ngành công nghiệp với nhau, vì thế
sẽ có những quan niệm khác nhau về CNHT. Có quan niệm cho rằng: CNHT bao
gồm những ngành sản xuất sản phẩm trung gian có vai trò hỗ trợ cho việc sản
xuất một loại sản phẩm cuối cùng nhất định ... CNHT không phải là một ngành
kinh tế cụ thể, mà do thúc đẩy của phân công lao động và chuyên môn hóa sản
xuất nên nó bao hàm toàn bộ những lĩnh vực sản xuất sản phẩm trung gian cung
cấp cho ngành công nghiệp lắp ráp. Dựa trên mức độ phức tạp của 03 công đoạn
sản xuất chính từ chế tạo vật liệu, gia công phụ tùng, linh kiện tới lắp ráp hoàn
chỉnh, thì CNHT theo thứ tự này sẽ đứng hàng thứ hai.
Sơ đồ 2.1: Các phạm vi của CNHT
Nguồn: [56]
Sản phẩm cuối cùng
Lắp ráp; Lắp ráp chưa hoàn chỉnh
Hàng hoá trung gian
Phụ tùng; Linh kiện
Nguyên liệuThép; Hoá chất
Hàng hoá tư bảnCông cụ; Máy móc
Dịch vụ sản xuất
Hậu cần; Kho bãiPhân phối; Bảo hiểm
Phạm
vi c
hính
Phạm
vi
rộng
1
Phạm
vi r
ộng
2
32
Như vậy, từ phân tích trên cho thấy, đến nay chưa có một cách hiểu thống
nhất đối với thuật ngữ này và việc phân biệt phạm vi CNHT cũng còn nhiều ý
kiến khác nhau. Thực tế, việc lựa chọn phạm vi CNHT tùy thuộc chủ yếu vào mục
đích chính sách mà Chính phủ đưa ra, chính sách sẽ quyết định phạm vi của
CNHT. Thông thường có 03 cách phân biệt phạm vi của CNHT (Sơ đồ 2.1):
(i) Phạm vi chính: những ngành công nghiệp cung cấp phụ tùng, linh kiện
và công cụ để sản xuất các phụ tùng, linh kiện này.
(ii) Phạm vi rộng 1: những ngành công nghiệp cung cấp phụ tùng, linh
kiện và công cụ để sản xuất các phụ tùng, linh kiện này và các dịch vụ sản xuất
như hậu cần, kho bãi, phân phối và bảo hiểm.
(iii) Phạm vi rộng 2: những ngành công nghiệp cung cấp toàn bộ hàng hóa
đầu vào gồm phụ tùng, linh kiện, công cụ máy móc và cả các nguyên vật liệu
như thép, hóa chất... cho ngành công nghiệp lắp ráp.
Ở Việt Nam, năm 2003, ký kết “Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản”giai đoạn I (2003 - 2005), thuật ngữ “công nghiệp phụ trợ” lần đầu xuất hiện.
Theo đó, Kế hoạch hành động triển khai sáng kiến chung, gồm 44 hạng mục lớn,
là những hạng mục đầu tiên nhằm phát triển CNHT ở Việt Nam. Sau này, thuật
ngữ CNHT đã xuất hiện trong một số văn bản của Chính phủ. Năm 2006, CNHT
trở thành một nội dung chính trong Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công
nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020 (Quyết
định 73/2006/QĐ-TTg ngày 04 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ); nhưng trong
văn bản này, chưa xuất hiện định nghĩa về CNHT, chỉ nêu các ngành CNHT cần
tập trung phát triển. Năm 2007, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) có
quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn đến
năm 2020; theo đó, CNHT được định nghĩa: “Là hệ thống các cơ sở sản xuất và
công nghệ sản xuất các sản phẩm đầu vào là nguyên vật liệu, linh phụ kiện, phụtùng... phục vụ cho khâu lắp ráp các sản phẩm công nghiệp cuối cùng” [13, tr.2].
Năm 2011, tại Quyết định 12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, CNHT
được chỉ rõ: “là các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu, phụ tùng linh kiện, phụ
33
kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp các
sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng”[78].
Mỗi quốc gia đều căn cứ vào yêu cầu phát triển và lợi thế để xác định
phạm vi CNHT ở từng giai đoạn cho phù hợp. Nhật Bản, với lợi thế về công
nghệ, tiếp cận CNHT theo nghĩa phạm vi rộng (1); Mỹ, với lợi thế về dịch vụ
sản xuất tiếp cận CNHT theo nghĩa phạm vi rộng (2); các nước đang phát triển
như Thái Lan tập trung vào phạm vi chính. Việt Nam khái niệm CNHT, giới hạn
phạm vi hẹp hơn phạm vi rộng (1), nhưng rộng hơn phạm vi chính.
Theo tác giả, CNHT được hiểu là một ngành kinh tế kỹ thuật, bao gồm cácngành sản xuất sản phẩm trung gian, cung cấp linh, phụ kiện máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu đã qua chế biến và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất theo các quy trình
nhất định để lắp ráp các sản phẩm cuối cùng.
Như vậy, CNHT được ví như “chân núi”, tạo phần cứng để hình thành nên
thân núi và “đỉnh núi” chính là ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp sản phẩm
công nghiệp hoặc tiêu dùng (Sơ đồ 2.2).
Sơ đồ 2.2: CNHT theo nghĩa rộng
Nguồn: [142]
Từ phân tích trên có thể hiểu nội hàm của CNHT như sau:
(i) Là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù thuộc ngành công nghiệp, nảy
sinh từ phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất ở giai đoạn cao, phổ biến.
Lắp ráp
Tiền láp ráp
Linh kiện
Gia công
Máy móc
Nguyên liệu và Nguyên liệu thô
Công nghiệp hỗ trợ
34
(ii) Có sự kết hợp nhân tố con người và máy móc trong môi trường làm việc có
tính chuyên môn hóa cao và trình độ nhất định. (iii) Tính liên kết ngành rất cao,
rất đa dạng với công nghệ cao phục vụ lượng lớn các ngành lắp ráp. (iv) Thể
hiện quy luật liên kết, mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể sản xuất, giữa
tính độc lập và tính phụ thuộc trong quá trình sản xuất sản phẩm, giữa công
nghiệp chính và CNHT, giữa công ty mẹ và công ty con, giữa người nhận vốn và
người đầu tư vốn... (v) Gồm những sản phẩm trung gian, gắn liền và phụ thuộc
với sản phẩm công nghiệp chính.
2.1.2. Đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ
2.1.2.1. Về tính đa cấp và liên kết
Trong quá trình sản xuất công nghiệp luôn có sự đan xen, tác động lẫn
nhau; sản phẩm đầu ra, quá trình sản xuất của ngành này lại là sản phẩm hỗ trợ
hay sản phẩm đầu vào, quá trình sản xuất cho ngành khác. Thậm chí, để sản xuất
ra sản phẩm hỗ trợ cũng phải cần tới CNHT cho bản thân nó. Xét trong mối quan
hệ nhất định, sự đan xen, tác động lẫn nhau như thế sẽ tiếp tục cho đến khi có
được sản phẩm lắp ráp hoàn chỉnh cuối cùng. Một sản phẩm hoàn chỉnh có thể
được sản xuất ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trên nhiều địa bàn, khu vực, địa lý
khác nhau. Do các sản phẩm của CNHT nằm ở các vị trí khác nhau trong chuỗi
giá trị sản xuất ra sản phẩm cuối cùng nên vị trí các nhà cung cấp cũng được phân
loại theo cấp độ, hệ thống; tính đa cấp của CNHT kéo theo sự phân chia khá rõ
ràng trong các thành phần tham gia CNHT và xuất hiện nhà cung cấp lớp I, lớp II,
lớp III..., trên cùng là nhà lắp ráp sản phẩm cuối cùng. Nhà lắp ráp có thể có nhiều
đối tượng hợp tác chuyên sản xuất cung ứng các sản phẩm hỗ trợ, dẫn đến các nhà
cung cấp ở các cấp hay vị trí khác nhau sẽ có đặc điểm, vai trò, quy mô vốn, công
nghệ và tính chất hỗ trợ khác nhau. (Sơ đồ 2.3).[112]
Nhóm đối tượng lớp I, là các cơ sở sản xuất tin cẩn nhất, được đầu tư vốn
và chỉ chuyên sản xuất các sản phẩm riêng của chính hãng thiết kế, đặt hàng,
thường gọi là phụ trợ “ruột”; phần lớn là loại hình tập đoàn công nghiệp, thành
35
lập và phát triển cho mình một mạng lưới các nhà cung ứng dưới hình thức công
ty mẹ - con, thực hiện sản xuất linh kiện phụ tùng quan trọng, hàm chứa các bí
quyết công nghệ theo yêu cầu của công ty lắp ráp trong tập đoàn.[114].
Nhóm đối tượng lớp thứ 2, thường là các DNNVV độc lập, chuyên cung
cấp các chi tiết, linh kiện quan trọng cho các nhà cung ứng ở đối tượng thứ nhất,
hoặc cung ứng thẳng cho các nhà lắp ráp theo một hợp đồng tương đối thường
xuyên, đây là liên kết khá gắn bó và được đảm bảo bằng thời gian hợp tác, uy
tín, quyền lợi cho cả hai bên. [140].
Nhóm đối tượng lớp thứ 3, là các cơ sở sản xuất các sản phẩm hỗ trợ hàng
loạt, mua sẵn, quan hệ với nhà lắp ráp theo kiểu mua bán thông thường; chủ yếu là
các chi tiết đơn giản, rẻ tiền, có giá trị gia tăng thấp với hàm lượng nguyên vật liệu
trong sản phẩm cao, thường được các công ty lắp ráp đa quốc gia đặt hàng ngay
tại quốc gia sở tại mà họ lắp ráp hoặc tiêu thụ sản phẩm cuối cùng [92].
Sơ đồ 2.3: Các lớp cung ứng hỗ trợ
Nguồn: [124]
36
Các nhà lắp ráp có tới 3 - 4 lớp doanh nghiệp cung ứng hỗ trợ hoặc nhiều
tầng cấp hỗ trợ hơn nữa. Điều đó phụ thuộc vào đặc thù ngành công nghiệp, thị
trường tiêu thụ, chuỗi giá trị sản xuất, cung ứng ra sản phẩm, hoặc đặc điểm về
quốc tịch của doanh nghiệp lắp ráp [55, tr 113-136]. Trong hệ thống đa cấp của
CNHT, các nhóm cung ứng, hỗ trợ ở các lớp I, II, III… luôn phụ thuộc và tạo
tiền đề cho nhau phát triển hướng đến phục vụ ngành lắp ráp. Từ đó xuất hiện
phổ biến trong các hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp theo kiểu thầu
phụ/vệ tinh, liên doanh, liên kết trong một mạng lưới tổ chức sản xuất phối
hợp, thống nhất và có tính hợp tác cao giữa các doanh nghiệp chính và các
doanh nghiệp sản xuất hỗ trợ. Chính mối liên kết này khiến cho các ngành công
nghiệp nội địa cũng như ngành công nghiệp trong và ngoài nước gắn bó chặt
chẽ với nhau trong chuỗi giá trị, chuỗi phân công lao động không thể tách rời
dựa trên mối quan hệ lợi ích và hiệu quả kinh tế.
Sơ đồ 2.3 mô tả các lớp cung ứng của một TĐĐQG A, đồng thời cũng
thể hiện tính liên kết của các loại hình doanh nghiệp trong quá trình tham gia
vào chuỗi giá trị sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh. Trong Sơ đồ, các nhà cung cấp
lớp I, lớp II, và lớp III… cung ứng lần lượt theo các lớp cho doanh nghiệp lắp
ráp, song vẫn cung ứng cho cả các đơn vị khác, chứ không chỉ cung ứng cho
một đơn vị là TĐĐQG A. Điều này khẳng định trong chuỗi cung ứng sẽ kết nối
nhiều loại hình công ty, doanh nghiệp lại với nhau, từ nhà sản xuất, nhà cung
cấp dịch vụ đến nhà cung ứng và khách hàng, quy trình liên kết cũng được mở
rộng ở các công đoạn từ khâu cung cấp nguyên vật liệu thô chưa qua xử lý đến
khâu lắp ráp để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Hàng loạt các doanh nghiệp,
các nhà cung ứng và khách hàng được kết nối với nhau ở cả trong và ngoài hệ
thống. Trong đó, mỗi đơn vị tham gia ở các lớp khác nhau, đến lượt mình lại là
nhà cung ứng cho đơn vị ở lớp tiếp theo, cho đến khi thành phẩm tới tay người
tiêu dùng cuối cùng. Điều đó tạo nên tính liên kết, hệ thống chặt chẽ trong toàn
bộ các khu, cụm công nghiệp, giúp ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế
quốc dân nói chung phát triển hiệu quả.
37
2.1.2.2. Về công nghệ
Để có một sản phẩm lắp ráp hoàn chỉnh trước khi đưa ra thị trường, trong
quá trình sản xuất luôn đòi hỏi sự đa dạng về công nghệ và trình độ công nghệ. Như
trên đã phân tích, trong mỗi lớp cung ứng I, II, III… các sản phẩm hỗ trợ đều đòi
hỏi mức độ, trình độ công nghệ khác nhau, liên quan nhiều lĩnh vực sản xuất khác
nhau, từ những sản phẩm có mức độ công nghệ cao, phức tạp cho tới những sản
phẩm gia công cơ khí... Thường những bộ phận tinh xảo, có giá trị gia tăng lớn,
đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ rất cao sẽ do những nhà cung cấp lớn có trình độ công
nghệ cao đảm nhận. Những chi tiết cấp thấp hơn, kỹ thuật sản xuất không quá khó
thì do những nhà cung cấp cấp thấp có trình độ công nghệ thấp hơn cung cấp.
2.1.2.3. Về thị trường
Thị trường CNHT ngày càng mở rộng, dung lượng thị trường không chỉ
đáp ứng trong nội bộ ngành mà còn đáp ứng nhu cầu liên ngành, đa ngành và
không giới hạn không gian địa lý, quan trọng là các sản phẩm có mối liên kết và
nằm trong chuỗi giá trị với độ tinh xảo, chuyên môn hóa cao, có khả năng cạnh
tranh đáp ứng được nhu cầu của các nhà lắp ráp. Đối với các nước có ngành
CNHT phát triển, sau khi đảm bảo cung cấp sản phẩm cho công nghiệp trong
nước có thể xuất khẩu sang các nước khác. Điều này lý giải xu hướng các nhà
lắp ráp thường chuyển dịch từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển,
từ các nước kinh tế mới nổi, các quốc gia công nghiệp trẻ sang các quốc gia công
nghiệp hoá sau. Tuy nhiên, người tiêu dùng cuối cùng của các ngành CNHT là
các nhà lắp ráp sản phẩm công nghiệp, do vậy, thị trường của CNHT không rộng
như sản xuất sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng cuối cùng. Dung lượng thị
trường sẽ thu hẹp hơn, thậm chí có những sản phẩm phục vụ thị trường rất hẹp,
chỉ dành cho một hoặc một số khách hàng nhất định. Dù không trực diện với thị
trường hàng hóa cuối cùng nhưng sản phẩm CNHT có thể linh hoạt thay đổi
phục vụ chi tiết, linh kiện cho nhiều hãng lắp ráp khác nhau, đồng thời sản xuất
CNHT cũng sẽ trở nên hấp dẫn và ổn định hơn nếu doanh nghiệp sản xuất sản
38
phẩm CNHT tìm và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng dài hạn hoặc tìm
được “thị trường chuyên biệt” hay “thị trường đặc thù” cho chính mình.
2.1.2.4. Về nguồn nhân lực
CNHT là ngành đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao. Lao động trong
ngành CNHT phần lớn là các nhà vận hành máy móc, những kiểm soát viên về
chất lượng sản phẩm, các kỹ thuật viên và các kỹ sư có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao, được đào tạo theo tiểu chuẩn, trình độ lành nghề, chuyên môn sâu.
Ngành CNHT ở các nước đang phát triển có xu hướng kém tính cạnh tranh hơn
do không có khả năng tài chính và lao động trình độ cao để tận dụng và vận hành
tốt các thiết bị. Các chuyên gia Nhật Bản cho biết, nếu đơn thuần dựa vào máy
móc dây chuyền thì không tạo ra khả năng cạnh tranh quốc tế vì các quốc gia
đều có thể sở hữu chúng [141]. Do vậy, điểm làm nên điều khác biệt chính là đội
ngũ nhân công có tay nghề cao vì họ chính là những người trực tiếp vận hành,
cải tiến máy móc, phát minh ra những phương pháp mới nhằm nâng cao hiệu quả
công việc. Sự thành công của các doanh nghiệp trong ngành CNHT phụ thuộc
rất lớn vào đội ngũ kỹ sư và chuyên gia.
2.1.2.5. Về đối tượng tham gia
Với đặc thù sản xuất ra các linh phụ kiện phục vụ nhiều ngành công
nghiệp lắp ráp dựa trên cơ sở phân công lao động, đã thu hút số lượng lớn doanh
nghiệp với quy mô khác nhau tham gia; trong đó doanh nghiệp lớn thuộc nhóm
đối tượng lớp I, các lớp khác chủ yếu là DNNVV. Do tính chất đa cấp và phát
triển theo hình tháp, việc đòi hỏi số lượng doanh nghiệp ở cấp thấp rất lớn, đa
phần doanh nghiệp ở cấp này là DNNVV. Phát triển CNHT là cơ sở quan trọng
và là tiền đề cho các doanh nghiệp nội địa tham gia vào hệ thống phân công lao
động quốc tế nói chung, hệ thống sản xuất của các công ty đa quốc gia nói riêng
để tiếp nhận công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, đem lại giá
trị gia tăng cao. Phát triển CNHT không chỉ là phương thức tối ưu thu hút đầu tư
nước ngoài mà còn là cơ sở tạo lập nền công nghiệp trong nước phát triển bền
vững với một hệ thống các doanh nghiệp tham gia.
39
2.1.3. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới công nghiệp hỗ trợ
2.1.3.1. Môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách của Nhà nước
Môi trường kinh tế vĩ mô của một quốc gia (tốc độ tăng trưởng, sự ổn
định của nền kinh tế, giá cả, tiền tệ, lạm phát, tỷ giá hối đoái..), tác động rất lớn
đến hoạt động của ngành công nghiệp nói chung và ngành CNHT nói riêng. Nó
ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ngành công
nghiệp, nhất là doanh nghiệp CNHT. Những biến động của các yếu tố kinh tế có
thể tạo ra cơ hội và cả những thách thức với doanh nghiệp. Các yếu tố từ Chính
phủ, hệ thống pháp luật, thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực,
khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng... ngày càng ảnh hưởng lớn đến phát triển
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp CNHT. Sự ổn định về chính trị, nhất quán về
quan điểm, chính sách lớn luôn là sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Trong xu
thế toàn cầu hiện nay, mối liên hệ giữa chính trị và kinh doanh không chỉ diễn ra
trên bình diện quốc gia mà còn thể hiện trong các quan hệ quốc tế. Để đưa ra
được những quyết định hợp lý trong quản trị doanh nghiệp, cần phải phân tích,
dự báo sự thay đổi của môi trường trong từng giai đoạn phát triển.
Chính sách phát triển các ngành công nghiệp trung, dài hạn có tác động
rất lớn đến sự hình thành và phát triển CNHT. Chính sách miễn giảm thuế thu
nhập, giảm thuế mua sắm thiết bị, máy móc có tác động khuyến khích các doanh
nghiệp CNHT phát triển, đây là một trong những nhân tố quan trọng tác động
đến quyết định của các nhà đầu tư trong nước cũng như quốc tế đầu tư vào
CNHT. CNHT với tư cách là lĩnh vực sản xuất trung gian, cung ứng sản phẩm
cho các ngành công nghiệp hạ nguồn, luôn đứng trước áp lực phải đáp ứng các
tiêu chuẩn của các nhà sản xuất, lắp rắp cuối cùng. Việc ban hành các quy chuẩn
phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế của Chính phủ là việc nâng cao năng lực đáp ứng
của các doanh nghiệp thông qua việc tiêu chuẩn hóa sản phẩm, hạn chế sản phẩm
kém chất lượng, hạn chế nhập khẩu, tăng trách nhiệm của các nhà sản xuất với
cộng đồng. Để CNHT phát triển nhanh, cần có mối liên kết chặt chẽ và thông
40
suốt giữa các doanh nghiệp tham gia ngành CNHT với các doanh nghiệp lắp ráp,
Nhà nước phải có cơ chế, có cơ quan tham mưu làm đầu mối trung gian, để liên
kết doanh nghiệp lắp ráp với doanh nghiệp CNHT.
2.1.3.2. Các quan hệ liên kết khu vực và toàn cầu, ảnh hưởng của các
tập đoàn đa quốc gia
Quan hệ giữa khu vực hỗ trợ và các ngành sản xuất công nghiệp không
thể chỉ bó hẹp trong phạm vi từng quốc gia, mà cần được thực hiện trong phạm
vi khu vực và toàn cầu. Xu hướng liên kết, hợp tác trong sản xuất cũng như phân
công lao động quốc tế đang trở thành xu thế chủ đạo trên thế giới. Với nguồn lực
to lớn về tài chính, các tập đoàn đa quốc gia có mạng lưới sản xuất và phân phối
rộng với chiến lược phát triển thống nhất. Các bộ phận trong mạng lưới được
chuyên môn hoá hợp lý, khai thác lợi thế ở mỗi quốc gia và mỗi khu vực, với
những chi nhánh chuyên sản xuất một số loại chi tiết, bộ phận nhất định cung
cấp cho các chi nhánh khác ở phạm vi khu vực, thậm chí toàn cầu.
Việc hoạch định chiến lược phát triển các ngành CNHT, cần có các
chính sách thu hút FDI và kết hợp hợp lý giữa sản xuất trong nước với các chi
nhánh của các tập đoàn xuyên quốc gia ấy. Các tập đoàn đa quốc gia tùy thuộc
vào lợi thế cạnh tranh của mỗi quốc gia để quyết định việc sản xuất CNHT và
cung ứng từ các quốc gia khác nhau cho mạng lưới sản xuất toàn cầu của họ.
Điều này liên quan mật thiết đến các doanh nghiệp cung ứng ở các lớp I, lớp II
và các doanh nghiệp ở lớp dưới trong mạng lưới. Thị trường toàn cầu của các
ngành CNHT được mở rộng, cung ứng linh kiện phụ tùng và sản phẩm CNHT
trong các lĩnh vực liên quan do các tập đoàn đa quốc gia kiểm soát. Vai trò của
các tập đoàn đa quốc gia trong đầu tư sản xuất các sản phẩm CNHT ở các quốc
gia hết sức quan trọng.
2.1.3.3. Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì việc phát triển CNHT một
cách bài bản, góp phần thúc kinh tế phát triển là vấn đề tiên quyết đối với các
41
quốc gia. Đây là một xu thế tất yếu của thế giới, bởi rất nhiều lợi ích mà hội
nhập quốc tế tạo ra cho các nước. Các doanh nghiệp khi sản xuất các linh kiện,
phụ tùng không chỉ dựa vào nhu cầu của những nhà lắp ráp nội địa, mà cần chủ
động, nắm bắt nhu cầu của các công ty lắp ráp nước ngoài, tham gia vào MLSX
của các công ty đó. Ngày nay, không một doanh nghiệp lớn mạnh nào trên thế
giới thực hiện quy trình sản xuất khép kín theo mô hình tích hợp chiều dọc, từ sử
dụng nguyên vật liệu sơ chế để sản xuất kinh kiện, phụ tùng cho đến khâu lắp
ráp, mà phải thực hiện tại các vệ tinh, chi nhánh khác nhau trong cùng mạng lưới
hoặc mua từ các doanh nghiệp hỗ trợ khác ngoài mạng lưới. Ví dụ, sản xuất máy
bay Boeing và xe ô tô Ford là những trường hợp điển hình.
Từ trên có thể thấy, tác động của hội nhập quốc tế đối với CNHT của các
quốc gia là: mở rộng thị trường, tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cải thiện môi trường đầu tư sản xuất, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh
tranh của sản phẩm CNHT; nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền KH -
CN quốc gia thông qua FDI và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến; đa
dạng về chủng loại, mẫu mã, chất lượng với giá cạnh tranh …và được tiếp cận,
giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài.
2.1.3.4. Các ngành công nghiệp cơ bản và khu vực hạ nguồn
Khi phát triển CNHT, các ngành công nghiệp cơ bản của quốc gia cần
được phát triển theo hướng bền vững. Các quốc gia công nghiệp hóa đi trước
đánh giá cao điều này. Một quốc gia, có các ngành công nghiệp cơ bản, có
tiềm năng phát triển công nghệ như dập, rèn, gia công chính xác, cơ khí chế
tạo máy, thiết bị điện tử, cơ điện tử... sẽ cung ứng được linh kiện, phụ tùng,
nguyên vật liệu tại chỗ, đáp ứng được yêu cầu sản xuất trong nước, thu hút
đầu tư của các nhà chế tạo và các quốc gia công nghiệp. Đồng thời, thúc đẩy
các ngành khác phát triển, đặc biệt là các ngành CNHT phát triển về quy mô,
công nghệ, chất lượng sản phẩm, giảm nhập siêu ... phục vụ nhu cầu CNH,
HĐH đất nước.
42
Khu vực hạ nguồn (gia công, lắp ráp) cũng là một trong những nhân tố
ảnh hưởng đến phát triển CNHT, tạo “động lực” thúc đẩy phát triển khu vực
thượng nguồn (thường được xem là CNHT) [74]. Khả năng đảm bảo sự tương
thích giữa qui mô của các ngành hỗ trợ và khu vực hạ nguồn phải đủ lớn để tạo
ra thị trường ổn định phát triển có hiệu quả các ngành hỗ trợ. Nếu khu vực hạ
nguồn có qui mô nhỏ, sản xuất những sản phẩm có chủng loại đa dạng và sản
lượng không lớn thì khối lượng sản xuất của các ngành hỗ trợ cũng sẽ nhỏ, do
đó, giá thành chế tạo sẽ tăng cao. Điều này vấp phải sự từ chối của chính khu
vực hạ nguồn trong nước và khó khăn khi muốn xuất khẩu sản phẩm hỗ trợ ra
nước ngoài. Yêu cầu của các doanh nghiệp ở khu vực hạ nguồn rất khắt khe (về
chủng loại, chất lượng, thời hạn cung ứng các sản phẩm hỗ trợ...), do phải đảm
bảo những cam kết với khách hàng, đặc biệt là những đơn hàng xuất khẩu. Việc
thiết kế và chế tạo các sản phẩm mới ở khu vực hạ nguồn yêu cầu CNHT phải
nghiên cứu và chế tạo những vật liệu, phụ liệu, bộ phận hay chi tiết sản phẩm
phù hợp. Từ đó, thúc đẩy CNHT phát triển và mở rộng sản xuất.
2.1.3.5. Dung lượng thị trường
Thị trường là nơi gặp gỡ của tổng cung và tổng cầu. Nó gắn liền với sản
xuất và lưu thông, ở đâu có sản xuất thì ở đó có thị trường. Để tham gia vào thị
trường, ngành CNHT đòi hỏi phải có một lượng đặt hàng tối thiểu tương đối
lớn; vì vậy, dung lượng thị trường lớn đóng vai trò quan trọng đối với CNHT và
là lý do để các nhà sản xuất linh phụ kiện cần được đảm bảo trước khi quyết
định đầu tư. Khi dung lượng thị trường còn nhỏ, việc áp dụng chính sách
khuyến khích ưu đãi trực tiếp cho các doanh nghiệp ngành CNHT khó thực hiện
được. Trong trường hợp dung lượng thị trường trong nước hạn hẹp, nhưng lại có
thể tìm kiếm được thị trường xuất khẩu, thì CNHT vẫn có thể phát triển.
Thực tế, nhu cầu thị trường, được hình thành khi xuất hiện các doanh
nghiệp lớn hoạt động trong khu vực hạ nguồn chuyên sản xuất, chế tạo và lắp
ráp. Khi các doanh nghiệp này (chủ yếu là các doanh nghiệp nước ngoài) hợp lý
43
hóa hoạt động kinh doanh thì họ luôn muốn sử dụng các nguồn lực tại chỗ và
sẵn có, đây sẽ là thị trường lớn cho các doanh nghiệp CNHT nội địa. Khả năng
liên kết lâu dài giữa các doanh nghiệp lớn và các DNNVV, là yếu tố quan trọng
lôi kéo các DNNVV vào hoạt động trong lĩnh vực CNHT. Nếu liên kết này
không được đảm bảo lâu dài cũng sẽ hạn chế việc lựa chọn đối tác của các
doanh nghiệp lớn, điều đó gây trở ngại cho phát triển thị trưởng. Các doanh
nghiệp quan tâm nhất là lợi thế so sánh của chiến lược nội địa hóa và thuê mua
ngoài, chủ yếu là lợi thế về chi phí, công nghệ và quy trình sản xuất. Kinh
nghiệm của các quốc gia công nghiệp hóa nhanh và thành công như Hàn Quốc,
Nhật Bản thì thị trường nội địa được tạo ra bởi các tập đoàn kinh tế ngay trong
nội địa, đây là thị trường lớn, nhiều tiềm năng để thu hút đầu tư vào CNHT. Một
nhà sản xuất linh kiện ô tô đã nhận định rằng: dù không có chính sách hỗ trợ,
chỉ cần dung lượng thị trường đủ lớn, CNHT sẽ phát triển một cách tự nhiên.
2.1.3.6. Tiến bộ khoa học công nghệ và năng lực nội địa hóaKỹ thuật - công nghệ, là nhân tố ảnh hưởng mạnh, trực tiếp đến doanh
nghiệp. Các yếu tố kỹ thuật, công nghệ thường biểu hiện qua các phương pháp
sản xuất mới, kỹ thuật mới, vật liệu mới, thiết bị, dây chuyền, công nghệ sản
xuất, các bí quyết, các phát minh, phần mềm ứng dụng... Khi công nghệ phát
triển, các doanh nghiệp có điều kiện ứng dụng các thành tựu của công nghệ để
tạo ra sản phẩm có chất lượng cao hơn nhằm phát triển sản xuất, nâng cao năng
lực cạnh tranh. Việc áp dụng thành tựu mới của KH - CN trong các ngành hỗ trợ,
ảnh hưởng có tính chất “dẫn dắt” phát triển sản xuất công nghiệp, nhờ tạo ra
những chi tiết, bộ phận hoặc vật liệu mới góp phần tạo ra sự thay đổi căn bản
trong thiết kế và chế tạo sản phẩm.
Quá trình áp dụng tiến bộ KH - CN sẽ giúp các doanh nghiệp ngành
CNHT tiết kiệm thời gian, chi phí sản xuất, tăng giá trị gia tăng của sản
phẩm, tăng tỷ lệ nội địa hóa, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, hoặc tương tương với
sản phẩm cùng loại của nước ngoài… đáp ứng được yêu cầu của các nhà lắp
ráp, thúc đẩy CNH, HĐH đất nước. Việc ứng dụng tiến bộ KH - CN vào sản
44
xuất cũng sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho những sản phẩm hỗ trợ, cũng như
sản phẩm cuối cùng của một quốc gia.
2.1.3.7. Nguồn lực tài chính và nguồn nhân lực
Nguồn lực tài chính là nhân tố không thể thiếu khi mở rộng và phát triển
bất cứ ngành công nghiệp nào, nhất là đối với ngành CNHT. Khi tiềm lực tài
chính eo hẹp, sẽ hạn chế ngành CNHT phát triển; các doanh nghiệp không đầu tư
mở rộng sản xuất hay đào tạo nguồn nhân lực... Các yếu tố này rất cần thiết cho
phát triển CNHT. Tuy nhiên, nguồn lực đầu tư vào CNHT đòi hỏi vốn lớn, thời
gian đầu tư dài, độ rủi ro trong quá trình đầu tư cao, bất lợi hơn so với đầu tư vào
sản xuất công nghiệp, khiến các nhà đầu tư còn e ngại đầu tư sản xuất các sản
phẩm hỗ trợ. Việc cân đối nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển CNHT và
chính sách huy động các nguồn lực tài chính, giải quyết các mối quan hệ giữa
CNHT và các ngành sản xuất công nghiệp cũng như mối quan hệ liên kết trong
ngành công nghiệp có vai trò hết sức to lớn trong việc thúc đẩy ngành CNHT
phát triển hiệu quả và bền vững. Với đặc thù của ngành CNHT thì số lượng, trình
độ học vấn, chuyên môn, khả năng sáng tạo... của nguồn nhân lực tác động mạnh
đến phát triển CNHT. Quan điểm của doanh nghiệp, nguồn nhân lực còn quan trọng
hơn nhiều so với máy móc. Kỹ sư quản lý dây chuyền sản xuất, phải là những
người có khả năng quản lý và cải tiến toàn bộ quy trình sản xuất của một nhà máy,
chứ không chỉ có một kỹ năng cụ thể. Những kỹ sư khuôn mẫu giàu kinh nghiệm, là
những người có thể thiết kế, sản xuất và điều chỉnh những sản phẩm khuôn mẫu đạt
đến độ hoàn hảo và có thể cảm nhận sự khác biệt đến từng milimet đối với sản
phẩm. Nhiều nước trên thế giới đã có những chính sách phát triển nguồn nhân lực
trong nước và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ các nước khác. Tại Mỹ, để
phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp, Mỹ rất coi trọng môi trường sáng
tạo, khuyến khích phát triển, bồi dưỡng và thu hút nhân tài.
2.1.3.8. Hệ thống thông tin
Thông tin có những ảnh hưởng nhất định đến phát triển CNHT. Khi có
một hệ thống thống kê công nghiệp tốt, một cơ sở dữ liệu đầy đủ, cơ chế công
45
bố và chia sẻ thông tin hiệu quả sẽ giúp cho các ngành CNHT phát huy được
tác dụng. Thông tin giúp doanh nghiệp hỗ trợ biết các nhà lắp ráp đang có nhu
cầu gì, số lượng, chất lượng sản phẩm như thế nào và các doanh nghiệp lắp ráp
biết được doanh nghiệp cung cấp có thể hợp tác ở đâu. Giúp cho các doanh
nghiệp ngành CNHT, nắm được tổng quan tình hình phát triển của CNHT, các
chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư, định hướng phát triển của Chính phủ;
các thông tin về doanh nghiệp CNHT đang hoạt động. Qua thông tin, thể hiện
sự công khai, minh bạch từ các cơ quan quản lý và hoạch định chính sách, các
hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại trong và ngoài nước. Việc tìm kiếm các
nhà cung cấp có năng lực, sẽ khó khăn, tiêu tốn thời gian, tiền bạc của các
doanh nghiệp. Khả năng tiếp cận thông tin và sự sẵn sàng, đầy đủ của các
nguồn thông tin chính thống là một trong những nhân tố không thể thiếu khi
phát triển CNHT.
2.1.3.9. Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm
Trong xu thế toàn cầu, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đòi
hỏi ngày càng cao về tiêu chuẩn chất lượng; đưa chất lượng sản phẩm vào nội
dung quản lý. Sản phẩm CNHT có vai trò quan trọng trong chất lượng của
mỗi sản phẩm, nó quyết định giá thành sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh
cho doanh nghiệp. Sự chênh lệch về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm giữa nhà
cung cấp nội địa và các doanh nghiệp lắp ráp cũng là một nhân tố ảnh hưởng
tới sự phát triển của CNHT. Các doanh nghiệp lắp ráp thường yêu cầu khắt
khe về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm đối với nhà cung cấp nội địa. Chỉ khi
sản phẩm đạt được tiêu chuẩn, quy chuẩn phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế sẽ
tạo ra lợi thế cạnh tranh, sản phẩm có khả năng tham gia mạng lưới sản xuất
và chuỗi giá trị toàn cầu thuộc các ngành công nghiệp công nghệ cao, công
nghiệp cơ khí, công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông, thúc đẩy
phát triển mạnh CNHT.
46
2.1.4. Tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của công nghiệp hỗ trợ
2.1.4.1. Quy mô doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ
Đây là một trong những tiêu chí đánh giá sự phát triển của CNHT thông
qua số lượng doanh nghiệp CNHT tăng lên cũng như mối quan hệ giữa doanh
nghiệp CNHT với số lượng doanh nghiệp công nghiệp lắp ráp. Số lượng doanh
nghiệp CNHT cao thể hiện sự tham gia của các doanh nghiệp vào lĩnh vực này
cao, khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào cho các ngành công nghiệp chính
phát triển. CNHT phát triển khi tỷ lệ doanh nghiệp CNHT trên số doanh nghiệp
lắp ráp ngày càng gia tăng. Mức độ phát triển của CNHT được thể hiện ở ba yếu
tố cơ bản: số lao động trung bình, số vốn trung bình, doanh thu trung bình của
doanh nghiệp CNHT. Tuy nhiên, khi sử dụng tiêu chí này cần chú ý, không phải
quy mô doanh nghiệp lớn hàm ý sự phát triển cao của CNHT. Các DNNVV
cũng có những ưu điểm riêng và thích hợp với lĩnh vực CNHT. Đặc thù của
ngành CNHT chủ yếu do các DNNVV tham gia nên việc đánh giá quy mô
doanh nghiệp CNHT chỉ là việc xem xét khả năng đáp ứng yêu cầu cung cấp
linh phụ kiện cho doanh nghiệp lắp ráp.
2.1.4.2. Trình độ công nghệ và tỷ lệ nội địa hóa
Tiêu chí đánh giá sự thay đổi về chất của quá trình phát triển CNHT thông
qua việc đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về chất lượng sản phẩm đối với khách
hàng. Với hệ thống công nghệ hiện đại, các doanh nghiệp CNHT đáp ứng mọi
yêu cầu về chất lượng, thời gian giao hàng cho khách hàng và còn thể hiện linh
hoạt, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng khi có sự thay đổi. Đặc biệt,
trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, còn giúp cho các doanh
nghiệp CNHT nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu sản phẩm ra thị trường
nước ngoài và tồn tại như một vệ tinh của TNCs và MNCs.
Phát triển CNHT, đồng nghĩa với việc gia tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản
phẩm và hệ quả là nhập siêu giảm. Trong xu thế toàn cầu hóa, mỗi doanh nghiệp,
quốc gia không tự mình sản xuất mọi loại sản phẩm, linh kiện song nếu tỷ lệ
47
nhập khẩu cao, đồng nghĩa với sự yếu kém của lĩnh vực CNHT. Nâng cao tỷ lệ
nội địa hóa, sẽ tăng tính chủ động trong cung cấp nguyên vật liệu, linh phụ kiện
và các sản phẩm trung gian cho ngành lắp ráp và cho nền kinh tế. Có ba hình
thức của nội địa hoá: (1) Sản xuất nội bộ của các công ty lắp ráp; (2) Thu mua từ
các doanh nghiệp có vốn FDI tại nước sở tại; (3) Thu mua từ các doanh nghiệp
nội địa. Nếu chỉ tiêu (1) cao thể hiện năng lực sản xuất của doanh nghiệp, nhưng
nếu quá cao cũng sẽ hàm ý sự thiếu chuyên môn hóa ở mức độ cao của doanh
nghiệp. Chỉ tiêu (2) cao lại thể hiện sự phụ thuộc vào FDI của lĩnh vực CNHT,
chỉ khi nào có sự tác động giữa (2) và (3) tiến tới nâng cao năng lực của các doanh
nghiệp trong nước, giảm tỷ trọng mua từ doanh nghiệp FDI và tăng dần tỷ trọng
mua của các doanh nghiệp trong nước, thì lĩnh vực CNHT được coi là phát triển.
2.1.4.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
Thị trường luôn vận động và biến đổi không ngừng làm nảy sinh những
nhu cầu mới cao hơn và tạo ra những thách thức đối với ngành CNHT phải năng
động, sáng tạo, bám sát các diễn biến của quan hệ cung cầu trên thị trường, xây
dựng cơ cấu sản phẩm tối ưu thích ứng với sự linh hoạt của sản phẩm trong các
ngành công nghiệp. Hiện nay, thông tin, kiến thức, khối lượng nhân viên có kỹ
năng, chuyên môn, nền văn hoá công nghiệp mới là nguồn lực thực sự đem lại
sức cạnh tranh. Do đó, một trong những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của
CNHT là xem xét năng lực cạnh tranh của sản phẩm CNHT, nghĩa là sản lượng,
doanh thu, chất lượng, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của người
bán, thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán, khả năng tạo ra năng suất và
chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh và khả năng chiếm lĩnh thị phần của sản
phẩm hỗ trợ đó trên thị trường để tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững cho
doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm đó.
Việc nâng cao khả năng cạnh tranh, áp dụng thành tựu KH - CN trong
ngành CNHT có tính chất dẫn dắt sự phát triển khu vực hạ nguồn, góp phần
thay đổi căn bản trong thiết kế và chế tạo sản phẩm ở khu vực hạ nguồn.
48
2.1.4.4. Mức độ đáp ứng yêu cầu của ngành công nghiệp hạ nguồn
Như phân tích trên, CNHT được hiểu là các ngành sản xuất nền tảng của
các ngành công nghiệp chính. Nó bắt đầu từ việc sản xuất nguyên vật liệu đến
gia công chế tạo các sản phẩm phụ tùng, nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng, các
bộ phận chi tiết, bao bì, nhãn mác cung cấp cho việc lắp ráp các sản phẩm cuối
cùng. Sự phát triển đến mức độ nhất định khu vực hạ nguồn sẽ tạo thị trường nội
địa với quy mô đủ lớn kích thích các ngành CNHT phát triển. Nếu ngành công
nghiệp phát triển chậm hoặc mất cân đối giữa lĩnh vực công nghiệp chế tạo, công
nghiệp lắp ráp, công nghiệp chế biến... sẽ kìm hãm sự phát triển của CNHT. Để
đánh giá mức độ, tiềm năng phát triển của CNHT cần xét đến mức độ, khả năng
đáp ứng yêu cầu về số lượng, chất lượng, chủng loại; đặc biệt là tiêu chuẩn kỹ
thuật của CNHT đối với ngành công nghiệp chính.
Hiện các hãng Nhật Bản cho rằng, sản phẩm CNHT của Việt Nam chất
lượng dưới mức yêu cầu. Điều đó dẫn tới thực trạng, trong khi phía công ty lắp
ráp thiếu hụt trầm trọng các loại linh kiện và phải bù đắp bằng cách nhập khẩu
thì các nhà sản xuất trong nước lại không dám bỏ vốn đầu tư để mua công nghệ
sản xuất linh kiện phụ trợ đạt tiêu chuẩn của công ty lắp ráp vì họ sợ không được
đặt hàng một cách ổn định [128].
2.1.4.5. Trình độ nguồn nhân lựcCNHT là khu vực chuyển giao và tiếp nhận mau lẹ công nghệ mới, đòi
hỏi trình độ người lao động phải biến đổi theo cho phù hợp; mặt khác, CNHT
cũng là khu vực thúc đẩy người lao động có tính sáng tạo trong sản xuất, thành
thạo nghề nghiệp, cạnh tranh, chen chân vào chuỗi cung ứng cho các nhà lắp ráp.
Vì vậy, khi phân tích sự phát triển toàn diện và bền vững của CNHT, cần phân
tích tỷ lệ lao động trình độ cao trong doanh nghiệp, chỉ số về trình độ được đào
tạo, khả năng quản lý, sử dụng máy móc, thiết bị kỹ thuật; khả năng sử dụng
công nghệ vào sản xuất sản phẩm hỗ trợ và kỹ năng lao động… Đây là những
tiêu chí cơ bản đánh giá tiềm năng và lợi thế trong phát triển CNHT nhằm nâng
cao khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị phần của sản phẩm CNHT.
49
2.2. VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ĐỐI VỚI
NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN NÓI CHUNG VÀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP NÓI RIÊNG
2.2.1. Mối quan hệ giữa công nghiệp hỗ trợ với ngành công nghiệp
2.2.1.1. Trong phân công lao động
- CNHT ra đời và phát triển là do mối quan hệ và yêu cầu của phân công
lao động xã hội. Trên bình diện phân công lao động quốc tế, đó là mối quan hệ
giữa nước phát triển sản phẩm chính, sản phẩm mũi nhọn công nghệ cao với
nước phát triển sản phẩm hỗ trợ cho sản phẩm chính có công nghệ cao và hiện
đại, mang tính chuyên môn hóa cao. Phân công lao động quốc tế nhằm khai thác
lợi thế tương đối và lợi thế tuyệt đối của các quốc gia trong quy trình sản xuất
sản phẩm hoàn chỉnh. Về mặt quan hệ sản xuất, thì đó là mối quan hệ giữa người
có vốn đầu tư và người cần vốn đầu tư. Người có vốn đầu tư cần đầu tư vào nơi
có lợi nhuận và hiệu quả kinh tế cao nhất, môi trường đầu tư tốt, có cơ sở hạ tầng
kinh tế kỹ thuật. Do đó, mối liên hệ giữa công nghiệp chính và CNHT là mối
quan hệ giữa người có vốn đầu tư và người cần vốn đầu tư; nếu quan hệ này
được thực hiện thì cả hai bên cùng có lợi, yếu tố thúc đẩy mối quan hệ này phát
triển chính là lợi ích kinh tế. Về lực lượng sản xuất, về mặt kỹ thuật đó là mối
liên hệ giữa chi tiết chính và chi tiết phụ của sản phẩm; theo phân công lao động
quốc tế thì chi tiết sản phẩm chính thường nằm ở nhà đầu tư, sản phẩm chi tiết
thuộc về nơi nhận đầu tư, muốn thu hút đầu tư thì nước nhận đầu tư phải phát
triển sản phẩm chi tiết và sản phẩm hỗ trợ.
Trên bình diện quốc gia, quá trình phân công lao động xã hội và phân
công lao động trong nội bộ ngành hình thành ngành công nghiệp, đến giai
đoạn xã hội hóa sản xuất cao thì phân công lao động trong nội bộ doanh
nghiệp tự nó tách thành các cụm, các nhóm doanh nghiệp đảm nhiệm một
hoặc một số công đoạn sản xuất có tính trung gian và sản xuất ra các bán
thành phẩm có tính tự chủ, độc lập tương đối về mặt tài chính, tạo ra thị
trường, thế và lực, đòi hỏi lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển nhất là khi
50
sản xuất đã đạt đến trình độ tích tụ cao, hình thành công ty mẹ - con vừa là
quan hệ kỹ thuật, công nghệ vừa là quan hệ thị trường cho nhau dưới ba dạng:
thị trường ruột, thị trường hợp đồng có kỳ hạn và thị trường tự do. Qua phân
tích thấy, phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất được thể hiện trong
mối liên hệ chặt chẽ của quá trình sản xuất sản phẩm chính thuộc ngành công
nghiệp chính và sản phẩm linh phụ kiện trung gian thuộc ngành CNHT. Mối
quan hệ giữa bộ phận, sản phẩm chính với những bộ phận chi tiết sản phẩm
hỗ trợ là mối liên hệ tất yếu, bền vững, lặp đi lặp lại tạo động lực và quyết
định tính hiệu quả trong quá trình sản xuất.
- CNHT là một khâu quan trọng trong hệ thống phân công lao động của
doanh nghiệp được tách rời ra. Ngày nay hầu hết các nhà sản xuất lớn trên thế
giới, nhất là các tập đoàn đa quốc gia đã thay đổi chiến lược quản lý sản xuất.
Theo đó, họ chỉ nắm giữ các hoạt động chính, như nghiên cứu và phát triển, lắp
ráp tại chỗ hay xúc tiến thương mại; phần gia công cung cấp cục bộ, các công
đoạn sản xuất - công việc trước đây nằm trong dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh,
được giao cho các công ty vệ tinh. Việc phân chia này sẽ làm tăng khả năng cạnh
tranh về giá cho sản phẩm của họ; thay vì sản xuất tất cả các bộ phận chi tiết, các
công đoạn, sản phẩm sẽ được chuyên môn hoá thành từng phần và mỗi ngành,
đơn vị chịu trách nhiệm một phần của sản phẩm hoặc một phần công đoạn sản
xuất ra sản phẩm đó.
Phân tích chuỗi giá trị trong ngành công nghiệp, mỗi ngành công nghiệp
có thể chia thành ba giai đoạn chính: thượng nguồn gồm các công đoạn nghiên
cứu - triển khai, thiết kế, sản xuất các bộ phận linh kiện chính; trung nguồn gồm
tiếp thị, xây dựng mạng lưới lưu thông, khai thác và tiếp cận thị trường; hạ
nguồn gồm công đoạn lắp ráp, gia công (Sơ đồ 2.4). Rất ít doanh nghiệp bao trọn
cấu trúc của một ngành công nghiệp, vì các khâu đều được phân công theo các
mối quan hệ kinh tế gắn kết với nhau. Doanh nghiệp nào có lợi thế về vốn, KH -
CN, nguồn nhân lực trình độ cao thường có xu hướng di chuyển lên phía thượng
51
nguồn của chuỗi giá trị [74]. Các doanh nghiệp không có lợi thế bằng sẽ tham
gia vào phần hạ nguồn của chuỗi giá trị bằng những “liên kết phía sau”.
Sơ đồ 2.4: Chuỗi giá trị trong một ngành công nghiệp
Nguồn: [74]
Trong chuỗi giá trị của sản phẩm công nghiệp, sự tách rời một bộ phận
sản xuất của ngành công nghiệp thành CNHT tạo điều kiện để ngành này phục
vụ được nhiều loại doanh nghiệp khác nhau; giúp các doanh nghiệp không phải
thực hiện mọi khâu trong quá trình sản xuất; các nhà lắp ráp hay sản xuất sản
phẩm cuối cùng không phải lo nhập khẩu hoặc sản xuất các yếu tố hỗ trợ cấu
thành sản phẩm chính mà họ có thể mua ngay trong nước. Phát triển và hoàn thiện
của CNHT đòi hỏi các doanh nghiệp này phải phù hợp với yêu cầu về chất lượng,
kỹ thuật theo các tiêu chuẩn quốc tế mà các công ty mẹ đại diện thì nó mới có thể
tồn tại như một vệ tinh của TNCs.
2.2.1.2. Trong mối quan hệ phụ thuộc
- CNHT phụ thuộc vào sự phát triển của các ngành công nghiệp chính.
Khi ngành công chính phát triển, đồng nghĩa với việc ngành CNHT đã mở rộng và
phát triển theo chiều sâu, cung cấp đầy đủ các linh kiện, phụ tùng và tạo cấu trúc
Giá trị gia tăng
A B C D E F
A: Nghiên cứu, triển khaiC: Sản xuất bộ phận, linh kiệnE: Khai thác thị trường, tiếp thị
B: Thiết kếD: Lắp rápF: Chiến lược thương hiệu
52
nền tảng bền vững cho các ngành công nghiệp chính, cân đối và không phụ thuộc
vào nguyên phụ liệu nhập khẩu, tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường. Ở một số
nước công nghiệp phát triển, CNHT thường phát triển trước, làm cơ sở để ngành
công nghiệp chính như: ô tô, xe máy, điện tử, dệt may, giày da, viễn thông... phát
triển. Cũng có quốc gia, hệ thống CNHT và công nghiệp chính phát triển song
song. CNHT phát triển sẽ tạo điều kiện cho ngành công nghiệp chính phát triển và
ngược lại ngành công nghiệp chính phát triển, sẽ kích thích ngành CNHT tăng tốc
theo. Nghiên cứu của GS. Trần Văn Thọ, Đại học Waseda Nhật Bản, mỗi ngành
công nghiệp có thể chia thành ba giai đoạn chính: thượng nguồn (up-stream), trung
nguồn (mid-stream), hạ nguồn (down-stream), trong đó khu vực thượng nguồn
chính là công đoạn của các ngành CNHT [74], nghĩa là CNHT dù quan trọng đến
đâu thì cũng chỉ nằm hàng thứ hai trong ba công đoạn sản xuất sản phẩm chính,
nó ra đời để phục vụ quá trình sản xuất sản phẩm chính nên sự phát triển của nó
phụ thuộc vào ngành công nghiệp chính. CNHT được gọi là một ngành công
nghiệp nhưng không phân loại như các ngành công nghiệp điện tử, ô tô, dệt
may... mà là ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù, có tính độc lập, quá trình phát triển
phụ thuộc vào sự phát triển của ngành công nghiệp chính. Sự liên kết chặt chẽ và
gắn liền về mặt kinh tế, kỹ thuật với hoạt động của các doanh nghiệp lắp ráp thuộc
ngành công nghiệp chính, sự phát triển của ngành công nghiệp chính sẽ tạo điều
kiện mở rộng thị trường, tạo nhu cầu và định hướng cho CNHT phát triển.
- Các ngành công nghiệp chính thúc đẩy sự phát triển của CNHT.
CNHT có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phần chính; gồm hệ thống
các công nghệ và cơ sở sản xuất chuyên đảm nhiệm cung cấp đầu vào phục vụ
lắp ráp đồng bộ các sản phẩm cuối cùng. Sự phát triển của CNHT hoàn thiện
với công nghệ kỹ thuật cao đạt chuẩn quốc tế đảm bảo cho doanh nghiệp
trong các ngành công nghiệp dễ dàng cung cấp sản phẩm hỗ trợ có tính tương
đồng cho các ngành công nghiệp hạ nguồn trong nước cũng như nước ngoài;
đồng thời, phát triển CNHT bảo đảm doanh nghiệp trong các ngành công
53
nghiệp phát triển nhanh sản phẩm mới, mở rộng sản xuất và tăng sản lượng.
Thực tế, trong nhiều trường hợp CNHT quyết định sự tồn tại và phát triển, mở
rộng hay thu hẹp của các ngành công nghiệp chính. Điều này sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả hoạt động, khả năng sản xuất, doanh số của các nhà lắp
ráp trong các ngành công nghiệp chính. Đây là thực tế khó tránh khỏi, Hộp
2.1 cho ta thấy một trường hợp như vậy.
Hộp 2.1: Ngành chế tạo ôtô: sau động đất, sóng thần 11/3/2011 tại Nhật BảnNgành công nghiệp chế tạo ôtô của Nhật, theo đánh giá của các chuyên
gia, mức bị ảnh hưởng không quá nặng nề như người ta lo ngại từ ngày đầu
tiên sau động đất; nhiều nhà máy sản xuất ôtô hàng đầu của Nhật phải đóng
cửa, tiếp đó là những hãng ôtô quốc tế như General Motors, Renault, Volvo
bắt buộc phải cắt giảm số lượng sản xuất vì không đủ phụ tùng (do nguồn phụ
tùng cung cấp cho họ chủ yếu đến từ Nhật). Hãng chế tạo ôtô hàng đầu thế
giới Toyota Motors phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Trong khi nhà máy sản
xuất của các công ty ôtô khác của Nhật lại nằm chủ yếu tại khu vực miền Nam,
không bị ảnh hưởng bởi động đất và sóng thần. Cho dù Toyota đã phục hồi lại
một phần sản xuất, nhưng theo đánh giá của giới chuyên gia, hãng này trong
thời gian tới sẽ đánh mất vị trí số 1 trên thị trường sản xuất ôtô thế giới.
Theo kịch bản bi quan nhất, phải mất 3 tháng mới có thể khôi phục lại
đầy đủ năng lực sản xuất của ngành công nghiệp ôtô Nhật Bản - đồng nghĩa
với số lượng ôtô chế tạo sụt giảm khoảng 2,5 triệu chiếc, với tổn thất chung
trong lĩnh vực này gần 25 tỉ USD. Trong lĩnh vực chế tạo máy hạng nặng, chịu
ảnh hưởng nặng nề nhất từ thảm họa thiên nhiên tại Nhật lại là Tập đoàn
Boeing của Mỹ. Các nhà thầu Nhật Bản hiện đang cung cấp gần 35% phụ tùng
cho một trong những dự án lớn nhất của tập đoàn này là chiếc Dreamliner 787,
vốn đã bị chậm trễ tới 3 năm theo kế hoạch ngay từ trước khi có thảm họa trên.
Nguồn: [155]
54
2.2.1.3. Trong mối quan hệ phát triển
CNHT ra đời phục vụ sản xuất sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh, CNHT
chỉ phát triển khi ngành công nghiệp chính phát triển. Bởi trong quá trình sản
xuất sản phẩm hoàn chỉnh, ngành công nghiệp chính luôn đặt ra những yêu cầu
tiêu chuẩn kỹ thuật, mẫu mã, chỉ số kỹ thuật, trình độ công nghệ, nhu cầu thị
trường... định hướng và thúc đẩy CNHT phát triển phục vụ ngày càng tốt hơn
quá trình lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Thúc đẩy CNHT phát triển, nghĩa là xây
dựng năng lực sản xuất và khả năng tham gia phân công lao động quốc tế của
nền công nghiệp quốc gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, hay để phát
triển CNHT mỗi ngành công nghiệp các quốc gia nên đặt mình vào sân chơi
chung, trở thành một mắt xích trong mạng lưới sản xuất (MLSX) toàn cầu.
MLSX sẽ trở thành “mạng lưới sản xuất quốc tế” khi sự phân bổ và điều phối
các hoạt động sản xuất của tập đoàn vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia. MLSX
ngày càng có nhiều liên kết không sở hữu, trong đó có các công ty độc lập: các
công ty con của tập đoàn, các nhà cung ứng, nhà sản xuất, kể cả các nhà bán lẻ...
Họ liên kết với nhau thông qua các mối quan hệ đa dạng như hoạt động thầu
phụ, cấp phép đăng ký sản xuất, hợp đồng marketing, các tiêu chuẩn kỹ thuật,
chia sẻ các sản phẩm. Một công ty có thể tham gia nhiều mạng lưới [112: 8-12].
Điều này sẽ giúp nền công nghiệp trưởng thành từ nền sản xuất lắp ráp đơn giản
theo đặt hàng của nước ngoài thành một đối tác không thể thay thế trong MLSX
toàn cầu. Nó cũng giải quyết vấn đề phụ thuộc giữa quốc gia kém phát triển với
quốc gia phát triển. Sự phụ thuộc này không còn ở quan hệ một chiều, mà trở
thành quan hệ hợp tác hai chiều bình đẳng, bởi lẽ chính các nhà sản xuất lắp ráp
cũng sẽ phụ thuộc vào quốc gia đang sản xuất tích hợp cho họ.
Trong quá trình phát triển của ngành công nghiệp cần xây dựng và hình
thành nên các khu, cụm công nghiệp tạo môi trường và dẫn dắt CNHT phát triển.
Sự lớn mạnh của cụm công nghiệp thường kéo theo sự gia tăng và phát triển bền
vững của các doanh nghiệp trong CNHT. Điều này sẽ tạo ra điều kiện lý tưởng
55
cho sự phát triển của các doanh nghiệp vệ tinh, hình thành ngành CNHT trong khu
vực và ngược lại. Như vậy, việc phát triển CNHT ở mức độ nào đó sẽ phụ thuộc
rất lớn vào chiến lược phát triển công nghiệp của quốc gia đang ở giai đoạn nào,
mức độ nào và nằm ở đâu trong MLSX toàn cầu.
2.2.2. Vai trò có tính hai mặt của phát triển công nghiệp hỗ trợ
Phát triển CNHT đem lại những thành tựu lớn cho nền kinh tế nói chung
và nền công nghiệp nói riêng. Vai trò tích cực của phát triển CNHT được thể
hiện ở các khía cạnh sau:
- Phát triển CNHT là cơ sở quan trọng thực hiện hiệu quả quá trình xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường. Các sản phẩm của ngành công nghiệp
chính muốn phát triển cần dựa vào sự phát triển của ngành CNHT và CNHT sẽ
là thúc đẩy nền kinh tế hoạt động lành mạnh, tăng khả năng cạnh tranh, hướng
đến xây dựng và phát triển kinh tế thị trường. Khi CNHT không phát triển, các
ngành công nghiệp chính sẽ kém phát triển, phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu.
Các ngành công nghiệp lắp ráp nội địa chỉ đóng vai trò gia công, lắp ráp đơn
thuần, với chi phí cao, giá trị gia tăng thấp và giảm khả năng cạnh tranh trong
hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, CNHT phải được ưu tiên phát triển trước, tạo cơ
sở, động lực cho ngành công nghiệp chính phát triển. Những lợi thế tĩnh (giá
nhân công rẻ, tài nguyên sẵn có, vị trí địa lý thuận lợi...) sẽ dần không còn phù
hợp, nhất là dưới tác động của tiến bộ KH - CN và toàn cầu hóa. Vì vậy, cần
phải tạo được lợi thế động (công nghệ, năng lực quản lý, khả năng khai thác thị
trường, sáng tạo và CNHT...) tham gia chủ động, tích cực vào hội nhập kinh tế
quốc tế mới có thể thâm nhập vào mạng lưới sản xuất toàn cầu.
- Phát triển CNHT góp phần hình thành cơ cấu kinh tế quốc dân theo
hướng hợp lý, hiện đại. Các quốc gia trên thế giới đều lựa chọn cơ cấu nền kinh
tế “hai tầng”, tầng trên là các tập đoàn kinh tế lớn đảm nhiệm việc nghiên cứu,
phát minh các sản phẩm mới; tầng dưới là hệ thống các DNNVV đóng vai trò là
khu chế tạo, gia công cho toàn nền kinh tế. Nhiều quốc gia, số lượng DNNVV
56
chiếm tỷ trọng khá lớn. Ưu thế quan trọng của DNNVV là việc ứng dụng công
nghệ mới vào sản xuất kinh doanh và phát triển DNNVV còn là một biện pháp
hữu hiệu đối phó với khủng hoảng kinh tế, đối trọng để cân bằng với các tập đoàn
kinh tế khổng lồ hay bị tác động mạnh trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Khuyến
khích DNNVV phát triển là một biện pháp tối ưu nhằm tận dụng tối đa và có hiệu
quả các nguồn lực trong nước cho phát triển kinh tế. Phát triển DNNVV sẽ thúc đẩy
CNHT phát triển và phát triển CNHT cũng góp phần thúc đẩy DNNVV phát triển,
đây là mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tạo nền tảng phát triển bền vững, thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và tỷ trọng lao
động công nghệ cao trong nền kinh tế quốc dân.
- Phát triển CNHT góp phần hạn chế nhập siêu, đảm bảo tính chủ động
cho nền kinh tế. Việc phát triển CNHT sẽ giải quyết căn bản tình trạng nhập siêu,
giảm sự phụ thuộc vào các nước, đảm bảo cân bằng cán cân xuất nhập khẩu, bởi
nó giúp các ngành sản xuất chủ động được nguồn nguyên vật liệu đầu vào,
không phải nhập khẩu nguyên liệu và các linh kiện, phụ tùng cho sản xuất lắp
ráp, chủ động lựa chọn được nhà cung cấp, cắt giảm chi phí sản xuất, giảm giá
thành, tăng năng lực cạnh tranh. Mặt khác, việc cung ứng nguyên vật liệu, linh
kiện phụ tùng ngay trong nội địa, làm cho nền kinh tế chủ động, không bị lệ
thuộc nhiều vào nước ngoài và các biến động của nền kinh tế toàn cầu.
- Phát triển CNHT góp phần làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công
nghiệp và của cả nền kinh tế. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, năng lực cạnh
tranh là yếu tố then chốt quyết định sự phát triển của doanh nghiệp, của cả quốc
gia. Thực tế khả năng cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản: chi
phí, chất lượng và thời gian; trong đó, chi phí là nhân tố hàng đầu. Đối với sản
phẩm công nghiệp, chi phí về nguyên vật liệu đầu vào, linh kiện, phụ tùng là lớn
nhất. Theo chuyên gia kinh tế UNIDO, Junichi Mori đối với sản phẩm điện tử chi
phí của linh kiện chiếm khoảng 70%, chi chí chế tạo 18%, chi phí hậu cần 2 % và
chi phí lao động khoảng 10% (Sơ đồ 2.5). Vì vậy, cắt giảm chi phí lao động không
57
có ý nghĩa nhiều so với việc cắt giảm chi phí linh phụ kiện trong sản xuất, ngay
khi những sản phẩm này được nhập khẩu giá rẻ từ nước ngoài thì chi phí vận
chuyển, bảo hiểm, lưu kho cũng làm tăng chi phí đầu vào của doanh nghiệp.[142]
Sơ đồ 2.5: Cấu trúc chuỗi giá trị giữa linh kiện và lao động
Nguồn: [142]
Khả năng cung cấp linh kiện phụ tùng có tính chất quyết định đến thành
quả kinh doanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng và ngành công
nghiệp nói chung. CNHT phát triển hợp lý, cân đối sẽ tạo ra các sản phẩm đặc
thù của quốc gia, có sức canh tranh hơn các sản phẩm được lắp ráp bởi các linh
kiện và nguồn cung ứng toàn cầu. Tuy phát triển CNHT không phải là nhân tố
trực tiếp mà là gián tiếp tác động đến năng lực cạnh tranh của các ngành công
nghiệp chính, song thông qua vai trò hỗ trợ và tỷ lệ của nó trong sản xuất sản
phẩm công nghiệp, vấn đề cốt lõi của việc nâng cao sức cạnh tranh trong sản
phẩm công nghiệp chính là việc có một hệ thống CNHT phát triển hoàn chỉnh.
- Phát triển công nghiệp hỗ trợ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động và
đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ở các nước, phát triển
CNHT luôn được ưu tiên đầu tư phát triển trước, làm cơ sở cho các ngành công
nghiệp chính phát triển và là con đường ngắn nhất giúp các nước này trở thành
nước công nghiệp phát triển. Đối với các nhà sản xuất lắp ráp sản phẩm cuối
cùng, tập trung vào sản xuất sản phẩm chính, không phải lo các yếu tố đầu vào,
vì CNHT phát triển sẽ tạo ra hệ thống các sản phẩm hỗ trợ luôn sẵn sàng đáp
Chi phí Logistics 2%
Chi phí lắp ráp 18%
Chi phí lao động 10%
Chi phí linh kiện 70%
58
ứng mọi yêu cầu của các nhà lắp ráp. Mặt khác, CNH, HĐH là quá trình cải tiến
lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại.
CNHT đòi hỏi phải có trình độ công nghệ, lao động chuyên môn hóa cao, nghĩa
là quá trình đó sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, lao động được phân bổ
vào các ngành, vùng khác nhau. Sự chuyển dịch lao động từ các ngành có năng
suất lao động thấp sang các ngành có năng suất cao, từ lao động trình độ giản
đơn sang lao động phức tạp được đào tạo trình độ cao, đáp ứng tiêu chuẩn, quá
trình sản xuất các sản phẩm hỗ trợ. Đây được coi là một trong những chỉ tiêu
quan trọng, phản ánh thực chất nhất mức chuyển biến của ngành kinh tế.
- Phát triển CNHT thúc đẩy chuyên môn hóa sản xuất và gắn phân công lao
động quốc gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế. Tạo ra các hình thức phân
công lao động xã hội và tổ chức lao động hợp lý; thúc đẩy quá trình chuyên môn
hóa sản xuất của doanh nghiệp, tập trung thực hiện những công việc cùng loại nhất
định. Đó là việc chế tạo những sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau; thực hiện
một số giai đoạn công nghệ của quá trình sản xuất sản phẩm; hoàn chỉnh hoặc tập
trung chế tạo một số bộ phận, chi tiết của sản phẩm hoàn chỉnh… với năng suất lao
động cao. Đặc trưng ngành CNHT, luôn gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh
doanh và có mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế, kỹ thuật với các hãng lớn. Khi các mối
liên hệ trở nên thường xuyên, ổn định thì chúng trở thành vệ tinh của các hãng lớn.
Thông qua mối liên kết này, các doanh nghiệp của nước nhận đầu tư sẽ dễ dàng
thâm nhập vào hệ thống phân công lao động của TNCs và MNCs. Đây là một trong
những con đường chủ yếu để TNCs và MNCs cắm nhánh, khai thác thị trường thế
giới thông qua việc đưa các doanh nghiệp này vào quỹ đạo hoạt động của mình để
hình thành các chi nhánh cấp 2, cấp 3... Theo đà phát triển về năng lực sản xuất và
trình độ công nghệ, các doanh nghiệp hỗ trợ này không chỉ cung cấp sản phẩm
cho các xí nghiệp sản xuất ở trên địa bàn quốc gia, mà còn cung cấp cho mạng
lưới các xí nghiệp chi nhánh của TNCs cắm ở hàng trăm quốc gia trên thế giới.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, nhiều nước đang phát triển luôn tận dụng tối
đa các lợi thế so sánh nhằm tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế
59
và hệ thống thương mại toàn cầu, tăng cường hoạt động xuất khẩu. Thông qua
đó, các sản phẩm của ngành CNHT vừa được xuất khẩu gián tiếp thông qua các
sản phẩm công nghiệp chính của một nước, vừa được xuất khẩu trực tiếp như là
các nguyên liệu đầu vào sang những nước có ngành công nghiệp lắp ráp tương
đối phát triển. Đây cũng là con đường làm cho nền kinh tế quốc gia phát triển và
chủ động hơn trong tiến trình hội nhập vào thị trường khu vực và toàn cầu.
- Phát triển CNHT giúp tiếp thu chuyển giao công nghệ và là con đường
nhanh nhất biến ngoại lực thành nội lực. CNHT phát triển trước sẽ tạo nguồn
đầu vào, hỗ trợ quá trình sản xuất, tạo tiền đề thu hút FDI và FDI chính là một
kênh chuyển giao KH - CN hữu hiệu; là một trong những phương thức để kéo
dài vòng đời công nghệ, thu hẹp khoảng cách công nghệ giữa nước chuyển giao
và tiếp nhận chuyển giao. Phương thức tiếp nhận KH - CN thông qua FDI sẽ có
lợi hơn các phương thức khác, vì ngoài việc chuyển giao các máy móc, thiết bị,
phần cứng, còn kèm theo chương trình đào tạo hướng dẫn sử dụng, nắm bắt và
quản lý công nghệ, được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và kiểu dáng công nghiệp.
Chi phí thấp hơn nhiều so với nghiên cứu, phát minh... hay mua trực tiếp công
nghệ. Sự phát triển của CNHT cũng là nhân tố đưa nền công nghiệp nói riêng,
nền kinh tế quốc gia nói chung tham gia vào quá trình phân công lao động, hợp
tác quốc tế. Sản xuất ra những sản phẩm đa dạng về chủng loại, kiểu dáng và
mẫu mã; thông qua đó, trình độ KH - CN được nâng cao, tạo ra những điều kiện
mới để thu hút FDI và tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ mới, hiện đại hơn.
Phát triển CNHT làm gia tăng khả năng thu hút nguồn vốn FDI, các quốc
gia tận dụng được nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, những tiến bộ KH - KT
của các chủ thể kinh tế thế giới, phục vụ công cuộc phát triển đất nước. Như
vậy, CNHT là cầu nối vững chắc giữa nội lực và ngoại lực. Phát triển CNHT là
con đường ngắn nhất, nhanh nhất để tranh thủ, tận dụng và sử dụng có hiệu quả
nguồn ngoại lực phát huy nội lực, phát triển kinh tế đất nước theo hướng bền
vững, tích cực và chủ động trong hội nhập kinh tế khu vực cũng như thế giới.
60
- Phát triển CNHT nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. CNHT có vai trò
quan trọng trong thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài. Khi CNHT đáp ứng đầy
đủ điều kiện, trở thành “vệ tinh” cho các tập đoàn kinh tế chắc chắn sẽ thu hút
được mức đầu tư lớn trong thời gian dài. Với mục tiêu đặt hiệu quả kinh tế lên
hàng đầu, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tính đến rất nhiều yếu tố tạo nên một môi
trường đầu tư thuận lợi, trong đó CNHT là yếu tố mang tính thuyết phục để các
nhà đầu tư nước ngoài xem xét, nghiên cứu khi đưa ra quyết định đầu tư của
mình. Để giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh cao, các TNCs thường tăng cường
đầu tư vào những nước có hệ thống CNHT phát triển tương đối hoàn chỉnh. Khi
nguồn vốn được đầu tư vào những ngành công nghiệp có CNHT phát triển sẽ
thúc đẩy CNHT ngành đó và bản thân ngành đó phát triển. CNHT là cầu nối, vật
truyền dẫn để TNCs, MNCs xâm nhập, thích ứng nhanh với thị trường nội địa.
CNHT phát triển, tạo ra hệ thống hỗ trợ vững chắc, thu hút ngày càng nhiều
nguồn vốn FDI. Khi các MNCs lựa chọn vị trí để đầu tư FDI, không chỉ xem xét
lợi thế của chi phí lao động, còn tính tới những yếu tố đầu vào khác, đặc biệt là
linh phụ kiện, nguyên vật liệu sản xuất - sản phẩm của CNHT. Tuy nhiên, không
phải CNHT phát triển đồng bộ rồi mới có FDI. Nhiều trường hợp FDI đi trước
và kéo các công ty khác đầu tư phát triển CNHT. Nếu CNHT nội địa không cung
ứng đủ linh, phụ kiện cần thiết cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ làm giảm sức hấp
dẫn của môi trường đầu tư, làm các nhà đầu tư gặp khó khăn, tăng chi phí sản
xuất và sự rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu.
- Phát triển CNHT đảm bảo cung ứng các linh phụ kiện phục vụ hoàn
chỉnh sản phẩm của doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp. Việc tạo ra sản
phẩm với chất lượng cao phù hợp với nhu cầu của thị trường và đạt được lợi
nhuận tối đa sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Phát triển CNHT tạo sự hoàn thiện, đổi
mới cơ cấu sản phẩm cho các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp, theo các
cách khác nhau, như: thu hẹp danh mục sản phẩm bằng cách loại bỏ những sản
phẩm lỗi thời, kém sức cạnh tranh; giữ nguyên chủng loại sản phẩm đang sản
xuất nhưng cải tiến về hình thức, nội dung; tạo những sản phẩm mới phù hợp với
61
nhu cầu thị trường và xu hướng phát triển của khoa học, công nghệ; chuyển hoá
vị trí các sản phẩm trong cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp... Phát triển CNHT,
đảm bảo cung ứng các linh phụ kiện có cùng giá trị sử dụng nhưng tăng thêm
một số đặc tính khác để thoả mãn yêu cầu, gia tăng cơ hội lựa chọn cho các
doanh nghiệp trong ngành công nghiệp. Mặt khác, thị trường luôn vận động,
biến đổi làm nảy sinh những nhu cầu mới cao hơn, phong phú hơn và tạo ra
những thách thức đối với ngành CNHT phải năng động sáng tạo, bám sát diễn
biến của quan hệ cung cầu trên thị trường, xây dựng cơ cấu sản phẩm tối ưu
thích ứng với sự linh hoạt của sản phẩm trong các ngành công nghiệp.
- Phát triển CNHT đảm bảo cho các doanh nghiệp trong ngành công
nghiệp hoạt động hiệu quả, hoàn thành được kế hoạch sản xuất. Phát triển
CNHT, hình thành sự phân công lao động, liên kết, hợp tác, tiếp cận công nghệ,
thiết bị hiện đại, cải tiến quy trình sản xuất,.. sẽ giúp các doanh nghiệp CNHT
nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm lượng hàng lỗi, nâng cao dịch vụ nhằm
cung cấp sản phẩm chất lượng đúng thời gian, hợp đồng hoặc kế hoạch sản xuất
sản phẩm chính; mở rộng thị trường, thu hút đầu ra cho các cơ sở sản xuất hỗ trợ
cấp dưới theo hợp đồng hoặc theo kế hoạch sản xuất sản phẩm chính. Đảm bảo
cung ứng đầy đủ sản phẩm cho các ngành công nghiệp, giúp cho các ngành công
nghiệp hoàn thành được mục tiêu, kế hoạch sản xuất đã đề ra. Khi các mối liên
hệ thường xuyên và ổn định thì chúng trở thành vệ tinh của các hãng lớn. Việc
các DNNVV “chen chân” vào chuỗi giá trị của các hãng lớn là yếu tố cốt tử của
nền công nghiệp quốc gia, đặc biệt là quốc gia đang phát triển.
- Công nghiệp hỗ trợ tạo giá trị gia tăng của sản phẩm công nghiệp. Như
phân tích trên, trong chuỗi giá trị trong một ngành công nghiệp, mỗi sản phẩm
công nghiệp chia thành ba giai đoạn chính: thượng nguồn, trung nguồn, hạ
nguồn, (Sơ đồ 2.4) với nghiên cứu của GS. Trần Văn Thọ, Đại học Waseda Nhật
Bản, giai đoạn thượng nguồn và trung nguồn là khu vực tạo ra giá trị gia tăng
cao hơn so với khu vực hạ nguồn và nó chiếm tỷ lệ lớn trong toàn bộ chuỗi giá
trị của sản phẩm công nghiệp. Khu vực thượng nguồn, trung nguồn chính là
62
công đoạn của các ngành CNHT, còn khu vực hạ nguồn với các hoạt động gia
công, lắp ráp là khu vực tạo ra giá trị gia tăng ít nhất [74]. Quá trình sản xuất ở
khu vực thượng nguồn và trung nguồn thường diễn ra ở nhiều nước khác nhau,
với đòi hỏi trình độ công nghệ, sức sáng tạo cao, quy trình sản xuất phức tạp,
yêu cầu kỹ thuật quy cách, tiêu chuẩn chặt chẽ. Còn khu vực hạ nguồn, gia công
lắp ráp có thể thực hiện ở bất kỳ nước nào, với những yêu cầu đơn giản hơn, kể
cả trình độ công nghệ thấp. Hơn nữa, giá trị gia tăng lại nằm ở quy trình sản xuất
sử dụng công nghệ cao chứ không phải nằm ở toàn bộ sản phẩm. Ở một số ngành
công nghiệp, CNHT có thể chiếm tới 90% giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị của
sản phẩm công nghiệp [25: 3]. Một quốc gia có thể tạo ra giá trị gia tăng của các
sản phẩm công nghiệp khi khu vực thượng nguồn được sản xuất và cung ứng ngay
trong nội địa. Việc phát triển CNHT, góp phần to lớn trong việc nâng cao hiệu quả
sản xuất và khai thác các nguồn lực trong nước; là động lực trực tiếp tạo ra giá trị
gia tăng cho ngành công nghiệp, giúp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công
nghiệp, tạo điều kiện thu hút được đầu tư nước ngoài, thúc đẩy nhanh quá trình
CNH, HĐH và là cơ sở để thực hiện hội nhập nền công nghiệp toàn cầu.
Bên cạnh những vai trò tích cực của phát triển CNHT, nó cũng đem lại
các vai trò mang tính không mong muốn, như:
- Các chính sách phát triển CNHT, không phải lúc nào cũng thành công;
trong điều kiện nào đó quan niệm, sự nhìn nhận và triển khai lại mang tính ưu
đãi chứ không phải mang tính hỗ trợ và thúc đẩy. Các ưu đãi cho phát triển
CNHT chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu, còn sự phát triển của CNHT lại phụ
thuộc vào sự chủ động của khối doanh nghiệp này.
- Việc thu hút đầu tư nước ngoài phát triển CNHT, nếu không thận trọng
sẽ tạo ra nguy cơ phụ thuộc vào các nhà đầu tư nước ngoài. Khi sản phẩm của
các công ty cung ứng không thể bán trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng thì
các công ty cung ứng sẽ trở nên phụ thuộc vào các tập đoàn đa quốc gia. Vì lý do
này, các cuộc suy giảm hay khủng hoảng kinh tế thường kéo theo sự phá sản của
63
các công ty, doanh nghiệp cung ứng của các tập đoàn là điều rủi ro khó tránh
khỏi. Hộp 2.2 cho thấy một trường hợp như vậy.
Hộp 2.2: Rủi ro của các nhà cung ứng linh kiện ô tô
Doanh số bán ô tô Mỹ giảm mạnh trong năm 2008 và năm 2009,
General Motors và Chrysler đóng cửa một loạt các nhà máy và ngừng hoạt
động các dây chuyền sản xuất, giảm bớt số lượng hàng tồn kho. Số lượng đơn
đặt hàng sản xuất phụ tùng vì thế giảm mạnh. Hãng cung cấp phụ tùng ô tô
đứng đầu thế giới, Visteon với một số chi nhánh tại Mỹ đó chính thức nộp đơn
xin bảo hộ phá sản. Đây là hãng cung cấp phụ tùng lớn nhất cho Ford. Xu thế
này cũng tiếp tục trong bối cảnh thêm nhiều nhà máy ô tô chuẩn bị đóng cửa.
Metaldyne là hãng có quy mô nhỏ hơn Visteon rất nhiều, cũng đã có dự định
sẽ bán phần lớn tài sản cho R.H.J. và Carlyle. Vụ việc Chrysler xin bảo hộ phá
sản và khả năng General Motors cũng nộp đơn bảo hộ phá sản sẽ tiếp tục
khiến nhiều công ty cung cấp phụ tùng ô tô phải đóng cửa.
Nguồn: [139]
- CNHT phát triển, một số ngành công nghiệp sẽ mất đi tính độc lập, do bị
phụ thuộc vào chiến lược phát triển và điều tiết thị trường của các công ty đa
quốc gia, các doanh nghiệp FDI; dẫn đến các doanh nghiệp ở ngành công
nghiệp, gián tiếp cũng bị phụ thuộc nhân tố này. Phát triển CNHT có thể sẽ đi
lệch mục tiêu của chính sách, thường phát triển CNHT thiên về chính sách cứng
và đẩy (mang tính bắt buộc). Trong tình hình hiện nay, các chính sách công
nghiệp cứng (quy định nội địa hoá, chỉ định thầu…) khó phát huy tác dụng; chiến
lược đẩy chỉ áp dụng thành công trong một điều kiện nhất định. Điều này đã được
chứng minh trong chiến lược nội địa hoá của ngành sản xuất ôtô Việt Nam.
- CNHT phát triển, nhiều cơ sở đào tạo không đủ năng lực tham gia đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp, sẽ dẫn đến hiện tượng đào tạo
64
dàn trải, thiếu thực tiễn, hoặc tay nghề, kỹ năng chưa phù hợp yêu cầu của doanh
nghiệp, gây lãng phí tài nguyên đất nước.
- CNHT phát triển, việc thực hiện chuyên môn hóa cao sẽ cắt khúc các
công đoạn, phân chia lợi ích đối lập nhau giữa các công đoạn hay khép kín
các công đoạn... nếu không xây dựng hài hòa mối quan hệ lợi ích, tính liên kết
chặt chẽ có thể sẽ gây ra ách tắc, chậm lại dòng chảy, gây khủng hoảng cục
bộ. Mặt khác, nếu chạy theo lợi nhuận hoặc lợi ích cục bộ không quan tâm lợi
ích chung, dài hạn sẽ gây ra ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên, thậm chí gây mất cân đối sản phẩm trong nền kinh tế... Môi
trường nguy cơ bị ô nhiễm từ nước thải, chất thải rắn từ các ngành CNHT
ngành dệt may, da giày (quá trình xử lý dệt, nhuộm, thuộc da...), công nghiệp
cơ khí, hóa chất...
Để khắc phục những hạn chế trên, chúng ta cần nhận thức rõ và thiết lập
một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về CNHT, xây dựng quy hoạch, chiến lược
phát triển CNHT... đúng đắn, phù hợp với thực tiễn nền kinh tế quốc gia, xu
hướng phát triển chung của thế giới thì phát triển CNHT sẽ mang lại ngày càng
nhiều những đóng góp tích cực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
2.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP VÀ BÀI HỌC
CHO VIỆT NAM
Kinh nghiệm phát triển CNHT, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc dân
và thu hút FDI để góp phần đẩy nhanh CNH, HĐH đất nước ở các nước đi
trước trong khu vực là bài học có giá trị tham khảo lớn đối với Việt Nam. Tác
giả chọn đại diện khu vực Châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản và hai đại diện
của khu vực Đông Nam Á là Thái Lan và Malaysia, đây là bốn quốc gia có
nhiều nét tương đồng với Việt Nam để phân tích một số kinh nghiệm ề phát
triển CNHT của các quốc gia trên và qua đó rút ra bài học kinh nghiệm, tìm
hướng đi cho ngành CNHT Việt Nam.
65
2.3.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia về phát triển công nghiệp
hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp
2.3.1.1. Về xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách
Nhiều quốc gia khi phát triển CNHT thời gian đầu, vai trò của Chính phủ
rất quan trọng, trước hết là việc hình thành các chính sách. Thành công hay
không, chủ yếu do các chính sách về CNHT có đủ mạnh hay không.
Nhật Bản, từ năm 1956 đã có Luật xúc tiến công nghiệp chế tạo máy, áp
dụng chính sách hỗ trợ cụ thể cho các ngành CNHT; Luật Phòng chống trì hoãn
thanh toán chi phí thầu phụ; Luật Xúc tiến doanh nghiệp thầu phụ nhỏ và vừa
(năm 1970). Xây dựng các chính sách công nghiệp nhằm kịp thời đáp ứng những
biến đổi trong môi trường kinh doanh, cân bằng lợi ích giữa SME và doanh
nghiệp lớn [140]. Hiện nay, chính sách của Nhật Bản là thúc đẩy các doanh
nghiệp liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài, sử dụng có hiệu quả các phụ
tùng giá rẻ của nước ngoài. Duy trì và tăng cường ưu thế về công nghệ và khâu
khai thác phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu
mã và hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, thâm nhập thị trường ngoài
nước. Các doanh nghiệp Nhật Bản rất thành công trong việc “xuất khẩu sản
xuất” tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm trên toàn cầu, khai thác hiệu quả thị
trường quốc tế với sức cạnh tranh cao.
Trung Quốc, cuối năm 1990 đã ban hành chính sách đa dạng hoá, tự do
hoá, xây dựng mới kết cấu hạ tầng, ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp sử dụng
công nghệ tiên tiến. Để phát triển CNHT, Trung Quốc thành lập các tổ chức làm
cầu nối giữa khu vực tư nhân và Nhà nước, tăng cường phát triển tiềm năng KH
- CN quốc gia, đổi mới cơ chế tài chính, hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân hợp tác
và tiếp nhận chuyển giao công nghệ sản xuất từ đối tác nước ngoài, xúc tiến hợp
tác nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực [24]... Có cơ chế cho các doanh
nghiệp phối hợp đề đạt với Chính phủ những yêu cầu hỗ trợ về mặt chính sách,
cải thiện môi trường hoạt động kinh doanh hướng vào thu hút FDI.
66
Thái Lan, những năm 1960 đã thực thi chiến lược công nghiệp hoá thay thế
nhập khẩu; tới năm 1970, thực thi chiến lược công nghiệp hoá định hướng xuất
khẩu. Thái Lan đã lựa chọn 03 lĩnh vực ưu tiên là công nghiệp kỹ thuật, công
nghiệp chế biến và DNNVV nông thôn. Khuyến khích phát triển gia công kim
loại, chế tạo linh kiện, phụ tùng hỗ trợ cho sản phẩm viễn thông và điện tử xuất
khẩu. Thái Lan thành lập nhiều cơ quan hỗ trợ CNHT phát triển như: Viện Nghiên
cứu Ô tô - Xe máy; Văn phòng Phát triển CNHT; Uỷ ban Xúc tiến CNHT... [105]
Thậm chí khối doanh nghiệp của Thái Lan được tham gia vào việc dự thảo, điều
chỉnh và kiểm tra các chính sách phát triển. Chính sách của Thái Lan rõ ràng, ổn
định; áp dụng những biện pháp vừa khuyến khích vừa bắt buộc các nhà lắp ráp nội
địa hoá sản phẩm bằng việc sử dụng linh phụ kiện sản xuất trong nước. Phát triển
CNHT dựa vào FDI theo hướng tiếp cận mở, hoạch định chính sách CNHT linh
hoạt, không nặng về hành chính, nên dù bất ổn chính trị, khủng hoảng kinh tế diễn
ra thường xuyên, song Thái Lan vẫn duy trì được tăng trưởng dài hạn. [148]
Malaysia, từ năm 1958 đã vận dụng chính sách ưu đãi công nghiệp tiên
phong cho những nhóm ngành sản xuất hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu. Vào
những năm 1970, chính sách công nghiệp đã định hướng xuất khẩu dựa vào các
nhà sản xuất hàng lắp ráp và chế biến. Năm 1980, Nhà nước can thiệp sâu vào
phát triển công nghiệp nặng, liên doanh, thành lập DNNN, hình thành nền móng
công nghiệp rộng lớn. Malaysia cũng đưa ra một loạt chính sách khuyến khích
đầu tư nước ngoài, hỗ trợ về thuế cho sản xuất máy móc và linh kiện, các thiết bị
giao thông, linh kiện điện tử, các sản phẩm nhựa [111]... Quy hoạch công nghiệp
giai đoạn 2006 - 2020, Malaysia bổ sung danh mục CNHT, tập trung tạo ra giá
trị, tri thức, nguồn nhân lực và mở rộng các biện pháp nhằm tăng cường năng lực
cho các nhà cung cấp, đặc biệt trong ngành công nghiệp ô tô. Nỗ lực phát triển
các nhà cung cấp linh phụ kiện, tăng cường liên kết công nghiệp giữa doanh
nghiệp lớn với nhà cung cấp trong nước. Malaysia không có luật đầu tư nước
ngoài riêng, đây được coi là điểm có lợi, giúp Chính phủ có những khoảng trống
trong việc đưa ra những chính sách điều tiết linh hoạt và thích hợp.
67
2.3.1.2. Kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong quá trình phát triển ngành CNHT, các nước ở khu vực Đông Á
khuyến khích mạnh mẽ sự gia nhập của các DNNVV trong nước, còn sự thu hút
đầu tư nước ngoài chủ yếu là bước dẫn đường cho doanh nghiệp trong nước.
Nhật Bản, năm 1963 ban hành Luật các Công ty Xúc tiến đầu tư phục vụ
DNNVV. Năm 1996, thành lập Quỹ Đầu tư mạo hiểm để hỗ trợ vốn cho các
doanh nghiệp kinh doanh mạo hiểm phát hành trái phiếu; thành lập sàn giao dịch
thứ cấp độc lập với sàn giao dịch sơ cấp... Để giúp các DNNVV nhu cầu về vốn,
Nhật Bản đã cải thiện các chính sách trợ cấp tài chính và chính sách cho vay ưu
đãi. Chính phủ tài trợ trực tiếp cho đầu tư đổi mới công nghệ để khuyến khích
các DNNVV áp dụng những công nghệ mới, cấp những khoản vay với lãi suất
thấp thông qua các ngân hàng phục vụ chính sách [140]. Trường hợp các
DNNVV bị yếu thế trong cạnh tranh, Chính phủ bảo hộ bằng cách cho vay trực
tiếp với lãi suất thấp và dài hạn. Về hỗ trợ tài chính cho các DNNVV, Nhật Bản
xây dựng đa dạng các loại hình tổ chức tài chính quốc doanh phục vụ, cung cấp
vốn cho sự phát triển của các DNNVV, đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh
nghiệp trong đầu tư đổi mới công nghệ. Ngoài ra, Nhật Bản xây dựng tiêu chuẩn
5S (sàng lọc, sắp xếp, sạch sẽ, săn sóc, sẵn sàng) đối với các doanh nghiệp sản
xuất ngành CNHT, chủ yếu là các DNNVV, mục đích định hướng và quy định tạo
khuôn khổ hoạt động của họ từ Chính phủ.
Trung Quốc, chú trọng xúc tiến, đặt nền tảng cho việc hỗ trợ và bảo vệ
hợp pháp các khoản đầu tư của DNNVV cũng như vốn chủ sở hữu của các nhà
đầu tư. Có các quy định bảo vệ quyền lợi hợp pháp, quyền cạnh tranh, quyền
thương mại công bằng cho các DNNVV. Nới lỏng các điều kiện để DNNVV dễ
dàng tiếp cận với thị trường thế giới. Chính phủ cung cấp vốn từ ngân sách hỗ
trợ cho DNNVV, thông qua việc thành lập quỹ khuyến khích các DNNVV tăng
cường mở rộng quy mô. Chính phủ còn ưu đãi giảm và miễn thuế thu nhập đối
với các DNNVV đáp ứng được các quy định của Nhà nước về sử dụng lao động,
68
cung ứng nguyên vật liệu [24]… hoặc các DNNVV nằm trong khu vực kinh tế
kém phát triển, khu vực nghèo. Hỗ trợ các DNNVV tiếp cận thị trường, bằng
cách giúp nâng cao, đổi mới công nghệ, thúc đẩy chuyên môn hóa, mở rộng
mạng lưới cung ứng nguyên vật liệu, bán và xuất khẩu ra nước ngoài bằng các
chính sách tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng... Trao giải thưởng cho những
DNNVV có những giải pháp "thoát hiểm", cải cách quản trị, quản lý... Đặc biệt,
đối với DNNVV có kết quả sản xuất - kinh doanh tốt, Chính phủ có thể giảm
hoặc miễn chi phí bảo lãnh về vốn.
Thái Lan, các DNNVV (SMEs) đang giữ vai trò là động lực phục hồi và
tăng trưởng kinh tế, SMEs đóng góp 38% vào GDP. Hiện tại, Thái Lan có gần ba
triệu SMEs đăng ký và đang hoạt động trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế,
thu hút số lao động khoảng chín triệu người. Cuộc khủng hoảng kinh tế tại Thái
Lan 1997, SMEs gặp nhiều khó khăn nhất, Chính phủ đã cung cấp tiền, thành lập
Cơ quan Hỗ trợ SMEs Thái Lan (Osmep) có trách nhiệm chính đẩy mạnh sự
phát triển SMEs của nước này. Osmep tích cực hỗ trợ, thúc đẩy SMEs đi đầu
trong CNHT về sản xuất các mặt hàng mới, áp dụng công nghệ mới, tạo thêm
nhiều việc làm cho người lao động. Ngân hàng SMEs Thái Lan là nơi cung cấp
vốn chủ yếu với nhiều ưu đãi cho SMEs nước này hoạt động. [148]
Malaysia, từ năm 1980 đến nay, nỗ lực lớn trong việc phát triển DNNVV.
Đáng chú ý là Chương trình phát triển các doanh nghiệp cung ứng (VDP), tạo ra
một thị trường sản phẩm công nghiệp, trong đó các DNNVV có thể trở thành nhà
chế tạo, cung ứng đáng tin cậy; tiếp là Chương trình phát triển các nhà cung ứng
linh kiện ô tô, Công ty Perusahaan Otomobil Nasional Bhd được coi là Công ty
mỏ neo giúp các DNNVV phát triển và mở rộng kĩnh vực sản xuất ô tô; rồi đến Kế
hoạch phát triển linh kiện điện và điện tử, do hai công ty nội địa lớn đứng làm
“công ty mỏ neo” có trách nhiệm trợ giúp phát triển, dẫn dắt, tạo thị trường, hỗ trợ
công nghệ, kỹ năng quản lý cho những nhà cung cấp hay các DNNVV [111]...
Malaysia phân chia các đối tượng thành các nhóm nhỏ, xây dựng những chương
69
trình hỗ trợ cho từng nhóm và có chính sách ưu tiên thuế đối với các doanh
nghiệp theo quy mô khác nhau. Các doanh nghiệp được miễn thuế nhập khẩu và
thuế bán hàng đối với các nguyên liệu thô, linh phụ kiện và máy móc thiết bị
nhập khẩu để phục vụ mục đích sản xuất. Ban hành chính sách tín dụng hỗ trợ
các DNNVV trong nước, nhất là các DNNVV lĩnh vực CNHT.
2.3.1.3. Kinh nghiệm về phát triển cụm liên kết ngành
Cụm kiên kết ngành là mô hình đã thành công ở nhiều quốc gia khi phát
triển CNHT. Mô hình các CLKN nhằm góp phần gia tăng năng lực cung ứng nội
địa. Thực tế kiểm chứng, sự lớn mạnh của một CLKN kéo theo sự gia tăng, phát
triển của các doanh nghiệp trong ngành CNHT và sẽ có cơ hội tiếp cận với
nguồn vốn đầu tư, thị trường đầu tư và dây chuyền công nghệ hiện đại.
Nhật Bản, trong một thời gian dài Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng và
triển khai kế hoạch chính sách CLKN một cách công phu. Ðể hình thành một
CLKN, METI đã tiến hành bốn bước chính: (i) phân tích đặc điểm của địa
phương; (ii) xác định mạng lưới có thể có; (iii) mở rộng phạm vi mạng lưới; và
(iv) thúc đẩy tập trung công nghiệp và đổi mới. Ba nhóm chính sách mà METI
thực hiện là: (i) xây dựng mạng lưới; (ii) hỗ trợ doanh nghiệp (R&D), phát triển
thị trường, quản lý, đào tạo); và (iii) thúc đẩy liên kết (giữa tổ chức tài chính -
công nghiệp - cơ sở đào tạo) [7].
Trung Quốc, để phát triển CLKN đã và đang tập trung phát triển 03 loại
hình CLKN là: CLKN cho các ngành có hàm lượng kỹ thuật và công nghệ cao
(công nghệ điện tử viễn thông và công nghệ thông tin (IT); CLKN cho các ngành
thông thường, những ngành thâm dụng vốn kết hợp với thâm dụng kỹ thuật (chế
tạo xe hơi); và CLKN cho các ngành truyền thống (da giày, dệt, may,…).
Thái Lan, hiện nay đang phát triển CLKN đi theo loại mô hình sản xuất
tích hợp. Mô hình này thường gắn kết với CLKN để sử dụng lợi thế khoảng cách
địa lý và sự gắn kết chặt chẽ với các doanh nghiệp FDI. Theo đó, các linh kiện,
phụ kiện, chi tiết của mỗi máy móc, thiết bị hay sản phẩm có tiêu chuẩn kích cỡ
riêng. Việc sản xuất, chế tạo chúng thường theo một công nghệ khép kín.
70
Malaysia, phát triển CLKN được gọi là Iskandar Malaysia. Mục đích của
Iskandar là nhằm để phát triển một vùng lãnh thổ trở nên có sức cạnh tranh mạnh,
năng động và có tính toàn cầu. Hiện tại, ở Malaysia có 09 CLKN bao gồm 06 lĩnh
vực dịch vụ: tư vấn tài chính; sáng chế, sáng tạo; logistics; du lịch; giáo dục; y tế;
và 03 lĩnh vực công nghiệp chế tác: điện và điện tử; hóa chất và hóa dầu; chế biến
lương thực và thực phẩm. Nâng cấp và phát triển CLKN được Malaysia chú trọng
và xem là khâu đột phá trong chiến lược và chính sách phát triển kinh tế đất nước.
Phần cấu thành có tính chiến lược của khâu đột phá này là nâng cao tính gắn kết
của mạng lưới trong mỗi CLKN để tất cả các DN, các tổ chức trong CLKN có thể
gắn kết, phối hợp với nhau một cách trôi chảy và thuận lợi nhất [10].
2.3.1.4. Kinh nghiệm về xây dựng mối liên kết giữa các doanh nghiệp
Tại các nước phát triển CNHT mạnh trong khu vực cho thấy, khi có mối
liên kết chặt chẽ và thông suốt giữa các doanh nghiệp tham gia vào CNHT và
công nghiệp lắp ráp, chế tạo thì CNHT mới có thể phát triển mạnh được.
Nhật Bản, là quốc gia có nền công nghiệp phát triển nhất Châu Á và đứng
đầu trên thế giới. Tại Nhật Bản, để phục vụ nhà lắp ráp, có hàng nghìn các doanh
nghiệp vệ tinh khác sản xuất các loại linh phụ kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp. Các
công ty của Nhật Bản có tầm cỡ trên thế giới, nhưng các công ty này chỉ chiếm
1% số lượng doanh nghiệp, còn trên 95% là doanh nghiệp cấp thấp (SMEs) hơn
sản xuất các kinh kiện cho công ty này. Mối liên kết mạnh giữa các doanh
nghiệp Nhật Bản, được phân chia thành các Tier, trong đó Tier 1 sẽ là các tập
đoàn lớn đảm trách nhiệm vai trò tổng thầu; một dự án lớn sẽ thường được chia
nhỏ thành rất nhiều phần để chia tiếp cho các công ty nhỏ hơn (Tier 2, Tier 3),
thậm chí là Outsource (hợp đồng thuê ngoài hay dịch vụ gia công) ra nước ngoài
để tiết giảm chi phí. Nhật Bản đã thành công trong việc liên kết các doanh
nghiệp, điều này nhận thấy khi tất cả các doanh nghiệp cùng hướng đến những
phương thức quản lý như 5S hay Kaizen (cải tiến, cải thiện). Chính sự liên kết
này đã góp phần làm nên sự phát triển CNHT ở Nhật Bản [25].
71
Trung Quốc, sự phát triển vượt bậc của ngành CNHT ở một đất nước
đông dân nhất thế giới, chính là nhờ mối liên kết hợp tác chặt chẽ giữa các doanh
nghiệp nội địa. Các doanh nghiệp lắp ráp trong nước có được nguồn cung các
linh kiện, phụ tùng tại chỗ trong nước với chất lượng đảm bảo, giá thành rẻ từ
phía các nhà cung ứng nội địa, nhất là các DNNVV. Hiện tại Trung Quốc có tới
4.172 hãng cung cấp đồ linh kiện ô tô (các DNNVV chiếm tỷ lệ 70%). Ngoài sự
liên kết các nhà cung cấp nội địa, Trung Quốc còn tăng cường liên kết hợp tác
với các công ty lắp ráp nước ngoài, các tập đoàn TNCs, MNCs… đưa tổng giá trị
xuất khẩu nhiều năm đạt kỷ lục cao, như: năm 2007 Trung Quốc xuất khẩu 11,5
tỷ USD các đồ linh kiện ô tô tăng 35% so với cùng kỳ năm trước; năm 2008, đạt
tổng giá trị xuất khẩu xe hơi và phụ tùng ô tô là 120 tỷ USD [24].
Thái Lan, sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà cung cấp linh kiện với các nhà
lắp ráp đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển CNHT. Trong ngành
ôtô - xe máy, các nhà sản xuất linh phụ kiện của Thái Lan đã thành công lớn
trong việc giảm chi phí sản xuất nhờ có sự hợp tác chặt chẽ với các nhà lắp ráp
để giảm giá thành ngay từ khâu thiết kế; việc liên kết hợp tác trong CNHT còn
được thực hiện trên nhiều lĩnh vực khác như đầu tư thiết bị, phụ tùng mới,
nghiên cứu và phát triển. Chính phủ Thái Lan quan tâm thúc đẩy các liên kết
công nghiệp giữa các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước; tăng cường liên kết
giữa các doanh nghiệp, thành lập các tổ chức chuyên về phát triển CNHT làm
cầu nối giữa Chính phủ với doanh nghiệp; giữa các doanh nghiệp với nhau. Từng
ngành cụ thể thành lập các vụ, viện góp phần là cầu nối giữa khu vực nhà nước
với tư nhân, giữa các nhà lắp ráp với các nhà cung ứng nội địa [24].
Ở Malaysia, tăng cường mối liên hệ giữa các nhà cung cấp và các nhà lắp
ráp thông qua Chương trình phát triển các doanh nghiệp cung ứng (VDP). Mục
tiêu chính của chương trình là tạo ra thị trường công nghiệp mà các DNNVV của
Malaysia có thể trở thành những nhà sản xuất và cung cấp đáng tin cậy các sản
phẩm đầu vào công nghiệp, máy móc thiết bị cho ngành công nghiệp lớn hơn,
72
thông qua đó tạo điều kiện hội nhập và các liên kết mạnh mẽ giữa các công ty
vừa và nhỏ với các công ty lớn, công ty tài chính.
2.3.1.5. Kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được coi là nhân tố quan trong
nhất cho sự phát triển lâu dài của các ngành CNHT. Phát triển nguồn nhân lực,
cần sự phối hợp của doanh nghiệp trong, ngoài nước và các cơ sở đào tạo.
Nhật Bản, năm 1985 có Luật khuyến khích phát triển nguồn nhân lực.
Nhà nước có vai trò cung cấp cơ sở hạ tầng và thông tin thông qua các hạt nhân
sáng tạo. Các cơ sở đào tạo có mối liên hệ thường xuyên với cộng đồng doanh
nghiệp, nắm rõ thực tiễn để cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu liên kết
giữa doanh nghiệp trong nước với các công ty mẹ. Nhật Bản đưa ra chương trình
liên kết học đường - doanh nghiệp, tạo ra những lao động kỹ năng cao. Hiện tại,
Nhật Bản có 05 hạt nhân sáng tạo quốc gia và 41 hạt nhân sáng tạo cấp tỉnh. Đây
là cầu nối giữa các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV
nhằm cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội. Nhật Bản đưa ra cơ chế
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chỗ làm việc, theo quy mô của doanh
nghiệp, công ty lớn đào tạo càng nhiều. Trong đó chú trọng đào tạo: phong cách
và kỷ luật lao động; kiến thức thực tế; tinh thần tập thể trong công ty [24].
Trung Quốc, có các chính sách thúc đẩy nhân lực cho DNNVV gắn với
cấp địa phương, như giải pháp tự do hoá thị trường lao động, tự do hoá việc di
cư lao động. Thực hiện tìm kiếm nguồn nhân lực chất lượng cao trên thế giới hay
từ nguồn lực Hoa Kiều. Trung Quốc đã ban hành Cương yếu quy hoạch nhân tài,
với chủ trương phát triển nhân tài tầm trung và dài hạn. Hiện nay, Chính phủ
Trung Quốc đang triển khai thực hiện 16 dự án khoa học kỹ thuật quan trọng,
phấn đấu đến năm 2020 đưa tổng số cán bộ khoa học kỹ thuật loại hình sáng tạo
cấp cao lên tới 40 nghìn người [24]. Đồng thời, tăng cường đào tạo nhân tài
nghiên cứu phát triển, kỹ thuật khan hiếm và nhân tài quản lý; xây dựng cơ sở
tập huấn sáng tạo đổi mới công trình; ấn định chính sách ưu đãi, nhất là nhân tài
hạt nhân dẫn đầu ngành sản xuất, nhân tài kỹ thuật công trình, v.v...
73
Thái Lan, cũng được coi là một trong những nước tích cực trong việc phát
triển kỹ năng. Chính phủ đã đưa ra các gói hỗ trợ đổi mới công nghệ, khuyến
khích phát triển kỹ năng bằng cách giảm thuế thu nhập dài nhất là 8 năm và miễn
giảm thuế nhập khẩu máy móc. Theo đó, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực điện tử, y tế, thiết kế và đào tạo nguồn nhân lực, tuyển dụng nhân lực khoa
học được hưởng ưu đãi. Thái Lan triển khai tốt hoạt động này, nhưng họ vẫn đang
rất thiếu cán bộ kỹ thuật có chất lượng. Trong quá khứ họ chỉ có hơn 20% cán bộ
tốt nghiệp về khoa học kỹ thuật, hiện đã có kế hoạch tăng tỉ số này lên 40% [105].
Malaysia, là một trong những nước đi đầu trong việc tăng cường phát
triển kỹ năng. Chính phủ Malaysia đã thành lập quỹ phát triển nhân lực, hỗ trợ
chi phí đào tạo cho công ty thực hiện đào tạo nhân viên trước khi vào làm và hỗ
trợ gấp đôi chi phí cho những công ty có sắp xếp lao động đi đào tạo tại một cơ
sở đào tạo được Nhà nước công nhận. Đồng thời, Malaysia cũng đặc biệt khuyến
khích sự phát triển trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển lĩnh vực có đóng góp
đáng kể đối với quá trình phát triển nguồn nhân lực trong dài hạn của đất nước.
Theo đó, Malaysia thực hiện miễn thuế thu nhập 05 năm đầu hoặc giảm 100%
thuế đầu tư trong 10 năm đầu cho những hoạt động trên [111].
2.3.1.6. Kinh nghiệm về xây dựng cơ sở dữ liệu và trao đổi thông tinPhát triển CNHT cần có các CSDL chất lượng cao cung cấp thông tin kịp
thời, đầy đủ và hiệu quả cho các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp hạ nguồn
đến các doanh nghiệp hỗ trợ. Việc thiết lập CSDL hoàn chỉnh là một trong
những điều kiện tối quan trọng trong việc kết nối, trao đổi, tìm hiểu nhu cầu của
các doanh nghiệp mua sản phẩm với các doanh nghiệp cung ứng.
Nhật Bản, thành lập khoảng 110 trung tâm hỗ trợ máy móc thiết bị đã
giúp đỡ các công ty nhỏ với khả năng tài chính hạn chế có thể tiếp cận với máy
móc thiết bị công nghệ mới; xây dựng 47 trung tâm hỗ trợ công nghệ, xúc tiến
liên kết giữa các nhà cung cấp linh kiện, thường là các DNNVV với các công ty
lớn thông qua thiết lập cơ sở dự liệu về CNHT. Các địa phương ở Nhật Bản đều
có CSDL riêng với sự tham gia của các quan chức chính quyền, các doanh
74
nghiệp, các nhà nghiên cứu. Các CSDL này có chất lượng cao cung cấp thông tin
chi tiết về các nhà cung cấp và rất dễ tiếp cận [140].
Thái Lan, việc tạo dựng CSDL về CNHT, các luồng thông tin và liên kết
nhằm thúc đẩy sự thành công của ngành CNHT, cụ thể: thiết lập Build (1992)
đưa ra Chương trình đáp ứng khách hàng; xây dựng CSDL về CNHT ASEAN,
các tổ chức độc lập, như các Viện nghiên cứu ôtô, điện, điện tử; thành lập Cục
phát triển CNHT… thực hiện nhiệm vụ chính trao đổi, chung cấp hỗ trợ kỹ thuật,
đào tạo CNHT, thiết kế và phát triển các sản phẩm mẫu. Thái Lan cũng thiết lập
các tổ chức ngành về CNHT như: Tổ chức CNHT điện tử, Tổ chức CNHT cơ
khí… các tổ chức này, mang tính chất là cơ quan Chính phủ và có những quan
hệ, giao lưu gần gũi với các công ty FDI, cũng như các nhà kinh doanh trong
nước, thúc đẩy các hợp tác với nước ngoài, đặc biệt là với Nhật Bản.
Malaysia, rất nỗ lực trong việc tạo dựng CSDL, tăng cường trao đổi thông
tin. Chính phủ đưa ra Chương trình Trao đổi hợp đồng Thầu phụ, cung cấp các
CSDL máy tính để giúp các DNNVV tìm hiểu và đáp ứng các yêu cầu của các
công ty lớn với tư cách là nhà cung ứng đầu vào công nghiệp. Mục tiêu của
chương trình trao đổi hợp đồng thầu phụ là khuyến khích sự phát triển của các
DNNVV trong khu vực thành các công ty hiện đại có sức cạnh tranh trong lĩnh
vực CNHT. Cùng với Chương trình Trao đổi hợp đồng Thầu phụ, Malaysia còn
tổ chức các hội chợ và triển lãm dành cho DNNVV, thực hiện các nghiên cứu về
các phân loại thị trường và sản phẩm [111].
2.3.2. Bài học cho Việt Nam về phát triển công nghiệp hỗ trợTừ những kinh nghiệm tổng kết kể trên, có thể rút ra cho Việt Nam một số
bài học về phát triển CNHT:
2.3.2.1. Từ phía Chính phủTrong phát triển công nghiệp nói chung và CNHT nói riêng, Chính phủ
đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Đối với chính sách, chương trình hành động về CNHT. Rút kinh nghiệm
của Nhật Bản và Thái Lan, Việt Nam cần có chính sách về CNHT rõ ràng, ổn
75
định, linh hoạt; các chương trình hành động toàn diện, cụ thể và bình đẳng giữa
các loại hình doanh nghiệp. Việt Nam, cần xác định rõ cơ quan đầu mối phụ
trách CNHT trong cơ quan hành chính của Chính phủ. Các quốc gia trên, ngay
trong giai đoạn đầu tiên phát triển CNHT đã hình thành nhanh chóng cơ quan
đầu mối, các cơ quan hỗ trợ để hoạch định, thực hiện và quản lý phát triển
CNHT. Hiện tại Nhật Bản đang vận hành những cơ sở dữ liệu về CNHT chất
lượng cao. Việt Nam, đang thiếu hụt thông tin liên quan về năng lực và khả năng
của các doanh nghiệp hỗ trợ Việt Nam, hệ thống nhà cung cấp trong nước để tìm
kiếm đối tác hay liên kết sản xuất. Do đó, các hoạt động hỗ trợ phát triển CNHT
chưa huy động được sức mạnh tổng thể cho lĩnh vực này.
Xây dựng chính sách phù hợp với thực tiễn. Từ bài học của các quốc gia
như Trung Quốc, Thái Lan; Chính phủ Việt Nam khi xây dựng chính sách về
CNHT cần có sự tham gia, trao đổi, đề đạt của các doanh nghiệp, xoá bỏ khoảng
cách giữa chính sách được ban hành với việc thực thi chính sách. Việt Nam cũng
đã có rất nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm giữa các nhà làm chính sách với các nhà
đầu tư, nhưng mới chỉ dừng lại ở những kết luận. Vì vậy, đã đến lúc Việt Nam
phải có các hành động quyết liệt, chế tài nghiêm khắc trong việc thực thi sai
chính sách. Nghiên cứu thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng tạo trung gian kết
nối giữa ngân hàng với các DNNVV như kinh nghiệm của Nhật Bản và Thái
Lan, giúp các DNNVV có thể vay vốn khi gặp khó khăn về tài sản thế chấp. Có
cơ chế đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế, thúc đẩy liên kết giữa các
doanh nghiệp trong nước với MNCs (như Nhật Bản, Thái Lan). Ngoài ra, cần
xây dựng doanh nghiệp nòng cốt có trách nhiệm dẵn dắt, tạo thị trường, hỗ trợ
phát triển DNNVV như các “Công ty mỏ neo” của Malaysia.
Ưu tiên ngành CNHT, sản phẩm CNHT. Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia đã
rất thành công khi tập trung ưu tiên phát triển một số ngành CNHT và tìm cho
mình những linh kiện cơ bản để tập trung chuyên môn hóa. Việt Nam cần xác
định rõ các ngành, các sản phẩn CNHT ưu tiên để có thể tập trung nguồn lực
cũng như định hướng để hấp dẫn doanh nghiệp đầu tư. Kinh nghiệm của Nhật
76
Bản, Trung Quốc giảm thuế cho các doanh nghiệp lắp ráp có tỉ lệ mua hàng
trong nước cao. Khi các DNNVV yếu thế trong cạnh tranh, trong khu vực kinh tế
kém phát triển, khu vực nghèo được bảo hộ bằng ưu đãi giảm, miễn thuế thu
nhập và cho vay trực tiếp với lãi suất thấp và dài hạn. Việt Nam chưa thực hiện
được, các DNNVV vẫn phải vay với lãi suất cao và ngắn hạn. Chưa có ưu đãi các
TĐĐQG về đất đai, hạ tầng, thuế trong việc kêu gọi các doanh nghiệp vệ tinh
của họ vào sản xuất tại Việt Nam...
Tăng cường đào tạo, phát triển tài năng cho CNHT. Nhật Bản, Trung
Quốc, Malaysia rất thành công trong vấn đề này. Việt Nam cần có sự phối hợp
của cả các doanh nghiệp trong và nước ngoài, các cơ sở đào tạo; thành lập quỹ
phát triển nhân lực, hỗ trợ chi phí đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, lao động kỹ
năng cao và nhận thức cho cán bộ công chức về sứ mệnh của hệ thống doanh
nghiệp đối với kinh tế xã hội quốc gia và vai trò trách nhiệm của Chính phủ, cụ
thể là cán bộ công chức trong việc hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp phát triển.
2.3.2.2. Từ phía doanh nghiệpTương tự như các quốc gia khác trong khu vực, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài chuyên sản xuất linh kiện hiện tại sẽ là lực lượng sản xuất CNHT
ở Việt Nam. Từ kinh nghiệm của Nhật Bản, Trung Quốc và Thái Lan, các doanh
nghiệp Việt Nam khi được đề nghị cần tích cực tham gia, đóng góp ý kiến trong
việc hoạch định chính sách, chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành công
nghiệp nói chung và ngành CNHT nói riêng.
Chủ động đầu tư, đổi mới công nghệ, trang thiết bị, nâng cao năng lực,
chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Bố trí cán bộ, công nhân trong doanh
nghiệp tham gia các chương trình đào tạo của ngành, địa phương, hiệp hội...
hoặc thuê các chuyên gia tổ chức đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực chất lượng
cao ngay tại chỗ làm việc. Trong đó, chú trọng đào tạo phong cách, kỷ luật lao
động và kiến thức thực tế, tinh thần tập thể trong doanh nghiệp.
Xây dựng mối liên kết, hợp tác chặt chẽ để trở thành các doanh nghiệp vệ
tinh, sản xuất sản phẩm phụ trợ cho bản thân doanh nghiệp; cung ứng cho hệ
77
thống doanh nghiệp sản xuất linh phụ kiện và liên kết chặt chẽ với các nhà lắp
ráp để giảm giá thành và qua đó học hỏi để chuyển giao công nghệ kỹ thuật.
Xây dựng chiến lược về thương hiệu của doanh nghiệp để khẳng định sự
hiện hữu của mình trên thương trường. Những thương hiệu mạnh sẽ tạo nên giá
trị riêng, có lợi thế cạnh tranh về chiến lược kinh doanh tiếp thị sản phẩm. Tuy
nhiên, điều này phải đi kèm với chất lượng sản phẩm, dịch vụ, cung cách phục
vụ tốt. Như vậy, thương hiệu sẽ tạo nên thế mạnh cho doanh nghiệp. Tham gia
và cung cấp thông tin, quá trình hoạt động của doanh nghiệp cho các cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền để tiến tới xây dựng cơ sở dữ liệu về CNHT quốc gia.
Ngoài những bài học về thành công kể trên, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái
Lan và Malaysia cũng có những bài học thất bại hoặc ít thành công trong phát
triển CNHT. Chẳng hạn như Thái Lan, khi xây dựng cơ chế, chính sách hợp tác
với các tổ chức quốc tế và liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với MNCs
nhằm thúc đẩy CNHT phát triển cũng chưa được thành công, do thiếu sự phối
hợp giữa các bộ, ngành và thiếu hiểu biết của doanh nghiệp về chính sách của
Chính phủ Thái Lan. Hay ở Malaysia, khi thành lập “Công ty mỏ neo”, các
doanh nghiệp đã thiếu sự nhiệt tình, do cơ chế mỏ neo - cung ứng của Chính phủ
Malaysia có sự đối xử thiếu công bằng giữa các ngành, các nhóm thương gia,
dẫn đến CNHT một số ngành phát triển còn chênh lệnh (như ngành điện, điện tử
và ngành ô tô)... Việt Nam là nước đi sau, đây là những kinh nghiệm để Việt
Nam nghiên cứu, lựa chọn phù hợp với điều kiện, thực tiễn của đất nước nhằm
phát triển CNHT ở Việt Nam hiệu quả.
78
Chương 3
THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ
NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 - 2013
3.1. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ NHÂN TỐ MỚI ẢNH HƯỞNG
ĐẾN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG
NGHIỆP Ở VIỆT NAM
3.1.1. Những thuận lợi và khó khăn
3.1.1.1. Những thuận lợi
Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội thuận lợi như về giao thông, thương mại, thu hút vốn đầu
tư, chuyển giao công nghệ, học tập kinh nghiệm sản xuất và quản lý của các
quốc gia. Với nguồn nhân lực dồi dào, chi phí lao động thấp và nguồn tài nguyên
trí tuệ phong phú sẽ tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam lợi thế cạnh tranh so với
khu vực. Thời gian gần đây, Nhật Bản đã có sự chuyển hướng đầu tư vào Việt
Nam, đây là quốc gia đầu tư vào Việt Nam lớn nhất cho tới nay; nhất là đối với
ngành CNHT tại Hà Nội và các thành phố trọng điểm. Tháng 12/2012, Việt Nam
và Hàn Quốc đã ký Biên bản ghi nhớ về Hợp tác phát triển CNHT Việt Nam-
Hàn Quốc. Hiện nay, Hàn Quốc cũng đang là đối tác thương mại lớn của Việt
Nam; các doanh nghiệp chính của Hàn Quốc đầu tư vào ngành CNHT Việt Nam
ngày càng tăng cao. Việc Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc ký kết các hiệp định
thương mại, xây dựng cơ chế chính sách ưu đãi song phương đã tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp Nhật Bản và Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam, tạo ra cơ hội
lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, nhằm tăng sức
cạnh tranh cho các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc, đặc biệt là những doanh
nghiệp lắp ráp lớn có thị phần cao trên toàn thế giới.
Những năm gần đây, nhận thức vai trò quan trọng của việc phát triển
CNHT, Chính phủ Việt Nam đã dành sự quan tâm cho sự phát triển ngành
CNHT thông qua việc ban hành Quyết định 12/2011/QĐ-TTg về “Ưu tiên phát
79
triển CNHT”; Quyết định 1483/QĐ-TTg về “Danh mục các sản phẩm CNHT
được ưu tiên phát triển”; Quyết định số 1556/QĐ-TTg phê duyệt đề án “trợ
giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực CNHT”. Quy hoạch
tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 vừa qua đã
được Bộ Công Thương nghiên cứu xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban
hành. Ngoài chính sách phát triển các ngành CNHT, Chính phủ Việt Nam cũng
đã ban hành những cơ chế, chính sách hợp lý nhằm khuyến khích, hỗ trợ lĩnh
vực này phát triển làm nòng cốt trong phát triển kinh tế; cụ thể như: Nghị định
số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV; Nghị định số 75/2011/NĐ-
CP về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, theo đó dự án hạ
tầng khu CNHT, dự án thuộc danh mục các ngành CNHT theo Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ được xem xét vay vốn tín dụng đầu tư; Nghị định số
87/2010/NĐ-CP, ưu đãi miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị; linh
kiện, chi tiết, phụ tùng, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm để lắp rắp đồng bộ... cho
các dự án thuộc danh mục lĩnh vực được ưu đãi đặc biệt. Bộ Tài chính cũng có
Thông tư 96/2011/TT-BTC hướng dẫn thực hiện chính sách cho phát triển một
số ngành CNHT... Có thể nói, khung chính sách cho phát triển CNHT đã được
hình thành và đang đi vào hoàn thiện.
Đi cùng với hệ thống chính sách, hệ thống kết cấu hạ tầng cũng được hiện
đại hóa và tương đối đồng bộ, có giá trị lâu dài; đây là một trong những thuận lợi
quan trọng trong việc đẩy mạnh thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
để sản xuất các sản phẩm hỗ trợ. Việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng sẽ
góp phần giảm bớt chi phí cho các nhà đầu tư, giúp cho hàng hóa của các nhà
đầu tư (linh kiện, vật tư, phụ tùng...) thuận lợi hơn trong việc lưu thông cả ở thị
trường trong và ngoài nước. Hệ thống doanh nghiệp sản xuất CNHT Việt Nam
cũng có nhiều chuyển biến so với thời gian trước đây. Đến năm 2013, Việt Nam
có trên 1.380 doanh nghiệp sản xuất các loại linh phụ kiện phụ tùng,... cung ứng
cho các ngành công nghiệp xe máy, ô tô, điện tử. Chính phủ Việt Nam đã chỉ
80
đạo thành lập các KCN, KCX chuyên sâu tại nhiều tỉnh, thành phố để thu hút
đầu tư nước ngoài vào phát triển CNHT và có cơ chế thu hút được nhiều nhà đầu
tư vào chú trọng xây dựng nguồn nhân lực CNHT, nâng cấp tiện nghi sinh hoạt,
điều kiện sống để thu hút nguồn nhân lực. Một yếu tố không kém phần quan
trọng là sự đồng nhất và quyết tâm rất cao trong việc phát triển CNHT của lãnh
đạo các bộ, ngành, các cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai
các dự án, tiếp tục cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng,
năng động và có sức cạnh tranh cao, hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp đang hoạt
động và nhà đầu tư tiềm năng, nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển CNHT.
3.1.1.2. Những khó khăn
Vấn đề quy hoạch phát triển CNHT còn chậm, tới năm 2007 mới có Quy
hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn 2020; nhưng chưa được cụ thể
hóa bằng các chế độ rõ ràng theo từng lĩnh vực quản lý của các bộ, ngành. Đầu
năm 2011, Thủ tướng Chính phủ mới ban hành Quyết định 12/2011/QĐ-TTg về
chính sách phát triển một số ngành CNHT. Các văn bản pháp lý, nội dung còn
quá chung chung, nên thực tế chưa phát huy tác dụng hoặc chưa đặt vấn đề phát
triển CNHT với tầm nhìn dài hạn, còn chịu sự ràng buộc của những văn bản
pháp luật cao hơn và thực sự chưa đủ mạnh để thúc đẩy CNHT phát triển. Các
hỗ trợ ưu đãi cho doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT gần như không có gì mới,
thực tế là tổng hợp các chính sách ưu đãi đã được ban hành trước đó cho một số
lĩnh vực khác. Sự kết hợp giữa các chính sách nhằm hỗ trợ, tác động tích cực đến
ngành CNHT còn yếu, khả năng tiếp cận các ưu đãi không dễ dàng do thủ tục,
quy trình thường phức tạp và thiếu tiêu chí cụ thể. Việc ưu đãi thu hút đầu tư vào
các ngành công nghiệp trong thời gian qua hầu như chỉ tập trung vào các tập
đoàn lớn. Trong khi các doanh nghiệp CNHT thường có quy mô nhỏ và vừa, gần
như chưa được quan tâm khi thu hút đầu tư nước ngoài, ở cả trung ương lẫn địa
phương. Chính sách ưu đãi, hỗ trợ và bảo lãnh tín dụng đầu tư của Việt Nam tuy
đã có nhưng còn mang tính đơn lẻ, đặc biệt chưa có sự gắn kết rộng rãi quyền lợi
81
các bên. Chính sách phát triển các khu, cụm công nghiệp vẫn chỉ tập trung vào số
lượng, thiếu quy hoạch đồng bộ trên phạm vi cả nước...
Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 cần
phải nhìn nhận theo các góc độ; cụ thể: xác định phạm vi của CNHT chưa tập
trung, phát triển CNHT chưa được phân theo lộ trình. Việc Quy hoạch lựa chọn
05 ngành CNHT ưu tiên phát triển, đã bỏ qua 02 ngành CNHT cho sản phẩm xe
máy và trang thiết bị điện gia dụng, có tỷ lệ nội địa hóa cao (tự phát triển theo tín
hiện thị trường). Sự lựa chọn chủ yếu dựa trên thực trạng và yêu cầu phát triển,
chưa căn cứ vào lợi thế. Nếu xác định và khai thác được lợi thế thì Việt Nam
mới có thể cạnh tranh và thành công trên thị trường thế giới. Mục tiêu phát triển
CNHT với số lượng linh kiện hay vốn đầu tư được tính toán trên cơ sở nhu cầu
phát triển của ngành công nghiệp chính trong nước, bỏ qua khả năng tham gia
vào mạng sản xuất toàn cầu và xuất khẩu chính các linh kiện, phụ tùng.... Quy
hoạch phát triển các ngành CNHT chậm, chưa theo kịp sự phát triển của các liên
doanh sản xuất, lắp ráp; đẫn đến tình trạng nhập linh kiên, phụ tùng từ công ty
mẹ và các công ty con thành viên trong khu vực.
Ngành CNHT ở Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn sơ khai và còn yếu kém,
các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ ở nước ta còn rất ít, công nghệ
lạc hậu,...chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp,
đặc biệt là cung cấp cho các doanh nghiệp, các tập đoàn có vốn đầu tư nước
ngoài. Ngành CNHT ở Việt Nam đã và đang là một vấn đề rất đáng lo ngại cho
sự phát triển ổn định, bền vững của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập
ngày càng sâu rộng. Việc hình thành với cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế,
CNHT ở Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi và khả năng cạnh tranh
đang còn rất thấp. Mặt khác, nguồn nhân lực phục vụ CNHT chưa đáp ứng được
cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, nguồn nhân lực giá rẻ không còn là một
lợi thế cạnh tranh trong việc thu hút FDI của Việt Nam, khi mà các thỏa thuận về
miễn giảm thuế nhập khẩu chính thức được thực hiện. Vì thế, điều cốt yếu hiện
82
nay là Việt Nam cần phải đào tạo được nguồn nhân lực có chất lượng cao, có
khả năng quản lý, khả năng ứng dụng và có tính sáng tạo để sản xuất ra được
những sản phẩm có sức cạnh tranh cao.
Nhìn chung, CNHT nước ta đã phục vụ tích cực cho sản xuất sản phẩm
tiêu dùng nội địa; chất lượng linh phụ kiện chế tạo được nâng cao dần theo
hướng chuyên môn hoá, một số doanh nghiệp đã có định hướng tham gia vào
dây chuyền sản xuất mang tính toàn cầu. Gần đây, xu thế chuyển dịch sản xuất
hướng vào xuất khẩu đã kích thích CNHT mở ra khả năng xuất khẩu sản phẩm
thông qua sản phẩm lắp ráp sau cùng. Mặc dù có nhiều triển vọng, song do phát
triển trên nền sản xuất khép kín, tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước cao, công nghệ
lạc hậu, đội ngũ doanh nhân chưa năng động; với dung lượng thị trường nhỏ,
chưa đủ quy mô sản xuất kinh tế, giá thành sản xuất cao, sức cạnh tranh thấp nên
thương hiệu và thị phần của CNHT Việt Nam còn nhiều giới hạn.
3.1.2. Một số nhân tố mới ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp
hỗ trợ của Việt Nam
3.1.2.1. Việc thực hiện cam kết Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Hiện nay, sức ép hội nhập ngày càng gia tăng, Việt Nam sẽ thực hiện toàn
diện cam kết Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 2018. Gia nhập
AFTA, hàng hoá của Việt Nam sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi, có điều kiện
thuận lợi hơn để thâm nhập thị trường của tất cả các nước thành viên ASEAN.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng được lợi trong thu hút vốn đầu tư, tiếp thu
công nghệ, tận dụng nhân công, sử dụng vốn và kỹ thuật cao trong khu vực.
Tuy nhiên, việc xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan thuế đã xoá bỏ
sự bảo hộ của Chính phủ đối với các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải
tham gia thực sự vào cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường khu vực. Ngành
công nghiệp sản xuất của Việt Nam sẽ bị đe dọa, cơ hội cho ngành CNHT càng
bị thu hẹp hơn và Việt Nam có nguy cơ trở thành nơi tiêu thụ hàng hóa công
nghiệp, khó khăn đạt được mục tiêu công nghiệp hóa đã đặt ra. Chiến lược phát
83
triển ngành CNHT càng trở nên cấp bách khi Việt Nam đang mất dần lợi thế
nhân công giá rẻ trong các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động so với
một số nước châu Á khác, đặc biệt Myanmar một quốc gia đang thực hiện những
cải cách kinh tế chính trị mạnh mẽ. Đối phó với mối đe dọa này, Việt Nam cần
có chiến lược dài hạn xây dựng và phát triển ngành CNHT để giữ chân các nhà
đầu tư nước ngoài và mang lại giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế.
3.1.2.2. Việc ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyênThái Bình Dương
Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), bên
cạnh kỳ vọng về các lợi ích hấp dẫn do Hiệp định mang lại là những lo ngại
không kém của các bên khi tham gia “sân chơi” thương mại này. Cơ hội hay
thách thức đều nằm ở kết quả các cam kết sẽ đàm phán trong Hiệp định và khả
năng tác động vào nội dung đàm phán của cộng đồng doanh nghiệp. Với mục
tiêu xóa bỏ phần lớn thuế quan cho hàng hóa giữa các nước, TPP sẽ là con
đường tốt nhất cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tăng sức cạnh tranh về giá
khi tiếp cận thị trường các nước đối tác TPP, doanh nghiệp Việt Nam thuận lợi
trong tiếp cận những mô hình, phương thức quản lý hiện đại và hiệu quả. Công
nghệ, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu sẽ phong phú, giá thấp hơn sản xuất
trong nước. Hàng hóa và dịch vụ giá rẻ hơn, chất lượng tốt hơn cho người tiêu
dùng. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi chúng ta phải đối mặt với không ít
thách thức, Việt Nam vốn “nhỏ bé” và ít kinh nghiệm với những “người khổng
lồ” đến từ các nước TPP ngay ở thị trường trong nước.
Thuế quan chỉ là một phần của câu chuyện xuất khẩu, nhưng các quy định
kỹ thuật (còn gọi là các biện pháp “TBT”) khắt khe về bao gói, nhãn mác, về
mức độ/dư lượng hóa chất tối đa trong sản phẩm, về tính hợp pháp của nguyên
liệu sử dụng và quy tắc xuất xứ quy định về nguyên vật liệu để sản xuất ra sản
phẩm… có thể là những rào cản khiến hàng hóa Việt Nam, thậm chí là không có
đường vào thị trường các nước TPP. Do vậy, nếu Việt Nam không xây dựng
được ngành CNHT trong nước vững mạnh, Việt Nam sẽ mất cơ hội tham gia vào
84
bức tranh công nghiệp hóa trong khu vực, có thể phải đối mặt với nhiều rủi ro
như sự rút lui của FDI, nhập siêu và phụ thuộc nước ngoài. Vấn đề tái cấu trúc
nền kinh tế, tái cơ cấu công nghiệp… sẽ phát huy tối đa lợi thế cạnh tranh của
Việt Nam để có thể phát triển ổn định, bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh
và thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực.
3.1.2.3. Hợp tác công - tưPPP là hợp tác công - tư mà theo đó nhà nước cho phép tư nhân cùng
tham gia đầu tư vào các dịch vụ hoặc công trình công cộng của nhà nước. Hình
thức hợp tác công - tư (PPP) là một lĩnh vực mới. Trong bối cảnh, ngân sách của
Chính phủ và các nhà tài trợ có giới hạn, hợp tác PPP có khả năng như một đòn
bẩy đối với các nguồn lực tài chính và chuyên môn từ khu vực tư nhân nhằm cải
thiện chất lượng, mở rộng độ bao phủ của đầu tư, thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) vào CNHT. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang phối hợp với các bộ,
ngành, địa phương để chuẩn bị các dự án PPP trình Thủ tướng Chính phủ đưa
vào danh mục và dự kiến ngân sách đối ứng cho các dự án PPP năm 2014, 2015
và giai đoạn 2016 - 2020. Trong Dự thảo của Nghị định về PPP, do Bộ Kế hoạch
và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ có 09 lĩnh vực đầu tư theo hình thức PPP
được ưu tiên. Ngoài các lĩnh vực liên quan đến hạ tầng cơ sở (đường xá, cầu
cống, bến cảng, giao thông đường bộ, đường thủy, hàng hải và hàng không), thì
lĩnh vực đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin, truyền thông, viễn thông, hạ tầng
khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, …trung tâm thương mại, kho
tàng và phương tiện bảo quản hàng hóa cũng thuộc lĩnh vực ưu tiên đầu tư.
Khi các dự án thuộc lĩnh vực này được triển khai, thì CNHT nói riêng và
các ngành kinh tế khác nói chung ở nước ta sẽ có nhiều triển vọng để phát triển.
Các doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí vận chuyển, bốc dỡ hàng (cả nhập và
xuất) do giao thông thuận tiện, các cảng được bố trí hợp lý; tiết kiệm được chi
phí sản xuất do được hưởng lợi từ thành quả của các công trình xử lý nước thải,
cơ sở hạ tầng thương mại được triển khai… Hoạt động sản xuất - kinh doanh
trong điều kiện hội nhập toàn cầu cạnh tranh khốc liệt, thì việc giảm chi phí sản
85
xuất, tăng chi phí cơ hội, tăng uy tín thương hiệu là điều kiện tiên quyết để
doanh nghiệp thắng thế trên thương trường. Đây cũng chính là sự kỳ vọng để các
ngành CNHT Việt Nam phát triển trong tương lai gần.
3.1.2.4. Hoạt động chuyển giáKhu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng
vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư. Tuy nhiên,
khu vực kinh tế này bộc lộ nhiều hạn chế như tình trạng chuyển giá gây thất thu
ngân sách, tác động không tốt đến môi trường đầu tư. Lỗ hổng để doanh nghiệp
lợi dụng là do CNHT của Việt Nam chậm phát triển, hầu hết các nguyên vật liệu
phục vụ cho sản xuất của các doanh nghiệp FDI đều phải nhập khẩu từ công ty
mẹ hoặc đối tác do công ty mẹ chỉ định, với giá cao hơn giá thực tế. Quá trình
đầu tư vào Việt Nam để tiến hành sản xuất kinh doanh, bên nước ngoài thường góp
vốn bằng máy móc, công nghệ hiện đại. Do trong nước chưa có đủ năng lực và trình
độ thẩm định nên nhiều dự án bị đối tác nước ngoài định giá thiết bị, công nghệ cao
hơn thực tế. Việc này giúp cho bên nước ngoài được hưởng một khoản chênh
lệch lớn về giá máy móc, thiết bị. Hoặc doanh nghiệp hạ giá bán sản phẩm đầu ra
cho một công ty liên kết trong nội bộ của tập đoàn; trường hợp này thường xảy
ra khi công ty mẹ hoặc công ty liên kết bao tiêu sản phẩm.
Đối phó với tình trạng chuyển giá, Việt Nam cần đầu tư mạnh hơn vào sản
xuất thay thế nhập khẩu, đặc biệt là phát triển ngành CNHT vừa giảm nhập khẩu
đầu vào cho sản xuất, vừa chủ động kiểm soát được thị trường giá cả các yếu tố
đầu vào, thông qua đó kiểm soát thị trường giá cả sản phẩm đầu ra, chủ động khả
năng nâng cao cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Phát triển CNHT, rất cần
thiết có sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp trong nước, học hỏi kinh
nghiệm, chia sẻ đơn hàng, chia sẻ phần vốn đầu tư. Tăng cường công tác đào tạo
đội ngũ chuyên gia, cán bộ kỹ thuật đủ năng lực, trình độ thẩm định các dự án
liên doanh, liên kết và định giá thiết bị, công nghệ cao mà đối tác nước ngoài
góp vốn bằng máy móc, công nghệ.
86
Để làm rõ những vấn đề trên, tác giả phân tích thực trạng CNHT trong
ngành công nghiệp dệt may, điện tử trong “Danh mục các sản phẩm CNHT được
ưu tiên phát triển” và thực trạng CNHT trong ngành công nghiệp xe máy không
trong “Danh mục các sản phẩm CNHT được ưu tiên phát triển” (được ban hành
kèm theo Quyết định 1483/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ).
3.2. THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG NGÀNH CÔNG NGHIỆP
XE MÁY, DỆT MAY VÀ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
Báo cáo Năng lực cạnh tranh công nghiệp Việt Nam năm 2012 do Bộ
Công Thương phối hợp với UNIDO, từ năm 1995 đến nay, Việt Nam đã xây
dựng khoảng 80 chiến lược phát triển, quy hoạch tổng thể và kế hoạch cho các
ngành công nghiệp, trong đó có nội dung về phát triển CNHT. Từ năm 2005 đến
năm 2009, Việt Nam tăng 15 bậc trong Bảng xếp hạng hiệu suất công nghiệp của
UNIDO (từ hạng 73 lên thứ hạng 58) [151]. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF),
chỉ số cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam năm 2012/2013 xếp vị trí thứ 75/144
quốc gia; 2013/2014 xếp vị trí thứ 70 trên 148 quốc gia.
Theo Tổng cục Thống kê, tỷ trọng giá trị gia tăng/giá trị sản xuất toàn
ngành công nghiệp (VA/GO) năm 2000 là 38,45% đến năm 2010 còn 21%. Tốc
độ giá trị gia tăng của ngành công nghiệp cũng giảm từ 16,0% giai đoạn 2001 -
2005 xuống 14,2% giai đoạn 2006 - 2011. Năm 2012 - 2013, giá trị gia tăng
công nghiệp bình quân 2 năm đạt 6,0%. Phân tích trong chuỗi giá trị của ngành
công nghiệp với các giai đoạn: thượng nguồn, trung nguồn và hạ nguồn, thì giai
đoạn thượng nguồn và trung nguồn là khu vực tạo ra giá trị gia tăng cao hơn so
với khu vực hạ nguồn và chiếm tỷ lệ lớn trong toàn bộ chuỗi giá trị của sản phẩm
công nghiệp, còn khu vực hạ nguồn với các hoạt động gia công, lắp ráp là khu
vực tạo ra giá trị gia tăng ít nhất. Thực tế, thời gian qua, ngành công nghiệp Việt
Nam vẫn phát triển theo bề rộng, theo hướng gia công, lắp ráp là chủ yếu chưa
“chạm tới” hoặc chưa hề chiếm lĩnh khu vực có giá trị gia tăng cao, đặc biệt là
khu vực thượng nguồn - chính là sản phẩm của CNHT. Do đó, khả năng cạnh
87
tranh của Việt Nam so với ASEAN vẫn tụt hậu; số lượng sản phẩm tăng hàng
năm, nhưng giá trị gia tăng trên mỗi sản phẩm thấp, trong bảng xếp hạng về hiệu
suất công nghiệp, Việt Nam đứng sau Indonesia 15 bậc, Philippines 25 bậc.
Năm 2000, số lượng doanh nghiệp ngành công nghiệp là 10.938 doanh
nghiệp, đến năm 2011 tăng lên 54.341 doanh nghiệp, trong đó số doanh nghiệp
sản xuất các loại kinh kiện, phụ tùng là 1.123 doanh nghiệp và năm 2013 tăng
lên 1.383 doanh nghiệp; tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 - 2013 là 12,42%.
Trong số doanh nghiệp sản xuất các loại kinh kiện, phụ tùng; sản xuất linh kiện
phụ tùng kim loại phát triển nhất với 656 doanh nghiệp, tăng 352 doanh nghiệp
so với năm 2005; sản xuất linh kiện điện - điện tử 416 doanh nghiệp, tăng 291
doanh nghiệp so với năm 2005; sản xuất linh kiện nhựa - cao su 311 doanh
nghiệp, tăng 198 doanh nghiệp so với năm 2005 (Biểu đồ 3.1).
Biểu đồ 3.1: Số lượng doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng
304
125 113
500
275218
552
322
249
656
416
311
2005 2010 2011 2013
DNSX PHỤ TÙNG KIM LO ẠI DNSX ĐIỆN - ĐIỆN TỬ DNSX NHỰA-CAO SU
Nguồn: [83]
Các ngành công nghiệp như: cơ khí chế tạo, dệt may, điện tử… GTSX
công nghiệp tăng trưởng khá cao. GTSX ngành cơ khí chế tạo năm 2005 từ
48.599,9 tỷ đồng đến năm 2012 tăng đến 128.068,4 tỷ đồng. GTSX ngành dệt
may, năm 2005 là 34.432,7 tỷ đồng, năm 2013 đạt 76.996,7 tỷ đồng. GTSX
ngành da giày tăng trưởng thấp, giai đoạn 2005 - 2012 tăng 23.313,6 tỷ đồng;
cũng giai đoạn này, ngành cơ khí chế tạo tăng 79.468,5 tỷ đồng, ngành dệt may
tăng 42.564 tỷ đồng (Biểu đồ 3.2).
88
Biểu đồ 3.2: Giá trị sản xuất công nghiệp một số ngành công nghiệp
Đơn vị: tỷ đồng
CƠ KHÍ CHẾ TẠO:128068,4
48599,9
112821,8
12103,9
6117,6
CN ĐIỆN TỬ: 36132,7
DỆT MAY: 76996,7
66793,2
34432,7 18919,5
35660,8DA GIÀY:42233,1
0
20000
40000
60000
80000
100000
120000
140000
2005 2010 2012
Nguồn: [83]
Công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT được một số doanh nghiệp chủ động
đầu tư, trình độ cộng nghệ được cải thiện đáng kể; một số sản phẩm CNHT có
khả năng cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu. Theo Tổng cục Thống kê, trong
lĩnh vực sản xuất linh kiện phụ tùng giai đoạn 2005 - 2011, GTSX công nghiệp
tăng 11,18%. Sản xuất linh kiện điện tử tuy mới phát triển trong 6 năm trở lại
đây nhưng tăng trưởng khá nhanh, GTSX công nghiệp đạt 30,9 nghìn tỷ năm
2012 (giá so sánh năm 1994). Linh kiện nhựa - cao su đạt giá trị thấp, nhưng tốc
độ tăng cường cao, đạt 12,87% giai đoạn 2006 - 2011 (Bảng 3.1).
Bảng 3.1: GTSX công nghiệp lĩnh vực sản xuất linh kiện phụ tùng
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
2005 2011 2012
Linh kiện phụ tùng kim loại 10,7 18,2 73,3
Linh kiện điện - điện tử 3,2 7,8 30,9
Linh kiện nhựa - cao su 2,3 4,8 17,6
Tổng 16,3 30,8 121,8
Nguồn: [83]
89
Lao động lĩnh vực sản xuất linh kiện phụ tùng tăng trưởng nhanh trong 2006
- 2013, tốc độ bình quân 16,1%/năm, đạt trên 197.361 lao động năm 2013; trong đó,
lao động sản xuất linh kiện kim loại và điện - điện tử chiếm đa số; năm 2013, lao
động sản xuất linh kiện điện - điện tử là 100.640 người (Bảng 3.2).
Bảng 3.2: Lao động trong lĩnh vực sản xuất linh kiện phụ tùng
Đơn vị: người
2005 2011 2012 2013 TTBQ (%/năm2006 - 2013)
Linh kiện PT kim loại 43.546 79.820 80.280 80.638 8,0%
Linh kiện điện - điện tử 15.288 80.724 90.182 100.640 26,6%
Linh kiện nhựa - cao su 971 12.455 13.769 16.083 15,8%
Tổng 59.805 172.999 184.231 197.361 16,1%
Nguồn: [83]
Toàn ngành chế tạo chế biến, tổng số lao động năm 2005 là 5.031,2 nghìn
lao động, năm 2012 là 7.460,7 nghìn lao động, đến năm 2013 là 7.654,6 nghìn lao
động (Biểu đồ 3.3).
Biểu đồ 3.3: Lao động trong công nghiệp chế biến, chế tạo
Đơn vị tính: nghìn người
2013; 7654,6 2005: 5031,2
2012: 7460,7
2011: 6972,6
2010: 6645,8 2009: 6449
2008: 5998,8
2007: 5665
2006: 5350,1
Nguồn: [83]
90
Tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung học là 69%; tỷ lệ lao động trình độ cao
đẳng, đại học tương đương nhau khoảng 15 - 16%; có trình độ sau đại học
khoảng 1,28%. Doanh nghiệp FDI tuy có quy mô lớn nhưng tỷ lệ vốn/lao động và
lao động đã qua đào tạo sơ cấp trở lên của doanh nghiệp FDI không cao hơn
doanh nghiệp tư nhân trong nước cùng ngành nghề. Bình quân vốn/lao động của
doanh nghiệp CNHT sản xuất linh kiện, phụ tùng, nguyên vật liệu khu vực FDI là
732 triệu đồng so với 971 triệu đồng của khu vực tư nhân. Sự phát triển CNHT đã
có bước chuyển biến đáng khích lệ, các hoạt động sản xuất chế tạo giá trị gia
tăng đáng kể. Tại thời điểm ngày 01 tháng 9 năm 2013, chỉ số sử dụng lao động
của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo tăng tới 4,7% so với cùng
thời điểm năm 2012; đây là tín hiệu tích cực, góp phần ổn định cuộc sống cho
người lao động, bảo đảm an sinh xã hội.
3.2.1. Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp xe máy
Ngành xe máy Việt Nam, xuất hiện từ những năm 1990, khởi đầu là sự
xuất hiện của các nhà lắp ráp nước ngoài. Năm 1993, Công ty Sanyang Motor
(SYM) thuộc Tập đoàn Chinfon Đài Loan vào Việt Nam xây dựng nhà máy lắp
ráp xe máy đầu tiên, đã thu hút gần 20 nhà đầu tư Đài Loan đến Việt Nam đầu tư
xây dựng các nhà máy sản xuất linh phụ kiện, phụ tùng. Năm 2003, số doanh
nghiệp tham gia sản xuất lĩnh vực này tăng 60 doanh nghiệp, có 08 doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài (01 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, 07 doanh
nghiệp liên doanh). Ngoài ra, có khoảng gần 500 cơ sở sản xuất phụ tùng khác.
Theo Hiệp hội Ô tô, Xe máy và Xe đạp Việt Nam, sản lượng xe máy của
các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe máy tại Việt Nam là 3 triệu xe/năm. Năng
lực sản xuất, lắp ráp của các doanh nghiệp FDI đóng vai trò chủ đạo trong sự
phát triển của ngành công nghiệp xe máy. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sản xuất,
lắp ráp xe máy Việt Nam cũng gặp trở ngại trước sự cạnh tranh gay gắt, quyết
liệt với các loại xe máy nhập khẩu từ nước ngoài. Năm 2010, số lượng xe máy
các loại nhập khẩu là 72.164 chiếc, giá trị nhập khẩu của linh kiện xe máy là
91
766,8 triệu USD, tăng 37% so với năm 2009. Năm 2013, nhập khẩu 458 triệu
USD, giảm 22% so với năm 2012. Thực trạng ngành xe máy Việt Nam và số liệu
xe máy nhập khẩu, đã gây hiệu ứng tăng cao về nhập siêu, hạn chế sản lượng của
các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe máy trong nước. Nhưng nhu cầu đối với xe
máy của thị trường nội địa vẫn rất lớn và đòi hỏi các doanh nghiệp CNHT xe
máy Việt Nam không ngừng nỗ lực vươn lên, xây dựng cho mình một chiến lược
sản xuất, kinh doanh đúng, đáp ứng tốt được quá trình cạnh tranh gay gắt.
Theo Bộ Công thương, năm 2013 khoảng 5 triệu xe được lắp ráp trong
nước; dự kiến năm 2015, lượng xe máy lưu hành trong nước đạt khoảng 31 triệu
xe, đến năm 2020 khoảng 33,5 triệu xe, đưa tỷ lệ sử dụng xe máy ở Việt Nam
lên 2,97 người/xe. Năm 2000, số lượng doanh nghiệp CNHT xe máy khoảng 58
doanh nghiệp, với tổng nguồn vốn là 5.644 tỷ đồng, đến năm 2011 số doanh
nghiệp là 173 doanh nghiệp, tổng nguồn vốn tăng lên 31.512 tỷ đồng (Bảng 3.3).
Bảng 3.3: Quy mô của doanh nghiệp CNHT xe máy
Năm 2000 2005 2011Tăng trưởng
2001-2005 2006-2011
Số lượng doanhnghiệp 58 143 173 19.78% 3.00%
Giá trị sản xuất CN(Đơn vị: tỷ đồng) 10.106 26.491 63.767 21.26% 15.80%
Tổng số lao động(Đơn vị: người) 8.890 28.567 41.392 26.30% 7.70%
Tổng nguồn vốn(Đơn vị: tỷ đồng) 5.644 18.214 31.512 26.40% 9.60%
Nguồn: [87]
Năm 2012 và 2013, số lượng doanh nghiệp sản xuất xe máy gần như
không tăng, nhưng các doanh nghiệp đã tăng cường đầu tư mở rộng quy mô sản
xuất. Điển hình như Liên doanh Honda, tháng 12/2011 khởi công xây dựng nhà
máy thứ 03 tại KCN Đồng Văn 2 (Hà Nam), với vốn đầu tư hơn 120 triệu USD,
92
đưa tổng công suất cả 03 nhà máy lên 2,5 triệu chiếc/năm và tăng thêm khoảng
1.800 lao động. Nhà sản xuất xe máy Yamaha - Nhật Bản, đầu tư thêm 30 triệu
USD tăng năng lực sản xuất lên 1,5 triệu chiếc/năm. Công ty Cơ khí Mạnh
Quang sản xuất phụ tùng xe máy của Việt Nam, đầu tư mở rộng thêm 02 nhà
máy cùng hàng loạt máy móc chuyên dụng hiện đại của nước ngoài, đưa doanh
thu từ nguồn bán phụ tùng xe máy lên khoảng 250 tỷ đồng/năm.
Các doanh nghiệp FDI phần lớn là DNNVV, di chuyển theo các hãng lắp
ráp của Nhật Bản, Đài Loan sang Việt Nam có quy mô vốn hạn chế. Vì vậy, sản
phẩm của các doanh nghiệp này sản xuất ra chỉ để đáp ứng nhu cầu nội bộ của các
công ty mẹ. Năm 2012, Bộ Công thương đề nghị Chính phủ duyệt 06 dự án sản
xuất phụ tùng xe máy được vay vốn đầu tư ưu đãi từ quỹ đầu tư phát triển; với
tổng số vốn dự án đầu tư thiết bị công nghệ của các dự án này khoảng 13,5 triệu
USD. Các chủ đầu tư dự án gồm: Công ty Cơ khí Thăng Long (sản xuất cụm
khung, trục lái, ống xả, vành xe máy), Công ty Cơ khí Giải Phóng (sản xuất giảm
xóc xe máy), Công ty Cơ khí Đồng Tháp (sản xuất may ơ xe máy), Công ty Cơ
khí Mai Động (sản xuất bộ nhôm xe máy), Công ty Thiết bị Long Biên (sản xuất
cần số, cần khởi động,)… Số doanh nghiệp nội địa tham gia hệ thống CNHT tăng
về số lượng và nâng cao dần chất lượng các linh kiện cung ứng, xuất khẩu ra thị
trường thế giới. Ngoài ra, xuất khẩu linh kiện còn được thực hiện gián tiếp qua
việc xuất khẩu các sản phẩm xe máy lắp ráp hoàn chỉnh của các doanh nghiệp.
Cả doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FDI đều đã có những lô hàng xuất
khẩu xe máy nguyên chiếc sang các thị trường như Châu Phi, châu Mỹ La Tinh.
Năm 2000, lao động trong ngành CNHT xe máy khoảng 8.890 lao động,
đến năm 2011 đã tăng lên 44.579 lao động (Biểu đồ 3.4). Ngành công nghiệp xe
máy đã liên tục đưa vào Việt Nam các công nghệ lắp ráp và chế tạo mới nhất
trong toàn bộ chuỗi cung ứng, đồng thời tập huấn và nâng cao kỹ năng và bồi
dưỡng kiến thức mới cho lực lượng lao động thông qua việc gửi nhiều chuyên
gia quốc tế vào Việt Nam cũng như cử cán bộ Việt Nam đi đào tạo ở nước ngoài.
93
Biểu đồ 3.4: Doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng xe máy
101065644 8890
26491 1821428567
63767
3151244579
2000 2005 2011GTSX CÔNG NGHIỆP (tỷ đồng) NGUỒN VỐN (tỷ đồng) LAO ĐỘNG (Người)
Nguồn: [85]
Năm 2003, tỷ lệ nội địa hóa ngành xe máy đạt từ 60 - 75%; năm 2012, tăng
lên 80 - 90%; đến năm 2013, một số dòng xe của Honda như Future, SH tỷ lệ nội
địa hóa vượt mức trên 90% (Bảng 3.4).
Bảng 3.4: Tỷ lệ nội địa hóa của một số hãng xe máy
Đơn vị tính:%
Tên hãng Loại xe
Tỷ lệ nội địa hóa
Năm 2003 Năm 2013
SH 125i 93,00
HONĐA Wave 64,48 > 80,0
Future 76,76 92,50
Super Dream 74,86 > 80,0
VMEP Magic S 51,20 95,00
Angle Hi 77,07 95,00
Nguồn: [90]
Tỷ lệ nội địa hoá càng cao, hệ thống CNHT trong nước càng phát triển.
Nếu nhìn từ góc độ tổng sản lượng của toàn ngành thì CNHT cho ngành xe máy
hiện đang trong giai đoạn III (Xuất hiện các nhà cung ứng các sản phẩm hỗ trợ
94
chủ chốt, phát triển mạnh việc gia công tại nước sở tại các chi tiết phụ tùng có độ
phức tạp cao và khối lượng hàng hoá nhập khẩu để lắp ráp bắt đầu giảm dần) của
quá trình phát triển. Nhưng trên thực tế chỉ ở giai đoạn II (nội địa hoá thông qua
sản xuất tại chỗ). Thành công lớn nhất đối với ngành CNHT sản xuất và lắp ráp
xe máy của Việt Nam từ nhập khẩu 100% linh phụ kiện của nước ngoài, nay tự
sản xuất được khoảng 70% các loại linh kiện, phụ tùng, góp phần nâng cao tỷ lệ
nội địa hóa sản phẩm xe máy sản xuất tại Việt Nam. Tuy nhiên, giá thành các
linh kiện, phụ kiện sản xuất trong nước vẫn còn cao, chất lượng chưa ổn định.
Nhìn chung, các công ty lắp ráp đã xây dựng được mối liên kết khá chặt
chẽ với hệ thống các nhà cung cấp nội địa Việt Nam và nước ngoài, để trở thành
trung tâm phát triển của hệ thống cao hơn của các ngành CNHT tại Việt Nam.
Vai trò của khu vực FDI đối với sự phát triển của ngành công nghiệp xe máy
Việt Nam là không thể phủ nhận, ngoài việc bổ sung nguồn vốn đang khan hiếm,
các doanh nghiệp FDI còn tích cực chuyển giao công nghệ sản xuất và các kinh
nghiệm quản lý cho các doanh nghiệp nội địa.
3.2.2. Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp dệt may
Giai đoạn từ 2002 - 2007, ngành dệt may Việt Nam có tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu đạt 20% năm. Đặc biệt năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu ngành
dệt may đạt 7,73 tỷ USD, đưa Việt Nam lọt vào top 10 nước và vùng lãnh thổ
xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới. Năm 2012, với 15,09 tỷ USD, Việt
Nam vươn lên đứng thứ 5 trong số các nước xuất khẩu lớn trên thế giới. Năm
2013, ngành dệt may xuất khẩu đạt khoảng 17,9 tỷ USD, đạt tỷ trọng 14% so với
kim ngạch xuất khẩu cả nước (Biểu đồ 3.5).
Theo Tổng cục Thống kê, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam chiếm tỷ trọng khoảng 1,6% so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
thế giới. Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ: năm
2010 chiếm 5,85%; năm 2011 chiếm 6,8%; năm 2012 chiếm 7,29% giá trị nhập
khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ; vào thị trường Nhật Bản: năm 2010 chiếm
4,55%; năm 2011 chiếm 5,43%; năm 2012 chiếm 5,92% giá trị nhập khẩu hàng
95
dệt may của Nhật Bản. Năm 2013, ngành dệt may Việt Nam tiếp tục tăng trưởng
thuận lợi, xuất khẩu vào Mỹ tăng 14,2%; Nhật Bản tăng 20,5%.
Biểu đồ 3.5: Trị giá hàng dệt may xuất khẩu từ 2000-2013
27323609
4429 47725854
77329120 9065
11210
14000
17900
1509016%
14%
14%
16%15%
16%15%15%
17%18%
16%
14%
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
14000
16000
18000
20000
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
0%
2%
4%
6%
8%
10%
12%
14%
16%
18%
20%
Hàng Dệt may (triệu USD) Tỷ trọng kim ngạch XK(%)
Nguồn: [84]
Tính đến đầu năm 2012, số lượng doanh nghiệp CNHT ngành dệt may
khoảng 1.280 doanh nghiệp, chiếm 31,26% tổng số doanh nghiệp toàn ngành;
trong đó: doanh nghiệp vải chiếm tỷ trọng cao nhất 52%; doanh nghiệp sợi, chỉ
may chiếm 22%; doanh nghiệp hoàn tất chiếm 14% (Biểu đồ 3.6).
Biểu đồ 3.6: Số lượng các doanh nghiệp CNHT ngành dệt may năm 2012
661
39
177
7 12
286
96
SỢ I T.HỢ P BÔ NG TƠ TẰM SỢ I, CHỈMAY
VẢI NHUỘ M PHỤ LIỆU
Nguồn: [88]
96
Giai đoạn 2005 - 2010, các doanh nghiệp sản xuất sợi và dệt vải có vốn
đầu tư nước ngoài tăng cao từ 10.503.859 tỷ đồng năm 2005 lên 29.578.495 tỷ
đồng năm 2010; doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng từ 2.660.600 tỷ đồng năm
2005 lên 9.015.732 tỷ đồng năm 2010. Nhìn chung, vốn đầu tư của DNNN gần
như không thay đổi, do nhiều doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa nên đã
chuyển thành doanh nghiệp ngoài nhà nước (Biểu đồ 3.7).
Biểu đồ 3.7: Vốn đầu tư của doanh nghiệp sản xuất sợi và dệt vải
Đơn vị tính: triệu đồng
8325880
84188995682550
78532628253277DNNN
8464955
10503859
18564563
DN FDI 29578495 29116476
20165570 21665069
2660600 3362179 7050371
5846531 9149919
DN NNN 9015732
2005 2006 2007 2008 2009 2010
Nguồn: [86]
Bảng 3.5: GTSX công nghiệp CNHT ngành dệt may
Đơn vị: tỷ đồng
2005 2011 2012 2013
GTSXCN CNHTngành dệt may
8.934,2 24.405,7 85.924,0 99.671,9
GTSXCN toànngành dệt may
34.432,7 76.996,7 286.512,6 306.104,4
Tổng 25,95% 31,7% 32% 32,5%
Nguồn: [83]
97
Giá trị sản xuất công nghiệp CNHT ngành dệt may năm 2005 đạt 8.934,2
tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 25,95% ngành dệt may; năm 2011, đạt 24.405,7 tỷ đồng,
chiếm tỷ trọng 31,7% toàn ngành dệt may; đến năm 2013, đạt 99.671,9 tỷ đồng,
chiếm tỷ trọng 32,5% toàn ngành dệt may. Trong giai đoạn 2005 - 2011, tốc độ
tăng trưởng CNHT ngành dệt may là 18,23% (Bảng 3.5).
Lao động trong lĩnh vực CNHT ngành dệt may đạt mức tăng trưởng
3,2%/năm giai đoạn 2006 - 2013; mức tăng trưởng này thấp hơn lĩnh vực may
mặc - lĩnh vực thu hút số lượng lao động rất lớn. Với trên 209 nghìn lao động
năm 2013 lĩnh vực CNHT ngành dệt may, chiếm 16,9% trong tổng số lao động
toàn ngành (Bảng 3.6). Năm 2013, tỷ lệ lao động ngành dệt tăng 8,1%, ngành
may trang phục tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2012. Tuy tổng số lao động của
ngành dệt may chiếm gần 5% trong tổng số lao động toàn quốc, nhưng chất
lượng lao động chưa cao: ngành dệt, lao động qua đào tạo chiếm 35,1%, trình độ
cao đẳng trở lên là 7%; ngành may, tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp hơn, 18,24%
tổng số lao động có trình độ cao đẳng, đại học; 4,16% trên đại học.
Bảng 3.6: Lao động lĩnh vực CNHT ngành dệt mayĐơn vị: người
2005 2011 2012 2013TTBQ
(%/năm2006 -2013)
CNHT ngànhdệt may
162,934 188.914 193.637 209.128 3,2%
Toàn ngành dệtmay
676.362 1.050.011 1.138.842 1.235.188 7,8%
Tổng 23,29% 18,0% 17,0% 16,9%
Nguồn: [83]
Năm 2013, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hơn 350 triệu USD vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã đầu tư vào ngành dệt may và sợi. Hiện nay, với chính
sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài nên các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tăng
98
khá mạnh, với tốc độ tăng bình quân khoảng 18%/năm. Các nhà đầu tư trong
nước chủ yếu tập trung đầu tư vào sản xuất may mặc, lĩnh vực lợi thế cho xuất
khẩu và thu hồi vốn nhanh. Các doanh nghiệp nhà nước chú trọng vào xuất khẩu
nên chủ yếu tập trung đầu tư tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn cho các
doanh nghiệp dệt may, tốc độ đầu tư vào sản xuất sợi và dệt vải thấp. Giá trị tài
sản cố định của ngành dệt may chiếm từ 7% - 9%, ngành may chiếm từ 4% - 5 %
trong tổng số vốn của ngành công nghiệp chế biến. Tổng doanh thu hai ngành
này chiếm từ 8% - 10% tổng doanh thu ngành công nghiệp chế biến (Bảng 3.7).
Bảng 3.7: Doanh thu của các doanh nghiệp CN dệt may từ 2000 - 2012
Đơn vị tính: tỷ đồng
Doanh thucông nghiệp
chế biến
Ngành dệt Ngành may
Doanhthu
Tỷ lệ (%)dệt/CNCB
Doanhthu
Tỷ lệ (%)may/CNCB
2006 1008976 57887 5,7 49206 4,9
2007 1245850 64805 5,2 62467 5,0
2008 1620325 74218 4,6 82412 5,1
2009 1960769 90479 4,6 94902 4,8
2010 2563031 112722 4,4 124217 4,8
2011 3220359 150830 4,7 151743 4,7
2012 4063949 192402 4,8 192265 4,8
Nguồn: [88]
Số liệu của Hiệp hội Bông sợi Việt Nam năm 2000, sản lượng bông đạt
12.000 tấn, đáp ứng khoảng 20% nhu cầu kéo sợi, phải nhập khẩu 80% bông.
Đến năm 2010, sản lượng đạt 3.500 tấn, bằng 30% sản lượng năm 2000 và đáp
ứng 1,3% nhu cầu bông cho ngành sợi. Hàng năm, ngành sợi đã phải nhập khẩu
90% bông; gần 100% các loại xơ sợi tổng hợp, hóa chất, thuốc nhuộm, máy móc
99
thiết bị và phụ tùng, dẫn đến tỷ suất lợi nhuận chỉ đạt khoảng 4% - 8% chủ yếu
tập trung ở khâu sản xuất gia công. Tổng lượng bông sản xuất trong nước mùa
vụ 2012/2013 đạt khoảng 5.180 tấn, đáp ứng 1% nhu cầu bông cho ngành sợi,
phải nhập khẩu tăng lên 14% (405.000 tấn) so với mùa vụ 2011/2012. Xơ các
loại cũng nhập khẩu 220.000 tấn, chiếm 54%. Chi phí nhập khẩu nguyên liệu
đầu vào chiếm tỷ lệ khoảng 60% tổng giá trị xuất khẩu. Vì chi phí nhập khẩu đầu
vào cao nên ngành dệt may khó có điều kiện phát triển (Bảng 3.8).
Bảng 3.8: Tình hình nhập khẩu của ngành dệt may từ năm 2006-2012
Đơn vị tính: triệu USD
Thiết bị phụ tùng
ngành dệt mayBông
Xơ dệt (sợi
chưa xe)Sợi dệt
2006 481,8 221,8 213,8 439,0
2007 641,7 268,0 260,5 578,5
2008 847,8 466,5 276,9 606,7
2009 459,8 394,7 314,0 582,0
2010 565,7 674,2 412,2 763,9
2011 675,4 1150,0 549,5 983,6
2012 685,3 1200,0 509,7 898,3
Nguồn: [83], [90]
Tỷ lệ nội địa hóa của ngành dệt may năm 2006: 30,01%; năm 2007:
35,63%; năm 2009: 42,08%; năm 2012: 47% và năm 2013, vượt qua 50%. Hiện
tại người Việt Nam đã tín nhiệm dùng hàng Việt Nam và phấn đấu đến năm
2015 phấn đấu đạt trên 50%. Sau hai năm triển khai Quyết định 29/2010/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển cây bông vải Việt
Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, ngành bông Việt Nam từng
bước được khôi phục. Diện tích trồng bông tăng dần theo vụ: vụ bông năm
2009/2010, diện tích đạt 8.175 ha (bằng 271,68% so với vụ năm 2008/2009), sản
100
lượng bông xơ đạt 3.903 tấn; vụ bông năm 2010/2011, diện tích đạt 10.470 ha, sản
lượng bông xơ 4.695 tấn; vụ bông năm 2011/2012, diện tích đạt 11.260 ha, sản
lượng bông xơ 4.864 tấn. Vụ bông năm 2012/2013, diện tích trồng 12.000 ha, đạt
5.180 tấn bông xơ, tăng 10,4% so với mùa vụ trước.
Hiện số lượng máy móc, thiết bị ngành dệt may còn khiêm tốn so với các
quốc gia sản xuất sản phẩm dệt may trong khu vực. Trình độ công nghệ của
ngành dệt may và sản xuất phụ liệu may mặc thấp hơn so với yêu cầu. Các
doanh nghiệp đầu ngành như Công ty Cổ phần Cơ khí may Gia Lâm, Công ty
Cổ phần Cơ khí may Nam Định, Công ty Cổ phần Cơ khí Hưng Yên đã sản
xuất một số chi tiết phụ tùng thay thế và một số máy móc phục vụ ngành dệt
may, nhưng do năng lực, thiết bị hạn chế, nên chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát
triển nhanh của các doanh nghiệp dệt may; hầu hết thiết bị công nghệ phải nhập
khẩu từ nước ngoài.
Thiết bị công nghệ kéo sợi: chủ yếu là trung bình và lạc hậu, 10% thiết bị
được đầu tư từ các nước có trình độ tiên tiến (Tây Âu và Nhật Bản) và sử dụng
trong vòng 5 năm gần đây; 11% thiết bị đã được sử dụng từ 5 -10 năm được đầu
tư từ Tây Âu, Ấn Độ, Nhật Bản; 33% thiết bị được sử dụng từ 10 - 20 năm chất
lượng trung bình và tuỳ thuộc vào trình độ quản lý sử dụng của doanh nghiệp.
Thiết bị công nghệ may mặc, trong 5 năm trở lại đây, do mở rộng thị
trường Hoa Kỳ, ngành may đã phát triển khá nhanh và đầu tư lượng khá lớn thiết
bị máy móc mới. Hiện toàn ngành có 1446 doanh nghiệp may với gần 750.000
máy may các loại và trình độ công nghệ đánh giá chung là khá. Một số công ty
đã áp dụng công nghệ tin học vào sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thiết bị công nghệ in nhuộm: đối với lĩnh vực này, chất lượng sản phẩm
chỉ phụ thuộc vào 50% thiết bị, 50% còn lại chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào
công nghệ và bí quyết nghề in nhuộm, gồm: hoá chất, thuốc nhuộm, quy trình
công nghệ. Hiện nay, thiết bị tẩy, nhuộm, in hoa và hoàn tất chủ yếu nằm ở các
DNNN và hầu như 100% đều phải nhập ngoại.
101
Thiết bị công nghệ dệt kim: dệt kim là một trong những mặt hàng chủ yếu
xuất khẩu sang thị trường Mỹ, nên có lợi thế về nguồn vốn đầu tư hơn lĩnh vực
dệt thoi và kéo sợi. Lĩnh vực dệt kim đã được nâng cấp và đầu tư lớn về thiết bị.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của dệt may Việt Nam sang Mỹ cao,
góp phần thúc đẩy dệt kim tăng trưởng khá (trung bình 12%/năm). Chính vì thế
trình độ công nghệ của ngành dệt kim được đánh giá ở mức trung bình khá.
Trong chuỗi giá trị toàn cầu của hàng dệt may, Việt Nam mới chỉ tham gia
vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng với lượng giá trị gia tăng thấp nhất trong
chuỗi giá trị. Phần lớn các nhà sản xuất sản phẩm dệt may của Việt Nam đang
thực hiện các hợp đồng ủy thác xuất khẩu CMT (gia công thuần túy) cho các đại
lý mua hàng và cơ sở thu mua. Sản phẩm dệt may của Việt Nam được xuất sang
nhiều nước, đưa Việt Nam vào top các nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới,
nhưng giá trị thu về còn thấp. Trong tương lai, khi nhu cầu của khách hàng khắt
khe, sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh cải tiến hơn về chất lượng, thì sản phẩm
dệt may Việt Nam sẽ khó khăn trong việc đứng vững trên thị trường.
3.2.3. Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp điện tử
Năm 1990, Việt Nam mới có vài chục doanh nghiệp điện tử, đến nay đã có
gần 500 doanh nghiệp, trong đó khoảng 1/3 là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, sử dụng khoảng 250 ngàn lao động, đáp ứng được nhu cầu trong nước với
các loại sản phẩm điện tử, điện lạnh, công nghệ thông tin - viễn thông thông dụng
với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20 - 30%/năm. Giai đoạn 2000 - 2010, sản
phẩm công nghệ thông tin tăng trưởng mạnh từ 30% - 50%; nhưng giai đoạn 2011
- 2013, sản phẩm công nghệ thông tin tăng trưởng chỉ đạt 20% - 30%. Hiện nay,
Việt Nam đang sản xuất các sản phẩm hỗ trợ chủ yếu là mạch in, màn hình, vi
mạch bán dẫn, các bộ cảm biến, các linh kiện, phụ tùng cho thiết bị viễn thông,
thiết bị truyền dẫn, bán dẫn, quang điện tử, vi điều khiển, các thiết bị SoC
(System on - a Chip), IC thông minh dùng cho thẻ, những sản phẩm tín hiệu hỗn
hợp, bộ nhớ STRAM... Tổng doanh thu công nghiệp điện tử Việt Nam tăng đều
102
đặn, năm sau cao hơn năm trước. Từ 9.313 tỷ đồng năm 2000, lên tới 34.782 tỷ
đồng năm 2005, 112.649 tỷ đồng năm 2010, 286.269 tỷ đồng năm 2012; 308.311
tỷ đồng năm 2013 (Biểu đồ 3.8). Song cơ cấu sản phẩm trong ngành đang có sự
lệch pha, nghiêng về điện tử tiêu dùng trong khi điện tử chuyên dụng lại rất ít, tỷ
lệ chênh lệch là 7/3. Vì vậy, nhiều năm qua, ngành công nghiệp điện tử vẫn chưa
có bước đột phá để đưa Việt Nam vào bản đồ điện tử thế giới.
Biểu đồ 3.8: Tổng doanh thu công nghiệp điện tử Việt Nam
Đơn vị tính: tỷ đồng
308311
9313 11555 13691 16163 18852 3478241137
58039 6853685828
205213
286269
112649
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Nguồn: [84]
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2000 sản phẩm xuất, nhập khẩu ngành
điện tử Việt Nam là 0,79 tỷ USD; năm 2005 là 1,43 tỷ USD; năm 2012 tăng 7,84
tỷ USD; năm 2013 đạt 11 tỷ USD. Tốc độ tăng bình quân/năm, thời kỳ 1998 -
2005 đạt 15,8%; thời kỳ 2006 - 2012 đạt 27,6%; đặc biệt 2011-2012 tăng tới
47,8%. CNHT ngành điện - điện tử là lĩnh vực thu hút được nhiều FDI nhất
trong các ngành CNHT tại Việt Nam với 445 dự án FDI, số vốn đăng ký lên tới
trên 10 tỷ USD, chủ yếu là các dự án sản xuất linh kiện điện tử (311 dự án với số
vốn đầu tư trên 8,2 tỷ USD). Việc trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) vào đầu năm 2007 đã mở ra cho Việt Nam những cơ
hội hết sức thuận lợi để ngành công nghiệp điện tử Việt Nam và các lĩnh vực công
nghệ cao tiếp cận các công nghệ tiên tiến của thế giới và khu vực. Chỉ tính riêng
103
lượng vốn FDI đầu tư vào ngành công nghiệp điện tử Việt Nam từ năm 2007 đến
nay đạt khoảng 3 tỷ USD, lớn hơn tổng số vốn FDI vào toàn ngành công nghiệp
điện tử trong 13 năm (1993 - 2006). Số lượng doanh nghiệp CNHT trong ngành
điện tử cũng không ngừng tăng lên, năm 2006 có 120 doanh nghiệp, năm 2010 là
372 doanh nghiệp. Đến năm 2013, lên tới 630 doanh nghiệp (Bảng 3.9).
Bảng 3.9: Số lượng doanh nghiệp CNHT ngành Điện tử 2006 - 2013
Đơn vị tính: doanh nghiệp
2006 2008 2010 2012 2013Doanh nghiệp CNHTSố lượng 2643 4161 4992 <6000 >6000
Tốc độ tăng trưởng (%) 27,9 20 21,0 21,9
CNHT ngành Điện tửSố lượng 120 219 372 510 630
Tốc độ tăng trưởng (%) 45 32 28,7 25,0
Tỷ lệ DN CNHT/DNCNHT điện tử (lần)
22 19 17,2 16,4 16,0
Nguồn: [89]
Biểu đồ 3.9: Vốn kinh doanh bình quân của doanh nghiệp
sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính
Đơn vị tính: tỷ đồng
2173528549
3446942251
56204
78724
124000
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2013
Nguồn: [83]
104
Vốn kinh doanh bình quân của các doanh nghiệp sản xuất điện tử, máy tính
năm 2005 là 21.735 tỷ đồng, năm 2010 là 78.724 tỷ đồng, năm 2013 là 124.000
tỷ đồng; tổng số lao động ngành này khoảng 240 nghìn người; giá trị tài sản cố
định và đầu tư tài chính dài hạn khoảng 60,5 nghìn tỷ đồng. (Biểu đồ 3.9)
Tính đến năm 2005, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm trong ngành rất thấp, mới
chỉ đạt được khoảng 20%, chủ yếu là bao bì, linh kiện nhựa. Trong khi đó, chất
lượng sản phẩm của ngành này còn yếu và không ổn định. Các doanh nghiệp
điện tử trong nước vẫn gần như chỉ khai thác sản phẩm cũ, lợi nhuận rất thấp và
giá trị gia tăng chỉ ước tăng 5 - 10%/năm. Kết quả khảo sát của Hiệp hội Doanh
nghiệp điện tử Việt Nam năm 2006, các doanh nghiệp FDI có "tên tuổi" đều phải
nhập khẩu trên 90% linh kiện của nước ngoài, thậm chí có doanh nghiệp nhập
khẩu cả 100% như Công ty Fujitsu Việt Nam. Điều này vừa gây thiệt thòi cho
ngành công nghiệp Việt Nam, khiến chúng ta khó thoát khỏi tình trạng gia công,
lắp ráp, vừa giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp hàng
điện tử trong nước. Hiện nay, linh kiện điện tử và các sản phẩm hỗ trợ của ngành
công nghiệp điện tử mới được sản xuất ở Việt Nam, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm
khoảng 20 - 40% (với sản phẩm tivi màu) và được tăng dần lên do có thêm các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia. Tỷ lệ nội địa hóa của lắp ráp
tivi trung bình khoảng 40%; các sản phẩm thuộc nhóm gia dụng (máy giặt, tủ
lạnh, điều hòa) khoảng 35%; nhóm nghe nhìn khoảng 30%.
Theo điều tra của Tổng Công ty Điện tử Tin học Việt Nam (năm 2010), tỷ
lệ nội địa hoá của các công ty liên doanh lớn (SONY, Toshiba, JVC, Daewoo)
đạt khoảng 30%. Khu tổ hợp Samsung Complex Bắc Ninh của Công ty TNHH
Samsung Electronics Việt Nam (SEV) có doanh thu hằng năm vài tỷ USD nhưng
tỉ lệ nội địa hóa cao nhất chỉ đạt 30%. Năm 2012, doanh thu của SEV là 10 tỉ
USD, nhưng chỉ 5% số này có được từ thị trường nội địa. Công ty Fujitsu một
doanh nghiệp FDI lớn có kim ngạch xuất khẩu hàng năm khoảng nửa tỷ USD đã
phải nhập khẩu 100% linh kiện, phụ tùng, nguyên vật liệu từ nước ngoài.
105
Sau 5 năm qua kể từ sau khi gia nhập WTO, giá trị xuất khẩu của nhóm
các sản phẩm công nghệ thông tin của Việt Nam không ngừng tăng cao. Năm
2010, kim ngạch nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử linh kiện hàng tháng
biến động không nhiều. Năm 2012, kim ngạch nhập khẩu vào những tháng cuối
năm tăng mạnh, gần gấp đôi những tháng đầu năm (Biểu đồ 3.10).
Biểu đồ 3.10: Kim ngạch nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử
& linh kiện theo tháng, giai đoạn 2010 - 2012
Đơn vị tính: triệu USD
NĂM 2010284
563523524465420391422366359258373
990550
339511 468 516 543 626
776 898 898
NĂM 2011845
NĂM 20121208
12191392119612111204
10701142839918
909792
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
Nguồn: [90]
Về sản xuất linh kiện điện tử, năm 1993, thành phố Hà Nội đầu tư xây
dựng Nhà máy sản xuất Đèn hình Orion - Hanel, mức vốn đầu tư 178 triệu USD;
hiện nay, doanh thu của Nhà máy đạt khoảng 100 triệu USD/năm, với công suất
trên 1,6 triệu sản phẩm/năm. Đến năm 2000, tại Đà Nẵng, Công ty Phát triển
Công nghệ và Tư vấn đầu tư đã đầu tư dây chuyền sản xuất tụ màng mỏng, với
vốn đầu tư trên 01 triệu USD, hàng tháng đưa ra thị trường khoảng 8 triệu sản
phẩm. Năm 2011, mặt hàng linh kiện điện tử và điện thoại các loại đã được đẩy
mạnh xuất khẩu, đạt tới 6,8 tỷ USD ngay trong năm đầu tiên và chính thức được
đưa vào danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu; nhóm mặt hàng này tiếp tục
tăng trưởng mạnh năm 2012 và bứt phá trở thành mặt hàng có kim ngạch xuất
khẩu cao nhất cả nước năm 2013. Bên cạnh đó, nhóm hàng điện tử, máy tính và
linh kiện vẫn duy trì vị trí thứ 2 chỉ sau dệt may trong danh mục các mặt hàng
xuất khẩu chủ yếu hàng năm (Bảng 3.10).
106
Bảng 3.10: Tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm công nghệ thông tin
từ năm 2008-2013
Đơn vị: Triệu USD.
Sản phẩm 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Điện tử, máy tính và linh kiện 2,638 2,763 3,590 4,670 7,838 10,601
Điện thoại các loại, linh kiện - - - 6,886 12,717 21,244
Tổng kim ngạch XK cả nước 62,685 57,096 72,237 96,906 114,529 132,135
Nguồn: [83]
Giai đoạn 2007 - 2013, các dự án đầu tư vào lĩnh vực điện tử có sản xuất
linh kiện. Hàm lượng giá trị lao động của người Việt Nam trong các sản phẩm
điện tử bình quân chiếm 5% - 10% giá trị sản phẩm. Đến nay, Việt Nam không
có cơ sở sản xuất công nghiệp nào tham gia vào việc sản xuất vật liệu điện tử,
chỉ có ở dạng nghiên cứu cơ bản hoặc sản xuất theo mô hình phòng thí nghiệm.
Từ (Biểu đồ 3.11) cho thấy, cơ cấu đầu tư trong ngành điện tử - tin học hiện nay
tập trung chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất hàng điện tử gia dụng với 66%; sản
xuất linh phụ kiện chỉ chiếm 22% và điện tử chuyên dụng 12%. Cơ cấu sản xuất
như vậy đã phần nào phản ánh trình độ công nghệ còn lạc hậu và hạn chế của
ngành công nghiệp điện tử Việt Nam.
Biểu đồ 3.11: Cơ cấu đầu tư trong ngành điện tử
Đơn vị tính: %
Điện tử chuyêndụng 12%
SX linh phụ kiện22%
Điện tử gia dụng66%
Nguồn: [89]
107
Việt Nam hiện đang từng bước xác lập tên tuổi của mình trên trường quốc
tế để thu hút đầu tư công nghệ cao trong sản xuất công nghiệp điện tử. Điều này
sẽ làm cho Việt Nam trở thành điểm mới để xây dựng nhà máy và mở rộng sản
xuất. Theo Hội Doanh nghiệp điện tử Việt Nam, đầu tư vào công nghiệp điện tử
Việt Nam chủ yếu đến từ Nhật Bản, Mỹ, Đài Loan. Các doanh nghiệp FDI
thường chọn các KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao có hạ tầng, giao thông
thuận tiện chủ yếu ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận để xây
dựng các cơ sở sản xuất. Với lợi thế về địa lý, nằm trong khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương là khu vực có ngành điện tử phát triển với tốc độ nhanh và năng
động nhất; cùng với lợi thế nguồn nhân lực dồi dào, chi phí lao động thấp, nguồn
tài nguyên trí tuệ phong phú, Việt Nam sẽ có cơ hội thuận lợi và thế mạnh thu
hút vốn đầu tư, nhận chuyển giao công nghệ, học tập kinh nghiệm sản xuất và
quản lý của các nước để phát triển ngành công nghiệp điện tử.
3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ
NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
3.3.1. Những thành tựuNgành CNHT Việt Nam đang từng bước phát triển, góp phần thúc đẩy
ngành công nghiệp phát triển, luồng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài tăng lên, cải
cách doanh nghiệp nhà nước đang được tiến hành nhanh chóng... Tuy thành tựu
đạt được chưa nhiều, song cũng là cơ sở và tạo tiền đề động lực để ngành CNHT
phát triển bền vững và lâu dài. Hiện nay, Việt Nam có trên 60.000 doanh nghiệp
với các quy mô khác nhau đang phát triển và hình thành các cơ sở sản xuất
nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện, vật tư hỗ trợ... phục vụ nhu cầu lắp ráp các mặt
hàng công nghiệp trong nước và xuất khẩu. Trong đó, chiếm tỷ trọng lớn là các
cơ sở sản xuất phục vụ cho nhu cầu lắp ráp các sản phẩm tiêu thụ nội địa. Với
những ưu đãi thu hút vốn FDI, nhiều doanh nghiệp FDI đã trực tiếp đầu tư phát
triển các cơ sở sản xuất hỗ trợ tại Việt Nam. Doanh nghiệp Việt Nam cũng có sự
đổi mới mạnh mẽ về công nghệ, trang thiết bị, đầu tư dây truyền máy móc gia
công tiên tiến và hiện đại. Trình độ của đội ngũ nhân lực, cả kỹ sư và công nhân
108
được nâng cao. Chi phí, hiệu quả sản xuất, sự chính xác của thời gian giao hàng
được chú trọng. Một số DNNN có quy mô lớn đã bắt đầu bỏ hình thức sản xuất
tích hợp theo chiều dọc trước đây và chuyển sang hình thức đầu tư chiều sâu,
chuyên môn hóa sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Lĩnh vực
sản xuất linh kiện kim loại đã đáp ứng được 85 - 90% nhu cầu sản xuất xe máy;
40 - 60% cho sản xuất các loại máy nông nghiệp, máy động lực và 40% cho máy
xây dựng. Lĩnh vực sản xuất linh kiện điện - điện tử đã đáp ứng cho lĩnh vực
điện tử gia dụng 30 - 35% nhu cầu, 40% cho sản xuất xe máy. Đưa tỷ lệ nội địa
hoá sản phẩm một số ngành công nghiệp khá cao (ngành xe máy 70 - 90%, trang
thiết bị điện 80 - 90%...). Các linh kiện điện tử đã xuất khẩu tới hơn 50 quốc gia
và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 - 2013 là
21,8%/năm; riêng năm 2013, giá trị xuất khẩu đạt 11 tỷ USD.
CNHT ngành dệt may Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, phần nào
đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của ngành công nghiệp hạ nguồn, đặc biệt
là đối với những sản phẩm chất lượng cao phục vụ cho xuất khẩu. Các loại sợi
sản xuất trong nước đáp ứng khá tốt nhu cầu của doanh nghiệp; như: Sợi bông và
bông pha, khoảng 70% số doanh nghiệp dệt sử dụng trên 75% số lượng sợi sản
xuất trong nước; Sợi PE, khoảng 50% số doanh nghiệp dệt sử dụng trên 75% số
lượng sợi sản xuất trong nước để sản xuất... Năm 2013, ngành dệt may Việt Nam
có kim ngạch xuất khẩu trên 17,9 tỷ USD.
Những thành công điển hình nhờ đầu tư phát triển CNHT, phải kể đến
ngành đóng tàu Việt Nam. Qua chủ trương hỗ trợ phát triển ngành cơ khí, các dự
án CNHT, ngành đóng tàu Việt Nam (Vinashin) đã có những bước phát triển đáng
kể. Bên cạnh đó, Vinashin đã tiến hành xây dựng hai nhà máy cán thép, trong đó
Nhà máy cán thép Cái Lân có công suất 500.000 tấn/năm, đạt tiêu chuẩn quốc tế
để cung ứng cho công nghiệp đóng tàu. Nhà máy cán thép hình, thép mỏng tại
Nam Định để chủ động nguồn thép và phôi thép... Các sản phẩm CNHT khác như
sản xuất chế tạo phụ kiện điện, dây cáp điện, tời, thiết bị thủy lực, nắp hầm hàng
cũng được đầu tư... Công nghiệp Việt Nam đã phát triển và có những đóng góp to
109
lớn cho quá trình phát triển kinh tế xã hội và tăng thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Có thể khẳng định, thời gian vừa qua sự tăng lên về số lượng của các dự án
FDI là nhờ môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, đặc biệt là chúng ta đã nhận
thức rõ tầm quan trọng của CNHT và đã quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển của
ngành công nghiệp mới này. Vì thế, CNHT bước đầu đã có sự phát triển đáng
khích lệ, góp phần tích cực đảm bảo tính bền vững, ổn định và hiệu quả lâu dài
trong phát triển ngành công nghiệp nói riêng, nền kinh tế Việt Nam nói chung.
3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
3.3.2.1. Những hạn chếBên cạnh những thành công, quá trình phát triển CNHT ngành công
nghiệp xe máy, dệt may, điện tử ở Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế:
Về quy mô doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp CNHT ở Việt Nam còn
ít, trình độ chỉ ở mức trung bình, thậm chí còn thấp và lạc hậu so với khu vực và
nhiều quốc gia trên thế giới. Sự tăng trưởng nguồn vốn đầu tư cho các doanh
nghiệp CNHT ngành xe máy, dệt may, điện - điện tử còn thấp, chưa tương xứng
với giá trị sản xuất hàng năm. Giai đoạn 2006 - 2013, tăng trưởng vốn đầu tư cho
doanh nghiệp CNHT ngành xe máy là 9,6%. Giá trị tài sản cố định của ngành dệt
chiếm từ 7% - 9%, ngành may chiếm từ 4% - 5 % tổng số vốn của ngành công
nghiệp chế biến; trong khi tổng doanh thu hai ngành này chiếm từ 8% - 10%
tổng doanh thu ngành công nghiệp chế biến...
Hiện tại, các doanh nghiệp CNHT Việt Nam chủ yếu là DNNVV, quy mô
sản xuất nhỏ, phân tán; khả năng cạnh tranh kém do năng lực công nghệ hạn chế,
hoạt động chủ yếu dưới dạng gia công, mới sản xuất được các sản phẩm đơn
giản, nhỏ lẻ như các linh kiện chi tiết giản đơn, giá trị gia tăng thấp. Quy mô và
mức độ bền vững của các liên kết thị trường giữa các doanh nghiệp FDI với các
doanh nghiệp trong nước còn yếu.
Trình độ công nghệ và tỷ lệ nội địa hóa. Tuy một số doanh nghiệp Việt
Nam đã đầu tư mua máy móc, dây chuyền thiết bị, công nghệ tiên tiến của nước
110
ngoài, nhưng việc làm chủ các phần vận hành, bảo dưỡng trang thiết bị còn hạn
chế. Việc liên kết và tận dụng năng lực công nghệ của doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp CNHT Việt Nam với các doanh nghiệp FDI còn rất yếu, dẫn đến
việc nắm bắt và hấp thụ công nghệ của Việt Nam thấp. Hiện nay, ngành CNHT
xe máy Việt Nam, mới sản xuất các linh kiện với kỹ thuật công nghệ đơn giản,
chưa có doanh nghiệp nào sản xuất các bộ phận chính đòi hỏi kỹ thuật, công
nghệ cao như động cơ, hộp số... Ngành CNHT dệt may, số lượng máy móc, thiết
bị còn khiêm tốn so với quốc gia sản xuất sản phẩm dệt may trong khu vực.
Trình độ công nghệ của từng lĩnh vực trong dệt may không đồng đều. Nhiều
doanh nghiệp đã mua thiết bị và công nghệ hiện đại, chuẩn bị cho việc sản xuất
các mặt hàng cao cấp, song người vận hành các thiết bị lại có trình độ chuyên
môn chưa tương xứng. Tỷ lệ nội địa hóa còn thấp, trên 80% vải, da, vải giả da và
các phụ liệu như chỉ khâu, nút áo, khoá kim loại, vật liệu dựng, lót... phải nhập
khẩu. Ngành CNHT điện tử, nội lực còn thấp, khoảng cách về tiêu chuẩn chất
lượng giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài còn quá lớn. Cơ cấu sản
phẩm mất cân đối, công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh thấp, nguyên vật liệu
phụ thuộc phần lớn vào nhà cung cấp nước ngoài. Tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm
trong ngành thấp, chủ yếu là bao bì, linh kiện nhựa.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam
thấp. Năng lực kỹ thuật công nghệ, năng lực tổ chức quản lý sản xuất của các
doanh nghiệp CNHT còn thấp; việc áp dụng các tiêu chuẩn quản lý hiện đại
mang tính hình thức. Doanh nghiệp khó kiểm soát chất lượng, tỷ lệ sản phẩm
hỏng trong sản xuất cao, dẫn đến giá thành sản phẩm chưa thực sự hấp dẫn được
các nhà lắp ráp. Mặt khác, do phải nhập khẩu chi tiết, linh kiện, nguyên liệu chi
phí cao đã ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Dịch vụ đi kèm,
thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán, khả năng tạo ra năng suất và chất
lượng các sản phẩm CNHT của các ngành còn hạn chế, làm giảm khả năng cạnh
tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp ngành điện tử Việt Nam, với tiềm lực tài
111
chính và công nghệ hạn chế, phần lớn gia công, lắp ráp sản phẩm dân dụng (ti vi,
đầu karaoke, tủ lạnh...), với hình thức nhập linh kiện và lắp ráp chỉ cung ứng cho
thị trường nội địa, vì không cạnh tranh được với các sản phẩm của nhiều hãng
nước ngoài về công nghệ và giá cả.
Mức độ đáp ứng yêu cầu của ngành công nghiệp hạ nguồn. Dung lượng
thị trường các ngành công nghiệp hạ nguồn hiện nay ở Việt Nam nhỏ, chưa hấp
dẫn sản xuất CNHT. CNHT ngành xe máy, dệt may và điện tử công nghệ còn lạc
hậu, sản phẩm chưa đạt kỹ thuật cao nên doanh nghiệp khó khăn trong việc cung
cấp sản phẩm hỗ trợ có tính tương đồng cho các ngành công nghiệp hạ nguồn
trong nước và nước ngoài.
Trình độ nguồn nhân lực. Đội ngũ lao động qua đào tạo hiện nay thấp,
thiếu tính thực tiễn,…; như ngành dệt may, tổng số lao động của ngành chiếm
5% tổng số lao động toàn quốc, nhưng chất lượng lao động chưa cao: ngành dệt,
lao động qua đào tạo chiếm 35,1%; ngành may, tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp
hơn, 18,24% tổng số lao động có trình độ cao đẳng, đại học. Bên cạnh đó, khả
năng ứng dụng và tính sáng tạo của nguồn nhân lực rất hạn chế. Chất lượng đào
tạo chưa hợp lý, dẫn đến đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật và công nhân thiếu sự tích lũy
về trình độ công nghệ và tính thực tiễn,…
3.3.2.2. Những nguyên nhân của hạn chế
Những hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, nhưng tập trung một số
nguyên nhân chính sau:
Việc hoạch định cơ chế, chính sách ở Việt Nam, mới chỉ thuộc phạm vi
của Chính phủ, ít có sự tham gia của các của các nhà tài trợ, các chuyên gia, các
nhà khoa học. Quyết định 12/2011/QĐ-TTg và Quyết định 1483/QĐ-TTg, diện
sản phẩm lựa chọn còn rộng, chưa phù hợp với mục tiêu phát triển dài hạn, phân
tán nguồn lực. Các định chế trung gian để hỗ trợ các doanh nghiệp trong phát
triển sản phẩm CNHT còn thiếu, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ tài chính. Các
quy định về quản lý hành chính còn rườm rà, đang là một trong những trở ngại
112
thu hút đầu tư. Một nguyên nhân nữa là độ tin cậy của nhà cung cấp chưa cao, về
chất lượng, giá cả, lẫn sự phong phú chủng loại sản phẩm của Việt Nam. Điều
này làm các doanh nghiệp khi đầu tư vào ngành CNHT gặp không ít khó khăn vì
phải đầu tư luôn một tập hợp các nhà cung cấp cho mình, do đó, họ chọn cách
nhập khẩu. Hạ tầng cung ứng cho doanh nghiệp khi tham gia vào CNHT chưa
tốt, thiếu thốn và chi phí cao, điều này sẽ làm chi phí sản xuất tăng lên và nhiều
doanh nghiệp không dám đầu tư.
Số lượng, thiết bị máy công nghiệp còn hạn chế, công nghệ cũ, lạc hậu;
trình độ tự động hóa thấp… nên sản phẩm của các ngành hỗ trợ chất lượng kém,
giá thành cao, chủ yếu tiêu thụ trong nội bộ các DNNN, còn các sản phẩm chất
lượng cao phần lớn do các công ty nước ngoài đảm nhiệm. Các doanh nghiệp
trong nước không đủ niềm tin và ý thức tích lũy kỹ năng, như yêu cầu tính năng,
chất lượng, giá thành, thời gian giao hàng, dịch vụ,… Việc thiếu nguồn nhân lực
công nghệ cao một phần do xã hội chưa quan tâm đúng mức đối với các ngành
CNHT, một phần do chất lượng đào tạo hiện nay còn thấp, sự chậm trễ trong
chuyển giao công nghệ và bản thân đội ngũ lao động còn thiếu nhiệt tình, ngại
học hỏi, tiếp thu kiến thức mới.
Các kênh thông tin giữa các doanh nghiệp FDI/nhà lắp ráp; các công ty
nội địa, các tập đoàn lớn bên ngoài đặc biệt là các tập đoàn của Nhật Bản còn
thiếu. Chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia về lĩnh vực này. Chính nguyên nhân này
khiến các nhà sản xuất gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm đơn vị cung
cấp linh kiện, dịch vụ hỗ trợ và tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm.
Tính hợp tác - liên kết giữa các doanh nghiệp hỗ trợ với các doanh nghiệp
sản xuất lắp ráp, giữa nhà lắp ráp với các nhà sản xuất hỗ trợ, giữa các nhà sản
xuất hỗ trợ với nhau còn yếu. Đặc biệt, là khối doanh nghiệp trong nước và khối
doanh nghiệp FDI. Sự kém năng động, nhạy bén của các nhà cung cấp Việt Nam
đã cản trở “xây dựng quan hệ” trong kinh doanh. Chưa kể đến, tính cục bộ của
doanh nghiệp Việt Nam, muốn làm từ “A” đến “Z”.
113
Chúng ta chú trọng nhiều đến việc giảm bớt thủ tục để thuận lợi cho nhà
đầu tư, mà chưa chú ý đến khâu hậu kiểm xem họ làm gì, làm như thế nào, đúng
với cam kết không. Điều này đã dẫn đến có những doanh nghiệp FDI cam kết
đầu tư, được cấp hàng trăm héc-ta đất, nhưng trên thực tế lượng vốn chuyển vào
đầu tư chẳng được bao nhiêu hoặc có nhà đầu tư nước ngoài đã giả danh vào
Việt Nam đầu tư, rồi vay nợ làm ăn thua lỗ, bỏ nhà máy, bỏ dự án về nước...
3.3.3. Những vấn đề đặt ra trong phát triển công nghiệp hỗ trợ trong
một số ngành công nghiệp Việt Nam
3.3.3.1. Về quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ
Như phân tích ở trên, thể chế phát triển CNHT còn nhiều hạn chế, chưa có
quan điểm rõ ràng về CNHT để xác định các chủ thể tham gia vào phát triển
CNHT; cơ chế vận hành chưa đầy đủ, chủ yếu là mệnh lệnh hành chính từ trên
xuống, không bám sát nhu cầu thị trường. Việt Nam đã có các chính sách thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, chính sách phát triển doanh nghiệp, chính sách tăng
cường liên kết doanh nghiệp thông qua các khu, cụm công nghiệp, chính sách hỗ
trợ tài chính, KH - CN và nguồn nhân lực... nhưng do cách đặt vấn đề từ ban
đầu, nên việc xác định các ngành, doanh nghiệp, sản phẩm được ưu đãi đang gặp
phải nhiều vấn đề khó giải quyết, khó thực hiện vì quá dàn trải.
Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn năm 2020, cách
thức đặt vấn đề phát triển CNHT của Việt Nam hiện nay là trên cơ sở các ngành
công nghiệp hạ nguồn. Trong đó, phát triển CNHT được hoạch định: mỗi ngành
công nghiệp hạ nguồn (thuộc 5 ngành ưu tiên) có một ngành CNHT tương ứng.
Như vậy, bản chất của quy hoạch là tập hợp của 5 quy hoạch ngành, với sự tập
trung hơn vào phần chuỗi cung ứng trong mỗi ngành. Do đó, cần xác định rõ,
không phải ngành công nghiệp nào cũng có thể phát triển CNHT như phát triển
công nghiệp nói chung. Theo kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, các ngành
CNHT đều được xác định trên cơ sở các ngành cung ứng. Bản thân CNHT của
một ngành công nghiệp, như CNHT ngành điện tử bao gồm rất nhiều sản phẩm
114
từ nhiều ngành khác, những ngành cung ứng này có thể đáp ứng cho nhiều
ngành hạ nguồn khác, không phải chỉ riêng ngành điện tử. CNHT chỉ có thể phát
triển được, khi các ngành cung ứng có thể đáp ứng cho nhiều ngành công nghiệp
khác nhau. Nhật Bản đã giới hạn các ngành CNHT bao gồm: công nghiệp sản
xuất các linh kiện kim loại, công nghiệp sản xuất các linh kiện nhựa và cao su,
công nghiệp sản xuất các linh kiện điện và điện tử [142]. Nếu Việt Nam xác định
như vậy, 03 ngành hỗ trợ này có thể cung ứng cho các ngành: công nghiệp xe
máy, ô tô, điện tử, máy nông nghiệp, máy công nghiệp, đóng tàu...
3.3.3.2. Về vốn, công nghệ trong phát triển công nghiệp hỗ trợ
Vốn và công nghệ là hai yếu tố rất cần thiết cho quá trình phát triển
CNHT, là nâng cao chất lượng sản phẩm ngành CNHT và tính cạnh tranh cho
các sản phẩm công nghiệp chính. Trình độ KH - CN, khả năng tiếp cận, đổi mới
công nghệ và chi phí cho nghiên cứu, phát triển là những yếu tố quyết định hàng
đầu về chất lượng, tính năng của sản phẩm CNHT. Việt Nam, với điều kiện vị trí
địa lý thuận lợi, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư lớn, các công ty xuyên quốc gia,
giúp Việt Nam gia tăng quá trình tích luỹ vốn, tiếp thu công nghệ nhanh chóng,
thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước liên kết với các công ty nước ngoài
cùng phát triển ngành CNHT. Tuy nhiên, các DNNVV Việt Nam chưa đáp ứng
được các nhu cầu về vốn và công nghệ cho sản xuất CNHT. Phần lớn các công
nghệ đang được sử dụng trong ngành sản xuất CNHT đều lạc hậu. Đầu tư vào các
ngành CNHT bất lợi hơn so với đầu tư vào khu vực hạ nguồn: đầu tư lớn, công
nghệ phức tạp, thời hạn đầu tư và hoàn vốn đầu tư dài, độ rủi ro trong đầu tư cao.
Hạn chế dòng vốn và công nghệ đầu tư cho phát triển CNHT. Cần khắc phục
những yếu tố cản trở quá trình đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công
nghiệp thuộc sở hữu nhà nước: thiếu hiểu biết thị trường do công tác nghiên cứu
nhu cầu và tiếp thị đều yếu; thiếu hiểu biết về công nghệ thích hợp do không tiến
hành các nghiên cứu hệ thống về công nghệ; chưa có thị trường vốn trung hạn và
dài hạn nên doanh nghiệp ít có khả năng lựa chọn nguồn vốn, phụ thuộc gần như
115
hoàn toàn vào vốn Ngân hàng; thủ tục đầu tư phức tạp, mất thời gian vì nhiều cấp
xét duyệt gây lãng phí công sức tiền bạc, đôi khi mất thời cơ kinh doanh; lãnh đạo
doanh nghiệp thiếu quyết tâm do không phải chịu sức ép cạnh tranh…
3.3.3.3. Về nhân lực trong phát triển công nghiệp hỗ trợ
Nguồn nhân lực chất lượng cao là vấn đề quan trọng được đặt lên hàng
đầu. Chưa có chiến lược chung phát triển chất lượng nguồn nhân lực trong doanh
nghiệp công nghiệp, trong khi vấn đề này đang phân hoá khá sâu sắc. Dẫn đến,
việc thiếu nghiêm trọng lực lượng lao động được đào tạo cơ bản, có tay nghề
"cứng" để đáp ứng cho sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại. Một phần của
thực trạng này chính là do chi phí cho đào tạo nhân công của Việt Nam thấp so
với một số nước trong khu vực. Việc đào tạo, thực hành khoa học kỹ thuật ở các
trường đại học, cơ sở đào tạo còn hạn chế; cộng với sự thiếu thực tiễn trong quá
trình đào tạo sinh viên cũng là một trở ngại lớn.
Từ thực trạng này, đặt ra vấn đề cần thay đổi triệt để công tác đào tạo theo
hai hướng, đó là phần cứng (bằng trang thiết bị) và phần mềm (chương trình đào
tạo và phương thức giảng dạy), tạo đội ngũ kỹ sư có thể làm việc tốt trong hệ
thống sản xuất linh kiện. Hiện nay, chủ yếu lực lượng lao động cung cấp cho các
doanh nghiệp vẫn dựa trên hai kênh chính: hệ thống giáo dục phổ thông và đào
tạo tại chỗ. Thời gian tới, Việt Nam cần tận dụng lợi thế, với sự giúp đỡ của nước
ngoài xây dựng một chiến lược đào tạo nghề cơ bản cho công nhân. Đặc biệt là
công nhân có trình độ kỹ thuật cao phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội đất
nước nói chung và ngành công nghiệp, CNHT nói riêng.
3.3.3.4. Về phát triển công nghiệp hỗ trợ khi tái cấu trúc một số
ngành công nghiệp ở Việt Nam sau khủng hoảng tài chính toàn cầu
Việc tái cấu trúc một số ngành công nghiệp ở Việt Nam sau khủng hoảng
tài chính toàn cầu là chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt
Nam. Quá trình tái cấu trúc một số ngành công nghiệp Việt Nam phải diễn ra
trên cơ sở nhận thức mới và nội dung toàn diện. Cần có sự tham gia rộng rãi, tự
116
nguyện của các doanh nghiệp và đối tác liên quan theo nguyên tắc thị trường. Đề
cao “bàn tay nhạc trưởng” thống nhất của Nhà nước thông qua các công cụ luật
pháp và ngân sách Nhà nước định vị lại đúng đắn hơn vai trò chủ đạo của khu vực
kinh tế nhà nước trong quá trình tái cấu trúc kinh tế. Để tái cấu trúc nền kinh tế,
phát triển nền công nghiệp hiện đại, yếu tố quan trọng chính là các ngành CNHT.
Việc phát triển CNHT hướng tới một nền công nghiệp bền vững với các
tiêu chí cơ bản như: tỷ trọng giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp cao, tiêu hao ít
tài nguyên, chuyển giao công nghệ nhanh và hiệu quả, thu hút và đào tạo lao
động, ít gây ô nhiễm môi trường. Tại các Tập đoàn lớn, các Tổng công ty thì
việc kiện toàn các định chế là vấn đề thường xuyên và liên tục. Việc tái cấu trúc
các định chế trong doanh nghiệp công nghiệp phải được thực hiện khoa học,
đúng luật. Chỉ rõ lĩnh vực kinh doanh chủ đạo, thậm chí chỉ rõ sản phẩm chính,
bộ phận chính mà doanh nghiệp sẽ chế tạo. Xác định hệ thống các doanh nghiệp
CNHT phù hợp. Đây là việc làm hết sức quan trọng vì nếu xác định đúng sẽ đảm
bảo các doanh nghiệp CNHT có một định chế gọn nhẹ, dễ liên kết và hiệu quả.
Chính hệ thống CNHT sẽ là cơ sở để tái cấu trúc lại nền công nghiệp với ý nghĩa
là tái cơ cấu các ngành, cơ cấu quy mô, tái cơ cấu bản thân doanh nghiệp, đặc biệt
là một quan hệ kinh doanh mới theo “nguyên tắc hợp đồng” sẽ dần hoàn thiện.
Tóm lại, qua phân tích thực trạng CNHT trong ngành xe máy, dệt may
và điện tử ở Việt Nam, tác giả sử dụng Mô hình SWOT (Bảng 3.11) để đánh
giá những điểm mạnh, điểm yếu của CNHT Việt Nam trong những năm qua,
đặt trong bối cảnh có xét tới các triển vọng bao gồm cơ hội và thách thức mà
CNHT Việt Nam sẽ phải đương đầu trong thời gian tới để làm rõ 4 chiến lược
cơ bản: (1) SO (Strengths - Opportunities): dựa trên ưu thế để tận dụng các cơ
hội. (2) WO (Weaks - Opportunities): dựa trên khả năng vượt qua các yếu
điểm. (3) ST (Strengths - Threats): dựa trên ưu thế để tránh các nguy cơ. (4)
WT (Weaks - Threats): dựa trên khả năng vượt qua hoặc hạn chế tối đa các yếu
điểm tránh các nguy cơ.
117
Bảng 3.11: Đánh giá SWOT về công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
Cơ hội (O)1.Làn sóng đầu tư ra nướcngoài mạnh mẽ của DN nướcngoài, nhất là các DN NhậtBản và Hàn Quốc.2.Bất ổn ở Thái Lan tạo ra sựchuyển dịch sang nước thứ ba.3.Các FTA giữa Việt Nam,ASEAN và các nước đối tácmở ra cơ hội rộng lớn.
Nguy cơ (T)1.Thị trường cạnh tranhgay gắt sản xuất CNHTcác nước trong khu vực.2.Thách thức từ các cam kếthội nhập trong lĩnh vực CNtrong khuôn khổ các FTA(AFTA, TPP, ASEAN+6).3.Xu thế hình thành cáccụm liên kết ngành.
Điếm mạnh (S)1.Chính phủ có các chính sách,biện pháp ưu đãi các ngànhCNHT ngày càng cụ thể.2.Thị trường nội địa lớn hấpdẫn các ngành công nghiệp hạnguồn; kim ngạch xuất khẩulĩnh vực điện tử; dệt may tăngtrưởng liên tục.3.Đầu tư FDI cho CNHTngành xe máy, điện tử, dệtmay từng bước phát triển.
Định hướng S - O1.Tiếp tục đẩy mạnh thu hútđầu tư FDI, tập trung ưu tiênDN các lớp cung ứng.2.Tận dụng lợi thế do cácFTA mang lại để tham giasâu vào chuỗi giá trị khu vựcvà toàn cầu.3.Xây dựng lộ trình triển khaichính sác ưu đãi của Chính phủ.4.Phát triển giáo dục, đổimới, cải cách đào tạo nghề
Định hướng S - T1.Tăng cường xúc tiến đầutư CN; tập trung vào cácngành kỹ thuật, tránh cạnhtranh trực tiếp với cácnước mới nổi trong cácngành sử dụng nhiều laođộng chi phí thấp.2.Đẩy mạnh các chươngtrình xúc tiến tìm kiếm cácthị trường xuất khẩu choCNHT.
Điểm yếu (W)1.Chính sách ưu đãi phát triểnCNHT chưa ưu tiên cụ thể.2.Dung lượng thị trường cácngành công nghiệp hạ nguồnnhỏ (CN chế tạo ôtô, máy CN)hạn chế sản xuất CNHT.3.DN sản xuất CN ít và yếu,vật liệu chủ yếu nhập khẩu;thiếu nguồn lao động CNchuyên nghiệp, chất lượng cao.4.Quản lý NN còn hạn chế,chưa có CSDL, tiêu chuẩn, tiêuchí đánh giá CNHT.5.Thiếu sự liên kết giữa vùng,phát triển CN, giữa địa phươngtrong vùng phát triển CNHT.
Định hướng W - O1.Chính phủ có chính sáchkhuyến khích tạo thị trườngcho các ngành CN ô tô, máyCN, máy NN, CN môi trường.2.Xây dựng quy hoạch CNHTchương trình hành động hiệuquả tạo các liên kết sản xuấtmạnh tại các vùng CN mạnh.3.Khuyến khích phát triển hệthống DN sản xuất CN quymô nhỏ và vừa; áp dụng quytrình sản xuất phù hợp với tiêuchuẩn quốc tế.4. Xây dựng nguồn nhân lựcCN, nâng cao chất lượng,năng suất lao động.
Định hướng W - T1.Các chính sách ưu đãiphát triển CNHT hướngvào đối tượng DNNVV vàtrong thu hút FDI quy mônhỏ và vừa.2.Phát triển các khu vựctập trung CNHT, CLKNcông nghiệp nhằm pháthuy lợi thế từ các vùngcông nghiệp phát triển.3.Liên kết mạnh mẽ vớicác đối tác đầu tư lớn từNhật Bản, Hàn Quốc vàĐông Nam Á.
118
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP
Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
4.1. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Nền kinh tế thế giới sau đợt suy giảm năm 2009, kéo theo sự phá sản của
các tập đoàn sản xuất sản phẩm CNHT nổi tiếng thế giới. Nhiều quốc gia trong
khu vực đang trong tình trạng tạm dừng đầu tư và tỏ ra thận trọng. Ngành CNHT
bị tác động của khủng khoảng kép Nhật Bản và bất ổn chính trị tại một số quốc
gia và khu vực. Khủng khoảng nợ công khu vực EU, khiến nhiều nhà đầu tư rút
dần vốn từ các nước EU, Mỹ và chuyển sang các nước Đông Á, Đông Nam Á.
Mối quan tâm hàng đầu hiện nay là đẩy mạnh công nghệ cao có tính đổi mới và
độc lập trong các SMEs. Các nước trên thế giới và khu vực đều có xu hướng mở
rộng thị trường, phát triển CNHT đạt ở mức độ cao về chuyên môn hóa và tham
gia vào MLSX trong khu vực và trên thế giới. Một làn sóng mới về đầu tư ra
nước ngoài của các doanh nghiệp chế tạo Nhật Bản, Hàn Quốc gia tăng. Trong
tương lai, ngành CNHT trở thành trung tâm của nền công nghiệp, sự phụ thuộc
vào nhau giữa các nền kinh tế thông qua sự phát triển của CNHT ngày càng chặt
chẽ. Các dịch vụ sản xuất, linh kiện, phụ tùng, xây dựng và vận hành các dây
chuyền lắp ráp, phân phối sản phẩm như một chuỗi khép kín, mang tính toàn
cầu. Các chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu sẽ hình thành và phát triển.
4.1.1. Xu hướng phát triển các ngành công nghiệp và công nghiệphỗ trợ Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn năm 2030
Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại; tại Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “Phát triển công nghiệp và xây
dựng theo hướng hiện đại hóa, tiếp tục tạo nền tảng cho một nước công nghiệp và
nâng cao khả năng độc lập, tự chủ của nên kinh tế. Cơ cấu lại, xây dựng nền công
119
nghiệp theo hướng phát triển mạnh những ngành có tính nền tảng, có lợi thế so
sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững,nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, từng bước có khả năng tham gia
sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu. Ưu tiên phát triển và
hoàn thành những công trình then chốt về cơ khí chế tạo, sản xuất máy móc, thiết
bị thay thế nhập khẩu cho công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng; công nghiệp công
nghệ cao sản xuất linh kiện điện tử, máy tính… công nghiệp hỗ trợ, công nghiệpquốc phòng, an ninh với trình độ công nghệ ngày càng cao, sạch, tiêu tốn ít
nguyên liệu, năng lượng, tăng sức cạnh tranh và giá trị gia tăng”.[31:193]
Theo bản Quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn
năm 2030 (do Bộ Công Thương xây dựng đã trình Thủ tướng Chính phủ): Đến
năm 2020, công nghiệp Việt Nam phát triển với cơ cấu hợp lý theo ngành và
lãnh thổ, có khả năng cạnh tranh để phát triển trong hội nhập, có trình độ công
nghệ tiên tiến ở một số chuyên ngành, lĩnh vực và có khả năng đáp ứng về cơ
bản các yêu cầu của nền kinh tế về tiêu dùng và xuất khẩu. Đến năm 2030, công
nghiệp Việt Nam vươn lên tốp đầu trong khu vực với đa số các chuyên ngành có
trình độ công nghệ hiện đại, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn tiên tiến, sử
dụng năng lượng hiệu quả, có khả năng cạnh tranh bình đẳng trong hội nhập
quốc tế, có đội ngũ lao động chuyên nghiệp trình độ cao, tự nghiên cứu, thiết kế,
chế tạo một số sản phẩm công nghệ cao với chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030 (Bảng
4.1) Theo đó, CNHT Việt Nam ưu tiên thu hút đầu tư, nâng cao năng lực sản
xuất trong ba lĩnh vực quan trọng là:
(i) Lĩnh vực linh phụ kiện, phụ tùng phục vụ các ngành công nghiệp chế
tạo, gồm: linh kiện, phụ tùng kim loại, nhựa - cao su, điện - điện tử; đặc biệt là
cung cấp linh vụ kiện phục vụ các ngành công nghiệp chế tạo quan trọng, có nhu
cầu CNHT cao như công nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô, công nghiệp cơ khí chế
tạo, điện tử, công nghệ cao.
(ii) Lĩnh vực CNHT cho công nghiệp dệt may và da giày: cung cấp
nguyên phụ liệu cho ngành công nghiệp dệt may và công nghiệp da giày.
120
(iii) Lĩnh vực CNHT cho công nghiệp công nghệ cao: gồm lĩnh vực vật
liệu, lĩnh vực thiết bị hỗ trợ chuyên dụng, phần mềm và dịch vụ các ngành công
nghiệp công nghệ cao.
Bảng 4.1: Nhóm chỉ tiêu phấn đấu của ngành công nghiệp
TT Các chỉ tiêu
Các chỉ tiêu đến năm
2010 2010 2030
1Tốc độ tăng giá trị gia tăng CN so với tốc độ
tăng trưởng nền kinh tế trong kỳ (lần)1,24 1,2-1,3 1,1-1,2
2 Tỷ trọng CN + XD trong GDP cuối kỳ (%) 41,6 45-48 42-44
3Tỷ trọng hàng CN XK/tổng kim ngạch XK
cuối kỳ (%)77,2 80-85 88-92
4Tỷ lệ đầu tư xã hội cho nghiên cứu và triển
khai ứng dụng KHCN cuối kỳ (%/GDP)0,5 2 3-4
5Giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao
và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao (%)45 >60
Nguồn: [87], [117], [79]
Khuyến khích tạo điều kiện để các doanh nghiệp CNHT nội địa từng bước
đáp ứng yêu cầu của các công ty lắp ráp, nhất là các tập đoàn đa quốc gia. Tạo
môi trường chuyển giao công nghệ thông qua hợp tác sản xuất giữa các công ty
FDI với các doanh nghiệp nội địa để Việt Nam có thể nhanh chóng tham gia và
làm chủ công nghệ. Có chính sách ưu tiên, ưu đãi, đẩy mạnh thu hút đầu tư vào
CNHT từ các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn đa quốc gia và hệ thống DNNVV.
Nâng cao mối liên kết, hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp lắp ráp và doanh
nghiệp cung ứng, giữa các doanh nghiệp CNHT với nhau.
121
- Ngành xe máy: đến năm 2020, ngành xe máy Việt Nam vẫn đóng vai trò
quan trọng khi Việt Nam chưa có phương tiện giao thông công cộng tiến bộ để
thay thế như tàu điện ngầm, tàu điện trên không... CNHT xe máy Việt Nam, dự
báo đầy triển vọng, nhiều nhà sản xuất trong lĩnh vực CNHT xe máy của Việt
Nam đã có những bước điều chỉnh trong chiến lược sản xuất để nắm bắt cơ hội
tốt này… Việc đầu tư lớn và mở rộng sản xuất từ doanh nghiệp xe máy trong
nước đã chứng tỏ thị trường xe máy ở Việt Nam vẫn tiềm năng trong chiến lược
của những nhà đầu tư ngoại quốc.
- Ngành dệt may: phát triển theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa,
tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Đến năm 2020, quy mô xuất
khẩu ngành dệt may có thể đạt 50 tỷ USD; đáp ứng được 80% nhu cầu nội địa và
tiến tới xuất khẩu sau năm 2020. Đến năm 2030, ngành dệt may sẽ tập trung
khâu thiết kế mẫu mã đáp ứng nhu cầu sản phẩm cao cấp phục vụ thị trường nội
địa và xuất khẩu. CNHT ngành dệt may, tăng cường thu hút đầu tư, sản xuất xơ,
sợi, vải và các nguyên phụ liệu ngành dệt may, hướng tới nội địa hóa các lĩnh
vực CNHT để thay thế hàng nhập khẩu, nâng cao tính chủ động trong sản xuất
và khả năng cạnh tranh của sản phẩm cuối cùng. Giai đoạn từ nay đến 2020, diện
tích trồng bông là 76.000 ha, sản lượng 15.000 tấn, đến năm 2030 là 30.000 tấn;
năm 2020 đầu tư xây dựng thêm 02 nhà máy sản xuất xơ sợi, công suất 150.000
tấn/năm, vốn đầu tư khoảng 5.500 tỷ đồng/nhà máy. Giai đoạn 2021 - 2030, xây
dựng thêm 05 nhà máy sản xuất xơ sợi.
- Ngành điện tử: mục tiêu phát triển sản xuất linh kiện lắp ráp đồng bộ,
linh kiện dạng nguyên vật liệu và các loại linh, phụ kiện khác (đĩa CD, CD-Rom,
DVD...). Giai đoạn từ nay đến 2020, sản xuất linh kiện điện tử cao cấp, cung cấp
cho thị trường trong nước và xuất khẩu toàn cầu. Tập trung thu hút một số dự án
sản xuất linh kiện điện tử nhằm cung cấp cho các ngành công nghiệp chế tạo
trong nước: điện tử - quang điện tử cơ bản; linh kiện điện tử, vi mạch điện tử cho
các thiết bị điện tử gia dụng, điện thoại di động, thiết bị viễn thông và các sản
phẩm điện tử khác. Giai đoạn 2020 - 2030: mở rộng, nâng cao sản lượng, chất
122
lượng của các dự án đã thu hút đầu tư. Đẩy mạnh chuyển giao sản xuất linh kiện
điện tử từ doanh nghiệp FDI sang các doanh nghiệp nội địa; thu hút các dự án
sản xuất linh kiện điện tử chuyên dụng, các dự án sản xuất sản phẩm điện tử
công nghiệp; đặc biệt là các sản phẩm công nghệ cao như: thiết bị y tế, các thiết
bị đo lường và điều khiển.
4.1.2. Một số quan điểm cơ bản
4.1.2.1. Phải coi phát triển công nghiệp hỗ trợ là khâu đột phá, tạo tiền đề
phát triển các ngành công nghiệpCNHT là nhân tố trực tiếp tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm. Việc phát
triển CNHT có vai trò quan trọng đối với phát triển ngành công nghiệp nói riêng
và phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung. Vì vậy, Việt Nam cần xác định
đúng vai trò của CNHT trong chiến lược phát triển công nghiệp quốc gia, coi
đây là khâu đột phá để phát triển nhanh và bền vững, thực hiện CNH, HĐH đất
nước. Ngoài việc tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy
nhanh quá trình CNH, HĐH theo chiều rộng và chiều sâu, CNHT góp phần đẩy
mạnh thu hút đầu tư nước ngoài và tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động
và là “bệ đỡ” cho sự phát triển sản xuất công nghiệp, là nền tảng, cơ sở để sản
xuất công nghiệp phát triển mạnh hơn. Chất lượng sản phẩm đầu ra cuối cùng
của các sản phẩm công nghiệp phụ thuộc vào chất lượng của các sản phẩm chi
tiết, linh kiện được sản xuất từ ngành CNHT.
Sự phát triển CNHT đem lại cho các doanh nghiệp trong một số ngành
công nghiệp hoạt động hiệu quả, chủ động trong sản xuất, tích cực tham gia phân
công lao động quốc tế và khu vực, tập trung sản xuất những sản phẩm có lợi thế
cạnh tranh, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của từng thị trường khu vực. Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng nêu rõ CNHT được xác định là khâu đột phá để phát
triển các ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH
đất nước. Sự phát triển của CNHT sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển
các ngành kinh tế trong nước, góp phần rút ngắn thời gian và nhanh chóng đưa
Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển.
123
4.1.2.2. Phát triển công nghiệp hỗ trợ phải khai thác lợi thế quốc gia,
hướng vào xuất khẩu, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, với sự tham gia của các
thành phần kinh tế
Trong bối cảnh nền kinh tế quốc gia, khu vực và thế giới ngày càng có
quan hệ mật thiết, tạo thành hệ thống mạng lưới hợp tác phân công lao động
quốc tế, Việt Nam cần chủ động, tích cực tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất
toàn cầu, coi phát triển CNHT là nhiệm vụ chiến lược lâu dài và là yêu cầu ngày
càng cấp bách để nâng cao sức cạnh tranh cho nền công nghiệp quốc gia. Hướng
về xuất khẩu là con đường nhanh nhất để Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào chuỗi
giá trị toàn cầu, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Bằng việc tận dụng lợi
thế cạnh tranh về nguồn tài nguyên và nhân lực khéo léo, thông minh chủ động
tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, Việt Nam cần tìm cho mình một
"chỗ đứng", chen chân vào dòng chảy toàn cầu hóa của nhân loại thông qua mối
liên kết với các tập đoàn đa quốc gia để thu hút các nguồn ngoại lực đặc biệt là
nguồn vốn, công nghệ và trình độ quản lý... thúc đẩy CNHT phát triển, đẩy nhanh
quá trình CNH, HĐH đất nước tạo đà tăng trưởng, phát triển kinh tế.
Phát triển CNHT là một lĩnh vực rất khó khăn, nó không chỉ đòi hỏi công
nghệ cao, lao động chất lượng tốt mà còn có rủi ro cao bởi nó không trực diện
với người tiêu dùng cuối cùng. Việc dành nguồn lực tài chính là yêu cầu rất quan
trọng và cần thiết cho phát triển CNHT. Nguồn vốn hình thành từ ngân sách Nhà
nước chưa đủ, cần bổ sung thêm nguồn từ các thành phần kinh tế và cá nhân
trong xã hội, nghĩa là phải đổi mới chính sách tài chính theo hướng đa dạng hóa
các nguồn đầu tư. Quá trình phát triển CNHT vừa đòi hỏi đáp ứng yêu cầu kỹ
thuật, vừa đòi hỏi đáp ứng các nguồn lực, nên cần huy động sức mạnh và khai
thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế để phát triển CNHT. Chúng ta
phải phát huy tối đa năng lực đầu tư của các thành phần kinh tế, đặc biệt các đối
tác chiến lược - các công ty, tập đoàn đa quốc gia trong liên kết sản xuất - kinh
doanh giữa công nghiệp thượng nguồn và công nghiệp hạ nguồn và mối liên kết
124
giữa công ty mẹ với các lớp công ty con vệ tinh. Tiến đến tập trung thu hút các
nhà đầu tư FDI nhằm đa dạng hóa các lĩnh vực công nghệ cao, thúc đẩy sự phát
triển nhanh, đúng hướng của ngành CNHT.
4.1.2.3. Phát triển công nghiệp hỗ trợ phải tuân theo các quy luật khách quan
của kinh tế thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, xây dựng nền kinh tế xanh và
bền vững
Toàn cầu hóa với sự hoạt động và gia tăng thường xuyên, mạnh mẽ của
các chế định quốc tế lớn, với hàng loạt các điều luật, nguyên tắc, quy định, hiệp
ước mang tính quốc tế nghiêm ngặt. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh
tế quốc tế ngày một sâu rộng, tự do hóa thương mại đã buộc các nước khi tham
gia hội nhập kinh tế, đều phải thực hiện các cam kết, thông lệ quốc tế chung
những "quy tắc" và những "luật chơi" của các tổ chức quốc tế và khu vực.
Đối với Việt Nam, sau khi tham gia WTO, phải tuân thủ nguyên tắc và
quy định của tổ chức này cũng như các thể chế quốc tế khác. Trong quá trình xây
dựng chính sách phát triển CNHT thúc đẩy nền công nghiệp quốc gia phát triển
phải xây dựng trên cơ sở nghiên cứu và tuân thủ những quy luật khách quan của
kinh tế thị trường (như quy luật cung cầu, cạnh tranh, chính sách thuế, tỷ giá
ngoại tệ,...), có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước và những thông lệ, quy định
của quốc tế. Những hỗ trợ của Nhà nước chỉ là điều kiện cần, hỗ trợ ban đầu, còn
chủ yếu là sự nỗ lực, quyết tâm chuyển đổi, hội nhập từ phía các doanh nghiệp.
Do đó, nguyên tắc quan trọng để chính sách phát triển CNHT có tính khả thi là
những chính sách hỗ trợ đó không bóp méo tín hiệu của thị trường, không trái
với các quy định quốc tế và những cam kết của Chính phủ Việt Nam. Đồng thời,
trong quá trình xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển CNHT, Việt Nam cần
hướng tới xây dựng “Nền Kinh tế Xanh” hướng đến sản phẩm có chất lượng cao,
được cấp nhãn sinh thái (Eco-label) và có sức cạnh tranh trên thế giới nhằm phục
hồi các nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo, giảm thiểu những rủi ro môi
trường và tái thiết sự thịnh vượng cho tương lai.
125
4.1.2.4. Phải tăng cường vai trò của Nhà nước trong phát triển công nghiệp
hỗ trợ
Để khuyến khích, tạo điều kiện cho CNHT phát triển, thì vai trò chỉ đạo,
sự quan tâm thiết thực và cụ thể của Nhà nước vô cùng quan trọng. Nhà nước
cần xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật phù hợp, đồng bộ, thông suốt thúc
đẩy CNHT phát triển. Sự phát triển CNHT cần có sự kết hợp nhịp nhàng, hài hòa
giữa Nhà nước và doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hiện nay, để phát triển
CNHT đi đúng hướng và hiệu quả, vai trò của Nhà nước là xác định lộ trình rõ
ràng, đồng bộ bốn yếu tố quan trọng: nguồn nhân lực, công nghệ, tài chính và hệ
thống phân phối. Đối sách giải quyết những vấn đề này là nhanh chóng chỉ ra
các ngành cần phát triển và đưa ra các biện pháp để thúc đẩy phát triển. Cụ thể,
đối với vấn đề vốn, Nhà nước cần sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi xây dựng một
quỹ tài chính đảm bảo cho việc phát triển CNHT của những ngành đã được chỉ
định. Việc chỉ định các ngành cần phát triển, là việc chỉ rõ các phạm vi ưu tiên
để có nguồn ngân sách cụ thể, minh bạch. Đối với hệ thống phân phối, Nhà nước
cần có giải pháp quan tâm, tăng nhu cầu nội địa, cung cấp đầy đủ, dễ dàng những
nhu cầu về linh kiện cho những doanh nghiệp có nhu cầu. Nhân lực là một vấn
đề sống còn cho phát triển bất cứ một ngành nào, vì vậy Nhà nước phải áp dụng
những biện pháp khuyến khích đào tạo và học tập ngành CNHT, như đưa ra
những chính sách khen thưởng, nâng lương, nâng cao vị trí cho các kỹ sư, công
nhân, cá nhân có quá trình học tập tốt, có kỹ năng, tay nghề cao. Đối với KH -
CN, Nhà nước cần đẩy mạnh thị trường KH - CN phát triển, tăng đầu tư hỗ trợ,
có cơ chế xét duyệt thông thoáng và minh bạch.
Nhà nước phải đặt ra mục tiêu, biện pháp, quy trình cụ thể, cũng như ngân
sách để phát triển CNHT cho từng ngành. Để thực hiện được điều này, về phía
cơ quan quản lý Nhà nước cần phải nâng cao năng lực tổ chức thực hiện, tháo gỡ
kịp thời những khó khăn tồn tại và xây dựng các cơ chế chính sách hỗ trợ sát
thực sẽ là “đòn bẩy” giúp ngành CNHT phát triển hiệu quả.
126
4.1.2.5. Phát triển công nghiệp hỗ trợ phải đảm bảo tái cấu trúc
ngành công nghiệp cũng như tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam hiệu quảTrong quá trình hội nhập, nền kinh tế Việt Nam chịu tác động bên ngoài
rất lớn, buộc chúng ta phải “tái cấu trúc” bên trong. Do đó “tái cấu trúc” cơ cấu
kinh tế, “tái cấu trúc” ngành công nghiệp là giải pháp cấp thiết nhất hiện nay và
phát triển CNHT là “chìa khóa” quyết định thành công quá trình “tái cấu trúc”.
Ngành công nghiệp là ngành “xương sống” của nền kinh tế, CNHT cấu thành
nền tảng của cấu trúc công nghiệp hiện đại. Phát triển CNHT là đã chuyển từ gia
công sang sản xuất, hoàn thiện sản phẩm, gia tăng giá trị sản phẩm, đặc biệt là
sản xuất những sản phẩm chất lượng cao, tăng sức cạnh tranh, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Phát triển CNHT là động lực phát triển ngành công nghiệp chính,
cũng như sự phát triển của nền kinh tế hiện nay. Phát triển mạnh mẽ CNHT sẽ
giúp Việt Nam phát triển thị trường và cấu trúc lại thị trường, tức là thay đổi mối
quan hệ giữa thị trường nội địa và thị trường quốc tế, đây là con đường ngắn
nhất giúp doanh nghiệp trong nước có thể cung cấp sản phẩm cho doanh nghiệp
nội địa, mở rộng thị trường xuất khẩu trực tiếp đến doanh nghiệp các nước. Như
vậy, CNHT đã thúc đẩy quá trình tái cấu trúc hệ thống các doanh nghiệp, khuyến
khích việc sáp nhập để phát triển các tập đoàn kinh tế lớn, đa sở hữu, kinh doanh
đa ngành, hoạt động xuyên quốc gia... Với cách nhìn từ cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu như trên, thì việc phát triển CNHT không chỉ
có thách thức mà đang là thời cơ để tái cấu trúc ngành công nghiệp, cũng như
nền kinh tế theo hướng cạnh tranh, phát triển bền vững.
Phát triển CNHT ở Việt Nam, cần có sự chọn lọc theo những tiêu chí nhất
định trong từng giai đoạn. Việc lựa chọn sản phẩm và mô hình phát triển cần dựa
trên tính phân kỳ trong quá trình phát triển và lợi thế so sánh dài hạn. Việc lựa
chọn các sản phẩm công nghiệp phải xác định rõ trọng tâm, trọng điểm trong
từng thời kỳ, ứng với nó là mỗi giai đoạn phát triển của nền công nghiệp trong
nước. CNHT phát triển thành ngành hoạt động dựa trên công nghệ và lao động
kỹ năng cao, thúc đẩy phát triển những ngành công nghiệp Việt Nam, đổi mới tổ
127
chức sản xuất, đổi mới công nghệ, chuyên sâu, ổn định vững chắc. Phát triển
CNHT phục vụ công tác điều phối liên kết vùng, phân bổ nguồn lực... thúc đẩy
tái cơ cấu kinh tế đất nước gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng
nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh đáp ứng yêu cầu phát triển
trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng.
4.2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
4.2.1. Nhóm các giải pháp chung phát triển công nghiệp hỗ trợ trong
một số ngành công nghiệp ở Việt Nam
4.2.1.1. Xây đựng Quy hoạch phát triển cho ngành công nghiệp hỗ trợ
Ngày 09/6/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 879/QĐ-
TTg phê duyệt Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm
nhìn đến năm 2035; Quyết định 880/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát
triển các ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Theo đó, Chính phủ đã xác định: phát triển CNHT tập trung vào 03 ngành cơ khí
- luyện kim; điện tử - tin học, dệt may - da giày; và xây dựng các khu, cụm
CNHT tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Với vai trò quan trọng của CNHT đối với ngành công nghiệp nói riêng và
nền kinh tế quốc dân nói chung; việc xây dựng quy hoạch cho ngành CNHT là
cần thiết và cấp bách, đảm bảo sự phát triển CNHT đúng định hướng, phù hợp
với tình hình thực tiễn của đất nước. Tác giả đề xuất: Trên cơ sở Chiến lược và
Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam đã được ban
hành, Chính phủ cần xây dựng Quy hoạch phát triển các ngành CNHT. Quy
hoạch này, phải được xây dựng dựa trên tiềm năng và lợi thế so sánh; có lộ trình,
phương án quy hoạch dài hạn trong cả nước; cụ thể theo từng yêu cầu trong từng
giai đoạn, cũng như ở mỗi địa phương, mỗi ngành. Việc xây dựng Quy hoạch
phát triển các ngành CNHT phải có sự phối hợp liên ngành chặt chẽ; sự đồng
thuận giữa các bên liên quan. Trước mắt, tập trung vào một số giải pháp sau:
128
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức về CNHT; xác định rõ phạm vi
CNHT; đề ra mục tiêu sát thực đối với phát triển các sản phẩm; khai thác tiềm
năng và lợi thế so sánh của mỗi ngành, vùng, miền, địa phương. Phân tích toàn
diện phân công lao khu vực và toàn cầu, đánh giá đầy đủ năng lực của mỗi
ngành CNHT và xác định lĩnh vực mà các doanh nghiệp cần phải tập trung.
Thứ hai, các Bộ, ngành liên quan cần tích cực quan tâm, phối hợp chặt
chẽ với Bộ Công Thương xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích
đầu tư phát triển CNHT; hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động, nghiên cứu
đổi mới, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, vùng
nguyên liệu cho CNHT. Có cơ chế hợp tác, phối hợp giữa các địa phương xây
dựng vùng, khu vực trọng điểm làm định hướng phát triển và liên kết CNHT trên
toàn quốc. Bộ Tài chính xây dựng, trình Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách
hỗ trợ tín dụng có tính đặc thù đối với các DNNVV, doanh nghiệp CNHT, đáp
ứng nhu cầu vay vốn đầu tư, phát triển sản xuất.... Bộ Tài nguyên và Môi trường
phối hợp với Bộ Công Thương kiểm tra, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện
đúng các quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường công nghiệp.
Thứ ba, các địa phương, rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển CNHT
địa phương mình theo định hướng phát triển ngành CNHT, ngành công nghiệp
cả nước; nghiên cứu đưa các nội dung triển khai quy hoạch CNHT vào kế hoạch
hàng năm, kế hoạch 5 năm về phát triển CNHT và công nghiệp trên địa bàn.
Thứ tư, các doanh nghiệp căn cứ Quy hoạch phát triển CNHT điều chỉnh
Chiến lược và Kế hoạch đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
tập trung vào các lĩnh vực mà doanh nghiệp có lợi thế, tái cơ cấu doanh nghiệp,
tranh thủ cơ hội phát triển, hoàn thành định hướng, nội dung… Quy hoạch.
Thứ năm, Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần đẩy mạnh công
tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán… quy hoạch phát triển của địa
phương, của ngành, kịp thời có giải pháp hiệu quả, khả thi. Định kỳ tổng kết,
đánh giá, rút kinh nghiệm.
129
Điều cần quan tâm nữa là xoá bỏ khoảng cách giữa việc xây dựng chính
sách và thực thi chính sách. Rút kinh nghiệm từ bài học của Thái Lan, Việt Nam
cũng cần có các hành động quyết liệt và các chế tài nghiêm khắc về việc thực thi
sai chính sách thì mới mang lại hiệu quả như mong muốn.
4.2.1.2. Hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách phát triển công nghiệp
hỗ trợThực tế ngành CNHT Việt Nam hiện nay, chưa tạo được bước đột phá cần
thiết, do hệ thống luật pháp và chính sách phát triển CNHT chưa đầy đủ và đồng
bộ. Trong quy hoạch phát triển CNHT (được phê duyệt năm 2007), chưa xác
định bộ, ngành phụ trách CNHT trong cơ quan hành chính của Chính phủ. Cục
Phát triển DNNVV (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) có quản lý một phần; tuy nhiên
nhiệm vụ chủ yếu của Cục là phụ trách DNNVV nói chung, gồm cả lĩnh vực
nông lâm thủy sản. Vụ Công nghiệp nặng và Viện Nghiên cứu Chiến lược,
Chính sách công nghiệp (Bộ Công thương) phụ trách phát triển CNHT, tuy có
quan tâm đến nhóm ngành công nghiệp cụ thể, nhưng chưa có cơ chế tổng hợp
phát triển công nghệ sản xuất, liên kết các ngành công nghiệp. Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước... cũng tham gia một phần vào vấn
đề phát triển CNHT, song cho đến nay vẫn chưa nhận thấy sự phối hợp đầy đủ
giữa các bộ, ngành. Từ tình hình trên, tác giả đề xuất:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế về CNHT: Khung pháp lý điều tiết hoạt
động của các chủ thể tham gia CNHT; thành lập cơ quan đầu mối thống nhất
quản lý ở cấp vĩ mô và hiệp hội doanh nghiệp CNHT để phối hợp, liên kết hoạt
động ở cấp vi mô; cơ chế liên kết giữa các doanh nghiệp CNHT trong và ngoài
nước, giữa các doanh nghiệp CNHT với doanh nghiệp công nghiệp.
Thứ hai, Nhà nước tạo thuận lợi về quỹ đất cho các doanh nghiệp sản
xuất các sản phẩm hỗ trợ, được thuê lâu dài và ổn định theo luật định. Đầu tư
hình thành các doanh nghiệp chủ chốt ở một số lĩnh vực cơ khí chế tạo, sản xuất
linh kiện... theo hình thức thành lập mới, sau khi đi vào hoạt động có hiệu quả thì
sẽ triển khai cổ phần hóa.
130
Thứ ba, điều chỉnh một số chính sách tài chính hiện hành liên quan đến
phát triển CNHT, có sự ưu tiên, trọng tâm từng giai đoạn phát triển. Trên cơ sở
năm nhóm ngành công nghiệp hạ nguồn, xây dựng cơ chế thí điểm hỗ trợ và chia
thành hai giai đoạn: (i) Trong tương lai gần nên áp dụng các ưu đãi hiện hành;
(ii) Tương lai xa hơn, xây dựng lại hệ thống các chính sách ưu đãi chung và ưu
đãi riêng về tài chính, chi tiết từng đối tượng, từng ngành hạ nguồn.
(1) Chính sách ưu đãi về thuế:
- Đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: lĩnh vực CNHT cần được ưu
tiên tương tự như lĩnh vực “đặc biệt khuyến khích đầu tư”, để khi nhập khẩu
hàng hóa được miễn thuế nhập khẩu. Cụ thể: (i) Hàng hóa nhập khẩu để tạo tài
sản cố định cho lĩnh vực CNHT được miễn thuế nhập khẩu (theo như quy định
tại khoản 6 Điều 12 Nghị định 87/2010/NĐ-CP); (ii) Nguyên liệu, vật tư, linh
kiện trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để sản xuất của các dự án đầu tư
vào lĩnh vực CNHT được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày
bắt đầu sản xuất (theo khoản 14 Điều 12 Nghị định 87/2010/NĐ-CP). Theo đó,
đề nghị bổ sung vào Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư (Mục A- Phụ lục I
ban hành kèm theo Nghị định 108/2006/NĐ-CP) khi doanh nghiệp đầu tư sản
xuất sản phẩm CNHT.
- Đối với thuế giá trị gia tăng (VAT): các sản phẩm, linh kiện được các
doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hạ nguồn chấp thuận và đặt hàng; các dự
án sản xuất sản phẩm CNHT cho phát triển công nghệ cao, Chính phủ hỗ trợ thuế
VAT thấp từ 5 -7% (mức thuế quy định là 10%) và có cơ chế miễn, giãn thuế
VAT khi gặp điều kiện kinh tế khó khăn, nhằm kích cầu đầu tư và sử dụng sản
phẩm CNHT trong nước đối với một số sản phẩm CNHT.
- Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, theo quy định của pháp luật hiện
hành, các doanh nghiệp FDI được hưởng thuế suất thuế TNDN (10%), thấp hơn
các doanh nghiệp trong nước và được miễn thuế TNDN trong 4 năm kể từ khi có
thu nhập chịu thuế và giảm 50% cho 9 năm tiếp theo. Đề xuất, có ưu đãi tương tự
đối với các doanh nghiệp nội địa hoạt động trong lĩnh vực hỗ trợ.
131
- Đối với thuế thu nhập cá nhân, người Việt Nam và người nước ngoài
làm việc tại KCN, khu kinh tế được giảm 50% thuế thu nhập đối với người có
thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập,...
(2) Chính sách liên quan đến chi phí sản xuất: Các doanh nghiệp đầu tư
trong lĩnh vực CNHT không thuộc Danh mục lĩnh vực hoặc đặc biệt khuyến
khích đầu tư (khoản A - Phụ lục I - Nghị định 108/2006/NĐ-CP), vì vậy không
thuộc nhóm đối tượng được hưởng các ưu đãi về thuế sử dụng đất, tiền sử dụng
đất, tiền thuê đất và tiền thuê mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai và
pháp luật về thuế (Điều 26, Nghị định 108/2006/NĐ-CP). Đề xuất bổ sung doanh
nghiệp đầu tư lĩnh vực CNHT vào Danh mục lĩnh vực hoặc đặc biệt khuyến
khích đầu tư để được hưởng ưu đãi này.
(3) Chính sách tín dụng: nguồn vốn dành cho DNNVV là vốn ngắn hạn,
trong khi các doanh nghiệp đang rất cần nguồn vốn trung và dài hạn. Để hỗ trợ
DNNVV hiệu quả, ngành Ngân hàng cần tiếp tục xác định DNNVV là đối tượng
ưu tiên. Nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật Bản để thành lập hệ thống ngân hàng
phục vụ các DNNVV, có cơ chế về bảo lãnh tín dụng, về thế chấp tài sản... Phát
huy mạnh hơn nữa các kênh huy động vốn khác trên thị trường, xây dựng nhiều
gói sản phẩm tiết kiệm đặc thù với thời hạn từ 12 tháng trở lên và tăng cường sự
phối hợp nhịp nhàng từ các bộ, ngành, hiệp hội và bản thân doanh nghiệp.
Bộ Công thương chủ trì, phối hợp các bộ, ngành: (i) Rà soát, đề xuất điều
chỉnh Quyết định 12/2011/QĐ-TTg; Quyết định 1483/QĐ-TTg để hoàn thiện cơ
chế chính sách phát triển CNHT (ii) Sửa đổi Quyết định 1556/QĐ-TTg, có cơ
chế ưu đãi đặc thù cho doanh nghiệp đầu tư vào KCN chuyên sâu, KCN hỗ trợ.
(iii) Điều chỉnh các chính sách phát triển các ngành công nghiệp hạ nguồn, phát
triển thị trường cho các ngành CNHT. Bổ sung danh mục các ngành CNHT
trong hệ thống thống kê các ngành kinh tế kỹ thuật, để các doanh nghiệp có điều
kiện tham gia sản xuất CNHT và phù hợp với thông lệ quốc tế.
132
4.2.1.3. Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp hỗ trợ với hoạt động
của các doanh nghiệp trong một số ngành công nghiệp
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, phát triển CCN, KCN và CNHT có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Phát triển CCN tạo điều kiện, môi trường cho sự
phát triển CNHT và ngược lại phát triển CNHT sẽ tạo điều kiện để các CCN
phát triển có hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tham
gia cụm, ngành công nghiệp đó. Tăng cường sự gắn kết phát triển các KCN,
CNN với sự phát triển của CNHT, tạo mạng liên kết sản xuất, hình thành chuỗi
giá trị đáp ứng được nhu cầu cần thiết trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế của đất nước. Tác giả đề xuất các giải pháp sau:
- Việt Nam cần phải đẩy mạnh việc giới thiệu nhu cầu phát triển và sử
dụng sản phẩm hỗ trợ, nâng cao tính chuyên nghiệp của các hội chợ, chợ công
nghiệp, triển lãm, hội thảo chuyên đề về phát triển CNHT. Xây dựng các chương
trình hợp tác dài hạn với các đối tác chiến lược - các công ty, tập đoàn đa quốc
gia về phát triển công nghiệp nói chung và CNHT nói riêng.
- Đổi mới mô hình tổ chức của các Viện nghiên cứu chuyên ngành để làm
cầu nối giữa nghiên cứu - thiết kế - ứng dụng, gắn quá trình nghiên cứu với
chuyển giao đưa vào sản xuất. Củng cố và nâng cao vai trò của các Hiệp hội
ngành nghề, các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ ở Việt Nam làm đầu mối
liên kết doanh nghiệp. Đổi mới cơ chế tổ chức, hoạt động của các Hiệp hội
ngành nghề để có thể đóng vai trò đại diện cho ngành tìm kiếm, tiếp nhận tài trợ
của Chính phủ và của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thực hiện các
giải pháp phát triển ngành, đầu mối xúc tiến đầu tư, phát triển thị trường, đề xuất
các cơ chế, chính sách phát triển CNHT.
- Kêu gọi các tập đoàn sản xuất linh kiện xuất khẩu vào sản xuất tại Việt
Nam. Đây sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp lớp dưới có thêm thị trường. Nhà
nước cần có những chính sách tác động đến những yếu tố chi phối năng lực cạnh
tranh, tăng trưởng, tạo môi trường thuận lợi, giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp.
133
- Thực hiện quy hoạch không gian công nghiệp. Không gian công nghiệp,là một tổ hợp các KCN có tính tương hỗ về kỹ thuật và kinh tế với hệ thống hạtầng liên kết có các nguồn đầu vào đầy đủ, ổn định (nguyên vật liệu, nguồn nhânlực, hệ thống dịch vụ hoàn chỉnh từ dịch vụ tài chính đến các dịch vụ hàng hóa
khác). Kinh nghiệm của Thái Lan, Trung Quốc đã chỉ ra, việc phát triển các KCNđộc lập và quy hoạch không tốt sẽ không thúc đẩy liên kết sản xuất. Nếu quyhoạch tốt, đây sẽ là giải pháp căn bản để cắt giảm chi phí sản xuất, tạo lợi thế cạnhtranh và đặc biệt có thể hỗ trợ nhau trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm.
Để thực hiện các giải pháp trên, Bộ Công thương chủ trì, phối hợp vớiVCCI, các tổ chức quốc tế, các tập đoàn đa quốc gia, các công ty lắp ráp lớn... tổchức các Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nội địa trở thành các nhà cung ứngcho các MNCs; Chương trình giới thiệu, kết nối chuyên gia nước ngoài về CNHThỗ trợ trực tiếp các doanh nghiệp nội địa; các hội chợ, triển lãm...
4.2.1.4. Đa dạng hóa công nghiệp hỗ trợ hướng vào sản phẩm có giá trịgia tăng cao và bảo vệ môi trường sinh thái, tài nguyên
Thực tế cho thấy, sản xuất sản phẩm CNHT tinh xảo là yếu tố quan trọngnếu Việt Nam muốn duy trì mức tăng trưởng ấn tượng. Việc ban hành Luật Côngnghệ cao chính là cam kết của Chính phủ nhằm đa dạng hóa các hoạt động thâmdụng. Một bước quan trọng trước khi tiến hành thực hiện các chiến lược pháttriển nguồn nhân lực hoặc công nghệ đó là việc xác định và tập trung vào nhữngngành công nghiệp trọng điểm, trong đó cân nhắc đến tính năng động của thịtrường quốc tế, những kỹ năng, công nghệ, cơ sở hạ tầng hiện có và tính cạnhtranh trong khu vực… Để phát triển CNHT hiệu quả, bền vững và gắn với bảovệ môi trường sinh thái. Các ngành CNHT phát triển phải lựa chọn công nghệthích hợp, thân thiện, giảm thiểu tối đa ô nhiễm môi trường. Các doanh nghiệpCNHT phải đảm bảo các yêu cầu tối thiểu của Nhà nước và các đối tác trongngành công nghiệp hạ nguồn, áp dụng các hệ thống quản lý tiêu chuẩn môitrường quốc gia, tiến tới đạt các tiêu chuẩn môi trường quốc tế. Công nghệ xử lýchất thải phải tiên tiến, đồng bộ và áp dụng công nghệ sạch vào sản xuất, giảmbớt chất thải và nguyên nhiên liệu tiêu thụ. Tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
134
- Xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại để hỗ trợ các DNNVV sản
xuất linh, phụ kiện công nghệ cao đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp lớn.
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là
khâu then chốt để gia tăng giá trị sản phẩm CNHT.
- Nâng cấp các hoạt động CNHT hiện tại để có thể trở thành sản phẩm
cạnh tranh với chi phí hợp lý; từng bước loại bỏ những sản phẩm không còn sức
cạnh tranh và ít có triển vọng cạnh tranh trong tương lai; xúc tiến các hoạt động
CNHT mới giàu tiềm năng tăng trưởng, tạo việc làm và phát triển công nghệ.
- Nhà nước cần có những chính sách thích hợp, tập hợp các doanh nghiệp
này trong các KCN, khu CNHT tập trung, sử dụng chung hệ thống xử lý chất thải.
Không bố trí các KCN, khu CNHT gần các khu lịch, khu đông dân cư, văn hóa,…
Không phê duyệt, cấp phép xây dựng các dự án đầu tư và triển khai xây dựng khi
chưa có đánh giá tác động môi trường.
- Khuyến khích các doanh nghiệp đưa tiêu chí về trình độ công nghệ và bảo
vệ môi trường lên vị trí quan trọng khi xem xét lựa chọn; đầu tư đổi mới trang
thiết bị, áp dụng công nghệ hiện đại nhằm giảm thiểu chất thải, thực hiện sản xuất
sạch, kiểm soát các chất gây ô nhiễm môi trường không khí tại nơi sản xuất.
- Xây dựng hệ thống xử lý chất thải tập trung cho các KCN, khu CNHT.
Hoàn thiện việc xử lý ô nhiễm với các dự án liên quan đến các ngành công
nghiệp, các cơ sở CNHT phân tán.
Để thực hiện tốt giải pháp trên, Chính phủ Việt Nam cần phải ban hành
các chính sách, quy chế, huy động mọi nguồn lực trong cộng đồng để bảo vệ môi
trường, nghiên cứu tái sử dụng chất thải cho sản xuất…. Tổ chức điều tra quan
trắc, lưu trữ, cập nhật các thông tin về chất lượng môi trường phục vụ công tác
quy hoạch, kế hoạch và quản lý địa phương. Tiến hành đánh giá xếp hạng các
KCN và doanh nghiệp hỗ trợ theo hướng công nghệ cao thân thiện với môi
trường. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của cơ quan chức năng đối với
hoạt động việc thực hiện cam kết, xử lý chất thải, bảo vệ môi trường.
135
4.2.1.5. Phát triển cụm liên kết ngành gia tăng năng suất, nâng caosức cạnh tranh sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
Cụm liên kết ngành được hình thành từ sự tập trung cao độ các doanh
nghiệp trong một số ngành và lĩnh vực có liên quan khá chặt chẽ với nhau, trong
đó không thể không tính đến vai trò của các doanh nghiệp hỗ trợ. Sự lớn mạnh
của một CLKN thường kéo theo sự gia tăng và phát triển bền vững của các
doanh nghiệp trong ngành CNHT. Các doanh nghiệp trong cụm sẽ có mối liên
kết cùng cạnh tranh nhưng cùng hợp tác, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của
chính doanh nghiệp; và có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn đầu tư, thị trường đầu
tư và dây chuyền công nghệ hiện đại. Từ năm 2009, Dự án Phát triển cụm các
DNNVV đã được Chính phủ Italia phối hợp với Cục Phát triển doanh nghiệp
(Bộ Kế hoạch và Ðầu tư) khởi động, nhằm lựa chọn và phát triển tối đa 3 cụm
hoặc mạng lưới DNNVV Việt Nam trên một số lĩnh vực mũi nhọn tại Thủ đô Hà
Nội, tỉnh Hưng Yên, Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương, để tham gia
chuỗi cung ứng toàn cầu cùng các doanh nghiệp Italia. Thực tế ở Việt Nam, các
CLKN đang hình thành tự phát, phát triển không bền vững, kém năng động, đặc
biệt có rất ít liên kết giữa các doanh nghiệp trong cụm với các doanh nghiệp và
chủ thể kinh tế khác bên ngoài cụm. Tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
- Việt Nam phải có chính sách cho việc phát triển CLKN, tăng cường
nâng cao nhận thức về CLKN, xây dựng và hoàn thiện quy hoạch phát triển
KCN - CCN của ngành, địa phương gắn với định hướng chính sách phát triển
CLKN. Lựa chọn lĩnh vực và xây dựng một số mô hình CLKN trong các ngành,
lĩnh vực tiềm năng, xây dựng cơ quan quản lý chính sách CLKN cũng như phân
định chức năng quản lý nhà nước của các cấp chính quyền.
- Về mô hình CLKN, hiện nay nhiều doanh nghiệp Thái Lan, Malaysia,
đang áp dụng mô hình của Nhật Bản, là loại mô hình sản xuất tích hợp, theo đó
thường các linh phụ kiện, chi tiết của mỗi máy móc, thiết bị hay sản phẩm có
tiêu chuẩn kích cỡ riêng. Việc sản xuất, chế tạo chúng thường theo một công
nghệ khép kín. Ðặc biệt, mô hình này thường gắn kết chặt chẽ với CLKN để sử
136
dụng lợi thế khoảng cách địa lý và sự gắn kết chặt chẽ với các doanh nghiệp
FDI. Việt Nam nên chọn mô hình tích hợp của Nhật Bản để phát triển CNHT
gắn với CLKN trong sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài và doanh nghiệp nội địa sẽ là một hướng đi đúng, có triển vọng.
4.2.1.6. Thiết kế và quản trị cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợCNHT ở Việt Nam chưa phát triển, một nguyên nhân sâu xa là do các nhà
sản xuất và lắp ráp nước ngoài thiếu thông tin về các doanh nghiệp cung cấp linh
kiện trong nước. Phát triển CSDL về CNHT sẽ giúp các nhà lắp ráp có vốn đầu
tư nước ngoài rút ngắn thời gian lựa chọn nhà cung cấp. Trang vàng Việt Nam
có dữ liệu của 60 ngàn công ty hay danh bạ doanh nghiệp Việt Nam của VCCI
cũng có dữ liệu của khoảng 20 ngàn doanh nghiệp. Nhưng thông tin từ các danh
bạ này quá bao quát, sơ sài và hạn chế. Những thông tin này chưa đủ để giúp các
nhà lắp ráp có vốn nước noài rút ngắn thời gian tìm kiểm sơ bộ. Vì vậy, rất cần
thiết phải xây dựng CSDL về CNHT. Sự khác biệt chủ yếu giữa CSDL về
CNHT với danh bạ doanh nghiệp là chiều sâu dữ liệu của mỗi doanh nghiệp.
Một CSDL cho CNHT đòi hỏi các nội dung cụ thể và cập nhật hơn nhiều. Qua
nghiên cứu và dựa trên các CSDL về CNHT của Nhật Bản và Thái Lan, tác giả
đề xuất các nội dung cơ bản CSDL về CNHT như sau:
- Cần có kế hoạch tổng thể, dài hạn và có lộ trình cụ thể xây dựng CSDL về
CNHT quốc gia. Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chủ trì xây dựng và
đưa lên WEBSITE của Tổng cục Thống kê. Các Cục Thống kê căn cứ nội dung và
kế hoạch xây dựng WEBSITE và đưa lên WEBSITE của tỉnh, thành phố.
- Tổng cục Thống kê và các Cục Thống kê tỉnh, thành phố cần sớm đầu tư
triển khai hệ thống thu thập báo cáo thống kê định kỳ hàng tháng.
- Cần phải có sự phối hợp tốt giữa Bộ Kế hoạch Đầu tư (Tổng cục Thống
kê), Tổng Cục Thuế, Tổng Cục Hải quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trong công tác tuyên truyền, vận động, hướng dẫn để các doanh nghiệp lĩnh vực
CNHT tích cực tham gia đăng ký cập nhật dữ liệu và quá trình hoạt động của
mình phục vụ cho việc xây dựng CSDL về CNHT quốc gia.
137
- Xây dựng cơ chế giám sát, kiểm tra tính chính xác của dữ liệu cập nhật.
Xây dựng tiêu chí để doanh nghiệp kê khai, cập nhật vào CSDL. Việc lựa chọn
tiêu chí cũng rất quan trọng. Nếu chọn nhiều tiêu chí sẽ tốn kém khi thu thập và
khi không cập nhật được các tiêu chí đó sẽ gây lãng phí và khi các tiêu chí đó lạc
hậu sẽ ảnh hưởng đến lòng tin của khách hàng khi khai thác dữ liệu.
- Đầu tư thích hợp để nâng cấp hệ thống máy tính và mạng để có sự đồng
bộ giữa các tỉnh, thành phố. Cần phải tiến hành bảo hành, bảo trì thường xuyên
để nâng cao tuổi thọ và hiệu quả của hệ thống máy tính và mạng được trang bị.
- Xây dựng kinh phí hàng năm cho công tác cập nhật dữ liệu, kinh phí cho
việc truy cập mạng của các đơn vị sử dụng và kinh phí cho các công tác hoàn
thiện nâng cấp hệ quản trị CSDL.
Cần xây dựng Cơ sở dữ liệu về CNHT quốc gia
“Cơ sở dữ liệu CNHT quốc gia” giúp trong việc truy cập, tra cứu CSDL
về CNHT để có thông tin, dữ liệu hoạt động về doanh nghiệp CNHT; việc tra
cứu có thể tại cơ quan, đơn vị hoặc đang đi công tác… từ máy tính để bàn, các
phương tiện điện tử cá nhân như Ipad, Iphone… (Phụ lục 1)
- Thông tin “Cơ sở dữ liệu CNHT quốc gia” gồm những nội dung chính
sau: (i) Tên doanh nghiệp (công ty), địa chỉ, người đại diện, điện thoại, fax, web;
chính sách của doanh nghiệp, năm thành lập, chi nhánh trong và nước ngoài (nếu
có), loại hình kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, sản phẩm chính; (ii) Lợi nhuận,
lãnh đạo doanh nghiệp (tuổi, trình độ đào tạo, thái độ,…), chiến lược, người kế
nhiệm; (iii) Doanh số bán hàng hàng năm, tổng vốn, trang thiết bị sản xuất, độ
chính xác chế tạo, khách hàng chính, số lao động, chứng chỉ chất lượng.
- Về nguyên tắc doanh nghiệp không có nghĩa vụ phải công khai toàn bộ
thông tin của mình trên CSDL về CNHT, có thể tham gia vào CSDL trên tinh
thần hoàn toàn tự nguyện.
138
Sơ đồ 4.1: Mô hình Cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ quốc gia
Nguồn: Tác giả tổng hợp và đề xuất
NHÓM 3DOANH NGHIỆPTỰ QUYẾT ĐỊNH
Tên DN
Chi nhánh
Ch.sáchSP chính
Địa chỉ
Lợi nhuận,chiến lược
Người kếnhiệm
Thông tin vềlãnh đạo DN
Doanh sốbán hàng
Khách hànhchính
Trang thiếtbị
Số laođộng
Tổng vốnDN
Chứng chỉch.lượng
Độ chính xácchế tạo
NHÓM 2BẢO MẬT
UBND QUẬNHUYỆN …
CỤC THỐNG KÊTỈNH A
(xử lý, tổng hợp)
CỤC THỐNG KÊTỈNH C…
(xử lý, tổng hợp)
CỤC THỐNG KÊTỈNH B
(xử lý, tổng hợp)
WEBSITE TỈNH C..WEBSITE TỈNH B
TỔNG CỤC THỐNG KÊ(xử lý, tổng hợp...)
DOANHNGHIỆP
CỤC HẢIQUAN
CỤCTHUẾ
WEBSITE TỈNH A
NHÓM 1…
NHÓM 2…
NHÓM 3….
CƠ SỞ DỮ LIỆU QUỐC GIA(xử lý, tổng hợp…)
CƠ SỞ DỮ LIỆU VỀ CNHTQUỐC GIA (WEBSITE của Tổng
cục Thống kê)
CƠ SỞ DỮ LIỆUVỀ …..
CƠ SỞ DỮ LIỆUVỀ …..
NHÓM 1CÔNG KHAI
TỔNG CỤCHẢI QUAN
TỔNG CỤCTHUẾ
139
Vì vậy, khi thiết kế Mẫu đăng ký cung cấp thông tin sẽ bao gồm ba nhóm,
để doanh nghiệp có quyền lựa chọn: Nhóm thứ nhất, thông tin công khai đối với
mọi doanh nghiệp, gồm những nội dung tại điểm (i). Nhóm thứ hai, thông tin
được bảo mật cho mọi doanh nghiệp, gồm những nội dung tại điểm (ii). Nhóm
thứ ba, các thông tin có thể được công bố hay không do doanh nghiệp lựa chọn,
gồm những nội dung tại điểm (iii) [đã nêu trên].
- Thông tin “Cơ sở dữ liệu CNHT quốc gia” gồm những nội dung chính
sau: (i) Tên doanh nghiệp (công ty), địa chỉ, người đại diện, điện thoại, fax, web;
chính sách của doanh nghiệp, năm thành lập, chi nhánh trong và nước ngoài (nếu
có), loại hình kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, sản phẩm chính; (ii) Lợi nhuận,
lãnh đạo doanh nghiệp (tuổi, trình độ đào tạo, thái độ,…), chiến lược, người kế
nhiệm; (iii) Doanh số bán hàng hàng năm, tổng vốn, trang thiết bị sản xuất, độ
chính xác chế tạo, khách hàng chính, số lao động, chứng chỉ chất lượng.
- Về nguyên tắc doanh nghiệp không có nghĩa vụ phải công khai toàn bộ
thông tin của mình trên CSDL về CNHT, có thể tham gia vào CSDL trên tình
thần hoàn toàn tự nguyện. Vì vậy, khi thiết kế Mẫu đăng ký sẽ bao gồm ba
nhóm, để doanh nghiệp có quyền lựa chọn: Nhóm thứ nhất, thông tin công khai
đối với mọi doanh nghiệp, gồm những nội dung tại điểm (i). Nhóm thứ hai,
thông tin được bảo mật cho mọi doanh nghiệp, gồm những nội dung tại điểm (ii).
Nhóm thứ ba, thông tin có thể được công bố hay không do doanh nghiệp lựa
chọn, gồm những nội dung tại điểm (iii) [đã nêu trên].
- Việc thống kê định kỳ hàng tháng thực hiện qua mạng từ quận, huyện
lên tỉnh, thành phố và từ tỉnh, thành phố về Trung ương. Số liệu sau khi được xử
lý sẽ truyền vào hệ thống. Hệ thống sẽ tự động xử lý, tổng hợp và truyền đưa lên
cấp trên các số liệu thống kê định kỳ. Từ các số liệu thống kê, cần có kế hoạch
để tổ chức thành CSDL thông tin cấp quốc gia.
Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, ngành, địa phương có trách
nhiệm cập nhật toàn bộ vào CSDL. Có kế hoạch đôn đốc, kiểm tra việc triển khai
140
thực hiện, số liệu kê khai của các doanh nghiệp lĩnh vực CNHT, nhất là các
trường hợp doanh nghiệp lĩnh vực CNHT có sự thay đổi. Có cơ chế xử lý kịp
thời các trường hợp báo cáo kê khai thiếu chính xác...
4.2.1.7. Giải pháp về nguồn lực cho phát triển công nghiệp hỗ trợ trong
một số ngành công nghiệp
Theo tác giả, để đảm bảo nguồn lực cho phát triển CNHT cần thực hiện
những giải pháp sau:
(i) Các giải pháp về thu hút FDI chất lượng cao cho hoạt động CNHT:
- Xác định tính tương tác giữa chiến lược của các TNCs, tiềm năng lợi ích
và năng lực quốc gia. Cải cách thủ tục hành chính và tạo môi trường thân thiện
với doanh nghiệp.
- Quảng bá Việt Nam như một đích đến đầu tư, thông qua các đại sứ quán
và lãnh sự quán để thu hút các nhà đầu tư tiềm năng vào CNHT chiến lược. Phối
hợp và gắn kết các chính sách thu hút và giữ chân các nhà đầu tư nước ngoài.
- Tăng năng lực của các cơ quan trong phối hợp chính sách, chia sẻ thông
tin và giảm thiểu xung đột là một phần thiết yếu của công tác xúc tiến đầu tư để
có thể thu hút nguồn đầu tư nước ngoài như mong muốn. Chú trọng các chính
sách hậu đầu tư cho doanh nghiệp đang đầu tư tại Việt Nam.
Việc gia nhập và ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái
Bình Dương (TPP) là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là
các doanh nghiệp CNHT, do đó cần xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển
đón đầu việc thâm nhập vào sân chơi mới đầy tiềm năng nhưng cũng không ít
thách thức này. Hi vọng, với những chiến lược tính toán và đầu tư hợp lý, ngành
CNHT Việt Nam sẽ có bước đột phá lớn khi gia nhập TPP.
(ii) Các giải pháp hỗ trợ vốn: Nhà nước cần sử dụng nguồn vốn vay ưu
đãi xây dựng một quỹ tài chính đảm bảo cho việc phát triển CNHT của những
ngành đã được chỉ định, để có nguồn ngân sách cụ thể, minh bạch.
141
- Thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng trung gian kết nối giữa ngân hàng
với các doanh nghiệp SMEs, giúp DNNVV có thể vay vốn khi gặp khó khăn về tài
sản thế chấp; có thể bảo lãnh tín dụng cho các khoản vay từ ngắn hạn đến dài hạn
nếu thấy dự án kinh doanh, sản xuất khả thi, đồng thời chia sẻ rủi ro giữa quỹ bảo
lãnh tín dụng với tổ chức tín dụng khi xảy ra bất khả kháng không trả được nợ.
- Thành lập ngân hàng chính sách riêng cho các doanh nghiệp SMEs, tạo
nguồn cung về vốn nhanh, hiệu quả, giúp doanh nghiệp tập trung vào sản xuất
kinh doanh và có cơ hội mở rộng quy mô hoạt động của mình.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp SMEs có mặt bằng sản xuất
phù hợp, được hưởng các chính sách ưu đãi trong việc thuê đất, chuyển nhượng,
thế chấp và các quyền khác về sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật.
(iii) Các giải pháp về khoa học công nghệ: xây dựng hệ thống tiêu chuẩn
chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế làm căn cứ cho định hướng phát triển.
- Hỗ trợ tài chính để đổi mới công nghệ, như tăng cường ngân sách đầu tư
hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp mua bản quyền công nghệ từ nước ngoài và ứng
dụng hiệu quả sự chuyển giao công nghệ của thế giới. Hoạt động hỗ trợ trên có
thể thực hiện theo chương trình hoặc theo từng giai đoạn. Ở mỗi giai đoạn kiểm
tra, đánh giá và điều chỉnh cho sát mục tiêu, kế hoạch đề ra.
- Hỗ trợ phát triển và nâng cấp các tổ chức kiểm định, đánh giá chất lượng
sản phẩm hỗ trợ thuộc nhiều thành phần kinh tế đạt trình độ quốc tế.
- Thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ các công ty lớn tới các doanh nghiệp
SMEs, đặc biệt là nguồn công nghệ cao mà các công ty FDI lớn mang vào Việt
Nam trong quá trình đầu tư. Đẩy mạnh công tác chống chuyển giá, nâng cao
năng lực, trình độ thẩm định, hạn chế tối đa trường hợp đối tác nước ngoài định
giá thiết bị, công nghệ cao hơn thực tế.
- Khuyến khích các Viện Nghiên cứu chuyên ngành triển khai nghiên cứu,
thực nghiệm các đề tài, dự án gắn với nhu cầu phát triển sản xuất các chủng loại
vật liệu, linh phụ kiện, phụ tùng…phục vụ CNHT; thành lập các trung tâm hỗ trợ
142
kỹ thuật chuyên nghiệp về CNHT, giúp các doanh nghiệp SMEs có thể nhận
được tư vấn kỹ thuật cần thiết đáp ứng được yêu cầu chất lượng của các nhà lắp
ráp. Đồng thời tăng cường mối liên kết giữa các Viện, Trung tâm, các doanh
nghiệp SMEs để nhanh chóng đổi mới công nghệ, tiếp nhận kỹ thuật thuận lợi.
(iv) Các giải pháp về đào tạo nhân lực
- Tăng cường đào tạo cán bộ kỹ thuật, nhất là các ngành thiết kế (mẫu
mốt, thời gian, kiểu dáng công nghiệp), chế tạo máy, luyện kim, điều khiển tự
động, điện tử tin học để làm chủ công nghệ được chuyển giao, nghiên cứu thiết
kế tạo ra công nghệ và kiểu dáng sản phẩm riêng của Việt Nam. Thường xuyên
đào tạo lại đội ngũ cán bộ chuyên ngành đã được đào tạo trong và nước ngoài.
Phát hiện, bồi dưỡng chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực công nghệ cao.
- Phát triển chương trình kết nối cơ sở đào tạo nghề với các ngành công
nghiệp; xây dựng các trung tâm đào tạo tại các KCN, khu công nghệ cao và khu
chế xuất. Thu hút hỗ trợ của Chính phủ các nước phát triển (như Nhật Bản,
EU…) để đào tạo nguồn nhân lực cho CNHT. Đặc biệt là khuyến khích các
doanh nghiệp FDI tham gia vào công tác đào tạo.
- Tạo điều kiện đầu tư trang bị cho các cơ sở nghiên cứu hoặc hợp tác với
đối tác nước ngoài đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên ngành và đào tạo một số
chương trình tiên tiến phát triển nguồn nhân lực cho CNHT; có chính sách ưu
đãi nhằm khuyến khích những nghiên cứu hữu ích, sáng tạo.
Nhà nước cần hỗ trợ từ ngân sách trung ương cho các doanh nghiệp địa
phương, có kế hoạch đầu tư cho đào tạo phát triển nguồn nhân lực thông qua các
ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc hỗ trợ ngân sách cho địa phương
thực hiện đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Việc
hỗ trợ tài chính, đối tượng phải được thực hiện hàng năm và được công bố trên
các phương tiện thông tin đại chúng đảm bảo tính minh bạch và việc tiếp cận của
các doanh nghiệp thuận lợi. Về lâu dài, cần nghiên cứu thành lập Quỹ đào tạo,
bồi dưỡng lao động CNHT, giao cho Bộ Công thương quản lý và triển khai.
143
(v) Các giải pháp về hạ tầng cơ sở: triển khai hiệu quả các dự án hợp tác
công tư (PPP); xây dựng hạ tầng cơ sở giao thông, vận tải (như các bến cảng, sân
bay, đường sắt, đường bộ…). Hình thành các kho tàng, điểm tập trung hàng hóa
ở các vùng kinh tế trọng điểm để gia tăng điều kiện phát triển CNHT. Phát triển
CNHT Việt Nam được các Chính phủ và doanh nghiệp các nước quan tâm, nhất
là Nhật Bản. Với lợi thế về lực lượng lao động, Việt Nam phải có chiến lược hợp
lý để trở thành đối tác lâu dài với Nhật Bản trong hợp tác phát triển CNHT.
Chúng ta cần nghiên cứu các đề xuất từ phía Nhật Bản nhằm phát triển CNHT
của Việt Nam phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, văn hoá truyền thống của
đất nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để cập nhật tri thức tiên tiến của
thế giới, thu hút nguồn lực và chuyên gia, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
và người nước ngoài tham gia các dự án KH - CN của Việt Nam. Khuyến khích
và tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên, nghiên cứu sinh sau khi được đào tạo ở
nước ngoài về nước làm việc. Tuy nhiên, hiện nay nhiều doanh nghiệp FDI thiếu
niềm tin về triển vọng phát triển CNHT của Việt Nam do chính sách hay thay
đổi, thiếu nhất quán. Khắc phục tình trạng trên, trong thời gian tới Việt Nam cần
thực hiện tốt giải pháp sau: tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ
chế chính sách, quản lý, hoạt động và công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch
phát triển KH - CN; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính; chính sách thuế, thủ
tục thông quan…; xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng
dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ KH - CN, nhất là các chuyên gia giỏi để
thu hút tối đa nguồn lực bên ngoài vào đầu tư phát triển CNHT Việt Nam.
4.2.2. Nhóm giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành
xe máy, dệt may và điện tử
Ngành CNHT xe máy, dệt may và điện tử Việt Nam là ba ngành CNHT
trong các ngành CNHT Việt Nam mà Luận án đưa ra để minh chứng cho cơ sở
lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng ngành CNHT của Việt Nam. Những giải
pháp chung là những lựa chọn cần thiết để ngành CNHT xe máy, dệt may và
144
điện tử nghiên cứu, cân nhắc đưa ra những chiến lược thực thi cho ngành mình.
Tác giả đề xuất cụ thể một số giải pháp chính đối với từng ngành.
4.2.2.1. Giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành xe máy
Như đã phân tích ở trên, tổng công suất sản xuất và lắp ráp xe máy ở Việt
Nam đạt khoảng 5 triệu xe/năm (2013). Đến năm 2020, tỷ lệ sử dụng xe máy ở
Việt Nam là 2,97 người/xe (đạt tới tỷ lệ bão hòa). Thực tế nhu cầu sử dụng xe
máy ở Việt Nam vẫn còn cao. Ba hãng xe máy lớn tại Việt Nam (Hon đa,
Yamaha, Piaggio) vẫn tiếp tục tăng đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, tăng công
suất sản xuất xe máy. Tuy ngành xe máy có tỷ lệ nội địa hóa cao hơn so với các
ngành khác, đạt từ 75% - 90%. Nhưng nguồn cung cấp linh phụ kiện phần lớn
không phải từ các doanh nghiệp nội địa mà chủ yếu do bản thân các TNCS tự sản
xuất hoặc từ các doanh nghiệp FDI… Để CNHT ngành xe máy phát triển, thực
hiện đúng mục tiêu và định hướng, tác giả đề xuất:
- Tổ chức điều tra, nghiên cứu từ quy hoạch sản xuất, năng lực, quy mô
mở rộng hợp tác liên kết, để định hướng, tư vấn đối với từng doanh nghiệp
CNHT xe máy, điều chỉnh chiến lược sản xuất, lựa chọn sản phẩm phù hợp, từng
bước loại bỏ những sản phẩm không có sức cạnh tranh hay ít triển vọng cạnh tranh.
- Xây dựng Quy chế tối thiểu cho lưu hành và niên hạn lưu hành đối với
xe máy, loại bỏ số xe máy đã sử dụng lâu ngày, quá niên hạn, không đảm bảo
chất lượng, kỹ thuật nhằm giảm số lượng xe máy đang lưu hành, hạn chế các
tiềm ẩn, tại họa do xe máy gây ra khi tham gia giao thông, hiện tượng gây ô
nhiễm môi trường (tiếng ồn, khói…).
- Đầu tư phát triển sản xuất xe máy, kinh kiện, phụ tùng xe máy với chất
lượng ngày càng cao, đặc biệt là sản xuất động cơ, sản xuất nguyên, phụ liệu cho
ngành. Tiến hành sản xuất hàng loạt theo phương thức “Mô - đun”.
- Đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm xe máy, linh kiện, phụ tùng có lợi thế
cạnh tranh ra thị trường khu vực, quốc tế, nhất là các thị trường Châu Phi, Tây
Nam Á, Mỹ La tinh. Tích cực tham gia phân công hợp tác quốc tế trong sản xuất
xe máy, linh kiện và phụ tùng xe máy trong khu vực và toàn cầu.
145
- Tạo dựng cơ chế liên kết tăng tỷ lệ nội địa hóa. Các doanh nghiệp CNHT
xe máy trong nước tăng cường hợp tác, liên kết bổ sung cho nhau. Muốn vậy, đòi
hỏi sự đoàn kết, vì lợi ích chung rất cao của các doanh nghiệp và sự quan tâm của
Chính phủ, bộ, ngành, địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động.
- Xây dựng quy hoạch, phát triển ngành xe máy, cần đặt ngành cơ khí chế
tạo trong cùng quy hoạch tổng thể với CNHT ngành xe máy với mục tiêu hướng
tới việc tập trung phát triển cơ khí nền tảng phục vụ sản xuất, lắp ráp các sản
phẩm cơ khí trọng điểm, ban đầu chủ yếu thay thế nhập khẩu, sau hướng tới xuất
khẩu và gắn liền với việc phục vụ các ngành kinh tế quốc dân khác.
- Tăng cường thu hút đầu tư vào 05 ngành mục tiêu của CNHT xe máy là
gia công áp lực, đúc, hàn, nhiệt luyện và sản xuất khuôn mẫu. Khuyến khích
phát triển các chương trình đào tạo liên kết có sự tham gia của cả doanh nghiệp
FDI và các nhà cung cấp nội địa.
4.2.2.2. Giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành dệt mayMục tiêu ngành dệt may đến năm 2020, quy mô xuất khẩu ngành dệt may
có thể đạt 50 tỷ USD; sản lượng sợi đạt 650 ngàn tấn/năm; sản lượng vải dệt đạt
2 tỷ m2 vải; sản lượng may đạt 4 tỷ sản phẩm; đáp ứng được 80% nhu cầu nội
địa. Tuy nhiên, CNHT ngành dệt may còn hạn chế, tỷ lệ nội địa hóa thấp,…để
thực hiện định hướng, mục tiêu trên, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
- Chính phủ có chính sách, cơ chế khuyến khích mọi thành phần kinh tế
đầu tư sản xuất các nguyên phụ liệu, các sản phẩm CNHT cho ngành dệt may,
nhất là các DNNVV, các nhà đầu tư nước ngoài.
- Xây dựng lộ trình chuyển dần hoạt động sản xuất từ phương thức CMT
(hình thức xuất khẩu đơn giản nhất chỉ thực hiện gia công theo mẫu thiết kế,
nguyên liệu do khách cung cấp) sang phương thức FOB (hình thức xuất khẩu bậc
cao hơn CMT, các nhà sản xuất tự chủ động nguyên liệu đầu vào) và ODM (hình
thức xuất khẩu cao nhất, các nhà sản xuất bán sản phẩm theo mẫu thiết kế và
thương hiệu riêng của họ), nâng cao khả năng cung cấp trọn gói, chất lượng cao,
giá thành giảm, thời hạn giao hàng theo nhu cầu mua trong chuỗi giá trị toàn cầu
146
(Phụ lục 1). Muốn thực hiện FOB, đòi hỏi doanh nghiệp không chỉ có nguồn lực
lớn về mặt tài chính để mở L/C (Letter Credit - Thư tín dụng) mua nguyên phụ
liệu, hạ tầng cơ sở sản xuất đạt chuẩn quốc tế, mà còn phải có xây dựng được đội
ngũ chuyên nghiệp từ khâu chào giá, đàm phán đến tổ chức sản xuất ra sản phẩm
hoàn chỉnh.
- Nghiên cứu thị hiếu thời trang thế giới, tham gia tích cực vào chuỗi giá
trị toàn cầu. Tận dụng tối đa thị trường nội địa, xây dựng thương hiệu riêng, tạo
nhiều kênh phân phối, linh hoạt trong tiếp thị nhằm tạo niềm tin và cảm xúc ấn
tượng đối với người tiêu dùng. Đặc biệt đẩy mạnh khâu thiết kế thời trang, khai
thác nguồn nguyên phụ liệu tốt để có mẫu mã tốt, phục vụ người tiêu dùng.
- Đa dạng hoá các nguồn đầu tư vào phát triển CNHT ngành dệt may,
trong đó phải coi đầu tư ngoài Nhà nước và FDI là chủ yếu. Bổ sung các chính
sách ưu đãi đầu tư vào phát triển CNHT ngành dệt may, gồm: ưu đãi tín dụng,
ưu đãi nhập khẩu nguyên phụ liệu, thuế giá trị gia tăng…
- Ngành dệt may Việt Nam cần tìm ra thị trường ngách để tạo bứt phá.
Tuy thị trường ngách thường nhỏ hơn, khách hàng có nhu cầu xác định hẹp hoặc
kết hợp các nhu cầu độc đáo nhưng việc tập trung phục vụ khách hàng trong thị
trường ngách sẽ có nhiều lợi thế, có cơ hội biết rõ từng khách hàng, có ít đối thủ
cạnh tranh và có được lợi nhuận lớn. Khách hàng sẵn sàng trả cao hơn, vì hàng
hóa trong thị trường ngách luôn đáp ứng các nhu cầu khắt khe của khách hàng.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách nội địa hóa; cơ chế, chính sách này phải
được đi kèm với chính sách hạn chế nhập khẩu sản phẩm hoàn chỉnh và các
nguyên phụ liệu nằm trong danh sách phải “nội địa hoá”. Đồng thời, tăng cường
áp dụng các định mức kinh tế kỹ thuật mới, tiên tiến, chuyển giao công nghệ đối
với ngành dệt may. Chính phủ phải quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu bông
tập trung, bảo hộ cho người dân vùng trồng bông (trợ giá, giống…). Đẩy mạnh
liên kết trồng bông giữa doanh nghiệp và nông dân nhằm bảo đảm nguyên liệu
phục vụ sản xuất, để vùng chuyên canh bông vải phát triển bền vững, tạo điều
kiện tăng giá trị cho ngành dệt may.
147
- Tái cấu trúc lại ngành dệt may Việt Nam để đạt được mục tiêu phát triển
bền vững, theo hướng sản xuất những sản phẩm sinh thái, kỹ thuật cao; nâng cao
giá trị gia tăng cho sản phẩm, tiết kiệm năng lượng, cải thiện môi trường làm
việc cho người lao động... đây sẽ là động lực chính thức đẩy sự phát triển của
ngành CNHT dệt may. Các doanh nghiệp CNHT dệt may phải tập trung đẩy
mạnh thương mại điện tử, có định hướng phối hợp xây dựng các sàn giao dịch
sản phẩm dệt may điện tử. Khi có một hệ thống hàng hóa được mã hóa, số hóa
doanh nghiệp sẽ rất thuận lợi trong việc quản lý, phân phối.
- Ngành dệt may cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại chỗ. Có
chính sách thu hút nhân tài, nguồn nhân lực từ địa phương khác. Mặt khác, cần
gắn kết chương trình đạo tạo nhân lực của địa phương với nguồn nhân lực quốc
gia trong lĩnh vực CNHT, thông qua các chương trình đạo tạo với nước ngoài,
liên kết tổ chức đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp....
4.2.2.3. Giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành điện tử
Như phân tích ở trên, định hướng phát triển ngành công nghiệp điện tử
Việt Nam là chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng phát triển điện tử chuyên
dùng, gồm sản xuất linh kiện, phụ tùng, sản phẩm phụ trợ cho các lĩnh vực tin
học, viễn thông, điện tử y tế, điện tử công nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp
ngành điện tử hoạt động chưa chuyên nghiệp, tính liên kết chưa cao; chưa tạo
được mũi nhọn đột phá, thế mạnh riêng về sản phẩm. Tỷ lệ nội địa hoá và hàm
lượng giá trị gia tăng trong các sản phẩm điện tử nội địa thấp. Cơ cấu sản phẩm
ngành đang lệch pha, nghiêng về điện tử tiêu dùng… Do chúng ta chưa chú
trọng đến phát triển cơ sở hạ tầng và đồng bộ các yếu tố hỗ trợ cho ngành công
nghiệp điện tử, chủ yếu là gia công lắp ráp. Để khắc phục thực trạng trên, tác giả
đề xuất một số giải pháp sau:
- Chính phủ, tạo những ưu đãi cần thiết cho khối doanh nghiệp CNHT ngành
điện tử; xây dựng thí điểm một số KCN hỗ trợ ngành điện tử với các ưu đãi đặc thù.
Quy hoạch CNHT điện tử theo hướng là công nghiệp then chốt, phát triển lâu dài
148
chương trình liên kết sản xuất quốc tế giữa các doanh nghiệp CNHT với các doanh
nghiệp lắp ráp và lựa chọn hình thức liên kết sản xuất quốc tế phù hợp.
- Cần có chính sách phát triển hợp lý, môi trường kinh doanh thuận lợi.
Đặc biệt, các doanh nghiệp sớm có biện pháp cải thiện sản xuất, tăng tỷ lệ nội
địa hóa, cung cấp những sản phẩm được thị trường chấp nhận.
- Xây dựng ngành sản xuất linh phụ kiện điện tử - tin học theo hướng gắn
kết, tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng của các công ty, tập đoàn đa quốc gia
theo hướng đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp mà trước hết là đáp ứng
nhu cầu về linh kiện lắp ráp đơn giản, các chi tiết nhựa, khuôn mẫu, mạch in…
tăng tỉ lệ nội hóa ngành điện tử.
- Các doanh nghiệp CNHT ngành điện tử có thể sản xuất sản phẩm theo
phương thức “Tích hợp”; có sự liên kết chặt chẽ để từng bước hình thành một
mảng chuyên biệt trong ngành công nghiệp điện tử toàn cầu. Ưu tiên phát triển
các phương thức liên kết sản xuất - kinh doanh giữa các doanh nghiệp nội địa và
những tập đoàn lớn. Lựa chọn một số chuyên ngành, lĩnh vực sản xuất loại sản
phẩm mà mình có thế mạnh, nhằm tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cao để có
thể tham gia vào hệ thống sản xuất khu vực.
- Thu hút các tập đoàn đa quốc gia phát triển các cơ sở sản xuất, thiết kế
các hệ thống bán dẫn tích hợp cao, vi điều khiển, các thiết bị SoC (System on a
Chip), IC thông minh, những sản phẩm tín hiệu hỗn hợp, những vi mạch có bộ
nhớ nhanh, bộ nhớ STRAM... Muốn thu hút những nhà lắp ráp các sản phẩm
công nghệ cao, nhất thiết cần phải có những DNNVV sản xuất chi tiết, linh kiện
ở trình độ công nghệ cao.
- Thúc đẩy đổi mới công nghệ với phương án hợp lý, khai thác năng lực
nghiên cứu tư vấn, thiết kế hiện có, hoàn thiện môi trường pháp lý công tác
nghiên cứu, tạo dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển KH - CN ngành CNHT.
149
KẾT LUẬN[
Với mục tiêu đến năm 2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, việc phát triển CNHT sẽ đóng góp một vai trò quan
trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế Việt Nam.
Việc thực hiện đề tài nghiên cứu trong phạm vi, giới hạn nhất định, tác giả
luận án đưa ra một số kết luận sau:
1. Công nghiệp hỗ trợ là một ngành kinh tế kỹ thuật, bao gồm các ngành
sản xuất sản phẩm trung gian, cung cấp linh, phụ kiện máy móc, thiết bị, nguyên
vật liệu đã qua chế biến và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất theo các quy trình nhất
định để lắp ráp các sản phẩm cuối cùng. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến CNHT
như: môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách của Nhà nước; các quan hệ
liên kết khu vực và toàn cầu, ảnh hưởng của các tập đoàn đa quốc gia; hội nhập
kinh tế quốc tế; các ngành công nghiệp cơ bản và khu vực hạ nguồn; dung lượng
thị trường; tiến bộ KH - CN và năng lực nội địa hóa; nguồn lực tài chính và
nguồn nhân lực; hệ thống thông tin; tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm.
2. Phát triển CNHT là yêu cầu mang tính tất yếu khách quan đối với phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và ngành công nghiệp nói riêng. Luận án đã
luận giải những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển CNHT như: quy mô, trình
độ công nghệ, nguồn nhân lực, tỷ lệ nội địa hóa của doanh nghiệp CNHT, năng
lực cạnh tranh của sản phẩm và mức độ đáp ứng yêu cầu của ngành công
nghiệp hạ nguồn.
3. Vai trò có tính hai mặt của phát triển CNHT đối với nền kinh tế quốc
dân nói chung và ngành công nghiệp ở Việt Nam nói riêng được thể hiện ở một
số nội dung. Việc phát triển hợp lý và hiệu quả CNHT sẽ góp phần thúc đẩy sự
phát triển của ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung; đặc
biệt khi hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đồng thời, luận án nghiên cứu kinh
nghiệm của một số quốc gia về phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp
và từ đó rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho Việt Nam.
150
4. Thực trạng CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam thời
gian qua đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, CNHT trong một số
ngành công nghiệp Việt Nam vẫn còn những hạn chế và đặt ra những vấn đề cần
được quan tâm, giải quyết như: về quy hoạch phát triển CNHT; về vốn, công
nghệ trong phát triển CNHT, về nguồn nhân lực trong phát triển CNHT và về
phát triển CNHT khi tái cấu trúc một số ngành công nghiệp ở Việt Nam sau
khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đây là cơ sở quan trọng bảo đảm căn cứ khoa
học và thực tiễn để đề xuất những nhóm giải pháp mang tính khả thi thúc đẩy
CNHT phát triển trong thời gian tới.
5. Để phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam thời
gian tới hiệu quả. Luận án đưa ra năm quan điểm cần phải quán triệt: Một là,
phải coi phát triển CNHT là khâu đột phá, tạo tiền đề phát triển các ngành công
nghiệp. Hai là, phát triển CNHT phải khai thác lợi thế quốc gia, hướng vào xuất
khẩu, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, với sự tham gia của các thành phần kinh tế.
Ba là, phát triển CNHT phải tuân theo các quy luật khách quan của kinh tế thị
trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, xây dựng nền kinh tế xanh và bền vững.
Bốn là, phải tăng cường vai trò của Nhà nước trong phát triển CNHT. Năm là,
phát triển CNHT phải đảm bảo tái cấu trúc ngành công nghiệp cũng như tái cấu
trúc nền kinh tế Việt Nam hiệu quả.
Trên cơ sở đó Luận án đưa ra hai nhóm giải pháp, đó là nhóm giải pháp
chung phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam và nhóm
giải pháp phát triển CNHT trong ngành công nghiệp xe máy, dệt may và điện tử.
Đây là hai nhóm giải pháp cơ bản, là một thể thống nhất không tách rời và không
xem nhẹ bất kỳ giải pháp nào nhằm phát triển CNHT ở Việt Nam, góp phần xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Hà Thị Hương Lan (2008), "Vai trò của công nghiệp hỗ trợ", Tạp chí Lý luận , số
10, tr. 48-53+38
2. Hà Thị Hương Lan (2008), Công nghiệp phụ trợ với thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị; Viện Kinh tế -
chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
3. Hà Thị Hương Lan (2011), "Phát triển công nghiệp phụ trợ nhằm thu hút
FDI: Kinh nghiệm của Trung Quốc và gợi ý cho Việt Nam", Tạp chí Khoa
học Xã hội Việt Nam, số 45 năm tháng 2, tr.19-26.
4. Hà Thị Hương Lan (2011), "Công nghiệp phụ trợ với vấn đề nhập siêu ở Việt
Nam hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 2, tr. 52-55.
5. PGS, TS Đỗ Đức Minh, Hà Thị Hương Lan (2011), Chính sách tài chính hỗ trợ
công nghiệp hỗ trợ, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Chính sách tài chính phát triển
công nghiệp hỗ trợ (của Viện chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài
chính) và Viện nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp (Bộ Công
thương), tháng 12
6. PGS, TS Đỗ Đức Minh, Hà Thị Hương Lan (2012), Sự đánh đổi giữa tăng
trưởng và lạm phát của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo
Khoa học phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ trong điều tiết kinh tế vĩ
mô của Viện chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính) phối hợp
với Viện chiến lược Ngân Hàng (Ngân Hàng Nhà nước), tháng 5.
7. Hà Thị Hương Lan (2012), "Công nghiệp hỗ trợ giải pháp hạn chế nhập
siêu", Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp, tháng 12, tr. 12 - 14.
8. Hà Thị Hương Lan (2013), "Chính sách ưu đãi phát triển Công nghiệp hỗ
trợ ở Việt Nam", Tạp chí Tài chính, số 5 (583), tháng 5, tr.50-53.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt1. ADB (2007), Triển vọng phát triển Châu Á: Việt Nam. Hà Nội.
2. Vũ Thành Tự Anh (2006), "Vai trò của doanh nghiệp dân doanh vừa và nhỏ",
Thời báo kinh tế Sài Gòn, (10), 7-9.
3. Bùi Thị Lan Anh (2006), CNHT trong chiến lược phát triển công nghiệp Việt
Nam, Đề án môn Kinh tế và quản lý công nghiệp, Trường Đại học Kinh
tế Quốc dân, Hà Nội.
4. Từ Thúy Anh (2010), "Phát triển cụm công nghiệp hỗ trợ chuyên ngành: Lý
thuyết và thực tiễn", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 383.
5. Nguyễn Hoàng Ánh (2008), Nghiên cứu chuỗi giá trị toàn cầu và khả năng
tham gia của các doanh nghiệp ngành điện tử Việt Nam (Đề tài nghiên
cứu cấp Bộ), Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đại học Ngoại thương.
6. Lê Xuân Bá (2010), Kinh tế Việt Nam trong kế hoạch 5 năm 2011 - 2015 và
chiến lược phát triển đến năm 2020.
7. Trương Thị Chí Bình (2010), Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành điện
tử gia dụng ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học kinh tế
quốc dân, Hà Nội.
8. Trương Thị Chí Bình (2006), Nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển công
nghiệp hỗ trợ Việt Nam thông qua nâng cao hiệu quả của liên kết kinh doanh
giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ (Đề tài nghiên cứu cấp Bộ), Bộ Công nghiệp.
9. Trương Thị Chí Bình (2007a), "Kết nối công nghiệp thương mại trong bối
cảnh toàn cầu hóa", Tạp chí Công nghiệp, 9 (1), tr.29-31.
10. Trương Thị Chí Bình (2007b), Nghiên cứu đề xuất xây dựng mô hình Cụm
liên kết công nghiệp (industrial cluster) để phát triển công nghiệp hỗ trợ
Việt Nam, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Bộ Công thương.
11. Ngô Thái Bình và Lê Hằng (2009), "Phát triển công nghiệp hỗ trợ cho ngành
ô tô - xe máy", Tạp chí Công nghiệp, số 1.
153
12. Bộ Bưu chính Viễn thông (2007), Kế hoạch tổng thể phát triển Công nghiệpđiện tử Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020, Hà Nội.
13. Bộ Công thương (2007), Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm2010, tầm nhìn đến năm 2020.
14. Bộ Công thương (2007), Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp điệntử Việt Nam.
15. Bộ Công thương (2009), Dự thảo Nghị định về Phát triển ngành công nghiệphỗ trợ.
16. Bộ Công thương (2008b), Báo cáo tóm tắt chiến lược Công nghiệp ViệtNam đến 2020, Hà Nội.
17. Bộ Công thương (2007a), Báo cáo tình hình phát triển công nghiệp Việt Nam2006, Hà Nội.
18. Bộ Công thương (2007b), Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ Việt Nam đến 2010, tầm nhìn đến 2020, Hà Nội.19. Bộ Công thương (2008a), Báo cáo tình hình công nghiệp thương mại 2007,
Hà Nội.20. Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương), Quyết định số 34/2007/QĐ-BCN
ngày 31/7/2007 phê duyệt Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010,tầm nhìn đến năm 2020.
21. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2003), Sáng kiến chung Nhật Bản - Việt Namnhằm cải thiện môi trường kinh doanh và tăng cường khả năng cạnhtranh của Việt Nam.
22. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số 96/2011/TT-BTC ngày 04 tháng 07 năm2011 hướng dẫn thực hiện chính sách tài chính quy định tại Quyết định12/2011/QĐ-TTg về chính sách phát triển một số ngành CNHT
23. C.Mác, Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia sự thật,Hà Nội.
24. Hoàng Văn Châu (Tuyển chọn) (2010), Công nghiệp hỗ trợ : Kinh nghiệm
của các nước và giải pháp cho Việt Nam, Nxb Thông tin và Truyền
thông, Hà Nội.
154
25. Hoàng Văn Châu (2010), Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt
Nam, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
26. Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) (1995), báo cáo điều tra “phát triển
công nghiệp: CNHT” (Investigation report for industrial development:
Supporting industry sector).
27. Diễn đàn phát triển Việt Nam (2006), Báo cáo của VDF: CNHT Việt Nam
theo đánh giá của các nhà sản xuất Nhật Bản. Hà Nội.
28. Diễn đàn phát triển Việt Nam (2011), Điều tra so sánh bối cảnh, biện pháp,
chính sách và kết quả phát triển CNHT ở ASEAN.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. “Đón đầu” bằng CNHT. www.moi.gov.vn.
33. Carlier A, Trần Thanh Sơn (2005), Thúc đẩy quan hệ hợp đồng giữa các
doanh nghiệp ở Việt Nam, Ngân hàng thế giới, Hà Nội.
34. ERIA (2008), Thiết kế lộ trình hướng tới Hội nhập kinh tế Đông Á, ERIA,
Hà Nội.
35. Lê Thế Giới (2009), Phát triển Công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam: Lý thuyết,
thực tiễn và chính sách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Lê Thế Giới (2009), "Tiếp cận lý thuyết cụm công nghiệp và hệ sinh thái
kinh doanh trong nghiên cứu chính sách thúc đẩy các ngành công nghiệp
hỗ trợ ở Việt Nam", Tạp chí Khoa học và Công nghiệp, số 30.
37. Lê Thế Giới (chủ nhiệm) (2008), Các giải pháp phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ của thành phố Đà Nẵng, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Thành phố.
155
38. Nguyễn Đức Hải (2005) “Phát triển ngành CNHT ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay”, Thông tin những vấn đề kinh tế - chính trị học, Viện Kinh tế
chính trị học, Học viện Hành chính quốc gia, số 6, tr.31-32.
39. Lê Thị Thanh Huyền, (2006), “Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ”, Tạp chí
Tài chính số 3 (tháng 3)
40. Phạm Duy Hiếu (2009), "Công nghiệp hỗ trợ và sự phát triển nền kinh tế
Việt Nam", Tạp chí Thương mại, số 20.
41. Đỗ Mạnh Hồng (2006), "Hội nhập công nghiệp khu vực từ các ngành sản
xuất phụ tùng", Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 7.
42. Nguyễn Quang Hồng (2009), "Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Giải pháp quan
trọng đối với doanh nghiệp Việt Nam trong việc hấp thụ công nghệ từ
FDI", Tạp chí Quản lý kinh tế, số 27.
43. Nguyễn Thị Dung Huệ (2006), Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may
của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ
kinh tế, Đại học Ngoại thương, Hà Nội.
44. Đặng Thu Hương, Trần Ngọc Thìn (2009), "Thực trạng công nghiệp hỗ trợ
tại Việt Nam và một số giải pháp khắc phục", Tạp chí Kinh tế và Phát
triển, số 139.
45. Nguyễn Mạnh Hùng (2009), "Các mối liên hệ cơ bản trong công nghiệp hỗ
trợ", Tạp chí Công nghiệp, kỳ 1, tháng 9.
46. Trần Quang Lâm, Đinh Trung Thành (2007), "Phát triển công nghiệp hỗ trợ
Việt Nam trước làn sóng đầu tư mới của các công ty xuyên quốc gia Nhật
Bản", Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số 21, 22.
47. Vũ Chí Lộc (2010), "Vai trò của các TNCs trong quá trình Phát triển các
ngành công nghiệp hỗ trợ tại các quốc gia đang phát triển", Tạp chí
Thương mại, số 19.
48. Nguyễn Công Liêm, Nguyễn Mạnh Hà (2007), "Đi tìm lời giải cho ngành
công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong kỳ chiến lược tới", Tạp chí Thông tin
và Dự báo kinh tế - xã hội, số 19
156
49. Mitarai H. (2005), "Các vấn đề trong ngành điện điện tử của các nước Asean
và bài học rút ra cho Việt Nam" trong Hoàn thiện chiến lược phát triển
công nghiệp Việt Nam, Ohno K. và Nguyễn Văn Thường (chủ biên),
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
50. Mori J, (2007), "Thiết kế cơ sở dữ liệu cho CNHT" trong Xây dựng Công
nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam do Ohno K chủ biên, VDF - Grips.
51. Mori J, Nguyễn Thị Xuân Thúy (2007), "Phát triển nguồn nhân lực công
nghiệp phục vụ công nghiệp hóa định hướng FDI ở Việt Nam", trong Việt
Nam as an Emerging Industrial Country: Policy Scope toward 2020,
Ohno K.(Chủ biên), VDF.
52. Mori J (2005), Phát triển CNHT cho quá trình công nghiệp hóa của Việt
Nam: tăng cường tính ngoại hiện tích cực theo chiều dọc thông qua đào
tạo liên kết, Master thesis, Trường Fletcher, Đại học Tufts, Hoa Kỳ.
53. Phùng Nghị (2010), "Đột phá từ công nghiệp hỗ trợ : Cần có một chương
trình quốc gia phù hợp", Thời báo kinh tế Việt Nam, số 150.
54. Ohkawa K., Kohama H. (2004), Kinh nghiệm công nghiệp hóa của Nhật bản
và sự thích dụng của nó đối với các nền kinh tế đang phát triển, Nxb
khoa học - xã hội, Hà Nội.
55. Ohno K. và Nguyễn Văn Thường chủ biên (2005), Hoàn thiện chiến lược
phát triển công nghiệp Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
56. Ohno K chủ biên (2007), Diễn đàn phát triển Việt Nam (VDF), Xây dựng
công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam, Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội.
57. Ohno, Kenichi (VDF) (2008), “Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, từ quy hoạch
đến Kế hoạch hành động thông qua quan hệ đối tác Monozukuri Việt
Nam - Nhật Bản”, Kỷ yếu Hội thảo “Kế hoạch hành động và phát triển
công nghiệp phụ trợ”.
58. Prema-Chandra Athukorala, (2002), “Đầu tư nước ngoài trực tiếp và xuất khẩu
hàng công nghiệp chế tạo: cơ hội và chiến lược”, Đề án Khoa kinh tế
Trường Nghiên cứu Châu Á Thái Bình Dương, Đại học Quốc gia Australia.
157
59. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư, số: 59/2005/QH11, ngày 29 tháng 11 năm 2005.
60. Schelling T. (2007), Chiến lược xung đột, Nxb trẻ, TP Hồ Chí Minh.
61. Stiglitz J. E. (2002), Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
62. Stiglitz J. E. (2008), Toàn cầu hóa và những mặt trái, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
63. Trương Tấn Sang (2007), “Để nền kinh tế nước ta hội nhập thành công và
phát triển bền vững”, Tạp chí Cộng sản (số 777), 3-4-5-6-7.
64. Nguyễn Ngọc Sơn (2008), "Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt
Nam", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 359.
65. Nguyễn Trường Sơn, (chủ nhiệm), (2013), Trường Đại học Đà Nẵng, Sở Khoa
học và Công nghệ tỉnh Quảng Ngãi, Điều tra, đánh giá thực trạng công
nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và đề xuất giải pháp phát
triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2011 -2015 định hướng 2020, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp tỉnh.
66. Nguyễn Đình Tài (2013), “Mô hình nào cho cụm liên kết ngành ở Việt
Nam”, Tạp chí Tài chính, số 4.
67. Trương Bá Thanh (2005), Ứng dụng phương pháp cân bằng tổng thể trong
phân tích mối quan hệ tương hỗ giữa ngành công nghiệp chính yếu và các
ngành công nghiệp hỗ trợ, Hội thảo phát triển CNHT - Đại học Đà Nẵng.
68. Nguyễn Văn Thanh (2006), "Xây dựng KCN và KCX theo hướng Phát triển
ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam", Tạp chí Những vấn đề kinh tế
và chính trị thế giới, số 12.
69. Nguyễn Văn Thanh (2007), "Kinh nghiệm phát triển các cụm liên kết công
nghiệp ở các nước đang phát triển", Tạp chí Những vấn đề kinh tế và
chính trị thế giới, số 6.
70. Vũ Nhữ Thăng (chủ nhiệm), (2013), Viện Chiến lược và Chính sách tài chính
- Bộ Tài chính, Giải pháp tài chính phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ,
Đề tài khoa học cấp Bộ.
158
71. Phạm Tất Thắng (2013), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ: một số vấn đề đặt
ra”, Tạp chí Cộng sản điện tử, số tháng 10.
72. Đào Ngọc Tiến (2011), Thực trạng và giải pháp phát triển công nghiệp hỗ
trợ của Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế "Chất lượng tăngtrưởng kinh tế Việt Nam: Giai đoạn 2001 - 2010 và định hướng tới năm
2020", Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
73. Trần Đình Thiên (chủ nhiệm) (2007), Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ -
đánh giá thực trạng và hệ quả, đề tài khoa học cấp Bộ
74. Trần Văn Thọ (2005), “Công nghiệp hoá Việt Nam trong trào lưu khu vực
hoá ở Đông Á”, Tạp chí Thời đại mới, (11)
75. Trần Văn Thọ, (2005), “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệphoá Việt Nam” và “Công nghiệp phụ trợ mũi đột phá chiến lược”, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Nguyễn Thị Kim Thu, (2012), Công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam trong điều kiệnhội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh), Hà Nội.
77. Nguyễn Thị Xuân Thúy (2007), Công nghiệp hỗ trợ, tổng quan về các kháiniệm, trong Xây dựng Công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam, Ohno K. (Chủ
biên), VDF-GRIPS.
78. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24 tháng
02 năm 2011 về chính sách phát triển một số ngành CNHT.
79. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định 418/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4 năm2012 Phê duyệt Chiến lược phát triển KH - CN giai đoạn 2011 - 2020.
. 80. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1556/QĐ-TTg ngày 17/10/2012
về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực CNHT.81. Đỗ Minh Thụy (2012), Công nghiệp hỗ trợ ngành giày dép - nghiên cứu đối
với ngành giày dép ở Hải Phòng, Luận án tiễn sĩ chuyên ngành Quản lý
kinh tế, Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương.
159
82. Nguyễn Văn Thường, Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên) (2007), Kinh tế Việt Nam
năm 2007 - Năm đầu tiên trở thành thành viên tổ chức thương mại thếgiới. Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
83. Tổng cục Thống kê, số liệu Website (www.gso.gov.vn) 2005, 2011, 2012, 2013.
84. Tổng cục Thống kê, số liệu Website (www.gso.gov.vn) 2000 - 2013.
85. Tổng cục Thống kê, số liệu Website (www.gso.gov.vn) 2000, 2005, 2011.
86. Tổng cục Thống kê, số liệu Website (www.gso.gov.vn) 2005 - 2010.
87. Tổng cục Thống kê, số liệu Website (www.gso.gov.vn) 2011.
88. Tổng cục Thống kê, số liệu Website (www.gso.gov.vn) 2012.
89. Tổng cục Thống kê, số liệu tổng điều tra, Website (www.gso.gov.vn) 2013.
90. Tổng cục Hải quan, số liệu Website (http://www.customs.gov.vn), 2012
91. Nguyễn Kế Tuấn (2004), “Phát triển CNHT trong chiến lược phát triển công
nghiệp Việt Nam”, Tạp chí kinh tế và phát triển, số 85.
92. Phan Đăng Tuất (2005), "Trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp Nhật
Bản - Con đường nào cho các doanh nghiệp Việt Nam", Tạp chí Công
nghiệp, Kỳ 1, Tháng 12.
93. Phan Đăng Tuất (2008), Kế hoạch hành động về phát triển công nghiệp hỗ
trợ, Trình bày tại diễn đàn Liên kết Hội nhập cùng phát triển, VCCI.
94. Phan Đăng Tuất (2009), "CNTT - Vấn đề trọng đại”, Báo Công thương, 5-6, (6-9).
95. Phan Đăng Tuất (2009), Phát triển Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ trên địa
bàn thành phố Hà Nội, UBND TP. Hà Nội (Đề tài cấp thành phố), Hà Nội.
96. Trương Đình Tuyển (2011) Báo cáo: Phát triển công nghiệp hỗ trợ kiến nghị
cách tiếp cận và chính sách cho Việt Nam, Hội thảo Khoa học Chính
sách tài chính phát triển công nghiệp hỗ trợ (Viện chiến lược và Chính
sách tài chính (Bộ Tài chính) và Viện nghiên cứu Chiến lược chính sách
công nghiệp (Bộ Công thương), tháng 12.
97. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, (2013), Kế hoạch trợ giúp phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn thành
phố giai đoạn 2013 - 2020, Kế hoạch 131/KH-UBND, ngày 13 tháng 8.
160
98. Ủy ban nhân dân tỉnh Long An, (2013), Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ
trợ trên địa bàn tỉnh Long An đến năm 2020, định hướng đến năm 2030,
Quyết định số 3533/QĐ-UBND ngày 10 tháng 10.
99. VDF và Jica (2011), Điều tra so sánh bối cảnh, biện pháp chính sách và kết quả
Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở ASEAN, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
100. Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp (2007), Tài liệu hội
thảo chính sách công nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, Hà Nội.
101. Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp (2010), Nghiên cứu
chính sách tổng thể phát triển công nghiệp hỗ trợ trong điều kiện hội
nhập, Báo cáo đề tài cấp Bộ, Hà Nội.
102. Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp (2011), Dự thảo: Quy
hoạch phát triển ngành ô tô Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
103. Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp (2011), Công nghiệp
hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam, Báo cáo đề tài cấp Bộ, Hà Nội.
104. Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp (2011), Nghiên cứu
đánh giá năng lực các doanh nghiệp CNHT ngành cơ khí chế tạo và đề
xuất mô hình liên kết trong dài hạn, Báo cáo đề tài cấp Bộ, Hà Nội.
105. Viện Chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính (12/2011), Tài liệu
hội thảo chính sách tài chính hỗ trợ phát triển CNHT, Hà Nội.
106. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2007), Phát triển ngành công nghiệp hỗ
trợ: Đánh giá thực trạng và hậu quả, Đề tài khoa học cấp viện.
107. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2007), Phát triển ngành công nghiệp hỗ
trợ: Nghiên cứu trường hợp công nghiệp hỗ trợ cho ngành sản xuất ô tô,
xe máy, Đề tài khoa học cấp viện.
108. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2009), Thông tin chuyên đề:
Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ: thực trạng và một số khuyến
nghị, Hà Nội.
161
109. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (7/2011), Phát triển cụm
ngành công nghiệp, khu công nghiệp gắn với phát triển CNHT, tạo mạng
liên kết sản xuất và hình thành chuỗi giá trị, Kỷ yếu hội thảo, Đà Nẵng.
110. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (11/2011), Phát triển cụm
ngành công nghiệp, khu công nghiệp gắn với phát triển CNHT, tạo mạng
liên kết sản xuất và hình thành chuỗi giá trị, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.
111. WB (2005), Thực thi Hợp đồng: những phát hiện qua báo cáo về hoạt động
kinh doanh 2005 ở một số quốc gia Châu Á, Hà Nội.
112. Nguyễn Trọng Xuân (chủ nhiệm), (2007), Viện Kinh tế Việt Nam Phát triển
công nghiệp hỗ trợ: nghiên cứu trường hợp công nghiệp hỗ trợ cho
ngành sản xuất ô tô, xe máy, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp viện.
113. http://irv.moi.gov.vn “Muốn thu hút FDI phải phát triển CNHT”.
114. http://www.ven.vn Nguyễn Duy Nghĩa (2005) “Đôi điều về CNHT”.
115. http://www.vietbao.vn. Trần Văn Thọ (2006), CNHT mũi đột phá chiến lược.
116. http://www.vietbao.vn.Trần Văn Thọ, Sự trỗi dậy của kinh tế Trung Quốc.
117. http://thuvienphapluat.vn/ Nghị quyết 10 của Chính phủ, ngày 24/2/2012.
118. www.dientuvietnam.net Công nghiệp điện tử Việt Nam chưa có một quy
hoạch tổng thể.
119. www.vami.com.vn. “Công nghiệp ôtô và phụ tùng Thái Lan với mục tiêu
“Detroit của Châu Á”.
120. www.dautuchungkhoan.com "Công nghiệp khuôn mẫu sẽ kéo theo công
nghiệp hỗ trợ phát triển".
121. www.giacavattu.com.vn Công nghiệp điện tử Việt Nam: Những dấu hiệu
khởi sắc.
122. www.vneconomy.vn Tỷ lệ nội địa hóa ngành xe máy, 01/10/2007.
162
II. Tài liệu tiếng Anh
123. Ngo Duc Anh (2007), Key Issues for Vietnam’s supporting Industries
Development: Govetnment Role in Buildingtechnology Capability.
JBIC’s International Symposium: “Promoting Regional Linkages to
Enhance Asia’s Competitiveness and Dynamism”, Jakarta, Indonesia.
124. Abonyi G. (2007), Linking greater Mekong subregion Enterprises to
international Market. The role of global value chains, International
production networks, New York.
125. Asia Productivity Organiazation APO (2002), Strengthening of supporting
industries: Asian experience, Tokyo.
126. Alfaro L. and Rodriguez-Clare A. (2003), Multinationals and Linkages: an
empirical investigation.
127. Dennis McNamara (2004), Integrating Supporting Industries - APEC’s
Next Challenge, Georgetown University.
128. Department of Energy, USA (2005), Supporting industries - Industries of
the future: Fiscal year 2004 annual report, Washington DC.
129. Do Manh Hong (2008), Promotion of Supporting industry: The key for
attacting FDI in developing countries.
130. Goodwill Consultant JSC and VDF, (2011), Survey on comparision of
backgrounds, polycy measuares and outcomes for development of
supporting industries in ASEAN (Malaysia and Thailand in comparion
with VietNam), Publishing House of Communication and Transport,
Nxb Giao thông Vận tải.
131. Laurids (2006), Policies and institutions of industrial deepening and
upgrading in Thailand II - The supporting industry with particular
amphasis on the downstream plastic parts and mould industries,
Working papar No 9, Roskilde University.
163
132. JBIC (2004), Servey report on overseas business operations by Japanese
manufacturing companies, JETRO.
133. JETRO, (2003), “Japanese - Affiliated Manufactures in Asia”.
134. JOEA (1994), Saportingu indasutori no kenkyu (Nghiên cứu về công
nghiệp hỗ trợ), Tokyo.
135. JICA (1995), Investigation report for industrial development: Supporting
industry sector, Tokyo.
136. Goh Ban Lee (1998), Linkage between the Multinatinl Corporations and
Local Supporting Industries, Sains University, Malaysia.
137. Halim Mohd Noor, Roger Clarke, Nigel Driffield (2002), “Multinational
cooperation and technological effort by local firm: a case study of the
Malaysia Electronics and Electrical Industry”.
138. Kyoshiro Ichikawa (2005), Building and Strengthening Supporting
Industries in Vietnam: A survey Report, JETRO, HaNoi.
139. Kimura F. (2006), “International Production and Distribution Networks in
East Asia: Eighteen Facts, Mechanics, and Policy Implications”, Asian
Economic Policy Review, Vol. 1, 326-344.
140. Small and Medium Enter prise Agency (2009), Japan’s Policy for Small
and Medium Enterprise, Tokyo.
141. MITI (1985), White paper on Industry and Trade.
142. Mori, J. (2005), Development of supporting industries for Vietnam’s
industrialization: increasing positive vertical externalities through
collaborative training, Master of Arts in Law and Diplomacy Thesis,
The Fletcher School, Tufts University.
143. Ohno K. (2006), Supporting industries in Vietnam, VDF&GRIPS.
144. Ohno K. (2007), Building supporting industries in Vietnam, VDF&GRIPS.
145. Ohno K. Avoiding the Middle-Income Trap, Renovating Industrial Policy
Formulation in VietNam, ASEAN Economic Bulletin, Vol.26, No.1 (2009)
164
146. Porter. E Michael (1990), Competitive Advantage of nation, The Free Press.
Peter Larkin, the President and CEO of the National Grocers Association
(NGA), (2011), “Comprehensive Supporting Industries” ThaiLand Board
of Investment North America, Supporting industries in Thailand.
147. Ratana. E, (1999), “The role of small and medium supporting industries in
Japan and Thailand”, IDE APEC, Working Paper Series 98/99 Tokyo.
148. Ryuichiro, Inoue, (1999) “Future prospects of Supporting Industries in
ThaiLand and Malaysia”.
149. Terence P.Steward (2007), China’s Support Progams for Selected Industries:
Textile and Apparel, The Trade Lawyers Advisory Group, USA.
150. Thomas Brandt, (2012), “Industries in Malaysia Engineering Supporting
Industry”, Malaysian Investment Development Authority (MIDA).
151. UNIDO (2000), Development of Clusters and networks of SMEs, the
UNIDO program.
152 www.businessmonitor.com/Thailand, Supporting Industries in ThaiLan.
153. www.investpenang.gov Engineering support industry.
154. www.trademap.org.
165
PHỤ LỤC
166
PHỤ LỤC 1Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
Nguồn: The international competiveness of Asian economies in the apparel
commodity chain (Gereffi và Memodovic, 2003).
Bông,len,
lụa…
Dầu,khí
thiênnhiên
Dệtlen,dệtkim
Sợi(dệtđan,hoàntất)
Sợitổnghợp
Các nhà máymay mặc Mỹ(thiết kế, cắt,
may, đơm nút,ủi)
Các nhà thầu phụtrong nước,
Mexico và vùngvịnh Caribe
Các nhà thầu phụmay mặc châu Á
Các nhà thầuphụ nội và hải
ngoại
Các côngty may mặccó thương
hiệu
Các vănphòng mua
hàng hảingoại
Các công tythương mại
Điểm bán giáriêng, điểm bántrực tiếp của nhàmáy, đươn hàng
qua
Các chuỗi chiếtkhấu
Các chuỗi hànghóa đại
Các cửa hàng đặchiệu
Các cửa hàngtổng hợp
Sợithiênnhiên
Sợitổnghợp
Hóadầu
Mạng lưới tiếpthị
Tấtcảcácnhà
Mạng lướixuất khẩu
Mạng lướisản xuất
Mạng lướinguyên phụ liệu
Mạng lướinguyên liệu thô
Các nhà bán lẻCác nhà sản xuấthàng may
Tất cả các nhàbán lẻ
Các c.ty dệt
Bắc Mỹ
Châu Á
167
PHỤ LỤC 2
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Số: 12/2011/QĐ-TTg
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 24 tháng 02 năm 2011
QUYẾT ĐỊNHVề chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12
ngày 03 tháng 6 năm 2008;Căn cứ Luật Công nghệ cao số 21/2008/QH12 ngày 13 tháng 11 năm 2008;Căn cứ Quyết định số 49/2010/QĐ-TTg ngày 19 tháng 7 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tưphát triển và Danh mục sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích phát triển;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương,
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng1. Phạm vi điều chỉnhQuyết định này quy định các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp
hỗ trợ đối với các ngành: cơ khí chế tạo, điện tử - tin học, sản xuất lắp ráp ô tô, dệt -may, da - giầy và công nghiệp hỗ trợ cho phát triển công nghiệp công nghệ cao.
2. Đối tượng áp dụnga) Các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức và cá nhân có liên quan đến
công nghiệp hỗ trợ.b) Các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.
168
Điều 2. Giải thích từ ngữTrong Quyết định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:1. Công nghiệp hỗ trợ: là các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu, phụ tùng
linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất,lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng.
2. Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ: là sản phẩm của các ngành quy định tạikhoản 1 Điều 1, gồm: vật liệu, phụ tùng, linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm sảnxuất tại Việt Nam để cung cấp cho khâu lắp ráp, sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh.
3. Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ: là dự án đầu tư tại Việt Nam(kể cả đầu tư mới và đầu tư bổ sung) để sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.
Điều 3. Khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ1. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ.2. Khuyến khích phát triển thị trườnga) Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được quảng cáo, giới thiệu
miễn phí sản phẩm trên Trang thông tin điện tử của Bộ Công Thương và các SởCông Thương.
b) Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được ưu tiên xem xét hỗtrợ nguồn kinh phí của các chương trình xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tưtheo quy chế xây dựng, quản lý và thực hiện các chương trình đó.
c) Chủ đầu tư dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho phát triểncông nghiệp công nghệ cao được Nhà nước tạo điều kiện tham gia hình thành mạnglưới cung ứng sản phẩm, dịch vụ theo quy định của pháp luật về công nghệ cao.
3. Khuyến khích về hạ tầng cơ sởa) Các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được ưu tiên hỗ trợ và
dành quỹ đất thích hợp cho dự án về diện tích, vị trí, tiền thuê đất.b) Các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ sử dụng đất trong khu
cụm công nghiệp được sử dụng các công trình kết cấu hạ tầng, các dịch vụ côngcộng và các dịch vụ khác trong khu, cụm công nghiệp; được hỗ trợ và tạo điềukiện trong việc tuyển dụng, đào tạo lao động; được hưởng các chính sách hỗ trợkhác theo quy định tại Quyết định 105/2009/QĐ-TTg ngày 19 tháng 8 năm 2009của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý cụm công nghiệp.
c) Chủ đầu tư dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ là doanh
169
nghiệp nhỏ và vừa được hưởng các chính sách khuyến khích về mặt bằng sảnxuất theo quy định tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2009của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
d) Các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho phát triển côngnghiệp công nghệ cao được áp dụng chính sách khuyến khích về đất đai theo quyđịnh của pháp luật về công nghệ cao.
4. Khuyến khích về khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lựca) Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được xem xét, hỗ trợ một
phần kinh phí từ nguồn vốn Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia vàcác quỹ khác liên quan đến hoạt động khoa học và công nghệ đối với các chi phíchuyển giao công nghệ, mua bản quyền thiết kế, mua phần mềm, thuê chuyêngia nước ngoài.
b) Chủ đầu tư dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ là doanhnghiệp nhỏ và vừa được hưởng các chính sách khuyến khích nâng cao năng lựccông nghệ, trình độ kỹ thuật và chính sách trợ giúp phát triển nguồn nhân lựctheo quy định của Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2009 củaChính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
c) Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được xem xét hỗ trợ mộtphần kinh phí đào tạo nhân lực từ nguồn vôn ngân sách nhà nước theo quy địnhhiện hành.
đ) Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho phát, triển côngnghiệp công nghệ cao được áp dụng chính sách khuyến khích về phát triểnnguồn nhân lực theo quy định của pháp luật về công nghệ cao.
5. Về cung cấp thông tina) Các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
thông qua Cổng thông tin điện tử thường xuyên cung cấp thông tin cập nhật vềcác văn bản pháp luật liên quan đến việc phát triển công nghiệp hỗ trợ và cácchương trình hỗ trợ kỹ thuật của Nhà nước đối với các dự án sản xuất sản phẩmcông nghiệp hỗ trợ.
b) Chủ đầu tư các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ là doanhnghiệp nhỏ và vừa được hưởng các chính sách về cung cấp thông tin, tư vấn theoquy định tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2009 của Chínhphủ v trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
170
6. Về tài chính
a) Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được hưởng ưu đãi vềthuế xuất nhập khẩu theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế xuất khẩu,thuế nhập khẩu.
b) Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được xem xét vay mộtphần vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo quy định hiện hành.
c) Chủ đầu tư các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ là doanhnghiệp nhỏ và vừa được hưởng các chính sách trợ giúp tài chính theo quy địnhtại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ vềtrợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
d) Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho phát triển công nghiệpcông nghệ cao được xem xét, cho hưởng các chính sách về thuế theo theo quyđịnh của pháp luật về công nghệ cao.
Điều 4. Ưu đãi phát triển công nghiệp hỗ trợCác dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mục sản
phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển được xem xét áp dụng cơ chế ưu đãithích hợp. Chủ đầu tư xây dựng dự án theo quy định hiện hành, trong đó đề xuấtcụ thể các cơ chế ưu đãi thích hợp, trình Hội đồng thẩm định dự án phát triểncông nghiệp hỗ trợ xem xét, báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Điều 5. Tổ chức thực hiện1. Bộ Công Thương:a) Chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành có
liên quan xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục sản phẩmcông nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển. Định kỳ rà soát, cập nhật, bổ sung điềuchỉnh Danh mục nêu trên cho phù hợp với yêu cầu phát triển của từng thời kỳtrình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
b) Thành lập Hội đồng thẩm định dự án phát triển công nghiệp hỗ trợ doThứ trưởng Bộ Công Thương làm Chủ tịch hội đồng, thành viên gồm đại diệncác Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Khoa học và Công nghệ, Thông tin vàTruyền thông, Tài nguyên và Môi trường, Tư pháp, Ngân hàng Phát triển ViệtNam và các Hiệp hội ngành nghề có liên quan để thẩm định dự án sản xuất sảnphẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiênphát triển.
171
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan trựcthuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trungương, Thủ trưởng các cơ quan có liên quan, trong phạm vi chức năng và nhiệmvụ của mình, chịu trách nhiệm hướng dẫn cụ thể và kiểm tra việc thực hiệnQuyết định này.
Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc hoặc cần sửa đổi, bổ sung,điều chỉnh Quyết định này, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnhkịp thời phản ánh với Bộ Công Thương để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chínhphủ xem xét, quyết định.
Điều 6. Hiệu lực thi hành
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 4 năm 2011.Điều 7. Trách nhiệm thi hành
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộcChính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trungương, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hànhQuyết định này./.
Nơi nhận:- Ban Bí thư Trung ương Đảng;- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;- VP Ban Chỉ đạo TW về phòng, chống tham nhũng;- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;- Văn phòng TW và các Ban của Đảng;- Văn phòng Chủ tịch nước;- Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;- Văn phòng Quốc hội;- Tòa án nhân dân tối cao;- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;- Kiểm toán Nhà nước;- UB Giám sát tài chính QG;- Ngân hàng Chính sách Xã hội;- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;- Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;- VPCP: BTCN, các PCN, Cổng TTĐT, các Vụ, Cục,đơn vị trực thuộc, Công báo;- Lưu: Văn thư, KTN (5b)
THỦ TƯỚNG(đã ký)
Nguyễn Tấn Dũng
172
PHỤ LỤC 3
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 1483/QĐ-TTg Hà Nội, ngày 26 tháng 8 năm 2011
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH DANH MỤC SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
ƯU TIÊN PHÁT TRIỂN
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Công nghệ cao số 21/2008/QH12 ngày 13 tháng 11 năm 2008;Căn cứ Quyết định số 49/2010/QĐ - TTg ngày 19 tháng 7 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tưphát triển và Danh mục sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích phát triển;
Căn cứ Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24 tháng 02 năm 2011 củaThủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Danh mục sản phẩm côngnghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển.
Điều 2. Các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mụcsản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển nêu tại Điều 1 được xem xét ápdụng cơ chế hỗ trợ thích hợp theo quy định tại Điều 4 của Quyết định số12/2011/QĐ-TTg ngày 24 tháng 02 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ vềchính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ.
173
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.
Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơquan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộcTrung ương và các tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hànhQuyết định này./.
Nơi nhận:- Ban Bí thư Trung ương Đảng;- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;- Văn phòng TW Đảng;- Văn phòng Quốc hội;- Kiểm toán Nhà nước;- UB Giám sát tài chính QG;- Ngân hàng Chính sách Xã hội;- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;- Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;- VPCP: BTCN, các PCN, Cổng TTĐT, các Vụ:KTTH, KGVX, PL, QHQT, ĐMDN, KNTN,TKBT, TH, ĐP, Cục KSTTHC, Công báo;- Lưu: Văn thư, KTN (5b).
THỦ TƯỚNG
(đã ký)
Nguyễn Tấn Dũng
174
PHỤ LỤC - DANH MỤC CÁC SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢƯU TIÊN PHÁT TRIỂN
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1483/QĐ-TTg ngày 26 tháng 8 năm 2011của Thủ tướng Chính phủ)
I. NGÀNH DỆT - MAY:
- Xơ thiên nhiên: Bông, đay, gai, tơ tằm;- Xơ tổng hợp: PE, Viscose;- Vải: Vải kỹ thuật, vải không dệt;- Hóa chất, chất trợ, thuốc nhuộm phục vụ ngành nhuộm hoàn tất vải;- Phụ liệu ngành may: Cúc, mex, khóa kéo, băng chun.II. NGÀNH DA - GIÀY:
- Da thuộc;- Vải giả da;- Đế giầy;- Hóa chất thuộc da;- Da muối;- Chỉ may giầy.III. NGÀNH ĐIỆN TỬ - TIN HỌC:- Linh kiện điện tử - quang điện tử cơ bản: Transistor, mạch tích hợp, cảm
biến, điện trở, tụ, điôt, ăngten, thyristor;- Linh kiện thạch anh;- Vi mạch điện tử;- Vật liệu sản xuất linh kiện điện tử: Chất bán dẫn, vật liệu từ cứng, vật
liệu từ mềm, chất cách điện tích cực;- Linh kiện phục vụ công nghiệp lắp ráp sản phẩm điện tử: Linh kiện
nhựa, linh kiện cao su, chi tiết cơ - điện tử, linh kiện kính;- Pin dùng cho máy vi tính xách tay, điện thoại di động.IV. NGÀNH SẢN XUẤT LẮP RÁP Ô TÔ:- Động cơ và chi tiết động cơ: Thân máy, piston, trục khuỷu, thanh truyền,
bánh răng, cụm ống xả, xi lanh, cụm đầu xi lanh, trục cam, xéc-măng, van động cơ;
175
- Hệ thống bôi trơn: Bộ lọc dầu, bộ làm mát, bộ tản nhiệt, bơm dầu, cácloại van;
- Hệ thống làm mát: Bộ tản nhiệt, két nước, quạt gió, van hằng nhiệt, bơm nước;- Hệ thống cung cấp nhiên liệu: Thùng nhiên liệu, bộ lọc nhiên liệu, bộ lọc
không khí, ống dẫn bơm nhiên liệu, bộ chế hòa khí, hệ thống phun nhiên liệu;- Khung - thân vỏ - cửa xe: Các chi tiết dạng tấm đột dập, sắt xi, thùng xe
tải, bậc lên xuống, cụm cửa xe;- Hệ thống treo: Nhíp, lò xo đàn hồi, bộ giảm chấn;- Bánh xe: Lốp xe, vành bánh xe bằng hợp kim nhôm;- Hệ thống truyền lực: Ly hợp, hộp số, cầu xe, trục các đăng;- Hệ thống lái;- Hệ thống phanh;- Linh kiện điện - điện tử;+ Nguồn điện: Ắcquy, máy phát điện;+ Thiết bị đánh lửa: Bugi, cao áp, biến áp;+ Rơle khởi động, động cơ điện khởi động;+ Dây điện, đầu nối, cầu chì, các loại cảm biến, thiết bị tự động điều
khiển, bộ xử lý;- Hệ thống chiếu sáng và tín hiệu: Đèn, còi, đồng hồ đo các loại;- Hệ thống xử lý khí thải ô tô;- Linh kiện nhựa cho ô tô;- Linh kiện cao su, vật liệu giảm chấn.
V. NGÀNH CƠ KHÍ CHẾ TẠO:- Khuôn mẫu, đồ gá: Khuôn dập, khuôn đúc, đồ gá gia công, đồ gá kiểm tra;- Dụng cụ - dao cắt: Dao điện, dao phay, mũi khoan;- Phụ tùng máy gia công cơ khí, phụ tùng máy hàn;
- Dụng cụ đo lường, kiểm tra dùng trong cơ khí: Thước đo, máy đo 3chiều, máy phân tích thành phần kim loại, máy siêu âm mối hàn;
- Chi tiết máy: Bu lông cường độ cao, ốc vít cường độ cao, ổ bi, bạc lót,bánh răng, van, khớp các loại, vỏ máy, chi tiết đột dập, hộp biến tốc, xi lanh thủylực, phụ tùng máy động lực, phụ tùng máy nông nghiệp;
- Thép chế tạo.
176
VI. CÁC SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ CHO CÔNGNGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
- Các loại khuôn mẫu: Khuôn mẫu có độ chính xác cao, khuôn đúc nhựacó độ chính xác cao;
- Các loại chi tiết cơ khí tiêu chuẩn chất lượng cao: Các loại đai ốc, bulông, ốc vít có độ chính xác cao dùng cho các thiết bị điện tử, cơ điện tử, điện tửy tế, rô bốt công nghiệp;
- Các loại linh kiện điện tử, mạch vi điện tử để phát triển các thiết bị: Thiếtbị ngoại vi, máy vi tính, đồ điện tử gia dụng, thiết bị nghe nhìn, pin mặt trời;
- Các cụm linh kiện, phụ tùng cho hệ thống thiết bị sản xuất điện năng từnăng lượng mới và năng lượng tái tạo;
- Các loại chi tiết nhựa chất lượng cao: Các bộ truyền động chính xác, cácchi tiết có độ bền và tuổi thọ cao, chịu nhiệt và chịu mài mòn bằng nhựa./.
177
PHỤ LỤC 4
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Số: 1556/QĐ-TTg
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 17 tháng 10 năm 2012
QUYẾT ĐỊNHPHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN “TRỢ GIÚP PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ
VÀ VỪA TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ”
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;Căn cứ Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 05 tháng 5 năm 2010 của Chính
phủ triển khai thực hiện Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnhvực công nghiệp hỗ trợ;
Căn cứ Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24 tháng 02 năm 2011 củaThủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Đề án “Trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừatrong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ” với các nội dung chủ yếu sau:
I. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG, MỤC TIÊU TRỢ GIÚP PHÁTTRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG LĨNH VỰC CÔNGNGHIỆP HỖ TRỢ ĐẾN NĂM 2020
1. Quan điểm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực côngnghiệp hỗ trợ:
a) Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợtrên cơ sở thu hút tối đa các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế, đặcbiệt là vốn đầu tư nước ngoài.
b) Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợđể tham gia vào mạng lưới sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia.
178
c) Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợtrên cơ sở phát huy tối đa nguồn nhân lực và các nguồn lực trong nước.
d) Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợđể tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp trước sức ép hội nhập.
2. Định hướng trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vựccông nghiệp hỗ trợ đến năm 2020:
a) Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợdựa trên các khu vực tập trung của doanh nghiệp nhỏ và vừa về công nghiệp hỗtrợ ở một số địa phương.
b) Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợtrên cơ sở triển khai thực hiện tốt các chính sách ưu đãi phát triển doanh nghiệpnhỏ và vừa và các chính sách liên quan đến phát triển công nghiệp hỗ trợ.
3. Mục tiêu phát triển:Đến năm 2020, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công
nghiệp hỗ trợ cần đạt được một số mục tiêu như sau:- Đẩy nhanh phát triển số lượng và nâng cao năng lực của doanh nghiệp
nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, đảm bảo doanh nghiệp nhỏ và vừatrong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ có thể cung ứng được khoảng 50% nhu cầunội địa hoá ở các lĩnh vực khác nhau của các ngành công nghiệp chế tạo;
- Số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ đạtkhoảng 2.000 doanh nghiệp.
II. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN1. Nhóm giải pháp liên quan đến chính sách, thể chế cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa trong công nghiệp hỗ trợ:a) Xây dựng chính sách cho các khu vực tập trung của doanh nghiệp nhỏ và
vừa trong công nghiệp hỗ trợ: Ban hành khung chính sách với quy định về tiêuchuẩn và ưu đãi cho các Khu công nghiệp hỗ trợ, Khu công nghiệp chuyên sâu.
b) Thể chế hoá các ngành công nghiệp hỗ trợ: Đưa toàn bộ các lĩnh vực hoạtđộng về công nghiệp hỗ trợ vào phân ngành kinh tế kỹ thuật theo các cấp, ngànhđăng ký kinh doanh, Hải quan, Thuế, phân loại thống kê của Tổng cục thống kê.
c) Xây dựng hệ thống chất lượng liên quan đến linh phụ kiện: Xây dựnghệ thống tiêu chuẩn riêng của Việt Nam để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừatrong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ trên cơ sở xem xét đến các tiêu chuẩn quy địnhquốc tế cũng như các tiêu chuẩn sẵn có của các tập đoàn đa quốc gia đang có mặtTrên thị trường Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.
179
d) Nhóm giải pháp liên quan đến ưu đãi khuyến khích doanh nghiệp nhỏvà vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ: Tập trung thực hiện các chính sách ưuđãi, khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ theo Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24 tháng 02 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách pháttriển một số ngành công nghiệp hỗ trợ; Quyết định số 1483/QĐ-TTg ngày 26tháng 8 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về Danh mục sản phẩm công nghiệphỗ trợ ưu tiên phát triển và các văn bản pháp luật liên quan trong đó đặc biệtquan tâm đến việc ưu đãi, khuyến khích các dự án sản xuất sản phẩm côngnghiệp hỗ trợ do các doanh nghiệp nhỏ và vừa là chủ đầu tư.
đ) Giải pháp về tài chính: Giao Ngân hàng Phát triển Việt Nam xem xétxây dựng các quy định riêng về điều kiện vay vốn cho các doanh nghiệp nhỏ vàvừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.
2. Nhóm giải pháp hỗ trợ thông qua các chương trình dự án trợ giúpdoanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ:
- Chương trình phổ biến công nghệ kỹ thuật sản xuất công nghiệp hỗ trợdành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa;
- Chương trình trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa trở thành nhà cung ứngcho các tập đoàn đa quốc gia trong lĩnh vực chế tạo ở Việt Nam;
- Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa áp dụng các hệ thốngquản lý trong sản xuất;
- Chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừatrong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ;
- Chương trình xây dựng cơ sở dữ liệu và website cung cấp thông tin vềcông nghiệp hỗ trợ.
(Chi tiết các chương trình theo Phụ lục kèm theo Quyết định này)
Điều 2. Tổ chức thực hiện1. Bộ Công Thương: Chủ trì triển khai thực hiện các hoạt động trợ giúp
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa về công nghiệp hỗ trợ.2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Chủ trì xây dựng khung chính sách dành cho
các khu vực tập trung sản xuất công nghiệp hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.3. Bộ Khoa học và Công nghệ: Bố trí nguồn ngân sách từ Chương trình
đổi mới công nghệ quốc gia và Chương trình năng suất chất lượng; Bộ Kế hoạchvà Đầu tư: Bố trí nguồn ngân sách từ nguồn trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏvà vừa; dành cho thực hiện đề án này.
180
4. Các Bộ: Công Thương, Kế hoạch và Đầu tư, Khoa học và Công nghệcăn cứ vào nhiệm vụ của Đề án xây dựng dự toán kinh phí hàng năm gửi Bộ Tàichính thẩm định để triển khai thực hiện theo quy định hiện hành.
5. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quanthuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trungương, Thủ trưởng các cơ quan có liên quan, trong phạm vi chức năng và nhiệmvụ của mình, chịu trách nhiệm hướng dẫn cụ thể và kiểm tra việc thực hiệnQuyết định này.
6. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, Hiệphội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam có trách nhiệm khẩn trương triển khaithực hiện các nội dung của Quyết định này
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.
Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quanthuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trungương và các cơ quan có liên quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định này./.
Nơi nhận:- Ban Bí thư Trung ương Đảng;- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;- VP BCĐ TW về phòng, chống tham nhũng;- HĐND, UBND các tỉnh, TP trực thuộc TW;- Văn phòng TW và các Ban của Đảng;- Văn phòng Tổng Bí thư;- Văn phòng Chủ tịch nước;- Hội đồng Dân tộc và các UB của Quốc hội;- Văn phòng Quốc hội;- Tòa án nhân dân tối cao;- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;- Kiểm toán Nhà nước;- UB Giám sát tài chính QG;- Ngân hàng Chính sách xã hội;- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;- Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;- Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp;- Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam;- Liên minh các HTX Việt Nam;- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTCP, CổngTTĐT, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo;- Lưu: Văn thư, ĐMDN (3b).
KT. THỦ TƯỚNGPHÓ THỦ TƯỚNG
(đã ký)
Hoàng Trung Hải
181
PHỤ LỤCMỘT SỐ NHIỆM VỤ, CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN PHỤC VỤ TRIỂN
KHAI ĐỀ ÁN: “TRỢ GIÚP PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀVỪA TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ”
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1556/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2012của Thủ tướng Chính phủ)
I. CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT DỰ KIẾN ĐƯỢC XÂY DỰNG VÀ ĐIỀUCHỈNH NHẦM HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ CHUNG VỀ PHÁTTRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
Tên của văn bản phápluật dự kiến điều chỉnh
Mục tiêu của cải cách; nộidung sửa đổi, bổ sung,giải quyết khó khăn nàocủa doanh nghiệp
Cơ quan chủ trì,thời gian thựchiện dự kiến
1. Quyết định số12/2011/QĐ-TTg ngày 24tháng 02 năm 2011 về pháttriển một số ngành Côngnghiệp hỗ trợ
Cập nhật, bổ sung theo cácyêu cầu của tình hình thựctế khi triển khai thực hiện
Bộ Công Thương;Văn phòng Chínhphủ
2. Quyết định 1483/QĐ-TTg ngày 26 tháng 8 năm2011 của Thủ tướng Chínhphủ về Danh mục sản phẩmCông nghiệp hỗ trợ ưu tiênphát triển
Cập nhật, bổ sung theo cácyêu cầu của tình hình thựctế khi triển khai thực hiện
Bộ Công Thương;Văn phòng Chínhphủ
II. CÁC CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI, KHUYẾN KHÍCH VÀ HỖ TRỢ DOANHNGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
Tên của chính sách, cơ chế ưuđãi, khuyến khích, hỗ trợdoanh nghiệp nhỏ và vừa
Mục tiêu của chính sách,cơ chế đề xuất nhằm giảiquyết khó khăn nào củadoanh nghiệp; nội dungchủ yếu của giải phápchính sách
Cơ quan chủtrì, thời gianthực hiện dựkiến
1. Khung chính sách và ưu đãidành cho các khu vực tập trung
Các mức ưu đãi về thuế, Bộ Kế hoạch vàĐầu tư; Văn
182
sản xuất công nghiệp hỗ trợ choDNNVV (khu công nghiệp hỗtrợ, khu công nghiệp chuyênsâu)
tiền thuê đất phòng Chínhphủ
2. Các quy định riêng về điềukiện vay vốn cho các doanhnghiệp nhỏ và vừa trong côngnghiệp hỗ trợ
Tăng khả năng tiếp cậnnguồn vốn vay
Ngân hàng Pháttriển Việt Nam
III. CÁC CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN TRỢ GIÚP DOANH NGHIỆP NHỎVÀ VỪA1. Chương trình phổ biến công nghệ kỹ thuật sản xuất công nghiệp hỗ trợ chodoanh nghiệp nhỏ và vừa
a Giới thiệu
Hệ thống doanh nghiệp Việt Nam trong nhiều năm vẫngiữ thói quen và quan điểm sản xuất trọn gói. Đây làchương trình làm quen và giới thiệu về một số quytrình công nghệ và yêu cầu kỹ thuật về sản xuất côngnghiệp hỗ trợ ở Việt Nam.
b Mục tiêu
Kêu gọi lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnhvực sản xuất quan tâm và có các hiểu biết nhất định vềcông nghệ kỹ thuật để có thể tham gia vào công nghiệphỗ trợ.Số lượng doanh nghiệp được tiếp cận: Khoảng 2.000doanh nghiệp
c Đối tượng Các doanh nghiệp nhỏ và vừa khá mạnh trong lĩnh vựccơ khí, điện - điện tử, nhựa - cao su...
dHoạt độngchính
- Phổ biến nhận thức về sản xuất công nghiệp hỗ trợ- Đào tạo các kiến thức liên quan đến quy trình sản xuấtcông nghiệp hỗ trợ, cơ chế hợp đồng, cách tiếp cậnkhách hàng, tiêu chuẩn hàng hoá công nghiệp hỗ trợ- Giới thiệu và phổ biến về một số quy trình công nghệvà yêu cầu kỹ thuật về sản xuất công nghiệp hỗ trợ ởViệt Nam- Toạ đàm với các nhà lắp ráp, các nhà cung ứng đãsản xuất công nghiệp hỗ trợ
183
đ Đơn vị chủ trìvà phối hợp
Bộ Công Thương; Bộ Khoa học và Công nghệ
e Thời gian Hàng năm, từ 2013 - 2020. Mỗi năm 3 khoá đào tạo,mỗi khoá kéo dài 1 tuần
gNgân sách dựkiến
10 tỉ VND
hNguồn ngânsách
Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia - Bộ Khoahọc và Công nghệ
2. Chương trình trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa trở thành nhà cung ứng chocác tập đoàn đa quốc gia trong lĩnh vực chế tạo ở Việt Nam
a Giới thiệu
Việc trở thành nhà cung ứng, tham gia vào mạng lướisản xuất của các tập đoàn đa quốc gia là quá trình rấtgian nan của doanh nghiệp nhỏ và vừa, đòi hỏi đáp ứngnhiều tiêu chuẩn của người mua. Các doanh nghiệp nhỏvà vừa chưa đủ mạnh rất khó thực hiện được.
b Mục tiêu
- Tạo ra các liên kết hiệu quả giữa doanh nghiệp nhỏ vàvừa với các tập đoàn lớn- 300 doanh nghiệp tham gia vào chương trình, 100doanh nghiệp trở thành nhà cung ứng
c Đối tượngDoanh nghiệp nhỏ và vừa trong các lĩnh vực sản xuất,đã đạt được trình độ và quy mô nhất định.
dHoạt độngchính
- Đánh giá năng lực doanh nghiệp nhỏ và vừa- Tạo kết nối với khách hàng là các tập đoàn đa quốc giahoặc các nhà cung ứng ở các lớp trên
- Tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật để doanh nghiệp nhỏ và vừađáp ứng các tiêu chuẩn đặt ra- Các tư vấn khác
đ Đơn vị chủ trìvà phối hợp
Bộ Công Thương; Bộ Kế hoạch và Đầu tư
e Thời gian 2013-2020
gNgân sách dựkiến
50 tỉ VND
184
hNguồn ngânsách
- Ngân sách trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa -Bộ Kế hoạch và Đầu tư- Hỗ trợ của các tập đoàn đa quốc gia
3. Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa áp dụng các hệ thống quản lýtrong sản xuất
a Giới thiệu
Việc áp dụng các hệ thống quản lý trong sản xuất, quản trị... là một đặc thù tiêu chuẩn của sản xuất Công nghiệp hỗtrợ, một trong các tiêu chí để trở thành nhà cung cấp củacác tập đoàn lớn. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất khóthực hiện các quy trình này tại doanh nghiệp của mình nếukhông có sự trợ giúp của các chuyên gia bên ngoài.
b Mục tiêu
Hỗ trợ, tư vấn doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực liênquan đến sản xuất Công nghiệp hỗ trợ thực hiện một số hệthống quản lý trong sản xuất
200 doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệphỗ trợ thực hiện thành công
c Đối tượng Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các lĩnh vực sản xuất, đãđạt được trình độ và quy mô nhất định.
dHoạt độngchính
- Đánh giá sơ lược doanh nghiệp nhỏ và vừa- Tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật để doanh nghiệp nhỏ và vừa thựchiện một số hệ thống quản lý trong sản xuất; các tư vấnkhác
- Tổ chức đánh giá công nhận chất lượng
đ Đơn vị chủtrì, phối hợp
Bộ Công Thương; Bộ Khoa học và Công nghệ (Văn phòngcông nhận chất lượng)
e Thời gian 2013-2020
gNgân sáchdự kiến
50 tỉ VND
hNguồn ngânsách
- Chương trình năng suất chất lượng - Bộ Khoa học vàCông nghệ
185
4. Chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnhvực công nghiệp hỗ trợ
a Giới thiệu
Nhân lực trong sản xuất công nghiệp hỗ trợ là một trongcác vấn đề khó khăn nhất của doanh nghiệp nhỏ và vừa.Đây là nguồn công nhân kỹ thuật có tay nghề cao, tiếp cậnvới hệ thống máy móc công nghệ mới hiện đại, ý thức sảnxuất công nghiệp cao.
b Mục tiêuXây dựng nguồn nhân lực kỹ thuật cho doanh nghiệp nhỏvà vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ Đào tạo 50.000công nhân kỹ thuật chất lượng cao cho công nghiệp hỗ trợ
c Đối tượng Các trường cao đẳng, dạy nghề của Bộ Công Thương
dHoạt độngchính
- Hỗ trợ kinh phí hàng năm để đào tạo 50.000 công nhân kỹthuật chất lượng cao cho công nghiệp hỗ trợ- Xây dựng chương trình đào tạo chất lượng cao cho côngnghiệp hỗ trợ tại một số trường- Xây dựng liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp có nhucầu về nhân lực kỹ thuật trong khu vực
đ Đơn vị chủtrì phối hợp
Bộ Công Thương; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội;
e Thời gian 2013-2015; 2016-2020
gNgân sáchdự kiến
50 tỉ VND
hNguồn ngânsách
- Sử dụng nguốn vốn vay ODA- Hỗ trợ của các tập đoàn đa quốc gia
5. Chương trình xây dựng cơ sở dữ liệu và website cung cấp thông tin về côngnghiệp hỗ trợ
a Giới thiệu
Thông tin về năng lực nội địa trong sản xuất công nghiệphỗ trợ ở Việt Nam là cản trở rất lớn để các nhà lắp ráp cóthể tìm kiếm khả năng nội địa hóa. Việc nắm vững thôngtin về nhu cầu và năng lực các ngành công nghiệp hỗ trợ,hỗ trợ hoạch định chính sách cho phát triển công nghiệphỗ trợ cũng như doanh nghiệp nhỏ và vừa
186
b Mục tiêuXây dựng cơ sở dữ liệu và website cung cấp thông tin vềdoanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗtrợ Cập nhật liên tục hàng năm đến năm 2020
c Đối tượngCác doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ, bao gồmcả nhà cung cấp (chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa) vànhà lắp ráp
dHoạt độngchính
- Kinh phí khảo sát doanh nghiệp và xây dựng cơ sở dữliệu ban đầu- Kinh phí thiết lập và duy trì website hàng năm- Kinh phí cập nhật thông tin hàng năm
đ Đơn vị chủ trìvà phối hợp
Bộ Công Thương; Bộ Khoa học và Công nghệ;
e Thời gian 2013 -2015; 2016-2020
gNgân sách dựkiến
20 tỉ VND
hNguồn ngânsách
Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia - Bộ Khoa họcvà Công nghệ