hoÀng thỊ bẢo thoa nghiÊn cỨu nhỮng nhÂn tỐ tÁc...
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---o0o---
HOÀNG THỊ BẢO THOA
NGHIÊN CỨU NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI
MỐI QUAN HỆ GIỮA Ý ĐỊNH VÀ HÀNH VI TIÊU DÙNG XANH
CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI, 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---o0o---
HOÀNG THỊ BẢO THOA
NGHIÊN CỨU NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI
MỐI QUAN HỆ GIỮA Ý ĐỊNH VÀ HÀNH VI TIÊU DÙNG XANH
CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG VIỆT NAM
Ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 62.34.05.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Vũ Anh Dũng
2. TS. Phạm Thị Liên
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố
theo đúng qui định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu,
phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn Việt
Nam.
Những kết luận khoa học được đưa ra dựa theo kết quả nghiên cứu của
chính tôi và chưa được các nhóm nghiên cứu khác công bố ở bất kỳ một công
trình nào khác.
Tác giả luận án
Hoàng Thị Bảo Thoa
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận án “Nghiên cứu những nhân tố tác động tới
mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt
Nam”, tôi đã nhận được rất nhiều sự hướng dẫn, hỗ trợ của Ban giám hiệu,
phòng Đào tạo, viện Quản trị kinh doanh – Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành với những sự hỗ trợ đó.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Vũ Anh Dũng, TS. Phạm Thị Liên đã
truyền cảm hứng và hướng dẫn cho tôi hoàn thành luận án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn tạo điều
kiện, động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án này.
Tác giả luận án
Hoàng Thị Bảo Thoa
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
DANH MỤC HÌNH ............................................................................................... i
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................. ii
PHỤ LỤC ............................................................................................................. iv
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của luận án ............................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6
2.1 Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 6
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................... 7
3. Câu hỏi nghiên cứu ......................................................................................... 7
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu ................................................................... 8
4.1 Đối tượng nghiên cứu....................................................................................... 8
4.2 Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 8
5. Những đóng góp của luận án........................................................................... 8
5.1 Về mặt lý thuyết ............................................................................................... 9
5.2 Về mặt thực tiễn ............................................................................................. 10
6. Giới thiệu về kết cấu luận án ......................................................................... 12
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN CÁC NHÂN TỐ TÁC
ĐỘNG TỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA Ý ĐỊNH VÀ HÀNH VI TIÊU DÙNG
XANH .................................................................................................................. 13
1.1 Cơ sở lý thuyết về hành vi tiêu dùng xanh ................................................. 13
1.1.1 Các khái niệm liên quan đến tiêu dùng xanh ............................................. 13
1.1.2 Cơ sở lý thuyết về hành vi tiêu dùng xanh .................................................. 19
1.2 Tổng quan các nghiên cứu liên quan .......................................................... 23
1.2.1 Tổng quan các nghiên cứu về nhân tố tác động tới hành vi tiêu dùng xanh23
1.2.2 Tổng quan các nghiên cứu về mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng
xanh ...................................................................................................................... 30
1.2.3 Tổng quan về các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành
vi tiêu dùng xanh .................................................................................................. 33
1.3 Tổng quan kinh nghiệm tiêu dùng xanh trên thế giới ............................. 36
3.1.1 Trung Quốc ................................................................................................. 37
3.1.2 Nhật Bản ...................................................................................................... 38
3.1.3 Hàn Quốc .................................................................................................... 39
3.1.4 Hoa Kỳ ........................................................................................................ 41
3.1.5 Các nước thuộc liên minh Châu Âu (EU) ................................................... 42
1.4 Các mô hình nghiên cứu liên quan ............................................................. 43
1.4.1 Mô hình khái niệm về hành vi người tiêu dùng .......................................... 43
1.4.2 Mô hình hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng quan tâm tới môi trường44
1.4.3 Mô hình giả định các nhân tố ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng xanh của
người tiêu dùng Việt Nam .................................................................................... 46
1.5 Khoảng trống và hƣớng nghiên cứu ........................................................... 47
1.6 Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết ........................................................ 49
CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................. 55
2.1 Qui trình nghiên cứu .................................................................................... 55
2.2 Phƣơng pháp thu thập dữ liệu .................................................................... 56
2.2.1 Dữ liệu thứ cấp ............................................................................................ 56
2.2.2 Dữ liệu sơ cấp.............................................................................................. 56
2.3 Phƣơng pháp phân tích dữ liệu ................................................................... 63
2.3.1 Phương pháp phân tích, tổng hợp so sánh .................................................. 63
2.3.2 Phương pháp phân tích thống kê, đánh giá tác động .................................. 63
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG TIÊU DÙNG XANH VÀ CÁC NHÂN TỐ
ẢNH HƢỞNG TỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA Ý ĐỊNH VÀ HÀNH VI TIÊU
DÙNG XANH .................................................................................................... 71
3.1 Đặc điểm thị trƣờng ngƣời tiêu dùng Việt Nam ....................................... 71
3.2 Thực trạng tiêu dùng xanh ở Việt Nam từ kết quả phân tích tài liệu thứ
cấp ........................................................................................................................ 79
3.3 Kết quả phân tích điều tra........................................................................... 86
3.3.1 Tỷ lệ phản hồi và thông tin cơ bản của người được điều tra ...................... 86
3.3.2 Tỷ lệ người tiêu dùng Việt Nam biết đến tiêu dùng xanh ........................... 87
3.3.3 Thực trạng tiêu dùng xanh tại Việt Nam theo kết quả điều tra ................... 88
3.3.3 Đánh giá độ tin cậy và xác thực thang đo ................................................... 91
3.3.4 Phân tích mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh ................... 96
3.3.5 Kiểm định tác động của các nhân tố tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi
tiêu dùng xanh ...................................................................................................... 97
3.3.6 Ảnh hưởng của các nhân tố tiền đề của ý định tiêu dùng xanh và các biến
kiểm soát .............................................................................................................. 99
CHƢƠNG 4: BÀN LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KIẾN NGHỊ ... 104
4.1 Bàn luận kết quả nghiên cứu..................................................................... 104
4.1.1 Tổng kết kinh nghiệm quốc tế về tiêu dùng xanh và hàm ý đối với Việt
Nam .................................................................................................................... 104
4.1.2 Bàn luận các kết quả điều tra .................................................................... 106
4.2 Các đề xuất và kiến nghị ............................................................................ 108
4.2.1 Các đề xuất và kiến nghị đối với doanh nghiệp ........................................ 108
4.2.2 Các đề xuất và kiến nghị đối với các cơ quan nhà nước ........................... 110
4.2.3 Các đề xuất kiến nghị đối với người tiêu dùng ......................................... 114
4.3 Một số hạn chế của nghiên cứu và đề xuất cho hƣớng nghiên cứu tiếp
theo..................................................................................................................... 116
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
i
DANH MỤC HÌNH
STT TÊN HÌNH Trang
1 Hình 1.1: Mô hình đầy đủ Lý thuyết hành vi có kế hoạch 22
2 Hình 1.2: Quá trình mua hàng 31
3 Hình 1.3: Mô hình khái niệm về hành vi người tiêu dùng 43
4 Hình 1.4: Mô hình hành vi tiêu dùng tổng thể của người tiêu dùng
quan tâm tới môi trường
45
5 Hình 1.5: Mô hình giả định các nhân tố ảnh hưởng tới hành vi
tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam
46
6 Hình 1.6: Mô hình nghiên cứu 50
ii
DANH MỤC BẢNG
STT TÊN BẢNG Trang
1 Bảng 2.1: Bảng mô tả thang đo 51
2 Bảng 2.2: Bảng mô tả thang likert 58
3 Bảng 2.3: Bảng mã hóa các thang đo 65
4 Bảng 3.1: Thống kê tỷ lệ người tiêu dùng biết đến khái niệm tiêu
dùng xanh
83
5 Bảng 3.2: Bảng phân tích điểm trung bình chung của một số nhân
tố
90
6 Bảng 3.3: Bảng thống kê câu hỏi trong tương quan tổng của thang
đo Hành vi tiêu dùng xanh
92
7 Bảng 3.4 Kết quả kiểm định thước đo các nhân tố Nhận thức về
tính hiệu quả, sự nhạy cảm về giá và Sự sẵn có của sản phẩm
93
8 Bảng 3.5: Bảng thống kê câu hỏi trong tương quan tổng của thang
đo Quan tâm tới môi trường
94
9 Bảng 3.6 Kết quả kiểm định thước đo các nhân tố Quan tâm tới
môi trường, thái độ với môi trường và chuẩn mực chủ quan về tiêu
dùng xanh
95
10 Bảng 3.7: Bảng phân tích KMO và Bartlett's Test mối quan hệ
giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh
96
11 Bảng 3.8: phân tích tương quan tác động của ý định đến hành vi
tiêu dùng xanh (Correlations)
96
12 Bảng 3.9: Bảng phân tích tương quan Spearman's rho mối quan hệ
giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh
96
13 Bảng 3.10: Bảng phân tích hồi qui tuyến tính các nhân tố ảnh
hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh
98
14 Bảng 3.11 Kết quả hồi quy với ý định TDX là biến phụ thuộc 100
15 Bảng 3.12: Mô tả giá trị trung bình của ý định và hành vi tiêu dùng
xanh của phân biệt theo giới tính
100
16 Bảng 3.13: Hệ số tương quan giữa ý định và hành vi tiêu dùng ở 101
iii
các nhóm giới tính khác nhau
17 Bảng 3.14: Hệ số tương quan giữa ý định và hành vi tiêu dùng ở
hai nhóm giới tính nam và nữ (Spearman's rho)
101
18 Bảng 3.15: Tác động của thu nhập đến mối quan hệ giữa ý định và
hành vi tiêu dùng xanh
103
19 Bảng 4.1: Bảng tóm tắt các chính sách và chương trình thúc đẩy
tiêu dùng xanh ở một số quốc gia trên thế giới
105
iv
PHỤ LỤC
STT TÊN HÌNH Trang
1 Phụ lục 1: Bảng thống kê các nghiên cứu liên quan
2 Phụ lục 2: Phiếu điều tra sơ bộ
3 Phụ lục 3: Phiếu điều tra chính thức
4 Phụ lục 4: Thông tin của người được điều tra
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Tiêu dùng xanh hiện đang được xem là xu hướng tiêu dùng của thế kỷ khi môi
trường trở thành mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia trên thế giới. Những cụm
từ như sự nóng lên toàn cầu, hiệu ứng nhà kính, tình trạng xâm lấn của nước
biển… thường xuyên được các chính phủ, các tổ chức và người dân nhắc đến
như là một vấn đề đáng quan tâm trong mọi khía cạnh cuộc sống. Trong thập kỷ
qua, rất nhiều nỗ lực đã được đưa vào các chính sách và chương trình nhằm
chuyển đổi thành công cơ cấu công nghiệp và làm quy trình sản xuất sạch và hiệu
quả hơn. Tuy nhiên các doanh nghiệp chỉ có thể làm giảm những tác động đến
môi trường liên quan đến việc sản xuất chứ không giải quyết được các tác động
đến môi trường liên quan đến việc lựa chọn, sử dụng và thải loại sản phẩm của
người tiêu dùng (Fuchs và Lorek, 2005). Hơn thế nữa, những thay đổi được cho
là cần thiết còn vì các vấn đề kỹ thuật từ phía sản xuất có xu hướng bị các tăng
trưởng trong tiêu dùng vượt qu a (Mont và Plepys, 2008; Throne-Holst và cộng
sự, 2007). Khi người tiêu dùng càng ngày càng quan tâm đến môi trường, họ coi
trọng hơn đến hành vi mua thân thiện với môi trường. Chính nhận thức về vấn đề
môi trường của người tiêu dùng dẫn đến sự thay đổi đáng kể trong quyết định
tiêu dùng.
Hiện nay tiêu dùng xanh càng ngày càng đóng một vai trò quan trọng đối với môi
trường và xã hội vì nó được xem là xu hướng tiêu dùng tiến bộ và tiết kiệm. Việc
sử dụng các sản phẩm xanh không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho chính cộng
đồng mà còn góp phần bảo vệ môi trường, tạo ra không gian sống trong lành.
Ngoài ra, tiêu dùng xanh còn là tiêu dùng ưu tiên cho hàng hóa nội địa giúp giảm
chi phí và khí thải phát sinh từ hoạt động vận chuyển. Các chuyên gia môi trường
cũng đã xem tiêu dùng xanh như một biện pháp ―giải cứu trái đất‖ trước những
chuyển biến xấu của môi trường sống trên toàn cầu. Do đó xu hướng chung trên
thế giới là khuyến khích tiêu dùng xanh, sản xuất và sử dụng sản phẩm thân thiện
với môi trường. tăng trưởng mạnh trong thời gian tới.
Tiêu dùng xanh có thể được định nghĩa là việc mua và sử dụng sản phẩm thân
thiện với môi trường mà không gây nguy cơ cho sức khỏe con người và không đe
2
dọa các chức năng hay sự đa dạng của các hệ sinh thái tự nhiên. Tiêu dùng xanh
xuất phát từ mong muốn bảo vệ các nguồn tài nguyên cho các thế hệ tương lai và
để nâng cao chất lượng sống của chúng ta. Hiện nay, người tiêu dùng trên thế
giới đang dần dần hướng tới các sản phẩm bền vững, thân thiện với môi trường
và coi điều đó như một tiêu chuẩn cho các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao.
Họ sẵn lòng trả giá cao hơn cho những hàng hóa đã được gắn nhãn mác đạt tiêu
chuẩn sản xuất bền vững. Vì sự quan tâm đối với các sản phẩm xanh đã gia tăng
trên toàn cầu, nhiều công ty đã bắt đầu sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi
trường và thể hiện nỗ lực của công ty trong việc bảo vệ môi trường.
Tiêu dùng xanh hiện đã khá phổ biến ở các nước phát triển và cũng đã có những
bước tiến ban đầu ở các nước đang phát triển khi thu nhập cá nhân và ý thức tiêu
dùng ngày càng tăng. Hầu hết các quốc gia đang phát triển ở Châu Á đã xây
dựng các bộ luật bảo vệ môi trường. Số lượng người sẵn sàng trả nhiều tiền hơn
cho các sản phẩm sinh thái thân thiện gần đây cho thấy thị trường của các sản
phẩm thân thiện môi trường đang mở rộng (Laroche& cộng sự, 2001).
Tiêu dùng xanh tại Việt Nam cũng đang bắt đầu phát triển, đáp ứng nhu cầu bảo
vệ môi trường và sức khỏe ngày càng cao của người tiêu dùng Việt Nam, phù
hợp với định hướng bảo vệ và phát triển môi trường an toàn của Chính phủ.
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam đang gắn liền với sự sụt giảm mạnh về tài nguyên
thiên nhiên và gia tăng ô nhiễm môi trường. Việc tăng cường tiêu dùng và mua
sắm xanh và nâng cao nhận thức về môi trường có thể giúp ngăn chặn tình trạng
này. Tuy nhiên để tạo ra một xu hướng tiêu dùng xanh tại Việt Nam sẽ cần có sự
hỗ trợ từ các cơ quan khác của Nhà nước và quyết tâm đổi mới của các doanh
nghiệp. Người tiêu dùng cũng phải sẵn sàng để mua những sản phẩm xanh.
Chính phủ Việt Nam lần đầu tiên đề cấp đến tiêu dùng xanh vào tháng 9/2012
trong Chiến lược về tăng trưởng xanh với 3 mục tiêu cụ thể, trong đó mục tiêu
thứ 3 là nâng cao đời sống của nhân dân, xây dựng lối sống thân thiện với môi
trường thông qua tạo nhiều việc làm từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp và
dịch vụ xanh, đầu tư vào vốn tự nhiên, phát triển hạ tầng xanh. Để đạt được các
mục tiêu của chiến lược, một trong 3 nhiệm vụ quan trọng cần phải thực hiện
gồm có xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Ngoài ra Việt Nam
3
cũng đang xây dựng chương trình phát triển sản phẩm xanh tầm nhìn đến năm
2020.
Trong bối cảnh môi trường bị ô nhiễm, thực phẩm bẩn đã là một vấn đề đáng báo
động tại Việt Nam, nhiều tổ chức và hộ kinh doanh cá thể bắt đầu có các hoạt
động sản xuất và kinh doanh các sản phẩm xanh trong đó có thực phẩm. Tuy
nhiên quá trình chuyển từ nhận thức đến hành động tiêu dùng xanh của người
tiêu dùng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan. Thực tế cho
thấy vẫn còn một khoảng cách khá xa giữa ý định mua sản phẩm xanh và hành vi
mua xanh trên thực tế của người tiêu dùng Việt Nam. Nhiều người tiêu dùng Việt
Nam dù ý thức được công dụng của sản phẩm xanh trong đó có thực phẩm và tỏ
ra quan tâm tới môi trường nhưng vì lý do nào đó vẫn chưa có hoặc có hạn chế
những hành vi mua thực tế.
Trong các cuộc tranh luận học thuật và chính sách liên quan đến tác động của
tiêu dùng đến môi trường, tiêu dùng xanh cũng nổi lên như một nhân tố quan
trọng (Catlin & Wang, 2013; Leonidou, Katsikeas, & Morgan, 2013; Peloza et
al., 2013; Trudel & Argo, 2013; White & Simpson, 2013). Các nghiên cứu khảo
sát hành vi tiêu dùng xanh đã được tiến hà. nh tại các nước đã và đang phát triển,
tuy nhiên những nghiên cứu như vậy vẫn còn thiếu ở Việt Nam.
Tính cấp thiết của luận án này được tóm tắt ở các vấn đề nêu dưới đây:
- Tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng kéo theo những hệ lụy như thiên tai,
lũ lụt, bão, nhiệt độ thất thường, tình trạng xâm lấn của nước biển cao đột biến
cùng với tỷ lệ ung thư cao nhất thế giới hiện đang đặt các doanh nghiệp và người
dân Việt Nam trước yêu cầu phải thay đổi hành vi trong cả sản xuất và tiêu dùng.
Một số sự kiện lớn gần đây liên quan đến tình trạng ô nhiễm môi trường và sức
khỏe con người như sự kiện cá chết vũng Áng, không khí ở Hà Nội ô nhiễm, vấn
đề an toàn thực phẩm đang làm cho chủ đề tiêu dùng xanh trở nên nóng hơn bao
giờ hết ở Việt Nam.
- Hiện nay tiêu dùng xanh ở Việt Nam vẫn còn là một khái niệm tương đối mới,
số lượng sản phẩm được cấp nhãn xanh rất hạn chế và số lượng tiêu thụ sản
phẩm xanh không cao, mặc dù nhiều người tiêu dùng Việt Nam có thái độ tốt đối
4
với môi trường hoặc cao hơn nữa là có ý định tiêu dùng xanh tuy nhiên vì một lý
do nào đó hành vi tiêu dùng xanh thực tế vẫn còn hạn chế.
- Mặc dù ở các quốc gia khác, nhiều mô hình nghiên cứu đã được sử dụng để
nghiên cứu hành vi tiêu dùng xanh. Tại Việt Nam, mặc dù tiêu dùng xanh đã bắt
đầu được chú trọng tuy nhiên nền tảng lý thuyết và các nghiên cứu liên quan đến
tiêu dùng xanh còn hạn chế. Hiện nay ở Việt Nam chỉ có một số ít các nghiên
cứu liên quan đến hành vi tiêu dùng xanh là ―Mô hình giả định các yếu tố ảnh
hưởng đến tiêu dùng xanh‖ của nhóm nghiên cứu TS. Vũ Anh Dũng&Nguyễn
Thu Huyền& Nguyễn Thị Ngọc Ánh (2012), Cơ sở hạ tầng logistics với việc
thực hiện chuỗi cung ứng xanh của doanh nghiệp (Vũ Anh Dũng, 2015), Các yếu
tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh: Trường hợp sinh viên Đà Nẵng (Trần
Triệu Khải, 2015), Ý định tiêu dùng thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng trẻ:
vai trò của niềm tin (Nguyễn Kim Nam, 2015), Yếu tố tác động ý định tiêu dùng
sản phẩm điện máy xanh của người tiêu dùng tại thành phố Hồ Chí Minh – tiếp
cận theo lý thuyết hành vi dự định TPB (Nguyễn Bích Ngọc và các cộng sự,
2015)
Những nghiên cứu liên quan đến hành vi tiêu dùng xanh thường phức tạp và chứa
nhiều lớp lý thuyết liên quan bao gồm cả kiến thức marketing (hành vi tiêu dùng)
và cả vấn đề tâm lý học, vấn đề nhân khẩu học… cho nên đòi hỏi một nền tảng lý
thuyết sâu rộng để áp dụng cho phù hợp với từng hoàn cảnh, từng mục đích và
phạm vi nghiên cứu. Các câu hỏi và nghiên cứu liên quan đến hành vi người tiêu
dùng đòi hỏi chi tiết hơn đặc biệt là với khách hàng tiêu dùng xanh được xem là
những người có thu nhập cao và có trí thức (theo Viện quốc tế về phát triển bền
vững, trong cuốn hướng dẫn toàn cầu - International Institute for Sustainable
Development: A global guide (2013) về đối tượng có nhiều khả năng là khách
hàng của sản phẩm xanh),
- Trong các nghiên cứu trước đây, các nhà khoa học đã chỉ ra được mối quan hệ
giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh, tuy nhiên kết quả nghiên cứu lại rất khác
nhau: trong một số nghiên cứu ý định mua tạo ra sự sẵn lòng mua sắm - khi
những người tiêu dùng sẵn lòng mua một số sản phẩm, ý định mua càng cao thì
khả năng mua càng lớn (Dod, 2001) trong khi đó ở các nghiên cứu khác kết quả
5
lại cho thấy rất nhiều người có ý định nhưng thất bại khi hành động thực sự.
Theo Ajzen (1991), hành vi có thể được quyết định bởi ý định với mức chính xác
đáng kể. Nhiều nghiên cứu cũng đưa ra quan điểm như trên (Ajzen & Fbein,
1980 ; Steppard, Hartwick & Warshaw, 1988). Trái lại, trong một nghiên cứu về
hành vi sử dụng công nghệ thông tin, Venkatesh & cộng sự chỉ ra rằng mối tương
quan giữa ý định và hành vi nhất thời chỉ có giá trị nhỏ đến trung bình. Tuy nhiên
trong tiêu dùng xanh, các nghiên cứu của Straughan, Robert & J.A (1999) cho
thấy một người với hành vi sinh thái tích cực sẽ thích mua những sản phẩm xanh
thường xuyên hơn. Đến Chan (2001), Beckford (2010), Nguyễn Thu Huyền &
Nguyễn Thị Ngọc Ánh (2012) và Kumar (2012), đã tiến hành nghiên cứu, kiểm
định mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh, và cùng đưa ra
kết luận ý định hành vi có ảnh hưởng đáng kể đến việc thực hiện hành vi tiêu
dùng xanh đã được xác định trước.
Rylander&Allen trong các nghiên cứu của mình cho rằng rằng sở dĩ có tình trạng
như vậy là mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh bị tác động bởi
nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài.
- Để giải thích hành vi tiêu dùng xanh, các lý thuyết khác nhau đã được sử dụng,
điển hình bao gồm lý thuyết hành vi hợp lý (Ajzen Icek và Martin Fishbein,
1980) và phiên bản ―cập nhật‖ là lý thuyết hành vi có kế hoạch (Ajzen Icek,
1991), lý thuyết tổng quát về đạo đức marketing (Hunt Shelby D. và Scott J.
Vitell, 1986), hay lý thuyết về mức độ liên quan (Zaichkowsky Judith L.,
1985),... Chẳng hạn, dựa trên lý thuyết tổng quát về đạo đức marketing, nghiên
cứu của Chan và cộng sự (2001) lý giải ý định sử dụng túi mua hàng của cá nhân
người tiêu dùng thay vì sử dụng túi ni lông siêu thị (ý định tiêu dùng xanh) từ các
đánh giá đúng sai, đánh giá kết quả lợi ích chi phí, và đánh giá chấp nhận về đạo
đức. Cũng trong nghiên cứu này, lý thuyết về mức độ liên quan đã được vận
dụng để giải thích quan hệ điều tiết của mức độ liên quan của hành vi lên mối
quan hệ giữa đánh giá chấp nhận về đạo đức và ý định tiêu dùng xanh. Tuy
nhiên, phần lớn các nghiên cứu khác trong lĩnh vực này áp dụng lý thuyết hành vi
có kế hoạch hoặc hành vi hợp lý (ví dụ: Wu Shwu-Ing và Jia-Yi Chen, 2014)
6
hoặc tập trung vào một yếu tố nào đó trong lý thuyết này (ví dụ: Chen Shijing,
2010).
Dưới góc nhìn của lý thuyết hành vi hợp lý hay hành vi có kế hoạch, các nghiên
cứu về tiêu dùng xanh thường rơi vào một trong ba nhóm chính. Nhóm một tập
trung giải thích ý định tiêu dùng xanh (vd: Gleim Mark R. và cộng sự, 2013;
Wen Ling-Yu Melody và Shang-Hui Li, 2013). Nhóm hai chỉ tập trung giải thích
hành vi tiêu dùng xanh (không thông qua ý định) (vd: Kelkar Mayuresh và cộng
sự, 2014; Lan Shu-Hui và Tzu-Chun Sheng, 2014). Một số nghiên cứu ở nhóm
ba gần đây đã áp dụng đầy đủ các yếu tố trong lý thuyết hành vi hợp lý và kiểm
tra mối quan hệ của các yếu tố tới hành vi thông qua ý định tiêu dùng sản phẩm
xanh (vd: Wu Shwu-Ing và Jia-Yi Chen, 2014; Nguyễn Vũ Hùng và cộng sự,
2015).
Tuy nhiên, ngầm định trong hầu hết các nghiên cứu trên là coi ý định và hành vi
là một hoặc nếu có khác biệt thì mối quan hệ giữa chúng cũng rất chặt chẽ. Ngầm
định này có thể tạo ra một số hệ lụy. Thứ nhất, khi ý định và hành vi là một hoặc
quan hệ rất chặt chẽ sẽ khó giúp giải thích tại sao người tiêu dùng có thái độ rất
tích cực về bảo vệ môi trường hay tiêu dùng sản phẩm xanh và vì vậy có ý định
tiêu dùng sản phẩm xanh nhưng lại chưa chắc đã thực hiện hành vi mua sản
phẩm xanh (Ip Y. K., 2003; Nguyễn Vũ Hùng và cộng sự, 2015). Thứ hai, mặc
định về ý định và hành vi như vậy sẽ khiến chúng ta bỏ qua các yếu tố điều kiện
quan trọng giúp thúc đẩy, chuyển hóa từ ý định thành hành vi. Trên thực tế, tổng
kết kết quả nghiên cứu thực nghiệm với lý thuyết hành vi hợp lý của Ajzen và
Fishbein (2005) cũng đã đề cập đến sự không thống nhất giữa ý định và hành vi
trong nhiều lĩnh vực tiêu dùng khác nhau. Nghiên cứu này vì vậy sẽ bổ sung vào
hệ thống lý thuyết hiện tại bằng việc xem xét vai trò điều tiết của một số biến lên
mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1 Mục đích nghiên cứu:
Đề tài này góp phần trả lời cho câu hỏi tại sao nhiều người tiêu dùng dù có ý định
nhưng không có hành vi tiêu dùng xanh. Trên thực tế, quan hệ tương quan giữa ý
định và hành vi nói chung trong nhiều nghiên cứu khác nhau là khá khá cao,
7
trung bình ở mức 0.53 (Sheeran P., 2002). Tuy nhiên, vẫn luôn tồn tại khoảng
cách giữa ý định và hành vi, một vấn đề đã được các nhà lý thuyết hành vi người
tiêu dùng đúc kết gọi là ―sự không thống nhất theo nghĩa đen‖: nói và làm không
đi đôi với nhau, (Ajzen Icek và Martin Fishbein, 2005). Vì vậy, luận án này
nhằm giải thích một số nhân tố có thể thúc đẩy hay cản trở mối quan hệ từ ý định
tới hành vi tiêu dùng xanh.
Thông qua việc tìm ra các nhân tố có thể thúc đẩy hoặc cản trở mối quan hệ giữa
ý định và hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam, luận án đề xuất
cho các nhà hoạch định chính sách cũng như các doanh nghiệp các công cụ để
thúc đẩy người tiêu dùng Việt Nam biến ý định thành hành vi tiêu dùng xanh
thực tế.
2.2 Nhiệm vụ của nghiên cứu:
Nghiên cứu tài liệu và xây dựng khung phân tích định các nhân tố ảnh
hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh (các nhân tố
có thể làm mạnh lên hay yếu đi tác động của ý định đến hành vi tiêu dùng
xanh của người Việt Nam)
Đánh giá mức độ tác động của các nhân tố này tới mối quan hệ giữa ý
định và hành vi tiêu dùng xanh
Mô tả thực trạng hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam
Khuyến nghị cho các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp các chính
sách nhằm thúc đẩy tiêu dùng xanh ở Việt Nam,
Đề xuất cho các nghiên cứu các định hướng nghiên cứu tiếp theo trong
lĩnh vực tiêu dùng xanh.
3. Các câu hỏi nghiên cứu:
Luận án đặt ra các câu hỏi nghiên cứu về các nhân tố có thể tác động tới mối
quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam cụ
thể như sau:
- Ý định tác động thế nào đến hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng xanh
Việt Nam?
- Thực trạng tiêu dùng xanh và hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt
Nam?
8
- Những nhân tố nào tác động tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng
xanh hay những nhân tố nào có thể làm mạnh lên hay yếu đi ảnh hưởng của ý
định đến hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam?
- Mức độ tác động của các nhân tố này tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi
tiêu dùng xanh của người Việt Nam?
- Các giải pháp nào doanh nghiệp và chính phủ có thể sử dụng để thúc đẩy người
tiêu dùng chuyển từ ý định sang hành vi tiêu dùng xanh thực tế?
- Giải pháp nào người tiêu dùng có thể thực hiện để là người tiêu dùng thông
minh?
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các nhân tố tác động tới mối quan hệ giữa ý định và
hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam;
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Điều tra được thực hiện chủ yếu tại Hà Nội và TP. Hồ
Chí Minh là hai thành phố lớn của Việt Nam, tập trung đông dân, có sức mua nói
chung và sức mua sản phẩm xanh nói riêng lớn nhất của cả nước
- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu thực hiện trong khoảng thời gian từ 2013-
2018, thời gian triển khai điều tra: tháng 2-4 năm 2016
- Phạm vi về nội dung nghiên cứu:
+ Nghiên cứu này xem xét mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng theo
chiều từ ý định tới hành vi tiêu dùng (tác động của ý định đến hành vi tiêu dùng
xanh)
+ Hành vi tiêu dùng xanh là hành vi mua và sử dụng các sản phẩm không gây hại
cho môi trường hoặc sức khỏe con người.
5. Những đóng góp của luận án
Thúc đẩy tiêu dùng và sản xuất xanh là ưu tiên chính sách phát triển kinh tế bền
vững. Nghiên cứu này đứng từ góc độ của người tiêu dùng để chỉ ra hai yếu tố
điều kiện quan trọng có thể thúc đẩy mối quan hệ từ ý định tới hành vi tiêu dùng
xanh. Đó là sự sẵn có của sản phẩm xanh và nhận thức về hiệu quả của hành tiêu
dùng xanh. Áp dụng khung lý thuyết hành vi hợp lý của Ajzen và Fisbein, kết
9
quả nghiên cứu dựa trên mẫu khảo sát của 468 người tiêu dùng ở hai thành phố
lớn của Việt Nam cho thấy sự tồn tại của các mối quan hệ điều tiết như giả
thuyết. Kết quả nghiên cứu vì vậy có những đóng góp về lý luận và thực tiễn về
hành vi tiêu dùng nói chung và tiêu dùng xanh nói riêng.
Một số lưu ý về kết quả nghiên cứu cũng được đưa ra dành cho các nghiên cứu
tiếp theo.
5.1 Về mặt lý thuyết:
- Về lý thuyết, kết quả nghiên cứu đóng góp vào hệ thống các nghiên cứu về
khoảng cách giữa ý định và hành vi. Cụ thể, nghiên cứu này chứng thực hai yếu
tố điều kiện có thể thu hẹp khoảng cách từ ý định tới hành vi. Riêng với các
nghiên cứu về hành vi tiêu dùng xanh, kết quả này phần nào giúp giải thích tại
sao khoảng cách từ thái độ (qua ý định) đến hành vi tiêu dùng xanh thực tế của
người tiêu dùng là tồn tại. Như vậy Luận án đã trả lời được các câu hỏi nghiên
cứu quan trọng như: những nhân tố nào tác động tới mối quan hệ giữa ý định và
hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam? Mức độ tác động của các
nhân tố này tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh Việt Nam?
- Luận án nêu được một số mô hình nghiên cứu từ tổng hợp các nghiên cứu có
liên quan, xây dựng thang đo và kiểm định độ tin cậy của thang đo. Luận án cũng
đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận theo các vấn đề chính như: hệ thống hóa một
số khái niệm liên quan đến tiêu dùng xanh, tổng quan được các mô hình và
phương pháp liên quan,
- Kết quả Nghiên cứu bổ sung cho nguồn dữ liệu tham khảo về tiêu dùng xanh tại
Việt Nam, kết quả khảo sát về tiêu dùng xanh ở một số thành phố lớn tại Việt
Nam trong nghiên cứu này có thể là một nguồn dữ liệu tốt, có tính chất tham
khảo và bổ sung, giúp các nhà hoạch định chính sách định hướng tốt hơn về tiêu
dùng xanh: Trong khi một số nghiên cứu khảo sát hành vi tiêu dùng xanh đã
được tiến hành tại các nước đã và đang phát triển, những nghiên cứu như vậy vẫn
còn thiếu ở Việt Nam. Trên trang web Science@Direct tìm kiếm với từ khóa tiêu
dùng xanh (green consumer behavior) cho kết quả là 42.222 nghiên cứu liên
quan; trên dữ liệu của ProQuest Central có 102.142 nghiên cứu liên quan. Tuy
nhiên cũng với từ khóa này trong kho tài liệu KH&CN Việt Nam, do Cục Thông
10
tin KH&CN Quốc gia xây dựng từ năm 1987 và Cơ sở dữ liệu thư mục lớn nhất
Việt Nam về các báo cáo kết quả của các đề tài nghiên cứu KH&CN các cấp
đăng ký và giao nộp tại Cục Thông tin KH&CN Quốc gia thì hiện nay chỉ có 1
nghiên cứu liên quan duy nhất đến hành vi tiêu dùng xanh là ―Mô hình giả định
các yếu tố ảnh hưởng đến tiêu dùng xanh‖ của nhóm nghiên cứu TS. Vũ Anh
Dũng&Nguyễn Thu Huyền& Nguyễn Thị Ngọc Ánh (2012). Các nghiên cứu
trước đây về các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu
dùng chưa dựa trên một lý thuyết lớn nền tảng và chưa thực sự kiểm định được
các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng vì vậy sẽ
là không đầy đủ và đảm bảo tính toàn vẹn trong nghiên cứu.
5.2 Về mặt thực tiễn:
Thúc đẩy tiêu dùng xanh có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn phát triển kinh tế
bền vững. Luận án đã đề xuất được một số giải pháp hợp lý, dựa trên bằng chứng
nghiên cứu nghiêm túc nhằm thúc đẩy hành vi tiêu dùng xanh thực tế. Luận án đã
đề xuất được một số giải pháp hợp lý, dựa trên bằng chứng nghiên cứu nghiêm
túc nhằm thúc đẩy hành vi tiêu dùng xanh thực tế. Các giải pháp nếu được thực
thi có thể có hiệu quả thiết thực, giảm thiểu lãnh phí trong các chương trình chính
sách kinh tế có liên quan. Luận án đã chỉ ra được các nhân tố tác động tích cực
cũng như các nhân tố có thể cản trở mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng
xanh từ đó đề xuất cho các các doanh nghiệp các công cụ để thúc đẩy mối quan
hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh, góp phần tạo ra môi trường thuận lợi
để người tiêu dùng có hành vi thực tế thay vì chỉ có ý định hoặc có thái độ tốt với
tiêu dùng xanh.
Nghiên cứu này có thể giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra các sách lược
phù hợp để thúc đẩy hành vi tiêu dùng xanh. Cụ thể, hai yếu tố quan trọng cần
thúc đẩy như được gợi ý từ nghiên cứu này là đẩy mạnh sự sẵn có của sản phẩm
xanh thông qua các kênh bán hàng (ví dụ như thông qua sự tăng cường hiện diện,
trưng bày, nhãn mác, thiết lập các kênh bán hàng ở các cửa hàng nhỏ, tiện ích…)
và tăng cường nhận thức về khả năng đạt được mục tiêu của các cá nhân trong
việc thực hiện hành vi tiêu dùng xanh (ví dụ như thông qua tuyên truyền về sự
11
hiệu quả của tiêu dùng xanh trong việc nâng cao chất lượng môi trường sống,
đảm bảo sản phẩm xanh là xanh thật hoặc có chất lượng như chứng nhận,…).
Khách hàng là nhân tố quyết định thành công của doanh nghiệp, thông qua làm
hài lòng khách hàng doanh nghiệp thực hiện được mục tiêu lợi nhuận của mình.
Để tìm hiểu được và thõa mãn được nhu cầu mong muốn của khách hàng, doanh
nghiệp phải hiểu biết về khách hàng. Các doanh nghiệp nghiên cứu hành vi của
người tiêu dùng với mục đích nhận biết nhu cầu sở thích thói quen của họ để xây
dựng các chiến lược marketing thúc đẩy người tiêu dùng mua sản phẩm dịch vụ
của mình. Một số câu hỏi mà các doanh nghiệp cần phải có câu trả lời liên quan
tới người tiêu dùng thông thường là: Họ là ai? - Họ muốn gì? - Tại sao lại mua
sản phẩm dịch vụ đó? - Tại sao họ mua nhãn hiệu đó? - Họ mua như thế nào ở
đâu và mức độ mua ra sao?
Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay, doanh nghiệp chỉ có thể đạt
được thành công bền vững, khi doanh nghiệp có thể nắm rõ nhu cầu, hành vi của
khách hành.
Những câu hỏi liên quan đến hành vi người tiêu dùng đòi hỏi chi tiết hơn đặc biệt
là với khách hàng tiêu dùng xanh được xem là những người có thu nhập cao và
có trí thức (theo Viện quốc tế về phát triển bền vững, trong cuốn hướng dẫn toàn
cầu - International Institute for Sustainable Development: A global guide (2013)
về đối tượng có nhiều khả năng là khách hàng của sản phẩm xanh)
Ngày nay, các doanh nghiệp nghiên cứu hành vi vủa người tiêu dùng với mục
đích nhận biết nhu cầu, sở thích, thói quen của họ. Cụ thể là xem người tiêu dùng
muốn mua gì, tại sao họ lại mua sản phẩm, dịch vụ đó, tại sao họ lại mua nhãn
hiệu đó, họ mua như thế nào, mua ở đâu, khi nào và mức độ mua ra sao để xây
dựng các chiến lược marketing thúc đẩy người tiêu dùng mua sắm sản phẩm,
dịch vụ của mình. Trong môi trường cạnh tranh vô cùng khốc liệt, để có thể tồn
tại và phát triển các doanh nghiệp đều cần có những chiến lược marketing phù
hợp, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Hơn thế nữa đối với các doanh
nghiệp, người tiêu dùng chỉ quan tâm tới môi trường hay chỉ có ý định mua thì
chưa đủ. Điều quan trọng là khách hàng có mua hàng hay không. Và để tiêu thụ
được các sản phẩm xanh, trước khi có các chương trình quảng bá để tuyên
12
truyền, giáo dục để tạo ra ý định mua, các doanh nghiệp cũng cần nắm rõ các
nhân tố có thể tác động tới tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng
nhằm chuẩn bị cho các điều kiện để hành vi tiêu dùng xanh diễn ra.
6. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu mô tả ngắn gọn tính cấp thiết, mục tiêu, các câu hỏi nghiên
cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu cũng như những dự kiến những đóng góp
của luận án, Luận án gồm có 4 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và tổng quan các nhân tố tác động tới mối quan hệ
giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh. Chương này trình bày một số khái niệm
liên quan đến tiêu dùng xanh, đồng thời tổng quan các nghiên cứu liên quan đến
hành vi tiêu dùng xanh, mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh cũng
như các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng
xanh và kinh nghiệm tiêu dùng xanh của các quốc gia khác. Trong chương 1,
Khoảng trống nghiên cứu được được đưa ra để từ đó đề xuất hướng nghiên cứu
cũng như mô hình nghiên cứu của luận án.
Chƣơng 2: Phƣơng pháp nghiên cứu. Chương này trình bày rõ 3 nội dung: Qui
trình nghiên cứu, Phương pháp thu thập dữ liệu và Phương pháp phân tích dữ liệu
thu thập được
Chƣơng 3: Thực trạng tiêu dùng xanh và các nhân tố ảnh hƣởng tới mối
quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh của ngƣời tiêu dùng Việt
Nam. Chương 3 này trình bày thực trạng tiêu dùng xanh và hành vi tiêu dùng
xanh ở Việt Nam dựa vào kết quả phân tích định tính và định lượng. Chương 3
cũng tập trung phân tích các nhân tố tác động tới mối quan hệ giữa ý định và
hành vi tiêu dùng xanh.
Chƣơng 4: Kết luận và kiến nghị là chương cuối cùng của luận án. Chương
này, NCS so sánh và thảo luận thêm về các kết quả phân tích trước khi các kiến
nghị được đưa ra ở phần cuối của chương.
13
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN
CỨU VỀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA Ý
ĐỊNH VÀ HÀNH VI TIÊU DÙNG XANH
1.1 Cơ sở lý thuyết về hành vi tiêu dùng xanh
1.1.1 Các khái niệm liên quan đến tiêu dùng xanh
- Sản phẩm xanh:
Sản phẩm xanh (sản phẩm sinh thái hay sản phẩm thân thiện với môi trường)
được nhiều nhà nghiên cứu xây dựng định nghĩa, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có
một định nghĩa thống nhất. Terra Choice (2010) định nghĩa sản phẩm xanh là sản
phẩm cung cấp một lợi ích môi trường, Shamdasamin & cộng sự (1993) định
nghĩa sản phẩm xanh là sản phẩm không gây ô nhiễm cho Trái đất hoặc tổn hại
tài nguyên thiên nhiên và có thể tái chế, bảo tồn. Elkington&Makower (1988) và
Wasik (1996) cho rằng một sản phẩm có chất liệu hoặc bao bì ít tác động tới môi
trường cũng có thể được xem là một sản phẩm xanh.
Trong khuôn khổ nghiên cứu này, sản phẩm xanh được xem xét là các sản phẩm
ngăn chặn, giảm, hạn chế hoặc cải thiện ảnh hưởng tới môi trường nước, không
khí và đất và các sản phẩm không gây hại hoặc tốt cho sức khỏe cộng đồng
- Nhãn sinh thái/nhãn xanh:
Nhãn sinh thái (hay còn gọi là nhãn xanh, nhãn môi trường) có thể được hiểu là
các nhãn mác của sản phẩm, dịch vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng về
sự thân thiện với môi trường hơn so với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại; là sự
công bố bằng lời hoặc ký hiệu hay sơ đồ nhằm chỉ rõ các thuộc tinh môi trường
của sản phẩm và dịch vụ, trong đó xác định lợi ích tổng thể về môi trường của
một sản phẩm hoặc dịch vụ trong một phạm vi cụ thể.
Theo thống kê của các doanh nghiệp, Trung Quốc hiện nay có hơn 500 sản phẩm
được gắn nhãn xanh. Dựa vào chức năng bảo vệ môi trường, các sản phẩm
này được chia làm 6 loại:Các sản phẩm có thể giúp Trung Quốc đáp ứng được
cam kết của Trung Quốc trong các hội nghị quốc tế về bảo vệ môi trường (Hội
nghị bảo về tầng Ozone - Montreal Protocol on Substances That Deplete the
Ozone Layer), các sản phẩm có thể tái sử dụng, các sản phẩm không hoặc ít gây
hại môi trường, các sản phẩm cải thiện môi trường trong các căn hộ, sản phẩm tốt
14
hoặc không gây hại cho sức khỏe, các sản phẩm có thể tăng cường hiệu quả các
nguồn lực và năng lượng như bóng đèn, máy tính, tủ lạnh, điều
hòa… (China.org.cn 12 tháng 9, 2007)
- Tiêu dùng xanh
Khái niệm tiêu dùng xanh lần đầu tiên được nhắc đến năm 1970 (Peattie, 2010)
và từ đó nhiều nghiên cứu đã mở rộng khái niệm này. Cho đến nay tiêu dùng
xanh vẫn được định nghĩa bằng nhiều cách.
Sisira (2011), Mansvelt&Robbins (2011) đưa ra định nghĩa khá toàn diện về tiêu
dùng xanh với quan điểm là một quá trình thông qua những hành vi xã hội như:
Mua các loại thực phẩm sinh học, tái chế, tái sử dụng, hạn chế dùng thừa và sử
dụng hệ thống giao thông thân thiện. Alfredsson (2004) giải thích rằng tiêu dùng
xanh liên quan đến những chỉ số khoa học về sử dụng năng lượng và thải khí
CO2. Theo Carriga (2004), mua sản phẩm thân thiện với môi trường được gọi là
tiêu dùng xanh. Theo người Trung Quốc, tiêu dùng xanh là một khái niệm với 3
áp dụng. Dưới khái niệm này, mọi người được khuyến khích để chọn các sản
phẩm xanh không gây ô nhiễm môi trường và tốt cho sức khỏe cộng đồng, rác
thải được xử lý đặc biệt để không gây ô nhiễm môi trường và hiểu biết của xã hội
về tiêu dùng làm tăng nhận thức của xã hội về một lối sống khỏe mạnh, bảo vệ
môi trường và tiết kiệm năng lượng trong nỗ lực để có được một cuộc sống thoải
mái hơn. Mục đích cuối cùng là đạt được tiêu dùng bền vững của đất nước.
Trên thế giới hiện nay chưa có sự thống nhất trong định nghĩa về tiêu
dùng xanh. Tùy thuộc vào đối tượng, mục đích thuộc các lĩnh vực khác nhau mà
cách tiếp cận khái niệm này cũng khác. Trong khoa học tự nhiên, E.C Alfredsson
(2004) giải thích tiêu dùng xanh có liên qua đến các dấu hiệu khoa học như sử
dụng năng lượng và phát thải khí Cacbon. Theo Carriga (2004), việc mua các sản
phẩm thân thiện với môi trường là tiêu dùng xanh. Trong khi đó, Harrison
Newhol & Shaw (2005) cho rằng tiêu dùng xanh không những là tiêu dùng ít đi
mà còn là tiêu dùng hiệu quả hơn. Cụ thể trong sự hiệu quả nêu trên, khái niệm
do Petkus, Jr (1991) đưa ra là, tiêu dùng xanh thể hiện trách nhiệm đối với việc
bảo vệ môi trường thông qua việc lựa chọn các sản thẩm thân thiện môi trường,
có cách tiêu dùng và xử lý rác thải hợp lý. Cũng đưa trách nhiệm của người tiêu
15
dùng vào định nghĩa tiêu dùng xanh, tuy nhiên một số nghiên cứu của Peattie
(1992); Andrew Gilg, Stewart Barr, Nicholas Ford (2005) chỉ ra tiêu dùng xanh
là sự thể hiện trách nhiệm đối với môi trường hoặc cũng có thể là trách nhiệm với
xã hội, nghĩa là có thể bao hàm cả trách nghiệm đối với các giá trị thuộc về con
người (ví dụ vì sức khỏe cộng đồng, công bằng thương mại…).
Tiếp cận trên cả hai phương diện sản xuất và tiêu dùng, các nhà khoa học
Trung Quốc nhìn nhận tiêu dùng xanh bao gồm các sản phẩm xanh, việc tái chế
nguyên vật liệu, sử dụng năng lượng hiệu quả, bảo vệ môi trường và bảo tồn sinh
học. Trong khi đó, tác giả Nguyễn Thị Huyền & Nguyễn Thị Ngọc Ánh (2012)
đề cập đến tiêu dùng xanh như là một chuỗi các hành vi, bao gồm hành vi mua
sản phẩm xanh; sử dụng sản phẩm theo các cách ―xanh‖ (tiết kiệm, tái sử dụng,
tái chế, xử lý rác thải…); tuyên truyền và tác động đến cộng đồng thực hiện hai
hành vi trên. Bằng cách tiếp cận này, tiêu dùng xanh được mô tả một cách rõ
ràng và cụ thể như là một tổ hợp của các hành vi có mục đích của một cá nhân.
Bên cạnh đó một số tác giả như Tina Mainieri (1997), Cleveland & cộng sự
(2005), Stern (2000), đã giải thích tiêu dùng xanh như là một hành vi, được hình
thành từ sự tác động của các yếu tố chủ quan và khách quan như: thái độ và hiểu
biết về các vấn đề môi trường; nhận thức về tác động đến môi trường của sản
phẩm; yếu tố thuộc về nhân khẩu; tiêu chuẩn đạo đức xã hội; điều kiện của bản
thân; đặc điểm của sản phẩm…
Tuy chưa có sự nhất quán nhưng các định nghĩa về tiêu dùng xanh phần lớn đều
thể hiện vai trò của tiêu dùng trong bảo vệ môi trường, và đều hình thành các ý
niệm về sản phẩm và hành vi sử dụng sản phẩm. Từ những phân tích trên, tác giả
đưa ra định nghĩa tiêu dùng xanh như sau: là hành vi thể hiện trách nhiệm trong
việc bảo vệ môi trường thông qua hai hành vi chủ yếu sau: chọn mua sản phẩm
xanh; và tối đa hóa hiệu quả sử dụng sản phẩm. Tương tự một số nghiên cứu nói
trên đó, tiêu dùng xanh ở đây cũng được mô tả như là một hành vi của con người,
chịu tác động của các yếu tố chủ quan và khách quan, lý trí và phi lý trí, do vậy
có thể dự đoán được và điều chỉnh được (Ajzen & cộng sự 1980). Tối đa hóa
hiệu quả sử dụng đề cập đến: việc sử dụng sản phẩm một cách tiết kiệm (bao
16
gồm tiết kiệm năng lượng, tài nguyên…; tái chế và tái sử dụng); an toàn với môi
trường và sức khỏe con người (xử lý rác chất thải, rác thải đúng cách).
Tổng hợp các khái niệm đã nêu trong khuôn khổ nghiên cứu này Khái niệm tiêu
dùng xanh là hành vi mua các sản phẩm thân thiện với môi trường (sử dụng ít
năng lượng hoặc có khả năng tái chế), không gây hại hoặc tốt cho sức khỏe của
con người đồng thời sử dụng các sản phẩm sao cho ít gây hại nhất đối với môi
trường.
- Người tiêu dùng xanh
Viện quốc tế về phát triển bền vững, trong cuốn hướng dẫn toàn cầu -
International Institute for Sustainable Development: A global guide (2013) về đối
tượng có nhiều khả năng là khách hàng của sản phẩm xanh, có ý định mạnh đối
với việc tiêu thụ sản phẩm xanh:
Nhóm phản hồi tích cực nhất đối với tiêu dùng xanh thường là những người đã
trưởng thành đặc biệt là những người đã có gia đình và có con.
Phụ nữ cũng thường là nhóm khách hàng chủ đạo của sản phẩm xanh vì họ
thường đóng vai trò mua sắm thay cho đàn ông.
Các khách hàng tiêu dùng sản phẩm xanh cũng thường là những người có thu
thập cao.
Về cơ bản những người tiêu dùng xanh thường là người có tri thức và đề cao giá
trị sống, họ hiểu các chứng cứ có thể hỗ trợ cho các khiếu nại về môi trường.
- Hành vi tiêu dùng
Theo lý thuyết cơ bản của marketing, tiêu dùng là hành vi quan trọng của con
người. Nó chính là hành động nhằm thỏa mãn những nguyện vọng, trí tưởng
tượng riêng và các nhu cầu về vật chất, tình cảm của một cá nhân hoặc tổ chức
nào đó thông qua việc mua sắm và sử dụng các sản phẩm đó. Nói cách khách
hành vi tiêu dùng là những quyết định của người tiêu dùng liên quan đến việc sử
dụng nguồn lực: tài chính, thời gian, công sức, kinh nghiệm tham gia trao đổi để
thõa mãn nhu cầu, mong muốn cá nhân.
Khi sử dụng ngân sách của mình để mua sắm hàng hóa và dịch vụ, bất kỳ người
tiêu dùng nào cũng hướng tới những lợi ích thu được và lợi ích thu được càng
nhiều thì càng tốt. Với mỗi hàng hóa tiêu dùng, nếu còn làm cho lợi ích tăng
17
thêm thì người tiêu dùng còn tăng tiêu dùng và lợi ích tiêu dùng sẽ hướng tới giá
trị lớn nhất
Hành vi tiêu dùng còn được định nghĩa là những quyết định của người tiêu dùng
liên quan đến việc sử dụng nguồn lực: tài chính, thời gian, công sức, kinh nghiệm
tham gia trao đổi để thõa mãn nhu cầu, mong muốn cá nhân.
Theo Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ, ―Hành vi tiêu dùng chính là sự tác động qua
lại giữa các yếu tố kích thích của môi trường với nhận thức và hành vi của con
người mà qua sự tương tác đó, con người thay đổi cuộc sống của họ‖. Hay nói
cách khác, hành vi tiêu dùng bao gồm những suy nghĩ và cảm nhận mà con người
có được và những hành động mà họ thực hiện trong quá trình tiêu dùng. Những
yếu tố như ý kiến từ những người tiêu dùng khác, quảng cáo, thông tin về giá cả,
bao bì, bề ngoài sản phẩm… đều có thể tác động đến cảm nhận, suy nghĩ và hành
vi của khách hàng. Theo Philip Kotler, ―Hành vi tiêu dùng là những hành vi cụ
thể của một cá nhân khi thực hiện các quyết định mua sắm, sử dụng và vứt bỏ sản
phẩm hay dịch vụ‖.- ―Hành vi tiêu dùng là một tiến trình cho phép một cá nhân
hay một nhóm người lựa chọn, mua sắm, sử dụng hoặc loại bỏ một sản phẩm/
dịch vụ, những suy nghĩ đã có, kinh nghiệm hay tích lũy, nhằm thỏa mãn nhu cầu
hay ước muốn của họ‖. (Solomon Micheal- Consumer Behavior, 1992) ―Hành vi
tiêu dùng là toàn bộ những hoạt động liên quan trực tiếp tới quá trình tìm kiếm,
thu thập, mua sắm, sở hữu, sử dụng, loại bỏ sản phẩm/ dịch vụ. Nó bao gồm cả
những quá trình ra quyết định diễn ra trước, trong và sau các hành động đó‖.
(James F.Engel, Roger D. Blackwell, Paul W.Miniard – Consumer Behavior,
1993) Như vậy qua hai định nghĩa trên, chúng ta có thể xác định được một số đặc
điểm của hành vi tiêu dùng là:
- Hành vi người tiêu dùng là một tiến trình cho phép một cá nhân hay một
nhóm người lựa chọn, mua sắm, sử dụng hoặc loại bỏ một sản phẩm/ dịch
vụ. Tiến trình này bao gồm những suy nghĩ, cảm nhận, thái độ và những
hoạt động bao gồm mua sắm, sử dụng, xử lý của con người trong quá trình
mua sắm và tiêu dùng.
18
- Hành vi tiêu dùng có tính năng động và tương tác vì nó chịu tác động bởi
những yếu tố từ môi trường bên ngoài và có sự tác động trở lại đối với
môi trường ấy.
- Ý định và Hành vi tiêu dùng xanh:
Ý định tiêu dùng phản ánh niềm tin của người tiêu dùng liên quan đến chuỗi
hành vi tiêu dùng (Ajzen và Fishbein, 1980). Theo Ajzen (1985), nó được mô tả
như là một động lực cá nhân trong nhận thức kế hoạch/quyết định của anh/cô ấy
để phát huy nỗ lực trong việc thực hiện một hành vi cụ thể. Hầu hết các hành vi
của con người có thể dự đoán được dựa trên những ý định bởi vì những hành vi
là tuân theo ý chí và dưới sự kiểm soát của ý định (Han et al., 2010).
Luận án này sử dụng khái niệm ý định của Ajzen và các đồng nghiệp (2002): Ý
định hành vi ngụ ý sự sẵn sàng của một cá nhân để thực hiện một hành vi cho
trước. Nó được giả định là tiền đề trung gian của hành vi.
Hành vi tiêu dùng xanh: Có nhiều khái niệm về hành vi tiêu dùng xanh, cơ bản
được phát triển dựa trên khái niệm hành vi tiêu dùng và khái niệm sản phẩm
xanh. Tổng kết lại thì hành vi tiêu dùng xanh là một chuỗi các hành vi; bao gồm:
mua sản phẩm xanh, sử dụng xanh (chẳng hạn như tiết kiệm, tái sử dụng, tái chế,
sử dụng bao bì xanh và xử lý rác thải).
- Mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh
Mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh trong nghiên cứu này là mối
quan hệ thống kê phản ánh tác động của ý định đến hành vi tiêu dùng xanh.
- Các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng
xanh:
Các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh là
các nhân tố có thể làm mạnh lên, yếu đi tác động của ý định đến hành vi tiêu
dùng xanh.
Hay nói cách khác trong một hoàn cảnh nhất định nào đó, ý định tiêu dùng sẽ tác
động mạnh mẽ đến hành vi tiêu dùng xanh, đưa đến một hành vi tiêu dùng xanh
thực tế trong khi ở một hoàn cảnh nhất định nào đó dù có ý định tiêu dùng xanh
nhưng hành vi tiêu dùng xanh thực tế lại không diễn ra.
19
1.1.2 Cơ sở lý thuyết về hành vi tiêu dùng xanh và các nhân tố tác động tới
mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh
Ở những nghiên cứu đầu tiên về thái độ và hành vi, hầu hết các nghiên cứu đều
nghiên cứu dựa vào một giả thiết rằng hành vi được dẫn dắt bởi thái độ xã hội.
Trên thực tế, lĩnh vực tâm lý xã hội được coi là khoa học nghiên cứu hành vi với
giả định rằng thái độ là chìa khóa để khám phá hành vi của con người. Những
nghiên cứu đầu tiên về thái độ khiến cho giả thiết này không có gì phải thắc mắc.
Áp dụng các phương pháp mới để kiểm chứng thái độ, nhóm được đào tạo về
quân sự, người ăn kiêng và các nhóm chính trị cực đoan có thái độ ủng hộ chiến
tranh hơn là nhóm người lao động và tri thức (Stagner, 1942); những người kinh
doanh thì có xu hướng phản đối luật cấm đồ uống có cồn hơn là những nhóm
người khác (Smith, 1932).
Tuy nhiên sau đó, một số nhà nghiên cứu đưa ra ý kiến trái chiều về quan điểm
hành động thể hiện quan điểm của các cá nhân. Theo đó người ta có thể nói một
điều nhưng lại làm một điều khác hẳn, LaPiere (1934) đã cùng với một đôi vợ
chồng trẻ người Trung Quốc đi dọc nước Mỹ và ghe chép lại những gì mà họ
nhận được từ dịch vụ ở các nhà hàng, ở các khách sạn, phòng trọ. Theo chuyến đi
của họ, LaPiere đã gửi thư cho tất cả các chủ khách sạn và nhà hàng nơi họ sẽ tới
để hỏi xem họ có chấp nhận khách Trung Quốc không và kết quả là cặp đôi
Trung Quốc vẫn được đón tiếp mặc dù trong những lá thư trước đó họ đã trả lời
rằng họ không thể đón tiếp họ. Sau đó Donald Campbell (1963) cho rằng tiếp xúc
trực tiếp sẽ khiến những người chủ khách sạn, nhà hàng khó mà từ chối cặp đôi
người Trung Quốc hơn là việc trả lời thư. Ông cho rằng, tương quan không chặt
giữa ý định và hành vi được mô tả trong lý thuyết có thể do một số yếu tố tác
động. Nghiên cứu hàm ý rằng một cá nhân nên tăng cường dự đoán hành vi nếu
cá nhân đó không chỉ quan tâm tới ý định mà còn quan tâm tới mức độ cá nhân
đó thực hiện hành vi trong thực tế. Tuy nhiên không dễ để kiểm soát hành vi bởi
trong hầu hết các trường hợp chúng ta thiếu thông tin về những nhân tố có thể
kiểm soát hay cản trở việc thực hiện hành vi.
20
Nhiều nghiên cứu tiến hành trong những năm gần đây chỉ ra rằng, việc đưa vào
mô hình nghiên cứu những nhân tố kiểm soát hoặc điều tiết có thể hỗ trợ dự đoán
hành vi.
Mặc dù về mặt lý thuyết, nhận thức về hiệu quả được xem là nhân tố điều tiết
mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng, trên thực tế nhiều nhà nghiên cứu
lại xem nhân tố này như là một nhân tố ảnh hưởng đến ý định. Các nghiên cứu đã
phân tích ảnh hưởng của nhận thức hành vi đến các hành vi khác nhau cho thấy,
trung bình nhận thức hành vi giải thích được thêm khoảng 2% của biến thiên
trong hành vi (Armitage&Conner, 2001; Cheung&Chan, 2000). Tuy nhiên như
đã trình bày ở trên, nhận thức hành vi không được xem là một nhân tố dự đoán
cho mọi loại hành vi. Khi mức độ kiểm soát nhận thức tự nguyện cao, ý định là
tiền đề của hành vi và nhận thức hành vi làm tăng thêm tác động của ý định tới
hành vi.
Nhìn chung, trong các nghiên cứu về yếu tố tiền đề của ý định, nguyên tắc cơ bản
là khi các cá nhân có kiểm soát về kết quả hành vi, họ có xu hướng hành động
theo như ý định của họ.
Bởi vì ý định được xem là nguồn dự đoán tốt một hành vi nhất định, chúng trở
thành một phần thiết yếu của các học thuyết về hành vi xã hội của con người
chẳng hạn như lý thuyết nhận thức xã hội (Bandura, 1997), mô hình niềm tin sức
khỏe (Rosenstock, Strecher, 1994), mô hình kỹ năng thông tin – động lực – hành
vi (Fisher&Fisher, 1992), Lý thuyết thử nghiệm (Bagozzi&Warshaw, 1990)…Để
xem xét yếu tố tiền đề của hành vi, những lý thuyết này cũng đưa ra các nhân tố
dẫn tới sự hình thành ý định. Mặc dù các lý thuyết khác nhau về chi tiết, nhưng
nhìn chung những lý thuyết này đưa ra một nhóm các nhân tố ảnh hưởng tới
quyết định gắn với một hành vi nhất định: hệ quả tích cực hay tiêu cực của hành
vi (nhận thức hiệu quả hành vi), sự ủng hộ hoặc không ủng hộ hành vi của một
nhóm hoặc các cá nhân khác (chuẩn mực chủ quan) và các nhân tố có thể thúc
đẩy hoặc cản trở hành vi thực tế.
Theo lý thuyết hành vi có lý do (TRA) hay lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPA),
người tiêu dùng mà ý định của họ hướng đến một hành động có lý do sẽ lý giải
được hiện tượng hành vi xã hội mà ý định hành vi tiêu dùng được giả định là sẽ
21
theo niềm tin của họ về việc thực hiện hành vi. Niềm tin có thể không thực,
không chính xác, sai lệch hoặc thậm chí là phi lý nhưng khi một tập niềm tien
được hình thành, nó sẽ cung cấp nền tảng nhận thức từ thái độ, chuẩn mực chủ
quan và kiểm soát hành vi nhận thức và ý định sau cùng được giả định sẽ được
dẫn dắt bởi một xu thế hợp lý và phù hợp.
Một lưu ý quan trọng là niềm tin hành vi, niềm tin chuẩn mực và niềm tin kiểm
soát bị ảnh hưởng bởi một loạt các nhân tố như văn hóa, đặc điểm nhân khẩu
học, và các yếu tố tình huống. Vì vậy niềm tin của phụ nữ và đàn ông, người da
đen và người da trắng, người được giáo dục và người không được giáo dục,
người giàu và người nghèo, người hướng ngoại hay hướng nội sẽ khác nhau.
Thêm vào đó chúng còn bị ảnh hưởng bởi môi trường xã hội và môi trường vật
chất.
Mô hình hành vi có kế hoạch được đề xuất bởi Ajzen lần đầu tiên vào năm 1980.
Lý thuyết này xem xét mối liên hệ giữa thái độ; niềm tin và hành vi và hơn thế
nữa luôn tồn tại giai đoạn người tiêu dùng có ý định mua trước khi có hành vi
mua thực tế. Mô hình này khá phù hợp để nghiên cứu tiêu dùng xanh bởi tiêu
dùng xanh là tiêu dùng quan tâm tới môi trường, người tiêu dùng sẽ có xu hướng
xuất hiện ý định mua trước khi có hành vi mua. Vì vậy, người tiêu dùng xanh có
xu hướng mua có kế hoạch thay vì mua ngẫu hứng, hay chịu tác động bởi hiệu
ứng nghiện mua sắm. Mô hình này chứng minh mối quan hệ giữa ý định và hành
vi là mối quan hệ thuận chiều: hành vi tiêu dùng được quyết định và bị ảnh
hưởng bởi ý định mua.
Đến năm 2005, Ajzen và Fishbein đã có một nghiên cứu rất sâu về hành vi có kế
hoạch. Mô hình này mô tả các nhân tố tiền đề của ý định và hành vi và ngầm chỉ
một số các giả thuyết như:
- Ý định là tiền đề của hành vi thực tế
- Ý định khi đó được xác định bởi thái độ đối với hành vi, chuẩn mực chủ
quan và kiểm soát hành vi nhận thức.
- Những nhân tố này lại là kết quả của niềm tin hành vi, niềm tin chuẩn tắc
và niềm tin kiểm soát.
- Niềm tin hành vi, niềm tin chuẩn tắc và niềm tin kiểm soát lại khác nhau
22
do ảnh hưởng của một loại các nhân tố tiền đề thuộc về cá nhân, xã hội và
thông tin.
Trong mô hình này, Ajzen chỉ ra rằng Kiểm soát hành vi nhận thức hay nhận
thức hiệu quả hành vi vừa là nhân tố ảnh hưởng tới ý định vừa là nhân tố tác
động tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh, một số nhân tố kiểm
soát hành vi thực tế có thể ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu
dùng xanh. Hay nói cách khác tác động của ý định đến hành vi mạnh hơn khi các
nhân tố tác động mạnh hơn.
Mô hình này được tóm tắt như hình dưới đây
Hình 1.1 Mô hình Lý thuyết hành vi có lý do và hành vi có kế hoạch
Nguồn: Ajzen và Fishbein (2005), 'The influence of attitudes on behavior', Trong
The handbook of attitudes,
Niềm tin
hành vi
Thái độ đối
với hành vi
Niềm tin
chuẩn tắc
Chuẩn mực
chủ quan
Niềm tin
kiểm soát
Nhận thức
hiệu quả
hành vi
Ý định hành vi
Nhân tố kiểm
soát hành vi thực
tế
Hành vi
thực tế
23
1.2 Tổng quan các nghiên cứu liên quan
1.2.1 Tổng quan các nghiên cứu về nhân tố tác động tới hành vi tiêu dùng
xanh
Từ thế kỷ 17 đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi
tiêu dùng xanh, trong đó có tác động của môi trường (Anderson and Cunningham
1972; Webster 1975), đặc điểm của cá nhân người mua (Kinnear, Taylor, and
Ahmed 1974), và đặc trưng xã hội – nhân khẩu học (Diamantopoulos et al. 2003;
Ngobo 2010;Shrum, McCarty, and Lowrey 1995). Trong đó thái độ của người
tiêu dùng đối với sản phẩm xanh là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến tiêu
dùng xanh. Hơn nữa, mức thu nhập cao hơn dân cư càng cao, dự định tiêu dùng
của họ trong việc mua các sản phẩm xanh càng mạnh hơn (Cheng và Yang,
2001). Ngoài ra còn tồn tại một mối tương quan tích cực giữa trình độ học vấn
của người tiêu dùng và hành vi tiêu dùng xanh (Zeng et al. , 2007).
Tuy nhiên nghiên cứu của Robert D. Straughan, James A. Roberts, (1999) với đối
tượng nghiên cứu là các sinh viên Mỹ lại chỉ ra rằng, mặc dù đã có nhiều nghiên
cứu trong quá khứ, yếu tố nhân khẩu học lại không phải là yếu tố quan trọng để
xây dựng hồ sơ của người tiêu dùng xanh bằng yếu tố tâm lý tiêu dùng. Tuy
nhiên nghiên cứu cũng chỉ ra rằng chỉ số hiệu quả cảm nhận được của khách
hàng (PCE) ảnh hưởng lớn nhất đến hành vi tiêu dùng sinh thái.
Liên quan tới hành vi người tiêu dùng, Mark Tadajewski, Sigmund Wagner-
Tsukamoto, (2006) có nghiên cứu "Nhân khẩu và nghiên cứu tiêu dùng: nghiên
cứu định tính hành vi tiêu dùng xanh‖, với mục đích là giới thiệu một phương
pháp nghiên cứu định tính nhằm tìm hiểu hành vi tiêu dùng xanh phức tạp thông
qua phân tích chu kỳ sống của sản phẩm.
Dựa vào nghiên cứu xác định ảnh hưởng của hình thái xã hội và các qui tắc cán
nhân (Schwartz 1977), Orterhus (1979) đã đề xuất các ảnh hưởng xã hội và qui
tắc cá nhân cùng với lòng tin ảnh có những ảnh hưởng nhất định đến hành vi
xanh. Tương tự như vậy, các nghiên cứu cũng đã cung cấp thêm các dữ liệu về
động cơ – yếu tố xác định quyết định mua. Các thành viên của nhóm (ví dụ người
tiêu dùng) thường có mâu thuẫn trong việc tối ưu hóa lợi ích cá nhân trong khi
thực hiện các hành động hỗ trợ nhóm (ví dụ xã hội) (Dawes 1980; Hardin 1968).
24
Vì sản phẩm xanh thường có chi phí tiêu dùng cao hơn (do giá mua cao hơn, mất
nhiều thời gian tìm kiếm thông tin hoặc các rủi ro trong tiêu dùng), vì vậy mặc dù
có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của người tiêu dùng
nhưng có lẽ yếu tố ảnh hưởng lớn nhất là chi phí liên quan tới tiêu dùng xanh
(Lynn and Oldenquist 1986; Osterhus 1997). Chi phí ảnh hưởng đến người tiêu
dùng ở đây không chỉ đơn thuần là giá mua sản phẩm. Thời gian và nỗ lực cần để
tìm kiếm thông tin và đánh giá sản phẩm là một phần của chi phí xanh. Để người
tiêu dùng có được mong muốn tiêu dùng sản phẩm xanh, tỷ lệ giữa giá trị và chi
phí của dịch vụ và sản phẩm xanh phải lớn hơn các lựa chọn khác (Geller 1992).
Và vì sản phẩm xanh thường được đánh giá là đắt hơn các sản phẩm truyền thống
nên dường như giá sản phẩm là yếu tố rào cản lớn nhất đối với những người chưa
có xu hướng tiêu dùng xanh (Kavilanz 2008)
Năm 2011 Patrick Hartmann, Vanessa Apaolaza-Ibáñez có một nghiên cứu về
Thái độ và ý định mua của người tiêu dùng đối với những thương hiệu năng
lượng xanh. Nghiên cứu này chủ yếu xem xét vai trò của lợi ích tâm lý và mối
quan tâm về môi trường. Nghiên cứu này chỉ ra rằng các chiến dịch quảng cáo
nhắm vào gia tăng nhu cầu tiêu dùng năng lượng xanh không nên chỉ quan tâm
đến môi trường và lợi ích thực dụng mà còn phải chú ý đến lợi ích tâm lí thương
hiệu. Khung lý thuyết đề xuất ba loại lợi ích tâm lí có khả năng tăng cường thái
độ của người tiêu dùng đối với thương hiệu năng lượng xanh và ý định mua
hàng: thoải mái về tinh thần, lợi ích tự bạch, trải nghiệm tự nhiên. Kết quả nghiên
cứu xác nhận hầu hết các ảnh hưởng dự đoán và nhấn mạnh ý nghĩa tổng thể của
lợi ích tâm lí thương hiệu. Chỉ có lợi ích tự bạch (self-expressive benefits) là
không ảnh hưởng đến thái độ của người tham gia đối với các thương hiệu thử
nghiệm cũng như ý định mua hàng của họ. Trong nghiên cứu này trải nghiệm tự
nhiên có ảnh hưởng mạnh nhất đến thái độ đối với thương hiệu. Nghiên cứu cũng
cho thấy rằng những trải nghiệm tự nhiên gợi lên bởi các quảng cáo tiết chế
những ảnh hưởng của hành vi trước đó đã được nghiên cứu về thái độ đối với
thương hiệu và ý định mua.
David Gadenne, Bishnu Sharma, Don Kerr, Tim Smith trong ngiên cứu Sự ảnh
hưởng của niềm tin và thái độ đối với môi trường của người tiêu dùng tới hành vi
25
tiết kiệm năng lượng năm 2011 chỉ ra rằng niềm tin về môi trường nói chung ảnh
hưởng tích cực đến hành vi tiêu dùng xanh. Định mức về giá tương quan với thái
độ đối với môi trường; chuẩn mực xã hội và ảnh hưởng của cộng đồng tương
quan với thái độ đối với môi trường, nhưng những rào cản về chi phí có thể có
một ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi tiêu dùng xanh. Kết quả cũng cho thấy rằng
có một mối tương quan giữa quan tâm tới môi trường và hành vi tiết kiệm năng
lượng nhưng người tiêu dùng trong nghiên cứu này không chịu ảnh hưởng bởi
chính sách hoặc trợ cấp của chính phủ.
Yong Joong Kim, David Njite, Murat Hancernăm 2013 có nghiên cứu về Cảm
xúc mong đợi trong ý định lựa chọn nhà hàng thân thiện với môi trường của
người tiêu dùng: Sự tăng cường của mô hình thuyết hành vi theo kế hoạch.
Nghiên cứu này sử dụng mô hình thuyết hành vi theo kế hoạch (TPB: theory of
planned behaviors) để kiểm tra mối quan hệ giữa cảm xúc và ý định mua từ đó
giải thích sự chấp nhận cũng như tham gia của người tiêu dùng vào các hành vi
liên quan đến sinh thái. Kết quả cho thấy mô hình ra quyết định như TPB nên kết
hợp cảm xúc và chú ý nhiều hơn đến những yếu tố thuận lợi cho việc ra ý định.
Những phát hiện này cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn nữa vào quá trình ra quyết
định của người tiêu dùng, đây là điều cần thiết cho sự phát triển của các chiến
lược marketing xanh trong bối cảnh hiện nay.
Trở nên ―xanh‖ hay không ―xanh‖ là nội dung chính trong nghiên cứu Khám phá
chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể như các tiền đề của các hành vi đối với
môi trường của Yoon-Na Cho, Anastasia Thyroff, Molly I. Rapert, Seong-Yeon
Park, Hyun Ju Lee (2012). Nghiên cứu này tận dụng lịch sử lâu dài của định
hướng văn hóa, kiểm tra ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể
như các tiền đề của hiệu quả nhận thức của người tiêu dùng (PCE: perceived
consumers effectiveness).
Niềm tin của người tiêu dùng và ý định hành vi tiêu dùng đối với thực phẩm hữu
cơ: Một nghiên cứu ở Cộng hòa Séc là nghiên cứu của Lukas Zagata (2012 tập
trung vào quyết định mua hàng của khách hàng ở các nước sau xã hội chủ nghĩa
đối với sự nổi lên của thị trường thực phẩm hữu cơ. Nghiên cứu đã dự đoán và
giải thích hành vi của người tiêu dùng hữu cơ tại cộng hòa Séc. Các dự đoán tốt
26
nhất bài nghiên cứu đưa ra về ý định mua thực phẩm hữu cơ là thái độ đối với
các hành vi và chuẩn mực chủ quan. Vị trí quyết định trong niềm tin của người
tiêu dùng là dựa vào chất lượng của sản phẩm và quá trình tạo ra sản phẩm đó.
Trong một nghiên cứu khác về Các yếu tố ảnh hưởng đến đánh giá của người tiêu
dùng đối với phương tiện sinh thái (eco-labeled vehicles) của Caroline Lundquist
Noblet, Mario F. Teisl, Jonathan Rubin (2006) quyết định lựa chọn phương tiện
sinh thái là đối tượng chủ yếu của nghiên cứu. Nghiên cứu nàyxem xét ảnh
hưởng củaquan tâm tới vấn đề sinh thái đến quá trình mua phương tiện đi lại của
khách hàng. Kết quả chỉ ra rằng các thuộc tính môi trường của một chiếc xe chở
khách sinh thái là quan trọng trong quyết định mua hàng của người tiêu dùng.
Thông tin về sinh thái được xem xét trong các quyết định mua các phương tiện,
nhưng thường không được xem xét trong các quyết định khi mua loại phương
tiện cao cấp.
Như vậy các nghiên cứu chỉ ra rằng có rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến
hành vi tiêu dùng. Các yếu tố ở đây chủ yếu là các nhóm nhân tố ảnh hưởng đến
ý định tiêu dùng theo thuyết hành vi có kế hoạch như: nhân khẩu học, thái độ,
chuẩn mực chủ quan và kiếm soát hành vi nhận thức, các yếu tố của sản phẩm
xanh.
Các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng thái độ và phản ứng của người tiêu
dùng về môi trường có thể ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng xanh. Thái độ hay
niềm tin này được đề cập đến như nhận thức về sự hiệu quả của người tiêu dùng
(PCE: perceived consumer effectiveness). Các phát hiện đã cho thấy một cách
khá thuyết phục rằng PCE tương quan thuận với hành vi tiêu dùng xanh của
khách hàng (Roberts, 1996).
Để kiểm định ảnh hưởng của nhận thức về tính hiệu quả đến mối quan hệ giữa
thái độ với môi trường và hành vi mua xanh, trong nghiên cứu các nhân tố ảnh
hưởng tới hành vi tiêu dùng xanh ở Thanh Đảo - Trung Quốc của Hui-hui Zhao
(2012): phân tích tuyến tính về ảnh hưởng trung gian đã được kiểm định. Kết quả
cho thấy giá trị F (F-value) có ý nghĩa thống kê, và chỉ có nhân tố hành vi tiêu
dùng xanh có ý nghĩa thống kê (Sig < 0.5) và hệ số Beta dương. Như vậy trong
nghiên cứu này nhận thức về tính hiệu quả không phải là nhân tố ảnh hưởng tới
27
mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh. Một số nghiên cứu cũng chỉ
ra rằng tính hiệu quả cảm nhận được của khách hàng làm mạnh hơn mối quan hệ
giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh (Berger and Corbin 1992; Lee and Holden
1999).
Một cuộc điều tra thực nghiệm về hành vi tiêu dùng xanh trong giới trẻ được
Maturos Kanchanapibul, Ewelina Lacka, Xiaojun Wang, Hing Kai Chan tiến
hành năm 2013 cho thấy quan tâm tới môi trường và kiến thức là trọng yếu trong
việc xác định sự tham gia tiêu dùng xanh của người tiêu dùng trẻ cũng như hành
vi mua thực tế của họ.
Để tìm ra ẩn ý của thế hệ trẻ khi tiêu dùng sản phẩm xanh, Leslie Lu, Dora Bock,
Mathew Joseph, (2013) đã có nghiên cứu về marketing sản phẩm xanh với các
câu hỏi nghiên cứu cơ bản là: Những khía cạnh nào của sản phẩm có ảnh hưởng
nhất định đến hành vi mua sản phẩm xanh? Đâu là lý do cơ bản ngăn cản giới trẻ
mua sản phẩm xanh? Kết quả nghiên cứu cho thấy để xây dựng được các công cụ
marketing hữu hiệu các nhà làm marketing cần chú ý hơn tới các yếu tố như khả
năng tái sử dụng, khả năng tái tạo và các ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe của
người tiêu dùng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn sản phẩm xanh dựa trên một lý
thuyết về giá trị tiêu dùng. Pei-Chun Lin, Yi-Hsuan Huang (2011)
Nghiên cứu này được áp dụng các lý thuyết về giá trị tiêu dùng để xác định các
yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn của người tiêu dùng về sản phẩm xanh,
và việc liệu có sự khác biệt trọng yếu trong các giá trị tiêu dùng và hành vi lựa
chọn giữa người tiêu dùng với các nhận định khác nhau về vấn đề môi trường.
Kết quả chỉ ra rằng người tiêu dùng với các mối quan tâm cao về môi trường sẽ
ủng hộ các sản phẩm xanh nhiều hơn, và thể hiện sự sẵn sàng cao hơn khi chọn
mua sản phẩm xanh. Nghiên cứu này kết luận rằng các yếu tố ảnh hưởng đến
hành vi lựa chọn của người tiêu dùng về sản phẩm xanh bao gồm lợi ích tinh
thần, khát vọng kiến thức, tìm kiếm sự mới lạ, điều kiện cụ thể và không bao
gồm giá trị chức năng, giá cả và chất lượng.
Các nghiên cứu về các nhân tố tác động tới mối quan hệ giữa thái độ/ý định và
hành vi tiêu dùng sau đó cho kết quả là: Mối quan tâm về môi trường biểu thị
28
định hướng của cá nhân đối với môi trường và mức độ quan tâm của họ với vấn
đề môi trường. Tuy nhiên, nghiên cứu của Mostafa (2007) lại cho thấy mối quan
hệ giữa sự quan tâm và hành vi chỉ tỉ lệ thuận từ thấp đến trung bình. Straughan
và Roberts (1999) trong nghiên cứu của mình chỉ ra rằng mối quan tâm về môi
trường chỉ giải thích 1,1% sự khác biệt trong hành vi. Thái độ đối với môi
trường, hiệu quả cảm nhận được của khách hàng được đánh giá là một nhân tố
quan trọng dự báo cho hành vi tiêu dùng quan tâm tới môi trường (Kinnear,
Taylor, and Ahmed 1974, Balderjahn 1988; Berger and Corbin 1992; Ellen,
Wiener, and Cobb-Walgren 1991; Roberts 1996; Roberts and Bacon 1997;
Straughan and Roberts 1999).
Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về tiêu dùng, hành vi tiêu dùng xanh còn
khá ít tuy nhiên có thể kể đến một số nghiên cứu sau: Phân tích các nhân tố ảnh
hưởng tới hành vi tiêu dùng sản phẩm túi thân thiện với môi trường của siêu thị
BIG C Huế (2013) nguồn Thuvien 24.com. Nghiên cứu đã phân tích 4 nhóm yếu
tố ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng sản phẩm túi thân thiện với môi trường của
siêu thị BIG C Huế là: nhận thức, thái độ, các nhân tố marketing và các yếu tố
nhân khẩu học.
Nghiên cứu của Phạm Thị Lan Hương ―Dự đoán ý định mua xanh của người tiêu
dùng trẻ‖ (2013) đã nghiên cứu các yếu tố văn hóa và tâm lý ảnh hưởng tới hành
vi tiêu dùng xanh của giới trẻ. Ngoài ra còn có một số nghiên cứu tiêu dùng xanh
dưới góc độ kinh tế học như: kích cầu tiêu dùng xanh (2013) của báo Sài Gòn
Giải Phóng T.P Hồ Chí Minh. Các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ giá sản phẩm, dịch
vụ xanh ảnh hưởng rất lớn tới hành vi tiêu dùng của người dân vì vậy các chiến
dịch kích cầu, các hoạt động tham gia tích cực đợt vận động hưởng ứng giờ trái
đất có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Trong tham luận khoa học về Hành vi tiêu dùng xanh của người Hà nội của tác
giả Nguyễn Hữu Thụ - Phó chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hội tâm lý học xã hội
Việt Nam, thực trạng hành vi tiêu dùng xanh của người Hà Nội được phân tích
cùng với các yếu tố ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng xanh, từ đó đó đưa ra các
biện pháp tâm lý-giáo dục nhằm tăng cường hành vi tiêu dùng xanh, góp phần
ngăn chặn và làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu. Nội dung
29
nghiên cứu của đề tài tập trung vào hành vi tiêu dùng rau xanh, thực phẩm và các
dịch vụ thiết yếu của người dân trong đời sống thường ngày. Khách thể nghiên
cứu được lựa chọn ngẫu nhiên với 417 người tuổi từ 18 đến 45 đang sinh sống,
làm việc tại quận Thanh Xuân, quận Hoàn Kiếm và huyện Đông Anh Hà Nội.
Các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu này là: Phương pháp phân tích
tài liệu, văn bản; phương pháp quan sát; phương pháp điều tra viết bằng bảng
hỏi; phương pháp phỏng vấn sâu và phương pháp xử lý kết quả nghiên cứu bằng
phần mềm thống kê SPSS phiên bản 16.0. Thang đánh giá được sử dụng trong
nghiên cứu này là thang ba bậc (3,0 hoàn toàn đồng tình, 2,0 đồng tình và 1,0
không đồng tình). Kết quả phân tích của tham luận cho thấy hành vi tiêu dùng
xanh của người dân Hà Nội có nhận thức tích cực (2,34), mặt thái độ ít tích cực
(2,18) và mặt hành động ít tích cực (2,20). Tổng hợp chung hành vi tiêu dùng
xanh của người Hà Nội ở mức độ ít tích cực (2,24). Kết quả nghiên cứu tương
quan giữa ba mặt biểu hiện hành vi tiêu dùng xanh của người dân Hà Nội về
nhận thức, thái độ và hành động cho thấy: ba mặt trên có tương quan thuận với
nhau điều này có nghĩa là khi nhận thức của người dân tăng thì hành động và thái
độ của người dân đối với tiêu dùng xanh cũng tăng, khi thái độ của người dân
tăng thì hành động của họ cũng tăng và ngược lại. Kết quả cụ thể tương quan
giữa nhận thức và thái độ là r=0,63 với p< 0,05, tương quan giữa nhận thức và
hành động r=0,53 với p<0,05 và tương quan giữa thái độ và hành động r=0,42
với p<0,05.
Nghiên cứu về Phong cách sống và tiêu dùng xanh dưới góc nhìn của lý thuyết
hành vi có kế hoạch của TS. Nguyễn Vũ Hùng và các cộng sự (2015) cho thấy:
Nhìn chung phong cách sống có ảnh hưởng tới ý định mua sản phẩm xanh. Tuy
nhiên, phong cách sống khác nhau lại có ảnh hưởng khác nhau. Trong khi người
có phong cách thời trang ít có ý định mua sản phẩm xanh, người có phong cách
tự chế tạo, chế tác, và phiêu lưu, mạo hiểm lại có ý định mua sản phẩm xanh cao.
Điều này cho thấy, giá trị sống trong mỗi con người thể hiện qua phong cách
sống có thể hình thành các thái độ khác nhau với môi trường và vì vậy ảnh hưởng
khác nhau tới ý định và hành vi mua sản phẩm xanh. Kết quả phân tích cũng cho
thấy, ý định mua sản phẩm xanh là yếu tố quyết định tới hành vi mua sản phẩm
30
xanh. Trong khi phong cách sống và các nhân tố khác có thể ảnh hưởng tới hành
vi tiêu mua sản phẩm xanh có thể chỉ dừng lại ở mức độ tăng hay giảm ý định
mua sản phẩm xanh. Các nhân tố khác đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng tới
hành vi mua sản phẩm xanh là ý định mua và khả năng kiểm soát nhận thức hành
vi. Đây cũng là kết quả hoàn toàn phù hợp với lý thuyết hành vi có kế hoạch.
1.2.2 Tổng quan các nghiên cứu về mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu
dùng xanh
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đầu tư cho nhãn xanh nhưng thị phần của sản phẩm
xanh vẫn thấp (Rex và Baumann, 2007). Khoảng 30% người tiêu dùng Anh nói
rằng họ có quan tâm tới môi trường nhưng không chuyển mối quan tâm đó thành
hành động mua sản phẩm xanh thực tế (Young et la., 2009).
Dodds, Monroe&Grewal trong một nghiên cứu năm 1991 đã chỉ ra rằng, ý định
mua phản ánh sự đánh giá hoặc thái độ của người tiêu dùng đối với những sản
phẩm nhất định dưới sự ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài tạo ra sự sẵn lòng
mua sắm. Khi những người tiêu dùng sẵn lòng mua một số sản phẩm, ý định mua
càng cao thì khả năng mua càng lớn.
Trong một nghiên cứu của Hosein đã chỉ ra rằng thái độ là yếu tố dự đoán tốt
nhất cho ý định mua sản phẩm xanh. Điều này chỉ ra rằng ý định của người tiêu
dùng mua sản phẩm xanh được xác định bởi việc có thái độ tích cực hướng tới
sản phẩm xanh. Tuy nhiên hành vi tiêu dùng khác với ý định ở chỗ đó là những
hành vi mua thực sự của khách hàng.
Hui-hui Zhao, Qian Gao, Yao-ping Wu, Yuan Wang, Xiao-dong Zhu (2012) có
một nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng bền vững: cuộc
khảo sát tại khu vực nông thôn Trung Quốc. Bài viết này tập trung vào phân tích
quá trình ra quyết định của các hành vi tiêu dùng bền vững của cư dân nông thôn
Trung Quốc. Dữ liệu được thu thập từ cuộc điều tra được tiến hành ở 35 thành
phố hoặc quận khác nhau , với tổng cộng 1403 câu hỏi được phân phối ngẫu
nhiên trong 50 làng trong số 35 khu vực được lựa chọn. Nghiên cứu này đưa ra
một số yếu tố quan trọng có thể có ảnh hưởng (trực tiếp hoặc gián tiếp) đến hành
vi tiêu dùng bền vững SCB (Sustainable Consumer Behaviour) của cư dân nông
thôn. Giả thiết cơ bản là kiến thức môi trường, giá trị môi trường, nhạy cảm môi
31
trường, nhận thức về hậu quả, trách nhiệm môi trường, nhận thức về kiểm soát
hành vi và phản hồi hiệu quả có thể có một ảnh hưởng tích cực đến ý định hành
vi và SCB. Một giả thiết khác là có sự tương quan tích cực giữa ý định và hành vi
tiêu dùng bền vững. Dựa trên phân tích mô tả, nghiên cứu cho thấy thực trạng và
các yếu tố ảnh hưởng hành vi tiêu dùng bền vững của người dân nông thôn. Bài
viết cũng sử dụng phân tích nhân tố để làm rõ việc quá trình đưa ra quyết định
hành vi tiêu dùng bền vững. Kết quả cho thấy ý định đóng vai trò quan trọng nhất
trong việc giải thích các hành vi.
Theo lý thuyết hành vi hoạch định (TPB), hành vi cụ thể của cá nhân được xác
định bởi ý định của họ để thực hiện những hành vi và ý định hành vi như vậy có
thể được dự đoán bởi ba tiền lệ: thái độ đối với hành vi, định mức chủ quan và
nhận thức kiểm soát hành vi (Ajzen, 1985).
Theo lý thuyết về hành vi tiêu dùng của Philip Kotler: các yếu tố marketing (sản
phẩm, giá cả, phân phối, cổ động) và các tác nhân khác (kinh tế, công nghệ,
chính trị, văn hóa) tác động vào ―hộp đen‖ của người mua, tức là tác động vào
những đặc điểm (văn hóa, xã hội, cá tính và tâm lý) cũng như tiến trình quyết
định của người mua (nhận thức vấn đề, tìm kiếm thông tin, đánh giá, quyết định,
hành vi mua), ở đây chúng gây ra những đáp ứng cần thiết từ phía người mua và
kết quả là đưa đến một quyết định mua sắm nhất định (loại sản phẩm, nhãn hiệu,
số lượng, lúc mua và nơi mua). Như vậy lý thuyết người tiêu dùng chỉ ra rằng
người tiêu dùng trải qua giai đoạn có ý định mua trước khi đi tới quyết định mua
hay nói cách khác giữa ý định và hành vi mua tồn tại mối quan hệ nhân quả.
Trong đó ý định tiêu dùng là tiền đề dẫn đến hành vi tiêu dùng.
Hình 1.2: Quá trình mua hàng
Nguồn: Philip Kotler, (2008) – Marketing Management
Ý thức nhu cầu/ Ý định tiêu dùng
Hành vi sau mua
Tìm kiếm thông tin
Đánh giá phương án
Quyết định mua
32
Năm 2006, Vermeir&Verbeke đã đề xuất mô hình khái niệm về hành vi người
tiêu dùng hướng đến các sản phẩm thực phẩm bền vững. Theo mô hình này, có
sự khác biệt giữa thái độ và ý định khi một người không thực sự tham gia và quá
trình mua.
Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng bền vững: một điều tra của cư dân
nông thôn ở Trung Quốc, Ping Wang, Qian Liu,YuQ (2013), Kết quả cho thấy ý
định hành vi đóng vai trò quan trọng nhất trong việc giải thích các hành vi, trong
khi khả năng giải thích của các biến tâm lý là thấp khi giải thích cho hành vi tiêu
dùng bền vững tổng thể và các danh mục con khác.
TS. Vũ Anh Dũng và các cộng sự (2012) cũng đã nghiên cứu và đề xuất mô hình
các nhân tố ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam.
Nghiên cứu trên 200 người tiêu dùng ở Việt Nam trong nghiên cứu này cho kết
quả là ý định có tác động tích cực đến hành vi tiêu dùng xanh. Có nghĩa là những
người có ý định cao hơn thì có khả năng thực hiện hành vi tiêu dùng xanh cao
hơn và ngược lại.
Trong nghiên cứu Kiểm định mô hình các yếu tố ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng
xanh của nhóm nghiên cứu TS. Vũ Anh Dũng, Nguyễn Thị Ngọc Ánh, Nguyễn
Thu Huyền (2012) trên một mẫu 221 người tiêu dùng Việt Nam cho thấy: Thái
độ, Chuẩn mực chủ quan, Kiểm soát hành vi nhận thức là những nhân tố ảnh
hưởng đến ý định tiêu dùng xanh.
Trong đó ý định mua, kiểm soát hành vi nhận thức, các yếu tố sản phẩm là các
nhân tố ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng xanh. Với hằng số đã chuẩn hóa bằng
0,367, ý định tiêu dùng xanh có tác động tích cực đến hành vi tiêu dùng xanh.
Khi ý định của người tiêu dùng xanh tăng lên 1 đơn vị, hành vi tiêu dùng xanh sẽ
tăng lên 0,367 đơn vị.
Nghiên cứu này cũng đưa ra một giả thuyết là nhận thức hiệu quả, các yếu tố sản
phẩm (trong đó có sự sẵn có của sản phẩm) là các nhân tố tác động tới quá trình
từ ý định tiêu dùng sản phẩm xanh đến hành vi tiêu dùng sản phẩm xanh thực tế.
Tuy nhiên kết quả nghiên cứu chưa thể hiện rõ tác động của các nhân tố này tới
mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh
33
1.2.3 Tổng quan các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ
giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh
Theo Rylander and Allen (2001), sở dĩ có tình trạng nhiều người khẳng định thái
độ và hành vi ủng hộ môi trường nhưng thất bại trong việc thực hiện hành vi tiêu
dùng xanh là do các nhân tố bên trong và bên ngoài. Các nhân tố bên trong chủ
yếu bao gồm nhận thức của người tiêu dùng về tính hiệu quả, độ nhạy cảm về
giá, niềm tin đối với quảng cáo, các yếu tố bên ngoài có thể kể đến là xúc tiến
của chính phủ, doanh nghiệp, ảnh hưởng của người đi cùng, chi phí cơ hội…
Nghiên cứu của Hines et al. (1986) khẳng định: Bên cạnh chương trình khuyến
mãi của chính phủ và sự sẵn có của hàng hóa, các yếu tố về mặt hoàn cảnh cũng
góp phần giải thích hành vi tiêu dùng theo chiều hướng có ích cho môi trường.
Các nhân tố bên ngoài cũng có thể ảnh hưởng tới quá trình ra quyết định của
người tiêu dùng. Kollmuss và Agyeman (2002) nhấn mạnh rằng hành vi ủng hộ
môi trường có nhiều khả năng xảy ra nếu các chính phủ và các tập đoàn thúc đẩy
một lối sống bền vững.
Seyfang trong một nghiên cứu năm 2006 cũng kết luận rằng mạng lưới thực
phẩm xanh của địa phương là điều kiện cần thiết để người tiêu dùng biến ý định
thành hành vi thực sự mua thực phẩm xanh. Bonini và Oppenheim (2008) cho
rằng sự hạn chế của sản phẩm xanh có thể ngăn cản hành vi tiêu dùng xanh.
Trong nghiên cứu của mình họ chỉ ra rằng sự hạn chế của sản phẩm xanh có thể
ngăn cản hành vi tiêu dùng xanh, do đó sự xúc tiến của doanh nghiệp là rất cần
thiết. Haytko & Matulich, (2008) chứng minh rằng sự hỗ trợ cho sản phẩm xanh
từ các nhà bán lẻ đang tạo ra một sự khác biệt trong thái độ, ý định của người tiêu
dùng và thúc đẩy phong trào tiêu dùng xanh.
Nghiên cứu của Athanasios Krystallis và George Chryssohoidis ở Hy Lạp về tiêu
dùng thực phẩm hữu cơ đã chỉ ra rằng sự sẵn có của thực phẩm hữu cơ cùng với
các loại mặt hàng có trên thị trường cũng là những yếu tố có thể ảnh hưởng tới
hành vi mua hàng của khách hàng. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra được những
yếu tố ảnh hưởng khác như đã được mô tả trong các tài liệu quốc tế trước đó,
chẳng hạn như chất lượng thực phẩm và an toàn, tin cậy trong giấy chứng nhận,
và thương hiệu của sản phẩm.
34
Một số nghiên cứu trước đây cho thấy việc thiếu sản phẩm xanh và hữu cơ trong
các cửa hàng được coi là một trong những rào cản đối với người tiêu dùng
(Byrne và các đồng nghiệp (1991); Davies (1995). Vermeir và Verbeke (2004)
lập luận rằng nhiều người tiêu dùng có ý định mua sản phẩm xanh, tuy nhiên ý
định đó không chuyển thành hành vi mua do sự sẵn có thấp của các sản phẩm.
Mainieri (1997) cũng cho rằng ý thức môi trường của người tiêu dùng không thể
trở thành hành vi ủng hộ môi trường một phần là do sự cung cấp không đầy đủ
các sản phẩm thân thiện với môi trường.
Nhiều tác giả như Ismail và Panni (2008), Ismail, Panni và Talukder (2006) và
Panni (2006) khẳng định rằng sự sẵn có của các sản phẩm xanh là yếu tố cần
thiết khiến người tiêu dùng tham gia vào hành vi tiêu dùng xanh, bảo vệ môi
trường. Một nghiên cứu trước đây cho thấy 30% người tiêu dùng không thể
chuyển ý định tiêu thụ thực phẩm xanh của họ thành hành vi mua thực sự do sự
bất tiện khi mua hàng (Young và các đồng nghiệp, 2010). Sự chuyển biến từ ý
định sang hành vi tiêu dùng xanh chịu ảnh hưởng bởi yếu tố trung gian trong đó
có sự thuận tiện khi mua sản phẩm (Zhu và các đồng nghiệp, 2012).
Năm 2012, Qinghua Zhu, Ying Li, Yong Geng,YuQi có một nghiên cứu về ý
định, hành vi và các yếu tố ảnh hưởng tới tiêu dùng thực phẩm xanh của người
tiêu dùng Trung Quốc. Dựa vào mô hình lý thuyết hành vi có kế hoạch, nhóm
nghiên cứu phát triển một mô hình lý thuyết trong đó đề xuất rằng các yếu tố ảnh
hưởng bên trong và bên ngoài có thể ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và
hành vi tiêu dùng thực phẩm xanh trong khi các yếu tố bối cảnh như sự không
thuận tiện khi mua hàng sẽ tiết chế mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu thụ
thực phẩm xanh. Bài viết sử dụng phân tích nhân tố và phân tích mô tả cùng với
phương pháp hồi quy phân cấp. Kết quả cho thấy rằng các hoạt động thúc đẩy có
thể mang lại ý định tiêu dùng thực phẩm xanh nhưng giá trị môi trường của
người tiêu dùng là cần thiết. Những tiện ích khi mua sắm có thể thúc đẩy ý định
tiêu dùng thực phẩm xanh trở thành hành vi tiêu dùng thực phẩm xanh thực sự.
Tác giả phân tích tác động của nhu cầu thiết yếu và tính thuận tiện đến mối quan
hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh bằng cách tính hệ số c của các biến
nhân:Ý định*nhu cầu thiết yếu, Ý định*tính thuận tiện. Giá trị F có ý nghĩa (4.1)
35
với p=0.05 trong bước thứ 4 cho thấy có tác động trung gian của yếu tố bối cảnh
đến mối tương quan giữa ý định và hành vi tiêu dùng thực phẩm xanh. Phân tích
sâu hơn cho thấy sự thuận tiện khi mua hàng có một tác động trung gian với ý
nghĩa hệ số beta bằng 0.09 ở mức ý nghĩa p=0.05 trong khi nhu cầu đặc biệt
không hề có tác động trung gian.
Trong nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng xanh ở Thanh
Đảo - Trung Quốc của Hui-hui Zhao (2012) và các đồng nghiệp, yếu tố điều tiết
bên trong chủ yếu bao gồm các mối quan tâm về môi trường và nhận thức hiệu
quả của người tiêu dùng. Kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố điều tiết mối quan
hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Trung Quốc là sự
sẵn có của sản phẩm và quan tâm tới môi trường. Nghiên cứu này sử dụng mô
hình các yếu tố bên trong và bên ngoài giới thiệu bởi Rylander và Allen (2001)
để điều tra ảnh hưởng của cá nhân gồm có (nhân khẩu học và kiến thức) tới thái
độ đối với tiêu dùng xanh. Tuy nhiên dù mô hình nghiên cứu cũng như mục tiêu
của nghiên cứu có hướng tới việc nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố bên
trong và bên ngoài tới mối quan hệ giữa thái độ đới với tiêu dùng xanh và hành
vi tiêu dùng xanh nhưng nghiên cứu này chưa kiểm định đánh giá được tác động
của các nhân tố này tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng. Nghiên
cứu này có xem xét tới các nhân tố bên trong và bên ngoài tuy nhiên nghiên cứu
này chưa tập trung kiểm định được tác động của các nhân tố ảnh hưởng
(moderation effect),
Nhận thức về tính hiệu quả sản phẩm của người tiêu dùng được xem như kiểm
soát về hành vi bên trong người tiêu dùng cũng như hành vi đối với xã hội, nhận
thức này là một biến hỗ trợ để biến ý định tiêu dùng xanh ở thành hành vi tiêu
dùng thực sự (Thomas Failla và Gopalakrishna, 2014). Ellen, Weiner và Cobb-
Walgren (1991) giải thích rằng không dễ dàng để chuyển ý định và quan tâm tới
môi trường thành hành vi tiêu dùng xanh thực sự. Tuy nhiên, nếu sự nhận thức về
tính hiệu quả của sản phẩm đối với môi trường tăng cao, hành vi tiêu dùng xanh
sẽ được đẩy mạnh.
Lockie và các đồng nghiệp (2002) trong một nghiên cứu về ăn uống ―xanh‖ ở Úc
đã tìm ra ba yếu tố giới hạn tiêu dùng xanh đó là giá cả, sự sẵn có của sản phẩm
36
và sự thuận tiện khi mua. Theo Ottman (1999), người tiêu dùng sẽ mua thực
phẩm xanh nếu sản phẩm đó đáp ứng được các nhu cầu của họ về chất lượng, sự
sẵn có, sự thuận tiện khi mua và khi sử dụng.
Khảo sát Có thưởng về Tiêu dùng xanh (2009) của Liên đoàn Môi trường Toàn
Trung Quốc và cuộc khảo sát về mua thực phẩm xanh ở tỉnh Liêu Ninh thực
hiện bởi Zhou và Zhou (2007) kết luận rằng khả năng áp dụng hành vi mua hàng
xanh ở nữ giới là cao hơn nam giới.
Zhao và các đồng nghiệp (2013); Zhu và các đồng nghiệp (2012) trong mô hình
nghiên cứu tiêu dùng xanh của họ đã nhấn mạnh yếu tố bối cảnh, các yếu tố xã
hội, kinh tế trong việc thúc đẩy ý định tiêu dùng xanh trở thành hành vi tiêu dùng
xanh thực sự. Bartelings và Sterner (1999) trong các nghiên cứu của mình đã
chứng minh rằng các yếu tố kinh tế ảnh hưởng mạnh mẽ tới quyết định tiêu dùng
xanh của con người. Nếu không có bối cảnh phù hợp, người tiêu dùng có thể mua
thực phẩm không thân thiện với môi trường mặc dù ý định của họ để tiêu thụ
thực phẩm xanh (Tanner, 2006). Nghiên cứu của Qinghua Zhu và các đồng
nghiệp năm 2012 cho thấy rằng các tố hoàn cảnh điều tiết hay có ảnh hưởng tới ý
định tiêu dùng xanh và hành vi tiêu dùng xanh của khách hàng. Như các nhà
nghiên cứu khác đã chỉ ra (Black, Stern, & Elworth, 1985; Guagnano, Stern, &
Dietz, 1995), các yếu tố tình huống có thể ngăn chặn những hành vi thân thiện
môi trường và làm suy yếu ảnh hưởng của thái độ tích cực hay giá trị môi trường
trong mỗi cá nhân.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của TS. Vũ Anh Dũng (2012) trong nghiên cứu Kiểm
định mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh mặc dù chưa thực
sự đo lường mức độ ảnh hưởng của yếu tố giá và sự sẵn có của sản phẩm tới quá
trình chuyển từ ý định đến hành vi tiêu dùng xanh tuy nhiên trong mô hình
nghiên cứu cũng đã đề cập đến tác động của các nhân tố này tới mối quan hệ
giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh.
1.3 Tổng quan kinh nghiệm tiêu dùng xanh trên thế giới (Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ và các nƣớc thuộc liên minh châu Âu)
Tiêu dùng xanh có thể được định nghĩa là việc mua, sử dụng và tuyên truyền cho
các sản phẩm thân thiện với môi trường mà không gây nguy cơ cho sức khỏe con
37
người và không đe dọa các chức năng hay sự đa dạng của các hệ sinh thái tự
nhiên. Tiêu dùng xanh xuất phát từ mong muốn bảo vệ các nguồn tài nguyên cho
các thế hệ tương lai và để nâng cao chất lượng sống của chúng ta. Hiện nay,
người tiêu dùng trên thế giới đang dần dần hướng tới các sản phẩm xanh, thân
thiện với môi trường và coi điều đó như một tiêu chuẩn cho các sản phẩm và dịch
vụ chất lượng cao. Họ sẵn lòng trả giá cao hơn cho những hàng hóa đã được gắn
nhãn mác đạt tiêu chuẩn sản xuất bền vững. Vì sự quan tâm đối với các sản phẩm
xanh đã gia tăng trên toàn cầu, nhiều công ty đã bắt đầu sản xuất các sản phẩm
xanh thân thiện với môi trường và thể hiện nỗ lực của công ty trong việc bảo vệ
môi trường. Chính phủ của các nước cũng đang nỗ lực đưa ra nhiều chính sách
để thúc đẩy tiêu dùng xanh. Hầu hết các quốc gia đang phát triển ở Châu Á đã
xây dựng các bộ luật bảo vệ môi trường. Số lượng người sẵn sàng trả nhiều tiền
hơn cho các sản phẩm sinh thái thân thiện gần đây cho thấy thị trường của các
sản phẩm thân thiện môi trường đang mở rộng.
1.3.1 Trung Quốc
Mặc dù có khởi đầu tương đối muộn tuy nhiên tiêu dùng xanh cũng đã có những
bước tiến đáng kể ở Trung Quốc. Trong những năm gần đây, sự quan tâm về môi
trường của cư dân Trung Quốc đang được cải thiện. Chính phủ Trung Quốc đã
chi tiêu không ít trong việc bảo vệ, cải thiện môi trường và bảo tồn tài nguyên
thiên nhiên. Tiêu dùng xanh là một mô hình kinh tế win – win (đôi bên cùng có
lợi), đã thu hút sự quan tâm rộng rãi và đầu tư ở Trung Quốc. Năm 1993, Trung
Quốc lần đầu tiên thành lập chương trình gắn nhãn sinh thái cho các sản phẩm.
Cho đến nay, trong hệ thống chứng nhận sản phẩm xanh ở Trung Quốc đã có
hàng chục chủng loại chẳng hạn như thực phẩm, đồ uống, hàng dệt may, vật liệu
xây dựng, đồ gia dụng, đèn chiếu sáng, ô tô và nhiều mặt hàng khác. Đến năm
2005, chính phủ Trung Quốc đã tiến hành cải cách các chương trình ghi nhãn
sinh thái, cải thiện phần nào tình hình tiêu dùng xanh ở Trung Quốc, ví dụ như
chương trình ―China Energy Label‖.
Tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2007, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào
kêu gọi tất cả các công dân trong xã hội Trung Quốc thay đổi hành vi của họ theo
hướng có lợi cho môi trường. Tính đến nay, Trung Quốc đã ban hành một loạt
38
các biện pháp môi trường, bao gồm cả pháp luật về năng lượng tái tạo và ô nhiễm
nguồn nước, quy định về hóa chất và các chất thải điện tử, và khí thải và tiêu
chuẩn ô nhiễm.
Chính quyền cũng thúc đẩy các công nghệ tiết kiệm năng lượng trong các ngành
công nghiệp khai thác mỏ và xây dựng và trợ giá cho các sản phẩm chiếu sáng
tiết kiệm năng lượng và các loại xe. Chính phủ cung cấp một mức thuế suất ưu
đãi 7,5 phần trăm cho việc mua bán các loại xe có động cơ dưới 1.6L. Tháng 6
năm 2009, Trung Quốc bắt đầu thực hiện dự án "sản phẩm năng lượng hiệu quả
có lợi cho cộng đồng" để quảng bá sản phẩm năng lượng hiệu quả bao gồm điều
hòa không khí, tủ lạnh, TV màn hình phẳng, máy giặt, đèn điện và các loại xe tiết
kiệm năng lượng. Tính đến cuối năm 2010, chính phủ đã chi hơn 16 tỷ nhân dân
tệ để thúc đẩy hơn 340 triệu máy điều hòa không khí tiết kiệm năng lượng, 1
triệu xe tiết kiệm năng lượng và 360 triệu bóng đèn tiết kiệm năng lượng. Kết
quả là hàng năm, 22,5 tỷ kwh điện, 300.000 tấn dầu được tiết kiệm và giảm thiểu
được 14 triệu tấn khí thải carbon dioxide.
Trung Quốc cũng đã cố gắng để giảm lãng phí về mặt đóng gói sản phẩm. Các
yêu cầu đề xuất nhằm giảm thiểu lượng chất thải phát sinh bằng cách buộc các
nhà sản xuất để cắt giảm vật liệu đóng gói, trừng phạt không tuân thủ sẽ bị phạt
lên đến 50.000 ¥ ($ 7,323). Thêm nữa, Trung Quốc đã cấm sử dụng túi nhựa
mỏng trong tất cả các cửa hàng bán lẻ trong tháng 6 năm 2008, khuyến khích
người tiêu dùng chuyển sang mua sắm túi tái sử dụng. Theo ước tính của NDRC
tháng 6 năm 2009, lệnh cấm đã giảm hai phần ba lượng sử dụng túi nhựa và có
thể tiết kiệm 2,4 triệu tấn dầu mỗi năm.
1.3.2 Nhật Bản
Tại châu Á, Nhật Bản là một trong những quốc gia đi đầu trong phong trào bảo
vệ môi trường nói chung và tiêu dùng xanh nói riêng. Những quy định liên quan
tới chương trình phát triển xanh lần đầu tiên được chính phủ Nhật ban hành vào
năm 1990; năm 2001 Chính phủ Nhật Bản thông qua luật thúc đẩy mua sắm
xanh, khiến Nhật Bản trở thành quốc gia đầu tiên ban hành chính sách về mua
sắm xanh. Chính sách này yêu cầu tất cả các Bộ và cơ quan Chính phủ phải thực
39
hiện chính sách mua sắm xanh. Về luật mua sắm xanh công cộng ở Nhật Bản,
mục đích là để thúc đẩy việc mua các sản phẩm và dịch vụ xanh trong khu vực
công ở cả cấp trung ương và địa phương. Những thông tin về sản phẩm và dịch
vụ xanh cung cấp cho khách hàng cũng được tăng cường thông qua bộ luật này.
Với việc mua sắm xanh, chính quyền trung ương xác định và công bố một chính
sách mua sắm với các chỉ tiêu trên những loại sản phẩm và dịch vụ mỗi năm.
Nhật Bản cũng đã có những chính sách về tái chế bao bì và vật liệu đóng gói.
Năm 1995, bộ luật ―Containers/ Packaging Recycling Act‖ được thông qua nhằm
thúc đẩy tái chế các loại thùng chứa và bao bì đóng gói sản phẩm, bao gồm
khoảng 60% khối lượng chất thải trong các hộ gia đình ở Nhật Bản. Bộ luật phân
phối trách nhiệm và nghĩa vụ đối với việc tái chế, người tiêu dùng cần phân loại
các vật liệu, sau đó những vật liệu đó sẽ được cơ quan chức năng thành phố thu
thập và giao cho các công ty được chỉ định để thực hiện tái chế.
Tháng 2 năm 1996 mạng lưới tiêu dùng xanh ở Nhật Bản (Green Purchasing
Network) được thành lập bởi bộ Môi trường với mục đích nhằm thúc đẩy mua
sắm xanh ở Nhật Bản thông qua việc cung cấp thông tin và hướng dẫn trong việc
thực hành mua sắm xanh. Tính đến nay, mạng lưới đã đưa ra rất nhiều hoạt động
như: hội thảo, triển lãm xanh, giải thưởng ―Mua sắm xanh‖, dữ liệu thông tin sản
phẩm… và có những thành công nhất định. Kết quả là tất cả các cơ quan chính
phủ trung ương đều thực hiện mua sắm xanh, 100% các cơ quan chính quyền ở
47 tỉnh và 12 thành phố được chỉ định vào việc mua sắm xanh. Dựa vào khảo sát
năm 2003, 52% trong 722 nhà cung cấp xác nhận doanh số bán hàng sản phẩm
xanh đã tăng lên trong những năm qua, quy mô thị trường trong nước của các sản
phẩm xanh được ước tính lên tới 50 nghìn tỉ yên, sự quan tâm của khách hàng tới
sản phẩm xanh cũng tăng lên đáng kể.
1.3.3 Hàn Quốc
Cùng với Nhật Bản , Hàn Quốc cũng là quốc gia thực hiện và áp dụng các chính
sách về mua sắm xanh từ rất sớm . Điểm khởi đầu chính thức của chính sách về
sản phẩm xanh tại Hàn Quốc là chương trinh dán nhãn môi trương được triển
khai từ năm 1992. Ngoài ra, Chính phủ đã có những nghiên cứu nhằm liên kết hệ
40
thống dán nhãn môi trường với hệ thống mua sắm công cộng và đã đạt được
những kết quả rõ rệt. Không những vậy, chính phủ Hàn Quốc luôn coi những nhà
sản xuất là nhưng nha tiêu dùng l ớn, chính phủ đã thông qua những hợp đồng tự
nguyện vê mua sắm xanh , găn kêt việc mua các nguyên liệu xanh , góp phần thuc
đây quá trình sản xuất và bán ra các sản phẩm thân thiện với môi trường .
Tổng khối lượng mua sắm xanh của tất cả các tổ chức công cộng ở Hàn Quốc đạt
khoảng 2 tỷ USD vào năm 2013, đã phát triển 2,6 lần kể từ năm 2005.
Cũng trong năm 2005, bộ luật khuyến khích mua các sản phẩm và dịch vụ xanh
đã được bộ Môi trường thông qua ở Hàn Quốc. Bộ luật được đưa ra nhằm mục
đích nuôi dưỡng thị trường sản phẩm xanh bằng cách kích thích nhu cầu tiêu
dùng đối với sản phẩm xanh cũng như tạo thuận lợi cho việc tiếp cận sản phẩm
xanh của người tiêu dùng. Bộ luật được xem là cơ sở cho việc thực hiện thu mua
xanh, tình nguyện trong việc thực hiện kinh doanh xanh. Ngoài ra, cứ 5 năm, bộ
Môi trường được ủy thác thiết lập các kế hoạch hành động nhằm thúc đẩy mua
sắm xanh. Kế hoạch hành động được xây dựng với sự tham vấn của các tổ chức
công cộng có liên quan để đưa ra mục tiêu và chiến lược trung hạn cho việc
quảng bá các sản phẩm xanh.
Chính phủ Hàn Quốc cũng đã hợp tác với các công ty thẻ tín dụng để đưa ra một
hệ thống khuyến khích những người có ý thức tiêu dùng xanh: The Green Credit
Card (Thẻ tín dụng xanh). Thẻ tín dụng xanh là một phương tiện để tích lũy và sử
dụng điểm sinh thái khi khách hàng chi tiêu trong cuộc sống hàng ngày, hiện đã
thu hút hơn 9 triệu người sử dụng. Dán nhãn sinh thái là một cách hiệu quả giúp
người tiêu dùng nhận biết sản phẩm xanh. Chính phủ Hàn Quốc cho rằng nhãn
sinh thái là một cách hiệu quả giúp người tiêu dùng nhận biết sản phẩm xanh vì
vậy các chính sách ghi nhãn sinh thái được chính phủ Hàn Quốc đưa ra từ khá
sớm (1990); mục đích nhằm cung cấp thông tin đáng tin cậy cho người tiêu dùng.
Ngày nay, nhằm tăng cường thông tin về độ thân thiện với môi trường của sản
phẩm cho khách hàng, nhiều chính sách khác đã được thi hành như: Dán nhãn
sinh thái, Gắn nhãn ―dấu chân Carbon‖ (Carbon Footprint), Chứng nhận công
trình xanh, Chứng nhận cửa hàng xanh…
41
Cùng với các chính sách trên, chính phủ Hàn Quốc đang nỗ lực thực hiện để giúp
người tiêu dùng nói chung hiểu rõ hơn các khái niệm về cuộc sống xanh và
quảng bá sản phẩm xanh bằng cách nâng cao nhận thức cộng đồng. Hiện nay, 4
―Trung tâm cộng tác tiêu dùng xanh‖ đã được thiết lập, cung cấp các dịch vụ giáo
dục về tiêu dùng xanh cho người tiêu dùng.
1.3.4 Hoa Kỳ
Mua sắm xanh ở Hoa Kỳ được thiết lập và triển khai thực hiện trong một số
chương trình mua sắm xanh của Liên bang, trong đó các cơ quan điều hành được
yêu cầu cân nhắc các tác động môi trường, giá thành và các yếu tố khác của một
sản phẩm trước khi đưa ra quyết định mua sắm. Theo quy định mua sắm Liên
Bang và Sắc lệnh 13101 về xanh hóa chính phủ, tất cả các cơ quan chính phủ
phải thực hiện mua sắm các sản phẩm có thành phần tái chế nhằm khuyến khích
việc sử dụng các vật liệu tái sinh.
Theo một thống kê của Cone communications năm 2013, ở Mỹ có 71% người
tiêu dùng Mỹ quan tâm tới môi trường khi họ mua sắm trong đó có 7% quan tâm
đến môi trường trong mọi lần mua sắm, 20% thường xuyên quan tâm đến môi
trường và 44% có quan tâm đến môi trường.
Tại Hoa Kỳ, luật chính sách năng lượng năm 2005 tạo ra các ưu đãi để khuyến
khích việc mua xe phát thải thấp. Các ưu đãi về thuế là kết quả của bộ luật này
năm 2005, ưu đãi về thuế được cung cấp nhằm thu hút khách hàng đối với các
loại phương tiện có giá cao hơn một chút nhưng thân thiện hơn với môi trường.
Các khoản thuế tín dụng đã được giới thiệu để giảm giá lên đến $3400 cho xe
hybrid (xe lai) và $4000 cho xe ô tô năng lượng thay thế. Ưu đãi về thuế có thể
thay đổi dựa vào mức độ vận hành ―xanh‖ của các loại xe. Ví dụ, Tesla Roadster,
một loại xe chạy hoàn toàn bằng điện sẽ nhận được một khoản thuế tín dụng lớn
hơn nhiều so với việc mua một chiếc xe hybrid tiêu chuẩn, vì xe lai sẽ gây ô
nhiễm nhiều hơn trong thời gian vận hành. Ngoài ra, chính phũ Mỹ cũng đưa ra
những chính sách để khuyến khích người tiêu dùng sử dụng những loại xe tiết
kiệm năng lượng.
42
Rainforest Alliance - một tổ chức phi lợi nhuận tại Hoa Kỳ đang ảnh hưởng tới
sự lựa chọn của người tiêu dùng bằng cách ghi nhãn sản phẩm (và hoạt động) bền
vững về hoạt động lâm nghiệp và khai thác gỗ, bảo tồn đa dạng sinh học, và đảm
bảo sinh kế bền vững. Nhóm cũng làm việc với các doanh nghiệp du lịch để giảm
thiểu những tác động bất lợi của họ đến sinh thái và xã hội. Rainforest Alliance
chứng nhận sản phẩm nông nghiệp bao gồm cà phê, sô cô la, chuối, nước cam,
các loại hạt và hàng trăm mặt hàng khác đến từ các trang trại nơi rừng nhiệt đới
được bảo tồn.
1.3.5 Các nước thuộc liên minh châu Âu (EU)
Tại EU, Ủy ban châu Âu cũng đã có nhiều nỗ lực và hoạt động nhằm thúc đẩy
việc thực hiện mua sắm công xanh (Green Public Procurement-GPP) trong các
nước thành viên, bao gồm việc triển khai các nghiên cứu/dự án, ban hành các
chính sách và xây dựng các tiêu chuẩn. Mặc dù GPP vẫn là hệ thống tự nguyện,
tuy nhiên hiện nay nhiều nước thành viên đã và đang xây dựng Kế hoạch hành
động quốc gia và các hướng dẫn về mua sắm xanh.
Vào tháng 7 năm 2008, kế hoạch hành động của EU về tiêu thụ bền vững (trong
đó bao gồm nội dung tiêu dùng xanh) và sản xuất (SCP), chính sách công nghiệp
bền vững (SIP) được phát triển như là một nỗ lực để phát triển một chương trình,
một chính sách bảo trợ đặc biệt tập trung vào tiêu thụ bền vững. Trong kế hoạch
SCP này, ủy ban EU khởi xướng các công cụ như gắn nhãn sinh thái, hiệu quả
năng lượng EU với mục đích thông báo cho người tiêu dùng về các tác động môi
trường của sản phẩm nhằm nâng cao nhận thức của người tiêu dùng. Các sáng
kiến khác của EU gồm có Diễn đàn bán lẻ và Bàn tròn thực phẩm châu Âu được
thiết lập nhằm trao đổi cách thức thực hiện để đạt được sự bền vững trong lĩnh
vực bán lẻ thực phẩm ở châu Âu. Các chính sách khác như EMAS, GPP, và
ETAP thì nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và cơ quan công tham gia vào mua sắm
xanh.
Sau khi gặp phải một số rào cản trong việc quảng bá sản phẩm xanh ở các nước
thành viên về mặt phương pháp và cách áp dụng để chứng minh về các tiêu chí
xanh của sản phẩm, các nước Châu Âu đã đưa ra dự án ―Thị trường độc nhất cho
sản phẩm xanh‖ (Single Market for Green Products). Dự án nàybao gồm một
43
chuỗi các hoạt động: Dự án thiết lập 2 phương pháp để đo lường hiệu suất môi
trường trong suốt vòng đời sản phẩm PEF (Product Environmental Footprint) và
OEF (Organisation Environmental Footprint). Bên cạnh đó, dự án đưa ra các chỉ
tiêu khi báo cáo hiệu quả hoạt động đối với môi trường chẳng hạn như sự minh
bạch, rõ ràng, có thể tin cậy và so sánh…Thêm nữa, sự hợp tác trong phương
pháp phát triển giữa các nước trong khu vực cũng được hỗ trợ.
Năm 1980 cuốn sách đầu tiên ―Hướng dẫn tiêu dùng xanh‖ (The Green
Consumer Guide) đã được xuất bản ở Anh với ý tưởng chủ đạo là trong xã hội
hiện đại ―mua sắm bản thân nó cũng là một thú vui‖.
1.4 Các mô hình nghiên cứu tham khảo
1.4.1 Mô hình khái niệm về hành vi người tiêu dùng
Năm 2006, Vermei&Verbeke đã giới thiệu mô hình khái niệm về hành vi người
tiêu dùng. Mô hình này nghiên cứu khoảng cách giữa những thái độ tích cực và ý
định mua.
Trong mô hình này có 3 nhóm nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa thái độ và
ý định hành vi
Hình 1.3: Mô hình các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa thái độ và ý định
hành vi
Nguồn: Vermei&Verbeke (2006)
Trong mô hình này, sự khác biệt giữa thái độ và ý định sẽ xảy ra khi người tiêu
dùng không thực sự tham gia vào quá trình mua hay nói cách khác trong trường
Những nhân tố quyết định do cá nhân và do tình huống
Những giá trị, nhu cầu
và động lực cá nhân
Sự không chắc chắn
Thông tin và kiến thức
Sự sẵn có của sản phẩm
Hiệu quả cảm nhận của
người tiêu dùng (PCE)
Kiểm soát hành vi
Sự tham gia
Những giá trị
Chuẩn mực xã hội
Ý định
hành vi Thái độ Quá trình ra
quyết định
44
hợp này thói quen và động lực của người tiêu dùng thấp hoặc trong trường hợp
sự chắc chắn và tin tưởng đối với tính bền vững của sản phẩm là thấp do giới hạn
của kiến thức và thông tin hoặc khi sự sẵn có của sản phẩm bền vững còn hạn
chế. Trong mô hình này, thang đo giá trị Schwartz được sử dụng nhằm đo lường
những giá trị của người tiêu dùng và làm rõ những giá trị nào có liên kết và thúc
đẩy ý định tiêu dùng ở các mức độ khác nhau (Vermeir&Verbeke, 2006). Như
vậy mô hình này cho phép nghiên cứu sâu hơn về những yếu tố có ảnh hưởng tới
mối quan hệ thái độ hành vi và ý định tiêu dùng. Mà theo mô hình hành vi tiêu
dùng có kế hoạch của Fishbein and Ajzen (1986&2011) cho thấy thái độ sẽ ảnh
hưởng tới ý định hành vi và thái độ hành vi sẽ ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng.
Nếu ở mô hình này tác giả phát triển các nhân tố có thể ảnh hưởng tới mối quan
hệ giữa thái độ và ý định hành vi thì luận án của nghiên cứu sinh sẽ tập trung tìm
ra các nhân tố cũng như mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này tới mối quan hệ
giữa ý định và hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng Việt Nam.
1.4.2 Mô hình hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng quan tâm tới môi trường
Mô hình này được giới thiệu bởi Rylander và Allen (2001)của Hiệp hội
marketing Mỹ (American Marketing Association). Mô hình này mô tả tổng thể
hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng quan tâm tới môi trường. Trong đó ý định
ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng, các nhân tố bên trong và bên ngoài có thể ảnh
hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh.
Theo mô hình này, hành vi tiêu dùng xanh bị ảnh hưởng bởi ý định hành vi xanh
và có 2 nhóm nhân tố bên trong và bên ngoài có thể tác động tới mối quan hệ
giữa thái độ đối với tiêu dùng xanh và hành vi tiêu dùng thực tế. Nhóm các yếu
tố bên trong gồm có: Nhận thức của người tiêu dùng về tính hiệu quả của sản
phẩm, nhạy cảm về yếu tố giá và niềm tin đối với quảng cáo
Nhóm các yếu tố bên ngoài gồm có: Các chính sách thương mại của chính phủ và
của doanh nghiệp, tác động của người bên ngoài và sự sẵn có của sản phẩm.
Đây được xem là mô hình tổng hợp phần lớn các nhân tố được đề xuất bởi các
nhà nghiên cứu trước đây về các nhân tố có thể ảnh hưởng tới tác động của ý
định đến hành vi tiêu dùng xanh.
45
Hình 1.4: Mô hình hành vi tiêu dùng tổng thể của người tiêu dùng quan tâm tới
môi trường
Nguồn: Rylander và Allen (2001) - Hiệp hội marketing Mỹ (American Marketing
Association)
Luận án tham khảo thêm ba nhân tố tác động tới mối quan hệ giữa ý định và
hành vi tiêu dùng xanh của mô hình Mô hình hành vi tiêu dùng tổng thể của
người tiêu dùng quan tâm tới môi trường của Rylander và Allen (2001) - Hiệp
hội marketing Mỹ (American Marketing Association) là: nhận thức về tính hiệu
quả, độ nhạy cảm về giá và sự sẵn có của sản phẩm để đưa vào mô hình nghiên
cứu. Mô hình này ở một mức độ nào đó cố gắng tổng hợp lại những nhân tố tác
động tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh. Mô hình có thể phần
nào cho phép giải đáp được câu hỏi trong những hoàn cảnh hay dưới những tác
động nào thì ý định tác động mạnh mẽ hơn đến hành vi tiêu dùng xanh và dẫn
đến hành vi mua hoặc sử dụng xanh trên thực tế.
Ý định tiêu dùng xanh (hướng đến hành vi bảo vệ môi trường)
Các nhân tố bên trong ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh: - Nhận thức của người tiêu dùng về tính hiệu quả của sản phẩm - Nhạy cảm về yếu tố giá - Niềm tin đối với quảng cáo
Các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh: - Thưởng/phạt vì hành vi tiêu dùng - Ảnh hưởng của người bên ngoài - Nỗ lực để mua hàng và tính sẵn có của sản phẩm
Hành vi tiêu dùng: - Mua sản phẩm xanh - Mua sản phẩm của nhà sản xuất vì môi trường - Tái chế/tái sử dụng sản phẩm hoặc bao bì
46
1.4.3 Mô hình giả định các nhân tố ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng xanh
của người tiêu dùng Việt Nam
Năm 2012, Mặc dù chưa nghiên cứu sâu về các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan
hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh tuy nhiên mô hình cũng đã đề cập đến
một số nhân tố như giá, chất lượng, thương hiệu, nhãn sinh thái, mẫu mã, sự sẵn
có, phân phối… là các nhân tố đề xuất có thể ảnh hưởng tới quá trình chuyển từ ý
định thành hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam.
Tác giả Vũ Anh Dũng và cộng sự sau khi nghiên cứu các mô hình nhân tố ảnh
hưởng tới tiêu dùng xanh đã đề xuất mô hình giả định các nhân tố ảnh hưởng tới
hành vi tiêu dùng xanh của người Việt Nam như hình dưới đây
Hình 1.5: Một phần mô hình giả định các yếu tố ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng
xanh
Nguồn: Vũ Anh Dũng và cộng sự (2012) ‗Đánh giá nhận thức và hành vi tiêu
dùng xanh: trường hợp người tiêu dùng Hà Nội‘, Tạp chí Kinh tế và Phát triển,
Số 184
Thái độ/Ý định
mua sản phẩm
xanh
Hành vi mua sản
phẩm xanh
Hành vi sử dụng
xanh
Hành vi tuyên
truyền
Các yếu tố giá,
chất lượng, thương
hiệu, nhãn sinh
thái, mẫu mã, sự
sẵn có, phân phối
47
1.5 Khoảng trống và hƣớng nghiên cứu
Thông qua tổng quan tài liệu có thể nhận thấy có một số khoảng trống nghiên
cứu trong tiêu dùng xanh:
Để giải thích hành vi tiêu dùng xanh, các lý thuyết khác nhau đã được sử dụng,
điển hình bao gồm lý thuyết hành vi hợp lý (Ajzen Icek và Martin Fishbein,
1980) và phiên bản ―cập nhật‖ là lý thuyết hành vi có kế hoạch (Ajzen Icek,
1991), lý thuyết tổng quát về đạo đức marketing (Hunt Shelby D. và Scott J.
Vitell, 1986), hay lý thuyết về mức độ liên quan (Zaichkowsky Judith L.,
1985),... Chẳng hạn, dựa trên lý thuyết tổng quát về đạo đức marketing, nghiên
cứu của Chan và cộng sự (2001) lý giải ý định sử dụng túi mua hàng của cá nhân
người tiêu dùng thay vì sử dụng túi ni lông siêu thị (ý định tiêu dùng xanh) từ các
đánh giá đúng sai, đánh giá kết quả lợi ích chi phí, và đánh giá chấp nhận về đạo
đức. Cũng trong nghiên cứu này, lý thuyết về mức độ liên quan đã được vận
dụng để giải thích quan hệ điều tiết của mức độ liên quan của hành vi lên mối
quan hệ giữa đánh giá chấp nhận về đạo đức và ý định tiêu dùng xanh. Tuy
nhiên, phần lớn các nghiên cứu khác trong lĩnh vực này áp dụng lý thuyết hành vi
có kế hoạch hoặc hành vi hợp lý (ví dụ: Wu Shwu-Ing và Jia-Yi Chen, 2014)
hoặc tập trung vào một yếu tố nào đó trong lý thuyết này (ví dụ: Chen Shijing,
2010).
Dưới góc nhìn của lý thuyết hành vi hợp lý hay hành vi có kế hoạch, các nghiên
cứu về tiêu dùng xanh thường rơi vào một trong ba nhóm chính. Nhóm một tập
trung giải thích ý định tiêu dùng xanh như Gleim Mark R. và cộng sự, 2013; Wen
Ling-Yu Melody và Shang-Hui Li, 2013). Nhóm hai chỉ tập trung giải thích hành
vi tiêu dùng xanh (không thông qua ý định) như Kelkar Mayuresh và cộng sự,
2014; Lan Shu-Hui và Tzu-Chun Sheng, 2014. Một số nghiên cứu ở nhóm ba gần
đây đã áp dụng đầy đủ các yếu tố trong lý thuyết hành vi hợp lý và kiểm tra mối
quan hệ của các yếu tố tới hành vi thông qua ý định tiêu dùng sản phẩm xanh như
Wu Shwu-Ing và Jia-Yi Chen, 2014; Nguyễn Vũ Hùng và cộng sự, 2015.
Tuy nhiên, ngầm định trong hầu hết các nghiên cứu trên là coi ý định và hành vi
là một hoặc nếu có khác biệt thì mối quan hệ giữa chúng cũng rất chặt chẽ. Ngầm
định này có thể tạo ra một số hệ lụy. Thứ nhất, khi ý định và hành vi là một hoặc
48
quan hệ rất chặt chẽ sẽ khó giúp giải thích tại sao người tiêu dùng có thái độ rất
tích cực về bảo vệ môi trường hay tiêu dùng sản phẩm xanh và vì vậy có ý định
tiêu dùng sản phẩm xanh nhưng lại chưa chắc đã thực hiện hành vi mua sản
phẩm xanh (Ip Y. K., 2003; Nguyễn Vũ Hùng và cộng sự, 2015). Thứ hai, mặc
định về ý định và hành vi như vậy sẽ khiến chúng ta bỏ qua các yếu tố điều kiện
quan trọng giúp thúc đẩy, chuyển hóa từ ý định thành hành vi. Trên thực tế, tổng
kết kết quả nghiên cứu thực nghiệm với lý thuyết hành vi hợp lý của Ajzen và
Fishbein (2005) cũng đã đề cập đến sự không thống nhất giữa ý định và hành vi
trong nhiều lĩnh vực tiêu dùng khác nhau.
Mặc dù cả Ajzen và Fishbein cũng như Rylander và Allen đã chỉ ra rằng có một
số nhân tố có thể ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng
xanh nhưng cũng chưa có nhiều nghiên cứu liên quan tới các nhân tố này. Một số
nghiên cứu chỉ mới đưa ra một nhân tố ảnh hưởng hoặc có đưa ra một số nhân tố
ảnh hưởng nhưng chưa thực sự nghiên cứu sâu về các nhân tố này. Ví dụ như
nhóm nghiên cứu Hui-hui Zhao a, Quian Gao b, Yao- ping đã sử dụng mô hình
các yếu tố bên trong và bên ngoài giới thiệu bởi Rylander và Allen (2001) để
hướng tới việc nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố bên trong và bên ngoài tới
mối quan hệ giữa thái độ đới với tiêu dùng xanh và hành vi tiêu dùng xanh nhưng
nghiên cứu này chưa đánh giá được tác động của các nhân tố này tới mối quan hệ
giữa ý định và hành vi tiêu dùng.
Trên thực tế, mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới
hành vi tiêu dùng xanh nhưng lại không có nhiều các lý giải chắc chắn về mặt lý
thuyết tại sao người tiêu dùng mua hoặc không mua sản phẩm xanh và nhiều
người dù có thái độ ủng hộ môi trường nhưng lại thất bại trong việc thực hiện
hành vi (Rylander and Allen, 2001). Sự thiếu kiến thức tương đối làm cho nhiều
người tiêu dùng chỉ tập trung vào việc bảo vệ môi trường hơn là mua sản phẩm
xanh thể hiện một khoảng trống đáng kể trong lý thuyết (Mark R. Gleim, 2013).
Hơn thế nữa các nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu
dùng xanh cho thấy thông thường giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh tồn tại
mối quan hệ nhân quả (ý định có tác động tích cực tới hành vi tiêu dùng xanh)
49
tuy nhiên các nghiên cứu này lại không cho ra các kết quả đồng nhất. Nói một
cách khác, vẫn còn khoảng cách từ thái độ/ý định tới hành vi.
Ở Việt Nam, thực tiễn về tiêu dùng xanh xét trên các phương diện của người tiêu
dùng, doanh nghiệp hay chính phủ vẫn chưa phát triển. Các hoạt động nghiên
cứu về lĩnh vực này cũng chưa thu hút được sự quan tâm, chưa có những nghiên
cứu chuyên sâu (Vũ Anh Dũng, 2012). Ở Việt Nam có nghiên cứu của nhóm
nghiên cứu TS. Vũ Anh Dũng và các cộng sự về hành vi tiêu dùng xanh. Tuy
nhiên nghiên cứu này tập trung vào nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới ý định
tiêu dùng xanh và tác động của ý định đến hành vi tiêu dùng xanh. Mặc dù
nghiên cứu này chỉ ra rằng quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh của
người tiêu dùng Việt Nam là tương đối chặt. Ý định tác động tích cực đến hành
vi tiêu dùng xanh với mức độ tác động đo bằng hệ số Beta = 0.37. Có nghĩa là
khi ý định tăng thêm 1 đơn vị thì hành vi tăng thêm 0.37 đơn vị. Dù trong mô
hình giả định các nhân tố ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng xanh của nhóm nghiên
cứu này đã đưa vào các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành
vi tiêu dùng xanh tuy nhiên kết quả đánh giá trong nghiên cứu không tập trung
vào các nhân tố này.
Với những khoảng trống lý thuyết kể trên, đề tài này tập trung nghiên cứu các
nhân tố tác động tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh. Kết quả
nghiên cứu dự kiến sẽ đóng góp cho chính phủ và đặc biệt là các doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh các biện pháp thúc đẩy được việc tiêu thụ sản phẩm xanh
thông qua hoạt động thúc đẩy người tiêu dùng có hành vi thực tế thay vì chỉ có ý
định hoặc có thái độ tốt với tiêu dùng xanh.
1.6 Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết
Năm 2008, Katsikeas và các cộng sự đã đưa ra một mô hình khá điển hình về ảnh
hưởng của sự phụ thuộc lẫn nhau của các doanh nghiệp đến mối quan hệ giữa
lòng tin và hiệu quả hoạt động. Nghiên cứu của Fang và các cộng sự (2009) dựa
vào mô hình các nhân tố ảnh hưởng của Katsikeas và các cộng sự đã nghiên cứu
và cho thấy lòng tin ở các cấp độ khác nhau có những tác động khác nhau trong
việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực cho kinh doanh. Nghiên cứu này
cũng cố gắng tìm kiếm điều kiện cần thiết để làm tăng hiệu quả tác động của lòng
50
tin tới hiệu quả hoạt động. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự phụ thuộc của hai
doanh nghiệp đối tác (xuất khẩu và nhập khẩu) cao tác động của lòng tin đối với
hiệu qua sẽ tăng. Ngược lại nếu sự phụ thuộc là thấp, tầm quan trọng của lòng tin
bị hạ thấp và do đó tác động của lòng tin đối với hiệu quả hoạt động sẽ không
cao (thậm chí không còn). Cũng dựa vào mô hình này Amy E. Green (2003) đã
chứng minh lãnh đạo chuyển đổi tác động đến mối quan hệ giữa sự cạn kiệt về
cảm xúc và ý định luân chuyển trong các nhà cung cấp dịch vụ sức khỏe. Tương
quan ảnh hưởng ở nhiều cấp độ (Multilevel moderated regression) được sử dụng
để kiểm tra tác động của nhân tố lãnh đạo chuyển đổi tới mối quan hệ giữa sự
kiệt quệ cảm xúc với ý định luân chuyển. Kết quả điều tra cho thấy lãnh đạo
chuyển đổi càng mạnh, mối quan hệ giữa sự kiệt quệ cảm xúc với ý định luân
chuyển, hay nói cách khác, nếu lãnh đạo chuyển đổi càng mạnh thì tác động của
kiệt quệ cảm xúc đến ý định luân chuyển giảm đi.
Ở Việt Nam, TS. Nguyễn Đình Thọ, Đại học Kinh tế HCM cũng có một số
nghiên cứu liên quan tới các nhân tố tác động tới mối quan hệ của 2 nhân tố.
Trong bài báo ―Chuyển giao tri thức từ trường ĐH vào doanh nghiệp thông qua
sinh viên hệ vừa học vừa làm‖ (Tạp chí Kinh tế&Phát triển, 2014) TS. Thọ đã
dùng mô hình khả năng- động cơ – cơ hội gọi tắt là AMO (Ability-Motivation-
Opportunity) của Campell và cộng sự (1993) là mô hình cơ bản để nghiên cứu
Mô hình giả thuyết là quan điểm của sinh viên vừa làm vừa học vừa làm về giá
trị cạnh tranh trong doanh nghiệp họ đang làm việc sẽ làm thay đổi độ mạnh của
mối quan hệ giữa tri thức thu nhận và kết quả chuyển giao tri thức của họ vào
doanh nghiệp. Trong nghiên cứu này, TS. Nguyễn Đình Thọ giả thiết rằng ―Tri
thức thu nhận từ trường Đại học tác động cùng chiều vào kết quả chuyển giao tri
thức vào doanh nghiệp của sinh viên hệ vừa làm vừa học‖ (H1) và ―Tác động của
tri thức thu nhận từ trường đại học vào kết quả chuyển giao tri thức cho doanh
nghiệp càng cao khi sinh viên hệ vừa làm vừa học đánh giá giá trị cạnh tranh
trong công việc càng cao‖ (H2). Tác giả đã sử dụng phương pháp hồi qui thứ bậc
để kiểm định các giả thiết được đề nghị. Trong đó biến độc lập là Kết quả chuyển
giao tri thức. Một biến đo lường duy nhất được sử dụng cho biến hỗ tương (Ping
1995) được tính bằng biến nhân tri thức thu nhận*giá trị cạnh tranh. Khi sử dụng
51
biến tích, để tránh hiện tượng đa cộng tuyến, biến chuẩn trung bình (mean-
deviated) được sử dụng để tính biến hỗ tương
Bước cuối cùng là lấy biến tích tri thức thu nhận*Giá trị cạnh tranh và cho biến
này tác động vào biến phụ thuộc (kết quả chuyển giao tri thức). Kết quả cho thấy
do giá trị P<0.001 kết quả hồi qui cho thấy tác động của hỗ tương giữa tri thức
thu nhận và giá trị cạnh tranh.
Hai yếu tố được chỉ ra trong lý thuyết hành vi hợp lý có khả năng điều tiết mối
quan hệ giữa ý định và hành vi là ý định thực hiện hành vi và khả năng kiểm soát
mục tiêu (Ajzen Icek và Martin Fishbein, 2005). Trong đó, ý định thực hiện hành
vi được hiểu là mức độ sẵn lòng của một cá nhân cho việc thực hiện một ý định
cụ thể. Khả năng kiểm soát mục tiêu chỉ mức độ mà một cá nhân có thể thực sự
kiểm soát việc thực hiện một hành vi theo mục tiêu đề ra.
Trong nghiên cứu tiêu dùng xanh, trước hết ý định thực hiện hành vi có thể được
biểu hiện bởi mức độ sẵn có của sản phẩm xanh (Gleim Mark R. và cộng sự,
2013). Khi sản phẩm xanh được trưng bày ở những nơi người tiêu dùng thường
qua lại, người tiêu dùng vốn có ý định tiêu dùng xanh sẽ có khả năng thực hiện
hành vi tiêu dùng thực tế. Lý do là vì các sản phẩm xanh được ―đập vào mắt‖
người tiêu dùng sẽ kích hoạt trí nhớ về tình huống tiêu dùng đã định hình. Nói
một cách khác, sự sẵn có của sản phẩm xanh sẽ có tác dụng gợi nhớ người tiêu
dùng thực hiện ý định của mình(xem Ajzen Icek và Martin Fishbein, 2005).Về
thực nghiệm, nghiên cứu của Bonini và Oppenheim (2008) cho thấy hạn chế
nguồn cung sản phẩm xanh có thể ngăn cản hành vi tiêu dùng xanh. Tương tự,
nghiên cứu của Seyfang (2006) cho thấy mạng lưới thực phẩm xanh ở các địa
phương là yếu tố cần thiết để người tiêu dùng thực hiện ý định thực sự mua thực
phẩm sạch. Nghiên cứu của Athanasios Krystallis và George Chryssohoidis ở Hy
Lạp về tiêu dùng thực phẩm hữu cơ cũng đã chỉ ra rằng sự sẵn có của thực phẩm
hữu cơ cùng với các loại mặt hàng có trên thị trường cũng là những yếu tố có thể
ảnh hưởng tới hành vi mua hàng của khách hàng. Theo kết quả nghiên cứu: Ý
định, hành vi và các yếu tố ảnh hưởng tới tiêu dùng thực phẩm xanh của người
tiêu dùng Trung Quốc do nhóm nghiên cứu Qinghua Zhu, Ying Li, Yong
Geng,YuQi thực hiện năm 2012, sự thuận tiện khi mua sắm ảnh hưởng tích cực
52
đến mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh với mức độ ảnh hưởng đo
bằng hệ số Beta = 0.09.
Vì vậy NCS đưa ra giả thuyết đầu tiên:
H1: Mức độ không sẵn có của sản phẩm xanh có tác động tiêu cực tới mối
quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh: khi sản phẩm xanh không sẵn
có, mối quan hệ thuận chiều giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh có thể yếu
đi hoặc thậm chí bị triệt tiêu.
Trong nghiên cứu tiêu dùng xanh, khả năng kiểm soát mục tiêu có thể được thể
hiện bởi nhận thức về hiệu quả của hành vi tiêu dùng xanh (Gleim Mark R. và
cộng sự, 2013).Tương tự như lập luận ở trên, NCS cho rằng khi người tiêu dùng
có nhận thức rằng hành vi tiêu dùng xanh của mình có hiệu quả đối với bản thân
họ và xã hội, họ sẽ thực hiện hành vi tiêu dùng xanh nếu đã có ý định như vậy
được định hình. Khi người tiêu dùng có thể đảm bảo sản phẩm xanh được mua và
sử dụng là sản phẩm xanh đích thực, đạt được các mục tiêu tiêu dùng của bản
thân, ý định tiêu dùng xanh vốn đã được hình thành sẽ được kích thích để hiện
thực hóa. Nếu người tiêu dùng hiện thực hóa ý định thành hành vi tiêu dùng
xanh, họ sẽ đạt được mục tiêu của mình. Về thực nghiệm, nghiên cứu của Berger
và Corbin (1992) và Lee và Holden (1999) đều chỉ ra rằng khi khách hàng cảm
nhận được hành tiêu tiêu dùng xanh của mình có thể đạt giúp được mục tiêu, mối
quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh sẽ mạnh hơn. Vì vậy, NCS đưa ra
giả thuyết H2:
H2: Nhận thức về hiệu quả hành vi tiêu dùng xanh tác động tích cực đến mối
quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh: khi người tiêu dùng nhận
thức hành vi tiêu dùng xanh của họ càng có hiệu quả, mối quan hệ thuận
chiều giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh càng mạnh hơn và ngược lại.
Nghiên cứu của Hines et al. (1986) khẳng định: Bên cạnh chương trình khuyến
mãi của chính phủ và sự sẵn có của hàng hóa tác động tới việc chuyển hóa ý định
thành hành vi tiêu dùng. Lockie và các đồng nghiệp (2002) trong một nghiên cứu
về ăn uống ―xanh‖ ở Úc đã tìm ra ba yếu tố giới hạn tiêu dùng xanh đó là giá cả,
sự sẵn có của sản phẩm và sự thuận tiện khi mua. NCS cho rằng một trong những
nguyên nhân cản trở hành vi tiêu dùng xanh là do yếu tố giá cả của sản phẩm
53
xanh đắt hơn. Vì vậy nếu doanh nghiệp có đưa ra một số chương trình tác động
đến độ nhạy cảm về giá của khách hàng ví dụ như: chương trình giảm giá,
chương trình khuyến mãi, khuyến mãi thì người tiêu dùng sẽ có nhiều khả năng
thực hiện hành vi tiêu dùng hơn. Chính vì vậy NCS đưa ra giả thuyết thứ 3:
H3: Mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh chịu tác động của sự
nhạy cảm về giá: khi hàng hóa được giảm giá, hoặc có khuyến mãi, khuyến
mại mối quan hệ thuận chiều giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh càng
mạnh hơn và ngược lại.
Theo Ajzen và Fishbein (2005), các yếu tố quan trọng có thể ảnh hưởng tới ý
định trong lý thuyết hành vi hợp lý bao gồm thái độ, chuẩn mực chủ quan, và khả
năng kiểm soát được nhận thức đã được cụ thể hóa trong các nghiên cứu về tiêu
dùng xanh (Wu Shwu-Ing và Jia-Yi Chen, 2014). Ngoài ra, một vài nghiên cứu
đã phân biệt giữa thái độ với môi trường nói chung và thái độ với tiêu dùng xanh
(Tan Booi-Chen, 2011). Cũng theo Ajzen và Fishbein, Yếu tố kiểm soát nhận
thức vừa được xem là nhân tố tiền đề của ý định tiêu dùng vừa là nhân tố có thể
ảnh hưởng/điều tiết mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh.
Để tăng cường mức độ tin cậy của kết quả kiểm định, chúng tôi bổ sung một số
biến kiểm soát có thể ảnh hưởng đến ý định và hành vi tiêu dùng xanh như giới
tính, thu nhập, (Gleim Mark R. và cộng sự, 2013).
Mô hình kiểm định được tóm tắt như trong Hình 2.2 dưới đây.
54
Hình 2.2: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Nguồn: Tác giả xây dựng dựa vào mô hình hành vi có kế hoạch của Ajzen&cộng
sự (2005)
H2
22
1
H1
1
Thái độ với môi
trường
Thái độ với
hành vi tiêu
dùng xanh
Chuẩn mực chủ
quan về tiêu
dùng xanh
Nhận thức hiệu
quả hành vi
tiêu dùng
Ý định tiêu
dùng xanh
Hành vi tiêu
dùng xanh
Sự sẵn có của
sản phẩm
xanh
Độ nhạy cảm
về giá
H3
22
1
55
CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Tiến trình nghiên cứu
Luận án đƣợc tiến hành theo trình tự các bƣớc nhƣ sau
Sơ đồ 2.1 Tiến trình nghiên cứu
Nghiên cứu tài liệu, phát triển
vấn đề nghiên cứu
Xác định mục tiêu nghiên cứu,
phạm vi nghiên cứu, mô hình
và phương pháp nghiên cứu
Bàn luận và kiến nghị
Xác định mẫu nghiên cứu, thang
đo
Triển khai điều tra
Phân tích thông tin thu thập
được
Điều tra sơ bộ (pilot test)
Lập kế hoạch điều tra và xây
dựng bảng hỏi dựa vào các
nghiên cứu trước
Bảng tóm tắt các nghiên cứu liên
quan, và chủ đề nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu, phạm vi
nghiên cứu, mô hình và phương
pháp nghiên cứu
Thang đo ý định và hành vi tiêu
dùng xanh, thang đo các nhân tố
tác động
Bản kế hoạch điều tra và Dự
thảo bảng hỏi
Bảng hỏi hoàn chỉnh – PHỤ
LỤC 3)
Bảng hỏi đã được trả lời bởi đối
tượng được điều tra
Các phân tích vĩ mô và kết quả
điều tra
Các kiến nghị và đề xuất
56
2.2 Phƣơng pháp thu thập dữ liệu
Luận án sử dụng 2 nguồn dữ liệu: nguồn dữ liệu thứ cấp (dữ liệu đã được thu
thập trước đó và đã được xuất bản) và nguồn dữ liệu sơ cấp (dữ liệu do chính
nghiên cứu sinh thu thập được)
2.2.1 Dữ liệu thứ cấp:
Dữ liệu thứ cấp được thu thập chủ yếu ở các nguồn sau: Google scholar, Báo cáo
kết quả nghiên cứu (KQNC): Cơ sở dữ liệu thư mục lớn nhất Việt Nam vể các
báo cáo kết quả của các đề tài nghiên cứu KH&CN các cấp đăng ký và giao nộp
tại Cục Thông tin KH&CN Quốc gia, Tài liệu khoa học và công nghệ Việt Nam
(STD) là cơ sở dữ liệu toàn văn về tài liệu KH&CN Việt Nam, do Cục Thông tin
KH&CN Quốc gia xây dựng và cập nhật từ năm 1987, Science@Direct: Bô sưu
tâp toan văn bao trum cac tai liêu khoa hoc nong côt vơi nhiêu tap chi co chi sô
ảnh hưởng cao , ISI Web of Knowledge: Các công trình khoa học trên cơ sở dư
liêu trích dẫn khoa học từ hơn 12.000 tên tap chí hang đâu thê giơi đươc câp nhât
hàng tuần , Proquest Central : Bô cơ sơ dư liêu lơn bao gôm 25 cơ sơ dư liêu đa
ngành, xử lý trên 19.000 tạp chí, trong đó hơn 13.000 tạp chí toàn văn.
2.2.2 Dữ liệu sơ cấp:
Nguồn dữ liệu sơ cấp được thu thập từ điều tra khảo sát nhằm tìm ra các nhân
tố có thể tác động tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh của
người tiêu dùng Việt Nam. Trong đó cách thức thu thập dữ liệu sơ cấp được
tiến hành như sau:
- 600 Phiếu điều tra được phát cho 2 nhóm sinh viên ở Hà Nội và Thành
phố HCM. Mỗi nhóm sinh viên gồm 10 em đã được hướng dẫn kỹ về
phiếu điều tra và cách thức điều tra.
- Các sinh viên sẽ trực tiếp phát và thu phiếu điều tra ở các điểm bán hàng
bất kỳ mà người điều tra có thể tiếp cận được là một số siêu thị và chợ cóc
tại HN và HCM
- Kích thước mẫu:
Do không thể điều tra toàn bộ người tiêu dùng Việt Nam, luận án tập trung vào
số lượng khoảng 400 người tiêu dùng. Kích thước mẫu này được tính theo công
thức tính mẫu được đề xuất bởi Yamane (1973) như sau:
57
Trong đó, n là kích thước mẫu, N là tổng số điều tra, e2 là sai số cho phép. Theo
Điều tra biến động dân số - kế hoạch hóa gia đình 1/4/2011 do Tổng cục Thống
kê Việt Nam thực hiện, Tính đến 1/4/2011, dân số Hà Nội và TP. HCM là
14.525.800 người.
Với N = 14.525.800 người tiêu
dùng, e = 5% (95 phần trăm chính xác).
Kích thước mẫu để điều tra là 400 người tiêu dùng. Số lượng phiếu điều tra dự
kiến phát ra là 500, số lượng phiếu điều tra dự kiến thu về là 400.
- Cách chọn mẫu điều tra
Do nghiên cứu này không tập trung tìm kiếm các nhân tố ảnh hưởng tới hành vi
tiêu dùng xanh để xác định xem người tiêu dùng xanh là ai mà tập trung vào
nghiên cứu các nhân tố tác động tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng
xanh thực tế cho nên tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, các sinh viên ở hai
trường đại học uy tín ở Việt Nam thực hiện lựa chọn ngẫu nhiên một siêu thị. Tại
mỗi siêu thị, người tiêu dùng sẽ được lựa chọn ngẫu nhiên và mời tham gia trả lời
cho phiếu điều tra.
Nghiên cứu này nghiên cứu hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt
Nam. Đây là những người đã có khả năng thanh toán, mua hàng nhằm mục đích
tiêu dùng cá nhân hoặc để biếu, tặng nên người được điều tra có độ tuổi từ thiếu
niên trở lên.
- Thang đo và lịch sử thang đo
Các thước đo cho nghiên cứu này được điều chỉnh từ thước đo tương tự của các
nghiên cứu trước. Ví dụ, với thước đo nhạy cảm với giá sản phẩm xanh, sự sẵn
N
n =
1 + N e2
14.525.800
n = = 400
1 + 14.525.800 *(0.05)2
58
có của sản phẩm xanh, cảm nhận về hiệu quả của tiêu dùng xanh được điều chỉnh
từ Gleim và cộng sự (2013), H-h, Zhao et al (2014), thái độ với môi trường và
thái độ với tiêu dùng xanh từ Tan (2011), chuẩn mực chủ quan, ý định và hành vi
tiêu dùng xanh từ nhóm tác giả Quanghua Zhu, Yinh Li, Yong Geng, YuQui
(2011), Nguyễn Vũ Hùng và cộng sự (2015).
Sau khi tham khảo thang đo và bảng hỏi của các nghiên cứu trước đó, phiếu điều
tra cho nghiên cứu này được hình thành gồm các câu hỏi như sau:
+ Một câu hỏi khám phá về hiểu biết của người tiêu dùng về tiêu dùng xanh, từ
đó đưa ra một định nghĩa ngắn gọn có minh họa để người tiêu dùng nắm được
hành vi tiêu dùng xanh là gì. Bảng hỏi có minh họa ba sản phẩm phổ biến và dễ
gây được chú ý đối với người tiêu dùng Việt Nam để người tiêu dùng hình dung
thêm về tiêu dùng xanh. Thực tế là người tiêu dùng Việt Nam dù ở một mức độ
nào đó đều có những hành vi tiêu dùng xanh mà có thể ngay bản thân họ cũng
không ý thức được.
+ Ba mươi mốt (31) câu hỏi thang likert từ không đồng ý tới rất đồng ý được xây
dựng (4 câu hỏi về ý định tiêu dùng xanh, 5 câu hỏi về hành vi tiêu dùng xanh, 2
câu hỏi liên quan tới thái độ đối với tiêu dùng xanh, 3 câu hỏi về chuẩn mực chủ
quan về tiêu dùng xanh, 5 câu hỏi đo độ quan tâm của người tiêu dùng với môi
trường, 4 câu hỏi đo về nhận thức hiệu quả, 3 câu hỏi về độ nhạy cảm về giá, 3
câu hỏi về tính sẵn có của sản phẩm và 2 câu hỏi tình huống liên quan đến tiêu
dùng xanh như thói quen mua hàng ở chợ cóc, tình huống thu nhập gia đình giảm
và tác động của người đi cùng đến quyết định tiêu dùng xanh của người tiêu dùng
Việt Nam.
+ Sáu (6) câu hỏi điều tra về thông tin người được điều tra.
59
Chi tiết thang đo đƣợc mô tả chi tiết nhƣ trong bảng sau:
Bảng 2.1 Bảng mô tả thang đo
Thang đo Câu hỏi Nguồn
Ý định tiêu
dùng xanh
Tôi dự kiến sẽ mua sản phẩm xanh
(thực phẩm sạch/sản phẩm tiết kiệm
điện) vào tháng tới
Grankvist& Biel,
2001,
Wandel&Bugge 1997
Tôi đã sẵn sàng xem xét chuyển sang
những nhãn hiệu sản phẩm khác những
nhãn hiệu tôi đang dùng vì lý do sinh
thái môi trường
Grankvist& Biel,
2001,
Wandel&Bugge 1997
Tôi sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho sản
phẩm tốt cho sức khỏe hoặc bảo vệ môi
trường
Grankvist& Biel,
2001,
Wandel&Bugge 1997
Tôi muốn mua sản phẩm xanh để giảm
thiểu ô nhiễm môi trường
Grankvist& Biel,
2001,
Wandel&Bugge 1997
Hành vi tiêu
dùng xanh
Tôi luôn mua thực phẩm có nguồn
gốc/an toàn
Grankvist& Biel,
2001,
Wandel&Bugge 1997
Tôi luôn cố gắng mua sản phẩm có dán
nhãn xanh
Grankvist& Biel,
2001,
Wandel&Bugge 1997
Tôi rất hạn chế sử dụng túi nilon để
đựng thực phẩm
Tự phát triển
Toàn bộ đồ điện gia dụng trong gia
đình tôi là sản phẩm tiết kiệm điện
Tự phát triển
Tôi giới thiệu sản phẩm xanh mà tôi sử
dụng cho người thân và bạn bè
Grankvist& Biel,
2001,
Wandel&Bugge 1997
Thái độ đối Con người đang tàn phá trầm trọng môi Hui-hui Zhao a, Qian
60
với môi
trƣờng
trường Gaob, Yao-ping
&partner, 2012
Tôi rất lo ngại về các vấn đề ô nhiễm
môi trường
Hui-hui Zhao a, Qian
Gaob, Yao-ping
&partner, 2012
Cân bằng môi trường tự nhiên rất phức
tạp và dễ mất đi
Hui-hui Zhao a, Qian
Gaob, Yao-ping
&partner, 2012
Thái độ với
tiêu dùng
xanh
Thực phẩm bẩn có hại cho sức khỏe Tự phát triển
Túi nilong đựng thực phẩm rất có hại
cho môi trường
Tự phát triển
Chuẩn mực
chủ quan về
tiêu dùng
xanh
Phần lớn hàng hóa được tôi mua online Tự phát triển
Ở cơ quan tôi tiêu dùng xanh thể hiện
đẳng cấp
Tự phát triển
Khi mua sắm hàng hóa, tôi bị ảnh
hưởng nhiều từ người đi cùng
Tanner & Kast, 2003,
Zhao và các đồng
nghiệp (2013); Zhu và
các đồng nghiệp
(2012)
Nhận thức
của ngƣời tiêu
dùng về tính
hiệu quả
Các sản phẩm tiết kiệm điện thực sự có
ý nghĩa kinh tế đối với gia đình và xã
hội
Hui-hui Zhao a, Qian
Gaob, Yao-ping
&partner, 2012
Hành vi mua sản phẩm xanh của tôi có
thể có một tác động tích cực đối với
môi trường
Hui-hui Zhao a, Qian
Gaob, Yao-ping
&partner, 2012
Sản phẩm được dánh nhãn xanh sẽ đảm
bảo 100% về mặt chất lượng
Tự phát triển
Tôi chỉ mua thực phẩm xanh khi biết rõ
nguồn gốc
Tự phát triển
Độ nhạy cảm Tôi sẽ mua sản phẩm xanh khi chúng Mark R. Gleim &
61
về giá được giảm giá partner, Journal of
retailing 89 (1, 2013)
p. 48
Tôi mua sản phẩm xanh khi chúng
được kèm khuyến mãi (tặng kèm sản
phẩm)
Tự phát triển
Tôi mua sản phẩm xanh khi chúng có
giá tương đương hoặc cao hơn sản
phẩm thông thường trong khoảng 20%
còn khi sản phẩm có giá cao hơn hẳn
tôi chọn sản phẩm thường
Mark R. Gleim &
partner, Journal of
retailing 89 (1, 2013)
p. 48
Tính không
sẵn có của sản
phẩm
Tôi thực sự không biết sản phẩm xanh
được bán ở đâu
Mark R. Gleim &
partner, Journal of
retailing 89 (1, 2013)
p. 48
Sản phẩm xanh không được bán ở
những cửa hàng nhỏ gần khu sực tôi
sinh sống
Mark R. Gleim &
partner, Journal of
retailing 89 (1, 2013)
p. 48
Không dễ dàng nhận ra sản phẩm xanh
nếu không kiểm tra kỹ càng
Mark R. Gleim &
partner, Journal of
retailing 89 (1, 2013)
p. 48
62
- Thiết kế và đánh giá phiếu điều tra
Phiếu điều tra được thiết kế cho phù hợp với các mục tiêu của luận án và
khung lý thuyết một cách ngắn gọn, rõ. Để đảm bảo tính chính xác phiếu điều
tra sẽ được thiết kế theo qui trình như sau:
1. Dựa vào mục tiêu và khung lý thuyết nghiên cứu để xác định các
thông tin cần: các nhân tố, biến số và các thước đo
2. Xác định loại câu hỏi,
3. Xác định nội dung của từng câu hỏi
4. Xác định từ ngữ sử dụng cho từng câu hỏi
5. Xác định tính logic cho các câu hỏi
6. Dự thảo phiếu điều tra (PHỤ LỤC 2)
7. Điều tra thử nghiệm và chỉnh sửa phiếu điều tra (PHỤ LỤC 4)
8. Nộp phiếu điều tra cho giảng viên hướng dẫn
9. Giảng viên hướng dẫn kiểm tra, chuẩn chỉnh lại và đồng ý cho
triển khai điều tra
Dạng câu hỏi chủ yếu là câu hỏi theo thang likert với 5 mức độ từ (1) không
đồng ý tới (5) Rất đồng ý
Bảng 2.2: Bảng mô tả thang likert
Không đồng ý Rất đồng ý
1 2 3 4 5
Rất không đồng
ý
Không đồng ý
lắm
Bình thường Đồng ý Rất đồng ý
- Điều tra thử nghiệm (pilot test)
Bảng hỏi được gửi đi cho 30 người (trong đó có 15 người thường xuyên mua
thực phẩm sạch). 30 người này được đề nghị góp ý cho bảng hỏi trên 2 khía
cạnh:
- Cách đặt câu hỏi và nội dung các câu hỏi,
63
- Các góp ý về các nhân tố có thể ảnh hưởng đến hành vi mua hàng sản
phẩm xanh của họ.
Về cơ bản những người được hỏi đều trả lời được các câu hỏi trong phiếu điều
tra. Một số câu hỏi kép hoặc khó hiểu được các đối tượng điều tra phản hồi lại.
Đặc biệt nhóm điều tra thử này có ý kiến rằng đôi khi thói quen dùng thực phẩm
tươi sống, rau tươi tại các chợ cóc có thể là một nguyên nhân cản trở hành vi mua
sản phẩm xanh. Hoặc nhiều khi họ mua sản phẩm xanh theo ảnh hưởng của đồng
nghiệp hoặc hàng xóm.
Từ thực tế điều tra này, nghiên cứu sinh bổ sung thêm một số câu hỏi liên quan
đến những ý kiến này để khám phá thêm về hành vi tiêu dùng xanh của người
tiêu dùng Việt Nam
2.3 Phƣơng pháp phân tích dữ liệu
2.3.1 Phương pháp phân tích tổng hợp so sánh:Nghiên cứu sinh tiến hành thu
thập, tổng hợp, phân tích, so sánh và đánh giá các tài liệu từ các nghiên cứu
trước, kế thừa có chọn lọc những tài liệu này để nghiên cứu về khái niệm, các
nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh, các
kinh nghiệm triển khai thành công các chính sách khuyến khích tiêu dùng xanh
của các quốc gia khác trên thế giới
2.3.2 Phương pháp phân tích thống kê, đánh giá tác động:
Các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh là
biến định tính hoặc định lượng ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định tiêu dùng
(biến độc lập) và hành vi tiêu dùng (biến phụ thuộc). Trong tương quan, những
nhân tố này là biến số thứ 3 ảnh hưởng tới tương quan của 2 biến số còn lại là ý
định và hành vi tiêu dùng xanh. Số liệu thu thập được từ điều tra sẽ được phân
tích và xử lý theo trình tự sau:
- Nhập liệu:
Phiếu điều tra được nhập bằng phần mềm nhập liệu dành cho nghiên cứu để tránh
sai lệch
- Làm sạch số liệu:
64
Số liệu được làm sạch bằng công cụ screening data qua 2 bước: nhận diện lỗi –
checking for error để xem đã có nằm trong khoảng cho phép không, sau đó sửa
lỗi trong file – finding and correcting the error in the data file
- Kiểm định độ tin cậy của thang đo
Công cụ Cronbach‘s Alpha được sử dụng để kiểm định độ tin cậy nội tại
(internal consistency reliability) – mức độ mà các câu hỏi khác nhau đo lường
cùng một biến số có thể đem lại các kết quả tương tự hay nói cách khác để chắc
chắn các câu hỏi trong bảng hỏi và đúng hơn là các câu trả lời là nhất quán.
Cách thực hiện gồm các bước:
+ Kiểm tra số lượng case,
+ Kiểm tra số lượng items
+ Kiểm tra giá trị âm trong bảng Inter-Item Correlation Matrix (tất cả giá trị phải
>0)
+ Kiểm tra giá trị Reliability statistics trong bảng Reliability statis
+ Kiểm tra corrected item – Total correlation: nếu có item (câu hỏi nào) dưới 0.7
=> item hay câu hỏi đó không liên quan nhiều đến thang đo (scale) và cần phải
loại bỏ
+ Kiểm tra Alpha sau khi loại bỏ item (hoặc câu hỏi): Alpha if item deleted
- Phân tích nhân tố (Factor Analysis)
Công cụ phân tích nhân tố (factor analysis) được sử dụng để kiểm tra và phân
loại các item (câu hỏi) vào các nhóm nhân tố khác nhau
- Thống kê mô tả
Công cụ thống kê mô tả được sử dụng để mô tả đặc điểm của mẫu:
với biến định tính (giới tính, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, lĩnh vực nghề
nghiệp), do không có ý nghĩa khi nghiên cứu giá trị trung bình, giá trị nhỏ nhất,
lớn nhất nên nghiên cứu dùng công cụ tần suất (frequencies) và phần trăm
(percent)
Với các biến định lượng (continuous) như độ tuổi và thu nhập nghiên cứu sử
dụng công cụ tính giá trị trung bình (mean), giá trị nhỏ nhất (minimum), giá trị
lớn nhất (maximum), quan tâm tới môi trường,
65
Thống kê mô tả cũng được sử dụng để phân tích thực trạng tiêu dùng xanh với
các biến như ý định tiêu dùng, hành vi tiêu dùng, nhận thức về tính hiệu quả, sự
sẵn có của sản phẩm,
- Phân tích tương quan
Phân tích tương quan được sử dụng để phân tích mối quan hệ giữa ý định và
hành vi tiêu dùng xanh
+ Xác định hướng của mối quan hệ (direction of relationship) bằng cách kiểm tra
xem hệ số tương quan giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh là âm hay dương.
Khi hệ số tương quan âm có nghĩa là khi ý định tăng thì hành vi giảm. Khi hệ số
tương quan dương có nghĩa là khi ý định tiêu dùng tăng thì hành vi tiêu dùng
cũng tăng.
+ Xác định độ lớn của tương quan bằng cách kiểm tra độ lớn của hệ số tương
quan Pearson (r).
r = 0: giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam
không có quan hệ tương quan, có nghĩa là ý định không ảnh hưởng tới hành vi
tiêu dùng xanh
r = -1: tuyệt đối nghịch, có nghĩa là khi ý định tăng thì hành vi giảm theo tỷ lệ
tương ứng
r = 1: tuyệt đối thuận, có nghĩa là khi ý định tăng lên 1 đơn vị thì hành vi tăng lên
1 đơn vị
-1<r<1: Theo Cohen (1988), giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh có tương
quan với các mức độ khác nhau; r = 0.1 – 0.29 tương quan không chặt, r = 0.3-
0.49 tương quan trung bình, r = 0.5 -1 tương quan chặt.
- Phân tích hồi qui tuyến tính
Nghiên cứu tham khảo khung phân tích ảnh hưởng của một nhân tố tới mối quan
hệ của 2 nhân tố khác/biến điều tiết của Reuben M. Baron & David A. Kenny, để
đánh giá tác động của các nhân tố tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu
dùng xanh.
66
Predictor
Moderator Outcome variable
Predictor x Moderator
Gọi X là ý định tiêu dùng xanh (biến độc lập)
Y là hành vi tiêu dùng xanh (biến phụ thuộc)
Z là nhân tố có thể ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa X và Y. Các nhân tố tác động
(Z) có thể tác động đến mối quan hệ giữa X và Y được đo lường bằng thống kê
tương quan (regression coefficient).
Khung phân tích được mô tả như hình dưới đây
Ý định (X)
Các nhân tố tác động Outcome variable
(Z )
Ý định (X) x Nhân tố ảnh hưởng (Z)
Khi đó mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh (tác động của ý định
đến hành vi) dưới tác động của các nhân tố được tính toán theo công thức tóm tắt
như sau:
Y = a*X + b*M + c*X*Z
Hay
Y = X*(a+c*Z) + b*Z
Như vậy tác động của ý định (X) lên hành vi tiêu dùng xanh (Y) sẽ thay đổi dưới
tác động của các nhân tố đến mối quan hệ giữa X và Y nếu ta tìm được hệ số c có
67
ý nghĩa thống kê (khác 0). Khi đó nhân tố Z (Z1, Z2, Z3…) sẽ có ảnh hưởng tới
mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh.
Nếu c > 0 => khi đó a+c1*Z tăng lên, tác động của ý định đến hành vi tiêu dùng
xanh mạnh hơn. Nhân tố Z sẽ có tác động tích cực đến mối quan hệ giữa ý định
và hành vi tiêu dùng xanh, hay nói cách khác khi đó ý định dễ biến thành hành vi
tiêu dùng xanh hơn.
Nếu c < 0 => khi đó a+c1*Z giảm đi, tác động của ý định đến hành vi tiêu dùng
xanh yếu đi. Nhân tố Z sẽ có tác động tiêu cực đến mối quan hệ giữa ý định và
hành vi tiêu dùng xanh
Tác động của các nhân tố tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh
(hay ảnh hưởng của ý định đến hành vi tiêu dùng xanh) được mô tả như hình
dưới đây :
Ảnh hưởng
của ý định (X)
tới hành vi
tiêu dùng xanh (Y)
Mức độ của nhân tố ảnh hưởng (Z)
Hình 2.1 Tác động của các nhân tố tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi
Để chạy mô hình và tránh hiện tượng đa cộng tuyến, các nhân tố đều được chạy
mean center trước khi chạy mô hình hồi qui tuyến tính
(Analyze/Regression/Liner), trong đó biến phụ thuộc là biến Y (Hành vi tiêu
dùng xanh), nhóm biến độc lập 1 là các biến Ý định hành vi (X) và các biến Z
dự kiến có ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định (X) và hành vi tiêu dùng xanh
68
(Y), nhóm biến độc lập 2 đưa vào mô hình sẽ là nhóm nhân biến ý định hành vi
(X) với biến tác động (Z). Nếu hệ số VIF đạt giá trị quanh giá trị 1.5 và hệ số sig.
của biến X*Z nào <0.05 thì chứng tỏ biến Z đó có tác động tới mối quan hệ giữa
ý định và hành vi tiêu dùng xanh. Mức độ ảnh hưởng khi đó được đo bằng hệ số
Beta đã chuẩn hóa (Stadardized coefficients).
Công cụ phân tích hồi qui tuyến tính được sử dụng để phân tích tác động của các
nhân tố tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu
dùng Việt Nam
+ Phân tích tác động của 4 nhóm nhân tố: quan tâm tới môi trường, sự sẵn có của
sản phẩm, nhận thức về tính hiệu quả và xúc tiến thương mại của doanh nghiệp
đến mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh bằng công cụ phân tích
biến độc lập và biến nhân 2 biến độc lập với nhau (Analyze/Regression/Liner)
+ So sánh tương quan giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh giữa các nhóm khác
giới tính khác nhau bằng công cụ split file. Các phép toán sẽ chạy riêng rẽ cho
các 2 giới tính để kiểm tra tương quan giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh của
2 giới tính, từ đó cho thấy mức độ ảnh hưởng của giới tính đến mối quan hệ giữa
ý định và hành vi tiêu dùng xanh.
- Phân tích tương quan từng phần:
Công cụ Partial correlation được sử dụng để khám phá mối quan hệ giữa ý định
và hành vi tiêu dùng xanh trong khi có tác động của một nhân tố thứ 3. Công cụ
này phân tích tác động của ý định đến hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu
dùng xanh trong một số tình huống đặc biệt như: thói quen mua hàng ở chợ cóc,
khi thu nhập giảm, khi có ảnh hưởng của người thứ 3 bên ngoài.
Với sự xuất hiện của một nhân tố thứ 3, hệ số tương quan giữa ý định và hành vi
tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam trong nghiên cứu này có thể tăng,
hoặc giảm. Như vậy sẽ có 3 biến: 2 biến để kiểm tra mối quan hệ giữa chúng (ý
định tiêu dùng và hành vi tiêu dùng) và 1 biến ảnh hưởng/kiểm soát mối quan hệ
này.
69
Nghiên cứu tiến hành so sánh hệ số r khi không có tác động của biến thứ 3 với r
khi có tác động của biến thứ 3:
Mức độ thay đổi của r khi có biến thứ 3 thể hiện mức độ tác động của biến thứ 3
đến mối quan hệ giữa 2 biến này, nếu r thay đổi nhiều khi có biến thứ 3 chứng tỏ
biến thứ 3 có tác động mạnh đến mối quan quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu
dùng xanh và nếu r thay đổi ít khi có biến thứ 3 chứng tỏ biến thứ 3 ít có tác động
đến mối quan hệ giữa 2 biến ý định và hành vi hay nói cách khác biến thứ 3
không có nhiều ảnh hưởng tới tác động của ý định đến hành vi tiêu dùng xanh.
+ r khi có biến thứ 3 > r khi không có biến thứ 3 chứng tỏ biến số thứ 3 làm
mạnh lên mối quan hệ giữa 2 biến (làm mạnh lên tác động của ý định đến hành vi
tiêu dùng xanh)
+ r khi có biến thứ 3 < r khi không có biến thứ 3 chứng tỏ biến số thứ 3 làm yếu
đi mối quan hệ giữa 2 biến (làm yếu đi tác động của ý định đến hành vi tiêu dùng
xanh)
Khi sử dụng phần mềm SPSS, các thang đo được mã hóa chi tiết như trong bảng
sau
Bảng 2.3: Bảng mã hóa các thang đo
STT Nhân tố Mã hóa
1 Ý định tiêu dùng xanh YD
2 Hành vi tiêu dùng xanh HV
3 Nhận thức về tính hiệu quả NTHQ
4 Độ nhạy cảm về giá ĐNCVG
5 Sự không sẵn có của sản phẩm TKSCSP
6 Giá trị trung bình của Ý định YD_center
7 Giá trị trung bình của Nhận thức hiệu quả NTHQ_center
8 Giá trị trung bình của Độ nhạy cảm về giá ĐNCVG_center
9 Giá trị trung bình của Tính không sẵn có của sản
phẩm
TKSCSP_center
70
Ngoài ra, các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu
dùng xanh là biến định tính hoặc định lượng ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý
định tiêu dùng (biến độc lập) và hành vi tiêu dùng (biến phụ thuộc). Trong tương
quan, những nhân tố này là biến số thứ 3 ảnh hưởng đến tương quan của 2 biến
số còn lại là ý định và hành vi tiêu dùng xanh. Số liệu thu thập được từ điều tra
được nhập bằng phần mềm để tránh nhầm lẫn cũng như làm sạch số liệu trước
khi phân tích:
- Nhập liệu:
Phiếu điều tra được nhập bằng phần mềm nhập liệu dành cho nghiên cứu để tránh
sai lệch
- Làm sạch số liệu:
Số liệu được làm sạch bằng công cụ screening data qua 2 bước: nhận diện lỗi –
checking for error để xem đã có nằm trong khoảng cho phép không, sau đó sửa
lỗi trong file – finding and correcting the error in the data file
71
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG TIÊU DÙNG XANH Ở VIỆT NAM VÀ CÁC
NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA Ý ĐỊNH VÀ HÀNH VI
TIÊU DÙNG XANH
3.1 Đặc điểm của thị trƣờng ngƣời tiêu dùng Việt Nam
Người tiêu dùng hay người tiêu thụ là một từ nghĩa rộng dùng để chỉ các cá nhân
hoặc hộ gia đình dùng sản phẩm hoặc dịch vụ sản xuất trong nền kinh tế. Khái
niệm người tiêu dùng được dùng trong nhiều văn cảnh khác nhau vì thế cách
dùng và tầm quan trọng của khái niệm này có thể rất đa dạng. Người tiêu dùng là
người có nhu cầu, có khả năng mua sắm các sản phẩm dịch vụ trên thị trường
phục vụ cho cuộc sống, người tiêu dùng có thể là cá nhân hoặc hộ gia đình. Như
vậy, người tiêu dùng có thể là bất cứ ai. Họ tồn tại trong xã hội và tham gia vào
nền kinh tế với vai trò là người dẫn dắt nền kinh tế. Bởi vậy, người tiêu dùng có
ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế cũng như các mặt văn hóa, chính trị, xã hội của
một đất nước. Việc tìm hiểu vai trò của người tiêu dùng là rất cần thiết bởi từ đó
giúp ta nhận thức được tầm quan trọng của người tiêu dùng đối với nền kinh tế
nói riêng và đưa ra những cách thức để củng cố vai trò của người tiêu dùng nhằm
điều chỉnh, củng cố và phát triển nền kinh tế.
- Về độ tuổi:
Ở Việt Nam, người tiêu dùng có thể được coi là trẻ khi có tới 65% dân số có độ
tuổi từ 15-64 và xấp xỉ 30% thuộc nhóm từ 0-14 tuổi. Dân chúng thay đổi hàng
hóa và dịch vụ mà họ mua qua các giai đoạn của cuộc đời họ. Họ ăn thức ăn trẻ
em ở tuổi ấu thơ, ăn hầu hết các loại thực phẩm lúc lớn lên và trưởng thành và ăn
những món ăn kiêng lúc già yếu (Philip Kotler, 2011). Những sự ưa thích trong
thực phẩm tươi sống, thực phẩm đóng gói, và các sản phẩm chăm sóc cá nhân
cũng có liên quan nhiều đến tuổi tác. Hành vi lựa chọn cửa hàng cũng thay đổi
theo từng giai đoạn của cuộc sống gia đình. Sở thích của họ về thời trang, xe máy
và giải trí cũng cũng tùy theo tuổi tác (Minh Hằng, 2004). Những người làm
marketing thường chọn các nhóm khách hàng theo chu kỳ sống và hoàn cảnh
sống của họ làm thị trường mục tiêu của mình cụ thể là nhóm khách hàng trẻ
trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay.
72
- Về hoàn cảnh kinh tế:
Việt Nam hiện có 34% dân số sống ở thành thị, đây là tỷ lệ thấp hơn nhiều so với
51% của Trung Quốc, 52% của Indonesia, 91% của Nhật Bản (Glenn B.
Maguire). Hoàn cảnh kinh tế và môi trường sống của một người sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến sự lựa chọn sản phẩm của người đó. Hoàn cảnh kinh tế của một người
bao gồm số thu nhập dành cho tiêu dùng (mức độ, tính ổn định và kết cấu thời
gian của số thu nhập đó), số tiền gởi tiết kiệm và tài sản, kể cả khả năng vay
mượn và thái độ đối với việc chi tiêu và tiết kiệm. Những người làm marketing
đối với những nhóm sản phẩm thuộc loại nhạy cảm với thu nhập (income -
sensitive goods) cần thường xuyên chú ý đến các xu hướng thay đổi của thu nhập
cá nhân, tiết kiệm và lãi suất. Nếu các chỉ số kinh tế cho thấy đang có sự suy
thoái, những người làm marketing có thể áp dụng những biện pháp như thiết kế
hoặc định vị lại, định giá lại sản phẩm của mình, giảm mức sản xuất và tồn kho,
và nhiều việc khác nữa để chúng tiếp tục đảm bảo giá trị dành cho các khách
hàng mục tiêu (Philip Kotler, 2011). Những năm sắp tới, đô thị hóa ở Việt Nam
còn tăng mạnh và các thành phố lớn vẫn là vườn ươm của tầng lớp tiêu dùng
mới. Các doanh nghiệp sẽ có thách thức là làm thế nào điều chỉnh mô hình tăng
trưởng của mình trước lực cầu đó để tham gia thị trường một cách trọn vẹn hơn
(Glenn B. Maguire). Bên cạnh đó, Việt Nam đang bước vào thời kỳ cần tận dụng
tối đa lợi ích của cơ cấu dân số vàng, đồng thời cũng đang trải qua thời kỳ thay
đổi nhân khẩu học một cách rõ rệt: giảm mức sinh và mức chết; di cư diện rộng
với số lượng lớn dẫn tới đô thị hóa với tốc độ chóng mặt; và mất cân bằng giới
tính khi sinh. Những yếu tố này đang ngày càng ảnh hưởng tới việc xây dựng và
thực hiện các chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở cả cấp quốc
gia và địa phương (Th.S Lương Quang Đảng).
- Về nghề nghiệp:
Từ năm 2009 đến nay, bước vào giai đoạn đổi mới, thực hiện chủ trương công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra nhiều việc làm và nhiều cơ hội mới cho sự
phát triển. Nền kinh tế Việt Nam sẽ có sự chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp
là chủ yếu sang nền kinh tế công nghiệp và dịch vụ (theo báo cáo ―Xu hướng
73
việc làm VN 2010‖). Song song với nó sẽ là việc cơ cấu nghề nghiệp của người
tiêu dùng cũng thay đổi và cách thức tiêu dùng của con người còn chịu sự chi
phối rất lớn bởi nghề nghiệp của họ. Nghề nghiệp khách hàng phản ánh về tình
hình kinh tế của họ và ảnh hưởng tới sự lựa chọn cửa hàng của khách hàng. Ví
dụ, khách hàng với công việc có thu nhập cao, phong cách cuộc sống bận rộn,
thường có xu hướng mua hàng hóa và dịch vụ từ các cửa hàng tiện lợi do tính
năng "thuận tiện" của nó. Trong khi đó, nông dân, những người có thu nhập thấp
hơn nhưng nhiều hơn thời gian miễn phí, có thể thích mua những thực phẩm hoặc
sản phẩm cần thiết trong các thị trường truyền thống vì họ có thể mặc cả với các
nhà bán lẻ (Minh Hằng, 2004). Doanh nghiệp cần cố gắng xác định những nhóm
nghề nghiệp có quan tâm trên mức trung bình đến các sản phẩm và dịch vụ của
mình. Doanh nghiệp có thể chuyên môn hóa sản phẩm của mình cho những
nhóm nghề nghiệp nhất định. Chẳng hạn như các công ty phần mềm máy tính sẽ
thiết kế phần mềm máy tính khác nhau cho những người quản lí nhãn hiệu, kỹ sư,
luật sư và bác sĩ…
- Về văn hóa:
Văn hóa là một yếu tố quan trọng và cơ bản nhất quyết định ý muốn và hành vi
của một người nói chung và hành vi tiêu dùng nói riêng. Phần lớn cách thức ứng
xử của con người đều mang tính học hỏi và hiểu biết. Đứa trẻ lớn lên trong xã hội
thì học được những giá trị, nhận thức, sở thích và cách ứng xử cơ bản thông qua
gia đình và những định chế quan trọng khác. Mỗi nền văn hóa chứa đựng những
nhóm nhỏ hơn hay là các văn hóa đặc thù (subcultures), là những nhóm văn hóa
tạo nên những nét đặc trưng riêng biệt và mức độ hòa nhập với xã hội cho các
thành viên của nó. Các nhóm văn hóa đặc thù bao gồm các dân tộc, chủng tộc,
tôn giáo và tín ngưỡng, các vùng địa lý. Các dân tộc (nationality groups), như
dân tộc Việt Nam bao gồm người Việt nam trong nước hay cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài ít nhiều đều thể hiện những thị hiếu cũng như thiên hướng dân
tộc đặc thù. Các nhóm chủng tộc (racical groups) như người da đen và người da
màu, đều có những phong cách và quan điểm tiêu dùng khác nhau. Các nhóm tôn
giáo (religious groups) như Công giáo, Phật giáo đều tượng trưng cho những
nhóm văn hóa đặc thù và đều có những điều ưa chuộng và cấm kỵ riêng biệt của
74
họ. Những vùng địa lý (geographical areas) như các vùng phía Bắc và các vùng
phía Nam đều có những nét văn hóa đặc thù và phong cách sống tiêu biểu đặc
trưng của mỗi vùng đó (Philip Kotler, 2011, Quản trị Marketing). Người Việt
Nam khi mua hàng bao giờ cũng bị chi phối bởi các yếu tố văn hóa mang bản sắc
dân tộc tác động đến các giá trị lựa chọn. Người làm marketing cần quan tâm đến
các yếu tố này khi thiết kế chiến lược marketing hay các thông điệp quảng cáo,
màu sắc và kiểu dáng sản phẩm, thái độ của nhân viên bán hàng... Ngày nay,
cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam được triển khai thật
sự là bước đột phá, và nếu những mục tiêu của cuộc vận động đạt tới, chúng ta
hoàn toàn có thể hướng hành vi tiêu dùng của người Việt Nam tới sự lành mạnh.
Để có sự lành mạnh ấy, cần hết sức quan tâm tới vai trò của văn hóa vì văn hóa
có thể biến nhu cầu tự nhiên của người tiêu dùng thành các mong muốn; ấn định
giá trị, sự cảm thụ, sự ưa thích của mỗi người tiêu dùng; ấn định cách cư xử của
người tiêu dùng để được xã hội chấp nhận,... Ngoài ra thì chúng ta còn cần nhìn
nhận tiêu dùng như một hành vi đạo đức. Khi đạo đức trở thành yếu tố cấu thành
hành vi người tiêu dùng sẽ đem tới lòng tự trọng, và trạng thái xấu hổ sẽ xuất
hiện khi sự tiêu dùng xa xỉ của người này có thể làm tổn thương người khác, khi
ấy văn hóa tiêu dùng sẽ trở thành một giá trị của sự sinh tồn (Nguyễn Hòa, 2012).
Nghiên cứu của Lê Nguyễn Hậu và các đồng nghiệp năm 2011 đã chỉ ra rằng
cảm nhận vê giá và tính vị chủng có tác động tích cực và trực tiếp, còn cảm nhận
vê chất lượng có tác động gián tiếp lên mức độ sẵn lòng mua hàng nội của người
tiêu dùng. Nhà nước, các nhà hoạch định cùng các nhà quản trị cần phải quan
tâm hơn nữa tính vị chủng của người tiêu dùng. Ở góc độ quốc gia, nhà nước cần
phải có những chính sách tập trung vào việc tôn vinh các giá trị của dân tộc, kích
thích tinh thần tự tôn và tự hào dân tộc, tôn vinh thương hiệu Việt như các
chương trình ―Người Việt dùng hàng Việt‖, ―Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng
Việt Nam‖… đã và đang được thực hiện. Cũng theo kết quả nghiên cứu của Lê
Nguyễn Hậu và các đồng nghiệp, người Việt Nam vốn có lòng yêu nước do đó
các chương trình mà nhà nước đưa ra phải cho người dân thấy được rằng biểu
hiện của lòng yêu nước chính là việc họ ưu tiên dùng hàng Việt. Ở góc độ doanh
nghiệp, việc quan trọng là làm sao để người tiêu dùng thấy được rằng chất lượng
75
sản phẩm của người Việt là không hề thua kém hàng nhập ngoại. Các nhà quản
trị cần tập trung hơn vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm đi đôi với việc
truyền thông một cách có hiệu quả đến người tiêu dùng.
- Về yếu tố xã hội:
Bên cạnh những yếu tố trên, yếu tố xã hội là một yếu tố quan trọng và đóng một
vai trò to lớn ảnh hưởng tới hành vi người tiêu dùng ở Việt Nam. Về cơ bản, tất
cả các xã hội loài người đều có sự phân tầng xã hội. Việc phân tầng xã hội có thể
mang hình thức một hệ thống đẳng cấp (caste system), là hệ thống mà các thành
viên trong những đẳng cấp khác nhau đều cùng gắn bó với nhau trong những vai
trò nào đó, và không hề có sự thay đổi từ đẳng cấp này sang đẳng cấp khác.
Thông thường hơn, sự phân tầng xã hội mang hình thức là những tầng lớp xã hội.
Tầng lớp xã hội (social class) là những giai tầng (division) tương đối đồng nhất
và bền vững trong một xã hội, được sắp xếp theo trật tự tôn ti, và các thành viên
trong những thứ bậc ấy đều cùng chia sẻ những giá trị, mối quan tâm và cách ứng
xử giống nhau. Tầng lớp xã hội không chỉ dựa vào một yếu tố duy nhất như thu
nhập, mà cả sự kết hợp của nghề nghiệp, thu nhập, học vấn, của cải, và những
yếu tố khác nữa. Trong cuộc đời, người ta vẫn có thể vươn lên một tầng lớp xã
hội cao hơn, hoặc tuột xuống một tầng lớp thấp hơn. Những người làm marketing
cần quan tâm nghiên cứu tầng lớp xã hội vì dân chúng thuộc một tầng lớp xã hội
có xu hướng thể hiện cách cư xử tương đối giống nhau, kể cả hành vi mua sắm.
Ví dụ, các tầng lớp xã hội có những sở thích về nhãn hiệu và sản phẩm khác nhau
trong các lãnh vực như quần áo, đồ đạc trong nhà, hoạt động giải trí và phương
tiện đi lại. Một số người nghiên cứu thị trường tập trung nỗ lực của họ vào một
tầng lớp xã hội nhất định. Chẳng hạn, những cửa hàng sang trọng ngoài phố thì
thu hút những người thuộc tầng lớp cao; còn những cửa hàng khác như là những
cửa hàng nhỏ lẻ thì chuyên phục vụ những người ở tầng lớp thấp hơn. Hành vi
của một người tiêu dùng cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nhiều nhóm người.
Các nhóm tham khảo (reference groups) là những nhóm có ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến quan điểm và cách thức ứng xử của một hay nhiều người
khác. Nhóm tham khảo ở đây có thể là bạn bè, cộng sự hay những tổ chức xã hội.
Bên cạnh nhóm tham khảo, các thành viên trong gia đình của người mua có thể
76
tạo nên một ảnh hưởng mạnh mẽ lên hành vi của người mua đó. Gia đình, bao
gồm vợ hoặc chồng và con cái của người mua, có ảnh hưởng trực tiếp hơn đến
hành vi mua sắm hàng ngày. Gia đình là tổ chức mua - tiêu dùng quan trọng bậc
nhất trong xã hội và nó đã được nghiên cứu khá rộng rãi. Những người làm
marketing cần chú ý đến vai trò và sự ảnh hưởng tương đối của vợ, chồng và con
cái đối với việc mua sắm các loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau. Một ví dụ điển
hình ở Việt Nam đó là người vợ là người chi tiêu chính đối với những mặt hàng
như thực phẩm, đồ gia dụng và quần áo trong khi đó các sản phẩm và dịch vụ
thuộc loại đắt tiền, thường là chồng và vợ cùng trao đổi và người chồng sẽ có xu
hướng đưa ra quyết định cuối cùng.
- Về yếu tố tâm lý:
Sự lựa chọn mua sắm của người tiêu dùng còn chịu ảnh hưởng của yếu tố tâm lý
và quan trọng là cá tính và nhận thức, quan điểm của mỗi người. Cá tính là
những đặc tính tâm lý nổi bật của mỗi người dẫn đến các hành vi ứng xử mang
tính ổn định và nhất quán đối với môi trường xung quanh. Mỗi người có một lối
sống riêng của mình; một nhóm người tiêu dùng có thể có các tầng lớp xã hội và
nghề nghiệp tương tự nhưng vẫn có lối sống khá khác nhau. Lối sống thể hiện
quyền lợi và ý kiến của người tiêu dùng, nó có một số tác động vào hành vi lựa
chọn của khách hàng (Minh Hằng, 2004). Có thể nêu ra một số các cá tính
thường gặp như: tính cẩn thận; tính tự tin; tính bảo thủ; tính hiếu thắng; tính năng
động... Những người cẩn thận, bảo thủ thường không đi tiên phong trong việc sử
dụng sản phẩm mới. Ngược lại, những người năng động, sáng tạo sẽ sẵn sàng
chịu mạo hiểm khi mua sản phẩm mới. Có khá nhiều dẫn chứng lý thú về những
gì có thể nảy sinh trong đầu người mua khi họ xem xét các sản phẩm nhất định.
Có người cho rằng, người tiêu dùng phản đối mua quả khô vì nó nhăn nheo và
gợi cho người ta liên tưởng đến tuổi già. Nam giới hút thuốc lá để chứng tỏ tính
cách đàn ông của họ. Phụ nữ ưa thích dầu thực vật hơn vì mỡ động vật gợi cho
họ cảm giác tội lỗi vì sát sinh. Thành công trong sự hiểu biết tính cách của khách
hàng giúp các nhà bán lẻ nắm bắt mua thái độ và hành vi của khách hàng. Tính
cách thường được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây để phân tích nhận thức
của khách hàng; vì vậy tính cách cũng là một công cụ tốt để giải thích hành vi
77
mua sắm (Minh Hằng, 2004).Về tâm lý của giới trẻ Việt Nam hiện nay cũng có
rất nhiều khác biệt so với những năm trước đây. Có lẽ do giới trẻ hiện nay được
tiếp cận tự do, thoải mái với nhiều nền văn minh và văn hóa nhưng chưa được
định hướng lối sống một cách đầy đủ rõ ràng, nên trẻ em Việt Nam có khuynh
hướng "lớn" quá nhanh, vượt ra ngoài khuôn khổ kiểm soát của cha mẹ - vốn là
một truyền thống của người Việt Nam do vậy những hành vi tiêu dùng của giới
trẻ cũng thay đổi theo, nhất là đối với những sản phẩm về công nghệ. Những tiết
lộ hết sức thú vị của chương trình ―Eye on Asia‖ về người tiêu dùng Việt Nam
cho thấy rằng những kết luật và suy nghĩ rập khuôn về đời sống, khát vọng và hệ
thống giá trị của người Việt Nam nên được kiểm tra lại. Người Việt Nam đã thay
đổi khá nhiều về tư duy so sánh cách đây 20 năm. Cách đây 20 năm, những
người nghéo chỉ mong có cái ăn cái mặc mà thôi còn bây giờ người ta sẵn sàng
hy sinh những thu nhập có được hàng ngày cho trẻ đi học hay sẵn sàng nhịn đói
và bán những thùng thóc cuối cùng của nhà mình để đổi lấy chiếc radio nghe tin
tức và ca nhạc... Như vậy, nhu cầu về sự đầy đủ của tinh thần đã vượt qua cái
đói. Có thể người Việt Nam vẫn còn nghèo về vật chất nhưng so với trước đây 20
năm, họ đã biết thưởng thức những loại hình văn hóa khá cao như âm nhạc, nghệ
thuật... Người Việt Nam đã có tri thức hơn, người Việt Nam đã có thể cùng họp
bàn, cùng đánh giá, cùng thảo luận những vấn đề khoa học cấp cao cùng với thế
giới - điều mà 20 trước chúng ta không dám nghĩ đến...
Cá tính và tâm lý người tiêu dùng Việt Nam vẫn đang thay đổi qua từng giai
đoạn. Ngày nay, một sự khác biệt lớn nữa giữa người tiêu dùng Việt Nam và
người tiêu dùng châu Á là hơn một nửa người châu Á ưa chuộng các thương hiệu
trong nước, thì tại Việt Nam thì lại có tới hơn 77% người sính ngoại. Họ ưa
chuộng các thương hiệu nước ngoài, thích xài hàng ngoại hơn hàng nội. Có thể
nói tâm lý sính ngoại đã ảnh hưởng sâu rộng đến hầu hết những người Việt Nam.
Nghiên cứu cho thấy rằng người Việt Nam tin tưởng vào sự phát triển kinh tế và
có quyết tâm làm giàu và họ sẵn sàng chi tiêu nhiều hơn so với trước đây. Thụ
hưởng những gì mình làm ra đã bắt đầu thâm nhập vào đời sống người Việt,
không như trước kia, phải "giật gấu vá vai", để dành từng chút, người Việt giờ
đây đã có suy nghĩ thoáng hơn trong tiêu dùng. Tuy nhiên bên cạnh đó, trong khi
78
những người châu Á cho rằng họ thích chung thủy với những nhãn hiệu đã sử
dụng, thì ―Eye on Asia‖ tiết lộ rằng, phong cách tiêu dùng của người Việt Nam
dễ thay đổi, họ thường chạy theo xu hướng. Điều nay cho thấy rằng người Việt
Nam hiện nay năng động hơn trước, họ yêu thích chủ nghĩa xê dịch, không thích
sự bất biến. Vì thế, để có thể biến người tiêu dùng Việt Nam trở thành khách
hàng chung thủy, đòi hỏi các công ty cũng phải thay đổi, sáng tạo liên tục để theo
kịp hay tạo những xu hướng mới (Theo Marketing Việt Nam).
Tóm lại, người tiêu dùng nói chung và người tiêu dùng Việt Nam nói riêng đều
có những đặc điểm khác nhau tùy thuộc vào nhân khẩu, văn hóa, tầng lớp xã hội
hay tâm lý của họ. Vai trò của người tiêu dùng đối với phát triển kinh tế là không
thể phủ nhận. Các nhà kinh tế thường nói: Người tiêu dùng đi đâu, nền kinh tế đi
theo đó. Hiện nay Việt Nam có 56% dân số dưới 30 tuổi với mức thu nhập ngày
càng tăng. Những người này đặc biệt nhạy cảm với xu hướng tiêu dùng hàng hiệu
và cái gọi là ―kinh nghiệm người sử dụng‖, tức họ thích khoe với nhau đã từng sử
dụng cái gì, thương hiệu gì, nó như thế nào. Sự nhận biết về thương hiệu nổi
tiếng có ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng và mong muốn trải nghiệm mua sắm
của người tiêu dùng. Đối với một số người, việc mua hàng từ những cửa hiệu nổi
tiếng hay thời thượng như là một phần trong quyết định mua sắm, dù thu nhập
của họ có cao hay không. Một ví dụ điển hình là các sản phẩm của Apple được
người Việt Nam ưa chuộng trong những năm gần đây như Iphone, Ipad,
Macbook… Apple cũng thông báo rằng doanh số của họ đã tăng gấp ba lần trong
ba tháng đầu năm 2014 ở Việt Nam. Mỗi quí, doanh số của iPhone tăng gấp hai
lần và tốc độ tăng này vẫn đang tiếp tục.
Hiện nay, gần hai phần ba GDP của Việt Nam đến từ tiêu dùng cá nhân và nhu
cầu của con người thì rất đa dạng, có nhu cầu chủ động, có nhu cầu bị động. Tuy
nhiên việc người tiêu dùng đang rất quan tâm tới nhãn hiệu thì việc họ chuyển
sang một nhãn hiệu khác dù là nhãn hiệu xanh tốt cho môi trường cũng khá khó
khăn. Doanh nghiệp cần phải nắm bắt đúng nhu cầu của khách hàng để phát triển
chiến lược thu hút, thúc đẩy nhu cầu đó thành hành vi mua hàng thực sự.
79
3.2 Thực trạng tiêu dùng xanh ở Việt Nam
Tăng trưởng xanh nhằm đạt được một nền kinh tế xanh và hướng tới phát triển
bền vững đang là xu hướng chung của nhiều quốc gia trên thế giới, kể từ sau Hội
nghị Rio+20. Việt Nam có Chiến lược tăng trưởng xanh, Kế hoạch hành động
cho tăng trưởng xanh đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành và đang được triển
khai tại các Bộ ngành và địa phương. Bên cạnh đó, cùng với việc thực hiện Chiến
lược tăng trưởng xanh, Việt Nam đang có xu hướng chuyển sang nền kinh tế
xanh. Để thực sự trở thành nền kinh tế xanh, động lực thúc đẩy là tăng trưởng
xanh, trong đó tiêu dùng xanh có vai trò hết sức quan trọng.
So với các nước trong khu vực, yêu cầu về sản phẩm xanh (sản phẩm thân thiện
với môi trường) trên thị trường Việt Nam cũng như nhận thức của người tiêu
dùng Việt Nam còn hạn chế. Các sản phẩm dán nhãn môi trường cũng như cách
nhận biết còn chưa rõ và phổ biến đối với người tiêu dùng. Các doanh nghiệp
Việt Nam vẫn còn dè dặt trong việc đầu tư, sử dụng công nghệ, phương thức
quản lý và áp dụng các hệ thống quản lý phù hợp để sản xuất các sản phẩm đáp
ứng yêu cầu về dán nhãn xanh. Mặt khác hiện nay các tiêu chí về sản phẩm xanh
còn rất hạn chế về mặt số lượng và mới chỉ có đối với một số chủng loại mặt
hàng nhất định. Tuy nhiên xu hướng toàn cầu hóa, đòi hỏi chúng ta cần phải thay
đổi. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh và mất thị
phần không chỉ trên thị trường quốc tế mà sẽ phải cạnh tranh trên chính thị
trường trong nước nếu không bắt kịp sự thay đổi để đáp ứng các yêu cầu về luật
định và yêu cầu của thị trường về sản phẩm xanh. Việt Nam sẽ cần có các hoạt
động thúc đẩy và hỗ trợ các doanh nghiệp nhanh chóng hội nhập và nâng cao ý
thức của người tiêu dùng khi lựa chọn mua sản phẩm. Đồng thời các chính sách
và qui định của nhà nước rõ ràng và cụ thể hơn nhằm tạo điều kiện để các sản
phẩm xanh có chỗ đứng và phát triển.
Đứng trước một thực trạng là tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự sụt giảm mạnh
về tài nguyên thiên nhiên và gia tăng ô nhiễm môi trường, chính phủ Việt Nam
đã ban hành một số chính sách và chương trình liên quan đến tiêu dùng xanh tại
Việt Nam.
80
Tiêu dùng xanh được chính phủ đề cập đến đầu tiên trong Chiến lược về tăng
trưởng xanh được thông qua vào tháng 9/2012. Chiến lược về tăng trưởng xanh
này xác định 3 mục tiêu cụ thể, trong đó mục tiêu thứ 3 là nâng cao đời sống của
nhân dân, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường thông qua tạo nhiều việc
làm từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ xanh, đầu tư vào vốn tự
nhiên, phát triển hạ tầng xanh. Để đạt được các mục tiêu của chiến lược, một
trong 3 nhiệm vụ quan trọng cần phải thực hiện gồm có xanh hóa lối sống và
thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Ngoài ra Việt Nam cũng đang xây dựng chương
trình phát triển sản phẩm xanh tầm nhìn đến năm 2020.
Việt Nam cũng đang triển khai một số hoạt động liên quan đến sản xuất và tiêu
dùng bền vững mà trong đó tiêu dùng xanh cũng đã bắt đầu được nhắc đến nhiều
hơn. Nhiều văn bản liên quan đã được ký kết như: Tuyên ngôn quốc tế và Kế
hoạch hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững (1999), các văn
bản pháp luật liên quan đến bảo vệ quyến lợi người tiêu dùng; Luật sử dụng năng
lượng tiết kiệm, hiệu quả; tuyên ngôn quốc tế vế Sản xuất sạch hơn vào năm
1999, Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả...... Các hoạt động sản xuất và
tiêu dùng bền vững cũng được triển khai tại Việt Nam hơn l0 năm qua. Các
chương trình liên quan đến sản phẩm xanh như Chương trình cấp Nhãn sinh thái
(Bộ TN&MT; Nhãn tiết kiệm năng lượng (Bộ Công thương); Nhãn sinh thái cho
ngành du lịch cũng được triển khai.
Bên cạnh đó, các hoạt động như: Xây dựng mô hình sản xuất bền vững trong
công nghiệp, thiết kê sản phẩm bền vững bước đẩu cũng được thực hiện, tuy
nhiên, trên thực tế, còn ở phạm vi hẹp, đa phẩn nhờ sự hỗ trợ của các dự án quốc
tế như UNEP, ƯNIDO, DANIDA, EU...
Các chương trình liên quan đến sản phẩm xanh như Chương trình cấp Nhãn sinh
thái (Bộ TN&MT; Nhãn tiết kiệm năng lượng (Bộ Công thương); Nhãn sinh thái
cho ngành du lịch cũng được triển khai.
Mạng lưới mua hàng xanh Việt Nam (VNGPN) được thành lập từ năm 2009 hiện
tại đã có trang web riêng (www.gpn.vn) là cổng thông tin giúp các doanh nghiệp
và người tiêu dùng truy cập và cập nhật thông tin về cơ sở dữ liệu sản phẩm sinh
thái, qui định về mua hàng xanh, mua sắm công xanh của các nước trong khu vực
81
nhằm hỗ trợ nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển của các tổ chức/doanh
nghiệp, giúp đỡ các tổ chức/doanh nghiệp tiếp cận với các yêu cầu ngày càng
khắt khe của khách hàng, chia sẻ kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp trong việc
làm thế nào để thỏa mãn yêu cầu của khách hàng cũng như quảng bá sản phẩm
thân thiện với môi trường, thúc đẩy phát triển sản xuất, mở rộng cơ hội giao
thương cũng như hướng các doanh nghiệp tập trung vào việc ứng dụng tiến bộ về
khoa học kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh, tạo ra các sản phẩm thân thiện với
môi trường, đồng thời nâng cao nhận thức của các tổ chức, doanh nghiệp và
người tiêu dùng trong việc lựa chọn mua các sản phẩm thân thiện với môi trường.
Để khách hàng có thể hiểu rõ hơn và thực hiện hành vi tiêu dùng xanh, việc đẩy
mạnh hoạt động kích cầu tiêu dùng xanh là hết sức quan trọng. Ở Việt Nam, từ
2010, Saigon Co.op (Liên hiệp Hợp tác xã thương mại TP.HCM) là đơn vị bán lẻ
tiên phong tham gia thực hiện chiến dịch ―Tiêu dùng xanh‖ với mong muốn đóng
góp nhiều hơn cho lợi ích cộng đồng thông qua vai trò là một doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực phân phối. Nhìn chung, dù bắt nhịp khá chậm nhưng cho đến
nay xu hướng tiêu dùng xanh cũng đang lan tỏa và nhận được sự hưởng ứng khá
tích cực từ phía người dân và các nhà sản xuất với dự án ―Tôi yêu sản phẩm xanh
và khu phố xanh‖, Saigon Co.op sẽ đồng hành cùng với các đơn vị liên quan vận
động cộng đồng thực hiện phân loại rác vô cơ nhận quà tặng sản phẩm xanh.
Theo đó, nếu người dân phân loại và chuyển giao rác vô cơ, họ sẽ có cơ hội được
nhận những sản phẩm xanh có giá trị tương ứng. Những sản phẩm xanh này cũng
được quy đổi với giá thành thấp hơn so với giá thành trên thị trường.
Chương trình 3R có nền tảng từ việc phân loại rác tại nguồn. Các thành phố đã
áp dụng thử nghiệm phân loại rác tại nguồn điển hình như thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Đà Nẵng…Tuy nhiên chương trình này chưa được áp dụng trên
phạm vi rộng rãi và chưa mang lại hiệu quả. Theo Bộ Tài nguyên & Môi trường
hai lý do chính là thiếu nguồn kinh phí và do nhận thức của người dân chưa cao.
- Tình hình tiêu dùng một số sản phẩm xanh phổ biến ở Việt Nam: thực phẩm
sạch, sản phẩm tiết kiệm điện và tình trạng sử dụng túi nilong
Trong các sản phẩm xanh, hiện tại do tình trạng ô nhiễm môi trường cũng như
thực trạng thực phẩm độc hại tràn lan trên thị trường, thực phẩm xanh/sạch đang
82
là một sản phẩm khá được quan tâm tại Việt Nam. Có một xu thế trong thương
mại thực phẩm ở nước ta đó là sự tăng lên của các mặt hàng thực phẩm chế biến
thay cho thực phẩm thô và thực phẩm tươi sống. Ngoài ra, tập quán tiêu dùng
thực phẩm cũng đã có thay đổi, từ việc hàng ngày mua sắm ở các chợ truyền
thống, người dân dần chuyển sang các cửa hàng tiện lợi cũng như các siêu thị
lớn nhỏ. Đối với kênh phân phối thực phẩm, những năm sắp tới nước ta sẽ có sự
xuất hiện của những chuỗi phân phối mới nhằm cung cấp thực phẩm sạch, kết
nối thực phẩm từ nơi trồng trọt, sản xuất đến tay người tiêu dùng ở nông thông
cũng như thành thị. Trước đây, tiêu thụ thực phẩm tại các chợ truyền thống vẫn
là kênh phân phối chính, với hệ thống vệ sinh an toàn thực phẩm ở mức đơn
giản. Tuy nhiên trong vòng 5 năm trở lại đây, sự phát triển mạnh mẽ của hệ
thống phân phối hiện đại, hệ thống vệ sinh an toàn thực phẩm tại các trung tâm
tiêu dùng lớn ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh cũng được nâng cấp, cải thiện và dần
thay thế cho mạng lưới chợ truyền thống. Những nhà bán buôn nhỏ lẻ thu mua
và cung cấp thực phẩm nếu không thay đổi về chất lượng và an toàn thực phẩm
sẽ không tồn tại được ở các hệ thống phân phối hiện đại do các siêu thị hiện nay
ngày càng đòi hỏi vệ sinh an toàn thực phẩm cao, đòi hỏi nhà cung cấp có quy
mô lớn, được quản lý chặt chẽ, quy trình trồng trọt, giết mổ đảm bảo chất
lượng…
Nhận thức về vấn đề sức khỏe tăng lên đã làm thay đổi thói quen tiêu dùng của
người Việt Nam, hướng tới các sản phẩm tốt cho sức khỏe, an toàn và thực phẩm
chức năng. Nhu cầu đối với các sản phẩm này đặc biệt cao trong vài năm vừa qua
và người ta dự đoán rằng nhu cầu này sẽ còn cao hơn nữa, đặc biệt là tầng lớp
những người có thu nhập cao hơn, người trẻ và những người Tây hóa. Nghiên
cứu của NM Thang và BM Popkin năm 2004 cho thấy rằng những năm gần đây
các hộ gia đình Việt Nam tiêu thụ các loại thực phẩm giàu chất béo và protein
hơn (NM Thang và BM Popkin, 2004). Tại thành phố Hồ Chí Minh, nhu cầu đối
với các sản phẩm VietGap tại các chuỗi siêu thị và các cửa hàng tiện dụng được
ước tính vượt quá mức cung. Các công ty bán lẻ lớn cũng đã có các bước thúc
đẩy tính bền vững và phát triển thương hiệu của họ xoay quanh các sản phẩm
thực phẩm có chất lượng cao, an toàn và bền vững. Thực phẩm biến đổi gen và
83
thực phẩm hữu cơ là hai xu thế trên toàn thế giới và cũng đang dần dần thâm
nhập vào Việt Nam. Người tiêu dùng Việt Nam chưa biết nhiều và chưa hiểu hết
về các sản phẩm biến đổi gen (GM). Họ đang dần quan tâm nhiều hơn đến vấn đề
này và họ chưa thể phân biệt được giữa sản phẩm biến đổi gen và sản phẩm
không thuộc dòng biến đổi gen. Thông tư của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn về các quy trình và thủ túc cấp và rút chứng nhận các loại thực vật biến đổi
gen được phép sử dụng như thực phẩm và thức ăn gia súc cho thấy các nỗ lực
của chính phủ trong việc thắt chặt việc tuân thủ các luật về dán nhãn trong lĩnh
vực này. Gần đây, chính phủ đã cho phép thử nghiệm giống ngô biến đổi gen quy
mô nhỏ vào năm 2014 và thực hiện trồng các loại cây biến đổi gen quy mô lớn
vào năm 2015.
Trong những năm gần đây, mức độ phổ biến của các loại thực phẩm hữu cơ cũng
đã tăng lên do cộng đồng ngày càng quan tâm nhiều tới vấn đề vệ sinh an toàn
thực phẩm. Thực phẩm hữu cơ là những loại thực phẩm được sản xuất bằng
phương thức canh tác hữu cơ. Phương thức canh tác này yêu cầu không sử dụng
phân bón hóa học, các hóa chất bảo vệ thực vật độc hại, các chất kích thích tăng
trưởng. Bên cạnh các loại thực phẩm hữu cơ đã được sản xuất trong nước như
các loại rau, gạo và trứng, nhiều loại thực phẩm khác được dán nhãn ―hữu cơ‖
như sữa, thịt và hoa quả, được nhập khẩu từ các nước khác (Theo cục xúc tiến
thương mại Việt Nam VIETTRADE). Theo các kết quả nghiên cứu, quy mô
chính xác của thị trường thực phẩm hữu cơ Việt Nam chưa được xác định, nhưng
thị trường này vẫn còn rất nhỏ. Tuy nhiên, có các dấu hiệu cho thấy thị trường
này đang có những tín hiệu tăng trưởng khả quan. Các nghiên cứu đã cho thấy
nếu nguồn cung tăng lên, rất nhiều người tiêu dùng Việt Nam sẵn sàng trả giá cao
cho các loại sản phẩm thực phẩm hữu cơ an toàn. Thêm vào đó, bên cạnh các thị
trường bán lẻ truyền thống, mua hàng qua mạng đang ngày càng trở nên phổ biến
đối với người tiêu dùng Việt Nam, dẫn tới một thay đổi trong thói quen tiêu dùng
và cũng là một cơ hội lớn cho các nhà cung cấp. Các nhà cung cấp thực phẩm có
thể xem xét cơ hội thị trường đối với các sản phẩm xanh và sạch, sản xuất thân
thiện với môi trường, chất lượng đáp ứng yêu cầu thế giới, tiêu chuẩn an toàn và
là các sản phẩm không thuộc dòng sản phẩm biến đổi gen.
84
Có lẽ thị trường bán lẻ điện máy tại Việt Nam đã, đang và tiếp tục diễn ra một
cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa những nhà bán lẻ hàng đầu. Mặc dù vậy nhưng dư
địa để ngành bán lẻ hàng điện tử tiêu dùng tăng trưởng vẫn còn khá nhiều. Theo
như dự báo, ngành bán lẻ đồ điện tử sẽ đạt mức tăng trưởng 7,3% trong năm
2016. Trong thị trường này gần đây đã xuất hiện những tầng lớp tiêu dùng mới.
Cụ thể hơn, có hai hành vi khác nhau của tầng lớp tiêu dùng mới. Một số người
khá tiết kiệm dù có nhiều tiền do những ký ức sâu đậm về hoàn cảnh khó khăn họ
đã phải trải qua. Một số khác lại có khuynh hướng tiêu dùng rất mạnh, thích xài
hàng sang như thể để bù đắp cho thời kỳ thiếu thốn, khổ sở trước đây.
Đối với các thiết bị điện tử như tivi, tủ lạnh, máy tính xách tay, điều hòa nhiệt độ,
nhu cầu vẫn rất lớn nhưng không tăng trưởng nhanh và mạnh mẽ như một số năm
về trước nữa. Các trung tâm điện máy – máy tính lớn hiện nay đã liên tục phải
mở thêm nhiều điểm bán hàng nhằm gia tăng sự hiện diện trên thị trường với quy
mô lớn: lớn về diện tích, lớn về số lượng mặt hàng, lớn về số vốn đầu tư như
Media Mart, Pico… Hiện tại có 5 tiêu chí để khách hàng chọn lựa khi chọn mua
những thiết bị điện tử: So sánh giá, dịch vụ và thương hiệu, chương trình khuyến
mãi và công nghệ (tiết kiệm điện hay không). Thứ nhất, giá cả luôn là yếu tố
quan trọng trong kinh doanh và marketing. Với các mặt hàng điện tử, điện máy
thì thường có giá trị cao từ vài triệu đến vài chục triệu đồng (phổ biến ở mức đó),
cá biệt có những mặt hàng lên tới vài trăm triệu đồng. Vì vậy, khách hàng điện
máy Việt Nam luôn có hành vi so sánh giá rất kỹ trước khi quyết định mua sản
phẩm mà mình đang có nhu cầu mua sắm. Thứ hai, khách hàng sẽ có tâm lý chờ
đợi các chương trình khuyến mại khi mua hàng. Cũng như yếu tố giá, khách hàng
cũng luôn so sánh lợi ích và giá trị của chương trình khuyến mại đối với sản
phẩm mà mình đang mua để ra quyết định mua hàng. Điều mà khách hàng cân
nhắc tiếp theo đó là yếu tố dịch vụ như: Chế độ bảo hành bảo trì, chính sách vận
chuyển miễn phí, chế độ bảo đổi trả, chế độ lắp đặt, dịch vụ bán hàng trực tuyến,
dịch vụ tư vấn bán hàng tại cửa hàng, hỗ trợ mua trả góp… Một số khách hàng
cũng khá quan tâm tới công nghệ tiết kiệm điện của một số thiết bị đặc biệt là các
thiết bị tiêu tốn nhiều điện như điều hòa, tủ lạnh, đèn chiếu sáng. Cuối cùng
khách hàng sẽ chú ý đến thương hiệu của sản phẩm, họ khả năng cao sẽ chọn
85
những sản phẩm phổ biến và đi theo xu hướng của nhiều người dùng khác, ví dụ
như nhãn hiệu Iphone của Apple hiện nay. Tóm lại, do cạnh tranh cao, nên người
tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn, có sức mạnh tiêu dùng bằng cách lựa chọn
người bán hàng tốt hơn nhằm tối ưu hóa tổng lợi ích của mình. Vì vậy, để duy trì
vị trí dẫn đầu hoặc thị phần của mình trong ngành bán lẻ điện máy, các trung tâm
điện máy phải liên tục phát triển các điểm bán lẻ mới, liên tục tung ra các chương
trình ―khuyến mại‖, ―tri ân‖, ―giá sốc‖, ―giờ vàng‖… để thu hút khách hàng.
Hầu hết khách hàng ra quyết định theo thói quen hoặc có giới hạn khi mua sắm
và do đó có rất ít hoặc không có mâu thuẫn sau khi mua sắm. Người mua sử dụng
sản phẩm mà không hề lo lắng về sự đúng đắn của quyết định mua sắm. Ngay cả
khi sự mâu thuẫn sau khi mua sắm xảy ra, thì thông thường khách hàng vẫn sử
dụng sản phẩm. Nhiều công ty cố gắng có được các thông tin liên quan đến việc
sử dụng sản phẩm thông qua các nghiên cứu, sử dụng các bảng điều tra tiêu
chuẩn hoặc các nhóm trọng điểm. Các nghiên cứu như thế có thể dẫn đến việc
phát triển sản phẩm mới, chỉ ra các phương cách sử dụng mới hoặc thị trường
mới cho các sản phẩm đang có hoặc chỉ ra các chủ đề truyền thông thích hợp.
Trong số các chất thải sinh hoạt, một trong những loại gây hại nghiêm trọng đến
môi trường đó là túi nilon. Vì tiện lợi và giá thành rẻ, thực tế cho thấy rằng túi
nilon được sử dụng trong hầu hết các hoạt động mua bán, đóng gói. Các siêu thị
lớn như BigC tiêu thụ 10 tấn/tháng, tại Đồng Xuân mỗi hộ kinh doanh sử dụng
200-300 túi/ngày. Thực trạng tại Việt Nam hiện nay đó là tại các tiệm, cửa hàng
bán lẻ dọc phố hay các siêu thị, tình trạng lạm dụng túi nilông ngày càng tăng.
Phần lớn các tiệm chuyên bán bánh mì, bánh ngọt và thức ăn nhanh mặc dù
thường dùng túi giấy để đựng bánh cho khách nhưng những túi bánh sau đó được
bọc bên ngoài bằng một túi nilông. Trong khi đó ở các siêu thị, phần lớn hàng
hóa được đóng gói bằng túi nilông. Tại các gian hàng thực phẩm và rau quả, gần
như mỗi món hàng khách mua đều được bao gói bằng một túi nilông riêng dù chỉ
là củ hành, trái ớt. Những món hàng này khi ra quầy tính tiền còn được nhân viên
thu ngân phân loại theo từng nhóm, cho chung vào một túi trước khi cẩn thận bọc
tất cả bằng một túi khác. Trong số các loại bao bì đang được sử dụng, loại túi
siêu mỏng có số lượng lưu thông nhiều hơn cả, song lại không có giá trị thu gom,
86
tái chế nên tồn tại ở hầu khắp các bãi rác và hầu như không hề phân hủy, và hầu
như chưa được quản lý ở các khâu trong suốt vòng đời từ sản xuất, lưu thông
phân phối đến thải bỏ, thu gom và xử lý. Ước tính, mỗi hộ dân ở thành thị đang
thải ra khoảng 2-5 túi nilon mỗi ngày nên Việt Nam đang thải ra môi trường 20-
60 tấn nhựa/ngày chỉ tính riêng cho túi nilon.
Với tình trạng nhiều tấn bao bì sản phẩm bị thải ra mỗi ngày. Những bao bì này
có thể bị vất đi, cũng có thể được sử dụng lại trong một số trường hợp hoặc được
tái sinh. Việc tạo nên những bao bì sử dụng tối thiểu các nguồn tài nguyên, bao
bì có thể sử dụng lại hoặc tái sinh là quan trọng vì những lý do kinh tế và là một
trách nhiệm xã hội. Nếu mỗi người có ý thức hạn chế tối đa việc dùng túi nilông
mỗi lần tiêu dùng một sản phẩm nào đó cũng đủ tạo nên sự thay đổi lớn đối với
môi trường. Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành nhiều chiến dịch nhằm tuyên
truyền nâng cao nhận thức của người dân, thu gom túi ni lông, vận động du
khách đổi bao nilông bằng túi tự phân hủy trong vòng 100 ngày đã được du
khách đồng tình hưởng ứng, sử dụng giỏ xách thân thiện với môi trường. Chiến
dịch "Nói không với túi nilông" được nhiều du khách và bà con hưởng ứng.
Chương trình "Không sử dụng túi nilông" nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của
thanh thiếu nhi trong công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
3.3 Kết quả phân tích điều tra
3.3.1 Tỷ lệ phản hồi và thông tin cơ bản của ngƣời đƣợc điều tra
- Tỷ lệ phản hồi:
468 phiếu hợp lệ đã được thu về. Tỷ lệ thu được phiếu điều tra khi các em sinh
viên phát trực tiếp và đọc cho người được điều tra trực tiếp là trả lời là 78%. Tỷ
lệ này cao hơn tỷ lệ điều tra qua email hoặc survey online.
- Thông tin cơ bản của người được điều tra
+ Về độ tuổi
Trong 468 phiếu điều tra thu về, nhóm người tiêu dùng từ độ tuổi từ 30-39 là
nhóm người có tỷ lệ phản hồi cao nhất (37,5%), sau đó đến nhóm người tiêu
dùng có độ tuổi từ 23-29 (24,1%). Nhóm người tiêu dùng độ tuổi từ 50-59 và từ
60 trở lên có tỷ lệ phản hồi thấp nhất (2,2% và 5,4%)
+ Về tình trạng hôn nhân:
87
Theo kết quả điều tra, 3 nhóm có tỷ lệ phản hồi cao nhất tập trung vào nhóm độc
thân (mới đi làm), nhóm đã lập gia đình có con nhỏ và nhóm đã lập gia đình có
con lớn.
Trong đó nhóm đã lập gia đình có con nhỏ có tỷ lệ phản hồi cao nhất đạt 39%.
+ Về trình độ học vấn:
Số người được hỏi có trình độ Đại học là 238 người chiếm tỷ lệ cao nhất 53,1%,
nhóm có tỷ lệ phản hồi cao thứ 2 có trình độ sau đại học, nhóm phản hồi chỉ tốt
nghiệp trung học phổ thông và cao đẳng chỉ chiếm chưa đến 20% trên tổng số
người được điều tra.
+ Về nghề nghiệp
Theo kết quả điều tra, người được điều tra đến từ đa dạng cách ngành nghề, phân
bố đều trong đó kỹ sư và công việc thương mại dịch vụ có tỷ lệ người phản hồi
cao nhất.
+ Về thu nhập
Nhóm có thu nhập từ 10.000.000 – 20.000.000 chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số
điều tra (167 người, chiếm 37%), tiếp theo là nhóm thu nhập thấp từ 5.000.000-
10.000.000 VNĐ. Nhóm thu nhập cao trên 30.000.000 VNĐ chiếm 12,5% tổng
số điều tra.
Như vậy mẫu điều tra trong nghiên cứu này có thể xem là khá đại diện cho người
tiêu dùng xanh tại hai thành phố lớn và có xu hướng tiêu dùng xanh với các mô
tả cơ bản như độ tuổi từ 30-39 chiếm tỷ lệ cao nhất, nhóm có con nhỏ chiếm tỷ lệ
cao, với trình độ đào tạo chủ yếu là đại học, nhóm thu nhập khá cũng chiếm một
tỷ lệ đáng kể. Điều này phản ánh đúng thực trạng sức mua sắm của người tiêu
dùng Việt Nam nằm trong nhóm tuổi trẻ đang đi làm.
Như vậy với 468 mẫu, gồm các độ tuổi từ 16 trở lên, chủ yếu là người tiêu dùng
trẻ (từ 23 đến 39 chiếm 61%) và là nữ (63%), phần lớn có trình độ đại học trở lên
(80%) và có thu nhập từ trung bình trở lên. Mẫu nghiên cứu có nhiều tương đồng
với đặc điểm người tiêu dùng các khu đô thị lớn ở Việt Nam.
3.3.2 Tỷ lệ người tiêu dùng Việt Nam đã biết về tiêu dùng xanh:
Với 468 phiếu thu về, với câu hỏi ―Anh/chị đã bao giờ nghe nói về tiêu dùng
xanh chƣa?” 298 người chọn câu trả lời ―có‖ chiếm 66,7%, 149 người chưa
88
nghe nói về tiêu dùng xanh chiếm 33,3%. Như vậy thuật ngữ ―tiêu dùng xanh‖
cũng đã tương đối phổ biến ở Việt Nam.
Nghiên cứu này không loại bỏ những người không biết đến thuật ngữ ―tiêu dùng
xanh‖ bởi lẽ, trong phiếu điều tra tiêu dùng xanh đã được giải thích và đặc biệt
được làm rõ hơn bằng 3 sản phẩm xanh minh họa rất quen thuộc với người tiêu
dùng là thực phẩm sạch, thiết bị tiết kiệm điện và túi nilon.
Bảng 3.1 Thống kê tỷ lệ người tiêu dùng biết đến khái niệm tiêu dùng xanh
Số lượng % % hợp lệ % cộng dồn
Hợp lệ
Có 298 66,5 66,7 66,7
Không 149 33,3 33,3 100,0
Tổng số 447 99,8 100,0
Số liệu
khuyết Hệ thống 1 ,2
Tổng số 448 100,0
3.2.3 Thực trạng tiêu dùng xanh tại Việt Nam theo kết quả điều tra
- Theo kết quả điều tra, Ý định và hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng đã
có những cải thiện đáng kể. Nhiều người được hỏi dự kiến sẽ mua sản phẩm xanh
vào tháng tới (mean = 3,93) hoặc sẵn sàng chuyển sang sử dụng các sản phẩm
khác hiện nay (mean = 3,99) hoặc đã sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho sản phẩm
xanh.
Kết quả này cao hơn kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu của tác giả Vũ Anh
Dũng trước đó về hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng Việt Nam. Nguyên nhân
có thể là do điều tra được tiến hành trong khoảng thời gian mà cả giới truyền
thông và người tiêu dùng đặc biệt quan tâm tới môi trường và ảnh hưởng của yếu
tố môi trường tới sức khỏe con người. Một loạt sự kiện thu hút sự chú ý đặc biệt
của người tiêu dùng gồm có:Hiện tượng hạn hán ở Đồng Bằng Sông Cửu Long,
hiện tượng xâm nhập mặn nghiêm trọng, một số nhân vật nổi tiếng mắc bệnh ung
thư khi tuổi đời còn rất trẻ: Ca sĩ/nhạc sĩ Trần Lập, ca sĩ wanbi Anh Tuấn, sự
kiện cá chết ở biển Vũng Áng, đặc biệt là tình trạng thực phẩm bẩn liên tiếp bị
89
phát hiện: Phở ướp phóc môn, bún hàn the, miến nhuộm, tôm cá dư lượng kháng
sinh, lợn bị tiêm thuốc an thần…
Căn cứ vào kết quả phân tích điểm trung bình của các câu hỏi/items của thang đo
(bằng công thức compute trong phần mềm SPSS) trong bảng 3.2: Thực trạng
hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam cơ bản được tóm tắt như
sau:
- Người tiêu dùng Việt Nam khá quan tâm tới môi trường, 444 người được
điều tra khi được hỏi những câu hỏi trong thang đo đều thể hiện mình quan
tâm tới môi trường với điểm số trung bình là 4.40
- Về nhận thức về tính hiệu quả, với điểm trung bình là 4,17 điều tra cho thấy
người tiêu dùng Việt Nam cũng có nhận thức tương đối cao về tác động của
môi trường đến cuộc sống của con người. Cụ thể trong điều tra này là tác
động xấu của thực phẩm bẩn đến sức khỏe con người, tác hại của túi nilon
đối với môi trường, tác dụng của các sản phẩm tiết kiệm điện
- Kết quả điều tra cũng cho thấy, xúc tiến của doanh nghiệp (đặc biệt là các
chính sách khuyến mãi, khuyến mại, chính sách giá) cũng có tác động nhất
định đến người tiêu dùng, tuy nhiên tác động này không phải là quá lớn
(mean =3,40)
- Với câu hỏi về tính sẵn có của sản phẩm (thực chất ở đây được hiểu là tính
sẵn có của sản phẩm theo sự cảm nhận của khách hàng. Tức là dù thực tế sản
phẩm xanh có ở những nơi gần người tiêu dùng, nhưng người tiêu dùng
không biết đến thì họ cũng có thể trả lời là sản phẩm không sẵn có). Kết quả
điều tra cho thấy người tiêu dùng đều khá là đồng tình với quan điểm là sản
phẩm xanh không sẵn có, không được bán nhiều ở những siêu thị gần nơi họ
sống và cũng không dễ nhận ra sản phẩm xanh nếu không kiểm tra kỹ.
Điểm trung bình chung cho ý kiến là sản phẩm không sẵn có là 3,61.
- Về thói quen mua sắm, nhiều người tiêu dùng đã có thói quen mua hàng
trong siêu thị (mean của mua hàng trong siêu thị bằng 2,90) tuy nhiên vẫn
còn khá nhiều người tiêu dùng còn có thói quen mua hàng ở chợ cóc (3,07)
và cũng có một số khách hàng đã bắt đầu mua hàng online.
90
- Với câu hỏi ―dù thu nhập gia đình giảm thì tôi vẫn mua sản phẩm xanh‖,
điểm số trung bình của những người đồng tình với quan điểm này là 3,47,
người tiêu dùng Việt Nam cũng đã bắt đầu có xu hướng sẵn sàng chi trả cho
sản phẩm xanh, và người Việt Nam khi mua hàng chịu ảnh hưởng khá lớn
của người đi cùng (điểm trung bình là 3,34)
Bảng 3.2: Bảng phân tích điểm trung bình chung của một số nhân tố
Số
lượn
g
Tối
thiểu
Tối đa Trung
bình
Độ lệch
tiêu
chuẩn
1. Ý định tiêu dùng xanh 444 1,00 5,00 4,05 ,770
2. Hành vi tiêu dùng xanh 430 1,17 5,00 3,41 ,861
3. Quan tâm tới môi trường 444 1,00 5,00 4,28 ,735
4. Nhận thức hiệu quả 443 1,00 5,00 4,17 ,632
5. Độ nhạy cảm về giá 447 1,00 5,00 3,40 ,874
6. Sự sẵn có của sản phẩm 443 1,33 5,00 3,61 ,763
7. Tôi chỉ mua hàng trong siêu thị 447 1 5 2,90 1,019
8. Tôi thường mua hàng ở các chợ
cóc và các cửa hàng bán lẻ vì chúng
tiện và rẻ
445 1 5 3,07 1,205
9. Phần lớn hàng hóa được tôi mua
online 446 1 5 2,30 1,147
10. Dù thu nhập gia đình có giảm thì
tôi vẫn cố gắng tiêu dùng sản phẩm
xanh
444 1 5 3,47 1,097
11. Khi mua sắm hàng hóa, tôi bị
ảnh hưởng nhiều từ những người đi
cùng
440 1 5 3,34 1,100
Valid N (listwise) 408
91
3.3.3 Đánh giá độ tin cậy và xác thực thang đo
Để đánh giá độ tin cậy và xác thực của thước đo, phân tích nhân tố khám phá
(EFA) và hệ số tin cậy Cronbach α được thực hiện. Do nghiên cứu này tập trung
nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu
dùng xanh, bản chất là xem xét sự thay đổi tác động của ý định đến hành vi tiêu
dùng xanh bằng cách xem xét tương quan của biến nhân ý định*nhân tố tác động
với biến phụ thuộc là hành vi tiêu dùng xanh cho nên dù các thang đo đã tin cậy
để sử dụng nhưng nghiên cứu vẫn cần phân tích lại các nhân tố động lập để tránh
tối đa hiện tượng đa cộng tuyến. Các nhân tố độc lập và phụ thuộc được tách
riêng để thực hiện đánh giá.
Trước hết, các chỉ báo đo lường thái độ với môi trường, thái độ với tiêu dùng
xanh, mức độ nhạy cảm về giá với sản phẩm xanh, tính không sẵn có của sản
phẩm xanh, nhận thức về hiệu quả tiêu dùng xanh và chuẩn mực chủ quan về tiêu
dùng xanh được phân tích nhân tố khám phá với phương pháp Principal
Component, phép quay Varimax.
- Thang đo Ý định và Hành vi tiêu dùng xanh
Kết quả điều tra cho thấy, hệ số Cronbach‘s Alpha của Ý định tiêu dùng xanh là
0,741, hơn thế nữa kiểm tra thêm về mức độ tương thích của thang đo (corrected
item – Total correlation), không có hệ số nào dưới 0.3
Với 6 câu hỏi hệ số tin cậy Cronbach‘s Alpha của Hành vi tiêu dùng xanh =
0.685, hơi thấp hơn hệ số tin cậy thông thường 0.7.
Kiểm định thêm, hệ số tin cậy trong tương quan tổng, thấy có câu hỏi 3.6 có hệ
số Corrected Item < 0.3 => sau khi xóa câu hỏi này, hệ số tin cậy Cronbach‘s
Alpha là 0.704 => thang đo là đáng tin cậy.
Chi tiết hệ số Cronbach‘s Alpha khi loại bỏ từng câu hỏi trong bảng
92
Bảng 3.3: Bảng thống kê câu hỏi trong tương quan tổng của thang đo Hành vi
tiêu dùng xanh
Scale
Variance Nếu
xóa câu hỏi
Hệ số tương
quan biến –
tổng
Hệ số Cronbach‘s
alpha nếu loại bỏ
câu hỏi
1.1 Tôi luôn mua thực
phẩm có nguồn gốc/an
toàn
8,552 ,461 ,636
2.2 Tôi luôn cố gắng mua
sản phẩm có dán nhãn
xanh
7,813 ,516 ,615
2.3 Tôi rất hạn chế sử
dụng túi nilon để đựng
thực phẩm
8,805 ,396 ,658
2.4 Toàn bộ đồ điện gia
dụng trong gia đình tôi là
sản phẩm tiết kiệm điện
8,470 ,499 ,624
2.5 Tôi giới thiệu sản
phẩm xanh mà tôi sử dụng
cho người thân và bạn bè
9,052 ,421 ,650
2.6 Tôi mua thực phẩm
xanh dù giá của chúng cao
hơn
10,207 ,226 ,704
Như vậy thang đo Ý định tiêu dùng xanh được phân tích sẽ gồm 4 câu hỏi 1.1-
1.4; thang đo Hành vi tiêu dùng xanh được phân tích sẽ gồm 5 câu hỏi 2.1->2.5
- Thang đo Nhận thức về tính hiệu quả, sự nhạy cảm về giá và Sự sẵn có của
sản phẩm
Kết quả phân tích cho thấy Thang đo của Nhận thức về tính hiệu quả, mức độ
nhạy cảm về giá và sự không sẵn có của sản phẩm là đáng tin cậy khi có hệ số
Cronbach‘s Alpha > 0,7
93
Bảng 3.4 Kết quả kiểm định thước đo các nhân tố Nhận thức về tính hiệu quả, sự
nhạy cảm về giá và Sự sẵn có của sản phẩm
Nhân tố Chỉ báo Hệ số tải α
Nhận thức về
hiệu quả hành vi
tiêu dùng xanh
Hành vi mua sản phẩm xanh của tôi có
thể có một tác động tích cực đối với
môi trường
.729
0.706 Các sản phẩm tiết kiệm điện thực sự có
ý nghĩa kinh tế đối với gia đình và xã
hội
.714
Sản phẩm được dán nhãn xanh sẽ đảm
bảo 100% về mặt chất lượng .647
Tôi chỉ mua thực phẩm sạch khi biết rõ
nguồn gốc .638
Mức độ nhạy
cảm về giá với
sản phẩm xanh
Tôi sẽ mua sản phẩm xanh khi chúng
được giảm giá .886
0.78
Tôi mua sản phẩm xanh khi chúng được
kèm khuyến mãi (tặng kèm sản phẩm) .915
Tôi mua sản phẩm xanh khi chúng có
giá tương đương hoặc cao hơn sản
phẩm thông thường
.597
Tính không sẵn
có của sản phẩm
xanh
Tôi thực sự không biết sản phẩm xanh
được bán ở đâu .788
0.728
Sản phẩm xanh không được bán ở
những cửa hàng nhỏ gần khu sực tôi
sinh sống
.728
Không dễ dàng nhận ra sản phẩm xanh
nếu không kiểm tra kỹ càng .701
Các thang đo: Quan tâm tới môi trường, Thái độ với tiêu dùng xanh, Chuẩn mực
chủ quan về tiêu dùng xanh cũng được kiểm tra. Trong đó thang đo Quan tâm tới
môi trường có hệ số Cronbach‘s Alpha hơi thấp hơn một chút so với mức độ tin
94
cậy 0,7 => Hệ số chuẩn trong tương quan biến tổng Corrected – Total
Correlation cần được kiểm tra
Khi kiểm tra hệ số chuẩn trong tương quan tổng Corrected – Total Correlation,
câu hỏi 3.5 có hệ số chuẩn nhỏ hơn 0.3 => cần loại bỏ câu hỏi này ra khỏi thang
đo, khi đó hệ số Cronch Bach‘s Alpha = 0.73
Bảng 3.5: Bảng thống kê câu hỏi trong tương quan tổng của thang đo Quan tâm
tới môi trường
Scale
Variance
Nếu xóa
câu hỏi
Hệ số
tương
quan biến
– tổng
Hệ số
Cronbach‘s
alpha nếu loại
bỏ câu hỏi
3.1 Con người đang tàn phá trầm
trọng môi trường 6,961 ,529 ,542
3.2 Tôi rất lo ngại về các vấn đề ô
nhiễm môi trường 8,234 ,575 ,565
3.3 Cân bằng môi trường tự nhiên rất
phức tạp và đáng thất vọng 6,731 ,510 ,548
3.4 Tôi đọc mọi bài viết liên quan đến
vấn đề môi trường 6,685 ,561 ,526
3.5 Tôi không làm gì được để điều
khiển sự ô nhiễm môi trường 9,200 ,055 ,731
95
Bảng 3.6 Kết quả kiểm định thước đo các nhân tố Quan tâm tới môi trường, thái
độ với môi trường và chuẩn mực chủ quan về tiêu dùng xanh
Quan tâm tới
môi trường
Con người đang tàn phá trầm trọng môi
trường .856
0.8
Tôi rất lo ngại về các vấn đề ô nhiễm
môi trường .802
Cân bằng môi trường tự nhiên rất phức
tạp và đáng thất vọng .771
Tôi đọc mọi bài viết liên quan đến vấn
đề môi trường .723
Thái độ với tiêu
dùng xanh
Thực phẩm bẩn có hại cho sức khỏe .822
0.751 Túi nilong đựng thực phẩm rất có hại cho
môi trường .758
Chuẩn mực chủ
quan về tiêu
dùng xanh
Phần lớn hàng hóa được tôi mua online .720
0.747
Ở cơ quan tôi, tiêu dùng xanh thể hiện
đẳng cấp .804
Khi mua sắm hàng hóa, tôi bị ảnh hưởng
nhiều từ những người đi cùng .722
Như vậy ba nhân tố Nhận thức về tính hiệu quả, Độ nhạy cảm của giá và Sự
không sẵn có của sản phẩm sẽ được đưa vào mô hình phân tích tác động tới mối
quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh với dữ liệu từ 3 câu hỏi/mỗi nhân
tố.
Quan tâm tới môi trường, Thái độ với tiêu dùng xanh, Chuẩn mực chủ quan về
tiêu dùng xanh được đưa vào mô hình như là các nhân tố tác động tới ý định tiêu
dùng xanh.
96
3.3.4 Phân tích mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh
Theo kết quả chạy số liệu: KMO trong bảng dưới đây đạt giá trị 0,85 > 0,6 =>
chứng tỏ data phù hợp để phân tích nhân tố, sig. = ,000 < 0,05 chứng tỏ mối quan
hệ có ý nghĩa thống kê
Bảng 3.7: Bảng phân tích KMO và Bartlett's Test
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. ,857
Bartlett's Test of
Sphericity
Approx. Chi-Square 2143,049
Df 45
Sig. ,000
Bảng 3.8: phân tích tương quan tác động của ý định đến hành vi tiêu dùng xanh
(Correlations)
Ý định Hành vi
Ý định
Tương quan Pearson 1 ,450**
Sig. (2-tailed) ,000
Số lượng 444 431
Hành vi
Tương quan Pearson ,450**
1
Sig. (2-tailed) ,000
Số lượng 431 435
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
Bảng 3.9: Bảng phân tích tương quan Spearman's rhomối quan hệ giữa ý định
(YD) và hành vi (HV) tiêu dùng xanh (Correlations)
YD HV
Spearman's rho
YD
Hệ số tương quan 1,000 ,492**
Sig. (2-tailed) . ,000
N 444 431
HV
Hệ số tương quan ,492**
1,000
Sig. (2-tailed) ,000 .
N 431 435
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
97
Mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt
Nam được đo lường bằng hệ số tương quan Pearson product –moment correlation
coefficient. Vì r khác 0 nên giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu
dùng Việt Nam có tương quan với nhau.
r = 0,45 (rho = 0,492); p < 0,0005 cho nên mối quan hệ này là mối quan hệ thuận
chiều và tương đối mạnh. Hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam
sẽ tăng lên 0,45 đơn vị khi người tiêu dùng có ý định tăng lên 1 đơn vị
Như vậy Giả thuyết 1 (H1) đã được khẳng định: Ý định có tương quan chặt với
hành vi tiêu dùng xanh, ý định tiêu dùng xanh trong nghiên cứu này có một tác
động khá lớn tới hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam
Hệ số r của nghiên cứu này cao hơn hệ số r trong nghiên cứu về hành vi tiêu
dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam của nhóm nghiên cứu Vũ Anh Dũng
năm 2012 (0,37), hay nói cách khác ở nghiên cứu này ý định tác động mạnh mẽ
hơn đến hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam. Sở dĩ có kết quả
này là do điều tra được thực hiện vào thời điểm người tiêu dùng và truyền thông
đều đang rất quan tâm tới môi trường cũng như an toàn thực phẩm. Ở thời điểm
này, ý định dễ dàng chuyển đổi thành hành vi tiêu dùng xanh hơn.
3.3.5 Kiểm định tác động của các nhân tố tới mối quan hệ giữa ý định và
hành vi tiêu dùng xanh
Sau khi phân tích nhân tố ta có 4 nhóm nhân tố độc lập gồm:
- Ý định tiêu dùng xanh (YD)
- Nhận thức về tính hiệu quả (NTHQ)
- Độ nhạy của giá (ĐNCG)
- Tính sẵn có của sản phẩm (TSCSP)
Để kiểm định các giả thuyết trong mô hình nghiên cứu, giá trị các chỉ báo của
từng nhân tố được cộng trung bình để tạo ra biến đại diện cho nhân tố đó. Đặc
biệt, để kiểm định giả thuyết về quan hệ điều tiết, các biến độc lập trước khi nhân
được chuyển đổi theo giá trị trung bình để giảm quan hệ tương quan không bản
chất giữa biến nhân và các biến phụ thuộc tạo ra nó (Cohen Jacob và cộng sự,
98
2003). Các biến này được đưa vào công thức tính mean center bằng công cụ tính
toán biến số (compute variables) trong transform của SPSS, trong đó
YD_center = YD – giá trị trung bình (của ý định)
QTMT_center = QTMT – giá trị trung bình (của Quan tâm môi trường)
NTHQ_center = NTHQ– giá trị trung bình (của Nhận thức hiệu quả)
ĐNCCG_center = ĐNCCG – giá trị trung bình (của Độ nhạy cảm của giá)
TKSCSP_center = TSCSP – giá trị trung bình (của Tính sẵn có sản phẩm)
Bảng 3.10 Bảng phân tích hồi qui tuyến tính các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan
hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh
Mô hình
Hệ số chưa
chuẩn hóa
Hệ số
chuẩn
hóa
T Sig.
Collinearity
Statistics
Beta
Std.
Error Beta
Toler
ance VIF
1 (Constant) 3,414 ,036 93,954 ,000
YD_center ,503 ,051 ,455 9,951 ,000 ,852 1,173
TKSCSP_center -,061 ,049 -,054 -1,238 ,216 ,927 1,079
NTHQ_center ,119 ,070 ,085 1,708 ,088 ,726 1,378
ĐNCCG_center -,066 ,043 -,067 -1,541 ,124 ,950 1,053
2 (Constant) 3,377 ,037 91,079 ,000
YDxNTHQ ,145 ,068 ,134 2,138 ,002 ,439 1,277
YDxTKSCSP -,075 ,061 -,070 1,227 ,003 ,716 1,397
YDxĐNCCG -,017 ,057 -,015 -,298 ,766 ,676 1,478
a. Dependent Variable: Hanhvitieudung
Trong phần 1 của bảng, ta thấy chỉ có biến độc lập ý định có tác động tới hành vi
tiêu dùng xanh. Với hệ số sig. <0,05 và hệ số Beta = 0,455, mối quan hệ giữa ý
định và hành vi tiêu dùng xanh trong nghiên cứu này là tương đối chặt hay nói
cách khác, ý định có một tác động khá tích cực đến hành vi tiêu dùng xanh. Khi ý
định tăng lên 1 đơn vị, hành vi tăng lên 0,45 đơn vị.
99
Trong phần 2 của bảng, khi xem xét tác động của 3 nhân tố (Nhận thức về tính
hiệu quả của sản phẩm, độ nhạy cảm của giá và sự sẵn có của sản phẩm) ta thấy
biến nhân ý định với nhận thức về tính hiệu quả và biến nhân ý định với tính
không sẵn có của sản phẩm có ý nghĩa thống kê. Hay nói cách khác biến nhận
thức về tính hiệu quả của sản phẩm và biến sự không sẵn có của sản phẩm chính
là nhân tố tác động tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh.
Với kết quả hệ số Beta = 0,134 > 0, nhân tố nhận thức về tính hiệu quả của sản
phẩm làm mạnh lên quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh. Khi người
tiêu dùng nhận thức rõ về tính hiệu quả của hành vi tiêu dùng xanh, ý định của họ
sẽ dễ dàng biến thành hành vi hơn. Giả thuyết H1 vì vậy được khẳng định
Xem xét tác động của tính không sẵn có của sản phẩm tới mối quan hệ giữa ý
định và hành vi tiêu dùng xanh ta thấy hệ số Beta âm, chứng tỏ tính không sẵn có
của sản phẩm sẽ làm yếu đi mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh.
Hay nói cách khác dù khi khách hàng có ý định mà sản phẩm không sẵn có thì
khả năng người tiêu dùng có hành vi thực tế cũng giảm đi. Giả thuyết H2 được
ủng hộ.
Tuy nhiên giả thuyết H3: Độ nhạy cảm của giá ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý
định và hành vi tiêu dùng xanh không được kiểm định trong nghiên cứu này vì hệ
số sig. của nhân tố này theo kết quả phân tích là lớn hơn 0,05
3.3.6 Ảnh hưởng của các nhân tố tiền đề của ý định tiêu dùng xanh và các
biến kiểm soát
- Ảnh hưởng của các nhân tố tới ý định tiêu dùng xanh:
Để khẳng định sự phù hợp của số liệu với mô hình nghiên cứu, kết quả hồi quy
với biến ý định tiêu dùng xanh là biến phụ thuộc được thực hiện (Bảng 4). Kết
quả cho thấy các biến như thái độ với tiêu dùng xanh, nhận thức về hiệu quả của
hành vi tiêu dùng xanh, chuẩn mực chủ quan về tiêu dùng xanh đều có tác động
thuận chiều tới ý định tiêu dùng xanh như dự đoán.
R2 của mô hình đầy đủ (M2) là 27%, lớn hơn hẳn so với mô hình chỉ có các biến
kiểm soát (M1). Kết quả này một lần nữa cho thấy sự phù hợp của mô hình giữa
thực tế và lý thuyết.
100
Bảng 3.11 Kết quả hồi quy với ý định TDX là biến phụ thuộc
Biến độc lập M1 M2
Giới tính 0.15 ***
0.08 a
Thu nhập 0.19 ***
0.18 ***
Thái độ với môi trường -0.19
Thái độ với tiêu dùng xanh 0.11
*
Chuẩn mực chủ quan về tiêu dùng xanh 0.26
***
Nhận thức về hiệu quả của hành vi tiêu dùng xanh 0.31
***
R2 0.05
0.26
Thay đổi R2
0.21
***
R2 điều chỉnh 0.05
0.25
a có ý nghĩa thống kê ở mức 90%; * mức 95%; ** mức 99%; *** mức 99,9%
- Tác động của các biến kiểm soát
Giới tính:
Nhìn vào bảng 3.12 ta thấy ý định tiêu dùng chung của nhóm nghiên cứu có giá
trị trung bình khá cao đạt 3,84, trong khi hành vi có giá trị trung bình là 3,43. Ở
nhóm nam giới, giá trị trung bình của ý định là 3,96 còn giá trị trung bình của
hành vi là 3,18
Trong khi đó, giá trị trung bình ý định của nữ giới là 4,13 và giá trị trung bình
của hành vi ở nữ giới là 3,49
Bảng 3.12: Mô tả giá trị trung bình của ý định và hành vi tiêu dùng xanh của
phân biệt theo giới tính
Giới tính Trung bình Độ lệch chuẩn Số lượng
Chung Ý định tiêu dùng xanh 3,8400 ,83815 25
Hành vi tiêu dùng xanh 3,4333 ,84784 24
Nam Ý định tiêu dùng xanh 3,9581 ,74828 155
Hành vi tiêu dùng xanh 3,1824 ,86313 148
Nữ
Ý định tiêu dùng xanh 4,1333 ,77623 257
Hành vi tiêu dùng xanh 3,4867 ,87518 256
Hành vi tiêu dùng xanh 3,5714 ,35456 7
101
Tuy nhiên so sánh tương quan giữa hai nhóm trong bảng ta thấy hệ số tương
quan giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh của nhóm nam lớn hơn hệ số tương
quan giữa ý định và hành vi tiêu dùng của nữ. Hệ số tương quan giữa ý định và
hành vi tiêu dùng xanh của Nam là 0,433 hoặc 0,466 (Spearman‘s rho) so với
0,420 hoặc 0,429 (Spearman‘s rho) của nữ. Mặc dù sự khác biệt là không lớn
nhưng điều này có nghĩa là mặc dù nhóm nữ giới có ý định và hành vi tiêu dùng
xanh cao hơn so với nam giới, tuy nhiên ở nhóm nam giới, ý định có tác động
mạnh hơn đến hành vi tiêu dùng xanh so với nhóm nữ. Hay nói cách khác, khi
nam giới có ý định mua, họ dễ có hành vi mua hơn so với nữ giới.
Bảng 3.13: Hệ số tương quan giữa ý định và hành vi tiêu dùng ở các nhóm giới
tính khác nhau
Giới tính Ý định Hành vi
Nam
Ý định tiêu dùng xanh
Tương quan Pearson 1 ,433**
Sig. (2-tailed) ,000
N 155 147
Hành vi tiêu dùng xanh
Tương quan Pearson ,433**
1
Sig. (2-tailed) ,000
N 147 148
Nữ
Ý định tiêu dùng xanh
Tương quan Pearson 1 ,420**
Sig. (2-tailed) ,000
N 257 253
Hành vi tiêu dùng xanh
Tương quan Pearson ,420**
1
Sig. (2-tailed) ,000
N 253 256
**. Hệ số tương quan có ý nghĩa thống kê tại mức 0.01 (2-tailed).
Bảng3.14: Hệ số tương quan giữa ý định và hành vi tiêu dùng ở hai nhóm giới
tính nam và nữ (Spearman's rho)
Giới tính Ý định Hành vi
Nam Spearman's Ý định Hệ số tương quan 1,000 ,465**
102
rho Sig. (2-tailed) . ,000
N 155 147
Hành vi
Hệ số tương quan ,465**
1,000
Sig. (2-tailed) ,000 .
N 147 148
Nữ Spearman's
rho
Ý định
Hệ số tương quan 1,000 ,429**
Sig. (2-tailed) . ,000
N 257 253
Hành vi
Hệ số tương quan ,429**
1,000
Sig. (2-tailed) ,000 .
N 253 256
**. Hệ số tương quan có ý nghĩa thống kê tại mức 0.01 (2-tailed).
Thu nhập
Nhìn vào phần trên của bảng, khi loại trừ tác động của tình huống thu nhập, từng
biến sẽ tương quan với nhau, cụ thể là thu nhập gia đình có tương quan rất chặt
với hành vi tiêu dùng, khi thu nhập tăng, hành vi tiêu dùng xanh sẽ tăng lên và
ngược lại.
Ở phần dưới của bảng, khi đặt vào tính huống thu nhập gia đình giảm mối quan
hệ của 2 biến còn lại (ý định và hành vi tiêu dùng) thay đổi, cụ thể là hệ số tương
quan giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh giảm đáng kể trong tình huống thu
nhập gia đình giảm (từ 0,48 khi chưa có tác động của biến thu nhập giảm xuống
còn 0,316 khi có tác động của biến thu nhập). Có nghĩa là khi thu nhập gia đình
giảm, tác động của ý định tới hành vi tiêu dùng xanh yếu đi hay nói cách khác
khi thu nhập gia đình giảm, dù người tiêu dùng có ý định, hành vi tiêu dùng chưa
chắc đã xảy ra.
103
Bảng 3.15: Tác động của thu nhập đến mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu
dùng xanh
Tƣơng quan
Biến Ý định
Hành vi tiêu
dùng xanh
Thu nhập
giảm
-none-a Ý định Correlation 1,000 ,480 ,430
Significance
(2-tailed)
,000 ,000
Df 0 424 438
Hành vi tiêu
dùng xanh
Correlation ,480 1,000 ,571
Significance
(2-tailed)
,000 ,000
Df 424 0 425
Dù thu nhập
giảm tôi vẫn cố
gắng tiêu dùng
sản phẩm xanh
Correlation ,430 ,571 1,000
Significance
(2-tailed)
,000 ,000
Df 438 425 0
Dù thu
nhập
giảm tôi
vẫn cố
gắng tiêu
dùng sản
phẩm
xanh
Ý định Correlation 1,000 ,316
Significance
(2-tailed)
,000
Df 0 423
Hành vi tiêu
dùng
Correlation ,316 1,000
Significance
(2-tailed)
,000
Df 423 0
104
CHƢƠNG 4: BÀN LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KIẾN NGHỊ
4.1 Bàn luận kết quả nghiên cứu:
4.1.1 Tổng kết kinh nghiệm quốc tế và hàm ý đối với Việt Nam
Nỗ lực của Chính phủ là rất quan trọng để thúc đẩy tiêu thụ thực phẩm xanh. Gắn
nhãn thực phẩm xanh không chỉ cung cấp thông tin từ nhà sản xuất đến người
tiêu dùng mà còn mang lại một hoạt động kinh doanh có đạo đức và bền vững
(Hartlieb & Jones, 2009). Quản lý, giám sát của chính phủ là chìa khóa để thúc
đẩy chất lượng thực phẩm và bảo vệ môi trường (Szucs, Geers, & Sossidou,
2009). Nếu không có một hệ thống đánh giá tin cậy, một người tiêu dùng có thể
không mua thực phẩm xanh ngay cả khi có ý định tiêu dùng (Tanner, 2006). Giá
trị môi trường của người tiêu dùng là cần thiết để thúc đẩy tiêu thụ thực phẩm
xanh. Động cơ về mặt môi trường ảnh hưởng tới người tiêu dùng trong việc mua
thực phẩm xanh (Tobler et al., 2011). Những người dân quan tâm đến sinh thái,
có thể làm tăng giá trị của môi trường có một động lực mạnh mẽ cho hành vi tiêu
dùng bền vững (Seyfang, 2006). Người tiêu dùng ngày càng quan tâm nhiều đến
môi trường, nhưng giáo dục nhiều hơn nữa là cần thiết để khuyến khích, tăng
cường sự nhận thức về môi trường hay giá trị về môi trường (Li et al., 2009). Với
sự tăng trưởng về nhu cầu của thực phẩm xanh và sự tăng cường nhận thức về
bảo vệ môi trường, người tiêu dùng sẽ có xu hướng tăng ý định và hành vi tiêu
dùng xanh (Zhang, 2008). Tuy nhiên, vẫn cần có một sự cải thiện của sự nhận
thức trong việc tiêu thụ thực phẩm xanh thông qua các hoạt động xây dựng, nâng
cao năng lực, sự hiểu biết và tạo ra các kênh tiếp thị thuận tiện hơn để có nhiều
hơn người tiêu dùng có thể mua thực phẩm xanh.
Vai trò ngành tiêu dùng trong chất lượng của sống của mỗi cá nhân cũng như sự
phát triển của toàn xã hội đã trở nên cực kì quan trọng để giải quyết các vấn đề
về môi trường và các nỗ lực của Chính phủ là rất quan trọng để thúc đẩy tiêu thụ
sản phẩm xanh.
Dựa vào các kết quả nghiên cứu ở trên, các chính sách và chương trình thúc đẩy
tiêu dùng xanh ở các quốc gia khác trên thế giới được tóm tắt trong bảng 2 dưới
đây:
105
Bảng 4.1: Bảng tóm tắt các chính sách và chương trình thúc đẩy tiêu dùng
xanh ở một số quốc gia trên thế giới
STT Chính sách/chương trình thúc đẩy tiêu dùng
xanh ở các quốc gia
Quốc gia áp dụng
1 Gắn nhãn sinh thái/gắn nhãn xanh Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, các nước
Châu Âu
2 Mua sắm xanh ở khu vực công Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ
và các nước Châu Âu
3 Khuyến khích sử dụng các công nghệ tiết
kiệm năng lượng
Trung Quốc, Mỹ
4 Đóng gói sản phẩm Trung Quốc
5 Cấm sử dụng túi nilon Trung Quốc
6 Tái chế bao bì Nhật Bản
7 Xây dựng mạng lưới tiêu dùng xanh Nhật Bản
8 Luật khuyến khích tiêu dùng xanh (thẻ tín
dụng xanh)
Hàn Quốc
9 Nâng cao nhận thức cộng đồng Hàn Quốc
10 Xây dựng mạng lưới tiêu dùng xanh Châu Âu
Chính phủ Việt Nam cũng có thể tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia khác
trên thế giới để tiến hành trước một số chính sách cần thiết và khả thi như:
chương trình gắn nhãn xanh, chính sách mua sắm xanh trong lĩnh vực công, qui
hoạch lại hoạt động tái chế sản phẩm.
Có một thực tế là đối với chính sách ép buộc trong hoạt động mua hàng, đối
tượng tiêu dùng là tổ chức sẽ dễ thực hiện hơn. Lý do cơ bản là đối tượng tiêu
dùng là tổ chức có số lượng không lớn bằng người tiêu dùng cuối cùng, ở một
mức độ nào đó nhà nước có thể có đủ nguồn lực để thực hiện việc quản lý và
giám sát. Hơn thế nữa đối tượng của mua sắm xanh trong lĩnh vực công là đối
tượng quản lý trực tiếp của chính phủ nên việc triển khai chính sách sẽ có tính
khả thi cao.
106
Bất kỳ một sản phẩm nào cũng có thể là sản phẩm xanh và việc nhận biết chúng
là rất cần thiết. Người tiêu dùng chỉ có thể mua được sản phẩm xanh và thực sự
yên tâm tiêu dùng chúng khi sản phẩm được gắn nhãn xanh bởi một hệ thống gắn
nhãn tin cậy. Thực trạng cho thấy, hầu hết các quốc gia có hoạt động tiêu dùng
xanh phổ biến đều làm tốt hoạt động gắn nhãn xanh.
Việt Nam hoàn toàn có thể học tập kinh nghiệm của các nước để hoạt động gắn
nhãn xanh hiệu quả hơn, đặc biệt là trong bối cảnh niềm tin của người tiêu dùng
đối với mọi sản phẩm đang ở mức thấp như ở Việt Nam. Nếu chính phủ có thể
thực hiện tốt chương trình gắn nhãn xanh cho sản phẩm thì người tiêu dùng sẽ có
nhiều căn cứ hơn để thực hiện hành vi tiêu dùng xanh thay vì chỉ quan tâm tới
môi trường hoặc có ý định tiêu dùng xanh.
Về hoạt động tái chế hiện tại Việt Nam chưa có chính sách bắt buộc phân loại rác
thải nên hoạt động tái chế hiện nay có đầu vào chủ yếu là từ hệ thống thu mua
phế liệu và đặc biệt là đội ngũ ―mót rác‖ tự phát. Việc làm này ngoài việc không
kiểm soát được nguồn thuế từ hoạt động tái chế mà còn có thể dẫn đến tình trạng
mất kiểm soát chất lượng của phế thải. Các phế thải sẽ đi từ đội ngũ nhặt rác, ra
đến các cửa hàng thu gom phế liệu nhỏ lẻ rồi đi vào các doanh nghiệp sản xuất
đồ nhựa, đồ gang thép. Những đồ nhựa này không được kiểm soát trong qui trình
tái chế có thể gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng và sản phẩm đầu
ra kém chất lượng.
4.1.2 Bàn luận các kết quả điều tra
Theo kết quả điều tra, Ý định và hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt
Nam đã có những cải thiện đáng kể. Nhiều người được hỏi dự kiến sẽ mua sản
phẩm xanh vào tháng tới (mean = 3,93) hoặc sẵn sàng chuyển sang sử dụng các
sản phẩm khác hiện nay (mean = 3,99) hoặc đã sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho
sản phẩm xanh. Tuy nhiên việc sử dụng túi nilon trong sinh hoạt dường như khá
phổ biến. Người được hỏi cũng khá quan tâm tới các vấn đề về môi trường.
Về thói quen mua sắm, nhiều người tiêu dùng đã có thói quen mua hàng trong
siêu thị (mean của câu 4.10 mua hàng trong siêu thị bằng 2,90) tuy nhiên vẫn còn
khá nhiều người tiêu dùng còn có thói quen mua hàng ở chợ cóc (3,07), điều này
có thể ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam.
107
Một điểm trung bình khá cao cho câu hỏi ―dù thu nhập gia đình giảm thì tôi vẫn
mua sản phẩm xanh‖, và người Việt Nam khi mua hành chịu ảnh hưởng khá lớn
của người đi cùng (điểm trung bình là 3,34)
Về mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt
Nam: Hệ số tương quan giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh trong nghiên cứu
này khi chưa có tác động của các nhân tố khác là 0,45 chứng tỏ ý định và hành vi
tiêu dùng xanh có mối quan hệ chặt, hay nói cách khác, ý định có một tác động
đáng kể đến hành vi tiêu dùng xanh. Đối chiếu với kết quả nghiên cứu của nhóm
tác giả Vũ Anh Dũng&Nguyễn Thu Huyền& Nguyễn Thị Ngọc Ánh (2012) về
hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam, hệ số tương quan giữa ý
định và hành vi tiêu dùng xanh tăng lên đáng kể. Kết quả này có thể là do một số
sự kiện thời sự nổi bật liên quan tới an toàn thực phẩm và tình trạng ô nhiễm môi
trường gần đây. Tuy nhiên điều này chứng tỏ rằng khả năng tiêu dùng xanh của
người tiêu dùng Việt Nam đang có dấu hiệu tăng lên. Khi người tiêu dùng có ý
định, họ sẽ dễ dàng chuyển nó thành hành vi tiêu dùng trên thực tế hơn.
Kết quả phân tích cho thấy giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh vẫn luôn tồn tại
những khoảng cách nhất định. Cụ thể, trong nghiên cứu này, có ít nhất hai yếu tố
điều kiện có thể giúp thúc đẩy mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng
xanh. Thứ nhất, tính sẵn có của sản phẩm có thể đóng vai trò như một yếu tố giúp
thúc đẩy thực hiện ý định về tiêu dùng xanh đã được hình thành ở người tiêu
dùng. Chính vì vậy, sản phẩm xanh sẵn có hơn với người tiêu dùng sẽ có tác
dụng gợi nhớ cho người tiêu dùng thực hiện ý định tiêu dùng xanh của mình. Thứ
hai, nhận thức về hiệu quả của hành vi tiêu dùng xanh đóng vai trò như khả năng
kiểm soát thực hiện hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng. Chính vì vậy,
khi khả năng này cao hơn (thông qua nhận thức về hiệu quả đạt được mục tiêu
cao hơn củangười tiêu dùng), hành vi hiện thực hóa ý định tiêu dùng xanh của họ
cũng cao hơn.
Sau khi kiểm định mô hình hồi qui tuyến tính, kết quả cho thấy nhận thức về tính
hiệu quả của sản phẩm có một tác động đến mối quan hệ giữa ý định và hành vi
tiêu dùng xanh. Có nghĩa là khi người tiêu dùng nhận thức rõ hiệu quả của hành
108
vi tiêu dùng xanh đối với cá nhân người tiêu dùng và với xã hội thì tác động của
ý định đến hành vi tiêu dùng xanh của họ sẽ tăng lên.
Giới cũng là một nhân tố có thể ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành
vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam. Theo nghiên cứu này, mặc dù
kết quả nghiên cứu không cách biệt cho 2 nhóm giới tính tuy nhiên, kết quả phân
tích cho thấy nữ giới có ý định và hành vi tiêu dùng xanh cao hơn so với nam
giới, tuy nhiên ở nhóm nam giới, ý định có tác động mạnh hơn đến hành vi tiêu
dùng xanh so với nhóm nữ. Hay nói cách khác, khi nam giới có ý định mua, họ
dễ có hành vi mua hơn so với nữ giới.
Kết quả điều tra cũng cho thấy, tình huống thu nhập gia đình giảm tác động khá
mạnh tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh. Khi thu nhập gia
đình giảm, tác động của ý định tới hành vi tiêu dùng xanh yếu đi hay nói cách
khác khi thu nhập gia đình giảm, dù người tiêu dùng có ý định, hành vi tiêu dùng
chưa chắc đã xảy ra.
4.2 Các đề xuất và kiến nghị
4.2.1 Các đề xuất và kiến nghị đối với doanh nghiệp
Việc tăng cường tiêu dùng và mua sắm xanh đi kèm với các giải pháp nâng cao
nhận thức về môi trường có thể giúp ngăn chặn tình trạng phát triển nóng, cạn
kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên việc tạo ra một xu hướng tiêu
dùng xanh tại Việt Nam sẽ cần có sự hỗ trợ từ các cơ quan quản lý của Nhà nước
và quyết tâm đổi mới của các doanh nghiệp. Bản thân người tiêu dùng ngoài việc
có nhận thức tốt về môi trường phải có những hành vi thực tế để mua những sản
phẩm xanh.
Với đà phát triển kinh tế mạnh mẽ trong hơn 10 năm qua, nhiều thói quen tiêu
dùng, nhất là ở thế hệ trẻ, đã trở thành một trong những nguyên nhân trực tiếp
hoặc gián tiếp khiến cho các nguồn tài nguyên bị khai thác và môi trường bị ô
nhiễm, gây mất cân bằng sinh thái và phát triển không bền vững. Các hoạt động
đã triển khai mới dừng ở nâng cao nhận thức cộng đồng trong sử dụng các sản
phẩm sinh thái, túi nilông sinh thái, 3R và là những hoạt động đơn lẻ, chưa kết
nối với nhau, phạm vi tác động chỉ trong khuôn khổ của một nhóm đối tượng
hưởng thụ trực tiếp, vì vậy chưa có tính phổ biến và tính bền vững.
109
Vì vậy, hành vi sử dụng xanh dù là rất nhỏ nhưng cũng nên được khuyến khích
để hoàn thiện và phát triển tiêu dùng bền vững ở Việt Nam. Ví dụ, song song với
việc mua một phương tiện tiết kiệm năng lượng, người sử dụng cần phải sử dụng
nó sao cho gây ít ảnh hưởng tới môi trường nhất chẳng hạn như hành động tắt
thiết bị điện khi không sử dụng, hành động đó vừa có lợi cho môi trường, vừa tiết
kiệm được nguồn nhiên liệu...(Nguyễn Hữu Thụ, 2014). Việc mua các sản phẩm
tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường đã phần nào thể hiện ý thức của
người tiêu dùng về tiêu dùng xanh, tuy nhiên sử dụng các sản phẩm đó như thế
nào cũng góp phần không nhỏ trong việc giảm thiểu các tác động xấu tới môi
trường.
- Tạo ra ý định tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam: Nghiên cứu cho
thấy, ý định có tác động khá mạnh đến hành vi tiêu dùng xanh vì vậy việc
đầu tiên các doanh nghiệp cần làm là tăng cường các biện pháp xúc tiến
thương mại như (quảng cáo tuyên truyền) để người tiêu dùng có được ý định
tiêu dùng xanh.
- Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, nhận thức về tính hiệu quả của sản phẩm
đối với môi trường là một nhân tố quan trọng nhất tác động tới mối quan hệ
giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh vì vậy các doanh nghiệp cần phải
hướng đến việc truyền thông để người tiêu dùng nhận biết được những lợi
ích thiết thực mà sản phẩm có thể mang lại cho người tiêu dùng, cho môi
trường sống của người tiêu dùng. Bên cạnh 3 sản phẩm mà luận án này
nghiên cứu còn có rất nhiều các sản phẩm xanh mà người tiêu dùng có thể
không nhận thức được tác hại/lợi ích của việc mua và sử dụng các sản phẩm
đó tới môi trường và sức khỏe của gia đình và bản thân. Ví dụ như sản phẩm
bột giặt, sản phẩm nước rửa chén, sản phẩm nước rửa tay, các loại đồ uống
có ga….Doanh nghiệp cần tăng cường để người tiêu dùng nhận thức rõ ràng
hơn về tác động của quá trình mua và sử dụng các sản phẩm này tới môi
trường từ đó tăng được tác động của ý định tới hành vi tiêu dùng xanh của
người tiêu dùng Việt Nam. Các doanh nghiệp sản xuất bên cạnh việc cam kết
và nghiêm túc thực hiện trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ môi trường
cũng cần quan tâm đến việc giáo dục xanh. Trên phương diện tuyên truyền,
110
việc nhấn mạnh trách nhiệm của doanh nghiệp đối với yếu tố tự nhiên và môi
trường có thể hữu ích trong việc bán các sản phẩm xanh.
- Doanh nghiệp cũng cần chú trọng đến hoạt động phân phối làm sao để sản
phẩm luôn gần gũi, sẵn có với người tính sẵn có của sản phẩm. Do hiện nay
người tiêu dùng Việt Nam vẫn còn duy trì thói quen mua thực phẩm tươi ở
các chợ cóc hoặc thực phẩm ở những cửa hàng gần nơi sinh sống cho nên
ngoài các siêu thị lớn, các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm xanh cũng cần
chú trọng phát triển thêm những kênh phân phối phù hợp ở các chợ truyền
thống hoặc các cửa hàng, siêu thị nhỏ gần nơi sinh sống của người dân.
4.2.2 Các đề xuất và kiến nghị đối với các cơ quan nhà nước
Nỗ lực của Chính phủ là rất quan trọng để thúc đẩy tiêu thụ thực phẩm xanh. Gắn
nhãn thực phẩm xanh không chỉ cung cấp thông tin từ nhà sản xuất đến người
tiêu dùng mà còn mang lại một hoạt động kinh doanh có đạo đức và bền vững.
Thực tế là, nếu không có một hệ thống đánh giá tin cậy, một người tiêu dùng có
thể không mua thực phẩm xanh ngay cả khi có ý định tiêu dùng. Giá trị môi
trường của người tiêu dùng là cần thiết để thúc đẩy tiêu thụ thực phẩm xanh.
Người tiêu dùng ngày càng quan tâm nhiều đến môi trường, nhưng giáo dục
nhiều hơn nữa là cần thiết để khuyến khích, tăng cường sự nhận thức về môi
trường hay giá trị về môi trường. Với sự tăng trưởng về nhu cầu của thực phẩm
xanh và sự tăng cường nhận thức về bảo vệ môi trường, người tiêu dùng sẽ có xu
hướng tăng ý định và hành vi tiêu dùng xanh. Tuy nhiên, vẫn cần có một sự cải
thiện của sự nhận thức trong việc tiêu thụ thực phẩm xanh thông qua các hoạt
động xây dựng, nâng cao năng lực, sự hiểu biết và tạo ra các kênh tiếp thị thuận
tiện hơn để có nhiều hơn người tiêu dùng có thể mua thực phẩm xanh.
Các quốc gia khi xây dựng chính sách, chính phủ đều hướng tới sự tham gia của
cả 3 đối tượng: chính phủ, doanh nghiệp, người tiêu dùng. Trong đó các công cụ
qui tắc bắt buộc được áp dụng tối đa với cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp,
còn các chính sách tuyên truyền, khuyến khích và hướng dẫn sử dụng được áp
dụng cho đối tượng người tiêu dùng. Thực tế cho thấy, tại Việt Nam những chính
sách ép buộc đối với cá nhân người tiêu dùng thường là thất bại (ví dụ chính sách
111
bắt buộc người đi xe máy phải đội mũ bảo hiểm được kiểm định, chính sách bắt
buộc người đi ô tô phải có bình chữa cháy…). Nguyên nhân có thể kể đến là
người tiêu dùng có đặc điểm số lượng đông, khi ý thức của người tiêu dùng còn
thấp thì các chế tài bắt buộc sẽ khó triển khai vì không đủ nhân lực để giám sát
thực hiện.
Thực trạng của các chính sách liên quan đến tiêu dùng xanh ở Việt Nam:
• Các chính sách bắt buộc ít có giám sát, không cụ thể. Văn bản mang tính
chủ trương, chưa có hướng dẫn cụ thể
• Các hoạt động hiện tại chỉ dừng lại ở việc kêu gọi các Bộ hoàn thiện
khung pháp lý
• Chính sách Mua sắm công bền vững mặc dù đã có quy định, nhưng đang
chậm thực thi do thiếu danh mục hàng hóa, tiêu chuẩn chất lượng của các
sản phẩm thuộc danh mục mua sắm
• Các chính sách chủ yếu xoay quanh vận động, tuyên truyền hoặc chương
trình khuyến mãi, giảm giá, chủ yếu ở cấp địa phương
Chính phủ có thể lựa chọn chính sách tiêu dùng xanh dựa vào khung lựa chọn
chính sách tiêu dùng (Ts. Nguyễn Vũ Hùng – Nguyễn Thị Thúy Lan, Báo cáo hội
thảo quốc tế “Chính sách điều tiết mối quan hệ giữa dân số và phát triển”,
5/2016) gồm:
- Các qui tắc/qui định bắt buộc
- Các công cụ thị trường như thuế, phí
- Cung cấp thông tin và nâng cao nhận thức cho người tiêu dùng như chiến
dịch truyền thông, vận động, đào tạo, nhãn sinh thái
- Cam kết tự nguyện chẳng hạn như cam kết hành vi tiêu dùng xanh
Những phát hiện của nghiên cứu này có thể là nguồn tham khảo hữu hiệu cho các
chính sách liên quan đến tiêu dùng xanh của chính phủ Việt Nam. Đầu tiên,
nghiên cứu phát hiện ra rằng ý định có tác động khá mạnh đến hành vi tiêu dùng
xanh, yếu tố nhận thức về tính hiệu quả, yếu tố thu nhập, tính sẵn có của sản
phẩm, quan tâm tới môi trường, thói quen mua hàng là những nhân tố ảnh hưởng
tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh. Vì vậy để thúc đẩy được
tiêu dùng xanh, chính phủ và các cơ quan có liên quan cần phải có hệ thống
112
nhiều chính sách tác động đồng bộ, do hành vi người tiêu dùng là một vấn đề
phức tạp. Một số chính sách và công cụ cụ thể được đề xuất như sau:
Thứ nhất, Yếu tố quan tâm tới môi trường và hình thành lên ý định tiêu dùng sản
phẩm xanh hoàn toàn có thể được giải quyết thông qua giáo dục. Chính phủ Việt
Nam vì vậy cần quan tâm hơn tới các chương trình giáo dục về môi trường ở cấp
quốc gia và địa phương, đặc biệt ở các khu vực đô thị lớn. Trong tương lai, các
chiến dịch giáo dục môi trường nên liên kết chặt chẽ hơn với cuộc sống hàng
ngày của người dân và giáo dục nên có sự tham gia nhiều hơn để thúc đẩy hiểu
biết chính xác về kiến thức về môi trường. Chính phủ có thể cân nhắc đưa các
chương trình giảng dạy về môi trường vào trong chương trình học tập hàng ngày
của học sinh cấp 1 và cấp 2 để cải thiện nhận thức môi trường và thông qua đó
nâng cao nhận thức môi trường cho các thành viên khác trong gia đình. Chính
phủ cũng nên quan tâm hơn đến các chương trình công khai theo tất cả các
hướng dựa trên chương trình truyền hình, bởi vì truyền hình vẫn là một trong
những hình thức truyền thông tin hữu hiệu nhất tới mọi người dân. Lồng ghép
kiến thức môi trường vào trong các bộ phim truyền hình có thể có hiệu quả.
Các chiến dịch truyền thông nên tập trung vào giải thích như thế nào và tại sao
các cá nhân khi có nhận thức đúng cũng như có hành vi tiêu dùng xanh có thể
giải quyết các vấn đề môi trường và chuyển điểm quan trọng của công tác tuyên
truyền kiến thức thành kiến thức liên quan đến các hành vi tiêu dùng xanh. Với
sự tăng trưởng về nhu cầu và sự tăng cường nhận thức về bảo vệ môi trường,
người tiêu dùng sẽ có xu hướng biến ý định thành hành vi tiêu dùng xanh.
Thứ hai, nhấn mạnh vào lợi ích cá nhân của hành vi tiêu xanh sẽ có hiệu quả hơn
bởi lẽ người tiêu dùng có nhiều khả năng thực hiện hành vi tiêu dùng xanh khi họ
nhận thức được đầy đủ hiệu quả của sản phẩm đối với sức khỏe của bản thân họ
cũng như tác hại trực tiếp tới môi trường. Theo Feng và Reisner (2011), động lực
kinh tế cho hoạt động sản xuất vì môi trường sẽ có hiệu quả cao khi kết hợp với
các kênh tuyên truyền công bố công khai các lợi ích. Chẳng hạn như sự nhấn
mạnh vào các lợi thế của máy nước nóng năng lượng mặt trời trong việc tiết kiệm
điện và chi phí năng lượng hoặc thậm chí việc đưa ra trợ cấp sẽ tăng lượng người
tiêu dùng sẵn sàng mua các sản phẩm xanh lên rất nhiều.
113
Bên cạnh đó để có thể thúc đẩy hơn nữa hoạt động tiêu dùng xanh, chính phủ
Việt Nam cũng cần phải xây dựng các chính sách để khuyến khích các doanh
nghiệp xây dựng các kênh phân phối và tiếp thị để càng ngày càng có nhiều
người tiêu dùng có thể mua được sản phẩm xanh đồng thời thúc đẩy niểm tin của
người tiêu dùng đối với sản phẩm xanh thông qua việc xây dựng và giám sát chặt
chẽ hoạt động gắn nhãn xanh cho sản phẩm.
- Chương trình gắn nhãn xanh: do sản phẩm xanh có những tiêu chuẩn và đặc
điểm khác với các sản phẩm thông thường vì vậy việc dán nhãn xanh để
người tiêu dùng dễ dàng phân nhận diện sản phẩm xanh là một chương trình
cần thiết nhất là khi niềm tin của người tiêu dùng Việt Nam về chất lượng
các sản phẩm trên thị trường Việt Nam nói chung và sản phẩm xanh nói riêng
còn rất thấp.
- Chương trình hạn chế các chế phẩm có hại cho môi trường và tái chế: Cùng
với sự gia tăng của mức sống của người dân, số lượng đồ dùng gia đình và
rác thải sinh hoạt không phân huỷ ngày càng tăng. Chính phủ cần xây dựng
quy trình thu gom và xử lý nước thải và rác thải để cải thiện điều kiện vệ sinh
môi trường. Hiện nay có hai cách để hướng đến tiêu dùng xanh và định
hướng sản xuất xanh cho nền kinh tế toàn cầu nói chung và Việt Nam nói
riêng. Một là đầu tư cho đổi mới công nghệ và hai là tái sử dụng và tái chế
chất thải. So với các nước, Việt Nam đang ở mức thu nhập trung bình thấp,
việc đầu tư cho đổi mới công nghệ sẽ gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, việc
tái sử dụng và tái chế chất thải để tăng nguồn tài nguyên cho nền kinh tế và
giảm thiểu ô nhiễm môi trường thì hoàn toàn có thể thực hiện được nếu có
chính sách đúng. Điều này chúng ta có thể học tập từ kinh nghiệm của Hàn
Quốc và Trung Quốc. Thực tế ở Việt Nam, tái sử dụng và tái chế chất thải đã
có truyền thống từ lâu, ví dụ ở các làng nghề truyền thống và việc buôn bán
thu gom chất thải còn giá trị (như sắt, nhựa, giấy, bìa ...). Rác thải khó phân
hủy của Việt Nam hiện nay gồm các bao bì làm từ vật liệu plastic và chất rắn,
trong đó các bao bì khác đều được phân loại từ phía người tiêu dùng (để bán
đồng nát) hoặc được thu nhặt bởi những người thu gom phế liệu, chỉ duy
nhất sản phẩm túi nilon hiện tại rất khó thu gom bởi không tái chế được (túi
114
nilon phần lớn khi thải ra thị trường trong tình trạng bẩn hoặc đựng rác bẩn)
vì vậy biện pháp tái chế túi nilon hiện tại không khả thi, chính phủ chỉ có thể
tập trung vào hạn chế hành vi sử dụng túi nilong của người tiêu dùng. Cụ thể
là khuyến khích người tiêu dùng hạn chế sử dụng túi nilon. Thay vì dùng túi
nilon thì sử dụng túi đi chợ nhiều lần, túi giấy để đựng đồ đạc. Ngoài ra
chính phủ có thể tuyên truyền để người bán hàng thay vì sử dụng túi nilon
thông thường thì sử dụng túi nilon sinh học có khả năng tự phân hủy.
- Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, do thu nhập và giá có ảnh hưởng tới mối
quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh nên trong giai đoạn ban đầu,
để thay đổi nhận thức của người tiêu dùng cũng như tuyên truyền, khuyến
khích cho sản phẩm xanh, chính phủ cần có chính sách trợ giá cho sản phẩm
xanh để thúc đẩy tiêu dùng xanh. Chính sách và tài chính liên quan trợ cấp sẽ
giành được ủng hộ từ người tiêu dùng và tăng đáng kể doanh số bán các sản
phẩm xanh. Chính sách tài chính tương lai cần được mở rộng hơn cho các
sản phẩm thân thiện môi trường và chú ý hơn đến giai đoạn sau tiêu thụ.
4.2.3 Kiến nghị đối với phƣơng diện ngƣời tiêu dùng
Nghiên cứu cho thấy hành vi tiêu dùng đang ngày càng đóng quan trọng đối với
chất lượng sống của mỗi cá nhân cũng như sự phát triển của toàn xã hội. Hành vi
tiêu dùng đã trở nên cực kì quan trọng để giải quyết các vấn đề về môi trường
(Briceno & Stagl, 2006). Các yếu tố bền vững có thể dẫn đến một mô hình mới
trong tiêu thụ thực phẩm (Schacht, Leal, Koppe, Struksnaes, & Busch-
Stockfisch, 2010) và tiêu dùng xanh có thể mang lại giá trị không chỉ cho người
tiêu dùng mà còn cho những nhà quản lý thị trường và những nhà sản xuất thực
phẩm xanh (Alkon, 2008). Trong một nghiên cứu của Yang và cộng sự năm 2011
ở Trung Quốc cho thấy, vấn đề về môi trường liên quan đến thực phẩm gây rủi ro
rất lớn cho sức khỏe người tiêu dùng. Do đó, tiêu dùng thực phẩm xanh có thể
hữu ích không chỉ trong việc giải quyết vấn đề môi trường mà còn có lợi cho sức
khỏe người tiêu dùng. Sự hợp tác giữa các nhà sản xuất, người tiêu dùng và các
bên liên quan khác có thể mang lại các giải pháp bền vững hơn trong hệ thống
sản xuất - tiêu thụ (Partidario et al., 2007). Theo một hoàn cảnh như vậy, tích hợp
115
sự nỗ lực của các bên liên quan là vấn đề then chốt để thúc đẩy tiêu dùng sản
phẩm xanh.
Giá trị môi trường của người tiêu dùng là cần thiết để thúc đẩy tiêu thụ thực
phẩm xanh. Động cơ về mặt môi trường ảnh hưởng đến người tiêu dùng trong
việc mua thực phẩm xanh (Tobler et al., 2011). Những người dân quan tâm đến
sinh thái, có thể làm tăng giá trị của môi trường có một động lực mạnh mẽ cho
hành vi tiêu dùng bền vững (Seyfang, 2006).
Trong nghiên cứu này, người tiêu dùng Việt Nam cũng đã bắt đầu quan tâm hơn
tới môi trường và cũng nhận thức rõ được hiệu quả của việc mua sắm thực phẩm
sạch, thiết bị tiết kiệm điện cũng như hành vi sử dụng túi nilong trong sinh hoạt
hàng ngày tuy nhiên người tiêu dùng Việt Nam cũng cần tăng cường hơn nữa sự
nhận thức về môi trường hay giá trị về môi trường. Với sự tăng cường về nhận
thức, người tiêu dùng cũng cần hướng đến hành động mua sản phẩm xanh cũng
như sử dụng các sản phẩm xanh trong thực tế.
Một trong những cách hiệu quả nhất để trở thành người tiêu dùng thông minh là
tìm hiểu kỹ thông tin trước khi ra quyết định mua cũng như tiêu dùng sản phẩm.
Việc tìm hiểu kỹ thông tin sẽ giúp người tiêu dùng nâng cao được nhận thức trên
nhiều phương diện: tác dụng của sản phẩm đối với sức khỏe và tài chính gia đình
cũng như tác hại của sản phẩm đối với môi trường cả trong khi sản phẩm được
sản xuất cũng như sản phẩm được sử dụng.
Ngoài việc đọc kỹ thành phần sản phẩm người tiêu dùng cũng nên xem kỹ hướng
dẫn sử dụng sản phẩm để không những lựa chọn cho mình và gia đình những sản
phẩm hiệu quả nhất mà còn sử dụng sản phẩm đúng cách. Việc này sẽ góp phần
tăng tuổi thọ sản phẩm khiến cho thời gian sản phẩm bị hỏng hóc phải thải loại ra
môi trường, đồng thời tiết kiệm được nhiên vật liệu trong quá trình sử dụng sản
phẩm.
Đối với tình trạng thực phẩm bẩn lan tràn thị trường như hiện nay, hành vi hữu
hiệu đầu tiên mà người tiêu dùng cần phải thực hiện là nói không với thực phẩm
bẩn. Người tiêu dùng ngoài việc nhận thức rõ tác hại của thực phẩm bẩn đối với
sức khỏe của bản thân và gia đình cũng cần phải có kiến thức nhất định về thực
phẩm sạch cũng như các kỹ năng cần thiết để nhận biết được thực phẩm sạch.
116
Ngoài việc kiểm tra kỹ xuất sứ sản phẩm, người tiêu dùng cũng cần có kỹ năng
cũng như công cụ để kiểm tra chất lượng sản phẩm. Ví dụ như máy đo thực phẩm
an toàn, máy đo lượng nitrat tồn dư trong thực phẩm…
Đối với sản phẩm tiết kiệm điện, chi phí bỏ ra ban đầu có thể lớn hơn so với sản
phẩm thông thường bởi lẽ giá bán của thiết bị tiết kiệm điện thường cao hơn tuy
nhiên nếu so sánh với phần tiết kiệm điện năng trong suốt vòng đời của sản phẩm
thì thiết bị tiết kiệm điện vẫn có giá trị kinh tế cao hơn. Chính vì vậy người tiêu
dùng cần vượt qua được sự so sánh mức giá ban đầu để có được lựa chọn phù
hợp nhất để ngoài tiết kiệm tài chính cho bản thân còn tiết kiệm điện năng và
thông qua đó bảo vệ môi trường từ việc giảm nhiên liệu để sản xuất điện.
Đối với túi nilong, đây rõ ràng là một sản phẩm một khi thải loại ra môi trường
thì rất khó phân hủy và ảnh hưởng mạnh mẽ tới môi trường. Ngoài ra túi nilong
cũng có tác động không tốt với sức khỏe con người nếu không được sử dụng
đúng cách. Hiện tại túi nilong với những tiện ích và đặc biệt là giá rẻ rất được
người bán hàng ưa chuộng. Tuy nhiên, túi nilong đựng trực tiếp thực phẩm đặc
biệt là với thực phẩm nóng ăn liền như sôi, bánh bao, nước chấm bún….hoặc
đựng thực phẩm bảo quản trong ngăn đá tủ lạnh cho nên người tiêu dùng cần
kiên quyết không sử dụng túi nilong để đựng trực tiếp thực phẩm. Ngoài ra, để
giảm tác hại đối với môi trường, người tiêu dùng cần hết sức hạn chế việc sử
dụng túi nilong trong cuộc sống hàng ngày. Chẳng hạn như sử dụng làn hoặc túi
xách riêng để đi chợ, ưu tiên sử dụng túi giấy nếu có thể.
4.3 Một số hạn chế của nghiên cứu và đề xuất cho hƣớng nghiên cứu tiếp
theo
Mặc dù nghiên cứu này đưa ra được mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động tới
mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt
Nam và thu được những thông tin và kết quả có ý nghĩa, nghiên cứu này vẫn còn
điểm cần cải thiện.
Đầu tiên , yếu tố niềm tin đối với nhãn xanh hoặc một số yếu tố khác có thể thêm
vào các mô hình nhằm nâng cao khả năng giải thích của mô hình và cần làm
nghiên cứu xây dựng chi tiết cho riêng ba sản phẩm trong nghiên cứu.
117
Thứ hai, nghiên cứu trong tương lai nên chú ý hơn đến quá trình thiết kế và chọn
mẫu bảng câu hỏi. Do hạn chế về nguồn lực nghiên cứu không có điều kiện thực
hiện điều tra trên phạm vi tất cả các tỉnh thành trên cả nước, nghiên cứu chỉ tập
trung điều tra ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai thành phố có sức mua
lớn nhất. Hơn thế nữa do mẫu chỉ có ý nghĩa khi số lượng quan sát đạt trên 400,
nên nghiên cứu này chưa thể đưa vào nghiên cứu sự chênh lệch giữa hai khu vực
Hà Nội và Hồ Chí Minh. Trong nghiên cứu trong tương lai, kích cỡ mẫu lớn hơn
là cần thiết hoặc một khu vực điển hình nên được chọn để nghiên cứu chi tiết hơn
sau khi phân tích chuyên sâu. Bên cạnh đó, người được hỏi có xu hướng cung
cấp cho câu trả lời mà họ mong sẽ là "những câu đúng" ngay cả khi chúng không
phản ánh hành vi thực tế, đó là điều đáng chú ý trong thiết kế bảng câu hỏi.
Thứ ba, Phiếu điều tra được thu thập được tiến hành từ tháng 2-tháng 4 năm
2016. Tại thời điểm này có thể nói ở Việt Nam đang có một cơn bão truyền thông
về tình trạng ô nhiễm môi trường và thực phẩm bẩn. Các kênh truyền thông liên
tục đưa ra những cảnh báo đáng báo lo ngại về sự trẻ hóa độ tuổi người mắc ung
thư tại Việt Nam trong đó có nhắc đến nguyên nhân do ô nhiễm môi trường và
thực phẩm bẩn. Ngoài ra hàng loạt các vụ thực phẩm bẩn bị phanh phui như: lợn
bơm thuốc an thần, lòng bẩn trong các nhà hàng, qui trình chế biến dầu mỡ bẩn,
tôm cá dư thuốc kháng sinh...đã khiến cho toàn xã hội hết sức chú ý đến vấn đề ô
nhiễm môi trường và thực phẩm bẩn, thậm chí các cơ quan chức năng đã bắt đầu
vào cuộc cho nên vào thời điểm này kết quả điều tra có thể cho ra một kết quả về
ý định và hành vi tiêu dùng xanh cao hơn thực tế.
Thứ tư, nghiên cứu chưa đi sâu vào một sản phẩm/ngành hàng cụ thể trong khi
đối tượng tiêu dùng của các sản phẩm/ngành hàng khác nhau là khác nhau có thể
dẫn đến một kết quả nghiên cứu chưa thật sự tỉ mỉ cụ thể và có tính áp dụng ngay
cho một sản phẩm/ngành hàng nào đó.
Mặc dù bảng hỏi đã đề cập đến hành vi mua thực phẩm sạch, thiết bị tiết kiệm
điện và hành vi sử dụng túi nilon là 3 sản phẩm khá phổ biến đối với người tiêu
dùng Việt Nam, việc lấy phiếu điều tra có thể dễ dàng hơn tuy nhiên do đặc thù
người tiêu dùng Việt Nam có sự phân công mua sắm trong gia đình khá rõ nét:
phụ nữ sẽ quen thuộc hơn với sản phẩm thực phẩm và nam giới sẽ thường là
118
người mua sắm thiết bị điện trong gia đình. Vì vậy những người được điều tra
thuộc giới tính nữ sẽ có xu hướng trả lời cảm tính những câu hỏi liên quan tới sản
phẩm thiết bị điện và ngược lại nam giới sẽ có xu hướng trả lời cảm tính với các
câu hỏi liên quan đến hành vi mua thực phẩm.
Từ nghiên cứu này các nghiên cứu tiếp theo có thể phát triển các nghiên cứu sâu
hơn về các nhân tố tác động tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng
xanh cho các chủ thể khác nhau. Ví dụ: nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới
mối quan hệ giữa ý định và hành vi mua thực phẩm sạch của người phụ nữ Việt
Nam/sinh viên/công chức…, hoặc nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới mối
quan hệ giữa ý định và hành vi mua thiết bị điện của nam giới/nữ giới ở Việt
Nam, hoặc nghiên cứu sâu về hành vi sử dụng túi nilon của người tiêu dùng Việt
Nam.
5. KẾT LUẬN
Các yếu tố quan trọng có thể ảnh hưởng tới ý định trong lý thuyết hành vi hợp lý
bao gồm thái độ, chuẩn mực chủ quan, và khả năng kiểm soát được nhận thức đã
được cụ thể hóa trong các nghiên cứu về tiêu dùng xanh (vd: Wu Shwu-Ing và
Jia-Yi Chen, 2014). Ngoài ra, một vài nghiên cứu đã phân biệt giữa thái độ với
môi trường nói chung và thái độ với tiêu dùng xanh (vd: Tan Booi-Chen, 2011).
Trong nghiên cứu này, vì vậy, dù không đưa ra giả thuyết, các mối quan hệ từ
thái độ với môi trường, thái độ với tiêu dùng xanh và chuẩn mực chủ quan về
tiêu dùng xanh tác động đến ý định tiêu dùng xanh được đưa vào mô hình kiểm
định. Để tăng cường mức độ tin cậy của kết quả kiểm định, một số biến kiểm
soát có thể ảnh hưởng đến ý định và hành vi tiêu dùng xanh như giới tính, thu
nhập cũng được đưa vào mô hình.
Kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố nhận thức hiệu quả hành vi và sự sẵn
có/không sẵn có của sản phẩm tác động đến mối quan hệ giữa ý định và hành vi
tiêu dùng xanh trong đó Nhận thức hiệu quả hành vi thúc đẩy tác động của ý định
đến hành vi và sự không sẵn có cản trở mối quan hệ này. Nghiên cứu này không
tìm thấy tác động của độ nhạy cảm về giá tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi
của người tiêu dùng Việt Nam. Điều này có thể lý giải rằng khi người tiêu dùng
đã có ý định mua (thường là đã xác định rõ sản phẩm xanh là sản phẩm có giá
119
cao) thì chính sách giảm giá hoặc khuyến mãi/khuyến mại của doanh nghiệp có
thể sẽ không tác động nhiều đến việc chuyển hóa ý định thành hành vi mua thực
tế. Mô hình các nhân tố tác động tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu
dùng xanh được đúc kết từ nghiên cứu này được mô tả tóm tắt như sau:
Hình 5.1: Mô hình các nhân tố tác động tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi
tiêu dùng xanh
Nguồn: Tác giả xây dựng dựa kết quả nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, dựa vào góp ý của các thành viên hội đồng, một số
yếu tố có thể tác động đến mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh
như: vấn đề sẵn có của cơ chế hay thể chế. Ví dụ: hành vi tái chế chỉ được áp
dụng khi thùng rác được phân loại tại nguồn. Người tiêu dùng sẽ có ý định tái
chế nhằm bảo vệ môi trường, song vì không có qui định, hoặc sự sẵn có của các
thùng rác được phân loại nên người tiêu dùng vẫn duy trì theo cách thông thường
(Lê Thái Phong, 2017)
Như vậy từ nghiên cứu này các nghiên cứu tiếp theo ngoài việc phát triển các
nghiên cứu sâu hơn về các nhân tố tác động tới mối quan hệ giữa ý định và hành
H2
22
1
H1
1
Thái độ với môi
trường
Thái độ với tiêu
dùng xanh
Chuẩn mực chủ
quan về tiêu
dùng xanh
Nhận thức hiệu
quả hành vi
tiêu dùng
Ý định tiêu
dùng xanh
Hành vi tiêu
dùng xanh
Sự sẵn có của
sản phẩm
xanh
120
vi tiêu dùng xanh cho các chủ thể khác nhau còn có thể bổ sung một số nhân tố
mới để mô hình tổng hợp hơn.
Như vậy từ các kết quả nghiên cứu của luận án có thể rút ra một số kết luận như
sau:
1. Theo kết quả điều tra, Ý định và hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu
dùng đã có những cải thiện đáng kể. Nhiều người được hỏi dự kiến sẽ mua
sản phẩm xanh vào tháng tới (mean = 3,93) hoặc sẵn sàng chuyển sang sử
dụng các sản phẩm khác hiện nay (mean = 3,99) hoặc đã sẵn sàng trả
nhiều tiền hơn cho sản phẩm xanh. Kết quả này cao hơn kết quả điều tra
của nhóm nghiên cứu của tác giả Vũ Anh Dũng trước đó về hành vi tiêu
dùng của người tiêu dùng Việt Nam. Nguyên nhân có thể là do điều tra
được tiến hành trong khoảng thời gian mà cả giới truyền thông và người
tiêu dùng đặc biệt quan tâm tới môi trường và ảnh hưởng của yếu tố môi
trường tới sức khỏe con người.
Tác động của ý định tới hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt
Nam trong nghiên cứu này cũng mạnh hơn so với kết quả nghiên cứu của
nhóm tác giả Vũ Anh Dũng (2012).
2. Cũng giống như kết quả nghiên cứu của nhiều nghiên cứu trước đây: Thái
độ với môi trường, Thái độ với tiêu dùng xanh, Chuẩn mực chủ quan về
tiêu dùng xanh, Nhận thức hiệu quả hành vi tiêu dùng là các yếu tố tiền đề
của ý định tiêu dùng xanh. Các nhân tố này tác động tích cực tới ý định
tiêu dùng xanh. Có nghĩa là những người có thái độ tốt với môi trường,
thái độ tốt với tiêu dùng xanh, có những ủng hộ nhất định đối vwois tiêu
dùng xanh và nhận thức rõ về hiệu quả hành vi tiêu dùng xanh là những
người sẽ có ý định đối với tiêu dùng xanh cao hơn.
3. Trong nghiên cứu này Nhận thức hiệu quả hành vi vừa là yếu tố tiền đề
của ý định vừa là yếu tố thúc đẩy mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu
dùng xanh. Kết quả này phù hợp với mô hình lý thuyết hành vi có kế
hoạch của Ajzen và Fishbien (2005): Khi người tiêu dùng xanh có nhận
thức rõ ràng về hiệu quả hành vi, người tiêu dùng có xu hướng chuyển từ
ý định sang hành vi tiêu dùng xanh thực tế.
121
4. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ sẵn có của sản phẩm xanh điều tiết
mối quan hệ giữa ý định và hành vi tiêu dùng xanh: khi sản phẩm xanh
càng sẵn có, mối quan hệ thuận chiều giữa ý định và hành vi tiêu dùng
xanh càng mạnh hơn và ngược lại. Kết quả này tương tự như kết quả
nghiên cứu của Berger và Corbin (1992) và Lee và Holden (1999).
5. Trong bộ ba giải pháp để thúc đẩy tiêu dùng xanh, tùy vào từng điều kiện
hoàn cảnh khác nhau sẽ có những tầm ảnh hưởng quan trọng khác nhau. Ở
giai đoạn ban đầu, chính phủ cần phải cân nhắc các giải pháp tổng thể để
định hướng các doanh nghiệp và người tiêu dùng để hướng đến hiệu quả
cao hơn, thúc đẩy được phát triển bền vững dựa vào thúc đẩy sản xuất và
tiêu dùng sản phẩm xanh.
122
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Xu hướng tiêu dùng xanh trên thế giới và hàm ý đối với Việt Nam, Tạp
chí khoa học, Kinh tế và Kinh doanh, Hoàng Thị Bảo Thoa, Tập 32, Số 1,
2016, trang 66
2. Tình hình tiêu dùng thực phẩm xanh tại Việt Nam, Tạp chí Thông tin và
dự báo Kinh tế - Xã hội, Hoàng Thị Bảo Thoa, Số 124, Tháng 4 – 2016,
trang 38
3. Tiêu dùng xanh: Các yếu tố thúc đẩy mối quan hệ từ ý định tới hành vi,
Tạp chí Kinh tế&Phát triển, TS. Nguyễn Vũ Hùng, TS. Nguyễn Hùng
Cường, NCS. Hoàng Bảo Thoa, số 233, tháng 11/2016, trang 121
4. Nghiên cứu các nhân tố tác động tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi
tiêu dùng xanh, Tạp chí Khoa học Thương mại – ĐH Thương mại Hà Nội,
Hoàng Thị Bảo Thoa, đã phản biện và được chấp nhận in.
123
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Bảo Châu, Lê Nguyễn Xuân Đào (2014), Phân tích các nhân tố
ảnh hưởng đến hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng thành phố
Cần Thơ.
2. Vũ Anh Dũng và các cộng sự (2012), ‗Đánh giá nhận thức và hành vi tiêu
dùng xanh: trường hợp người tiêu dùng Hà Nội‘, Tạp chí Kinh tế và Phát
triển, Số 184, trang 46-55, tháng 10-2012.
3. Vũ Anh Dũng&Nguyễn Thu Huyền& Nguyễn Thị Ngọc Ánh (2012),
‗Building a survey tool to assess consumer‘s perception và behavior towards
green consumption‘, VNU Tạp chí of Economics và Business, Số. 29, tập. 2,
trang 142-150.
4. Vũ Anh Dũng, Nguyễn Thu Huyền, Nguyễn Ngọc Ánh, (2012), ―Phát
triển mô hình giả định các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh‖,
Những vấn đề Kinh tế và chính trị thế giới, số 6(194).
5. Nghiên cứu đề xuất giải pháp phát triển thương mại hàng thực phẩm sạch
trong điều kiện Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới, Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Công thương, Viện nghiên cứu Thương
mại Việt Nam, (2008)
6. Nguyễn Vũ Hùng và Nguyễn Thị Thúy Lan (2016), 'Rà soát chính sách tiêu
dùng xanh của Việt Nam: Nhìn từ kinh nghiệm của Anh và Hàn Quốc', Kỷ
yếu hội thảo: Chính sách điều tiết mối quan hệ giữa dân số và phát triển:
Kinh nghiệm quốc tế và những giải pháp cho Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam,
Trang 465-492.
7. Nguyễn Vũ Hùng, Nguyễn Hùng Cường và Hoàng Lương Vinh (2015),
Phong cách sống và tiêu dùng xanh dưới góc nhìn của lý thuyết hành vi có kế
hoạch, Tạp chíTạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 216,Trang: 57-65.
8. Phạm Thị Lan Hương (2014), Dự đoán ý định mua xanh của người tiêu dùng
trẻ: Ảnh hưởng của các nhân tố văn hóa và tâm lý, Tạp chí Kinh tế và Phát
triển, Số 200(2),Trang: 66-78.
9. Nguyễn Đình Thọ (2014) - Chuyển giao tri thức từ trường ĐH vào doanh
124
nghiệp thông qua sinh viên hệ vừa học vừa làm‖, Tạp chí Kinh tế&Phát triển
10. Nguyễn Hữu Thụ (2014), Hành vi tiêu dùng xanh của người Hà nội, Tham
luận khoa học, báo Hội tâm lý học xã hội Việt Nam,
http://hoitamlyhoc.vn/News/36/310/hanh-vi-tieu-dung-xanh-cua-
nguoi-ha-noi.aspx
Tài liệu tiếng Anh
1. A Tesser, và D R Shaffer (1990), Attitudes and Attitude Change, Annual
Review of Psychology, Số 41, Trang 479-523
2. Ajzen & cộng sự (1980), Attitudes and voting behaviour: An application of
the theory of reasoned action. In G. M. Stephenson & J. M. Davis (Eds.),
Progress in applied social psychology, Số 1, Trang 95-125
3. Ajzen (1985), From intentions to actions: A theory of planned behavior. In
J. Kuhl & J. Beckmann (Eds.), Action control: From cognition to behavior.
Berlin, Heidelber, Tạp chí New York: Springer-Verlag, Trang 11-39
4. Ajzen (1991), "The theory of planned behavior". Organizational Behavior và
Human Decision Processes 50 (1), Trang 179–211
5. Ajzen Icek và Fishbein Martin (2005), 'The influence of attitudes on
behavior', Trong The handbook of attitudes, D. Albarracín, B. T. Johnson và
M. P. Zanna (Biên soạn), Nhà xuất bản Lawrence Erlbaum Associates,
Mahwah, NJ.
6. Alfredsson, (2004), ―Green‖ consumption—no solution for climate change.
Tạp chí Energy, Số 29 (4), Trang 513-524
7. Amy E. Green (2013), August 2013 – Tập 33 – Số 7, trang 1293-1481
8. Anderson, ThomasW. và Cunningham H.William (1972), ―The Socially
Conscious Consumer,‖ Tạp chí Marketing, số 36 (tháng 7), trang 23–31.
9. Andrew Gilg, Stewart Barr, Nicholas Ford (2005), Futures, Green
consumption or sustainable lifestyles? Identifying the sustainable consumer,
số 37, quyển 6, Trang 481–504
10. Anja Kollmuss & Julian Agyeman (2002), Original Articles, Mind the Gap:
Why do people act environmentally và what are the barriers to pro-
125
environmental behavior? Tạp chí Nghiên cứu giáo dục môi trường,
Environmental Education Research, Tập 8, số 3
11. Balderjahn (1988), "Personality Variables và Environmental Attitudes as
Predictors of Ecologically Responsible Consumption Patterns," Tạp chí
Nghiên cứu kinh doanh, số 17, trang 51-56
12. Baorong Huang, ―Sustainable Consumption in China: Policies, Actions và
Progresses. Institute of Policy và Management‖, Chinese Academy of
Sciences (2013);
13. Bartelings và Sterner (1999), Household Waste Management in a Swedish
Municipality, Determinants of Waste Disposal, Recycling và Composting,
Environmental và, Resource Economics, số 13, tập 4, trang 473-491
14. Berger, I.E. và Corbin, R.M. (1992), Perceived Consumer Effectiveness và
Faith in Others as Moderators of Environmentally Responsible Behaviors,
Tạp chí Public Policy và Marketing, Số 11(2), trang 79-100
15. Bonini, S & Oppenheim, J (2008), 'Cultivating the green consumer',
Stanford Social, Innovation Review, Số. 6, tập 4, trang 56-61
16. Carmen Tanner và Sybille Wölfing Kast (2003), Promoting sustainable
consumption: Determinants of green purchases by Swiss consumers,
Psychology & Marketing, Special Tập: Cross-cultural Consumer
Socialization, Số 20, Tập 10, trangs 883–902, October 2003
17. Carrigan, M.; Szmigin, I.; và Wright, J. Shopping for a better world? An
interpretive study of the potential for ethical consumptionwithin the older
market. Tạp chí Consumer Marketing, Số 21(6), trang 401-417.
18. Chan, R.Y.K., (2001), Determinants of Chinese consumers‘ green purchase
behavior, tạp chí Psychology và Marketing, Số 18 (4), trang 389 - 413
19. Chapman, Mary Boltz (2009), ―How Green Is Your Customer?‖, Tạp chí
Chain Leader, Số 14, Trang 22-32
20. Cohen Jacob, Cohen Jacob, Cohen Patricia, West Stephen G và Aiken
Leona S (2003), Applied multiple regression/correlation analysis for the
behavioral sciences,Xuất bản lần thứ 3, Nhà xuất bản Mahwah, N.J. ;. L.
Erlbaum Associates,
126
21. David H. Rylvàer, Louisiana, Amerrican Marketing Association, 2001
22. Dodds, William B., Kent B. Monroe và Dhruv Grewal (1991), "Effects of
Price, Brvà, và Store Information on Buyers' Product Evaluations," Tạp chí
Marketing Research, Số 26 (tháng 8), trang 307-319.
23. E. Szücs, R. Geers và E. N. Sossidou (2009), Stewardship, Stockmanship và
Sustainability in Animal Agriculture, Asian-Aust. J. Anim. Sci., Tập 22, Số.
9, Trang 1334 – 1340
24. E.C Alfredsson (2004), Energy, ―Green‖ consumption—no solution for
climate change, Số 29, tập 4, trang 513–524
25. Emma Rex, Henrikke Baumann (2007), Beyond ecolabels: What green
marketing can learn from conventional marketing? Tạp chí Cleaner
Production, Số 15(6), trang 567-576
26. Failla, J. Thomas và Gopalakrishna, Pradeep (2014), "Moderator role in
green product purchases." Tạp chí Atlantic Marketing, Số 3, quyển 1, trang
27. Fang và partners (2009), Tree-ring based reconstruction of drought
variability in the Kongtong Mountain area, northern China, Global và
Planetary Change, Số 80–81, trang 190–197
28. Fishbein, M., Ajzen, I., (2010), Predicting và Changing Behavior: the
Reasoned Action Approach. Psychology Press (Taylor & Francis), New
York
29. Fuchs và Lorek, (2005), Sustainable Consumption Governance: A History
of Promises và Failures, Tạp chí of consumer policy, Số 28, Tập 3, trang
261-288
30. Geller (1992), Psychology và Social Responsibility: Facing Global
Challenges, NYU Press, 1992, ISBN 0814779417, 9780814779415
31. Geller, Scott E. (1992), ―It Takes More than Information to Save
Energy,‖American Psychologist, Số 47 (6), trang 814–825
32. Hideki Nakahara, Green Purchasing Network (GPN) Japan and its
Activities, Chika Motomura, Marketing Specialist, ATO Osaka, (2013),
Japanese Organic Market
33. Hines et al. (1986), Characterization and Biological Effects of Recombinant
127
Human Erythropoietin, Immunobiology, Số 172, Tập 3–5, trang 213-224
34. Hines, J.M., Hungerford, H.R., Tomera, A.N., (1986), Analysis và synthesis
of research on responsible pro-environmental behavior: a meta-analysis. Tạp
chí Environmental Education Số 18 (2)
35. Hui-hui Zhao , Qian Gao , Yao-ping Wu , Yuan Wang, Xiao-dong Zhu
(2014) What affects green consumer behavior in China? A case study from
Qingdao. Tạp chí Cleaner Production, số 63, trang 143-151
36. Iris Vermeir, Wim Verbeke (2006), Sustainable Food Consumption:
Exploring the Consumer ―Attitude – Behavioral Intention‖ Gap. , Tạp chí of
Agricultural và Environmental Ethics, April 2006, Số 19, tập 2, trang 169-
194
37. Ismail, H.B., Panni, M.F.A.K. và Talukder, D.,(2006), Consumer
perceptions on the environmental consumerism tập and its influence on their
purchasing behavior., Proceedings of the Academy of Legal, Hội thảo
Ethical and Regulatory, Allied Academies, Trang 13-18
38. Jagdish N. Sheth, Bruce I. Newman, Barbara L. Gross (1991), Why we buy
what we buy: A theory of consumption values, Tạp chí of Business
Research, Số 22, tập 2, trang 159-170
39. James A. Roberts , Donald R. Bacon (1997), Exploring the Subtle
Relationships between Environmental Concern và Ecologically Conscious
Consumer Behavior, Tạp chí Tạp chí of Business Research, Số 40, tập 1,
trang 79–89
40. James F. Engel, Roger D. Blackwell, David T. Kollat (1978), Consumer
behavior, Dryden Press, 1978, ISBN 0030896738, 9780030896736
41. John A. Howard (1977), Consumer behavior: application of theory,
McGraw-Hill, 1977, ISBN 007030520X, 9780070305205
42. Julie Anne Lee1 vàStephen J. S. Holden (1999), Understanding the
determinants of environmentally conscious behavior, Tạp chí Psychology &
Marketing, Số 16, tập 5, trang 373–392
43. Kavilanz, Parija B. (2008), ―The high price of going ‗organic‖‘. Retrieved
from:http://money.cnn.com
128
44. Ken Peattie (1992) , Green Marketing, The M & E handbook series, ISSN
0265-8828, ISBN 0712108432, 9780712108430
45. Laroche, M., Bergeron, J., Barbaro-Forleo (2001), ―Targeting consumers
who are willing to pay more for environmentally friendly products‖, tạp chí
Consumer Marketing (2001), trang 18-26
46. Leslie Lu, Dora Bock, Mathew Joseph, (2013), Green marketing: what the
Millennials buy", tạp chí Business Strategy, Số 34, tập 6, trang 3 – 10
47. Lukas Zagata (2012), Consumers‘ beliefs and behavioural intentions
towards organic food. Evidence from the Czech Republic
48. Mainieri (1997), Elaine G. Barnetta, Trisha R. Valdero, John . Unipan &
Stuart Oskamp (1997) Green Buying: The Influence of Environmental
Concern on Consumer Behavior, tạp chí Social Psychology, số 137, tập 2
49. Mansvelt&Robbins (2011), Green Marketing and Consumer Behavior: The
Case of Gasoline Products, Tạp chí of Transnational Management, Số 16,
Tập 2
50. Mansvelt, Juliana và Robbins, Paul. (2011), Green Consumerism: An A-to Z
Guide, Los Angeles và London: Sage Publication,
51. Maria Rosario Partidario, Rita C. Comes (2013) ―Ecosytem services
inclusive strategic environmental assessement‖, Environmental Impact
assessment, trang 36-46
52. Mark R. Gleim, Jeffery S. Smith , Demetra Andrewsb, J. Joseph Cronin Jr.
Against the Green: A Multi-method Examination of the Barriers to Green
Consumption, Tạp chí Retailing, Số 89, trang 44–61
53. Mark Tadajewski, Sigmund Wagner-Tsukamoto, (2006), "Anthropology và
consumer research: qualitative insights into green consumer behavior",
Qualitative Market Research: An International Tạp chí, Số 9 tập 1, trang 8 –
25
54. Martin Fishbein, Icek Ajzen (1986&2011), Predicting và Changing
Behavior: The Reasoned Action Approach, Publisher: Taylor & Francis,
2011,ISBN 1136874739, 9781136874734
55. Martin Grimmer, Timothy Bingham (2013), Company environmental
129
performance và consumer purchase intentions
56. Marylyn Carrigan, Isabelle Szmigin, Joanne Wright, (2004), "Shopping for a
better world? An interpretive study of the potential for ethical consumption
within the older market", Tạp chí of Consumer Marketing, Số 21, tập 6,
trang 401 – 417
57. Maturos Kanchanapibul, Ewelina Lacka, Xiaojun Wang, Hing Kai Chan
(2013), An empirical investigation of green purchase behaviour among the
young generation
58. Minna Autio và Visa Heinonen (2004), To Consume or Not to Consume?
Young people‘s environmentalism in the affluent Finnish society, Young, số
12, trang 137-153.
59. Noah Kaufman (2013), Overcoming the barriers to the market performance
of green consumer goods
60. Oksana Mont, The EU và UN work on sustainable consumption và green
lifestyles
61. Pam Scholder Ellen, Joshua Lyle Wiener và Cathy Cobb-Walgren, (1991),
The Role of Perceived Consumer Effectiveness in Motivating,
Environmentally Conscious Behaviors, Tạp chí of Public Policy &
Marketing, Số 10, tập 2, trang 102-117
62. Patrick Hartmann, Vanessa Apaolaza-Ibáñez (2011), Consumer attitude và
purchase intention toward green energy brands: The roles of psychological
benefits and environmental concern
63. Paul C. Stern: (2000), New Environmental Theories: Toward a Coherent
Theory of, Environmentally Significant Behavior, Tạp chí of Social, Số 56,
Tập 3, trang 407–424
64. Peattie, (2010), Green Consumption: Behavior và Norms, Annual Review of
Environment and Resources, Số 35: trang 195-228
65. Pei-Chun Lin, Yi-Hsuan Huang (2011), The influence factors on choice
behavior regarding green products based on the theory of consumption
values
66. Peloza et al., (2013), The Nature of Slacktivism: How the Social
130
Observability of an Initial, Act of Token Support, Affects Subsequent
Prosocial Action, Tạp chí of Consumer Research, Số 40, No. 6, trang 1149-
1166
67. Peng Han, Chang-Ying Niu, Chao-Liang Lei, Jin-Jie Cui, Nicolas Desneux
(2010), Use of an innovative T-tube maze assay và the proboscis extension
response assay to assess sublethal effects of GM products and pesticides on
learning capacity of the honey bee Apis mellifera L. Ecotoxicology,
November 2010, Số 19, Tập 8, trang 1612–1619
68. Peter Wheale và David Hinton (2007), Ethical consumers in search of
markets, Business Strategy và the Environment, Số 16, Tập 4, trang 302–
315,
69. Petkus, Jr (1991), Processing và Retrieval of Inferences and Descriptive
Advertising, Information: The Effects of Message Elaboration, Tạp chí of
Advertising, Số 22, Tập 1
70. Ping Wang, Qian Liu,YuQ (2013), Factors influencing sustainable
consumption behaviors: a survey of the rural residents in China
71. Phạm Phạm Thị Lan Hương (2014), Dự đoán ý định mua xanh của người tiêu dùng
trẻ: Ảnh hưởng của các nhân tố văn hóa và tâm lý, Tạp chí Kinh tế và Phát
triển, Số 200(2),Trang: 66-78.
72. Policy Hvàbook for Sustainable Consumption và Production of Korea, 1st
Edition, Korea Environmental Industry and Technology Institute, 2014;
73. Prem Shamdasani, Gloria Ong Chon-Lin, và Daleen Richmond (1993),
"Exploring Green Consumers in an Oriental Culture: Role of Personal và
Marketing Mix Factors", in NA - Advances in Consumer Research, Số 20,
eds. Leigh McAlister và Michael L. Rothschild, Provo, UT : Association for
Consumer Research, Trang: 488-493.
74. Philip Kotler, (2011), Reinventing Marketing to Manage the Environmental
Imperative., Tạp chí of Marketing: July 2011, Số. 75, tập 4, trang 132-135.
75. Philip Kotler, (2011), Quản trị Marketing Người dịch: PTS Vũ Trọng Hùng,
Nhà xuất bản: Nxb Lao động - Xã hội
76. Qinghua Zhu, Ying Li, Yong Geng, Yu Qi (2013), Greenfood consumption
131
intention, behaviors và influencing factors among Chinese consumers, Food
Quality và Preference,Số 28, Tập 1, April 2013, Trang 279–286
77. Ramayah, T., Lee, J.W.C., Mohamad, O., (2010), Green product purchase
intention: some insights from a developing country. Resources,
Conservation and Recycling 54 (12), trang 1419-1427
78. Ricky Y. K. Chan: (2001), Determinants of Chinese consumers' green
purchase behavior, Psychology & Marketing, Số 18, Tập 4, trang 389–413,
79. Robert D. Straughan, James A. Roberts, (1999), "Environmental
segmentation alternatives: a look at green consumer behavior in the new
millennium", Tạp chí of Consumer Marketing, Vol. 16 Iss: 6, trang 558 –
575
80. Rylander, David H. và Charlotte Allen , (2001), "Understding Green
Consumption Behavior: Toward an Integrative Framework," American
Marketing, Association Winter Educators' Conference Proceedings, R.
Krishnan và M.Viswanathan, eds., Số 11, trang 386-387.
81. Sergio Silva Braga Junior , Dirceu da Silva , Marcelo Luiz D.S. Gabriel
(2014), AcE-Bs 2014 Seoul (Asian Conference on Environment-Behaviour
Studies),Chung-Ang University, Seoul, S. Korea, 25-27, Procedia - Social
and Behavioral Sciences, Số 170, Trang 99-108
82. Shrum, L.J., John A. McCarty và Tina M. Lowrey (1995), Characteristicsof
the Green Consumer và their Implications for Advertising Strategy,‖ Tạp chí
of Advertising, số 14, trang 71–82
83. Sisira (2011) Asian Development Review: Số 29
84. Stern, P.C., (2000), New environmental theories: toward a coherent theory
of environmentally significant behavior. Tạp chí Social Tập 56 (3), trang
407-424
85. Stewart Barr (2003), Strategies for sustainability: citizens và responsible
environmental behaviour, Area, Số 35, Tập 3, trang 227–240,
86. Stewart Lockie, Kristen Lyons, Geoffrey Lawrence và Kerry Mummery
(2002), Eating ‗Green‘: Motivations behind organic food consumption in
Australia, Sociologia Ruralis, Số 42, Tập 1, trang 23–40,
132
87. Straughan và Roberts (1999), Environmental segmentation alternatives:
a look at green consumer behavior in the new millennium, Browse Tạp chís
& Books, Tạp chí of Consumer Marketing, Số 16, Tập 6
88. Tania Briceno, ―The role of social processes for sustainable consumption‖,
Tạp chí of Cleaner Production, Số 14, Tập 17, trang 1541–1551
89. Tina Mainieri (1997), Green Buying: The Influence of Environmental
Concern on Consumer Behavior ,the Tạp chí of Social Psychology, Số 137,
Tập 2, 1997
90. Tsakiridou, E., Boutsouki, C., Zotos, Y. & Mattas ―Attitudes và
behaviour towards organic products: an exploratory study‖, International
Tạp chí Retail & Distribution Management (2008), số 36 (2), trang 158-175
91. Thomas C. Kinnear, James R. Taylor và Sadrudin A. Ahmed (1974),
Ecologically Concerned Consumers: Who Are They?, Tạp chí Marketing, số
38, tập 2 (Apr., 1974), trang 20-24
92. Thomas Failla và Gopalakrishna, (2014), "Moderator role in green product
purchases." Tạp chí Atlantic Marketing, số. 3, bài 2.
93. Trudel & Argo, (2013), The Effect of Product Size và Form Distortion on
Consumer Recycling Behavior, Tạp chí Consumer Research, số 40, tập 4,
trang 632-643
94. Vermeir và Verbeke (2004), Consumer perception và choice of minimally
processed vegetables and packaged fruits, Tạp chí: Food Quality và
Preference, Số 15, Tập 3, Trang 259-270
95. International Institute for Sustainable Development: A global guide (2013)
96. William Young, Kumju Hwang, Seonaidh McDonald và Caroline J. Oates
(2010), Sustainable consumption: green consumer behaviour when
purchasing products
97. Yoon-Na Cho, Anastasia Thyroff, Molly I. Rapert, Seong-Yeon Park, Hyun
Ju Lee (2012), To be or not to be green: Exploring individualism và
collectivism as antecedents of environmental behavior.
98. Zeng, Y., Xia, W., Huang, B.,( 2007), The consumer consciousness và
corresponding influencing factors for green purchasing e based on the
133
analysis of consumer survey in Beijing. Consumer Economics, số 23, trang
38 – 42,
99. Zhang, (2008), Chemically Derived, Ultrasmooth Graphene Nanoribbon,
Semiconductors, Tạp chí Science, Số 319, Tập 5867, trang 1229-1232
100. Zhang, B., Bi, J., Yuan, Z.W., Ge, J.., (2007), Who will be more active in
sustainable consumption? Evidence from China, Tạp chí Environment và
Sustainable Development, số 6 (4), trang 389-404.
101. Zhang, X., Yu, L., (2006), An analysis of green consumer behavior e based
on consumers in Shanghai. Tạp chí of Agro-technical Economics, trang 30-
35.
102. Zhou, J., Zhou, H., (2007), Analysis on the influencing factors on the
consumption of green food: a survey from Liaoning Province. Market
Modernization, trang 75-77
103. Zu, Y., Feng, A., Pan, X., He, G., (2007), Survey analysis of consumption
psychology và behaviors of green clothing consumers. Tạp chí Industrial
Science and Technology, số 24, trang 144-145
PHỤ LỤC 1: BẢNG THỐNG KÊ TỔNG QUAN TÀI LIỆU ST
T
Tên tài
liệu
Tác giả
và năm
xuất
bản
Nội dung chính Mẫu và
phạm vi
nghiên cứu
Mô hình
nghiên cứu
Phƣơng
pháp
nghiên cứu
Kết quả chính Hạn chế của
nghiên cứu
và khoảng
trống
1 Nhân tố
ảnh
hưởng
đến
hành vi
tiêu
dùng
xanh ở
Trung
Quốc -
Một
nghiên
cứu
tình
huống
tại
Thanh
Đảo
Hui-hui
Zhao,
Qian
Gao,
Yao-
ping
Wu,
Yuan
Wang,
Xiao-
dong
Zhu
(2013)
Nghiên cứu này
phát triển một
khung lý thuyết về
hành vi người tiêu
dùng xanh nhằm xác
định những tác động
của ảnh hưởng cá
nhân, kiến thức về
tiêu dùng xanh, thái
độ đối với tiêu dùng
xanh, nhân tố điều
tiết bên trong và bên
ngoài và xác định
những tác động đó
có khác biệt đáng kể
giữa các hành vi
mua, sử dụng và tái
chế
Cuộc điều
tra được tiến
hành tại
Thanh Đảo,
khu vực nằm
ở phía nam
của bán đảo
Sơn Đông,
tiếp giáp với
biển Hoàng
Hải với 520
mẫu ngẫu
nhiên
Mô hình đúc
kết bản chất
của mô hình
Rylander và
Allen (2001)
nhằm giải
thích động
lực của hành
vi người tiêu
dùng xanh.
Phân tích
tương quan
và hồi quy
đa được áp
dụng để
đánh giá dữ
liệu đã thu
thập bằng
một bảng
câu hỏi
khảo sát.
Kết quả cho thấy thái độ
là yếu tố dự đoán quan
trọng nhất trong hành vi
mua hàng. Hành vi sử
dụng được xác định chủ
yếu theo thu nhập, hiệu
quả người tiêu dùng
nhận thức được và độ
tuổi, trong khi đó hành
vi tái chế bị ảnh hưởng
mạnh mẽ bởi hành vi sử
dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng
tới mối quan hệ giữa ý
định và hành vi tiêu
dùng xanh là nhận thức
hiệu quả và thúc đẩy
của doanh nghiệp
Chưa thực
sự đánh giá
được tác
động của các
nhân tố bên
trong và bên
ngoài tới
mối quan hệ
giữa ý định
và hành vi
tiêu dùng
xanh
2 Ý định,
hành vi
và các
Qinghu
a Zhu,
Ying
Bài viết này nhằm
mục đích phân tích
cách làm thế nào để
Chúng tôi
đưa ra 488
bản câu hỏi,
Dựa vào mô
hình thuyết
hành động
Bài viết sử
dụng phân
tích nhân tố
Kết quả cho thấy rằng
việc thúc đẩy có thể
mang lại ý định tiêu thụ
Các nghiên
cứu sâu hơn
có thể được
yếu tố
ảnh
hưởng
đến tiêu
dùng
thực
phẩm
xanh
của
người
tiêu
dùng
Trung
Quốc.
Li,
Yong
Geng,Y
uQi
(2012)
thúc đẩy ý định tiêu
thụ thực phẩm xanh
và từ đó cuối cùng
mang lại hành vi
tiêu dùng thực phẩm
xanh thực sự bằng
cách sử dụng một
mẫu 457 người tiêu
dùng ở Trung Quốc.
trong đó có
457 là hợp lệ
và có thể sử
dụng, trong
đó có 259
trường hợp
khu vực phát
triển, và 198
câu trả lời là
từ các khu
vực đang
phát triển.
theo dự tính,
chúng tôi
phát triển
một mô hình
lý thuyết
trong đó đề
xuất rằng
các yếu tố
ảnh hưởng
bên trong
của người
tiêu dùng
mang lại mối
quan hệ giữa
các yếu tố
ảnh hưởng
bên ngoài và
ý định tiêu
thụ thực
phẩm xanh
trong khi các
yếu tố bối
cảnh như sự
không thuận
tiện khi mua
hàng sẽ tiết
chế mối
quan hệ giữa
và phân
tích mô tả
cùng với
phương
pháp hồi
quy phân
cấp.
thực phẩm xanh nhưng
cũng cần tạo ra giá trị
môi trường của người
tiêu dùng. Những tiện
ích khi mua sắm có thể
thúc đẩy ý định tiêu thụ
thực phẩm xanh trở
thành hành vi tiêu thụ
thực phẩm xanh thực sự
nhưng nó chưa thuận
tiện để mua thực phẩm
xanh ở Trung Quốc.
Giáo dục ảnh hưởng đến
ý định tiêu thụ thực
phẩm xanh và thu nhập
gia đình quyết định liệu
ý định có thể trở thành
hành vi tiêu dùng thực
phẩm xanh hay không
thực hiện để
phát hiện
những nhân
tố khác ảnh
hưởng đến
việc thúc
đẩy việc ý
định trở
thành hành
vi tiêu dùng
xanh thực
sự.
ý định và
hành vi tiêu
thụ thực
phẩm xanh.
3 Khắc
phục
những
rào cản
đối với
các
hoạt
động
thị
trường
hàng
tiêu
dùng
xanh
Noah
Kaufma
n
(2013)
Các sản phẩm xanh
thân thiện với môi
trường phải đối mặt
với một rào cản đặc
biệt thị trường.Bài
viết phát triển một
mô hình động trong
đó một sản phẩm
tiêu dùng xanh xâm
nhập một thị trường
để thách thức một
sản phẩm ―không
sạch sẽ‖ có sẵn từ
đó đưa ra những đặc
diểm đặc biệt của
hàng tiêu dùng
xanh.
Sử dụng mô
hình mô
phỏng với
giả sử là có
10000 khách
hàng trong
tổng thể và
chạy với
1000 mô
hình.
Dựa vào
những mô
hình nền
tảng có sẵn
như thuyết
mô hình
động.
Sử dụng
mô hình
mô phỏng
với giả sử
là có 10000
khách hàng
trong tổng
thể và chạy
với 1000
mô hình.
Một đặc điểm chính của
hàng tiêu dùng xanh là
sản phẩm có hiệu quả
năng lượng, nghĩa là
một sản phẩm sẽ có lợi
ích về mặt môi trường
hơn nếu nó được sản
xuất với ít năng lượng
hơn so với các mặt hàng
thay thế. Một thành
phần trong chất lượng
của sản phẩm xanh là
"chất lượng môi trường"
- trong đó người tiêu
dùng phải có sự tự tin
để xem xét việc mua các
sản phẩm. Nói cách
khác, người tiêu dùng
phải tin rằng sản phẩm
là thực sự mang lại lợi
ích cho môi trường.
Khi một
người tiêu
dùng được
lựa chọn để
hành động,
có thể nói
rằng với một
xác suất nào
đó, người
tiêu dùng
không nhận
thức được sự
tồn tại của
sản phẩm
xanh, vì vậy
họ sẽ tự
động chọn
mua hàng
hóa ―bẩn‖,
bất kể rằng
họ sẵn lòng
trả tiền để
bảo vệ môi
trường.
4 Thái độ
và ý
định
mua
của
người
tiêu
dùng
đối với
những
thương
hiệu
năng
lượng
xanh:
Vai trò
của lợi
ích tâm
lý và
mối
quan
tâm về
môi
trường.
Patrick
Hartma
nn,
Vaness
a
Apaola
za-
Ibáñez
(2011).
Bài viết này cho
thấy rằng các chiến
dịch quảng cáo
nhắm vào gia tăng
nhu cầu tiêu dùng
năng lượng xanh
nên không chỉ quan
tâm đến môi trường
và lợi ích thực dụng
mà còn phải chú ý
đến lợi ích tâm lí
thương hiệu. Khung
lý thuyết đề xuất ba
loại lợi ích tâm lí có
khả năng tăng
cường thái độ của
người tiêu dùng đối
với thương hiệu
năng lượng xanh và
ý định mua hàng:
thoải mái về tinh
thần, lợi ích tự bạch,
trải nghiệm tự
nhiên.
Một mẫu
726 người
tiêu dùng đã
được chọn
để tiếp xúc
với thực
nghiệm
quảng cáo
cho một
thương hiệu
năng lượng
xanh giả
định.
Mô hình
nghiên cứu
sự ảnh
hưởng của
lợi ích nhận
thức (lợi ích
thực dụng,
thoải mái về
tinh thần, lợi
ích tự bạch,
trải nghiệm
tự nhiên) và
mối quan
tâm về môi
trường trên
thái độ đối
với thương
hiệu năng
lượng xanh
và ý định
mua của
khách hàng.
(―utilitarian
benefits‖,
―warm
glow‖, ―self-
expressive
benefits‖,
Sử dụng
AMOS 6
để phân
tích mô
hình cấu
trúc SEM
(Strutural
Equation
Modeling)
từ đó đánh
giá mối
quan hệ
giữa các
biến tiềm
ẩn.
Kết quả nghiên cứu xác
nhận hầu hết các ảnh
hưởng dự đoán và nhấn
mạnh ý nghĩa tổng thể
của lợi ích tâm lí thương
hiệu. Chỉ có lợi ích tự
bạch (self-expressive
benefits) là không ảnh
hưởng đến thái độ của
người tham gia đối với
các thương hiệu thử
nghiệm cũng như ý định
mua hàng của họ. Trải
nghiệm tự nhiên có ảnh
hưởng mạnh nhất đến
thái độ đối với thương
hiệu. Phân tích cấu trúc
đa nhóm cho thấy rằng
những trải nghiệm tự
nhiên gợi lên bởi các
quảng cáo tiết chế
những ảnh hưởng của
hành vi trước đó đã
được nghiên cứu về thái
độ đối với thương hiệu
và ý định mua.
Nghiên cứu
này là
nghiên cứu
thực nghiệm
và chủ yếu
mang tính
chất thăm
dò, tập trung
vào một
thương hiệu
năng lượng
xanh duy
nhất trong
một cuộc
khảo sát
thực nghiệm
và không đo
lường hành
vi mua thực
tế. Nghiên
cứu trong
tương lai nên
tiếp tục phát
triển các cấu
trúc lợi ích
tâm lý đã
được đề xuất
và xác nhận
―nature
experiences‖
,
―environmen
tal concern‖
affect the
―Brand
attitude‖ and
―Purchase
intention‖ )
những kết
quả trong
một thiết
lập, bối cảnh
rộng lớn hơn
5 Một
cuộc
điều tra
thực
nghiệm
về hành
vi tiêu
dùng
xanh
trong
giới trẻ
Maturo
s
Kancha
napibul,
Ewelina
Lacka,
Xiaojun
Wang,
Hing
Kai
Chan
(2013)
Nghiên cứu này
kiểm tra một cách
thực nghiệm ảnh
hưởng của sinh thái
học và kiến thức về
sinh thái học đến
hành vi mua sắm
xanh của thế hệ trẻ.
Một cuộc
khảo sát đã
được thực
hiện đối với
người tiêu
dùng trẻ
trong độ tuổi
từ 18 và 30.
Tổng cộng
có 110 câu
hỏi đã được
chọn để
phân tích.
Các giả
thuyết tập
trung vào thế
hệ trẻ.
Khách hàng
trẻ với
những phản
ứng tình cảm
mạnh mẽ
hơn đến các
vấn đề xanh,
có nhiều
kiến thức về
các vấn đề
xanh sẽ có
một ý định
mạnh mẽ
hơn để tham
Phân tích
mô hình
cầu trúc
SEM được
áp dụng để
kiểm định
các giả
thuyết.
Các kết quả phân tích
khẳng định rằng tác
động sinh thái học và
kiến thức là trọng yếu
trong việc xác định sự
tham gia tiêu dùng xanh
của người tiêu dùng trẻ
cũng như hành vi mua
thực tế của họ.
Các loại
khách hàng
tiêu dùng có
thể được mở
rộng để thực
hiện hành vi
xanh.
Nghiên cứu
trong tương
lai có thể
được thực
hiện bằng
cách mở
rộng các
nghiên cứu
về thái độ
đối với môi
trường nói
gia vào việc
tiêu dùng
xanh. Giới
trẻ với một ý
định mạnh
mẽ hướng
tới tiêu dùng
xanh sẽ có
nhiều khả
năng tham
gia vào tiêu
dùng và mua
hàng xanh
trên thực tế
chung, có
thể được chỉ
ra bằng cách
so sánh các
nhóm người
tiêu dùng
khác nhau.
Ngoài ra,
mục tiêu
chính của
nghiên cứu
không phải
để đề xuất
các sản
phẩm xanh
cụ thể.
Nghiên cứu
tiếp theo có
thể hữu ích
trong việc
xác định sức
hấp dẫn của
một sản
phẩm xanh
cụ thể đối
với người
tiêu dùng.
6 Sự ảnh David Nghiên cứu về hành Một cuộc Mô hình Phân tích Kết quả cho thấy niềm Một số yếu
hưởng
của
niềm
tin và
thái độ
đối với
môi
trường
của
người
tiêu
dùng về
các
hành vi
tiết
kiệm
năng
lượng.
Gadenn
e,
Bishnu
Sharma
, Don
Kerr,
Tim
Smith
(2011)
vi môi trường của
người tiêu dùng, và
các niềm tin, các
chuẩn mực và thái
độ có ảnh hưởng
đến hành vi này.
Chúng tôi phát triển
một mô hình khái
niệm về hành vi của
người tiêu dùng đối
với môi trường và
các tiền thân của nó,
sau đó kiểm tra giả
thiết trong khuôn
khổ của một cuộc
khảo sát hướng tới
người tiêu dùng
xanh.
khảo sát trực
tuyến được
đưa đến
khách hàng
của ba công
ty 'thân thiện
môi trường',
họ bán sản
phẩm xanh
và các dịch
vụ trong khu
vực
Sunshine
Coast của
Australia.
Có tổng số
1.476 phiếu
câu hỏi hợp
lệ từ khách
hàng.
khái niệm
được sử
dụng trong
báo cáo này
được xây
dựng trên lý
thuyết về
hành vi dự
kiến 'TPB'
(theory of
planned
behavior)
của Ajzen
với một số
sửa đổi .
'Nhận thức
tự điều
chỉnh'
(Cognitive
self-
regulation)
đóng một vai
trò quan
trọng trong
lý thuyết này
và đây là
một phần
mở rộng của
nhân tố
khám phá,
phân tích
phương sai
đa biến
(MANOV
A) và phân
tích hồi quy
đa biến đã
được thực
hiện.
tin về môi trường nói
chung ảnh hưởng đến
hoạt động liên quan đến
môi trường và giá cả,
nhưng chỉ có định mức
về giá tương quan với
thái độ đối với môi
trường; tác động của
môi trường bên trong và
bên ngoài cùng với
chuẩn mực xã hội và
ảnh hưởng của cộng
đồng là liên quan với
thái độ môi trường,
nhưng những rào cản về
chi phí có thể có một
ảnh hưởng tiêu cực. Kết
quả cũng cho thấy rằng
có một mối liên quan
giữa thái độ về môi
trường và hành vi tiết
kiệm năng lượng nhưng
không chịu ảnh hưởng
bởi chính sách hoặc trợ
cấp của chính phủ.
tố như thiếu
thời gian để
phân tích,
hạn chế
thông tin về
các vấn đề
và các lựa
chọn, khả
năng xử lý
hạn chế hay
chỉ là thiếu
sự quan tâm
và sự lười
biếng, người
tiêu dùng có
thể cư xử
không hợp
lý trong mọi
thời gian.
Trong khi
các mô hình
lý thuyết
được sử
dụng trong
nghiên cứu
này dựa trên
nghiên cứu
trước đó,
lý thuyết
hành động lý
luận
(reasoned
action).
việc vận
hành của các
cấu trúc có
sẵn có thể
không phản
ánh đầy đủ
bản chất
thực sự của
những cấu
trúc đó.
7 Các yếu
tố ảnh
hưởng
đến
hành vi
lựa
chọn
sản
phẩm
xanh
dựa
trên
một lý
thuyết
về giá
trị tiêu
dùng.
Pei-
Chun
Lin, Yi-
Hsuan
Huang
(2011)
Nghiên cứu này
được áp dụng các lý
thuyết về giá trị tiêu
dùng để xác định
các yếu tố ảnh
hưởng đến hành vi
lựa chọn của người
tiêu dùng về sản
phẩm xanh, và việc
liệu có sự khác biệt
trọng yếu trong các
giá trị tiêu dùng và
hành vi lựa chọn
giữa người tiêu
dùng với các nhận
định khác nhau về
vấn đề môi trường.
Để kiểm tra
các mẫu đại
diện, sự biểu
hiện khác
biệt về mặt
hệ thống đã
được thử
nghiệm giữa
những người
tham gia
mẫu đầu và
những người
tham gia
mẫu sau đó
bằng cách
kiểm tra sự
khác biệt
trung bình
Mô hình và
các giả thiết
được phát
triển dựa vào
những nền
tảng trước
đó. Trong
đó, giá trị
chức năng,
giá trị xã
hội, giá trị
cảm xúc, giá
trị điều kiện,
giá trị tri
thức và mức
độ quan tâm
về môi
trường của
Phân tích
phương sai
một chiều
và hồi quy
đa biến
được sử
dụng để
đánh giá
các dữ liệu
thu thập
bởi một
bảng câu
hỏi khảo
sát.
Kết quả chỉ ra rằng
người tiêu dùng với các
mối quan tâm cao về
môi trường sẽ ủng hộ
các sản phẩm xanh
nhiều hơn, và thể hiện
sự sẵn sàng cao hơn khi
chọn mua sản phẩm
xanh. Nghiên cứu này
kết luận rằng các yếu tố
ảnh hưởng đến hành vi
lựa chọn của người tiêu
dùng về sản phẩm xanh
bao gồm lợi ích tinh
thần, khát vọng kiến
thức, tìm kiếm sự mới
lạ, điều kiện cụ thể và
không bao gồm giá trị
Trong mẫu
có 48%
khách hàng
không biết
liệu mình đã
từng mua
sản phẩm
xanh chưa,
25% không
biết đến sản
phẩm xanh.
Do đó,
nghiên cứu
này nên tập
trung hơn
vào khách
hàng biết
đến sản
giữa hai
nhóm. Trong
mẫu có 484
câu hỏi, 412
hợp lệ, tỷ lệ
đáp ứng là
85.12%.
người tiêu
dùng sẽ có
tác động tích
đến hành vi
lựa chọn của
người tiêu
dùng liên
quan đến sản
phẩm xanh.
chức năng, giá cả và
chất lượng.
phẩm xanh
và tiêu dùng
xanh.
8 Các yếu
tố ảnh
hưởng
đến
hành vi
tiêu
dùng
bền
vững:
một
điều tra
của cư
dân
nông
thôn ở
Trung
Quốc
Ping
Wang,
Qian
Liu,Yu
Q
(2013)
Bài viết này tập
trung vào một phân
tích chi tiết về tình
hình hiện nay, đặc
điểm và quan trọng
nhất là quá trình ra
quyết định của các
hành vi tiêu dùng
bền vững (SCB:
sustainable
consumption
behaviors) của cư
dân nông thôn ở
Trung Quốc.
Dữ liệu được
thu thập từ
các cuộc
điều tra được
tiến hành ở
35 thành phố
hoặc quận
khác nhau,
với tổng số
1.403 phiếu
được phân
phối ngẫu
nhiên trong
50 làng
trong số 35
khu vực
được lựa
chọn.
Tích hợp các
yếu tố từ các
mô hình
khác nhau
với việc xem
xét thực tế
của các khu
vực nông
thôn, bài viết
này tóm tắt
một số yếu
tố quan
trọng mà có
thể có những
ảnh hưởng
(trực tiếp
hoặc gián
tiếp) đến
hành vi tiêu
Dựa trên
các phân
tích mô tả,
ta thấy tình
hình hiện
tại của
hành vi tiêu
dùng bền
vững của
các cư dân
nông thôn
và các yếu
tố ảnh
hưởng,
trong đó có
ý định hành
vi, kiến
thức về môi
trường,
Kết quả cho thấy ý định
hành vi đóng vai trò
quan trọng nhất trong
việc giải thích các hành
vi, trong khi khả năng
giải thích của các biến
tâm lý là thấp khi giải
thích cho hành vi tiêu
dùng bền vững tổng thể
và các danh mục con
khác.
Đầu tiên,
yếu tố hoàn
cảnh cụ thể
hoặc một số
yếu tố khác
có thể được
thêm vào mô
hình để nâng
cao khả năng
giải thích
của mô hình.
Thứ hai, hầu
hết các
nghiên cứu
địa phương,
bao gồm cả
nghiên cứu
này, có
nguồn gốc từ
dùng bền
vững của các
cư dân nông
thôn và đề
xuất một
khuôn khổ
hệ thống kết
hợp với các
yếu tố quyết
định mà các
nghiên cứu
trước đó đã
khám phá.
nhận thức
về hậu quả,
trách nhiệm
môi trường,
giá trị môi
trường,
nhận thức
kiểm soát
hành vi,
hiệu quả
đáp ứng,
nhạy cảm
đối với môi
trường và
cả yếu tố
hoàn cảnh.
Bài viết
này còn sử
dụng các
phân tích
đường dẫn
để làm rõ
các quá
trình ra
quyết định
của hành vi
tiêu dùng
bền vững.
các nghiên
cứu phương
Tây, được
đặt trong bối
cảnh xã hội
và văn hóa
Âu-Mỹ.
Thứ ba, các
nghiên cứu
trong tương
lai nên chú ý
hơn đến quá
trình thiết kế
bảng câu hỏi
và lựa chọn
mẫu, bài
nghiên cứu
này đã
không tính
toán đến sự
chênh lệch
về khu vực.
9 Tiêu
dùng
bền
vững:
Hành vi
của
người
tiêu
dùng
xanh
khi mua
sản
phẩm.
William
Young,
Kumju
Hwang,
Seonaid
h
McDon
ald and
Carolin
e J.
Oates
(2010)
Bài viết này điều tra
quá trình mua hàng
đối với người tiêu
dùng xanh trong
mối quan hệ với tiêu
dùng sản phẩm công
nghệ ở Anh
Dữ liệu được
thu thập từ
81 người
tiêu dùng
xanh thông
qua các cuộc
phỏng vấn
sâu về mua
sắm gần đây
của các sản
phẩm công
nghệ.
Một mô hình
mua hàng
của người
tiêu dùng
xanh được
phát triển và
tiêu chí
thành công
để thu hẹp
khoảng cách
giữa giá trị
tiêu dùng và
hành vi của
họ.
Các tác giả
sử dụng
phỏng vấn
chuyên sâu
để thu thập
dữ liệu để
tìm hiểu
thực tế
hành vi
mua của
người tiêu
dùng và lý
giải những
hành vi đó.
Bài viết kết luận rằng
những khuyến khích sẽ
giúp người tiêu dùng tập
trung các nỗ lực hạn chế
của họ. Về cơ bản, để
tiêu dùng trở nên
―xanh‖ cần có thời gian
và không gian trong
cuộc sống của người
dân mà điều đó không
có sẵn trong lối sống
ngày càng bận rộn này.
Nghiên cứu
trong tương
lai có thể sử
dụng các thí
nghiệm xã
hội để kiểm
tra các
nguồn thông
tin khác
nhau (ví dụ
như từ sách
vở) và các
phương pháp
động lực (ví
dụ như các
nhóm cộng
đồng) hoặc
các kịch bản
chính sách
trong một
loạt các vị trí
địa lý kinh
tế-xã hội
khác nhau để
làm sáng tỏ
các ảnh
hưởng của
bối cảnh đến
việc ra quyết
định. Một
nghiên cứu
khác có thể
phân tích
đầy đủ hơn
các xung đột
giữa các giá
trị đạo đức
khác nhau và
cách chúng
được dung
hòa với
nhau.
10 Hiệu
quả
hoạt
động
môi
trường
của
công ty
và ý
định
mua
hàng
của
người
Martin
Grimm
er,
Timoth
y
Bingha
m
(2013)
Nghiên cứu này
xem xét mối quan
hệ giữa nhận thức
về hiệu quả hoạt
động môi trường
của một công ty
(PEP: perceived
environmental
performance) và ý
định mua của người
tiêu dùng, sau đó
xác định liệu mối
quan hệ này được
điều tiết bởi mức độ
Cuộc khảo
sát đã được
lấy mẫu một
cách ngẫu
nhiên từ các
cư dân ở
Hobart, thủ
phủ của
Tasmania,
Australia.
Có tất cả là
698 câu trả
lời.
Bốn giả
thuyết được
đưa ra từ
những cơ sở
lí thuyết
trước đó.
Giả thuyết 1
cho rằng
người tiêu
dùng có ý
định mua
hàng cao
hơn cho các
sản phẩm từ
Thống kê
mô tả được
sử dụng,
ngoài ra dữ
liệu còn
được phân
tích bằng
cách sử
dụng phân
tích
phương sai
3 chiều
(ANOVA)
Khách hàng có ý định
mua hàng cao hơn cho
các sản phẩm của các
công ty có PEP cao.
Những người có EI cao
sẽ có ý định mua hàng
cao hơn cho các công ty
PEP cao và ngược lại
cho các công ty PEP
thấp. Tuy nhiên, khách
hàng nhiều khả năng
chọn một công ty có
PEP cao khi giá tương
đối của một sản phẩm là
Mẫu có chứa
một sự thiên
vị về phía
người tiêu
dùng có EI
cao. Ngoài
ra, nghiên
cứu bị ảnh
hưởng và
giới hạn bởi
những khác
biệt không
thể tránh
khỏi tồn tại
tiêu
dùng
của người tiêu dùng
tham gia hoạt động
môi trường
(Environmental
Involvement) và giá
của các sản phẩm
trong công ty.
các công ty
có PEP cao
hơn. Giả
thuyết 2 nói
về mối quan
hệ giữa PEP
và EI, giả
thuyết 3 về
mối quan hệ
giữa PEP và
Price. Còn
lại, giả
thuyết 4 nói
về mối quan
hệ 3 chiều
giữa PEP, EI
và Price.
thấp, không phân biệt
mức độ EI.
giữa ý định
mua và hành
vi thực tế.
11 Cảm
xúc
mong
đợi
trong ý
định
lựa
chọn
nhà
hàng
thân
Yong
Joong
Kim,
David
Njite,
Murat
Hancer
(2013)
Nghiên cứu này đề
xuất và khám phá
một khung lý thuyết
liên quan đến cảm
xúc dựa trên mô
hình thuyết hành
động theo dự tính
(TPB: theory of
planned behaviors)
để kiểm tra mối
quan hệ giữa các
Mẫu được
lấy từ các
sinh viên độ
tuổi từ 19-29
đang theo
học tại các
trường Đại
học lớn ở
vùng Trung
Tây nước
Mỹ năm
Nghiên cứu
tăng cường
mô hình
thuyết hành
động theo dự
tính với việc
xây dựng
―hối tiếc dự
kiến‖
(anticipated
regret), bên
Phân tích
nhân tố
khám phá
(thông qua
phân tích
thành phần)
được thực
hiện bằng
cách sử
dụng
chương
Kết quả cho thấy mô
hình ra quyết định như
TPB nên kết hợp cảm
xúc và chú ý nhiều hơn
đến những yếu tố thuận
lợi cho việc ra ý định.
Những phát hiện này
cung cấp cái nhìn sâu
sắc hơn nữa vào quá
trình ra quyết định của
người tiêu dùng, đây là
Thứ nhất,
nghiên cứu
này đã chỉ
kiểm tra ý
định thực
hiện hành vi
sinh thái đối
với một mẫu
của sinh viên
đại học. Thứ
hai, nghiên
thiện
với môi
trường
của
người
tiêu
dùng:
Sự tăng
cường
của mô
hình
thuyết
hành vi
theo kế
hoạch
biến từ đó giải thích
sự chấp nhận cũng
như tham gia của
người tiêu dùng vào
các hành vi liên
quan đến sinh thái.
2011.
Nghiên cứu
nhận được
438 câu trả
lời, 27 câu
trả lời do
thiếu thông
tin nên bị
loại bỏ, vì
vậy có 411
kết quả được
dùng để
phân tích.
cạnh đó
kiểm tra
năng lực dự
báo của
thuyết hành
động theo dự
tính đối với
ý định của
người tiêu
dùng để
chọn những
nhà hàng
thân thiện
với môi
trường.
trình SAS®
để xác định
các khía
cạnh tiềm
ẩn của các
biến ngoại
sinh và
kiểm tra
xem tất cả
các mục có
liên quan
đến từng
yếu tố.
Phân tích
nhân tố
khẳng định
(CFA) đã
được tiến
hành để
đánh giá
tính đầy đủ
của các
thành phần
đo lường
trong mô
hình đề
xuất. Sau
đó, mô
điều cần thiết cho sự
phát triển của các chiến
lược marketing xanh
trong bối cảnh nhà hàng
hiện nay.
cứu này
quan tâm tới
các tác động
của việc tập
trung vào
cảm xúc
tiêu cực, cụ
thể là ―hối
tiếc dự
kiến‖.
Những
nghiên cứu
xa hơn được
khuyến nghị
để xác định
sự ảnh
hưởng của
các cảm xúc
tích cực.
hình cấu
trúc SEM
được sử
dụng để
phân tích
mô hình
tổng thể.
12 Ăn
uống
xanh.
Sự sẵn
sàng
của
người
tiêu
dùng để
áp dụng
các
hành vi
tiêu thụ
thực
phẩm
xanh.
Christin
a
Tobler,
Viviann
e H.M.
Vissche
r,
Michael
Siegrist
(2011)
Trong một cuộc
khảo sát quy mô
lớn, chúng tôi khảo
sát niềm tin của
người tiêu dùng về
tiêu thụ thực phẩm
sinh thái và sự sẵn
sàng của họ để chấp
nhận những hành vi
như vậy. Ngoài ra,
chúng tôi điều tra
chi tiết hơn các
động cơ khác nhau
và thái độ liên quan
đến thực phẩm ảnh
hưởng tới sự sẵn
sàng của người tiêu
dùng để giảm tiêu
thụ thịt và mua trái
cây, rau quả theo
mùa.
Một chương
trình máy
tính chọn
ngẫu nhiên
các hộ gia
đình trong
danh bạ điện
thoại ở các
khu vực nói
tiếng Pháp
và Đức. Dựa
trên mã bưu
chính, các hộ
gia đình
nhận được
câu hỏi tiếng
Đức hoặc
tiếng Pháp
cùng với
một phong
bì có dán
Nghiên cứu
này điều tra
nhận thức
của người
tiêu dùng về
lợi ích môi
trường trong
một số mô
hình tiêu thụ
sinh thái và
sự sẵn sàng
của họ để
lựa chọn
những hành
vi này.
Nghiên đã
kiểm tra các
động cơ và
thái độ có
thể quyết
định sự sẵn
Nghiên cứu
sử dụng
thống kê
mô tả để
phân tích
cảm nhận
thân thiện
với môi
trường của
người tiêu
dùng trong
các mô
hình tiêu
thụ sinh
thái cũng
như sự sẵn
sàng của họ
để thực
hiện những
hành vi
này. Sau
Kết quả cho thấy người
tiêu dùng tin rằng tránh
đóng gói quá mức có tác
động mạnh nhất đến
môi trường, trong khi
đó họ đánh giá việc mua
thực phẩm hữu cơ và
giảm tiêu thụ thịt mang
lại lợi ích cho môi
trường là ít nhất. Tương
tự như vậy, câu trả lời
dường chủ yếu là
―không sẵn sàng‖ để
giảm tiêu thụ thịt và
mua thực phẩm hữu cơ.
Khẩu vị và động cơ về
mặt môi trường ảnh
hưởng tới sự sẵn sàng
của người tiêu dùng để
ăn các loại trái cây và
rau quả theo mùa, trong
Dữ liệu của
chúng tôi
được dựa
trên sự tự
báo cáo hành
vi, mà không
nhất thiết
phải là hành
vi thật sự.
Một mặt
khác, người
tiêu dùng có
thể nhầm lẫn
mô hình tiêu
thụ của họ
như là tiêu
dùng bởi vì
họ thiếu
thông tin.
Ngoài ra, đo
lường hành
tem và đìa
chỉ gửi trả
lại. Nhóm
nghiên cứu
cũng gửi câu
hỏi cho các
hộ gia đình
sử dụng
thường
xuyên dịch
vụ bưu chính
Thụy Sỹ.
Tổng cộng
có 6189 kết
quả.
lòng của
người tiêu
dùng để
giảm tiêu thụ
thịt và ăn
trái cây và
rau quả theo
mùa.
đó, tác giả
sử dụng
phân tích
hồi quy đa
biến để dự
đoán sự sẵn
long của
khách hàng
để ăn các
loại trái
cây, rau
quả theo
mùa và
giảm tiêu
thụ thịt.
khi sự chuẩn bị để giảm
tiêu thụ thịt chịu ảnh
hưởng bởi sức khỏe và
các động cơ về mặt đạo
đức. Phụ nữ và những
người trả lời là ưa thích
các loại thực phẩm tự
nhiên có xu hướng sẵn
sàng hơn để áp dụng mô
hình tiêu thụ thực phẩm
xanh.
vi thực tế sẽ
không cho
phép cái
nhìn sâu vào
các giai đoạn
người tiêu
dùng biểu
hiện sự sẵn
sàng để chấp
nhận hành vi
tiêu dùng
thực phẩm
xanh. Các
nghiên cứu
trong tương
lai có thể
tính toán đến
việc quan sát
trực tiếp để
đo lường sự
sẵn sàng của
người tiêu
dùng trong
việc thực
hiện hành vi
tiêu thụ thực
phẩm xanh.
13 Trở nên Yoon- Nghiên cứu này tận Câu hỏi Như một lý Tất cả các Các kết quả hỗ trợ cho Mở rộng
―xanh‖
hay
không
―xanh‖:
Khám
phá chủ
nghĩa
cá nhân
và chủ
nghĩa
tập thể
như các
tiền đề
của các
hành vi
đối với
môi
trường.
Na
Cho,
Anastas
ia
Thyroff
, Molly
I.
Rapert,
Seong-
Yeon
Park,
Hyun
Ju Lee
(2012).
dụng lịch sử lâu dài
của định hướng văn
hóa, kiểm tra ảnh
hưởng của chủ
nghĩa cá nhân và
chủ nghĩa tập thể
như các tiền đề của
hiệu quả nhận thức
của người tiêu dùng
(PCE: perceived
consumers
effectiveness), thái
độ đối với môi
trường và cam kết
về môi trường.
được thiết kế
để có thể thu
thập dữ liệu
ở hai nước
gần như là
khác biệt về
văn hóa:
Hàn Quốc và
Hoa Kỳ. Đã
có 726 người
tham gia
khảo sát này
và tất cả đều
là sinh viên
từ 18-33
tuổi.
thuyết mới
nổi để nắm
bắt-môi
trường vì
hành vi, lý
thuyết định
mức giá trị
niềm tin
(VBN:
value-belief
norm) đã
được công
nhận trong
lĩnh vực lí
thuyết về
hành vi môi
trường. Một
mô hình lí
thuyết gồm 5
giả thuyết
chính đã
được đề xuất
dựa trên lí
thuyết VBN.
giả định
của SEM
được đánh
giá trên các
mô hình đo
lường sử
dụng
AMOS 18.
Phân tích
nhân tố
khám phá
được sử
dụng để rút
gọn các
biến. Sau
đó, kiểm
định
Fornell-
Larcker đã
được sử
dụng để
kiểm tra
tính hợp lệ.
Ngoài ra,
kiểm định
t-test đã
được sử
dụng để
chủ nghĩa tập thể theo
chiều ngang và chủ
nghĩa cá nhân theo
chiều dọc như là những
sự ảnh hưởng quan
trọng trong nhận thức
hiệu quả tiêu dùng
(PCE). Đổi lại, PCE ảnh
hưởng tích cực đến thái
độ đối với môi trường
dẫn đến cam kết ủng hộ
môi trường thể hiện
trong ý định hành vi cụ
thể.
nghiên cứu
này trên
nhiều nước
sẽ cung cấp
một góc nhìn
thú vị, đặc
biệt nếu kết
hợp với việc
mở rộng liên
tục của độ
tuổi. Chúng
tôi khuyến
khích các
nghiên cứu
trong tương
lai sẽ phân
tích một mô
hình mở
rộng trong
đó xác định
các bước can
thiệp mà
thậm chí
diễn ra trước
PCE và thái
độ đối với
môi trường.
phân tích
sự khác
biệt giữa
các nhóm
người Mỹ
và Hàn
Quốc. Cuối
cùng, tất cả
các giả
thuyết được
kiểm định
thông qua
hệ số
đường dẫn
(path
coefficients
).
14 Niềm
tin của
người
tiêu
dùng và
ý định
hành vi
tiêu
dùng
đối với
thực
Lukas
Zagata
(2012)
Nghiên cứu tập
trung vào quyết định
mua hàng của khách
hàng ở các nước sau
xã hội chủ nghĩa đối
với sự nổi lên của
thị trường thực
phẩm hữu cơ.
Nghiên cứu đã dự
đoán và giải thích
hành vi của người
Mẫu được
chọn gồm
1.060 người
được hỏi,
trong đó có
1054 câu trả
lời hợp lệ.
Mẫu được
lấy dựa trên
phương pháp
chọn mẫu
Hành vi của
người tiêu
dùng đã
được đưa
vào mô hình
lí thuyết với
việc sử dụng
các lý thuyết
hành vi
hoạch định
(TPB). Thứ
Đầu tiên,
thống kê
mô tả cơ
bản được
sử dụng.
Sau đó,
kiểm định
mô hình
được thực
hiện với
phương
Các dự đoán tốt nhất bài
nghiên cứu đưa ra về ý
định mua thực phẩm
hữu cơ là thái độ đối với
các hành vi và chuẩn
mực chủ quan. Vị trí
quyết định trong niềm
tin của người tiêu dùng
là dựa vào chất lượng
của sản phẩm và quá
trình tạo ra sản phẩm
Bài nghiên
cứu được áp
dụng chỉ ở
cộng hòa
Séc nên có
một vài giả
thuyết bị
xung đột với
các nghiên
cứu trước
đó, ví dụ
phẩm
hữu cơ:
Một
nghiên
cứu ở
Cộng
hòa
Séc.
tiêu dùng hữu cơ tại
cộng hòa Séc.
định ngạch
(quota
sampling)
(giới tính,
tuổi tác, giáo
dục, và quy
mô của
thành phố),
mẫu được
chọn là đại
diện của dân
số của người
tiêu dùng
hữu cơ ở
cộng hòa
Séc.
nhất, các mô
hình TPB đã
được thử
nghiệm, thứ
hai, các yếu
tố về mặt
niềm tin ảnh
hưởng đến
các quyết
định và hành
vi của người
tiêu dùng đã
được khám
phá.
pháp phân
tích mô
hình cấu
trúc (SEM),
phương
pháp thống
kê để áp
dụng và
phân tích
khẳng định
lý thuyết
TPB.
đó. như năng lực
giải thích
của các
chuẩn mực
xã hội dường
như là khá
cao đối với
mô hình về
hành vi của
người tiêu
dùng.
15 Phân
tích các
nhân tố
ảnh
hưởng
đến
hành vi
mua
sắm
trực
tuyến
của
Nguyễn
Thị Bảo
Châu,
Lê
Nguyễn
Xuân
Đào
(2014)
Mục tiêu của nghiên
cứu này nhằm xác
định các nhân tố ảnh
hưởng đến hành vi
mua sắm trực tuyến
của người tiêu dùng
thành phố Cần Thơ.
Số liệu
nghiên cứu
được thu
thập từ 130
người tiêu
dùng (100
người có
mua
sắm trực
tuyến và 30
người không
có mua sắm
Căn cứ vào
mô hình thái
độ và hành vi
khách hàng
trực tuyến:
đánh giá
nghiên cứu
của Nali và
Ping Zhang,
Đại học
Syracuse
(2002); mô
Phương
pháp phân
tích nhân
tố, phân
tích hồi qui
đa biến và
phân tích
phân biệt
được sử
dụng để
xác định
các nhân tố
Kết quả nghiên cứu đã
chỉ ra nhân tố rủi ro về
tài chính và sản phẩm,
đa dạng về lựa chọn
hàng hóa, niềm tin, tính
đáp ứng của trang web,
rủi ro về thời gian, sự
thoải mái, sự thuận tiện,
giá cả có ảnh hưởng đến
việc quyết định tiếp tục
(hoặc bắt đầu) mua sắm
trực tuyến của người
Nghiên cứu
này chỉ tập
trung vào
thành phố
Cần Thơ nói
riêng và số
lượng kết
quả của mẫu
cũng nhỏ
(130 kết
quả) nên còn
nhiều hạn
người
tiêu
dùng
thành
phố
Cần
Thơ.
trực tuyến). hình nghiên
cứu xu hướng
mua sắm trực
tuyến của
sinh viên ở
thành phố Hồ
Chí Minh
trường đại
học Mở
(2012) và
thông qua quá
trình nghiên
cứu sơ bộ của
tác giả từ đó
hình thành
mô hình
nghiên cứu
cho đề tài.
ảnh hưởng
đến hành vi
mua sắm
trực tuyến
của người
dân thành
phố Cần
Thơ.
tiêu dùng. Trong đó,
nhân tố sự thoải mái tác
động lớn nhất đến hành
vi mua sắm trực tuyến.
chế, một số
yếu tố đưa
vào mô hình
không có ý
nghĩa khi
các biến độc
lập được
xem xét một
cách riêng
biệt. Các
nghiên cứu
trong tương
lai có thể mở
rộng phạm
vi nghiên
cứu cùng với
tăng kích cỡ
mẫu sẽ có
thể mang
đến những
kết quả thú
vị hơn.
16 Các yếu
tố ảnh
hưởng
đến
đánh
giá của
Carolin
e
Lundqu
ist
Noblet,
Mario
Nghiên cứu này tập
trung vào việc phát
triển một khuôn khổ
thực nghiệm và lý
thuyết để đưa ra mô
hình ra quyết định
Một cuộc
điều tra được
thi hành
trong tháng
6 năm 2004
và năm 2005
Phân tích này
tập trung vào
vai trò của
các quan
điểm cá nhân
và nhận thức
Sử dụng
phân tích
nhân tố như
một công
cụ để giảm
dữ liệu, sau
Kết quả chỉ ra rằng các
thuộc tính môi trường
của một chiếc xe chở
khách sinh thái là quan
trọng trong quyết định
mua hàng của người
Nghiên cứu
mới chỉ tập
trung đối
tượng lấy
mẫu là các
chủ xe cơ
người
tiêu
dùng
đối với
phương
tiện
sinh
thái
(eco-
labeled
vehicles
)
F.
Teisl,
Jonatha
n Rubin
(2006)
lựa chọn phương
tiện sinh thái. Đặc
biệt, bài viết chú
trọng thông tin về
sinh thái có thể ảnh
hưởng như thế nào
đến quá trình mua
phương tiện đi lại
của khách hàng.
trên một
mẫu đại diện
của chủ xe
cơ giới ở
tiểu bang
Maine. Tổng
số người trả
lời cuộc
khảo sát năm
2004 là 620,
trong năm
2005 là 695
người trả lời,
có 247 câu
trả lời không
được gửi lại,
do vậy có
tổng cộng
1068 câu trả
lời hợp lệ.
của người
tiêu dùng như
các yếu tố
trong việc ra
quyết định và
do đó bài viết
phát triển một
mô hình thực
nghiệm thích
hợp để nhận
biết các biến
số ảnh hưởng
quyết định
mua hàng của
người tiêu
dùng. Mô
hình bao gồm
2 phương
trình chính là
Lựa chọn
tầng lớp
phương tiện
(Class choice)
và lựa chọn
phương tiện
(Vehicle
choice).
đó phân
tích hồi quy
bằng cách
sử dụng hồi
quy
Nested-
Logit.
tiêu dùng. Thông tin về
sinh thái được xem xét
trong các quyết định
mua các phương tiện,
nhưng thường không
được xem xét trong các
quyết định khi mua loại
phương tiện cao cấp.
giới. Để
phân tích sâu
hơn về quyết
định mua xe
cộ của khách
hàng, sự đa
dạng về các
đối tượng
khi lấy mẫu
là cần thiết
trong các
nghiên cứu
sau này.
155
Code: ……….
PHỤ LỤC 2: PHIẾU ĐIỀU TRA (BẢN ĐIỀU TRA THỬ)
VỀ HÀNH VI TIÊU DÙNG XANH CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG VIỆT NAM
Kính gửi anh/chị
Trong những năm gần đây, tình trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam
ngày càng nghiêm trọng, thực phẩm bẩn tràn lan trên thị trường. Việt Nam có tỷ
lệ người mắc ung thư rất cao trong đó có nguyên nhân liên quan đến môi trường
và thực phẩm. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tiêu dùng xanh vẫn còn chưa phổ biến.
Phiếu điều tra mà anh/chị hỗ trợ hoàn thiện dưới đây là một nguồn thông tin hữu
ích cho nghiên cứu của tôi về hành vi tiêu dùng xanh, giúp đưa ra các đề xuất cho
doanh nghiệp và chính phủ những chính sách thúc đẩy tiêu dùng xanh, hướng tới
một xã hội xanh sạch và khỏe mạnh hơn.
Thông tin mà các anh chị cung cấp sẽ được bảo mật và chỉ được dùng cho mục
đích nghiên cứu.
Trân trọng cảm ơn anh chị !
1. Anh/chị đã bao giờ nghe nói về tiêu dùng xanh chưa?
[ ] Có; [ ] Chưa;
Tiêu dùng xanh được hiểu là các hành vi mua và sử dụng các sản phẩm
không gây hại môi trường hoặc tốt cho sức khỏe của con người (ví dụ : mua
thực phẩm sạch/thực phẩm an toàn/thực phẩm hữu cơ, không sử dụng túi
nilongtúi giấy, mua bóng đèn/tủ lạnh tiết kiệm điện)
2. Các anh chị có ý định tiêu dùng sản phẩm xanh không? (Vui lòng đánh dấu vào ô mà
anh/chị cho là đúng với mình nhất trong bảng dưới đây)
STT Ý định tiêu dùng xanh Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
1.1 Tôi dự kiến sẽ mua sản phẩm xanh (thực phẩm
sạch/sản phẩm tiết kiệm điện) vào tháng tới
1.2 Tôi đã sẵn sàng xem xét chuyển sang những nhãn
hiệu sản phẩm khác những nhãn hiệu tôi đang dùng
vì lý do sinh thái môi trường
1.3 Tôi sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho sản phẩm xanh
1.4 Tôi muốn mua sản phẩm xanh để giảm thiểu ô
nhiễm môi trường
3. Các anh chị có thực hiện hành vi tiêu dùng xanh không? (Vui lòng đánh dấu vào ô mà
anh/chị cho là đúng với mình nhất trong bảng dưới đây)
STT Hành vi tiêu dùng xanh Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
2.1 Tôi luôn mua thực phẩm có nguồn gốc/an toàn
2.2 Tôi luôn cố gắng mua sản phẩm có dán nhãn xanh
2.3 Tôi rất hạn chế sử dụng túi nilon để đựng thực
phẩm
2.4 Toàn bộ đồ điện gia dụng trong gia đình tôi là sản
phẩm tiết kiệm điện
2.5 Tôi giới thiệu sản phẩm xanh mà tôi sử dụng cho
người thân và bạn bè
2.6 Tôi mua thực phẩm xanh dù giá của chúng cao hơn
4. Quan điểm cá nhân của các anh/chị về các vấn đề liên quan tới môi trường
và tiêu dùng xanh (Vui lòng đánh dấu vào ô mà anh/chị cho là đúng với mình
nhất trong bảng dưới đây)
STT Quan tâm tới môi trƣờng Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
3.1 Con người đang tàn phá trầm trọng môi trường
3.2 Tôi rất lo ngại về các vấn đề ô nhiễm môi trường
3.3 Cân bằng môi trường tự nhiên rất phức tạp và
đáng thất vọng
3.4 Tôi đọc mọi bài viết liên quan đến vấn đề môi
trường
3.5 Tôi không làm gì được để điều khiển sự ô nhiễm
môi trường
STT Thái độ đối với tiêu dùng xanh Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
4.1 Thực phẩm bẩn có hại cho môi trường
4.2 Túi nilong đựng thực phẩm bẩn rất có hại cho sức
khỏe
STT Chuẩn mực chủ quan về tiêu dùng xanh Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
5.1 Phần lớn hàng hóa được tôi mua online
5.2 Ở cơ quan tôi, tiêu dùng xanh thể hiện đẳng cấp
5.3 Khi mua sắm hàng hóa tôi bị ảnh hưởng nhiều từ
người đi cùng
STT Nhận thức về tính hiệu quả của sản phẩm (M2) Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
6.1 Hành vi mua sản phẩm xanh của tôi có thể có một
tác động tích cực đối với môi trường
6.2 Các sản phẩm tiết kiệm điện thực sự có ý nghĩa
kinh tế đối với gia đình và xã hội
6.3 Sản phẩm được dán nhãn xanh sẽ đảm bảo 100% về
mặt chất lượng
6.4 Tôi chỉ mua thực phẩm sạch khi biết rõ nguồn gốc
STT Độ nhạy cảm về giá Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
7.1 Tôi sẽ mua sản phẩm xanh khi chúng được giảm giá
7.2 Tôi mua sản phẩm xanh khi chúng được kèm
khuyến mãi (tặng kèm sản phẩm)
7.3 Tôi mua sản phẩm xanh khi chúng có giá tương
đương hoặc cao hơn sản phẩm thông thường trong
khoảng 20% còn khi sản phẩm có giá cao hơn hẳn
tôi chọn sản phẩm thường
STT Tính không sẵn có của sản phẩm và tính thuận
lợi khi mua hàng
Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
8.1 Tôi thực sự không biết sản phẩm xanh được bán ở
đâu
8.2 Sản phẩm xanh không được bán ở những cửa hàng
nhỏ gần khu sực tôi sinh sống
8.3 Không dễ dàng nhận ra sản phẩm xanh nếu không
kiểm tra kỹ càng
STT Yếu tố tình huống Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
9.1 Tôi thường mua hàng ở các chợ cóc vì chúng tiện
và rẻ
9.2 Dù thu nhập gia đình có giảm thì tôi vẫn cố gắng
tiêu dùng sản phẩm xanh
2. Phần thông tin phỏng vấn:
- Anh/chị nghĩ rằng những lý do gì khiến anh/chị mua hoặc sử dụng các sản phẩm xanh?
- Anh/chị nghĩ rằng những lý do gì khiến anh/chị hoặc bạn bè/đồng nghiệp/người thân trong gia
đình anh/chị không mua hoặc sử dụng các sản phẩm xanh?
1. Phần thông tin cá nhân
1. Độ tuổi:
[ ] Từ 16-23; [ ] Từ 22-29:
[ ] Từ 30-39; [ ] Từ 40-49
[ ] Từ 50-59; [ ] Từ 60 trở lên
2. Giới tính:
[ ] Nam; [ ] Nữ; [ ] Khác
3. Tình trạng hôn nhân:
[ ] Chưa kết hôn [ ] Đã kết hôn nhưng chưa có con
[ ] Đã kết hôn và có con nhỏ -(thế nào là nhỏ => 6 tuổi, khi vẫn
còn có các nhu cầu thiết yếu cho trẻ nhỏ lớn)
[ ] Đã kết hôn và có con lớn => trên 6 tuổi
4. Trình độ học vấn:
[ ] Trung học phổ thông; [ ] Cao đẳng; [ ] Đại học
[ ] Sau Đại học
5. Lĩnh vực nghề nghiệp hiện tại:
[ ] Quản lý, quản trị hoặc chuyên gia
[ ] Các nhà nghiên cứu khoa học và giáo dục, nhân viên y tế
[ ] Kỹ sư và các công việc kỹ thuật
[ ] Công việc thương mại hoặc dịch vụ
[ ] Nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi và lao động nghề cá
[ ] Kinh doanh cá thể (tự làm chủ)
[ ] Hưởng lương hưu nhà nước
[ ] Thất nghiệp/đang đi học
[ ] Khác
6. Thu nhập hộ gia đình cá nhân: (khoảng cách quá gần)
[ ] 3.000.000 – 4.55.000.000 VNĐ [ ] 4.5.000.000 –
7.510.000.000 VNĐ
[ ] 7.50010.000.000 – 1520..000.000 VNĐ [ ] 1520.000.000 –
30.000.000 VNĐ
[ ] Trên 30.000.000 VNĐ
Trân trọng cảm ơn anh/chị đã giúp đỡ
NCS Hoàng Thị Bảo Thoa
Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN
Code: ……….
PHỤ LỤC 3: PHIẾU ĐIỀU TRA (BẢN CHÍNH THỨC)
VỀ HÀNH VI TIÊU DÙNG XANH CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG VIỆT NAM
Kính gửi anh/chị
Trong những năm gần đây, tình trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam
ngày càng nghiêm trọng, thực phẩm bẩn tràn lan trên thị trường. Việt Nam có tỷ
lệ người mắc ung thư rất cao trong đó có nguyên nhân liên quan đến môi trường
và thực phẩm. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tiêu dùng xanh vẫn còn chưa phổ biến.
Phiếu điều tra mà anh/chị hỗ trợ hoàn thiện dưới đây là một nguồn thông tin hữu
ích cho nghiên cứu của tôi về hành vi tiêu dùng xanh, giúp đưa ra các đề xuất cho
doanh nghiệp và chính phủ những chính sách thúc đẩy tiêu dùng xanh, hướng tới
một xã hội xanh sạch và khỏe mạnh hơn.
Thông tin mà các anh chị cung cấp sẽ được bảo mật và chỉ được dùng cho mục
đích nghiên cứu.
Trân trọng cảm ơn anh chị !
1. Anh/chị đã bao giờ nghe nói về tiêu dùng xanh chưa?
[ ] Có; [ ] Chưa;
Tiêu dùng xanh được hiểu là các hành vi mua và sử dụng các sản phẩm
không gây hại môi trường hoặc tốt cho sức khỏe của con người (ví dụ như :
mua thực phẩm sạch/thực phẩm an toàn/thực phẩm hữu cơ, mua bóng đèn/tủ
lạnh tiết kiệm điện ; không sử dụng túi nilong)
2. Các anh chị có ý định tiêu dùng sản phẩm xanh không? (Vui lòng đánh dấu vào ô mà
anh/chị cho là đúng với mình nhất trong bảng dưới đây)
STT Ý định tiêu dùng xanh Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
1.1 Tôi dự kiến sẽ mua sản phẩm xanh (thực phẩm
sạch/sản phẩm tiết kiệm điện) vào tháng tới
1.2 Tôi đã sẵn sàng xem xét chuyển sang những nhãn
hiệu sản phẩm khác những nhãn hiệu tôi đang dùng
vì lý do sinh thái môi trường
1.3 Tôi sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho sản phẩm xanh
1.4 Tôi muốn mua sản phẩm xanh để giảm thiểu ô
nhiễm môi trường
3. Các anh chị có thực hiện hành vi tiêu dùng xanh không? (Vui lòng đánh dấu vào ô mà
anh/chị cho là đúng với mình nhất trong bảng dưới đây)
STT Hành vi tiêu dùng xanh Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
2.1 Tôi luôn mua thực phẩm có nguồn gốc/an toàn
2.2 Tôi luôn cố gắng mua sản phẩm có dán nhãn xanh
2.3 Tôi rất hạn chế sử dụng túi nilon để đựng thực
phẩm
2.4 Toàn bộ đồ điện gia dụng trong gia đình tôi là sản
phẩm tiết kiệm điện
2.5 Tôi giới thiệu sản phẩm xanh mà tôi sử dụng cho
người thân và bạn bè
4. Quan điểm cá nhân của các anh/chị về các vấn đề liên quan tới môi trường
và tiêu dùng xanh (Vui lòng đánh dấu vào ô mà anh/chị cho là đúng với mình
nhất trong bảng dưới đây)
STT Quan tâm tới môi trƣờng Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
3.1 Con người đang tàn phá trầm trọng môi trường
3.2 Tôi rất lo ngại về các vấn đề ô nhiễm môi trường
3.3 Cân bằng môi trường tự nhiên rất phức tạp và
đáng thất vọng
3.4 Tôi đọc mọi bài viết liên quan đến vấn đề môi
trường
3.5 Tôi không làm gì được để điều khiển sự ô nhiễm
môi trường
STT Thái độ đối với tiêu dùng xanh Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
4.1 Thực phẩm bẩn có hại cho môi trường
4.2 Túi nilong đựng thực phẩm bẩn rất có hại cho sức
khỏe
STT Chuẩn mực chủ quan về tiêu dùng xanh Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
5.1 Phần lớn hàng hóa được tôi mua online
5.2 Ở cơ quan tôi, tiêu dùng xanh thể hiện đẳng cấp
5.3 Khi mua sắm hàng hóa tôi bị ảnh hưởng nhiều từ
người đi cùng
STT Nhận thức về tính hiệu quả của sản phẩm Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
6.1 Hành vi mua sản phẩm xanh của tôi có thể có một
tác động tích cực đối với môi trường
6.2 Các sản phẩm tiết kiệm điện thực sự có ý nghĩa
kinh tế đối với gia đình và xã hội
6.3 Sản phẩm được dán nhãn xanh sẽ đảm bảo 100% về
mặt chất lượng
6.4 Tôi chỉ mua thực phẩm sạch khi biết rõ nguồn gốc
STT Độ nhạy cảm về giá Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
7.1 Tôi sẽ mua sản phẩm xanh khi chúng được giảm giá
7.2 Tôi mua sản phẩm xanh khi chúng được kèm
khuyến mãi (tặng kèm sản phẩm)
7.3 Tôi mua sản phẩm xanh khi chúng có giá tương
đương hoặc cao hơn sản phẩm thông thường trong
khoảng 20% còn khi sản phẩm có giá cao hơn hẳn
tôi chọn sản phẩm thường
STT Tính không sẵn có của sản phẩm và tính thuận
lợi khi mua hàng
Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
8.1 Tôi thực sự không biết sản phẩm xanh được bán ở
đâu
8.2 Sản phẩm xanh không được bán ở những cửa hàng
nhỏ gần khu sực tôi sinh sống
8.3 Không dễ dàng nhận ra sản phẩm xanh nếu không
kiểm tra kỹ càng
STT Yếu tố tình huống Rất không đồng ý -> Rất đồng ý
1 2 3 4 5
9.1 Tôi thường mua hàng ở các chợ cóc vì chúng tiện
và rẻ
9.2 Dù thu nhập gia đình có giảm thì tôi vẫn cố gắng
tiêu dùng sản phẩm xanh
2. Phần thông tin cá nhân
1. Độ tuổi:
[ ] Từ 16-23; [ ] Từ 22-29:
[ ] Từ 30-39; [ ] Từ 40-49
[ ] Từ 50-59; [ ] Từ 60 trở lên
2. Giới tính:
[ ] Nam; [ ] Nữ; [ ] Khác
3. Tình trạng hôn nhân:
[ ] Chưa kết hôn [ ] Đã kết hôn nhưng chưa có con
[ ] Đã kết hôn và có con dưới 6 tuổi
[ ] Đã kết hôn và có con trên 6 tuổi
4. Trình độ học vấn:
[ ] Trung học phổ thông; [ ] Cao đẳng; [ ] Đại học
[ ] Sau Đại học
5. Lĩnh vực nghề nghiệp hiện tại:
[ ] Quản lý, quản trị hoặc chuyên gia
[ ] Các nhà nghiên cứu khoa học và giáo dục, nhân viên y tế
[ ] Kỹ sư và các công việc kỹ thuật
[ ] Công việc thương mại hoặc dịch vụ
[ ] Nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi và lao động nghề cá
[ ] Kinh doanh cá thể (tự làm chủ)
[ ] Hưởng lương hưu nhà nước
[ ] Thất nghiệp/đang đi học
[ ] Khác
6. Thu nhập:
[ ] 3.000.000 – 5.000.000 VNĐ [ ] 5.000.000 – 10.000.000 VNĐ
[ ] 10.000.000 – 20.000.000 VNĐ [ ] 20.000.000 – 30.000.000 VNĐ
[ ] Trên 30.000.000 VNĐ
Trân trọng cảm ơn anh/chị đã giúp đỡ
NCS. Hoàng Thị Bảo Thoa
Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN
PHỤ LỤC 4: BẢNG CHI TIẾT THAM KHẢO ĐỂ XÂY DỰNG BẢNG HỎI
STT Ý định tiêu dùng xanh Nguồn tham khảo
1 Tôi dự kiến sẽ mua sản phẩm xanh (thực phẩm sạch/sản
phẩm tiết kiệm điện) vào tháng tới
Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
2 Tôi đã sẵn sàng xem xét chuyển sang những nhãn hiệu sản
phẩm khác những nhãn hiệu tôi đang dùng vì lý do sinh thái
môi trường
Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
3 Tôi sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho sản phẩm tốt cho sức
khỏe hoặc bảo vệ môi trường
Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
4 Tôi muốn mua sản phẩm xanh để giảm thiểu ô nhiễm môi
trường
Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
STT Hành vi tiêu dùng xanh Nguồn tham khảo
1 Tôi luôn mua thực phẩm có nguồn gốc/an toàn Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
2 Tôi luôn cố gắng mua sản phẩm có dán nhãn xanh Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
3 Tôi rất hạn chế sử dụng túi nilon để đựng thực phẩm Tự phát triển
4 Toàn bộ đồ điện gia dụng trong gia đình tôi là sản phẩm tiết
kiệm điện
Tự phát triển
5 Tôi giới thiệu sản phẩm xanh mà tôi sử dụng cho người
thân và bạn bè
Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
6 Tôi mua thực phẩm xanh dù giá của chúng cao hơn Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
STT Quan tâm tới môi trƣờng (M1) Nguồn tham khảo
1 Con người đang tàn phá trầm trọng môi trường Hui-hui Zhao a, Qian Gaob, Yao-
ping &partner, 2012
2 Tôi rất lo ngại về các vấn đề ô nhiễm môi trường Hui-hui Zhao a, Qian Gaob, Yao-
ping &partner, 2012
3 Cân bằng môi trường tự nhiên rất phức tạp và dễ mất đi Hui-hui Zhao a, Qian Gaob, Yao-
ping &partner, 2012
4 Tôi đọc mọi bài viết liên quan đến vấn đề môi trường Tự phát triển
STT Nhận thức của ngƣời tiêu dùng về tính hiệu quả (M2) Nguồn tham khảo
1 Tôi không làm gì được để điều khiển sự ô nhiễm môi
trường
Hui-hui Zhao a, Qian Gaob, Yao-
ping &partner, 2012
2 Hành vi mua sản phẩm xanh của tôi có thể có một tác động
tích cực đối với môi trường
Hui-hui Zhao a, Qian Gaob, Yao-
ping &partner, 2012
3 Thực phẩm bẩn có hại cho sức khỏe Tự phát triển
4 Túi nilong đựng thực phẩm rất có hại cho môi trường Tự phát triển
5 Các sản phẩm tiết kiệm điện thực sự có ý nghĩa kinh tế đối
với gia đình và xã hội
Tự phát triển
STT Hoạt động xúc tiến thƣơng mại của doanh nghiệp (M3) Nguồn tham khảo
1 Các banner/trang trí tại quầy bán các sản phẩm xanh có tác
dụng tới việc mua hàng của tôi
Hui-hui Zhao a, Qian Gaob, Yao-
ping &partner, 2012
2 Tôi sẽ mua sản phẩm xanh khi chúng được giảm giá Tự phát triển
3 Tôi mua sản phẩm xanh khi chúng được kèm khuyến mãi
(tặng kèm sản phẩm)
Tự phát triển
4 Tôi mua sản phẩm xanh khi chúng có giá tương đương hoặc
cao hơn sản phẩm thông thường trong khoảng 20% còn khi
sản phẩm có giá cao hơn hẳn tôi chọn sản phẩm thường
Against the green: A multi-method
examnination of the barriers to
green consumption, Mark R. Gleim
& partner, Journal of retailing 89 (1,
2013) p. 48
STT Tính sẵn có của sản phẩm và tính thuận lợi khi mua
hàng (M4)
Nguồn tham khảo
1 Tôi thực sự không biết sản phẩm xanh được bán ở đâu Against the green: A multi-method
examnination of the barriers to
green consumption, Mark R. Gleim
& partner, Journal of retailing 89 (1,
2013) p. 48
2 Sản phẩm xanh không được bán ở những cửa hàng nhỏ gần
khu sực tôi sinh sống
Against the green: A multi-method
examnination of the barriers to
green consumption, Mark R. Gleim
& partner, Journal of retailing 89 (1,
2013) p. 48
3 Không dễ dàng nhận ra sản phẩm xanh nếu không kiểm tra
kỹ càng
Against the green: A multi-method
examnination of the barriers to
green consumption, Mark R. Gleim
& partner, Journal of retailing 89 (1,
2013) p. 48
STT Thói quen mua sắm Nguồn tham khảo
1 Tôi chỉ mua hàng trong siêu thị Tự phát triển
2 Tôi thường mua hàng ở các chợ cóc và các cửa hàng bán lẻ
vì chúng tiện và rẻ
Tự phát triển
3 Phần lớn hàng hóa được tôi mua online Tự phát triển
ST
T
Yếu tố tình huống Nguồn tham khảo
1 Dù thu nhập gia đình có giảm thì tôi vẫn cố gắng tiêu
dùng sản phẩm xanh
Tanner & Kast, 2003, Zhao và các
đồng nghiệp (2013); Zhu và các
đồng nghiệp (2012)
2 Khi mua sắm hàng hóa, tôi bị ảnh hưởng nhiều từ
những người đi cùng
Tự phát triển
Bảng 18: Kiểm tra các nhóm nhân tố
Rotated Component Matrixa
Component
1 2 3 4 5
Ý ĐỊNH TIÊU DÙNG
2.1 Tôi dự kiến sẽ mua sản phẩm xanh (thực phẩm
sạch/sản phẩm tiết kiệm điện) vào tháng tới
,810
2.2 Tôi đã sẵn sàng xem xét chuyển sang những nhãn
hiệu sản phẩm khác những nhãn hiệu tôi đang dùng vì lý
do sinh thái môi trường
,880
2.3 Tôi sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho sản phẩm tốt cho
sức khỏe hoặc bảo vệ môi trường
,775
2.4 Tôi muốn mua sản phẩm xanh để giảm thiểu ô nhiễm
môi trường
,757
QUAN TÂM TỚI MÔI TRƢỜNG
4.1 Con người đang tàn phá trầm trọng môi trường
,861
4.2 Tôi rất lo ngại về các vấn đề ô nhiễm môi trường ,831
4.3 Cân bằng môi trường tự nhiên rất phức tạp và đáng
thất vọng
,792
NHẬN THỨC VỀ TÍNH HIỆU QUẢ
4.7 Thực phẩm bẩn có hại cho sức khỏe
,761
4.8 Túi nilong đựng thực phẩm rất có hại cho môi trường ,808
4.9 Các sản phẩm tiết kiệm điện thực sự có ý nghĩa kinh
tế đối với gia đình và xã hội
ĐỘ NHẠY VỀ GIÁ/XÚC TIẾN CỦA DOANH
NGHIỆP
,619
4.21 Tôi sẽ mua sản phẩm xanh khi chúng được giảm ,899
giá
4.22 Tôi mua sản phẩm xanh khi chúng được kèm
khuyến mãi (tặng kèm sản phẩm)
,909
4.23 Tôi mua sản phẩm xanh khi chúng có giá tương
đương hoặc cao hơn sản phẩm thông thường
TÍNH SẴN CÓ VÀ THUẬN TIỆN MUA SẮM
,649
4.24 Tôi thực sự không biết sản phẩm xanh được bán ở
đâu
,784
4.25 Sản phẩm xanh không được bán ở những cửa hàng
nhỏ gần khu sực tôi sinh sống
,746
4.26 Không dễ dàng nhận ra sản phẩm xanh nếu không
kiểm tra kỹ càng
,696
Extraction Method: Principal Component Analysis.
Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.
a. Rotation converged in 5 iterations.
Bảng 12: Độ tin cậy của số liệu của thang đo hành vi tiêu dùng xanh
Cronbach's
Alpha
Cronbach's Alpha Based on Standardized
Items
N of Items
,867 ,867 6
Scale
Mean if
Item
Deleted
Scale
Variance
if Item
Deleted
Corrected
Item-Total
Correlation
Squared
Multiple
Correlation
Cronbach'
s Alpha if
Item
Deleted
3.1 Tôi luôn mua thực phẩm có
nguồn gốc/an toàn 16,93 19,096 ,712 ,521 ,837
3.2 Tôi luôn cố gắng mua sản
phẩm có dán nhãn xanh 17,22 18,077 ,741 ,566 ,830
3.3 Tôi rất hạn chế sử dụng túi
nilon để đựng thực phẩm 17,17 19,150 ,606 ,378 ,856
3.4 Toàn bộ đồ điện gia dụng
trong gia đình tôi là sản phẩm
tiết kiệm điện
17,32 20,695 ,504 ,301 ,871
3.5 Tôi giới thiệu sản phẩm
xanh mà tôi sử dụng cho người
thân và bạn bè
16,93 18,107 ,732 ,561 ,832
3.6 Tôi mua thực phẩm xanh dù
giá của chúng cao hơn 16,93 19,151 ,699 ,554 ,839
KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH TÍNH TIN CẬY CỦA TỪNG CÂU
HỎI ĐIỀU TRA
STT Ý định tiêu dùng xanh Nguồn tham khảo Kết quả kiểm
tra độ tin cậy
1 Tôi dự kiến sẽ mua sản phẩm xanh (thực phẩm
sạch/sản phẩm tiết kiệm điện) vào tháng tới
Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
Tin cậy để sử
dụng
2 Tôi đã sẵn sàng xem xét chuyển sang những nhãn
hiệu sản phẩm khác những nhãn hiệu tôi đang dùng
vì lý do sinh thái môi trường
Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
Tin cậy để sử
dụng
3 Tôi sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho sản phẩm tốt cho
sức khỏe hoặc bảo vệ môi trường
Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
Tin cậy để sử
dụng
4 Tôi muốn mua sản phẩm xanh để giảm thiểu ô nhiễm
môi trường
Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
Tin cậy để sử
dụng
STT Hành vi tiêu dùng xanh Nguồn tham khảo Kết quả kiểm
tra độ tin cậy
5 Tôi luôn mua thực phẩm có nguồn gốc/an toàn Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
Tin cậy để sử
dụng
6 Tôi luôn cố gắng mua sản phẩm có dán nhãn xanh Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
Tin cậy để sử
dụng
7 Tôi rất hạn chế sử dụng túi nilon để đựng thực phẩm Tự phát triển Tin cậy để sử
dụng
8 Toàn bộ đồ điện gia dụng trong gia đình tôi là sản
phẩm tiết kiệm điện
Tự phát triển Tin cậy để sử
dụng
9 Tôi giới thiệu sản phẩm xanh mà tôi sử dụng cho
người thân và bạn bè
Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
Tin cậy để sử
dụng
10 Tôi mua thực phẩm xanh dù giá của chúng cao hơn Grankvist& Biel, 2001,
Wandel&Bugge 1997
Tin cậy để sử
dụng
STT Quan tâm tới môi trƣờng (M1) Nguồn tham khảo
4.1 Con người đang tàn phá trầm trọng môi trường Hui-hui Zhao a, Qian
Gaob, Yao-ping
&partner, 2012
Tin cậy để sử
dụng
4.2 Tôi rất lo ngại về các vấn đề ô nhiễm môi trường Hui-hui Zhao a, Qian
Gaob, Yao-ping
&partner, 2012
Tin cậy để sử
dụng
4.3 Cân bằng môi trường tự nhiên rất phức tạp và dễ
mất đi
Hui-hui Zhao a, Qian
Gaob, Yao-ping
Tin cậy để sử
dụng
&partner, 2012
4.4 Tôi đọc mọi bài viết liên quan đến vấn đề môi trường Tự phát triển Không tin cậy
STT Nhận thức của ngƣời tiêu dùng về tính hiệu quả
(M2)
Nguồn tham khảo
4.5 Tôi không làm gì được để điều khiển sự ô nhiễm môi
trường
Hui-hui Zhao a, Qian
Gaob, Yao-ping
&partner, 2012
Không tin cậy
để sử dụng
4.6 Hành vi mua sản phẩm xanh của tôi có thể có một tác
động tích cực đối với môi trường
Hui-hui Zhao a, Qian
Gaob, Yao-ping
&partner, 2012
Không tin cậy
để sử dụng
4.7 Thực phẩm bẩn có hại cho sức khỏe Tự phát triển Tin cậy để sử
dụng
4.8 Túi nilong đựng thực phẩm rất có hại cho môi trường Tự phát triển Tin cậy để sử
dụng
4.9 Các sản phẩm tiết kiệm điện thực sự có ý nghĩa kinh
tế đối với gia đình và xã hội
Tự phát triển Tin cậy để sử
dụng
STT Hoạt động xúc tiến thƣơng mại của doanh nghiệp
(M3)
Nguồn tham khảo
4.10 Các banner/trang trí tại quầy bán các sản phẩm xanh
có tác dụng tới việc mua hàng của tôi
Hui-hui Zhao a, Qian
Gaob, Yao-ping
&partner, 2012
Không tin cậy
để sử dụng
4.11 Tôi sẽ mua sản phẩm xanh khi chúng được giảm giá Tự phát triển Tin cậy để sử
dụng
4.12 Tôi mua sản phẩm xanh khi chúng được kèm khuyến
mãi (tặng kèm sản phẩm)
Tự phát triển Tin cậy để sử
dụng
4.13 Tôi mua sản phẩm xanh khi chúng có giá tương
đương hoặc cao hơn sản phẩm thông thường trong
khoảng 20% còn khi sản phẩm có giá cao hơn hẳn tôi
chọn sản phẩm thường
Against the green: A
multi-method
examnination of the
barriers to green
consumption, Mark R.
Gleim & partner,
Journal of retailing 89
(1, 2013) p. 48
Tin cậy để sử
dụng
STT Tính sẵn có của sản phẩm và tính thuận lợi khi
mua hàng (M4)
Nguồn tham khảo
4.14 Tôi có thể dễ dàng tìm được sản phẩm có gắn nhãn
xanh ở bất kỳ siêu thị nào
Tự phát triển Không tin cậy
để sử dụng
4.15 100% siêu thị điện máy bán sản phẩm tiết kiệm điện Tự phát triển Không tin cậy
để sử dụng
4.16 Tôi thực sự không biết sản phẩm xanh được bán ở
đâu
Against the green: A
multi-method
examnination of the
barriers to green
consumption, Mark R.
Gleim & partner,
Journal of retailing 89
(1, 2013) p. 48
Tin cậy để sử
dụng
4.17 Sản phẩm xanh không được bán ở những cửa hàng
nhỏ gần khu sực tôi sinh sống
Against the green: A
multi-method
examnination of the
barriers to green
consumption, Mark R.
Gleim & partner,
Journal of retailing 89
(1, 2013) p. 48
Tin cậy để sử
dụng
4.18 Không dễ dàng nhận ra sản phẩm xanh nếu không
kiểm tra kỹ càng
Against the green: A
multi-method
examnination of the
barriers to green
consumption, Mark R.
Gleim & partner,
Journal of retailing 89
(1, 2013) p. 48
Tin cậy để sử
dụng
STT Thói quen mua sắm Nguồn tham khảo
5.1 Tôi chỉ mua hàng trong siêu thị Tự phát triển
5.2 Tôi thường mua hàng ở các chợ cóc và các cửa hàng bán lẻ
vì chúng tiện và rẻ
Tự phát triển
5.3 Phần lớn hàng hóa được tôi mua online Tự phát triển
ST
T
Yếu tố tình huống Nguồn tham khảo
6.1 Dù thu nhập gia đình có giảm thì tôi vẫn cố gắng tiêu
dùng sản phẩm xanh
Tanner & Kast, 2003, Zhao và các
đồng nghiệp (2013); Zhu và các
đồng nghiệp (2012)
6.2 Khi mua sắm hàng hóa, tôi bị ảnh hưởng nhiều từ
những người đi cùng
Tanner & Kast, 2003, Zhao và các
đồng nghiệp (2013); Zhu và các
đồng nghiệp (2012)
PHỤ LỤC 5: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH CÁC THÔNG TIN CỦA NGƢỜI
ĐƢỢC ĐIỀU TRA
Bảng 1. Thống kê độ tuổi của những người được điều tra
Số lượng % % hợp lệ % cộng dồn
Hợp lệ
Từ 16-23 75 16,7 16,8 16,8
Từ 22-29 108 24,1 24,2 41,0
Từ 30-39 168 37,5 37,7 78,7
Từ 40-49 61 13,6 13,7 92,4
Từ 50-59 10 2,2 2,2 94,6
Từ 60 trở lên 24 5,4 5,4 100,0
Tổng số 446 99,6 100,0
Số liệu
khuyết Hệ thống 2 ,4
Tổng số 448 100,0
Bảng 2. Tình trạng hôn nhân của người được điều tra
Số lượng % % hợp lệ % cộng dồn
Hợp lệ
Chưa kết hôn 147 32,8 33,5 33,5
Đã kết hôn nhưng chưa
có con 23 5,1 5,2 38,7
Đã kết hôn và có con
nhỏ 171 38,2 39,0 77,7
Đã kết hôn và có con
lớn 98 21,9 22,3 100,0
Tổng số 439 98,0 100,0
Số liệu
khuyết Hệ thống 9 2,0
Tổng số 448 100,0
Bảng 3. Trình độ học vấn của người được điều tra
Số lượng % % hợp lệ % cộng dồn
Hợp lệ
Trung học phổ thông 34 7,6 7,7 7,7
Cao đẳng 42 9,4 9,6 17,3
Đại học 238 53,1 54,2 71,5
Sau Đại học 125 27,9 28,5 100,0
Total 439 98,0 100,0
Thiếu System 9 2,0
Tổng số 448 100,0
Bảng 4. Nghề nghiệp của người được điều tra
Số lượng % % hợp lệ % cộng dồn
Hợp lệ
Quản lý, quản trị hoặc
chuyên gia 58 12,9 13,2 13,2
Các nhà nghiên cứu khoa
học và giáo dục, nhân
viên y tế
38 8,5 8,7 21,9
Kỹ sư và các công việc kỹ
thuật 72 16,1 16,4 38,4
Công việc thương mại
hoặc dịch vụ 70 15,6 16,0 54,3
Nông nghiệp, lâm nghiệp,
chăn nuôi và lao động
nghề cá
16 3,6 3,7 58,0
Kinh doanh cá thể (tự làm
chủ) 43 9,6 9,8 67,8
Hưởng lương hưu nhà
nước 28 6,3 6,4 74,2
Thất nghiệp/đang đi học 39 8,7 8,9 83,1
Khác 74 16,5 16,9 100,0
Total 438 97,8 100,0
Khuyết System 10 2,2
Tổng số 448 100,
0
Bảng 5. Thu nhập của người được điều tra
Số lượng % % hợp lệ % cộng dồn
Hợp lệ
3.000.000 – 5.000.000
VNĐ 55 12,3 12,4 12,4
5.000.000 – 10.000.000
VNĐ 97 21,7 21,9 34,4
10.000.000 – 20.000.000
VNĐ 167 37,3 37,8 72,2
20.000.000 – 30.000.000
VNĐ 67 15,0 15,2 87,3
Trên 30.000.000 VNĐ 56 12,5 12,7 100,0
Tổng số 442 98,7 100,0
Khuyết Hệ thống 6 1,3
Tổng số 448 100,0
PHỤ LỤC 6: CÁC BẢNG THỐNG KÊ ĐỘ TIN CẬY CỦA THANG ĐO
Bảng 1: Bảng thống kê độ tin cậy của thang đo Ý định tiêu dùng xanh
Hệ số
Cronbach's
Alpha
Hệ số
Cronbach's
Alpha chuẩn
hóa
Số lượng câu
hỏi
,741 ,755 4
Bảng 2: Bảng thống kê độ tin cậy của thang do Hành vi tiêu dùng xanh
Hệ số
Cronbach's
Alpha
Hệ số
Cronbach's
Alpha Based
chuẩn hóa
Số lượng
câu hỏi
,690 ,685 6
Bảng 3: Bảng thống kê độ tin cậy của thang do Hành vi tiêu dùng xanh sau khi
loại bỏ đi một câu hỏi 2.6
Hệ số
Cronbach's
Alpha
Hệ số Cronbach's
Alpha chuẩn hóa
Số lượng
câu hỏi
,741 ,755 4
Bảng 4: Bảng thống kê độ tin cậy của thang đo quan tâm tới môi trường với 5
câu hỏi
Hệ số
Cronbach's
Alpha
Hệ số
Cronbach's
Alpha chuẩn
hóa
Số lượng
câu hỏi
,648 ,667 6
Bảng 5: Bảng thống kê độ tin cậy của thang đo nhận thức về tính hiệu quả
Hệ số
Cronbach's
Alpha
Hệ số
Cronbach's
Alpha chuẩn
hóa
Số lượng
câu hỏi
,899 ,902 4
Bảng 6: Bảng thống kê độ tin cậy của thang đo xúc tiến của doanh nghiệp
Hệ số
Cronbach's
Alpha
Hệ số
Cronbach's
Alpha chuẩn
hóa
Số lượng
câu hỏi
,809 ,802 4
Bảng 7: Bảng thống kê độ tin cậy của thang đo sự sẵn có của sản phẩm
Hệ số
Cronbach's
Alpha
Hệ số
Cronbach's
Alpha chuẩn
hóa
Số lượng
câu hỏi
,706 ,705 3