ghi ta cơ bản

21
Biên son: Nguyn quc lương [email protected] Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5 Hc đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612 Mc lc 1 Lch s.............................................................................................................................. 2 2 Cu to .............................................................................................................................. 6 3 Phân loi ........................................................................................................................... 7 3.1 Ghi-ta thùng (acoustic guitar) .................................................................................... 7 3.1.1 Ghi-ta Ba-rc (Baroque) và ghi-ta Phục Hưng (Renaissance) ........................... 7 3.1.2 Ghi-ta cđiển (Classical guitar) ......................................................................... 8 3.1.3 Ghi-ta 12 dây ...................................................................................................... 9 3.1.4 Ghi-ta Torres..................................................................................................... 10 3.1.5 Ghi-ta Hawaii ................................................................................................... 11 3.1.6 Ghi-ta thép pêđan (Pedal steel guitar) .............................................................. 12 3.1.7 Ghi-ta điện đầu vòm ......................................................................................... 13 3.1.8 Ghita phím lõm ................................................................................................. 14 3.2 Ghi-ta điện ............................................................................................................... 14 3.3 Ghi-ta điện Les Paul ................................................................................................ 16 3.4 Ghi-ta cộng hưởng (resonator, resophobic hay dobro)............................................ 16 3.5 Ghi-ta đệm ............................................................................................................... 17 3.6 Ghi-ta đệm Streinberger .......................................................................................... 18 4 Ghita Vit Nam............................................................................................................ 19 4.1 Quá trình hình thành ................................................................................................ 19 4.2 Quá trình phát trin .................................................................................................. 19 4.2.1 Thi ktrước 1975 ........................................................................................... 20 4.2.2 Thi ksau 1975 .............................................................................................. 20 4.2.3 Hin ti ............................................................................................................. 21

Upload: nguyen-quoc-luong

Post on 28-Nov-2014

754 views

Category:

Documents


1 download

DESCRIPTION

 

TRANSCRIPT

Page 1: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

Mục lục 1 Lịch sử .............................................................................................................................. 2

2 Cấu tạo .............................................................................................................................. 6

3 Phân loại ........................................................................................................................... 7

3.1 Ghi-ta thùng (acoustic guitar) .................................................................................... 7

3.1.1 Ghi-ta Ba-rốc (Baroque) và ghi-ta Phục Hưng (Renaissance) ........................... 7

3.1.2 Ghi-ta cổ điển (Classical guitar) ......................................................................... 8

3.1.3 Ghi-ta 12 dây ...................................................................................................... 9

3.1.4 Ghi-ta Torres..................................................................................................... 10

3.1.5 Ghi-ta Hawaii ................................................................................................... 11

3.1.6 Ghi-ta thép pêđan (Pedal steel guitar) .............................................................. 12

3.1.7 Ghi-ta điện đầu vòm ......................................................................................... 13

3.1.8 Ghita phím lõm ................................................................................................. 14

3.2 Ghi-ta điện ............................................................................................................... 14

3.3 Ghi-ta điện Les Paul ................................................................................................ 16

3.4 Ghi-ta cộng hưởng (resonator, resophobic hay dobro)............................................ 16

3.5 Ghi-ta đệm ............................................................................................................... 17

3.6 Ghi-ta đệm Streinberger .......................................................................................... 18

4 Ghita ở Việt Nam............................................................................................................ 19

4.1 Quá trình hình thành ................................................................................................ 19

4.2 Quá trình phát triển .................................................................................................. 19

4.2.1 Thời kỳ trước 1975 ........................................................................................... 20

4.2.2 Thời kỳ sau 1975 .............................................................................................. 20

4.2.3 Hiện tại ............................................................................................................. 21

Page 2: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

1 Xuất sứ Đàn ghi-ta (tiếng Pháp: guitare; tiếng Anh: guitar), còn được biết đến dưới cái tên Tây Ban

cầm, vốn xuất xứ là một nhạc cụ có cách đây hơn 5000 năm (loại ghi-ta cổ), sau này người

Tây Ban Nha mới cải tiến nó thành đàn ghi-ta ngày nay. Đàn ghi-ta ngày nay có 6 dây, tuy

nhiên vẫn tồn tại những loại đàn ghi-ta có 4, 7, 8, 10 và 12 dây. Nó là một loại nhạc cụ có

phím và dây, có ứng dụng rộng rãi trong các loại nhạc, có thể đệm cho hát, hòa tấu hoặc

chơi độc tấu.

Đàn ghita có một lịch sử phát triển lâu dài, có lẽ khởi đầu từ chiếc dây cung của những

người thợ săn cổ. Tiếng bật của dây cung khi mũi tên được phóng đi đã gợi ý cho người

xưa sáng tạo ra đàn lia, đàn hạc và đàn luyt. Những chiếc đàn này được làm từ gỗ, mai

rùa và gân động vật. Ở Hy Lạp, thế kỷ 7, người ta thấy xuất hiện phổ biến đàn lia và đàn

cithara (một loại đàn lớn cồng kềnh, bắt chước cơ cấu của đàn lia với mặt gỗ to bản).

Từ "ghita" (guitar) bắt nguồn từ chữ cithara. Cây đàn ghita đầu tiên có lẽ xuất hiện ở Ai

Cập và Babylon từ 1000 năm trước Công nguyên. Trải qua nhiều biến đổi, nó được những

đạo quân xâm lược mang đến châu Âu khoảng thế kỷ thứ 8 và phát triển rực rỡ vào thế kỷ

14, đặc biệt tại Tây Ban Nha.

Cùng với những nhạc cụ biểu diễn lưu động khác, cây đàn rebec (đàn violon 3 dây thời cổ)

có bầu tròn đã theo chân các đạo quân xâm lược tới Tây Ban Nha, trở thành một nhạc cụ

phổ biến, làm nên một làn gió mới cho cuộc sống của những người dân nơi đây. Rất nhiều

nhạc sỹ đã sáng tác Văn bản liên kết dựa trên thanh âm của đàn Rebec. Thậm chí Giáo hội

Tây Ban Nha đã phải ra lệnh cấm các nhà thờ được chơi loại nhạc cụ này vì tính chất phóng

khoáng xô bồ của nó.

Người ta không biết từ guitarra xuất hiện ở Tây Ban Nha từ khi nào. Tuy nhiên, trong suốt

thế kỷ 14, có hai loại nhạc cụ mang tên guittara là đàn guittara Latina và guittara Moisca đã

chiếm ngôi vị độc tôn ở xứ sở bò tót.

Nhạc cụ bộ dây cổ nhất được tìm thấy tại khu vực Alaja Huyuk (thuộc bán đảo Anatoli) có

niên đại 1400 trước Công nguyên. Người ta còn tìm thấy một bức tượng đá cổ ở Hy Lạp

minh hoạ một phụ nữ đang ôm đàn. Điểm đặc biệt là tư thế của nàng trùng khớp với tư thế

chơi đàn của các nghệ sỹ ghita ngày nay.

Vào thế kỷ thứ 15 vihuela là nhạc cụ đầu tiên mang đầy đủ những đặc trưng của cây đàn

ghita. Những bản nhạc viết cho nhạc cụ này còn lưu giữ được cho thấy sự hoàn thiện đáng

kinh ngạc.

Những cây đàn đầu tiên tại Ý mang lại những cải tiến đáng kể, làm nên đặc trưng của cây

ghita ngày nay. Đàn có một lỗ thoát âm duy nhất, một cần đàn và các khoá. Dây đàn thường

Page 3: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

gồm 4 dây đôi (như đàn mandoline) và một dây đơn. Hộp đàn có hình số 8 và dài hơn so

với cây đàn ghita hiện đại.

Tuy nhiên, phải đợi đến thế kỷ 19, dưới bàn tay tài hoa của nghệ nhân bậc thầy Antonio de

Torres Jurado (1817-1892) cây đàn ghita mới tìm được sự hoàn hảo của mình: đơn giản và

thanh thoát. Đầu tiên phải kể đến tỉ lệ cân xứng. Trong thùng đàn, de Torres đã thay cho 4

hoặc 5 thanh ngang truyền thống bằng một hệ thống 7 thanh gỗ hình dẻ quạt. Chúng được

phân chia tỷ lệ một cách chuẩn xác đến mức sau này không ai có thể vượt qua và nhờ đó

những cây đàn của de Torres luôn có âm thanh mượt mà, truyền cảm và sức ngân vang rất

êm, rất sâu. De Torres cũng là người tìm ra độ dài chuẩn mực của dây đàn là 65 cm. Có thể

nói cho đến nay, khó ai có thể vượt qua sự mẫu mực về thanh âm và hình dáng của cây đàn

của de Torres.

Một trong những giai đoạn phát triển tột bậc của cây đàn sáu dây là thời vua Ludwig XIV.

Người ta có thể thưởng thức tiếng đàn từ trong cung đình giàu sang tới những góc chợ nhỏ

của những người bình dân. Ai ai cũng say mê ghita cho dù họ ở giai tầng nào của xã hội.

Tuy nhiên, chính vì ý nghĩ kỳ quái của tầng lớp quý tộc rằng họ đang cùng thưởng thức âm

nhạc với giới bình dân mà cây đàn ghita đã có một thời gian dài không hề xuất hiện ở nơi

cung đình.

Dù thế, cây đàn ghita vẫn âm thầm phát triển. Với cảm hứng nghệ thuật từ cuộc sống bình

dân, họa sĩ Michelangelo Merisi da Caravaggio đã sáng lập ra một trường phái nghệ thuật

pha trộn giữa tĩnh vật và phồn thực mà tâm điểm của nó là tiếng đàn ghita phóng khoáng

và những bước nhảy vui nhộn bên bàn tiệc của những cô nàng hầu gái và những anh chàng

nông phu hồn hậu. Có thể nói đây cũng là tiền đề dần hình thành nên dòng nhạc flamenco

vô cùng quyến rũ, đặc trưng Tây Ban Nha.

Những tên tuổi như Ferdinando Carulli (1770-1841), Fernando Sor (1778-1839), Mauro

Giuliani (1781-1829), Matteo Carcassi(1792-1853) và đặc biệt là Francisco Tárrega (1852-

1909) đẵ góp phần đưa tiếng đàn ghita trở lại đời sống âm nhạc hàn lâm. Những bản nhạc

kinh điển không chỉ mô phạm mà còn tràn đầy tính biểu cảm và sự tinh tế. Với mong muốn

cây ghita có một vị trí trong dàn nhạc giao hưởng, Tárrega đã không ngừng phát triển kỹ

thuật chơi nhạc ghita, chuyển soạn các tác phẩm của Frédéric Chopin, Robert Schumann,

Johann Sebastian Bach cho ghita.

Sau này, tiếp nối con đường của Francisco Tárrega, Andrés Segovia (1893-1987) cùng với

cây lục huyền cầm lần lượt chinh phục tất cả các phòng hòa nhạc.

Bên cạnh sự phát triển của dòng nhạc hàn lâm, cây ghita cũng rẽ nhánh sang dòng âm nhạc

bình dân mà đáng kể nhất phải nói đến flamenco. Kết hợp giữa tiếng ghita chau chuốt, nhịp

điệu nhanh, những bước nhảy, tiếng vỗ tay hay là dậm gót của cácvũ công, flamenco thực

sự mang đến cho người thưởng thức sự tươi đẹp của tâm hồn Tây Ban Nha. Biết bao thế

Page 4: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

hệ nghệ sĩ flamenco đã nói tiếp nhau giữ gìn và mở rộng dòng nhạc này. Tuy nhiên, họ kế

nghiệp nhau chủ yếu bằng cách học truyền khẩu nên tên tuổi và âm nhạc của họ cũng chỉ

được "truyền khẩu" trong dân gian. Ramón Montoya (1880-1942) là người duy nhất đã đưa

được flamenco tới các phòng hòa nhạc. Làm được điều này là do ông đã kết hợp một cách

hài hoà sự thuần khiết của flamenco và tính kỹ thuật của ghita cổ điển.

Sang đầu thế kỷ 20, cây ghitasa Đàn ghi-ta (tiếng Pháp: guitare; tiếng Anh: guitar), còn

được biết đến dưới cái tên Tây Ban cầm, vốn xuất xứ là một nhạc cụ có cách đây hơn 5000

năm (loại ghi-ta cổ), sau này người Tây Ban Nha mới cải tiến nó thành đàn ghi-ta ngày

nay. Đàn ghi-ta ngày nay có 6 dây, tuy nhiên vẫn tồn tại những loại đàn ghi-ta có 4, 7, 8,

10 và 12 dây. Nó là một loại nhạc cụ có phím và dây, có ứng dụng rộng rãi trong các loại

nhạc, có thể đệm cho hát, hòa tấu hoặc chơi độc tấu.

Đàn ghita có một lịch sử phát triển lâu dài, có lẽ khởi đầu từ chiếc dây cung của những

người thợ săn cổ. Tiếng bật của dây cung khi mũi tên được phóng đi đã gợi ý cho người

xưa sáng tạo ra đàn lia, đàn hạc và đàn luyt. Những chiếc đàn này được làm từ gỗ, mai rùa

và gân động vật. Ở Hy Lạp, thế kỷ 7, người ta thấy xuất hiện phổ biến đàn lia và đàn cithara

(một loại đàn lớn cồng kềnh, bắt chước cơ cấu của đàn lia với mặt gỗ to bản).

Từ "ghita" (guitar) bắt nguồn từ chữ cithara. Cây đàn ghita đầu tiên có lẽ xuất hiện ở Ai

Cập và Babylon từ 1000 năm trước Công nguyên. Trải qua nhiều biến đổi, nó được những

đạo quân xâm lược mang đến châu Âu khoảng thế kỷ thứ 8 và phát triển rực rỡ vào thế kỷ

14, đặc biệt tại Tây Ban Nha.

Cùng với những nhạc cụ biểu diễn lưu động khác, cây đàn rebec (đàn violon 3 dây thời cổ)

có bầu tròn đã theo chân các đạo quân xâm lược tới Tây Ban Nha, trở thành một nhạc cụ

phổ biến, làm nên một làn gió mới cho cuộc sống của những người dân nơi đây. Rất nhiều

nhạc sỹ đã sáng tác Văn bản liên kết dựa trên thanh âm của đàn Rebec. Thậm chí Giáo hội

Tây Ban Nha đã phải ra lệnh cấm các nhà thờ được chơi loại nhạc cụ này vì tính chất phóng

khoáng xô bồ của nó.

Người ta không biết từ guitarra xuất hiện ở Tây Ban Nha từ khi nào. Tuy nhiên, trong suốt

thế kỷ 14, có hai loại nhạc cụ mang tên guittara là đàn guittara Latina và guittara Moisca

đã chiếm ngôi vị độc tôn ở xứ sở bò tót.

Nhạc cụ bộ dây cổ nhất được tìm thấy tại khu vực Alaja Huyuk (thuộc bán đảo Anatoli) có

niên đại 1400 trước Công nguyên. Người ta còn tìm thấy một bức tượng đá cổ ở Hy Lạp

minh hoạ một phụ nữ đang ôm đàn. Điểm đặc biệt là tư thế của nàng trùng khớp với tư thế

chơi đàn của các nghệ sỹ ghita ngày nay.

Vào thế kỷ thứ 15 vihuela là nhạc cụ đầu tiên mang đầy đủ những đặc trưng của cây đàn

ghita. Những bản nhạc viết cho nhạc cụ này còn lưu giữ được cho thấy sự hoàn thiện đáng

kinh ngạc.

Page 5: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

Những cây đàn đầu tiên tại Ý mang lại những cải tiến đáng kể, làm nên đặc trưng của cây

ghita ngày nay. Đàn có một lỗ thoát âm duy nhất, một cần đàn và các khoá. Dây đàn thường

gồm 4 dây đôi (như đàn mandoline) và một dây đơn. Hộp đàn có hình số 8 và dài hơn so

với cây đàn ghita hiện đại.

Tuy nhiên, phải đợi đến thế kỷ 19, dưới bàn tay tài hoa của nghệ nhân bậc thầy Antonio de

Torres Jurado (1817-1892) cây đàn ghita mới tìm được sự hoàn hảo của mình: đơn giản và

thanh thoát. Đầu tiên phải kể đến tỉ lệ cân xứng. Trong thùng đàn, de Torres đã thay cho 4

hoặc 5 thanh ngang truyền thống bằng một hệ thống 7 thanh gỗ hình dẻ quạt. Chúng được

phân chia tỷ lệ một cách chuẩn xác đến mức sau này không ai có thể vượt qua và nhờ đó

những cây đàn của de Torres luôn có âm thanh mượt mà, truyền cảm và sức ngân vang rất

êm, rất sâu. De Torres cũng là người tìm ra độ dài chuẩn mực của dây đàn là 65 cm. Có thể

nói cho đến nay, khó ai có thể vượt qua sự mẫu mực về thanh âm và hình dáng của cây đàn

của de Torres.

Một trong những giai đoạn phát triển tột bậc của cây đàn sáu dây là thời vua Ludwig XIV.

Người ta có thể thưởng thức tiếng đàn từ trong cung đình giàu sang tới những góc chợ nhỏ

của những người bình dân. Ai ai cũng say mê ghita cho dù họ ở giai tầng nào của xã hội.

Tuy nhiên, chính vì ý nghĩ kỳ quái của tầng lớp quý tộc rằng họ đang cùng thưởng thức âm

nhạc với giới bình dân mà cây đàn ghita đã có một thời gian dài không hề xuất hiện ở nơi

cung đình.

Dù thế, cây đàn ghita vẫn âm thầm phát triển. Với cảm hứng nghệ thuật từ cuộc sống bình

dân, họa sĩ Michelangelo Merisi da Caravaggio đã sáng lập ra một trường phái nghệ thuật

pha trộn giữa tĩnh vật và phồn thực mà tâm điểm của nó là tiếng đàn ghita phóng khoáng

và những bước nhảy vui nhộn bên bàn tiệc của những cô nàng hầu gái và những anh chàng

nông phu hồn hậu. Có thể nói đây cũng là tiền đề dần hình thành nên dòng nhạc flamenco

vô cùng quyến rũ, đặc trưng Tây Ban Nha.

Những tên tuổi như Ferdinando Carulli (1770-1841), Fernando Sor (1778-1839), Mauro

Giuliani (1781-1829), Matteo Carcassi (1792-1853) và đặc biệt là Francisco Tárrega

(1852-1909) đẵ góp phần đưa tiếng đàn ghita trở lại đời sống âm nhạc hàn lâm. Những bản

nhạc kinh điển không chỉ mô phạm mà còn tràn đầy tính biểu cảm và sự tinh tế. Với mong

muốn cây ghita có một vị trí trong dàn nhạc giao hưởng, Tárrega đã không ngừng phát triển

kỹ thuật chơi nhạc ghita, chuyển soạn các tác phẩm của Frédéric Chopin, Robert

Schumann, Johann Sebastian Bach cho ghita.

Sau này, tiếp nối con đường của Francisco Tárrega, Andrés Segovia (1893-1987) cùng với

cây lục huyền cầm lần lượt chinh phục tất cả các phòng hòa nhạc.

Bên cạnh sự phát triển của dòng nhạc hàn lâm, cây ghita cũng rẽ nhánh sang dòng âm nhạc

bình dân mà đáng kể nhất phải nói đến flamenco. Kết hợp giữa tiếng ghita chau chuốt, nhịp

Page 6: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

điệu nhanh, những bước nhảy, tiếng vỗ tay hay là dậm gót của các vũ công, flamenco thực

sự mang đến cho người thưởng thức sự tươi đẹp của tâm hồn Tây Ban Nha. Biết bao thế

hệ nghệ sĩ flamenco đã nói tiếp nhau giữ gìn và mở rộng dòng nhạc này. Tuy nhiên, họ kế

nghiệp nhau chủ yếu bằng cách học truyền khẩu nên tên tuổi và âm nhạc của họ cũng chỉ

được "truyền khẩu" trong dân gian. Ramón Montoya (1880-1942) là người duy nhất đã đưa

được flamenco tới các phòng hòa nhạc. Làm được điều này là do ông đã kết hợp một cách

hài hoà sự thuần khiết của flamenco và tính kỹ thuật của ghita cổ điển.

Sang đầu thế kỷ 20, cây ghita sáu dây đã có sự phát triển mạnh mẽ trong mọi tầng lớp xã

hội. Cùng với những biến chuyển mới trong đời sống nghệ thuật, kinh tế, xã hội, chính trị,

tiếng đàn ghita đã rẽ sang các nhánh mới như nhạc rock, nhạc jazz và trở thành nhạc cụ

phổ thông nhất trong đời sống âm nhạc hiện đại.u dây đã có sự phát triển mạnh mẽ trong

mọi tầng lớp xã hội. Cùng với những biến chuyển mới trong đời sống nghệ thuật, kinh tế,

xã hội, chính trị, tiếng đàn ghita đã rẽ sang các nhánh mới như nhạc rock, nhạc jazz và trở

thành nhạc cụ phổ thông nhất trong đời sống âm nhạc hiện đại.

2 Cấu tạo Bộ phận quan trọng nhất của đàn là dây đàn và thùng đàn. Thùng có tác dụng cộng

hưởng và khuếch đại âm thanh. Khi ta gảy dây đàn tức là làm cho dây đàn rung động,

thùng đàn sẽ cộng hưởng với tần số rung động của dây đàn, làm cho lớp không khí xung

quanh mặt thùng đàn dao động với cùng tần số và tai ta nghe đượcâm thanh. Tùy theo tần

số dao động của dây đàn mà tai ta nghe được các âm thanh trầm bổng khác nhau.

Page 7: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

3 Phân loại

3.1 Ghi-ta thùng (acoustic guitar)

3.1.1 Ghi-ta Ba-rốc (Baroque) và ghi-ta Phục Hưng (Renaissance)

Hình ảnh: Ghi-ta ba-roc

Tiền thân của ghi-ta hiện đại. So với ghi-ta cổ điển, nó nhỏ và thanh tú hơn, và âm thanh

phát ra cũng nhỏ hơn. Nó có dây đạt thành cặp như ghi-ta 12 dây, nhưng chỉ có 3-4 cặp,

khác với ghi-ta 12 dây có 6 cặp ứng với đủ 12 dây. Ghi-ta Ba-rốc được dùng để đánh đệm

cũng như đánh đơn, và thường được thấy trong các buổi biểu diễn âm nhạc vào thời kỳ

sớm của lịch sử âm nhạc (500-1760 CN) (Instrucción de Música sobre la Guitarra

Española của Gaspar Sanz xuất bản vào năm 1674 bao gồm rất nhiều bài ghi-ta đánh đơn

trong thời kỳ đó). Trong khi ghi-ta Ba-rốc có thân đàng phẳng thì ghi-ta Phục Hưng được

trang trí rất cầu kỳ với những lớp gổ và ngà voi trang trí trên khắp thân và cổ đàn, và một

paper-cutout inverted "bánh cưới" phía trong lỗ thân đàn.

Page 8: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

3.1.2 Ghi-ta cổ điển (Classical guitar)

Hình ảnh: Ghi-ta ba-roc

Nhạc cụ này được chế tạo từ một bản thiết kế vào khoảng 150 năm trước đây. Nó là loại

đàn ghi-ta thùng có 6 dây (thường làm bằng nilon), âm thanh phát ra nghe êm dịu. Nhạc cụ

này có thể được dùng trong rất nhiều loại thể loại nhạc khác nhau: từ nhạc Tây Ban nha,

folk, jazz cho tới nhạc độc tấu và hòa tấu và thường được chơi khi nhạc công ngồi tại một

vị trí cố định.

Ghi-ta cổ điển thuộc bộ dây, âm vực rộng khoảng 3 quãng tám, được chế tạo từ nhiều loại

gỗ khác nhau, có chiều dài xấp xỉ 1 m. Nhạc cụ này phát triển từ thời Trung cổ. Thời kỳ

đầu, nó xuất hiện ở Tây Ban Nha và Ý, giai đoạn ấy nó có hình dáng nhỏ gọn hơn loại Ghi-

ta cổ điển ngày nay.

Hiện nay, các loại ghi-ta cổ điển sử dụng trong dàn nhạc giao hưởng Niibori Guitar được

phân loại như sau:

Ghi-ta sopranino hay ghi-ta piccolo, với quãng tám và quãng năm cao hơn bình thường

một chút.

Ghi-ta soprano, với quãng tám cao hơn bình thường.

Ghi-ta alto, với quãng năm cao hơn bình thường.

Ghi-ta chính (ghi-ta cổ điển nguyên mẫu).

Page 9: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

Ghi-ta đệm Niibori, với quãng bốn thấp hơn bình thường. Niibori thường chỉ đơn giản

gọi đó là "ghi-ta đệm", mặc dù ghi-ta đệm của Niibori khác với các loại ghi-ta đệm

thông thường.

Đại hồ cầm, với quãng tám thấp hơn bình thường.

3.1.3 Ghi-ta 12 dây

Là loại đàn ghi-ta có 12 dây, nhiều gấp đôi số lượng dây của loại ghita thùng chuẩn mực.

Nói cách khác, nó là loại ghi-ta có 6 cặp dây dựa theo loại ghi-ta thông thường: cặp dây số

1 là nốt Mi; cặp số 2 là nốt Si; cặp số 3 là nốt Sol; cặp số 4 là nốt Rê; cặp số 5 là nốt La và

cặp số 6 là nốt Mi (thấp hơn nốt Mi của cặp dây số 1 đúng 2 quãng tám).

Ghi-ta 12 dây thuộc bộ dây, âm vực khoảng 3 quãng tám, được chế tạo từ gỗ, kim loại và

plastic. Đầu thế kỷ 19, người ta đã gắn thêm volume để nhạc cụ này tăng thêm cường độ

âm thanh. Trong ban nhạc, nhiệm vụ của ghi-ta 12 dây là đệm hợp âm giữ nhịp. Nó phát

ra âm thanh khá "chói tai" như thể có 2 cây ghi-ta cùng được sử dụng một lúc.

Page 10: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

3.1.4 Ghi-ta Torres

Nhạc cụ này là kẻ tiền nhiệm của loại ghita thùng hiện đại. Nó có những thiết bị tăng âm

nằm trong khuôn đúc hình nan quạt ở cạnh dưới của mặt thân đàn. Những thiết bị này

giúp âm thanh phát ra lớn hơn.

Ghita Torres thuộc bộ dây, âm vực rộng 3,5 quãng tám, tổng chiều dài 81cm. Thân đàn

bằng gỗ với 6 dây ruột mèo (gut). Trước năm 1852, nghệ nhân Tây Ban Nha Antonio de

Torres Jurrado đã chế tạo ra nhạc cụ này, do đó nó được đặt tên là Torres guitar, một loại

nhạc cụ đã trở thành chuẩn mực cho loại classical guitar hiện đại. Ghita Torres lớn hơn

những loại ghita trước đấy, đặc biệt là ở phần thân đàn. Về sau, người ta đã tái cấu trúc

phần bên trong thân đàn để âm thanh vang lớn hơn nữa.

Page 11: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

3.1.5 Ghi-ta Hawaii

Ghita Hawaii có 6 dây nhưng không có phím. Người chơi dùng một thanh (khối) kim loại

(bằng đồng, thép không rỉ...) ở tay trái chặn trên cần đàn để tạo nên các phím. Độ dài

ngắn của đoạn dây đàn bị chặn sẽ tạo ra các nốt. Ghita Hawaii chơi rất nhiều bồi âm, có

rất nhiều bồi âm vì độ dài dây đàn có thể thay đổi được, và các bồi âm ấy du dương hơn

tiếng ghita thông thường.

Tay phải để gẩy có 1 bộ 4 móng (tương tự móng của người chơi đàn tranh) lắp vào 4

ngón: cái, trỏ, giữa, nhẫn.

Dây của ghita Hawaii là dây trơn, không có vỏ bọc cả 6 dây. 6 dây này cũng không được

lên theo các nốt mi, la, rê, sol, si, mi như đàn ghita Tây Ban Nha.

Người chơi khi diễn tấu thì đặt đàn trên đùi. (Gần giống tư thế của những người chơi đàn

tranh hoặc đàn tam thập lục).

Ở Việt Nam, nghệ sỹ chơi ghita Hawaii nổi tiếng là Đoàn Chuẩn, Từ Linh.

Đàn có xuất xứ từ quần đảo Hawaii, gọi là guitar Hawaii, được du nhập vào Việt Nam từ

những năm 30 của thế kỷ trước.

Tương truyền, loại đàn này ra đời trên hòn đảo Hawaii đẹp giữa Thái Bình Dương, bởi

một lính Mỹ gốc Tây Ban Nha tình cờ dùng bật lửa Zippo quẹt vào dây đàn tạo ra âm

thanh luyến láy khác lạ. Từ đó, người ta nghĩ ra một kiểu chơi khác của guitar bằng cách

đặt nằm ngang cây đàn guitar, kê dây đàn cao lên, dùng Zippo hay một thanh inox gọi là

block chặn dây, thay vì dùng tay bấm khi gảy đàn. Loại đàn ấy về sau truyền khắp thế

giới, với tên gọi guitar Hawaii, ở VN gọi là Hạ uy cầm.

Page 12: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

Hạ uy cầm du nhập VN vào thập niên 30 thế kỷ XX, qua tay những nhạc sĩ nổi tiếng

Đoàn Chuẩn, Nguyễn Thiện Tơ, Ưng Lang, Phạm Mạnh Đạt... và tiếng đàn thanh thoát

mê hoặc đó vang bóng một thời thập niên 50-70 ở miền Nam. Những người có chút máu

âm nhạc thuở ấy còn nhớ, tiếng đàn là những đợt sóng xôn xao trong giới âm nhạc và

giới thưởng ngoạn vì cái vẻ đài các lẫn lả lơi lãng mạn.

Tiếng đàn có sức quyến rũ lạ thường, dù khi bản nhạc chấm dứt, người nghe cảm thấy dư

âm còn đâu đó, đang đọng thành từng giọt thấm vào nỗi rung cảm trong tâm hồn. Các lớp

nhạc Hạ uy cầm mở khắp nơi. Khắp nơi vang tiếng đàn Hạ uy cầm. Thế rồi, bẵng đi hai

thập niên qua, Hạ uy cầm lặng vắng, khiến không ít người tri âm một vẻ đẹp dịu dàng,

tha thiết và âu yếm của tiếng đàn vẫn tiếc nhớ khôn nguôi. Hiện tại, nghệ sĩ chơi Hạ uy

cầm ở VN cũng rất hiếm hoi...

3.1.6 Ghi-ta thép pêđan (Pedal steel guitar)

Đây cũng là một loại với ghita Hawaii. Nhạc cụ này không có thân đàn, nhưng lại có 2

cần đàn (mỗi cần 10 dây) được đóng khung trên một bàn phím. Ghita thép pêđan là loại

đàn có nhiều bàn đạp để chỉnh độ cao của các dây. Để tạo ra những nốt riêng lẻ và các

hợp âm, người ta khảy dây và dùng một thanh thép hoặc một ống lướt nhẹ dọc theo chiều

dài của dây.

Page 13: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

Ghi-ta thép pêđan có âm vực rộng 6 quãng tám, thân đàn và chân thẳng đứng bằng gỗ

hoặc kim loại. Nhạc cụ này cao 23cm, dài từ 71 đến 91cm. Vào khoảng năm 1830, người

ta mang loại đàn này từ Mexico đến Hawaii, thế rồi nhạc cụ này phát triển mạnh và trở

thành vật đặc trưng của cư dân đảo Hawaii từ thập niên 1940. Joseph Kekuku (nghệ sĩ

Hawaii) là người đầu tiên đã dùng một vật gì đó lướt dọc theo chiều dài của dây trong lúc

khảy đàn để tạo ra âm thanh "nhão". Sau đó, người ta mới sử dụng một thanh thép hoặc

một ống để thay thế dụng cụ này.

Một trong những kỹ thuật phổ biến khi chơi Ghi-ta thép pêđan là sử dụng các bàn đạp và

đòn bẩy đầu gối để thay đổi độ cao thấp, tạo ra những âm thanh luyến láy.

3.1.7 Ghi-ta điện đầu vòm

Là loại đàn ghi-ta đầu vòm truyền thống đã được cải tiến vào cuối thập niên 1930. Ghita

điện đầu vòm thuộc bộ dây, có âm vực rộng trên 3 quãng tám, thân đàn làm bằng gỗ với

6 dây đàn kim loại. Nhạc cụ này rất thông dụng đối với những nhạc sĩ chơi nhạc Jazz.

Trong thập niên 1940, ghita điện đầu vòm được cải tiến khá nhiều, kết hợp thêm một

cutaway, những bộ cảm ứng âm thanh và một công tắc chọn độ rung âm thanh (selector

switch). Loại đàn này phát ra tiếng êm dịu và ấm. Nếu gắn thêm những thiết bị điện tử

khác, người ta có thể chơi những nốt riêng lẻ hay tạo thành giai điệu hoặc độc tấu.

Ghita điện đầu vòm là nhạc cụ gợi ý cho sự phát triển loại ghita điện tử có thân đàn rắn

đặc ngày nay.

Page 14: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

3.1.8 Ghita phím lõm

Lục huyền cầm hay ghi-ta Việt Nam, ghita phím lõm, ghi-ta vọng cổ hoặc ghi-ta cải

lương là cây đàn được cải biến từ đàn ghi-ta (guitare espagnole moderne) do các nghệ sỹ

cải lương Việt Nam sáng tạo ra. Từ cây đàn guitar 6 dây ban đầu, người ta khoét các

phím lõm xuống chừng 1 cm, hình bán nguyệt nhằm tạo ra âm thanh khác biệt, tạo độ

ngân rung đặc trưng của ca vọng cổ.

Khi dùng chơi nhạc cổ, guitar phím lõm không dùng dây 6.

Dây đàn được lên theo âm giai ngũ cung (pentatonic).

Guitar phím lõm được chủ yếu chơi trong dàn nhạc của cải lương, đờn ca tài tử Nam Bộ.

3.2 Ghi-ta điện

Page 15: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

Guitar điện, về cấu tạo cơ bản, vẫn giống guitar cổ điển. Gồm 3 phần chính: đầu

(machine head), cần (neck) và thân (body).

Điểm khác biệt chủ yếu của guitar điện nằm ở phần thân đàn. Ghita điện có thân đàn đặc

và phẳng. Vì không có thân đàn rỗng, ghita điện được khuếch âm bằng những bộ phận

cảm ứng từ (pick-up) nối với các cuộn cảm ứng quấn quanh các lõi (bobbin) đặt chìm

trong thân đàn. Mỗi cây guitar điện có thể có từ 1 đến 3 pick-up. Trên thân đàn còn có 2

núm điều chỉnh âm lượng và âm sắc (tone) và lỗ để cắm dây dẫn (jack) đến ampli. So với

đàn gỗ, dây đàn điện có khuynh hướng mỏng và dẻo hơn.

Ngoài ra, cần của ghita điện thường có 22-24 có thể lên đến 28 ngăn, khuynh hướng

thường nhỏ dần từ đầu đàn đến thân đàn.

Ghita điện thuộc bộ dây, âm vực thấp hơn hoặc bằng 4 quãng tám. Nó là sản phẩm tổng

hợp từ gỗ, kim loại và plastic. Chiều dài của đàn từ 97 cm đến 102 cm.

Ở Mỹ, người ta đã nhiều lần thử nghiệm nhạc cụ này từ thập niên 1920 đến thập niên

1930. Ban đầu, nó là một ghita thùng gắn bộ khuếch âm ở thân đàn. Đến đầu thập niên

1950, Paul Bigsby và sau đó là Leo Fender đã cải tiến thành đàn ghita rắn đặc với hình

dạng như ngày nay ta thường thấy.

Ghita điện thường được diễn tấu chủ yếu theo phong cách nhạc nhẹ. Tùy vào từng thể

loại, từng dòng nhạc mà guitar điện được chế tạo theo những nét riêng biệt một cách phù

Page 16: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

hợp nhất.

Với người chơi jazz, blues, cây ghi-ta có 3 pick-ups đơn (single-coiled pick-ups) tạo ra

âm sắc lạnh và "leng keng" rất được ưa chuộng. Còn với những người chơi nhạc rock,

cây ghi-ta có 2 pick-ups kép (humbuckle tone) tạo nên âm sắc trầm ấm, dày dặn co tính

kim loai đặc trưng luôn là lựa chọn số 1.

3.3 Ghi-ta điện Les Paul

Nhạc cụ này xuất hiện vào năm 1952. Người ta đã lấy tên của Les Paul, một nhạc công

ghi-ta nổi tiếng cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950, để đặt tên cho loại đàn này.

Những mẫu thiết kế đầu tiên của nhạc cụ này do hãng Gibson sản xuất vào đầu thập niên

1950. Tuy nhiên, trong thời kỳ ấy, nhạc cụ này chưa được phổ biến rộng rãi nên ít người

mua, vì thế hãng Gibson tạm ngưng sản xuất vào năm 1960. Đến giữa thập niên 1960,

nhờ sự chuyển động mạnh của dòng nhạc pop rock nên nhạc cụ này được phục hồi và trở

nên chuẩn mực cho tới ngày nay.

Ghi-ta điện Les Paul thuộc bộ dây, âm vực rộng trên 5 quãng tám, làm từ gỗ và có 6 dây

đàn bằng kim loại. Nhạc cụ này dài từ 97 đến 102 cm.

3.4 Ghi-ta cộng hưởng (resonator, resophobic hay dobro)

Page 17: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

Là loại đàn ghi-ta thùng có những đĩa nhôm hình nón gắn bên trong thân đàn để khuếch

đại âm thanh. Nhạc cụ này phát ra âm thanh đủ lớn để nghe trong những buổi hòa nhạc

trực tiếp mà không cần máy khuếch âm (ampli). Ghi-ta cộng hưởng và những loại đàn có

gắn thiết bị khuếch âm khác như Dobros và Naitionals xuất hiện lần đầu tiên trong thập

niên 1930. Người ta sử dụng các nhạc cụ này trong những ban nhạc khiêu vũ, nhạc Jazz

và Blue.

Loại đàn này thuộc bộ dây, âm vực rộng 3 quãng tám. Thân đàn làm bằng gỗ, plastic

hoặc kim loại. Chiều dài của nhạc cụ này từ 1,02 đến 1,07 m.

3.5 Ghi-ta đệm

Ghi-ta đệm có nguồn gốc từ cây đàn Đại hồ cầm, chịu trách nhiệm bè trầm, nối kết

giữa trống và ghi-ta lại với nhau tạo nên một hoà âm hoàn chỉnh.

Dựa trên hình mẫu của cây Ghi-ta điện, người ta bắt đầu tạo ra cây Ghi-ta đệm gồm 4 dây

(E, A, D, G) bằng kim loại, cần đàn được chia thành các ngăn (từ 22-24 ngăn) với thùng

đàn đặc và bộ phận khuyếch âm. Đến năm 1967 thì cây Ghi-ta đệm 5 dây và 6 dây cũng

ra đời và, cho đến nay, đã có loại Ghi-ta đệm 7 dây. Tuy nhiên về cấu tạo thì hầu như

không có gì thay đổi nữa. Đệm điện cũng sử dụng nhứng đồ nghề giống như Ghi-ta điện.

Ghi-ta đệm có âm vực thấp hơn ghi-ta điện. Nhạc cụ này có hai vai trò quan trọng trong

dàn nhạc: phát ra những nốt trầm để hỗ trợ giai điệu chính, và cùng với trống, nó giữ nhịp

để giúp những nhạc cụ khác chơi đúng nhịp điệu chung của ban nhạc.

Page 18: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

Ghi-ta đệm thuộc bộ dây, âm vực rộng 3 quãng tám. Nhạc cụ này có chiều dài 1,1 m,

được chế tạo bằng vật liệu tổng hợp như gỗ, kim loại và plastic. Ghi-ta đệm do Leo

Fender thiết kế lần đầu vào năm 1951. Người ta có thể tạo ra những âm thanh khác nhau

cho từng nốt trên nhạc cụ này bằng cách sử dụng hệ thống khuếch âm (ampli), fuzz box,

hệ thống gây tiếng vọng (echo) và nhiều loại thiết bị nhỏ khác.

Ngày nay, cây Ghi-ta đệm 4 dây xuất hiện phổ biến ở các dòng nhạc jazz, blues, rock

và bán cổ điển.

3.6 Ghi-ta đệm Streinberger

Ghi-ta đệm Streinberger (fretless bass guitar) xuất hiện từ thập niên 1970, được sử dụng

rộng rãi như loại đàn đại hồ cầm truyền thống. Nhạc cụ này cho phép bạn lướt nhẹ qua

các nốt để thay đổi độ cao thấp của âm thanh. Ghita đệm không ngăn phím phát ra âm

thanh phong phú, rất thông dụng với những nhạc công chơi thể loại jazz và rock fusion.

Đây là nhạc cụ thuộc bộ dây, âm vực khoảng 3 quãng tám, được chế tạo từ gỗ, kim loại

và plastic. Chiều dài của nó từ 1,1 đến 1,2 m.

Về cơ bản, Ghi-ta đệm Streinberger được thiết kế khác biệt so với bất kỳ loại guitar nào.

Thân đàn thường được làm bằng plastic dầy, rắn chắn hơn gỗ của loại đàn bass truyền

thống. Nó phát ra âm thanh thô cứng, rõ ràng. Thân đàn rỗng và nhỏ, chứa những thiết bị

điện tử mà ampli và bộ khuếch âm cho phép tạo ra nhiều loại âm thanh khác nhau.

Ghi-ta đệm Streinberger thuộc bộ dây, âm vực khoảng 3 quãng tám. Để chế tạo nhạc cụ

này, người ta sử dụng nhựa aboxit gia cố với carbon và sợi thủy ngân (một loại than chì).

Đây là những chất liệu mới nhất mà Ned Steinberger dùng để chế tạo nhạc cụ này vào

Page 19: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

đầu thập niên 1980. Theo các chuyên gia, loại than chì để làm đàn này đặc gấp 2 lần và

cứng hơn 10 lần so với gỗ và lại bền và nhẹ hơn thép.

4 Ghita ở Việt Nam Đàn ghita xuất hiện ở Việt Nam từ bao giờ là một câu trả lời khó. Giả thuyết hiện nay

được nhiều người đồng ý là đàn ghita đã theo chân các cố đạo Tây Ban Nha du nhập vào

Việt Nam từ đầu thế kỷ 19. Nhưng phải đến năm 1920 mới bắt đầu xuất hiện những

người Việt Nam chơi ghita.

4.1 Quá trình hình thành

Những người chơi ghita đầu tiên ở Việt Nam chính là các nghệ sỹ cải lương. Với óc sáng

tạo của mình, họ đã tạo ra cây ghita phím lõm, bổ sung một dòng ghita mới là ghita cải

lương. Đây là dòng ghita rất phổ biến trong nhạc tài tử Nam Bộ trước 1945 với những tên

tuổi nổi tiếng như Tư Chơi, Ba Kéo, Bây Cây, Chín Hòa, Phùng Há, Năm Phỉ, Văn Vĩ...

Ghita phím lõm là guitar du nhập từ nước ngoài được khoét lõm phím đàn và lên dây theo

âm giai ngũ cung (pentatonic) "Líu, Xề, Líu Hò, Lìu" để đàn các bài bản cải lương.

Vào thập niên 1930, tân nhạc Việt Nam phát triển cùng với số lượng người chơi ghita theo

lối mới tăng lên. Bên cạnh những người diễn tấu người nước ngoài đã xuất hiện những tên

tuổi Việt Nam như Phan Văn Trường, Canh Thân, Đỗ Chí Khang, Thiện Tơ, Dương Thiệu

Tước. Tuy nhiên, họ đều tự học là chính chứ không được đào tạo một cách bài bản. Điều

này đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của ghita, các hình thức biểu diễn và

diễn tấu đều mang tính tự phát. Phổ biến nhất là dạng ban nhạc gồm 4 nhạc cụ: ghita

Hawaii, guitar 6 dây, Đại hồ cầm và ghita 4 dây Hawaii (ukulele), chơi hòa tấu trong các

phòng trà hoặc quán bar. Các hình thức khác như song tấu hay độc tấu mãi tới thập niên

1940 về sau này mới phát triển với các tên tuổi nổi danh như Tạ Tấn, Phạm Ngữ...

Năm 1932, xuất hiện cây đàn ghita đầu tiên do người Việt Nam làm là cây đàn do cụ Xuân

Lan, người làng Đào Xá (Hà Nội) chế tác. Thời kỳ này cũng xuất hiện nhiều cửa hiệu làm

đàn nổi tiếng như Nhạc Sơn, Kim Thanh, Tạ Tấn.

4.2 Quá trình phát triển

Giữa thập niên 1940, cây ghita đã giành được vị thế quan trọng trong giới mộ điệu của Việt

Nam. Với tính chất dễ chơi, dễ học, gọn nhẹ, ghita đã trở thành bạn đường thân thiết của

các nhạc sỹ kháng chiến, giới học sinh sinh viên và nhiều người yêu nhạc.

Nhiều tác giả đồng thời là người đệm ghita rất giỏi đã xuất hiện như Nguyễn Xuân Khoát,

Đỗ Nhuận, Phạm Duy, Văn Ký, Hoàng Vân, Trọng Bằng, Văn Chung, Tô Vũ, Nguyễn Văn

Tí...

Page 20: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

4.2.1 Thời kỳ trước 1975

Tuy nhiên, vì yếu tố chiến tranh, đất nước bị chia cắt, mà nghệ thuật ghita cũng vì thế trở

nên thăng trầm. Dần dần có sự phân hoá rõ rệt tại hai vùng Nam - Bắc của đất nước. Tại

mỗi nơi, ghita có những đặc thù nhất định.

Tại miền Bắc, cùng với sự ra đời của bộ môn ghita trong khoá giảng dạy đầu tiên

của trường Âm nhạc Việt Nam (1956) do Tạ Tấn[1] làm chủ nhiệm đã đánh dấu bước đi

quan trọng cho thấy ghita được chính thức chấp nhận một cách rộng rãi.

Nhạc phẩm và sách giáo khoa có giá trị được biên soạn cho ghita được xuất bản một cách

rộng rãi. Các nhạc phẩm của thời kỳ này hầu hết là được chuyển soạn (arrangement) từ

các ca khúc Việt Nam nổi tiếng hay biến tấu (variation) trên các làn điệu dân ca. Hầu hết

các trung tâm nghệ thuật quần chúng, chẳng hạn như nhà văn hoá đều có các lớp dạy đàn

ghita. Nguồn tiếp xúc chủ yếu của các nghệ sỹ ghita miền Bắc là thông qua sự viện trợ

các băng nhạc nước ngoài của Liên Xô và các nước Đông Âu. Buổi trình diễn ghita độc

tấu đầu tiên ra mắt công chúng tại Hà Nội năm 1973 đã được hoan nghênh nhiệt liệt.

Sự mở rộng phát triển của ghita dần dần đã tạo nên lớp nghệ sỹ trẻ mới bên cạnh những

đàn anh đi trước như Tạ Tấn, Hải Thoại, Đỗ Trường Giang, Vũ Bảo Lâm, Quang

Khôi, Phạm Văn Phúc,Nguyễn Văn Ti, Nguyễn Quang Tôn, ...

Song, do hoàn cảnh chiến tranh, thiếu bài bản và điều kiện tổ chức, thiếu cả sự liên hệ với

nền nghệ thuật ghita thế giới, và thiếu cả nghệ sĩ ghita bậc thầy được đào tạo chính quy

nên nghệ thuật ghita ở miền Bắc lúc đó phát triển chậm và không đều.

Ở miền Nam, sự phát triển của guitar có phần thuận lợi hơn. Đàn ghita được đưa vào

chương trình giảng dạy của trường Quốc gia Âm nhạc Huế và trường Quốc gia Âm nhạc

Sài Gòn từ 1956. Thêm vào đó, giới mộ điệu ở Sài Gòn được tiếp xúc nhiều hơn với ghita

cổ điển thế giới thông qua những buổi trình diễn của các bậc thầy như Siegfried

Behrend, Julian Bream, Alice Artzt,... Ghita từ chỗ phổ biến ở phòng trà, dần dần đã đi

vào đời sống thường nhật. Có rất nhiều dòng ghita cùng song song tồn tại và hỗ trợ cho

nhau rất tốt như ghita cổ điển, ghita flamenco, ghita jazz. Một vài tên tuổi nổi tiếng trong

thời kỳ này phải kể đến Đỗ Đình Phương, Trương Huệ Mẫn, Võ Tá Hân, Hoàng

Bửu, Trần Văn Phú hay Hoàng Liêm, Văn Trổ...

4.2.2 Thời kỳ sau 1975

Đất nước thống nhất, nghệ sỹ ghita ở hai miền có dịp gặp nhau, trao đổi kinh nghiệm, bài

bản và kỹ thuật. Từ đó tạo cơ sở cho nền nghệ thuật ghita non trẻ của Việt Nam có dịp

phát triển lên một trình độ mới.

Chính từ những cuộc biểu diễn khá đều đặn trong thập niên 1980 tại thính phòng nhỏ của

Nhà văn hóa quận Phú Nhuận mà công chúng yêu nhạc cổ điển Sài Gòn đã biết đến một

loạt tên tuổi mới của làng ghita như Phạm Quang Huy, Châu Đăng Khoa, Nguyễn Thái

Cường, Huỳnh Hữu Đoan, Dương Kim Dũng,... có cả những nghệ sĩ nữ tài năng như Ngô

Thị Minh, Nguyễn Thị Phi Loan...

Page 21: Ghi ta cơ bản

Biên soạn: Nguyễn quốc lương – [email protected]

Facebook:https://www.facebook.com/nguyen.quocluong.5

Học đàn - Mua đàn sinh viên Call: 01663789612

Thập niên 1980 cũng có thể nói là giai đoạn chín mùi về tài năng và đỉnh cao về nghệ

thuật của Phùng Tuấn Vũ một trong những nghệ sĩ ghita hàng đầu Việt Nam và là người

góp phần đào tạo hàng loạt tên tuổi mới của ghita Việt Nam sau nàỵ. Trong khi đó, ở Hà

Nội cũng xuất hiện những tài năng mới đầy triển vọng như Đặng Ngọc Long, Phan Đình

Tân, Phạm Văn Phương, Nguyễn Lan Anh... Trong số những cái tên vừa kể, Đặng Ngọc

Long, được tu nghiệp ở Đông Đức, là nghệ sĩ ghita (guitarist) đầu tiên của Việt Nam

được theo học tại một quốc gia có nền nghệ thuật ghita phát triển.

4.2.3 Hiện tại

Kể từ sau năm 1990, ghita cổ điển cũng như nghệ thuật ghita nói chung dường như

bước vào thoái trào . Giới ghita cổ điển chỉ còn gói gọn trong các nhạc viện. Những nghệ

sỹ lớn hầu hết đều chuyển sang chơi nhạc nhẹ hoặc rời ra nước ngoài. Nghề làm đàn ghi-

ta, vĩ cầm, mandoline… cũng đang ngày càng tàn lụi, cả Sài Gòn chỉ còn khoảng 10 điểm

sản xuất đàn với 2 – 3 nghệ nhân sống chết với nghề. Và hiếm hoi lắm người ta mới tìm

được một thương hiệu ghi-ta nghiêm túc tại Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung.

Tuy nhiên ghi-ta vẫn luôn có chỗ trong lòng công chúng yêu nhạc. Rất nhiều cuộc thi có

quy mô đã được tổ chức. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, mạng Internet,

sự giao lưu của những người yêu ghi-ta đã không bị giới hạn trong một vùng cụ thể mà

có thể thường xuyên tìm hiểu trao đổi học hỏi với bên ngoài.