kinh tế vĩ mô quý iii năm 2017: những điểm nổi...
TRANSCRIPT
1
Kinh tế vĩ mô quý III năm 2017: Những điểm nổi bật
Những điểm nổi bật của kinh tế, giá cả, tài chính tiền tệ quốc tế
- Kinh tế toàn cầu ghi nhận đà phục hồi tích cực tại nhiều nền kinh tế chủ chốt, hoạt động
sản xuất đang ở giai đoạn mở rộng mạnh mẽ nhất trong vòng 2 năm rưỡi, hoạt động
thương mại cũng đang gia tăng trở lại;
- Chỉ số giá cả hàng hóa toàn cầu tăng 1,45% trong quý III chủ yếu nhờ sự tăng giá của
nhóm hàng năng lượng;
- Chỉ số lạm phát toàn phần đang có chiều hướng gia tăng nhanh trên toàn thế giới, lạm
phát cơ bản tại các nền kinh tế chủ chốt giao động trong khoảng 0,7% - 1,7%;
- Trên thị trường ngoại hối, ngoại trừ đồng USD và JPY, các đồng tiền chủ chốt khác vẫn
giữ đà tăng điểm.;
- Giá vàng đã tăng trở lại mặc dù đã có tháng giảm cao nhất kể từ đầu năm;
- TTCK toàn cầu diễn biến tích cực, chỉ số MSCI ACWI toàn cầu đã đạt mức tăng 1,26%
trong quý III;
- 23 NHTW đã thay đổi lãi suất điều hành trong quý III, trong đó có 20 nước đã tiến hành
giảm lãi suất.
Những điểm nổi bật của kinh tế trong nước
- Tăng trưởng kinh tế quý III ước đạt 7,46%, vượt kỳ vọng đề ra;
- Khu vực công nghiệp đã có diễn biến tốt hơn so với những quý trước, chỉ số nhà quản trị
mua hàng tiếp tục diễn biến trong vùng mở rộng, ghi nhận mức tăng mạnh vào tháng cuối
của quý;
- Hoạt động bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng đã có quý diễn biến tốt nhất kể từ đầu
năm;
- Vốn đầu tư toàn xã hội gia tăng mạnh trong đó nổi bật là vốn đầu tư từ khu vực tư nhân
và nước ngoài;
- Hoạt động thu hút vốn FDI diễn ra ổn định trong các tháng của quý III;
- Kim ngạch xuất nhập khẩu đều đạt mức tăng trưởng tốt, cán cân thương mại đạt xuất
siêu hơn 2 tỷ USD trong quý III;
- Lạm phát đã tăng trở lại, CPI bình quân 9 tháng đầu năm tăng 3,79% so với cùng kỳ năm
trước;
- Thu NSNN có chiều hướng chậm lại trong quý III, đặc biệt đối với cấu phần thu nội địa;
chi NSNN có sự gia tăng mạnh ở cấu phần chi đầu tư phát triển;
- Lãi suất diễn biến giảm phù hợp với diễn biến của kinh tế vĩ mô;
- Giá vàng đã tăng nhưng mức biến động và xu hướng vẫn có khác biệt so với thế giới ;
- TTCK tiếp tục tăng điểm trong quý III, chỉ số VN – Index đạt mốc 804,42 điểm, tăng 3,6%
so với cuối quý II.
2
I. KINH TẾ THẾ GIỚI
1. Kinh tế thế giới
Kinh tế toàn cầu
ghi nhận đà phục
hồi tích cực tại
nhiều nền kinh tế
chủ chốt
Kinh tế toàn cầu trong quý vừa qua tiếp tục phục hồi ổn định. Sự phục hồi này
được quan sát rõ rệt hơn tại các nền kinh tế chủ chốt.
Tại nhóm các nền kinh tế phát triển, EU và Nhật Bản vẫn là động lực dẫn dắt
tăng trưởng của cả khối. Khu vực EU phục hồi vững chắc nhờ cầu tiêu dùng
trong nước tiếp tục mở rộng trong khi các hoạt động sản xuất, thương mại đều
giữ đà tăng trưởng ổn định1. Trong khi đó, kinh tế Nhật Bản đang ghi nhận
giai đoạn tăng trưởng tốt nhất trong vòng 1 thập kỷ qua với diễn biến tích cực
được ghi nhận trên mọi mặt sản xuất, tiêu dùng, xuất khẩu của nền kinh tế2.
Điểm đáng chú ý là lạm phát của Nhật Bản trong quý III vẫn tiếp tục nối dài
chuỗi tăng trưởng dương kể từ tháng 10 năm ngoái, đẩy lùi tình trạng lo ngại
về căn bệnh giảm phát kinh niên tại quốc gia này. Kinh tế Mỹ cũng ghi nhận
những tín hiệu tăng trưởng tốt hơn sau nửa đầu năm có phần chững lại. Khu
vực sản xuất duy trì đà mở rộng, nổi bật là chỉ số PMI đã đạt mức cao nhất kể
từ đầu năm đến nay, trong khi đó hoạt động tiêu dùng trong nền kinh tế cũng
có nhiều cải thiện so với quý trước đó3.
Bên cạnh đó, tại nhóm các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, Trung Quốc
tiếp tục là đầu tàu dẫn dắt tăng trưởng của cả khối. Kinh tế Trung Quốc tiến
bước vững chắc nhờ đà tăng trưởng của hoạt động tiêu dùng, sự khởi sắc của
xuất khẩu và hoạt động sản xuất vẫn tiếp tục mở rộng4. Tiếp đến sự phục hồi
của giá dầu trong những tháng gần đây, một loạt các nền kinh tế có sự phụ
thuộc mạnh mẽ vào xuất khẩu dầu như Brazil, Nga cũng đang cho thấy những
tín hiệu tăng trưởng tốt.
Mặc dù vậy, trong xu hướng đi lên của tăng trưởng toàn cầu, một số nền kinh
tế vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức. Anh đang gặp nhiều khó khăn do tác
động từ Brexit khiến hoạt động sản xuất và thương mại giảm sút, trong khi đó
lạm phát có chiều hướng tăng cao cũng gây trở ngại đến chi tiêu dùng nội địa
tại quốc gia này5. Úc cũng đang cho thấy những dấu hiệu chững lại khi tăng
trưởng kinh tế của quốc gia này trong hai quý vừa qua chỉ dậm chân ở mức
1,8%, thấp hơn hầu hết các nền kinh tế phát triển khác cũng như thấp hơn mức
tăng trưởng trên 3% của cùng thời điểm năm ngoái. Về phía các nền kinh tế
đang phát triển và mới nổi, lực cản đối với tăng trưởng của một số nền kinh tế
lại xuất phát từ những bất ổn chính trị trong nước (Hàn Quốc) hay sự thiếu
vắng những động lực thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ (Indonesia, Ấn Độ).
1 Chỉ số PMI của khu vực EU duy trì trên 55 điểm trong 3 tháng của quý III, trong đó tháng 9 đạt mức cao nhất trong vòng 4 tháng qua là
56,7 điểm; hoạt động bán lẻ hàng hóa đạt mức tăng trưởng trên 2% qua các tháng của quý III, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của cùng kỳ
năm trước. 2 Chỉ số PMI của Nhật trong 3 tháng quý III đều mở rộng ở ngưỡng xấp xỉ 52 điểm, trái ngược với xu hướng thu hẹp của quý III năm trước;
doanh số bán lẻ hàng hóa cũng duy trì mức tăng trưởng xấp xỉ 2% qua các tháng, ngược với xu hướng suy giảm của cùng kỳ năm trước; cán
cân thương mại liên tục đạt thặng dư trong các tháng của quý III. 3 Chi tiêu dùng của người dân Mỹ trong quý III ước đạt mức tăng trưởng hơn 3,3%, là mức tăng trưởng tốt nhất trong vòng 1 năm qua.
4 Doanh số bán lẻ hàng hóa tại Trung Quốc tiếp tục nối dài chuỗi tăng trưởng trên 10% trong 3 tháng của Quý III; chỉ số PMI ở ngưỡng mở
rộng cao hơn các tháng của quý II khi lần lượt đạt 51,9 điểm trong tháng 7, 52,4 điểm trong tháng 8; xuất khẩu cũng duy trì tốc độ tăng
trưởng ổn định trên 10% trong các tháng của quý III. 5 Lạm phát qua các tháng trong quý III tại Anh giao động ở mức 2,6 – 2,9%, cao hơn nhiều mục tiêu lạm phát 2%, chỉ số PMI trong 3 tháng
qua chỉ ở ngưỡng 54 điểm, thấp hơn mức trung bình 55 điểm của 2 quý trước; chi tiêu dùng tại Anh tính cho đến thời điểm hiện tại chỉ đạt
mức tăng trưởng trung bình 0,2%/tháng, mức thấp nhất trong vòng 4 năm qua.
3
Với những diễn biến như vậy, số liệu thống kê mới nhất của focus economics
cho thấy tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong quý II đã đạt 3,2% - mức tăng
trưởng cao nhất trong vòng 2 năm vừa qua và cũng cao hơn mức tăng trưởng
3,1% của quý I. Tăng trưởng tích cực được ghi nhận ở cả hai nhóm nền kinh tế
phát triển cũng như đang phát triển. Tại nhóm các nền kinh tế phát triển chủ
chốt (G7), tốc độ tăng trưởng của quý II ở mức 2%, cao hơn mức 1,8% của
quý I. Tương tự như vậy, tại nhóm các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi,
tốc độ tăng trưởng tiếp tục được cải thiện tại nhiều quốc gia, trong đó đáng
chú ý là sự phục hồi của các nền kinh tế xuất khẩu như Brazil, Mexico, Nga,
Thổ Nhĩ Kỳ,...
Tăng trưởng kinh tế tại một số nền kinh tế phát triển
chủ chốt
Tăng trưởng kinh tế tại một số nền kinh tế đang
phát triển
Nguồn: OECD
Hoạt động thương
mại tiếp tục diễn
biến tốt
Trong diễn biến tích cực của kinh tế toàn cầu, điểm đáng chú ý nhất là sự phục
hồi của dòng chảy thương mại.
Sự phục hồi của hoạt động thương mại diễn ra trên cả hai lĩnh vực xuất khẩu
và nhập khẩu đối với cả hai nhóm nước phát triển cũng như đang phát triển.
Thống kê của WTO cho thấy trong nửa đầu năm nay, thương mại toàn cầu đạt
tốc độ tăng trưởng 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tốc độ tăng trưởng
cao nhất được ghi nhận kể từ năm đầu năm 2012 trở lại đây. Các nền kinh tế
đang phát triển và mới nổi tiếp tục là động lực dẫn dắt tăng trưởng thương
mại cả về phía xuất khẩu cũng như nhập khẩu với mức tăng trưởng hiện tại lần
lượt đạt 5,9% và 6,9%. Trong khi đó, nhóm các nền kinh tế phát triển cũng ghi
nhận mức tăng trưởng xuất nhập khẩu cao hơn cùng kỳ năm trước, lần lượt đạt
3,1% và 2,1%.
Diễn biến tăng trưởng thương mại toàn cầu phân theo hoạt động xuất nhập khẩu và theo
nhóm nước
Nguồn:WTO
4
Trong đó, nổi bật là khu vực Châu Á với mức tăng xuất khẩu và nhập khẩu
hiện được ghi nhận ở mức 7,3% và 8,9% so với cùng kỳ. Tiếp đó là khu vực
Bắc Mỹ với mức tăng trưởng lần lượt đạt 4,9% với xuất khẩu và 3,9% với
nhập khẩu. Tăng trưởng thương mại khu vực EU cũng có nhiều cải thiện so
với cùng kỳ năm trước khi xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng 2,6% và nhập
khẩu tăng 1,2%.
Tăng trưởng thương mại phân theo khu vực địa lý
Nguồn: WTO
Diễn biến tốt của hoạt động thương mại còn thể hiện ở sự gia tăng liên tục số
lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới tại các quốc gia. Cụ thể, theo thống kê của
Markit hiện có gần 90% các quốc gia tham gia khảo sát báo cáo về sự gia tăng
lượng đơn hàng xuất khẩu mới trong quý vừa qua, mức cao nhất đạt được kể
từ quý II năm 2014 trở lại đây.
Diễn biến tăng trưởng thương mại toàn cầu và tỷ lệ các quốc gia có đơn đặt hàng xuất
khẩu mới ở ngưỡng mở rộng
Nguồn:Fidelity Investment Report
Với những diễn biến tích cực như vậy, chỉ số Triển vọng thương mại thế giới
mới nhất của WTO (WTOI) đã đạt 102,6 – mức cao nhất kể từ tháng 4/2011.
Điều này cho thấy tăng trưởng thương mại toàn cầu sẽ tiếp tục xu hướng diễn
biến tích cực với mức tăng trưởng thương mại được dự báo sẽ đạt mức cao
hơn trong những tháng tới.
Hoạt động sản
xuất toàn cầu
đang mở rộng ở
mức tốt nhất trong
vòng hai năm rưỡi
qua
Hoạt động sản xuất toàn cầu tiếp tục đà mở rộng mạnh mẽ trong quý III. Chỉ
số Nhà quản lý mua hàng (PMI Index) toàn cầu theo thống kê của JP Morgan
vào tháng 9 ở mức 54 điểm, mức mở rộng cao nhất trong vòng 2 năm rưỡi
qua. Tính trung bình cả quý III, chỉ số PMI toàn cầu ở mức 53,8 điểm, cao hơn
0,1 điểm so với 2 quý liền trước và cũng là quý đạt mức mở rộng cao nhất
trong vòng 3 năm qua.
5
Diễn biến chỉ số PMI toàn cầu
Nguồn: JP Morgan
Chỉ số giá cả
hàng hóa toàn
cầu tăng nhẹ
trong quý III
Chỉ số giá cả hàng hóa chung theo thống kê của Bloomberg đã tăng 2,6% trong
tháng 7, giảm gần 1% trong tháng 8 và giảm nhẹ 0,15% trong tháng 9. Như vậy, kết
thúc quý III, chỉ số giá cả hàng hóa chung đã đạt được mức tăng 1,45% so với cuối
quý trước và là quý tăng đầu tiên trong năm nay.
Diễn biến chỉ số hàng hóa chung
Nguồn: Bloomberg
Diễn biến các nhóm hàng hóa chính ghi nhận sự biến động khác nhau:
Trên thị trường kim loại, giá các mặt hàng kim loại quý và các kim loại sản xuất đã
duy trì được đà tăng trong hầu hết cả quý (xu hướng tăng chậm lại vào tháng 9). Kết
thúc quý III, giá các mặt hàng kim loại quý ghi nhận mức tăng trên 2% và giá kim
loại sản xuất tăng mạnh hơn từ 6% - 8%.
Ngược lại, trên thị trường nông sản, giá các mặt hàng nông nghiệp thô chỉ giữ được
đà tăng trong tháng đầu tiên và giảm mạnh trong những tháng còn lại của quý do
bước vào mùa vụ thu hoạch khiến lượng cung gia tăng mạnh mẽ. Cụ thể giá lúa mì
giảm 14,83%, ngô giảm 6,82%, đường giảm 6,12% và bông giảm 5,96% so với quý
liền trước.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu ghi nhận quý tăng mạnh nhất kể từ đầu năm đến
nay. Giá dầu Brent chốt quý đạt mức tăng mạnh lên đến 16,6% trong khi giá dầu
WTI đạt mức tăng 10,5%. Sự đồng thuận về việc gia hạn thời gian cắt giảm sản
lượng dầu khoảng 1,8 triệu thùng/ngày của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ
(OPEC), Nga và nhiều nước sản xuất dầu khác diễn ra vào giữa tháng 7 là nguyên
nhân quan trọng giúp giá dầu đạt được quý tăng mạnh vừa qua. Ngoài ra, những lo
ngại về tình hình chính trị bất ổn tại khu vực Trung Đông, sản lượng khai thác dầu
đá phiến tại Mỹ có chiều hướng giảm cũng hỗ trợ quan trọng cho đà tăng của giá
dầu.
6
Diễn biến giá dầu Brent trong quý III
Diễn biến giá dầu WTI trong quý III
Nguồn: Investing
Lạm phát toàn
phần gia tăng
tại hầu hết các
nền kinh tế
chủ chốt
Trái với xu hướng đi xuống của quý trước, lạm phát toàn cầu đã có chiều hướng gia
tăng trở lại trong quý III. Chỉ số lạm phát toàn cầu theo tính toán của focus
economics đã có sự gia tăng liên tục qua 2 tháng đầu quý III, từ mức 3,2% vào cuối
tháng 6 lên 3,3% vào tháng 7 và 3,4% vào tháng 8.
Sự gia tăng lạm phát được ghi nhận chủ yếu tại nhóm các nền kinh tế phát triển. Tại
Mỹ, chỉ số lạm phát toàn phần đã tăng từ mức 1,6% vào thời điểm cuối quý II lên
hiện đạt 1,9% Sự gia tăng của lạm phát tại Mỹ trong những tháng qua được giải
thích chủ yếu do tác động của 2 cơn bão mạnh đổ bộ vào miền nam nước Mỹ đã
khiến giá cả năng lượng có sự gia tăng khá mạnh. Trong khi đó, tại khu vực EU, chỉ
số lạm phát chung toàn khu vực cũng như lạm phát tại các nước thành viên như Đức,
Pháp, Ý đều có sự gia tăng hướng đến ngưỡng 2%. Đáng chú ý là lạm phát toàn
phần lại có xu hướng gia tăng khá nhanh tại Anh, từ 2,6% cuối quý II lên hiện đạt
2,9%.
Tại nhóm các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, sự gia tăng của giá cả hàng hóa
toàn cầu đã khiến lạm phát toàn phần gia tăng tại một số quốc gia nhập khẩu lớn như
Trung Quốc, Ấn Độ. Tuy nhiên, lạm phát tiếp tục giảm ở các nền kinh tế thuộc khu
vực Mỹ La Tinh và Nga.
Diễn biến lạm phát toàn phần tại một số nền kinh tế
phát triển chủ chốt
Diễn biến lạm phát toàn phần tại các nền kinh tế đang
phát triển và mới nổi
Nguồn: OECD Statistics
Mặc dù lạm phát toàn phần đang có chiều hướng gia tăng nhanh nhưng lạm phát cơ
bản vẫn ở mức thấp. Tại khu vực EU, lạm phát cơ bản tính đến cuối tháng 9 vẫn ở
mức 1,1%, không thay đổi so với thời điểm cuối quý trước và còn cách xa mục tiêu
lạm phát 2%. Trong khi đó tại Mỹ, lạm phát cơ bản cuối quý III còn giảm xuống so
với cuối quý II, hiện ở mức 1,7%. Tại Nhật, lạm phát cơ bản mặc dù có chiều hướng
gia tăng, từ mức 0,4% cuối quý trước lên hiện đạt 0,7% nhưng điều này đi theo đúng
định hướng điều hành chính sách của NHTW Nhật. Riêng lạm phát cơ bản tại Anh
7
hiện đang ở mức báo động 2,7%, cao hơn mức 2,4% cuối quý trước và cũng là tháng
thứ 5 liên tiếp lạm phát cơ bản đang vượt mức mục tiêu 2% đề ra.
2. Điều hành chính sách của NHTW các quốc gia
23 NHTW đã
thay đổi lãi suất
điều hành trong
quý III
Trong quý III, có 23 NHTW các quốc gia điều chỉnh lãi suất chính sách, trong
đó 20 NHTW đã tiến hành cắt giảm lãi suất và 3 nước tăng lãi suất. Tại các nền
kinh tế phát triển, động thái đáng chú ý nhất là việc Canada tiến hành tăng lãi
hai lần chỉ trong vòng 3 tháng của quý III. Trong khi đó, tại các nền kinh tế
đang phát triển và mới nổi, xu hướng điều hành chính sách đang theo xu hướng
nới lỏng rõ rệt với nhiều quốc gia thuộc các khu vực như Mỹ La Tinh, châu Phi
và châu Á đều đã tiến hành cắt giảm lãi suất.
NHTW Mỹ Fed không tiến hành điều chỉnh lãi suất trong quý III. Tuy nhiên,
định hướng điều hành CSTT vẫn theo xu hướng thắt chặt rõ rệt với một lần tăng
lãi suất nữa dự đoán sẽ tiến hành vào quý IV. Ngoài ra, trong cuộc họp diễn ra
vào cuối tháng 9, Fed đã công bố chính thức triển khai lộ trình kế hoạch thu hẹp
bảng cân đối kế toán trị giá 4.500 tỷ USD bắt đầu từ tháng 10 tới Theo kế
hoạch, mỗi tháng Fed sẽ giảm 10 tỷ USD tài sản, trong đó có 6 tỷ USD trái
phiếu kho bạc Mỹ và 4 tỷ USD là các trái phiếu đảm bảo bằng tài sản thế chấp.
Cứ 3 tháng con số sẽ được tăng lên 1 lần để đạt được con số cuối cùng lần lượt
là 30 tỷ USD và 20 tỷ USD mỗi tháng.
NHTW Anh mặc dù vẫn chưa có động thái điều chỉnh CSTT nhưng trước áp
lực lạm phát gia tăng đang phát đi tín hiệu mạnh mẽ về khả năng thắt chặt
CSTT bằng cách tăng lãi suất hoặc rút dần quy mô gói nới lỏng định lượng
ngay trong tháng tới.
NHTW châu Âu ECB vẫn duy trì chính sách lãi suất âm với lãi suất tái cấp
vốn ở mức 0%, lãi suất cho vay là 0,25% và lãi suất tiền gửi là -0,4%, đồng thời
duy trì kế hoạch thu mua 60 tỷ Euro/tháng trái phiếu chính phủ và doanh nghiệp
tới tháng 12/2017 theo chương trình nới lỏng định lượng được triển khai từ
tháng 3/2015. Mặc dù vậy, trong cuộc họp diễn ra cuối tháng 9, ECB cũng đã
phát đi tín hiệu sẽ xem xét lại quy mô chương trình nới lỏng định lượng vào đầu
năm tới trong bối cảnh nhiều NHTW đã bắt đầu thắt chặt chính sách.
NHTW Canada là NHTW đầu tiên thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển G7
tiếp bước Mỹ đã có động thái điều chỉnh tăng lãi suất chính sách trong quý vừa
qua. Cụ thể, chỉ trong vòng 3 tháng của quý III, NHTW Canada đã tăng lãi suất
2 lần vào tháng 7 và tháng 9 với tổng mức tăng là 0,5%. Đây cũng là đợt điều
chỉnh tăng lãi suất đầu tiên của NHTW nước này trong vòng 7 năm qua. Mục
đích của lần tăng lãi suất lần này của Canada là để cắt giảm dần lượng tín dụng
giá rẻ đã đẩy giá nhà đất và nợ hộ gia đình tại Canada tăng cao trong thời gian
qua khi tăng trưởng kinh tế đang được cải thiện.
NHTW Nhật Bản vẫn duy trì quan điểm điều hành chính sách tiền tệ theo
hướng nới lỏng thông qua việc tiếp tục các chương trình nới lỏng định lượng và
định tính để đạt được và duy trì mục tiêu lạm phát 2%. Lãi suất áp dụng đối với
các khoản tiến gửi vượt dự trữ của các TCTD gửi tại NHTW hiện ở mức -
0,1%, lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm bị giới hạn ở mức 0%, trong khi tốc độ
mua sắm tài sản vẫn ở mức 80 nghìn JPY (727 tỷ đô la Mỹ) một năm.
NHTW Trung Quốc trong cuộc họp điều hành CSTT hàng quý diễn ra vào
ngày 30/9 vừa qua đã tái khẳng định thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng và
trung lập, trong khi vẫn đảm bảo tính thanh khoản về cơ bản ổn định. Ngoài ra,
ngân hàng trung ương Trung Quốc cũng cho biết sẽ tiếp tục thúc đẩy cải cách
8
hệ thống tài chính, cải thiện hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực tài chính để phục
vụ tốt hơn cho nền kinh tế, trong khi tăng cường quản lý rủi ro.
3. Diễn biến thị trường ngoại hối, chứng khoán
Thị trường ngoại hối
Đồng USD vẫn
tiếp tục suy giảm
Trong quý III, mặc dù kinh tế Mỹ đã có thêm những tín hiệu tốt nhưng chưa đủ
để tạo lực cho đồng bạc xanh trên thị trường, chỉ số USD index tiếp tục xu
hướng suy giảm được kéo dài từ đầu năm. Mặc dù kết thúc tháng 9 đồng USD
đã bật tăng nhẹ ở mức 0,27% nhưng do đà giảm mạnh đồng USD vào tháng 7
nên xu hướng chung của cả quý vẫn là giảm điểm, đồng USD đã trượt về mức
giá thấp trong hơn 2 năm qua, hiện giao dịch ở mức 92.88, giảm 2,66%.
Trước những áp lực diễn ra khá dồn dập từ bên trong và bên ngoài, đồng USD
đã có diễn biến giảm khá vững chắc, xu hướng tăng điểm có xuất hiện trước
những tín hiệu tốt của kinh tế và việc làm xong thường không kéo dài, duy chỉ
có diễn biến tăng nhẹ trong tháng 9 được hỗ trợ mạnh mẽ bởi quyết định của
Fed về việc sẽ cắt giảm số dư trên bảng cân đối bắt đầu vào tháng 10/2017 –
đánh dấu bước đi đầu tiên trong việc tháo gỡ các gói kích thích đã đưa vào nền
kinh tế sau khủng hoảng tài chính 2008 – 2009. Trong quý, USD index giao
dịch cao nhất ở mức 92.3 và thấp nhất ở mức 91.64. Tính từ đầu năm đến nay,
đồng USD đã suy giảm hơn 9%.
Diễn biến chỉ số USD
Nguồn: investing.com
Đồng EUR và
đồng GBP vẫn
giữ được đà tăng
Kết thúc quý III, so với đồng bạc xanh, hai đồng tiền mạnh của khu vực Châu Âu
nhìn chung vẫn có được diễn biến tốt, mặc dù xu hướng dịch chuyển đã có sự
khác nhau qua các tháng nhưng cả đồng EUR và đồng GBP đều đạt mức tăng lần
lượt là 3,4% và 2,84% trong quý. Theo đó, đồng EUR đã có 02 tháng tăng điểm,
kéo dài xu hướng tăng liên tục trong 07 tháng kể từ đầu năm, ghi nhận mức tăng
mạnh nhất vào tháng 7 và giảm nhẹ trong tháng 9. Diễn biến của đồng EUR đến
thời điểm hiện nay được hỗ trợ mạnh mẽ bởi sự phục hồi vượt ngoài mong đợi
của kinh tế khu vực và bất ổn chính trị đã không diễn ra như dự đoán.
Không có được xu hướng tăng liên tục và mạnh mẽ như đồng tiền chung, đồng
GBP của nước Anh có diễn biến tăng giảm đan xen, biến động khá mạnh. Đồng
GBP có đà tăng trong tháng 7 và tháng 9, giảm đáng kể trong tháng 8. Diễn biến
không ổn định của đồng GBP bị chi phối mạnh bởi tình hình kinh tế thiếu chắc
chắn, áp lực lạm phát gia tăng và những quan ngại xoay quanh các vòng đàm
phán Brexit. Mặc dù vậy, trong quý 3 cũng đã ghi nhận những mức tăng giá
mạnh nhất kể từ sau ngày 24/6/2016 khi thị trường đặt kỳ vọng nhiều vào việc
NHTW Anh sẽ tăng lãi suất trong những tháng tới, chỉ trong vòng 2 ngày
9
Diễn biến tỷ giá của các đồng tiền mạnh
Nguồn: investing.com
6 cụ thể là đồng JPY đã giảm 0,1% và đồng CNY vẫn tăng nhẹ ở mức 1,6%.
1.1
1.15
1.2
1.25
3-Jul-17 3-Aug-17 3-Sep-17
EUR/USD
1.2
1.25
1.3
1.35
1.4
3-Jul-17 3-Aug-17 3-Sep-17
GBP/USD
0.72
0.74
0.76
0.78
0.8
0.82
3-Jul-17 3-Aug-17 3-Sep-17
AUD/USD
1.15
1.2
1.25
1.3
1.35
3-Jul-17 3-Aug-17 3-Sep-17
USD/CAD
104
106
108
110
112
114
116
3-Jul-17 3-Aug-17 3-Sep-17
USD/JPY
6.2
6.4
6.6
6.8
7
3-Jul-17 3-Aug-17 3-Sep-17
USD/CNY
(14,15/9), đồng GBP đã tăng gần 3%, giao dịch ở mức 1.3593. Tính từ đầu năm
đến nay, đồng GBP đã tăng hơn 8% so với đồng USD, hiện giao dịch ở mức
1.3397.
Cùng có diễn biến tốt như hai đồng tiền mạnh tại khu vực Châu Âu, đồng AUD
và đồng CAD kết thúc quý 3 cũng có tổng mức tăng điểm lần lượt là 1,86% và
3,82%. Trong đó, cả hai đồng tiền này đều tăng mạnh nhất vào tháng 7. Kết thúc
quý, đồng CAD và đồng AUD đã tăng lần lượt là 7,2% và 8,6% so với đầu năm,
chốt giao dịch cuối quý ở mức AUD/USD 0.7834 và USD/CAD là 1.247.
Đồng CNY và
đồng JPY đã có
diễn biến mới
Trong quý III, diễn biến của đồng CNY và đồng JPY đã có nhiều điểm khác mặc
dù xu hướng dịch chuyển khá tương đồng với hai tháng tăng và 01 tháng giảm.
Trong đó, đáng chú ý là mức độ biến động qua các tháng đã khác nhau nên tổng
mức thay đổi của hai đồng tiền mạnh của khu vực Châu Á đã đạt kết quả trái
chiều6. Đồng JPY trong quý 3 không giữ được đà tăng điểm như quý trước, diễn
biến chững lại và đã chính thức giảm mạnh trong tháng 9. Kết thúc quý III, đồng
JPY đã giảm 3,76% kể từ đầu năm, chốt giao dịch ở mức 112,49. Trong khi đó,
đồng CNY đã có được đà tăng mạnh nhất trong tháng 8. Kết thúc quý III, đồng
CNY đã tăng 4,21% kể từ đầu năm, chốt giao dịch ở mức 6.6534.
10
Diễn biến thị trường vàng
Diễn biến giá vàng thế giới
Nguồn: usagold.com
Trong quý III, Trung Quốc cũng công bố những thông tin tích cực về diễn biến
của quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia, cụ thể là đến hết tháng 8 dự trữ của Trung
Quốc đã tăng liên tục trong 8 tháng, đạt trên 3.109 tỷ USD. Hiện tại trong xu
hướng gia tăng mạnh dự trữ ngoại tệ của các quốc gia khu vực Châu Á, Trung
Quốc đang giữ vị trí đứng đầu, vượt xa so với Nhật Bản.
Các nước có dự trữ ngoại hối lớn nhất khu vực Châu Á
Nguồn: IMF, WB
Giá vàng đã tăng
trở lại mặc dù đã
có tháng giảm
cao nhất kể từ
đầu năm
Trong quý III, giá vàng đã lấy lại đà tăng sau xu hướng chững lại của quý II với
tổng mức tăng là 3,18% đối với giá vàng giao ngay và tăng 2,82% đối với giá
vàng kỳ hạn. Diễn biến của giá vàng cũng giống như những quý trước, vàng có
đã có được 02 tháng tăng giá và giảm ở tháng cuối. Trong quý, vàng đã tăng giá
mạnh vào tháng 8 và đã xác lập được ngưỡng giá mới trên 1.300 USD/ounce từ
ngày 28/8 và kéo dài trong khoảng 3 tuần giao dịch đầu tháng 9, thậm chí đã có
lúc đạt trên 1.350 USD/ounce. Tuy nhiên, sự phục hồi của đồng USD trên thị
trường cũng như những yếu tố hỗ trợ cho đà tăng của giá vàng trong ngắn hạn
cụ thể là tình hình căng thẳng địa chính trị hay các chính sách vĩ mô quan trọng
của các quốc gia đầu tàu vẫn chưa có thêm diễn biến mới đã chặn lại đà tăng
mạnh của giá vàng trong gần 10 ngày giao dịch của tháng 9. Chính vì vậy, giá
vàng trong tháng 9 đã quay đầu giảm sau đà tăng mạnh của tháng 8 với mức
giảm cao nhất kể từ đầu năm là 3,13% - giá vàng giao ngay và 2,83% - giá vàng
kỳ hạn; Giao dịch ở mức 1.279,7 USD/ounce đối với giá vàng giao ngay và
1.284,8 USD/ounce đối với giá vàng kỳ hạn.
11
Xu hướng tăng trưởng vững chắc của giá vàng từ năm ngoái đến nay đã dẫn đến
sự thay đổi vị trí của vàng trong bảng danh mục đầu tư trên thị trường tài chính –
vàng được nhìn nhận là tài sản đầu tư có sự tăng trưởng nhanh trong dài hạn. Xu
hướng tăng trưởng nhanh của giá vàng được đảm bảo bởi nhu cầu gia tăng trong
vài năm trở lại đây. Trong đó, đáng chú ý là sự gia tăng nhu cầu tại các thị
trường mới (các nước phương Tây), nhu cầu của NHTW và sự xuất hiện của
nhiều sản phẩm tài chính của vàng.
Xu hướng tăng trưởng của giá vàng so với các tài sản tài chính trong dài hạn
Nguồn: Bloomberg; WGC
Thị trường chứng khoán toàn cầu
5.4
2.5 1
7.6
5.3 4.4
10.8
8.9 8.2
11.3
6.3
3.1
10
2.6
-3.7
10.6
7.1 7.7
-6
-4
-2
0
2
4
6
8
10
12
14
1971 20 năm 10 năm
Đô la Trái phiếu đô la Chứng khoán Mỹ
Chứng khoán EAFE Hàng hóa Vàng
Các thị trường
chứng khoán
chủ chốt tiếp tục
giữ được đà
tăng tốt
Tiếp nối diễn biến tích cực của nửa đầu năm 2017, thị trường chứng khoán toàn
cầu vẫn duy trì đà tăng điểm cao trong quý III. Chỉ số MSCI ACWI toàn cầu đã
đạt được mức tăng 1,26% trong quý III với hầu hết các thị trường chủ chốt tại
khắp các châu lục đều ghi nhận đà tăng điểm.
Diễn biến một số thị trường chứng khoán chủ chốt trong quý III
Nguồn: Bloomberg
Thị trường chứng khoán Mỹ khởi đầu tháng 7 với mức tăng điểm tốt nhờ được
hỗ trợ bởi nhiều thông tin lợi nhuận khả quan của hệ thống doanh nghiệp niêm
yết, có phần chững lại trong tháng 8 do chịu tác động từ các bất ổn chính trị và
hồi phục trở lại trong tháng 9 nhờ diễn biến tích cực của môi trường kinh tế vĩ
mô. Nhờ đó, kết thúc quý III, cả 3 chỉ số chứng khoán chính đều đạt được mức
12
7 Trong quý I/2017 chỉ số Euro Stoxx tăng 2,79%, Quý II giảm 0,81%.
tăng điểm tốt, trong đó Dow Jones tăng 4,87%, S&P 500 tăng 3,9% và Nasdaq
tăng 5,69% so với cuối quý II.
Diễn biến thị trường chứng khoán Mỹ T1/2016 – T9/2017
Nguồn: Bloomberg
Chứng khoán châu Âu cũng ghi nhận một quý diễn biến tích cực. Kết thúc quý
III, chỉ số Euro Stoxx đã đạt mức tăng điểm 4,49%, quý tăng cao nhất kể từ đầu
năm đến nay7. Mặc dù trong quý, có những thời điểm thị trường giảm điểm khá
mạnh trước mối lo ngại về tình trạng căng thẳng chính trị gia tăng tại Tây Ban
Nha hay kết quả cuộc bầu cử tại Đức chưa được như kỳ vọng, tuy nhiên diễn
biến tích cực của môi trường kinh tế vĩ mô tại nhiều quốc gia trong khu vực đã
thúc đẩy đà tăng điểm của thị trường. Hầu hết các thị trường chủ chốt đều đạt
được mức tăng điểm tốt so với cuối quý trước như CAC 40 của Pháp tăng
4,14%; DAX của Đức tăng 4,92%,... Chỉ số FTSE 100 của Anh mặc dù chịu tác
động tiêu cực từ tình hình kinh tế vĩ mô ảm đạm và những lo ngại xoay quanh
cuộc đàm phán Brexit nhưng vẫn duy trì được mức tăng điểm 0,62% so với cuối
quý II.
Diễn biến một số chỉ số chứng khoán chủ chốt tại thị trường châu Âu T1/2016 – T9/2017
Nguồn: Bloomberg
Chứng khoán châu Á cũng duy trì được đà tăng điểm của 2 quý trước đó. Chỉ số
MSCI khu vực châu Á Thái Bình Dương đạt mức tăng 4,25% so với quý II với
các thị trường chủ chốt đều duy trì được đà tăng điểm. Chứng khoán Nhật Bản
sau 2 tháng đầu quý có phần chững lại đã tăng tốc mạnh mẽ trong tháng 9 nhờ
13
Triển vọng kinh tế thế giới cuối năm 2017
Triển vọng kinh tế vĩ mô
Với những diễn biến tích cực trong quý vừa qua, một loạt dự báo của các định
chế tài chính và tổ chức quốc tế gần đây đều nhận định bức tranh kinh tế thế
giới sẽ tiếp tục mang những gam màu sáng trong những tháng cuối năm 2017.
Hầu hết các tổ chức quốc tế đều thống nhất đưa ra một mức tăng trưởng triển
vọng của kinh tế toàn cầu trong năm nay sẽ giao động từ 2,7 - 3,5%, cao hơn
mức tăng trưởng 2,4% của năm 2016. Song song với sự phục hồi của tăng
trưởng kinh tế toàn cầu, dòng chảy thương mại dự báo sẽ tiếp tục có những
diễn biến thuận lợi với mức tăng trưởng cao hơn so với năm 2016. Giá cả hàng
hóa toàn cầu, đặc biệt là giá dầu cũng sẽ tiếp tục đà tăng trong những tháng
cuối năm, từ đó hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế mới nổi phụ
thuộc mạnh vào xuất khẩu.
Dự báo của một số tổ chức quốc tế về các chỉ số vĩ mô toàn cầu năm 2017 (% yoy)
Tăng trưởng
kinh tế
Tăng trưởng
thương mại
Lạm phát Giá dầu
IMF 3,5% 4% Các nền kinh tế
phát triển: 1,9%;
Các nền kinh tế
đang phát triển:
4,5%
21,2%
BIS 3,5% - - -
WTO 2,8% 3,6% - -
OECD 3,5% - - -
WB 2,7% 4% - 23,8%
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của các tổ chức quốc tế
được hỗ trợ bởi các diễn biến tích cực của tình hình kinh tế vĩ mô trong nước.
Kết thúc quý III, chỉ số Nikkei 225 đạt mức tăng 1,67% so với cuối quý II.
Chứng khoán Trung Quốc và Hồng Kông duy trì được đà tăng điểm tốt trong 2
tháng đầu và điều chỉnh giảm nhẹ trong tháng 9. Kết thúc quý III, chỉ số Hang
Seng đạt mức tăng tốt 6,94% và chỉ số Shanghai đạt mức tăng 4,87%.
Diễn biến một số chỉ số chứng khoán chủ chốt tại thị trường châu Á T1/2016 – T9/2017
Nguồn: Bloomberg
14
Mặc dù vậy, kinh tế thế giới vẫn đối mặt không ít thách thức. Trước hết, tình
trạng phục hồi tăng trưởng vẫn diễn ra chưa đồng đều và bền vững ở các nền
kinh tế. Hiện chỉ có khu vực EU và Nhật Bản đang có xu hướng tăng trưởng ổn
định, các nền kinh tế đầu tàu khác như Mỹ, Anh, Trung Quốc vẫn còn phải đối
mặt với nhiều quan ngại xuất phát từ yếu tố kinh tế cũng như các yếu tố chính
trị. Trong khi đó, các nền kinh tế mới nổi vẫn đang tiến hành những điều chỉnh
mang tính cấu trúc, sẽ có ảnh hưởng nhất định đến diễn biến tăng trưởng kinh
tế, cũng như dòng chảy thương mại, tài chính tại mỗi quốc gia cũng như trên
toàn cầu.
Thứ hai là việc điều chỉnh các chính sách vĩ mô của các khối nước lớn sẽ trở
thành hiện thực hay không sẽ có ảnh hưởng mạnh tới kỳ vọng của thị trường,
qua đó sẽ tác động lớn đến hành vi tiêu dùng, đầu tư, tích lũy…Từ đó cũng sẽ
quyết định mức độ, tần suất biến động của các thị trường trên toàn cầu. Tiếp
đến lạm phát đang có xu hướng gia tăng nhanh chóng trên toàn cầu cũng là một
trở ngại lớn đối với việc điều chỉnh chính sách theo định hướng cũng như hiệu
quả của chính sách vĩ mô của mỗi nước.
Bên cạnh đó, rủi ro chính trị vẫn tiếp tục đe dọa sự phục hồi của các nền kinh tế.
Trong đó đáng chú ý nhất là căng thẳng chính trị giữa Triều Tiên và Mỹ cũng
như các quốc gia đầu tàu tại khu vực châu Á; giữa Mỹ và các khối nước trên
các bàn đàm phán thương mại; giữa Anh và EU trong hiệp ước Brexit;…..và
nhưng rủi ro chính trị giữa các nước trong khối EU, sự bất ổn an ninh tại các
nước lớn…. Ngoài ra, tình trạng nợ công ngày càng trở nên trầm trọng tại nhiều
quốc gia trên thế giới, chủ nghĩa bảo hộ tiếp tục gia tăng, các rủi ro khách quan
do thiên tai,… cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Xu hướng của thị trường tiền tệ, giá vàng và chứng khoán
Trên thị trường tiền tệ, xu hướng vận động cơ bản của phần lớn các đồng tiền
trong quý IV sẽ không có nhiều thay đổi so với quý III. Diễn biến của các đồng
tiền mạnh chủ yếu vẫn bị chi phối bởi tình hình kinh tế vĩ mô, những bất ổn về
chính trị cũng như căng thẳng địa chính trị giữa các khối nước và khả năng
hiện thực hóa lộ trình tăng lãi suất của NHTW các nước lớn.
Trên thị trường giao dịch kim loại quý, diễn biến của giá vàng từ nay đến cuối
năm vẫn được nhìn nhận tích cực mặc dù xác suất để lập thêm các đỉnh giá là
không cao, nếu có xảy ra thì cũng không bền vững, phần lớn đều nhìn nhận
rằng, khả năng vượt qua ngưỡng 1.400 USD/ounce trong năm nay là khó xảy
ra. Quan sát diễn biến của giá vàng trong quý III có thể khẳng định rằng giá
vàng vẫn tiếp tục phụ thuộc mạnh vào diễn biến kinh tế và chính sách của nước
Mỹ, đồng thời rất nhạy cảm với vấn đề căng thẳng chính trị giữa các khối
nước.
Trên thị trường chứng khoán, mặc dù xu hướng tăng giá vẫn diễn ra tích cực
trong quý III, tuy nhiên các phân tích cho thấy giá cổ phiếu trên nhiều thị
trường đã có xu hướng tăng kéo dài, thậm chí đã vượt xa giá trị thực của cổ
phiếu. Do đó, trong quý sắp tới, kỳ vọng tăng mạnh nhiều khả năng sẽ chỉ tiếp
tục diễn ra tại thị trường chứng khoán của các nền kinh tế mới nổi nhưng sự
biến động có thể dễ dàng xuất hiện tại các thị trường chủ chốt của khu vực
phương tây và nước Mỹ khi NHTW quyết định dịch chuyển chính sách.
15
KINH TẾ TRONG NƯỚC
1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế
vượt kỳ vọng Tăng trưởng kinh tế trong quý III ước đạt 7,46%, cao hơn 1 điểm phần trăm
so với Quý II – ghi nhận xu hướng tăng trưởng tích cực của nền kinh tế. Các
khu vực đóng góp chính vào GDP phần lớn có diễn biến tốt, ngoại trừ khu
vực khai khoáng. Trong đó, đáng chú ý là sự khởi sắc trở lại của khu vực
nông, lâm, thủy hải sản.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 9 tháng các năm 2015, 2016 và 2017
Tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước
(%) Đóng góp của các khu
vực vào tăng trưởng 9
tháng năm 2017
(Điểm phần trăm) 9 tháng
năm 2015
9 tháng
năm 2016
9 tháng
năm 2017
Tổng số 6,53 5,99 6,41 6,41
Nông, lâm nghiệp và thủy sản 2,08 0,62 2,78 0,43
Công nghiệp và xây dựng 9,72 7,68 7,17 2,45
Dịch vụ 6,10 6,67 7,25 2,80
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sp 5,52 6,45 6,31 0,73
Nguồn: TCTK
Nhờ đó, GDP 9 tháng của cả nước ước tăng 6,41%, cao hơn mức tăng 5,99%
của cùng kỳ năm 2016. Trong đó, theo cơ cấu nhóm ngành, hầu hết các khu
vực đều có diễn biến tăng tốt so với cùng kỳ năm ngoái, ngoại trừ khu vực
công nghiệp và xây dựng. Đóng góp chính vào tăng trưởng kinh tế vẫn là
khu vực dịch vụ và khu vực công nghiệp và xây dựng, tuy nhiên khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng đã đạt kết quả tích cực hơn, đặc biệt là
nhóm ngành thủy sản.
Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong khu
vực công nghiệp và xây dựng
Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong khu vực dịch vụ
Nguồn: TCTK
0
2
4
6
8
10
Ngành bán buôn và bán lẻ
Ngành dịch vụ lưu
trú và ăn uống
Ngành hoạt động
tài chính, ngân
hàng và bảo hiểm
Ngành hoạt động
kinh doanh BĐS
%
9 tháng 2016 9 tháng 2017
16
8 Tập đoàn Samsung đầu tư mở rộng sản xuất các mặt hàng điện tử có giá trị cao với doanh thu dự kiến ngành điện tử cả năm 2017 đạt 1.188,5
nghìn tỷ đồng, tăng 17,7% so với năm 2016; Tập đoàn Formosa mới đi vào sản xuất, dự kiến năm 2017 sản xuất 1,5 triệu tấn thép thô với doanh
thu 16,85 nghìn tỷ đồng. 9 So với cùng kỳ, Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 7 tăng 8,3%; tháng 8 tăng 11,6%. Chỉ số tồn kho toàn ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 7 tăng 9,8%; tháng 8 tăng 9,9%.
Xem xét GDP theo góc độ sử dụng phản ánh rõ sự phục hồi của nhu cầu trong
nền kinh tế với sự đóng góp lớn nhất của tiêu dùng cuối cùng, ước tăng 7,3% so
với cùng kỳ năm 2016, đóng góp 8,76 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng
chung, đặc biệt là tiêu dùng cuối cùng của hộ dân cư, đóng góp 8,02 điểm phần
trăm. Tiếp đến là tích lũy tài sản tăng 9,8%, đóng góp 4,78% nhưng tình trạng
nhập siêu từ đầu năm đến nay đã làm giảm 7,13% điểm phần trăm vào mức tăng
trưởng chung.
Khu vực công nghiệp
đã có diễn biến tốt
hơn so với những
quý trước
Trong quý III, diễn biến của chỉ số sản xuất toàn ngành công công nghiêp – IIP
đã được cải thiện qua các tháng, nhờ đó đã có được mức tăng ước tính đạt 9,7%
trong quý 3 – tăng cao nhất kể từ đầu năm đến nay. Tính chung 9 tháng, chỉ số
IIP ước tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 7,1% của cùng
kỳ năm 2016
Diễn biến IIP so với tháng trước
Diễn biến IIP so với cùng kỳ
Nguồn: TCTK
Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo; ngành cung cấp nước và
xử lý rác thải, nước thải có xu hướng tăng tốt so với cùng kỳ năm ngoái, cụ thể
IIP của ngành chế biến, chế tạo đã tăng 12,8% - mức tăng cao nhất trong nhiều
năm trở lại đây, đóng góp 9 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản
xuất và phân phối điện tăng 8,9%, đóng góp 0,6 điểm phần trăm; ngành cung
cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,8%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Tuy nhiên ngành khai khoáng vẫn tiếp tục giảm, thậm chí còn giảm mạnh hơn
so với cùng kỳ năm ngoái, ở mức 8,1%, làm giảm 1,8 điểm phần trăm trong
mức tăng chung.
Tốc độ tăng trưởng mạnh của ngành chế biến, chế tạo đang ghi nhận sự đóng
góp tích cực của các nhóm ngành như sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và
sản phẩm quang học (25,1%); sản xuất kim loại (21,4%); sản xuất kim loại đúc
sẵn (14,2%). Mức tăng trưởng tốt của các nhóm ngành này chủ yếu là do các
hoạt động đầu tư, mở rộng sản xuất của tập đoàn Samsung, tập đoàn Formosa
trong quý III8.
Diễn biến tốt của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cũng được thể hiện rõ
qua hoạt động tiêu thụ và tồn kho liên tục được cải thiện qua các tháng trong
quý III9. Theo đó, tính chung 8 tháng đầu năm, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,8% so với cùng kỳ năm 2016 – cao hơn mức
8,3% của cùng thời điểm so sánh của năm ngoái. Tương tự, chỉ số tồn kho cũng
17
Diễn biến chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo
Diễn biến chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo
Nguồn: TCTK
diễn biến tích cực qua các tháng, tính đến thời điểm 1/9/2017 đã tăng 9,9% - cao
hơn mức tăng 9% của cùng kỳ năm ngoái.
Chỉ số nhà quản
trị mua hàng tiếp
tục diễn biến
trong vùng mở
rộng, ghi nhận
mức tăng mạnh
vào tháng cuối
của quý
Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng đã ghi nhận cả xu hướng tăng và giảm tại
một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn. Trong đó xu hướng tăng mạnh
vẫn diễn ra tại khu vực phía Bắc, xu hướng giảm đã xuất hiện tại khu vực
Miền Trung và Nam Trung Bộ.
Chỉ số PMI toàn phần lĩnh vực sản xuất của Việt Nam liên tục được cải thiện
qua các tháng trong quý III, tăng nhẹ trong tháng 7 và 8, tăng mạnh nhất trong
tháng 9 ở mức 53,3 điểm. Diễn biến tốt của PMI trong quý đã kéo dài xu
hướng cải thiện trong lĩnh vực sản xuất suốt 22 tháng, chủ yếu nhờ có xu
hướng tăng vững chắc của sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới.
Mức tăng mạnh của PMI trong tháng 9 cũng ghi nhận đồng thời mức tăng lớn
nhất của sản lượng ngành sản xuất, số lượng đơn đặt hàng mới, tốc độ mua
hàng, tồn kho hàng mua. Tuy nhiên, diễn biến tăng liên tục của chi phí đầu
vào trong quý dẫn đến các nhà sản xuất đã phải tăng giá bán lần đầu tiên trong
tháng 9 kể từ tháng 4 năm 2017.
Đồ thị diễn biến Chỉ số PMI trong 9 tháng năm 2017
Nguồn: Nikkei
Với diễn biến liên tốt như vậy, hiện tại PMI Việt Nam trong tháng 9 đang dẫn
đầu khu vực ASEAN và có khoảng cách đáng kể với nước hiện đang có tốc độ
tăng PMI tốt trong khu vực như Phillipine, Indonexia, Thái Lan.
18
Hoạt động bán lẻ
hàng hóa đã có
diễn biến tốt nhất
từ đầu năm đến
nay
Trong quý III, hoạt động bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng vẫn thể hiện xu
hướng diễn biến tích cực. Tốc độ tăng trưởng doanh thu bán lẻ hàng hóa và
dịch vụ tiêu dùng so với tháng trước đều duy trì được mức tăng trưởng tốt qua
các tháng của quý III10
trong đó tốc độ tăng trưởng của tháng 9 là mức tăng
cao thứ 2 kể từ đầu năm đến nay. Đồng thời, tốc độ tăng trưởng so với cùng
kỳ duy trì mức tăng trưởng liên tục tháng sau cao hơn tháng trước11
và đây
cũng là quý đạt tốc độ tăng trưởng so với cùng kỳ cao nhất kể từ đầu năm đến
nay.
Tính chung 9 tháng năm 2017, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
tiêu dùng đạt 2.917,6 nghìn tỷ đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước,
nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,2% (cao hơn mức tăng 9% của cùng kỳ năm
2016).
Với diễn biến như vậy, hoạt động bán lẻ đã đóng góp quan trọng vào tăng
trưởng kinh tế xét theo ngành kinh tế cũng như trên góc độ sử dụng GDP.
Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh
thu DV TD so với tháng trước và cùng kỳ (%)
Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng đã loại trừ yếu tố giá (% yoy)
Nguồn: TCTK
10
Tốc độ tăng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng so với tháng trước lần lượt đạt 1,2% trong tháng 7, 0,3% trong tháng 8 và
1,8% trong tháng 9. 11
Tốc độ tăng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng so với cùng kỳ lần lượt đạt 10,3% trong tháng 7, 11,7% trong tháng 8 và
12,1% trong tháng 9.
Diễn biến chỉ số PMI của một số nước trong khu vực ASEAN
Nguồn: nikkei.com
46
47
48
49
50
51
52
53
54
19
Vốn đầu tư toàn
xã hội gia tăng
mạnh trong quý
III nhờ sự đóng
góp chủ yếu từ
hai cấu phần vốn
đầu tư khu vực
tư nhân và nước
ngoài
Trong quý III, tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 45,39 nghìn tỷ đồng, tăng
16,77% so với cùng kỳ 2016, cao gấp đôi so với mức tăng trưởng 7,17% của
quý III năm ngoái và cũng cao hơn nhiều mức tăng trưởng lần lượt đạt 8,85%
và 9,4% trong 2 quý liền trước. Trong đó, vốn đầu tư từ khu vực nước ngoài
đạt mức tăng trưởng cao nhất trong cả nhóm với mức tăng 27,74% so với
cùng kỳ. Vốn đầu tư từ khu vực tư nhân vẫn là động lực dẫn dắt tăng trưởng
tổng vốn đầu tư toàn xã hội khi chiếm gần 42% tổng vốn và đạt tốc độ tăng
trưởng lên đến 20,7% so với cùng kỳ - mức tăng trưởng cao nhất kể từ đầu
năm đến nay và cao gấp 3 lần so với mức tăng trưởng của quý III năm 2016..
Trong khi đó, khu vực nhà nước vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định,
không có nhiều sự thay đổi so với 2 quý trước, đạt 6,62% trong quý III.
Tăng trưởng tổng vốn đầu tư của toàn xã hội và 3 khu vực kinh tế so với cùng kỳ
Nguồn: TCTK
Với diễn biến tích cực trong quý III, tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 9
tháng đầu năm 2017 theo giá hiện hành ước tính đạt 1128,7 nghìn tỷ đồng,
tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước và bằng 33,9% GDP, cao hơn mức tăng
của cùng kỳ 2 năm trước. Trong đó, vốn đầu tư từ khu vực tư nhân dẫn đầu,
tiếp đến là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực nhà nước. Diễn biến
của các cấu phần vốn đầu tư thành phần nhìn chung đều khởi sắc hơn nếu so
với cùng kỳ 2 năm trước.
Tốc độ phát triển vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 9 tháng các năm 2015 - 2017 so với cùng kỳ năm trước
Đơn vị tính: %
9 tháng
năm 2015
9 tháng
năm 2016
9 tháng
năm 2017
Tổng số 109,6 109,6 112,1
Khu vực Nhà nước 106,6 106,0 107,2
Khu vực ngoài Nhà nước 111,0 110,3 115,9
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 112,4 114,1 113,5
Nguồn: TCTK
20
Hiệu quả sử dụng vốn thể hiện qua chỉ số ICOR đang có những diễn biến
theo chiều hướng tích cực khi ICOR trong quý III đạt 4,78, thấp hơn mức
ICOR lần lượt đạt 6,29 và 5,42 của 2 quý liền trước.
Diễn biến chỉ số ICOR giai đoạn QI/2016 – QIII/2017
Nguồn: Tính toán từ số liệu TCTK
Diễn biến các cấu phần vốn đầu tư toàn xã hội được thể hiện rõ nét hơn khi
quan sát hoạt động giải ngân vốn đầu tư trên các mảng NSNN cũng như vốn
đầu tư nước ngoài:
Giải ngân nguồn
vốn đầu tư từ
NSNN vẫn còn
gặp nhiều khó
khăn
Vốn đầu tư từ NSNN vẫn diễn biến theo đúng quy luật hàng năm đó là lượng
giải ngân có sự gia tăng nhanh dần qua các quý. Cụ thể, trong quý III, lượng
vốn đầu tư từ NSNN ước đạt 77,79 nghìn tỷ đồng, tăng 11,76% so với quý
trước. Tính chung 9 tháng năm 2017, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện
ước tính đạt 192,8 nghìn tỷ đồng, bằng 63,2% kế hoạch năm và tăng 7,1% so
với cùng kỳ năm trước. Mặc dù tình hình thực hiện vốn đầu tư từ NSNN đã
có chuyển biến tích cực trong những tháng gần đây nhưng mức giải ngân vẫn
còn thấp so với kế hoạch năm và mức tăng trưởng cũng thấp hơn so với cùng
kỳ năm trước12
. Sự khó khăn trong việc giải ngân nguồn vốn đầu tư từ NSNN
cũng thể hiện qua sự chững lại qua hoạt động chi đầu tư phát triển khi qua 9
tháng chi đầu tư phát triển mới chỉ bằng 42,8% dự toán, thấp hơn đáng kể so
với mức dự toán của các năm trước13
.
Diễn biến vốn đầu tư từ NSNN giai đoạn Q1/2016 – Q3/2017
Nguồn: TCTK
12
Vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện 9 tháng năm 2016 ước tính đạt 180 nghìn tỷ đồng, bằng 69,1% kế hoạch năm và tăng 13,1% so với
cùng kỳ năm trước. 13
9 tháng năm 2016 giải ngân vốn đầu tư phát triển bằng 51,1% dự toán, 9 tháng đầu năm 2015 giải ngân vốn đầu tư phát triển bằng 59,8%
dự toán.
21
Giải ngân vốn
đầu tư trực tiếp
nước ngoài có sự
cải thiện mạnh
mẽ
Sau 2 quý đầu năm giải ngân
ở mức thấp, bước sang quý
III, lượng vốn giải ngân FDI
có sự cải thiện mạnh mẽ, ước
đạt 4,8 tỷ USD, tăng 16,7%
so với quý II và tăng 29% so
với cùng kỳ năm 2016, cao
hơn khá nhiều mức tăng
trưởng của Quý III năm
201614
. Sự cải thiện này tập
trung chủ yếu vào tháng 9
khi chỉ trong vòng 1 tháng
lượng FDI giải ngân đạt 2,2
tỷ USD, chiếm gần một nửa
lượng vốn giải ngân trong cả
quý. Tính hết 9 tháng, vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện ước tính đạt 12,5 tỷ USD, tăng 13,4%
so với cùng kỳ năm 2016, là mức tăng cao nhất trong 3 năm gần đây15
. Với
diễn biến tích cực của giải ngân vốn FDI trong quý III như vậy đã giải thích
cho sự khởi sắc của vốn đầu tư từ khu vực nước ngoài trong tổng vốn đầu tư
toàn xã hội.
Hoạt động thu
hút FDI diễn ra
ổn định qua các
tháng của quý
III
Tổng lượng vốn FDI thu hút mới và tăng thêm trong quý III ước đạt 4,32 tỷ
USD. Nhìn chung, diễn biến của các cấu phần FDI thu hút mới và tăng thêm
trong các tháng của quý III không có những biến động đột biến như một số
tháng của 2 quý trước.
Tính đến hết 20/9/2017, tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới, tăng thêm
đạt 21,3 tỷ USD, tăng 29,7% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù mới chỉ hết
quý III nhưng lượng vốn FDI thu hút được trong năm nay đã tương đương với
mức FDI thu hút được của cả năm 2016.
Diễn biến các cấu phần vốn FDI thu hút qua các tháng trong năm 2017
(triệu USD)
Nguồn: TCTK
Qua 9 tháng, nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành/lĩnh vực, trong
đó công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục thu hút được nhiều sự quan tâm của
nhà đầu tư nước ngoài với tổng số vốn là 12,64 tỷ USD, chiếm 49,6% tổng
vốn đầu tư đăng ký; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng,
14
Quý III năm 2016 vốn FDI thực hiện giảm 2,1% so với quý trước và tăng 10% so với cùng kỳ. 15
9 tháng năm 2015 và 2016, tăng trưởng vốn FDI thực hiện so với cùng kỳ đạt mức tăng lần lượt là 12,4% và 8,4%.
So sánh diễn biến vốn FDI thực hiện qua các
quý các năm 2015, 2016 và 2017
(triệu USD)
Nguồn: TCTK
22
hơi nước và điều hòa không khí đạt 5,4 tỷ USD, chiếm 21,1%; các ngành còn
lại đạt 7,5 tỷ USD, chiếm 29,3%.
Trong số 74 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại
Việt Nam trong 9 tháng, Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất chiếm 33,7% tổng
vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Singapore chiếm 19,9%; Hàn Quốc chiếm
15,8%; Trung Quốc chiếm 8,8%; Hồng Kông chiếm 4,3%.
Cơ cấu thu hút FDI theo lĩnh vực đầu tư
Cơ cấu thu hút FDI theo đối tác đầu tư
Nguồn: TCTK
Xuất khẩu vẫn
duy trì đà tăng
trưởng tốt
Tiếp nối đà tăng trưởng tốt của 2 quý đầu năm16
, xuất khẩu quý III ước đạt
56,4 tỷ USD, tăng 6% so với quý II và tăng mạnh 21,6% so với cùng kỳ năm
2016. Kim ngạch xuất khẩu qua các tháng của quý III đều ở mức cao, trong đó
tháng 8 đạt con số 19,77 tỷ USD – mức cao nhất từ trước đến nay. Như vậy,
tính chung 9 tháng, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 154 tỷ USD, tăng 19,8% so
với cùng kỳ năm 2016, cao gấp 3 lần so với mức tăng trưởng 6,7% của 9
tháng năm ngoái. Trong đó hoạt động xuất khẩu đều có mức tăng trưởng cao
trong cả hai khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước
với mức tăng trưởng trong 9 tháng của 2 khu vực lần lượt đạt 21% và 16,8%
so với cùng kỳ, cao hơn nhiều tốc độ tăng trưởng của 9 tháng năm 201617
.
Sự gia tăng mạnh của giá trị xuất khẩu trong 9 tháng qua không chỉ nhờ sự gia
tăng về giá mà còn xuất phát từ sự gia tăng về lượng. Cụ thể, nếu loại trừ yếu
tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 9 tháng tăng 14,4% so với cùng kỳ năm
2016. Một số mặt hàng có lượng xuất khẩu tăng mạnh so với cùng kỳ năm
trước là dầu thô tăng 9,7%; than đá tăng 122,5%; sắt thép tăng 31,5%; chè
tăng 12%; hạt tiêu tăng 25,1%; gạo tăng 21,7%,…
Một yếu tố khác hỗ trợ đà phục hồi của xuất khẩu đó là các mặt hàng chế biến
chế tạo vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khả quan18
, cao hơn tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu các mặt hàng này trong cùng kỳ năm 2016 và nhiều mặt hàng còn
đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng xuất khẩu chung. Trong khi đó,
xuất khẩu dầu thô, các mặt hàng nông thủy sản và khai khoáng tiếp tục đạt
mức tăng trưởng khá cao, trái ngược hoàn toàn với xu hướng sụt giảm của
cùng kỳ năm ngoái19
.
16 Kim ngạch xuất khẩu quý I năm 2017 đạt 44,7 tỷ USD tăng 15,85% so với quý I năm 2016, kim ngạch xuất khẩu quý II năm 2017 đạt
53,81 tỷ USD, tăng 22,6% so với quý II năm 2016 17
9 tháng năm 2016, tăng trưởng xuất khẩu của hai khu vực doanh nghiệp nước ngoài và trong nước lần lượt đạt 7,4% và 5%. 18 Qua 9 tháng năm 2017, Điện thoại và linh kiện đạt 31 tỷ USD, tăng 21,4%; dệt may đạt 19,3 tỷ USD, tăng 8,6%; điện tử, máy tính và linh
kiện đạt 18,5 tỷ USD, tăng 40,8%; giày dép đạt 10,6 tỷ USD, tăng 12,7%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 9,3 tỷ USD, tăng
30,1%,... 19 Qua 9 tháng năm 2017, thủy sản đạt 6 tỷ USD, tăng 19,2%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 5,5 tỷ USD, tăng 11%; rau quả đạt 2,7 tỷ USD, tăng
45,6%; hạt điều đạt 2,6 tỷ USD, tăng 26,6%; dầu thô đạt 2,27 tỷ USD, tăng 33%,…
23
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch XK một số mặt hàng chủ lực 9T/2017 so với 9T/2016
Nguồn: TCTK
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường lớn
đều đạt tốc độ tăng trưởng cao và cơ cấu xuất khẩu sang các thị trường không
có nhiều thay đổi với Mỹ và EU vẫn là 2 thị trường xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam20
. Tuy nhiên, trong 9 tháng qua cơ cấu xuất khẩu cũng đang cho
thấy sự chuyển dịch về kim ngạch xuất khẩu sang thị trường các nước trong
khu vực, đặc biệt là Trung Quốc.
Tỷ trọng XK vào các thị trường 9T/2016 Tỷ trọng XK vào các thị trường 9T/2017
Nguồn: TCTK
Nhập khẩu cũng
gia tăng mạnh mẽ
so với cùng kỳ
năm 2016
Tương tự xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu quý III cũng vẫn giữ được đà tăng
trưởng cao, ước đạt 54,2 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2016. Tính
chung 9 tháng, nhập khẩu ước đạt 154,5 tỷ USD, tăng 23,1% so với cùng kỳ
năm 2016 (9 tháng năm 2016 nhập khẩu tăng 1,3%). Trong đó, tốc độ tăng
nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước đạt 18,7%, khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài đạt 26,1%, đều cao hơn rất nhiều tốc độ tăng trưởng của cùng
kỳ năm trước21
.
Sự gia tăng của nhập khẩu trong 9 tháng qua chủ yếu là do nhập khẩu tư liệu
sản xuất tăng rất mạnh 23,6% so với cùng kỳ năm 2016 trong khi 9 tháng năm
2016 nhập khẩu nhóm hàng này chỉ tăng 1,2%. Đáng chú ý, nhiều mặt hàng
có tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ năm 2016 và tốc độ tăng của
20 Trung Quốc tăng 44,7%, Nhật Bản tăng 17,2%, Asean tăng 26,1% và Hàn Quốc tăng 27,3%, Mỹ tăng trưởng 10,5% và EU tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước. 21
9 tháng năm 2016, nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước tăng 2%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tang 0,9%.
24
kim ngạch nhập khẩu chung, ví dụ như máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng
tăng 32,9%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 28,3%; điện thoại và linh kiện
tăng 41,3%; sắt thép tăng 16,1%; chất dẻo tăng 21,4%; xăng dầu tăng 42%,...
Bên cạnh đó, nhập khẩu hàng tiêu dùng cũng tăng mạnh ở mức 17,9% so với
cùng kỳ năm 2016, cao hơn mức tăng 2,8% của cùng kỳ năm trước.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch NK một số mặt hàng tư liệu SX 9T/2017 so với 9T/2016
Nguồn: TCTK
Nhập khẩu từ tất cả các thị trường đều có sự phục hồi mạnh mẽ. Cụ thể, nhập
khẩu từ Trung Quốc, Asean, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ đều gia tăng mạnh
ở mức hai con số so với cùng kỳ năm 2016, trái ngược với xu hướng sụt giảm
hoặc tăng trưởng thấp tại các thị trường trong 9 tháng năm ngoái22
. Cơ cấu thị
trường nhập khẩu không có nhiều thay đổi so với cùng kỳ năm ngoái, với
Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, theo sau là Hàn
Quốc, Asean. Qua 9 tháng cũng có thể thấy cơ cấu nhập khẩu đã bớt sự phụ
thuộc hơn vào Trung Quốc và bắt đầu có sự chuyển dịch sang Hàn Quốc.
Tỷ trọng NK từ các thị trường 9T/2016 Tỷ trọng NK vào các thị trường 9T/2017
Nguồn: TCTK
Cán cân thương
mại xuất siêu
trong quý III
Cán cân thương mại trong quý III đã xuất siêu trở lại 2,2 tỷ USD. Tuy nhiên,
tính chung 9 tháng cán cân thương mại vẫn nhập siêu hơn 400 triệu USD.
Đáng lưu ý là với những chuyển biến trong cơ cấu xuất nhập khẩu theo thị
trường như đã phân tích ở trên, Hàn Quốc đã vượt Trung Quốc trở thành thị
trường nhập siêu lớn nhất của Việt Nam với mức nhập siêu qua 9 tháng lên tới
23,3 tỷ USD, tăng 57,7% so với cùng kỳ 2016. Trong khi đó, nhập siêu từ
Trung Quốc đạt 19,7 tỷ USD, giảm 5,6% so với cùng kỳ 2016.
22
9 tháng năm 2017, nhập khẩu từ Trung Quốc tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2016, Hàn Quốc tăng 46,5%, ASEAN tăng 19,7%, Nhật Bản
tăng 8,2%, EU tăng 13,3%, Hoa Kỳ tăng 16,3%.
-20
-10
0
10
20
30
40
50
Tổng kim ngạch NK
Xăng dầu Sắt thép Điện tử, máy tính và linh
kiện
Điện thoại và linh kiện
Máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng
khác
%
9T/2016 9T/2017
25
Diễn biến XK, NK và nhập siêu giai đoạn 1/2016 – 9/2017
Nguồn: TCTK
Một số chính sách quan trọng trong công tác quản lý, điều tiết kinh tế được ban hành trong tháng 9
1/ Quyết định số 1434/QĐ-TTg ngày 22/9/2017 Phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển kinh tế thủy
sản bền vững giai đoạn 2016 – 2020
Qua đó, xác định các mục tiêu phát triển kinh tế thủy sản đến năm 2020 cần đạt được như sau: - Tàu cá khai thác
vùng khơi được cung cấp bản tin dự báo ngư trường; - Tốc độ tăng giá trị sản xuất thủy sản bình quân hằng năm
đạt 6%; - Tổng sản lượng thủy sản đạt từ 6,5 đến 7 triệu tấn; - Giá trị xuất khẩu thủy sản đạt từ 8 đến 9 tỷ USD; -
Chủ động sản xuất trong nước 100% giống các đối tượng nuôi thủy sản chủ lực; 100% giống tôm sú, tôm chân
trắng, cá tra là giống sạch bệnh; - 100% diện tích nuôi tập trung thâm canh các đối tượng nuôi chủ lực đạt chứng
nhận VietGAP hoặc chứng nhận tương đương (GlobalGAP, ASC.BAP); - Công suất cảng cá tăng thêm khoảng
350.000 tấn hàng qua cảng/năm, công suất neo đậu tăng thêm khoảng 15.000 tàu; - Bảo đảm hoạt động của lực
lượng kiểm ngư thực hiện các nhiệm vụ thực thi pháp luật về thủy sản.
2/ Quyết định số 1300/QĐ-TTg ngày 1/9/2017 về việc giao kế hoạch đầu tư vốn trái phiếu chính phủ năm
2017 (đợt 2)
Quyết định giao cho Bộ Tài chính báo cáo tình hình giải ngân kế hoạch đầu tư vốn trái phiếu Chính phủ năm
2017 theo định kỳ hằng tháng và hằng quý theo quy định.
2. Lạm phát
[23] CPI so với cùng kỳ năm trước: tháng 7 (2,52%); tháng 8 (3,35%); tháng 9 (3,40%);
Lạm phát đã gia
tăng trở lại Trong Quý III, lạm phát đã gia tăng trở lại sau khi có xu hướng giảm kể từ đầu
năm. Trong đó, CPI đã tăng cao nhất vào tháng 8 và tháng 9 so với cùng kỳ
năm trước[23]
. Tính đến hết tháng 9/2017, CPI đã tăng 1,83% so với cuối năm
2016. CPI bình quân 9 tháng đầu năm tăng 3,79% so với cùng kỳ năm trước.
Lạm phát cơ bản diễn biến ổn định trong Quý III. Sau khi giảm vào thời điểm
đầu năm nay, lạm phát cơ bản vẫn đang duy trì tốc độ tăng thấp và không có
biến động đáng kể. CPI cơ bản bình quân 9 tháng hiện ở mức 1,45% so với
cùng kỳ năm trước.
26
Nguồn: Tổng cục thống kê
[24] CPI Thuốc và dịch vụ Y tế so với tháng trước: tháng 7 (0,36%); tháng 8 (2,86%); tháng 9 (0,25%); [25] CPI Giáo dục so với tháng trước: tháng 7 (0,05%); tháng 8 (0,57%); tháng 9 (5%); [26] CPI Giao thông so với tháng trước: tháng 7 (-1,52%); tháng 8 (2,13%); tháng 9 (1,51%); [27] Bốn đợt điều chỉnh tăng giá bán xăng dầu vào các ngày: 4/8; 19/8; 5/9 và 20/9; [28] CPI Hàng ăn và dịch vụ ăn uống so với tháng trước: tháng 7 (0,54%); tháng 8 (1,06%); tháng 9 (0,08%).
-1.75
-0.6
0.79
1.02
1
1.46
2.28
4.11
4.6
9.18
43.7
-20 0 20 40 60
Hàng ăn và dịch vụ ăn uống
Bưu chính viễn thông
Văn hóa, giải trí và du lịch
Thiết bị và đồ dùng gia đình
May mặc, mũ nón, giày dép
Đồ uống và thuốc lá
Hàng hóa và dịch vụ khác
Nhà ở và vật liệu xây dựng
Giao thông
Giáo dục
Thuốc và dịch vụ y tế
%
CPI BÌNH QUÂN QUÝ III/2017
SO VỚI CÙNG KỲ 2016
-0.93
-0.65
0.90
1.00
1.08
1.57
2.09
4.11
7.35
9.72
46.50
-20 0 20 40 60
Hàng ăn và dịch vụ ăn uống
Bưu chính viễn thông
Văn hóa, giải trí và du lịch
Thiết bị và đồ dùng gia đình
May mặc, mũ nón, giày dép
Đồ uống và thuốc lá
Hàng hóa và dịch vụ khác
Nhà ở và vật liệu xây dựng
Giao thông
Giáo dục
Thuốc và dịch vụ y tế
%
CPI BÌNH QUÂN 9 THÁNG 2017
SO VỚI CÙNG KỲ 2016
Lạm phát gia tăng trong Quý III tiếp tục chịu tác động từ việc điều chỉnh giá cả
của những nhóm hàng hoá và dịch vụ công thuộc quản lý Nhà nước như: Y tế,
Giáo dục,… Ngoài ra, xu hướng gia tăng trở lại của giá dầu trên thị trường thế
giới cũng tác động tới xu hướng tăng của nhóm giao thông trong tháng. Diễn
biến của các nhóm hàng hóa có tác động mạnh đến diễn biến của CPI trong quý
có những điểm đáng chú ý như sau:
+ Thuốc và dịch vụ Y tế: CPI nhóm hàng này đã tăng trong cả ba tháng[24]
,
trong đó tăng mạnh nhất vào tháng 8 khi có 17 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương thực hiện điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế cho đối tượng không có thẻ bảo
hiểm y tế. So với những đợt điều chỉnh giá trong hai quý đầu năm, mức độ tăng
giá dịch vụ y tế trong quý III không quá mạnh và nằm trong lộ trình điều chỉnh
theo Thông tư số 02/2017/TT-BYT của Bộ Y tế. Qua 9 tháng đầu năm, đây là
nhóm có tốc độ tăng CPI bình quân so với cùng kỳ cao nhất ở mức 46,5%, đóng
góp lớn nhất vào mức tăng của CPI tổng thể.
+ Giáo dục: Quý III là cao điểm của hoạt động giáo dục và đào tạo trên cả
nước nên CPI nhóm Giáo dục thường tăng mạnh trong giai đoạn này[25]
. Đặc
biệt trong tháng 9, CPI nhóm này tăng mạnh do 41 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương thực hiện lộ trình tăng học phí khi bắt đầu vào năm học mới, khiến
chỉ số giá dịch vụ giáo dục tháng 9 tăng 5,74%, là mức cao nhất kể từ đầu năm.
CPI bình quân 9 tháng so với cùng kỳ năm trước của nhóm Giáo dục là 9,72%,
cao thứ hai chỉ sau Thuốc và dịch vụ Y tế.
+ Giao thông: Sau chuỗi giảm liên tiếp 4 tháng trong Quý II và tháng 7/2017,
CPI nhóm Giao thông đã tăng mạnh trở lại kể từ tháng 8[26]
. Nguyên nhân chủ
yếu là do giá bán xăng dầu trong nước liên tục điều chỉnh tăng trong 2 tháng
cuối quý[27]
. Diễn biến tăng của giá dầu thế giới những tháng gần đây đã gây
sức ép điều chỉnh lên giá xăng dầu trong nước, từ đó tác động đáng kể đến CPI.
Bình quân 9 tháng đầu năm, CPI nhóm Giao thông tăng 7,35% so với cùng kỳ
năm 2016.
+ Hàng ăn và dịch vụ ăn uống:. Bước sang Quý III, CPI so với tháng trước
của nhóm này đã có chiều hướng gia tăng trở lại[28]
khi giá cả nhiều mặt hàng
27
Nguồn: IMF
Một số chính sách quan trọng về điều tiết giá cả được ban hành trong tháng 9 năm 2017
1/ Công văn số 8178/BCT-TTTN ngày 05/9/2017 của Bộ Công Thương về việc điều hành kinh doanh xăng
dầu
Điều chỉnh giá xăng dầu: Xăng RON 92: tăng 306 đồng/lít; Xăng E5: tăng 285 đồng/lít; Dầu diesel 0.05S: tăng
155 đồng/lít; Dầu hỏa: tăng 149 đồng/lít; Dầu mazut 180CST 3.5S: tăng 43 đồng/kg.
2/ Công văn số 8724/BCT-TTTN ngày 20/9/2017 của Bộ Công Thương về việc điều hành kinh doanh xăng
dầu
Điều chỉnh giá xăng dầu: Xăng RON 92: tăng 319 đồng/lít; Xăng E5: tăng 297 đồng/lít; Dầu diesel 0.05S: tăng
491 đồng/lít; Dầu hỏa: tăng 568 đồng/lít; Dầu mazut 180CST 3.5S: tăng 388 đồng/kg.
3. Thu chi ngân sách Nhà nước
0
10
20
30
40
50
60
01
/20
15
03
/20
15
05
/20
15
07
/20
15
09
/20
15
11
/20
15
01
/20
16
03
/20
16
05
/20
16
07
/20
16
09
/20
16
11
/20
16
01
/20
17
03
/20
17
05
/20
17
07
/20
17
09
/20
17
CPI THUỐC & DỊCH VỤ Y TẾ
GIAI ĐOẠN 2015 - 2017
CPI so với cùng kỳ CPI so với tháng trước
0
10
20
30
40
50
60
01
/20
15
03
/20
15
05
/20
15
07
/20
15
09
/20
15
11
/20
15
01
/20
16
03
/20
16
05
/20
16
07
/20
16
09
/20
16
11
/20
16
01
/20
17
03
/20
17
05
/20
17
07
/20
17
09
/20
17
CPI GIÁO DỤC
GIAI ĐOẠN 2015 - 2017
CPI so với cùng kỳ CPI so với tháng trước
-20-15-10
-505
101520
01
/20
15
03
/20
15
05
/20
15
07
/20
15
09
/20
15
11
/20
15
01
/20
16
03
/20
16
05
/20
16
07
/20
16
09
/20
16
11
/20
16
01
/20
17
03
/20
17
05
/20
17
07
/20
17
09
/20
17
CPI GIAO THÔNG
GIAI ĐOẠN 2015 - 2017
CPI so với cùng kỳ
CPI so với tháng trước
-6
-4
-2
0
2
4
6
01
/20
15
03
/20
15
05
/20
15
07
/20
15
09
/20
15
11
/20
15
01
/20
16
03
/20
16
05
/20
16
07
/20
16
09
/20
16
11
/20
16
01
/20
17
03
/20
17
05
/20
17
07
/20
17
09
/20
17
CPI HÀNG ĂN VÀ DỊCH VỤ ĂN UỐNG
GIAI ĐOẠN 2015 - 2017 (so với cùng kỳ)
Hàng ăn và dịch vụ ăn uống
Lương thực
Thực phẩm Ăn uống ngoài gia đình
lương thực và đặc biệt là thực phẩm phục hồi sau thời gian giảm sâu. Tuy nhiên
trong cả 9 tháng vừa qua, CPI bình quân của nhóm này vẫn đang giảm mạnh
nhất ở mức 0,93% so với cùng kỳ.
Thu NSNN gặp khó
khăn do thu nội địa có
sự sụt giảm so với quý
trước
Tổng thu ngân sách Nhà nước trong quý III ước đạt 285,4 nghìn tỷ đồng,
tăng nhẹ 0,7% so với quý II. Trong đó, thu nội địa đạt 218,6 nghìn tỷ đồng,
giảm 2,23% so với quý trước; thu từ dầu thô đạt 10,7 nghìn tỷ đồng, giảm
11,5% so với quý trước; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập
khẩu đạt 54 nghìn tỷ đồng, tăng 11,6% so với quý trước. Như vậy, có thể
thấy thu NSNN trong quý III gặp nhiều khó khăn do sự sụt giảm từ nguồn
thu quan trọng nhất đó là thu nội địa.
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/9/2017 ước
tính đạt 786,3 nghìn tỷ đồng, bằng 64,9% dự toán năm, trong đó thu nội
28
29 Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/9/2016 ước tính đạt 665,2 nghìn tỷ đồng, bằng 65,6% dự toán năm, trong đó
thu nội địa đạt 536,3 nghìn tỷ đồng, bằng 68,3%; thu từ dầu thô đạt 28,4 nghìn tỷ đồng, bằng 52%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất,
nhập khẩu đạt 97,4 nghìn tỷ đồng, bằng 56,6%. 30 9 tháng năm 2016 chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính đạt 574,2 nghìn tỷ đồng, bằng 69,7%
dự toán; chi trả nợ và viện trợ đạt 109,8 nghìn tỷ đồng, bằng 70,8%.
Chi đầu tư phát triển
có sự gia tăng mạnh
địa đạt 617,7 nghìn tỷ đồng, bằng 62,4%; thu từ dầu thô 31,8 nghìn tỷ
đồng, bằng 83%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập
khẩu 134,6 nghìn tỷ đồng, bằng 74,8%. Có thể nhận thấy cho đến thời
điểm hiện tại nguồn thu quan trọng nhất là thu nội địa đang ở mức thấp so
với dự toán cũng như so với cùng kỳ năm trước trong khi hai nguồn thu
còn lại diễn biến tích cực và sắp hoàn thành mục tiêu đề ra29
.
So sánh thu NSNN 9 tháng đầu năm 2016 với 9 tháng đầu năm 2017
Nguồn: TCTK
Chi NSNN trong quý III tăng cao hơn 2 quý liền trước, ước đạt 318,1
nghìn tỷ, tăng 4,53% so với quý II và tăng mạnh 39% so với quý I. Sự gia
tăng của chi NSNN trong quý này chủ yếu là do chi đầu tư phát triển tăng
mạnh 37,5% so với quý liền trước, đặc biệt sau khi triển khai Nghị quyết
số 70/NQ-CP ngày 03/8/2017 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp
chủ yếu đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công
năm 2017.
So sánh các cấu phần chi NSNN qua 3 quý năm 2017
Nguồn: TCTK
Mặc dù vậy, do sự chậm trễ trong công tác giải ngân của những tháng
trước đó nên chi đầu tư phát triển tính đến hết 9 tháng mới đạt 153 nghìn
tỷ đồng, chỉ bằng 42,8% dự toán năm, thấp hơn mức dự toán 51,1% của
cùng kỳ năm 2016. Trong khi đó, chi thường xuyên đạt 623 nghìn tỷ đồng,
bằng 69,5% dự toán; chi trả nợ lãi 72,4 nghìn tỷ đồng, bằng 73,2% dự toán,
không có nhiều thay đổi so với mức dự toán của cùng kỳ năm trước30
.
29
Giá trị trúng thầu qua các kỳ hạn trong Quý III
Kế hoạch phát hành TPCP qua các quý
Nguồn: hnx.vn
4. Tình hình doanh nghiệp
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh
-
1,000
2,000
3,000
4,000
5,000
6,000
5 năm 7 năm 10 năm 15 năm 20 năm 30 năm
Tỷ
đồ
ng
Kỳ hạn
-
10,000.00
20,000.00
30,000.00
40,000.00
50,000.00
60,000.00
70,000.00
80,000.00
Quý I Quý II Quý III
Tỷ
đồ
ng
hoàn thành
kế hoạch phát hành TPCP
05,000
10,00015,00020,00025,00030,00035,00040,000
SỐ DOANH NGHIỆP THÀNH LẬP
GIAI ĐOẠN 2016 - 2017
Số doanh nghiệp thành lập mới Số doanh nghiệp hoạt động trở lại
0
50,000
100,000
150,000
200,000
250,000
300,000
350,000
nghìn tỷ
đồng
VỐN ĐĂNG KÝ KINH DOANH
GIAI ĐOẠN 2016 - 2017
Hoạt động trái phiếu
chính phủ đã chậm lại
so với các quý trước
Sau hai quý đạt kết quả tốt sát với kế hoạch đề ra, thì hoạt động trái phiếu
Chính phủ trong Quý III đã chậm lại, tỷ lệ giá trị trúng thầu trên gọi thầu
chỉ đạt 45,05% - thấp gần một nửa so với Quý III năm trước và hoàn thành
49,86% kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ Quý III năm 2017.
Kết thúc tháng 9, lãi suất trúng thầu của trái phiếu kỳ hạn 5 năm nằm trong
khoảng 4,63-4,67%/năm, 7 năm trong khoảng 4,83-4,85%/năm, 10 năm
trong khoảng 5,38-5,40%/năm và 30 năm là 6,10%/năm.
Hoạt động của
khu vực doanh
nghiệp trong quý
III tiếp tục diễn
ra theo chiều
hướng tích cực.
Số lượng doanh nghiệp thành lập mới đạt 32.691 doanh nghiệp với tổng vốn
kinh doanh đạt 306.487 tỷ đồng - tăng 21,3% về số lượng và 41,68% về vốn so
với cùng kỳ 2016.
Qua 9 tháng đầu năm, cả nước có thêm 93.967 doanh nghiệp thành lập mới với
số vốn đăng ký là 902.682 tỷ đồng - tăng 15,4% về số doanh nghiệp và 43,5%
về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Các doanh nghiệp mới gia tăng
mạnh hơn ở các ngành: Công nghiệp và xây dựng, ngành Dịch vụ. Trong đó các
nhóm ngành cụ thể như: Kinh doanh bất động sản, Tài chính ngân hàng, Thông
30
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh
[31] Kinh doanh bất động sản (62,4%); Tài chính ngân hàng (29,5%); Thông tin và truyền thông (27%); Giáo dục đào tạo (26,3%); Y tế và trợ
giúp xã hội (31,8%) - so với cùng kỳ 2016; [32] Nghệ thuật, vui chơi và giải trí (522,5%); Dịch vụ việc làm và du lịch (109,1%); Dịch vụ lưu trú ăn uống (66,9%) - so với cùng kỳ 2016; [33] Nông lâm và thủy sản (vốn giảm 8,9%); Vận tải kho bãi ( số doanh nghiệp giảm 6,8%; vốn giảm 9,1%).
12.9%
-6.8%
11.3%
5.7%
27.0%
9.6%
17.3%
24.1%
31.9%
16.3%
29.5%
9.0%
11.7%
26.3%
18.7%
31.8%
62.4%
-50% 0% 50% 100%
Nghệ thuật, giải trí
Vận tải, kho bãi
Nông, lâm thủy sản
Khai khoáng
Thông tin và truyền thông
Xây dựng
Buôn bán, sửa ô tô xe máy
Dịch vụ việc làm, du lịch
Sản xuất điện, nước, gas
Dịch vụ lưu trú và ăn uống
Tài chính ngân hàng
CN chế biến chế tạo
Khoa học công nghệ
Giáo dục và đào tạo
Hoạt động dịch vụ khác
Y tế và trợ giúp xã hội
Kinh doanh BĐS
TỶ LỆ DOANH NGHIỆP THÀNH LẬP MỚI
9 THÁNG ĐẦU NĂM
522.5%
-9.1%
-8.9%
49.5%
-5.5%
34.4%
42.7%
109.1%
85.8%
66.9%
42.8%
21.0%
27.7%
139.0%
13.5%
41.2%
57.1%
-200% 0% 200% 400% 600%
Nghệ thuật, giải trí
Vận tải, kho bãi
Nông, lâm thủy sản
Khai khoáng
Thông tin và truyền thông
Xây dựng
Buôn bán, sửa ô tô xe máy
Dịch vụ việc làm, du lịch
Sản xuất điện, nước, gas
Dịch vụ lưu trú và ăn uống
Tài chính ngân hàng
CN chế biến chế tạo
Khoa học công nghệ
Giáo dục và đào tạo
Hoạt động dịch vụ khác
Y tế và trợ giúp xã hội
Kinh doanh BĐS
TỶ LỆ VỐN ĐĂNG KÝ KINH DOANH
9 THÁNG ĐẦU NĂM
12,237 10,689 11,458
14,953
10,694 12,989
8,797
0
5,000
10,000
15,000
20,000
Quý I/2016 Quý II/2016 Quý III/2016 Quý IV/2016 Quý I/2017 Quý II/2017 Quý III/2017
TÌNH HÌNH GIẢI THỂ, DỪNG ĐĂNG KÝ VÀ TẠM NGỪNG KINH DOANH
GIAI ĐOẠN 2016 - 2017
Số doanh nghiệp giải thể
Số doanh nghiệp ngừng đăng ký hoặc chờ giải thể
Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh
tin và truyền thông, Giáo dục đào tạo, Y tế và trợ giúp xã hội[31]
có tỷ lệ gia
nhập thị trường cao nhất. Bên cạnh đó xét về vốn đăng ký kinh doanh, ngành
dịch vụ cũng có tỷ lệ vốn tăng cao đột biến như: Nghệ thuật, vui chơi và giải trí;
Dịch vụ việc làm và du lịch; Dịch vụ lưu trú ăn uống[32]
…
Ngược lại, một số lĩnh vực vẫn đang chịu sự suy giảm về số lượng doanh
nghiệp thành lập mới hoặc vốn đăng ký kinh doanh như: Nông lâm nghiệp và
thủy sản; Vận tải kho bãi[33]
.
Tín hiệu tích cực của khu vực doanh nghiệp còn được ghi nhận qua số lượng
doanh nghiệp ngừng đăng ký kinh doanh hoặc chờ giải thể trong quý III/2017
đã giảm đi đáng kể. Có 8.797 doanh nghiệp tạm ngừng đăng ký, chờ giải thể -
giảm 23,2% so với cùng kỳ năm trước và là quý thấp nhất so với những quý gần
đây. Bên cạnh đó, số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể và số tạm ngừng
kinh doanh có thời hạn có chiều hướng tăng so với cùng kỳ, trong đó hầu hết
các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.
31
5. Tình hình lao động việc làm
Nguồn: TCTK
Nguồn: Tổng cục thống kê
[34] Lao động trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp giảm 680.000 người; khu vực công nghiệp và xây dưng tăng 540.000 người, khu vực
dịch vụ tăng 390.000 người so với cùng kỳ 2016.
41.9
24.7
33.4
LAO ĐỘNG TRÊN 15 TUỔI
9 THÁNG ĐẦU NĂM 2016 (%)
Nông lâm nghiệp thủy sản Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ
40.4
25.6
34
LAO ĐỘNG TRÊN 15 TUỔI
9 THÁNG ĐẦU NĂM 2017 (%)
Nông lâm nghiệp thủy sản Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ
Tính đến thời điểm cuối quý III/2017, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trên
cả nước là khoảng 54,88 triệu người - tăng 0,38 triệu người so với cuối quý
II/2017 và tăng 0,45 triệu người so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, lao động ở
khu vực nông thôn chiếm đa số với 37,2 triệu người (67,8%), còn lại là khu vực
thành thị với 17,68 triệu người (32,2%).
Trong lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên, số lao động đang có việc làm là
53,52 triệu người (chiếm 97,52%) - trong đó có 21,64 triệu người đang làm việc
ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (40,4%); khu vực công nghiệp và xây
dựng 13,7 triệu người (25,6%) và khu vực dịch vụ 18,18 triệu người (34%).
So với cùng kỳ năm trước, có thể thấy số lượng lao động giảm đi trong khu vực
nông, lâm, ngư nghiệp và tăng lên trong khu vực công nghiệp và dịch vụ[34]
. Diễn
biến này phù hợp với tình hình phát triển của của khu vực doanh nghiệp khi mà số
lượng doanh nghiệp thành lập mới thuộc các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và dịch
vụ tăng mạnh. Ngược lại, số lượng doanh nghiệp trong lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp có xu hướng tăng chậm lại và có thời điểm giảm sút.
32
Nguồn: TCTK
III. DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ, CHỨNG KHOÁN
Một số chính sách quan trọng trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng trong tháng 9 năm 2017
1/ Quyết định số 1879/QĐ-NHNN ngày 6/9/2017 ban hành Quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo và Tổ giúp
việc Ban chỉ đạo Fintech
Tại Quy chế hoạt động này quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và chế độ làm việc của Ban chỉ đạo
Fintech của NHNN, Tổ giúp việc Ban chỉ đạo và Cơ quan thường trực Ban chỉ đạo Fintech trong việc thực hiện
nhiệm vụ được Thống đốc giao liên quan tới lĩnh vực Fintech.
2/ Quyết định số 1868/QĐ-NHNN ngày 6/9/2017 sửa đổi, bổ sung Quyết định số 259/QĐ-NHNN ngày
28/2/2017 về việc ban hành Chương trình hành động của ngành Ngân hàng góp phần cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết số 19-
2017/NQ-CP của Chính phủ
3/ Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 quy định thủ tục đăng ký biện pháp bảo đảm, cung cấp
thông tin về biện pháp bảo đảm bằng tài sản, quản lý nhà nước về đăng ký biện pháp bảo đảm
Theo đó, đáng chú ý là quy định mới về thời điểm có hiệu lực của việc đăng ký biện pháp bảo đảm trong những
trường hợp cụ thể sau: Đăng ký biện pháp bảo đảm bằng QSDĐ, tài sản gắn liền với đất, tàu bay, tàu biển có
hiệu lực từ thời điểm cơ quan đăng ký ghi nội dung đăng ký vào sổ đăng ký; Đăng ký biện pháp bảo đảm bằng
động sản khác có hiệu lực từ thời điểm nội dung đăng ký được cập nhật vào cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm;
Đăng ký thay đổi do bổ sung tài sản bảo đảm mà các bên không ký HĐ bảo đảm mới hoặc do bổ sung nghĩa vụ
được bảo đảm và tại thời điểm giao kết HĐ các bên không có thỏa thuận về việc bảo đảm cho các nghĩa vụ phát
sinh trong tương lai.
[35] 9 tháng đầu năm 2016, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2,29%, trong đó khu vực thành thị là 3,23%; khu vực nông thôn là
1,82%; [36] 9 tháng đầu năm 2016, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên là 7,04%, trong đó khu vực thành thị là 11,65%; khu vực nông thôn là 5,27%.
Trong quý III, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,21%, giảm đi so với
các quý gần đây và so với cùng kỳ năm trước, cho thấy tình hình việc làm đã có
sự cải thiện tích cực. Tính chung 9 tháng, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong
độ tuổi ở mức là 2,26% trong đó khu vực thành thị là 3,19% và khu vực nông
thôn là 1,79%. So với 9 tháng cùng kỳ năm trước thì tỷ lệ thất nghiệp trong độ
tuổi lao động đã giảm đi, tình hình lao động đã được cải thiện tốt hơn[35]
.
Tuy nhiên xét trong độ tuổi lao động, tỷ lệ thất nghiệp của đối tượng thanh niên
(từ 15-24 tuổi) hiện ở mức 7,93% trong Quý III hiện vẫn cao và vẫn cao hơn so
với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng đầu năm, tỷ lệ thất nghiệp của thanh
niên là 7,63% (trong đó khu vực thành thị là 11,99%; khu vực nông thôn là
5,96%). So với 9 tháng cùng kỳ năm 2016 thì tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên
đang có chiều hướng gia tăng[36]
.
33
4/ Chỉ thị 37/CT-TTg ngày 21/9/2017 về việc tăng cường quản lý, giám sát vay về cho vay lại đối với chính
quyền địa phương
Thủ tướng yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện tốt các giải pháp tiêu biểu sau : -
Quản lý vay, trả nợ vay chính quyền địa phương thật chặt chẽ; đảm bảo tuân thủ kế hoạch vay, trả nợ vay hằng
năm của địa phương đã được Quốc hội phê duyệt. - Ưu tiên sử dụng vốn vay ODA với điều kiện ưu đãi cao cho
các chương trình, dự án quan trọng và cấp bách; không sử dụng vốn vay nước ngoài cho chi thường xuyên mà
chỉ dùng cho chi đầu tư phát triển. - Lập kế hoạch vay, trả nợ chi tiết cho nội dung vay lại từ nguồn vốn vay
nước ngoài của Chính phủ cùng với các nội dung khác theo quy định. - Các địa phương cần ưu tiên giải ngân
vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài vay về cho vay lại đã cam kết với nhà tài trợ.
5/ Thông tư 13/2017/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 07/2015/TT-NHNN ngày 25
tháng 6 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng
Theo đó, quy định ngân hàng sẽ không thực hiện bảo lãnh thanh toán trái phiếu đối với doanh nghiệp phát hành
với mục đích cơ cấu lại nợ và trái phiếu phát hành bởi công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng khác.
Đồng thời, quy định chi tiết về việc xác định số dư bảo lãnh đối với chủ đầu tư khi các ngân hàng thương mại
bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai.
6/ Nghị định số 107/2017/NĐ-CP ngày 15/09/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã
Theo đó, áp dụng miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước cho hợp tác xã, liên hiệp HTX trong lĩnh vực nông,
lâm, ngư nghiệp theo quy định tại Nghị định 46/2014/NĐ-CP và Nghị định 135/2016/NĐ-CP như sau: - Miễn
tiền thuê đất cho cả thời hạn thuê đối với HTX nông nghiệp dùng đất làm mặt bằng xây dựng trụ sở, nhà kho và
các dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản và làm muối. - Miễn tiền thuê đất đến hết năm
2020 cho diện tích đất nông nghiệp trong hạn mức đối với: + Xã viên hợp tác xã nông nghiệp nhận giao khoán
của doanh nghiệp; + HTX sản xuất nông nghiệp nay phải chuyển sang thuê đất và ký hợp đồng thuê đất với cơ
quan nhà nước theo quy định của Luật Đất đai. - Giảm 50% tiền thuê đất cho HTX thuê đất làm mặt bằng sản
xuất kinh doanh.
7/ Công văn số 7295/NHNN-TTGSNH ngày 13/9/2017 yêu cầu các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài thực hiện tốt quy định về huy động vốn bằng ngoại tệ
Theo văn bản này, để bảo đảm tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước và chỉ thị của Thống đốc về an
toàn hoạt động của tổ chức tín dụng, Thống đốc yêu cầu các tổ chức tín dụng kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng
trưởng tín dụng bằng ngoại tệ, đồng thời kiểm soát tỷ lệ tín dụng/huy động vốn bằng ngoại tệ ở mức phù hợp,
đảm bảo cân đối nguồn vốn giữa huy động và cho vay, tăng cường kiểm soát rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng
bằng ngoại tệ.
37 Lãi suất tái cấp vốn giảm từ 6,5%/năm xuống 6,25%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 4,5%/năm xuống 4,25%/năm; lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng từ 7,5%/năm xuống 7,25%/năm. 38 Từ 7%/năm xuống 6,5%/năm.
Lãi suất đã giảm
phù hợp với diễn
biến của kinh tế
vĩ mô
Trong quý III, lần đầu tiên sau 3 năm, NHNN đã điều chỉnh giảm các lãi suất
điều hành chủ chốt37
và trần lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên38
.
Quyết định chính sách này đã ngay lập tức tác động tích cực đến diễn biến lãi
suất trên thị trường liên ngân hàng và lãi suất trong nền kinh tế.
Lãi suất huy động tiếp tục được điều chỉnh giảm rải rác tại các kỳ hạn
Do xu hướng giảm lãi suất huy động đã diễn ra khá đều đặn trong những tháng
trước nên bước sang quý III, mặc dù vẫn có sự điều chỉnh nhẹ nhưng diễn biến
giảm chỉ xuất hiện rõ nét vào tháng 8, tháng 9 và chủ yếu diễn ra tại khối
NHTM CP. Kết thúc quý III, mặt bằng lãi suất huy động kỳ hạn ngắn đã giảm
trong khoảng 0,01%/năm; lãi suất kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đã giảm khoảng
0,01 – 0,03%/năm so với đầu quý. Hiện mặt bằng lãi suất huy động kỳ hạn 3 - 6
tháng trong khoảng 5,09 - 5,92%/năm đối với khối NHTM NN và trong khoảng
5,35 – 6,33%/năm đối với khối NHTM CP; Lãi suất kỳ hạn dài từ 12 tháng trở
lên trong khoảng 7,00 - 7,04%/năm đối với khối NHTM NN và trong khoảng
7,11 – 7,38%/năm đối với khối NHTM CP.
34
Diễn biến lãi suất huy động bình quân của Khối
NHTM Nhà nước
Diễn biến lãi suất huy động bình quân Khối
NHTM Cổ phần
Nguồn: Tổng hợp
Lãi suất cho vay đã giảm rõ rệt
So với 6 tháng đầu năm, lãi suất cho vay trong quý III đã thay đổi đáng kể.
Ngay sau khi có tín hiệu điều hành của NHNN, các NHTM trong hệ thống đã
nhanh chóng hưởng ứng, dẫn đầu là các NHTM có vốn Nhà nước thực hiện
giảm lãi suất trực tiếp đối với các khoản tín dụng ưu tiên, tiếp đến là việc triển
khai nhiều chương trình tín dụng để hỗ trợ DN với lãi suất thấp và đưa ra thị
trường các sản phẩm tín dụng tiện lợi của nhiều NHTM CP khác trong hệ
thống. So với cùng kỳ năm 2016, lãi suất cho vay trong lĩnh vực ưu tiên đã
giảm rõ rệt từ 0,5% đến 1%. Hiện tại, lãi suất lãi suất cho vay VND phổ biến
đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6-6,5%/năm đối với ngắn hạn, các NHTM
nhà nước áp dụng lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến đối với các lĩnh
vực ưu tiên ở mức 9-10%/năm. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh thông thường ở mức 6,8-9%/năm đối với ngắn hạn; 9,3-11%/năm đối với
trung và dài hạn. Đối với nhóm khách hàng tốt, tình hình tài chính lành mạnh,
minh bạch, lãi suất cho vay ngắn hạn từ 4-5%/năm.
Bên cạnh đó, lãi suất cho vay USD cũng đã giảm so với cùng kỳ năm ngoái từ
0,3 – 0,4%, hiện đang phổ biến ở mức 2,8-6,0%/năm; trong đó lãi suất cho vay
ngắn hạn phổ biến ở mức 2,8-4,7%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn ở mức
4,7-6,0%/năm.
Lãi suất liên ngân hàng giảm ngay từ đầu quý
Trong quý III, nhìn chung lãi suất liên ngân hàng đã giảm mạnh so với lãi suất
giao dịch vào thời điểm cuối quý trước. Xu hướng giảm mạnh bắt đầu vào tháng
7, kéo dài sang tháng 8 với mức độ giảm thấp hơn và đã tăng nhẹ trở lại vào
tuần thứ hai của tháng 9. Mặc dù vậy, kết thúc quý III, lãi suất liên ngân hàng
đối với các kỳ hạn qua đêm, 01 tuần , 02 tuần, 1 tháng đã giảm khoảng một nửa
so với thời điểm cuối tháng 6; các lãi suất kỳ hạn dài hơn cũng đã giảm nhưng
biến động thấp hơn 1%, ngoại trừ sự cố định của lãi suất kỳ hạn 12 tháng. Kết
thúc tháng 9, lãi suất kỳ hạn ngắn (qua đêm, 01 tuần, 02 tuần, 1 tháng) lần lượt
ở mức 0,65%/năm; 0,92%/năm; 1%/năm và 1,77%/năm; lãi suất kỳ hạn dài (3
tháng, 6 tháng) lần lượt ở mức 3,49%/năm và 5,25%/năm.
35
Diễn biến lãi suất liên ngân hàng trong Quý III
(%)
Doanh số giao dịch liên ngân hàng trong Quý III
(tỷ đồng)
Nguồn: NHNN
Xu hướng giảm kéo dài của lãi suất liên ngân hàng đến thời điểm hiện nay cũng
giống như năm ngoái, được hỗ trợ tích cực từ trạng thái thanh khoản dồi dào
của hệ thống và là tín hiệu thuận lợi cho việc giảm lãi suất, tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận nhiều hơn với vốn vay ngân hàng trong quý
tới.
Từ đầu năm đến nay, tín dụng đối với nền kinh tế đã duy trì đà tăng qua các
tháng. Tính đến ngày 20/9, tín dụng đã tăng 11,2% so với cuối năm ngoái –
mức tăng cao nhất trong 3 năm trở lại đây. Dòng chảy tín dụng đã tập trung cho
khu vực sản xuất kinh doanh, sau 9 tháng tín dụng đối với các lĩnh vực kinh tế
trọng điểm và lĩnh vực ưu tiên phần lớn đều tăng cao so với mức tăng trưởng tín
dụng chung của toàn ngành.
Diễn biến dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế từ đầu năm đến nay
Nguồn: NHNN
Ghi chú: * số liệu đến 20/9/2017
Tỷ giá biến động
thấp nhất kể từ
đầu năm
Diễn biến của tỷ giá VND/USD trong quý III tiếp tục giữ vững xu hướng ổn
định. Theo đó, tỷ giá trung tâm được điều chỉnh tăng phù hợp qua từng tháng,
thể hiện xu hướng đón đầu, giảm sốc cho kinh tế trong nước trước khả năng
xuất hiện một số diễn biến quan trọng của kinh tế thế giới. Đồng thời cũng tiếp
tục hỗ trợ tích cực cho các hoạt động sản xuất, hoạt động xuất nhập khẩu của
nền kinh tế. Chính vì vậy, mặc dù đồng USD đã bị suy yếu trên thị trường quốc
tế nhưng tỷ giá trung tâm vẫn được điều chỉnh tăng, giảm đan xen qua các phiên
giao dịch và kết thúc với tổng mức tăng nhẹ qua từng tháng. Trong đó, tỷ giá
trung tâm được điều chỉnh nhẹ trong 02 tháng đầu và điều chỉnh khá mạnh ở
mức 0,12% vào tháng 9. Tính đến hết quý III, tỷ giá trung tâm ở mức 22.470
01000000200000030000004000000500000060000007000000
Tỷ
đồ
ng
2016
2017
36
VND/USD, tăng 39 đồng so với đầu quý và tăng khoảng 0,18%.
Bên cạnh đó, tỷ giá niêm yết giao dịch của các NHTM và thị trường tự do diễn
biến rất ổn định, có phần bám sát diễn biến của USD trên thị trường quốc tế.
Trong đó, tỷ giá mua – bán của NHTM đã có 02 tháng giảm và 01 tháng tăng,
khoảng cách giữa giá bán và giá mua được duy trì khá ổn định từ 70-80 đồng.
Kết thúc quý III, tỷ giá niêm yết của NHTM đã giảm nhẹ cả ở chiều mua và
chiều bán, trong khoảng 0,04%. Tỷ giá giao dịch của Vietcombank lần lượt
niêm yết ở mức 22.690 – 22.760 VND/USD thấp hơn so với cuối quý trước là
10 đồng.
So với tỷ giá giao dịch của các NHTM, tỷ giá trên thị trường tự do mặc dù có
xu hướng biến động giống nhau nhưng có mức biến động mạnh hơn. Diễn biến
thực tế này không phải là tín hiệu của cơ hội đầu cơ như trong giai đoạn trước
mà đó là sự điều chỉnh phù hợp với diễn biến của thị trường trong nước và quốc
tế sau những đợt tăng ngắn trong tháng cuối của quý liền trước. Nhờ đó, chênh
lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức đã nhanh chóng được
thu hẹp và đảo ngược trạng thái. Kết thúc tháng 9, tỷ giá giao dịch trên thị
trường tự do ở mức 22.700 – 22.740 VND/USD, giảm 0,09% so với cuối tháng
6, thấp hơn tỷ giá bán của các NHTM khoảng 20 đồng.
Trong quý III, diễn biến thuận lợi của tỷ giá tiếp tục được hỗ trợ mạnh mẽ từ
các nguồn lực bên ngoài nên kinh tế (FDI, kiều hối) và các chính sách điều tiết,
quản lý của NHNN đảm bảo sự ổn định cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế.
Diễn biến tỷ giá VND/USD trong 9 tháng năm 2017
Nguồn: NHNN
Giá vàng đã tăng
nhưng mức biến
động và xu
hướng vẫn có
khác biệt so với
thế giới
Diễn biến của giá vàng trong quý III nhìn chung vẫn trầm lắng so với giá vàng
trên thị trường quốc tế. Giá vàng không thay đổi trong tháng 7, diễn biến cùng
chiều với giá vàng thế giới vào tháng 8 nhưng đạt mức tăng rất thấp – chưa đầy
0,5% và tăng nhẹ ở mức 0,17% ở cả chiều mua và chiều bán trong tháng 9.
Trong quý III, giá vàng SJC mua bán trên thị trường nhìn chung vẫn giao động
quanh mốc 36,1 – 36,4 triệu đồng/lượng đối với chiều mua và 36,3 – 36,6 triệu
đồng/lượng đối với chiều bán. Tuy nhiên, giá vàng cũng đã đạt đỉnh trên 37
triệu đồng/lượng vào khoảng 10 ngày giao dịch đầu của tháng 9. Xu hướng biến
động và mức độ biến động còn có khác biệt đáng kể so với giá vàng thế giới đã
làm cho khoảng cách giữa giá vàng trong nước và quốc tế thay đổi liên tục,
thậm chí có thời điểm giá vàng trong nước còn thấp hơn giá vàng quốc tế hoặc
khoảng cách chênh lệch là không đáng kể. Tính đến hết tháng 9, chênh lêch
giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới đã giảm hơn một nửa so với cuối
quý II, hiện là 1,4 triệu đồng/lượng, giá vàng SJC trong nước giao dịch ở mức
36,39 – 36,61 triệu đồng/lượng (mua vào - bán ra).
37
Diễn biến giá vàng trong nước
Diễn biến giá vàng trong nước và quốc tế quy đổi
Nguồn: sjc.com.vn
Nguồn: UBCKNN
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
700
720
740
760
780
800
820
03
/07/1
7
07
/07/1
7
13
/07/1
7
19
/07/1
7
25
/07/1
7
31
/07/1
7
04
/08/1
7
10
/08/1
7
16
/08/1
7
22
/08/1
7
28
/08/1
7
01
/09/1
7
08
/09/1
7
14
/09/1
7
20
/09/1
7
26
/09/1
7
Tỷ đồng Điểm
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HOSE
QUÝ III/2017
Giá trị giao dịch (tỷ đồng)
Chỉ số HOSE
0
200
400
600
800
1000
1200
90
95
100
105
110
03
/07/1
7
07
/07/1
7
13
/07/1
7
19
/07/1
7
25
/07/1
7
31
/07/1
7
04
/08/1
7
10
/08/1
7
16
/08/1
7
22
/08/1
7
28
/08/1
7
01
/09/1
7
08
/09/1
7
14
/09/1
7
20
/09/1
7
26
/09/1
7
Tỷ đồng Điểm
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HNX
QUÝ III/2017 Giá trị giao dịch (tỷ đồng)
Chỉ số HNX
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
03
/01/1
7
17
/01/1
7
07
/02/1
7
21
/02/1
7
07
/03/1
7
21
/03/1
7
04
/04/1
7
19
/04/1
7
05
/05/1
7
19
/05/1
7
02
/06/1
7
16
/06/1
7
30
/06/1
7
14
/07/1
7
28
/07/1
7
11
/08/1
7
25
/08/1
7
11
/09/1
7
25
/09/1
7
Tỷ đồng Điểm
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HOSE
9 THÁNG 2017 Giá trị giao dịch (tỷ đồng)
Chỉ số HOSE
0
200
400
600
800
1000
1200
0
20
40
60
80
100
120
03
/01/1
7
18
/01/1
7
09
/02/1
7
24
/02/1
7
13
/03/1
7
28
/03/1
7
13
/04/1
7
28
/04/1
7
17
/05/1
7
01
/06/1
7
16
/06/1
7
03
/07/1
7
18
/07/1
7
02
/08/1
7
17
/08/1
7
01
/09/1
7
19
/09/1
7
Tỷ đồng Điểm
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HNX
9 THÁNG 2017 Giá trị giao dịch (tỷ đồng)
Chỉ số HNX
TTCK tiếp tục
tăng điểm trong
quý III
Kết thúc Quý III, thị trường chứng khoán tiếp tục đạt những mốc tăng trưởng
mới. Xu hướng tăng của thị trường được quyết định bởi đà tăng mạnh trong
tháng 9. Chốt phiên giao dịch cuối cùng ngày 29/9, chỉ số VN-Index đạt 804,42
điểm - tăng 27,95 điểm tương đương 3,6% so với phiên đóng cửa cuối Quý II.
Chỉ số HNX-Index đóng cửa tháng 9 ở mức 107,66 điểm - tăng 8,52 điểm
tương đương 8,59%. So với cuối năm trước, chỉ số VN-Index tính đến hết tháng
9 đã tăng 140,1 điểm tương đương 21,1% và chỉ số HNX-Index tăng 27,54
điểm tương đương 34,37%.
38
Nguồn: Bloomberg
Nguồn: UBCK
02000400060008000
100001200014000triệu cp
KHỐI LƯỢNG GIAO DỊCH
GIAI ĐOẠN 2016 - 2017
HOSE HNX
050
100150200250300
nghìn tỷ
đồng GIÁ TRỊ GIAO DỊCH
GIAI ĐOẠN 2016 - 2017
HOSE HNX
Đồng thời trong Quý III , thị trường cũng đã chinh phục thành công mốc 800
điểm sau gần 10 năm. Như vậy xu hướng tăng điểm kể từ đầu năm nay vẫn tiếp
tục được duy trì, giúp củng cố vững chắc vị trí tăng trưởng ở tốp đầu của thị
trường chứng khoán Việt Nam trong khu vực.
Thanh khoản thị trường trong Quý III/2017 tiếp tục duy trì ở mức cao, trong đó
thanh khoản trên sàn HOSE giảm nhẹ so với quý trước nhưng vẫn đứng thứ hai
trong 18 tháng gần đây. Trên sàn HNX, thanh khoản tăng nhẹ so với Quý
II/2017. Tổng khối lượng giao dịch trên cả hai sàn đạt 16.457,27 triệu cổ phiếu
với tổng giá trị là 284,5 nghìn tỷ đồng -tăng 47,82% về khối lượng và 32,95%
về giá trị giao dịch so với cùng kỳ năm trước.
Kể từ đầu năm, nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn và Bluechips vẫn đang là động lực
chính dẫn dắt thị trường. Vai trò quan trọng của nhóm cổ phiếu này càng thể
hiện rõ trong Quý III với sự bứt phá của nhóm các Bluechips như SAB, MSN,
BVH, VCB,… giúp thị trường tăng trưởng mạnh trong tháng 9. Bên cạnh đó,
vai trò giữ nhịp và vực dậy thị trường sau những thời điểm giảm sâu trong tháng
7 và tháng 8 cũng thuộc về nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn và Bluechips. Trong đó
nổi bật là các cổ phiếu của ngành Ngân hàng - Tài chính (VCB, CTG, MBB,
SSI,…); Dầu khí (GAS, PVD,..); Xây dựng và vật liệu xây dựng (HBC, HPG,
VCS…).
Trên thị trường, các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục hoạt động tích cực. Tổng giá
trị mua - bán của khối ngoại trên hai sàn HOSE và HNX đạt trạng thái mua
ròng 3.353,2 tỷ đồng. Tuy nhiên trạng thái giao dịch giữa hai sàn có sự khác
biệt khá rõ rệt.
39
Nguồn: UBCK
IV. TRIỂN VỌNG KINH TẾ VĨ MÔ CUỐI NĂM 2017
[39] Khối ngoại trên HOSE mua ròng: tháng 7 (1.698 tỷ đồng); tháng 8 (2.615,58 tỷ đồng). [40] Khối ngoại trên HNX bán ròng: tháng 7 (263,61 tỷ đồng); tháng 9 (463,82 tỷ đồng). [41] 9 tháng đầu năm 2016 khối ngoại bán ròng 4.220 tỷ đồng.
-4,000
-3,000
-2,000
-1,000
0
1,000
2,000
3,000
Jan
-16
Mar
-16
May
-16
Jul-
16
Sep
-16
No
v-1
6
Jan
-17
Mar
-17
May
-17
Jul-
17
Sep
-17
tỷ đồng
KHỐI NGOẠI MUA-BÁN RÒNG
TRÊN HOSE 2016-2017
-600
-500
-400
-300
-200
-100
0
100
200
300
400
Jan
-16
Mar
-16
May
-16
Jul-
16
Sep
-16
No
v-1
6
Jan
-17
Mar
-17
May
-17
Jul-
17
Sep
-17
tỷ đồng
KHỐI NGOẠI MUA-BÁN RÒNG
TRÊN HNX 2016-2017
Trên sàn HOSE, khối ngoại tiếp tục kéo dài chuỗi mua ròng từ trong hai tháng
đầu của Quý[39]
. Tuy nhiên bước sang tháng 9, trạng thái đã đảo chiều khi khối
ngoại bán ròng trở lại sau 8 tháng mua ròng liên tiếp. Tính trong cả Quý
III/2017, khối ngoại trên HOSE đã mua ròng với tổng giá trị khoảng 4.054 tỷ
đồng. Trong khi đó cùng kỳ năm trước khối ngoại trên HOSE đang bán ròng rất
mạnh.
Ngược lại, sàn HNX duy trì trạng thái bán ròng là chủ yếu. Khối ngoại mua
ròng nhẹ vào tháng 8 trong khi bán ròng mạnh trong hai tháng còn lại của Quý
III[40]
, nhất là trong tháng 9 khi một số quỹ đầu tư thoái vốn. Tính toàn quý,
khối ngoại trên HNX bán ròng trên 700 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ quý III/2016
đang ở trạng thái mua ròng.
Như vậy sau 9 tháng đầu năm, khối ngoại trên cả hai sàn đã mua ròng khoảng
12.397 tỷ đồng. Trong đó, dẫn đầu về giá trị mua ròng là những cổ phiếu trụ cột
trên thị trường như: VNM (4.679 tỷ đồng); HPG (1.763 tỷ đồng) và một số cổ
phiếu mới niêm yết của các doanh nghiệp lớn như: VPB (1.456,7 tỷ đồng); PLX
(1.449,4 tỷ đồng). So với cùng kỳ năm trước, khối ngoại qua 3 quý đầu năm có
diễn biến tích cực hơn [41]
. Việc khối ngoại mua ròng rất mạnh đã đóng góp tích
cực vào sự tăng trưởng chung của thị trường, đồng thời phản ánh tiềm năng
phát triển còn rất lớn của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Kinh tế quý III với các chỉ số kinh tế vĩ mô thường kỳ đạt kết quả tốt đã đem lại
một bức tranh đầy lạc quan cho kinh tế Việt Nam trong quý IV cũng như trong
cả năm 2017. Trải qua 03 tháng, nền kinh tế đã ghi nhận diễn biến tích cực của
nhiều trụ cột kinh tế. Cụ thể, các khu vực, nhóm ngành và nhu cầu – là những
yếu tố giữ vai trò dẫn dắt tăng trưởng kinh tế tiếp tục diễn biến tích cực. Bên
cạnh sự tăng trưởng tốt của khu vực dịch vụ, nông nghiệp, đầu tư FDI thì khu
vực công ngiệp - đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo và khu vực xuất khẩu
đã trở thành tâm điểm chính tạo ra sự bứt phá vượt kỳ vọng của GDP trong quý
40
III. Ngoài ra, bên cạnh vai trò đầu tầu của khu vực nước ngoài trong mọi mặt
của tăng trưởng kinh tế, quý III cũng đã chứng kiến sự tham gia ngày càng
mạnh mẽ của khu vực tư nhân qua những con số ấn tượng về vốn đầu tư, hoạt
động xuất khẩu,…
Bên cạnh đó, hoạt động tiền tệ, ngân hàng và hoạt động tài khóa tiếp tục ổn
định và có sự dịch chuyển theo định hướng. Tình hình thu chi ngân sách nhà
nước tiếp tục được củng cố, nguồn thu đã có cải thiện rõ rệt, chủ yếu tăng các
khoản ngoài thuế và tăng cường kỷ cương chi ngân sách, qua đó kìm hãm được
thâm hụt ngân sách và sự gia tăng nợ công. Trong khi đó, hoạt động tiền tệ,
ngân hàng vẫn ổn định, ghi nhận nhiều kết quả tích cực như hoạt động cung ứng
tiền thông suốt bám sát mục tiêu điều hành; tỷ giá diễn biến ổn định – không
xuất hiện các cú sốc do tác động của yếu tố tâm lý khi đồng USD mạnh lên trên
thị trường quốc tế vào cuối tháng 9, lãi suất trong nền kinh tế đã có xu hướng
giảm. Hiện tại CSTT tiếp tục hướng tới sự cân bằng trong tăng trưởng và ổn
định. Nhờ đó, áp lực lạm phát ở mức độ vừa phải, diễn biến trong vùng mục
tiêu, lạm phát cơ bản ổn định.
Những kết quả nổi bật đó đã giúp cho thị trường chứng khoán của Việt Nam
tiếp tục tăng điểm, củng cố được vị trí top đầu những thị trường có mức tăng
trưởng tốt nhất trong khu vực kể từ đầu năm.
Mặc dù đang có rất nhiều lợi thế nhưng từ bây giờ đến cuối năm cũng không thể
lơ là những điểm yếu mang tính cố hữu của kinh tế Việt Nam:
- Xu hướng gia tăng của lạm phát vào những tháng cuối năm khi nhu cầu gia
tăng mang tính quy luật cùng với việc điều chỉnh giá của dịch vụ y tế vẫn tiếp
tục diễn ra theo lộ trình. Đồng thời, đây thường là khoảng thời gian tín dụng
sẽ gia tăng mạnh và trong năm nay khả năng xảy ra rất lớn khi các ngân
hàng đang nỗ lực giảm lãi suất theo chủ trương và mục tiêu tăng trưởng tín
dụng cũng đã có sự điều chỉnh. Ngoài ra, lạm phát đang có xu hướng gia tăng
trên thế giới cũng sẽ có ảnh hưởng nhất định tới Việt Nam, đặc biệt khi hoạt
động nhập khẩu đã tăng mạnh trở lại. Bên cạnh đó, nếu giá dầu thế giới tiếp tục
tăng thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng tời giá cả nhóm hàng giao thông – là một trong
những nhóm hàng có ảnh hưởng mạnh tới tốc độ tăng của CPI trong quý III.
- Xu hướng gia tăng nhập siêu: mặc dù cán cân thương mại đã lấy lại trạng
thái xuất siêu trong quý III nhưng tính chung 9 tháng thì vẫn ở trạng thái nhập
siêu. Với tốc độ gia tăng của nhập khẩu như hiện nay và theo quy luật của
những năm trước sẽ tiếp tục gia tăng mạnh trong quý IV, nếu không kiểm soát
chặt chẽ diễn biến này có thể ảnh hưởng bất lợi đến sự ổn định của tỷ giá hiện
nay.
- Mất cân đối ngân sách: Cơ cấu chi NSNN vẫn chưa được cải thiện nhiều,
trong quý III tuy chi đầu tư có gia tăng nhưng vẫn ở mức thấp, công tác giải
ngân vốn đầu tư từ NSNN vẫn gặp khó khăn, chi thường xuyên vẫn tiếp tục gia
tăng trong đó tập trung vào chi lương, giáo dục, y tế nhưng hiệu quả kinh tế và
xã hội chưa tương xứng. Thực tế này nếu không có chuyển biến rõ nét sẽ ảnh
hưởng đến tính bền vững của tăng trưởng trong dài hạn và cản trở thực hiện các
mục tiêu phát triển khác. Trong khi đó, những tín hiệu khó khăn của thu NSNN
cũng đã bắt đầu xuất hiện trong Quý III, đặc biệt đối với cầu phần thu nội địa –
41
cấu phần chính trong thu NSNN đã có quý sụt giảm lần đầu tiên trong năm nay.
- Nguy cơ gia tăng nợ xấu vẫn tiềm ẩn nếu các ngân hàng theo đuổi mục tiêu
tăng trưởng tín dụng bằng mọi giá. Vào thời điểm hiện nay, việc tạo điều kiện
để các doanh nghiệp tiếp cận thuận lợi với vốn ngân hàng thông qua việc giảm
lãi suất, nới rộng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng là đúng hướng, khả năng tín dụng
đạt được mục tiêu yêu cầu của Chính phủ ở mức 21% là rất lớn. Tuy nhiên, để
đảm bảo hiệu quả của hoạt động tín dụng, tránh làm phình to thêm khối nợ xấu
đang được xử lý thì nhất thiết phải quan tâm đến chất lượng khoản vay, hạn chế
không để xảy ra tình trạng các dòng vốn chi phí thấp chảy vào các lĩnh vực kém
hiệu quả và các lĩnh vực bong bóng;
Ngoài ra, khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước còn thấp, tỷ lệ thất
nghiệp trong độ tuổi thanh niên còn cao, năng suất và trình độ lao động còn hạn
chế, năng suất và hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước,…. sẽ tiếp
tục là những thách thức, ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng như kết quả chung của nền kinh tế.
Trên cơ sở đó, phần lớn những đánh giá, nhìn nhận về triển vọng của kinh tế
Việt Nam của các tổ chức cũng như của các doanh nghiệp là rất tích cực. Theo
kết quả điều tra đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của tổng cục thống kế
thì có tới 52,6% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh sẽ tốt
lên, 11% doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và có khoảng 1/3 số doanh nghiệp
cho rằng sẽ ổn định trong quý IV/2017. Bên cạnh đó, theo đánh giá của các bộ
ngành hữu quan, nếu không có ảnh hưởng của thiên tai, bão lụt và những ảnh
hưởng bất lợi từ bên ngoài thì nhiều khả năng, kinh tế Việt Nam sẽ cán đích ở
mức 6,7% theo mục tiêu đề ra, đồng thời sẽ là năm đầu tiên mà tăng trưởng có
được nhờ động lực sản xuất và phát triển dịch vụ chứ không dựa nhiều vào tín
dụng như thời gian trước.
Trong khi đó, nhiều tổ chức nước ngoài cũng đã có sự nhìn nhận lại đối với
triển vọng kinh tế của Việt Nam và phần lớn đều cho rằng Việt Nam sẽ có được
đà tăng trưởng tích cực trong trung – dài hạn. Dự báo của các tổ chức nước
ngoài cho nền kinh tế từ nay đến cuối năm không quá lạc quan, do xu hướng
giảm kéo dài của ngành khai khoáng và dầu thô nên các tổ chức lớn như WB,
ADB,…. đều dự báo tăng trưởng kinh tế của năm nay sẽ đạt khoảng 6,3%.