dỰ Án phÁt triỂn lẬp phÁp quỐc gia (nld)nldvietnam.org/files/uploads/files/tong hop...
TRANSCRIPT
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
1
Giới thiệu tổng quan quy định của pháp luật Việt Nam về nguyên tắc
áp dụng và hiệu lực thi hành văn bản quy phạm pháp luật
Ts Vũ Đức Long
Hiệu lực và nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật
Trong thực tế, để sử dụng các văn bản quy phạm pháp luật, chúng ta
cần phải xác định rõ hiệu lực của chúng. Hiệu lực của văn bản quy phạm
pháp luật là giá trị tác động của văn bản quy phạm pháp luật lên các quan
hệ xã hội được xác định trong phạm vi thời gian (khi nào), không gian (ở
đâu) và đối tượng tác động nhất định (đối với ai). Trong đó, hiệu lực về
không gian của văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu được xác định theo cơ
quan ban hành văn bản; hiệu lực về đối tượng phụ thuộc vào nội dung của
các quy phạm được đưa ra nhằm điều chỉnh hành vi của chủ thể nào; hiệu
lực về thời gian tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội… mà
trong đó các quy phạm pháp luật tồn tại và phát huy tác dụng.
1. Các nguyên tắc liên quan đến hiệu lực của văn bản
Khi nói đến hiệu lực của văn bản, người ta thường nói đến hiệu lực
về không gian, về thời gian (thời điểm bắt đầu có hiệu lực của văn bản và
thời điểm chấm dứt hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật), hiệu lực về
đối tượng áp dụng; hiệu lực về thứ bậc giá trị pháp lý của văn bản.
1.1. Hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng của văn bản quy
phạm pháp luật
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
2
Hiệu lực về không gian của văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là
giá trị tác động của văn bản được xác định trong phạm vi lãnh thổ, vùng
hay khu vực nhất định. Có thể xác định hiệu lực về không gian theo các
quy định trong chính văn bản quy phạm pháp luật nếu trong văn bản có
điều khoản ghi rõ không gian của nó. Còn nếu trong văn bản không có điều
khoản nào quy định rõ điều này thì dựa vào thẩm quyền ban hành văn bản,
dựa vào nội dung văn bản hoặc xác định dựa vào quy định của văn bản
khác. Nhìn chung, với những văn bản do các cơ quan nhà nước ở trung
ương ban hành, nếu trong văn bản không xác định rõ giới hạn hiệu lực về
không gian thì mặc nhiên chúng có hiệu lực trên toàn lãnh thổ quốc gia.
Đối với các văn bản của chính quyền địa phương, văn bản quy phạm pháp
luật của các cơ quan này với tính chất là sản phẩm của hoạt động quản lý
có hiệu lực trong lãnh thổ địa phương thuộc thẩm quyền quản lý của cơ
quan tương ứng.
1.1.1. Hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng của văn bản quy
phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương
Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật về không gian là giới hạn
phạm vi lãnh thổ mà văn bản có hiệu lực.
Theo quy định tại Điều 82 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2008 (Luật năm 2008) thì văn bản quy phạm pháp luật của các cơ
quan nhà nước trung ương có hiệu lực trong phạm vi cả nước và được áp
dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, trừ trường hợp văn bản có quy
định khác hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên có quy định khác.
Như vậy, nhìn chung, văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan
trung ương về nguyên tắc có hiệu lực trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
3
trừ trường hợp văn bản bị giới hạn bởi nhu cầu điều chỉnh pháp luật không
phải đối với toàn bộ, mà chỉ một phần lãnh thổ.
1.1.2. Hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng của văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp
a) Hiệu lực về không gian
Theo Điều 5 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân (Luật năm 2004) thì: “Văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân phải quy định hiệu lực
về thời gian, không gian và đối tượng áp dụng”, theo đó, để cụ thể hóa điều
này, Điều 49 của Luật này đã quy định rõ hiệu lực về không gian, đối
tượng áp dụng của văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân:
“1. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân của đơn vị hành chính nào thì có hiệu lực trong phạm vi đơn vị
hành chính đó.
2. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân có hiệu lực trong phạm vi nhất định của địa
phương thì phải được xác định ngay trong văn bản đó.
3. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân có hiệu lực áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tham
gia các quan hệ xã hội được văn bản quy phạm pháp luật đó điều chỉnh”.
Nếu như các cơ quan nhà nước trung ương được thiết lập ở tầm quốc
gia thì các cơ quan chính quyền địa phương lại được tổ chức ở các đơn vị
hành chính - lãnh thổ. Thẩm quyền và phạm vi quản lý của Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ giới hạn trong khuôn khổ một địa bàn
lãnh thổ nhất định. Vì vậy, văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
4
này với tính chất là sản phẩm của hoạt động quản lý có hiệu lực trong lãnh
thổ địa phương thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan tương ứng. Tiêu chí
để xác định hiệu lực về không gian của văn bản là phạm vi lãnh thổ mà Hội
đồng nhân dân hoặc Uỷ ban nhân dân được giao quản lý. Do đó, “văn bản
quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có hiệu lực
trong phạm vi địa phương" (khoản 2 Điều 79 của Luật năm 2004) thì
“phạm vi địa phương" ở đây phải được hiểu là đơn vị hành chính lãnh thổ
thuộc thẩm quyền quản lý của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban
hành văn bản.
Bên cạnh đó, do địa giới hành chính của các địa phương nhiều khi bị
điều chỉnh như: chia tách, sáp nhập toàn bộ hoặc một phần lãnh thổ, nên
hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân trong trường hợp bị điều chỉnh địa giới hành chính cũng bị ảnh
hưởng . Theo đó, Điều 50 của Luật năm 2004 đã quy định vấn đề hiệu lực
của văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
ban hành trong trường hợp điều chỉnh địa giới hành chính (liên quan đến
hiệu lực về không gian) như sau:
- Trường hợp chia tách đơn vị hành chính lãnh thổ:
Trong trường hợp một đơn vị hành chính được chia thành các đơn vị
hành chính mới thì văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân của đơn vị hành chính được chia có hiệu lực đối với các đơn
vị hành chính mới cho đến khi Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân của
đơn vị hành chính mới ban hành văn bản quy phạm pháp luật thay thế.
Ví dụ: Huyện A được tách thành hai huyện E và F thì văn bản của
huyện A có hiệu lực cho đến khi Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
huyện E và F ban hành văn bản mới thay thế.
- Trường hợp sáp nhập đơn vị hành chính lãnh thổ:
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
5
Trong trường hợp nhiều đơn vị hành chính được sáp nhập thành một
đơn vị hành chính mới thì văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân của đơn vị hành chính được sáp nhập có hiệu lực đối
với đơn vị hành chính đó cho đến khi Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
của đơn vị hành chính mới ban hành văn bản quy phạm pháp luật thay thế.
Ví dụ: Xã A, xã B và xã C được sáp nhập thành xã D thì văn bản của
các xã A, B và C vẫn còn có hiệu lực cho đến khi Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân xã D ban hành văn bản mới thay thế.
- Trường hợp sáp nhập một phần đơn vị hành chính lãnh thổ:
Trong trường hợp một phần địa phận và dân cư của đơn vị hành
chính này được sáp nhập về một đơn vị hành chính khác thì văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân của đơn vị hành
chính được mở rộng có hiệu lực đối với phần địa phận và bộ phận dân cư
được sáp nhập.
Ví dụ: Xã A thuộc huyện B được sáp nhập vào xã C thuộc huyện D
thì văn bản của các xã C có hiệu lực đối với dân cư của xã A. Hoặc ví dụ
khác: Thôn K thuộc xã M được sáp nhập vào xã N thì văn bản của xã N có
hiệu lực đối với dân cư thôn K của xã M.
b) Hiệu lực về đối tượng áp dụng
Hiệu lực về đối tượng áp dụng liên quan mật thiết đến hiệu lực theo
lãnh thổ của văn bản quy phạm pháp luật. Tương ứng với mỗi chủ thể quản
lý có một nhóm đối tượng chịu quản lý. Nhìn chung, đối tượng áp dụng văn
bản quy phạm pháp luật là những cá nhân, tổ chức. Bên cạnh các cá nhân,
tổ chức nêu trên, còn có những đối tượng chịu sự quản lý của một địa
phương, song lại đang ở trên một địa bàn thuộc quyền quản lý của một địa
phương khác. Kết hợp giữa nguyên tắc xác định hiệu lực theo không gian
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
6
và theo đối tượng áp dụng, có thể kết luận rằng những đối tượng nêu trên
phải tuân thủ văn bản của hai loại cơ quan: Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân nơi họ đang ở và Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có quyền
quản lý trực tiếp, thường xuyên đối với họ. Hay nói một cách khác, văn bản
quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân có thể có
hiệu lực đối với đối tượng thuộc quyền quản lý của mình đóng ở một địa
phương khác. Chẳng hạn như, cá nhân, tổ chức mặc dù không cư trú, song
khi đang ở một địa bàn lãnh thổ nào thì phải chấp hành các quy định về bảo
đảm trật tự an toàn giao thông hay quy định về phí, lệ phí của Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân quản lý địa bàn đó.
Đối với các luật thì đối tượng áp dụng sẽ rộng hơn so với văn bản
của chính quyền địa phương. Ví dụ: Luật điện lực quy định tại Điều 2 về
đối tượng áp dụng như sau: “Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân
hoạt động điện lực, sử dụng điện hoặc có các hoạt động khác liên quan đến
điện lực tại Việt Nam”. Như vậy, Luật nhằm tới đối tượng điều chỉnh là tổ
chức, cá nhân trong phạm vi toàn quốc, trong khi đó, văn bản của địa
phương thì đối tượng áp dụng chủ yếu là người dân địa phương hoặc tổ
chức, cá nhân trú tại địa phương (sống hoặc làm việc tại địa phương). Do
đó, đối tượng áp dụng của văn bản do cấp xã ban hành thường ít hơn so với
đối tượng áp dụng văn bản do cấp tỉnh ban hành.
1.2. Hiệu lực về thời gian
Hiệu lực về thời gian thể hiện ở thời điểm bắt đầu có hiệu lực và thời
điểm chấm dứt hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật. Về vấn đề này,
các Luật ban hành văn bản ở mỗi thời kỳ có những quy định khác nhau. Cụ
thể:
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
7
Loại VB
Giai đoạn
01/01/1997 -
27/12/2002
(Luật BHVBQPPL
1996)
27/12/2002 -
01/01/2009
(Luật BHVBQPPL
2002)
01/01/2009 – nay
(Luật BHVBQPPL
2008)
Do QH và
UBTVQH
ban hành
Có hiệu lực kể từ
ngày Chủ tịch nước
ký lệnh công bố, trừ
trường hợp văn bản
đó quy định ngày có
hiệu lực khác.
Có hiệu lực kể từ
ngày Chủ tịch nước
ký lệnh công bố, trừ
trường hợp văn bản
đó quy định ngày có
hiệu lực khác.
- Được quy định
trong văn bản nhưng
không sớm hơn bốn
mươi lăm ngày, kể
từ ngày công bố
hoặc ký ban hành.
- Văn bản quy phạm
pháp luật phải được
đăng Công báo; văn
bản quy phạm pháp
luật không đăng
Công báo thì không
có hiệu lực thi hành.
Do CTN
ban hành
Có hiệu lực kể từ
ngày đăng Công
báo, trừ trường hợp
văn bản đó quy định
ngày có hiệu lực
khác.
Có hiệu lực kể từ
ngày đăng Công
báo, trừ trường hợp
văn bản đó quy định
ngày có hiệu lực
khác.
Các vb còn
lại
Có hiệu lực sau
mười lăm ngày, kể
từ ngày ký văn bản
hoặc có hiệu lực
muộn hơn nếu được
quy định tại văn bản
đó.
Có hiệu lực sau
mười lăm ngày, kể
từ ngày đăng Công
báo hoặc có hiệu
lực muộn hơn nếu
được quy định tại
văn bản đó.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
8
VB đặc
biệt
Văn bản được ban
hành quy định các
biện pháp thi hành
trong trương hợp
khẩn cấp tạm thời
do Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ
ban hành có thể có
hiệu lực sớm hơn
hơn 15 ngày kể từ
ngày ký văn bản.
Đối với văn bản
quy phạm pháp luật
của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ
quy định các biện
pháp thi hành trong
tình trạng khẩn cấp,
thì văn bản có thể
quy định ngày có
hiệu lực sớm hơn so
với các văn bản
thường.
- Văn bản quy phạm
pháp luật quy định
các biện pháp thi
hành trong tình trạng
khẩn cấp có thể có
hiệu lực trước khi
đăng Công báo.
- Văn bản có nội
dung thuộc bí thộc bí
mật nhà nước không
cần đăng Công báo
vẫn có hiệu lực.
Luật ban hành văn bản QPPL của Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân (01/04/2005 – nay)
VB của
HĐND và
UBND
VBQPPL cấp tỉnh có hiệu lực sau mười ngày và phải được
đăng trên báo cấp tỉnh chậm nhất là năm ngày, kể từ ngày
HĐND thông qua hoặc Chủ tịch UBND ký ban hành, trừ
trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.
VB quy định các biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề phát
sinh đột xuất, khẩn cấp có thể quy định ngày có hiệu lực sớm
hơn.
VBQPPL cấp huyện có hiệu lực sau mười ngày và phải
được đăng trên báo cấp tỉnh chậm nhất là năm ngày, kể từ ngày
HĐND thông qua hoặc Chủ tịch UBND ký ban hành, trừ
trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
9
Không quy định hiệu lực trở về trước đối với VBQPPL của
HĐND và UBND
VBQPPL cấp xã có hiệu lực sau mười ngày và phải được
đăng trên báo cấp tỉnh chậm nhất là năm ngày, kể từ ngày
HĐND thông qua hoặc Chủ tịch UBND ký ban hành, trừ
trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.
1.2.1. Về thời điểm (bắt đầu) có hiệu lực của văn bản quy phạm
pháp luật
Về lý thuyết thì hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật có thể có
hiệu lực ngay từ khi được ký ban hành vì ngay từ khi xây dựng văn bản,
các quy định đã được nghiên cứu, xây dựng trên cơ sở các thông tin của đời
sống xã hội, yêu cầu quản lý nhà nước, dự báo tác động của tình hình xã
hội trong thời gian tới. Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm pháp luật phải
được công khai, phải được phổ biến rộng rãi đến người dân để tất cả các cá
nhân, tổ chức biết về nội dung văn bản trước khi văn bản có hiệu lực và
không ai có thể phải chịu các chế tài của văn bản một khi văn bản đó chưa
được công khai rộng rãi. Mặt khác, việc quy định thời điểm có hiệu lực của
văn bản phải tính đến quá trình chuẩn bị tốt các điều kiện để tổ chức thi
hành văn bản cũng như thông tin đến mọi đối tượng có liên quan đến việc
thi hành văn bản đó, cụ thể:
- Có một khoảng thời gian để công bố rộng rãi, tuyên truyền, phổ
biến đến các đối tượng thi hành và tới các đối tượng rộng hơn. Người có
trách nhiệm thi hành văn bản không thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ
được quy định trong văn bản nếu họ không biết được nội dung các quy
định đó.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
10
- Cần có thời gian để các chủ thể chuẩn bị cho việc triển khai văn
bản và để các cơ quan cấp dưới có thời gian chuẩn bị, ban hành văn bản
quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, ví dụ: để bỏ
chế độ luật sư kiêm nhiệm thì phải có thời gian để xây dựng đội ngũ luật sư
chuyên trách.
- Có thời gian để chuẩn bị cho việc đưa văn bản vào cuộc sống.
a) Về thời điểm (bắt đầu) có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan nhà nước ở trung ương
Điều 78 của Luật năm 2008 quy định thời điểm có hiệu lực của văn
bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương như sau:
“1. Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy
định trong văn bản nhưng không sớm hơn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày
công bố hoặc ký ban hành.
Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật quy định các biện pháp thi
hành trong tình trạng khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời đáp ứng
yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh thì có thể có hiệu lực kể từ ngày
công bố hoặc ký ban hành nhưng phải được đăng ngay trên Trang thông tin
điện tử của cơ quan ban hành và phải được đưa tin trên phương tiện thông
tin đại chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(sau đây gọi chung là Công báo) chậm nhất sau hai ngày làm việc, kể từ
ngày công bố hoặc ký ban hành.
2. Văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo; văn bản
quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành.”
Theo quy định này, thời điểm bắt đầu có hiệu lực của văn bản quy
phạm pháp luật phải được cơ quan ban hành văn bản xác định rõ ngay
trong văn bản và phải bảo đảm nguyên tắc “không được sớm hơn bốn mươi
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
11
lăm ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành1” nhằm bảo đảm tính công
khai, minh bạch trước khi văn bản có hiệu lực. Quy định này nhằm khắc
phục quy định về thời điểm có hiệu lực của văn bản xác định theo thời
điểm đăng Công báo “sau mười lăm ngày kể từ ngày đăng Công báo” tại
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002 đã gây rất nhiều khó
khăn cho việc xác định thời điểm văn bản có hiệu lực. Bởi lẽ, không phải
ai cũng có sẵn tờ Công báo hoặc nếu có, lại phải một lần nữa xác định
ngày có hiệu lực của văn bản. Mặt khác, việc xác định sau 15 ngày kể từ
ngày đăng Công báo cũng có thể dẫn tới việc xác định thời điểm có hiệu
lực khác nhau, trong trường hợp này có thể xảy ra hai tình huống: một là
việc xác định 15 ngày thì ngày bắt đầu tính là ngày kế tiếp ngày Công báo
được đăng; hai là việc xác định được bắt đầu tính nay từ ngay Công báo
đăng, từ cách hiểu đó dẫn đến việc “vênh” nhau về thời điểm có hiệu lực
của văn bản. Đó là chưa kể đến việc nếu văn bản được in trong các sách
hoặc tạp chí nào đó không phải là tờ Công báo lần đầu tiên đăng tải văn
bản đó thì người đọc sẽ khó mà biết được hiệu lực của văn bản được tính
từ ngày, tháng, năm nào.
Mặt khác, quy định về thời điểm có hiệu lực của Luật năm 2008 đã
phần nào khắc phục được các hạn chế về việc xác định thời điểm có hiệu lực
1 Tuy nhiên, đối với quy định này, trên thực tế, qua kết quả khảo sát tại một số Bộ, ngành và địa
phương thì nhiều ý kiến cho rằng: Điều 78 Luật BH VBQPPL năm 2008 quy định về thời điểm có hiệu
lực của VBQPPL tối thiểu là 45 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành. Việc quy định cụ thể thời hạn
tối thiểu này đôi khi cũng gây ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện của các bộ ngành.
Kết quả phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm cho thấy có nhiều ý kiến cho rằng nên xem xét, rút ngắn thời
điểm có hiệu lực đối với một số các văn bản, ví dụ những trong ngành tài chính như thuế xuất nhập khẩu,
giá hay như những văn bản cần xây dựng hàng năm như hạn ngạch thuế quan, hiệp định…. Kết quả thu
được từ bảng hỏi cũng cho thấy tỷ lệ ít hơn cán bộ soạn thảo VBQPPL cho rằng nên quy định cứng thời
hạn tối thiểu có hiệu lực của VBQPPL so với ý kiến cho rằng chỉ nên quy định chung chung hoặc không
quy định cứng thời hạn tối thiểu có hiệu lực VBQPPL (tỷ lệ lần lượt là 40% và 57%) - theo Báo cáo kết
quả khảo sát 2 Luật BHVBQPPL của DEPOCEN.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
12
theo quy định tại Điều 75 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2002:
"1. Luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội có hiệu lực kể từ ngày Chủ tịch nước ký lệnh công bố, trừ
trường hợp văn bản đó quy định ngày có hiệu lực khác.
2. Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước có hiệu lực kể từ
ngày đăng Công báo, trừ trường hợp văn bản đó quy định ngày có hiệu lực
khác.
3. Văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao và các văn bản quy phạm pháp luật liên tịch có hiệu lực
sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo hoặc có hiệu lực muộn hơn
nếu được quy định tại văn bản đó. Đối với văn bản quy phạm pháp luật của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định các biện pháp thi hành trong tình
trạng khẩn cấp, thì văn bản có thể quy định ngày có hiệu lực sớm hơn.''
Quy định tại Điều 75 của Luật tạo ra cách hiểu luật, pháp lệnh về
nguyên tắc có hiệu lực kể từ ngày Chủ tịch nước công bố, các văn bản quy
phạm pháp luật còn lại của cơ quan nhà nước ở Trung ương có hiệu lực sau
15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Điều này, vô hình chung hạn chế về
thời gian để các cơ quan có thẩm quyền triển khai thực hiện tốt văn bản
như tuyên truyền phổ biến, chuẩn bị các điều kiên bảo đảm khác, xây dựng
các văn bản quy định chi tiết; người dân có cơ hội cập nhật với văn bản
trước khi văn bản có hiệu lực. Hạn chế này đã được Luật năm 2008 khắc
phục bằng cách quy định xác định ngày có hiệu lực ngay trong văn bản và
không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành. Đồng thời
quy định văn bản chỉ có hiệu lực khi đã đăng Công báo, và cần dành một
khoảng thời gian thích đáng để tuyên truyền, phổ biến nội dung của văn
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
13
bản đến đối tượng thi hành hoặc để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho
việc tổ chức thực hiện văn bản đó... Trong trường hợp văn bản cần phải có
hiệu lực sớm, thì quy định phải đăng Công báo ngay đối với loại văn bản
này. Trên thực tế, đối với luật, pháp lệnh thời điểm có hiệu lực thường quy
định dài hơn so với mốc 45 ngày theo quy định của Luật nhằm có thời gian
chuẩn bị cho các điều kiện triển khai thi hành2.
Bên cạnh đó, Luật năm 2008 cũng dự liệu trường hợp ngoại lệ trong
việc xác định thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được
ban hành trong trường hợp khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời
đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh thì “có thể có hiệu lực kể
từ ngày công bố hoặc ký ban hành”, nhưng phải bảo đảm “được đăng ngay
trên Trang thông tin điện tử của cơ quan ban hành và phải được đưa tin
trên phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (sau đây gọi chung là Công báo) chậm nhất sau hai
ngày làm việc, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành”.
2 Về thời điểm có hiệu lực của văn bản, một số ý kiến của chuyên gia cho rằng cần tiếp tục đổi
mới cách thiết kế thời điểm có hiệu lực của văn bản QPPL: Việc thiết kế thời điểm có hiệu lực của văn
bản QPPL hiện nay còn khá cứng nhắc và máy móc. Thông thường, với các đạo luật, thời điểm có hiệu
lực so với thời điểm thông qua tuy đã có khoảng thời gian tương đối dài (khoảng 7-8 tháng), nhưng nhiều
đạo luật vẫn rơi vào tình trạng đạo luật có hiệu lực rồi nhưng các văn bản hướng dẫn vẫn chưa kịp thời
ban hành. Đối với các văn bản dưới luật, pháp lệnh, thời điểm phát sinh hiệu lực thường khá ngắn so với
thời điểm ban hành. Thêm vào đó, điều đáng nói nữa là thời điểm có hiệu lực của các quy định trong cùng
văn bản thường được quy định đồng nhất nhau. Điều này trên thực tế đã không tạo điều kiện thuận lợi cho
các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp có những điều chỉnh cần thiết để thay đổi hành vi.
Chúng tôi cho rằng, tới đây, khi quy định về thời điểm có hiệu lực của văn bản QPPL, Luật Ban hành văn
bản QPPL cần có quy định linh hoạt hơn về khoảng cách giữa thời điểm phát sinh hiệu lực với thời điểm
ban hành, rất nên cho phép quy định trong một văn bản QPPL có thể có những bộ phận hoặc quy định
khác nhau thì có thời điểm phát sinh hiệu lực khác nhau. Có như thế, yêu cầu đảm bảo tính khả thi của
văn bản QPPL sẽ tốt hơn - TS. Nguyễn Văn Cương – Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp: Một số giải pháp tăng cường tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
14
Một nguyên tắc cần lưu ý là việc đăng Công báo văn bản quy phạm
pháp luật là điều kiện bắt buộc để văn bản phát sinh hiệu lực. Theo đó,
Điều 78 của Luật năm 2008 quy định “văn bản quy phạm pháp luật không
đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành”. Nguyên tắc này bắt buộc
đối với ngay cả trường hợp văn bản quy phạm pháp luật phát sinh hiệu lực
ngay từ ngày công bố hoặc ký ban hành được ban hành trong trường hợp
khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng, chống
thiên tai, dịch bệnh.
Điều 79 của Luật năm 2008 quy định hiệu lực trở về trước của văn
bản quy phạm pháp luật, theo đó, nguyên tắc xác định hiệu lực trở về trước
của văn bản quy phạm pháp luật được quy định như sau:
“1. Chỉ trong những trường hợp thật cần thiết, văn bản quy phạm
pháp luật mới được quy định hiệu lực trở về trước.
2. Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp
sau đây:
a) Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời
điểm thực hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý;
b) Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn”.
Khái niệm “trường hợp cần thiết” là một khái niệm rất trừu tượng,
rất khó định lượng. Quy định như khoản 1 Điều này dễ dẫn đến sự tuỳ tiện
vì không thể định nghĩa được thế nào là “trường hợp thật cần thiết’’, do đó,
có thể sẽ được lý giải theo chủ quan của cơ quan áp dụng văn bản.
Hơn nữa, trong quá trình thực hiện, do các quy định này còn quá
chung chung, dẫn đến cách hiểu khác nhau và theo đó cách thực hiện cũng
không thống nhất trên phạm vi cả nước. Cá biệt, có những trường hợp hầu
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
15
như không áp dụng được3, ví dụ: trong quá trình soạn thảo văn bản quy
phạm pháp luật thuộc Bộ Tài chính, nhiều văn bản được ban hành để thực
hiện một số cam kết quốc tế về thuế, chính sách hỗ trợ tài chính đã có quy
định thời điểm hiệu lực trước; văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tài
chính ban hành để triển khai việc thực hiện một số cam kết của Việt Nam
liên quan đến thuế, chính sách tài chính tại các Điều ước quốc tế đã ký kết,
gia nhập và đã có quy định rõ hiệu lực. Tại các Điều ước quốc tế ghi rõ thời
điểm phải thực hiện cam kết (ví dụ: trong thời gian qua Bộ Tài chính đã
ban hành các Quyết định về điều chỉnh thuế suất nhập khẩu đối với một số
mặt hàng để thực hiện theo lộ trình cắt giảm thuế suất nhập khẩu đối với
một số mặt hàng theo lộ trình cắt giảm thuế suất của Hiệp định thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ, điều chỉnh thuế suất đối với mặt hàng rượu để thực
hiện thỏa thuận giữa chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và Cộng đồng châu Âu về tiếp cận thị trường…, trình Chính phủ ban hành
các Nghị định điều chỉnh thuế suất CEPT theo lộ trình cam kết trong
ASEAN), nhiều trường hợp cần thiết phải áp dụng quy định hiệu lực trở về
trước của văn bản. Tuy nhiên, do chưa có quy định cụ thể và quy trình áp
dụng nên đã gặp một số vướng mắc trong quá trình đăng Công báo văn bản
quy phạm pháp luật.
b) Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
3 Theo kết quả khảo sát về Luật BHVBQPPL do DEPOCEN thực hiện thì việc quy định về hiệu
lực hồi tố chưa được thực hiện trên thực tế, số lượng văn bản quy định hiệu lực hồi tố cũng rất ít và phần
lớn cũng không thực hiện được. Do đó cần cân nhắc, xem xét những quy định những hiệu lực hồi tố có lợi
cho người dân và cách thức tổ chức cụ thể để đảm bảo tính khả thi của quy định.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
16
Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân được quy định tại Điều 51 của Luật năm
2004 như sau:
“1. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh có hiệu lực sau mười ngày và phải được đăng trên báo
cấp tỉnh chậm nhất là năm ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua
hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy
định ngày có hiệu lực muộn hơn.
Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân cấp huyện có hiệu lực sau bảy ngày và phải được niêm yết chậm nhất
là ba ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua hoặc Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực
muộn hơn.
Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân cấp xã có hiệu lực sau năm ngày và phải được niêm yết chậm nhất là
hai ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua hoặc Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực
muộn hơn.
Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân quy định
các biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh đột xuất, khẩn cấp quy
định tại Điều 47 của Luật này thì có thể quy định ngày có hiệu lực sớm
hơn”.
Cần bổ sung nội dung cách tính ngày có hiệu lực của 3 cấp và vấn đề
đăng báo, niêm yết là điều kiện bắt buộc để văn bản phát sinh hiệu lực.
“Ngày có hiệu lực sớm hơn”, theo quy định của Luật năm 2004 là
sớm hơn so với quy định chung, hay cụ thể hơn, thay vì sau 10, 7, 5 (lần
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
17
lượt đối với cấp tỉnh, huyện, xã) ngày kể từ ngày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
ký ban hành thì văn bản có thể có hiệu lực ngay sau khi ký.
Đối với việc áp dụng quy định về hiệu lực sớm hơn, văn bản được
áp dụng là quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã.
Điều cần lưu ý là chỉ văn bản do Uỷ ban nhân dân ban hành và trong
trường hợp để giải quyết các vấn đề phát sinh đột xuất, khẩn cấp trong
phòng, chống thiên tai, cháy, nổ, dịch bệnh, an ninh, trật tự.
Mặc dù có quy định của Điều 51 năm 2004 nhưng trong thực tiễn áp
dụng, vẫn có nhiều người hiểu rằng văn bản sẽ có hiệu lực ngay sau 10
ngày đối với văn bản của cấp tỉnh, sau 7 ngày đối với văn bản của cấp
huyện và sau 5 ngày đối với văn bản của cấp xã và ít chú ý tới quy định
“trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn”.
Điều cần được nhấn mạnh ở đây là văn bản quy phạm pháp luật của
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cần phải quy định rõ trong chính văn
bản thời điểm bắt đầu có hiệu lực của văn bản. ví dụ: thay vì quy định
“Quyết định này có hiệu lực sau 10 ngày kể từ ngày Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân ký ban hành" thì nên quy định “Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày
… tháng … năm…”. Ngoài ra, cũng cần chú ý quy định thời điểm khi có
sự cân nhắc về khoảng thời gian cần thiết để dành cho công tác tuyên
truyền, phổ biến nội dung của văn bản đến đối tượng thi hành hoặc để
chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc tổ chức thực hiện văn bản đó.
Với bất cứ một văn bản quy phạm pháp luật nào, nếu như người dân
không được biết vì không thể biết thì họ không có nghĩa vụ phải thi hành.
Đối với văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cũng vậy,
nếu như người dân không biết hoặc có biết mà không thể hiểu được thì văn
bản cũng chỉ nằm "trên giấy" mà thôi.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
18
Một trong những nguyên tắc cần được các cấp chính quyền địa
phương lưu ý là không quy định hiệu lực trở về trước của văn bản quy
phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành. Khoản
2 Điều 51 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân quy định rõ “không quy định hiệu lực trở về trước
đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân.” Như vậy, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân các cấp không thể có hiệu lực trước khi văn bản được ban
hành vì Luật đã quy định rõ nguyên tắc này. Văn bản sẽ chỉ có hiệu lực sau
khi được chủ thể có thẩm quyền ký ban hành.
1.3. Ngưng hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
1.3.1. Ngưng hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
trung ương
"Ngưng hiệu lực" là một thuật ngữ pháp lý còn tranh cãi: hiệu lực
của văn bản đã dừng hẳn hay chỉ là "tạm dừng", có khái niệm "tạm ngưng
hiệu lực" hay không? Tuy nhiên, theo ngôn từ và tinh thần của Điều 80 của
Luật năm 2008 thì ngưng hiệu lực được quy định ở đây chính là dừng hiệu
lực tạm thời của văn bản và trong các trường hợp sau:
- Văn bản quy phạm pháp luật bị đình chỉ việc thi hành thì ngưng
hiệu lực cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định huỷ bỏ
thì văn bản hết hiệu lực, nếu không huỷ bỏ thì văn bản tiếp tục có hiệu lực.
- Thời điểm ngưng hiệu lực, tiếp tục có hiệu lực của văn bản hoặc hết
hiệu lực của văn bản phải được quy định rõ tại quyết định đình chỉ việc thi
hành, quyết định xử lý văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
19
- Quyết định đình chỉ việc thi hành, quyết định xử lý văn bản quy
phạm pháp luật phải được đăng Công báo, đưa tin trên các phương tiện
thông tin đại chúng.
Như vây, một văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp
luật có thể bị tạm thời “ngưng hiệu lực” để xem xét tính hợp hiến, hợp
pháp, tính thống nhất của văn bản. Kể từ thời điểm nó bị tạm đình chỉ thi
hành cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan có thẩm quyền là khoảng
thời gian văn bản bị tạm ngưng hiệu lực. Văn bản đó có thể tiếp tục có hiệu
lực hay bị hủy bỏ là do quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
1.3.2. Ngưng hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân
Tương tự như việc ngưng hiệu lực của văn bản do cơ quan nhà nước
ở trung ương ban hành, Điều 52 của Luật năm 2004 quy định văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ngưng hiệu lực
trong các trường hợp sau:
- Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân bị đình chỉ thi hành thì ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định xử lý
của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền; trường hợp không bị hủy
bỏ, bãi bỏ thì văn bản tiếp tục có hiệu lực; trường hợp bị hủy bỏ, bãi bỏ thì
văn bản hết hiệu lực.
- Thời điểm ngưng hiệu lực, tiếp tục có hiệu lực hoặc hết hiệu lực
của văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định rõ tại văn bản đình chỉ
thi hành, văn bản xử lý của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền.
Tuy vậy, thời gian ngưng hiệu lực không dễ xác định trong trường
hợp văn bản không bị xử lý sau khi có quyết định tạm đình chỉ thi hành.
Trong trường hợp đã có văn bản đình chỉ thi hành, cơ quan có thẩm quyền
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
20
có trách nhiệm tuyên bố về "tình trạng hiệu lực" của văn bản sau khi đã
được kiểm tra, giám sát.
1.4. Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực
1.4.1. Những trường hợp văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan
nhà nước trung ương ban hành hết hiệu lực
Theo quy định tại Điều 81 của Luật năm 2008, văn bản quy phạm
pháp luật do các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành hết hiệu lực toàn
bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:
- Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản;
- Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản mới của chính
cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó;
- Bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Liên quan đến vấn đề này, theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật
năm 2008 thì “văn bản quy định chi tiết phải quy định cụ thể, không lặp lại
quy định của văn bản được quy định chi tiết và phải được ban hành để có
hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm
được quy định chi tiết”. Từ quy định tại Điều 8 và Điều 81 Luật năm 2008
có thể dẫn tới tình trạng trên thực tế có những văn bản không xác định còn
có hiệu lực hay đã hết hiệu lực đó là trường hợp các văn bản được quy định
chi tiết đã hết hiệu lực nhưng các văn bản quy định chi tiết lại chưa bị cơ
quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, hủy bỏ. Hoặc trưởng hợp văn bản
được quy định chi tiết đã có hiệu lực nhưng văn bản quy định chi tiết chưa
được ban hành dẫn tới trường hợp nhiều quy định không thể thực thi do
chưa có văn bản hướng dẫn. Qua thực tiễn công tác xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật trong thời gian qua cho thấy, việc các văn bản quy định chi
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
21
tiết để hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh luôn chậm, không đảm bảo có
hiệu lực cùng thời điểm với văn bản được quy định chi tiết4. Đây cũng là
một bất cập mà trong thời gian quan có rất nhiều ý kiến phản ánh.
Trước đây, theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật 2002 thì : "văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành của văn bản
hết hiệu lực thì cũng đồng thời hết hiệu lực cùng với văn bản đó, trừ trường
hợp được giữ lại toàn bộ hoặc một phần vì còn phù hợp với các quy định
của văn bản quy phạm pháp luật mới".
Quy định này được hiểu là khi văn bản gốc - văn bản được quy định
chi tiết, hướng dẫn thi hành- hết hiệu lực thì các văn bản quy định chi tiết,
4 Trong số 46 luật, pháp lệnh đã được Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua từ đầu
nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, tính đến nay, có 37 luật, pháp lệnh đã có hiệu lực thi hành và 09 luật, pháp
lệnh chuẩn bị có hiệu lực thi hành. Tính đến ngày 15/10/2013, kết quả quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành 46 luật, pháp lệnh như sau:
- Đối với 37 luật, pháp lệnh đã có hiệu lực:
+ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 73/131 văn bản (55,7%) quy định chi tiết, hướng
dẫn 85/154 nội dung được giao;
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đã ban hành 25/69 văn bản (36,2%) quy định chi tiết,
hướng dẫn 63/126 nội dung được giao.
Như vậy, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đã ban hành
98/200 văn bản (49%) quy định chi tiết hướng dẫn 148/280 nội dung được giao.
Số văn bản chưa được ban hành là 102/200 văn bản (51%) quy định chi tiết 132/280 nội dung
được giao (trong đó có 58 văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ(4) và 44 văn bản của Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ).
- Đối với 09 luật, pháp lệnh chuẩn bị có hiệu lực, có 01/42 văn bản đã ban hành để quy định chi
tiết 03/83 nội dung được giao, cụ thể là Nghị định số 92/2013/NĐ-CP ngày 13/8/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều có hiệu lực từ ngày 01/7/2013 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng – Theo BC
số 405/BC-Chính phủ ngày 15/10/2013 của Chính phủ Báo cáo Tình hình triển khai thi hành luật, pháp
lệnh, ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnhcủa Quốc hội, Uỷ ban thường
vụ Quốc hội được ban hành từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đến hết tháng 7/2013.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
22
hướng dẫn thi hành cũng phải bị mất hiệu lực theo, không phụ thuộc vào
việc vấn đề này có được nêu trong văn bản gốc hay không, đấy là ý nghĩa
của cụm từ “đồng thời hết hiệu lực". Tuy nhiên, có một vấn đề thực tế đặt
ra: do chúng ta thường xuyên ban hành "luật khung, pháp lệnh khung" nên
khi luật, pháp lệnh được ban hành cũng chưa thể căn cứ vào các quy phạm
của chúng để áp dụng ngay mà phải chờ văn bản quy định chi tiết. Trong
khi chờ các văn bản quy định chi tiết thì các cơ quan thi hành pháp luật căn
cứ vào các quy định cụ thể nào để áp dụng, dẫn tới tình trạng "bất thành
văn" các cơ quan thực thi vẫn tạm thời áp dụng của các văn bản quy định
chi tiết các luật, pháp lệnh cũ… cho đến khi chúng được sửa đổi, bổ sung.
Quy định này luôn đảm bảo có các quy phạm cần thiết để điều chỉnh các
quan hệ xã hội khi hoạt động xây dựng pháp luật chưa có những thay đổi
đồng bộ từ văn bản quy định cao nhất đến văn bản quy định chi tiết. Do
không hoàn toàn thoả đáng về mặt lý luận, cho nên Luật năm 2008 đã bãi
bỏ quy định này, điều đó có nghĩa là khi một luật, pháp lệnh bị mất hiệu lực
thì mặc nhiên tất cả các văn bản cụ thể hoá, chi tiết hoá luật, pháp lệnh đó
cũng mất hiệu lực theo. Cho dù đúng về mặt lý luận, nhưng Luật
BHVBQPPL năm 2008 lại tạo ra những bất cập trong thực tiễn
Vì vậy, để khắc phục những hạn chế của Luật năm 2008 không quy
định rõ trường hợp văn bản được quy định chi tiết hết hiệu lực thì văn bản
quy định chi tiết có đồng thời hết hiệu lực hay không, gây ra “khoảng trống
pháp luật”, cần nghiên cứu, kế thừa những quy định còn phù hợp của Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002 đó là văn bản pháp luật
quy định chi tiết của văn bản pháp luật hết hiệu lực cũng đồng thời hết hiệu
lực cùng với văn bản đó, trừ trường hợp được giữ lại toàn bộ hoặc một
phần vì còn phù hợp với các quy định của văn bản pháp luật mới.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
23
1.4.2. Những trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân hết hiệu lực
Theo quy định tại Điều 53 của Luật năm 2004, trong các trường hợp
sau đây văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân hết hiệu lực:
- Văn bản hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản.
Ví dụ: Quyết định số 2816/QĐ-UB ngày 15 tháng 11 năm 2002 của Uỷ ban
nhân dân thành phố Hải Phòng về việc duyệt giá hỏa thiêu bằng lò gas tạm
thời thực hiện tại Công ty phục vụ mai táng Hải Phòng quy định: "Thời
gian thực hiện tạm thời mức giá duyệt tại Điều 1 được thực hiện 365 ngày
kể từ ngày ký Quyết định". Hoặc một số văn bản quy định: "Văn bản này
hết (chấm dứt) hiệu lực sau 3 năm kể từ ngày văn bản có hiệu lực".
- Văn bản hết hiệu lực do được thay thế bằng một văn bản mới của
chính cơ quan đã ban hành văn bản đó. Ví dụ: Quyết định của Uỷ ban nhân
dân tỉnh A năm 2005 về việc quy định mức thu một phần viện phí khám
chữa bệnh tại bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng V nhằm thay
thế Quyết định của chính Uỷ ban nhân dân tỉnh A ban hành năm 2000.
- Văn bản hết hiệu lực do bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản
của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền. Ví dụ: Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân tỉnh X bãi bỏ Quyết định số… có nội dung trái pháp luật của Uỷ
ban nhân dân huyện Y (huyện Y phải thuộc tỉnh X).
- Văn bản không còn đối tượng điều chỉnh. Ví dụ: không còn đối
tượng được đền bù theo quy định của Quyết định của Uỷ ban nhân dân
thành phố N về việc thực hiện công tác bồi thường và giải phóng mặt bằng
khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng trên địa bàn thành phố.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
24
2. Nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật
Về trách nhiệm pháp lý, một văn bản đang có hiệu lực pháp luật thì
đối tượng tác động của văn bản phải thi hành các quy định của nó ngay cả
khi văn bản đó không còn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội. Việc một
người không thi hành các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật
đang có hiệu lực là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét
trách nhiệm pháp lý đối với người đó.
2.1. Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện chỉ
sau khi văn bản đã có hiệu lực thi hành.
Theo đó, Điều 83 của Luật năm 2008 quy định các nguyên tắc áp
dụng văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở trung ương ban
hành như sau:
- Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu
có hiệu lực.
Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại
thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp văn bản có
hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó. Việc áp dụng hiệu lực
trở về trước của văn bản không được thực hiện trong các trường hợp: quy
định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện
hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý; quy định trách
nhiệm pháp lý nặng hơn.
- Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định
khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao
hơn.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
25
- Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ
quan ban hành mà có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng
quy định của văn bản được ban hành sau.
Tuy nhiên, trên thực tế, khi áp dụng quy định này còn gặp nhiều khó
khăn vướng mắc. Ví dụ: về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, thì quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Đất đai
hiện nay mâu thuẫn với Luật Công chứng:
Đều là luật do Quốc hội ban hành nhưng Luật Công chứng 2014
(Điều 4) quy định: “văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày công chứng
viên ký và đóng dấu…”. Trong khi đó, Điều 692 Luật Dân sự 2005 quy
định “hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng
ký quyền sử dụng theo quy định của Luật Đất đai”; còn Điều 188 Luật Đất
đai 2013 quy định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất “có hiệu
lực từ thời điểm được đăng ký vào sổ địa chính”. Như vậy, thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của
Luật công chứng và Luật đất đai là khác nhau. Trong khi đó, theo tinh thần
của Bộ luật dân sự thì hướng giải quyết trường hợp mâu thuẫn giữa các luật
là ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành (trong trường hợp này là áp dụng
Luật Đất đai 2013), nhưng theo quy định của Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật 2008 thì nếu cùng một cơ quan ban hành văn bản nhưng có
mâu thuẫn thì áp dụng văn bản ban hành sau (trong trường hợp này là áp
dụng Luật Công chứng). Từ đó, dẫn tới trên thực tế khi áp dụng có những
điểm “vênh” nhau, các cơ quan quản lý nhà nước vẫn áp dụng các quy định
có lợi cho ngành mình. Điều này có thể dẫn đến việc áp dụng tùy tiện pháp
luật trong giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất.
Trường hợp đối với các Thông tư do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ ban hành, nếu có mâu thuẫn thì rất khó để xác định văn bản nào
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
26
sẽ được áp dụng vì không thể áp dụng quy định ban hành sau (do không
cùng chủ thể ban hành), thứ bậc hiệu lực pháp lý (đều là Thông tư của Bộ
trưởng).
- Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định
trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với
hành vi xảy ra trước ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới.
2.2. Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân thì việc áp dụng văn bản được thực hiện theo nguyên
tắc sau:
- Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân được áp dụng từ thời điểm có hiệu lực.
- Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân cùng cấp có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì
áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân. Ví dụ: nghị
quyết của HĐND tỉnh A quy định về cơ chế trong quy trình giao đất, cho
thuê đất và bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng
trên địa bàn tỉnh. UBND tỉnh A cũng ban hành văn bản nhằm quy định chi
tiết quy trình giao đất, cho thuê đất và bồi thường những quy định mức
kinh phí phục vụ công tác kiểm kê, lập phương án bồi thường (chi phí hành
chính cho Hội đồng bồi thường và giải phóng mặt bằng tỉnh, huyện,...) thấp
hoặc cao hơn quy định do HĐND ban hành. Trong trường hợp này văn bản
được áp dụng là văn bản của HĐND tỉnh A.
- Trong trường hợp các nghị quyết của cùng một Hội đồng nhân dân
có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của nghị
quyết được ban hành sau.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
27
- Trong trường hợp các quyết định, chỉ thị của cùng một Uỷ ban
nhân dân có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định
của quyết định, chỉ thị được ban hành sau. Ví dụ: Năm 2005 UBND tỉnh H
ban hành quy định về đền bù giải phóng mặt bằng, đến năm 2007, UBND
tỉnh X cũng có một quyết định có nội dung quy định về giải phóng mặt
bằng, theo đó, về cùng một nội dung nên sẽ áp dụng quy định của Quyết
định ban hành sau. Về nguyên tắc, cơ quan có thẩm quyền ban hành cả hai
văn bản nói trên (ở đây chỉ có một chủ thể là UBND tỉnh H) phải: hoặc sửa
đổi nội dung của văn bản trước nếu như nội dung đó mâu thuẫn với văn bản
ban hành sau, hoặc bãi bỏ quy định đã ban hành trước đó để không mâu
thuẫn với quy định sau.
Lưu ý, về nguyên tắc, các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân không được quy định hiệu lực hồi tố.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
28
NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG HIỆU LỰC HỒI TỐ, QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TS. Đoàn Thị Tố Uyên Trường Đại học Luật Hà Nội
1. Đặt vấn đề
Nhà nước ban hành pháp luật với mục đích điều chỉnh các quan hệ
xã hội đảm bảo cho xã hội ngày càng phát triển bền vững. Mỗi cơ quan nhà
nước khi ban hành pháp luật (được thể hiện thông qua hình thức là văn bản
quy phạm pháp luật) đều mong muốn pháp luật luôn được tuân thủ nghiêm
chỉnh và phát huy hiệu quả trên thực tế. Vì thế pháp luật với bản chất là ý
chí của Nhà nước nên luôn mang tính chất bắt buộc, áp đặt với cá nhân, tổ
chức là đối tượng chịu sự tác động của pháp luật. Dưới góc độ khoa học
pháp lý, sự tác động mang tính áp đặt của pháp luật chính là nội dung của
hiệu lực pháp lý.
Hiệu lực pháp lý là khả năng tác động của pháp luật/ văn bản quy
phạm pháp luật trong phạm vi nhất định bao gồm phạm vi không gian (hiệu
lực về không gian), phạm vi thời gian (hiệu lực về thời gian) và phạm vi
đối tượng (hiệu lực về đối tượng). Điều này có nghĩa khả năng tác động của
văn bản quy phạm pháp luật luôn bị giới hạn trong phạm vi không gian,
thời gian và với nhóm đối tượng nhất định tùy theo nội dung, phạm vi điều
chỉnh của mỗi văn bản. Hiệu lực pháp lý của văn bản qui phạm pháp luật bị
chi phối bởi vị trí, tính chất và thẩm quyền quản lý của cơ quan ban hành
văn bản đó. Do vậy, khi nghiên cứu vấn đề hiệu lực của văn bản qui phạm
pháp luật không thể không xét tới những khả năng nhất định của văn bản
khi chúng tác động vào các quan hệ xã hội.
Đối với hiệu lực pháp lý về thời gian của văn bản quy phạm pháp
luật, hiện nay còn khá nhiều vấn đề cần được làm sáng tỏ để bảo đảm cho
các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền áp dụng đúng quy định pháp
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
29
luật giải quyết những công việc cụ thể có hiệu quả nhất. Cả người có thẩm
quyền áp dụng pháp luật và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn
bản đều quan tâm tới thời điểm văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực vì
tính từ thời điểm đó mọi đối tượng mới bị bắt buộc tuân theo quy định của
văn bản này. Hiện nay có những điểm mốc về thời gian để tính hiệu lực
pháp lý cho văn bản quy phạm pháp luật như sau một khoảng thời gian kể
từ khi văn bản được ký ban hành hoặc công bố; có hiệu lực kể từ ngày ký
và có hiệu lực trước khi văn bản được ban hành (hiệu lực hồi tố).
Bài viết này chỉ bàn luận sâu về nguyên tắc áp dụng hiệu lực hồi tố
với những khía cạnh: Trường hợp, điều kiện áp dụng hiệu lực hồi tố, quy
định của pháp luật và thực tiễn thực hiện nguyên tắc này từ đó đưa ra
những kiến nghị để hoàn thiện hơn quy định trong Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật.
2. Quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện
2.1. Quy định của pháp luật hiện hành
Về nguyên tắc, văn bản qui phạm pháp luật chỉ điều chỉnh quan hệ
xã hội kể từ khi văn bản đã được ban hành. Điều này có nghĩa văn bản quy
phạm pháp luật không có hiệu lực hồi tố (trở về trước khi văn bản được ban
hành). Nguyên tắc pháp luật không có hiệu lực hồi tố có nghĩa là một văn
bản quy phạm pháp luật được thông qua chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội
xuất hiện sau khi văn bản ấy có hiệu lực mà không mở rộng hiệu lực đối
với các quyền, nghĩa vụ đã thực hiện. Người ta còn gọi đó là tính không
quay trở lại của pháp luật. Nguyên tắc này được đề ra nhằm đảm bảo tính
thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và tránh sự tùy tiện khi áp dụng
pháp luật.
Mặc dù vậy, cũng có một số trường hợp ngoại lệ văn bản quy phạm
pháp luật có hiệu lực trở về trước khi văn bản đó được ban hành. Vì vậy,
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
30
qui định hiệu lực trở về trước khi văn bản ra đời là trường hợp ngoại lệ, đặc
biệt.
Kể từ khi có Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 1996
(Điều 76) đến Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2008 (Điều
79) đều giữ nguyên quy định:
“1. Chỉ trong những trường hợp cần thiết, văn bản quy phạm pháp
luật mới được quy định hiệu lực trở về nước.
2. Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp
sau đây:
a) Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm
thực hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý;
b) Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn.”
Như vậy, Luật quy định với hai trường hợp, trường hợp văn bản quy
phạm pháp luật được đặt ra quy định hiệu lực hồi tố và trường hợp cấm quy
định hiệu lực hồi tố.
Trước hết, với trường hợp được quy định hiệu lực hồi tố, Luật quy
định chỉ trong “những trường hợp thật cần thiết”. Có quan điểm5 cho rằng
với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật chỉ trong
những trường hợp thật cần thiết mới được quy định hiệu lực hồi tố, dễ dẫn
đến sự tùy tiện khi ban hành những văn bản quy phạm pháp luật trên thực
tế, bởi không ai định nghĩa được thế nào là “trường hợp thật cần thiết”. Vì
vậy, trường hợp nào là thật cần thiết sẽ được lý giải theo ý muốn chủ quan
của cơ quan ban hành văn bản và có thể dễ dàng vi phạm những yếu tố sơ
5 Bình luận Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2005, tr.215.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
31
đẳng về nhân quyền6. Dưới góc độ lập pháp, rất khó để liệt kê đầy đủ
những trường hợp nào là thật sự cần thiết bởi các quan hệ xã hội luôn vận
động, thay đổi theo quy luật khách quan. Pháp luật luôn ra đời sau nên
không thể tránh khỏi có những hành vi xảy ra từ trước mà pháp luật chưa
kịp điều chỉnh trong khi để giải quyết buộc phải có cơ sở pháp lý làm
chuẩn mực. Vì thế quy định hiệu lực hồi tố mới trở thành trường hợp đặc
biệt, “bất thường”. Theo quan điểm của cá nhân tôi, quy định tại khoản 1
Điều 79 của Luật hiện hành đã đủ tính bao quát để đảm bảo cho quá trình
áp dụng quy định này trên thực tế với từng văn bản có tính linh hoạt, không
cứng nhắc. Để rõ ràng hơn, khoản 2 Điều 79 đã đặt ra quy định với trường
hợp cấm quy định hiệu lực hồi tố khi quy định trách nhiệm pháp lý mới đối
với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi đó pháp luật không quy
định trách nhiệm pháp lý; quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn.
Từ quy định trên có thể khái quát, văn bản quy phạm pháp luật chỉ đặt
ra quy định về hiệu lực hồi tố khi sự quay trở lại để tác động vào quan hệ
xã hội là thật sự cần thiết. Sự cần thiết khi cân nhắc đặt ra quy định hồi tố
trong mỗi văn bản quy phạm pháp luật bắt buộc phải kèm theo nguyên tắc
phù hợp với lợi ích của xã hội và lợi ích của đối tượng chịu sự tác động
trực tiếp của văn bản, có nghĩa luôn có lợi cho đối tượng thi hành.
Bên cạnh quy định về trường hợp được quy định hiệu lực hồi tố và
hai trường hợp không được quy định hiệu lực hồi tố như trong quy định tại
Điều 79 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, tại
Khoản 2 Điều 51 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 đã quy định bổ sung so với Luật năm
2008 về trường hợp “ Không quy định hiệu lực trở về trước đối với văn bản
quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân”.
6 Ann Seidman, Robert B. Seidman và Nalin Abeysekere, Soạn thảo luật pháp vì tiến bộ xã hội dân chủ, tr.344.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
32
Với quy định này của Luật năm 2004 là thực sự có giá trị bởi đã làm
minh bạch một phần nguyên tắc áp dụng hiệu lực hồi tố đã được ghi nhận
từ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên (năm 1996) cho đến
nay là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Quy định này
đã loại trừ theo chủ thể ban hành. Như vậy, đối với văn bản quy phạm pháp
luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp không được quy định
hiệu lực hồi tố, còn các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước
ở trung ương được quy định hiệu lực hồi tố trong những trường hợp thật
cần thiết đó là luôn có lợi cho đối tượng thi hành.
2.2. Thực tiễn thực hiện
- Thực hiện đúng quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc
áp dụng hiệu lực hồi tố
Thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trên thực tế
đã có một số văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trong đó có đặt ra
những quy định về hiệu lực hồi tố. Có nhiều cấp độ về quy định hiệu lực
hồi tố tùy theo tính chất, mức độ của mỗi lĩnh vực được điều chỉnh. Có văn
bản quy phạm pháp luật quy định áp dụng hiệu lực hồi tố ở cấp độ là
nguyên tắc chung ngay trong nội dung của văn bản hoặc ban hành văn bản
khác để đặt ra quy đinh hiệu lực hồi tố, có văn bản đặt ra quy định hiệu lực
hồi tố chỉ dành cho một nội dung cụ thể.
Ví dụ Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
đã quy định về hiệu lực hồi tố thành nguyên tắc chung tại Khoản 2, 3 Điều
7 như:
“2. Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn,
một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
33
định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với
hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.
3. Điều luật xoá bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng
nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở
rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt,
giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm
tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều
luật đó có hiệu lực thi hành.”
Với Bộ luật dân sự năm 2005, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
45/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 về việc thi hành Bộ luật dân sự
trong đó nguyên tắc áp dụng hiệu lực hồi tố được xác định thông qua quy
định tại mục 2 của Nghị quyết:
“2. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự
có hiệu lực thì việc áp dụng pháp luật được quy định như sau:
a) Giao dịch dân sự đang được thực hiện mà có nội dung và hình
thức phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự thì áp dụng các quy định của Bộ
luật dân sự;…”.
Ngoài ra, có những văn bản quy phạm pháp luật lại quy định bằng
cách chỉ rõ hiệu lực hồi tố được áp dụng với một hoặc một số nội dung
trong văn bản.
Ví dụ Nghị định 91/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/10/2014 sửa
đổi, bổ sung các Nghị định về thuế, tại Điều 5 có quy định “Nghị định này
có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 11 năm 2014. Riêng quy định tại
Điều 1 Nghị định này áp dụng cho kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp từ
năm 2014.”
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
34
- Thực hiện chưa đúng quy định của pháp luật hiện hành về nguyên
tắc áp dụng hiệu lực hồi tố
Trên thực tế còn tồn tại tình trạng không tuân thủ đúng quy định
pháp luật hiện hành về nguyên tắc áp dụng hiệu lực hồi tố vì đã ban hành
văn bản quy phạm pháp luật có quy định về hiệu lực hồi tố nhưng gây thiệt
hại cho đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Có thể kể điển
hình là Quyết định số 123/2008/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ngày
26/12/2008 quy định về việc điều chỉnh thuế suất một số nhóm hàng trong
biểu thuế xuất, nhập khẩu ưu đãi trong đó Điều 3 quy định “Quyết định này
có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày đăng Công báo và áp dụng cho
các tờ khai hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đăng ký với cơ quan
hải quan kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2009.” (thời điểm này tuân thủ quy
định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, sửa đổi bổ
sung năm 2002).
Ngày 4-9-2009, Cục Kiểm tra văn bản - Bộ Tư pháp xác định Quyết định 123 (về việc điều
chỉnh thuế suất một số nhóm hàng trong biểu thuế xuất, nhập khẩu ưu đãi) ngày 26-12-
2008 của Bộ Tài chính có nội dung không phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật.
Phát hiện này dựa trên kết quả kiểm tra phản ánh của Công ty Thép Thành Long
(Hưng Yên) và Công ty Thương mại Vĩnh Long (Hà Nội) về việc họ phải chịu những
khoản thuế bất hợp lý phát sinh từ quyết định trên. Tháng 1-2009, hai doanh
nghiệp này đăng ký tờ khai hải quan nhập khẩu mặt hàng thép Bo. Tại thời điểm
đó, thép có chất Bo được coi là thép hợp kim, thuế nhập khẩu rất thấp nên bị
Hiệp hội Thép Việt Nam phản ứng, cho rằng nhà nhập khẩu lách luật, cạnh tranh
không lành mạnh. Để bảo vệ hàng nội, hải quan khi áp thuế đã áp dụng hiệu lực
hồi tố của Quyết định 123 để tính thuế suất cao hơn và đòi truy thu thuế với hai
công ty nhập khẩu.
Quyết định 123 quy định: “Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ
ngày đăng Công báo”. Chiếu theo ngày đăng Công báo thì văn bản này có hiệu lực
từ ngày 2-2. Tuy nhiên, trong Quyết định 123 lại quy định: “Quyết định này ... áp
dụng cho các tờ khai hải quan hàng hóa xuất khẩu đăng ký với cơ quan hải quan
kể từ ngày 1-1-2009”.
Trong danh mục hàng hóa được điều chỉnh thuế theo Quyết định 123, hầu hết
các mặt hàng đều được giảm thuế nên việc áp dụng hiệu lực hồi tố là có lợi cho
doanh nghiệp. Tuy nhiên, có một số nhóm hàng, trong đó có thép Bo lại bị điều
chỉnh tăng thuế và việc áp dụng hiệu lực hồi tố trong trường hợp đó là trái với
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
35
Vấn đề phức tạp và gây nhiều tranh cãi hiện nay là việc thực hiện
quy định hiệu lực hồi tố để áp dụng giải quyết cho những vụ việc cụ thể
xảy ra trong thực tiễn khi văn bản quy phạm pháp luật có quy định về hiệu
lực hồi tố. Đã từng có những vụ việc áp dụng pháp luật được giải quyết
nhưng quan điểm của cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật với đương
sự trái ngược nhau. Xin minh chứng bằng một ví dụ được phản ánh qua
trang báo điện tử http://www.baomoi.com/Toa-hoi-to-sai-
luat/126/14100355.epi
Giao dịch giữa hai bên diễn ra năm 2008 nhưng khi xét xử, thay vì áp dụng quy định vào thời điểm đó, tòa lại áp
dụng quy định mới có hiệu lực từ năm 2014.
Tháng 1-2012, Công ty Toàn Thế nộp đơn khởi kiện vợ chồng bà Hồ Thị Nga ra TAND quận Bình Thạnh
(TP.HCM). Trong đơn khởi kiện, công ty trình bày là vào tháng 10-2008, công ty có ký hợp đồng thuê toàn
bộ cao ốc của vợ chồng bà Nga tại đường Nguyễn Cửu Vân (phường 17) với giá thuê 8,4 USD/m 2 /tháng
trong thời hạn 15 năm. Về sau, công ty nhận thấy pháp luật cấm việc giao dịch bằng USD nhưng hai bên lại
thực hiện nên khởi kiện đề nghị tòa tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Giao dịch năm 2008, áp dụng quy định năm 2014
Ra tòa, vợ chồng bà Nga cho rằng hợp đồng tính bằng USD chỉ nhằm bảo đảm giá trị hợp đồng suốt thời
gian thuê là 15 năm và đã được quy đổi theo tỉ giá của Ngân hàng Ngoại thương tại thời điểm thanh toán.
Khoản tiền đặt cọc thực tế cũng nhận bằng tiền đồng Việt Nam nên biên nhận giao tiền có ghi “toàn bộ số
tiền đặt cọc… được quy đổi theo tỉ giá Ngân hàng Nhà nước”.
Theo vợ chồng bà Nga, điểm b khoản 3 Mục I Nghị quyết 04 ngày 25-5-2003 của Hội đồng Thẩm phán
TAND Tối cao hướng dẫn trường hợp trong nội dung của hợp đồng kinh tế các bên thỏa thuận sử dụng
ngoại tệ làm đồng tiền định giá (để bảo đảm ổn định giá trị của hợp đồng) nhưng việc thanh toán là bằng
đồng Việt Nam thì hợp đồng kinh tế không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1Điều 8 Pháp lệnh
Hợp đồng kinh tế (không bị coi là vô hiệu toàn bộ).Xử sơ thẩm hồi tháng 10-2013, TAND quận Bình Thạnh
cho rằng hợp đồng thuê nhà giữa hai bên đã không tuân thủ về hình thức theo BLDS nên là hợp đồng vô
hiệu. Từ đó, tòa chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Toàn Thế.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
36
trong hợp đồng, thỏa thuận và các hình thức tương tự khác… không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ
các trường hợp được phép theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”. Như vậy, hợp đồng đã ký giữa hai
bên đã vi phạm quy định này nên vô hiệu. Cho rằng việc tòa áp dụng Pháp lệnh Ngoại hối sửa đổi, bổ sung
có hiệu lực từ ngày 1-1-2014 là gây bất lợi cho mình, vợ chồng bà Nga đã khiếu nại giám đốc thẩm. Theo
họ, thời điểm hai bên ký hợp đồng là từ tháng 10-2008 nên tòa phải áp dụng văn bản quy phạm pháp luật
có hiệu lực vào thời điểm đó là Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005 (có hiệu lực từ ngày 1-6-2006). Điều 22
Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005 chỉ quy định hạn chế mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo bằng
ngoại hối mà không quy định việc ghi giá bằng ngoại tệ trong hợp đồng là vi phạm.
Vụ việc trên đặt ra một vấn đề pháp lý: Việc tòa phúc thẩm áp dụng quy định mới có hiệu lực vào thời
điểm xét xử thay vì áp dụng quy định cũ có hiệu lực vào thời điểm diễn ra giao dịch giữa các bên là
đúng hay sai?
Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005 đã cấm “mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo… không được
thực hiện bằng ngoại hối”. Pháp lệnh Ngoại hối sửa đổi, bổ sung năm 2013 bổ sung thêm ba hành vi bị
cấm là “báo giá, định giá, ghi giá trong hợp đồng”. bản án phúc thẩm tuyên hợp đồng vô hiệu dựa
trên cơ sở ba điều cấm bổ sung nói trên là không đúng bởi các lý do sau: Thứ nhất, Pháp lệnh Ngoại
hối sửa đổi, bổ sung năm 2013 không quy định điều kiện bổ sung trên được áp dụng cho các giao
dịch được xác lập trước đó (không quy định áp dụng hồi tố). Thứ hai, khi quy định mới đặt thêm điều
kiện có hiệu lực cho giao dịch so với quy định cũ thì quy định điều chỉnh giao dịch phải là quy định có
hiệu lực tại thời điểm giao dịch được xác lập. Đường lối xét xử của TAND Tối cao đã rất ổn định về
vấn đề này. Do vậy, vụ việc sẽ thuyết phục hơn nếu tòa chỉ tuyên vô hiệu phần liên quan đến ngoại hối
và phần còn lại của giao dịch vẫn có giá trị pháp lý đúng tinh thần của Nghị quyết 04/2003 của Hội
đồng Thẩm phán TAND Tối cao.
Rõ ràng trong vụ án này, Pháp lệnh Ngoại hối sửa đổi, bổ sung năm 2013 không quy định hiệu lực trở
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
37
Nguyên nhân dẫn đến việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật
cũng như áp dụng quy định về hiệu lực hồi tố để giải quyết cho mỗi vụ việc
còn chưa đúng quy định và gây bất lợi cho đối tượng thi hành có thể là do:
- Quá trình soạn thảo, cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo không rà
soát và dự báo hết những trường hợp thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản
để đặt ra quy định hiệu lực hồi tố;
- Cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm thẩm định chưa thực sự cẩn
trọng khi xem xét, đánh giá quy định của văn bản quy phạm pháp luật có
quy định về hiệu lực hồi tố bởi hiệu lực hồi tố thực sự là vấn đề đặc biệt,
bất thường. Đồng thời pháp luật về nội dung thẩm định, thẩm tra cũng
chưa có quy định cụ thể nhấn mạnh yêu cầu xem xét kĩ lưỡng những văn
bản quy phạm pháp luật có quy định hiệu lực hồi tố trong quá trình thực
hiện.
- Quan điểm, nhận thức của cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng
pháp luật còn chưa thống nhất và hiểu chưa thấu đáo quy định của Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về nguyên tắc áp dụng hiệu lực hồi
tố.
3. Đề xuất, kiến nghị
Để nguyên tắc áp dụng hiệu lực hồi tố được tuân thủ đúng, thực sự
cần thiết, phần nào khắc phục những khoảng trống của pháp luật đồng thời
bảo đảm lợi ích cho đối tượng chịu sự tác động của văn bản, trong thời gian
tới cần thực hiện có hiệu quả những biện pháp sau:
- Hoàn thiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật về nguyên tắc áp dụng hiệu lực hồi tố theo hướng:
+ Kế thừa quy định của Luật hiện hành và bổ sung thêm trường hợp
không được quy định hiệu lực hồi tố đối với văn bản quy phạm pháp luật
của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân;
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
38
+ Lồng ghép nội dung xem xét đánh giá kỹ lưỡng đối với dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật có quy định áp dụng hiệu lực hồi tố trong quá
trình phân tích chính sách, soạn thảo (thông qua quy định về nhiệm vụ của
cơ quan chủ trì soạn thảo) và thẩm định, thẩm tra (thông qua quy định về
nội dung thẩm định, thẩm tra);
- Tăng cường ý thức trách nhiệm và nhận thức của các chủ thể tham
gia vào quy trình xây dựng và nhất là quá trình tổ chức thực hiện văn bản
quy phạm pháp luật trên thực tế.
- Thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về văn bản
quy phạm pháp luật và kỹ năng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
trong đó có nội dung nguyên tắc áp dụng hiệu lực hồi tố./.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
39
NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG VÀ HIỆU LỰC THI HÀNH
CỦA HỆ THỐNG VĂN BẢN QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH
TS. Nguyễn Mạnh Cường(*)
Văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) là văn bản do cơ quan Nhà
nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình
tự, thủ tục được quy định trong Luật ban hành văn bản QPPL hoặc trong
Luật ban hành văn bản QPPL của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân,
trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà
nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội7. Như vậy, có thể
hiểu, văn bản QPPL là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu, cấu
thành thể chế hành chính nhà nước; hệ thống văn bản QPPL được nhà nước
xây dựng để quản lý sự phát triển của kinh tế - xã hội trên mọi phương
diện, bảo đảm cho xã hội phát triển ổn định, trật tự, an toàn, bền vững; quy
định nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, thẩm quyền của các cơ quan
quyền lực nhà nước, chế độ công vụ, quy chế công chức… để ghi nhận về
mặt pháp lý trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội và cá nhân công dân.
Hệ thống pháp luật theo quan niệm truyền thống là tổng thế các quy
phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định
thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn
bản do nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục nhất định8. Theo
cách hiểu này hệ thống pháp luật được tạo thành từ tổng thể các quy phạm
pháp luật mà không bao gồm các yếu tố khác như như: các học thuyết, các
nguyên tắc pháp lý và các nguồn luật bất thành văn khác, cũng như các yếu (*). Trưởng ban Nghiên cứu Chiến lược - Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp. 7 Điều 1 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008. 8 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Công an nhân dân, 210, tr 401.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
40
tố đảm bảo thực thi pháp luật (hệ thống các thiết chế, thông tin pháp luật,
nguồn nhân lực thực thi pháp luật…). Từ khi có Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã
mang lại những cải cách quan trọng trong lĩnh vực xây dựng và thi hành
pháp luật, góp phần không nhỏ vào quá trình tổ chức, thực hiện các chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước để ổn định chính trị, phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước. Theo Nghị quyết 48-NQ/TW, cách tiếp cận về hệ
thống pháp luật đã có những thay đổi lớn, hệ thống pháp luật được tiếp cận
trong trạng thái động, trong đó, hoạt động xây dựng thể chế và tổ chức thi
hành pháp luật được đặt trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ trong một chỉnh
thể thống nhất.
Xuất phát từ quan niệm, hệ thống văn bản QPPL, bài viết này chúng
tôi xin phép trao đổi với Hội nghị 2 khía cạnh, đó là: nguyên tắc áp dụng
văn bản QPPL và hiệu lực của các văn bản QPPL quy định chi tiết thi hành.
1. Nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật
Áp dụng pháp luật là hoạt động của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Việc áp dụng đúng đắn văn bản pháp luật có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó
đảm bảo được sự áp dụng thống nhất giữa các cơ quan Nhà nước, mang lại
cách hiểu đúng đắn, đảm bảo được hiệu lực, hiệu quả, mục đích… của các
văn bản QPPL.
Để đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật được chính xác, thống nhất
thì ngoài các quy định cụ thể, chi tiết về cách thức áp dụng thì các nguyên
tắc áp dụng văn bản QPPL phải được nghiên cứu và chỉ ra làm kim chỉ nam
cho việc quy định và áp dụng. Lý luận về áp dụng pháp luật và pháp luật
của các quốc gia trên thế giới có nêu ra những nguyên tắc áp dụng văn bản
QPPL cơ bản sau đây:
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
41
1.1. Nguyên tắc áp dụng văn bản đang có hiệu lực thi hành
Một điều dễ dàng nhận thấy là một văn bản chỉ được áp dụng khi nó
đã có hiệu lực thi hành vào thời điểm áp dụng. Văn bản đã hiết hiệu lực,
tạm ngưng hiệu lực hoặc bị đình chỉ không thể được áp dụng. Tuy nhiên
trên thực tế có những văn bản ra đời sau đã không loại trừ hiệu lực của văn
bản trước đó hoặc có những văn bản có hiệu lực hồi tố. Trong trường hợp
này dễ dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất. Để giải quyết vẫn
đề này chúng ta cần xem xét những vấn đề sau:
- Nếu văn bản ra đời sau không hủy bỏ hiệu lực của văn bản pháp
luật trước đó về cùng một vấn đề thì văn bản trước có đương nhiên hết hiệu
lực không? Trong trường hợp này nếu cũng không có một văn bản khác của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tuyên bố hủy bỏ hiệu lực của văn bản đó
thì chưa có căn cứ để văn bản ban hành trước đó bị hủy bỏ. Tức là vào thời
điểm áp dụng có thể có nhiều văn bản có hiệu lực thi hành. Do đó, khi cần
áp dụng cần lưu ý nếu những nội dung áp dụng không mâu thuẫn nhau thì
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng đồng thời 2 văn bản. Còn
nếu nội dung áp dụng có sự khác biệt hoặc mâu thuẫn giữa 2 văn bản thì
nguyên tắc áp dụng văn bản ban hành sau sẽ được xem xét vận dụng trong
trường hợp này.
- Hồi tố: Khi văn bản ban hành trước và văn bản ban hành sau cùng
quy định về một vấn đề mà hành vi được thực hiện vào thời điểm văn bản
trước đang có hiệu lực thi hành. Về nguyên tắc thì văn bản đang có hiệu lực
thi hành vào thời điểm hành vi được thực hiện (văn bản trước) sẽ được áp
dụng. Tuy nhiên, trong trường hợp này việc áp dụng pháp luật sau không
có mâu thuẫn gì với văn bản trước đó nên hiệu lực hồi tố của văn bản ban
hành sau sẽ được đặt ra. Việc áp dụng văn bản QPPL sau sẽ góp phần tuyên
truyền và giúp cán bộ áp dụng, người dân tìm hiểu kỹ hơn về nội dung văn
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
42
bản mới, phù hợp với nguyên tắc chung. Do vậy, nguyên tắc áp dụng luật
đang có hiệu lực thi hành cần được ghi nhận trong trường hợp này.
Ngoài ra, có những văn bản lần đầu tiên được ban hành trên thực tế.
Trước đó với những quan hệ, hành vi diễn ra trên thực tế chưa có pháp luật
để điều chỉnh. Trong trường hợp này văn bản đang có hiệu lực thi hành
cũng có thể được áp dụng để giải quyết. Tuy nhiên, khi áp dụng hiệu lực
hồi tố của nguyên tắc áp dụng luật đang có hiệu lực thi hành này cần kết
hợp với nguyên tắc có lợi cho đối tượng áp dụng (được chỉ ra và phân tích
ở phần sau) để việc áp dụng được chính xác và hiệu quả góp phần đảm bảo
trật tự và phát triển xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân
dân.
1.2. Nguyên tắc áp dụng văn bản có hiệu lực cao
Hệ thống pháp luật thành văn của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới
cũng có sự phân cấp về hiệu lực giữa các văn bản QPPL từ cao xuống thấp.
Các văn bản có hiệu lực thấp hơn thường cụ thể hóa các văn bản pháp luật
có hiệu lực cao và không được trái hoặc mâu thuẫn với các văn bản đó. Tuy
nhiên, trên thực tế, do sự phân cấp trong việc ban hành cũng như các lý do
khác nhau mà văn bản QPPL có hiệu lực thấp hơn có thể có quy phạm mâu
thuẫn hoặc không đồng nhất với văn bản có hiệu lực cao hơn. Trong trường
hợp này, nếu các văn bản có nội dung mâu thuẫn chưa được đình chỉ hoặc
hủy bỏ kịp thời thì việc áp dụng văn bản QPPL có hiệu lực cao hơn cần
được thừa nhận và tôn trọng. Rõ ràng, việc cụ thể hóa pháp luật của các
văn bản QPPL không thể trái với các nguyên tắc và nội dung của các văn
bản có hiệu lực pháp luật cao hơn. Việc văn bản có hiệu lực thấp hơn mâu
thuẫn với nội dung văn bản cao hơn thể hiện sự chưa hoàn thiện trong kỹ
thuật lập pháp và nhược điểm này cần phải được sữa chữa kịp thời bằng
việc hủy bỏ các văn bản có nội dung mâu thuẫn đó. Việc áp dụng văn bản
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
43
có hiệu lực pháp luật cao hơn cũng là khẳng định sự không thừa nhận một
quy phạm không phù hợp với trình tự và nguyên tắc ban hành văn bản quy
phạm pháp luật.
Ví dụ: Theo kết quả kiểm tra, xử lý văn bản QPPL năm 2013, các
Bộ, ngành (bao gồm cả Bộ Tư pháp) và địa phương đã tự kiểm tra được
1.018.055 văn bản, trong đó có 36.617 văn bản QPPL. Qua kiểm tra, đã
phát hiện được 6.667 văn bản có dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính
hợp pháp của văn bản quy định tại Điều 3 của Nghị định số 40/2010/NĐ-
CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm
pháp luật (chiếm 0,2% tổng số văn bản tự kiểm tra)9.
Như vậy, đối với các văn bản QPPL vi Hiến hoặc trái pháp luật trên,
nếu chưa kịp hủy bỏ thì việc áp dụng nguyên tắc văn bản có hiệu lực cao là
rất cần thiết. Khi áp dụng nguyên tắc này cần lưu ý hoặc chỉ rõ nội dung
của văn bản có hiệu lực thấp hơn mâu thuẫn hoặc trái với văn bản có hiệu
lực cao. Còn trong trường hợp nội dung của các văn bản này chỉ có khác
biệt hoặc mở rộng hoặc quy định chi tiết hơn thì cần phải xem xét thêm
nguyên tắc áp dụng luật chuyên ngành.
1.3. Nguyên tắc áp dụng văn bản QPPL chuyên ngành
Theo Điều 2 Luật ban hành văn bản QPPL, ngoại trừ Hiến pháp là
văn bản QPPL chỉ tồn tại một văn bản hiện hành duy nhất, các loại văn bản
QPPL khác có thể tồn tại nhiều văn bản do cùng một cơ quan ban hành
cùng có hiệu lực ở một thời điểm nhất định. Vì cùng loại văn bản và cùng
do một cơ quan ban hành nên các văn bản này có cùng vị trí thứ bậc trọng 9 Báo cáo số 06b/BC-BTP ngày 09/01/2014 về Tổng kết thi hành Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008 và Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
44
hệ thống văn bản QPPL. Trong trường hợp các văn bản có quy định về
cùng một vấn đề nhưng nội dung khác nhau thì không thể đồng thời được
áp dụng vào một việc cụ thể. Trên thực tế, có những trường hợp hai văn
bản cùng quy định về một vấn đề, trong đó một văn bản quy định một cách
chung nhất và một văn bản mang tính chất chuyên sâu phù hợp với điều
kiện quản lý đặc thù của từng ngành, từng lĩnh vực hơn văn bản quy định
chung. Do đó, việc áp dụng văn bản chuyên ngành khi giải quyết các công
việc cụ thể của từng ngành, từng lĩnh vực thường thuận lợi và mang lại
hiệu quả điều chỉnh cao hơn. Nếu văn bản chuyên ngành ban hành sau văn
bản quy định chung thì việc lựa chọn văn bản chuyên ngành để áp dụng
không có gì trái với Luật, nhưng nếu văn bản chuyên ngành ban hành trước
văn bản quy định chung thì lựa chọn văn bản nào để áp dụng là vấn đề khó
và tiềm ẩn khả năng áp dụng pháp luật không thống nhất.
Ví dụ: Về tính thống nhất của các văn bản pháp luật, đơn cử, về thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thì quy
định trong Bộ luật Dân sự và Luật Đất đai hiện nay mâu thuẫn với Luật
Công chứng, cụ thể: Điều 4 Luật Công chứng 2014 quy định: “Văn bản
công chứng có hiệu lực kể từ ngày công chứng viên ký và đóng dấu…”.
Trong khi đó, Điều 692 Luật Dân sự 2005 lại quy định “hợp đồng chuyển
quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng theo
quy định của Luật Đất đai”; còn Điều 188 Luật Đất đai 2013 thì quy định
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất “có hiệu lực từ thời điểm
được đăng ký vào sổ địa chính”.
Điều chỉnh mối quan hệ này, Bộ luật Dân sự định hướng giải quyết
trường hợp mâu thuẫn giữa các luật là ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành
(trong trường hợp này là áp dụng Luật Đất đai 2013). Thế nhưng, Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 lại quy định: “Trong trường hợp
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
45
các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành mà có quy
định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản được
ban hành sau” (khoản 3 Điều 83) (trong trường hợp này là áp dụng Luật
Công chứng). Do đó, việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn đã nảy sinh
vướng mắc, nhất là khi xảy ra tranh chấp, xác định thời điểm chịu rủi ro.
Nếu áp dụng Luật Công chứng, rủi ro bên này phải gánh chịu thì được lợi
cho bên kia; việc áp dụng Luật Đất đai cũng có kết quả tương tự. Điều này
dẫn đến việc áp dụng tùy tiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp
đồng chuyển quyền sử dụng đất.
1.4. Nguyên tắc áp dụng văn bản ban hành sau
Một trong những nguyên tắc áp dụng văn bản QPPL phải được đề cập
đến là thứ tự ưu tiên áp dụng về mặt thời gian ban hành. Với cùng một nội
dung, một vấn đề thì các quy phạm được tiếp cận sau về logic sẽ mới hơn,
cập nhật được sự thay đổi về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội. Do đó, việc
áp dụng văn bản ban hành sau là cần thiết, phù hợp với sự thay đổi về chính
sách, đường lối và phù hợp với đời sống xã hội. Nội dung của nguyên tắc
này được hiểu là trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng
một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp
dụng quy định của văn bản được ban hành sau.
Khi xem xét nguyên tắc này cần lưu ý về thời điểm ban hành chứ
không phải thời điểm có hiệu lực. Một văn bản được ban hành sau vẫn có
thể có hiệu lực trước do sự cần thiết, điều kiện đảm bảo thực thi đã hoàn
thiện trước. Tuy nhiên, nội dung văn bản lại thể hiện tinh thần, chính sách
pháp luật vào thời điểm ban hành. Do đó, văn bản được ban hành sau vẫn
có tính mới cao hơn mặc dù nó có thể có hiệu lực trước.
1.5. Nguyên tắc áp dụng có lợi cho đối tượng áp dụng
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
46
Có thể nhận thấy rằng, bất kỳ một văn bản QPPL nào được ban hành
cũng hướng tới một hoặc một nhóm đối tượng nhất định. Vì vậy, việc xem
xét việc ảnh hưởng về lợi ích của đối tượng áp dụng là một vấn đề mang
tính nguyên tắc, thiết yếu. Về mặt lý luận thì bất kỳ hành vi vi phạm pháp
luật nào cũng phải gánh chịu một hậu quả pháp lý bất lợi là trách nhiệm
pháp lý. Tuy nhiên, một chủ thể có thể chịu trách nhiệm đối với chủ thể
khác hoặc đối với Nhà nước. Trong trường hợp này cần lưu ý, khi một
người phải chịu một trách nhiệm pháp lý nghĩa là người đó phải thực hiện
một nghĩa vụ và nghĩa vụ này sẽ mang lại lợi ích cho người có quyền (ví dụ
trách nhiệm nộp trả tiền phạt cho nhà nước, trách nhiệm trả tiền cho bên
vay, trách nhiệm bồi thường thiệt hại…). Do đó, việc làm lợi cho chủ thể
này sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của chủ thể khác. Chính vì vậy,
trong trường hợp này việc xem xét miễn hoặc giảm trách nhiệm không thể
được đặt ra khi chưa có sự đồng ý của các chủ thể quyền đó. Riêng trách
nhiệm đối với nhà nước có thể được áp dụng bởi lẽ Nhà nước là chủ thể
đặc biệt có quyền lực, có tiềm lực tài chính, và có thẩm quyền ban hành
văn bản QPPL ghi nhận cũng như loại bỏ trách nhiệm pháp lý. Trong
trường hợp này, cũng có thể hiểu Nhà nước đã miễn hoặc giảm trách nhiệm
cho người vi phạm.
Ví dụ:
Hành vi xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt
hại về tinh thần bằng một khoản tiền mà pháp luật đã ấn định. Văn bản
pháp luật sau có thể thay đổi mức bồi thường bằng việc tăng lên hoặc giảm
xuống. Trong trường hợp này cần thiết phải áp dụng văn bản pháp luật có
hiệu lực thi hành vào thời điểm có hành vi vi phạm.
Hoặc đối với trách nhiệm trả tiền vay, mặc dù văn bản pháp luật mới
quy định mức lãi suất thấp hơn hoặc cao hơn so với văn bản cũ cũng không
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
47
nên áp dụng nguyên tắc làm lợi cho bên có trách nhiệm vì nó ảnh hưởng
trực tiếp tới quyền lợi của bên cho vay. Hơn nữa vào thời điểm xác lập giao
dịch bên vay đã biết hoặc phải biết về mức lãi suất đó.
Tuy nhiên, đối với trách nhiệm với nhà nước như trách nhiệm hình
sự hoặc trách nhiệm xử phạt vi phạm hành chính… thì trong trường hợp
này nên áp dụng nguyên tắc có lợi cho đối tượng áp dụng bằng cách nếu
văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc
quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước ngày
văn bản có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới. Còn nếu văn bản quy phạm
mới lại quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn thì vẫn áp dụng văn bản
pháp luật cũ vào thời điểm thực hiện hành vi vi phạm.
Tóm lại, trên đây là những nguyên tắc cơ bản cần nghiên cứu, xem
xét khi ban hành, sửa đổi Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008. Khi quy
định về các nguyên tắc này cũng cần lưu ý về mối liên hệ và thứ tự ưu tiên
áp dụng của các nguyên tắc. Ví dụ vừa có văn bản có hiệu lực cao, vừa có
văn bản có hiệu lực thấp, vừa có văn bản pháp luật chung, vừa có văn bản
pháp luật chuyên ngành, vừa có văn bản ban hành trước, vừa có văn bản
ban hành sau thì sẽ áp dụng nguyên tắc nào trước. Căn cứ vào những lý giải
ở trên chúng tôi cho rằng cần phải ưu tiên áp dụng văn bản có hiệu lực cao
trước, sau đó đến nguyên tắc áp dụng văn bản ban hành sau và đến
nguyên tắc áp dụng luật chuyên ngành.
2. Hiệu lực của hệ thống văn bản QPPL quy định chi tiết thi hành
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam có nhiều văn bản có hiệu lực
pháp lý cao như luật, pháp lệnh có chứa đựng những quy định chung, khó
áp dụng trực tiếp vào đời sống, do đó cần được quy định cụ thể, chi tiết
bằng các văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn (Pháp lệnh, Nghị định,
Thông tư, Thông tư liên tịch, Nghị quyết của HĐND và Quyết định của
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
48
UBND…). Các văn bản quy định cụ thể, chi tiết là văn bản phái sinh từ
một văn bản gốc (Hiến pháp, Bộ luật, luật) nên về mặt lý thuyết, khi văn
bản gốc bị mất hiệu lực thì văn bản đó sẽ mất hiệu lực theo.
Hiệu lực của văn bản QPPL được hiểu là khả năng tác động của văn
bản vào các quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở pháp luật hiện hành.
Để mỗi văn bản QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách hiệu quả thì
việc quy định hiệu lực của văn bản QPPL là điều không thể thiếu. Mỗi văn
bản QPPL có hiệu lực khác nhau tùy thuộc vào vị trí, tính chất, mục đích
điều chỉnh của văn bản đó và thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản
QPPL. Hiệu lực của văn bản QPPL quy định chi tiết thi hành được xem xét
trên ba yếu tố là thời gian, không gian và đối tượng thực hiện.
2.1. Về hiệu lực của văn bản QPPL theo thời gian
Hiệu lực theo thời gian của văn bản QPPL là sự tác động của các
quan hệ xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, thể hiện ở thời điểm
bắt đầu có hiệu lực và thời điểm kết thúc hiệu lực. Việc quy định hiệu lực
theo thời gian của văn bản QPPL là rất cần thiết vì các văn bản được ban
hành vào các thời điểm khác nhau, với mục đích điều chỉnh khác nhau
trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định nên chỉ phù hợp khi những điều
kiện đó còn tồn tại. Hiệu lực các văn bản QPPL của các cơ quan nhà nước
ở trung ương theo thời gian được quy định cụ thể từ Điều 78 đến Điều 81
Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008.
Thời điểm có hiệu lực của văn bản QPPL được quy định như sau:
“Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định
trong văn bản nhưng không sớm hơn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày công
bố hoặc ký ban hành. Trong trường hợp văn bản quy định những biện pháp
thi hành trong trường hợp khẩn cấp hoặc văn bản ban hành kịp thời để đáp
ứng yêu cầu phòng chống thiên tai, dịch bệnh “thì có thể có hiệu lực kể từ
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
49
ngày công bố hoặc ký ban hành nhưng phải được đăng ngay trên Trang
thông tin điện tử của cơ quan ban hành và phải được đưa tin trên phương
tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (sau đây gọi chung là Công báo) chậm nhất sau hai ngày làm
việc, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành” (khoản 1 Điều 78 Luật ban
hành văn bản QPPL năm 2008).
So với Luật ban hành văn bản QPPL năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm
2002), quy định về hiệu lực của văn bản QPPL trong Luật ban hành văn
bản QPPL năm 2008 đã có sự thay đổi đáng kể. Nếu như Luật ban hành
văn bản QPPL năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2002), hiệu lực của Luật,
Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội; văn bản QPPL của Chủ tịch nước; văn bản QPPL của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hội đồng
thâm phán Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và các văn bản QPPL liên tịch khác được quy định những thời điểm
có hiệu lực khác nhau thì hiện nay thời điểm có hiệu lực của văn bản QPPL
đã được quy định chung (khoản 1 Điều 78 Luật ban hành văn bản QPPL
năm 2008).
Văn bản QPPL là văn bản có tính dự báo cao. Đồng thời, để tạo sự ổn
định cho hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích của đối tượng tác động
nên văn bản QPPL được quy định áp dụng nhiều lần trong thực tế. Vì vậy,
thời điểm kết thúc của văn bản QPPL thường không được quy định cụ thể.
Tuy nhiên, về mặt lý luận và thực tiễn có thể xác định thời điểm kết thúc
hiệu lực của văn bản QPPL. Điều 81 Luật ban hành văn bản QPPL năm
2008 và khoản 1 Điều 53 Luật ban hành văn bản QPPL của Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân 2004 quy định văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu
lực toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp:
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
50
(i). Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản;
(ii). Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản mới của chính
cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó;
(iii). Bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
(iv). Không còn đối tượng điều chỉnh.
2.2. Hiệu lực của văn bản QPPL theo không gian
Hiệu lực theo không gian của văn bản QPPL là giới hạn phạm vi tác
động của văn bản về mặt không gian, có thể là toàn thể lãnh thổ quốc gia
(Bộ luật, luật, pháp lệnh, Nghị định, Thông tư…), một địa phương hoặc
một vùng nhất định (Nghị quyết của HĐND hoặc Quyết định của
UBND…). Hiệu lực về không gian của văn bản QPPL phụ thuộc vào thẩm
quyền của cơ quan ban hành văn bản, phạm vi và mức độ điều chỉnh của
văn bản. Cơ quan nhà nước ở trung ương là các cơ quan có vị trí đặc biệt
quan trọng, giữ vai trò đầu não chỉ đạo hoạt động của các cơ quan nhà nước
ở địa phương, nên các văn bản QPPL của các cơ quan nhà nước ở trung
ương có hiệu lực trong phạm vi cả nước và được áp dụng đối với mọi cơ
quan, tổ chức, cá nhân, trừ trường hợp văn bản có quy định khác hoặc điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy
định khác (Điều 82 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008).
Hiệu lực về không gian của văn bản QPPL do các cơ quan nhà nước ở
trung ương ban hành có thể có hoặc không được nêu cụ thể trong các văn
bản QPPL. Trong trường hợp hiệu lực không được quy định cụ thể như
vậy, chúng ta có thể căn cứ vào tính chất quan hệ xã hội được điều chỉnh,
cũng như phạm vi điều chỉnh của các văn bản để xác định hiệu lực về
không gian.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
51
2.3. Hiệu lực của văn bản QPPL theo đối tượng thực hiện
Hiệu lực về đối tượng thực hiện được hiểu là các cơ quan nhà nước
ban hành văn bản QPPL giao cho một hoặc nhiều chủ thể có trách nhiệm
triển khai, áp dụng và tổ chức thi hành văn bản của mình. Để văn bản
QPPL của các cơ quan nhà nước ban hành được thực hiện một cách nghiêm
chỉnh và thực sự đi vào cuộc sống thì vai trò của đối tượng thi hành các văn
bản đó là rất quan trọng. Theo nguyên tắc, đối tượng thực thi các văn bản
QPPL là các cơ quan cấp dưới của cơ quan ban hành văn bản QPPL. Thực
hiện nhiệm vụ của mình, các chủ thể là đối tượng thực hiện tiến hành quy
định chi tiết, hướng dẫn thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản QPPL
hoặc có khi chỉ quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi hành một điều, khoản
cụ thể được giao trong các văn bản QPPL đó. Ngoài ra, các chủ thể là đối
tượng thi hành còn thực hiện hướng dẫn các nội dung khác phù hợp với yêu
cầu quản lý nhà nước.
Ví dụ: Chính phủ ban hành Nghị định chi tiết để thi hành Luật của
Quốc hội; Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ được
ban hành để quy định chi tiết Nghị định của Chính phủ; Nghị quyết của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được ban hành để hướng dẫn các
Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật…
Trên thực tế các văn bản QPPL quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành thường được cá nhân, tổ chức biết và áp dụng nhiều. Điều đó đòi hỏi
trách nhiệm của các chủ thể áp dụng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật
và đối tượng thụ hưởng cần phải được quy định rõ ràng, chi tiết trong từng
văn bản QPPL.
3. Một số kiến nghị về nguyên tắc áp dụng văn bản QPPL và
hiệu lực của văn bản QPPL quy định chi tiết thi hành trong dự thảo
Luật ban hành văn bản QPPL
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
52
Qua việc tìm hiểu các nguyên tắc áp dụng văn bản QPPL và hiệu lực
của văn bản QPPL quy định chi tiết thi hành, chúng tôi có một số ý kiến
như sau:
Thứ nhất, chúng tôi đồng quan điểm với Ban soạn thảo xây dựng dự
án Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở hợp nhất Luật ban
hành văn bản QPPL năm 2008 và Luật ban hành văn bản QPPL của Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 để khắc phục những bất cập,
chồng chéo, mâu thuẫn hiện nay như tính hợp lý trong quy trình đề xuất,
thông qua sáng kiến pháp luật (còn quá rườm rà, thiếu tính chủ động, linh
hoạt...); chất lượng của văn bản còn nhiều hạn chế (thường xuyên phải sửa
đổi, bổ sung do thiếu cơ kiểm soát trước và sau khi ban hành); bảo đảm tính
dân chủ và sự tham gia rộng rãi của Nhân dân trong quá trình xây dựng, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật còn hình thức; tổ chức thi hành pháp luật
chưa được chú trọng đúng mức10 nhằm đảm bảo tính chặt chẽ, thống nhất và
tính khả thi của văn bản.
Thứ hai, về nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật, cần
quy định rõ thứ bậc pháp lý của các văn bản QPPL trong hệ thống pháp luật
(Hiến pháp, Bộ luật, luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư, Nghị quyết của
HĐND, Quyết định của UBND….). Văn bản QPPL nào có hiệu lực pháp lý
cao, văn bản QPPL nào có hiệu lực pháp lý thấp; và phải tuân thủ đúng
nguyên tắc văn bản QPPL thấp phải phù hợp với văn bản QPPL cao hơn và
việc áp dụng các văn bản QPPL phải phù hợp với Hiến pháp.
Thứ ba, ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
luật một cách thống nhất, rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp dụng; và cần làm rõ trong
trường hợp xung đột pháp luật thì những trường hợp nào ưu tiên áp dụng
luật chuyên ngành… 10 Báo cáo thẩm định số 62/BC-HĐTĐ ngày 09/7/2014 về dự án Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
53
Thứ tư, chúng tôi nhất trí quy định thời điểm có hiệu lực theo như dự
thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Điều 129):
(1). Thời điểm có hiệu lực của toàn bộ hoặc một phần văn bản pháp luật
được quy định tại văn bản đó nhưng không sớm hơn bốn mươi lăm ngày, kể
từ ngày công bố hoặc ký ban hành đối với văn bản pháp luật của cơ quan nhà
nước trung ương và không sớm hơn mười ngày, kể từ ngày ký ban hành đối
với văn bản pháp luật của chính quyền cấp tỉnh.
(2). Văn bản pháp luật được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn thì
có thể có hiệu lực kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành nhưng phải được
đăng ngay trên Trang thông tin điện tử về xây dựng pháp luật của Chính
phủ, Cổng thông tin điện tử của cơ quan ban hành và phải được đưa tin trên
phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hoặc Công báo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chậm
nhất sau hai ngày làm việc, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành.
Tuy nhiên, để văn bản có hiệu lực và thi hành ngay, chúng ta cần
phải khắc phục tình trạng văn bản đã có hiệu lực nhưng vẫn không được
thực hiện do phải đợi (chờ) văn bản hướng dẫn thi hành11. (Luật đợi (chờ)
Nghị định, Nghị định đợi (chờ) Thông tư).
Thứ năm: Điều 133 dự thảo quy định Hiệu lực về không gian, điểm b
khoản 2 cần chú ý khi 2 pháp nhân, tổ chức liên kết với nhau tạo thành
pháp nhân, tổ chức mới thì đó là hình thức “hợp nhất” chứ không phải
“sáp nhập” (Điều 94, 95 BLDS 2005). Ban soạn thảo cần lưu ý thuật ngữ
này để quy định của pháp luật được chuẩn xác và thống nhất.
Thứ sáu: về việc áp dụng văn bản pháp luật tại Điều 134 dự thảo, từ
việc phân tích nguyên tắc có lợi cho đối tượng áp dụng được phân tích ở 11 Báo cáo số 06b/BC-BTP ngày 09/01/2014 về Tổng kết thi hành Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008 và Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
54
trên chúng tôi cho rằng khoản 4 cần phải có sự tách biệt rạch ròi giữa trách
nhiệm đối với Nhà nước và trách nhiệm đối với các chủ thể khác. Chỉ trong
trường hợp trách nhiệm pháp lý đối với Nhà nước được miễn hoặc giảm thì
mới áp dụng văn bản mới.
Thứ bảy, tổ chức tiến hành rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành để từ đó phát hiện kịp thời và xử lý nhanh chóng
những văn bản QPPL ban hành vi phạm quy định tại điều 3 Nghị định số
40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn
bản quy phạm pháp luật.
Thứ tám, về cơ chế đảm bảo: Hoàn thiện thể chế và bộ máy làm công
tác xây dựng văn bản QPPL từ Trung ương đến địa phương; sớm ban hành
chế độ phụ cấp nghề cho cán bộ làm công tác văn bản, pháp chế; Tăng
cường bồi dưỡng nguồn nhân lực, hướng dẫn nghiệp vụ công tác văn bản
cho các địa phương, đảm bảo từng bước chuyên môn hóa đội ngũ này./.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
55
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM
TS. Nguyễn Thanh Bình
1. KHÁI QUÁT CHUNG
Như chúng ta đều biết, hoạt động áp dụng pháp luật là việc các cơ
quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào các
văn bản các quy phạm pháp luật hiện hành để ra quyết định hay giải quyết
một vấn đề cụ thể trong hoạt động lập pháp, hành pháp hay tư pháp.
Hoạt động áp dụng pháp luật có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn vì nó tác
động trực tiếp đến quá trình kinh tế, văn hóa xã hội và hành vi ứng xử của
cá nhân, tổ chức. Khi áp dụng quy phạm pháp luật, các chủ thể có thẩm
quyền nêu trên ban hành các các quyết định hay thực hiện hành vi công vụ
để tổ chức việc thực hiện pháp luật một cách trực tiếp đối với các đối tượng
có liên quan. Hoạt động này trực tiếp làm phát sinh các hậu quả pháp lý là
làm xuất hiện hay điều chỉnh các quyền, nghĩa vụ cụ thể của các đối tượng
đó.
Với ý nghĩa như vậy, hoạt động áp dụng pháp luật có vai trò vô cùng
to lớn đối với đời sống xã hội. Hoạt động áp dụng pháp luật một mặt có
mối quan hệ hữu cơ với chính hệ thống pháp luật. Một mặt nó trực tiếp tác
động đến các quan hệ xã hội nên chiều hướng phát triển của xã hội tốt hay
tiêu cực, một phần rất lớn phụ thuộc váo hoạt động áp dụng này.
Về mối quan hệ với hệ thống pháp luật, nếu dựa trên cơ sở là các
điều luật có nội dung, mục đích rõ ràng, đúng đắn, tích cực… thì hoạt động
áp dụng pháp luật sẽ thuận lợi và có hiệu quả cao. Ngược lại, nếu cơ sở
pháp lý là những điều luật chung chung, không rõ ràng, mâu thuẫn, mục
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
56
đích mờ nhạt thì việc áp dụng sẽ rất khó khăn, hiệu quả sẽ không cao và
thậm chí còn phản tác dụng.
Về sự tác động đến đời sống xã hội, hoạt động áp dụng pháp luật về
tự thân nó đã liên quan đến đến nhiều quan hệ xã hội đồng thời nó tạo nên
các “cú hích” - các sự kiện pháp lý, xác định hành lang, quỹ đạo vận động
của các quan hệ xã hội. Hay nói cách khác, chính vì có hoạt động áp dụng
pháp luật mà cá nhân, tổ chức buộc phải thực hiện các hành vi ứng xử theo
đúng nội dung và mục đích của các văn bản, các điều luật.
Tự thân hoạt động áp dụng pháp luật tạo nên mối quan hệ đến nhiều
quan hệ xã hội thể hiện ở chỗ việc áp dụng pháp luật là một quá trình gồm
nhiều hành vi, qua các giai đoạn kế tiếp khác nhau như xác định đối tượng,
mục tiêu điều chỉnh, lựa chọn điều luật áp dụng, xác định trình tự, thủ tục
áp dụng, lên kế hoạch, chương trình và ra quyết định áp dụng. Những hoạt
động này tự nó đã tạo nên hàng loat các mối liên hệ như chuẩn bị đội ngũ
chuyên gia, cán bộ giúp việc, dự thảo, chuẩn bị nguồn tài chính bảo đảm, tổ
chức tuyên truyền và lực lượng vật chất cho việc bảo đảm thực hiên các
quyết định …
Có thể nói hoạt động áp dụng pháp luật là một vấn đề cực kỳ khó
khăn, một cơ chế phức tạp bao gồm hoạt động của rất nhiều cơ quan, bộ
phận, nhiều mắt xích khác nhau, thông qua nhiều công đoạn, thủ tục khác
nhau, với những mối quan hệ chằng chịt về vật chất, về pháp luật, về tổ
chức, kỹ thuật, tâm lý và những mối liên hệ khác.
Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được
thực hiện bởi những cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hoặc
các tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền, thông qua những trình tự thủ
tục chặt chẽ mà pháp luật quy định nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp
luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân tổ chức cụ thể.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
57
Với quan niệm như vậy, việc áp dụng pháp luật có một số điểm đáng chú ý
như sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực
nhà nước. Tính tổ chức : áp dụng pháp luật là hình thức thông qua đó Nhà
nước tổ chức cho các chủ thể khác trong xã hội thực hiện nghiêm chỉnh các
quy định của pháp luật. Tính quyền lực Nhà nước thể hiện ở : áp dụng pháp
luật luôn được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền ,hoạt động của áp
dụng pháp luật luôn được tiến hành trên cơ sở nhân danh Nhà nước, thay
mặt Nhà nước và quyết định áp dụng pháp luật luôn mang tính đơn phương
thể hiện ý chí của chủ thể áp dụng pháp luật mà không có sự thông nhất ý
chí với người được áp dụng hoặc bị áp dụng pháp luật . Vậy nên áp dụng
pháp luật có tính chất bắt buộc đối với chủ thị bị áp dụng và các chủ thể có
liên quan .
Thứ hai áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh mạng tính cá
biệt,cụ thể đối với những quan hệ xã hội nhất định. Ví dụ, quyết định thu
hồi đất của một công dân nào đó để thực hiện một dự án phát triển kinh tế -
xã hội. ( Chú ý : các quy phạm được áp dụng phải là các quy phạm pháp
luật hiện hành hay các quy phạm đang còn hiệu lực pháp lí .) Ngoài ra áp
dụng pháp luật còn có một số điểm nữa là: áp dụng pháp luật là hoạt động
đòi hỏi tính sáng tạo, bởi vì các quy định của pháp luật thường mang tính
chất chung, khái quát, song các vụ việc xảy ra trong thực tế lại rất đa dạng,
phong phú nên muốn đưa ra được quyết định đúng đắn, chính xác, để giải
quyết vụ việc cần giải quyết thì đòi hỏi phải có tính sáng tạo của người áp
dụng và đặc điểm áp dụng pháp luật hoạt động phải tuân theo những hình
thức và thủ tục chặt chẽ do luật quy định .( Do tính chất quan trọng và phức
tạp của áp dụng pháp luật ).
2. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
58
Trong thực tiễn, hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành trong
một số trường hợp sau :
Một là khi quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt .Ví dụ trong Hiến pháp và các văn bản
luật đã thừa nhận quyền và nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc của công dân, song
công dân chỉ có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ ấy khi được gọi nhập ngũ
để thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Hai là khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các
chủ thể mà họ không tự giải quyết được với nhau và yêu cầu có sự can
thiệp của một chủ thể có thẩm quyền.
Ba là khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước .Có thể áp
dụng pháp luật đối với chủ thể vi phạm pháp luật nhưng cũng có thể không
vi phạm pháp luật .Ví dụ như áp dụng biện pháp cưỡng chế để cách li và
chữa trị đối với người mắc bệnh truyền nhiễm để tránh lây lan ra cộng
đồng. Áp dụng pháp luật chịu sự quy định, ảnh hưởng của nhiều yếu tố
thuộc cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng pháp lý. Và sau đây là
những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng pháp luật:
Thứ nhất , hoạt động áp dụng pháp luật có liên quan rất chặt chẽ với
hoạt động xây dựng pháp luật. Để thực hiện và áp dụng pháp luật có hiệu
quả trước hết phải có pháp luật tốt. Nói cụ thể hơn là phải có một hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh , đồng bộ , sát thực tế, phù hợp với các quy luật khách
quan của sự phát triển kinh tế-xã hội, phù hợp với những điều kiện kinh tế ,
chính trị,văn hóa xã hội, tâm lí, tổ chức .mà trong đó pháp luật sẽ tác động,
đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi của đất nước ở mỗi thời kì phát triển . Sau
khi đã ban hành pháp luật, vấn đề quan trọng có ảnh hưởng tới việc thực
hiện , áp dụng pháp luật là tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho
cán bộ và nhân dân để mọi người nắm được các quy định của pháp luật, từ
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
59
đó họ có ý thức tự giác tuân theo pháp luật.
Thứ hai là trình độ pháp lí của cán bộ, nhân dân trong xã hội và sự
sáng tạo của mỗi cơ quan hoặc tổ chức. Sự hoàn thiện của hoạt động áp
dụng pháp luật đòi hỏi trình độ văn hóa pháp lí cao của cán bộ và nhân dân
trong xã hội.Vì vậy cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp
luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân , tạo lòng tin của nhân
dân vào pháp luật để từ đó họ có những hành vi pháp luật tích cực, biết sử
dụng pháp luật vào việc bảo vệ quyền , lợi ích hợp pháp của mình cũng như
của người khác và đấu tranh không khoan nhượng với các hiện tượng tiêu
cực , vi phạm pháp luật trong xã hội. Trong tổ chức và hoạt động của các
cơ quan áp dụng pháp luật phải đảm bảo tính năng động , chủ động, sáng
tạo , sự độc lập của mỗi cơ quan hoặc mỗi bộ phận đồng thời đảm bảo sự
phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan, giữa các bộ phận cùng
tham gia áp dụng pháp luật cũng như sự phối hợp, hợp tác giữa các cơ quan
áp dụng pháp luật với các cơ quan khác của Nhà nước hoặc với các tổ chức
xã hội.
Thứ ba là các văn bản áp dụng pháp luật. Bởi tính hiệu quả của hoạt
động áp dụng pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng, sự tác động của
các văn bản áp dụng pháp luật. Quá trình áp dụng pháp luật phải thông qua
một số giai đoạn nhất định, các giai đoạn đó được thực hiện nhờ sự trợ giúp
của các văn bản áp dụng pháp luật. Hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp
luật phụ thuộc rất nhiều vào văn bản áp dụng pháp luật. Do vậy các văn bản
áp dụng pháp luật phải được ban hành phù hợp với một số yêu cầu sau :
văn bản áp dụng pháp luật phải hợp pháp, nghĩa là nó được ban hành đúng
thẩm quyền hoặc nhà chức trách chỉ được ban hành một số văn bản áp dụng
pháp luật nhất định theo quy định của pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
60
phải được ban hành có cơ sở thực tế, nghĩa là nó được ban hành căn cứ vào
những sự kiện, những đòi hỏi thực tế đầy đủ, chính xác và đáng tin cậy.
Thứ tư, hoạt động hiệu quả của các cơ quan áp dụng pháp luật còn
thể hiện ở sự thông thạo các công việc mà họ đảm nhận và thực hiện chúng
với tinh thân trách nhiệm cao, tránh hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách
nhiễu, trì trệ, giấy tờ hình thức hoặc thờ ơ lãnh đạm đối với số phận, tính
mạng con người, với tài sản của Nhà nước và của nhân dân .Thực tế cho
thấy sự quan liêu, chậm trễ, thiếu tinh thần trách nhiệm của các cơ quan.
Nhà nước có thẩm quyền hoặc một số cán bộ có chức có quyền trong việc
giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân dẫn đến nhiều vụ việc
đơn giản lại trở nên phức tạp, nhiều sự oan ức bất bình trong nhân dân
không giải quyết được gây ra hậu quả không thể lường trước.
Thứ năm, sự hoàn thiện của hoạt động áp dụng pháp luật còn thể
hiện ở những điều kiện vật chất-kỹ thuật cần thiết bảo đảm cho hoạt động
áp dụng pháp luật được tiến hành bình thường .( Ví dụ như kinh phí để thực
hiện áp dụng pháp luật .) . Hoạt động áp dụng pháp luật phải luôn tuân theo
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tất cả các công đoạn, đấu tranh
không khoan nhượng với những biểu hiện vi phạm pháp luật, những hành
vi áp dụng pháp luật không đúng, không phù hợp .
Trong thực tiễn, các yêu cầu đặt ra cho việc áp dụng pháp luật được
xem có ý nghĩa hàng đầu là:
+ Việc áp dụng pháp luật phải đúng với nội dung, mục đích của điều
luật được áp dụng
+ Qúa trình hoạt động áp dụng pháp luật có thể do nhiều chủ thể
khác nhau tham gia nhưng việc ra các quyết định áp dụng phải do các chủ
thể có thẩm quyền thực hiện. Các chủ thể đó có thể là cơ quan tư pháp (Ra
bản án hay quyết định giải quyết vụ án). Cơ quan hành chính (quyết định
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
61
thu hồi đất của UBND huyện, quyết định xử lý thuế của cơ quan thuế
vụ…), của cơ quan lập pháp (Như nghị quyết của quốc hội về phê chuẩn
ngân sách của chính phủ, phê chuẩn Điều ước quốc tế…)
+ Áp dụng pháp luật phải được thực hiện theo đúng trình tự thủ tục,
hay trình tự tố tụng do pháp luật quy định
+ Áp dụng pháp luật phải tuân thủ đúng thời hạn, thời hiệu do pháp
luật quy định
+ Kết quả áp dụng pháp luật phải được công bố công khai, chính
thức, có tính khả thi và được bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh.
Hoạt động áp dụng pháp luật một mặt nhằm đặt được những mục đích xã
hội mà vì chúng mà người ta ban hành pháp luật, mặt khác còn cho phép
làm rõ một số nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hiệu quả thấp hoặc không có
hiệu quả của một số quy phạm pháp luật để từ đó có thể đưa ra được những
giải pháp hữu hiệu cho việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật
hiện hành và cơ chế đưa pháp luật vào cuộc sống. Sự hoàn thiện của hoạt
động áp dụng pháp luật sẽ hình thành và phát triển từng bước cùng với sự
hoàn thiện, phát triển của hệ thống pháp luật, của sự nâng cao ý thức pháp
luật của cán bộ và nhân dân cùng các điều kiện khác của đất nước.
3. LIÊN HỆ XEM XÉT TÍNH HỢP PHÁP QUYẾT ĐỊNH
HÀNH CHÍNH ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤT ĐAI.
Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai (
sau đây gọi tắt là Quyết định hành chính về đất đai, viết tắt là QĐHCVĐĐ)
là một dạng cụ thể của quyết định hành chính - kết quả của quá trình áp
dụng pháp luật về đất đai trong lĩnh vực quản lý nhà nước (hành pháp). Ở
Việt Nam, theo quan niệm chung: quyết định hành chính là văn bản do cơ
quan hành chính nhà nước, cơ quan tổ chức khác hoặc của người có thẩm
quyền trong cơ quan tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
62
trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc
một số đối tượng cụ thể (xem Điều 3, khoản 1 luật tố tụng hành chính ).
Như vậy, loại quyết định trên do cơ quan hành chính nhà nước ban
hành trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai được áp dụng một lần đối
với một hoặc một số đối tượng cụ thể thì gọi là QĐHCVĐĐ. Hay nói một
cách đầy đủ hơn, với tư cách là một định nghĩa thì QĐHCVĐĐ được phát
biểu như sau:
QĐHCVĐĐ là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm
quyền ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý
nhà nước về đất đai được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối
tượng cụ thể.
Theo quan niệm trên, QĐHCVĐĐ có một số đặc điểm riêng:
Thứ nhất, QĐHCVĐĐ là loại quyết định do cơ quan nhà nước CÓ
THẨM QUYỀN ban hành.Đặc điểm này được xác định bởi các quy định
trong luật đất đai ( năm 2003 ) và có hiệu lực pháp lý cao nhất ( chỉ sau
hiến pháp ).
Nội dung quản lý nhà nước về đất đai đươc quy định tại Điều 6, khoản
2 của luật đất đai 2003 bao gồm:
a, Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất
đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó;
b, xác định địa giới hành chính hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa
giới hành chính, lập bản đồ hành chính;
c, Khảo sát , đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính,
bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất;
d, Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
đ, Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử
dụng đất;
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
63
e, Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất;
g, Thống kê, kiểm kê đất đai;
i, Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường
bất động sản;
k, Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất;
l, Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất
đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai;
m, Giair quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các
vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai;
n, Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
Trong quá trình quản lý hành chính nhà nước và ở phạm vi nội dung
trên, chỉ có các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được ban hành các
quyết định hành chính để áp dụng cho một hoặc một số đối tượng cụ thể.
Thẩm quyền này được phân cấp và quy định rất cụ thể trong luật đất đai
2003, tại các Điều 26 ( thẩm quyền quyết định,xét duyệt quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất ), Điều 37 ( thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất ),Điều 44 (thẩm quyền thu hồi đất ), Điều 52
( thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ).
Đáng chú ý là khi ban hành các quyết định trên, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền không được ủy quyền. Trong trường hợp cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì các cơ quan có thẩm quyền ( ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ) được ủy quyền cho cơ
quan quản lý đất đai cùng cấp nhưng phải đủ điều kiện do chính phủ quy
định.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
64
Thứ hai, QĐHC V Đ Đ là loại quyết định được ban hành theo các
trình tự thủ tục do 2 loại pháp luật quy định ( trừ quyết định xét duyệt quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất của Quốc hội, quyết định cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương ban hành ) là pháp luật đất đai và pháp luât về tổ chức
Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân hoăc pháp luật về tổ chức chính phủ
( đối với các quyết định thuộc thẩm quyền của chính phủ).
Theo luật đất đai 2003, trình tự thủ tục ban hành các quyết định trên
được quy định tại các điều từ 122 đến 131. Các thủ tục này được quy định
khá cụ thể và chi tiết trong chương XI nghị định 181/2004/NĐ – CP Ngày
29/10/2004 của chính phủ và các văn bản khác.
Mặt khác, theo pháp luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân thì việc ban hành một văn bản của ủy ban nhân dân đòi hỏi phải tuân
thủ nghiêm chỉnh các quy định về trình tự thủ tục do hệ thống các văn pháp
luật này quy định. Cụ thể là:
+ QĐHC V Đ Đ của UBND cấp xã phải được ban hành đúng trình
tự thủ tục dược quy định tại Điều 3, 16, 17 quy chế làm việc mẫu ban hành
theo quyết định số 77/2006/QĐ – TTg ngày 13/4/2006 của Thủ tướng
chính phủ;
+ QĐHC VĐĐ của UBND cấp huyện phải được ban hành đúng
trình tự thủ tục quy định tại các Điều 3, 14, 15, 17 quy chế làm việc mẫu
ban hành theo quyết định số 75/2006/QĐ – TTg ngày 12/4/2006 của Thủ
tướng chính phủ;
+ QĐHC VĐ Đ của UBND cấp tỉnh phải được ban hành đúng trình
tự, thủ tục quy định tại các Điều 3, 14, 15, 16, 17… quy chế làm việc mẫu
ban hành theo quyết định số 53/2006/QĐ – TTg ngày 08/3/2006 của Thủ
tướng chính phủ;
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
65
+ QĐHC VĐ Đ của chính phủ phải được ban hành đúng trình tự thủ
tục do pháp luật về tổ chức chính phủ quy định.
Thứ ba, QĐHC VĐ Đ là loai quyết định cá biệt.Đây là loại quyết
định có hiệu lưc một lần để áp dụng đối với một hoặc một số đối tượng cụ
thể. Các đối tượng này có tên gọi và địa chỉ cụ thể chứ không áp dụng
chung như các văn bản quy phạm pháp luật.
Qua trình bày trên, dựa vào nội dung quản lý nhà nước về đất đai,
thì QĐHC VĐ Đ là khá đa dạng nhưng chủ yếu được xếp thành 12 loại
tương ứng với từng nội dung của quản lý nhà nước về đất đai.
2. Nhận diện tính trái pháp luật của QĐHCVĐĐ.
Như chúng ta đã biết, trong tời gian qua, đăc biệt là trong khoảng
10 năm trở lại đây tình hình khiếu kiện hành chính về đất đai có diễn biến
phức tạp và theo chiều hướng ngày càng gia tăng. Đây là loại khiếu kiện
chiếm tỷ lệ áp đảo trong các khiếu kiện hành chính chiếm đến hơn 70% có
thời điểm hơn 80%. Khiếu kiện hành chính về đất đai bắt nguồn từ việc
người khiếu kiện cho rằng do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành các QĐHC VĐ Đ, hoặc thực hiện nành vi hành chính trái pháp luật,
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ chủ yếu là quyền sử dụng
đất hoặc các lợi ích khác gắn liền với quyền sử dụng đất…
Đảng và nhà nước ta đã có nhiều biện pháp nhằm giải quyết, hạn chế
tình hình khiếu kiện trên nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình hình khiếu kiện nêu trên nhưng chủ yếu xuất
phát từ những nguyên nhân sau:
1, Do không nắm vững quy định của pháp luật nên dẫn đến ban hành
QĐHC VĐ Đ trái pháp luật;
2, Có tình trạng tiêu cực, tham nhũng;
3, do người dân không hiểu pháp luật, thấy giá trị quyền sử dụng đất
quá lớn nên khiếu kiện để mưu lợi;
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
66
4, Do cơ quan nhà nước hoặc cán bộ công chức có thẩm quyền
không nhận diện được tính trái pháp luật của các QĐHC VĐ Đ nên giải
quyết khiếu kiện không đúng hoặc do nể sợ chính quyền …
Mặc dù có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng suy cho cùng nếu
việc ban hành các QĐHC VĐ Đ đúng pháp luật chắc chắn khiếu kiện trong
lĩnh vực này sẽ được hạn chế rất nhiều hay nói cách khác hạn chế việc ban
hành các QĐHC VĐ Đ bất hợp pháp là hạn chế được nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến tình hình khiếu kiện nêu trên.
Với ý nghĩa như vậy, việc tìm ra các yếu tố bất hợp pháp hay nhận
diện được tính bất hợp pháp của QĐHC VĐ Đ sẽ có tác dụng vô cung to
lớn vừa có tác dụng nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực của quản lý
nhà nước vừa đảm bảo an ninh trật tư, an toàn xã hội, chống mọi biểu hiên
của tình trang tiêu cực, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất
đai…
Việc nhận diện được tính bất hợp pháp của QĐHC VĐ Đ một mặt
giúp cơ quan nhà nước, những cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ soạn
thảo đặc biệt là người có thẩm quyền thay mặt cơ quan ký ban hành các
QĐHC VĐ Đ có kiến thức, có căn cứ và kinh nghiệm để ban hành các
quyết định này đúng pháp luật. Mặt khác giúp cơ quan, cán bộ công chức
có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện chuẩn xác, giúp người dân có căn cứ
để khiếu kiện và khiếu kiện đúng pháp luật.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật, nghiên cứu thực tế hoạt động
ban hành, hoạt động khiếu kiện và giải quyết khiếu kiện QĐHC VĐ Đ,
chúng ta thấy muốn biết một QĐHC VĐ Đ có bất hợp pháp hay không,
cần dựa vào những căn cứ sau :
Một là, tính bất hợp pháp về thẩm quyền ban hành hoặc ký QĐHC
VĐ Đ. Như đã phân tích trên, việc ký hay ban hành QĐHC VĐ Đ được
pháp luật đất đai, pháp luật về tổ chức chính phủ, tổ chức hội đồng nhân
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
67
dân,UBND quy định rất rõ ràng, chạt chẽ, nghiêm ngặt và cụ thể. Do đó
một QĐHC VĐ Đ nào được ký, ban hành không đúng thẩm quyền thì
quyết định đó là quyết định bất hợp pháp. Hầu hết các QĐHC VĐ Đ là QĐ
của tập thể cơ quan ( chính phủ, UBND các cấp ) trừ các quyết định mà
UBND cấp tỉnh ủy quyền cho cơ quan quản lý đất đai cùng cấp ( xem
khoản 3 Điều 52 luật đất đai 2003 ). Nếu phát hiện quyết định bất hợp pháp
về thẩm quyền thì quyết định này phải bị hủy bỏ.
Hai là. Tính bất hợp pháp về trình tự thủ tục ban hành QĐHC VĐ Đ.
Yếu tố này cũng đã được trình bày trong đặc điểm 2 nêu trên. Do vậy, khi
ký hay ban hành quyết định này đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải tuân thủ nghiêm ngặt ( xem chương V Luật đất đai 2003,
chương XI Nghị định số 181/2004/NĐ – CP, các điều khoản thích ứng
trong các văn bản pháp luật về tổ chức chính phủ về tổ chức HĐND &
UBND, quy chế làm việc mẫu …). Không tuân thủ các quy định này chủ
yếu do tiêu cưc, tham nhũng hoặc vì những lý do khất tất khác. Do vậy khi
thấy một quyết định trên có dấu hiệu bất hợp pháp về trình tự thủ tục thì
không được ký hay ban hành hoặc đã ban hành rồi phải nhất thiết hủy bỏ.
Ba là, tính bất hợp pháp về thơi hạn ban hành quyết định. Trong một
số quyết định và trong nhiều trường hợp, muốn ký hay ban hành một
QĐHC VĐ Đ, pháp luật quy định phải nghiêm chỉnh tuân thủ điều kiện về
mặt thời gian. Nghĩa là môc thời gian mà trong hoăc ngoài thời hạn đó phải
ban hành hoặc mới được ban hành.
Thực tế cho thấy những quyết định ban hành không đúng quy định
về mặt thời gian chủ yếu là do tiêu cực, tham nhũng, khuất tất hoăc xâm
phạm lợi ích của tổ chức, cá nhân… Loai quyết định bất hợp pháp dạng này
cũng bị khiếu kiện khá nhiều.Các cơ quan, cán bộ công chức có thẩm
quyền cần nhận diện rõ tính bất hợp pháp dạng này cần ngăn chặn, không
được ký hay ban hành. Nếu phát hiện quyết định đã ban hành thuộc dạng
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
68
này cần phải hủy bỏ ( ví dụ : xem Điều 130 Nghị định 181/2004/NĐ –
CP… )
Bốn là, tính bất hợp pháp về cơ sở pháp lý. Tuyệt đại đa số QĐHC
VĐ Đ đều được ban hành trên cơ sở quy định của pháp luật đất đai, pháp
luật tổ chức HĐND & UBND, hoặc pháp luật về tổ chức chính phủ. Trong
thể thức của QĐHC VĐ Đ, cơ sở pháp lý được viện dẫn và thể hiện ở phần
đầu của quyết định ( phần phía dưới Quốc hiệu… ). Yêu cầu của tính hợp
pháp về cơ sở pháp lý đòi hỏi phải quyết định phải viện dẫn một các đầy
đủ, chính xác các điều khoản pháp luật có hiệu lực và phải khớp đúngvới
nội dung của quyết định.
Trong thực tế, có một số QĐHC VĐ Đ, được ban hành nhưng không
viện đẫn các điiều khoản tương thích của pháp luật đất đai, pháp luật tổ
chức HĐND & UBND, hoặc có viện dẫn nhưng các điều khoản được viện
dẫn đã hết hiệu lưc pháp luật hay viện dẫn một văn bản pháp luật mâu
thuẫn với một văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, viện dẫn một văn bản
không đúng đói tượng áp dụng … Đây là loại văn bản không có giá trị do
đó nếu phat hiên được thì cần phải hủy bỏ.
Năm là, bất hợp pháp về đối tượng áp dụng. QĐHC VĐ Đ được ban
hành là để áp dụng đối với một hoăc một số đối tượng cụ thể. Do vậy
QĐHC VĐ Đ ban hành áp dụng không đúng đói tượng thì quyết định đó là
quyết định bất hợp pháp. Ví dụ quyết định thu hồi đất áp dụng cho các đối
tượng không thuộc một trong 12 trừơng hợp được quy định tại diều 38 của
luật đất đai 2003… QĐHC VĐ Đ có dấu hiệu bất hợp pháp về đối tượng áp
dụng cũng phải bị hủy bỏ.
Ngoài ra QĐHC VĐ Đ còn bất hợp pháp vì tình tiết khách quan
dung làm căn cứ để ban hành quyết định không phù hợp với nội dung của
quyết định…
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
69
Như vậy, khi xem xét, đánh giá một quyết định nào đó có bất hợp
pháp hay không chúng ta chỉ cần xác định một quyết đinh chỉ có một dấu
hiệu bất hợp pháp trong số các dấu hiệu trên đây đều là quyết định bất hợp
pháp.
Nghiên cứu, xác định các dấu hiệu nêu trên có vai trò tác dụng vô
cùng to lớn cho việc đảm bảo hiệu quả, hiệu lực của QĐHC VĐ Đ. Tác
dụng đó được biểu hiện cụ thể ở những mặt cụ thể sau đây:
Trước hết, từ các dấu hiệu nêu trên sẽ giup người dân phát hiện chính
xác tính bất hợp pháp của QĐHC VĐ Đ, qua đó sẽ khiếu kiện đúng, tránh
được tình trạng mơ hồ, thiếu căn cứ góp phần đấu tranh phòng chống hành vi
vi phạm pháp luật của chính các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý nhà
nước trong lĩnh vực đất đai.
Thứ hai, cũng từ các căn cứ này giúp nhà nước nhận diện được những
biểu hiện tiêu cực, tham nhũng về đất đai, về tài sản ( tiền bồi thường, đền bù,
hỗ trợ tái định cư… ). Việc nhận diện này thông qua quá trình phân tích sự coi
thường pháp luât, những biểu hiện khuất tất trong quá trình soạn thảo, ban
hành các QĐHC VĐ Đ của cán bộ, công chức, của các cơ quan có trách
nhiệm trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai.
Thứ ba, đối với các cán bộ, công chức có trách nhiệm xem xét giải
quyết khiếu nại, tố cáo thì việc dựa vào các căn cứ nhận diện tính bất hợp
pháp của QĐHC VĐ Đ sẽ có tác dụng tích cực trong việc nâng cao trình độ,
năng lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm, chất lượng xem xét giải
quyết khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức đối với các quyết định hành
chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai.
Việc nhận diện được tính bất hợp pháp của QĐHC VĐ Đ cũng giúp
cho các tòa án, đội ngũ thẩm phán khắc phục được tình trạng hạn chế, yếu
kém về kiến thức quản lý hành chính nhà nước về pháp luật hành chính ( cả
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
70
hình thức và nội dung ); khắc phục được tình trạng phụ thuộc, ỷ lại quyền lực
để xem xét, giải quyết vụ án hành chính trái pháp luật.
Thứ tư, việc nhận diên được tính bất hợp pháp của các QĐHC VĐ Đ,
còn có tác dụng to lớn giúp người dân, cộng đồng, xã hội; giúp các cơ quan
nhà nước kiểm tra, giám sát một cách có hiệu quả việc tuân theo pháp luật,
làm đúng pháp luật của cơ quan hay cán bộ quản lý nhà nước trong lĩnh vực
đất đai.
Quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta là một lĩnh vực quản lý nhà nước
có đối tượng quản lý đặc thù so với đại đa số các nước trên thế giới. Do đất
đai là loại tư liệu sản xuất đặc biệt thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại
diện chủ sở hữu. Do vậy việc nhà nước vừa là đại diện chủ sở hữu vừa là chủ
thể quản lý ( vừa đá bóng vừa thổi còi ) nếu không có trình độ, năng lực quản
lý khoa học, không có cơ chế kiểm tra, giám sát trung thực, khách quan… đối
với lĩnh vực quản lý này sẽ dẫn đến việc áp dụng pháp luật có thể sai trái, vi
phạm gây thiệt hại lớn và lâu dài ảnh hưởng xấu đến kinh tế, xã hội và sự
phát triển, tiến bộ của đất nước.