câu 1: anh (chị) hãy cho biết bối cảnh lịch sử ra đời ... tim hieu 50 nam...
TRANSCRIPT
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
1
Câu 1: Anh (chị) hãy cho biết bối cảnh lịch sử ra đời Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam? Ngày thành lập? Ai ký quyết định thành
lập? Ai phê duyệt điều lệ đầu tiên?
Trả lời: Ngày 27/4/1963, thay mặt Hội đồng Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ Phạm Văn Đồng đã ký quyết định số 58-CP thành lập Phòng Thương mại
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với chức năng và nhiệm vụ cụ thể: Giao dịch
và đặt quan hệ với các tổ chức thương mại, kinh tế và với thương nhân nước
ngoài. Giúp đỡ các tổ chức kinh doanh hữu quan của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa trong việc tiếp xúc giao dịch và đặt quan hệ buôn bán với nước ngoài,
giúp đỡ các tổ chức thương mại kinh tế và thương nhân nước ngoài trong việc
tiếp xúc giao dịch và đặt quan hệ buôn bán với các tổ chức kinh doanh hữu quan
Việt Nam; Giúp đỡ đương sự của phía Việt Nam cũng như của phía nước ngoài
về mặt giới thiệu quảng bá hàng hóa; Cấp giấy chúng nhận xuất xứ đối với
những hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, chứng thực những giấy tờ thông dụng
khác trong thương mại quốc tế theo yêu cầu đương sự phía Việt Nam và phía
nước ngoài; Giúp đỡ giải quyết bằng thương lượng hoặc thông qua trọng tài
những việc tranh chấp có thể xảy ra trong khi thi hành các hợp đồng theo yêu
cầu của các bên hữu quan; Tổ chức triển lãm sản phẩm của Việt Nam ở nước
ngoài và sản phẩm của nước ngoài tại Việt Nam. Tổ chức và tham gia hội chợ
quốc tế; Phát hành những bản tin kinh tế, tạp chí thương mại, hoặc dùng mọi
hình thức khác để giới thiệu nền kinh tế và khả năng xuất khẩu của Việt Nam
với nước ngoài và giúp đỡ các tổ chức kinh doanh hữu quan Việt Nam tìm hiểu
thị trường ngoài nước.
Câu 2: Chức năng, nhiệm vụ cơ bản của Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam trong giai đoạn đầu thành lập?
Trả lời: Chức năng, nhiệm vụ cơ bản của Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam trong giai đoạn đầu thành lập:
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
2
- Giao dịch và đặt quan hệ với các tổ chức thương mại, kinh tế và với
thương nhân nước ngoài. Giúp đỡ các tổ chức kinh doanh hữu quan của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong việc tiếp xúc giao dịch và đặt quan hệ buôn
bán với nước ngoài, giúp đỡ các tổ chức thương mại kinh tế và thương nhân
nước ngoài trong việc tiếp xúc giao dịch và đặt quan hệ buôn bán với các tổ
chức kinh doanh hữu quan Việt Nam.
- Giúp đỡ đương sự của phía Việt Nam cũng như của phía nước ngoài về
mặt giới thiệu quảng bá hàng hóa.
- Cấp giấy chứng nhận xuất xứ đối với những hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam, chứng thực những giấy tờ thông dụng khác trong thương mại quốc tế
theo yêu cầu đương sự phía Việt Nam và phía nước ngoài.
- Giúp đỡ giải quyết bằng thương lượng hoặc thông qua trọng tài những
việc tranh chấp có thể xảy ra trong khi thi hành các hợp đồng theo yêu cầu của
các bên hữu quan.
- Tổ chức triển lãm sản phẩm của Việt Nam ở nước ngoài và sản phẩm
của nước ngoài tại Việt Nam. Tổ chức và tham gia hội chợ quốc tế.
- Phát hành những bản tin kinh tế, tạp chí thương mại, hoặc dùng mọi
hình thức khác để giới thiệu nền kinh tế và khả năng xuất khẩu của Việt Nam
với nước ngoài và giúp đỡ các tổ chức kinh doanh hữu quan Việt Nam tìm hiểu
thị trường ngoài nước.
Câu 3: Anh(chị) hãy cho biết những hoạt động nổi bật của VCCI giai
đoạn đầu mới thành lập?
Trả lời: Những hoạt động nổi bật của VCCI trong giai đoạn mới thành
lập:
VCCI đã duy trì và mở rộng quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các
nước, chủ yếu là các nước nằm ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa nhằm mục tiêu
đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu của đất nước; đồng thời một nhiệm vụ quan
trọng hơn của VCCI là thông qua giao lưu kinh tế để mở rộng quan hệ với các
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
3
nước, phá thế bị bao vây, phong tỏa về kinh tế; triển khai các hoạt động nghiên
cứu thị trường, luật lệ buôn bán quốc tế để chuẩn bị cho việc mở rộng các hoạt
động kinh tế, thương mại sau này. Hoạt động của VCCI trong giai đoạn này gắn
chặt với yêu cầu nhiệm vụ của đất nước trong điều kiện có chiến tranh và đã đạt
được những kết quả tích cực. VCCI đã góp phần khai thông thị trường các nước
tư bản chủ nghĩa, phá thế bao vây cấm vận và đặt nền móng xây dựng quan hệ
buôn bán, giao lưu thương mại giữa Việt Nam với các nước này.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, hoạt động của VCCI được mở
rộng trên phạm vi toàn quốc và không chỉ tập trung vào các lĩnh vực mở rộng
hoạt động ngoại thương của Việt Nam mà còn hỗ trợ phát triển sản xuất trong
nước, phát triển các ngành công nghiệp để tái thiết và phát triển kinh tế sau
chiến tranh. Chính vì vậy, đầu năm 1982, được sự đồng ý của Thủ tướng Chính
phủ, VCCI đã đổi tên thành Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Công cuộc đổi mới năm 1986 đã tạo ra sức sống mới cho nền kinh tế và
đem lại những cơ hội và bước phát triển mạnh mẽ cho VCCI. Với bề dày kinh
nghiệm thúc đẩy hợp tác với các nước có nền kinh tế thị trường, VCCI là một
trong những tổ chức đi đầu trong việc thực hiện đường lối đổi mới và đã đóng
góp tích cực vào việc thúc đẩy quan hệ thương mại, buôn bán giữa Việt Nam với
các nước cũng như kêu gọi, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Trong giai
đoạn này, VCCI gần như là cửa ngõ duy nhất nối liền hoạt động thương mại,
hợp tác, đầu tư giữa Việt Nam với nước ngoài. VCCI đã đi tiên phong trong việc
khai phá và mở rộng thị trường quốc tế, kể cả những thị trường mà Việt Nam
chưa có quan hệ ngoại giao như Mỹ, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản…
Đến năm 1993, từ một tổ chức chịu sự giám sát của Bộ trưởng Bộ oại
thương, VCCI đã tách ra thành một tổ chức độc lập với hai chức năng cơ bản là
chức năng đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, tham mưu, tư vấn cho Chính
phủ và chức năng xúc tiến thương mại, đầu tư. Việc bổ sung thêm chức năng đại
diện cho cộng đồng doanh nghiệp đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
4
VCCI. Với tư cách là tổ chức quốc gia đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam, VCCI đã góp phần thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển thể chế
kinh tế thị trường ở Việt Nam, xây dựng đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân, cải
thiện môi trường kinh doanh và đầu tư, trở thành cầu nối quan trọng giữa Nhà
nước và doanh nghiệp cùng hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế đất nước.
Câu 4: Đại hội đại biểu toàn quốc Phòng Thương mại và Công
Nghiệp Việt Nam lần thứ 2 vào năm 1993 và lần thứ 3 vào năm 1997 được
xem là những “cột mốc” quan trọng để VCCI bước vào một giai đoạn phát
triển mới. Anh (chị) hãy cho biết những nội dung quan trọng của 2 “cột
mốc” này?
Trả lời: Trong quá trình hình thành và phát triển, VCCI đã trải qua nhiều
dấu mốc quan trọng, cụ thể như sau: Thực hiện những nhiệm vụ và chức năng
cụ thể trên, VCCI đã duy trì và mở rộng quan hệ thương mại giữa Việt Nam với
các nước chủ yếu là các nước nằm ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa nhằm mục
tiêu đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu của đất nước, đồng thời một nhiệm vụ
quan trọng hơn của VCCI là thông qua giao lưu kinh tế để mở rộng quan hệ với
các nước, phá thế bị bao vây, phong tỏa về kinh tế, triển khai các hoạt động
nghiên cứu thị trường, luật lệ buôn bán quốc tế để chuẩn bị cho việc mở rộng
các hoạt động kinh tế, thương mại sau này. Hoạt động của VCCI trong giai đoạn
này gắn chặt với yêu cầu nhiệm vụ của đất nước trong điều kiện có chiến tranh
và đã đạt được những kết quả tích cực. VCCI đã góp phần khai thông thị trường
các nước tư bản chủ nghĩa, phá thế bao vây cấm vận và đặt nền móng xây dựng
quan hệ buôn bán, giao lưu thương mại giữa Việt Nam với các nước này.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, hoạt động của VCCI được mở
rộng trên phạm vi toàn quốc và không chỉ tập trung vào lĩnh vực mở rộng hoạt
động ngoại thương của Việt Nam mà còn hỗ trợ phát triển sản xuất trong nước,
phát triển các ngành công nghiệp để tái thiết và phát triển kinh tế sau chiến
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
5
tranh, Chính vì vậy, đầu năm 1982, được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ,
VCCI đã đổi tên thành Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam.
Công cuộc đổi mới năm 1986 đã tạo ra sức sống mới cho nền kinh tế và
đem lại những cơ hội và bước phát triển mạnh mẽ cho VCCI. Với bề dày kinh
nghiệm thúc đẩy hợp tác với các nước có nền kinh tế thị trường. VCCI là một
trong những tổ chức đi đầu trong việc thực hiện đường lối đổi mới và đã đóng
góp tích cực vào việc thúc đẩy quan hệ thương mại buôn bán giữa Việt Nam với
các nước cũng như kêu gọi thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Trong giai
đoạn này, VCCI gần như là cửa ngõ duy nhất nối liền hoạt động thương mại,
hợp tác, đâu tư giữa Việt Nam với nước ngoài. VCCI đã đi tiên phong trong việc
khai phá những thị trường Việt Nam chưa có quan hệ ngoại giao như Mỹ, Đài
Loan, Hàn Quốc, Israel, Nhật Bản…
Đến năm 1993, từ một tổ chức chịu sự giám sát của Bộ trưởng Bộ Ngoại
thương, VCCI đã tách ra thành một tổ chức độc lập với hai chức năng cơ bản là
chức năng đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, tham mưu, tư vấn cho Chính
phủ và chức năng xúc tiến thương mại, đầu tư. Việc bổ sung thêm chức năng đại
diện cho cộng đồng doanh nghiệp đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của
VCCI.Với tư cách là tổ chức quốc gia đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp Việt
nam, VCCI đã góp phần thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển thể chế kinh
tế thị trường ở Việt Nam, xây dựng đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân, cải thện
mổi trường kinh doanh và đầu tư, trở thành cầu nối quan trọng giữ Nhà nước và
doanh nghiệp cùng hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế đất nước.
Bằng những cố gắng và nỗ lực không ngừng, trong những năm qua VCCI
đã đạt được những thành tựu quan trọng và trở thành tổ chức xúc tiến thương
mại, đầu tư lớn nhất ở Việt Nam hiện nay, trở thành người bạn đồng hành của
doanh ngiệp, đối tác tin cậy của Chính phủ và là một tác nhân quan trọng thúc
đẩy sự phát triển kinh tế khu vực và quốc tế. Hoạt động của VCCI có sự trưởng
thành và phát triển vượt bậc trên mọi mặt.
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
6
Câu 5: Anh (chị) hãy cho biết ngày doanh nhân Việt Nam 13/10 được
công nhận từ khi nào? Ngày này gắn liền với sự kiện trọng đại nào của giới
doanh nhân?
Trả lời: Trong những thành quả mà chúng ta đang được chứng kiến và
hưởng thụ ngày nay, có sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ doanh nhân từ thời
xa xưa để lại. Cho đến tận hôm nay, lại có sự tiếp bước của thế hệ doanh nhân
mới. Họ đã cống hiến hết mình và họ đáng được chúng ta tôn vinh họ.
Nhắc lại một dấu son đáng nhớ và đầy tự hào của giới Doanh nhân Việt
Nam: 63 năm trước, ngày 13-10-1945, Bác Hồ kính yêu đã gửi thư cho giới
Doanh nhân động viên họ tham gia cứu quốc, góp phần kiến thiết đất nước vừa
giành lại từ tay thực dân, xác lập lại vị thế của giới Doanh nhân cũng như những
đóng góp to lớn vào quá trình đi lên của đất nước. Và ngày 20/9/2004, Thủ
tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã ký quyết định chọn ngày 13/10 hàng năm là
Ngày Doanh nhân Việt Nam.
Câu 6: Điều lệ mới của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
được Đại hội đại biểu toàn quốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam lần thứ IV thông qua và được thủ tướng Chính phủ phê chuẩn vào
năm nào? Đâu là những điểm mới so với nhiệm vụ, chức năng trước đây
của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam?
Trả lời: Điều lệ mới của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
được Đại hội Đại biều toàn quốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
lần thứ IV thông qua và đã được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn vào năm 2003.
Những điểm mới so với nhiệm vụ, chức năng trước đây của Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam:
Chức năng mới của VCCI nêu rõ bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng
của cộng đồng doanh nghiệp và người sử dụng lao động; Thúc đấy sự phát triển
doanh nghệp, doanh nhân, sự liên kết giữa các doanh nghiệp, hiệp hội doanh
nghiệp.
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
7
Điểm mới so với nhiệm vụ trước đây của VCCI:
- Tham gia xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội và hội nhập kinh tế quốc tế, tham dự các hội nghị, đàm phán về kinh tế và
thương mại phù hợp với quy định của Nhà nước.
- Tổ chức các diễn đàn, đối thoại, người sử dụng lao động với các cơ quan
Nhà nước, với đại diện người lao động và với các tổ chức hữu quan khác ở trong
và ngoài nước để trao đổi thông tin và ý kiến về các vấn đề liên quan đến doanh
nghiệp và môi trường kinh doanh.
- Tập hợp và liên kết với các hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam, hợp tác
với các Phòng Thương mại và Công nghiệp, các tổ chức hữu quan khác ở nước
ngoài, tham gia các tổ chức khu vực và quốc tế phù hợp với mục đích của Phòng
và giúp đỡ các doanh nghiệp tham gia hoạt động trong các tổ chức đó;
- Tiến hành các các hoạt động xây dựng, quảng bá và nâng cao uy tín
doanh nghiệp, doanh nhân, hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam; thúc đẩy các dịch
vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh.
Câu 7: Anh(chị) hãy cho biết, hiện nay VCCI có bao nhiêu hội viên
tham gia? Bao gồm những loại hội viên nào?
Trả lời: Hiện nay, VCCI có hơn 10.000 hội viên tham gia và bao gồm
những loại hội viên sau:
- Hội viên chính thức là các doanh nghiệp, các tổ chức sản xuất, kinh
doanh, người sử dụng lao động, các hiệp hội doanh nghiệp có đăng ký và hoạt
động hợp pháp ở Việt Nam.
- Hội viên liên kết là các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp có đăng ký
và hoạt động hợp pháp ở nước ngoài, có quan hệ thương mại với Việt Nam hoặc
có văn phòng đại diện của họ tại Việt Nam.
- Hội viên thông tấn là những chuyên gia và tổ chức chuyên môn ở trong
và ngoài nước có khả năng giúp thực hiện các nhiệm vụ của VCCI.
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
8
- Hội viên danh dự là những cá nhân có đóng góp đặc biệt vào việc thực
hiện mục đích của VCCI.
Câu 8: Có điểm gì khác giữa hội viên VCCI và các tổ chức hiệp hội
Doanh nghiệp khác?
Trả lời: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là tổ chức quốc gia
tập hợp và đại diện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và các hiệp
hội kinh doanh ở Việt Nam, nhằm bảo vệ và hỗ trợ các doanh nghiệp, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế,
thương mại và khoa học công nghệ giữa Việt Nam với các nước trên cơ sở bình
đẳng và cùng có lợi
Do vậy, việc tham gia hội viên VCCI là điều tất yếu trong quá trình hội
nhập của doanh nghiệp bởi họ mong muốn được hỗ trợ xúc tiến thương mại,
nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập nhanh vào nền kinh tế toàn cầu. Đặc
biệt trong bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn như hiện nay, chính sự theo sát
tình hình, tập hợp lấy ý kiến doanh nghiệp của VCCI để tư vấn, hỗ trợ doanh
nghiệp, kiến nghị với Nhà nước những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh
nghiệp đã là những “liều thuốc” rất thiết thực và bổ ích cho doanh nghiệp.
Câu 9: Tập hợp, nghiên cứu ý kiến của các Doanh nghiệp để phán
ánh, kiến nghị và tham mưu cho Nhà nước các vấn đề về pháp luật, chính
sách kinh tế - xã hội nhằm cải thiện môi trường kinh doanh cho Doanh
nghiệp là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam. Anh(Chị) có thể nêu một vài ví dụ cụ thể về vấn đề
này?
Trả lời: Kiến nghị về sửa đổi 16 luật nhằm tiếp tục cải thiện môi trường
kinh doanh tại Việt Nam dự kiến sẽ được gửi lên Quốc hội, Chính phủ, và các
bộ ngành trung ương.
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
9
- Hệ thống 16 luật này đã lộ rõ nhiều bất cập, trong đó nổi bật nhất là
chưa bảo đảm quyền tự do kinh doanh và tạo thuận lợi cho việc gia nhập thị
trường của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp.
Chẳng hạn, khi Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư “mở” thì các luật chuyên
ngành lại “đóng”, hoặc có tình trạng luật của Quốc hội, văn bản của Chính phủ
thì quy định thông thoáng nhưng văn bản của các cơ quan cấp dưới lại siết chặt
lại bằng những loại giấy phép con hay bằng những thủ tục phiền hà không đáng
có
Bên cạnh đó, một số quy định pháp luật chưa đủ thông thoáng, chưa tạo
điều kiện tốt nhất cho việc tiếp cận các nguồn lực cho đầu tư, kinh doanh. Ví dụ:
chính sách thu hồi đất, giải phóng mặt bằng chưa được cải thiện, gây ra nhiều
khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp khi tiếp cận quỹ đất sạch từ các địa
phương.
Một số quy định pháp luật còn phân biệt đối xử, chưa bảo đảm công bằng,
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các tổ chức và cá nhân trong đầu tư.
Một số quy định pháp luật thiếu minh bạch, chưa đầy đủ, thống nhất. Có
nhiều lĩnh vực pháp luật còn bỏ ngỏ hoặc chưa hoàn chỉnh, như các quy định
pháp luật về đầu tư công, về hợp tác công - tư, về giám sát và đánh giá hiệu quả,
xác định trách nhiệm trong quản lý, điều hành doanh nghiệp nhà nước.
Khung pháp lý còn thiếu tính nhất quán, đồng bộ và sự ổn định về cơ chế,
chính sách. Các quy định được ban hành thường có tuổi thọ ngắn (trung bình từ
3-5 năm), thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung nên thiếu sự ổn định, nhất quán
của cơ chế, chính sách.
- Nhân lực tốt là một cột trụ quan trọng để doanh nghiệp kiến thiết sức
cạnh tranh của mình. Nếu dây chuyền thiết bị hiện đại nhưng nguồn nhân lực
không đủ khả năng và kiến thức để vận hành, cỗ máy đó cũng chỉ là những bộ
sắt thép. Một nguồn nhân lực tốt, từ người quản lý từng bộ phận sẽ hiểu, sử
dụng hiệu quả và phát huy tiềm năng trong nguồn lực con người của mỗi cá
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
10
nhân. Còn với một đội ngũ cán bộ nhân viên, công nhân giỏi, đồng thuận và
nhiệt huyết với doanh nghiệp, doanh nghiệp đó mới có một sức mạnh tổng hợp
mà không gì có thể tạo ra được. Do đó, doanh nghiệp không chỉ cần quan tâm
lựa chọn, tuyển dụng nhân sự giỏi, bổ sung cho nguồn nhân lực của mình mà
còn cần tái đào tạo, nâng cao chất lượng nhân sự hiện có. Những kinh nghiệm về
quản trị nhân sự của Tập đoàn
Phú Thái, FPT… là những điển hình tốt.
Trong đường hướng hoạt động về nhân sự của Phú Thái hay FPT, nhân
viên luôn được đào tạo trong một môi trường để vươn lên. Tại đây, toàn bộ nhân
viên được tạo mọi điều kiện để đào tạo và tái đào tạo theo yêu cầu công việc của
cá nhân.
Nhân viên của hai tập đoàn này cũng được làm việc và học tập trong một
môi trường như gia đình, ở đó, các thành viên quan tâm và chia sẻ với nhau,
động viên nhau trong công việc.
- Cơ hội cho các doanh nghiệp trong khủng hoảng kinh tế không phải là
không có. Để có một sức lực tốt, chuẩn bị cho đà vươn lên sau khoảng thời gian
khó khăn, doanh nghiệp cần biết tập trung đồng vốn vào một hay hai mục đích
chính. Nếu doanh nghiệp nào khôn ngoan sẽ biết đầu tư mua lại dây chuyền thiết
bị hiện đại của những doanh nghiệp cùng ngành nghề nhưng không thể trụ lại
trong khó khăn. Những dây chuyền này sẽ giúp doanh nghiệp đỡ một phần lớn
chi phí bởi được mua với giá chỉ bằng 1/3-1/2 giá của thiết bị. Tuy nhiên, doanh
nghiệp muốn làm được điều này phải chịu cắt lỗ, chấp nhận hy sinh, mất mát,
loại bỏ lãng phí. Với một tinh thần như thế doanh nghiệp sẽ tìm được phương
hướng mới cho mình. Không thể ngồi thụ động chờ đợi sự cứu trợ bởi sẽ không
có sự cứu trợ nào đủ để cứu tất cả, mà phải chủ động sáng tạo từ cái mình có.
- Thương hiệu là vấn đề không thể thiếu của một doanh nghiệp trong bất
kỳ giai đoạnkinh tế nào, đặc biệt trong giai đoạn nền kinh tế khó khăn kéo dài
như hiện nay. Với một doanh nghiệp đã xây dựng được thương hiệu trong thời
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
11
kỳ trước khó khăn, cần cắt riêng một khoản đầu tư phù hợp về bảo vệ thương
hiệu đã có.
Còn với một doanh nghiệp mới nổi, tạo được thương hiệu là vấn đề khó,
do đó cần xác định thị trường nhỏ, thị trường ngách phù hợp với mình, sau đó
thiết kế được sản phẩm thích hợp với thị hiếu tiêu dùng và tiến đến xây dựng,
bảo vệ thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp của mình.
- Góp ý dự thảo nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
vật liệu nổ công nghiệp:
Việc ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực vật liệu nổ công nghiệp là cần thiết để đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn
xử phạt vi phạm hành chính, những sửa đổi, bổ sung của các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan và đặc biệt trong bối cảnh Luật xử lý vi phạm hành chính
2012 (Luật số 15/2012/QH13) đã được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 6
năm 2012, chính thức có hiệu lực từ 1/7/2013.
Về cơ bản, các quy định tại Dự thảo Nghị định khá chi tiết, hợp lý, thống
nhất với quy định của các văn bản pháp luật liên quan. Tuy nhiên, đề hoàn thiện,
đề nghị Ban soạn thảo xem xét, cân nhắc các quy định sau:
1. Về những quy định chung (Chương I)
Về giải thích từ ngữ (Điều 3): Dự thảo Nghị định hầu như lặp lại toànbộ
các quy định về giải thích từ ngữ được quy định tại Điều 3 Nghị định
39/2009/NĐ-CP ngày 23 tháng 04 năm 2009 về vật liệu nổ công nghiệp (sau đây
gọi tắt là Nghị định 39). Điều này là không cần thiết, bởi vì Nghị định này chỉ
quy định về một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện các quy định của
Nghị định về nội dung (Nghị định 39) nên không cần thiết phải quy định lại về
các nội dung đã có trong văn bản đó. Hơn nữa, về kỹ thuật xây dựng văn bản thì
không được quy định lại các quy định đã có trong các văn bản khác (Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật).
Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định tại Điều 3;
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
12
Về các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả đối với vi phạm
hành chính:
Điểm a khoản 1 Điều 4 Dự thảo Nghị định quy định, hình thức xử phạt
“cảnh cáo” được áp dụng đối với “mọi vi phạm hành chính do người chưa thành
niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện”. Quy định này được hiểu là không
phân biệt lỗi cố ý hay vô ý đối với đối tượng từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
trong việc xử phạt vi phạm hành chính. Điều này là chưa phù hợp với quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính “người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý”
(không áp dụng việc xử phạt vi phạm hành chính do lỗi vô ý). Do đó, đề nghị
Ban soạn thảo sửa đổi quy định này để thống nhất với các quy định tại Luật xử
lý vi phạm hành chính;
2. Về các hành vi vi phạm hành chính, hình thức và mức phạt (Chương II)
Một số quy định tại Dự thảo Nghị định có khung mức phạt khá rộng (mức trần
cao gấp 10 lần mức sàn), ví dụ: quy định tại khoản 1 Điều 6, khoản 1 Điều 7,
khoản 1 Điều 10, khoản 1 Điều 11, khoản 1 Điều 13, khoản 1 Điều 14 có khung
mức phạt từ “500.000 đồng đến 5.000.000 đồng”. Với khoảng cách này và tiêu
chí để xác định mức phạt là chưa rõ ràng, có thể tạo ra sự tùy tiện trong việc xác
định mức phạt của cán bộ cơ quan có thẩm quyền và sự bất bình đẳng giữa các
đối tượng bị xử phạt khi vi phạm cùng một hành vi thuộc khung xử phạt này. Đề
nghị Ban soạn thảo xem xét giảm khoảng cách giữa mức cao nhất và thấp nhất
là 2- 3 lần tương tự như các khung xử phạt của các Điều khác tại Dự thảo Nghị
định này.
3. Về thẩm quyền, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
vật liệu nổ công nghiệp (Chương III)- Dự thảo hiện mới quy định về thẩm quyền
xử phạt hành chính của thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên, theo quy định tại
Điều 46 Luật xử lý vi phạm hành chính, bên cạnh thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính của thanh tra chuyên ngành, người được giao nhiệm vụ thanh tra
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
13
chuyên ngành (công chức được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành) cũng có
thẩm quyền này. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính của người được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành
như mức xử phạt của thanh tra viên tại Dự thảo Nghị định cho phù hợp với Luật;
- Theo quy định tại Điều 46 Luật xử lý vi phạm hành chính, thanh tra viên
có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả như: “Buộc khôi phục
lại tình trạng ban đầu”; “Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm
môi trường, lây lan dịch bệnh”; “Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho
sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội
dung độc hại”. Khoản 1 Điều 16 Dự thảo Nghị định quy định, thanh tra viên
chuyên ngành thuộc Bộ Công Thương, Sở Công Thương có quyền áp dụng các
biện pháp khắc phục hậu quả “buộc khắc phục tình trạng không an toàn do vi
phạm hành chính gây ra” là có phần thiếu chính xác, có thể gây hiểu nhầm rằng
Nghị định quy định biện pháp khắc phục hậu quả mới, không phù hợp với quy
định của Luật xử lý vi phạm hành chính, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh quy
định này của Dự thảo Nghị định theo hướng “buộc khắc phục tình trạng không
an toàn do vi phạm hành chính gây ra để khôi phục lại tình trạng ban đầu”;
Khoản 6 Điều 18 Dự thảo Nghị định quy định “chi phí bảo quản, vận chuyển,
giao, nhận, giám định tang vật, phương tiện bị tịch thu và phục vụ xử lý tang
vật, phương tiện bị tịch thu nhưng đã mất phẩm chất, buộc phải tiêu hủy được
lấy từ tiền thu xử phạt vi phạm hành chính” là chưa phù hợp với quy định tại
khoản 2 Điều 83 Luật xử lý vi phạm hành chính theo đó “tiền thu từ xử phạt vi
phạm hành chính phải nộp toàn bộ vào ngân sách nhà nước”.
Góp ý Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư Những
sửa đổi trong Dự thảo về cơ bản là hợp lý: nâng cao chất lượng của người hành
nghề luật sư (kéo dài thời gian đào tạo nghề luật sư; cho phép người tập sự hành
nghề luật sư tham gia vào hoạt động tố tụng; yêu cầu cao hơn đối với người
hướng dẫn người tập sự hành nghề luật sư; yêu cầu kinh nghiệm của những
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
14
người được miễn đào tạo nghề luật sư; mở rộng một số quyền cho luật sư …),
đơn giản hóa một số thủ tục của người hành nghề luật sư …;
- Về vấn đề cho viên chức được hành nghề luật sư: Ủng hộ ý kiến thứ ba:
chỉ cho viên chức đang giảng dạy luật được trở thành luật sư. Bởi những người
này có kiến thức sâu về luật. Nên việc cho phép họ tham gia hành nghề luật sư
sẽ có thể vừa nâng cao chất lượng của đội ngũ luật sư vừa bổ sung kiến thức
thực tế, góp phần nâng cao công tác giảng dạy trong nhà trường, góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo, gián tiếp nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư tương lai.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính công bằng, khách quan khi hành nghề, nhất là trong
bối cảnh nước ta hiện nay, rất nhiều cán bộ trong cơ quan tiến hành tố tụng từng
học ở các trường dạy luật, là học trò của những viên chức dạy luật trong các
trường đó, nên cân nhắc có cần giới hạn phạm vi hoạt động của đối tượng này,
đó là, chỉ cho tham gia hoạt động tư vấn mà không được tham gia hoạt động tố
tụng. Ngoài ra, cần giải quyết mối quan hệ có thể xung đột giữa đơn vị mà các
viên chức này có hợp đồng lao động với việc tổ chức hành nghề tư vấn luật; Về
Nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí (Điều 8): Điều 8 được Dự thảo sửa
đổi quy định: “1. Nghĩa vụ cao cả của luật sư là tham gia thực hiện trợ giúp pháp
lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách; 2. Luật sư tận tâm, tích
cực thực hiện yêu cầu trợ giúp pháp lý như đối với việc có thù lao”. Quy định
này có được hiểu là: Luật sư bắt buộc phải trợ giúp pháp lý cho người nghèo,
đối tượng chính sách khi có yêu cầu? Nếu có thì đối tượng yêu cầu là ai: người
nghèo, đối tượng chính sách hay tổ chức xã hội nghề nghiệp? Dự thảo sử dụng
từ ngữ “nghĩa vụ cao cả” không phù hợp với ngôn ngữ pháp lý;
- Về Kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư (Điều 15): Điều 15 được
Dự thảo sửa đổi, bổ sung như sau: “Người tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành
nghề luật sư là người tập sự đã hoàn thành thời gian tập sự theo quy định tại
khoản 1 Điều 14 của Luật này và được Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư đề nghị cho
tham dự kiểm tra”. Việc quy định người tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
15
nghề luật sư phải được Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư cho tham dự kiểm tra mới
được tham dự kiểm tra là chưa rõ ràng, có thể tạo ra cơ chế xin – cho. Những
trường hợp nào thì được Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư đề nghị cho tham dự kiểm
tra? Những trường hợp nào không được? Đề nghị Dự thảo quy định theo hướng,
những người đáp ứng các điều kiện về tập sự hành nghề luật sư theo quy định
(như đủ thời gian thực tập, kết quả thực tập, đạo đức …) thì đương nhiên được
tham dự kỳ kiểm tra mà không cần sự cho phép hay đề nghị của đơn vị, tổ chức
nào;
- Về Cấp chứng chỉ hành nghề luật sư (Điều 17): điểm c khoản 4 Điều 17
được Dự thảo sửa đổi như sau: “người đã bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, kể cả trường
hợp đã được xóa án tích” sẽ không được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư. Việc
quy định kể cả trường hợp đã được xóa án tích đối với những tội phạm trên sẽ
không được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư liệu đã hợp lý, công bằng chưa?
Theo quy định của pháp luật thì tội phạm khi đã được xóa án tích thì được xem
như người chưa từng phạm tội. Việc không cho họ được cấp Chứng chỉ hành
nghề luật sư là một hình thức phân biệt đối xử, không tạo điều kiện cho họ có cơ
hội được lựa chọn công việc lương thiện. Hơn nữa, căn cứ đâu để Dự thảo lại
hạn chế trường hợp này trong việc hành nghề luật sư trong khi đối với các ngành
nghề khác không có hạn chế này;
- Dự thảo quy định một trong những điều kiện thành lập tổ chức hành
nghề luật sư là về “trụ sở bảo đảm đủ diện tích làm việc cho luật sư, nhân viên,
tiếp khách hàng và lưu trữ hồ sơ theo quy định của pháp luật”. Thứ nhất, có cần
thiết phải quy định các điều kiện “cứng” thế này không hay cho thị trường chọn
lọc; thứ hai, quy định này quá chung chung, sẽ gây khó khăn khi áp dụng trên
thực tế. Dự thảo có sửa đổi, bổ sung về điều kiện thành lập tổ chức hành nghề
luật sư, để đảm bảo tính thống nhất, đề nghị Dự thảo sửa đổi, bổ sung các quy
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
16
định về đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, các loại giấy tờ trong
hồ sơ đăng ký tương ứng …
Ngoài ra, đề nghị có một nghiên cứu đánh giá tác động (Ria) về Luật Luật
sư để xác định xem hiện nay có bao nhiêu luật sư hành nghề luật sư và “đủ
sống” bằng nghề luật sư để định hướng ưu tiên phát triển chất lượng mà không
nhất thiết phải “phấn đấu”cho đủ số lượng.
Câu 10: Anh(chị) hãy cho biết từ khi thành lập đến nay, VCCI đã có
những giải thưởng nào dành cho giới doanh nhân?
Từ khi thành lập đến nay VCCI đã có những giải thưởng dành cho giới
doanh nhân:
- Giải thưởng Cúp Doanh nhân;
- Lễ trao giải “Nữ doanh nhân Việt Nam tiêu biểu – Cúp Bông hồng
Vàng” , “ Ngọn Hải Đăng”
- Doanh nghiệp và Doanh nhân tiêu biểu khu vực ĐBSCL
- Giải thưởng Ernst & Young - Bản lĩnh doanh nhân lập nghiệp 2011
- Giải đấu Golf Doanh nhân - Tăng cường kết nối doanh nghiệp 2012
Câu 11: Trên phương diện đối ngoại, vai trò và hoạt động của Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã được thể hiện thế nào trong các
năm gần đây? Anh(Chị) có thể kể tên một số sự kiện, Quốc tế lớn mà Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã tổ chức cũng như tham gia trong
thời gian qua?
Trả lời: Trên phương diện đối ngoại, vai trò và hoạt động của VCCI thể
hiện ấn tượng qua những sự kiện như tổ chức các diễn đàn DN quốc tế và khu
vực, tổ chức các đoàn xúc tiến thương mại với các nước theo những chuyến
thăm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước hay Chính phủ.
Trong 4 năm trở lại đây, VCCI đã tổ chức tiếp đón và bố trí chương trình
làm việc trên 300 đoàn với gần 12.000 lượt doanh nhân nước ngoài vào Việt
Nam. Tổ chức gần 100 đoàn với khoảng 4.500 doanh nghiệp Việt Nam ra nước
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
17
ngoài khảo sát thị trường, tìm kiếm cơ hội đầu tư - kinh doanh và gần 600 cuộc
hội thảo, gặp gỡ tiếp xúc doanh nghiệp với sự tham dự của hơn 85.000 doanh
nghiệp. Một lần nữa khẳng định “thương hiệu” VCCI trong việc đại điện cho
tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp, xúc tiến thương mại và đầu tư, góp phần
quảng bá Việt Nam đến với thế giới.
Vươn xa hơn
VCCI đã tổ chức các Diễn đàn doanh nghiệp với các thị trường theo
những chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao của Việt Nam. Trung bình hàng năm
tới vài chục diễn đàn này, đem lại những cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam và
các đối tác kinh doanh khác trên thế giới. Một loạt các diễn đàn và hội đồng
kinh doanh được thành lập và triển khai trong năm qua với Mỹ, Nga, Trung
Quốc, Nhật, EU và Châu Phi. Hỗ trợ doanh nghiệp hội nhập quốc tế trong khuôn
khổ WTO, APEC, ASEAN. Bước đầu tham vấn cho Chính Phủ tại các cuộc
đàm phán thương mại quốc tế (đàm phán hiệp định thương mại xuyên Thái Bình
Dương). Mức tăng trưởng bình quân của hoạt động xúc tiến thương mại – đầu tư
do VCCI tổ chức khỏang trên 30%, hiệu quả được nâng lên.
Một điểm nhấn trong chính sách tăng cường xuất khẩu của Việt Nam đó
là hướng vào những thị trường mới nổi, có tiềm năng lớn. Trong dòng chảy
chung của tăng trưởng xuất nhập khẩu năm nay, đã xuất hiện hai xu hướng tích
cực được điều chỉnh về phía các đối tác thương mại của Việt Nam rất đáng ghi
nhận trong năm nay. Thứ nhất là việc tiếp cận sâu hơn đối với các thị trường
mới ở khu vực châu Phi. Thứ hai là cân bằng hơn đối với các đối tác thương mại
chính. Mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu vào châu Phi của Việt Nam mới ở mức
khoảng 3,1 tỷ USD trong năm nay, nhưng tốc độ tăng trưởng đã lên tới 131%,
riêng Nam Phi tăng 250%. Vì vậy, VCCI đã tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp
cận những thị trường này thông qua tổ chức Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam -
Châu Phi - Trung Đông cuối tháng 8/2011 tại Hà Nội với sự tham gia của hàng
trăm doanh nghiệp. Tiến sĩ Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch VCCI khẳng định đây là
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
18
diễn đàn diễn ra hàng năm, nhằm phát huy lợi thế sẵn có để hỗ trợ các doanh
nghiệp Việt Nam phát triển quan hệ hợp tác với các nước châu Phi và Trung
Đông. Xuất khẩu vào thị trường này là các mặt hàng gạo, nông sản, thực phẩm.
Mới đây các doanh nghiệp ngành xi măng cũng đã bắt đấu xuất những lô hàng
đầu tiên sang thị trường này, một hướng đi mới trong bối cảnh ngành xây dựng
BĐS trong nước đang gặp khó khăn. Tập đòan Viettel cũng là doanh nghiệp tiên
phong của Việt Nam đầu tư tại thị trường này với các nước Châu Phi. New
Zealand cũng nằm trong số các thị trường xuất khẩu mới của Việt Nam, có mức
tăng trưởng kim ngạch khá cao tới 29%..
Trong khi đó, tất cả các thị trường xuất khẩu chủ lực của ta đều ghi nhận
mức tăng trưởng kim ngạch cao hơn bình quân chung. Các ví dụ điển hình là
xuất khẩu vào Hàn Quốc tăng tới 64% trong khi nhập khẩu tăng 34%; sang
Trung Quốc tăng 58% trong khi chiều ngược lại tăng 21%; Nhật Bản tăng 37%
và 14%; EU là 48% và 18%...
Điểm nhấn trọng tâm
Với quyết tâm hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN(AEC) vào năm
2015 của giới lãnh đạo khu vực này, mục tiêu đề ra là đưa ASEAN trở thành
một thị trường thống nhất, một nền sản xuất thống nhất và trở thành một thành
phần mạnh hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Vì vậy liên kết nội khối nhằm
tận dụng cơ hội của nhau là một hướng đi chiến lược cho việc hình thành AEC.
ASEAN BAC (Hội đồng tư vấn kinh doanh ASEAN) cũng đang được
VCCI đẩy mạnh nhằm kết nối và hợp tác mạnh mẽ trong cộng đồng doanh
nghiệp ASEAN. Với tư cách là đại diện các doanh nghiệp lớn đặt trong mối
quan hệ công – tư, ASEAN BAC có nhiều hoạt động mạnh mẽ và hiệu quả, tạo
ra các cơ chế đối thoại, tạo chuỗi liên kết trong cộng đồng doanh nghiệp
ASEAN... một trong những hoạt động đó là phối hợp chặt chẽ với ASEAN CCI
và ASEAN xây dựng chương trình “hành lang xanh” (ASEAN green land) nhằm
đẩy mạnh lưu thông hàng hoá trong khu vực.
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
19
Nhận xét về tính hiệu quả của chương trình này, Tiến Sĩ Đoàn Duy
Khương - Phó Chủ tịch VCCI, Chủ tịch ASEAN BAC cho rằng, sự chênh lệch
về trình độ phát triển giữa 6 nước ASEAN cũ và 4 nước CLMV (Campuchia,
Lào, Myanmar và Việt Nam), trước mắt, “hành lang xanh” chưa thể giúp doanh
nghiệp các nước CLMV hưởng lợi trực tiếp. Tuy nhiên, từ thực tiễn triển khai
mô hình “hành lang xanh,” các nước CLMV có thể học hỏi kinh nghiệm để đến
khi đạt đủ điều kiện cần thiết có thể áp dụng ngay mô hình này vào thực tiễn.
Phía VCCI sẽ tập hợp và làm cầu nối cho các doanh nghiệp Việt Nam trong
ngành logistics, các ngành phụ trợ, các hiệp hội chuyên ngành vận tải tham gia
trực tiếp các dự án nâng cao năng lực quản lý logistics của ASEAN với các đối
tác giàu kinh nghiệm như JETRO, Viện Nghiên cứu kinh tế ASEAN và Đông Á
(ERIA)... Theo các chuyên gia, chuỗi liên kết trong cộng đồng DN ASEAN
được hình thành sẽ tạo nên chuỗi giá trị của chính các doanh nghiệp trong khu
vực, do các doanh nghiệp trong khu vực đóng vai trò then chốt, giải quyết những
rào cản thương mại, hỗ trợ tiếp cận thị trường mới với các doanh nghiệp đi sau,
cũng như phối hợp tốt trong tự vệ thương mại.
Vào tháng 9/2011, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã dẫn đầu phái đoàn
Việt Nam thăm một loạt nước láng giềng của khu vực ASEAN: Singapore,
Philippin, Malayxia… Chuyến đi này một lần nữa khẳng định chính sách của
Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và các
nước thành viên ASEAN. Tại Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam - Philippin do
VCCI tổ chức, hàng loạt các hợp đồng lớn của các doanh nghiệp đã được ký kết.
Đó là thỏa thuận hợp tác giữa Công ty chế biến thực phẩm xuất khẩu Long An
và Công ty Mayon Development về xuất nhập khẩu gạo và hạt điều trị giá 23
triệu USD và Thỏa thuận hợp tác giữa Công ty cổ phần quốc tế Việt Thái và
Công ty cổ phần IP Venture về hợp tác nhượng quyền kinh doanh trong lĩnh vực
thực phẩm và đồ uống trị giá 25 triệu USD. Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác về xúc
tiến đầu tư và thương mại giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
20
(VCCI) và Phòng Thương mại và Công nghiệp Philippines (PCCI). Cũng trong
thời gian này, VCCI cũng tổ chức thêm hai diễn đàn doanh nghiệp tại Singapore
và Malayxia theo chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Theo đánh
giá chung thì các doanh nghiệp đều có “thu hoạch” lớn trong những chuyến đi
này.
Sự kiện đối ngoại gần nhất diễn ra trong tháng 11/2011 đó là VCCI tổ
chức thành công diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam - Hoa Kỳ theo chuyến công
du của Chủ tịch Trương Tấn Sang dự APEC tại Hawaii. Hội nghị APEC có sự
tham dự của Chủ tịch nước Việt Nam lần này được đánh giá có tác động quan
trọng đối với các nước châu Á. Tổng thống Mỹ Barack Obama được kỳ vọng sẽ
nỗ lực chuyển dịch trọng tâm đối ngoại của nước này về châu Á, làm sâu sắc
hơn mối quan hệ giữa Washington với các nước trong khu vực đang phát triển
năng động nhất thế giới này. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã dự Đối thoại
diễn đàn doanh nghiệp Việt-Mỹ. Tham gia diễn đàn có đại diện gần 200 doanh
nghiệp hai nước. Diễn đàn do VCCI phối hợp với ĐH Tổng hợp Hawaii tổ chức.
Câu 12: Anh (Chị) hãy cho biết về những nội dung cơ bản chức năng
đại diện cho người sử dụng lao động của VCCI?
Trả lời:
1. Tổ chức đại diện người sử dụng lao động và vị trí pháp lý của nó
Trong hệ thống chủ thể của quan hệ lao động (hay còn gọi là quan hệ
công nghiệp (industrial relations), người sử dụng hoặc đại diện của họ có một vị
trí, vai trò rất quan trọng.
Luật lao động theo trường phái cổ điển thường chú trọng đến việc bảo vệ
người lao động bởi lẽ người lao động là chủ thể yếu thế trên thị trường lao động
và thường lép vế trong mối quan hệ lao động. Quan niệm về một thứ luật lao
động với những quy phạm dày đặc nhằm tạo ra một “tấm áo giáp” pháp luật cho
người lao động đã vô tình làm lu mờ vai trò của người sử dụng lao động – một
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
21
đối tác cần thiết trong mối quan hệ lao động. Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu của
sự xuất hiện và phát triển của pháp luật lao động thì điều đó là cần thiết và dễ
hiểu.
Đến một giai đoạn phát triển nhất định của quan hệ lao động, tổ chức đại
diện người sử dụng lao động dần được khẳng định vị trí trong môi trường lao
động và trong xã hội. Tổ chức đại diện của người sử dụng lao động là một chủ
thể không thể thiếu trong các quy định của luật lao động.
Theo cách hiểu chung nhất, tổ chức đại diện người sử dụng lao động lao
động là thiết chế được lập ra với chức năng, nhiệm vụ đại diện và bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong quan hệ lao động. Việc
xác lập các tổ chức đại diện người sử dụng lao động đề dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, tự do liên kết.
Nếu tiếp cận ở một phạm vi rộng hơn thì có thể thấy, đại diện người sử
dụng lao động là vấn đề mà Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) rất quan tâm. Điều
đó thể hiện ở việc đề cao quyền tự do liên kết của các bên trong quan hệ lao
động. Theo ILO, các bên của quan hệ lao động, kể cả người lao động và người
sử dụng lao động đều phải được quyền tự do kết hợp (freedom of association) và
quyền đó là một trong những “tiêu chuẩn lao động quốc tế” (international labour
standards) quan trọng nhất bên cạnh các tiêu chuẩn khác như xoá bỏ lao động
bắt buộc và lao động cưỡng bức; xoá bỏ lao động trẻ em và xoá bỏ sự phân biệt
đối xử trong lao động. Bên cạnh đó, một số Công ước và Khuyến nghị của ILO
cũng đã quy định trực tiếp hoặc gián tiếp về quyền tự dó liên kết của người sử
dụng lao động và của người lao động.
Đại diện của người sử dụng lao động là vấn đề đã được đề cập đến trong
các văn bản pháp luật ngay từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Sau này, trong những năm tồn tại nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, do vấn đề
nhận thức về giai cấp và đấu tranh giai cấp thời kỳ này mà vấn đề đại diện của
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
22
người sử dụng lao động trở nên mờ nhạt. Khi Việt Nam chuyển đổi nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung đó sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lý của nhà nước và tăng cường hội nhập quốc tế, thì việc quy
định về quyền của đại diện người lao động và đại diện người sử dụng lao động
lại được quan tâm. Rõ nét nhất là việc quy định vị trí của đại diện người sử dụng
lao động trong Bộ luật Lao động.
Theo các quy định hiện hành, tổ chức đại diện người sử dụng lao động
hiện nay gồm: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Liên
minh Hợp tác xã Việt Nam (VCA)
+ Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam là “tổ chức quốc gia tập
hợp và đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, người sử dụng lao động và các
hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam”. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam là tổ chức độc lập, phi chính phủ, phi lợi nhuận, có tư cách pháp nhân và tự
chủ về tài chính. Hội viên của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
gồm có 4 loại: i) “Hội viên chính thức: là các doanh nghiệp, các tổ chức sản
xuất, kinh doanh, người sử dụng lao động, các hiệp hội doanh nghiệp có đăng ký
và hoạt động hợp pháp ở Việt Nam; ii) Hội viên liên kết: là các doanh nghiệp,
hiệp hội doanh nghiệp có đăng ký và hoạt động hợp pháp ở nước ngoài có quan
hệ thương mại với Việt Nam hoặc có văn phòng đại diện của họ tại Việt Nam;
iii) Hội viên thông tấn: là những chuyên gia và tổ chức chuyên môn ở trong và
ngoài nước có khả năng giúp thực hiện các nhiệm vụ của Phòng; và iv) Hội viên
danh dự: là những cá nhân có đóng góp đặc biệt vào việc thực hiện mục đích của
Phòng”.
Quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể của các tổ chức đại diện của người sử dụng
lao động được quy định trong Bộ luật Lao động, Nghị định số 145/2004/NĐ-CP
ngày 14/7/2004, Thông tư số 04/2006/TTLT-BLĐTBXH -TLĐLĐ ngày
21/3/2006 hướng dẫn chi tiết thi hành Điều 3 Nghị định 145/2004/NĐ-CP về
việc tham khảo ý kiến Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và Phòng Thương mại
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
23
và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam về các vấn đề liên
quan đến quan hệ lao động.
Tổ chức đại diện người sử dụng lao động có vai trò quan trọng trong lĩnh
vực lao động. Những vai trò đó thể hiện qua những nội dung chủ yếu sau đây:
- Tổ chức đại diện người sử dụng lao động là đại diện cho một bên của
quan hệ lao động. Tư cách đại diện đó tạo ra cho chính bản thân các tổ chức đại
diện người sử dụng lao động những quyền năng to lớn nhằm thống nhất quan
điểm đối với vấn đề sử dụng lao động.
- Tổ chức đại diện người sử dụng lao động là “cầu nối” giữa người lao
động và người sử dụng lao động trong các quan hệ cụ thể và trong cơ chế hai
bên, cơ chế ba bên nhằm hướng tới việc tăng cường đối thoại xã hội và cùng
quyết định các vấn đề của lao động.
- Là chủ thể trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các hành vi cần thiết và hợp
pháp để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên của mình và bảo
vệ tính nghiêm minh của pháp luật lao động.
- Là nhân tố thúc đẩy cạnh tranh và hợp tác trong lao động và trong quá
trình sản xuất xã hội cũng như quá trình hợp tác quc tế về lao động.
2. Vai trò bảo vệ và liên kết của tổ chức đại diện người sử dụng lao
động trong mối quan hệ lao động
2.1 Vai trò bảo vệ của tổ chức đại diện người sử dụng lao động.
Bảo vệ các thành viên là những người sử dụng lao động là một trong
những yêu cầu quan trọng hàng đầu của tổ chức đại diện người sử dụng lao
động. Vai trò bảo vệ của tổ chức đại diện người sử dụng lao động được thể hiện
trong các quy định của luật lao động được thể hiện ở hai phương diện cơ bản:
- Một là: thực hiện các hoạt động bảo vệ thông qua việc tham gia hoạch
định chính sách, pháp luật nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
24
động của các thành viên là người sử dụng lao động. Đây chính là biện pháp “bảo
vệ từ xa”, hay còn gọi là biện pháp “phòng bị” có tính chiến lược và lâu dài.
- Hai là: thực hiện các hoạt động bảo vệ trực tiếp, trực diện. Các hoạt
động này chủ yếu được tiến hành khi có yêu cầu hoặc tổ chức đại diện người sử
dụng lao động cho là cần thiết hoặc theo quy tắc nội bộ, theo các quy định của
pháp luật, đó là chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của nó. Ví dụ như việc bảo vệ
người sử dụng lao động thành viên trong một vụ tranh chấp lao động.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, tổ chức đại diện của người lao
động và người sử dụng lao động có nội dung hoạt động bao gồm:
- Tham gia ý kiến đối với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
nhà nước về lao động;
- Sửa đổi, bổ sung các chế độ chính sách về lĩnh vực lao động theo quy
định của Bộ luật Lao động;
- Cải cách thủ tục hành chính trong quản lý lao động;
- Đề xuất các biện pháp giải quyết các cuộc đình công liên quan đến nhiều
người lao động;
- Tham gia, báo cáo thực hiện các Công ước của Tổ chức Lao động quốc
tế;
- Những vấn đề khác theo yêu cầu của Chính phủ và các bên theo quy
định của pháp luật.
Các nội dung hoạt động nói trên chủ yếu tập trung vào việc đóng góp ý
kiến cho nhà nước (Chính phủ); theo đó, nhà nước có quyền tham khảo hoặc
không tuỳ thuộc vào nhận thức của chính nhà nước. Các tổ chức đại diện của hai
bên (người lao động và người sử dụng lao động) đều không có quyền quyết định
về một hoặc nhiều vấn đề liên quan đến quyền lợi của họ.
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
25
Điều đó là chưa hoàn toàn bám sát các quy định của Bộ luật Lao động,
Điều lệ của các tổ chức đại diện người sử dụng lao động, bởi vì theo các quy
định đó thì tổ chức đại diện người sử dụng lao động có quyền tham gia hoặc tự
mình tiến hành nhiều biện pháp khác nhau để bảo vệ thành viên của mình. Ví
dụ, tại Điều 158.4 Bộ luật Lao động có ghi: “Phải có sự tham gia của đại diện
công đoàn và đại diện của người sử dụng lao động trong quá trình giải quyết
tranh chấp lao động”. Hoặc tại Điều lệ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam đã xác định chức năng nhiệm vụ của nó là: “Đại diện để thúc đẩy và bảo vệ
quyền lợi hợp pháp, chính đáng của cộng đồng doanh nghiệp và người sử dụng
lao động ở Việt Nam trong các quan hệ trong nước và quốc tế” và “Tiến hành
các hoạt động cần thiết để bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của doanh
nghiệp và người sử dụng lao động trong các quan hệ kinh doanh trong nước và
quốc tế”.
Như vậy, việc bảo vệ quyền lợi của các thành viên không chỉ dừng lại ở
các nội dung tham gia ý kiến với nhà nước về các vấn đề có liên quan đến quan
hệ lao động như Nghị định số 145/2004 đã quy định.
Một trong những cách tiếp cận mang tính rộng rãi về vai trò “bảo vệ” của
tổ chức đại diện người sử dụng lao động là họ, đại diện người sử dụng lao động
không chỉ “bảo vệ” các thành viên của mình hoặc đơn giản là bảo vệ các thành
viên bằng mọi giá. Các quyền lợi được bảo vệ phải chứa đựng yếu tố hợp pháp,
chính đáng. Như vậy, đồng thời với tính hợp pháp, chính đáng của đối tượng
được bảo vệ là tính liên hệ với quyền lợi của các chủ thể liên quan. Điều đó đòi
hỏi sự bảo vệ phải được đặt trong một tổng thể có mối liên hệ với nhau, thậm chí
chi phối nhau. Người sử dụng lao động không thể vì quyền lợi cục bộ, bản vị
của mình mà dồn người lao động vào hoàn cảnh không lối thoát. Hơn nữa, nếu
tất cả hoặc phần lớn người lao động ở trong hoàn cảnh đó thì sự bảo vệ của
người sử dụng lao động lại trở thành vũ khí huỷ diệt những quyền lợi thiết thân
của chính họ.
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
26
2.2 Vai trò liên kết của tổ chức đại diện người sử dụng lao động.
Sự liên kết chính là một trong những nhu cầu của những người sử dụng
lao động. Từ sự liên kết đó, người sử dụng lao động sẽ có thêm sức mạnh thông
qua sự tập hợp số lượng, trí tuệ và các yếu tố khác.
Sự liên kết của tổ chức đại diện người sử dụng lao động được thực hiện ở
cả hai phương diện cơ bản:
- Một là, thực hiện sự liên kết bên trong. Sự liên kết này được tiến hành
và duy trì, phát triển giữa các thành viên sử dụng lao động. Kiểu liên kết này tạo
nên nội lực và bản sắc riêng của tổ chức đại diện người sử dụng lao động.
Theo quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế, việc liên kết phải bảo
đảm nguyên tắc tự do, tự nguyện trong việc thể hiện quan điểm, chính kiến. Tổ
chức đại diện người sử dụng lao động có quyền tự tổ chức, tập hợp, bảo vệ các
tài sản của tổ chức. Quyền tự do liên kết có cội nguồn từ quyền tự do và an toàn
của con người. Vì vậy, tất cả sự độc đoán, khống chế hoặc xâm hại với mục đích
hạn chế quyền tự do liên kết cần phải được loại bỏ. Nhà nước cần đưa quyền tự
do liên kết vào trong pháp luật để mọi người tôn trọng và thực thi.
- Hai là: sự liên kết bên ngoài. Đó là việc tổ chức đại diện người sử dụng
lao động liên kết với các chủ thể khác, đặc biệt là các đối tác xã hội gần gũi
trong lĩnh vực lao động như Chính phủ và Công đoàn – tổ chức đại diện của
người lao động. Sự liên kết bên ngoài tạo cho tổ chức đại diện của người sử
dụng lao động những cơ hội tiếp cận các nguồn lực cũng như cơ hội giải quyết
các vấn đề trước mắt và lâu dài liên quan đến sự tồn tại và phát triển của toàn bộ
tổ chức cũng như của thành viên của nó. Sự liên kết này cũng phải dựa trên
những nguyên tắc tự do, tự nguyện, nhưng lại đòi hỏi tính hiệu quả và với những
hình thức khác nhau.
Tổ chức đại diện người sử dụng lao động có thể xây dựng mối quan hệ
với Công đoàn hoặc với nhà nước, hoặc với cả hai. Mối quan hệ hai bên giữa tổ
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
27
chức đại diện người sử dụng lao động và tổ chức đại diện của người lao động có
biểu hiện rõ nét nhất là cùng nhau xây dựng các thoả thuận khung hoặc thoả
thuận chi tiết về các vấn đề của mối quan hệ lao động, đặc biệt là các điều kiện
lao động. Sự liên kết đó còn được thể hiện ở việc cùng nhau tập hợp trong các
cơ cấu hai bên nhằm chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác giải quyết các vấn đề của mối
quan hệ lao động.
Sự liên kết cao nhất, có vai trò quan trọng nhất là việc tổ chức đại diện
người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người lao động và nhà nước kết hợp
trong cơ chế ba bên với những cơ cấu truyền thống hoặc những loại hình thích
hợp nhằm xúc tiến các hoạt động vì môi trường lao động văn minh, hiệu quả và
gìn giữ hoà bình công nghiệp trên cơ sở xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà,
ổn định.
Câu 13: Anh(Chị) cho biết Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam công bố chỉ số cạnh tranh năng lực cấp tỉnh (PCI) từ năm nào? Việc
công bố chỉ số PCI có vai trò gì đối với việc cải thiện môi trường kinh
doanh ở các địa phương hiện nay?
Trả lời: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh về môi trường kinh doanh ở
Việt Nam gọi tắt là PCI (Provincial Competitiveness Index) là chỉ số đánh giá và
xếp hạng chính quyền các tỉnh và thành phố trong việc xây dựng môi trường
kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp dân doanh. Chỉ số này tập trung đánh giá
về chất lượng điều hành của bộ máy chính quyền cấp tỉnh
PCI đã được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và dự
án Nâng cao Năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI) xây dựng và công bố từ
năm 2005 đến nay và đã nhận được sự quan tâm, ủng hộ của các doanh nghiệp,
nhà đầu tư, chính quyền địa phương, chính quyền Trung ương và cơ quan thông
tấn báo chí
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
28
PCI được xây dựng trên cơ sở đánh giá của các doanh nghiệp do vậy chỉ
số này sẽ phản ánh một cách khách quan và trung thực về môi trường đầu tư và
kinh doanh của địa phương.
PCI phản ánh được thực trạng điều hành kinh tế của chính quyền các tỉnh,
các điểm mạnh điểm yếu, cũng như xác định được chính quyền nào có chất
lượng điều hành kinh tế tốt và các doanh nghiệp hài lòng. Từ đó chính quyền
tỉnh sẽ nhận biết được môi trường kinh doanh của mình hiện đang còn những
yếu kém gì cần phải khắc phục để đáp ứng yều cầu của doanh nghiệp và tỉnh trở
nên cạnh tranh hơn so với các tỉnh thành khác của Việt Nam.
Câu 14: Anh(chị) hãy cho biết sự ra đời của Nghị quyết 09/NQ/TW
của Bộ Chính Trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân
Việt Nam ra đời trong bối cảnh nào? Nghị quyết có vai trò như thế nào
trong sự nghiệp phát triển của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân hiện
nay?
Trả lời: Đội ngũ doanh nhân là lực lượng có vai trò to lớn trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, việc tháo gỡ khó khăn, tạo môi
trường thuận lợi cho đội ngũ doanh nhân phát triển lớn mạnh sẽ góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, sự phát triển nhanh, bền vững, độc lập,
tự chủ của nền kinh tế. Trong bối cảnh khó khăn hiện nay, sự ra đời của Nghị
quyết 09-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ
doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế.
Trong lịch sử phát triển, sau sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư động
viên giới công thương tham gia xây dựng “một nền kinh tế và tài chính vững
vàng và thịnh vượng” cho đất nước; sự kiện giới doanh nhân có ngày kỷ niệm
riêng của mình thì sự kiện Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về
xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là nguồn động viên
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
29
lớn lao và kịp thời đối với giới doanh nhân. Đảng đã khẳng định vai trò của
doanh nghiệp, doanh nhân trong nền kinh tế và trong hệ thống chính trị, thống
nhất nhận thức về vai trò của doanh nhân, là sự động viên khích lệ cộng đồng
doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển, đóng góp vào sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.
Nghị quyết 09-NQ/TW là bước đột phá về mặt nhận thức, khẳng định, tôn
vinh và thúc đẩy vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam trong công
cuộc phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đề ra các giải pháp xây
dựng và phát triển đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam trong tình hình mới.
Nghị quyết đã nhấn mạnh những yêu cầu đối với đội ngũ doanh nhân mới,
có thể coi đó là sứ mệnh của doanh nhân trong thời đại hiện nay. Đó phải là đội
ngũ doanh nhân có tinh thần dân tộc, có trách nhiệm xã hội, có văn hóa kinh
doanh và có năng lực cạnh tranh cao.
Nghị quyết 09-NQ/TW ra đời thực sự đã khơi dậy trạng thái phấn khởi,
lạc quan của giới doanh nhân; bất chấp những khó khăn chung mà họ đang đối
mặt. Nổi bật trong Nghị quyết là quan điểm tạo môi trường sản xuất, kinh doanh
bình đẳng và thuận lợi cho doanh nhân. Một trong những mục tiêu quan trọng
của Nghị quyết đó là xác định “Công khai, minh bạch các định hướng, quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chính sách hỗ trợ để định hướng cho doanh
nhân, doanh nghiệp đầu tư theo quy hoạch, kế hoạch phát triển và bảo đảm
quyền lợi đầu tư, giảm rủi ro kinh doanh cho doanh nhân. Tạo điều kiện để các
doanh nghiệp tư nhân tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, nhất là trong
việc thực hiện các dự án, công trình...”. Mục tiêu này đáp ứng mong muốn lớn
nhất hiện nay của doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam, và yêu cầu của nền kinh
tế là liên tục phát triển nâng tầm doanh nghiệp để đóng góp ngày càng nhiều cho
sự phát triển chung của đất nước.
Cùng với mục tiêu lớn đó, Nghị quyết 09 đã đề ra nhiệm vụ thúc đẩy hình
thành các doanh nghiệp lớn, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao, đồng thời khẳng
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
30
định tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, xóa bỏ đặc quyền và
độc quyền kinh doanh. Nghị quyết khẳng định tạo điều kiện để các doanh
nghiệp tư nhân tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, nhất là trong việc
thực hiện các dự án, công trình theo hình thức hợp tác công - tư. Khuyến khích
tư nhân góp vốn vào các doanh nghiệp Nhà nước. Thúc đẩy hình thành các
doanh nghiệp lớn, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao. Trong Nghị quyết cũng
khẳng định sẽ xây dựng và thực hiện tốt cơ chế đối thoại, tham vấn ý kiến của
doanh nhân trong quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, phát triển kinh tế vùng và địa
phương.
Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ chính trị đã xác định rõ vị trí, vai trò
của đội ngũ doanh nhân và mối liên kết, hợp tác, đoàn kết với công nhân, nông
dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với quan điểm chỉ đạo, mục
tiêu rõ ràng và 7 điểm phương hướng nhiệm vụ cụ thể, chi tiết cùng các biện
pháp chỉ đạo tổ chức thực hiện đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở của Nghị quyết
09 sẽ nhanh chóng xây dựng được đội ngũ doanh nhân, Doanh nghiệp Việt Nam
ngày càng lớn mạnh, trưởng thành về mọi mặt tạo được những Doanh nghiệp có
thương hiệu đạt tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Sự ra đời của Nghị quyết 09-NQ/TW đã là thông điệp chính trị xác lập rõ
vị thế của doanh nhân là lực lượng quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và trong khối đại đoàn kết dân tộc bên cạnh giai cấp công nhân,
nông dân và đội ngũ trí thức. Điều này khiến giới doanh nhân thấy ấm lòng, xóa
bỏ đi những mặc cảm. Với Nghị quyết này, các doanh nhân yên tâm hơn để dấn
thân vào sự nghiệp kinh doanh, làm giàu cho mình và cho đất nước, cũng như
tham gia vào đời sống chính trị… Nhiều doanh nhân đã xem Nghị quyết như
“luồng gió mới”.
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
31
Câu 15: Bạn hãy viết những cảm nhận của mình về VCCI và đề xuất
những sáng kiến nhằm giúp VCCI thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ.
Nhìn lại, tôi cũng đã gắn bó với VCCI gần 7 năm rồi. Một khoảng thời
gian không quá dài cũng không quá ngắn, nhưng đủ để tôi thấy may mắn và tự
hào vì đã và đang là một thành viên của gia đình VCCI.
Tôi còn nhớ những ngày đầu đến VCCI, điều tôi lo lắng nhất là sợ mình
không hòa nhập được với môi trường làm việc mới lạ. Nhưng khi vào VCCI, tôi
đã nhanh chóng vượt qua quãng thời gian đầu bỡ ngỡ để làm tốt các công việc ở
vị trí của mình nhờ có sự giúp đỡ tận tình, chân thành của các anh chị đồng
nghiệp.
Trong 7 năm làm việc tại VCCI, cùng với sự phát triển của bản thân, tôi
cũng được chứng kiến rất nhiều sự đổi thay, cứ từng chút, từng chút một, từng
viên gạch được xây lên, từng thành công tiến tới đã làm nên một VCCI ngày
càng chuyên nghiệp và vững mạnh.
Điều tôi yêu thích nhất trong khoảng thời gian làm việc ở đây chính là
môi trường làm việc năng động, thân thiện và vui vẻ. Sợi dây gắn bó tôi ở lại
VCCI chính là định hướng phát triển, sự đam mê và tâm huyết trong chuyên
môn của ban lãnh đạo; là sự đồng tâm đồng lòng của tập thể cán bộ công nhân
viên vì sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và vì trách nhiệm
của lớp nhà quản trị, nhà kinh tế học trẻ đối với tổ quốc, với xã hội…
Chúng ta may mắn được thừa hưởng truyền thống, nề nếp tốt đẹp của các
bậc đàn anh đi trước. Đến bây giờ chúng ta vẫn nhận được tình cảm và sự quan
tâm của các bác, cô chú, anh chị đã nghỉ hưu. Bóng dáng họ vẫn luôn hiển hiện,
không phải chỉ trong suy nghĩ mà cả trong công việc hàng ngày. Chúng ta cũng
may mắn vì các đồng chí lãnh đạo hiện nay vẫn kế thừa và phát huy được tinh
thần xây dựng cơ quan, đơn vị của các thế hệ lãnh đạo trước. Chúng ta đã và
đang khẳng định được vị thế của VCCI, nhận được sự tôn trọng và tình cảm
Tìm hiểu 50 năm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
32
chân thành của các cơ quan ban ngành bạn, nhận được sự tin tưởng của cộng
đồng doanh nghiệp Việt Nam.
Có thể một số bạn (những bạn đồng nghiệp đến sau tôi, những bạn đồng
nghiệp chỉ có duyên với VCCI trong 1 thời gian rất ngắn và những người bạn
đồng nghiệp sau này sẽ đến, sẽ làm việc và gắn bó với VCCI …) các bạn sẽ
chưa hiểu hết những điều tôi chia sẻ, nhưng tôi tin, nếu bạn đã gắn bó với VCCI
trong thời gian đủ dài, chúng ta sẽ có cùng chung cảm nhận. Với tôi, VCCI
không chỉ là nơi làm việc mà còn là nơi cho tôi trải nghiệm tình đồng nghiệp, sự
đoàn kết, lòng say mê, tận tâm trong công việc và cách học hỏi để phát triển bản
thân lên những tầm cao mới; là nơi tôi học được cách sống và cách làm cho cuộc
sống và công việc ngày càng nhiều ý nghĩa.