hệ thống giám sát tài chính

25
1 Chủ đề: Hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam Danh sách nhóm: 1. Vương Thị Huyền 2. Vũ Thị Lý 3. Nguyễn Thị Nhàn 4. Nguyễn Thùy Linh 5. Phùng Thị Lam 6. Trần Phương Thảo 7. Nguyễn Thế Kiên 8. Nguyễn Viết Nhật

Upload: kwon-g-yong

Post on 11-Dec-2014

139 views

Category:

Documents


9 download

TRANSCRIPT

Page 1: Hệ thống giám sát tài chính

1

Chủ đề:

Hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam

Danh sách nhóm:

1. Vương Thị Huyền2. Vũ Thị Lý3. Nguyễn Thị Nhàn4. Nguyễn Thùy Linh5. Phùng Thị Lam6. Trần Phương Thảo7. Nguyễn Thế Kiên8. Nguyễn Viết Nhật

Page 2: Hệ thống giám sát tài chính

2

I.Tổng quan về hệ thống giám sát tài chính quốc gia

Các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm trên thế giới đã đi đến kết luận rằng, một quốc gia có hệ thống giám sát tài chính hoạt động hiệu quả sẽ có nhiều khả năng tránh được khủng hoảng tài chính hoặc hạn chế được những hậu quả xấu do khủng hoảng. Những cuộc khủng hoảng kinh tế cũng chính là thước đo hữu hiệu để kiểm nghiệm tính hiệu quả của hệ thống giám sát. Gần đây nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã dấy lên câu hỏi về tính an toàn và hiệu quả của bộ máy giám sát tài chính, kể cả với các nước có nền kinh tế phát triển trình độ cao như Mỹ, Nhật. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu về hệ thống giám sát là một việc làm vô cùng thiết thực, nhất là trong bối cảnh Việt Nam, một nền kinh tế mới nổi với hệ thống tài chính còn non trẻ. Một sự lựa chọn đúng đắn mô hình giám sát sẽ giúp chúng ta thiết lập được bộ máy quản lý, điều hành tốt dù là nước đi sau về nhiều mặt, như Singapo, một trong bốn con rồng châu Á là một ví dụ điển hình. Trong phạm vi bài thảo luận, chúng tôi xin đi vào phân tích mô hình giám sát thị trường tài chính Việt Nam từ đó đề ra một số giải pháp hoàn thiện

1. Các mô hình trên thế giới

Để hiểu rõ về hệ thống giám sát tài chính Việt Nam, ta cần xem xét ở tầm vĩ mô trước, tức là xác định được Việt Nam hiện đang đi theo mô hình nào trong những mô hình tồn tại trên thế giới, từ đó mới đánh giá được tính hiệu quả trong công tác giám sát vì mỗi mô hình lại có những đặc điểm riêng nên có những tiêu chí đánh giá cũng như mục tiêu khác nhau. Trong quá trình phát triển,trên thế giới,có 4 mô hình hệ thống giám sát tài chính quốc gia cơ bản là:

(1) mô hình hệ thống giám sát theo đặc điểm thể chế

(2) mô hình hệ thống giám sát theo chức năng

(3) mô hình hệ thống giám sát lưỡng đỉnh

(4) mô hình hệ thống giám sát hợp nhất

2 .Hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam

Trong quá trình cải cách, phát triển của TTTC ,hệ thống giám sát ở Việt Nam cũng từng bước hình thành và phát triển. Hiện nay, hệ thống các cơ quan giám sát tài chính ở Việt Nam về bản chất là mô hình giám sát theo đặc điểm thể chế. Theo đó, chức năng giám sát được phân nhiệm cho nhiều cơ quan khác nhau, bao gồm NHNN (giám sát các hoạt động ngân hàng - tiền tệ), Bộ Tài chính (Vụ Bảo hiểm giám sát thị trường bảo hiểm), Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) (giám sát thị trường chứng khoán), Thanh tra Bộ Tài chính (giám sát các hoạt động của các cơ quan/ doanh nghiệp thuộc Bộ Tài chính). Bên cạnh đó, Ủy ban Giám sát Tài chính

Page 3: Hệ thống giám sát tài chính

3

quốc gia (UBGSTCQG) có chức năng tư vấn, giúp Chính phủ trong điều hành giám sát hệ thống tài chính.

Sơ đồ:Mô hình giám sát tài chính hiên nay của Việt Nam

Ưu điểm: Các nội dung giám sát được chuyên môn hóa, chú trọng tới ổn định hệ thống, giám sát thận trọng/an toàn vi mô, đạo đức kinh doanh và bảo vệ khách hang

Nhược điểm:

- Không tạo ra được tính độc lập trong hoạt động giám sát khó có thể thực hiện một cách công khai, minh bạch khi công bố, xử lý các sai phạm. Mô hình này trong thời gian gần đây phải chịu những sức ép có liên quan tới vai trò ngày càng tăng của các tập đoàn tài chính (khi các định chế tài chính hoạt động đa ngành, cả tài chính (ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán) lẫn phi tài chính (ví dụ bất động sản), hoặc áp dụng nhiều công cụ phái sinh khác nhau) và sự đánh tráo trong quản lý hay còn gọi là lợi dụng kẽ hở pháp luật. Đối với vấn đề sau, các tập đoàn tài chính thường chuyển giao các hoạt động kinh doanh bị cấm hoặc bị hạn chế cho các công ty con không bị cấm hoặc bị hạn chế các loại kinh doanh này. Tình trạng đánh tráo quản lý đã xảy ra phổ biến ở một số nước châu Á và đã làm trầm trọng hơn cuộc khủng hoảng tài chính khu vực vào cuối thập niên 1990

- Mô hình này thường gặp khó khăn trong chia sẻ thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước

- Mô hình này khó tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô, gây tốn kém trong hoạt động giám sát.

3. Các bộ phận chính của hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam

Page 4: Hệ thống giám sát tài chính

4

1.Ủy ban chứng khoán nhà nước

1.Khái niệm, nhiệm vụ và quyền hạn

* Khái niệm: Ủy ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN chính thức được thành lập vào ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về chứng khoán và Thị trường chứng khoán

* Nhiệm vụ và quyền hạn:

1. Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định:

a. Các dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết

của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị định của Chính phủ; dự thảo quyết định

của Thủ tướng Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán;

b. Chiến lược, quy hoạch, chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hành động, đề

án, dự án quan trọng về chứng khoán và thị trường chứng khoán.

2. Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính xem xét, quyết định:

a. Dự thảo thông tư và các văn bản khác về chứng khoán và thị trường chứng khoán;

b. Kế hoạch phát triển thị trường chứng khoán hàng năm.

3. Ban hành văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, văn bản quy phạm nội bộ, văn bản cá biệt thuộc phạm vi quản lý của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước.

4. Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án thuộc lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán sau khi được cấp có thẩm quyền ban hành hoặc phê duyệt.

5. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.6. Cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận liên quan đến hoạt động chứng

khoán và thị trường chứng khoán; chấp thuận những thay đổi liên quan đến hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán.

7. Quản lý, giám sát hoạt động của các Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán và các tổ chức phụ trợ; tạm đình chỉ hoạt động giao dịch, hoạt động lưu ký của các Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán trong trường hợp có dấu hiệu ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; chấp thuận các quy định, quy chế của các Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán; chấp thuận việc đưa vào giao dịch các loại chứng khoán mới, thay đổi và áp dụng phương thức giao dịch mới, đưa vào vận hành hệ thống giao dịch mới.

8. Thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán.

9. Thực hiện công tác thống kê, dự báo về hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán; tổ chức quản lý và ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.

Page 5: Hệ thống giám sát tài chính

5

10.Tổ chức nghiên cứu khoa học; tổ chức, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức quản lý chứng khoán và nhân viên hành nghề chứng khoán; phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng.

11.Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định của pháp luật.

12.Hướng dẫn các tổ chức hiệp hội chứng khoán thực hiện mục đích, tôn chỉ và Điều lệ hoạt động của hiệp hội; kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước, xử lý hoặc kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật của các hiệp hội chứng khoán theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định của pháp luật.

13.Thực hiện chế độ báo cáo về chứng khoán và thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật và phân công, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

14.Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế; thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, thi đua khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định của pháp luật; thực hiện phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng tài sản, kinh phí được giao theo quy định của pháp luật.

15.Thực hiện cải cách hành chính theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính được Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt

16.Quản lý kinh phí do ngân sách nhà nước cấp và các nguồn kinh phí khác, tài sản được giao; thực hiện chế độ tự chủ về biên chế và kinh phí hoạt động theo quy định của cấp có thẩm quyền.

17.Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính giao và theo quy định của pháp luật.

2.Thực trạng hoạt động điều hành

Sự phát triển quá nhanh của TTCK từ cuối năm 2006 đến nay dường như vượt quá năng lực quản lý của UBCKNN. Trên thực tế, cơ quan này còn non trẻ, chưa có đủ điều kiện cần thiết để quản lý và giám sát có hiệu quả hoạt động trên TTCK. Ngoài ra, thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) cũng đang hoạt động một cách tự phát, chưa được quản lý và bảo vệ, và không có được sự minh bạch như ở Trung tâm giao dịch chứng khoán.

Trước tình hình như vậy, Chính phủ cũng đã yêu cầu Bộ Tài chính phải tăng cường quản lý, theo dõi, thanh tra, kiểm tra để đảm bảo cho thị trường phát triển theo đúng định hướng đề ra, phát huy mặt tích cực, hạn chế tối đa những mặt tiêu cực đối với thị trường, không để xảy ra những biến động lớn vượt ra ngoài tầm kiểm soát.

2.Thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

1.Khái niệm, nhiệm vụ

* Khái niệm: Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng là cơ quan thường trực của NHNN thực hiện chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của NHNN; tham mưu giúp Thống dốc NHNN quản lý nhà nước đối với các TCTD, tổ chức tài chính quy mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; thực hiện phòng chống rửa tiền theo quy định của Pháp luật

Page 6: Hệ thống giám sát tài chính

6

* Nhiệm vụ:

+ Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có nhiệm vụ trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định hoặc ban hành: kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm về phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính quy mô nhỏ; các dự thảo thông tư về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính quy mô nhỏ; hướng dẫn tiêu chuẩn, điều kiện hoạt động ngân hàng; hướng dẫn trình tự, thủ tục, hồ sơ cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính quy mô nhỏ và các loại giấy phép hoạt động ngân hàng khác; việc cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tài chính quy mô nhỏ, tổ chức tín dụng (trừ trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định); việc cấp, thu hồi giấy phép mở chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam và các loại giấy phép hoạt động ngân hàng khác theo phân công của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước…

+ Ngoài ra, cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng còn thực hiện chức năng thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, việc thực hiện các quy định trong giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính quy mô nhỏ và giấy phép hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác.

2.Thực trạng hoạt động điều hành

Dù đã có nhiều luật và văn bản quy định, nhiều cơ chế và các tổ chức được thành lập để thực hiên chức năng giám các tổ chức tín dụng các tổ chức tín dụng nhưng đến nay hệ thống này vẫn còn nhiều bất cập. Qua giai đoạn khó khăn này, khi các ngân hàng bộc lộ nhiều vấn đề càng cho thấy sự kiểm soát đang còn nhiều lỗ hổng khó lấp đầy.

Cơ quan chịu trách nhiệm chính việc thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng hiện nay là Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng, được tổ chức thành hai cấp: trực thuộc NHNN trung ương và trực thuộc NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố.

Thứ nhất, hoạt động thanh tra giám sát hiện nay chủ yếu tập trung vào rủi ro an toàn vi mô của từng tổ chức tín dụng, trong khi cơ sở pháp lý về thanh tra, giám sát rủi ro an toàn vĩ mô chưa được ban hành và không được thực hiện trên thực tế. Bên cạnh đó, phương pháp thanh tra giám sát chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế, vì hoạt động này vẫn dựa trên thanh tra giám sát tuân thủ, chưa áp dụng rộng rãi thanh tra giám sát rủi ro nên hiệu quả không cao. Bằng chứng là tỷ lệ nợ xấu tăng cao trong các ngân hàng một thời gian dài chưa được cảnh báo và xử lý nghiêm khắc ngay từ đầu.

Thứ hai, phạm vi thanh tra giám sát ngân hàng hiện nay chưa toàn diện, hoạt động chưa được thực hiện trên cơ sở hợp nhất toàn bộ các thành phần liên quan của một tổ chức nên chưa xác định đúng tính chất, mức độ rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng không có quyền thực hiện thanh tra giám sát các công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm nên thời gian qua chúng ta chưa đánh giá chính xác thực trạng toàn bộ hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.

Thứ ba, với mô hình tổ chức phân tán, việc phân cấp ủy quyền cho NHNN cấp tỉnh thực hiện thanh tra các tổ chức tín dụng trên địa bàn quản lý dẫn đến khó triển khai thanh tra toàn diện các tổ chức tín dụng và thanh tra giám sát trên cơ sở rủi ro. Cơ chế thực thi hoạt động thanh tra giám sát theo địa phương hiện không hiệu quả, không phù hợp với thực tiễn hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng vốn tập trung tại Hội sở chính. Điều này cũng dẫn tới hoạt động giám sát còn khoảng trống lớn, lãng phí nhân lực do công việc giám sát bị chia cắt theo địa giới hành chính trong khi hoạt động kinh doanh lại điều hành theo chiều dọc. Bất cập này ảnh hưởng đến khả

Page 7: Hệ thống giám sát tài chính

7

năng đánh giá của cơ quan giám sát về định hướng phát triển từng tổ chức tín dụng, rủi ro tiềm ẩn và làm giảm khả năng dự báo xa về khủng hoảng.

Việc phân tán trên còn khiến việc quản lý và điều phối lực lượng cán bộ thanh tra chưa phù hợp, bởi việc bố trí sắp xếp thanh tra viên ở chi nhánh lại thuộc thẩm quyền của giám đốc NHNN chi nhánh tỉnh nên Chánh Thanh tra giám sát Ngân hàng ở NHNN trung ương không có quyền chủ động quản lý điều phối sử dụng các thanh tra viên trong toàn hệ thống khi cần thiết.

Thứ tư, trong nội bộ các cơ quan thanh tra giám sát, việc phối hợp còn hạn chế, chưa hiệu quả. Sự song trùng lãnh đạo giám sát ngân hàng tại NHNN trung ương và các chi nhánh tại địa phương không phát huy hết vai trò trách nhiệm của thanh tra mà còn có hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm giữa trung ương và địa phương dẫn đến các vụ việc không được kiểm tra. Việc phối hợp giữa cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng với NHNN chi nhánh không chặt chẽ và không hiệu qủa, nhất là trong quản lý thanh tra giám sát và xử lý sai phạm của tổ chức tín dụng.

3.Bảo hiểm tiền gửi

1.Khái niệm, vai trò

* Khái niệm: Bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG và người gửi tiền về việc tổ chức BHTG sẽ chi trả tiền gửi được bảo hiểm cộng với tiền lãi nhập gốc cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền.

Có thể hiểu rằng, BHTG là một loại hình bảo hiểm phi thương mại, theo đó tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng có nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân bằng đồng Việt nam thì bắt buộc phải tham gia đóng phí bảo hiểm tiền gửi cho tổ chức BHTGVN theo quy định. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm thì tổ chức BHTGVN sẽ có trách nhiệm thay TCTD trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của các cá nhân gửi tiền ở TCTD tham gia bảo hiểm

* Vai trò:

+ Bảo hiểm tiền gửi tạo lập và duy trì niềm tin của công chúng vào ngành ngân hàng: Thông qua việc bảo hiểm có mức độ đối với tiền gửi của công chúng trong hệ thống ngân hàng, đã tạo ra một công cụ đầu tư có rủi ro thấp, thích hợp với những nhà đầu tư không mạo hiểm. Nhờ vào công cụ này mà hệ thống ngân hàng thu hút được nguồn vốn tiết kiệm nhàn rỗi trong dân cư để thực hiện được chức năng trung gian tài chính một cách tích cực.+ Bảo hiểm tiền gửi giúp cho sự ổn định của hệ thống tài chính và ổn định tăng trưởng kinh tế. Thông qua các quy định an toàn và cơ chế giám sát hoạt động ngành ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi đã góp phần nâng cao khả năng quản trị rủi ro, khả năng điều hành ngành ngân hàng nói riêng và ngành tài chính nói chung. Với nguồn lực là quỹ bảo hiểm tiền gửi đủ khả năng can thiệp kịp thời khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng khó khăn, bảo hiểm tiền gửi đã giúp ngăn chặn và cô lập hiệu ứng rút tiền hàng loạt và sụp đổ của hệ thống ngân hàng khi một vài tổ chức ngân hàng gặp rắc rối.

Page 8: Hệ thống giám sát tài chính

8

+ Bảo hiểm tiền gửi là nhân tố cực kỳ quan trọng trong việc duy trì niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng.

2.Phân loại, mục đích

* Phân loại mô hình BHTG:

Hiện nay trên thế giới có ba mô hình BHTG phổ biến, đó là: - Mô hình chi trả- Mô hình chi trả có quyền hạn mở rộng; - Mô hình giảm thiểu rủi ro. => Nhiệm vụ và chức năng của các mô hình này là:

-Thứ nhất, đối với mô hình chi trả, tổ chức BHTG có chức năng chính là thực hiện chi trả cho người gửi tiền sau khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản

-Thứ hai, đối với mô hình chi trả có quyền hạn mở rộng thì ngoài chức năng thực hiện chi trả cho người gửi tiền sau khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản thì tổ chức BHTG còn có một số chức năng khác tuỳ thuộc vào đặc thù của mỗi nước (đây chính là mô hình tổ chức hiện tại của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hiện nay)

-Thứ ba, đối với mô hình giảm thiểu rủi ro, đây là mô hình có tính ưu việt nhất, bởi vì nó đã thể hiện được tốt nhất vai trò của tổ chức BHTG trong việc bảo vệ người gửi tiền.

* Mục đích:

Mục đích cơ bản của bảo hiểm tiền gửi là: bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng, góp phần tạo sự yên tâm cho những người gửi tiền vào các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.Đặc trưng của hoạt động kinh doanh tín dụng là kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác, tức là sử dụng tiền huy động được để cho vay lại. Bởi vậy, hoạt động kinh doanh này mang tính “nhạy cảm” cao, rất dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm lý xã hội và tác động có tính lan truyền. Chính vì thế, trong mối quan hệ tay ba giữa TCTD với người gửi tiền và người đi vay đều phải dựa vào quan hệ lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau để thực hiện. Một khi khách hàng gửi tiền tin rằng nhiều tài sản của TCTD đã bị giảm giá trị hoặc bị thất thoát lớn thì chắc chắn rằng họ sẽ cố gắng tìm cách rút tiền của mình ra để gửi vào TCTD khác tốt hơn. Nếu không khí tài chính hoảng loạn khởi phát và lan truyền thì mọi người sẽ đổ xô đến rút tiền ở TCTD đó. Sự thất bại hay đổ vỡ của một hay một số TCTD đều có thể tác động đến sự an toàn của cả hệ thống tín dụng và qua đó đến toàn bộ nền kinh tế. Sự khủng hoảng tài chính của thế giới và các quốc gia

Page 9: Hệ thống giám sát tài chính

9

trong khu vực trong thời gian qua cũng đã cho thấy nó đều bắt nguồn hay liên quan mật thiết đên sự đổ vỡ của các TCTD.

3.Thực trạng hoạt động điều hành

Kể từ khi ra đời và đi vào hoạt động cho đến nay, BHTG Việt Nam đã có những đóng góp rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, góp phần nâng cao niềm tin công chúng và duy trì một phần sự ổn định của hệ thống tài chính ngân hàng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng, với mức tăng trưởng huy động vốn bình quân hàng năm là 30% , số lượng các tổ chức tham gia vào BHTG cũng gia tăng mạnh mẽ, khẳng định niềm tin của công chúng vào hệ thống tài chính ngân hàng.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của BHTG Việt nam còn nhiều bất cập và hạn chế như: chức năng và nhiệm vụ chưa được quy định đầy đủ và rõ ràng theo thông lệ quốc tế, năng lực tài chính của các cán bộ còn hạn chế, chưa có sự trao đổi kết hợp với các cơ quan trong mạng lưới an toàn quốc gia khác. Điều này ảnh hưởng tới việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của BHTG.

4.Ủy ban giám sát tài chính quốc gia

1.Khái niệm, chức năng

* Khái niệm: Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia là một cơ quan có chức năng tham mưu, tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ Việt Nam trong điều phối hoạt động giám sát thị trường tài chính quốc gia (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm); giúp Thủ tướng Chính phủ giám sát chung thị trường tài chính quốc gia. Ủy ban này được thành lập ngày 3 tháng 3 năm 2008 theo quyết định của Thủ tướng

* Chức năng:

Các chức năng cụ thể của Ủy ban là:

Điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành; giám sát chung thị trường tài chính và việc chấp hành các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động giám sát của các cơ quan thanh tra - giám sát chuyên ngành trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.

Giám sát điều kiện được cấp phép hoạt động của các tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.

Phân tích, dự báo, cảnh báo mức độ an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng và nguy cơ rủi ro đối với thị trường tài chính quốc gia; thiết lập cơ sở dữ liệu, tổng hợp, xử lý và cung cấp các thông tin về thị trường tài chính quốc gia báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Kiến nghị với các cơ quan thanh tra - giám sát chuyên ngành và cấp có thẩm quyền xử lý vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân không chấp hành hoặc không thực hiện đầy đủ các điều kiện trong hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán.

Được yêu cầu Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm cung cấp định kỳ và đột xuất các thông tin liên

Page 10: Hệ thống giám sát tài chính

10

quan về tài chính - ngân hàng; được trưng tập các cán bộ của các Bộ, ngành khi cần thiết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát được giao

II. Thành tựu đạt được

1. Thành tựu

Nhìn chung hệ thống giám sát tài chính đã thể hiện được chức năng của mình, đặc biệt trong mục tiêu ổn định hệ thống và giám sát thận trọng. Đi theo mô hình phân tán với những lợi thế của mô hình, thời gian qua, hệ thống giám sát của Việt Nam đã dần được chuyên môn hóa. Đã có hệ thống giám sát chéo giữa các cơ quan trong bộ máy giám sát làm tăng hiệu quả kiểm soát, UBGSTCQG ra đời giúp cho các cơ quan có tính chuyên môn hóa cao nhưng vẫn có sự phối kết hợp. Với từng thị trường riêng, chúng ta cũng đã đã có những bước tiến lớn trên cả 3 mặt: Khung pháp lý, nội dung giám sát và cách thức tổ chức giám sát.

Khung pháp lý

Khung pháp giám sát, thanh tra trên cả 3 thị trường ngày càng được hoàn thiện theo hướng nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý, tăng cường cạnh tranh, bảo đảm các nguyên tắc thị trường chung.

Nội dung giám sát

- Nội dung giám sát dần được đổi mới theo sự phát triển của từng ngành. Xây dựng theo các tiêu chuẩn quốc tế và đã bước đầu đi vào áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế tại Việt Nam. - Đã bước đầu xây dựng được hệ thống cảnh báo rủi ro sớm và phòng tránh rủi ro để đảm bảo tính ổn định cho thị trường và thực hiện mục tiêu bảo vệ khách hàng. Ví dụ, Năm 2009, Cục Phòng, chống rửa tiền đã được thành lập như là một bộ phận thuộc NHNN để thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi rửa tiền. Một số vụ rửa tiền đã được công an phối hợp với cơ quan chức năng phát hiện.

- Nguyên tắc giám sát thận trọng được chú trọng, thể hiện ở việc công tác thanh tra, điều tra, giám sát có hiệu quả hơn, chặt chẽ hơn phát hiện chính xác những sai phạm.

- Quyết liệt trong việc xử lý những sai phạm đó.

- Thành lập mới các ban giám sát để soạn thảo văn bản, quy chế, làm cơ sở cho hoạt động giám sát thị trường kịp thời ngăn chặn những hoạt động có tính chất thao túng và lạm dụng thị trường.

Cách thức tổ chức, giám sát.

Từ chỗ chủ yếu tập trung vào thanh tra tại chỗ, mở rộng thêm hoạt động giám sát từ xa. Sự phối hợp hoạt động giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ thể hiện sự thanh tra, giúp ciệc phát hiện các sai phạm chính xác hơn,cải cách hoạt động giám sát của TTTC theo các nguyên tắc giám sát của quốc tế. Hoạt động thanh tra, kiểm tra được tập trung chủ yếu vào vấn đề tuân thủ quy định

Page 11: Hệ thống giám sát tài chính

11

của pháp luật của các tổ chức tham gia thị trường. Tăng cường công tác thanh tra giám sát nhằm tăng cường tính minh bạch, góp phần giữ vững ổn định thị trường.

2. Các hạn chế, bất cập

Khuôn khổ pháp lý về giám sát tài chính còn nhiều khe hở, chưa đồng bộ. Điều này xuất phát từ mô hình phân tán, tồn tại ba cơ quan riêng biệt giám sát ba mảng thị trường, mỗi cơ quan có những kỹ thuật, nghiệp vụ riêng và hoạt động dưới những quy định, nguyên tắc và chuẩn mực khác nhau. Các cơ quan tiến hành giám sát thông qua quá trình lựa chọn đầu vào (sự cấp phép và thủ tục ghi danh trong các ghi sổ đặc biệt), kiểm tra giám sát định kỳ hoạt động kinh doanh (kiểm soát, điều tra và chế tài xử phạt) và cả sự rời khỏi thị trường (đình chỉ hoặc xoá bỏ tổ chức), trong khi chúng ta vẫn chưa thực sự tạo được một hành lang pháp lý rõ ràng, quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan (luật thanh tra, giám sát tài chính chưa phân định rõ đối tượng chịu sự giám sát và phạm vi quyền hạn của cơ quan thanh tra, giám sát ) đối tượng chịu quản lý có thể bị bỏ sót hoặc 1 định chế lại là đối tượng của nhiều cơ quan. Khung pháp lý còn bỏ trống một số đối tượng giám sát liên quan đến sản phẩm tài chính, bảo vệ khách hàng, giám sát hợp nhất, phân tích dự báo và cảnh báo sớm. Đó là những khe hở trong giám sát ngoài ra, Pháp luật về giám sát tài chính Việt Nam được quy định ở nhiều văn bản khác nhau như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật Thanh tra, Luật Chứng khoán... và các văn bản khác hướng dẫn thi hành các đạo luật này. Thực trạng này sẽ dẫn đến những hệ quả như: mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định về giám sát tài chính; Không bảo đảm tính thống nhất và tính liên thông trong giám sát tài chính; Khó truy cứu trách nhiệm của từng cơ quan giám sát tài chính khi không hoàn thành nhiệm vụ giám sát.

Xung đột về lợi ích, khiến hiệu quả và hiệu lực giám sát không cao do các cơ quan giám sát (NHNN, UBCKNN và Bộ Tài chính vừa thực hiện chức năng cấp phép, ban hành cơ chế - chính sách, vừa thực hiện chức năng hướng dẫn, triển khai thực hiện cơ chế chính sách và kiêm luôn vai trò kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các định chế tài chính. Một số hoạt động nghiệp vụ có liên quan tới nhiều cơ quan quản lý nhà nước. ví dụ: Hiện nay, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giám sát thị trường chứng khoán là Vụ Giám sát thị trường chứng khoán theo Quyết định số 389/QĐ-BTC ngày 23/2/2010 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Trên thực tế, ngoài Vụ giám sát TTCK, hoạt động giám sát chứng khoán còn được thực hiện bởi 3 đơn vị chức năng đó là Vụ Quản lý kinh doanh chứng khoán, Vụ quản lý các công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư chứng khoán và Vụ quản lý phát hành chứng khoán

Thiếu sự liên thông và phối kết hợp giữa các cơ quan giám sát chuyên ngành, chưa chú trọng điều tiết vĩ mô. Điều này dẫn đến một kết quả tất yếu là khó giám sát được những rủi ro chéo. Do kết câú của mô hình phân tán, các cơ quan hoạt động độc lập, chưa có sự trao đổi thông tin trong khi các định chế tham gia thị trường tài chính ngày càng phức tạp với lĩnh vực hoạt động đa ngành, điều đó dẫn đến tiềm ẩn rủi ro hệ thống. ví dụ: một định chế tài chính, khi đăng ký thành lập là một ngân hàng, như vậy nó sẽ chịu sự giám sát của NHTW cho dù sau đó có mở rộng sang các lĩnh vực tài chính khác như chứng khoán hay bảo hiểm. Còn các công ty CK và BH con của

Page 12: Hệ thống giám sát tài chính

12

nó chịu sự quản lý của UBCKNN và cục quản lý bảo hiểm. Nếu công ty Chứng khoán con lỗ, hay có sai phạm, UBCKNN sẽ đến xử lý nó và ngân hàng (công ty mẹ) không chịu ảnh hưởng gì. Như vậy ta đặt ra 1 câu hỏi: Liệu ngân hàng có thể để cho cty con của nó chết dễ dàng vậy không hay nó sẽ có những can thiệp vi phạm nguyên tắc đạo đức thị trường để cứu cty con, nhất là khi ngân hàng là ngành khá nhạy cảm, không thể để sự sụp đổ của cty CK con làm ảnh hưởng đến uy tín. Khi đó các cơ quan giám sát lại làm việc độc lập, và chuyên môn hóa không có chia sẻ thông tin hay kết nối thì sao có thể phát hiện ra những sai phạm này? Như vậy, ta cần một cơ quan giám sát tài chính vĩ mô có đủ thẩm quyền và năng lực bộ máy để có thể cảnh báo, ngăn ngừa và xử lý hữu hiệu các loại rủi ro của hệ thống tài chính đất nước. UBGSTCQG ra đời với mục đích tạo sự phối kết hợp giữa các cơ quan để giải quyết mâu thuẫn trên. Tuy nhiên, sau 3 năm đi vào hoạt động, ủy ban này vẫn chưa khắc phục được những nhược điểm trên. Cụ thể do:

(1) Vị thế Pháp lý của Ủy ban còn thấp(2) Không có quyền lực quản lý Nhà nước mà Ủy ban thực chất chỉ là cơ quan tham mưu, tư

vấn(3) Đội ngũ cán bộ còn mỏng và non trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm(4) Hỗ trợ kỹ thuật từ phía nước ngoài chưa có(5) Quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế chưa thiết lập được

Thách thức, rủi ro ở đây là hoạt động giám sát các định chế tài chính ngày càng trở nên khó khăn do ngày càng gia tăng các hoạt động đổi mới tài chính và công nghệ thông tin - truyền thông, tự do hóa kinh tế - tài chính, các bộ phận của thị trường tài chính ngày càng đan xen nhau chặt chẽ, các tổ chức tài chính ngày càng trở nên đa năng, đa quốc gia với các công cụ tài chính ngày càng phong phú và phức tạp.

Chưa có sự minh bạch hóa thông tin. Do các thông tin của các cơ quan này thường là bí mật nên hạn chế việc trao đổi giữa các cơ quan trong điều kiện chuyên môn hóa việc giám sát.

III. Giải pháp hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính Việt Nam

Một là,hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về giám sát tài chính ở Việt Nam:

Nhằm từng bước hoàn thiện khung pháp luật về giám sát tài chính ở Việt Nam, các giải pháp:

-Tiến hành nghiên cứu tổng rà soát thực trạng pháp luật về giám sát tài chính hiện nay, đánh giá mức độ phù hợp của các quy định pháp luật với thực tiễn phát triển thị trường tài chính là cơ sở cho việc phát triển, bổ sung các quy định pháp luật phù hợp với thực tiễn phát triển thị trường tài chính Việt Nam.

-Tách chức năng giám sát tài chính ra khỏi cơ quan quản lý nhà nước về thị trường tài chính. Theo đó, cơ quan giám sát tài chính được chủ động trong việc thực hiện nhiệm vụ giám sát, hạn chế đến mức thấp nhất các can thiệp hành chính vào quá trình vận hành thị trường. Làm được

Page 13: Hệ thống giám sát tài chính

13

điều này, hoạt động giám sát tài chính sẽ bảo đảm tính độc lập, chủ động trong việc thực hiện giám sát, từng bước giám sát thị trường tài chính thông qua các công cụ của thị trường, hạn chế sự can thiệp bằng các biện pháp hành chính đối với hoạt động của thị trường.

-Ban hành Luật về giám sát tài chính thống nhất. Luật về giám sát tài chính thống nhất tối thiểu phải có những nội dung sau đây:

+ Mô hình tổ chức cơ quan giám sát tài chính;

+ Những nguyên tắc của hoạt động giám sát tài chính;

+ Nội dung giám sát tài chính, mà cụ thể là tách chức năng giám sát tài chính ra khỏi chức năng quản lý nhà nước về ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán;

+ Quy trình giám sát tài chính;

+ Thẩm quyền của cơ quan giám sát tài chính.

VD:

Ngày 7/9/2012, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) có Công văn số 3229/UBCK-QLQ gửi các Tổ chức kinh doanh chứng khoán và các Ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát về việc chấn chỉnh các hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán. UBCKNN yêu cầu:

1. Tổ chức kinh doanh chứng khoán (công ty quản lý quỹ, công ty chứng khoán) không được thực hiện bán hoặc cho khách hàng bán chứng khoán khi không sở hữu chứng khoán và cho khách hàng vay chứng khoán để bán, như sau:

a) Tổ chức kinh doanh chứng khoán, nhân viên làm việc tại các tổ chức kinh doanh chứng khoán không được làm trung gian cho các tổ chức, cá nhân vay, mượn chứng khoán của nhau để bán dưới mọi hình thức, kể cả trong trường hợp không dẫn tới việc thay đổi quyền sở hữu và giao dịch bán thực hiện trên tài khoản của bên cho vay;

b) Tổ chức kinh doanh chứng khoán không được sử dụng chứng khoán của mình, của khách hàng, của nhà đầu tư ủy thác và các quỹ đầu tư do công ty quản lý để cho các tổ chức, cá nhân vay, mượn để bán dưới mọi hình thức, kể cả trong trường hợp không dẫn tới việc thay đổi quyền sở hữu và giao dịch bán thực hiện trên tài khoản của chính tổ chức kinh doanh chứng khoán, tài khoản của khách hàng, tài khoản ủy thác, tài khoản của quỹ.

2. Công ty quản lý quỹ không được sử dụng tài sản của quỹ, nhà đầu tư ủy thác để cho vay dưới mọi hình thức, bảo lãnh cho các khoản vay dưới mọi hình thức hoặc thanh toán các nghĩa vụ nợ của công ty quản lý quỹ, người có liên quan của công ty quản lý quỹ, tổ chức, cá nhân khác.

Page 14: Hệ thống giám sát tài chính

14

3. Công ty quản lý quỹ thực hiện chế độ báo cáo chi tiết về hoạt động quản lý danh mục đầu tư cho nhà đầu tư ủy thác, kèm theo sao kê tài khoản, sao kê giao dịch chứng khoán phát sinh trong kỳ của nhà đầu tư ủy thác theo quy định của pháp luật.

4. Ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát chỉ được thực hiện chỉ thị thanh toán, chuyển tiền, tài sản của khách hàng, nhà đầu tư ủy thác, quỹ đầu tư sau giao dịch về tài khoản của khách hàng, tài khoản quản lý danh mục và tài khoản của quỹ theo đúng quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, pháp luật về phòng chống rửa tiền.

5. Tổ chức kinh doanh chứng khoán, ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát phải tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Trường hợp có các hành vi vi phạm nêu trên, tổ chức kinh doanh chứng khoán, ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát; các cá nhân trực tiếp vi phạm, tổ chức kinh doanh chứng khoán nơi các cá nhân đó làm việc cùng chịu trách nhiệm liên đới theo quy định pháp luật hiện hành.

UBCKNN sẽ phối hợp cùng các cơ quan chức năng xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Trường hợp phát hiện hành vi vi phạm có dấu hiệu hình sự, UBCKNN sẽ chuyển cơ quan công an để xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

6. UBCKNN khuyến cáo nhà đầu tư không vay và cho vay chứng khoán để bán do các hoạt động này tiềm ẩn nhiều rủi ro, có thể gây thất thoát tài sản của mình và dẫn tới các tranh chấp về tài sản. UBCKNN đề nghị nhà đầu tư yêu cầu các tổ chức kinh doanh chứng khoán cung cấp sao kê mọi giao dịch phát sinh trên tài khoản của mình, kể cả tài khoản quản lý danh mục đầu tư tại công ty quản lý quỹ. Trường hợp phát hiện có các dấu hiệu giao dịch bất thường trên các tài khoản đó, bán chứng khoán không theo lệnh của nhà đầu tư hoặc không phù hợp với hợp đồng quản lý danh mục đầu tư thì đề nghị thông báo ngay cho UBCKNN.

Hai là, đổi mới, kiện toàn mô hình hệ thống giám sát tài chính:

Hiện nay, xu hướng hợp nhất các cơ quan quản lý và giám sát thị trường tài chính hay nói đúng hơn là sự chuyển hướng từ phương thức giám sát theo từng lĩnh vực riêng lẻ sang hình thành một cơ quan giám sát hợp nhất, thực hiện giám sát toàn bộ hệ thống tài chính theo các mục tiêu đề ra, đang ngày càng trở nên rõ nét trên phạm vi toàn cầu bởi mô hình này mang lại hiệu quả giám sát cao hơn và nhất quán hơn, song thực tiễn đã chứng minh, không có mô hình mang tính khuôn mẫu, phù hợp cho tất cả các quốc gia. Do vậy, cần làm rõ những khác biệt và các nhân tố tác động đến quá trình phát triển thị trường tài chính của nước mình, từ đó, lựa chọn mô hình giám sát tài chính phù hợp với đặc điểm phát triển của mình.

Cần phải thiết lập một cơ quan thanh tra, giám sát tài chính hợp nhất, và khi đó các nguyên tắc như sau cần được áp dụng trong suốt quá trình xây dựng mô hình, cơ chế vận hành. Cụ thể như sau:

Page 15: Hệ thống giám sát tài chính

15

i) Cần có kế hoạch cho giai đoạn quá độ khoảng 2-3 năm cho việc sáp nhập toàn bộ các chức năng liên quan từ các cơ quan giám sát chuyên ngành khác nhau, do thực trạng đa dạng loại hình các tổ chức tài chính, mức độ hội nhập thịtrường cũng như những kinh nghiệm còn hạn chế trong việc quản lý sự thayđổi mang tính chất “quyết liệt” tại Việt Nam.Thực tiễn cho thấy tại các nước OECD,việc sáp nhập các tổ chức giám sát tài chính cũng phải mất thời gian: Canada phải mất 3năm, Úc và Na-uy phải mất hơn 2 năm mới hoàn thành quá trình này.

ii) Bảo đảm Cơ quan thanh tra, giám sát tài chính hợp nhất hoạt động độc lập với Bộ Tài chính vìvai trò của Bộ Tài chính là đại diện sở hữu nhà nước và quản lý tài sản. Cầnthiết lập cơ chế chia sẻ thông tin và phối hợp hành động hiệu quả giữa cơquan này và Ngân hàng Nhà nước.

iii) Duy trì một số chức năng thanh tra, giám sát tài chính nhất định(ví dụ đối với thị trường liên ngân hàng) tạiNgân hàng Nhà nước để cho phép Ngân hàng Nhà nước có thể hành độngkịp thời vì mục tiêu ổn định tiền tệ và cải thiện hiệu quả của chính sáchtiền tệ.

Trước mắt trong bối cảnh vẫn duy trì mô hình giám sát phân tán, chuyên ngành như nêu trên thì Chính phủ cần sớm có những giải pháp hữu hiệu nhằm củng cố, tăng cường năng lực giám sát chung thị trường tài chính và năng lực tham mưu, tư vấn cho Thủ tướng trong điều phối hoạt động giám sát thị trường tài chính quốc gia (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm) của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia. Các giải pháp này cần phải giải quyết tốtcác mặt như vị thế pháp lý, thẩm quyền, nguồn nhân lực, ngân sách đào tạo kỹ năng giám sát cho cán bộ của Ủy ban vì đây đang là những vấn đề còn nhiều hạn chế mà vì thế Ủy ban giám sát tài chính quốc gia chưa thể san lấp những khoảng trống trong hoạt động giám sát thị trường tài chính.

Ba là, củng cố, tăng cường năng lực giám sát của các cơ quan giám sát tài chính:

- Về nguồn nhân lực: Tăng cường đội ngũ cán bộ có trình độ, kỹ năng cao và giàu kinh nghiệm để thực hiện các hoạt động giám sát tài chính phù hợp với tình hình mới;

-Về nguồn lực kỹ thuật: Thiết lập sớm các hệ thống công nghệ thông tin và các tiện ích điện tử hoàn chỉnh cho việc giám sát và phân tích dữ liệu phục vụ công tác giám sát cho cả ba lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm;

-Về đào tạo cán bộ và hơp tác quốc tế: Cần xây dựng kế hoạch và các chương trình đào tạo cán bộ về các kỹ năng giám sát thị trường tài chính cụ thể, sát với các yêu cầu của hoạt động giám sát. Bên cạnh đó, các cơ quan giám sát tài chính cần chủ động thiết lập các quan hệ hợp tác với các tổ chức quôc tế cũng như các cơ quan giám sát nước ngoài để có thể nhận được các hỗ trợ kỹ thuật cho nghiệp vụ giám sát tài chính và hỗ trợ lẫn nhau trong việc giám sát các hoạt động xuyên biên giới liên quan đến thị trường tài chính để hoàn thiện việc san lấp các “khoảng trống” trên thị trường.

Page 16: Hệ thống giám sát tài chính

16

Bốn là, thiết lập đồng bộ hệ thống thể chế tạo môi trường cho hoạt động thực hiện giám sát tài chính, đặc biệt chú ý đến những quy đinh về hoạt động tín dụng của các ngân hàng.

Về nguyên tắc, việc giám sát hoạt động tín dụng không phải là nhằm bóp nghẹt hoạt động của các ngân hàng mà là hướng vào phòng ngừa rủi ro cho toàn bộ hệ thống. Theo đó, các giao dịch ngầm, các hoạt động né luật, lách luật cần được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Những giao dịch tín dụng theo kiểu "tay trong" cần được xử lý nghiêm khắc và triệt để.. Thể chế phòng ngừa các hoạt động rửa tiền và lừa đảo cần phải được chú ý hoàn thiện. Hiện nay, điều chỉnh hoạt động phòng chống rửa tiền thuộc phạm vi của Nghị định số 74/2005/NĐ-CP. Tuy nhiên, tiêu chí để xác định đâu là những giao dịch đáng ngờ, xét trong điều kiện hiện nay là không còn phù hợp. Do đó, trong thời gian tới cần phải sửa đổi hoàn thiện những thể chế này nhằm tạo điều kiện nâng cao hiệu lực cho hệ thống giám sát tài chính. Bên cạnh đó, các thể chế giám sát hoạt động của các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm (bao gồm các tổ chức bảo hiểm nội địa và tổ chức nước ngoài) cần được thiết lập nhằm ngăn chặn những hoạt động lừa đảo xâm nhập theo hệ thống từ bên ngoài vào, cũng như hoạt động tại thị trường Việt Nam; Chú trọng kiểm soát các sản phẩm tài chính phát sinh phi truyền thống như bảo hiểm nhân thọ của các công ty tài chính; kiểm soát các hoạt động tái đầu tư từ nguồn vốn huy động trong dân cư về lĩnh vực bảo hiểm; Đặc biệt phải kiểm soát chặt hệ thống hoạt động cho vay dưới chuẩn nhằm đề phòng những rối loạn trên lĩnh vực tín dụng, bảo hiểm. Đối với thị trường chứng khoán, cần bổ sung những quy định về minh bạch hoạt động giao dịch nhằm tạo sự lành mạnh trên thị trường; Giám sát hệ thống các hoạt động giao dịch thông qua các quỹ đầu tư thuộc chủ sở hữu nước ngoài để có thể phát hiện những hoạt động làm giá hoặc lũng đoạn thị trường, gây khó khăn cho công tác quản lý an toàn vận hành thị trường từ phía cơ quan chức năng.

Năm là, xây dựng hệ thống cảnh báo sớm hướng đến giám sát từ xa rủi ro, phòng ngừa khủng hoảng.

Việc nâng cao năng lực hệ thống giám sát theo kinh nghiệm tăng cường siết chặt sự vận hành của hệ thống tài chính như xu hướng chung của thế giới là cần thiết. Điều cần đặc biệt lưu ý là thay vì giám sát theo tiêu chuẩn thì trong thời gian tới cần hướng tới hệ thống giám sát rủi ro và phòng ngừa rủi ro. Mô hình này đòi hỏi sự phức tạp và trình độ giám sát cao hơn nhiều so với việc giám sát theo mô hình cổ điển là giám sát theo quy định như trước đây. Giám sát tài chính theo phương hướng phòng ngừa rủi ro đòi hỏi phải cảnh báo và phát hiện từ xa những yếu tố gây rủi ro và phân loại được rủi ro để có giải pháp tình huống cũng như giải pháp lâu dài, căn bản để phòng ngừa khủng hoảng. Để đạt được trình độ như vậy chắc chắn không thể chỉ trong một thời gian ngắn. Vì thế, ngay từ bây giờ, sự chuyển đổi mô hình giám sát tài chính là cần thiết.

Ngoài ra :

Cần bổ sung các yêu cầu về tính minh bạch và chế độ báo cáo, đặc biệt đối với chế độ kiểm toán hai lần một năm. Bước thứ hai là tăng cường tái cơ cấu các cơ quan giám sát tài chính hiện tại, bao gồm, cơ quan

Page 17: Hệ thống giám sát tài chính

17

giám sát trong lĩnh vực bảo hiểm, ngân hàng và chứng khoán để hướng tới một hệ thống giám sát tích hợp và độc lập. Về giám sát bảo hiểm, cần tái cơ cấu hoa hồng bảo hiểm. Văn phòng giám sát cần được thành lập tại Ngân hàng Nhà nước kết hợp với các phòng chức năng cùng với chức năng chống rửa tiền. Bước thứ ba là thực hiện giám sát và điều tiết dựa trên rủi ro theo các tiêu chuẩn quốc tế. Thứ tư, nâng cao tầm quan trọng của hệ thống cảnh báo sớm và tăng cường theo dõi các tổ chức tài chính lớn một cách có hệ thống.