con cÁi chÚa cÓ nÊn tẬp yoga? - songdaoonline.com cai chua co nen … · cuộc nghiên cứu...
TRANSCRIPT
CON CÁI CHÚA CÓ NÊN TẬP YOGA?
Can Christian practice Yoga?
Mục Sư Ngô Việt Tân
Yoga đã hình thành tại Ấn Độ khoảng hơn 5,000 năm, là một
trong sáu hệ thống chính của triết học Ấn Độ. Yoga đã được truyền
tải vào Bắc Mỹ hơn 50 năm. Theo cuộc nghiên cứu năm 2012 của
Tạp chí Yoga Journal, Khoảng 20.4 triệu người Mỹ tức 8.7 phần
trăm dân số Mỹ luyện tập Yoga (so với 15.8 triệu người tập Yoga với
chi phí 5.7 tỷ Đôla năm 2008), với khoảng hơn 70,000 huấn luyện
viên tại 20,000 địa điểm. Những người tập Yoga này đã chi khoảng
$10.3 tỷ Đôla hằng năm cho các lớp luyện Yoga, các sản phẩm bao
gồm dụng cụ, quần áo, truyền thông, và chuyến nghĩ hè. Phong trào
tập thể thao Yoga đã phát triển nhanh chóng và trở nên phổ thông tại
Bắc Mỹ.
Cuộc nghiên cứu cho biết có khoảng 82.2 phần trăm phụ nữ
và 17.8 phần trăm tập Yoga và đa số (62.8 phần trăm) ở độ tuổi từ 18
đến 44 tuổi. Năm động lực thúc đẩy người tập Yoga là làm giảm
căng thẳng, tăng thể lực, sức khỏe tốt hơn, tinh thần năng động.
Khoảng 38.4 phần trăm tập Yoga dưới một năm, 28.9 phần trăm tập
từ một đến ba năm, và 32.7 phần trăm tập từ ba năm trở lên.
Vài thập niên qua, Yoga đã bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam.
Hiện nay, các trung tâm Yoga đã được hình thành phần lớn là tại
những thành phố lớn như: Hà Nội, Sài Gòn, Hội An, Đà Nẵng, và
một số thành thị khác. Yoga là phong trào thu hút các giới trung lưu
và tri thức trong xã hội Việt Nam.
Tại Hà Nội, các Trung tâm Yoga đang hoạt động như: Hệ
thống Raja Yoga có Trung Tâm Raja Yoga, Câu Lạc Bộ Hà Nội,
Trung tâm AD Yoga, Thiền Động Hà Nội . Tại Sài Gòn gồm có các
Câu Lạc Bộ Yoga Hoa Sen, Câu Lạc Bộ Yoga Nhà Văn Hóa Thanh
Niên, Trung tâm thiền và Yoga YMC, Trung tâm đào tạo Yoga
Living, Trung tâm Master Kamal;s Kryoga, Trung tâm Yoga World,
Câu Lạc Bộ Yoga 42, Trung Tâm Sivananda Yoga, và những điạ
điểm khác. Yoga còn được quảng bá qua các tour du lịch như Du
Lịch Yoga.
Từ ngữ “Yoga” phát nguồn từ trong tiếng Latin là “jungere”,
tiếng Pháp là “joindre”, tiếng Anh là “join”. Yoga trích từ chữ
“Sanskrit” means “yug” có nghĩa là buộc (buộc vào ách cổ bò -
yoke), là nối với, đạt tới, hay kết hợp.
Định nghĩa của từ Yoga theo triết lý của Ấn Độ Giáo:
a Hindu theistic philosophy teaching the suppression of all
activity of body, mind, and will in order that the self may
realize its distinction from them and attain liberation
(Merriam-Webster).
Yoga là trọng tâm tập luyện thiền đạo của Ấn Độ Giáo
(Hinduism). Tại Ấn Độ, Yoga là một cách sống, là đạo lý giúp
người tập Yoga trải nghiệm và hiểu bản thân mình hơn. Các động
tác của tay khi luyện tập Yoga (mudras in Hatha Yoga) đều cử động
theo các tượng thần của Ấn Độ Giáo (Hindu gods).
Định nghĩa về Yoga theo Quan Điểm Y Khoa:
a system of physical postures, breathing techniques, and
meditation derived from Yoga but often practiced
independently especially in Western cultures to promote
bodily or mental control and well-being
(Merriam-Webster).
Định nghĩa của Yoga theo Tự Điển Dictionary.com:
“a school of Hindu philosophy advocating and prescribing a
course of physical and mental disciplines for attaining
liberation from the material world and union of the self with
the Supreme Being or ultimate principle”.
“any of the methods or disciplines prescribed, especially a
series of postures and breathing exercises practiced to achieve
control of the body and mind, tranquillity, etc.”
“union of the self with the Supreme Being or ultimate
principle”.
(Dictionary.com)
Theo định nghĩa của Trường Phái Thiền (School of Yoga), từ ngữ
“Thiền” có nghĩa là:
Thiền là sự phó thác, không suy nghĩ, là phương tiện kết nối
chúng ta với chính bản thân chúng ta và với những năng
lượng kỳ diệu mà ta không thể nhìn thấy được. Thiền là cách
nuôi dưỡng tinh thần chúng ta. Đây chính là nhiên liệu để
nuôi lớn và làm giàu tinh thần, là nhân tố quyết định cho sự
phát triển của chúng ta. Nói một cách dễ hiểu hơn, Thiền
chính là sự kết nối của con người với đấng thiêng (Source:
thienyoga.com).
Patenjali là cha đẻ của Yoga với triết lý thiền giúp con người
thoát khổ và giải thoát trong khi viết cuốn sách Yoga- Sutra.
Patenjali đưa ra những pháp môn như:
Jana- Yoga : yoga chuyên về xuất hồn
Bhakti- Yoga: Yoga chuyên về tín ngưỡng
Karma- Yoga: Yoga chuyên về làm từ thiện
Hatha- Yoga : chuyên về sức khỏe
Thiền Yoga có khoảng 7 loại khác nhau:
1) Bhatki Yoga – Yoga Tỉnh tâm (Devotion)
“focuses on union between the individual and divine… helps
individuals escape the confines of the individuals ego and
allows them to become closer to the divine through a
realization of the universe’s intricacies”.
2) Hatha Yoga – Yoga
“focuses on readying the physical body for the spiritual
journey that ends with self-realization and cosmic
consciousness”.
3) Jnana Yoga – Yoga khôn ngoan (Wisdom)
“focuses on the attainment of knowledge…. Search their
being for self-understanding and self-discovery”.
4) Karma Yoga – Yoga hành động (Action)
“to improve the world around them and thereby improve their
internal world as well”.
5) Kundalini Yoga – “to work with and awaken their spiritual
energies… the practitioner learns to transcend the illusions
presented by everyday reality and to embrace a cosmic
understanding of the universe”.
6) Raja Yoga – “focuses on controlling one’s mind through
intense medication”.
7) Tantric Yoga – “to use multiple disciplines to derive an
understanding of the universe and the meanings for spiritual
existence”.
Kinh Yoga bao gồm trong Bát chi “Ashtanga Yoga”: 1) Giới
(Yama), 2) Giữ (Niyama), 3) Thế (Asana), 4) Điêù tức (Pranayama),
5) Thoái giác (Pratyahara), 6) Định thần (Dhyana), 7) Quán
(Dhyana), 8) Đại định (Samadhi).
(source: vietwellness.net).
Theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh, Thiền nghĩa là
yên lặng mà Đạo Phật lấy thanh tịnh làm gốc nên gọi là thiền gia.
Thiền định nghĩa là Thầy tu ngồi yên, chú tâm vào một chỗ mà ngẫm
nghĩ đạo lý mầu nhiệm.
Theo Wikipedia, Thiền Siêu Việt (tên tiếng Anh là
Transcendental Meditation viết tắt là TM[1]
) là kỹ thuật thiền
dùng mantra luyện trí não làm tâm trí lắng đọng tới tầng thâm
sâu nhất trong tiềm thức của con người nhằm phát huy toàn
bộ tiềm năng của não. Bên cạnh đó vì bộ não và cơ thể có
mối liên hệ mật thiết với nhau nên trong quá trình tâm trí tĩnh
lặng và lắng xuống tầng thâm sâu hơn và khi đạt đến trạng
thái tĩnh lặng nhất thì cơ thể đạt tới trạng thái nghỉ ngơi sâu
nhất.[2]
(http://vi.wikipedia.org/wiki)
Thiền Yoga của truyền thống Hy Mã Lạp Sơn là toàn
diện trong đó nó không chỉ đề hệ thống với tất cả các
cấp, mà còn liên quan đến một phạm vi rộng của thực
tiễn, bao gồm chiêm niệm, thiền định, cầu nguyện,
và thần chú, cũng như các thực hành chuẩn bị cho
những. Yoga Thiền cũng khám phá tất cả các cấp độ
của thực tế và tự xây dựng, bao gồm cả tổng
(vaishvanara), tinh tế (taijasa), nhân quả (prajna), và
tuyệt đối (turiya), như được phản ánh trong OM
Mantra. Cuối cùng, Thiền Yoga dẫn một kinh nghiệm
trực tiếp, tuyệt đối trung tâm tinh khiết vĩnh cửu, của
ý thức. (http://www.anyoga.vn/vi/khoa-
hoc/meditation-yoga)
Một bài viết do Fitness Center trong website
http://www.bfitnesscenter.com luận giải ý niệm về Yoga như
sau:
Yoga là gì? Yoga có nguồn gốc ở Ấn Độ và lưu hành khắp
thế giới. Yoga là một môn nghệ thuật cổ xưa có nền tảng là
một môn khoa học cực kỳ tinh tế nghiên cứu về thể xác, tâm
trí và tinh thần.
Thiền là gì? Theo thuật ngữ Yoga, Thiền được gọi là
“Dhyana” nghiã là “dòng chảy của tâm trí”. Đây là một trạng
thái tinh khiết và tập trung cao độ khi tâm trí xuôi chảy không
gì ngăn trở , hoàn toàn đắm mình trong ý nghĩ về Ý Thức Vũ
Trụ.
Thiền dành cho tâm trí, Yoga dành cho thân thể. Để bằt đầu
học tĩnh tâm thì khó vì trong lòng người thường bị ngổn
ngang những lo tính của công việc và đời thường. Do đó thiền
đã kết hợp với Yoga, lấy Yoga để khởi động cho thân thể
sảng khoái, như bước đệm để vào thiền.
Danh từ “Thiền” trong ngôn ngữ bình thường có thể ám chỉ
một kĩ thuật hay phương pháp. Phương pháp hay kĩ thuật là để chuẩn
bị cho giai đoạn trước thiền.
Thiền của Đạo Phật nguyên thủy
Gồm có ba kỹ thuật chính là Thiền Chánh Niệm(
satibhavana), Thiền Định (samathabhavana) và Thiền Tuệ
Quán (vipassanabhavana). Thiền Chánh Niệm là phương
pháp giữ Niệm (sati) trên bốn lãnh vực, gồm thân thể, cảm
giác, tâm và đối tượng của tâm (tứ niệm xứ).
(source: http://bsphamdoan.wordpress.com/tham-khảo-
references/thiền-la-gi)
Thiền của Phật giáo đại thừa (còn gọi là Phật Giáo phát
triển)
“Khi Đạo Phật không còn nguyên thủy và “phát triển” thành
Đại thừa, thiền cũng thay đổi và biến tướng khác đi. Samadhi
của Phật Giáo Đại Thừa có nhiều loại, mỗi loại có một lợi ích
riêng và mỗi loại đều có một tên gọi rất là dài. Trong
Mahavyutpattit (Phiên dịch Danh Nghĩa Đại tâp) chương 21
có liệt kê 118 loại Định (samadhi). Sự “phát triển” của Phật
Giáo đã biến đổi một pháp thiền định duy nhất (Jhana) được
mô tả trong kinh điển nguyên thủy (suttas) thành vô số các
loại định, rồi thậm chí thành những loại “giống như “chánh
niệm”, đó là “niệm Phật” hoặc “niệm chú”.
(source: http://bsphamdoan.wordpress.com/tham-khảo-
references/thiền-la-gi)
Thiền của Thiền tông Trung Quốc hay Zen của Nhật Bản
“Thiền của Thiền tông được cho là nhắm vào mục đích kiến
tánh để đốn ngộ, cho nên phương pháp của nó là một đặc thù.
Đây có thể là “quán công án” hoặc “khán thoại đầu”, cho nên
nó có thể thực hiện ở bất cứ tư thế nào, hay ở bất cứ nơi
đâu… Mục đích trong các phương pháp của Thiền tông là
nhằm phá hủy các khái niệm và ngôn ngữ hình thức, vốn
được cho rằng không thể chuyên chở được nội dung của thực
tại, trái lại còn bóp méo thực tại tuyệt đối. Truyền thống này
khiến ngôn ngữ của Thiền tông thường khó hiểu và lập dị đối
với lí trí bình thường”.
(source: http://bsphamdoan.wordpress.com/tham-khảo-
references/thiền-la-gi)
Thiền của Yoga và các giáo phái Bà La Môn khác
“Yoga: Đạo Phật xuất phát từ minh triết của Ấn độ. Thiền
Định trong đạo Phật cũng đã bắt nguồn từ Yoga. Thời đó
Yoga là một trong sáu phái triết học nổi tiếng của Ấn độ.
Yoga có những tông phái thực hành thiền để đạt cứu cánh giải
thoát (Giải thoát theo quan điểm Hindouism). Pantajali là
người có công biên tập tất cả tài liệu về Yoga trong giai đoạn
từ thế kỉ thứ 05 đến thế kỉ thứ 03 trước công nguyên. Bây giờ
khi nói đến thiền, cũng có rất nhiều người liên tưởng đến
những phương pháp Yoga. Ngoài yoga rèn luyện khí lực và
cơ thể vật chất là Hatha yoga, còn có Yoga luyện tâm, đó là
Rahja yoga. Rahja yoga quan niệm Vật chất không thể tách
rời Ý thức hay ngược lại. Tâm và Vật là một thực tại thống
nhất, không thể tách rời. Sự tiến hóa của tâm tất yếu phải đi
liền với sự thay đổi khí lực tức năng lượng cơ thể và ngược
lại. Từ Rajha yoga phát sinh rất nhiều kĩ thuật Yoga khác
như: Kundalini yoga, Transcendental yoga, Kriya yoga
v.v…Tất cả những phương pháp này có thể gọi là thiền của
yoga”.
“ Pháp Luân Công : một phong trào đang khởi dậy tại Trung
Quốc cũng là một loại Thiền dựa trên sự luyện tập để phát
triển Khí lực bên trong”.
“Surat Shab yoga tức San Mat, một giáo phái bí mật
(esoteric) thuộc về Đạo Sikhism đang trở thành “hiện tượng”
trong cộng đồng người Việt trong ba thập niên trở lại đây . –
Phong trào San Mat tại Việt Nam được phổ biến bởi Thanh
Hải Vô Thượng sư (một phụ nữ Việt) còn gọi là master Ching
Hai…. Thiền Thanh Hải, cũng giống như các giáo phái Bà
La Môn khác, coi sự chứng đắc “thiền định” cũng là cứu
cánh cuối cùng”.
(source: http://bsphamdoan.wordpress.com/tham-khảo-
references/thiền-la-gi)
Thiền của Kim Cương thừa (Mật tông Phật giáo)
“Mật tông Phật giáo bắt đầu ở Ấn độ, nhưng lại chỉ phát triển
ở Tây Tạng, nên nói đến Mật tông Phật giáo là nói đến Mật
tông Tây Tạng. Mật tông Tây Tạng chú trọng đến thiến quán
hơn thiền định (có thể tham khảo cuốn Giải thoát trong lòng
bàn tay của Papongka do sư cô Trí Hải dịch). Thiền của Mật
tông hiển nhiên được phát triển trên nền minh triết của Yoga
hình thành trước đó. Mật tông dùng thiền quán đối với Chơn
ngôn (darani), Mandala, Linh phù (yantra), các vị hóa thần
(Yidam). Một trong những đối tượng quán của thiền Mật
tông là Kundalini. Có lẽ Kundalini yoga là của Yoga Ấn giáo
hơn là của Mật tông Phật giáo! Mật tông dùng thiền quán về
luồng hỏa xà Kundalini (tummo) làm một trong những
phương tiện để chuyển hóa tâm thức. Sáu pháp của Naropa,
đạo sư Mật tông, được gọi là sáu yogas (six yogas of Naropa).
Đến đây, ta thấy được mối quan hệ sâu sắc giữa Mật Tông
với Yoga, đồng thời cũng thấy rõ sự khác biệt giữa thiền của
Mật Tông và các loại thiền của Đạo Phật nguyên thủy . Ta
cũng thấy rằng thiền chỉ là phương tiện của nhiều con đường
khác biệt nhau”.
(source: http://bsphamdoan.wordpress.com/tham-khảo-
references/thiền-la-gi)
Thiền của Lão giáo
“Còn gọi là thiền của Đạo gia, hoặc cũng có khi gọi thẳng là
Đạo gia khí công. Vì sao lại có thể gọi thiền là khí công? Vì
bản chất của khí công cũng là thiền quán trên một đối tượng
cơ thể, đó là luồng khí lực. Thiền của Lão giáo nhắm vào khai
thông các kinh huyệt chính như Nhâm và Đốc, khai thông
luồng hỏa hầu… Công phu thiền của Lão giáo đưa đến khai
mở Huyền quan khiếu, thành tựu thánh thai… Ta thấy có sự
tương đồng trùng khít giữa thiền của Lão giáo với thiền của
Yoga hay thiền của Mật tông, trên một nguyên lý: Chuyển đổi
của tâm phải bắt đầu bằng sự chuyển đổi khí lực của cơ thể.
Dĩ nhiên đây không phải là chủ nghĩa duy vật mà chỉ là duy
“Một”. Cái Một không thể tách rời thành hai “tâm” và “vật”.
(source: http://bsphamdoan.wordpress.com/tham-khảo-
references/thiền-la-gi)
Phong trào tập luyện Yoga khiến nhiều nhà lãnh đạo Cơ-đốc
quan tâm và bàn thảo cũng như đưa ra nhiều quan điểm khác nhau.
Tiến sĩ R. Albert Mohler, Viện Trưởng Chủng Viện Southern Baptist
Theological Seminary chia xẻ rằng “Christians who practice yoga
are embracing, or at minimum flirting with, a spiritual practice that
threatens to transform their own spiritual lives into a post-
Christian, spirituality polyglot reality”. Tiến Sĩ Mohler bày tỏ quan
ngại sự ve vãn hay đùa giỡn với thế giới quyền lực tối tăm chính là
mối đe dọa đến sự hình thành tâm linh và biến đổi tâm linh. Bởi vì
sự tập luyện yoga không chỉ đơn giản là sự luyện tập thể xác, mà còn
ảnh hưởng đến lối sống và giáo lý của Hồi Giáo. Một số Cơ đốc nhân
quan tâm rằng sự tập luyện yoga sẽ có nguy cô dẫn tới sự nhằm lẫn
về quan điểm thần học.
SỰ DẠY DỖ CỦA YOGA MÂU THUẨN VỚI SỰ DẠY DỖ
CỦA KINH THÁNH
1. Ân quản Cơ đốc về Thân thể
(Christian Stewardship of Body)
Thánh Kinh dạy rằng mỗi con dân Chúa phải bảo quản thân
thể và sức khoẻ, bởi vì “thân thể mình là đền thờ của Đức Thánh
Linh đang ở trong anh chị em… hãy lấy thân thể mình mà tôn
vinh Đức Chúa Trời ” (1 Côrinhtô 6:19,20). Một số con dân Chúa
quan niệm rằng họ chỉ chủ trương tập luyện thể xác qua phương cách
của Yoga, chứ không đá động gì tới vấn đền niềm tin tôn giáo.
Sự tập luyện Yoga không chỉ đơn thuần là ích lợi cho tập
luyện thể lực, mà cơ nguy nhầm lẫn và gây cớ vấp phạm có thể xảy
ra cho những con dân chưa hiểu biết sâu nhiệm trong lời Chúa hay
đặc biệt là tân tín hữu. Thánh Phao-lô khuyên nhu rằng “Nhưng hãy
cẩn thận, đừng để quyền tự do của anh chị em gây cho những
người yếu đức tin vấp phạm” (1 Côrinhtô 8:9). Hay “làm tổn
thương lương tâm yếu kém của họ, anh chị em cũng phạm tội cùng
Chúa Cứu Thế” (1 Côrinhtô 8:12). Tập luyện yoga là lợi ích sức
khỏe cho cá nhân mình, nhưng có thể gây nguy cơ cho anh chị em
khác; vì thế, Thánh Phao-lô khuyên “Đừng tìm kiếm lợi riêng cho
mình nhưng hãy tìm lợi cho người khác nữa” (1 Côrinhtô 10:24).
2. Ân quản Cơ đốc về Tâm trí
(Chrsitian Stewardship of Mind)
Yoga của triết lý của Ấn Độ Giáo dạy:
1) Tập trung về chính con người cá nhân thay vì hướng về Đức
Chúa Trời chân thật.
2) Tìm kiếm câu trả lời cho những khó khăn cuộc sống từ lương
tâm thay vì tìm kiếm câu trả lời từ lời Chúa dạy trong Kinh
Thánh.
Sự luyện tập Yoga được xem như là Khoa học Ấn Độ giáo
dạy dỗ phương cách kết hợp giữa linh hồn của người tập
Yoga với bao gồm 3 phần:
1) Tập luyện thể xác (The physical exercise)
2) Thiền tỉnh tâm (The mental meditation)
3) Đọc kinh (the verbal chanting).
Trong phương cách Tỉnh tâm (The mental meditation) của
yoga, triết lý yoga dạy rằng người tu luyện yoga phải tập trung tâm
trí hầu đạt tới trạng thái trống rỗng (to empty their minds) trước khi
tập thiền. Sự dạy dỗ này đã mưu thuẫn với nguyên tắc của Thánh
Kinh. Con dân Chúa cần phải tiếp nhận lời Chúa, quyền năng Thánh
Linh, ân điển của Đức Chúa Trời hầu sống đạo cách hiệu quả và tâm
linh tăng trưởng.
Muốn đạt được nếp sống thánh thiện, Sứ đồ Phê-rơ khuyên
con dân Chúa “hãy chuẩn bị tâm trí, bình tĩnh, đặt sự hy vọng
hoàn toàn vào ân sủng sẽ được ban cho anh chị em trong ngày
Chúa Cứu Thế Giê-su hiện ra” (1 Phê-rơ 1:13). Tại sao Thánh
Kinh lại khuyên dạy là Tâm trí của người theo Chúa cần được thánh
hóa và đổi mới mỗi ngày (Rôma 12:2)? Để trở nên giống Chúa càng
hơn, mỗi tín nhân cần trau dồi một tâm trí khôn ngoan và thành nhơn.
“Vì thế, đức tin anh chị em không xây dựng trên sự khôn ngoan
loài người, nhưng trên quyền năng Đức Chúa Trời” (1 Côrinhtô
2:5).
Nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa quang lâm, Sứ đồ Phê-rơ nhắn
nhũ “Sự cuối cùng của muôn vật đã gần. Vậy hãy có một tâm trí
sáng suốt và tự chủ để cầu nguyện” (1 Phê-rơ 4:7). Muốn được đổi
mới tâm trí, con dân Chúa phải “lột bỏ con người củ theo lối sống
trước đây… Hãy để Chúa đổi mới tâm linh và tâm trí anh chị em.
Hãy mặc lấy con người mới giống như hình ảnh Đức Chúa Trời”
(Êphêsô 4:22-24a).
3. Ân Quản Cơ đốc về Tâm linh
(Chrsitian Stewardship of Spirit)
Linh hồn và tâm linh của con dân Chúa là món quà do Thiên
Chúa kiến tạo cho mục đích thờ phượng Chúa qua sự ca ngợi, suy
niệm, cầu nguyện, và tương giao cùng Ngài. Một trong mười điêù
răn ghi lại là con người được kêu gọi chỉ thờ phượng một Đức Chúa
Trời Chân Thật và chỉ phục vụ một mình Ngài.
a) Ca ngợi Chúa (Praise God)
“Môi miệng tôi sẽ tuôn tràn lời ca ngợi Vì Chúa đã dạy
tôi các qui luật Ngài. Lưỡi tôi sẽ ca hát lời Chúa. V ì
mọi điêù răn Chúa đêù công chính ” (Thánh thi
119:171-172)
“Xin cho tôi sống để linh hồn tôi ca tụng Chúa…”
(Thánh thi 119:175).
b) Suy gẫm lời Chúa (Meditate God’s Word)
Theo Tự điển The New Lexicon Websters’s Dictionary Of
The English Language, động từ “meditate – suy nghĩ, ngẫm nghĩ,
suy tưởng, mặc niệm” nghiã là “to reflect deeply, to spend time in
the spiritual exercise of thinking about some religious theme” –
“mặc ni ệm sâu sắc, dành thời gian để tập luyện lối suy nghĩ về
những đề tài tôn giáo”.
Đời sống tương giao cùng Chúa không chỉ ca ngợi Ngài, tôn
cao Danh Hiệu Ngài, cảm tạ quyền năng siêu việt của Ngài, mà Con
dân Chúa cần đọc và suy gẫm lời Chúa cách có hệ thống Thần Học,
khôn ngoan, cẩn thận, sâu nhiệm, dầm thấm nhằm đưa vào lối sống
năng động thực tiễn tăng trưởng theo ảnh tượng của Chúa Cứu Thế.
Thánh Kinh dạy chún g ta hãy suy gẫm lời với thái độ tích cực,
tâm tình trân quý, và lối sống năng động:
a) Hãy đọc và suy gẫm lời Chúa với lòng vui mừng (Thánh
thi 119:162)
b) Hãy đọc và suy gẫm lời Chúa với niềm hy vọng (Thánh thi
119:147)
c) Hãy đọc và suy gẫm lời Chúa với lòng ước mong hiểu
biết (Th ánh thi 119:125)
d) Hãy đọc và suy gẫm lời Chúa với lòng yêu mến các điêù
răn của Ngài (Thánh thi 119:127)
e) Hãy đọc và suy gẫm lời Chúa mỗi ngày (Thánh thi 119:97)
f) Hãy đọc và suy gẫm lời Chúa để “giúp tôi khôn ngoan
hơn” (Thánh thi 119:98)
g) Hãy đọc và suy gẫm lời Chúa để định hướng đời linh
(Thánh thi 119:105)
h) Hãy đọc và suy gẫm lời Chúa để được hưng phấn tâm
linh (Thánh thi 119:25)
i) Hãy đọc và suy gẫm lời Chúa để “không phạm tội cùng
Chúa (Thánh thi 119:11).
j) Hãy đọc và suy gẫm lời Chúa để được phước (Thánh thi
119:1-2)
Lời Thánh Kinh cũng khuyên dạy thế nào mỗi con dân Chúa
hãy chuyên tâm học tập, suy niệm, và thực hành điêù răn Chúa dạy
qua các câu Kinh Thánh như: Thánh thi 1:1-3; Thánh thi 63:6;
Thánh thi 119:15; Thánh thi 119:23; Thánh thi 119:27; Thánh thi
119:48; Thánh thi 119:97; Phi-líp 4:8.
c) Cầu nguyện (Prayer).
Để đối diện với những tiên tri giả, Giu-Đe khuyên “… hãy
gây dựng lẫn nhau trong đức tin rất thánh. Hãy cầu nguyện trong
Đức Thánh Linh” (Giu-Đe 20). Sự cầu nguyện là một trong những
kỷ luật tâm linh (spiritual disciplines) mà con dân Chúa cần trau dồi
trong nếp sống tương giao cùng Chúa thường xuyên.
Kết Luận
Mỗi Cơ-đốc-nhân cần đặt câu hỏi cho chính mình. Sự tập
luyện Yoga có phải là một phương cách tập luyện giúp bổ ích không
những thể xác, nhưng kiến tạo môi trường tăng trưởng tâm linh lành
mạnh cho mình và người khác? Thánh Phao lô cũng nhắc nhỡ “Tôi
được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi việc điêù có ích.
Mọi sự tôi được phép làm, nhưng tôi sẽ không để bị nô lệ cho điều
gì cả” (1 Côrinhtô 6:12).
Điều gì đã ghì kéo chúng ta lại phía sau thay vì phải tấn tới
trong sư bươn tới vương quốc của Đức Chúa Trời mà chính Ngài đã
dạy bảo và mong đợi? Điêù căng thẳng nào, sợ hãi nào, hay những
áp lực nào khiến chúng ta bị phân tâm mà quên lãng sứ mạng Chúa
Cứu Thế kêu gọi chúng ta? Nhằm đối diện và giải quyết nhiều nan
đề và thách thức trong đời sống, Lời Chúa là bí quyết giúp chúng ta
nhập trình đúng theo định hướng thuộc linh, là quyền năng giúp
chúng ta đạt mức thành công và đắc thắng mọi trở lực trong cuộc
sống, và là sức mạnh giúp chúng ta kiến tạo sự chữa lành tâm hồn và
hưng phấn tâm linh.
Hãy sống như người trưởng thành tâm linh. Nguyện xin Chúa
ban ơn khôn ngoan soi dẫn chúng ta lánh xa mọi điêù gì tựa như điêù
ác, nhưng hãy thực hành “điêù tốt lành và lợi ích cho mọi người”
(Tích 3:8) Amen!