kiẾn trÚc tÔn giÁo trong vĂn hÓa viỆt1).pdftriều 朝 có nghĩa là quay về, viết...

30
ĐẶC NGCÔNG GIÁO Nhà Nghiên cu NGUYN HNH KIN TRÚC TÔN GIÁO TRONG VĂN HÓA VIT A. Phong thy và công trình I. Phong thy trong kiến trúc Vit Txa xưa, nơi xây dng đình, đền, chùa BcBvà Trung Bộ được chnlacn thn và theo các yêu cu sau: Đắc địavmt phong thy: Thut phong thyca người Vitbịảnh hưởng nhiubi thut phong thyca Trung Hoa, chng hn: tin án hu chm (phía trước là bàn, phía sau là gi). Phong thyxưa đòi hi thế đất xây dng đình, đền, chùa, lăng cn hai yếutcơ bn, đó là TRIU và ÁN . Triu có nghĩa là quay v, viếtttcattriusơn 朝山 (núi quay vchu và bao bc công trình, ta như sự đối ng gia chthvà khách th). Triusơn để chnhng ngn núi phía xa và phía trước công trình. Triusơn có nhiu loi: đỉnh nhn, đỉnh tròn, đỉnh bng. Thut phong thy chchung loi núi tròn hay bng. Bi vì núi đỉnh nhn thường phát ra khí chng lành. Triusơn chthường áp dng cho nhng công trình ln, mang tm vóc quc gia. Án có nghĩa là cái bàn, bàn thì phi đặt trướcmtca người ngi. Tin án 前案 dùng để chngn núi phía trước gia trch hay mphn. Ngườixưart coi trng hai yếuttriu và án. Người ta tin rng triu án có khnăng ngăn chn nhng nh hưởng xu hay ha khí xâm nhptphía trước và cũng để to thế tàng phong tkhí 藏風聚氣 (tránh gió, tích khí. Nghĩa là làm cho bu không khí ca công trình phía sau được n định). Tuy nhiên, triu án phi phù hpvi thế đất. Vào năm 1636, chúa Nguyn Phúc Lan (16351648) – chúa thba ca nhà Nguyn – xây dng dinh thdưới chân chùa Thiên M, thuc làng Kim trích THAÙNH NHAÏC NGAØY NAY baùo in s95 thaùng 7.2013

Upload: others

Post on 02-Sep-2019

7 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

  • ĐẶC NGỮ CÔNG GIÁO 

    Nhà Nghiên cứu NGUYỄN HẠNH

    KIẾN TRÚC TÔN GIÁO TRONG

    VĂN HÓA VIỆT

     

    A. Phong thủy và công trình 

    I. Phong thủy trong kiến trúc Việt 

    Từ xa xưa, nơi xây dựng đình, đền, chùa ở Bắc Bộ và Trung Bộ được chọn lựa cẩn thận và theo các yêu cầu sau: 

    – Đắc địa về mặt phong  thủy: Thuật phong  thủy của người Việt bị ảnh hưởng nhiều bởi  thuật phong thủy của Trung Hoa, chẳng hạn: tiền án hậu chẩm (phía trước là bàn, phía sau là gối). Phong thủy xưa đòi hỏi thế đất xây dựng đình, đền, chùa, lăng cần hai yếu tố cơ bản, đó là TRIỀU 朝 và ÁN 案. 

    Triều 朝 có nghĩa là quay về, viết tắt của từ triều sơn 朝山 (núi quay về chầu và bao bọc công trình, tựa như sự đối ứng giữa chủ thể và khách thể). Triều sơn để chỉ những ngọn núi ở phía xa và phía trước công  trình. Triều  sơn có nhiều  loại:  đỉnh nhọn,  đỉnh  tròn,  đỉnh bằng. Thuật phong  thủy chỉ chuộng  loại núi  tròn hay bằng. Bởi vì núi đỉnh nhọn  thường phát ra khí chẳng  lành. Triều sơn chỉ thường áp dụng cho những công trình lớn, mang tầm vóc quốc gia. Án 案 có nghĩa là cái bàn, bàn thì phải đặt trước mặt của người ngồi. Tiền án 前案 dùng để chỉ ngọn núi phía trước gia trạch hay mộ phần. Người xưa rất coi trọng hai yếu tố triều và án. Người ta tin rằng triều và án có khả năng ngăn chặn những ảnh hưởng xấu hay hỏa khí xâm nhập từ phía trước và cũng để tạo thế tàng phong tụ khí 藏風聚氣 (tránh gió, tích khí. Nghĩa là làm cho bầu không khí của công trình phía sau được ổn định).  

    Tuy nhiên,  triều và án phải phù hợp với  thế đất. Vào năm 1636, chúa Nguyễn Phúc Lan  (1635‐1648) – chúa thứ ba của nhà Nguyễn – xây dựng dinh thự dưới chân chùa Thiên Mụ, thuộc làng Kim 

    trích THAÙNH NHAÏC NGAØY NAY

    baùo in số 95 thaùng 7.2013

  • Long  (huyện Hương Trà,  tỉnh Thừa Thiên)  (Hình 1: chùa Thiên Mụ). Về sau, nhận  thấy ngọn núi Ngự Bình cao 105 mét, có thể làm bình phong tốt cho một công trình lớn, năm Đinh Mão (1687), chúa Nguyễn Phúc Thái (1687‐1691) – chúa thứ năm của nhà Nguyễn – đã cho dời dinh các chúa Nguyễn từ làng Kim Long vào làng Phú Xuân vị trí kinh thành Huế hiện nay. Năm 1802, sau khi thống nhất đất nước, vua Gia Long thắp một nén hương từ chùa Thiên Mụ và đi dọc theo sông Hương từ phía Tây về phía Đông. Đến khi nén hương tàn, nhà vua cắm chân hương tại vị trí Phu Văn Lâu hiện nay. Núi Ngự Bình và điểm cắm hương (Phu Văn Lâu: lầu trưng bày văn thư) sau này tạo thành trục thần đạo  để xây dựng kinh  thành Huế. Dãy Trường Sơn phía xa  chính  là  triều  sơn,  che  chắn  cho kinh thành Huế (Hình 2: dãy Trường Sơn nhìn từ Kim Long). Núi Ngự Bình là tiền án, là bình phong cho kinh thành Huế (Hình 3: núi Ngự Bình nhìn từ Kỳ Đài). 

    – Tự tạo ra phong thủy: 

    + Bình phong: Núi Ngự Bình không chỉ  làm bình phong cho kinh thành Huế mà còn  làm triều cho lăng các vua nhà Nguyễn. Tuy nhiên, những công trình ở đồng bằng, việc tìm đủ triều sơn và tiền án quả là khó khăn. Nếu không có triều sơn, chỉ có tiền án cũng được. Thận chí nếu không có sẵn tiền án, người ta dùng hàng rào, hòn giả sơn, bình phong để thay thế. Bình phong ra đời từ đây. Ban đầu nó chỉ làm bằng tre nứa, gỗ… sau được xây bằng đất, gạch kiên cố. Hình thức của bình phong cũng thay đổi từ đơn giản đến việc có nhiều họa tiết cầu kỳ. Bình phong được dùng nhiều nhất ở khi vực miền Trung, đặc biệt ở kinh  thành Huế. Có  lẽ do khí hậu miền Trung khắc nghiệt, nắng gắt, mưa dầm, gió quẩn nên bình phong trở nên quan trọng trong công trình kiến trúc. Hình thức bình phong ở Huế cũng phong phú và đa dạng hơn các vùng miền khác. Tại sao người ta lại quan trọng thuật Phong Thủy? Bởi  vì  có  chủ  thuyết  cho  rằng, Phong Thủy  là  hệ  thống  những  quan  điểm,  những nguyên tắc được sử dụng trong những công trình kiến trúc lớn nhỏ nhằm đem lại một không gian sinh hoạt,  làm việc có  lợi cho con người. Không chỉ vậy, chủ  thuyết ấy cho rằng, Phong Thủy còn đem lại sự thịnh vượng cho gia chủ, cũng như những người sinh sống trong công trình đó. Ban đầu, phong thủy chỉ dựa trên thế đất, thế nước mà định ra các nguyên tắc xây dựng công trình, cũng như các hạng mục có tác dụng phụ trợ cho công trình.  

    + Minh đường: Một thế đất “đắc địa” cần có: “Minh đường thủy tụ” – trước nhà có nước trong tụ lại như gương để tạo độ ẩm cho công trình. Nếu không có “thủy tụ” tự nhiên, người ta thường đào ao trước nhà hoặc xây hòn non bộ để tượng trưng cho yếu tố đó.  

    – Cách chọn hoặc tạo ra phong thủy: 

    Cách chọn hoặc tạo ra triều sơn và tiền án theo lập luận sau:  

    + Tiền án hậu chẩm 前案後枕 (phía trước là bàn, phía sau là gối). Nghĩa là phía trước có bình phong án ngữ để ngăn chặn điều xấu và phía sau cao chẩm vô ưu 高枕無憂 – gối cao không lo lắng);  

    + Thủy tụ sơn triều 水聚山朝 (nước tụ núi chầu, ý nói ý nói nơi có núi quay về bao bọc, có nước hội tụ sẽ vững ngàn đời, cuộc sống dân cư sẽ ấm no, thanh bình)… 

    + Long tàng hổ cứ 龍藏虎踞 (rồng ẩn mình, hổ tựa vào);  

    + Tả phụ hữu bật 左傅右弼 (trái giúp, phải giúp – phụ bật  輔弼 là chức quan tể tướng, chuyên giúp việc cho nhà vua);  

    + Tiền tam thai hậu thất tinh 前三台後七星 (sao Tam Thai phía trước, sao Thất Tinh phía sau – phụ bật  輔弼  là chức quan  tể  tướng, chuyên giúp việc cho nhà vua). Sao Tam Thai 三台 còn gọi  là Sao Thai, sao Tam Công 三公. Vì Tam Công là ba bậc quan cao nhất thời xưa, đó là: Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo, cho nên trong khi giao dịch, tôn xưng ai thì gọi người ấy là thai. Trong đó: 1. Sao Tam Thai thuộc hành Thủy, loại Cát Tinh ở các cung Phụ Mẫu (cha mẹ danh giá), cung Phúc Đức (sự nghiệp, 

  • danh giá), cung Điền Trạch (nhà cửa, đất đai). Quan Lộc (thi cử, công danh), Tật Ách (giải trừ bệnh tật), cung Tài Bạch (tiền tài), cung Tử Tức (con cái), cung Phu Thê (vợ chồng), cung Huynh Đệ (anh em). ‖ 2. Sao Thất Tinh  là  từ gọi  tắt của Bắc Đẩu Thất Tinh  thuộc hành Kim. Trong Đạo giáo, Bắc Đẩu thất tinh tức  là Bắc Thần, được gọi  là Thiên Cương, ở phía cực Bắc và có hình dáng giống cái đấu đo lường. Bắc Đẩu là cụm sao trong chòm sao Đại Hùng (khác với sao Bắc cực), mỗi ngôi sao có một vị Tinh quân trông coi, mỗi vị Tinh quân đó  lại có một tên riêng, đó  là: Thiên Xu 天枢 (Tham Lang), Thiên Tuyền 天璇  (Cự Môn), Thiên Cơ/Ky 天玑  (Lộc Tồn), Thiên Quyền 天权  (Văn Khúc), Ngọc Hoành 玉衡/ Thiên Hành  (Liêm Trinh), Khai Dương 开阳/  (Vũ Khúc), Dao Quang 摇光  (Phá Quân). 

    Thật ra  trong phép phong  thủy, Tam Thai và Thất Tinh không phải  là  tinh  tú, ý nói những gò, đồi, núi trông tựa như một ngôi sao. Do vậy, tiền tam thai hậu thất tinh cũng tựa như tiền án hậu chẩm (trước có tiền án, sau có triều sơn). 

    + Tả thanh long hữu bạch hổ 左青龍右白虎 (bên trái rồng xanh, bên phải hổ trắng). Theo thiên văn của Đạo giáo, Trung Hoa: Tứ Tượng là bốn chòm sao biểu trưng bằng bốn linh vật: Chu Tước 朱雀 (chim trĩ đỏ) ở hướng Nam, Huyền Vũ 玄武 (loài vật kết hợp giữa rắn và rùa, nói lên sự mạnh mẽ, oai phong) ở hướng Bắc, Thanh Long 青龍 ở hướng Đông, Bạch Hổ 白虎 ở hướng Tây);  

    Tìm hiểu thêm về Tứ Tượng hay Nhị Thập Bát Tú:  

    Tứ Tượng là bốn chòm sao nằm ở bốn hướng Nam, Bắc, Đông, Tây. Mỗi chòm sao ứng với một linh vật và có bảy ngôi sao. Như vậy Tứ Tượng chính là Nhị Tập Bát Tú – hai mươi tám vì sao quan trọng trong thiên văn, triết học và phong thủy của Trung Hoa. Trong đó: 

    + Chòm sao Huyền Vũ ở hướng Bắc thuộc hành Thủy (nước) – tương ứng với mùa Xuân, có bảy ngôi sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất và Bích. Vũ là linh vật màu đen, kết hợp giữa rắn và rùa. Đây  là  linh vật rất cổ của Trung Hoa. Tương truyền, Phục Hy  là Tổ phụ có hình rắn, Nữ Oa  là Tổ mẫu có hình rùa. Sự kết hợp giữa rắn và rùa là totem xưa của Trung Hoa, tượng trưng cho Trí Tuệ và sự Trường Tồn. Hình tượng Huyền Vũ có liên quan mật thiết đến một vị thần có vị trí rất cao trong Đạo giáo là Huyền Thiên Trấn Vũ đại đế, ông còn các danh xưng khác: Thượng đế tổ sư, Đãng ma thiên  tôn, Hỗn nguyên giáo chủ, Bắc cực huyền  linh đại đế. Tại Đền Quán Thánh, Hà Nội, có bức tượng đồng Huyền Thiên Trấn Vũ với hai con vật thiêng là Linh Quy và Thần Xà, tượng trưng cho sự trường tồn và trí tuệ. 

    + Chòm sao Chu Tước ở hướng Nam thuộc hành Hỏa (lửa) – tương ứng với mùa Hạ, có bảy ngôi sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực và Chẩn. Trong đó sao Tỉnh  là mỏ chim, sao Quỷ  là mào chim, sao Liễu là diều chim, sao Tinh là cổ chim, sao Trương là bụng chim, sao Dực là cánh chim và sao Chẩn là đuôi chim.  

    + Chòm sao Bạch Hổ ở hướng Tây thuộc hành Kim (kim loại) – tương ứng với mùa Thu, có bảy ngôi sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy và Sâm.  

    + Chòm sao Thanh Long ở hướng Đông thuộc hành Mộc (cây) – tương ứng với mùa Xuân, có bảy ngôi sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ và Cơ. Trong đó sao Giác là hai sừng của rồng, sao Cang là cổ của rồng, sao Đê là chân trước của rồng, sao Phòng là bụng của rồng, sao Tâm là tim của rồng, sao Vĩ là đuôi của rồng và sao Cơ là phân của rồng. 

    – Chọn hướng cho công trình: Ban đầu, các công trình kiến trúc tôn giáo xưa ở miền Bắc và miền Trung thường chọn hướng Nam. Bởi vì Trong Dịch Kinh, Hậu thiên Bát quái, tiết 1 và 2 có câu: 

    + Tiết 1:  

  • 帝 出 乎 震. 齊 乎 巽. 相 見 乎 離. 致 役 乎 坤. 說 言 乎 兌. 戰 乎 乾.

    勞 乎 坎. 成 言 乎 艮.

    Đế xuất hồ Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly. Trí dịch hồ Khôn. Duyệt ngôn hồ Đoài. Chiến hồ Kiền. Lao hồ Khảm. Thành ngôn hồ Cấn. 

    Dịch nghĩa: 

    Trời  từ cung Chấn ngự ra. Tốn cung:  làm cho vạn vật điều hòa. Ly cung: vạn vật  tương phùng. Khôn cung: làm nên việc vô chừng lớn lao. Đoài cung: vui vẻ xiết bao. Kiền cung: đấu chiến, tiêu hao công trình. Khảm cung: vất vả, điêu linh. Đến nơi cung Cấn, hoàn thành công lao. 

    + Tiết 2:  

    萬 物 出 乎 震. 震. 東 方 也. 齊 乎 巽. 巽.東 南 也. 齊 也 者. 言 萬 物

    之 潔 齊 也. 離 也 者. 明 也. 萬 物 皆 相 見. 南 方 之 卦 也. 聖 人 南 面

    而 聽 天 下. 嚮 明 而 治. 蓋 取 諸 此 也. 坤 也 者. 地 也. 萬 物 皆 致 養

    焉. 故 曰. 致 役 乎 坤. 兌. 正 秋 也. 萬 物 之 所 說 也. 故 曰. 說 言 乎 兌.

    戰 乎 乾. 乾. 西 北 之 卦 也. 言 陰 陽 相 薄 也. 坎 者 水 也. 正 北 方 之

    卦 也. 勞 卦 也. 萬 物 之 所 歸 也. 故 曰. 勞 乎 坎. 艮. 東 北 之 卦 也. 萬

    物 之 所 成 終 而 所 成 始 也. 故 曰. 成 言 乎 艮

     Vạn vật xuất hồ Chấn. Chấn. Đông phương dã. Tề hồ Tốn. Tốn. Đông Nam dã. Tề dã giả. Ngôn vạn vật chi khiết tề dã. Ly dã giả. Minh dã. Vạn vật giai tương kiến. Nam phương chi quái dã. Thánh nhân Nam diện nhi  thính  thiên hạ. Hưởng minh nhi  trị. Cái  thủ  tri  thử dã. Khôn dã giả. Địa dã. Vạn vật giai  trí dưỡng yên. Cố viết: Trí dịch hồ Khôn. Đoài. Chính  thu dã. Vạn vật chi sở duyệt dã. Cố viết: Duyệt ngôn hồ Đoài. Chiến hồ Kiền. Kiền. Tây bắc  chi quái dã. Ngôn Âm Dương  tương bác dã. Khảm giả  thủy dã. Chính bắc phương chi quái dã. Lao quái dã. Vạn vật chi sở qui dã. Cố viết: Lao hồ Khảm. Cấn. Đông bắc chi quái dã. Vạn vật chi sở thành chung nhi sở thành thủy dã. Cố viết: Thành ngôn hồ Cấn. 

    Dịch nghĩa: Muôn loài từ Chấn phát ra, / Chấn cung, ấy chính cũng là phương Đông. Muôn loài hòa điệu Tốn cung, / Đông Nam phương: Tốn lẽ ưng xưa rầy, Điều hòa, tề chỉnh đó đây, / Sửa sang cho vẹn, cho ngay muôn loài. Ly là rực rỡ, sáng ngời, / Làm cho vạn vật, tỏ soi rõ rành. Cùng nhau gặp gỡ, phân minh, Ly, là quẻ vốn đã dành phương Nam. Thánh nhân, Nam diện đường đường. / Tiếp nhân, trị quốc, đường đường sáng soi. Đưa dân về chốn rạng ngời, / Hướng về sáng láng, âu thời theo Ly. Đất Khôn, đáng mặt mẫu nghi, / Dưỡng nuôi vạn vật, chẳng khi nào ngừng. Việc Khôn, trọng đại vô cùng... Trời thu bảng lảng, Đoài cung vui mừng, / Nên rằng vui vẻ Đoài cung, Kiền, thời ngùn ngụt bừng bừng đấu tranh. / Quẻ Kiền, Tây Bắc chênh vênh, / Âm Dương, xô xát 

    tranh dành ấy nơi. Khảm cung, là nước đành rồi. / Quẻ này chính Bắc, phân ngôi đàng hoàng. Cho nên vất vả, nhiễu nhương, / Là nơi vạn vật, muôn phương quay về. Cho nên, Khảm mới nhiêu khê. / Cho nên, Khảm mới ê chề, gian lao. Cấn, phương Đông Bắc đóng vào, / Là nơi đầu cuối, tương giao muôn loài. Nên rằng: Cấn ấy xong xuôi, / Xong xuôi công việc, cơ ngơi thành toàn. 

  • Nghĩa là: Bát quái gợi nên một chu kỳ biến hóa, từ cung Càn (Trời) đi đến chỗ thành toàn là cung Cấn. Bởi 

    vì: Vạn hữu chào đời nơi quẻ Chấn. Chấn ở phía Đông, nơi mặt trời mọc mỗi buổi bình minh.  Vạn hữu trở nên tốt đẹp nơi cung Tốn. Tốn ở phía Đông Nam. Nơi đây, vạn hữu sẽ trở nên tinh 

    thuần, cao khiết.  Vạn hữu sẽ nhận biết nhau trong sự rực rỡ của quẻ Ly. Ly  là quẻ ở phương Nam, phương trời 

    tràn ngập ánh sáng, khi mặt trời rạng rỡ giữa khung trời khi chính Ngọ. Vua chúa khi xưa, trị dân quay mặt về hướng Nam, phía ánh sáng,  tức  là ước muốn đem muôn dân đến văn minh, đến ánh sáng, đến lý tưởng, đến chân lý. Khôn tức là Đất. Đất lo nuôi dưỡng vạn loài. Đoài là giữa Thu, lúc ấy Trời trong xanh, vạn vật hết sức hữu tình. Kiền ở về phía Tây Bắc, tức là nơi Âm Dương tương tranh. Sáng tối, nóng lạnh, kèn cựa lẫn nhau. 

    Vì thế nên nói: Chiến hồ Kiền. Khảm ở phương Bắc, là quẻ thấp nhất của chu kỳ biến hóa. Tới khi đó, vạn vật phải qua một thời 

    kỳ điêu linh vất vả. Cấn là quẻ ở Đông Bắc. Đó là cuối chu kỳ biến hóa, và đồng thời cũng là khởi điểm của một chu 

    kỳ mới,mà biến hóa thời phải đi đến thành toàn. Nên cuối chu kỳ, mới nói rằng: Thành toàn là ở Cấn. 

    Người xưa đã biết tận dụng hướng Nam này để chống nóng và chống rét: phần lớn hang động xưa đều có cửa quay về hướng Nam hoặc Đông Nam.  

    Trong ca dao Việt cũng nói về việc chọn nhà hướng Nam: Lấy vợ hiền hòa, xây nhà hướng Nam. Trong đạo Phật, hướng Nam là hướng của Bát Nhã, đồng nhất với trí tuệ để diệt trừ sự ngu tối, diệt trừ mầm mống tội ác. Ở miền Bắc và miền Trung, công trình xây dựng quay về hướng Nam hưỏng mát mẻ về mùa Hạ và tránh lạnh lẽo về mùa Đông. Riêng ở miền Nam, hướng tốt nhất là Đông Nam – Tây Bắc, tránh được gió mùa và nắng chói rọi vào trong. Tuy nhiên, với thói quen chọn nơi cư trú nhất cận thị nhị cận giang 一近市二近江, làng xã của người Việt thường nằm gần sông, gần lộ lớn. Tất nhiên các kiến  trúc  tôn giáo xưa cũng ở gần  làng xã. Bởi vậy có nhiều kiến  trúc  tôn giáo hiện nay không  theo hướng Nam hay hướng Đông Nam nhưng vẫn có hai dãy công  trình phụ gọi  là Đông Lang, Tây Lang; bàn thờ hai bên được gọi là Đông Hiến và Tây Hiến. 

    – Ảnh hưởng của phong thủy đến việc bố trí mặt bằng kiến trúc: 

    Phong  thủy chi phối khá nhiều  trong việc bố  trí mặt bằng kiến  trúc. Ngoài việc  triều, án, bình phong, minh đường, tụ thủy… còn có: 

    + Việc bố trí bàn thờ: Kiến trúc công trình của người Việt thường quay về hướng Nam phản ánh truyền thống coi trọng bên Trái (phía Đông – hướng Mặt Trời mọc) của văn hóa nông nghiệp. Từ cây thượng lương có đầu gốc ở phía trái (phía Đông) đến bàn thờ chính bên trái (phía Đông) và bàn thờ còn lại đặt bên phải (phía Tây).  

    + Việc sắp đặt cửa ra vào: Kiến trúc chùa, đền, đình xưa không làm cửa cao nhưng làm cửa rộng. Cửa không làm cao vì để tránh cái nắng xiên khoai hắt vào nhưng cửa rộng để đón gió mát và tránh nóng cho công trình. 

    + Hình thức kiến trúc công trình Việt Nam xưa thường tuân thủ nguyên tắc coi trọng số lẻ theo truyền thống. Bước vào cổng là cổng tam quan hay ngũ quan; bước lên bậc là bậc tam cấp, cửu cấp; kiến trúc lớn đều dựng theo lối nhà tam tòa. Số gian của một ngôi nhà, số bậc của cầu thang trong nhà bao giờ cũng lẻ. Số chẵn chỉ thường dùng cho mộ phần. Bởi vì số lẻ là dương (biểu trưng cho sự sống, sự sinh sôi nảy nở), số chẵn là số âm (biểu trưng cho sự chết).  

  • II. Cây xanh trong kiến trúc Việt 

    Cây xanh trong kiến trúc Việt được thể hiện qua thành ngữ: trước cau, sau chuối. Nghĩa là phía trước công trình trồng cây cao để lấy bóng mát và để cho gió mát hướng Nam hay Đông Nam lùa vào bên trong, phía trước công trình trồng cây thấp, có tán để ngăn gió mùa lạnh thổi vào từ hướng Bắc hay Tây Bắc. Ngoài ra cây xanh có mang ý nghĩa tâm linh nào đó, vì nó tạo cho công trình tôn giáo một cảnh quang vẻ u tịch và cảm giác dễ chịu, thanh thoát cho người viếng nơi thờ phượng. Cây xanh trồng xung quanh thường giữ một khoảng cách nhất định với chủ thể công trình, nhằm để tôn vẻ đẹp và tạo sự chu ý cho chủ thể. Xung quanh kiến trúc tôn giáo thường trồng các loại cây xanh cao vút và có  tán  rộng như đa,  đề,  si, gạo, dầu,  sao…  để  làm cho chủ  thể kiến  trúc hài hòa với  thiên nhiên. 

    III. Bố cục không gian công trình 

    Cây xanh trong kiến trúc Việt được thể hiện qua thành ngữ: trước cau, sau chuối. Nghĩa là phía trước công trình trồng cây cao để lấy bóng mát và để cho gió mát hướng Nam hay Đông Nam lùa vào bên trong, phía trước công trình trồng cây thấp, có tán để ngăn gió mùa lạnh thổi vào từ hướng Bắc hay Tây Bắc. Ngoài ra cây xanh có mang ý nghĩa tâm linh nào đó, vì nó tạo cho công trình tôn giáo một cảnh quang vẻ u tịch và cảm giác dễ chịu, thanh thoát cho người viếng nơi thờ phượng. Cây xanh trồng xung quanh thường giữ một khoảng cách nhất định với chủ thể công trình, nhằm để tôn vẻ đẹp và tạo sự chu ý cho chủ thể. Xung quanh kiến trúc tôn giáo thường trồng các loại cây xanh cao vút và có  tán  rộng như đa,  đề,  si, gạo, dầu,  sao…  để  làm cho chủ  thể kiến  trúc hài hòa với  thiên nhiên. 

    B. Kiến trúc và mỹ thuật nơi thờ phượng 

    I. Bố cục không gian công trình 

    1. Kiến trúc đình, đền, chùa Việt thường được bố trí theo dạng: 

    – Chữ nhất 一: với kiến trúc này, chính điện được đặt ở giữa, ban thờ chính ở bên trái, ban thờ còn lại ở bên phải. 

    – Chữ nhị 二: với kiến trúc này, tiền điện hoặc bái đường được đặt ở nét nằm trên, hậu điện hay chính điện được đặt ở nét nằm dưới. 

    – Chữ tam 三: với kiến trúc này, phương đình hay tiền điện hoặc bái đường được đặt ở nét nằm trên, trung điện được đặt ở nét nằm giữa, hậu điện hay chính điện được đặt ở nét nằm dưới. Ngoài ra có  thể được bố  trí  theo cách đặt nhà bái đường ở nét nằm  trên, chính điện được đặt ở nét nằm giữa, nhà tăng đường được đặt ở nét nằm dưới. 

    – Chữ đinh 丁: với kiến trúc này, tiền điện hoặc bái đường được đặt nằm theo nét ngang, hậu điện hay chính điện được đặt ở nét dọc. 

    – Chữ công 工: với kiến  trúc này, phương đình hay  tiền điện hoặc bái đường được đặt ở nét nằm trên, chính điện được đặt ở nét dọc, nhà trù được đặt ở nét nằm dưới. Ngoài ra có thể được bố trí theo cách đặt nhà bái đường ở nét nằm trên, chính điện được đặt ở nét dọc, nhà tăng đường được đặt ở nét nằm dưới. 

     

     

     

     

  •  

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

       

     

    Mặt bằng chữ công 工  Mặt bằng chữ công 工 có sân thiên tỉnh 

     Đình Minh Hương Q.5, Tp.HCM  Đình Nghĩa Thuận Q.5, Tp.HCM   

    – Chữ môn 門: với kiến trúc này, chánh điện hoặc tiền điện được đặt nằm ở giữa, hậu sở ở phía sau. Tây lang bên phải, Đông lang bên trái. 

     

     

     

     

     

     

     

     

     

  •  

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

      MẶT BẰNG CHỮ QUỐC 

      ĐÌNH TÂN THỚI NHÌ, Hóc Môn 

    – Chữ quốc 国 hoặc nội công 工 ngoại vi 囗: với kiến trúc này, phương đình hay tiền điện hoặc bái đường được đặt ở nét nằm trên, chính điện được đặt ở nét dọc, nhà trù được đặt ở nét nằm dưới. Ngoài ra có thể được bố trí theo cách đặt nhà bái đường ở nét nằm trên, chính điện được đặt ở nét dọc, nhà tăng đường được đặt ở nét nằm dưới. 

      

       

  • Kiến trúc nhà thờ Công giáo thường được xây dựng theo dạng chữ ∣, chữ T, chữ †: 

    Trong kiến trúc nhà thờ Công giáo, cung thánh được đặt ở vị trí trung tâm (vị trí của trái tim).  

     

     

     

     

     

     

     

    Trong đó: 1 – cung thánh;  2 – phòng thánh;  3 – vị trí của những người dự thánh lễ. 

     

     

    2. Một số dạng không gian kiến trúc đình: 

    Trong văn hóa Trung Hoa, đình là nơi nghỉ chân của khách thập phương, nơi canh gác... Theo nếp sống của người Việt, Đình có các chức năng: nơi thờ tự, trung tâm hành chính, nơi sinh hoạt văn hóa, lễ hội của địa phương. Việc bố trí không gian kiến trúc đình thường theo các dạng sau: 

    – Dạng chung: 

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    12

    3

    1

    2

    3 3

    3

    13 3

    3

    2

    1

    2 2

    3

    4

    5 6

    7

    8 10 9 SƠ ĐỒ BỐ TRÍ CỦA NGÔI ĐÌNH 1. Bia Ông Hổ 2. Miếu thờ thần 3. Võ ca (xưa là nơi dùng để múa hát) 4. Võ quy (nơi hội họp, tiền điện) 5. Chánh điện (nơi thờ Thành hoàng bổn cảnh) 6. Đông lang (nhà hành lang) 7. Tây lang (nhà hành lang) 8. Nhà trù (nhà bếp) 9. Nhà cối (nhà kho) 10. Nhà túc (nhà khách, cũng là nơi thờ Tiên Sư, Tiên viên, Hậu viên) 

  • – Dạng chữ ∣hay bộ cổn 丨: 

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

  •  

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    – Dạng nửa chữ Môn 門 hay chữ Thi 尸: 

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Công dụng của một số cấu trúc đình: – Trụ biểu: Trụ biểu hay trụ cổng thường tạo thành tam quan. 

  • – Bình phong: Bia Ông Hổ, hay bia Long Mã Hà Đồ, hay thờ Thần Nông, thường được dùng với chức năng như bình phong ở ngay trước sân đình để ngăn chặn những điều xấu có thể vào đình. 

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Bia Long Mã Hà Đồ ở đình thần Bình Mỹ – Miếu thờ thần: Hai bên bình phong là miếu thờ thần, hay thờ nhị vị công tử, hay thờ ngũ hành 

    nương nương. – Sân đình: Sân đình là tụ đường, đem ánh sáng và những điều may mắn đến cho ngôi đình. 

     

     

     

     

     

     

     

     

     

       

    Trụ biểu, hai miếu thờ hai bên, bình phong và sân đình làng Vĩ Dạ. Huế 

    – Nhà Thảo bạt: nhà hội đồng. – Nhà Võ ca: nơi biểu diễn tuồng hát vào ngày lễ hội. – Nhà Võ quy: nơi hội họp hay tiền điện thờ các bộ hạ của Thành hoàng. – Chánh điện: nơi thờ Thành hoàng bổn cảnh. – Đông lang và Tây lang: nhà hành lang, thường dùng làm nhà truyền thống. – Nhà Trù: nhà bếp. – Nhà cối: nhà kho. – Chánh điện: nơi thờ Thành hoàng bổn cảnh. – Nhà túc: nhà khách, có thể là nơi thờ Tiên Sư, Tiên viên, Hậu viên. 

    3. Một số dạng không gian kiến trúc chùa: 

  • “Đất vua, chùa làng” điều đó cho thấy hầu hết các ngôi chùa xưa đều thuộc về cộng đồng làng xã. Ngoài những kiến trúc như đình dạng chữ công, nhất, nhị, tam (chùa chữ tam phổ biến nhất ở miền Nam,… chùa còn có dạng kiến trúc khác phong phú hơn, như: 

    – Dạng hình ngôi sao: 

    Cấu trúc của Sóc Trăng Đại Tự có hình ngôi sao năm cánh. Ở giữa là hồ nước hình tròn tượng trưng  cho Thái Cực. Phía ngoài hồ nước  là khu vườn hình ngũ giác,  tượng  trưng  cho ngũ hành. Vườn ngũ giác và hồ tròn đóng vai tròn Minh Đường nội. Năm cánh của ngôi sao là năm điện thờ. Các điện thờ được nối với nhau bằng dãy hành lang.  

    + Tại đỉnh của ngôi sao là Đại Hùng Bảo Điện gồm có Tiền Điện và Hậu Điện nối nhau thành hình chữ công 工. Tiền Điện có 13 gian (số lẻ) kích thước 36mx10m. Hậu Điện có 9 gian (số lẻ) kích thước 24mx7,2m. 

    + Bốn đỉnh còn lại là: Thiền Điện, Pháp Chủ Đảo Điện, Tăng Chủ Bảo Điện, Lầu Chuông, Lầu Trống. 

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Sóc Trăng Đại Tự 

    – Dạng chữ Môn 門: 

    Cấu trúc chính của Trung Tâm Phật giáo Đông Hải.  

     

    Cấu trúc tổng thể: 

    1. Chánh điện 

    2. Nhà khách 

    2. Nhà khách 

    3. Trai đường 

    4. Nhà cốt 

  • 5. Nhà tăng 

    6. Đài Quan Thế Âm Bồ Tát 

     

    Công dụng của một số cấu trúc chùa: 

    – Tam quan: Cổng vào chùa. Chùa có thể có hai tam quan, một tam quan nội và một tam quan ngoại. Tầng trên của Tam quan thường dùng làm gác chuông. 

    – Sân chùa: Qua Tam quan là đến sân chùa. Sân của nhiều chùa thường được bày đặt các chậu cảnh, hòn non bộ với mục đích làm tăng thêm cảnh sắc thiên nhiên cho ngôi chùa. Diện tích của sân chùa phụ thuộc vào những điều kiện và đặc điểm riêng của từng chùa. Trong sân chùa, đôi khi có các ngọn tháp được xây dựng ở đây như ở chùa Dâu, chùa Thiên Mụ. 

    – Bái đường: Từ dưới sân chùa, lớp kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa là nhà bái đường (hay còn là tiền đường, nhà thiêu hương). Để đi được đến đây thường phải đi lên một số bậc thềm. Ở nhà bái đường thường đặt một số tượng, bia đá ghi sự tích của ngôi chùa, có thể đặt cả chuông, khánh nếu như ngoài cửa Tam quan không xây gác chuông. Giữa bái đường là hương án, nơi thắp hương chính. Thông thường người đến  lễ chùa thắp hương ở đây. Số gian của bái đường tùy thuộc vào quy mô của chùa, nhỏ nhất là 3 gian, thông thường là 5 gian. 

    – Chính điện: Qua nhà bái đường là chính điện. Giữa bái đường và chính điện có một khoảng trống không rộng lắm, để cho ánh sáng tự nhiên chiếu sáng. Nhà chính điện là phần quan trọng nhất của ngôi chùa vì nơi đây bày những pho tượng Phật chủ yếu của điện thờ Phật ở Việt Nam. 

    – Hành  lang: Chạy song song với chính điện, nối chính điện với hậu đường  là hai gian hành lang, tạo thành một nhà ba gian. 

    – Hậu đường: Hậu đường cũng còn gọi là nhà tổ. Hậu đường ở một số chùa trong miền Nam liền sát sau nhà chính điện, ngay sau phía bàn thờ Phật. 

    – Tăng đường: Tăng đường ở phía bên của Chính điện theo trục Thần đạo. 

    Trong thực tế, do để dễ du nhập Phật giáo vào đất nước, chùa Việt có nhiều biến thể khác nhau. Ở một số chùa, phía sau điện thờ Phật còn có điện thờ Thần, đó là loại chùa tiền Phật hậu Thần phổ biến ở miền Bắc Việt Nam. Có chùa có gác chuông ở phía trước, có chùa có gác chuông ở phía sau, có chùa gác chuông ở ngay trên cửa Tam quan, có chùa gác chuông  lại ở  trên nhà  tổ. Một số chùa có ngôi tháp lớn ở trước mặt, như chùa Dâu ở tỉnh Bắc Ninh, chùa Phổ Minh ở tỉnh Nam Định, nhưng một số chùa khác lại đặt các tháp ở hai bên chùa hay có vườn tháp riêng như chùa Trấn Quốc ở Hà Nội, chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh, Chùa Bổ Đà ở tỉnh Bắc Giang... 

    C. Cấu trúc đình, đền chùa 

    I. Chi tiết kiến trúc công trình 

    1. Tên gọi cấu kiện mặt tiền: 

     

     

     

     

     

  •  

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Trong đó: 

    Cổ diêm: phần nối ở diềm mái đua ra ngoài tường vách; bờ hồi: lằn ranh đắp cao (hay đốc) chắn hai đầu nhà không chái; bờ nóc: còn gọi là bờ mái – giải xây gạch nối hai mái, hay nối mái với tường bao; đố cửa: khung cứng giúp dựng vách dừng, vì ở trên cửa nên còn gọi là đà cửa; diềm mái: vành mái; đà thượng hữu: xà ngang ở trên bên phải; đà thượng tả: xà ngang ở trên bên trái; đà hạ hữu: xà ngang ở dưới bên phải; đà hạ tả: xà ngang ở dưới bên trái; đà cửa hạ: xà ngang dưới cửa; cửa song khai:  cửa  có que  từng hàng  đứng  chắn  tạo  độ mở  thông  thoáng; mái hiên: phần mái  che hè phía trước nhà; mắt cửa: mắt cửa là nét đặc thù của nhà xưa ở Hội An. 

     

    2. Tên gọi cấu kiện khung sườn: 

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

  •  

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Trong đó: 

    1. cột hàng ba: hàng cột thứ ba đỡ mái hiên. Vì vậy, trong dân gian còn gọi mái hiên là hàng ba; 

    2. cột hàng nhì: còn gọi là cột quân, cột hàng hai để dừng vách; 3. cột hàng nhất: hàng cột thứ nhất 

    hay cột cái, cột chính; 4. đà cây xuyên: xà ngang xoi qua cột; 5. xuyên mái: xà ngang xoi qua cột hàng 

    nhì, nơi bắt đầu của mái hiên; 6. cây trính: còn gọi là trến, câu đầu, quá giang – bộ phận kết cấu vì 

    kèo, dưới dạng thân gỗ nằm ngang liên kết hai đầu cột cái với nhau và thường là thanh nằm ngang ở 

    vị trí đáy của tam giác vì kèo; 7. cây trổng: còn gọi là trụ, trụ tiêu – truyền lực từ cánh dơi xuống cây 

    trính; 8. cánh dơi: tấm đệm nối hai đầu kèo và đầu cây trổng; 9. con nêm: còn gọi là chốt câu đầu – 

    nêm chặt cây trính vào cột hàng nhất (cột cái); 10. kèo: thanh nghiêng, kết nối các đầu cột của vì kèo; 

    11. đòn dông: còn gọi  là cây  thượng  lương – cây xà ngang nằm  trên cùng,  liên kết các đầu cột cái 

    trong bộ khung gỗ; 12. đòn tay: còn gọi là hoành – xà ngang gác từ vì kèo nọ sang vì kèo kia để đỡ 

    rui; 13. rui: xà dọc đặt trên đòn tay – trên rui đặt song song những cây mè; 14. ngạch cửa: xà ngang 

    nối giữa hai cột hàng nhì, ngay dưới khung cửa; 15. đá tảng: còn gọi là đá táng – đá làm nền đỡ cột; 

    16. xuyên lụi: xà ngang nối giữa hai cột hàng nhất – nhì – ba trong mặt phẳng của vì kèo; khung nhà 

    xuyên trính: khung nhà rường có cây trổng (7) và cánh dơi (8); khung nhà rường: khung có các kết 

    cấu liên kết cột cái với cột con bằng xà nách và gắn hai cột cái trong vì kèo với nhau bởi cây trính. 

     

     

     

     

  •  

     

     

     

     

     

     

     

    Sơ đồ nhà rường 

    3. Tên gọi các phần liên kết bộ khung: 

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Sơ đồ các phần liên kết của khung nhà xuyên trính 

    Trong đó: 

    Liên kết giao nguyên: chỗ nối hai kèo trong vì kèo – đỉnh của tam giác tạo ra vì kèo; liên kết cổ diêm: chỗ nối ở diềm mái đua ra ngoài tường vách; liên kết thừa lưu: chỗ nối mạch dừng ở giữa hai mái dốc; liên kết mái hiên: chỗ nối tạo ra mái hàng ba; cụm liên kết thừa vinh: chỗ nối đầu hàng hiên cong lên. 

    4. Tên gọi các phần liên kết bộ khung: 

     

    cây trính

    cột cái

  •  

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

      

    Sơ đồ kết cấu khung nhà chồng rường 

    Trong đó: 

    Kèo hàng nhất: xà nghiêng nối giữa cột hàng nhất (cột cái) và cột hàng nhì; kèo hàng nhì: xà nghiêng nối giữa cột hàng nhất và cột hàng nhì; kèo hiên: xà nghiêng nối giữa cột hàng nhì và cột hàng ba (cột hiên); xà thượng: cây xà ngang liên kết các đầu cột hàng hai trong bộ khung gỗ; xà hạ: cây xà ngang liên kết các đầu cột hàng ba trong bộ khung gỗ; xà hiên: cây xà ngang liên kết các bẩy hiên; bẩy hiên: còn gọi là con ke bẩy hiên hay con ke – phần con‐xon đỡ xà hiên (hình minh họa phía dưới); đòn tay: còn gọi là hoành – xà ngang gác từ vì kèo nọ sang vì kèo kia để đỡ rui; đá táng: còn gọi là đá tảng – đá làm nền đỡ cột, tránh cho cột tiếp xúc trực tiếp với nền ẩmvà hạn chế nền bị lún ở chân cột. 

     

     

     

     

     

     

     

     

    Con ke bẩy hiên 

    5. Tên gọi các phần liên kết bộ vì kèo: 

  •  

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

      

    Sơ đồ kết cấu phần giao nguyên của vì kèo nhà xuyên trính 

    Trong đó – Giao nguyên: phần  liên kết giữa hai xà nghiêng (kèo mái tiền và kèo mái hậu) và thượng  lương; kèo mái  tiền: xà nghiêng nối giữa cột hàng nhất  tiền và cột hàng nhì  tiền; kèo mái hậu: xà nghiêng nối giữa cột hàng nhất hậu và cột hàng nhì hậu; xà đầu cột nhất: đà ngang nối giữa hai cột hàng nhất; trụ tiêu: còn gọi là trụ, cây trổng – truyền lực từ cánh dơi xuống cây trến; trến: còn gọi là trính, câu đầu, quá giang – bộ phận kết cấu vì kèo, dưới dạng thân gỗ nằm ngang liên kết hai đầu cột cái với nhau và thường là thanh nằm ngang ở vị trí đáy của tam giác vì kèo; con đội: phần đệm giữa trụ tiêu (cây trổng) và trến; dầm trần: xà ngang đỡ ván trần; ván trần: ván trần nằm trên dầm trần; đà trần: xà nhỏ liên kết các tấm ván trần lại thành mảng; xuyên tiền: xà ngang nối hai cột phía trước; xuyên hậu: xà ngang nối hai cột phía sau; ấp quả: cánh dơi – tấm đệm nối hai đầu kèo và trụ tiêu; vì kèo: bộ phận kết cấu khung nhà, có dạng hình tam giác cân để đỡ hai mái dốc về hai phía. Vì kèo cùng với các cột trong cùng mặt phẳng tạo thành bộ phận chính của khung nhà. Với căn nhà nhỏ, vì kèo có 2 ‐ 3 cột, nhà vừa có 4 ‐ 5 cột, nhà khá giả có 6 ‐ 7 cột. Hai vì kèo liên tiếp được kết nối bởi các thanh vuông góc với mặt phẳng vì tạo thành khung của gian nhà. Trong hình tam giác của vì kèo, cạnh đáy là trến (quá giang), cạnh nghiêng là kèo. 

    Một số kiểu vì kèo (vài): 

     

     

     

  •  

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

      

       Vì nóc với mặt hổ phù  Vì nóc với đồ án long vân 

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

  •  

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Vì kèo chồng với trang trí điêu khắc 

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

      

  •   Vì mái thừa vinh  Vì mái với trang trí điêu khắc 

    6. Tên gọi các chi tiết phần mái: 

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

       CHI TIẾT MÁI NGÓI ÂM DƯƠNG

     

    Ngói được mái làm từ đất sét nung chín hoặc bằng sành trắng phủ men màu (ngói thanh lưu ly và hoàng lưu ly). Theo hình dạng và cách chế tạo, ngói có các loại sau:  

    1) Ngói âm dương (ngối ống hay ngói lòng máng): thân ngói hình cong, có mặt cắt là nửa vòng tròn – bên ngửa là ngói âm, bên úp là ngói dương. Khi lợp, kết thúc ở bờ chảy hay bờ hồi phải là ngói dương để không bị tràn nước. Loại ngói âm dương thích hợp với mái có độ dốc nhỏ.  

    2) Ngói dẹt, có nhiều hình dạng: chữ nhật (ngói màn), chữ nhật vát cạnh (ngói mũi vát), vảy cá, vảy rồng. Ngói vảy cá: đầu ngói hình vòng cung, lợp chồng lên nhau, tạo nên lớp vảy cá; dùng lợp các đình chùa xưa. 

    3) Ngói mũi hài: đầu ngói có nhô  lên, nhọn như hình mũi hài thường dùng để  lợp đền, đình, chùa. Ngói cỡ to đặc biệt gọi là mũi hài kép, đầu ngói có hai nấc cong như hai mũi hài chồng so le nhau. Ngoài ra còn có ngói có mũi con sò, ngói có mũi hình mắt rồng. 

    4) Ngói lưu ly: loại ngói đất nung phủ men chì, óng ánh như lưu ly; dùng lợp cung điện Huế, có hai loại: thanh lưu ly và hoàng lưu ly. Trong thời nhà Nguyễn, ngói hoàng lưu ly chỉ dành cho nơi vua ngự. 

     

     

  •  

     

     

     

       

      Ngói âm dương  Ngói mũi hài 

     

     

     

     

     

     

     

     

      Ngói phẳng có gân  Ngói vảy cá  

     

     

     

     

     

     

     

      Ngói mũi con sò  Ngói mũi vát  Ngói sóng 

     

     

     

     

     

      

      Ngói mũi mắt rồng  Ngói mũi ri 

     

  • Ngoài ra còn có các  loại ngói viền, ngói nóc, ngói cuối nóc, ngói bò, ngói riềm, ngói rìa, ngói chạc chữ T, ngói chạc ba, ngói chạc bốn 

     

     

     

     

     

     

      Ngói nóc  Ngói cuối nóc 

     

      

      Ngói viền 

     

      Ngói nóc hai đầu  Ngói rìa 

     

     

     

     

     

     

     

     

      

      Ngói chạc ba  Ngói nóc tròn 

     

     

     

     

     

     

     

      Ngói chạc ba chữ T  Ngói chạc bốn 

     

  • 4. Không gian kiến trúc quần thể nhà thờ Phát Diệm: Không dùng đến tư duy vay mượn của Trung Hoa, trời tròn đất vuông, quần thể Nhà thờ Phát 

    Diệm được xây dựng trên kiến trúc văn hóa Việt, với diện tích khoảng 3.000m2, bao gồm các hạng mục: 1. Hang Bêlem, năm 1875; 2. Nhà Thờ Trái Tim Ðức Mẹ (Nhà Thờ Ðá), năm 1883; 3. Nhà Thờ Trái Tim Chúa Giêsu, năm 1889; 4. Nhà Thờ Lớn  (Nhà Thờ Ðức Mẹ Mân Côi), năm 1891; 5. Nhà Nguyện Thánh Rôcô,  năm  1895;  6. Nhà Nguyện Thánh Phêrô,  năm  1896;  7. Nhà Nguyện Thánh Giuse, năm 1896; 8. Hang Ðá Lộ Đức, năm 1890; 9. Núi Sọ, năm 1898; 10. Phương Ðình, năm 1899.                      

      

     Quần  thể  Nhà  thờ  Phát  Diệm  có  chiều  dài  243m, chiều  rộng  117m,  quay  về  hướng Nam.  Theo  kiến  trúc  Á Đông,  hướng  quần  thể  nhà  thờ  quay mặt  về  phía  Nam phù  hợp  với  ý  của  Kinh  Dịch:  聖人南面而聽天下  “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ” nghĩa là bậc đế vương  xoay mặt về hướng Nam để lắng nghe thiên hạ. Quần thể Nhà  thờ  Phát Diệm được bố trí theo phong thủy và cách đăng đối  (tả  vu‐ hữu vu;  tả  thanh  long, hữu bạch hổ)  của kiến  trúc  cung đình xưa. Tất cả đều đối xứng qua trục thần đạo và  tạo thành chữ CHÚA hay CHỦ (主). 

    Ao hồ và sân làm Minh Đường Minh đường 明塘  là chỗ trũng tụ nước hoặc khoảng sân rộng phía trước một công trình kiến 

    trúc  để  tạo phúc khí. Minh Đường 明塘  là khoảng không gian  sáng  sủa, nhận ánh nắng mặt  trời chiếu vào và nằm ở phía trước công trình kiến trúc quần thể nhà thờ Phát Diệm; đó là Ao Hồ hình 

  • chữ nhật ‐ diện tích khoảng 1 hecta và khoảng sân rộng phía sau ao. Nhìn hình hình chiếu bằng của công trình có hình chữ 主 (Chúa ‐ chữ Nôm; Chủ ‐ chữ Hán): nét ngang thứ nhất đi qua hai cổng phụ và Phương đình; nét ngang thứ hai đi qua nhà nguyện Thánh Rôccô, Nhà thờ lớn, nhà nguyện kính Thánh Giuse; nét ngang  thứ ba  đi qua nhà nguyện kính Trái Tim Chúa Giêsu, Nhà  thờ  lớn, nhà nguyện kính Thánh Phêrô; nét sổ giữa từ Phương đình dọc theo Nhà thờ  lớn; nét phẩy ở vị trí Ao Hồ. Chữ 主 Chúa theo Nôm gồm bộ chủ (丶) và chữ 王 vương. Trong đó, chữ vương nghĩa là vua, nét chủ (丶) nghĩa là cái gì cần có phân biệt thì đánh dấu để nhớ lấy. Vì nét chủ làm chữ vương (vua) trở thành của chữ Chúa, nên Ao Hồ  làm minh đường, đóng vai quan trọng trong công trình kiến trúc quần thể nhà thờ Phát Diệm. Theo tài liệu của TGM Phát Diệm, khi xưa, Ao Hồ còn là nơi giáo dân đi lễ  rửa chân vào những ngày mưa  lầy  lội  ‐ như nhắc cho họ  rằng:  trước khi vào nhà Chúa  để  thờ phượng, ngoài sự chỉnh tề phần xác, còn phải sửa soạn tâm hồn cho trong sạch nữa (thanh tẩy). Ngày xưa, việc Cụ Sáu cho đào Ao Hồ không chỉ là tạo ra nét kiến trúc theo phong thủy phương Đông, mà còn để lấy đất tôn cao khu Nhà Thờ. Ba mặt Nam, Đông, Tây của Ao Hồ có tường bao bọc, bên ngoài là đường nhựa. Mặt trước là hướng Nam, nhưng ở hướng Đông ‐ Nam du khách có thể ngắm được toàn cảnh Ao Hồ: Ao Hồ, sân và Phương đình. Trên Ao Hồ có tượng Chúa Giêsu làm Vua cao 3 mét đặt trên hòn giả sơn làm bình phong.  

                    

    Ao hồ và hòn giả sơn phía trước Liền sau Ao Hồ là khoảng sân rộng, làm tụ đường để tôn giá trị của minh đường. Tụ đường là 

    nơi hội tụ những điều tốt lành và ánh sáng để đưa vào công trình. Trên sân có đặt hai tượng Thánh Phêrô và Thánh Phaolô. Nơi bệ  tượng đặt Thánh Phêrô có khắc câu  trích Kinh Thánh: “Lạy Chúa, Chúa có những lời hằng sống” (Ga 6,68). Nơi bệ tượng đặt Thánh Phaolô có khắc câu trích Kinh Thánh: “Sự sống của tôi là Đức Kitô” (Pl 1,21). 

       

  •            

      Tượng Thánh Phêrô  Tượng Thánh Phaolô 

    Phương Đình Phương đình (đình vuông)  là  ngôi 

    nhà  vuông  không  cửa  với mái  cong  vút; đó  là  một  phần  của  kiến  trúc  đền, đình Việt  Nam.  Phương  đình  còn  được xem như bái đường, đóng vai trò  là  nơi họp mặt. 

    Khi qua cổng đá, người ta  được dẫn  vào một  khoảng  sân  rộng  có  trồng cây rợp bóng mát. Khung cảnh  trước mắt  làm  tâm  hồn  con  người  lắng đọng, sẵn sàng đi vào buổi gặp  gỡ  với Thiên  Chúa.  Chắn  ngang  sân  rộng  là Phương đình, được hoàn thành  năm 1899.  Đây  là  công  trình  sau  cùng  của Cụ Sáu, nó hoàn hảo về mặt kiến trúc – pha lẫn kiến trúc đình làng và kiến trúc cổng thành của Kinh thành Huế. 

    Phương đình có hình dáng gần như hình khối lập phương (ngang 21m, sâu 17m, cao 25m), có dạng tam quan với ba tầng (tầng dưới bằng đá xanh và hai tầng trên được làm bằng gỗ ‐ tầng trên cùng là gác chuông) với bốn vọng lâu ở bốn góc.  

    Ba  tầng  của Phương  Đình  làm người Công Giáo  liên  tưởng  đến mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Mái của tháp chính và bốn vọng lâu đều được tạo thành bởi hai tầng mái, phía dưới có bốn cột đỡ. Nếu  lấy bầu  trời và mặt  đất  là Càn Khôn, hai  tầng mái chính  là  lưỡng nghi, bốn  cột  đỡ  là  tứ tượng... đây là cách tạo dựng ra vạn vật theo cách nhìn của Á Đông. Bờ nóc của Phương Đình là hình thập tự giá, trên bờ nóc của bốn vọng lâu có hình bốn thánh sử cùng với con vật biểu trưng cho từng vị. Cách kiến trúc này làm chúng ta liên tưởng đến đoạn Lời Chúa: “Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê. Ở giữa ngai và xung quanh ngai có bốn Con Vật, đằng trước và đằng sau đầy những mắt. Con Vật thứ nhất giống như sư tử, Con Vật thứ hai giống như bò tơ, Con Vật thứ ba có mặt như mặt người, Con Vật thứ bốn giống như đại bàng đang bay” (Kh 4,6‐7). 

    Từ ngoài nhìn vào mặt tiền của Phương đình: – Trên vọng lâu bên trái (phía Tây – Nam) có hình Thánh sử Luca và con bò tơ: vì mở đầu sách Tin Mừng của ngài nói đến việc Tư tế Dacaria dâng hương 

  • trong Đền Thờ. Lễ vật được dâng thường là chiên bò. – Trên vọng lâu bên trái ở phía sau (phía Tây – Bắc) có hình Thánh sử Gioan và con chim đại bàng: vì mở đầu sách Tin Mừng của ngài nói về bản thể của Thiên Chúa một cách cao xa như chim đại bàng tung cánh trên bầu trời. – Trên vọng lâu bên phải (phía Đông – Nam) có hình Thánh sử Marcô và con sư tử: vì mở đầu sách Tin Mừng của ngài nói về sự xuất hiện của Thánh Gioan Tẩy Giả trong hoang mạc, nơi có sư tử sinh sống. – Trên vọng lâu bên phải ở phía sau (phía Đông – Bắc) có tượng Thánh sử Matthêu và con vật có mặt như người: vì mở đầu sách Tin Mừng của ngài nói về gia phả của Chúa Giêsu để làm rõ nguồn gốc phần nhân loại của Chúa Giêsu. 

                       

    Bốn Thánh sử trên bốn vọng lâu 

     Nét  độc  đáo  của  tượng  bốn  Thánh  sử  ở  Phương 

    đình này  là: các ngài đều ở tư thế ngồi. Vì hầu  hết dạng tượng  tròn về các Thánh sử đều được  thể hiện  trong  tư thế  đứng.  Tầng  dưới  của  Phương  đình  được  xây bằng những khối  đá  xanh vuông,  chia  làm ba  lòng, mỗi lòng có một sập đá. Sập đá nơi lòng ở giữa  to  nhất (dài 4,2m,  rộng 3,2m, dày 0,3m), nặng khoảng  20  tấn. Sập đá theo bày trí Á Đông tượng trưng cho sập  rồng của vua  chúa  ngày  xưa,  cũng  có  thể  hiểu  sập  đá  như hình  vuông  tượng  trưng  cho  đất,  vòm  cong  phía trên của ô trống tượng trưng cho trời. Ý của Cụ  Sáu,  sập đá là bàn Tiệc Ly của Chúa khi xưa. Bởi vì ở mặt chính phía Nam của lòng giữa có khắc bốn đại tự: 座寳躬聖 Thánh Cung Bảo Tòa (tòa quý của thân thể Chúa), và đối lại ở mặt chính phía Bắc của lòng giữa có khắc dòng chữ  tiếng Latinh: Capella  in Cœna Domini  (Nhà nguyện  trong ngày kỷ niệm – 

    T. Gioan

    T. Marcô T. Matthêu

    T. Luca

  • Buổi Tiệc Ly – của Chúa). Trên một số vách của Phương đình – Nhà Nguyện trong buổi Tiệc Ly của Chúa – có tạc những bức phù điêu theo phong cách Á Đông, mô tả các cảnh từ khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cho đến khi Chúa Giêsu về Trời. Phía trong Phương đình có những bức phù điêu giới thiệu các vị Thánh với phong cách ước lệ theo văn hóa Việt Nam, tạo cảm giác vừa gần gũi, vừa linh thiêng. Ở hai mặt vách phía Đông và phía Tây có những chấn song con tiện bằng đá có khắc họa tiết cây  trúc  tạo nét  thanh cao, khỏe khoắn cho nhà  thờ. Hình  ảnh cây  trúc cũng  là biểu  tượng và phẩm hạnh của người quân tử – thể hiện sự hòa hợp tinh tế giữa văn hóa dân tộc với kiến trúc nhà thờ Công Giáo. 

               Qua lối đi là một cầu thang hẹp bằng đá, dẫn người ta lên tầng giữa cũng bằng đá, nơi đặt trống 

    cái. Ở tầng giữa có bốn mái hiên cong vút với bốn đầu đao có hình vân mây. Từ tầng giữa này, người ta có thể nhìn bao quát khung cảnh xung quanh: sân, ao, các nhà thờ cạnh, mộ Cụ Sáu và mặt tiền Nhà thờ chính tòa Phát Diệm. Theo cầu thang gỗ để lên tầng trên cùng được làm bằng gỗ, nơi có đặt một quả chuông  Nam (chuông đánh bằng chày nằm ngang) như ở các đền, chùa Việt Nam. Chuông được đúc vào năm 1890, cao 1,9m, đường kính 1,1m, nặng gần 2 tấn.  Ở bốn mặt chuông có bốn núm để đánh  chuông, nơi mỗi núm  có khắc  tên bốn mùa bằng  chữ Hán: Xuân  (春), Hạ  (夏), Thu  (秋), Đông (冬). Điều đó có nghĩa là trước kia, chày vồ sẽ đặt đúng vào núm theo mỗi mùa. Tiếng chuông ở ở núm theo mỗi mùa có khác nhau. Hiện nay, do thường xuyên có khách đến tham quan, chày vồ được cố định theo núm của mùa thu. Khi đánh chày vồ, tiếng chuông có thể vang xa đến 10 km.  

    Tiếng chuông Nam có quan hệ như thế nào với văn hóa Việt? Để giải thích cho thắc mắc này, xin trích bài minh được khắc trên chuông lớn treo trên lầu Ngũ 

    Phụng ở Ngọ Môn, Kinh thành Huế: “Chuông là chỗ phát ra âm thanh ban đầu của nguyên khí. Âm thanh này  được dùng  trong những buổi hội  triều, yến  tiệc. Tiếng bong bong của chuông  làm cho người nghe sinh hứng thú... Sự vang rộng  to  lớn của nó sẽ khiến lòng người được yên ổn, để từ đó thấm nhuần cái Đức (của Trời Đất) mà không kể công của mình...” Do tiếng chuông Nam là âm thanh có thể giáo hóa được con người, quan trọng là thế, nên các quan đời vua Minh Mạng (năm 1822) đã tâu sớ với nhà vua để xin đúc chuông và viết bài minh này trên đó.  

    Khi xưa, Cụ Sáu cho đúc chuông Nam chắc cũng không ngoài ý đó. Nhưng Cụ Sáu gửi gắm thêm các ý mới: tiếng chuông là âm thanh để ca tụng Thiên Chúa, để mời gọi mọi người đến gặp gỡ trong bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể, để tập hợp các giáo sĩ chăn dắt đoàn chiên, để từ  giã  người  qua  đời,  để  đẩy  lui  bệnh  tật  và  để  tô  điểm  cho  ngày  lễ  thêm  tươi  vui.  Từ  đỉnh chuông,  những  đường  chỉ  họa  tiết  chạy  dọc  theo  thân,  chia  chuông  thành  bốn mặt. Mỗi mặt chuông đều có văn  tự Hán hay Latinh  theo  thứ  tự như sau: – Mặt Tây Bắc  là dòng chữ Latinh: “Laudo Deum verum, voco plebem, congrego clerum, defuntos ploro, pestem fugo, festa decoro”. Nghĩa là 

  • “Tôi ca tụng Chúa thật, tôi kêu gọi dân chúng, tôi tập hợp giáo sĩ, tôi khóc người qua đời, tôi đẩy lui dịch tễ, tôi điểm tô ngày lễ”. Dòng chữ này tựa như nỗi lòng và sứ vụ của cái chuông khi nó cất  tiếng ngân vang. – Mặt Tây Nam  là dòng chữ Latinh: “Sancta Maria, Sanctus  Joseph, Sanctus Joannes Baptista, Anno Domini 1890”. Nghĩa là “Thánh Maria, Thánh Giuse, Thánh Gioan Tẩy Giả, năm Chúa Giáng Sinh 1890.” – Mặt Đông Nam là dòng chữ Hán: “發艶處公物 Phát Diệm xứ công vật”, nghĩa là vật chung của xứ Phát Diệm. – Mặt Đông Bắc là dòng chữ Hán: “成泰庚寅造 Thành Thái Canh Dần tạo”, nghĩa là được đúc dưới triều vua Thành Thái, năm Canh Dần (1890).