cong tac xa hoi voi tre em
DESCRIPTION
Sách về công tác xã hội với trẻ emTRANSCRIPT
1
ĐẠI HỌC MỞ BÁN CÔNG TP. HCM Khoa Xã hội học
CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM
VÀ GIA ĐÌNH
ThS Nguyễn Ngọc Lâm biên tập
Năm 2005
2
MỤC LỤC
Dẫn nhập – Mục tiêu môn học
Phần 1 : Khái niệm và sự hình thành công tác xã hội với trẻ em
và gia đình
1. Khái niệm Công tác xã hội với trẻ em và gia đình
2. Sự hình thành công tác xã hội với trẻ em và gia đình
Phần 2 : Bối cảnh công tác xã hội với trẻ em
1. Chính sách chăm sóc trẻ em, quyền trẻ em và đạo luật trẻ em
2. Chế độ gia trưởng và bảo vệ trẻ em của các nước phương Tây
Phần 3 : Tiến trình phát triển tuổi thơ
1. Sự phát triển ở trẻ em là gì ?
2. Trẻ em ở giai đoạn tiền học đường
3. Trẻ ở tuổi đi học
4. Tuổi thanh thiếu niên
Phần 4 : Trẻ em, gia đình và các nhu cầu đặc biệt
1. Nhận biết nhu cầu của trẻ
2. Các phương diện đa dạng của sự phát triển ở trẻ em
Phần 5 : Công tác xã hội với gia đình
1. Làm việc với gia đình như là một nhóm nhỏ
2. Sự rối loạn trong vai trò làm cha mẹ
3. Vấn đề của gia đình
4. Chu kỳ sống của gia đình
5. Một số vấn đề của trẻ trong gia đình
Phần 6 : Tiến trình công tác xã hội với trẻ em và gia đình
1. Tìm hiểu trẻ và gia đình của trẻ
2. Các bước tìm hiểu trẻ và gia đình của trẻ
3. Các nguyên tắc hành động trong công tác xã hội
với trẻ em và gia đình
Kết luận – Phụ lục
3
DẪN NHẬP
MỤC TIÊU CỦA MÔN HỌC
Công tác xã hội với trẻ em và gia đình là một bộ phận trong ngành công tác
xã hội chuyên nghiệp. Nó được hình thành trong bối cảnh mạng lưới phát triển của
hệ thống an sinh xã hội nói chung và an sinh nhi đồng và gia đình nói riêng.
Môn học này sẽ cung ứng một số hướng dẫn về lý thuyết và thực hành để
nhân viên xã hội có được ý nghĩa rõ ràng về :
• Nhân viên xã hội cần biết gì trước khi làm việc với trẻ em.
• Nhân viên xã hội cần biết gì trước khi làm việc với đứa trẻ đặc biệt trong những
hoàn cảnh đặc biệt này.
• Nhân viên xã hội và trẻ có thể cùng làm gì với nhau.
• Làm thế nào để trở thành người làm việc tốt hơn với trẻ.
• Quan điểm lịch sử về mối quan hệ giữa trẻ em, gia đình và quốc gia. Sự phân
tích về bản chất của dịch vụ an sinh của đứa trẻ mô tả phong trào từ sự cứu vớt
đứa trẻ cho đến quyền trẻ em và những bình luận về lịch sử thực hành công tác
xã hội chăm sóc trẻ em trong công tác với trẻ em.
• Những nguyên tắc, kỹ năng cơ bản và kỹ thuật làm việc với trẻ em có thể ứng
dụng rộng rãi trong nhiều tình huống công tác xã hội.
• Vai trò của công tác xã hội với trẻ em có nhu cầu và trẻ em cần được bảo vệ.
Công tác với trẻ em là một phần của mạng lưới phức tạp về hoạt động công tác
xã hội liên quan tới mạng lưới của nhân viên chuyên nghiệp và các gia đình có
con.
• Đối với những trẻ em không còn sống với gia đình và được chính quyền địa
phương chăm sóc tại trung tâm nuôi dưỡng hay nhà nuôi hộ, nhu cầu đối với
4
đứa trẻ hiểu về sự mất mát của trẻ và tham gia vào các kế hoạch tương lai sẽ có
tác động quan trọng đối với trọng tâm công tác.
• Phương pháp và kỹ năng liên quan để làm việc với trẻ em được chăm sóc.
5
PHẦN MỘT♣
Khái niệm và sự hình thành
Công tác xã hội với trẻ em và gia đình
1. Khái niệm “Công tác xã hội với trẻ em và gia đình”
Công tác xã hội với trẻ em và gia đình là một phần trong các lãnh vực chuyên
biệt của ngành công tác xã hội với mục tiêu đem lại sự hỗ trợ cho trẻ em trong hoàn
cảnh khó khăn, giúp bảo vệ trẻ em và gia đình và góp phần vào nền an sinh cho trẻ
em và gia đình.
Công việc của Công tác xã hội là huy động các nguồn lực giúp đỡ gia đình
thực hiện vai trò trong khả năng giới hạn của họ. Theo Beatrice Pompy, nhân viên xã
hội có trách nhiệm xác định những rối loạn của trẻ, của cha mẹ, đánh giá cho được
khả năng và hạn chế của họ và qua đó, nhân viên xã hội phải làm việc bằng các giác
quan, trực giác, bằng quan sát cá nhân, với sự hiểu biết và kinh nghiệm trong quá
trình nghề nghiệp, về nhận thức vấn đề. Nhân viên xã hội khi can thiệp giúp đỡ trẻ
em và gia đình trẻ có vấn đề thường mang theo những quá khứ thời thơ ấu xa xưa
của mình , tình cảm, cảm xúc riêng tư của mình bên cạnh những kỹ năng chuyên
nghiệp. Vì thế mà công tác xã hội với nói chung và công tác xã hội với trẻ em và gia
đình nói riêng là một công tác vô cùng khó khăn, một công tác đòi hỏi phải luôn
được đào tạo mỗi khi tiếp xúc với đối tượng.
1. Công tác xã hội với trẻ em
Công tác xã hội với trẻ em bao gồm những nội dung như sau :
♣ D ựa theo”Social Work with children c ủa Marian Brandon, Gillian Schofield v à Liz Trinder, Mac. Press LTD, 1998
6
- Các chức năng của công tác xã hội và các nhu cầu đặc biệt của trẻ em : trị
liệu, hỗ trợ, phục hồi, bảo vệ liên quan đến trẻ em có nhu cầu đặc biệt.
- Các lãnh vực thực thi công tác xã hội với trẻ : cộng đồng, trường học, bệnh
viện, các cơ sở xã hội.
- Các vai trò của nhân viên xã hội trong công tác xã hội với trẻ em
2. Công tác xã hội với gia đình
Công tác xã hội với trẻ em được thực thi trong bối cảnh gia đình, môi
trường sống toàn diện của trẻ, do đó công tác xã hội với gia đình gắn bó chặt
chẻ với các vấn đề của trẻ em:
- Thực hành công tác xã hội lấy gia đình làm trọng tâm : con người
trong bối cảnh toàn diện ( môi trường sống ).
- Công tác xã hội trước các vấn đề của gia đình : Gia đình đơn thân,
gia đình bạo lực, gia đình tội phạm, gia đình lạm dụng trẻ em..
- Các vai trò của nhân viên xã hội trong các dịch vụ gia đình.
- An sinh nhi đồng và gia đình.
2. SỰ HÌNH THÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM VÀ GIA ĐÌNH
Làm việc với trẻ em có thể là một thách thức lớn nhất nhưng cũng là phần
thưởng xứng đáng nhất của vai trò nhân viên xã hội trong lĩnh vực an sinh nhi đồng.
Làm việc với trẻ em bao gồm mối quan hệ trực diện khi nhân viên xã hội ở bên cạnh
trẻ, lắng nghe trẻ bày tỏ ý kiến và cảm xúc, tìm cách trao đổi phù hợp và tôn trọng
trẻ, và lôi kéo trẻ tham gia đầy đủ vào những quyết định cần thiết có ảnh hưởng đến
trẻ. Làm việc với trẻ em cần đến khả năng lắng nghe mà không bị tràn ngập bởi cảm
xúc và tạo mối quan hệ với trẻ em dễ bị tổn thương lẫn thù hằn hoặc là đa nghi. Nó
có thể liên quan tới việc quan sát một trẻ bé có những quan tâm về ai, dùng những
vật liệu vui chơi với một trẻ khuyết tật ở tuổi tiền học đường, làm tác phẩm truyện kể
về cuộc đời cùng với trẻ được chăm sóc ở gia đình nuôi tạm hay tham vấn cho một
trẻ gái trẻ có thai. Những công việc như thế chắc chắn rất là đòi hỏi tài nguyên
chuyên nghiệp lẫn cá nhân của người nhân viên xã hội. Nó cũng đòi hỏi kiến thức,
7
kỹ năng, và một bối cảnh cơ quan ủng hộ nó. Mặc dầu có nhiều cách mà trong đó
nhân viên xã hội làm việc vì trẻ em hay nhân danh trẻ em một cách phù hợp nhưng
những cách này sẽ không là trọng tâm chính của quyển sách này. Thay vào đó nhân
viên xã hội cần tập trung vào tiềm năng rộng lớn hơn để làm việc với trẻ. Điểm khởi
đầu phải là cái nguyên tắc như nữ thẩm phán Elizabeth Butler-Sloss đã nói là trẻ em
phải được đối xử như là “con người” chứ không phải như là “đối tượng của sự quan
tâm”. (HMSO, 1988) 1
Sự cam kết chuyên nghiệp đối với công tác trực tiếp với trẻ em được củng cố
bằng cả Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em và Đạo luật về Trẻ em năm 1989. Trẻ
em không những có quyền được bảo vệ về an sinh mà còn có quyền có ý kiến và kể
cả có ước mơ và cảm xúc. Quyền an sinh và quyền có tiếng nói cũng không thể đạt
được do trẻ em nếu không có sự dấn thân và cam kết của người lớn. Đối với trẻ em
cần sự bảo vệ được chuyển tới sở dịch vụ xã hội thì chính người nhân viên xã hội
phải có trách nhiệm để đảm bảo rằng cả sự an sinh của trẻ phải được bảo vệ và tiếng
nói của trẻ phải được lắng nghe. Nhân viên xã hội sẽ biện luận rằng hai điều này
không thể tách rời nhau. Tuy nhiên, nhiều nhiệm vụ quan trọng đang cạnh tranh để
dành tài nguyên giới hạn đó - thời gian của nhân viên xã hội - và công tác xã hội với
trẻ em rất dễ bị bỏ quên hoặc là có thứ tự ưu tiên thấp. Như vậy điều cần thiết là có
sự quan tâm tỉ mỉ đến những cách định nghĩa và bảo vệ các nguyên tắc và thực hành
công tác với trẻ em.
Nếu nhân viên xã hội bắt đầu từ khởi điểm thì một số tranh luận chủ yếu để ủng
hộ công tác với trẻ em đáng được trình bày :
• Cũng giống như người lớn, trẻ em có quyền và nhu cầu có quan điểm và cảm xúc
được người lớn lắng nghe và đối xử với sự tôn trọng. Trẻ cần được trò chuyện
với người lớn mà các trẻ tin tưởng.
1 HMSO (1988) Báo cáo về cuộc điều tra về nạn ngược đãi trẻ em ở Cleveland, Com 412, (Luân Đôn : HMSO)
8
• Chính trẻ em nói rằng chúng muốn có cơ hội để có tiếng nói.
• Nếu trẻ em có thể trao đổi với nhân viên xã hội thì nhân viên xã hội sẽ trở nên
hiểu biết hơn về kinh nghiệm và cái nhìn của trẻ về thế giới của trẻ. Đây là một
khởi điểm cho bất kỳ sự đánh giá hay can thiệp nào trong đời sống của một đứa
trẻ.
• Trẻ em đã trải qua sự chia lìa và mất mát, ngược đãi hay thiếu chăm sóc, hay
không được lớn lên trong gia đình riêng của mình có thể cần sự giúp đỡ thêm của
nhân viên xã hội để hiểu được cái gì đã xảy ra với chúng. Hầu hết trẻ em này
cũng sẽ cần được hỗ trợ tình cảm để quen với những kinh nghiệm như thế.
• Trẻ em có khó khăn trầm trọng trong cuộc sống, thí dụ như dính líu tới phạm
pháp hay dùng thuốc sai lầm cần biết rằng có người sẵn sàng để gặp trẻ trò
chuyện và lắng nghe.
• Trẻ em cần phát triển lòng tự trọng và sự hiểu biết về phẩm chất. Trẻ em cần phải
biết rằng quan điểm của chúng phải được biết đến khi lấy quyết định.
• Trong một thế giới phức tạp, một số trẻ em cần đến những người lớn nhiệt tình và
có kỹ năng để biện hộ cho các trẻ.
Không phải tất cả công việc này có thể hoặc phải được nhân viên xã hội thực
hiện trong mọi trường hợp. Một số trẻ sẽ đến với nhân viên chăm sóc nuôi hộ; số
khác có thể cần đến sự giúp đỡ chuyên môn của những nhân viên chuyên nghiệp
khác như nhà trị liệu tâm lý hay nhà tâm lý học. Tuy nhiên, tất cả trẻ em đều sẽ cần
tới nhân viên xã hội, người có thể trao đổi một cách có hiệu quả với các trẻ và xây
dựng được mối quan hệ tốt với các trẻ. Không có kỹ năng cơ bản này, nhân viên
công tác xã hội sẽ không thể đáp ứng được trách nhiệm của mình đối với trẻ.
9
Làm việc với trẻ em có vẻ như là một ưu tiên đương nhiên đối với nhân viên xã
hội chăm sóc trẻ, tuy vậy nó lại là lĩnh vực gây tranh luận và hơi khó định nghĩa. Đặc
biệt, có những lo lắng khi trò chuyện với trẻ em để hiểu cảm xúc của trẻ hay khi
dùng những kỹ thuật vui chơi với trẻ em và trị liệu đối với nhân viên xã hội đứng
trước những khó khăn liên quan đến thế giới thường ngày của đứa trẻ, trường học,
vấn đề nhà ở, sắp xếp các buổi tiếp xúc. Để đáp ứng với sự lưỡng nan như thế, Clare
Winnicott đã đưa ra định nghĩa về vai trò đặc biệt và rõ ràng về công tác xã hội với
trẻ em như sau :
Nhân viên xã hội khởi sự như một người thực sự có quan tâm tới những con
người và biến cố bên ngoài trong đời sống của trẻ. Trong tiến trình làm việc với trẻ,
nhân viên xã hội cố gắng lấp khoảng trống giữa thế giới bên ngoài và cảm xúc của
đứa trẻ về thế giới xung quanh và để làm như thế nhân viên xã hội cũng đi vào thế
giới bên trong của đứa trẻ. Là một người có thể di chuyển từ thế giới này đến thế
giới khác, nhân viên xã hội có thể có một giá trị đặc biệt hoàn toàn của riêng mình
đối với đứa trẻ và một mối quan hệ đặc biệt. (Winnicott 1964 : 45).
Nhân viên xã hội có thể điều hành có hiệu quả cái thế giới bên ngoài của đứa trẻ,
có thể nói chuyện với cha mẹ và thầy cô giáo, có thể lo lắng về nhà ở tồi tàn, có thể
đến thăm bệnh viện hay nhà của trẻ em, có mặt ở trạm cảnh sát nếu cần. Nhân viên
xã hội cần phải có hiểu biết thật tốt về những hệ thống như thế. Tuy nhiên, cùng lúc
nhân viên xã hội cần phải suy nghĩ về và suy nghĩ với đứa trẻ, cố gắng để nhìn thế
giới này qua cặp mắt của đứa trẻ và khám phá không thế giới bên ngoài ảnh hưởng
đến đứa trẻ theo khách quan mà cả thế giới đó được trải qua theo chủ quan. Chính
tiến trình này cần đến toàn bộ kỹ năng phụ thêm. Nó đòi hỏi nhân viên xã hội ăn
khớp với đứa trẻ, bằng những cách phù hợp với tuổi tác, sự hiểu biết và hoàn cảnh
của đứa trẻ. Nó cần người nhân viên xã hội có sự hiểu biết đúng đắn về trẻ em phát
triển ra sao và trẻ em nhìn thế giới như thế nào, những gì mà trẻ em cần từ môi
trường của chúng và cách thức chúng phản ứng nếu những nhu cầu đó không được
đáp ứng.
10
Những gì nhân viên xã hội biết được từ hai thế giới khác nhau này, thế giới bên
trong và bên ngoài, giúp nhân viên xã hội nối kết lại và tạo điều kiện cho họ làm việc
với đứa trẻ để làm rõ những trải nghiệm của trẻ và bắt đầu trả lời một số những câu
hỏi phức tạp nhất. Đứa trẻ nhận ra điều gì đảo lộn nhất về sự ly dị của cha / mẹ. Cái
gì có thể là lý do đối với việc hành vi ăn cắp của đứa trẻ hay cha mẹ từ bỏ đứa trẻ.
Một khi đã làm được sự nối kết này thì lúc đó nhân viên xã hội và đứa trẻ có thể
hướng đến việc làm rõ điều gì là có ích nhất trong cả hai thế giới. Những gì đứa trẻ
cần làm về mặt tình cảm để quen dần với sự ly hôn và nỗi buồn vì mất mát, sự chuẩn
bị thực tế gì để tiếp xúc tạo thuận lợi cho tiến trình này.
Phần lớn, công tác xã hội với trẻ em diễn ra trong bối cảnh toàn bộ môi trường
đứa trẻ - gia đình, nhóm bạn chơi, trường học, góc phố. Nó cũng diễn ra trong giới
hạn thủ tục của cơ quan công tác xã hội và ranh giới chuyên môn của vai trò công tác
xã hội.
Từ quan điểm của trẻ em, sự kiện mà nhân viên xã hội biết và hiểu về thế giới
của chúng và làm việc trong thế giới đó. Nhân viên xã hội không những có thể giúp
trẻ nối kết quá khứ và hiện tại và hiểu được nguyên do mà chính mình là sự nối kết
giữa các thế giới khác nhau.
Qua tiến trình này, đứa trẻ là một người tham gia tích cực. Chính trách nhiệm của
nhân viên xã hội là làm tăng tối đa khả năng của đứa trẻ để nói lên mong ước và cảm
xúc của chính trẻ không chỉ về những quyết định chính yếu như đã được giải thích
trong đạo luật trẻ em 1989 mà còn trong các lĩnh vực công tác ảnh hưởng đến đứa
trẻ. Nói chuyện với đứa trẻ, lắng nghe trẻ và để ý đến cảm xúc của trẻ cùng với ý
kiến và các nguồn thông tin khác trong một trường hợp là một tiến trình phức tạp cần
có sự cam kết dấn thân xử lý một cách tinh tế và có hiệu quả từ phía nhân viên xã
hội.
11
PHẦN II♣
BỐI CẢNH CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM
1. CHÍNH SÁCH CHĂM SÓC TRẺ EM, QUYỀN TRẺ EM VÀ ĐẠO LUẬT
TRẺ EM
Khởi đầu từ thế kỷ 19 và được tăng cường vào thế kỷ 20, quyền trẻ em được
bảo vệ ngày càng được làm sáng tỏ, mang tính cưỡng chế. Trong những năm qua,
quan điểm bảo vệ này đã được bổ sung bằng sự thúc đẩy quyền trẻ em để trẻ tham
gia vào những quyết định ảnh hưởng đến đời sống của trẻ.
Trong câu nói nổi tiếng đương thời của nữ thẩm phán Butler Sloss, có một sự
chuyển hướng trong việc đối xử với trẻ như “một con người chứ không phải là đối
tượng của sự quan tâm”.
Mục đích của chương này là đặt thực hành công tác xã hội hiện tại trong bối
cảnh luật pháp và lịch sử. Chương này có 2 phần:
1. Tìm hiểu sự phát triển của chính sách đối với trẻ em và quyền trẻ em trên
2 thế kỷ qua, xem xét công tác xã hội với trẻ em trong bối cảnh của
khuynh hướng chính sách rộng lớn hơn.
2. Những hiểu biết đương đại về quyền trẻ em làm nền tảng cho công tác xã
hội với trẻ em.
1.1. Trẻ em và quyền trẻ em :
♣ D ựa theo”Social Work with children” c ủa Marian Brandon, Gillian Schofield v à Liz Trinder, Mac. Press LTD, 1998
12
Trẻ em có nghĩa là gì, tuổi thơ là gì, đều được hình thành do xã hội, và mỗi xã
hội hình thành những ý nghĩa này một cách khác nhau. Mặc dù các sự kiện sinh học
cơ bản của đời người có thay đổi chút ít theo thời gian nhưng không có gì cố định
trong cách mà xã hội ứng phó với những khác biệt về sinh học này. Theo James và
Prout (1990) :
Sự non nớt của trẻ em là một sự kiện sinh học của đời người nhưng những
cách hiểu biết sự non nớt này và làm cho nó quan trọng lại là một sự kiện văn
hóa.
Sự giải thích của Disneyland Western của người da trắng về tuổi thơ an toàn
khác với thực trạng của từng quốc gia . Mọi xã hội đều có những tư tưởng và luật lệ
khác nhau về thời gian của tuổi thơ. Các xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tham gia vào
việc lấy các quyết định về chúng đều khác nhau. Có một số xã hội không bao giờ
bằng lòng cho trẻ tham gia. Vì thế sự hiểu biết về sự hình thành tuổi thơ cũng khác
nhau, tạo ra những mong đợi và diễn dịch khác nhau về hành vi của trẻ em. Trong
quá khứ, các nhà sử học về tuổi thơ đã tranh luận mạnh mẽ về ý nghĩa của tuổi thơ.
Nhà sử học pháp Philippe Aries khởi xướng cuộc tranh luận trong những năm 1960
bằng cách tuyên bố rằng tình trạng tách biệt của tuổi thơ không thực sự tồn tại trước
thế kỷ 17, mà trẻ em được đối xử như người lớn thu nhỏ. Trên thực tế, có thể có
nhiều dạng tuổi thơ, với những khác biệt ở ý nghĩa thế nào là trẻ em giữa các tầng
lớp và khu vực. Các thái độ mâu thuẫn đối với trẻ em vẫn còn phổ biến, trẻ em lần
lượt được xem như những thiên thần nhỏ ngây thơ và những quỷ nhỏ từ bản chất có
thể làm những điều tệ hại nhất cho đến khi được người lớn xã hội hóa đầy đủ.
Việc thay đổi ý nghĩa của tuổi thơ, đôi khi mâu thuẫn, rõ ràng trong tài liệu xã
hội học và lịch sử được phản ảnh trong sự phát triển chính sách chăm sóc trẻ em, vừa
phản ảnh vừa đưa ra những giải thích khác nhau về tuổi thơ. Sự hiểu biết về quyền
trẻ em có liên quan chặt chẽ tới các khuynh hướng tri thức và chính trị rộng lớn hơn.
Thí dụ như một trong những chủ đề quan trọng nhất của thời đại là tăng quyền lực,
13
và điều này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự diễn dịch đương đại về quyền trẻ em như
quyền tham gia.
Trong phần sau đây nhân viên xã hội sẽ xem xét hai yếu tố này - bối cảnh
chính trị xã hội và những tư tưởng khác nhau về trẻ em và tuổi thơ - đã tạo ra những
hiểu biết khác nhau về quyền trẻ em trong luật pháp và thực tế.
1.2. Quan điểm ban đầu: Trẻ lao động tự do và cứu trợ trẻ em
Ở thế kỷ 19, một khái niệm phổ biến và giống nhau hơn về tuổi thơ đã hình
thành. Lúc đó, số trẻ em đã đóng góp vào lợi tức gia đình thông qua việc trả lương và
không trả lương. Trái lại, tuổi thơ “lý tưởng” đã hình thành từ từ trên nền tảng trên
“lý tưởng trong khuôn khổ” của gia đình trung lưu đầu thế kỷ thứ 19 (Hendrick
1990). Lý tưởng này là thời tuổi thơ mà trẻ em được xem như khác với người lớn về
tính chất và bản chất vì nếu không trẻ em có thể dễ dàng trở nên hung bạo, và nguy
hiểm nếu như chúng được phép trở thành như người lớn và bước vào thế giới của
người lớn. Khi thế kỷ thứ 19 đã phát triển, một loạt các biện pháp bảo vệ trẻ em
được đưa ra để trả lại cho trẻ em sự phụ thuộc và đưa chúng ra khỏi thế giới công
việc của người lớn sang thế giới trường học và gia đình của đứa trẻ.
Luật pháp kiểm soát lao động trẻ em và việc giới thiệu giáo dục phổ cập ở thế
kỷ thứ 19 đã nhận ra nhu cầu cần được bảo vệ của trẻ và hiểu rằng trẻ em có quyền
đó. Học tập làm cho mối liên kết giữa tuổi thơ và lao động yếu đi. Vì trường học dần
dần chiếm chỗ của lao động và học tập chính quy trở thành bắt buộc (khoảng 1900
khắp Châu Âu), thái độ về vị trí và vai trò của trẻ em cũng thay đổi. Tuổi thơ có thể
kéo dài lâu hơn và trẻ em có thể trở nên phụ thuộc hơn. Lần đầu tiên đối với các bậc
cha mẹ là có thể không xem trẻ là người đóng góp cho gia đình và tài sản kinh tế.
Lúc bấy giờ hàng hóa được mong đợi là sẽ từ cha mẹ đến con cái thay vì từ con cái
đến cha mẹ.
14
Khi các tổ chức công tác xã hội / an sinh nhi đồng đang phát triển thì mối
quan tâm nổi bật là “cứu vớt” trẻ em để trẻ em có thể hưởng được tuổi thơ. Tất cả
các hội thiện nguyện, như TS. Barnardos đã dành hết thời gian cho việc cứu trẻ em
ra khỏi môi trường xấu, ảnh hưởng xấu của người lớn và cha mẹ không tốt và cung
ứng cho chúng một sự khởi đầu thuận lợi nơi mà chúng đáng được gọi là trẻ em
(Cleaver và Fretrean 1995 ; Colton và các đồng tác giả 1995). Mục đích của việc cứu
giúp trẻ em là tái xã hội hóa trẻ em trong tầng lớp lao động ra khỏi tình trạng suy đồi
về mặt đạo đức.
Mặc dù thế kỷ 19 đã chứng kiến một sự chuyển biến quan trọng trong tư
tưởng về trẻ em và tuổi thơ nhưng mức độ thúc đẩy chuyển biến còn hạn chế. Về
chính sách chăm sóc trẻ, thế kỷ thứ 19 được mô tả là tốt nhất bằng cái mà Lorraine
Fox Harding (1991) gọi là “quan điểm gia trưởng và tự do”, dựa vào sự bảo đảm tính
riêng tư của gia đình và sự can thiệp tối thiểu của nhà nước vào gia đình. Từ quan
điểm này đã có một chỗ nhỏ cho chính sách an sinh : tất cả trách nhiệm trao cho gia
đình. Cleaver và Fretrean (1995) tranh luận rằng sự can thiệp phần lớn thu hẹp trong
những tình huống bên ngoài gia đình. Vai trò của nhà nước trong chăm sóc trẻ bị chi
phối bởi Luật người nghèo đã minh họa cho giá trị tự do của sự can thiệp tối thiểu,
điều này nhằm giảm chi phí và cũng nhằm gìn giữ sự thiêng liêng của đời sống gia
đình. Khi sự can thiệp xảy ra là nó nhằm cứu giúp trẻ em khỏi sự khốn đốn và nghèo
khó tuyệt đối (Cleaver và Fretrean 1995). Mãi cho đến năm 1889, Hội quốc gia
phòng ngừa bạo lực đối với trẻ em được thành lập thì gia đình và những điều vụn vặt
riêng tư thuộc về mối quan hệ gia đình có thể là mục tiêu của sự xem xét phần nào.
Trong gia đình, các quyết định của nội bộ gia đình về nuôi nấng trẻ v.v... là trách
nhiệm của những thành viên có quyền lực nhất trong gia đình, đó là cha mẹ, nhất là
người cha. Thật ra, mãi cho tới 1886 lần đầu tiên luật pháp Anh đặt sự an sinh của
đứa trẻ lên hàng đầu, trước sự thực hiện và mong ước của cha mẹ (Hoggest 1993).
Cho đến cuối thế kỷ 19, đời sống đối với đa số trẻ em rất khác với trẻ em
trước đó. Sự phát triển chính trị và khoa học, y khoa đã đảm bảo cuộc sống đối với
phần lớn trẻ em chứ không chỉ đấu tranh cho sự sống còn. Năm 1901 số trẻ em chết
15
là 161 trên 1000 đứa trẻ sinh ra và giữa 1928 và 1931 thì hạ xuống còn 66 trên 1000
trẻ sinh ra (Hardymart 1983).
2. CHẾ ĐỘ GIA TRƯỞNG CỦA NHÀ NƯỚC VÀ BẢO VỆ TRẺ EM CỦA
PHƯƠNG TÂY
Khoảng cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở phương Tây đã có một thay đổi lớn,
dù không hoàn toàn, từ các cách tiếp cận tự do đến an sinh nhi đồng với một khái
niệm mới về tuổi thơ kèm theo. Về chính sách chăm sóc trẻ, Fox Harding (1991) gọi
là “chế độ gia trưởng của quốc gia và bảo vệ trẻ em” đã đặt cơ sở trên sự can thiệp
rộng lớn của nhà nước vào gia đình nhằm bảo vệ trẻ em khỏi sự thiếu chăm sóc của
cha mẹ (như các nhà chuyên nghiệp đã giải thích). Xây dựng trên sự phát triển của
thế kỷ 19, tuổi thơ được xem như một giai đoạn riêng biệt và dễ bị tổn thương trong
đời sống, cần đến sự bảo vệ và quyết định của người lớn. Một quan điểm chung về
trẻ em là trẻ có khả năng hạn chế về tự quyết và lấy quyết định. Sự khác biệt chủ yếu
trong thế kỷ 20 là sự tham gia của các nhân viên xã hội và những nhà chuyên môn
khác, ngày càng ở bên cạnh các bậc cha mẹ như những người quyết định và bảo vệ
của trẻ em, vì nhà nước và các chuyên gia chăm sóc trẻ em ngày càng đòi quyền
chỉnh đốn gia đình. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học xã hội và y khoa đã
cung ứng kiến thức an sinh nhi đồng để làm nền tảng cho công tác này. Các nhà xã
hội học, nhất là những người từ ngành tâm lý trẻ em đang nổi lên, càng ngày càng tỏ
ra quan trọng trong việc giải thích những hạn chế của đời sống gia đình “bình
thường” và tuổi thơ “bình thường”. Bất chấp nhiều sự bất đồng ý kiến, tác phẩm của
Burt, Isaacs, Klein, Winnicott và Bowlby rất có ý nghĩa vì lần đầu tiên làm nổi bật sự
quan trọng của đời sống tâm lý của đứa trẻ và vai trò của gia đình và cha mẹ
(Hendrick 1990).
Đạo luật trẻ em 1948 đã quy định bổn phận của chính quyền địa phương trong
việc thúc đẩy những lợi ích tốt nhất cho trẻ em và cung ứng những “cơ hội để phát
triển nhân cách và khả năng của trẻ”. Công tác của Sở trẻ em đã được thành lập,
chuyển đổi từ dịch vụ cứu vớt, chửa trị của thế kỷ 19 sang sự cổ vũ gần như vô hạn
16
về việc thúc đẩy sự an sinh của trẻ em bằng cách làm việc với gia đình như một tổng
thể (Colton và các đồng tác giả 1995 : 7). Khái niệm “phòng ngừa“ đã được hình
thành trong thập niên 1950 đã được đẩy mạnh qua công tác xã hội cá nhân, đã chứng
tỏ rằng hầu hết các Sở Trẻ em đang cố gắng ngăn cản việc nhận trẻ em vào nhà chăm
sóc đặc biệt (Packman 1993). Đạo luật Thiếu niên và trẻ em 1963 giao cho chính
quyền địa phương bổn phận giúp đỡ gia đình của những trẻ em không ở trong nhà
chăm sóc đặc biệt của chính quyền địa phương.
2.1. Sự tham gia và phương thức tham gia
Thập niên 1970 có lẽ là thời kỳ cao độ chế độ gia trưởng của nhà nước trong
an sinh nhi đồng. Từ lúc đó, công tác xã hội an sinh nói chung đã phải tự định nghĩa
lại nhằm đáp ứng những thách thức và phê phán từ bên trong lẫn bên ngoài. Sự phát
triển lũy tiến trong chi phí cộng đồng bị cắt giảm bất ngờ do khủng hoảng kinh tế
giữa thập niên 1970. Từ đó trở đi an sinh nhi đồng được cơ cấu trong bối cảnh thiếu
thốn về mặt kinh tế.. Quyền lực của chế độ an sinh và chủ nghĩa tập thể đã được
thiết lập sau thế chiến thứ 2 đã bị đẩy lùi bởi đợt thủy triều của chủ nghĩa tự do và cá
nhân mới tràn tới. Càng ngày sự can thiệp giúp đỡ càng quan liêu và áp đặt. Quyền
được tranh luận ngày càng nhiều để ủng hộ cho tự do cá nhân và gia đình.
Công tác xã hội với trẻ em trên 20 năm qua được nổi bật nhờ tăng cường tập
trung vào chi tiết thủ tục chặt chẽ, tìm hiểu chấn thương hay ngược đãi là chủ đề
chính. Từ những cái chết của trẻ do bạo hành trong gia đình đã đưa đến những cuộc
tranh luận khởi đầu cho sự phê phán về công tác xã hội “hỗ trợ”. Ngược đãi trẻ em
được “nhận diện, tiên đoán và ngăn ngừa” (Parton 1991 : 58) theo phương cách khoa
học hơn. Đồng thời, phương hướng của phần lớn công tác với trẻ em được chuyển từ
công tác phòng ngừa trẻ em tại gia đình sang việc đảm bảo an toàn cho “cha mẹ về
mặt tâm lý”.
Cuộc điều tra Cleveland khi đánh giá sự can thiệp của nhà chuyên môn trong
trường hợp nghi ngờ có sự lạm dụng tình dục trẻ em không giống như cuộc điều tra
17
về cái chết của trẻ, qua đó người ta cho rằng hoạt động của nhà chuyên môn quá
nhiệt tình và kết quả là sự than phiền của cha mẹ. Trẻ em cần được bảo vệ khi có sự
can thiệp sai lầm. Sự bảo vệ trẻ em phải được tiến hành theo cách thức không vi
phạm quyền của cha mẹ và nếu không thì những đau buồn không cần thiết sẽ đến với
chính đứa trẻ mà nhân viên xã hội muốn giúp đỡ. (Minister of State Tong Newton,
Parton 1991 : 114).
Báo cáo Cleverland về sau đưa đến sự thay đổi quan trọng trong công tác đối
tác với cha mẹ. Cư xử với trẻ em “như một con người” thay vì như là một “đối tượng
của sự quan tâm”, sự hiểu biết chủ quan của đứa trẻ về thế giới của riêng trẻ trước
tiên phải được thăm dò và được hiểu rõ. An sinh của trẻ em không thể chỉ được thúc
đẩy bằng sự ứng dụng tiến trình khoa học và sự đánh giá.
Trái ngược với bối cảnh mà nhân viên xã hội hiểu biết về sự xuất hiện của hai
quan điểm chăm sóc trẻ em khác được nhận ra bởi Fox Harding, cả hai đều nhấn
mạnh sự tham gia. Giống như quan điểm tự do bỏ mặc, “quan điểm quyền cha mẹ”
coi trọng sự toàn vẹn của ranh giới gia đình và chống lại sự can thiệp bên ngoài vào
các vấn đề của gia đình. Không giống quan điểm tự do, quan điểm này nhấn mạnh ở
vai trò giúp đỡ tiềm ẩn của nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ hỗ trợ cho cha
mẹ thực hiện vai trò của họ. Trọng tâm đặt vào đơn vị gia đình như một tổng thể hơn
là phần chia nó ra nhiều thành viên hình thành gia đình. Sự đòi lại quyền quyết định
cho cha mẹ từ các nhân viên chuyên nghiệp được coi trọng hơn sự tôn trọng tính độc
lập của đứa trẻ.
Quan điểm thứ 4 là một quan điểm hiểu biết nhiều về cuộc tranh cãi đương
thời về quyền trẻ em được Fox Harding gọi là “quyền của trẻ em và sự giải phóng
của trẻ em”. Trọng tâm chuyển đổi từ nhu cầu của trẻ em cần được sự bảo vệ của cha
mẹ sang quyền trẻ em tham gia và độc lập. Quan điểm này nói lên một khái niệm
tuổi thơ trái ngược. Trẻ em được xem như là nhóm bị áp bức, bị phân biệt đối xử
(một cách sai lầm) trên cơ sở tuổi tác. Thay vào đó, các tác giả trong quan điểm này
nhấn mạnh đến sự hợp lý, khả năng và sức mạnh của trẻ em và giảm thiểu sự khác
18
biệt giữa trẻ em và người lớn hoặc sự lệ thuộc và sự dễ bị tổn thương của trẻ em. Ở
đây trẻ em trở thành tác nhân độc lập, với những lợi ích riêng biệt trong gia đình. Trẻ
em không thể và không cần dựa vào cha mẹ hay nhân viên chuyên nghiệp để hành
động vì lợi ích tốt nhất của chúng mà phải nói và hành động vì chính trẻ.
Ở cấp độ chính sách và thực hiện, quan điểm quyền trẻ em càng ngày rõ ràng
trong thập niên 1980. Một loạt các phát triển dẫn đến trẻ em được có quyền như là
con người đúng nghĩa. Hệ thống “người giám hộ” đã cung ứng một nhân viên làm
việc độc lập nhân danh trẻ em làm việc ở tòa án. Do vậy trẻ em được công nhận như
những con người độc lập với những quyền lợi của mình cần đến sự đại diện và tư
vấn. Những kỹ thuật trị liệu bằng vui chơi và xây dựng mối quan hệ được phổ biến
qua các tài liệu như bộ tài liệu giảng dạy BAAF “Tiếp xúc với trẻ em” (1984) và qua
các tác giả như Fahlberg (1988) và Oaklander (1978). Mục đích của những tài liệu
này là khuyến khích nhân viên đóng vai trò tích cực nhiều hơn nữa trong việc giúp
đỡ trẻ em bày tỏ những cảm xúc bên trong của chúng (Aldgate và Simmonds 1988 :
14). Trong khi Những quyết định của Công tác xã hội trong chăm sóc trẻ em
không có chỗ đặc biệt cho quan điểm của trẻ em vào năm 1985 thì 3 năm sau đó một
hướng dẫn Đánh giá bảo vệ trẻ em tiếp theo của sở y tế Bảo vệ trẻ em : sách hướng
dẫn cho nhân viên xã hội thực hiện sự đánh giá toàn diện (1988) có nhiều tuyên
bố rõ ràng hơn về nhu cầu tư vấn trẻ em và về quyền của chúng :
Trẻ em và thanh thiếu niên đến với nghề nghiệp giúp đỡ vì họ và gia đình họ
trải qua những khó khăn, họ có quyền nhận sự can thiệp và giúp đỡ nhạy bén.
Họ có quyền được tư vấn và quan điểm của họ phải được quan tâm, cũng như
tuổi tác, sự hiểu biết của họ về những vấn đề và những quyết định có ảnh
hưởng đến đời sống của họ. (Sở y tế : 1988 : 9).
Tuy nhiên trong thực hiện, đa số nhân viên xã hội đã dành ít thời gian với trẻ
em. Trong khi một số nhân viên xã hội thời trước Đạo luật trẻ em 1989 đã thực hành
những kỹ năng công tác xã hội cá nhân với trẻ em thì hầu hết các nhân viên xã hội
hiếm khi nhìn trẻ em như chúng nó là. Quyết định của công tác xã hội trong chăm
19
sóc trẻ (HMSO 1985) đã bình luận rằng nhân viên xã hội dường như thiếu thời gian
và kỹ năng để làm việc trực tiếp với trẻ em và công việc này được dành cho những
người khác :
Hầu như không có chứng cớ rõ ràng để thấy rằng nhân viên xã hội tham gia
nhiều trong tiếp xúc trực tiếp với trẻ em ... Những người chăm sóc ban đầu
của trẻ em, cha mẹ nuôi hộ và nhân viên ở các trung tâm nuôi dưỡng được
xem là có nhiều cơ hội hơn. Trường hợp nào cần đến những kỹ năng này thì
nhân viên xã hội thường chuyển đến cho một nhà chuyên môn có hiểu biết về
phát triển trẻ em, sức khỏe hay giáo dục (văn phòng Trẻ em quốc gia, trong
HMSO 1985 : 14).
Do vậy, cho tới thập niên 1980 một loạt vấn đề và mối quan tâm đã ảnh
hưởng đến chính sách chăm sóc trẻ em và công tác xã hội với trẻ em. Một loạt những
tư tưởng đã hình thành về cách thức làm thế nào để có cách bảo vệ trẻ em tốt nhất
cùng lúc với những nguồn lực chịu sức ép nghiêm trọng và nhân viên xã hội chịu sự
giám sát kỹ càng của quần chúng. Tiến đến cuối thế kỷ, sáng kiến về quyền của cha
mẹ và quyền của trẻ em xuất hiện không mấy dễ dàng cùng với sự nhấn mạnh về thủ
tục hóa trong công tác xã hội.
2.2. Về quyền trẻ em
Trong khoảng thời gian của thập niên 1970 và 1980, đã có một sự phát triển đầy ý
nghĩa về quyền trẻ em. Ở cấp độ lý thuyết, các tác giả bắt đầu xem xét khái niệm
quyền của trẻ em : ở cấp độ chính quyền hai sự triển khai quyền trẻ em có nhiều ý
nghĩa vào cuối thập niên 1980 là Công Ước Quốc Tế và Quyền Trẻ em và Đạo Luật
Trẻ em 1989.
Thảo luận về quyền trẻ em có vẻ bị mắc trong vòng lẩn quẩn : giữa trẻ em có
khả năng, không có khả năng, giữa sự giải phóng và chế độ gia trưởng, giữa sự độc
lập và an sinh, giữa người giải phóng và người chăm sóc. Đối với “những người giải
20
phóng”, sự khác biệt giữa người lớn và trẻ em ít được nói ra, kết quả dẫn đến là trẻ
em cần phải được đối xử tương tự như người lớn. Tự quyết định là tất cả. Đối với
“người chăm sóc” trẻ em được xem là khác với người lớn về tính chất. Trẻ có ít khả
năng và dễ bị tổn thương hơn người lớn và do vậy đòi hỏi sự bảo vệ đặc biệt và các
quyết định được những người lớn chăm sóc trẻ đưa ra. (Archad 1933 : 55).
Trẻ em nhiều khi được định nghĩa và đối xử như thể chúng là người lớn thu
nhỏ chứ không có những đặc điểm trẻ em. Sự phức tạp và nhạy cảm về phát
triển tình cảm, thể chất và trí tuệ trở nên đơn giản hóa trong nhận thức và
việc hướng dẫn lấy quyết định theo kiểu thông thường (King và Piper 1995 :
144).
Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực tuổi thơ ngày càng nhận thức sự phức tạp
về đời sống của trẻ em và mức độ trẻ em nhìn cũng như được nhìn về thế giới xã hội
của chúng (xem thí dụ James và Prout 1996). Trẻ em khác nhau về tuổi tác, giới,
chủng tộc và khuyết tật. Khả năng của trẻ em để định hình thế giới của chúng cũng
khác nhau tùy thuộc vào tình huống mà đứa trẻ sống. Cơ sở của trẻ em khác nhau về
thế giới vui chơi theo kiểu trẻ bị áp đặt và có cái nhìn theo đời sống trong lớp học
hay trong gia đình (James và Prout 1996). Tuy nhiên, ngay cả trong gia đình cuộc
nghiên cứu kỹ lưỡng cho thấy những mong đợi khác nhau của cha mẹ về trẻ em cùng
lứa tuổi tạo ra nhiều mức độ độc lập rất khác nhau ở trẻ em (Solberg 1990).
2.3. Các thuyết về quyền hội nhập
Hai thuyết nổi tiếng về quyền trẻ em thuộc về Michael Fretrean (1983) và
John Eekelaar (1986). Dù có những điểm trùng lắp đáng kể giữa hai thuyết nhưng có
thể nêu ra những nét đại cương của cả hai lý thuyết này vì chúng đặc biệt có ích cho
việc hình thành những khái niệm cơ bản về quyền.
a. Lý thuyết về chủ nghĩa kiểm soát người dân theo kiểu gia trưởng tự do
của Michael Fretrean
21
Fretrean ủng hộ tầm quan trọng của việc nghĩ đến trẻ em như những người có
quyền sở hữu quyền của mình hơn là vì yêu thương hay từ thiện. Lý thuyết về quyền
của ông được xây dựng trên việc đảm bảo rằng trẻ em cần phải tham gia trong việc
lấy quyết định càng nhiều càng tốt, kết hợp với chủ nghĩa quyền gia trưởng tự do,
dựa trên cơ sở.
Với tư cách là trẻ em, loại hành động hay hành vi nào nhân viên xã hội mong
muốn được bảo vệ dựa trên giả định rằng nhân viên xã hội muốn thành người
lớn độc lập một cách hợp lý và có khả năng quyết định về những hệ thống kết
quả như một con người có lý trí và tự do. Nhân viên xã hội sẽ chọn những
nguyên tắc khuyến khích trẻ em trở thành người lớn độc lập. (Fretrean 1983 :
57).
Trên cơ sở này, Fretrean đưa ra 4 loại quyền :
• Quyền an sinh. Đây là loại quyền rõ ràng nhất và chỉ ra một loạt những đòi hỏi
“tuổi thơ hạnh phúc” như đã được định ra trong Bản tuyên bố Liên hiệp quốc về
Quyền trẻ em (nay được thay bằng Công ước quốc tế). Những đòi hỏi này bao
gồm quyền được học hành, dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe, và không phân
biệt đối xử.
• Quyền được bảo vệ. Trái với quyền an sinh, loại thứ hai này liên quan tới việc
bảo vệ trẻ em khỏi sự nguy hại, chẳng hạn như ngược đãi, thiếu chăm sóc và bóc
lột, lạm dụng. Quyền được bảo vệ là quyền cho trẻ em được hưởng tiêu chuẩn
chăm sóc tối thiểu. Quyền này dựa trên giả định rằng trẻ em là nhóm dễ bị tổn
thương cần sự bảo vệ của cha mẹ hoặc của nhà nước nếu cha mẹ không làm
được.
• Quyền được đối xử như người lớn. Fretrean thuyết phục rằng sự đối xử khác
nhau giữa trẻ em và người lớn dựa trên sự khác biệt tuyệt đối về tuổi tác là phân
22
biệt đối xử. Ông cho rằng trẻ em cần được đối xử như người lớn dựa trên nền
tảng công bằng xã hội. Ông không theo lập trường chủ nghĩa giải phóng của các
tác giả thập niên 1970, những người đã hủy bỏ tất cả sự phân biệt giữa trẻ em và
người lớn. Thay vào đó ông cho rằng sự khác biệt về tuổi tác cần phải được xem
xét liên tục, những quyết định về khả năng của từng cá nhân trẻ phải được thực
hiện từng trường hợp một. Như nhân viên xã hội sẽ thấy, đây là cách tiếp cận
tương tự với sự hình thành khả năng theo Gillick đã được phát triển trên thập kỷ
qua.
• Quyền chống lại cha mẹ. Loại quyền thứ tư này đặt cha mẹ vào vai trò của người
đại diện cho trẻ em. Fretrean cho rằng trong những quyết định chính yếu thì
quyết định của cha mẹ cần có quyền lực và ảnh hưởng nhưng chỉ khi nó phù hợp
với sự lượng giá “khách quan” xem những quyết định đó có ngang hàng với “sản
phẩm xã hội ban đầu” của trẻ em hay không, đó là những gì mà bất cứ một người
nào có lý trí cũng muốn theo đuổi. Nếu không thì một cơ quan bên ngoài phải
thay thế vai trò đại diện của cha mẹ.
b. Lý thuyết về quyền trẻ em của John Eekelaar
Cũng như Fretrean, John Eekelaar (1986) hình thành một khuôn mẫu về quyền dựa
trên việc suy đoán “nhìn lại cái gì đứa trẻ đã từng muốn khi nó đạt tới vị trí trưởng
thành” (1981 : 170). Eekelaar nhận diện 3 loại quyền lợi làm nền tảng cho quyền :
• Quyền lợi cơ bản nói đến tiêu chuẩn chăm sóc tối thiểu (thể chất, tình cảm, trí
tuệ). Cha mẹ / người chăm sóc được yêu cầu phòng ngừa để tránh những nguy
hại đến sự phát triển của trẻ em. Nơi nào cha mẹ không hoàn thành được trách
nhiệm của mình, thí dụ trong những trường hợp ngược đãi hay bỏ bê, thì nhà
nước có thể can thiệp.
23
• Quyền lợi phát triển đòi hỏi cha mẹ và nhà nước đảm bảo rằng tất cả mọi trẻ em
đều có cơ hội như nhau để tiếp cận tối đa với những nguồn lực sẵn có trong thời
tuổi thơ.
• Quyền độc lập nói đến “sự tự do lựa chọn cách sống và quan hệ xã hội theo
khuynh hướng không bị kiểm soát bởi uy quyền của thế giới người lớn, dù đó là
cha mẹ hay cơ sở chăm sóc”. Eekelaar cho rằng quyền độc lập dù quan trọng
cũng phải đi sau quyền phát triển và cơ bản dựa trên cơ sở là trẻ em, khi chúng là
người lớn, sẽ ủng hộ quyền căn bản và phát triển trước quyền độc lập nếu có sự
xung đột, mâu thuẫn giữa các quyền.
Khuôn mẫu quyền trẻ em được hình thành do Fretrean và Eekelaar thật thú vị
bởi vì họ nhấn mạnh đến loại quyền mà trẻ em được hưởng. Trẻ em có quyền độc lập
và tham gia cũng như phát triển và bảo vệ. Cả hai đều nhận ra quyền độc lập và
những quyền khác có thể đụng nhau và họ cho rằng trong những trường hợp như thế
sự quyết định của người lớn về điều tốt nhất cho trẻ sẽ có giá trị hơn ước muốn của
trẻ. Như nhân viên xã hội sẽ thấy Công ước của Liên hiệp quốc và Đạo luật trẻ em
1989 sẽ lại cho trẻ em “quyền an sinh” và quyền tham gia, sau cùng thì quyền an
sinh là quyền có quyền lực và ảnh hưởng nhất.
c. Công ước của Liên Hiệp Quốc
Sau 10 năm bàn thảo và cân nhắc, Công ước được Đại Hội Đồng Liên hiệp
Quốc chấp thuận vào ngày 20 tháng 10 năm 1989. Cho đến nay, Công ước đã được
phê chuẩn bởi hơn 150 quốc gia trên khắp thế giới ; đó là một Công ước quốc tế
được phê chuẩn nhanh nhất và rộng rãi nhất. Công ước gồm 41 điều khoản về các
vấn đề ảnh hưởng đến trẻ em. Những quyền này được chia thành 4 nhóm : quyền
được chăm sóc hay bảo vệ, tham gia, chống phân biệt đối xử và quyền được phát
triển tốt nhất. (Hammarberg 1995).
d. Quyền an sinh/được bảo vệ
24
Điều khoản 3 của Công ước của Liên Hiệp quốc quy định quyền an sinh và
được bảo vệ của trẻ em. Điều khoản có hai thành phần chủ yếu. Thành phần thứ nhất
nhấn mạnh rằng nhà nước và các định chế tư nhân phải có sự quan tâm trước tiên vì
lợi ích tốt nhất của trẻ em trong công tác của họ. Thành phần thứ hai là nhà nước
đảm bảo rằng trẻ em được bảo vệ và chăm sóc đầy đủ, quy định có liên quan tới
quyền và bổn phận của người chăm sóc trẻ. Điều khoản 19 đòi hỏi nhà nước phải có
biện pháp về pháp luật, quản trị, giáo dục và xã hội thích hợp để bảo vệ trẻ em chống
lại sự bóc lột lạm dụng, ngược đãi, bỏ bê của cha mẹ hay người chăm sóc. Nó cũng
đòi hỏi nhà nước phải có các thủ tục hữu hiệu để ngăn ngừa, nhận diện, điều tra và
trị liệu những trường hợp nêu trên.
e. Quyền được phát triển tốt nhất
Công ước của Liên Hiệp Quốc còn đi xa hơn những nỗ lực bảo vệ trẻ em,
điều khoảng 6.2 đòi hỏi nhà nước thúc đẩy sự phát triển tốt nhất của trẻ em :
Các quốc gia thành viên phải đảm bảo đến mức tối đa có thể được sự sống
còn và phát triển của trẻ em.
Công ước nhận ra rằng trẻ em được chăm sóc tốt nhất trong gia đình của
chúng (Điều khoản 5 và 18) nhưng đòi hỏi nhà nước phải cung cấp “sự hỗ trợ thích
hợp” cho người chăm sóc và phát triển các dịch vụ chăm sóc trẻ em (Điều khoản
18.2). Sự bất bình đẳng to lớn trong an sinh vẫn còn tiếp tục giữa các nước nghèo và
nước giàu cho nên không phải nước nào cũng sẽ có thể cung ứng được các chính
sách xã hội hỗ trợ cho trẻ em ; những gì điều khoản 4 đòi hỏi là các chính phủ chịu
trách nhiệm có những biện pháp để thúc đẩy quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của trẻ
em ở “mức tối đa của các tài nguyên sẵn có của họ”.
f. Quyền tham gia.
25
Công ước Liên Hiệp Quốc thúc đẩy mạnh mẽ quyền trẻ em tham gia vào việc
lấy quyết định, dù rằng mức độ bày tỏ quan điểm của trẻ sẽ thay đổi tùy theo độ tuổi
và sự trưởng thành của trẻ. Điều khoản 12 nói rằng :
Các quốc gia thành viên phải đảm bảo cho trẻ em có đủ khả năng hình thành
quan điểm riêng của mình, được quyền bày tỏ những quan điểm đó về tất cả
mọi vấn đề có tác động đến trẻ em, những quan điểm của trẻ em phải được
coi trọng một cách thích đáng phù hợp với độ tuổi và độ trưởng thành của trẻ
em.
Công ước Liên Hiệp Quốc đưa ra một loạt quyền riêng tư khác, các quyền
củng cố vị thế của đứa trẻ như một chủ thể độc lập hơn là khách thể thụ động, và là
một thành tố cần thiết của quyền trẻ em. Các quyền này gồm quyền có bản sắc (tên
và quốc tịch lúc sinh ra ; Điều khoản 7 và 8), quyền tự do bày tỏ ý kiến và thông tin
(Điều khoản 13), quyền tự do tư tưởng và hội họp (Điều khoản 14 và 15), quyền
riêng tư (Điều khoản 16) và quyền về văn hóa (Điều khoản 30).
g. Quyền không phân biệt đối xử
Công ước Liên Hiệp Quốc đưa ra 2 quy định quan trọng về sự phân biệt đối
xử. Đầu tiên đòi hỏi những quyền được tuyên bố trong Công ước Liên Hiệp Quốc áp
dụng cho tất cả mọi trẻ em không phân biệt (Điều khoản 2). Để tăng cường sự thực
hiện này Công ước Liên Hiệp Quốc đưa ra những quy định cụ thể về những nhóm trẻ
em đặc biệt chịu thiệt thòi :
Các quốc gia thành viên thừa nhận rằng trẻ em khuyết tật về tinh thần hay thể
chất cần được hưởng một cuộc sống trọn vẹn và tử tế trong những điều kiện
đảm bảo nhân phẩm, thúc đẩy khả năng tự lực, và tạo điều kiện dễ dàng cho
trẻ tham gia tích cực vào cộng đồng. (Điều khoản 23.1).
và
26
Ở những quốc gia có tồn tại những nhóm thiểu số về chủng tộc, tôn giáo hay
ngôn ngữ hoặc có những người gốc bản địa, đứa trẻ thuộc một nhóm thiểu số
như thế hoặc là người bản địa sẽ không bị khước từ quyền, cùng với những
thành viên khác trong cộng đồng của mình, được hưởng nền văn hóa của
mình, được tuyên bố và được theo tôn giáo của mình và sử dụng tiếng nói của
mình.
Đã phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc, chính phủ Anh Quốc buộc phải
hành động theo quy định của Công ước. Tuy nhiên, Công ước Liên Hiệp Quốc chưa
kết hợp với luật pháp trong nước, cho nên những quyền cụ thể quy định trong Công
ước không thể thi hành được trong những phiên tòa của quốc gia (Bainham 1993 :
607 - 8). Tuy thế, Công ước Liên Hiệp Quốc yêu cầu các chính phủ làm những báo
cáo về sự tiến bộ của việc thực hiện Công ước cho Ủy ban Liên Hiệp Quốc về quyền
trẻ em. Trong khi chính phủ Anh Quốc làm những báo cáo theo yêu cầu của Công
ước Liên Hiệp Quốc năm 1994 thì các tổ chức tự nguyện cũng đã làm việc một cách
hiệu quả để phân tích mức độ chấp hành và tiếp tục vận động hành lang cho việc
thực hiện Công ước có hiệu quả (xem CEDRU 1994 về phân tích toàn diện mức độ
mà Anh Quốc chấp hành Công ước Liên Hiệp Quốc, và cả Newell 1991). Chính phủ
Anh quốc biện luận rằng Đạo luật trẻ em 1989 chấp hành và phù hợp với Công ước
Liên hiệp quốc nên nhân viên xã hội quay trở lại với Đạo luật trẻ em 1989.
h. Đạo luật trẻ em 1989
Giống như Công ước Liên hiệp quốc, Đạo luật trẻ em 1989 xuất hiện sau một
thời gian dài, thảo luận và cân nhắc dựa vào các nguồn (gồm điều tra quần chúng,
Hội đồng luật và quốc hội). Lại cũng giống Công ước Liên hiệp quốc, một số thành
viên có quan tâm gồm các nhóm người chuyên nghiệp và các tổ chức phong trào và
tự nguyện, tham gia vào việc vận động hành lang khi chuyển đạo luật qua quốc hội
(xem Parton 1991 về lịch sử chi tiết của Đạo luật). Những nguồn lực khác nhau này
được phản ảnh trong những quy định rộng rãi và mâu thuẫn tiềm ẩn của Đạo luật
27
(xem phần dưới). Tuy vậy, Đạo luật đã được chào đón như một bước chính yếu tiến
tới quyền trẻ em, nhất là quyền tham gia hay độc lập (Thí dụ Newell 1991 : xiii ;
Franklin 1995 : 3). Trong phần này nhân viên xã hội sẽ xem xét Đạo luật trẻ em
1989 đối với 4 nhóm quyền - bảo vệ, phát triển tốt nhất, tham gia và không phân biệt
đối xử - được Công ước Liên hiệp quốc thúc đẩy.
i. Quyền an sinh/được bảo vệ.
Một quan tâm chính của Đạo luật trẻ em 1989 là đảm bảo rằng trẻ em có
quyền được chăm sóc và bảo vệ đầy đủ. Điều này được xử lý bằng 2 cách : thứ nhất
là bằng cách đòi hỏi rằng sự an sinh của trẻ là sự quan tâm hàng đầu khi tòa án lấy
quyết định, và thứ hai là bằng cách quy định khung luật pháp để bảo vệ trẻ em.
Phần tương ứng của Đạo luật trẻ em với nguyên tắc vì “lợi ích tốt nhất cho trẻ
em” trong Công ước Liên hiệp quốc là nguyên tắc an sinh đòi hỏi rằng “an sinh của
trẻ phải là quan tâm đầu tiên của tòa” khi nào tòa quyết định những vấn đề chăm sóc
hay nuôi nấng trẻ. Nguyên tắc an sinh áp dụng trong chăm sóc trẻ và các vụ kiện
nguy cấp, các cuộc tranh chấp giữa cha mẹ. Trong khi tòa án có thể xem xét tới
những yếu tố khác thì các vấn đề phải được quan tâm đặc biệt là :
a) Ước mơ và cảm xúc có thể xác minh được của đứa trẻ (được xem xét theo độ tuổi
và sự hiểu biết) ;
b) Những nhu cầu học tập, tình cảm và thể chất của trẻ ;
c) Tác dụng có thể có đối với trẻ do bất kỳ thay đổi nào trong hoàn cảnh của trẻ ;
d) Tuổi tác, giới tính, trình độ và bất kỳ đặc điểm nào của trẻ mà tòa án cho là có
liên quan ;
e) Bất kỳ sự nguy hại nào mà trẻ phải chịu hoặc có nguy cơ sẽ chịu ;
f) Khả năng của mỗi cha mẹ, và bất kỳ người nào khác có liên quan mà tòa án xem
xét vấn đề có liên quan, đáp ứng nhu cầu của trẻ như thế nào.
g) Các loại quyền lực có sẵn đối với tòa án dưới đạo luật này trong các vụ kiện. [
mục 1 (3) ]
28
Có điều xác đáng vững vàng là tòa án tin rằng trẻ em được chăm sóc và bảo
vệ tốt nhất trong gia đình của chúng. Khái niệm mới về “trách nhiệm của cha mẹ”
nói lên nỗ lực vượt ra khỏi quan điểm xem em trẻ như vật sở hữu theo khái niệm cũ
về “quyền của cha mẹ”. Trách nhiệm của cha mẹ được định nghĩa là “tất cả quyền,
bổn phận, quyền lực, trách nhiệm, và quyền hành mà luật pháp quy định một người
cha của đứa trẻ trong quan hệ với đứa trẻ và quyền sở hữu của trẻ. Sự chăm sóc trẻ
và quyền riêng tư mà tòa cho là đúng đắn được tăng cường thêm nữa bởi quy định
“can thiệp tối thiểu” [mục 1 (5)], để ngăn ngừa tòa án ra những lệnh có liên quan tới
trẻ trừ trường hợp ra những lệnh như thế sẽ tốt hơn cho đứa trẻ.
k. Quyền được phát triển tốt nhất
Những quy định trong Đạo luật trẻ em 1989 thúc đẩy quyền trẻ em được phát
triển tốt nhất được hình thành hạn chế hơn quyền trẻ em được bảo vệ. Tiếp cận ở
nhà, giáo dục, sức khỏe và hỗ trợ thu nhập phần lớn nằm ngoài phạm vi của Đạo luật
trẻ em, dù rằng tiết 27 cho phép chính quyền địa phương yêu cầu sự giúp đỡ của các
cơ quan bao gồm các lĩnh vực giáo dục, nhà ở, y tế cung ứng những dịch vụ hỗ trợ
theo phần III của Đạo luật. Như nhân viên xã hội đã thấy cũng giống như Công ước
Liên hiệp quốc, Đạo luật trẻ em nhấn mạnh rằng cha mẹ thường là người chăm sóc
tốt nhất cho con cái của mình. Đây là một hành động tích cực cho trẻ em. Điều kém
vui là vai trò bị hạn chế tiếp nhận các dịch vụ để hỗ trợ những nỗ lực của cha mẹ tạo
những cơ hội phát triển tốt nhất có thể được cho con cái họ. Eekelaar (1991) trong
cuộc thảo luận ban đầu về Đạo luật trẻ em đã nêu ra ý nghĩa của “trách nhiệm của
cha mẹ” thay đổi như thế nào từ trách nhiệm của cha mẹ làm đầy đủ bổn phận đối
với trẻ sang trách nhiệm chăm sóc trẻ thuộc về cha mẹ thay vì thuộc về nhà nước. Do
vậy, trong khi nhà nước nhận ra tầm quan trọng của gia đình đối với trẻ em thì lại ít
nhận ra sự quan trọng của các dịch vụ đối với gia đình - Sự chăm sóc của trẻ em
phần lớn vẫn là trách nhiệm riêng tư và cá nhân.
Bất hạnh được định nghĩa là :
29
a) Trẻ không thể thành đạt hay duy trì hoặc không thể có cơ hội để thành đạt hay
duy trì, tiêu chuẩn hợp lý về sức khỏe hay phát triển mà không có sự hỗ trợ các
dịch vụ cho trẻ do chính quyền địa phương thuộc khu vực này ;
b) Sự phát triển và sức khỏe của trẻ có thể bị tổn thương đáng kể, nhiều sự tổn
thương mà không có sự hỗ trợ dịch vụ nào cho trẻ ; hoặc
c) Trẻ bị khuyết tật.
Đối với trẻ em được xem là không “bất hạnh”, thì Đạo luật không có nhiệm
vụ cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, dầu vậy chăm sóc ban ngày có thể được cung ứng
cho trẻ không bất hạnh dưới 5 tuổi. Trên thực tế, sự thiếu hụt tài nguyên có nghĩa là
“bất hạnh” được diễn dịch một cách hạn chế gồm số nhỏ trẻ em có nguy cơ liên quan
tới việc thực hiện vai trò cha mẹ hơn là những nguy hiểm về kinh tế, xã hội hay môi
trường .
l. Quyền tham gia
Đạo luật trẻ em 1989 được xem như một bước tiến quan trọng trong việc thúc
đẩy quyền tham gia của trẻ em. Một cách tổng thể, Đạo luật ủng hộ phong cách lấy
quyết định hòa nhập, đặc biệt nhấn mạnh đến sự tham gia của cha mẹ như những
người đồng hành trong việc lấy quyết định. Song song với điều này, có sự nhấn
mạnh đến sự tham gia của trẻ em trong những quyết định có ảnh hưởng đến trẻ em.
Bainham biện luận rằng Đạo luật “hỗ trợ một cách tổng quát khái niệm lấy quyết
định có tham gia giao cho người trẻ một mức độ tự quyết định. Nguyên tắc chung
này có chú ý đến quan điểm của trẻ em đánh dấu sự điều chỉnh quan trọng trong sự
cân bằng quyền lực giữa trẻ em và xã hội người lớn” (1993 : 60).
Ngay cả sự mở rộng quyền tham gia trong việc lấy quyết định cũng không
nhất quán trong suốt đạo luật. Quyền của trẻ em không những chỉ tùy thuộc vào
những yếu tố chủ yếu như tuổi tác và sự trưởng thành mà còn tùy vào vấn đề có nguy
cơ.
30
Những quy định của Đạo luật liên quan tới quyền tham gia tạo cho trẻ em có
những vai trò và vị thế khác nhau.
• Người không tham gia. Trong một số trường hợp, theo Đạo luật trẻ em không có
quyền tham gia lấy quyết định. Những thí dụ rõ ràng nhất là những trẻ em mà cha
mẹ ly hôn hay ly thân thỏa thuận về sự xếp đặt đối với con cái của họ. Trong các
vụ kiện riêng tư không phán quyết, cha mẹ và tòa án không có bổn phận tham
khảo ý kiến trẻ em về sở thích của trẻ đối với việc cư trú và gặp gỡ.
• Người nhận thông tin. Chính quyền địa phương có bổn phận công bố thông tin về
các dịch vụ hỗ trợ gia đình. Cụ thể hơn, có sự mong đợi rằng làm việc với trẻ em
không chỉ tìm hiểu quan điểm của trẻ mà còn giải thích cho trẻ bất kỳ quyết định
nào được đưa ra.
• Người được tham khảo. Đạo luật yêu cầu ý kiến của trẻ em cần phải được nhận
biết trong hàng loạt quyết định có ảnh hưởng đến trẻ em.
Trong khi Đạo luật đòi hỏi phải lắng nghe tiếng nói của trẻ em nhưng tiếng
nói của trẻ thì lại chẳng được lắng nghe chút nào, mà cũng chẳng có ảnh hưởng nào.
Quyền mà Đạo luật đưa ra nói chung chỉ là sự tư vấn ; bổn phận “quan tâm” đến
quan điểm của trẻ mà quan điểm thì khác với sự quyết định. Quyền tư vấn là quyền
đi sau quyền tối quan trọng an sinh (dù vậy không có sự loại trừ nhau). Tầm quan
trọng được đặt vào quan điểm của trẻ em là phải tùy thuộc vào “tuổi tác và sự hiểu
biết”, với mong đợi rằng sự quan trọng sẽ được đặt vào quan điểm của đứa trẻ trưởng
thành hơn (nhưng không chỉ đơn giản là trưởng thành theo thời gian).
• Người đồng ý. Có nhiều lĩnh vực của đạo luật trong đó trẻ em được trao quyền
xác định kết quả thực sự một quyết định. Điều này phải có sự đồng ý và tùy theo
sự thẩm định khả năng lấy quyết định của đứa trẻ. Trẻ em được Đạo luật làm tăng
năng lực để khước từ cuộc khám nghiệm tâm thần hay y khoa, thẩm định hay
31
chữa trị nếu được xem như có đủ năng lực. Trẻ em được chăm sóc cũng có thể
khước từ sự lựa chọn của chính quyền địa phương về người vãng gia độc lập đối
với trẻ em (hay khước từ cuộc hẹn đang diễn ra), tuy nhiên chỉ trong điều kiện trẻ
cho là đủ năng lực để đưa ra quyết định có hiểu biết.
• Người khởi xướng. Đạo luật trẻ em cho trẻ em quyền được phép có hành động
độc lập hợp pháp. Lúc này trẻ em có thể xin phép tòa án để ứng dụng cho các
lệnh theo mục 8 (đó là tiếp xúc, cư trú, các vấn đề cụ thể và các bước bị ngăn
cấm) hoặc được tham gia như những thành viên đối với các vụ kiện, cũng như thi
hành lệnh chăm sóc. Tòa án thỏa mãn chỉ khi nào đứa trẻ có đủ hiểu biết để thi
hành chứ không phải vì nguyên tắc an sinh được đáp ứng khi được phép (White
và các đồng tác giả 1995 : 1136). Tuy vậy, vấn đề thực sự là nguyên tắc an sinh
vẫn là quan trọng.
• Người có ý kiến. Trẻ em được chăm sóc, hoặc trẻ em bất hạnh, theo đạo luật,
được quyền nói lên hay có ý kiến về các dịch vụ của chính quyền địa phương.
Các tổ chức tự nguyện và các nhà nuôi trẻ đã đăng ký cũng được yêu cầu để hình
thành phong cách đóng góp ý kiến.
Vậy Đạo luật trẻ em ban đặc quyền tham gia cho trẻ em đến mức nào ? Điều rõ ràng
là mức độ quyền tham gia tùy thuộc vào hai yếu tố chính :
(a) Tuổi tác và sự hiểu biết của trẻ.
(b) Vấn đề có tình nguy cơ.
Đối với trẻ em lớn hơn có năng lực, đạo luật mở rộng quyền tư vấn thành
quyền có sáng kiến và quyền bày tỏ sự đồng ý.
Trong nhiều trường hợp trẻ em không được xem là có khả năng vẫn được hỏi
ý kiến và thông báo nhưng sẽ ít đặt nặng vào những mơ ước và tình cảm được trẻ
32
bày tỏ. Trẻ em không có năng lực Gillick không thể có sáng kiến của riêng chúng và
không thể có sự đồng ý.
Ngoài sự trưởng thành, yếu tố quan trọng trong việc xác định quyền tham gia
là vấn đề nguy cơ. Những nhóm trẻ em nào đó có nhiều quyền hơn các nhóm khác.
Đối với trẻ em mà phẩm chất của cha mẹ bị nghi ngờ và trẻ em lại được chăm sóc ở
đó thì việc lắng nghe trẻ được đặt nặng hơn trong những gia đình ly hôn, ly thân như
nhân viên xã hội đã thấy giả định rằng việc lắng nghe trẻ thuộc về trách nhiệm của
cha mẹ thì tiếng nói của trẻ chỉ được lắng nghe trong một số rất ít các trường hợp cha
mẹ bất đồng.
Lyon và Parton biện luận rằng Đạo luật nói lên một bước tiến tới việc nhận
thức rõ trẻ em là chủ thể độc lập hơn là đối tượng của an sinh : “Trẻ em được quyền
nói trong những vấn đề có liên quan đến trẻ nhưng đó không phải là tiếng nói cuối
cùng. Những quy định cho trẻ em sự độc lập nhưng lại ngưng đột ngột toàn bộ hậu
quả của hành động đó.
m. Quyền không phân biệt đối xử
Không giống trong Công ước Liên Hiệp Quốc, không có cam kết rõ ràng nào
trong Đạo luật trẻ em 1989 rằng các quyền được áp dụng cho tất cả trẻ em không kể
giới tính, sắc tộc hay khuyết tật. Thay vào đó, suy nghĩ đằng sau đạo luật phản ảnh
niềm tin rằng các nhóm trẻ em khác cần những nhu cầu khác phải được tòa án và
nhân viên chuyên môn quan tâm. Như vậy, thay vì nhấn mạnh cách đối xử bình đẳng
mà có thể dẫn đến chủ nghĩa đồng hóa, một cách tiếp cận nhạy cảm về văn hóa,
không để ý đến màu da / giới, thì có sự tập trung vào việc nhận diện và đáp ứng các
nhu cầu cụ thể của từng cá nhân trẻ em (Macdonald 1991).
Phần này cho nhân viên xã hội hiểu sự hình thành bối cảnh công tác xã hội
với trẻ em, nhấn mạnh sự năng động và bối cảnh thay đổi của chính sách chăm sóc
trẻ em. Hiện nay khung luật pháp trình bày cách tiếp cận “cân bằng” hơn đối với trẻ
33
em và gia đình, kết hợp với quyền tham gia và bảo vệ, không phân biệt đối xử và
phát triển tốt nhất. Những khó khăn hay thách thức đối với nhân viên xã hội là làm
sao biết duy trì được sự “cân bằng”này.
34
PHẦN III♣
TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN TUỔI THƠ
1. Sự phát triển của trẻ em là gì ?
Khi nhân viên xã hội quan sát, nói chuyện, lắng nghe hay chơi đùa với trẻ em,
họ cần có kiến thức và kỹ năng để xem xét tiến trình phát triển tuổi thơ và đặc biệt là
nhìn rõ những thay đổi riêng biệt ở trẻ em, về thế giới của chúng. Đứa trẻ phải được
xem như một tác nhân trong đời sống của riêng trẻ hơn là một người thụ hưởng thụ
động sự chăm sóc của cha mẹ. Từ lúc sinh ra, đứa trẻ cố gắng hiểu biết về thế giới
xung quanh và xây dựng cho mình một mô hình để hiểu và đáp ứng với những sự
kiện và các mối quan hệ. Nhân viên xã hội cần tìm hiểu liên tục kinh nghiệm của đứa
trẻ. Nó có ý nghĩa gì đối với trẻ ? Trẻ em không chỉ có quyền mà còn có nhu cầu tình
cảm và tâm lý, cần được đối xử như một con người hơn là một đối tượng của sự
quan tâm. Để nhân viên xã hội hiểu được những kinh nghiệm của trẻ và khuyến
khích chúng bày tỏ ước muốn và tình cảm của chúng có hiệu quả nhất thì họ cần
phải hiểu quan điểm của đứa trẻ về thế giới trong một bối cảnh phát triển.
Nhân viên xã hội trong mọi lĩnh vực làm việc trực tiếp với trẻ em đều cần có
khả năng để hiểu sự hiểu biết của trẻ về thế giới của chúng. Bản chất của sự hiểu biết
của trẻ có liên quan tới tuổi tác, giai đoạn phát triển, kinh nghiệm và gia đình trong
bối cảnh xã hội của thế giới đứa trẻ. Đối với nhân viên xã hội, tuổi tác và giai đoạn
phát triển của đứa trẻ sẽ ảnh hưởng đến tính chất công việc mà mình phải thực hiện.
Với trẻ em còn bé, nhân viên xã hội sẽ học nhìn thế giới qua cặp mắt đặc biệt của trẻ
bằng cách quan sát trực tiếp và thu thập thông tin về hành vi của trẻ. Khi trẻ em lớn
hơn, chúng sẽ tiếp tục trao đổi qua hoạt động vui chơi, vẽ, nói, viết. Nhân viên xã hội
♣ D ựa theo”Social Work with children c ủa Marian Brandon, Gillian Schofield v à Liz Trinder, Mac. Press LTD, 1998
35
cần đặt tất cả những trao đổi này trong bối cảnh phát triển của đứa trẻ. Như vậy nhân
viên xã hội bắt đầu bằng cách xem xét một số cách định nghĩa về sự phát triển trước
khi tìm hiểu chi tiết mỗi giai đoạn và độ tuổi.
Khái niệm về sự phát triển của trẻ em tự nó thường được chia thành nhiều
loại. Đối với mục đích thực hành công tác xã hội, phát triển có` liên quan đến các
yếu tố được nêu trong Đạo luật trẻ em - phát triển thể chất, tình cảm, hành vi, trí tuệ
và xã hội - bởi vì đây là những yếu tố cần thiết được xem xét khi một đứa trẻ có khó
khăn hay có nguy cơ bị hại nghiêm trọng. Tuy nhiên, dù các lĩnh vực phát triển này
được phân chia ra, điều quan trọng là nhân viên xã hội cần có một bức tranh toàn
diện về tình trạng phát triển của trẻ vì tất cả các lĩnh vực phát triển này được nối kết
với nhau. Thí dụ như sự phát triển ngôn ngữ và những kỹ năng giao tiếp tùy thuộc
vào sự phát triển nhận thức, tình cảm và xã hội. Sức khoẻ về thể chất và an sinh tình
cảm sẽ ảnh hưởng đến khả năng tập trung và gia tăng thành quả trí tuệ. Sự tách rời
giữa các yếu tố khác nhau là để hiểu được các lĩnh vực quan tâm tiềm ẩn khác nhau
khi làm việc với trẻ em.
Các vấn đề khác nhau mà nhân viên xã hội cần phải hết sức ý thức là những vấn đề
được nhận ra trong hệ thống “chăm sóc trẻ em” để đánh giá và lên kế hoạch cho trẻ
em để được chính quyền địa phương chăm sóc.
• Sức khỏe
• Học vấn
• Quan hệ gia đình và xã hội
• Vị trí xã hội
• Phát triển hành vi và cảm xúc
• Kỹ năng tự chăm sóc
36
Chăm sóc trẻ em trong bối cảnh này gồm có sự quan tâm đến các lĩnh vực
của đời sống trẻ em ngoài gia đình, chẳng hạn như giáo dục, có thể có ích trong
những trường hợp đánh giá và giúp hiểu biết hơn trong công tác trực diện của nhân
viên và đứa trẻ.
1.1. Năm đầu tiên của cuộc sống
Ngay cả về mức độ thuần túy thể chất thì cũng có sự khác biệt về phẩm chất
của sự khởi đầu cuộc sống của một đứa trẻ. Mức an sinh của người mẹ, kiêng ăn và
sự chăm sóc trước khi sinh trong thời gian thai nghén sẽ ảnh hưởng đến đứa trẻ chưa
sinh ra. Nghèo đói và sức khỏe kém ảnh hưởng đến khả năng có thể có vấn đề trong
khi có thai và khi sinh. Trong nhiều trường hợp nghiêm trọng hơn, việc sử dụng
nhầm thuốc có thể dẫn đến việc đứa bé chịu những triệu chứng cai nghiện và người
mẹ uống quá nhiều rượu có thể dẫn đến cái gọi là triệu chứng nghiện rượu ở thai nhi.
Những yếu tố trước khi sinh như thế có thể ảnh hưởng đến một số lĩnh vực phát
triển. Chẳng hạn như các bé sinh ra với triệu chứng nghiện rượu sẽ có vấn đề về thể
chất như yếu tim, cũng như có vấn đề về nhận thức như học hành khó khăn, và có
vấn đề về hành vi như tập trung kém. (Streissguth và các đồng tác giả 1991).
Ở Mỹ, triệu chứng thai nhi nghiện rượu là nguyên nhân dẫn đến những dạng
tật về học tập ở trẻ em, vượt quá tỷ lệ hội chứng Down (Streissguth và các đồng tác
giả 1991). Hiểu biết về những nguy cơ như vậy cần phải được kèm theo những kỹ
năng quan sát tốt để thiết lập cách thức giúp các trẻ bé này phát triển trong bối cảnh
chăm sóc của gia đình.
Việc trẻ em được sinh ra với những giác quan nhạy bén thông qua kinh
nghiệm tương tác với môi trường là điều quan trọng nhất - những người thân xung
quanh đáp ứng nhu cầu thực phẩm, áo quần để mặc, nhu cầu bồng bế đụng chạm,
ngửi mùi đặc biệt, nghe âm thanh vỗ về, trấn an và những nụ cười. Trẻ em mới sinh
ra hoàn toàn có kỹ năng nhận biết cao và có khả năng phân biệt mẹ chúng và những
37
người khác bằng cảnh vật, âm thanh và mùi vị khi. Qua những khả năng này mà từ
ban đầu đứa bé đã có khả năng hình thành những mối quan hệ đặc biệt.
Những mối quan hệ đó hình thành không chỉ dựa vào khả năng của đứa bé mà
còn nhờ vào sự đáp ứng của những người lớn có mặt. Bản chất của tình cảm mà cha
mẹ dành cho bé lúc mới sinh thường là mối liên kết. Klaus và Kennell (1976), dựa
trên nghiên cứu của họ biện luận rằng thời điểm quan trọng là ngay sau khi sinh lúc
người mẹ bắt đầu gần gũi với bé. Sluckin và các đồng tác giả năm 1983 đưa ra ý kiến
là sự phát triển tình cảm của cha / mẹ dành cho đứa con là một tiến trình từ từ không
nhất thiết đòi hỏi sự gần gũi về mặt thể chất ngay tức khắc sau khi sinh. Thời gian
sau khi sinh cần phải được xem là thời điểm nhạy cảm hơn là thời điểm quan trọng
để tình cảm của cha / mẹ dành cho đứa trẻ phát triển. Người mẹ tham gia vào tiến
trình này và người cha cũng vậy (Bee 1997). Có một số trường hợp mối liên kết này
thất bại khi người mẹ cảm thấy dửng dưng hoặc có khi căm ghét đứa bé. Trong
những trường hợp nghiêm trọng nhất, cần sự can thiệp cực sâu để hình thành mối
quan hệ liên kết trước khi đứa bé tránh né người mẹ. Một khi đứa bé bắt đầu xa cách
người mẹ thì người mẹ có thể cảm thấy khó khăn hơn nhiều để thiết lập mối quan hệ.
Sự nhạy cảm của đứa trẻ đối với những thông điệp mà trẻ nhận được về thế
giới chung quanh là một lĩnh vực rất quan trọng đối với nhân viên xã hội chăm sóc
trẻ. Từ những tuần lễ ban đầu, đứa bé phản ứng khác nhau đối với sự biểu lộ của
người mẹ về niềm vui, nỗi buồn hay giận dữ (Haviland và Lelwica 1987). Sự bày tỏ
tình cảm bằng nét mặt của người mẹ cũng sẽ ảnh hưởng tới khả năng chơi những đồ
chơi của đứa bé (Harris 1989).
Trẻ em chứng kiến bạo lực trong gia đình cũng nhận những thông điệp làm
cho chúng sợ hãi hay không tin tưởng vào môi trường chung quanh mà chúng tìm
thấy chính mình. Xã hội thường coi thường hậu quả của những lĩnh vực môi trường
chung quanh của trẻ em như thế (Brandow và Lewis 1996).
1.2. Sự gắn bó
38
Lý thuyết “gắn bó” của Bowlby (1969, 1979, 1980) đã có một sự đóng góp
chủ yếu vào cách thức nhân viên xã hội phân tích về sự phát triển mối quan hệ giữa
con cái và cha mẹ. Sự gắn bó này là khái niệm chính trong thực hành công tác xã hội
với trẻ em bởi vì nhân viên xã hội thường cho rằng mối quan hệ gia đình gần gũi của
trẻ em là nguồn gốc của những vấn đề về hành vi và cảm xúc.
Ba lãnh vực hành vi ở trẻ thông qua thuyết “gắn bó”
• Tìm kiếm sự gần gũi. Đứa trẻ tìm cách duy trì sự che chở bảo bọc của cha / mẹ
hoặc một hình ảnh gắn bó khác, nhất là khi cảm thấy lo lắng hay bị đe dọa.
• Hiệu quả của nền tảng vững chắc. Qua thời gian, sự sẵn sàng của người gắn bó có
thể tiên đoán được cho phép đứa trẻ cảm thấy đủ an toàn để thăm dò, vui chơi và
học hỏi.
• Phản kháng sự xa cách. Đứa trẻ sẽ phản kháng nếu sự tiếp cận với người gắn bó
bị từ chối.
Mặc dù nhân viên xã hội biết rằng ngay trong giai đoạn ban đầu này trẻ em có
thể hình thành nhiều mối quan hệ gắn bó nhưng cho tới độ tuổi 6 đến 8 tháng thì hầu
hết trẻ em có thể bày tỏ sự ưa thích mạnh mẽ đối với một người lớn đặc biệt đã tạo
cho trẻ nền tảng tình cảm vững chắc.
Nền tảng vững chắc này có tầm quan trọng trong việc tạo thuận lợi cho việc
học tập, là một yếu tố chủ yếu trong sự phát triển xã hội và trí tuệ ở những trẻ còn
bé. Trẻ em phát triển khả năng khám phá môi trường của chúng, tin rằng người gắn
bó sẽ có mặt khi trẻ cần đến. Tiến trình này làm cho trẻ tự do học hỏi về thế giới mà
trong đó trẻ tìm thấy chính mình. Sự vững chắc về tình cảm cũng cho phép đứa trẻ
vận dụng năng lực của trẻ để học hỏi và phát triển hơn là có nhiều lo lắng. Hơn nữa,
39
Bowlby đã cho rằng mô hình liên kết phát triển thành “mô hình hoạt động nội tại”.
Đứa trẻ có một mô hình về bản thân, về người khác và về các mối quan hệ.
Vera Fahlberg (1998) mô tả tiến trình hình thành sự gắn bó vững chắc như
một chu kỳ tùy thuộc vào sự nhạy cảm của cha / mẹ với những dấu hiệu của đứa trẻ
khi trẻ thông tin các nhu cầu thể chất hay tâm lý.
Nhu cầu thể chất hay tâm lý
Giảm nhẹ căng thẳng
Tình trạng kích thích cao
An toànTin tưởng
Gắn bó
Thỏa mãnnhu cầu
Hình 2.1 : Chu kỳ kích thích - thư giãn
Các chu kỳ cho biết thế nào là hình thức “đối thoại” sớm nhất, dẫn đến sự
tương đồng giữa người lớn và đứa trẻ. Sự bộc lộ nhu cầu và đáp ứng nhạy cảm, kế
đó là sự giảm nhẹ căng thẳng và nhờ vào sự lặp đi lặp lại theo thời gian của những
chu kỳ như thế đã dẫn đến sự cảm nhận của đứa trẻ về hình ảnh của cha / mẹ và xem
cha / mẹ như một nền tảng vững chắc, một người mà trẻ có thể dựa vào về mặt thể
chất cũng như tình cảm, một “cha mẹ đủ tốt” như Winnicott (1965) đã gọi. Quan sát
những mô hình quan hệ này trong năm đầu tiên của cuộc sống của trẻ cho phép nhân
viên xã hội chú ý đến những trục trặc trong những giai đoạn ban đầu của sự phát
triển tình cảm, để hiểu được mối quan hệ cha / mẹ - đứa trẻ và nhận diện được những
40
khó khăn như tình trạng kích thích cao do nhu cầu không được đáp ứng ví dụ khi
một đứa bé đang khóc hay đi chập chửng và giận dữ hay một thiếu niên không thể tự
chủ bản thân. Khi cha mẹ xao lãng hay chối bỏ trẻ thì đứa trẻ có thể ngưng truyền
đạt những nhu cầu của nó. Khi một đứa trẻ hoàn toàn bị bỏ bê từ lúc mới sinh, chúng
có thể quấy rầy và la khóc nhiều lúc đầu nhưng chúng hoàn toàn có thể nhanh chóng
trở nên cực kỳ thụ động, im lặng và buồn tẻ. Chúng có thể ngủ nhiều ban ngày và
không đòi ăn. Một “đứa bé tốt” mà không lên cân cần phải được xem xét và đánh giá
cẩn thận.
Cha hay mẹ hay người chăm sóc cần phải khơi dậy mối tương tác nhằm giúp
cho trẻ có cảm xúc tích cực về chính bản thân chúng. (Fahlberg 1988).
Cha mẹ khơi dậy mối
tương tác tích cực
Có giá trị tự trọng
Trẻ đáp ứng một cách tích cực
Hình 2.2 : Chu kỳ tương tác tích cực
Nơi nào mà trẻ không có mối tương tác tích cực với cha mẹ hay người chăm
sóc thì tính tự trọng của chúng trở nên tồi tệ. Đối với những trẻ thiếu kinh nghiệm về
sự đáp ứng các nhu cầu ở chu kỳ đầu tiên, nhân viên xã hội có thể nhận thấy trẻ từ
chối tất cả tấm lòng tốt và những lời nói ngọt ngào. Những người chăm sóc nuôi
41
nấng trẻ tại cơ sở cũng nhận ra điều này, và họ thường thất vọng khi một đứa trẻ đến
từ môi trường gia đình có vấn đề không chấp nhận sự chăm sóc chu đáo dành cho
trẻ.
1.3. Sự lo lắng xa cách và mô hình gắn bó
Phần nhiều sự phát triển lý thuyết gắn bó tùy thuộc vào sự xem xét tác động
của sự xa cách và bản chất của sự lo lắng về xa cách. Theo Bowlby :
Lý thuyết gắn bó là một khái niệm hóa về việc con người có xu hướng tăng
cường sự ràng buộc tình cảm đối với những người khác đặc biệt và giải thích
nhiều các hình thức đau buồn, rối loạn nhân cách bao gồm lo âu, giận dữ,
trầm cảm và xa cách về mặt tình cảm gây ra do xa cách và mất mát miễn
cưỡng. (Bowlby 1979 : 127).
Lý thuyết gắn bó của Bowlby đã được phát triển như một phương pháp để xác
định phẩm chất của sự gắn bó. Mary Ainsworth hình thành phương pháp phân loại
mô hình mối quan hệ gắn bó vững chắc và không vững chắc (Ainsworth và các đồng
tác giả 1979). Bà đã sử dụng một bối cảnh thử nghiệm, nói lên một “tình huống xa
lạ”, để xem em trẻ phản ứng khác biệt như thế nào với một sự xa cách tạm thời của
người mẹ và phản ứng với người lạ ra sao. Phương pháp phân loại định nghĩa sự gắn
bó vững chắc và 3 loại gắn bó không vững chắc : xa cách / tránh né, kháng cự / mâu
thuẫn và không tổ chức / không định hướng. Những mô hình này đòi hỏi sự xem xét
chi tiết và đối với nhân viên xã hội làm việc với trẻ em theo phương pháp cá nhân, sẽ
có ích lợi để hiểu được dấu hiệu mức độ gắn bó của đứa trẻ. Chẳng hạn như một đứa
trẻ cứ bám theo mẹ có thể cho thấy một sự gắn bó không an toàn, trong khi một đứa
bé chơi đùa một cách thỏa mãn và chỉ thỉnh thoảng quay lại mẹ có thể có sự gắn bó
vững chắc. Đây không phải là những phân biệt lúc nào cũng dễ nhận ra. Như Howe
đã trình bày :
42
Hành vi của những trẻ có sự gắn bó không an toàn là sự đáp ứng thích nghi
trong bối cảnh mối quan hệ mà trẻ nhận ra chính mình. Hành vi được chấp
nhận là một cách thức phòng vệ được hình thành do đứa trẻ để ứng phó với
những cảm xúc lo âu, không ổn định và sợ hãi (1995).
Trong năm đầu tiên của cuộc sống, trẻ em học hỏi rất nhanh về thế giới chúng
đang sống và về vị trí của chúng trong thế giới đó. Những sự kiện tiếp theo có thể và
có một ảnh hưởng chủ yếu, là kinh nghiệm ban đầu chắc chắn rất quan trọng trong
việc tạo thành cơ sở cho một số kỹ năng cơ bản của đứa trẻ và các mô hình của mối
quan hệ.
Tóm lại :
• Trẻ mới sinh cực kỳ nhạy cảm với người chăm sóc và các tác nhân của môi
trường của chúng. Chúng trao đổi các trạng thái cảm xúc của chúng bằng nét mặt,
tâm trạng, hành vi và cũng bằng nhiều cách khác nữa, chẳng hạn lên cân, phát
triển đúng theo chuẩn mực vv..
• Kiến thức về những kinh nghiệm đầu tiên của trẻ sẽ giúp ích cho việc hiểu hành
vi của trẻ lớn hơn trong bối cảnh. Khung lý thuyết liên quan đến sự gắn bó không
vững chắc là quan trọng để hiểu phản ứng mâu thuẫn thật sự hay phản ứng phòng
vệ ở trẻ em.
2. Trẻ ở giai đoạn tiền học đường
Đây là giai đoạn chuyển từ lệ thuộc sang độc lập ; trao đổi bằng ngôn ngữ ;
biết chơi ; phát triển xã hội ban đầu.
Nếu như công việc chính của năm đầu tiên là phát triển sự tin tưởng và gắn bó
thì những năm từ 1 tới 3 đứa trẻ chuyển từ sự lệ thuộc sang hình thành một mức độ
độc lập. Độc lập ở đây không có nghĩa là tự chủ hoàn toàn mà có nghĩa là đứa trẻ
biết chọn lựa trong ranh giới môi trường an toàn. Như Fahlberg nói, cha mẹ ở giai
43
đoạn này cần đáp ứng đứa trẻ bất cứ cái gì sẽ làm đứa trẻ cảm thấy có khả năng hơn
(1994). Đây thường là giai đoạn của mâu thuẫn. Khi tiến trình xa cách tâm lý bắt
đầu, đứa trẻ có thể trải qua sự lo lắng về sự xa cách thể chất và sẽ cần vận dụng tới
hình ảnh gắn bó nhiều hơn như một nền tảng vững chắc hay có thể trở nên rất nhút
nhát. Đứa trẻ 20 tháng một ngày đòi được tự do chọn áo quần để mặc, có thể một
ngày khác sẽ đòi được tự múc ăn.
Một phần của sự căng thẳng giữa lệ thuộc và độc lập có khuynh hướng tự
biểu lộ bằng hành vi lệch lạc và tiêu cực trong nhóm tuổi này. Nghiên cứu của Dunn
(1988) cho thấy rằng đa số trẻ em 2 -3 tuổi nằn nì đòi hỏi hay làm cái mà chúng
không được phép làm. Tiến trình khẳng định này là một phần thích hợp để hình
thành cái tôi như một người độc lập riêng biệt với những suy nghĩ của riêng mình.
Nó cũng là cách để thử thách những hạn chế và ranh giới mà thế giới người lớn sẽ áp
đặt, trước tiên hết là cha mẹ. Đối với cha mẹ, một đứa bé chập chững biết đi có hành
vi lệch lạc là một sự thách thức đối với uy quyền mà họ không thể tha thứ được. Cha
mẹ sẽ rút những kinh nghiệm từ thời tuổi thơ của họ để làm cha mẹ, và nếu kinh
nghiệm này có khó khăn hay thiếu chăm sóc thì họ sẽ thấy khó có thể duy trì mối
quan hệ yêu thương với một đứa trẻ mà họ xem là có quyền lực hay thù hằn. Cha mẹ
có thể đổ lỗi cho đứa trẻ vì đứa trẻ có vấn đề về thể trạng, và sự khẳng định bình
thường của đứa trẻ có thể bị đối xử ngược đãi, hành hạ vì gây đau khổ cho cha / mẹ.
Trong một số lớn trường hợp, điều này dẫn tới sự từ chối hay loại trừ đứa trẻ bằng
cách nhốt nó trong phòng ngủ hoặc cố gắng dạy bảo đứa trẻ bằng sự trừng phạt thể
chất. Nghiên cứu cho thấy rằng ở đâu mà đứa trẻ trải qua sự đáp ứng tiêu cực dai
dẳng thì ở đó đứa trẻ trở nên căng thẳng nhiều hơn và càng tiêu cực liên tục với cha
mẹ (Bugental và các đồng tác giả 1989). Ở gia đình mà cha mẹ hay trừng phạt và
không đoán trước được thì đứa trẻ tỏ ra lạnh lùng và không vận động vì lo lắng. Tuy
tránh tiếp xúc bằng mắt nhưng sự quan sát theo dõi có thể chứng tỏ là cách tốt nhất
để đứa trẻ có thể dự đoán được và tránh được sự chối bỏ của cha mẹ. Dĩ nhiên, loại
chiến lược này có ý nghĩa rằng đứa trẻ sẽ không phát triển sự tin tưởng sẽ có lòng tự
trọng thấp và sẽ không có năng lực để tìm hiểu môi trường chung quanh và học hỏi.
44
2.1. Phát triển ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phần quan trọng của sự phát triển đến mức đáng được chú ý đặc
biệt ở giai đoạn này. Như các lĩnh vực phát triển khác có khoảng độ tuổi rộng rãi để
phát triển kỹ năng ngôn ngữ bình thường. Chẳng hạn như, một số trẻ em sử dụng
một số từ riêng vào lúc 8 tháng, một số trẻ khác tới 18 tháng. Một số sử dụng câu 2
từ lúc 18 tháng, trong khi những trẻ khác ít nhất 2 năm mới nói được những câu 2 từ
như thế. Nhân viên xã hội cần tham khảo các nhà trị liệu ngôn ngữ để có những phán
đoán hợp lý về sự phát triển ngôn ngữ, tuy nhiên những quan sát trong bối cảnh gia
đình cho phép các nhân viên xã hội có được một bức tranh đầy đủ hơn về trình độ và
phong cách giao tiếp của đứa trẻ.
Cha mẹ cung cấp một môi trường kích thích ngôn ngữ giúp trẻ em phát triển
ngôn ngữ, bằng cách nói chuyện với đứa trẻ, đọc cho trẻ nghe, khơi gợi trẻ nói và
đáp ứng một cách tích cực. Ngược lại trẻ em lớn lên trong những gia đình tương đối
bất ổn mà ngôn ngữ hiếm khi nhắm tới trẻ một cách cụ thể có thể làm cho trẻ gặp
nhiều khó khăn hơn. Đây là trường hợp đặc biệt mà mối quan hệ đồng bộ và hỗ
tương được mô tả ở trên có liên quan tới mô hình gắn bó chưa phát triển được trong
thời trẻ mới sinh, cho nên mô hình đối thoại thiếu đi trong hoạt động của đứa trẻ.
Nếu các nỗ lực về ngôn ngữ không được đáp ứng tích cực thì các hình thức hành vi
khác sẽ lôi kéo sự chú ý, chẳng hạn như la hét hay giận dữ có thể xảy ra hơn. Bất kỳ
là nguyên nhân nào, trẻ em không thể sử dụng ngôn ngữ để truyền thông có thể cực
kỳ bất lợi trong mọi lĩnh vực phát triển.
2.2. Vui chơi và học hỏi về xã hội
Khả năng vui chơi của đứa trẻ còn bé giúp trẻ tìm hiểu mối quan hệ về thể lý,
đó là những viên gạch có thể làm thành một cái tháp và chuyển sang dùng đồ vật
bằng gỗ, những viên kẹo hay xe hơi. Bước kế tiếp là kịch xã hội trong đó đứa trẻ học
sắm vai làm cha làm mẹ cho con ăn hay dắt con qua đường, và bằng cách này trẻ tìm
hiểu các tình huống xã hội một cách an toàn. Trẻ ở giai đoạn tiền học đường không
45
chỉ cần biết về mối quan hệ mà chính trẻ có liên quan mà còn về tất cả các loại mối
quan hệ giữa những người khác với nhau nếu trẻ trở thành người vận hành hiểu biết
trong thế giới xã hội đó. Trẻ cần phải biết người khác cảm nhận và suy nghĩ như thế
nào, và sử dụng kiến thức này để hiểu tại sao người khác cư xử như thế này như thế
khác. Khả năng này có giá trị sống quan trọng đối với đứa trẻ. Trẻ cần phải biết cách
đọc những suy nghĩ không những của cha mẹ trẻ mà còn những người lớn khác và
những trẻ em khác trong và ngoài gia đình để hiểu được điều gì đang diễn ra, tác
động ảnh hưởng đến trẻ và những cách mà trẻ dùng để được đáp ứng các nhu cầu.
Lĩnh vực phức tạp này đã thu hút nghiên cứu đáng kể cho thấy rằng sự nắm
bắt tinh tế của trẻ em về “sự hiểu biết của người khác”. Nghiên cứu của Tudy Dunn
tìm thấy ở độ tuổi lên 3 trẻ em cho thấy có sự hiểu biết về cảm xúc của người khác :
Nguyên nhân gây ra đau đớn, buồn phiền, giận dữ, hài lòng và không hài
lòng, thoải mái và sợ hãi ở người khác cũng giống như ở chính các trẻ. Các
trẻ khôi hài, chơi đùa và kể chuyển về những tâm trạng cảm xúc của mình và
của người khác (Dunn 1988).
Vì sự hiểu biết này mà bà đã mô tả nó như “cơ sở đạo đức về chăm sóc, biết
điều và tử tế” và cũng như hầu hết các lĩnh vực khác ở độ tuổi này sẽ tùy thuộc vào
phẩm chất của môi trường gia đình. Nó tùy thuộc vào cha mẹ có thể trao đổi với đứa
trẻ về cảm xúc của người lớn và giúp đỡ trẻ trao đổi về cảm xúc của trẻ bằng cách
nói ra những cảm xúc đó. Một số cha mẹ, thường do kinh nghiệm giới hạn làm cha
mẹ của họ hoặc nhiều khi do trầm cảm chẳng hạn không tham gia vào tiến trình này.
Cho dù họ có thể đối thoại với các con của họ nhưng những cuộc đối thoại đó bị hạn
chế ở mức độ không thể giúp cho đứa trẻ tìm hiểu những cảm xúc và biết được sự
phức tạp của xã hội.
Trong những năm tiền học đường, sự phát triển liên tục của tính độc lập và cá
biệt được đặt vào bối cảnh học tập điều đúng và điều sai. Trẻ ở độ tuổi này phát triển
nhiều về ý nghĩa nên làm cái gì và cái gì có thể chấp nhận được như là hành vi phù
46
hợp xã hội. Cùng với sự phát triển này là sự phát triển lòng tự trọng của đứa trẻ và
ước muốn làm vừa lòng người khác. Cách thức mà đứa bé đánh giá và xem xét về
mình sẽ được nối kết với cách mà trẻ được người khác đánh giá và xem xét. Trong
giai đoạn tiền học đường, trẻ em ý thức không những về giá trị đặt lên trên chúng mà
còn về vai trò mà trẻ phải đóng để làm vừa lòng người lớn và đạt được sự tán thành
của họ.
Khi trẻ thấy rằng bất cứ điều gì mà trẻ làm đều không có được sự tán thành
của cha mẹ thì trẻ coi những hành vi đó của cha mẹ là hành vi thích hợp, cần thiết để
trẻ sử dụng ứng phó với bạn bè đồng trang lứa.
Điều thường bị bỏ quên là tầm quan trọng của nhóm bạn đồng trang lứa và
quan hệ giữa anh chị của trẻ trong độ tuổi này. Tác phẩm của Dunn (1993) đã cho
thấy sự phức tạp của mối quan hệ giữa trẻ em và ở chừng mực nào đó đã thách thức
mối quan hệ gắn bó với cha mẹ. Nó cũng cho nhân viên xã hội thấy rằng khi làm
việc với trẻ em điều quan trọng là hiểu biết vai trò của bạn bè và anh chị của trẻ đối
với trẻ.
Sau cùng, điều quan trọng là làm sáng tỏ 3 thành tố thường có ở độ tuổi này :
chỉ coi trọng bản thân mình, quyền năng tuyệt đối và suy nghĩ hão huyền. Bởi vì khả
năng thấu cảm và hiểu biết về xã hội của trẻ em còn bé nên Dunn và các nhà nghiên
cứu khác đã đặt vấn đề về khái niệm của Piaget là trẻ em còn nhỏ bẩm sinh chỉ biết
có mình. Tuy nhiên, điều này có vẻ có ích để phân biệt khả năng của đứa trẻ hiểu
rằng người khác có quan điểm của riêng của họ và khả năng của đứa trẻ biết xem xét
quan điểm của người khác để đánh giá hành động của họ. Như đã nêu ở trên, trẻ em
sống với những cha mẹ chỉ cư xử bất ngờ, thiếu kiên định và hiếm khi chia sẻ những
cảm xúc của họ với con thì không thể dạy con trẻ cách để hiểu được suy nghĩ của
người khác. Đôi khi đứa trẻ chỉ học dự đoán phản ứng của cha mẹ, như nhiều trẻ bị
ngược đãi học cách để tránh bị tổn thương thêm. Tuy nhiên, điều này không giúp
đứa trẻ phát triển những đáp ứng có tính xây dựng đối với những người lớn khác hay
trẻ em khác. Hơn nữa, nếu một đứa trẻ lo lắng bận bịu với việc tìm cách để nhu cầu
47
của trẻ được đáp ứng thì trẻ không thể quan tâm đến hoặc xem trọng quan điểm hay
cảm xúc của người khác trong hành vi của trẻ. Trong ý nghĩa này, thậm chí khi đứa
trẻ có khả năng nhận thức để hiểu cảm xúc của người khác, thì trẻ cũng tự kỹ theo
nghĩa rộng hơn là không thể chuyển dịch thành hành động một cách tình cảm được.
Trẻ có thể tấn công trẻ gái và lấy đồ chơi của trẻ gái dù trẻ biết rằng điều đó làm trẻ
gái đau đớn và đồ chơi quan trọng đối với trẻ gái.
Đó cũng chính là trường hợp mà những trẻ đối diện với những tình huống
căng thẳng thường xem trọng bản thân mình tức là tự xem mình có trách nhiệm đối
với những gì xảy ra với trẻ. Cảm xúc quyền năng tuyệt đối này, thường được liên hệ
với cái được biết là “suy nghĩ hão huyền”, có thể đặc biệt tràn ngập đối với những trẻ
ở tuổi từ 4 đến 7 hay 8 đang cố gắng để hiểu thế giới của riêng chúng (Jewett 1994).
Nhân viên xã hội cần cảnh giác với những cách mà trẻ em tự cho là mình có lỗi đối
với việc ly dị của cha mẹ, đối với bệnh tật của cha mẹ và đối với sự ngược đãi mà
các trẻ đã trải qua.Thí dụ :Cha bệnh và đi nằm bệnh viện vì con nghịch ngợm.Trong
cuộc điều tra về cái chết của Sukina, 5 tuổi, báo cáo nói về sự kiện ngay trước khi
bất tỉnh vì bị hành hung trẻ đã nói “con xin lỗi cha” (Stone 1991). Đứa trẻ mỉm cười
để làm nguôi giận người cha / mẹ có hành vi không thể đoán trước hoặc đứa trẻ tự
trách mình vì sự cư xử tệ hại.
Suy nghĩ hão huyền cũng có thể được nối kết với khuynh hướng dành cho đứa
trẻ ở tuổi tiền học đường có cuộc sống tưởng tượng mạnh mẽ. Sợ bóng tối là nỗi sợ
thông thường nhất đối với trẻ ở độ tuổi này, và những ý nghĩa về quái vật hay hình
ảnh độc ác tồi tệ có thể là đặc điểm hoàn toàn mạnh mẻ. Điều này có thể được bộc lộ
bằng sự ám ảnh của đứa trẻ với những nhân vật cụ thể từ những phim kinh dị. Đối
với một số trẻ em, tưởng tượng về điều tồi tệ cũng có thể được liên hệ với người lớn
có tính đe dọa nhưng cũng có thể được liên hệ với cảm nhận của chúng về khả năng
gây hại của họ.
Tóm lại :
48
• Trẻ em ở tuổi tiền học đường đang chuẩn bị một giai đoạn quan trọng trong sự
phát triển cảm xúc của chúng. Cách thức trẻ quan hệ tới những hình ảnh gắn bó,
ứng phó với sự lo lắng về sự xa cách như thế nào, quan hệ với các trẻ lớn hơn,
với nhân viên xã hội ra sao, sẽ truyền đạt tất cả các thông tin về những lĩnh vực
an sinh về tình cảm của chúng.
• Trẻ em ở tuổi tiền học đường ở nơi nào mà chúng có được những kinh nghiệm
tích cực về vai trò làm cha mẹ thì chúng cũng sẽ phát triển được ý nghĩa bản thân
tốt đẹp và có mức độ tự trọng thỏa đáng. Đây là giai đoạn học hỏi, say mê và
quan tâm đến thế giới. Ở nơi nào có sự gắn bó không an toàn trẻ em có thể bày tỏ
sự tránh né hay mâu thuẫn, lo âu nhất là xa cách. Chúng sẽ chứng tỏ sự thiếu tự
tin trong tình huống mới hay trong giải quyết những công việc không quen thuộc.
• Trẻ em nào trải qua kinh nghiệm với cha mẹ biết kích thích, biết đáp ứng và có
thể đoán trước được cách cư xử một cách hợp lý sẽ phát triển khả năng vui chơi
và giao tiếp bằng cách sử dụng ngôn ngữ. Trẻ em nào chưa có được kinh nghiệm
này có thể cần được giúp thêm để trao đổi cảm xúc của chúng.
• Vấn đề an toàn và cảm xúc vẫn còn được bàn luận. Trẻ em được hiểu biết về
những ranh giới rõ ràng sẽ học được cách sống trong những quy chuẩn của gia
đình chúng và trong chừng mực nào đó ở thế giới bên ngoài. Cha mẹ mà không
sẵn sàng, không biết trước được cách cư xử hoặc là từ chối thì trẻ có thể cảm thấy
và có thể trở nên không quản lý được nữa. Mức độ lo lắng cao và hành vi phóng
ngoại phát sinh ở trẻ em sẽ tạo cho trẻ sự khó khăn. Nó cũng có thể làm cho trẻ
khó nói lên cảm xúc của chúng.
• Ngay chính những trẻ ở tuổi tiền học đường bị rối loạn và dễ tổn thương cần
được lắng nghe và có thể cần được giúp đỡ để trao đổi. Có thể nhận ra rất khó mà
hiểu được hoàn cảnh của các trẻ, cả về nhận thức lẫn cảm xúc. Sự trộn lẫn phức
tạp giữa lo lắng, tưởng tượng và ý tưởng thần bí, cộng với loại hình giao tiếp
49
rộng rãi bằng lời và không bằng lời ở tuổi này, đã có tác động đến những kỹ năng
cần thiết nhằm biết được mơ ước và cảm xúc của đứa trẻ.
3. Trẻ ở tuổi đi học
Nhiệm vụ ở tuổi đi học là hình thành ý nghĩa của bản thân trong mối quan hệ với thế
giới bên ngoài, học hỏi các nguyên tắc. Bentovim (1972) có lần đã nói cho tới tuổi
lên 5, đứa trẻ cần nhiều thứ cần thiết cho cuộc sống của người lớn :
• Sẵn sàng về mặt tình cảm để học tập.
• Có suy nghĩ rõ ràng về bản thân là một con người.
• Có khả năng quan hệ với các trẻ khác.
• Có khả năng sử dụng sáng kiến để có được sự thỏa mãn trong vui chơi và các
hoạt động được xã hội chấp nhận.
Thường ở vào thời điểm mà đứa trẻ vào trường thiếu các lĩnh vực phát triển, chưa
được trang bị ở nhà đã trở thành sự cản trở cho việc học tập và phát triển phù hợp
trong những năm ở tiểu học. Mặc dù giai đoạn từ 5 đến 11 tuổi không thấy những
thay đổi dữ dội như từ lúc sinh ra đến 5 tuổi, nhưng ở lứa tuổi dậy thì có những vấn
đề quan trọng khi đi học, những khó khăn về phát triển xuất hiện.
Đây là lứa tuổi vừa là thách thức vừa là phần thưởng đối với nhân viên xã hội
làm việc với trẻ. Trong giai đoạn giữa của thời tuổi thơ, trẻ em có thể cẩn trọng hơn
về việc thổ lộ những suy nghĩ và sợ hãi của chúng. Trẻ em ở vào độ tuổi này có sự
dè dặt nhất định trong việc nói lên sự hiếp đáp, hăm dọa với thầy cô hoặc nói về vấn
đề gia đình cho một người lạ. Tuy nhiên, có thể thường trẻ em cũng đấu tranh để
hiểu những kinh nghiệm khó khăn, có lẽ sự xa cách và mất mát hay cư xử tệ bạc, rất
cần đến một người nào đó để giúp đỡ nhưng lại không tìm được người nào lắng nghe
mình. Trẻ sẽ thắc mắc về gia đình của chúng (Brodzinsky và các đồng tác giả 1992).
Điều quan trọng là không nên đánh giá thấp nhu cầu của trẻ ở tuổi này để hiểu được
những gì xảy ra quanh chúng và với chúng - và không đánh giá thấp khả năng của
50
chúng để nếu thích hợp hãy giúp đỡ chúng ngay cả khi nhân viên xã hội có thể xây
dựng mối quan hệ tin tưởng với đứa trẻ. Cho nên nhân viên cần phải tôn trọng quyền
và khả năng của trẻ em ở độ tuổi này để có được sự đóng góp của chúng.
Một trong những đặc điểm chính của giai đoạn này, cả ở trường lẫn gia đình, là
bản chất của việc hình thành khái niệm bản thân. Collins (1984) đề nghị 4 nhiệm vụ
chủ yếu trong sự phát triển khái niệm bản thân ở trung tâm của thời tuổi thơ :
• Hình thành sự hiểu biết tương đối toàn diện và vững chắc về bản thân.
• Cải tiến sự hiểu biết về cách thức thế giới xã hội đang hoạt động.
• Hình thành tiêu chuẩn và mong đợi về hành vi của riêng từng người.
• Hình thành các chiến lược để kiểm soát hay điều khiển hành vi.
Những nhiệm vụ này nói lên tầm quan trọng của việc hình thành bản sắc, học
cách thích nghi và được chấp nhận : xác định bản thân bằng giới tính đặc biệt, nhóm
dân tộc, tầng lớp hay văn hóa và học những gì được mong đợi ở đứa trẻ 6 tuổi trong
gia đình, trong trường lớp và trong đất nước. Bản sắc dân tộc đặc biệt được thiết lập
tốt ở độ tuổi này (Maxime 1986), và giới tính theo khuôn mẫu càng trở nên vững
chắc. (William và Best 1990). Mặc dù có một số việc phổ biến, có lẽ chính tiến trình
xã hội hóa, nhưng phần lớn những đặc trưng sẽ mang tính văn hóa riêng. Trong
những nền văn hóa phương Tây chuộng chủ nghĩa cá nhân hơn thì trẻ em được trông
đợi để theo đuổi sự thành đạt của cá nhân, dù là ở trong giới hạn được đặt ra bởi xã
hội. Trong những nền văn hóa khác, có thể điều mong muốn đối với các cá nhân là
học hỏi giá trị gia đình và cộng đồng là trước tiên và quan trọng nhất. Lòng tự trọng
tùy thuộc vào sự đóng góp vào gia đình hơn là cho mục tiêu riêng của cá nhân. Biết
điều gì được trông đợi thì lúc đó đứa trẻ cần phải học cách kiềm chế những bốc đồng
hoặc điều hòa hành vi của trẻ để thích ứng.
Một phần của tiến trình này trong độ tuổi này là sự gia tăng tầm quan trọng của
mối quan hệ nhóm đồng đẳng. Dun (1993) cho rằng mối quan hệ đồng đẳng là quan
trọng trong giai đoạn tiền học đường, chính tại trường học các kỹ năng của đứa trẻ
51
trong việc kết bạn và dàn xếp những xung đột trở nên quan trọng. Dĩ nhiên, không
phải mọi trẻ em đều có cùng mô hình về tình bạn bè, và thật cần thiết để xem xét kỹ
từng trẻ trước khi đi đến kết luận. Một số trẻ em có thể được mô tả là thẹn thùng
nhút nhát nhưng lại tìm thấy vui thích thực sự với bạn bè của riêng chúng và mặc dù
có được kỹ năng tạo mối quan hệ nhưng một số lại hoàn toàn bằng lòng với tình bạn
tương đối lỏng lẽo (Asendorpf 1993). Tuy nhiên, đối với nhiều trẻ em nhu cầu được
ưa thích và là một thành viên của nhóm là rất mãnh liệt. Những vấn đề về ý nghĩa
của bản thân và tiêu chuẩn về hành vi có liên quan với nhau ở đây, cũng như một số
kỹ năng đọc được ý nghĩa người khác. Nghiên cứu của Dodge và các đồng tác giả
cho rằng trẻ em bình thường có kỹ năng đọc được dự định của người khác hơn và do
vậy có thể phản ứng thích hợp hơn. Một trong những điều nguy hiểm nhất là không
đọc được cảm xúc và có khuynh hướng nhìn thấy ý định không thân thiện trong khi
thật ra không phải như vậy. Nhân viên xã hội cần ý thức rằng khuynh hướng này đặc
biệt gắn liền với trẻ em thiếu chăm sóc hay bị từ chối trong gia đình (Dodge và
Feldman 1990). Khi nhân viên xã hội làm việc với trẻ em phải tìm hiểu mối quan hệ
của chúng bao gồm mối quan hệ nhóm đồng đẳng.
Ứng phó với lo âu và duy trì mối quan hệ gắn bó vẫn là điều quan trọng trong
suốt giai đoạn này. Mối quan hệ gắn bó của trẻ em và hành vi của chúng trong giai
đoạn tiền học đường sẽ phát triển như một chiến lược thích nghi với các tình huống
gia đình và ứng phó với nỗi lo âu. Trẻ em đến tuổi đi học với sự gắn bó không vững
chắc và cảm nhận rất ít về ranh giới đối với hành vi của chúng có thể hết sức lo lắng
trong môi trường mới và thách thức này. Nhiều trẻ em phản ứng nhanh gọn bằng
cách thoái lui, có lẽ bằng biểu hiện suy nhược hay gây hấn không thường xuyên,
nhưng rồi sẽ ổn định nếu như trường học cung cấp một môi trường nhạy cảm và kềm
chế được. Chẳng hạn đối với trẻ em đã có kinh nghiệm về mối quan hệ mâu thuẫn và
bị chối bỏ ở nhà, hay đã bị lạm dụng tình dục, hoặc bị phạt bằng cách cô lập. Một số
trong những trẻ này hoàn toàn tách biệt, điều đó có nghĩa là lo âu và giận dữ của
chúng còn kiềm chế được nhưng chúng sẽ không học được.
52
Trẻ khác có thể phản ứng hoảng loạn với sự gây hấn cực kỳ, tấn công các trẻ
khác và thầy / cô giáo nhất là khi có sự thay đổi giáo viên. Mặc dù hành vi thì hung
hãn nhưng điều quan trọng cần nhận thức là sự lo lắng bên trong này sẽ dẫn đến sự
phân tán cơ chế ứng phó của đứa trẻ. Chẳng hạn nó có thể làm cho đứa trẻ có ảo
tưởng rằng trẻ là một đứa trẻ rất tồi tệ không thể kiềm chế được. Như nghiên cứu của
Richman (Richman và các đồng tác giả 1982) đã đưa ra : vấn đề hành vi nghiêm
trọng lúc 3 tuổi có thể dai dẳng tới những năm tiểu học, và hiển nhiên là những hành
vi không kiềm chế được của trẻ 6 hay 7 tuổi có thể hoàn toàn giống như hành vi
không kềm chế được của trẻ em ở tuổi đi chập chững.
Trẻ em bắt đầu đi học từ một nền tảng vững chắc, cả về tình cảm lẫn xã hội, sẽ đi
vào môi trường học đường một cách tương đối êm ả. Trẻ em dễ bị tổn thương, vì
sống trong hoàn cảnh không may hay trẻ bị khuyết tật về thể chất hay học tập, có thể
nhận thấy sự chuyển đổi sang trường học và sự phát triển suốt giai đoạn học tiểu học
này căng thẳng hơn. Tuy vậy, đối với một số trẻ em từ những gia đình khó khăn thì
trường học trở thành thiên đường an toàn có thể đáp ứng được một số nhu cầu về
ranh giới và lòng tự trọng. Thành công ở trường học có thể là yếu tố bảo vệ theo
nghĩa này và nhân viên nhà trường có thể cung cấp một “nền tảng vững chắc”. Đối
với những trẻ em ở vị trí này, bất kỳ sự can thiệp nào xảy ra có liên quan tới việc sắp
xếp cuộc sống của đứa trẻ thì điều đặc biệt quan trọng là sự liên tục ở trường cần
phải được xem là tiềm năng và quan trọng như sự liên tục trong mối quan hệ gắn bó.
Tóm lại :
• Trẻ em tiếp tục cần mối quan hệ tình cảm vững chắc trong gia đình để phát triển
và bày tỏ sự ưa thích. Tự trọng là yếu tố chính trong sự an sinh tình cảm.
• Nhóm đồng đẳng có giá trị, và có thể có nỗi sợ hãi lớn lao về khác biệt, từ chối,
bắt nạt.
• Trẻ em ở tuổi đi học, nhất là từ 8 - 11, muốn biết cách nào và tại sao sự vật xảy ra
nhưng thường không có cơ hội để làm sáng tỏ những rối rắm, hy vọng và sợ hãi
của chúng. Nhân viên xã hội cần phải khởi sự trước thay vì chờ đợi trẻ em yêu
53
cầu, nhất là khi trẻ em có vẻ như không thể nói thành lời. Với sự giúp đỡ, trẻ em
ở nhóm tuổi này có thể tìm hiểu mơ ước và cảm xúc về tình huống của chúng.
Những điều này có thể góp phần một cách có ý nghĩa vào những quyết định được
làm về trẻ mà không bỏ mặc chúng với trách nhiệm làm ra những quyết định.
4. Tuổi thanh thiếu niên
Nhiệm vụ của tuổi thanh thiếu niên là đi tìm bản sắc, tình dục, độc lập / lệ thuộc hỗ
tương.
4.1. Hình thành bản sắc
Ranh giới của tuổi thanh thiếu niên không dễ xác định. Thực tế nó bắt đầu từ
lúc dậy thì, mà dậy thì tự nó cũng thay đổi, nhưng tiến trình và kết thúc có thể xác
định được bằng các yếu tố văn hóa cũng biến đổi như tuổi hết đi học và thời điểm mà
trẻ em trở thành người lớn độc lập. Như hầu hết các nhà bình luận ngày nay đưa ra,
nỗi lo lắng cố hữu giữa cha mẹ và các nhà chuyên nghiệp về sự xáo động ở tuổi
thanh thiếu niên không xác định được bằng sự kiện (Nielsen 1987, Herbert 1997).
Mặc dù tuổi thanh thiếu niên hiển nhiên là một thời gian thay đổi và chuyển biến
nhưng nó không nhất thiết đều căng thẳng và xáo động tình cảm. Tuy vậy, điều mà
nhân viên xã hội phải biết là có số ít trẻ, nhất là trẻ không có được nền tảng xã hội,
giáo dục, tình cảm vững chắc từ lúc đầu tuổi thơ, thì những năm ở tuổi thanh thiếu
niên sẽ có thể gặp những khó khăn đáng kể gây đau buồn cho trẻ. Đây là những
người trẻ tuổi “có vấn đề” cần đến những nhân viên xã hội có năng lực, dấn thân và
có nhiều thời gian để làm việc.
Có một số tiếp cận khác nhau để nghĩ về nhiệm vụ của thanh thiếu niên.
Những thay đổi về thể chất của tuổi dậy thì được đi kèm theo bởi việc thay đổi
những mong đợi ở gia đình, nhà trường và xã hội nói chung. Trong xã hội, khoảng
cách giữa sự trưởng thành của người lớn về mặt thể chất và trở thành người lớn về
54
mặt xã hội rộng hơn bao giờ hết. Điều này dẫn tới giai đoạn trùng lắp không nhất
định giữa vai trò trẻ em và người lớn.
Những thay đổi xã hội và sinh lý đều góp phần vào nhiệm vụ chính yếu
thường được thấy nhất - Hình thành bản sắc. Mô hình của Erikson (1968) giải thích
giai đoạn này như một giai đoạn tạm thời giữa tuổi thơ và người lớn : một bản sắc
mới được tìm thấy sẽ đặt người thanh thiếu niên vào vai trò của người lớn. Erikson
tin rằng thanh thiếu niên sẽ tìm kiếm một ý thức hệ và tin rằng bản sắc người lớn
được đặt nền tảng trên sự dấn thân đó. Nhân viên xã hội nghĩ đến ý thức hệ theo
nghĩa thanh niên tìm kiếm điều gì đó để tin tưởng, một điều gì đó để làm cho cuộc
sống có ý nghĩa. Niềm tin này có thể dựa trên điều gì đó đơn giản như tận tụy với
nhóm văn hóa hay cộng đồng riêng biệt nào đó. Nó có thể là một giá trị chủ yếu,
chẳng hạn như sự quan trọng của công việc hay ý nghĩa của đời sống gia đình định
hình cho đời sống của một người và cơ cấu những lựa chọn của người đó.
Đối với một số thanh thiếu niên, sự đạt được bản sắc phức tạp hơn một số
khác. Đối với những người mẹ trẻ có con khi vẫn còn trong tuổi đi học thì các nghiên
cứu cho thấy rằng họ phải đảm nhận cùng lúc với nhiều bản sắc khác nhau về tuổi
thơ, thanh thiếu niên và người lớn (Schofield 1994). Những người mẹ trẻ có thể vừa
cho con bú vừa nghĩ đến bài làm ở trường.
Đối với những thanh thiếu niên được chăm sóc tập trung vấn đề bản sắc ở lứa
tuổi thanh thiếu niên này đặc biệt phức tạp. Mặc dù ngày nay ai cũng biết rằng các
thiếu niên được nhận làm con nuôi hay nuôi hộ có lợi khi biết về lịch sử và nguồn
gốc gia đình của chúng, nhưng tiếp xúc trực tiếp với hầu hết các trường hợp thì có
nhiều trẻ đã mất liên lạc với gia đình qua nhiều năm. Thậm chí những trẻ có liên lạc
với gia đình cũng không thể có suy nghĩ rõ ràng về những gì xảy ra trong cuộc đời
của chúng. Nhiều trẻ có thể hình thành ý nghĩ tích cực về bản thân do sự gắn bó của
chúng trong gia đình thay thế, nhưng tiến trình nhận thức rõ ràng không phải là dễ.
Dĩ nhiên ý nghĩ về bản thân sẽ tùy thuộc không chỉ vào sự hiểu biết quá khứ mà còn
tùy vào cảm xúc của các trẻ về sự hiểu biết đó. Ở nơi nào mà thanh thiếu niên cảm
55
thấy bị từ chối hay bị lạm dụng về thể chất hay tình dục thì sự nguy hại mà các trẻ sẽ
chịu trong cuộc sống khi là người lớn sẽ đáng kể. Mặc cho những điều này trẻ vẫn từ
chối sự chăm sóc ở tuổi tương đối sớm trong khi các trẻ khác vẫn tiếp tục nhận sự
nuôi dưỡng và hỗ trợ của gia đình chúng. Nhân viên xã hội cần hình thành một mô
hình lệ thuộc hỗ tương hơn là độc lập nhằm đảm bảo rằng những thanh thiếu niên dễ
bị tổn thương nhất có được sự giúp đỡ và sự liên tục mà chúng cần.
Mối quan hệ nhóm đồng đẳng trong giai đoạn này rõ ràng là một phần hết sức
quan trọng của phát triển. Đối với một số trẻ, việc tìm kiếm bản sắc như một cá nhân
có thể tiến hành thông qua cá tính riêng biệt tiềm ẩn trong bản sắc nhóm. Các loại
âm nhạc riêng hay quy tắc về ăn mặc trở nên quan trọng, có thể là có sự không chịu
nỗi hay thậm chí là hung hãn đối với người ngoài. Phần lớn loại hoạt động của thanh
thiếu niên này chủ yếu nằm trong khuôn khổ gia đình bình thường (Hunter và
Youniss, 1982). Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nhất là khi các thiếu niên đã
mất liên lạc với gia đình hay cộng đồng, bản sắc và cảm giác thuộc về mà nhóm
cung ứng có thể là sự lôi kéo đầy quyền lực đưa đến hành vi chống xã hội và tự hủy
hoại. Thiếu niên nghiện ma túy trên đường phố ở Luân Đôn chẳng hạn, hình thành
ngôn ngữ riêng, nguyên tắc đạo đức riêng và cảm giác riêng của chúng về sự chia sẻ
cùng định mệnh. Khuyến khích thiếu niên từ bỏ ma túy có nghĩa là yêu cầu chúng từ
bỏ mạng lưới những người và nơi chốn quen thuộc này và cố gắng tạo ra cho chính
mình một lối sống và bản sắc rất khác.
4.2. Vấn đề quyền lực và kiểm soát
Như quyết định của Gillick của tòa án đã đề nghị, bậc phụ huynh “khôn
ngoan” dần dần từ bỏ quyền kiểm soát cuộc sống con trẻ họ khi chúng chuyển sang
tuổi thanh thiếu niên. Ở nơi nào mà sự dàn xếp về các lĩnh vực trách nhiệm và chọn
lựa diễn ra trong mối quan hệ chăm sóc và an toàn thì có thể sẽ giải quyết được
những căng thẳng. Nơi nào mà thiếu niên có tiền sử bị ngược đãi hay thiếu chăm sóc
thì có thể là những thiếu niên đó khó mà tin tưởng người lớn. Thường thì một chu kỳ
hình thành trong đó người lớn càng cố gắng kiểm soát đứa trẻ thì đứa trẻ càng tự
56
khẳng định mình trái ngược trở lại. Điều này có thể xảy ra trong các gia đình bình
thường hay nơi chăm sóc thay thế. Thanh thiếu niên có thể bị tràn ngập bởi lo lắng,
cả ở hoàn cảnh không có ranh giới lẫn cảnh người lớn lạm dụng quyền hành.
4.3. Các hành vi nội tâm hóa và ngoại tâm hoá
Mặc dù chứng cớ hiển nhiên là chỉ có một số nhỏ thiếu niên trải qua sự rối
loạn nghiêm trọng nhưng nhóm này lại thường gây ra mối bận tâm cho nhân viên xã
hội. Ở nơi nào có vấn đề trong việc dàn xếp các trách nhiệm của thanh thiếu niên thì
có thể có ích để nghĩ về những đáp ứng đối với sự căng thẳng về hành vi nội tâm hóa
và ngoại tâm hóa. Mặc dù những hành vi này không phải là những loại hoàn toàn
riêng biệt với nhau nhưng chúng giúp để hiểu được cơ chế tâm lý có liên quan.
Một trong những rối loạn nội tâm hóa đáng lo nhất ở tuổi thanh thiếu niên là trầm
cảm, có vẻ như gia tăng đáng kể trong những năm của tuổi thanh thiếu niên, nhất là ở
độ tuổi 15 đến 19. Trầm cảm là một sự buồn tẻ có liên quan tới cảm giác không có
quyền lực hay vô dụng và mất niềm vui thú trong cuộc sống hơn là không có cuộc
sống hạnh phúc rõ ràng. Kutter và Kutter (1993) dẫn ra chứng rối loạn mang tính
trầm cảm ở tuổi thanh thiếu niên có liên quan :
• Suy nghĩ tiêu cực về thế giới và tương lai (tự trách mình, không có giá trị và
không có hy vọng).
• Tổn thương về mặt xã hội (bị giảm thiểu khả năng làm việc và giải trí).
• Triệu chứng suy nhược (mất ngủ, ăn không ngon và chậm phát triển về tâm thần
vận động hay xúc động).
Trầm cảm là đặc điểm thông thường của tự tử, và tỷ lệ tự tử và có ý định tự tử
tăng trong những năm của tuổi thanh thiếu niên, nhất là 15 đến 19 tuổi. Tỷ lệ tự tử ở
nam thiếu niên cao hơn nữ một cách đáng kể, trong khi đó tỷ lệ có ý định tự tử ở nữ
cao hơn. Có ý định tự tử luôn phải được xem xét cẩn trọng không chỉ như một dấu
57
hiệu của sự đau buồn về tình cảm mà còn bởi vì nhiều người tự tử đã có những mưu
tính tự tử trước đó.
Những khó khăn về tình cảm ở thanh thiếu niên thường có dính líu tới các vấn đề
ở trường học. Những người chưa đạt được như mong muốn chịu đau khổ lớn lao
trong hệ thống xem trọng sự thành công trong học tập. Trẻ em đã trải qua sự thiệt
thòi về tình cảm hay thể chất đều có thể làm chưa được như mong muốn và cảm
thấy càng bị từ chối và loại ra ngoài lề ở trường. Trẻ em ở những nhà nuôi hộ và cơ
sở nuôi tập trung đã cảm thấy “khác”, và những đường lối của nhà trường kết hợp
với sự chưa thành đạt có thể dẫn đến sự khó khăn về hành vi và cảm xúc nghiêm
trọng.
Mối quan tâm mới đây nhất liên quan tới hành vi nội tâm hóa nối kết với sự gia
tăng rối loạn ăn uống, mà các trẻ gái có nguy cơ nhiều hơn các trẻ trai. Như với các
lĩnh vực phát triển khác, dường như là có sự trộn lẫn phức tạp về các yếu tố nguyên
nhân tâm lý và xã hội ở đây, với hình ảnh của cơ thể và giá trị xã hội về sự thon thả
là quan trọng (Attie và Brooks - Gunn 1989). Các trường hợp liên quan tới rối loạn
về ăn uống đã làm tăng sự khó xử nghiêm trọng đối với nhân viên xã hội, bác sĩ và
tòa án khi phải làm những phán xét xem trọng lượng của một trẻ gái ở tuổi thanh
thiếu niên có hạ thấp một cách nguy hiểm không hoặc buộc phải chấp nhận trị liệu
trái với ý muốn của trẻ.
Điều khiển sự rối loạn và những hành động chống xã hội có thể được mô tả như
những hành vi ngoại tâm hóa. Các hành động phạm pháp không quan trọng là rất
thông thường và đối với hầu hết các thiếu niên đây là một giai đoạn chuyển đổi.
Thiếu niên phô diễn liên tục hành vi chống xã hội và phạm pháp có thể là thành viên
của những nhóm đồng đẳng mà trong đó hành vi này là một quy chuẩn văn hóa, hay
chúng có thể là những người lẻ loi không được xã hội hóa có những vấn đề tâm lý
phức tạp hơn. Với việc lạm dụng ma túy và rượu, các hành động phạm pháp như thế
ngày nay thông thường trong thanh thiếu niên đến nỗi nhân viên xã hội cần phải xem
xét kỹ bối cảnh tâm lý xã hội để xác định tầm nghiêm trọng của những hành vi như
58
thế trong cuộc sống của một thiếu niên. Họ cũng cần phải gần gũi trẻ đủ để hình
thành hành vi có ý nghĩa đối với trẻ.
Tóm lại :
• Tuổi thanh thiếu niên là thời gian chuyển đổi nhưng không nhất thiết phải là thời
của xung đột. Sự hình thành bản sắc của một người lớn và khả năng quyết định
về cuộc sống ngày càng tăng làm cho giai đoạn này trở nên không ổn định và
thay đổi.
• Nhóm đồng đẳng có một ảnh hưởng rất mạnh mẻ, nhưng sự ràng buộc của gia
đình vẫn còn rất quan trọng đối với hầu hết các trẻ. Các trẻ vẫn còn cần những
mối quan hệ gắn bó. Đối với một số trẻ ở tình trạng rối loạn có ít tài nguyên và có
thể bị gia đình từ chối, trường học loại trừ thì nhân viên xã hội cần phải biết đến
nhu cầu cần có một nền tảng vững chắc của các trẻ. Trong một số trường hợp, có
thể chính nhân viên xã hội là người cung cấp nền tảng này bằng sự quan tâm tin
cậy và kiên định đối với trẻ.
• Vào cái thời điểm mà trẻ từ bỏ gia đình, các trẻ sẽ tiếp tục lệ thuộc hình bóng của
gia đình. Các trẻ được chăm sóc tập trung sẽ cần sự giúp đỡ thêm, cả trong việc
hình thành bản thân một cách thực tế, và quan trọng hơn nữa là trong việc có
được nền tảng tình cảm vững chắc. Các trẻ đã trải qua hoàn cảnh không may,
nhất là bị ngược đãi, thiếu chăm sóc và tự trọng thấp có thể thấy việc thay đổi
bản chất gia đình và các mối quan hệ đồng đẳng rất căng thẳng. Chúng có thể
phản ứng bằng hành vi nội tâm hóa hay ngoại tâm hóa hay cả hai. Hiểu biết tiến
trình phát triển và bối cảnh tâm lý xã hội là cần thiết.
• Về mặt phát triển, thanh thiếu niên có thể có trách nhiệm hơn đối với những
quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng là phù hợp. Tuy nhiên, hầu hết
các trẻ vẫn tiếp tục cần có cơ hội để tham khảo ý kiến người lớn mà các trẻ tin
59
tưởng và có thể cư xử một cách tôn trọng và hỗ trợ các trẻ trong việc bày tỏ ước
muốn và cảm xúc của chúng.
60
PHẦN IV
Trẻ em, gia đình và các nhu cầu đặc biệt
1. Nhận biết nhu cầu của trẻ1
Theo những nhà chuyên môn, để nhận biết nhu cầu và hiểu được nhiều khía
cạnh khác nhau trong nhân cách của trẻ, nhân viên xã hội phải đứng trên quan điểm
phát triển, đặc biệt là khi làm việc với trẻ em đang khủng hoảng. Điều quan trọng là
cần quan tâm đến những điều kiện vật chất và môi trường xã hội xung quanh trẻ
cũng như có sự trao đổi thích hợp để hiểu quan điểm và thế giới riêng của trẻ. Sự
hiểu biết về các nhu cầu của trẻ sẽ giúp nhân viên xã hội giải quyết được các vấn đề
của trẻ đang khủng hoảng một cách thích hợp.
Trẻ em được sinh ra với những nhu cầu sinh lý, tình cảm và nhận thức như
nhau. Nếu nhìn sự phát triển của trẻ qua các nền văn hóa khác nhau, nhân viên xã hội
sẽ dễ cho rằng những nhu cầu này có tính chất toàn cầu. Nên lưu ý là mỗi xã hội,
mỗi nền văn hóa sẽ đáp ứng những nhu cầu của trẻ với những phương cách phù hợp
trong những điều kiện tinh thần, kinh tế, xã hội và chính trị khác nhau. Nhân viên xã
hội dùng sự giải thích các nhu cầu của trẻ như một công cụ để xem xét vị trí và môi
trường của trẻ. Những nhu cầu căn bản của trẻ bao gồm :
o Nhu cầu sinh lý (nhu cầu cơ thể)
o Nhu cầu được an toàn và được yêu thương
o Nhu cầu nhận thức
o Nhu cầu tự khẳng định
o Nhu cầu trách nhiệm
1 Viết theo Joachim Welp, Trẻ em trong sự khủng hoảng : Một quan điểm phát triển, Thông tin khoa học, Hội KH Tâm lý và GD TP.HCM., 2002.
61
1.1. Nhu cầu sinh lý ( nhu cầu cơ thể )
Nhu cầu sinh lý hay được gọi là nhu cầu cơ thể bao gồm ăn, uống, vệ sinh
thân thể, các hoạt động sinh lý, ở, mặc, sức khỏe…Qua đó trẻ em cần một khoảng
không gian và những cơ hội để vận động, vui chơi, đặc biệt trong các trại tỵ nạn hoặc
những nơi trẻ đang được chăm sóc tạm thời. Nơi mà những đòi hỏi về không gian tự
nhiên, những nhu cầu về tình cảm, hoạt động hầu như ít được quan tâm đến.
Điều này trẻ không được giãi bày khi bị phê phán, xem xét trong và sau thời
kỳ khủng hoảng. Có nhiều trường hợp, ngay cả nơi cư trú của trẻ em cũng không có
đủ không gian và cơ hội vui chơi để có thể phát triển cảm xúc, ý thức của trẻ. Trẻ em
cần một không gian đủ để cảm nhận sự vận động cơ thể khi ở nhà, có kinh nghiệm
làm chủ cơ thể của mình và từ đó có thể hình thành những mối quan hệ nhất định.
1.2. Nhu cầu được an toàn và được yêu thương
Trẻ em cần người chăm sóc yêu thương từ thời thơ ấu. Có thể không nhất
thiết đó phải là người mẹ đẻ mà điều quan trọng là trẻ cần được quan tâm một cách
riêng biệt, trực tiếp, xuất phát tử nhiệt tâm và tình cảm của người chăm sóc một cách
ổn định. Những quan hệ tình cảm mà đứa trẻ có được tử thời thơ ấu sẽ tạo cho trẻ sự
tin tưởng và cảm giác thật sự an toàn, giúp trẻ đón nhận và đóng góp cho sự phát
triển xã hội sau này.
Bên cạnh sự yêu thương, trẻ em cũng cần sự an toàn. Điều này có được khi :
o Trẻ được sống trong một môi trường ít biến động, giúp trẻ có thể làm những
công việc giống nhau với những phương pháp giống nhau tại những thời
điểm tương tự trong ngày, giúp trẻ có thể dự đoán được những gì sẽ xảy ra
trong tương lai gần với mức độ tương đối chắc chắn.
62
o Trẻ nhận được sự chấp nhận của người lớn ( cha mẹ, người bảo hộ…) trong
việc đánh giá hành vi của mình : được tán thưởng hay không được đồng
tình.
1.3. Nhu cầu nhận thức
Nhu cầu về những kinh nghiệm mới là điều kiện trước tiên của quá trình phát
triển tinh thần. Không có những kinh nghiệm mới để chuyển hóa vào trong sự nhận
thức thế giới, ý thức và trí tuệ của trẻ sẽ không thể phát triển toàn vẹn được. Dựa trên
những bài học từ thời thơ ấu, những kinh nghiệm mới thúc đẩy trẻ học được một
trong những điều quan trọng nhất : Học cách học như thế nào, hiểu được rằng sức
mạnh sức mạnh (thể chất, tinh thần) mang đến cho con người sự vui nhộn và cảm
giác thành đạt. Quá trình học tập chủ động đòi hỏi phải có thực nghiệm và sự tác
động qua lại với người khác thông qua việc cùng chơi và cùng truyền thông. Khi
quan sát, xem xét và đánh giá thái độ, niềm tin hoặc hành vi của trẻ, nhân viên xã hội
luôn nhớ rằng trẻ thường nhận thức thế giới bằng lăng kính chủ quan của mình.Trẻ
em do đó là thành phần chủ động trong sự phát triển của chính trẻ.
1.4. Nhu cầu tự khẳng định
Nếu đứa trẻ có hình ảnh tích cực về bản thân, trẻ có thể đương đầu với nhiều
áp lực từ cuộc sống. Do đó để giúp trẻ nhận rõ giá trị của chính mình, nhân viên xã
hội nên chấp nhận trẻ như nó vốn có, nhìn thấy khả năng của trẻ hơn là chỉ quan tâm
đến những khuyết điểm của trẻ. Nhân viên xã hội phải giúp tạo nơi trẻ cảm giác
được chấp nhận. Khi cố gắng thay đổi hành vi của trẻ, nhân viên xã hội phải phân
biệt được những hành vi không phải của chính trẻ.
Người hỗ trợ và chăm sóc trẻ có vai trò quan trọng trong việc tạo cho trẻ một
sự cảm nhận về giá trị, về sức mạnh của môi trường trong việc phát triển tự nhận
thức của trẻ, ví dụ bằng cách khen thưởng. Khen thưởng không nên máy móc mà nên
dựa vào sự cố gắng thật sự của trẻ. Khen thưởng và chấp nhận là điều quan trọng đối
với trẻ đang bị khủng hoảng, đặc biệt đối với trẻ bị phân biệt đối xử và phải cho trẻ
63
hiểu rằng sự phân biệt đối xử không được chấp nhận bất cứ ở đâu và tất cả trẻ em
đều có giá trị như nhau.
1.5. Nhu cầu về trách nhiệm
Trẻ em nên được kiên kết với nhau thành nhóm và thông qua nhiều dạng hoạt
động và được giao nhiều nhiệm vụ để giúp trẻ có cảm giác hữu ích, tự tin và phát
triển sự sáng tạo. Trẻ cần được giúp đỡ để có trách nhiệm với hành động của mình.
2. Các phương diện đa dạng của sự phát triển ở trẻ em
Mọi trẻ em đều có nhu cầu cơ bản giống nhau trong quá trình phát triển của
mình. Sự phát triển bao gồm nhiều phương diện và có tác dụng hỗ tương lẫn nhau.
Việc quan tâm đến những tác dụng phức tạp của nhiều phương diện phát triển kết
hợp với đặc điểm của lứa tuổi sẽ giúp nhân viên xã hội nhận diện được các nhu cầu
đặc biệt của trẻ đang bị tổn thương một cách kịp thời.
Sự phát triển của trẻ là một tiến trình thay đổi và các cấp độ phát triển có mối
liên hệ mật thiết và phải được xem xét trong sự liên hệ và tác động lẫn nhau trong
tổng thể của phát triển. Những phương diện đa dạng của sự phát triển ở trẻ em bao
gồm :
• Phương diện thể chất vận động : Khả năng di chuyển, hoạt động của các giác
quan, khiếm khuyết của cơ thể ?
• Phương diện tinh thần : Khả năng cảm giác, khả năng trí tuệ, trí nhớ, khả năng
ghi nhớ, sự phân biệt bản chất của vấn đề?
• Phương diện cảm xúc : Cảm nhận về vị trí của mình? Mâu thuẩn trong cảm xúc?
• Phương diện xã hội : Mối quan hệ của trẻ với người khác có hiệu quả không? Trẻ
có bạn thân không?
• Phương diện đạo đức : Trẻ hành động dựa trên giá trị nào ? Giá trị nào là ưu thế ?
Trẻ ý thức về vấn đế đúng – sai ? Lương tâm của trẻ phát triển ra sao ?
64
Những tác động hỗ tương tâm lý-xã hội nhằm tạo điều kiện cho trẻ phát triển
những phản ứng có ích. Trong nỗ lực giúp trẻ thay đổi nhận thức, nhân viên xã hội
và trẻ cùng thảo luận về tính chất hiểu biết của trẻ về những khía cạnh thích hợp
trong cuộc sống như có thể giới thiệu một quan điểm mới chưa từng biết đến và khi
được chấp nhận, trẻ sẽ có điều kiện cảm nhận và hành động một cách độc lập.
Thay đổi hành vi, cung cách ứng xử là mục tiêu đầu tiên của quá trình tác động
tâm lý xã hội. Trẻ em được hỗ trợ để biết làm gì và làm như thế nào nhằm mở rộng
lãnh vực hoạt động, ứng xử hiệu quả hơn trong sinh hoạt hằng ngày, tích lũy tri thức
và kỹ năng mới.
Nhân viên xã hội cần hiểu thế giới nội tâm của trẻ, về nhận thức riêng của trẻ đối
với những sự kiện căng thẳng và có tính chất tổn thương, trẻ có cảm giác gì đối với
tất cả những điều đang xảy ra, trẻ đang có những cảm xúc gì và nhìn nhận những sự
kiện như thế nào. Trong tình huống khủng hoảng, trẻ thường tỏ ra bất lực và thụ
động. Dần dần trẻ phát triển khả năng kiểm soát cơ thể, phát triển khả năng tự chủ và
tìm cách hiểu biết về thế chung quanh. Trẻ cần được chú ý, động viên tham gia các
trò chơi, trò chuyện hoặc tham gia các hoạt động có ý nghĩa tìm tòi, khám phá.
65
PHẦN V
Công tác xã hội với gia đình
1. Làm việc với gia đình như là một nhóm nhỏ
1.1. Gia đình là một nhóm nhỏ sơ cấp
Gia đình là một nhóm sơ cấp trong đó các thành viên có trách nhiệm và sống
chung với nhau, một cách hỗ tương, cùng chia sẻ nếp sống, các quy tắc có liên quan
đến những hành vi mà xã hội mong đợi.
Trong gia đình, các thành viên có ảnh hưởng với nhau rất mạnh so với người bên
ngoài. Nhân viên xã hội có thể phân tích gia đình theo nhiều cách khác nhau như
phân tích theo chức năng của từng người, trách nhiệm của từng người hoặc theo cấu
trúc gia đình. Trước hết, nhân viên xã hội xem gia đình như là một tổ chức có chức
năng xã hội hóa con người và chức năng kiểm soát xã hội.
Gia đình là nhóm xã hội đầu tiên quan trọng nhất cung cấp cơ hội học hỏi đầu
tiên của con người. Chính trong giai đoạn thời niên thiếu, trẻ thâu nhận được những
nền tảng cơ bản của sự dạy dỗ đễ trẻ có được những niềm tin, những hành vi và
những thái độ cơ bản về những người xung quanh và về cuộc sống của trẻ. Đó là nơi
mà trẻ bắt đầu học cách tương tác với người khác, gia đình dạy cho trẻ những hành
vi nào được chấp nhận và hành vi nào không phù hợp, không được xã hội chấp nhận.
1.2. Vai trò của cha mẹ
Khó mà xác định vai trò của cha mẹ trong quá trình phát triển của trẻ em, vai rò
và sự tác động của gia đình có ý nghĩa rất quan trọng. Cha mẹ vừa cho trẻ tấm gương
66
để noi theo, vừa tạo điều kiện cho trẻ lớn lên và phát triển hài hòa. Từ khi sinh ra đời
cho đến khi tự lập được, đứa trẻ phải trải qua nhiều bước như đã nêu ở các phần đầu
trong giáo trình này. Quá trình lớn lên về mặt sinh học luôn gắn liền với quá trình
phát triển về văn hóa của đứa trẻ.
Có ba cách làm cha mẹ :
a) Cha mẹ dễ dãi : Cha mẹ cho phép trẻ tự lập, không hướng dẫn rõ ràng, họ
tránh không kiểm soát con cái…
b) Cha mẹ dùng quyền lực, độc đoán : Cha mẹ sử dụng quyền lực để dạy con
cái. Cha mẹ có những ý tưởng rõ ràng buộc trẻ phải cư xử như thế nào, họ
đặt ra những quy định và trẻ phải tuân thủ lý lẽ của họ.
c) Cách trung gian : Cha mẹ có sự kiểm soát, có sự hỗ trợ một cách liên tục
đối với con cái. Con cái được quyền tham gia và theo cách này cha mẹ giúp
con cái phát triển sự tự lập của mình.
Vai trò là những cái gia đình giao cho các thành viên để hành xử với nhau trong
các nhiệm vụ của gia đình. Vai trò là tổng hợp các nhiệm vụ trong gia đình. Vai trò
là những gì văn hóa đòi hỏi các thành viên, xuyên qua vai trò đó và gia đình là một
môi trường mà các vai trò được học hỏi, được giao phó và được thực hiện. Vai trò
được thay đổi theo tuổi, khả năng và nhu cầu của từng giai đoạn đời sống. Vai trò có
thể rõ hoặc hiểu ngầm, có thể dưới hình thức tình cảm, quan hệ đến giới, có thể uyển
chuyển qua lại hoặc cứng ngắc tùy theo cách sống của gia đình. Vai trò được phát
sinh ra từ mối liên hệ giữa những người trong gia đình, từ sự mong đợi giữa này đối
với người kia. Không có một vai trò nào hiện hữu một cách đơn độc không có sự
phân vai để giữ sự quân bình trong gia đình.
Nếu trong một gia đình yếu mà sự phân vai không được rõ ràng, tự phát, khi gia
đình bị căng thẳng hoặc bị một áp lực từ bên ngoài sẽ dễ dàng bị phá vỡ. Đồng thời
có những vai trò không được phân vai một cách hợp lý như trường trẻ em phải đi
kiếm tiền để nuôi gia đình.
67
Ngoài ra, ranh giới gia đình giúp các thành viên hiểu và thực hiện chức năng của
mình (bố mẹ ốm thì con lớn giữ trách nhiệm như bố mẹ). Các ranh giới (của cha mẹ,
của con cái, của ông bà) phải rõ ràng, phải thấm thấu được, không phải lúc nào cũng
khép kín. Có ba loại gia đình dựa trên các loại ranh giới :
• Gia đình ranh giới mở : Đó là ranh giới rõ ràng nhưng dễ thâm nhập, những gia
đình này khách đông, họ trao đổi thông tin một cách tự do.
• Gia đình ranh giới khép kín : ranh giới này khó thâm nhập, cửa luôn khóa, gia
đình rất ngại với người lạ, cha mẹ kiểm soát con ghê gớm. Nhân viên xã hội khó
mà thâm nhập được.
• Gia đình không ranh giới : ai muốn làm gì thì làm.
Cuộc sống có nhiều trắc trở và trong gia đình, đứa trẻ cũng dễ nhận ra là cuộc
sống có nhiều trở ngại, khó khăn, và không phải lúc nào cũng dễ chịu. Cuộc sống có
những phút giây hạnh phúc và cũng có những lúc thất vọng chán chường. Bất cứ gia
đình nào cũng có ba khát vọng : ước vọng của người cha, ước vọng của người mẹ và
ước vọng của đứa trẻ. Và chính những khát vọng đó đã giúp cho đứa trẻ có khả năng
đối mặt được với những khó khăn của cuộc đời. Đứa bé mới sinh còn yếu đuối rất
cần sự nâng đỡ, chăm sóc về tình cảm, về cảm xúc…để phát triển, khác với người
trưởng thành ở nhân cách chưa hình thành, chưa xác định đó là một cá thể. Sự tiếp
nhận của môi trường sống và sự khích lệ có vai trò hết sức quan trọng đối với đứa
trẻ. Môi trường xung quanh ne81u không tốt thì đứa trẻ cảm thấy bị ruồng bỏ. Trong
sự phát triển của giai đoạn đầu, trẻ cần có người mẹ hoặc người thay thế có được khả
năng dung hòa giữa thực trạng và đứa trẻ. Người ta nhận thấy tác động của lời nói
của cha mẹ sẽ thấm vào da thịt của trẻ và trở thành tiềm thức ở đứa trẻ.
Bs Winnicott, nhà phân tâm học người Anh, đã cố gắng định nghĩa khái niệm “bà
mẹ vừa đủ tốt” (good enough mother), là một bà mẹ không quá tốt, không quá đầy
đủ. Nếu bà mẹ quá tốt, quá hoàn hảo sẽ trở thành “độc hại” đối với trẻ vì người mẹ
đó luôn đáp ứng được trước mọi yêu cầu của trẻ mà không dành cho trẻ khoảng thời
gian cần thiết để thực hiện yêu cầu đòi hỏi của mình. Chì khi đối mặt trực tiếp với
68
yêu cầu đòi hỏi không thỏa mãn, đứa trẻ mới phát triển được về mặt tinh thần.
Nhưng những bà mẹ không gần gũi trẻ, không quan tâm đến trẻ tuy vẫn gần con
hoặc thường xuyên vắng mặt, hoặc trầm cảm cũng sẽ không thực hiện được vai trò
người mẹ của mình. Khi vắng mặt nhiều, trẻ dần dần quên đi sự có mặt của người
mẹ, sự tồn tại của người mẹ. Khi bầu vú mẹ hoặc bình sữa của mẹ đưa không đúng
lúc trẻ cần thì trẻ sẽ hình dung ngóm tay là bầu sữa để đưa lên miệng đã là một minh
chứng về sự quan tâm hay không của người mẹ.
Mối quan hệ mẹ-con phát triển theo thới gian giúp trẻ hình thành thế giới nội
tâm, một khi cha mẹ dành cho trẻ một sự tồn tại riêng biệt với những điều thầm kín
riêng tư của trẻ. Winnicott cho rằng chút riêng tư của trẻ với sự có mặt của một
người lớn bên cạnh là dấu hiệu quan trọng của sự phát triển tâm thần. Sự xa cách đối
với trẻ chỉ có được khi đã hình thành được mối liên hệ chặt chẻ với cha mẹ. Nhà
phân tâm J.M. Dougan người Úc, chuyên nghiên cứu về tác động của nghiện ma túy
đối với trẻ em và vai trò “vật trung gian” đối với trẻ, ngay cả người lớn khi gặp khó
khăn cũng phải chống đỡ bằng một một vật trung gian như một ly rượu, hoặc một
điếu thuốc lá. Đối với trẻ nghiện ma túy thì ma túy được dùng thay thế cho mối quan
hệ đối với cha mẹ đã bị thiếu vắng. những trẻ này khi gặp khó khăn, thất vọng đau
khổ thay vì suy nghĩ để tìm cách vượt khó thì lại đơn giản tìm đến ma túy để
đến”một thế giới tốt đẹp hơn”
Khác với con vật, đứa trẻ thành người phải được dạy dỗ bằng nhiều phương cách,
nhiều quy định và phong tục khác nhau tùy từng dân tộc, từng nền văn hóa, được lưu
truyền bằng miệng, bằng phong tục tập quán của xã hội. Dù như thế nào trẻ đều phải
được sinh trong một gia đình cụ thể, trong một nền văn hóa cụ thể. Tên của đứa trẻ là
biểu tượng của một dòng họ. Đối với các nhà nhân chủng học hay tâm lý học thì một
đứa trẻ ra đời có liên quan nhiều đến văn hóa hơn là một sự kiện sinh học đơn thuần.
Gia đình, cha mẹ là nơi thực hiện cà hai nhiệm vụ đặt vị trí đứa trẻ trong gia tộc
và tình cảm đối với bé. Nếu vì lý do nào đó, cha mẹ không thể thực hiện được hai
69
nhiệm vụ đó, thì lúc đó sẽ có những ‘người tài nguyên” của xã hội sẽ thay thế vai trò
của họ, đó là những người có chuyên môn như nhân viên xã hội vậy…
2. Sự rối loạn trong vai trò làm cha mẹ
Sự kiện một đứa trẻ chào đời luôn gợi lại ở cha và mẹ những ký ức xa xưa của
thời thơ ấu của họ tưởng đã xóa nhòa trong dĩ vãng. Nếu lúc ấy, họ bị ngược đãi, đau
khổ, họ luôn bị ám ảnh trong các ký ức đó và họ sẽ đối xử tồi tệ với con cái của
mình. Bao giờ cũng tồn tại một hình ảnh một đứa bé đau khổ trong tất cả mọi người
đau khổ. Vì thế khi nhân viên xã hội giúp đỡ một người cha hay người mẹ để không
còn ngược đãi con cái nữa thì bao giờ nhân viên xã hội cũng phải biết lắng nghe
được những nỗi niềm đau khổ mà họ phải chịu đựng trong thời thơ ấu. Đó là vấn đề
thừa hưởng chứ không phải là vấn đề di truyền. Bà Francoise Doltand cho rằng việc
thừa hưởng này chỉ có thể có được khi họ phải trải qua 3 thế hệ liên tục mới có thể
đưa đến những rối loạn trong chức năng làm cha mẹ của mình. Sự thừa hưởng về
ngược đãi con cái ngày nay bắt nguồn từ những thiếu vắng : thiếu vắng sự can thiệp,
thiếu vắng những giới hạn, thiếu vắng những quy định trong gia đình và ngoài xã hội
(lễ giáo gia đình, tục lệ xã hội). Khi nuôi dạy con cái, các bậc cha mẹ cũng phải biết
lúc nào phải nói “không” với con cái chứ không phải lúc nào cũng chiều theo con cái
một cách tuyệt đối và người cha cũng phải biết lúc nào đó cần can thiệp thể hiện vai
trò cắt đứt mối liên hệ mẹ - con khi cần thiết.
Trẻ có ý thức về thời gian hay không còn tùy thuộc vào mối liên hệ với mẹ. Mối
liên hệ này sẽ bị cắt cắt đứt khi trẻ được gởi nhà trẻ hay một người giữ trẻ dài ngày
và sẽ hình thành mối gắn bó của trẻ với người đó. Nếu người mẹ lại thay đổi người
giữ trẻ hay nhà trẻ thì trẻ lại phải bị “xa cách”, điều này nhân viên xã hội không được
xem thường. Vì thế, trước đây những trẻ thường bị thay đổi người trông nom hay
thay đổi chỗ, thay đổi nhà trẻ thì ngày nay người ta cố hết sức tránh vì nó có hại cho
đứa trẻ. Làm như thế những hình ảnh gắn bó với bé luôn bị mất đi không thể hình
thành môi trường sống thân thuộc của trẻ. Nếu phải thay đổi nhà trẻ hay người giữa
trẻ thì bao giờ cũng cần phải có một thời gian “chuyển tiếp”, chia tay với người cũ
70
và phải giải thích cho bé hiểu dù rằng bé chưa thể hiểu được lời nói của mình. Để
giảm bớt sự lo âu, đau khổ của bé khi đến nới mới, nhân viên xã hội cần mang theo
chăn gối, đồ chới của bé. Đôi khi sự phản ứng của trẻ đối với sự xa cách có thể được
thể hiện ngay, nhưng có khi không thể hiện ngay và đó mới là điều đáng lo ngại.
Thường vì lý do nào đó mà cha mẹ phải gửi con cho người khác nuôi thì khi cho
mẹ gặp trẻ lần đầu nên có mặt người thứ ba để tránh sự lo âu của cả hai mẹ con, để
dần dần khôi phục lại mối quan hệ. Đứa trẻ thường sẽ do dự một lúc mới nhận ra
được mẹ của mình. Trong những trường hợp này nhân viên xã hội có mặt ở đó cũng
sẽ phải nói với trẻ về hoàn cảnh của người mẹ của trẻ phải gửi con và nay mẹ lại về
với trẻ, giải thích cho trẻ dù có thể trẻ chưa hiểu hết được. Khi trẻ đã quen rồi nhân
viên xã hội mới để người mẹ gặp riêng trẻ. Những đứa trẻ một hai tuổi rất cần sự gần
gũi với người mẹ để có chỗ dựa về tình cảm ổn định lâu dài và để có người noi theo,
bắt chước.
Có những bà mẹ không làm được vai trò khi không thể nuôi con, gửi con cho
người khác nuôi suốt ngày đêm như trường hợp của những người mẹ hoạt động mại
dâm. Khi chấp nhận xa lìa con để hành nghề thì đó cũng tái hiện lại ký ức của mình
lúc bé cũng đã bị mẹ bỏ rơi để đi hành nghề trước đây. Khi chấp nhận xa lìa con để
bảo vệ cuộc sống tương lai đứa trẻ sau này là người mẹ đó đã muốn đoạn tuyệt với
quá khứ và mặc dù rất yêu con thì bà mẹ đó cũng đã “chết” trong tình cảm của trẻ.
Đối với những trường hợp tương tự thì nhân viên xã hội vừa phải giữ gìn, tăng
cường mối quan hệ tình cảm mẹ - con, đồng thời vẫn phải giũ mối liên hệ tình cảm
giữa người nuôi trẻ với trẻ vì họ có vai trò quan trọng với đứa trẻ, thay thế cho người
mẹ nhưng không chiếm vai trò người mẹ đó.
3. Vấn đề của gia đình
Nhân viên xã hội khó xác định đâu là vấn đề trầm trọng và làm thế nào để
đánh giá một hành vi lệch lạc hoặc khác thường, nói một cách khác khi nào cho rằng
khi nào một vấn đề thành một vấn đề thật sự?
71
Khó mà trả lời câu hỏi này. Câu hỏi này thúc đẩy nhân viên xã hội đi tìm
những phân biệt tuyệt đối giữa các tính chất của cha mẹ của trẻ như có vấn đề đến
nhờ sự hỗ trợ của nhà phân tâm học hoặc nhân viên xã hội và những cha mẹ bình
thường khác. Phê phán cái gì lệch lạc (lệch lạc so với chuẩn mực) chì là một phê
phán của xã hội. Có những người lớn có những hành vi cha mẹ phù hợp nhưng lại
không đạt được những điều mong đợi. Sau đây là các loại hành vi cha mẹ :
Sau đây là các chi tiết của hành vi của trẻ em chịu ảnh hưởng bởi hai tính chất
chính của cha mẹ : làm cha mẹ “giới hạn” và làm cha mẹ “cho phép” :
Tính chất “giới hạn” Tính chất “cho phép”
A - Dễ phục tùng B - Tích cực
Nhiệt tình - Lễ phép, ngăn nắp - Sáng tạo, độc lập
- Gây hấn nhẹ, - Quy tắc tuân thủ tối thiểu
Độc lập dễ dãi, cho phép
Tách rời Tự doThờ ơ
Dân chủ Bỏ rơi Hợp tác
Chối bỏ Chấp nhận C BThù nghịch
D A Yêu thương
Kiểm soát Chiếm
hữu
Đối kháng
Quá nuông chiều Quyền uy
Độc tài Bảo vệ quá
mức
Giới hạn
72
- Quy tắc tuân thủ tối đa - dễ đảm nhận vai trò người lớn
- Tùy thuộc, ít thân thiện - Thân thiện
- Ít sáng tạo, hài lòng cao - Tự hây hấn thấp (trẻ nam)
D - Có vấn đề “thần kinh” C - Phạm pháp
Thù địch - Dễ gây sự, nhút nhát với bạn - Không hài lòng, bất mãn
cùng lứa tuổi - Gây hấn cao
- Tự gây hấn cao (trẻ nam)
- Lãnh đạm
4. Chu kỳ sống của gia đình
4.1. Biểu đồ sinh thái (eo-map)
Sinh thái ở đây là nghiên cứu đối tượng và gia đình trong môi trường sống
của gia đình và mối tương quan của gia đình với các cơ cấu khác. Nhân viên xã hội
muốn biết những mối liên kết giữa gia đình đối với những hệ thống khác nhân viên
xã hội có thể hiểu được qua biểu đồ sinh thái.Nhân viên xã hội dùng các ký hiệu để
xác định mối liên hệ nầy. Nếu đường nối của nhân viên xã hội là một đường đậm thì
có nghĩa là mối liên kết nầy chặt chẽ. Một hệ thống khác mà gia đình có thể kết cấu,
đó là trường hợp gia đình nầy có trẻ nhỏ còn đi học mà sự kết cấu nầy lại thiếu một
bà mẹ thì có thể có vấn đề, gia đình có cả ông bà hay họ hàng, nếu ta thấy các đường
nối có dấu gạch chéo thì nhân viên xã hội biết mối quan hệ giữa gia đình với họ hàng
hai bên có vấn đề căng thẳng. Có những hệ thống khác như là hàng xóm, tôn giáo, hệ
thống chính trị... Dấu hiệu tốt giữa gia đình với hàng xóm là đường gạch đậm, dấu
nầy càng tốt hơn nếu có những mũi tên hai chiều, điều nầy chứng tỏ có quan hệ tốt
giữa gia đình với hàng xóm.Nếu trong gia đình lớn cùng có hoạt động, có mũi tên
một chiều thì ta phải đặt câu hỏi, có thể gia đình lớn nầy rất hào phóng.
Khi nhân viên xã hội thực hiện bản đồ sinh thái, nhân viên xã hội cùng ngồi
với thân chủ. Khi gia đình cùng tham gia, họ sẽ hiểu và nhận thức được những vấn
đề mà trước đây họ không hiểu một cách rõ ràng. Trong vòng tròn lớn nhất là gia
đình, ta cùng tìm hiểu mối quan hệ giữa gia đình và hàng xóm, nếu mối quan hệ nầy
73
chặt chẽ thì ta cũng nên tìm hiểu người hàng xóm nầy là ai, bởi vì nhân viên xã hội
cần phải tìm hiểu mối quan hệ đối với mọi người xung quanh của gia đình nầy vì
nhân viên xã hội cần tìm hiểu về gia đình nầy nhiều hơn. Ta có thể không thâm nhập
được vào gia đình nầy, nhưng qua những hình ảnh, ta thấy mối quan hệ giữa gia đình
nầy với người hàng xóm là đường thẳng đậm nét, và thông qua người hàng xóm ta
có thể hiểu rõ về gia đình nầy (bởi vì người hàng xóm nầy qua mối liên hệ họ đã
thâm nhập vào gia đình nầy). Nếu nhân viên xã hội biết người nào đó trong gia đình
có mối liên hệ rất chặt chẽ với thầy giáo hay một cá nhân nào đó ở trường, nhân viên
xã hội có thể tìm người đó để tiếp cận với gia đình nầy. Nếu nhân viên xã hội biết là
gia đình nầy rất tôn trọng tín ngưỡng và nếu biết tên người lãnh đạo tôn giáo của họ,
nhân viên xã hội có thể nhờ người lãnh đạo nầy để qua đó giúp đỡ nhân viên xã hội
biết thêm thông tin về gia đình nầy.Trong khu phố, tổ trưởng dân phố là ai, nếu nắm
được những người có uy tín trong hệ thống này thì tôi càng có nhiều tài nguyên để
mà sử dụng những công việc của mình. Khi nhân viên xã hội làm việc với gia đình,
nhân viên xã hội muốn sử dụng các công cụ của gia đình nầy, nhân viên xã hội nên
dành thời gian đến gia đình nầy để họ trực tiếp nói cho bạn nghe, họ diễn tả mối
quan hệ của gia đình họ.
Khi làm công tác xã hội, dù làm việc một ngày, nhân viên xã hội cũng nên có
bản đồ để cùng với đối tượng làm việc với nhân viên xã hội. Đôi khi nhân viên xã
hội cũng nên để cho đối tượng có một bản đồ để họ đem về nhà nghiên cứu. Khi họ
gặp lại nhân viên xã hội, họ sẽ trình bày cho nhân viên xã hội biết mối liên hệ mà họ
sống trong gia đình và họ tự nhìn thấy vấn đề của gia đình họ và họ sẽ cải thiện mối
quan hệ trong gia đình tốt hơn. Đây cũng là công cụ dùng trong trị liệu gia đình.
74
4.2. Chu kỳ sống của gia đình
Đây là một khía cạnh khác của gia đình, là một hệ thống luôn chuyển biến,
nhân viên xã hội nhìn vào chu kỳ phát triển của gia đình cũng như sự tiến hoá của
gia đình. Gia đình sống trong trạng thái vừa đổi mới vừa vẫn như cũ, một chu kỳ
sống của gia đình theo hệ thống, tác động âm dương, có hai lực lượng thúc đẩy lẫn
nhau: một là vẫn như thế, hai là thay đổi.
Gia đình hạt nhân: bắt đầu là cuộc hôn nhân của hai người và nó nới rộng dần
và trở nên phức tạp hơn khi có con cái vì phải lao động, có trách nhiệm hơn về mặt
tài chính. Và gia đình trở lại tình trạng đơn giản khi con cái lớn lên và rời gia đình.
Một gia đình đang lớn lên rồi sau đó teo lại dần, điều nầy xảy ra khi một thành viên
GIA ĐÌNH/HỘ
GIA ĐÌNH MỞ RỘNG
AN SINH XÃ HỘI
CÔNG VIỆC
CHĂM SÓC SỨC KHOẺ
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ
NỮ
TỔ DÂN PHỐ
VUI CHƠI GIẢI TRÍ
TRƯỜNG HỌC
HÀNG XÓM
BẠN BÈ
TÔN GIÁO
75
bước vào giai đoạn chuyển tiếp. Gia đình thường phải đối phó với sự căng thẳng khi
gia đình lớn lên hoặc khi gia đình teo lại. Khi hai vợ chồng mới có đứa con đầu tiên
họ cũng rất căng thẳng và khi con họ lớn lên họ cũng gặp không ít khó khăn. Cha mẹ
già phải chăm sóc phụng dưỡng hay bệnh tật thì gia đình cần phải tăng cường khả
năng để xử lý vấn đề đó.
Có hai lý thuyết mô tả đỉnh cao của sự căng thẳng và cảm xúc trong gia đình
trong đó có sự thay đổi về tài chính, khi có biến đổi như ly hôn, bệnh tật, sự căng
thẳng lên tới tột đỉnh mà người ta gọi là đỉnh cao của đời sống tình cảm. Và sự nghèo
đói cũng có thể tạo ra sự căng thẳng.
Lý thuyết chu kỳ của gia đình:
Gia đình luôn cố giữ quân bình giữa trạng thái và khà năng trong khi bị tác
động bởi bên ngoài. Điều nầy thật khó khăn giữa hai ý tưởng, một bên là muốn thay
đổi và một bên muốn giữ nguyên trạng. Gia đình có khi phải nới rộng, có khi phải
bước tới, có khi phải trở lùi và khả năng thích ứng nầy rất là cần thiết cho gia đình.
Mỗi gia đình có khả năng thích ứng khác nhau.Một gia đình không hoạt động tốt,
không có khả năng thích ứng là một gia đình không thể có sự thay đổi diễn ra trong
gia đình và ngoài xã hội.
Tính chất của hệ thống là khả năng giữ nguyên trạng của sự việc đó là các luật
lệ trong gia đình, những ý nghĩa mà mọi người hiểu nhau một cách thống nhất những
giá trị mà họ trông chờ lẫn nhau. Không có yếu tố nầy thì gia đình không giữ vững
được sự sống của mình..Khả năng của gia đình là để thay đổi. Muốn vậy, nó tùy
thuộc vào sự cởi mở của gia đình. Để đối phó với vấn đề và tìm ra giải pháp thì các
gia đình phải có tính chất cởi mở. Sự cấu kết trong gia đình thông qua các luật lệ, hệ
thống giá trị và liên thế hệ của gia đình, là những nhân tố giúp gia đình giữ vững
trạng thái nguyên trạng và khả năng giúp cho gia đình thay đổi và thích ứng.
76
Trong gia đình có người nghiện rượu thì luôn luôn bị xáo trộn. Trong gia đình xáo
trộn, đứa trẻ hay bị sợ hãi, chúng không biết là cha mẹ nó có thể trở lại trạng thái
bình thường để tiếp tục chăm sóc nó hay không? Đối với những gia đình này nhân
viên xã hội có thể sắp xếp lại chỗ ở và tìm việc làm.
Ví dụ về một trường hợp :
Có một thân chủ 40 tuổi sống chung với mẹ và người mẹ luôn nói chuyện với
anh ta như lúc anh ta lên 10 tuổi và bà mẹ nầy không thích với những bạn gái của
anh ta và cũng không thích anh ta ra khỏi nhà. Anh ta đã tạo ra sự thay đổi bằng cách
đi uống rượu và hay đi chơi vì anh ta không thể chấp nhận một tình trạng như vậy
mãi. Nhân viên xã hôi phải giúp cả hai mẹ con chấp nhận sự đổi mới. Bà mẹ hàng
ngày luôn trông chờ những cú điện thoại của con gọi về. Nhân viên xã hội giúp bằng
cách để cho anh ta mỗi ngày gọi điện thoại cho mẹ giảm dần để bà quen dần với sự
thay đổi này. Nhân viên xã hội thường đến nhà trò chuyện để giúp cho bà quen dần
với tình trạng mới.
4.3. Quyền lực trong gia đình:
Ai có quyền lực trong cấu trúc quyền lực? Có quyền lực liên quan đến giao
tiếp trong gia đình, có những luật lệ trong gia đình qui định người nào được nói
chuyện với ai, về việc gì? Đôi khi luật đó được nêu ra rõ ràng, đôi khi chỉ là sự quy
định ngầm với nhau.
Ví dụ:
Đôi khi trong gia đình chỉ một số người được biểu lộ cảm xúc, còn những người
khác không có quyền.
Để hiểu một gia đình, nhân viên xã hội cần hiểu hai luật về giao tiếp trong gia
đình để tìm hiểu ai là người có quyền lực trong gia đình.
77
Khi ta tìm hiểu về một gia đình nhân viên xã hội tìm hiểu quan hệ qua lại
trong gia đình đó. Một trong những lý thuyết làm việc với gia đình là lý thuyết giao
tiếp. Nhân viên xã hội không thể nào không giao tiếp, tất cả các thành viên nhân viên
xã hội đều là một hình thức giao tiếp. Khi các thành viên nhân viên xã hội đang ngồi
đây đều là một hình thức giao tiếp.
Ví dụ:
Khi cãi nhau, người chồng tức bỏ đi và lý luận Tôi phải đi vì cô ta không để
cho tôi yên. Người vợ thì cho rằng Tôi không để yên vì anh ta không chịu nghe và bỏ
đi. Cách nhấn mạnh vấn đề của hai người có hai điểm nhấn khác nhau:
o Cách nhấn của vợ là hành vi của bà ta chỉ là phản ứng lại hành vi của
ông chồng
o Và cách nhấn của ông chồng chỉ phản ứng lại những hành vi của bà vợ.
Khi nhân viên xã hội giao tiếp thì chữ và nghĩa phải đi đôi với nhau. Khi ta
thấy một người có cử chỉ và hành động không đi đôi với nhau có nghĩa là chữ và
nghĩa không khớp nhau làm cho nội dung mất giá trị. Thí dụ người mẹ miệng nói
yêu con nhưng bà ta lại xô đứa con ra khi nó muốn quấn quít bà ta.
Thí dụ:
Tôi nói với sinh viên của tôi là bạn có thể nói một cái gì đó rất là bộc phát rất
là tự nhiên, thì tôi cho bạn điểm xuất sắc môn học. Bây giờ bạn muốn nói cái gì đó
hết sức bộc phát. Sinh viên nói: Hôm nay vui quá. Tôi trả lời: điều đó bạn đã nghĩ tới
rồi, bởi vì bạn không có tự nhiên, không có bộc phát, ý tôi muốn bạn không nghe lời
tôi. Nghĩa là bạn không thể thắng tôi.
Nếu gia đình có tình trạng nầy thì rất là tiêu cực cho đứa trẻ. Thí dụ: Người
cha than vãn là con không có công ăn việc làm, ông mắng con: “Con phải là người
đàn ông, con phải làm việc chứ” Và người mẹ trả lời: “Công việc gì nó làm đều
nguy hiểm, dưới sức của nó”. Đứa con trả lời là nó “chán quá”. Cả hai cha mẹ đều
78
nói “Con ngu lắm”. Nếu mà nó không làm việc thì cha nó la nó, còn nếu nó chọn
một công việc thì mẹ nó lại chê công việc đó, và nếu đứa trẻ than phiền về việc nầy
thì cha mẹ nói là nó ngu.
Điều này có xảy ra trong gia đình Việt Nam không? Khi làm việc với gia
đình, nhân viên xã hội nên quan sát sự truyền thông giao tiếp trong gia đình và các
bạn làm sao tìm cách để họ truyền thông có hiệu quả nghĩa là sự truyền thông trước
sau như một, có sự phản hồi, song song đó, nhân viên xã hội cũng cần phát hiện
những loại truyền thông có vấn đề.
Nếu giúp gia đình về mặt truyền thông giao tiếp thì nhân viên xã hội giúp họ
truyền thông một cách rõ ràng, tránh những sự hiểu lầm và tìm cả những cái méo mó
để giúp họ thẳng thắn chia sẻ ý tưởng và cảm xúc với nhau, nhân viên xã hội tìm
hiểu cả nghĩa rộng lẫn nghĩa bóng của vấn đề, giúp họ cách diễn giải vấn đề của
nhau, giúp họ xử lý những mâu thuẫn của nhau, tránh kéo thêm một thành phần thứ
ba vào cuộc.
Chung quanh các thế hệ, nhân viên xã hội phát hiện một mô hình với những
sự thay đổi. Các mô hình ứng xử nầy được truyền từ thế hệ nầy sang thế hệ khác như
thế nào? Thế hệ trước đã ảnh hưởng lên gia đình như thế nào? Cách gia đình thiết kế,
xây dựng và giải thích ra sao? Ngày nay, người ta nhìn vào thực tế để lý giải. Các
thành viên trong gia đình cùng chia sẻ những kỳ vọng với nhau. Những sự chia sẻ
nầy là sự kết hợp kinh nghiệm của gia đình trong thế hệ của mình.
Thí dụ:
Các thế hệ bị bách hại nhiều thì gia đình thường hay nghi ngờ. Hệ thống niềm
tin của gia đình sẽ ảnh hưởng đến gia đình và cách gia đình tạo mối quan hệ giao tiếp
với môi trường xung quanh và ảnh hưởng đến cả hành vi của các thành viên trong
mối quan hệ với nhau. Nhân viên xã hội có thể phát hiện được cách ứng xử của gia
đình thông qua các dịp lễ tiệc.
79
4.4. Những vấn đề của gia đình
Một vấn đề của gia đình có thể liên quan đến một số áp lực. Một áp lực có thể
do chu kỳ phát triển tiến hóa của gia đình đó. Thí dụ gia đình mới có thêm một đứa
trẻ. Ông hay bà không thể sống độc lập hoặc là một đứa con ở tuổi mới lớn, có thể
một vấn đề cá nhân trong gia đình hạt nhân hay trong gia đình lớn cũng có thể tạo
nên rắc rối trong gia đình.
Mỗi chu kỳ thay đổi của gia đình có thể đem đến một sự hụt hẫng, mất mát
nào đó, có thể là tang tóc, và có một vài dấu hiệu thoái hóa ở một vài thành viên
trong gia đình.
Ví dụ:
Một gia đình có thêm một đứa con mới thì đứa lớn cũng có thể có nhiều biểu
hiện muốn bắt chước hành vi của em nó (Thí dụ như đứa lớn không muốn vào nhà
cầu mà nó muốn tiểu tiện như em nó).
Khi một thành viên trong gia đình bị tai nạn, bị bệnh thì các thành viên trong
gia đình phải tái thích ứng về vai trò để bù đắp cho khó khăn này, cũng có thể áp lực
đó từ bên ngoài vào gia đình. Ví dụ người cha bị khủng hoảng trong việc làm, hoặc
người mẹ mất một người bạn tốt, hoặc cha đánh bạc bị mắc nợ. Và có một áp lực
khác là áp lực bên ngoài lên toàn gia đình. Ví dụ gia đình phải dời nhà khi người cha
không còn làm việc ở chỗ cũ nữa, lũ lụt, cháy nhà, không có chỗ cư ngụ. Trước tất cả
áp lực này gia đình phải có khả năng thích nghi.
Một áp lực từ bên ngoài thí dụ như ông bà dọn về ở chung, tái kết hôn cha mẹ
ghẻ hay anh em ở dòng khác. Đó là những áp lực từ bên ngoài ảnh hưởng đến cấu
trúc gia đình. Có những vấn đề nhân viên xã hội tưởng tượng nó chỉ ảnh hưởng đến
một hành vi, điều đó không đúng, và đôi khi nhân viên xã hội thấy một hành vi
khủng hoảng đối với gia đình thì đã có những thay đổi trong hệ thống mà nhân viên
xã hội phải tìm hiểu hệ thống đó đáp ứng với gia đình đó như thế nào.
80
Nhân viên xã hội cần tạo niềm tin, tạo hy vọng cho người để họ tiếp tục sống và
hành động.
BIỂU ĐỒ THẾ HỆ:
Đây là công cụ để đánh giá gia đình, để nhìn ra hệ thống tình cảm gia đình, để
tìm ra những yếu tố tìm hiểu văn hoá của gia đình nầy, là cách để tổ chức và phân
định các thành viên trong gia đình, qua các thế hệ. Các biểu đồ nầy có thể đúc kết
các hoạt động thông tin của gia đình trong một giai đoạn nào đó rất hiệu quả. Nhân
viên xã hội có thể lấy ra những mẫu (mô hình) trong gia đình nầy. Thí dụ việc uống
rượu có thể ở thế hệ này, có thể ở thế hệ trước hoặc ở những thế hệ trước. Biểu đồ
nầy ít nhất có 3 thế hệ và trong biểu đồ nầy ta cần ghi lại những nguồn gốc về tôn
giáo của gia đình, sắc tộc của gia đình và cũng như trong chu kỳ đời sống gia đình ta
cần ghi lại những biến cố quan trọng trong gia đình như sự mất mát, chết chóc trong
gia đình, nếu gia đình di chuyển chổ ở cũng ghi chú vào mối liên hệ giữa các thành
viên trong gia đình. Các bạn có thể tìm ra khi nào nó có mối liên hệ tay ba, hay sự
gần gũi cấu kết của các thành viên hay là ghi nhận lại bằng dấu hiệu mà những người
đã không còn liên hệ với nhau nữa. Đây là những dấu hiệu được dùng trong biểu đồ.
Xuyên qua những dấu hiệu nầy không chỉ nhìn thấy mối liên hệ giữa hai người với
nhau mà còn thấy rõ mối liên hệ của nhiều người với nhau.
Khi làm việc với một gia đình, ai là thân chủ của ta thì ta khoanh tròn dấu
hiệu của người đó lại. Làm sao để thực hiện biểu đồ nầy? Nói chung phải có sự đồng
ý của thân chủ, và thân chủ cung cấp thông tin thì ta mới có thể ghi nhận đầy đủ
xuyên qua biểu đồ thế hệ.
Nhân viên xã hội cần phải có những ghi nhận bên cạnh các thành viên trong
gia đình, nếu có người trùng tên qua nhiều thế hệ thì xem xét coi những người trùng
tên này có những điểm đặc biệt nào giống nhau không. Khi vẽ biểu đồ thế hệ cần nói
rõ đặc điểm, tuổi tác, năm sinh, việc làm của từng người.
81
MẪU BIỂU ĐỒ THẾ HỆ
5. Một số vấn đề của trẻ trong gia đình 5.1. Trẻ em bị ngược đãi và thiếu chăm sóc
Mary John
BobSue Tina
CÁC KÝ HIỆU CỦA BIỂU ĐỒ THẾ HỆ
đàn ông đàn bà mất cưới nhau thân thiết ly dị xa cách ly thân xung đột
ố
82
Ở Mỹ, trong sự ngược đãi có sự ngược đãi về thể chất, không được chăm sóc
đầy đủ, không có được những dịch vụ y tế chăm sóc, không được khuyến khích và
giúp đỡ để học, bị bóc lột để làm những công việc nặng nhọc hoặc nhiều giờ, tiếp
xúc với những tình huống xã hội xấu: những vấn đề nhân viên xã hội thường nói là
những vấn đề trẻ em không được quan tâm, bị bỏ bê, ngoài ra còn có những trẻ em bị
ngược đãi, bị lạm dụng tình dục.
Vấn đề trẻ em không được chăm sóc đầy đủ, nội dung chính là do thiếu nguồn
tài nguyên, hoặc là lỗi của cha mẹ hay người chăm sóc có khả năng nhưng không
hoàn thành trách nhiệm để cho đứa trẻ có được sự chăm sóc tối thiểu, người chăm
sóc không thực hiện được cho trẻ hưởng thụ được nguồn tài nguyên như y tế, dinh
dưỡng, nhà ở, sự hướng dẫn, tình thương, và sự quan tâm. Đó là tình trạng trẻ hoàn
toàn không có người chăm sóc hay không được chăm sóc đầy đủ. Đó không phải là
hành động cố tình tạo nên sự thiệt hại cho trẻ và đó là việc thiếu hành động cần thiết
cho trẻ.
Trẻ thiếu nguồn để sống sót, bao gồm cả việc thiếu sự theo dõi và hướng dẫn,
thí dụ như khuyến khích trẻ đi học mỗi ngày và sự ủng hộ về mặt tình cảm đó là
những vấn đề do ảnh hưởng nạn nghèo đói, cái nghèo làm cho cha mẹ thiếu khả năng
cung cấp. Trẻ không được chăm sóc là trẻ tự kiếm sống lang thang, không ai kiểm
soát, một số trường hợp khác trẻ không được ai giám sát, ta thấy trẻ không được ăn
mặc sạch sẽ, dơ bẩn trông mất vệ sinh, những yêu cầu về sức khỏe, về nha khoa, về
dinh dưỡng không được đáp ứng và từ đó dẫn đến những hậu quả về thể chất nếu trẻ
không được chăm sóc ở mức độ nghiêm trọng.
Một trong những hậu quả của sự thiếu chăm sóc là trẻ không có khả năng lớn
hơn. Trẻ lớn không nổi khi còn trong nôi. Nó ảnh hưởng đến khả năng phát triển tâm
lý, vận động và một ảnh hưởng khác lên trẻ em là trẻ bé hoài không phát triển đầy đủ
về mặt tâm lý xã hội, và điều này có thể ảnh hưởng trẻ từ 18 tháng đến 16 tuổi. Và
người ta nghĩ rằng trẻ bị bỏ rơi về tình cảm tạo ra cho trẻ lớn chậm (được gọi những
chú lùn tâm lý xã hội, khi trẻ nhỏ hơn sự phát triển của trẻ bình thường, thấp nhất là
83
5%) có những trẻ bị bỏ bê nên bộ xương không tăng trưởng, sự trưởng thành về
xương, qui trình lớn lên và cứng cáp của xương chậm. Ngoài ra, trẻ có hành vi phản
xã hội như hành vi hoạt động một cách thoái hóa, chúng có thể có những khó khăn
trong khi nói chuyện, trong giao tiếp. Đó là những dấu hiệu của những trường hợp
nghiêm trọng. Có những đặc điểm biểu hiện của cha mẹ bỏ bê con cái là cha mẹ bị
sống cô đơn, cô lập. Vì sống cô độc nên cha mẹ có khó khăn trong việc tiến hành
công việc hàng ngày một mình không ai giúp đỡ, đặc biệt thứ hai là họ còn giận dữ
tức tối là lúc nhỏ họ không được chăm sóc đầy đủ. Vì vậy cha mẹ rất khó khăn để
nhìn thấy những nhu cầu của con cái. Những cha mẹ này thường sống một tâm trạng
rất trầm cảm, không đáp ứng được những nhu cầu của con cái.
5.2. Bạo hành trẻ em:
Bạo hành trẻ em là đánh đập đến nỗi trẻ bị thương tích. Cái lý do mà cha mẹ
đánh là quan trọng bởi vì có sự phân chia mơ hồ giữa kỷ luật con cái và đánh đập
con cái, giữa cố tình làm hại đứa nhỏ và lỡ đập con cái. Nếu cha mẹ lỡ tay thì không
kéo dài, còn cố tình thì sự đánh đập kéo dài.
Hậu quả là những vết bầm trên cơ thể, những lằn xước lên da trẻ, và đôi khi
cả dấu răng cắn và xương bị nứt, những vết thương trên đầu và những nội thương
bên trong của ngũ tạng đứa trẻ. Ở Mỹ có những trường hợp những đứa trẻ mới sanh
hay khóc làm cha mẹ bực bội, cha mẹ có thể lắc đứa trẻ quá mạnh thì đứa trẻ có thể
bị tổn thương cổ, não bộ lúc lắc, có thể bị tổn thương về não và đứa trẻ có thể chết.
Hiện có một case, cha là bác sĩ, bị đưa ra toà (người mẹ sau khi sinh con đứa trẻ mới
sanh khóc hoài). Hiện giờ người ta chưa xác định được ai là thủ phạm gây ra cái chết
cho con, cha hay mẹ. case này bị lôi ra ánh sáng vì có sự nghi ngờ gắn liền khi cặp
vợ chồng nầy đã yêu cầu cố giữ nó sống bằng hệ thống nhân tạo; đến khi đứa bé
chết, người ta mổ xác đứa bé để xét nghiệm thì thấy não bị vỡ vụn.
Với tư cách là nhà công tác xã hội để quyết định đứa trẻ có bị bạo hành hay
không nhân viên xã hội nên nghĩ đến những câu hỏi sau đây:
84
Điều thứ nhất:
- Có phải là đứa trẻ ở lứa tuổi đó bị đánh đập quá thường xuyên đối với lứa tuổi đó
hay không?
- Có phải là đứa trẻ không chỉ bị một vết thương mà thôi, mà cùng một lúc có nhiều
loại vết thương
- Có phải là loại thương tích đứa nhỏ bị là một mẫu mà thường được lập đi lập lại
hay không? (thí dụ như vết phỏng)
- Vết thương mà đứa trẻ bị, có thể cha mẹ cắt nghĩa một cách không hợp lý không?
- Hãy lắng nghe kỹ cách cha mẹ cắt nghĩa (lối giải thích của cha mẹ có hợp lý
không?)
Điều thứ hai là quan sát đến hành vi của đứa trẻ, đây là những hành vi mang tính
cực đoan.
- Đứa trẻ có hành vi quá sức tuân thủ ý kiến cha mẹ: thí dụ đứa trẻ lúc nào cũng
ngồi yên lặng một chỗ, đứa trẻ tránh mọi sự đụng chạm xung đột với cha mẹ, tránh
không làm cha mẹ giận, lúc nào cũng quan sát canh chừng cha mẹ.
- Đứa nhỏ có tính hay gây hấn, rất đòi hỏi, sống động và đứa trẻ làm bất cứ điều gì
để cha mẹ quan tâm đến nó.
- Hành vi đứa trẻ bị thay đổi vai trò, nó có những hành vi như cha mẹ lo lắng cho
con cái.
- Trẻ có những hành vi rất là phụ thuộc cha mẹ để cha mẹ không có phản ứng gì cả.
- Những đứa trẻ thuộc 4 dạng vừa rồi, sự phát triển năng lực của nó chậm vì năng
lực của nó đã dồn vào sự đối phó với cha mẹ. (Ví dụ như ngôn ngữ của nó không
được phát triển tốt).
- Những đứa trẻ bị bạo hành có cách ứng đối với người lạ bằng một trong hai cách:
85
- Có thể đối với mọi người nó rất thân thiện hoặc hay gây hấn, nó dễ dàng làm quen
với mọi người.
- Nó ngồi yên lặng thinh không tiếp xúc với ai, nó nghi ngờ mọi người.
- Dấu hiệu về vấn đề ăn uống bị rối loạn.
Ta có thể thấy hành vi ăn uống của trẻ rất bình thường. Thí dụ đứa trẻ ngồi ăn
uống rất lịch sự, rất hợp lý chỉ vì nó sợ bị đòn.
Cách chơi của trẻ có thể cho thấy nó bị bạo hành. Nó có thể diễn tả tình cảm của
nó xuyên qua các trò chơi, nó có thể ngồi yên một chổ, tránh giao tiếp vơi trẻ khác,
hoặc là chơi nhưng có tính gây hấn như để diễn tả những bực tức mà nó mang đến từ
nhà. Một dấu hiệu đó là nó không thể kiểm soát được sự tiểu tiện của nó (tiểu trong
quần hay đái dầm vào đêm) hoặc nó không thể kềm chế được những sự bực tức, nằm
vạ, làm mình làm mẩy, làm trận làm thượng và có thể có những hành động rất bất
thường.
Đặc điểm của những cha mẹ hay đánh đập con cái:
Những người này thường có những nhu cầu quan trọng là được chăm sóc vì
họ chưa được chăm sóc. Họ tự đánh giá mình rất thấp, họ khiến cho người khác
ruồng bỏ họ, khinh thường họ, vì họ không biết làm sao để kiếm được sự hỗ trợ và
họ thấy họ không xứng đáng nhận được sự hỗ trợ khác.
Tình trạng của họ là tình trạng của cha mẹ mong muốn sự hỗ trợ của người
khác. Trong khó khăn đó, họ không thể đáp ứng nhu cầu của con cái. Thường những
cha mẹ này lúc bé, chính họ bị bạo hành hay bỏ rơi, họ sống cô độc, họ tự đánh giá
họ thấp, họ không có được sự hỗ trợ nên sự căng thẳng này càng ngày càng cao và
đổ trút sự căng thẳng lên đầu trẻ con. Và có khi cha mẹ bạo hành khó khăn nghiêm
khắc với con cái, đứa nhỏ bị kiểm soát ngặt nghèo và khó khăn, đó là một phần cha
mẹ tự muốn kiểm soát mình thông qua đứa nhỏ. Trong trường hợp những cha mẹ
như vậy, những đứa trẻ bị tàn tật thì nếu đứa trẻ này có nguy cơ bị bạo hành nhiều
86
hơn vì cha mẹ phải lo âu trong sự đáp ứng của trẻ này nhiều hơn. Thêm vào đó cha
mẹ thường bị bạo hành lúc nhỏ cho nên họ cũng không biết cách để đáp ứng nhu cầu
của trẻ như thế nào. Nếu họ không được chăm sóc lúc nhỏ thì bây giờ họ cũng không
biết cách chăm sóc đứa nhỏ. Trong môi trường sống cũng có những ảnh hưởng đến
những cha mẹ bạo hành trẻ con. Và trong mối liên hệ vợ chồng cũng có ảnh hưởng
đến trẻ con, thường là mối quan hệ tay ba, mối liên hệ hai vợ chồng không tốt đẹp,
họ dùng đứa con coi như vật tế thần để giải quyết vấn đề của họ. Trong trường hợp
sự căng thẳng đến mức độ tột đỉnh và có những biến cố rất nghiêm trọng (nghèo đói
triền miên, cha mẹ đơn thân, mất việc...) Trong trường hợp căng thẳng như vậy cha
mẹ cảm thấy căng thẳng và bạo hành con cái. Có khi cha mẹ bạo hành con cái vì họ
chưa được học kỹ năng cần thiết tối thiểu để làm cha mẹ, không biết thức ăn dinh
dưỡng cần thiết và chăm sóc y tế như thế nào cả. Có nhiều cha mẹ cứ nghĩ cho ăn
cho ngủ là đủ mà không quan tâm đến nhu cầu tâm lý tình cảm của trẻ. Có nhiều cha
mẹ không được sự chỉ dẫn là nên nói chuyện với trẻ chứ không nên đánh trẻ.
Và những cha mẹ không có khả năng nhìn mình tách biệt ra khỏi đứa con,
hoặc ngược lại. Họ thường đổ lỗi cho con. Và những cha mẹ này thiếu khả năng lý
giải vấn đề cái nào được, cái nào không được. Họ khó quyết định, họ không biết
chọn hướng nào để thay đổi. Và có những cha mẹ không thể nào kiểm soát được họ,
họ rất nóng vội, không chờ đợi được và đánh con ngay tức thì. Nếu cha mẹ nghiện
rượu hay nghiện thuốc và sự nghiện ngập của những người này làm họ bị thu hút hết
sự quan tâm đến con cái, gây nên nạn bạo hành con cái.
Trong trường hợp những case bạo hành đối với con cái nhân viên xã hội phải làm
gì?
- Tìm cách thu thập thông tin càng nhiều càng tốt
- Thẩm định hoàn cảnh này
- Có chương trình mục tiêu để làm việc, tìm ra cách trị liệu để coi trị liệu này có
hiệu quả không? Nếu không có hiệu quả, phải đổi cách trị liệu khác. Đôi khi chỉ
cần trị liệu một thời gian ngắn, đôi khi cần một thời gian dài để giáo dục.
87
- Những cái nhân viên xã hội cần tìm là:
- Có bằng cớ rõ ràng về nạn bạo hành con và nạn bạo hành này nguy hiểm cho trẻ,
cần phải thẩm định mức độ nguy cơ của trẻ, cần phải coi đứa trẻ trong giai đoạn
này có những hành vi tự hủy hoại cuộc đời nó không? Tìm ra thật sự của nạn bạo
hành này xảy ra lâu chưa. Cần thẩm định xem cha mẹ có ý định sửa đổi hay không,
cha mẹ này có muốn ruồng bỏ con cái họ không hay họ khổ sở về bạo hành? Cha
mẹ có bị khủng hoảng về mặt tình cảm tâm lý không? Cha mẹ có hợp tác tốt với
bạn hay không? Cha mẹ có những vấn đề tâm lý xã hội quá nghiêm trọng không?
Cha mẹ có bị cô lập và không được hỗ trợ hay không? Chính khi qui tụ được hết
những yếu tố này ta có thể kết luận đứa trẻ có nguy cơ bị bạo hành hay không?
Bạn cần chỉ cho cha mẹ nhận ra những cảm giác của chính họ và những sự kiện
nào xảy ra đã dẫn đến bạo hành; cần chỉ cho cha mẹ những dấu hiệu báo động trước
khi bạo hành xảy ra để họ có thể học được những kỹ năng khác thay thế, để ứng phó
với sự giận dữ trong lòng một cách khác đi. Chỉ cho họ biết cách phán đoán về mình.
Nếu cha mẹ dốt nát, ta cũng dạy cho họ cách dạy con. Đối với những cha mẹ có khó
khăn trong cách diễn tả bằng lời nói đối với con ta hướng dẫn cho họ cách nói
chuyện, trao đổi với con, nên dạy họ các kỹ năng quản lý con cái sao cho thích hợp
và điều duy nhất là dạy họ tổ chức một môi trường sống thích hợp hơn.
Ta có thể đem đến cho họ nguồn tài nguyên từ cấp vĩ mô, có thể đem đến cho họ
một bác sĩ để chăm sóc cho đứa trẻ.
Tìm cách để cha mẹ vươn lên không bị cô lập, giúp họ nói chuyện với cha mẹ bạn
bè, và dạy cha mẹ kỹ năng để kiểm tra chính mình để chống lại sự giận dữ và đồng
thời dạy cho trẻ em thấy những gì xảy ra không phải lỗi tại nó để nó có thể chấp
nhận được chuyện đó. Nếu sự giúp đỡ của họ không hiệu quả, bạn có thể nhớ tới sự
hỗ trợ của cộng đồng, tòa án.
5.3. Lạm dụng tình dục trẻ em
88
Định nghĩa: Lạm dụng tình dục bao gồm sự tiếp xúc (tương tác) giữa đứa trẻ và
người lớn, trong đó đứa trẻ bị kích thích tình dục cho người khác, trẻ từ 18 tuổi trở
xuống. Khi người lớn, lớn hơn trẻ 5 tuổi trở lên và người đó có quyền lực trên đứa
nhỏ. Người lớn có quyền lực trên đứa nhỏ này, sử dụng quyền lực của họ để thoả
mãn tình dục và giúp người khác thoả mãn tình dục.
Loạn luân là một hình thức đặc biệt của lạm dụng tình dục, là sự tiếp xúc, hay sự
giao hợp giữa một đứa nhỏ và một thành viên trong gia đình không phải là người
phối ngẫu. Lạm dụng tình dục cũng có thể là những hình ảnh khiêu dâm hay những
cử chỉ mang tính tình dục, hay người lớn phô bày bộ phận sinh dục của mình, hay
vuốt ve sờ mó bộ phận sinh dục, tình dục bằng miệng, giao hợp và bất cứ hình thức
tiếp xúc sinh dục nào khác. Trong mối quan hệ mang tính loạn luân, không chỉ là
những người có quan hệ máu mủ mà có thể là người không phải ruột thịt như cha
ghẻ, dượng ghẻ, cô dì chú bác, người tình của cha mẹ. Trẻ có nguy cơ nhiều hơn đối
với những người trẻ quen biết, tin cậy. Trẻ thì dễ bị lạm dụng tình dục vì chúng
không có cơ sở thông tin để hiểu biết, không có chỗ nào để dựa, vì chúng nhỏ nên
chúng sợ và đứa nhỏ nằm dưới sự kiểm soát của người lớn, nó muốn được làm vui
lòng người lớn, nó muốn được chăm sóc, muốn được có cảm giác an toàn. Ở Mỹ,
60% lạm dụng tình dục trẻ em xảy ra trong gia đình và phần lớn các trường hợp còn
lại là do những người quen biết và những người lạm dụng tình dục trẻ em thường là
những người thích làm tình với trẻ em. Trong gia đình có thể có mối quan hệ loạn
luân giữa anh em, có khi đứa trẻ bị đối phó với những căng thẳng từ nhiều người,
không có sự an ủi, có khi là anh truyền em nối, và thường là sự loạn luân giữa anh
em nghiêm trọng hơn là trường hợp vi phạm là người lớn. Mối quan hệ loạn luân
thực hiện theo các bước:
1. Bước đầu: người lớn (người vi phạm) thăm dò xem họ có thể tới gần đứa nhỏ
không và đứa nhỏ đáp ứng thế nào?
2. Nếu trẻ có vẻ cởi mở, họ bước tới một bước là giao hợp. Từ từ dần tới mối
quan hệ sâu sắc hơn về tình dục.
89
3. Và họ tìm cách làm cho đứa trẻ phải giữ bí mật, bằng cách họ hăm dọa hoặc
đổ tội cho đứa trẻ hoặc nói đây là chuyện riêng của mình để che dấu sự việc.
Và nếu trẻ cho biết tình hình này thì sẽ có sự phát hiện. Sự phát hiện này có thể
do sự tình cờ, đứa bé không nói nhưng một ai đó hay gia đình có thể phát hiện. Và sự
phản ứng của sự phát hiện này có thể tạo ra sự căng thẳng cho gia đình và trẻ. Người
phạm tội luôn luôn chối, đứa trẻ cảm thấy là đứa tội lỗi, bất an. Gia đình có thể giận
dữ với trẻ và người vi phạm. Cảm thấy tội lỗi vì không bảo vệ được trẻ. Có nhiều gia
đình lờ luôn không muốn quan tâm đến vấn đề.
Có những kết cấu trong gia đình đặt đứa trẻ trong cảnh nguy cơ. Gia đình này bị xã
hội cô lập, có khi ranh giới gia đình không rõ ràng, hành vi của người cha đối với
đứa trẻ không được bình thường lắm, hay là trong phòng không đóng cửa, hình như
trong gia đình này không ai tôn trọng sự riêng tư của người khác, hoặc ngược lại có
biểu hiện của sự bí mật, có sự che dấu. Có tình trạng những đứa con gái bị lạm dụng
tình dục nhưng không được sự quan tâm của chính người lạm dụng tình dục. Có khi
người cha lạm dụng tình dục đứa con mà người mẹ lại giận dữ với con. Người mẹ và
con có khoảng cách với nhau, có mâu thuẫn giữa cha và mẹ. Người cha và con gái
có sự quan hệ thân thiết dẫn đến có sự quan hệ tình dục. Vì mối quan hệ tâm lý giữa
mẹ và con đã thiếu rồi cho nên khi có chuyện quan hệ tình dục, đứa con không nói
với mẹ được nên người mẹ rất là giận con, cho nên không thể giúp con được.
Một nguy cơ khác là khi nào có người dượng ghẻ trong gia đình, khi mẹ bệnh
hoạn vắng nhà cũng là một yếu tố nguy cơ khác.
Rượu cũng là một yếu tố khác và có nhiều khi chính kẻ lạm dụng tình dục lại có một
lịch sử bị lạm dụng. Đó là một nhân tố lớn, nguy cơ lớn cho đứa trẻ bị lạm dụng tình
dục.
Đây là một vài đặc điểm của người cha lạm dụng tình dục:
Ông ta thường là người nhút nhát, khiếm khuyết kỹ năng giao tế, và ông ta có thể
có những khó khăn trong việc bộc lộ với vợ, thường đánh giá mình thấp hơn vợ, anh
90
ta lại ngả về đứa con gái, với con anh ta cảm thấy an toàn. Đứa con gái này không
quyền lực gì và nó có tình thương đối với cha. Đứa con gái là nơi anh ta trút vấn đề
của ông ta. Người vợ thường là những trầm cảm, xuống tinh thần và thường người
mẹ không muốn tự khẳng định mình để bênh con. Phần lớn bà ta phụ thuộc chồng về
tình cảm và bà ta không dám đối đầu với anh ta vì sợ mất tình thương của ông ta.
Thường những bà mẹ này nói không biết vì không đủ sức đối phó vấn đề. Đó là
những cuộc hôn nhân có vấn đề và cả hai đều sợ rằng nếu chuyện này bị phát hiện
thì cuộc hôn nhân bị tan rã. Và chuyện này được bộc lộ thì đứa nhỏ chịu một gánh
nặng, đứa trẻ sống trong sự căng thẳng đôi khi đứa trẻ nghĩ mẹ nó giận nó vì nó dành
chồng của bà, và họ cảm thấy xấu hổ vì điều cấm kỵ quan trọng đã bị phá vỡ.
- Người vợ cảm thấy xấu hổ vì thấy mình bị mất vai trò làm vợ, bà sợ đánh mất
chồng, và sợ gia đình tan rã.
- Đứa con xấu hổ vì nó nghĩ nó là đứa con tội lỗi.
- Và có nghi vấn không biết người cha có xấu hổ không? Có một sự khó khăn nếu
như người cha cố tình đẩy sự rắc rối của mình vào vô thức. Khó để cho sự xấu hổ
được bộc lộ ra. Trường hợp sẽ tốt hơn nếu sự loạn luân được phát hiện mà ông ta
cảm thấy xấu hổ, ăn năn thì ông ta sẽ được giải phóng về gánh nặng tâm lý và
người mẹ rất xấu hổ vì không bảo vệ được con mình, họ thiếu kỹ năng chăm sóc
con. Đôi khi đứa con giận mẹ vì mẹ không bảo vệ được nó.
Các dấu hiệu và đặc điểm về hành vi lạm dụng tình dục:
- Bệnh về tình dục: có những vấn đề ở cổ, ở miệng, đi tiêu khó, những sự xuất tinh,
ra chất nhờn nhiều và có những vết bầm trên bộ phận sinh dục và có sự mang thai
mà không cắt nghĩa được, mà đương sự không muốn trao đổi.
- Những hành vi mà nhân viên xã hội phát hiện được sự lạm dụng là:
- Có một sự thay đổi nào đó ở trẻ, trẻ đó có thể tự khép kín, hay rất hung hãn hay bị
trầm cảm, thay đổi ứng xử với anh em, đứa trẻ có những hành vi về tình dục không
thuộc lứa tuổi của nó, hay đột ngột thấy đứa trẻ sợ người đàn ông khác rờ vào nó.
91
Trẻ không tỏ ra sợ hãi phải ở một mình với một người nào đó hay không muốn
thấy mặt một người đàn ông và có thể gợi cho nhân viên xã hội cảm thấy nó có
một bí mật mà nó không muốn nói cho mình nghe, hay khi nhắc đến tên ai đó đột
nhiên nó bỏ đi. Đó là những dấu hiệu có điều gì đó đã xảy ra.
Hậu quả lâu dài của lạm dụng tình dục:
Hậu quả lâu dài này sẽ phụ thuộc nhiều yếu tố khác nhau, nếu sự lạm dụng
kéo dài, hậu quả sẽ quan trọng hơn nếu có nhiều hơn một biến cố, nếu người vi phạm
là một người cha và một người được xem như cha, nếu người vi phạm sử dụng sức
mạnh thì hậu quả có thể nghiêm trọng hơn khi kẻ vi phạm là một người đàn ông lớn
tuổi so với người anh em. Kết cục mang tính nghiêm trọng (gia đình khủng hoảng,
trẻ bị đưa đi nơi khác) hậu quả lâu dài sẽ nghiêm trọng hơn. Một vài biểu hiện của
hậu quả lâu dài là mại dâm, nghiện thuốc phiện, rượu và vài dấu hiệu khủng hoảng
trục trặc về tình dục, có những khó khăn về sự thân mật gần gũi với người khác
phái, hay có sự nghi ngờ thiếu tin tưởng, họ tỏ ra không có tình cảm, trầm cảm đôi
khi có hành vi rất hung hãn và họ có xu hướng lựa chọn người có xu hướng lạm
dụng và sau đó cũng có xu hướng chọn kẻ lạm dụng tình dục cho con mình.
Vai trò của nhân viên xã hội thế nào nếu có case lạm dụng tình dục là loạn luân thì ta
phải làm gì?
Nhân viên xã hội nên nhớ rằng khi những case này được phát hiện thường có
những tình cảm rất mạnh mẽ, rất phức tạp như giận dữ, xấu hổ... Khi gia đình công
nhận điều này, ta nên giúp họ biểu lộ sự quan tâm và sự hỗ trợ lẫn nhau quan tâm
vấn đề, ranh giới để tổ chức nó lại, vì chính sự không rõ ràng ranh giới đã dẫn đến
tình trạng này. Nhân viên xã hội nên xây dựng mối liên hệ giữa người vợ và người
chồng thay vì người chồng với đứa con gái và mẹ với đứa con khác.Các bạn giúp họ
cải tiến truyền thông trong gia đình. Ví dụ như người cha không nói lên cảm nghĩ
của mình, người mẹ không bộc lộ được cảm xúc của mình.
Có một sự khác biệt giữa hai trường phái:
92
- Một phái chỉ làm việc với trẻ bị lạm dụng (trẻ nạn nhân).
- Một phái làm việc với cả gia đình (đặc biệt là với người vi phạm).
Nếu có thể được, tốt nhất ta nên làm việc với cả gia đình, và trong đó giúp
cho kẻ vi phạm được trị liệu tốt. nhưng điều này không phải luôn luôn là dễ dàng.
Nếu ta làm việc với nạn nhân, giúp họ đừng đổ lỗi cho bản thân mình, và giúp họ
nhận được, ý thức được hay bộc lộ một cảm xúc đó mà họ tự che dấu từ lâu.
Có thể sự việc xảy ra đó là cách của nó tìm ra sự thương yêu, ta có thể giúp nó
thỏa mãn nhu cầu của nó bằng nhiều cách khác. Tạo nên sự tin tưởng đối với đứa trẻ
bị lạm dụng đây là việc làm tốt, nhưng cần phải có thời gian. Ta nên làm những việc
nhỏ để có sự thành công liền. Trẻ này thường khó tin tưởng bạn, nên bạn phải kiên
nhẫn, phải luôn luôn sẵn sàng hiện diện khi nó cần.
Phòng ngừa: (bằng cách giáo dục cho các thành viên trong gia đình nhận rõ
ranh giới).
Bạn phải thông tin giáo dục cho cả cha mẹ và trẻ em để họ biết trả lời không,
cha mẹ phải hiểu rằng con có quyền của mình. Cha mẹ nên giúp đỡ con biết tránh
môi trường nguy hiểm. Giúp cho cha mẹ có kỹ năng biết trao đổi với con để con
cũng có thể bộc lộ với họ. Giúp cho gia đình đó có mối quan hệ tương tác.
5.4. Ly hôn
Hậu quả của ly hôn đối với trẻ em:
Ly hôn là sự gãy đổ trong kết cấu của gia đình và tạo nên những áp lực khác
như kinh tế, đối với cặp bố mẹ hoặc đối với cả gia đình và đôi khi phải dọn nhà đi.
Khi đó, có nhiều sự thay đổi đối với trẻ, thí dụ như về kỷ luật, đôi khi trong hoàn
cảnh nầy, bố mẹ cảm thấy đối xử với con nghiêm hơn hay dễ hơn, trẻ có nhiều phản
ứng khác nhau trong khi hầu hết các trường hợp trẻ em thường coi mình là nguyên
nhân của sự gãy đổ này, hoặc là chúng giận dữ đối với cả bố mẹ, hay chỉ một người
93
cha hoặc mẹ. Và đứa bé cảm thấy mình bị người cha hay người mẹ đã bỏ bê hoặc
dọn đi hoặc từ bỏ và đứa bé không hiểu được tại sao việc này xảy ra, đứa bé có thể
bày tỏ cảm xúc về tương lai của gia đình và của chính nó. Đứa bé có thể hỏi kỹ ai sẽ
chăm sóc con... Nó có thể trở nên đối đầu, thất vọng đối với bố mẹ, trước đó nó coi
cha mẹ là thần tượng, sau khi ly dị xảy ra, nó bắt đầu nghi ngờ khả năng của bố mẹ
mình.
Nó có những biểu hiện một vài hành vi như: Nôn nóng, lo âu, giận dữ, trầm
cảm, nó trở nên mỉa mai cay nghiệt qua cái nhìn thế giới, nó có thể phản ứng bằng
cách tạo ra thay đổi bên ngoài, quậy phá, đôi khi tuyệt vọng, trầm cảm đến mức tự
vẫn, cũng có khi nó có những bệnh không ăn ngủ được. Nó không còn hứng thú với
công việc mà trước đây nó thích hoặc có những phản ứng khác uống rượu, hút thuốc,
kết bạn với những nhóm bạn xấu.
Những tác động này như thế nào còn tùy thuộc sự giúp đỡ của bố mẹ. Sau sự
kiện này, bố mẹ có thật sự chịu ngồi lại để giải thích cho con cái hiểu rõ ràng hay là
họ đổ lỗi cho con cái hay là người nầy đổ lỗi cho người kia và cách mà bố mẹ chịu
đựng qua cảnh li dị, nếu như họ quá trầm cảm, xúc động cũng có ảnh hưởng đến
cách ứng phó của trẻ.
Thí dụ:
Khi ly dị, người mẹ sẽ nói bố mày tồi tệ... làm đứa bé càng bị căng thẳng nặng
hơn, và có khi người mẹ trút những cơn tức giận với chồng lên đứa trẻ: đánh hoặc
chửi con rằng mày giống thằng cha mầy, mầy đi chỗ khác đi.
Đứa trẻ vượt qua cơn khủng hoảng này thế nào còn tùy thuộc vào quá trình
xảy ra trước khi ly dị, quá trình căng thẳng trong gia đình kéo dài quá lâu đến nổi sự
ly dị đối với trẻ là trút được gánh nặng. Trong gia đình, đứa nhỏ nhất không có khả
năng hiểu biết gì cả thì nó sẽ chịu ảnh hưởng ít hơn đứa có nhận thức, nhưng lại
không có khả năng lý giải thì nó chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Trẻ sẽ cảm thấy dễ chịu
94
hơn nếu cặp vợ chồng thuận tình ly hôn mà không xảy ra những cuộc gây gỗ, ẩu đả
nghiêm trọng.
Nhân viên xã hội giúp những đứa trẻ chấp nhận là hôn nhân của bố mẹ đã gãy
đổ, và nhân viên xã hội cần phải khuyên bố mẹ sau khi ly dị cả 2 đều quan tâm đến
con cái và để cho con cái gặp bố mẹ, và cần khuyến khích để bố mẹ hiểu rằng con
cái không có lỗi trong sự gãy đổ này, và để cho con cái hiểu rằng nó không có khả
năng hàn gắn lại cha mẹ, cần khuyến khích cha mẹ hiểu rằng con cái đang khổ sở vì
sự ly hôn và cần sự hỗ trợ của cha mẹ mình và có thể trong lúc ly hôn, họ cũng đau
khổ và quên rằng con mình cũng đang đau khổ như mình. Khuyến khích hai cặp vợ
chồng này khi thuận tiện, nói con cái rằng sự ly hôn này là do hai vợ chồng chứ
không phải là con cái không có khả năng cứu vãn. Đó là cách để cho con cái nhận
thức rằng cuộc hôn nhân này không thể tồn tại được, đừng để cho trẻ có những mơ
ước hão huyền là nó có thể hàn gắn được mối quan hệ giữa cha mẹ.
Bài 2: Làm việc với người lớn trong gia đình
1. Thương lượng với cha mẹ về sự cần thiết làm việc riêng với trẻ.
2. Giúp đỡ trẻ và cha mẹ làm sáng tỏ cảm xúc của trẻ
PHẦN VII
Tiến trình công tác xã hội với trẻ em và gia đình
95
1. Tìm hiểu trẻ em và gia đình của trẻ
Muốn có sự hiểu biết về tình trạng của trẻ, nhân viên xã hội cần phải vãng gia
để khảo sát môi trường sống của trẻ và cha mẹ. Những vấn đề mà nhân viên xã hội
cần quan tâm trong bối cảnh gia đình thông qua các mối quan hệ ví dụ như :
- Cha - mẹ : Sự không hài lòng của họ về trẻ, những bất hòa trong các quyết
định, những khó khăn trong quan hệ vợ chồng..
- Cha mẹ - đứa trẻ : Cách giải quyết những khó khăn, thất vọng vì trẻ vô tích
sự..
- Trẻ em – Cha mẹ : Trẻ oán giận vì bị xem lúc nào cũng là trẻ con, những than
phiền vì những bất công..
- Trẻ - trẻ : Sự kình địch giữa anh chị em ruột, ganh tị nhau.
Thân chủ của nhân viên xã hội có thể là một trong những người này - một đứa
trẻ từ chối đi học, cha hoặc mẹ tức giận hoặc buông xuôi hoặc tất cả các thành viên
gia đình cảm thấy buồn bã. Nhân viên xã hội có thể tìm hiểu ở khu xóm, tại trường
học hoặc ở các tổ chức trong cộng đồng. Ai là thân chủ là một câu hỏi khó được trả
lời.
Có nhân viên xã hội thích gặp tất cả các thành viên trong gia đình khi phỏng
vấn, có người thích gặp cha mẹ trước với hoặc không có sự hiện diện của trẻ. Tiến
trình tìm hiểu là một tiến trình quan sát, hỏi và lắng nghe. Để khám phá “cái gì”,
nhân viên xã hội cần có những kỹ năng quan sát, đặt câu hỏi và lắng nghe khi tiếp
cận gia đình. Cuộc gặp gỡ này là một mối quan hệ tương tác, một tiến trình của gia
đình đi tìm sự can thiệp hoặc sự hỗ trợ và nghiệp vụ chuyên môn nhằm làm rõ vấn
đề.
Hilton Davis (1985) đã đưa ra ba mô hình trong một quyển sách về trẻ em với
những nhu cầu đặc biệt : mô hình chuyên gia, mô hình khách hàng và mô hình ghép :
96
• Theo mô hình chuyên gia, nhà chuyên môn tự cho mình là trên hết
do mình là chuyên gia, có trách nhiệm và phải có quyết định. Thân
chủ tương đối thụ động, cần lời khuyên và thực hiện theo lời phán
của chuyên gia.
• Theo mô hình khách hàng, thân chủ có quyền chọn lựa cái gì họ tin
là phù hợp với các nhu cầu của họ, nhà chuyên môn chỉ vai trò tư
vấn.
• Theo mô hình ghép hay còn được gọi là mô hình đối tác, nhà
chuyên môn có tự xem mình là chuyên gia, nhưng có chia sẻ, trao
đổi với phụ huynh và với những nhà bán hoặc không chuyên
nghiệp khác để họ có thể đứng ra làm trung gian hoặc tạo thuận lợi
cho trị liệu đứa trẻ hay cha mẹ đứa trẻ.
Không có mô hình nào phù hợp cho mọi vấn đề. Điều quan trọng là nhà
chuyên môn phải biết sứ mệnh của mình là gì. Để giúp nhân viên xã hội khám phá
vấn đề của trẻ em và gia đình chúng thì nên hướng vào các câu hỏi sau đây:
• Tôi có gặp gia đình chưa ?
• Tôi có nhìn trẻ trong bối cảnh của gia đình của nó không?
• Tôi có trao đổi hai chiều thường xuyên với gia đình không?
• Tôi có tôn trọng giá trị của gia đình không?
• Tôi có cảm nhận là gia đình có những mặt mạnh để giúp trẻ không?
• Tôi có nhận diện được các khả năng và tài nguyên của gia đình
không?
• Tôi có hành động một cách trung thực nhất không?
• Tôi có cho họ nhiều lựa chọn để thực hiện điều gì đó không?
• Tôi có lắng nghe họ không?
• Tôi có nhận diện được các mục tiêu của họ không?
• Tôi có thương lượng với họ không?
• Tôi có điều chỉnh để có kết luận chung không?
97
• Tôi có cho rằng họ có trách nhiệm về những gì tôi làm cho con cái
của họ?
• Tôi có cho rằng tôi phải cần có sự kính trọng của họ không?
• Tôi có tin tưởng là họ có thể thay đổi?
• Tôi có cố gắng nhận diện cách nhìn của họ đối với con cái của họ
không?
Phần nhiều câu trả lời “có” là theo mô hình khách hàng, còn trả lời “không” là
theo mô hình chuyên gai. Mô hình mà nhân viên xã hội chọn không phải chỉ do cơ
quan mà nhân viên xã hội làm việc, do thân chủ đi tìm kiếm sự hỗ trợ ở cơ quan mà
còn do quan điểm của bạn về con người. Cách nhân viên xã hội phân tích vấn đề và
đạt ra các giải pháp phản ánh niềm tin của nhân viên xã hội về gia đình, các vấn đề
của nó và mặt mạnh của nó thúc đẩy sự phát triển và thay đổi.
2. Tiếp cận vấn đề : làm việc với trẻ, thiết lập các nguyên tắc làm việc
3. Vãng gia
• Tìm hiểu môi trường sống
• Làm việc với cha mẹ
4. Phân tích vấn đề
• Điều gì đang xảy ra ?
• Tại sao nó xảy ra ?
• Điều gì sẽ xảy ra tiếp ?
5. Hỗ trợ tình cảm
6. Chuẩn bị/trao đổi với các đồng nghiệp, chuyên gia để có sự thống nhất trong
phương hướng giải quyết vấn đề
7. Hiểu được ước muốn và cảm xúc của trẻ
Đối với trẻ em, trong công tác xã hội nhóm, một hình thức môi trường giúp trẻ thay
đổi là chơi. Cần phân biệt chơi trong khuôn khổ và chơi không theo khuôn khổ. Chơi
không theo khuôn khổ là một phương tiện truyền thông và tự bộc lộ. Nó được dùng
98
cho các nhóm của mọi lứa tuổi, liên quan đến các nhu cầu của cá nhân và liên quan
đến những người mà họ có quan hệ ở một thời điểm nhất định. Garvey (1977) nêu 5
tiêu chí để xác định trò chơi không theo khuôn khổ :
• Chơi vui, hoặc có giá trị tích cực cho người chơi
• Được thúc đẩy từ bên trong, không có mục đích bên ngoài hoặc hành động
bắt buộc nào.
• Nó xuất phát một cách tự nhiên, không bị ép buộc
• Nó đòi hỏi sự tham gia tích cực bởi người chơi
• Nó có một mối quan hệ nhất định với cái “không chơi” trong thế giới thực.
Các đặc tính của việc chơi không theo khuôn khổ :
Chơi được dùng bởi người lớn để hiểu trẻ em theo 3 phương cách (Garbarino
Stott, 1992) :
• Tìm hiểu mức độ phát triển và năng lực của trẻ, bao gồm phát triển nhận
thức, xã hội và thể chất.
• Thu thập thông tin về cuộc sống tinh thần của trẻ - có khái niệm về trẻ cảm
nhận như thế nào.
• Chơi giúp trao đổi về những trải nghiệm lo lắng
Những hoạt động bao gồm trò chơi, thi đua, kể chuyện, sắm vai, tâm kịch đều
được xem là chơi theo khuôn khổ. Nhân viên xã hội sử dụng các hoạt động này để
các thành viên và nhóm đạt được mục tiêu của họ, nó thường xem như là một
chương trình hoạt động đã định, giúp họ “học hỏi các quy định của trò chơi”, giúp họ
dịch chuyển xa hơn, tạo ra những khám phá mới, phát triển sự sáng tạo.
Thông thường, nhân viên xã hội hỗ trợ nhóm lựa chọn và sử dụng các hoạt động.
Vai trò của tác viên bao gồm nhiều công việc như chọn một hoạt dộng, lên kế hoạch,
99
khởi đầu, dạy (trường hợp nhó trẻ), hỗ trợ, điều chỉnh, điều quan trọng là tạo sự gắn
kết giữa các thành viên trong nhóm và các hoạt động phải là những cơ hội khen
thưởng để các nhóm viên phàn ứng một cách tích cực. Trong những trường hợp
khác, nhân viên xã hội cần giúp trẻ vượt qua những hoạt động mới mẻ, chưa quen
thuộc, để tập dần sự thích thú trong những gì trẻ đang làm. Trong lúc vẽ tranh hoặc
lúc nặn đất sét, nhân viên xã hội thường cùng tham gia, tạo cho trẻ nhiều cơ hội tự
thể hiện một cách thoải mái mà không có cảm giác là mình đang bị giám sát bời
nhân viên xã hội. Vai trò của nhân viên xã hội là tạo sự ham muốn tham gia hoặc
thúc đẩy người khác trở nên dấn thân hơn. Tuy nhiên đôi lúc nhân viên xã hội cũng
cần kiểm soát hoặc hạn chế bớt những hành vi thái quá, trường hợp có mâu thuẫn, có
nghĩa là nhân viên xã hội được phép can thiệp khi trẻ có nhu cầu.
2. Các bước tìm hiểu trẻ em và gia đình
2.1. Phỏng vấn trẻ
Phỏng vấn là một phương pháp chủ yếu để có thể tiếp cận các vấn đề của cha
mẹ và của trẻ. Trước khi thâm nhập vào các vấn đề riêng tư của gia đình, bạn cần
phải trả lới một cách rõ ràng nhiều câu hỏi được đặt ra:
• Tôi có quyền và được sự chấp thuận của gia đình chưa để tiến hành cuộc
phỏng vấn? Vấn đề khó khăn là nhân viên xã hội thường đội hai “nón” được
gọi là “chăm sóc” và “kiểm soát” và những sự can thiệp, viếng thăm không
dược mong đợi như vậy thường ít được chào đón nhất là trong những trường
như trẻ bị lạm dụng tình dục…
• Các mục tiêu của tôi là gì ? ( Tôi muốn tìm hiểu cái gì?)
• Ai tôi cần gặp để tôi đạt được các mục tiêu của tôi ? (Tất cả các thành viên
trong gia đình ? Chỉ gặp người cha thôi ? Chỉ gặp riêng đứa trẻ? với anh chị
em của trẻ ?)
• Tôi nói chuyện với ai trước? Người mẹ? Cả cha mẹ ? Có sự hiện diện của trẻ
hay không?
• Tôi bắt đầu như thế nào?
100
• Làm thế nào để tôi bảo đảm là họ an tâm về tính riêng tư của vấn đề của họ?
• Cách nào tốt nhất để gợi ra những thông tin xác thật? Thông tin nào là xác
thật?
• Làm thế nào để giúp họ không nói lạc đề hoặc lẫn tránh vấn đề chính yếu?
• Làm thế nào tôi kết thúc cuộc phỏng vấn giúp họ yên tâm và không làm cho
họ lo sợ ?
Nhân viên xã hội cần lưu ý là phỏng vấn trẻ em đòi hỏi kỹ năng truyền thông,
sự kiên nhẫn và tôn trọng trẻ. Trẻ nhỏ tuổi thường có giới hạn trong diễn đạt suy
nghĩ của mình, mối lo sợ, tâm trạng thất vọng và những mối nghi ngờ.
2.2. Tiến trình khảo sát vấn đề
Giai đoạn 1 : Bối cảnh ban đầu
Bước 1 : Duy trì mối quan hệ làm việc hiệu quả
(a) Giải thích bạn là ai và bạn mong đợi gì
(b) Thiết lập mối quan hệ thân thiện, chuyên nghiệp (ví dụ làm việc
có hệ thống)
Bước 2 : Giúp thân chủ cơ hội trình bày vấn để như họ nhận thấy
(Những câu hỏi này có thể phù hợp và hỏi trực tiếp trẻ)
(a) Bắt đầu bằng một câu hỏi mở : “Hãy cho tôi biết điều làm em
bận tâm?”
(b) Tóm lược ở khoảng cách câu chuyện mà không cắt ngang
lời nói của thân chủ :” Có thể chúng ta ngưng một lát để xem tôi
có hiểu đầy đủ những gì em nói không? Tôi muốn chắc là tôi hiểu
đúng. Như tôi hiểu là em đang quan tâm đến…Cần dành thời gian cần
thiết cho thân chủ tự trình bày. Một số câu hỏi bổ sung có ích cho bước
này : “Điều gì tốt lành trong tình hình hiện nay mà em đang quan tâm
có liên quan đến……..(trẻ nói)? ; Nó giúp cho cuộc sống gia đình như
101
thế nào? Có ai khác thể hiện mối quan về………..? Có ai cho đó là
không đáng quan tâm không?”
Bước 3: Bắt đầu xác định rõ vấn đề
(a) Hỏi về những ví dụ gần nhất minh họa cho vấn đề: “Có thể cho tôi
biết chi tiết điều gì đã xảy ra để tôi có thể nhìn rõ vấn đề? Điều gì dẫn
đến sự đối kháng,hoặc vấn đề? Ai nói gì với ai? Làm làm gì đối với ai?
Với những hậu quả gì? Thông thường sự cố kết thúc như thế nào? Việc
sử dụng sắm vai có thể giúp ích rất nhiều.
(b) Tìm hiểu khi nào, thường như thế nào, với cường độ ra sao, trong
tình huống riêng biệt nào (ai, nơi chốn, hoàn cảnh) và các vấn đề xảy
đến.
(c) Khám phá những chi tiết xung quanh vấn đề. “Xảy ra bao lâu?”.
(d) “ Có cố gắng khắc phục nó như thế nào ? kết quả ra sao ?”
(e) “Có ai giúp vượt qua vấn đề không? Có ai cản trở không ?
(f) “Có lẻ em có vài ý kiến như tại sao nó lại xảy ra?
Bước 4 : Tìm hiểu hướng giải quyết mong muốn
“Tôi xin đưa ra một vài câu hỏi để giúp chúng ta làm rõ về những
gì mà chúng ta sẽ cùng làm việc. Nếu cần thiết, khi các thành viên
khác trong gia đình có liên quan thì chúng ta sẽ cần tham khảo ý kiến
của họ.
Bước 5 : Nhận diện chân dung vấn đề
Ghi nhận những lời than phiền và hướng mong muốn giải quyết
của các thành viên trong gia đình.
Bước 6 : Phân tích cho thân chủ suy nghĩ về những diễn biến hành vi
Phân tích theo công thức : A - B - C
102
Công việc này sẽ giúp chúng ta hiểu một số ảnh hưởng có ý nghĩa làm
bùng nổ và duy trì mối tương tác không vui trong gia đình, cung cấp
cho thân chủ một số dữ liệu thu thập thông tin và sắp xếp việc nhà.
A ( sự kiện tác động trước, Antecedent event )
B ( Hành vi phản ứng do vấn đề gạy ra – Behavior)
C ( Hậu quả xảy ra sau sự kiện – Consequence)
Bước 7 : Thiết lập các ưu tiên của vấn đề
Hỏi thân chủ cho biết mối quan tâm lớn nhất của họ là gì,
Các ưu tiên cần thực hiện để thay đổi. Thứ tự công việc có thể bị ảnh
hưởng bởi những quan tâm đối với vấn đề :
- Mức độ phiền muộn
- Múc độ nguy hiểm
- Sự liên can đến đời sống gia đình hoặc từng cá nhân thành viên
- Khả năng cải thiện, thay đổi, can thiệp
- Tần số xảy ra sự kiện
- Cái giá của sự thay đổi dựa trên tài nguyên (tiền bạc, thời gian..)
- Mức độ chấp nhận của hướng giải quyết mong muốn
- Kỹ năng, tài nguyên của nhân viên xã hội, cơ quan cung cấp dịch
vụ giúp đỡ.
Giai đoạn II : Khảo sát bổ sung
Bước 8 : Lập biểu đồ thế hệ
Cùng với các thành viên gia đình xây dựng biểu đồ thế hệ với các
thông tin chi tiết về vai trò và vấn đề trong cuộc sống gia đình của
từng thành viên.
Trong cuộc sống gia đình, cần chú ý các vấn đề sau :
Sự gắn kết : phản ảnh mối quan hệ trao đổi tình cảm gắn bó giữa
103
các thành viên và tính độc lập của cá nhân.
Các ranh giới : mô tà các thành tố thuộc hệ thống gia đình và các
thành tố thuộc môi trường, được xác định bởi các quy tắc của vai trò cá
nhân. Các ranh giới có thể rõ ràng (các quy tắc đễ nhận biết và chấp
nhận), không rõ ràng(mâu thuẫn, lộn xộn, thiếu vững chắc hoặc thiếu
vắng), hoặc khắt khe (cứng nhắc, không thích nghi).
Sự thích nghi : cho biết một gia đình có thể thay đổi các vai trò và mối
quan hệ của mình để thích nghi với ảnh hưởng của sự thay đổi.
Sự hài hòa : Các tiểu hệ thống hài hòa với hệ thống gia đình và hệ
thống gia đình hài hòa với môi trường. Duy trì sự hài hoà giúp đương
đầu với sự thay đổi và lo lắng, để được như vậy hệ thống phải mở.
Mở : Các thành viên trong gia đình có nhiều phương tiện để trao đổi
với bên ngoài
Đóng : Rất ít trao đổi với bên ngoài
Phản hồi : Tiến trình qua đó gia đình có khả năng nhận biết và quản lý
được sự tiến bộ của mình và biết điều chỉnh khi cần thiết trong việc
hoàn thành mục tiêu của gia đình.
Những mâu thuẫn trong gia đình thường do những yếu tố:
- Sự hỗn độn trong tổ chức gia đình : thiếu sự tổ chức làm cho việc
quản lý sự thay đổi rất khó khăn
- Tổ chức cứng nhắc làm triệt tiêu sự thay đổi khi cần có sự thay
đổi hoặc có những phản ứng không phù hợp khi có sự cố.
- Khoảng cách giữa các thành viên trong gia đình quá lớn đưa đến
sự cô lập về tình cảm và sức khỏe kém
- Sự gần gũi quá mức đưa đến việc mất đi tính cá biệt hóa
- Thiếu khả năng giải quyết mâu thuẫn và quyết định
- Thiếu khả năng liên kết giữa cha mẹ trong giải quyết vấn đè
104
- Sự liên minh giữa các thế hệ (nội hoặc ngoại) trong đối phó với
vấn đề
- Thiếu giao tiếp giữa các thành viên
- Thiếu sự đáp ứng cho nhau về mặt cảm nhận
Bước 9 : Khảo sát các kỹ năng của thân chủ (động cơ, tài nguyên)
Các kỹ năng làm cha mẹ :
Tôi và con tôi Tôi và những người quan trọng khác
Các kỹ năng tôi cần để quan hệ hiệu quả với con tôi
Các kỹ năng tôi cần để quan hệ hiệu quả với những người khác ( ví dụ như hôn phối, giáo viên, bạn bè..) có liên quan đến con tôi
• Làm thế nào để truyền thông rõ ràng
• Lắng nghe cẩn thận như thế nào để hiểu
• Phát triển mối quan hệ của tôi như thế nào
• Làm thế nào để giúp đỡ, chăm sóc và bảo vệ mà không quá đáng
• Răn dạy và duy trì kỷ luật như thế nào
• Làm thế nào để chứng tỏ và nhận lòng yêu thương
• Làm thế nào để quản lý và giải quyết mâu thuẫn
• Cho và nhận phản hồi như thế nào
• Làm thế nào để duy trì sự cân đối giữa các thái cực (ví như yêu thương mà không chiếm hữu)
• Làm thế nào để thương lượng thỏa hiệp
• Đặt ra những giới hạn hợp lý như thế nào
• Làm thế nào để khách quan đối với người khác
• Làm thế nào để không ích kỷ
• Làm thế nào để quyết đoán mà không lấn áp và gia trưởng
• Làm thế nào để ảnh hưởng đến những người quan trọng và các hệ thống (ví như trường học)
• Làm thế nào để làm việc qua nhóm (nhóm phụ huynh)
• Làm thế nào để bày tỏ cảm nhận của mình một cách rõ ràng và xây dựng
• Làm thế nào để truyền tự tin và sức mạnh nơi người khác
• Làm thế nào để nhìn nhận bạn của con tôi theo cách nhìn của con tôi.
105
Bước 10 (a): Hỏi thân chủ của bạn (cha, mẹ) về mục tiêu của họ đối với con cái (
tham vọng, kế hoạch)
Bước 10 (b) : Hỏi thân chủ của bạn (cha, mẹ) về mục tiêu cho chính họ
Giai đoạn III:Thu thập thông tin ở những tình huống nhất định, qua quan sát trực
tiếp, phỏng vấn để có thể đánh giá sự thay đổi có được trước và sau khi can thiệp.
2.3. Lên kế hoạch cho sự can thiệp
GIAI ĐOẠN I : Lên Kế hoạch
Bước 1 : Xem xét những giải pháp không chính thức và/hoặc trực tiếp
Trước khi bắt đầu sự can thiệp chính thức, chúng ta cần có những cuộc tiếp
cận không chính thức lẫn trực tiếp như :
- Tham khảo kết quả khám bệnh, ví dụ như lắng nghe vấn đề sa sút của trẻ được
xem là không vâng lời, có nhiều khó khăn
- Thay đổi thói quen giờ ngủ của trẻ
- Tách riêng hai trẻ phá nhau trong lớp học
- Giao thêm trách nhiệm cho trẻ
Bước 2 : Liệt kê các mặt mạnh và các hành động tích cực của thân chủ
Bước 3 : Tìm hiểu những mong đợi của những người xung quanh thân chủ
Trong trường hợp họ có những phiền hà thì họ có thể đóng vai trò nào đó trong kế
hoạch hỗ trợ thân chủ.
106
Bước 4 (a) : Bắt đầu những vấn đề có nhiều khả năng thay đổi thành công.
(b) : Chọn lãnh vực thay đổi phù hợp với cá nhân ; Sau khi thay đổi, những
hành vi mới cần được khuyến khích và duy trì.
Bước 5 : Chọn cách can thiệp ( với những phương pháp riêng biệt). Một khi
phương pháp đã được chọn lựa, cần giám sát sự tiến bộ của thân chủ.
Bước 6 : Giám sát sự tiến bộ của thân chủ
Chọn một phương pháp đo lường hoặc khảo sát hành vi liên quan đến vấn đề.
GIAI ĐOẠN II : Thực hiện
Bước 7 : Thực hiện sự can thiệp
Xem xét những gì xảy ra ở giai đoạn sớm để bảo đảm chương trình được theo
dõi tốt và giải quyết được những gì không tiên liệu phát sinh. Cần tiếp xúc với cha
mẹ trong 2-3 ngày của tuần đầu tiên.
Bước 8 : Đánh giá sự can thiệp
Từ những dữ liệu thu thập được về hành vi mục tiêu hoặc các thông tin khách
quan khác, có thể điều chỉnh hoặc thay đổi sự can thiệp
Mẫu theo dõi diễn biến hành vi giữa người mẹ và trẻ Thăm viếng số…….. Báo cáo :……………..Tên thân chủ :………………… Hành vi của trẻ Thường xuyên thỉnh thoảng Không bao giờ
1. Chơi thoải mái 2. Cười 3. Chạy 4. Nói chuyện thoải mái 5. Đáp ứng với sự quan tâm 6. Nhờ sự giúp đỡ
107
7. …… 8. …..
Hành vi của người mẹ
1. Nói chuyện với trẻ 2. Nhìn trẻ 3. Cười với trẻ 4. Hôn trẻ 5. Vuốt ve trẻ 6. Giúp trẻ khi trẻ có khó khăn 7. Trả lời khi trẻ hỏi 8. Quan tâm đến trẻ 9. ……. 10. ……
Bước 9 : Giai đoạn cuối hoặc chấm dứt trị liệu
Quyết định chấm dứt trị liệu tùy thuộc vào thân chủ, tùy vào các mục tiêu đã
được xác định lúc đầu trị liệu. Những mục tiêu mới có thể phát sinh trong thời gian
trị liệu.
GIAI ĐOẠN III : Theo dõi
Bước 10 : Thực hiện một bài tập theo dõi
Các câu hỏi sau đây có ích trong cuộc phỏng vấn bán cấu trúc :
• Khi nào chương trình chấm dứt?..
• .....có thể mô tả tình hình với X ra sao?
• Các hành vi mục tiêu là gí?
• Hành vi cũ có trở lại không? Khi nào? Ở đâu? thường xuyên không?
• ….có thể mô tả mối quan hệ với X ra sao?
• …có còn lo lắng về X nữa không?
• ….có nghĩ là chương trình tiến triển tốt/không tốt?
• Cha của X có thay đổi thái độ với X hay không?
• …..
108
Bước 11 : Đánh giá về sự phát triển
Bước 12 : Tạo điều kiện để có sự tham gia của trẻ và gia đình.
3. Các nguyên tắc hành động trong công tác xã hội với trẻ em và gia đình
Phần lớn các nguyên tắc áp dụng cho phương pháp công tác xã hội có hiệu quả đối
với người lớn cũng áp dụng với trẻ em. Thấu cảm, nồng nhiệt, thành thật được cho là
có hiệu quả trong mối quan hệ giúp đỡ trẻ em. Thấu cảm thật sự đòi hỏi nhân viên xã
hội nhìn và hiểu đứa trẻ như là một cá nhân trong bối cảnh của riêng em và cố gắng
tiếp cận quan điểm của trẻ. Đừng bao giờ tự cho mình đã hiểu trẻ trước chưa biết gì
về trẻ.
3.1. Luôn luôn lấy trẻ làm trọng tâm :
Nhân viên xã hội luôn quan tâm đến trẻ trong mọi giai đoạn và mọi bước của
công việc ( trẻ cảm thấy như thế nào và có thể bị ảnh hưởng như thế nào ). Nhân
viên xã hội buộc phải tôn trọng đứa trẻ như một con người, quan tâm đến nhu cầu
của đứa trẻ liên quan đến tuổi tác, dân tộc, tôn giáo, giới tính, khuyết tật…Dù hoàn
cảnh nào đi nữa, nhân viên xã hội cũng cần phải tỏ ra tôn trọng và quan tâm đến gia
đình ruột hoặc người nuôi hộ của đứa trẻ.
3.2. Cố gắng hiểu thế giới của trẻ :
Nhân viên xã hội đảm bảo rằng toàn bộ bối cảnh của trẻ sẽ cho mình biết cách
làm việc với trẻ. Phải hiểu được ước muốn và cảm xúc từ chính đứa trẻ. Trẻ cần
được hiểu và được cung cấp thông tin về những gì xảy ra đối với trẻ. Vấn đề là
khám phá được cái nhìn của trẻ về những sự kiện ảnh hưởng đến trẻ, cái gì gây ra
sự đau buồn và nguy hại nơi trẻ, những tác động ngầm của tổn thương tình cảm hay
109
tâm lý. Nhân viên xã hội cần hình thành mối quan hệ tin tưởng, làm việc phải đúng
giờ, làm những gì mình đã nói là sẽ làm hoặc giải thích vì sao không thể làm được.
3.3. Làm việc với trẻ thành công phải có sự tham gia tích cực của trẻ và của gia
đình trẻ.
Nhân viên xã hội cần phải tham khảo ý kiến với đứa trẻ trước khi có quyết
định vì trẻ có quyền biết và có quyền trình bày quan điểm của mình.Trẻ cần được
giải thích để hiểu rõ về những quyết định khác nhau và mặc dù quan điểm của trẻ
được lắng nghe, nhưng nếu quan điểm về một ý muốn nào đó có nguy cơ nghiêm
trọng đối với trẻ hoặc người khác thì sẽ bị bác bỏ. Trẻ có thể tham gia trực tiếp qua
các cuộc thảo luận hay vui chơi với nhân viên xã hội.
Sự tham gia tốt của gia đình càng giúp cho làm việc với được thành công hơn.
Điều quan trọng là không nên làm suy yếu đi vai trò của cha mẹ để không làm đe
dọa vị trí của trẻ trong gia đình.
Theo chuẩn thực hành về sự tham gia của trẻ em, sự tham gia của trẻ em là
cách lối cuốn mọi trẻ em, gồm cả trẻ em có những khả năng khác nhau và trẻ em có
nguy cơ tham gia một cách tự nguyện và có cơ sở vào bất kỳ vấn đề nào có liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới các em. Sự tham gia của trẻ em có giá trị xuyên
suốt mọi chương trình và diễn ra mọi nơi, từ các hộ gia đình cho tới mọi cấp.
Tổng quan chuẩn thực hành về sự tham gia của trẻ em :
• Một cách tiếp cận có đạo đức : Trung thực và minh bạch. Nhân viên người lớn
cần có cam kết thực hiện các hoạt động có đạo đức (cân bằng về quyền lực và vị
thế giữa người lớn và trẻ em) về sự tham gia của trẻ em và trước hết là vì lợi ích
tốt nhất của trẻ.
110
• Sự tham gia của trẻ em là phù hợp và tự nguyện. Trẻ em tham gia vào những
vấn đề trực tiếp ảnh hưởng đến các em và các em có quyền lựa chọn có nên
tham gia hay không?
• Một môi trường thân thiện, khuyến khích sự tham gia. Trẻ em được an toàn,
được chào đón và được khuyến khích tham gia.
• Cơ hội bình đẳng. Sự tham gia của trẻ em cần tránh không để có phân biệt đối
xử hoặc loại trừ
• Nhân viên làm việc hiệu quả và tự tin. Nhân viên người lớn thực hiện các hoạt
động có sự tham gia của trẻ em phải được đào tạo chuyên môn để có thể làm
việc hiệu quả nhất.
• Sự tham gia thúc đẩy sự an toàn và bảo vệ đối với trẻ em. Các chính sách và
nguyên tắc bảo vệ trẻ em là một phần không thể thiếu trong công tác có sự tham
gia của trẻ.
• Đảm bảo có theo dõi đánh giá. Tôn trọng sự tham gia của trẻ em cũng có nghĩa
là phải thực hiện các hoạt động phản hồi, đáp ứng hoặc đánh giá chất lượng ảnh
hưởng của sự tham gia đó.
3.4. Bí mật cần được đảm bảo vì lợi ích tốt nhất cho trẻ.
Điều quan trọng là nhân viên xã hội phải nhìn đứa trẻ như chính nó, trong một
môi trường mà nó cảm thấy thoải mái. Nhân viên xã hội không thể cung cấp những
thông tin bí mật mang tính riêng cho những người không cần biết và nếu nhận thấy
cần chia sẻ với người cần thiết thì tiến trình này phải được bàn với đứa trẻ.
3. 5. Nhân viên xã hội phải luôn luôn sẵn sàng
111
Điều cần thiết là khi đứa trẻ biết cách tìm đến nhân viên xã hội thì nhân viên
xã hội phải luôn đáp ứng ngay tức khắc.
112
KẾT LUẬN
Vai trò của nhân viên xã hội là huy động nguồn lực nhằm giúp đỡ gia đình
thực hiện vai trò trong khả năng hạn chế của họ. Công việc này đòi hỏi phải có
những kỹ năng nghiệp vụ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giúp đỡ hay phục vụ, đặc biệt
vì sự hiểu biết của nhân viên xã hội phải gắn liền với biết cách làm.
Nhân viên xã hội cần phát huy cao nhất khả năng có mặt của người mẹ bên
cạnh đứa trẻ đang có những đòi hỏi, cũng như những người được cha mẹ giao trông
nom trong một thời gian khi cha mẹ không thể thực hiện vai trò cha mẹ. Nhân viên
xã hội chịu trách nhiệm xác định những rối loạn của đứa trẻ, của cha mẹ, cũng như
đánh giá được khả năng cùng với những hạn chế của họ. Trong quá trình công việc
này, nhân viên xã hội phải làm việc bằng các giác quan, bằng trực giác, bằng quan
sát cá nhân, với quá trình bản thân, sự hiểu biết và kinh nghiệm trong quá trình nghề
nghiệp, về nhận thức vấn đề.
tất cả các mối quan hệ có được với bất kỳ đứa trẻ nào đều gợi lại cho nhân
viên xã hội hình ảnh của mình lúc còn thơ ấu với ký ức về khó khăn, thuận lợi, như
mong muốn có sự khắc phục những đau khổ của đứa trẻ hiện nay mà xưa kia mình
đã phải chịu đựng. Không chỉ khi làm việc với các trẻ em mà cả với các thiếu niên,
nhân viên xã hội đều có cảm xúc đó, điều đó có nghĩa là khi l2m việc với trẻ em thì
nhân viên xã hội cũng đồng thời làm việc với thời thơ ấu xa xưa của chính mình, với
cảm xúc khi rơi vào nghịch cảnh lúc trẻ hay do d8úa trẻ gây ra cho mình. Vì thế
nhân viên xã hội rất dễ mang tính chủ quan. Do đó, công việc của nhân viên xã hội là
nên làm tập thể để có thể trao đổi những suy nghĩ riêng của từng người, chia sẻ
những giải pháp để tránh sự lạm quyền cũng như sự nản chí. Chính những suy nghĩ
chủ quan đã làm nên cá tính từng người, đã dẫn dắt nhân viên xã hội vào công tác
chăm sóc và bảo vệ trẻ em và đã tạo nên sức mạnh của khả năng hóa giải các vấn đề
113
xã hội, là cái mốc để giúp trẻ em có được cái quyền được xã hội tôn trọng và bảo vệ,
đồng thới cũng làm cho trẻ hiểu trách nhiệm của mình đối với xã hội.
Khi đón tiếp một đứa trẻ vào cơ sở hoặc tiếp xúc với trẻ ngoài đường phố thi
luôn luôn có một thời gian để chia sẻ. Việc tiếp xúc qua da thịt của một trẻ không chỉ
cho nhân viên xã hội biết tình trạng thể chất mà còn biết cả khả năng, trí năng và
cảm xúc của trẻ. Khi ta nhìn trẻ, không biết trẻ có nhìn ta hay tránh né ánh mắt của
nhân viên xã hội. hoặc khi nhân viên xã hội nói, trẻ có vẽ chăm chú nghe hay không
hoặc cứng người lên hay muốn nhỏm dậy theo nhân viên xã hội…Có những trẻ làm
cho nhân viên xã hội yên tâm khi ngồi với nó nhưng cũng có trẻ luôn làm cho nhân
viên xã hội rối mù lên và quay như chong chóng.
Tất cả việc làm của nhân viên xã hội là để nâng đỡ khát vọng sống của đứa
trẻ, để cho nó lớn lên. Nhân viên xã hội nhận thấy rằng kinh nghiệm làm cho đứa trẻ
nói lên và cảm thấy mình được một người khác, nhân viên xã hội quan tâm có khi
làm cho nó gần gũi hơn là với cha mẹ chúng. Giá trị này cũng thấy được trong
trường hợp nhận con nuôi mà cha mẹ nuôi cũng giống như nhân viên xã hội, đem
đến cho đứa trẻ sự chăm sóc, tình thương, đả giúp cho đứa trẻ lớn lên và trưởng
thành, hoặc đơn giản hơn chỉ là nó được những người trông nom nó. Khi đứa trẻ gặp
đau khổ, nó không biết kêu với ai, không biết chia sẻ với ai, vì thế nhân viên xã hội
phải nhận ra được sự đau khổ của trẻ mà không cần biết nguyên nhân từ đâu, để
nâng đỡ chia sẻ giúp trẻ tự vượt qua. Sụ giúp đỡ của nhân viên xã hội là một chỗ dựa
nội tâm hết sức ân cần, chu đáo đối với trẻ. Khi giúp trẻ tự phấn đấu, đòi hỏi nhân
viên xã hội phải tiếp cận được sự tuyệt vọng của trẻ mà nhân viên xã hội rất dễ cảm
nhận thấy, đồng thời cũng phải giữ một khoảng cách nào đó khi giúp trẻ. Làm sao
giúp đỡ trẻ mà không tỏ ra thương hại những gì đã xảy ra với nó. Đứa trẻ phải tự tìm
ra cách vượt qua khó khăn từ những cuộc gặp gỡ với nhân viên xã hội hoặc với
những người chuyên môn khác như nhà tâm lý, bác sỹ, y tá, nhà giáo dục…, nâng đỡ
và động viên trẻ, khơi dậy sự sáng tạo và những khả năng vốn có để thực hiện ước
muốn và duy trì ước muốn của trẻ. Trao đổi với trẻ cũng là một cách điều trị. Tính
chủ quan, cá tính, khả năng, cách tiếp xúc của nhân viên xã hội giúp cho biết cách xử
114
trí với tư cách là người đồng hành với trẻ. Khi quan hệ với trẻ, nhân viên xã hội có
sự truyền cảm cả từ hai phía. Khi chấp nhận đầu tư vào việc giúp đỡ trẻ bằng nghiệp
vụ chuyên môn của mình thì phải cân nhắc tính toán đến những lời nói có thể gợi lại
tình thương hay sự căm giận trong quá khứ của trẻ. Sự truyền cảm trong tiếp xúc với
trẻ cũng sẽ lôi kéo nhân viên xã hội vào, cho dù nhân viên xã hội có ý thức hay
không. Chính vì sự truyền cảm đó mà m\nhân viên xã hội mới có thể đeo đuổi việc
giúp đỡ trẻ.
Lời nói của nhân viên xã hội phải giúp cho sự suy nghĩ về đứa trẻ và về chính
bản thân nhân viên xã hội, cho phép trẻ suy nghĩ. Một lời nói vô nghĩa không có giá
trị gì, một lời nói sai hoặc nói dối, hoặc gây tổn thương tinh thần là lời nói độc ác
nếu chỉ nói để nói bằng mọi cách. Lời nói với trẻ không chỉ không chỉ là những tín
hiệu giao tiếp thông thường mà còn phải chứa đựng tình người, có tính nhân bản. Có
nhiều lúc muốn nói nhưng lại không tìm được lời nên đành phải ra hiệu bằng tay một
cách vụng về, nhưng không bao giờ được che dấu cảm xúc của mình. Công việc giúp
đỡ trẻ giống như cuộc sống, không đơn điệu, không chỉ có nản chí, thất vọng mà còn
có những khích lệ, hăng say. Số phận của con người không chỉ liên quan đến quá
khứ mà cả tương lai, đứa trẻ nào cũng có một quá khứ, có thể đau buồn nhưng bao
giờ nó cũng hướng về tương lai tươi sáng, công việc của nhân viên xã hội là mở
những trang đã viết để xem lại chứ không phải để xé đi và mở những trang mới ra
viết tiếp. Vì thế mà công tác xã hội là một ngành vô cùng khó khăn, một công tác đòi
hỏi phải luôn được tự đào tạo mỗi khi tiếp xúc với đứa trẻ.Phải có nghiệp vụ vững
bởi vì nhân viên xã hội không được quyền chọn trẻ, hoàn cảnh không được lựa chọn
đó buộc nhân viên xã hội phải luôn sáng suốt, làm chủ bản thân, tránh cư xử thô bạo
với trẻ. Nhiệt tình với trẻ chỉ có được trên sự nắm vũng kiến thức, những kinh
nghiệm thu nhận được của bản thân và những suy tư về công việc của mình. Cần
phải đặt ra câu hỏi với mỗi nhân viên xã hội về sự lựa chọn nghề nghiệp này, tại sao
nhân viên xã hội cảm thấy dễ chịu, thoải mái khi làm việc với trẻ. Hơn nữa, nhân
viên xã hội không được tự cho mình là người “trưởng thành” vì “trưởng thành” có
nghĩa không còn lón lên nữa, là cạn kiệt kinh nghiệm sống rồi. Chính nhờ có kinh
115
nghiệm sống càng từng trải đời nên nhân viên xã hội mới có thể giúp đõ được trẻ em
tốt hơn.
Trong bối cảnh phát triển ngành công tác xã hội tại Việt Nam, đào tạo chuyên
ngành công tác xã hội với trẻ em và gia đình là cần thiết, nhất là tại các cơ sở xã hội
chăm sóc trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, kế đó là cho các nhân viên trực
tiếp cung cấp dịch vụ chăm sóc và bảo vệ trẻ em tại cộng đồng nhằm tăng cường hệ
thống an sinh nhi đồng và gia đình.
116
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại học Fordham, Hành vi con người và Môi trường xã hội, Khoa PNH, 1997
2. Karen V. Harper-Dorton & Martin Herbert, Working with Children and their
Families, Revesed Edition, Lyceum Book, Chicago, 1997.
3. Joachim Welp, Children in Crisis : Development point of view, Thông tin khoa
học, Hội TLGD TP.HCM, 2002, tr.30. (người dịch : TS Đinh Phương Duy)
4. Marian Brandon, Gillian Schofield & Liz Trinder, Social Work with Children,
MacmillianPress LTD, 1998 (người dịch : Nguyễn Thị Nhẫn- BXB
ĐHMBCTP. HCM)