lỜi cẢm Ơn - oxfamblogs.org»œi cẢm Ơn báo cáo tham vấn ... xã Đồng tâm và khoan...
TRANSCRIPT
LỜI CẢM ƠN
Báo cáo tham vấn và khuyến nghị Luật này được hoàn thành bởi nỗ lực chung
của nhiều cá nhân và tổ chức.
Chúng tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với các cấp chính quyền và người dân
các xã Quy Hậu và Thanh Hối huyện Tân Lạc, xã Đồng Tâm và Khoan Dụ huyện
Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình; phường Bà Triệu và xã Lộc Hòa thành phố Nam Định,
xã Nghĩa Minh, huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định; xã Triệu Nguyên và thị trấn
Kroong –Klang huyện Đakrông, thành phố Đông Hà tỉnh Quảng trị; xã Láng Dài
huyện Đất Đỏ, xã Xuyên Mộc và Phước Bửu huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu; đã tham gia nhiệt tình trong các buổi tham vấn, chia sẻ những câu
chuyện thực tế và đóng góp những ý kiến quan trọng cho Dự thảo Luật Đầu tư
công.
Chúng tôi xin chân thành cám ơn các chuyên gia và các tổ chức đã hỗ trợ tiến
trình tham vấn từ bước thiết kế mục tiêu, nội dung, phương pháp và kế hoạch
triển khai tham vấn và tổng hợp kết quả tham vấn, phân tích và xây dựng các
khuyến nghị Luật. Chúng tôi đặc biệt cám ơn Ủy ban tài chính ngân sách của
Quốc hội đã hỗ trợ chúng tôi trong quá trình thực hiện tham vấn ở các tỉnh.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự cam kết và nỗ lực của các tổ chức tham gia
phối hợp thực hiện tham vấn ở các tỉnh như Hội Nông dân Hòa Bình, Hội phụ nữ
Quảng Trị và tổ chức Hữu nghị Cộng Đồng Nam Định và Sở tài chính tỉnh Vũng
Tàu.
Chúng tôi cũng đặc biệt cảm ơn nhóm chuyên gia tham gia tổng hợp, phân tích
thông tin và viết báo cáo, bao gồm PGS TS Hoàng Thị Thúy Nguyệt (Học viện Tài
chính), Thạc sĩ Nguyễn Tuấn Anh (Vụ Pháp chế Thanh tra Chính phủ), Thạc Sĩ
Nguyễn Bích Tâm và Thạc sĩ Đỗ Thị Bích Thủy (Trung tâm nâng cao năng lực
cộng đồng- CECEM), Thạc sĩ Nguyễn Thu Hương và Lê Thị Ngọc Liên (tổ chức
Oxfam tại Việt Nam). Những người đã nỗ lực tổng hợp những ý kiến khuyến nghị
của người dân, phân tích các văn bản pháp luật có liên quan và xây dựng những
khuyến nghị cụ thể cho Dự thảo Luật đầu tư công, dự kiến sẽ được đưa ra thảo
luận và phê duyệt tại kỳ họp Quốc hội thứ VII, tháng 5 năm 2014.
Chúng tôi cũng đánh giá cao các ý kiến đóng góp của các chuyên gia TS Đoàn
Hồng Quang (Ngân hàng Thế giới), TS Tô Trung Thành (Trường Đại học Kinh Tế
Quốc Dân) và một số chuyên gia khác, đã giúp hoàn thiện hơn báo cáo này.
Hà Nội, ngày 14 tháng 05 năm 2014
LỜI GIỚI THIỆU
Báo cáo Tổng hợp kết quả tham vấn cộng đồng và góp ý cho Dự thảo Luật đầu tư
công được xây dựng từ việc tổng hợp và phân tích thông tin thu thập từ tiến trình
tham vấn cộng đồng về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham
gia của người dân trong quy trình ngân sách, trong đó có thu thập những thông
tin về các công trình đầu tư công sử dụng ngân sách nhà nước.
Báo cáo nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách có thêm các bằng chứng và
căn cứ vững chắc để tiếp tục bổ sung, sửa đổi một số nội dung trong Dự thảo
Luật đầu tư công, liên quan tới:
Công khai minh bạch các thông tin về các hoạt động đầu tư công
Trách nhiệm giải trình về các các hoạt động đầu tư công
Sự tham gia của người dân trong các hoạt động đầu tư công
Báo cáo được xây dựng trên cơ sở kết quả tham vấn người dân và chính quyền
địa phương tại các tỉnh Hòa Bình, Nam Định, Quảng trị và Vũng Tàu và do sáu tổ
chức thực hiện, gồm Trung tâm Hành động Phát triển vì Cộng đồng (ACDC),
Trung tâm Phát triển và Hội nhập (CDI), Trung tâm Nâng cao Năng lực Cộng
đồng (CECEM), Trung tâm Hỗ trợ Giáo dục và Nâng cao Năng lực cho Phụ nữ
(CEPEW), Nhóm hợp tác Thúc đẩy Quản trị và Cải cách Hành chính công
(GPAR) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam, với sự hỗ trợ của Ủy ban tài chính ngân
sách của Quốc hội.
Nội dung Báo cáo gồm sáu phần chính: i) Giới thiệu chung; ii) Tổng hợp và phân
tích kết quả tham vấn cộng đồng; iii) Khuyến nghị của cộng đồng và nhóm tham
vấn; iv) Nhận diện vấn đề và nguyên nhân; v) Khuyến nghị Dự thảo Luật đầu tư
công dựa trên kết quả tham vấn cộng đồng; vi) Kết luận.
Hoạt động tham vấn cộng đồng này đã phản ánh chân thực những trải nghiệm và
nguyện vọng sâu sắc của người dân tại các địa phương nơi tiến hành tham vấn
đối với các hoạt động đầu tư công. Vì vậy, những khuyến nghị đưa ra trong Báo
cáo được mong đợi là sẽ giúp các Đại biểu Quốc hội và cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo Luật đầu tư công trong quá trình
thảo luận và thông qua tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII. Việc phản ánh trung
thực tâm tư, nguyện vọng của người dân sẽ là một trong các điều kiện tiên quyết
để Luật đầu tư công sau khi được thông qua có thể đi vào cuộc sống và có tính
khả thi cao.
MMỤỤCC LLỤỤCC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................................................................... 1
PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG ........................................................................................... 2
1.1. Bối cảnh ...................................................................................................................... 2
1.2. Giới thiệu về đợt tham vấn .......................................................................................... 2
1.3. Phạm vi và Hạn chế của báo cáo ................................................................................ 4
PHẦN II: TÓM TẮT CÁC PHÁT HIỆN TỪ THAM VẤN CỘNG ĐỒNG LIÊN QUAN ĐẾN
ĐẦU TƯ CÔNG .................................................................................................................. 6
2.1. Có sự khác nhau trong việc công khai minh bạch thông tin giữa các chương trình dự
án đầu tư công 100% vốn Ngân sách nhà nước và những công trình “Nhà nước và nhân
dân cùng làm” .................................................................................................................... 6
2.2. Người dân thiếu các thông tin về người hay cơ quan chịu trách nhiệm giải trình về
các công trình đầu tư công tại địa phương ........................................................................ 7
2.3. Công trình đầu tư công, đặc biệt các công trình sử dụng 100% ngân sách nhà nước
chưa khuyến khích và có cơ chế phù hợp để có được sự tham gia một cách hiệu quả của
người dân. .......................................................................................................................... 8
2.4. Các cơ quan, tổ chức đại diện cho người dân (Ban GSCĐ, MTTQ, HĐND) chưa phát
huy hiệu quả vai trò đại diện cho người dân trong các quyết định đầu tư công và giám sát
thực hiện đầu tư công ........................................................................................................ 9
2.5 Các công trình, chương trình không có sự tham gia của người dân dẫn đến không
hiệu quả và lãng phí, không đáp ứng đúng nhu cầu và hoàn cảnh thực tế tại địa phương,
thậm chí gây thiệt hại cho người dân ............................................................................... 11
2.6. Người dân mong muốn được cung cấp thông tin, được lấy ý kiến và tham gia giám
sát các công trình đầu tư công ở địa phương nơi họ sinh sống ...................................... 13
2.7. Sự tham gia của người dân vào các công trình đầu tư công (lập kế hoạch, xây dựng
dự toán, thiết kế, giám sát thực hiện) góp phần mang lại sự hài lòng của người dân và
đảm bảo hiệu quả đầu tư công ........................................................................................ 14
PHẦN III: CÁC KHUYẾN NGHỊ TỪ CỘNG ĐỒNG VÀ NHÓM THAM VẤN ..................... 17
3.1. Khuyến nghị của cộng đồng ...................................................................................... 17
3.2. Kết luận và khuyến nghị của nhóm tham vấn ........................................................... 18
PHẦN IV: NHẬN DIỆN VẤN ĐỀ VÀ NGUYÊN NHÂN ..................................................... 20
4.1. Vấn đề 1: Tính công khai, minh bạch trong hoạt động đầu tư công còn hạn chế, chưa
bảo đảm sự tham gia của người dân, dẫn đến còn tình trạng đầu tư lãng phí, chưa đáp
ứng được nhu cầu của người dân. .................................................................................. 20
4.2. Vấn đề 2: Trách nhiệm giải trình trong các hoạt động đầu tư công chưa rõ ràng để
làm căn cứ cụ thể hóa trách nhiệm của từng chủ thể có thẩm quyền. ............................ 24
4.3. Vấn đề 3: Người dân chưa tham gia một cách thực chất và có hiệu quả vào các hoạt
động đầu tư công; hoạt động của các ban giám sát đầu tư cộng đồng còn hình thức. ... 27
PHẦN V: KHUYẾN NGHỊ VỀ DỰ THẢO LUẬT ĐẦU TƯ CÔNG DỰA TRÊN KẾT QUẢ
THAM VẤN CỘNG ĐỒNG ............................................................................................... 30
5.1 Mục tiêu 1: Mở rộng phạm vi, nội dung và hình thức thực hiện công khai, minh bạch
trong đầu tư công nhằm bảo đảm sự tham gia của người dân. ....................................... 30
5.2. Mục tiêu 2: Tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền trong cơ quan nhà nước và các cơ quan, tổ chức, đơn vị khác trong các hoạt
động đầu tư công. ............................................................................................................ 37
5.3. Mục tiêu 3: Quy định rõ phương thức và các biện pháp bảo đảm sự tham gia của
người dân vào các hoạt động đầu tư công. ..................................................................... 39
PHẦN VI: KẾT LUẬN ....................................................................................................... 46
PHỤ LỤC BÁO CÁO ........................................................................................................ 49
A. Các câu chuyện điển hình về các công trình đầu tư công có người dân tham gia quản
lý nên đạt hiệu quả sử dụng cao ...................................................................................... 49
B. Các câu chuyện điển hình về đầu tư công không có sự tham gia của người dân dẫn
đến việc đầu tư lãng phí, không hiệu quả, không đáp ứng nhu cầu cộng đồng, thậm chí
ảnh hưởng tiêu cực đến cộng đồng. ................................................................................ 57
1
CCÁÁCC CCHHỮỮ VVIIẾẾTT TTẮẮTT
ACDC Trung tâm Hành động Phát triển vì Cộng đồng
CDI Trung tâm Phát triển và Hội nhập
CECEM Trung tâm Nâng cao Năng lực Cộng đồng
CEPEW Trung tâm Hỗ trợ Giáo dục và Nâng cao Năng lực cho Phụ nữ
GPAR Nhóm hợp tác Thúc đẩy Quản trị và Cải cách Hành chính công
GSĐTCĐ Giám sát đầu tư cộng đồng
UBND Ủy ban Nhân dân
HĐND Hội đồng Nhân dân
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
NSNN Ngân sách nhà nước
PCTN Phòng chống tham nhũng
PTKTXH Phát triển kinh tế - xã hội
2
PPHHẦẦNN II:: GGIIỚỚII TTHHIIỆỆUU CCHHUUNNGG
1.1. Bối cảnh
Trong thời gian qua, dự thảo Luật đầu tư công được xây dựng, lấy ý kiến của
nhân dân, được Quốc hội khóa XIII cho ý kiến tại kỳ họp thứ sáu và tiếp tục
thảo luận, thông qua tại kỳ họp thứ bảy diễn ra tại Hà Nội từ ngày 20/5 đến
24/6 năm 2014.
Từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2014 một nhóm các tổ chức phát triển Việt Nam
bao gồm ACDC, CECEM, CDI, GPAR, CEFEW và Oxfam tại Việt Nam được
sự hỗ trợ của Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội khóa XIII, đã tiến
hành đợt tham vấn người dân nhằm thu thập ý kiến từ người dân và chính
quyền địa phương về thực thi Luật ngân sách nhà nước 2002, tập trung vào
một số nội dung: công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, sự tham gia của
các bên liên quan và người dân trong qui trình ngân sách, bao gồm việc quản
lý và sử dụng ngân sách của các công trình đầu tư công, nhằm đóng góp ý
kiến cho việc sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước. Trong quá trình tham vấn
này, chúng tôi đã phát hiện, thu thập được nhiều ý kiến và câu chuyện điển
hình từ người dân liên quan đến các công trình đầu tư công.
Với mong muốn góp phần bảo đảm Luật đầu tư công sau khi được thông qua
sẽ thực sự đóng góp vào nâng cao hiệu quả đầu tư công, chống lãng phí thất
thoát, nhóm các tổ chức thực hiện tham vấn và nhóm chuyên gia đã cùng
nhau viết một bản báo cáo để chia sẻ những phát hiện, ý kiến và câu chuyện
nói trên, đồng thời đưa ra các khuyến nghị liên quan đến tăng cường công
khai minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân trong các
hoạt động đầu tư công.
1.2. Giới thiệu về đợt tham vấn
Mục đích của đợt tham vấn
Tham vấn cộng đồng hướng đến việc thực hiện hai mục đích sau:
i. Cung cấp bằng chứng từ các câu chuyện thực tế của người dân và chính
quyền địa phương để hỗ trợ cho các khuyến nghị về:
Sự tham gia của ngƣời dân, trực tiếp hoặc gián tiếp qua các cơ quan
tổ chức đại diện, vào quản lý ngân sách, trong đó bao gồm các công
trình đầu tƣ công
Cơ chế để người dân tham gia giám sát ngân sách và các công trình
đầu tư công.
Đảm bảo công khai minh bạch thông qua việc cung cấp thông tin phù
hợp và đưa ra cơ chế để người dân được giải đáp các thắc mắc liên
3
quan đến ngân sách và các công trình đầu tư công trên địa bàn sinh
sống của họ.
ii. Góp phần thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, đảm bảo quyền tham gia của
người dân, đặc biệt là các nhóm yếu thế, trong xây dựng luật pháp chính
sách nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của họ.
Nội dung tham vấn
Công khai minh bạch các thông tin về ngân sách nhà nước, bao gồm các chương trình dự án đầu tư công
Trách nhiệm giải trình trong quy trình ngân sách nhà nước, bao gồm đối với các chương trình dự án đầu tư công
Sự tham gia của người dân trong quy trình ngân sách nhà nước và các hoạt động đầu tư công
Phạm vi thực hiện tham vấn
Tham vấn cộng đồng được thực hiện tại 4 tỉnh: Hòa Bình, Nam Định, Quảng
Trị, Bà Rịa – Vũng Tàu. Tại mỗi tỉnh, hoạt động tham vấn được tiến hành tại
cấp tỉnh, cấp huyện (2 huyện) và cấp xã (3 – 4 xã thuộc 2 huyện).
Tổng số người được tham vấn trực tiếp là 350 người bao gồm người dân và
các cán bộ UBND, HĐND, MTTQ, các tổ chức đoàn thể, xã hội ở ba cấp tỉnh,
huyện, xã.
Đã có khoảng 40 công trình đầu tư công ở các địa phương tham vấn được
khảo sát, trong đó thông tin thu thập từ 19 công trình được tổng hợp dưới
dạng câu chuyện, được đính kèm trong phần Phụ lục của báo cáo này.
Phƣơng pháp tham vấn
Tham vấn cộng đồng kết hợp hai phương pháp Tham vấn trực tiếp với cộng
đồng và Lấy ý kiến chuyên gia. Tham vấn trực tiếp được sử dụng để nghe và
ghi lại các câu chuyện thực tế và điển hình liên quan đến quản lý và sử dụng
ngân sách, đặc biệt sử dụng ngân sách của các công trình đầu tư công. Ý
kiến chuyên gia được sử dụng khi nghiên cứu một số tài liệu thứ cấp nhằm
thiết kế mục tiêu, nội dung, phương pháp và kế hoạch triển khai tham vấn
cũng như phân tích các câu chuyện và tình huống điển hình để xác định
những điểm chưa hợp lý, bất cập trong các quy định của văn bản pháp luật
liên quan đến quản lý ngân sách và hoạt động đầu tư công - nguyên nhân
dẫn đến những vấn đề được cộng đồng phản ánh, sau đó đối chiếu với những
điều chỉnh trong Dự thảo Luật ngân sách nhà nước sửa đổi và Dự thảo Luật
đầu tư công để đưa ra những kiến nghị cụ thể.
Báo cáo này chỉ tập trung vào những thông tin, phân tích và khuyến nghị liên
quan đến Dự thảo Luật đầu tư công. Một báo khác cũng được xây dựng với
các thông tin, phân tích và khuyến nghị liên quan trực tiếp đến Dự thảo Luật
ngân sách nhà nước sửa đổi.
4
Các hoạt động tham vấn trực tiếp được thử nghiệm tại một tỉnh (Nam Định),
sau đó được điều chỉnh về mặt phương pháp và nội dung, và triển khai rộng
trên 4 tỉnh. Quá trình được thực hiện bắt đầu từ cấp tỉnh, sau đó triển khai tới
cấp huyện và xã. Cách làm này cho phép nhóm tham vấn tìm hiểu các thông
tin chung trước khi thu thập các thông tin cụ thể của từng địa bàn, đặc biệt để
có được một số thông tin thực tế về các chương trình, công trình, đề án làm
cơ sở để thảo luận với người dân.
Khi tham vấn cộng đồng, đầu tiên người tham gia được yêu cầu liệt kê các
công trình đầu tư công ở địa phương, bao gồm cả các công trình nhà nước
thực hiện toàn bộ và các công trình “nhà nước và nhân dân cùng làm”, người
dân cung cấp các thông tin liên quan đến các công trình đó như xây khi nào,
hiệu quả sử dụng và chất lượng công trình. Dựa trên những thông tin này,
người dân cùng nhau đưa ra những đánh giá về mức độ hiệu quả và sự hài
lòng của cộng đồng đối với các công trình dựa trên các tiêu chí: chất lượng,
hiệu quả đồng vốn và mức độ đáp ứng nhu cầu của cộng đồng. Sau khi tham
vấn, người dân nêu các kiến nghị, mong muốn của mình liên quan đến các
công trình nói trên cũng như các công trình dự án đầu tư công nói chung trên
địa bàn họ sinh sống.
Sau khi hiểu rõ về các công trình đầu tư trên địa bàn, nhóm tham vấn cùng
một số người dân đi thăm thực địa và phỏng vấn người dân tại khu vực các
công trình dự án đầu tư công để bổ sung thêm thông tin và làm rõ các câu
chuyện đã được các bên liên quan trong quá trình tham vấn chia sẻ.
Các câu chuyện được người dân chia sẻ trong các cuộc họp dân trực tiếp tại
cộng đồng cũng được làm rõ, bổ sung và kiểm chứng qua các cuộc phỏng vấn
cán bộ cấp xã, phường và cấp huyện, và được thống nhất trong cuộc họp
tổng kết cấp xã trước khi đưa ra chia sẻ trong Hội thảo Tổng kết kết quả tham
vấn cấp tỉnh. Cách làm này đảm bảo thông tin ở mỗi địa bàn được làm rõ và
thống nhất giữa chính quyền địa phương với người dân trước khi đưa lên cấp
cao hơn. Bên cạnh tính thống nhất về thông tin, cách làm này còn nhằm tạo ra
sự đồng thuận giữa người dân và chính quyền, và khẳng định vai trò của
người dân trong tiến trình tham vấn.
1.3. Phạm vi và Hạn chế của báo cáo
Như đã nói ở trên, các thông tin liên quan đến đầu tư công được trình bày trong báo cáo được thu thập từ một chuỗi các hoạt động tham vấn về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia trong quy trình ngân sách; trong đó có thu thập các bằng chứng liên quan đến hiệu quả của các công trình đầu tư công sử dụng ngân sách nhà nước ở địa phương. Qua hình thức này, thông tin trực tiếp từ người dân được lắng nghe và thu thập, thay vì ý kiến của họ được thu thập theo cách điều tra xã hội học thông thường. Như vậy, phương pháp này chú trọng việc tìm ra những câu chuyện thực tế làm bằng chứng xác thực. Các câu chuyện đó được chứng kiến tại địa phương và được sử dụng như bằng chứng và cơ sở để nhận diện và phân tích những bất
5
cập trong pháp luật liên quan quản lý các hoạt động đầu tư công, chứ không quan tâm đến số lượng ý kiến cũng như tỷ lệ người có ý kiến tương tự. Do vậy, những phát hiện được đưa ra trong Báo cáo không mang tính thống kê, mà tập trung vào những bằng chứng cụ thể và điển hình từ thực tế.
Ưu điểm nổi bật của phương pháp này là tạo cơ hội thuận lợi cho người dân dễ dàng tham gia đóng góp xây dựng pháp luật, đặc biệt là những người ít có cơ hội bày tỏ quan điểm của mình như người nghèo, phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số, người nông dân sản xuất nhỏ, dù là những người còn rụt rè, nhút nhát, chưa quen nói trước đám đông cũng sẽ nói lên được những gì mình suy nghĩ và mong muốn.
Tuy nhiên, do những giới hạn về thời gian, kinh phí và yêu cầu đối với năng
lực của cán bộ thực hiện tham vấn nên các hoạt động tham vấn cộng đồng chỉ
có thể thực hiện được ở 4 trong số 63 tỉnh thành trên cả nước. Bên cạnh đó
tham vấn về các công trình đầu tư công chỉ là một trong những nội dung trong
quá trình tham vấn. Do đó, các câu chuyện được tập hợp có thể chưa phản
ánh hết mọi vấn đề nảy sinh trong việc thực thi pháp luật liên quan đến hoạt
động đầu tư công. Các kiến nghị đưa ra trong báo cáo này, do vậy, chỉ hạn
chế trong phạm vi những điểm cần điều chỉnh, bổ sung trong Dự thảo Luật
đầu tư công phù hợp với những phát hiện từ tham vấn cộng đồng.
6
PPHHẦẦNN IIII:: TTÓÓMM TTẮẮTT CCÁÁCC PPHHÁÁTT HHIIỆỆNN TTỪỪ TTHHAAMM VVẤẤNN
CCỘỘNNGG ĐĐỒỒNNGG LLIIÊÊNN QQUUAANN ĐĐẾẾNN ĐĐẦẦUU TTƯƯ CCÔÔNNGG
2.1. Có sự khác nhau trong việc công khai minh bạch thông tin giữa
các chƣơng trình dự án đầu tƣ công 100% vốn Ngân sách nhà nƣớc
và những công trình “Nhà nƣớc và nhân dân cùng làm”
Những công trình đầu tư 100% từ ngân sách nhà nước, đặc biệt là
những công trình do “cấp trên” (huyện và tỉnh) làm chủ đầu tư thì hầu
như người dân không có thông tin cả về kế hoạch cụ thể, thiết kế công
trình, dự toán và quyết toán chi phí. Thông tin đến người dân về các công
trình này là rất hạn chế, chỉ có những thông tin về tên công trình, thời gian dự
kiến thực hiện, tên cơ quan chủ đầu tư. Khi trao đổi với nhóm tham vấn, ông
Nguyễn Đình Trung, Phó Giám đốc Sở KHĐT tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho biết:
“Hiện giờ theo quy định thì chủ đầu tư phải công khai thông tin về công trình.
Trên thực tế thì chủ đầu tư thường chỉ có pano thông báo về công trình ở nơi
thực hiện công trình. Nhưng thông tin trên pano rất ít, thường chỉ có tên công
trình, thời gian dự kiến thực hiện, tên cơ quan chủ đầu tư,… chứ không có
thông tin về thiết kế công trình”. Đối với những công trình mà phải di dời, giải
phóng mặt bằng, thì những hộ gia đình thuộc diện phải di dời, giải phóng mặt
bằng chỉ được cung cấp những thông tin có liên quan đến di dời và giải phóng
mặt bằng. “Khi xây dựng con đường (liên xã Bình Ba – Đá Bạc) người dân
không được tham gia lấy ý kiến. Con đường chạy qua ấp Nhân Tâm- Nhân
Tiến – Nhân Đức, người dân tại 3 ấp đều không biết gì về lập kế hoạch, xây
dựng con đường. Chỉ có hộ nào bị giải toả, thì được gọi ra họp thống nhất giá
đền bù đất (Bác Hòa, ấp Nhân Tiến, xã Xuyên Mộc, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu).
Các công trình: con đường liên xã Đá Bạc – Bình Ba, huyện Xuyên Mộc, tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu, nước sạch tại xã Quy Hậu, huyện Tân Lạc, Hòa Bình,
(xem câu chuyện số 5, 6 - phụ lục báo báo) là những ví dụ điển hình về tình
trạng này.
Người dân không chỉ không có thông tin về từng công trình đầu tư công
cụ thể mà họ còn không nắm rõ được các thông tin về kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương mình nói chung và do vậy không có
thông tin về các kế hoạch đầu tư công hoặc không biết về chủ trương
đầu tư, đặc biệt của cấp huyện và tỉnh. Tại các xã thuộc địa bàn tham vấn,
việc công khai kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, dự toán quyết toán ngân
sách xã, dự toán quyết toán các công trình đầu tư do xã làm chủ đầu tư đã
được thực hiện, tuy nhiên đa số người dân vẫn không rõ về những thông tin
này. Mặc dù có nghe nói hoặc có thấy, người dân không nhớ được hoặc
không hiểu được những thông tin này. Bên cạnh đó, người dân không có các
7
thông tin về chủ chương, kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công của cấp
tỉnh và huyện.
“Ở đây là dân thì làm sao biết được. Nghe thì cũng có lúc nghe nói nhưng
không nhớ được. (Nguyễn Tấn Đạt, gấp Gò Sầm, xã Láng Dài, huyện Đất
Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)
Tại tỉnh Hòa Bình, người dân cũng cho biết rằng họ được biết, nhưng biết
một số thông tin về các chương trình cho xã làm chủ đầu tư và chỉ biết
“phần phê duyệt, còn các phần khác không biết gì” hay “có đọc nhưng
cũng không hiểu được vì không có ai giải thích”(Bác Kỷ, người dân xã
Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình)
Cách cung cấp thông tin là một trong những lý do chính khiến người dân
không biết hoặc biết không đầy đủ về chủ trương đầu tư công cũng như không
biết về từng công trình cụ thể. Vị trí để các tờ thông tin về kế hoạch hoặc công
trình không dễ thấy, thuật ngữ sử dụng quá kỹ thuật và không thân thiện v.v.
là những lý do khiến thông tin dù có được công khai nhưng lại không giúp
người dân hiểu được.
Trong khi đó những công trình “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, có
đóng góp của người dân về sức lao động, tiền mặt hay hiến đất thì người
dân có thông tin đầy đủ về dự toán, thiết kế, và quyết toán công trình.
Người dân biết rõ công trình làm khi nào, tiến độ ra sao, cách thức đóng góp
và giám sát v.v.(Xem chi tiết tại các câu chuyện từ số 1 đến số 4 - phụ lục báo
cáo).
2.2. Ngƣời dân thiếu các thông tin về ngƣời hay cơ quan chịu trách
nhiệm giải trình về các công trình đầu tƣ công tại địa phƣơng
Kết quả tham vấn cho thấy, không địa phương nào cung cấp cho người
dân các thông tin về địa chỉ mà người dân có thể đến để tìm hiểu thêm
thông tin, cũng như đưa ra các ý kiến phản hồi liên quan đến các công
trình, dự án đầu tư công. Nhiều người dân khi có thắc mắc thì cũng không
biết hỏi ai, đặc biệt khi những thắc mắc đó liên quan đến các công trình do cấp
trên (huyện, tỉnh) làm chủ đầu tư. Không chỉ người dân, mà cả chính quyền
địa phương và MTTQ tại cơ sở (thôn, xã) không có đầy đủ thông tin về các
công trình do cấp trên làm chủ đầu tư. Do vậy, chính quyền địa phương hay
MTTQ cũng không thể cung cấp thông tin hay giải đáp các thắc mắc cho
người dân. Thậm chí người dân và có cả cán bộ của MTTQ cũng chưa hiểu
được vai trò đại diện cho tiếng nói và quyền lợi của người dân của MTTQ là
như thế nào. Điều này khiến người dân không được đáp ứng nhu cầu giải đáp
thông tin, ngoài ra cũng hạn chế vai trò của các cơ quan đại diện trong việc hỗ
trợ người dân tham gia vào giám sát các công trình đầu tư công sử dụng vốn
nhà nước.
8
“Chúng tôi đâu có biết hỏi ai đâu, ra UBND xã thì ủy ban cũng không có biết,
vì đó là của trên đưa xuống” (Ông Ty, xã Xuyên Mộc, huyện Xuyên Mộc, tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu nói về việc tìm hiểu thông tin liên quan đến con đường liên
xã Bình Ba – Đá Bạc)
“Lúc người dân có ý kiến, họ chạy đến gặp trưởng thôn, có cả mình là MTTQ
đứng đó nhưng họ không hỏi mình mà chỉ hỏi trưởng thôn thôi. Mà cho đến
giờ mình mới hiểu rõ là MTTQ có vai trò đại diện cho người dân như thế nào”
(Chị Nguyễn Thị Châm, cán bộ MTTQ xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh
Hòa Bình)
“Nếu người dân có hỏi gì thì cứ chạy đến trưởng thôn, nếu trưởng thôn không
biết thì phải đưa lên trên” (Bà Tâm, xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa
Bình)
Khi khảo sát thực tế các công trình đầu tư công tại các tỉnh tham vấn, thực tế
này diễn ra ở tất cả các công trình đầu tư công được khảo sát, như công trình
Trung tâm học tập cộng đồng xã Khoan Dụ, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình;
Đập Hồ Tràm ở xã Thanh Hối, Tân Lạc, Hòa Bình; công trình cầu khe nước
Lặn tại thôn Xuân Lâm, xã Triệu Nguyên, huyện Dakrông, tỉnh Quảng Trị; con
đường Đá Bạc – Bình Ba, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nhà
sinh hoạt cộng đồng tại xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình; công
trình nhà sinh hoạt cộng đồng thị trấn Klông, huyện Đakrông tỉnh Quảng trị
(xem chi tiết các câu chuyện số trong phần B phụ lục báo cáo).
Việc không có thông tin về người hay cơ quan có trách nhiệm giải trình dẫn
đến việc không phát huy được hiệu quả giám sát của người dân với các công
trình đầu tư công. Người dân không có được thông tin phản hồi kịp thời và
hiệu quả khi một công trình nào đó đang thi công và có vấn đề về tính phù
hợp, chất lượng và hiệu quả.
2.3. Công trình đầu tƣ công, đặc biệt các công trình sử dụng 100%
ngân sách nhà nƣớc chƣa khuyến khích và có cơ chế phù hợp để có
đƣợc sự tham gia một cách hiệu quả của ngƣời dân.
Kết quả tham vấn cộng đồng cho thấy người dân tại các địa bàn tham vấn đều
chưa được tham gia thực chất và hiệu quả vào các hoạt động đầu tư công.
Tất cả các công trình có vốn đầu tư 100% từ ngân sách nhà nước được
khảo sát đều không có sự tham gia của người dân trong quá trình lựa
chọn ưu tiên đầu tư/ra quyết định đầu tư công, thiết kế và giám sát thực
hiện công trình. Các công trình đó bao gồm các loại công trình xây dựng đập
hồ, cầu cống, đường xá, công trình nước sạch, công trình xây dựng nhà/trung
tâm sinh hoạt cộng đồng, và công trình xây dựng thuộc Chương trình nông
thôn mới. Cụ thể: công trình Đập Hồ Tràm ở xã Thanh Hối, Huyện Tân Lạc,
tỉnh Hòa Bình; công trình xây dựng trung tâm học tập cộng đồng xã Khoan Dụ,
huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình; công trình xây dựng nhà văn hóa thôn Đồng
9
Riệc, xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình; công trình con đường liên
xã Đá Bạc – Bình Ba, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; công trình
nước sạch tại xã Quy Hậu, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình; công trình Nhà sinh
hoạt cộng đồng xã Thanh Hối, huỵên Tân Lạc; các công trình thuộc Chương
trình xây dựng nông thôn mới, xã Bưng Riềng, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa
– Vũng Tàu; công trình Đập Đồng Nội tại xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh
Hòa Bình; công trình nhà sinh hoạt cộng đồng thị trấn Klông Kla, huyện
Đakrông, tỉnh Quảng Trị; và công trình nhà văn hóa thuộc mô hình Nông thôn
mới tại xã Nghĩa Minh, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định (xem chi tiết các
câu chuyện trong phần B phụ lục báo cáo).
Hiện nay người dân mới chỉ có thể tham gia đóng góp ý kiến và giám sát
các công trình mà người dân có tham gia đóng góp - “nhà nước và nhân
dân cùng làm”. Người dân ở các địa bàn tham vấn cho biết họ chỉ tham gia
đóng góp ý kiến, tham gia thực hiện và giám sát đối với các công trình đầu tư
công ở địa phương mà có sự đóng góp tiền, sức lao động và đất đai của
mình.
Chỉ có con đường nhà nước và nhân dân cùng làm thì mới thực hiện
họp dân, bàn về các khoản đóng góp, sau đó công khai dự toán,
quyết toán” (Bác Sơn, khu phố Phước Hòa, thị trấn Phước Bửu,
huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu).
(xem chi tiết các câu chuyện trong phần A – và câu chuyện về xây đập Hồ
Tràm trong phần B phụ lục báo cáo).
Các công trình đầu tư công chưa có được sự tham gia hiệu quả của người dân
có thể vì cán bộ địa phương và chủ công trình chưa thấy sự tham gia của
người dân là quan trọng. Chính vì không thấy việc đó là quan trọng nên họ
không tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự tham gia và cũng không khuyến khích
sự tham gia.
2.4. Các cơ quan, tổ chức đại diện cho ngƣời dân (Ban GSCĐ, MTTQ,
HĐND) chƣa phát huy hiệu quả vai trò đại diện cho ngƣời dân trong
các quyết định đầu tƣ công và giám sát thực hiện đầu tƣ công
Ban giám sát đầu tư cộng đồng và MTTQ chưa được tạo điều kiện để
phát huy vai trò đại diện cho cộng đồng tham gia và giám sát các công
trình đầu tư công. Quy chế giám sát đầu tư cộng đồng được Thủ tướng ban
hành theo quyết định số 80/2005/QĐ-TTg quy định quyền và trách nhiệm giám
sát các công trình đầu tư của cộng đồng thông qua Ban GSĐTCĐ là đại diện
cho người dân. Tuy nhiên, việc thực hiện quyết định này còn nhiều bất cập.
Thứ nhất, Ban GSĐTCĐ gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các nhiệm
vụ của mình, do họ không được cung cấp hồ sơ công trình hoặc cung cấp
không kịp thời để có thể theo dõi tiến độ và chất lượng công trình. Năng lực
giám sát của các thành viên trong Ban cũng còn hạn chế. Ngoài ra, vai trò của
10
Ban này không được làm rõ trong các hợp đồng với nhà thầu, cũng như với
các bên liên quan khác kể cả người dân, dẫn đến tình trạnh “hữu danh vô
thực” – các thành viên của Ban hầu như không có tiếng nói với chủ đầu tư
cũng như nhà thầu. Còn với người dân thì họ cũng không tìm đến với Ban khi
có nhu cầu cần được giải đáp thắc mắc hoặc cần phản hồi ý kiến vì chưa biết,
chưa hiểu hoặc chưa thấy được vai trò thực chất và hiệu quả của Ban giám
sát đầu tư cộng đồng. Tương tự như vậy, MTTQ cũng không có thông tin về
thiết kế và dự toán các công trình đầu tư công và điều này gây khó khăn cản
trở cho MTTQ khi muốn tham gia và tổ chức cho người dân tham gia giám sát
các công trình đầu tư công.
“MTTQ và các đoàn thể có tham gia giám sát chương trình xây dựng nông
thôn mới… Không có thiết kế và dự toán công trình chúng tôi không giám
sát được” – (MTTQ và các đoàn thể chính trị -xã hội huyện Nghĩa Hưng,
tỉnh Nam Định)
“BGSĐTCĐ chỉ giám sát phần vốn dân góp… Phụ nữ khó đọc thiết kế, khó
nắm chắc” – (MTTQ và các đoàn thể xã Nghĩa Minh, huyện Nghĩa Hưng,
tỉnh Nam Định)
“Mình chưa bao giờ nghe ban giám sát đầu tư cộng đồng.” - (Bà Lý, Ấp
Gò Sầm, xã Láng Dài, huyện Đất Đỏ)
Kênh tiếp xúc cử tri chưa đủ để hội đồng nhân dân có thể nắm bắt được
hết nhu cầu, các mối quan tâm và các vấn đề cần ưu tiên giải quyết tại địa
phương, làm cơ sở cho xây dựng chủ chương và kế hoạch đầu tư công.
Tại các địa phương tham vấn, chính quyền địa phương đều cho rằng việc lập
kế hoạch PTKTXH và dự toán ngân sách hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu
người dân, được nắm bắt thông qua các cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu
HĐND. Các cuộc tiếp xúc cử tri này cũng được coi là kênh để người dân phản
hồi những vấn đề bức xúc của địa phương. Trên thực tế, kênh tiếp xúc cử tri
không đảm bảo để HĐND có thể nắm bắt được hết nhu cầu, các mối quan tâm
và các vấn đề cần ưu tiên giải quyết tại địa phương. Mỗi năm HĐND chỉ có
nhiều nhất là 4 lần tiếp xúc cử tri, nội dung thường đề cập đến nhiều vấn đề
cùng một lúc, trong khi thời gian cho mỗi cuộc tiếp xúc cử tri không dài để có
thể lắng nghe hết ý kiến của người dân một cách đầy đủ và kịp thời. Bên cạnh
đó, số lượng người tham gia các cuộc tiếp xúc cử tri này cũng không nhiều nên
khó có thể đảm bảo tính đại diện và đầy đủ của các ý kiến.
“Mỗi cuộc tiếp xúc cử tri nhiều nhất là khoảng 50 người tham gia”
(một người dân tại phường Bà Triệu, thành phố Nam Định)
Ở các địa phương khác như tỉnh Hòa Bình, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu,
cán bộ UBND xã cho biết mỗi cuộc tiếp xúc cử tri chỉ có khoảng
10% người dân tới tham dự.
11
Bên cạnh đó, đại biểu HĐND khó đưa ra các ý kiến độc lập do tình trạng không
chuyên trách, nhiều đại biểu HĐND đồng thời cũng là cán bộ công chức các cơ
quan hành pháp. Ví dụ, Chủ tịch HĐND đồng thời cũng có thể là Phó CT
UBND xã hoặc Bí thư/Phó Bí thư Đảng ủy. Do vậy, việc đưa ra các ý kiến độc
lập trong vai trò phản biện là khá thách thức, do bản thân đại biểu HĐND khó
phân định vai trò của mình ở mỗi vị trí.
2.5 Các công trình, chƣơng trình không có sự tham gia của ngƣời dân
dẫn đến không hiệu quả và lãng phí, không đáp ứng đúng nhu cầu và
hoàn cảnh thực tế tại địa phƣơng, thậm chí gây thiệt hại cho ngƣời
dân
Kết quả tham vấn cho thấy việc khi người dân không được hỏi ý kiến trong
quá trình khảo sát thiết kế công trình, lập dự toán và không được tham
gia giám sát thực sự trong quá trình thực hiện đã dẫn đến tình trạng
lãng phí nguồn lực do các công trình không đảm bảo chất lượng, không
phù hợp hoàn cảnh thực tế hoặc không đáp ứng nhu cầu sử dụng của
người dân. Kết quả khảo sát các công trình cụ thể, điển hình là 10 công
trình đầu tư công tại 4 tỉnh tham vấn minh chứng nhận định này.
(1) Công trình đập Hồ Tràm ở xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình
được xây dựng với mục đích đảm bảo tưới tiêu cho cánh đồng của xã,
với số vốn đầu tư khoảng 40 tỉ đồng từ ngân sách nhà nước. Công trình
được hoàn thành và đi vào sử dụng năm 2012, nhưng khi xây xong thì
van xả nước bị hỏng, không trữ nước được và tới vụ mùa bà con cần
nước thì đập không có nước. Bà con phản ảnh rất nhiều nhưng không có
kết quả, thậm chí nhận được câu trả lời “đã làm theo thiết kế rồi”. Cuối
cùng người dân đành phải góp sức góp công để đắp bờ mương để đảm
bảo tưới tiêu cho mùa vụ.
(2) Con đường Bình Ba - Đá Bạc, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
được đầu tư từ ngân sách nhà nước và do tỉnh làm chủ đầu tư. Bên chủ
đầu tư khi thiết kế và thi công công trình không lấy ý kiến người dân dọc
tuyến đường nên một số cống đặt sai vị trí, dẫn đến việc ngập lụt và làm
chết vườn tiêu của một số hộ gia đình – người dân mất kế sinh nhai. Bên
cạnh đó nền đường cao hơn nền nhà dân xây dựng hai bên đường, gây
cản trở khó khăn cho việc đi lại cho người dân và ngập lụt nhà dân hai
bên đường mối khi mưa xuống. Người dân và chính quyền địa phương
cơ sở đều không hài lòng về con đường này, họ kiến nghị chủ đầu tư cần
tham khảo ý kiến các hộ dân và chính quyền cơ sở khi thiết kế và thi
công công trình này.
(3) Công trình nước sạch tại xã Quy Hậu, huyện Tân Lạc, Hòa Bình được
nhà nước hỗ trợ xây dựng năm 2010. Đối tượng hưởng lợi công trình này
là người dân 4 thôn Khang 1, Khang 2, Cộng 1 và Cộng 2. Kinh phí xây
dựng công trình khoảng 998 triệu đồng. Tuy nhiên, khi thực hiện công
12
trình, bà con chỉ biết là nhà nước làm đường nước, chứ không được biết
ai là chủ đầu tư, công trình hết bao nhiêu tiền, đơn vị thi công là ai và
cũng không được đóng góp ý kiến hay tham gia giám sát. Đến nay, công
trình đã hoàn thành nhưng vẫn để đó, chất lượng xuống cấp nghiêm
trọng, người dân không sử dụng được.
(4) Công trình xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng tại xã Thanh Hối, huyện
Tân Lạc được xây dựng năm 2008 do huyện làm chủ đầu tư. Mục đích
của việc xây dựng Nhà sinh hoạt cộng đồng này nhằm để bà con có nơi
tổ chức các chương trình sinh hoạt văn hóa văn nghệ. Cả quá trình xây
dựng (từ việc thiết kế tới việc chọn lựa nguyên vật liệu và thi công) toàn
bộ do Huyện thực hiện, chính quyền xã và người dân không được tham
gia vào bất kỳ khâu nào. Xây cất xong từ năm 2008 nhưng 3 năm trở lại
đây, công trình xuống cấp nghiêm trọng, thậm chí hiện giờ không ai dám
trèo lên nhà sàn này vì nó có nguy cơ sập bất cứ lúc nào.
(5) Công trình đập Đồng Nội xã Đồng Tâm, Lạc Thủy, Hòa Bình được xây
dựng năm 2010. Người dân không được hỏi ý kiến khi khảo sát nên thiết
kế công trình không phù hợp. Sau khi xây xong xảy ra tình trạng nước
tràn vào vườn nhà dân gây ngập úng, nguyên nhân là do chiều cao của
mặt tràn cao hơn so với quy định, đặc biệt lại cao hơn nhà dân.
(6) Công trình nhà sinh hoạt cộng đồng Khóm 1, thị trấn Klông Kla, huyện
Đakrông, Quảng Trị do Ban Quản lý dự án giảm nghèo của huyện làm
chủ đầu tư. Người dân Khóm 1 cho rằng chất lượng công trình không
đảm bảo, mới sử dụng năm 2010 mà nay đã xuống cấp nhanh chóng do
chất lượng kém. Ông Cương, đại diện người dân nói rằng: “Với số tiền
140 triệu khi đó nếu giao cho dân làm thì sẽ làm được cái nhà tốt hơn nhà
hiện tại rất nhiều”..
(7) Công trình Cầu khe nước Lặn tại thôn Xuân Lâm, xã Triệu Nguyên, huyện
Dakrong, tỉnh Quảng Trị được xây dựng năm 2009, với ngân sách là 25
triệu đồng. Mục đích của công trình là để giao thông đi lại thuận tiện, nhất
là vào mùa mưa. Nhưng do người dân không được tham gia vào khảo
sát, dự toán và giám sát thi công nên hậu quả là công trình tuy đã hoàn
thành nhưng chẳng những đã không giúp người dân đi lại thuận tiện như
mong đợi, mà còn gây cản trở ngược lại. Công trình hiện trở thành nơi đổ
và chứa rác của bà con. Người dân đã nhiều lần kiến nghị phá bỏ cầu
này nhưng vẫn chưa nhận được phản hồi từ chính quyền.
(8) Công trình Trung tâm học tập cộng đồng xã Khoan Dụ, Lạc Thủy, Hòa
Bình được xây dựng năm 2005 với vốn đầu tư 4 tỷ đồng. Trước khi xây
dựng công trình này, cán bộ xã đã trình bày rất nhiều lần về điều kiện
thực tế ở địa phương là vùng ngập lụt và đề nghị cần khảo sát kỹ, cụ thể
phải đảm bảo chiều cao công trình, giảm tối đa ảnh hưởng của lũ lụt. Tuy
nhiên, các cơ quan cấp trên vẫn giữ nguyên thiết kế theo mẫu của tỉnh và
xã nhận được một câu trả lời “Có nhận thì nhận, không nhận thì chúng tôi
13
mang đi xã khác”. Kết quả là sau khi hoàn thành, vào các mùa lũ công
trình này thường bị ngập nước, đỉnh điểm là năm 2007, mực nước ngập
lên đến ngang cửa chính. Việc xây dựng Trung tâm học tập cộng đồng
không tiếp thu ý kiến chính quyền cơ sở và tham vấn ý kiến người dân đã
tạo ra bức xúc của chính quyền cơ sở và người dân địa phương.
Bên cạnh những công trình được minh chứng ở trên, còn có các công trình
khác được khảo sát cho thấy người dân không được hỏi ý kiến trong quá
trình khảo sát thiết kế, lập dự toán và không được tham gia giám sát thực sự
trong quá trình thực hiện đã dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn lực do không
đáp ứng được nhu cầu ưu tiên của người dân, hoặc không đảm bảo chất
lượng, không phù hợp hoàn cảnh thực tế, như việc phân bổ nguồn lực cho
các công trình xây dựng thuộc Chương trình nông thôn mới tại xã Bưng
Riềng, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, và việc đầu tư công trình ở
xã Minh Nghĩa, huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định. (xem chi tiết tại câu
chuyện số 8 và các câu chuyện khác ở phần B – Phụ lục báo cáo).
Quá trình tham vấn cũng ghi nhận những phản ứng không hài lòng và thậm
chí mất lòng tin của ngƣời dân và các cấp chính quyền điạ phƣơng khi các
quyết định đầu tư công và việc sử dụng tiền (ngân sách) dành cho các công trình
đầu tư công không hiệu quả và lãng phí. Đơn cử, chị Dự, một trong những người
hưởng lợi từ công trình nước sạch xã Quy Hậu, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình
chia sẻ “thấy bảo công trình này là công trình của nhà nước tới làm cho, thấy vui
lắm. Nghĩ chắc chắn là công trình của nhà nước thì kiểu gì cũng rất tốt, rất yên
tâm. Ai chứ nhà nước mà đã giám sát thì chắc chắn rồi. Ai dè đâu công trình của
nhà nước mà giờ dân chả được hưởng gì…”, hoặc bác Lâm tại Đồng Tâm, huyện
Lạc Thủy chia sẻ “Trước đây tôi rất tâm huyết với chủ trương của nhà nước,
nhưng quá trình thực hiện đã làm mất lòng tin của tôi và của người dân. Tôi chỉ
mong có quyền xây dựng, giám sát, kiểm tra và có quyền được biết tất cả thông
tin”. Ông Nguyễn Ái Ba, một người dân Khóm 1 thị trấn Klông Kla nói: “Luật có chỉ
ở trên giấy tờ, thực tế người dân không tham gia, không biết”; hay một đại diện
người dân xã Hòa Lộc, TP Nam Định đã chia sẻ “Các công trình cứ làm xong mà
không sử dụng được hoặc nhanh xuống cấp thì người dân cũng thấy xót vì tiền bị
lãng phí. Nếu cứ như thế mãi thì người dân mất lòng tin vào Đảng, vào chính
quyền”.
2.6. Ngƣời dân mong muốn đƣợc cung cấp thông tin, đƣợc lấy ý kiến
và tham gia giám sát các công trình đầu tƣ công ở địa phƣơng nơi họ
sinh sống
Kết quả tham vấn cho thấy, người dân có ý kiến và mong muốn được cung
cấp thông tin và được tham gia vào quá trình lập kế hoạch và giám sát các
công trình đầu tư công ở địa phương nơi mình sinh sống.
14
“Tôi rất muốn tham gia giám sát công trình xây đập (Hồ Tràm) này để đảm
bảo chất lượng của công trình”. (Anh Ninh, xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc,
tỉnh Hòa Bình).
Ông Hà Văn Nam trưởng phòng TCKH huyện cho biết: “con đường Đá Bạc
– Bình Ba được xây dựng xong thì sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho bà con
nhân dân dọc theo tuyến đường đi qua. Nhưng đúng là BQL dự án nên
tham khảo ý kiến của xã và chính người dân địa phương khi thiết kế và thi
công con đường thì sẽ tránh được những điều đáng tiếc như vậy và công
trình do nhà nước đầu tư sẽ hiệu quả cao hơn”
Bác Lâm người dân tại xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình cho
biết “Trước đây tôi rất tâm huyết với chủ trương của nhà nước, nhưng quá
trình thực hiện đã làm mất lòng tin của tôi và của người dân. Tôi chỉ mong
có quyền xây dựng, giám sát, kiểm tra và có quyền được biết tất cả thông
tin”.
Các câu chuyện được liệt kê tại phần B Phụ lục báo cáo cũng là những minh
chứng cụ thể về mong muốn này của người dân, cụ thể: Câu chuyện về công
trình Đập Hồ Tràm ở xã Thanh Hối, Huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình; công trình
cầu khe nước Lặn tại thôn Xuân Lâm, xã Triệu Nguyên, huyện Dakrong, tỉnh
Quảng Trị; con đường Đá Bạc – Bình Ba, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu; công trình nước sạch tại xã Quy Hậu, Tân Lạc, Hòa Bình; Nhà sinh
hoạt cộng đồng tại xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc; công trình Đập Đồng nội tại
xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình, công trình nhà sinh hoạt cộng
đồng trấn Klông, huyện Đakrông tỉnh Quảng trị.
2.7. Sự tham gia của ngƣời dân vào các công trình đầu tƣ công (lập kế
hoạch, xây dựng dự toán, thiết kế, giám sát thực hiện) góp phần
mang lại sự hài lòng của ngƣời dân và đảm bảo hiệu quả đầu tƣ công
Kết quả tham vấn cho thấy rõ các công trình được khảo sát có sự tham gia
của người dân trong lập kế hoạch, xây dựng dự toán, thiết kế và giám
sát thực hiện thì các công trình đều mang lại sự hài lòng và hiệu quả cao
vì đáp ứng được nhu cầu của người dân và chi phí hiệu quả. Điển hình là
công trình đèn đường tại thôn Xuân Lâm và Na Nẫm, xã Triệu Nguyên, huyện
Dakrông, tỉnh Quảng Trị; công trình xây dựng nhà văn hóa thôn Đồng Riệc, xã
Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình; công trình điểm sinh hoạt cộng
đồng của khu phố Phước Hòa, thị trấn Phước Bửu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu;
công trình đường nhánh Đón Lang tại thôn Cộng 2, xã Quy Hậu, tỉnh Hòa
Bình; công trình đường bê tông Kim Đồng tại Khu phố 6, phường 2, Thành
phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị; xây dựng hệ thống mương tưới tiêu tại Thôn
Bào, xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình; công trình làm đường tại tổ
4, phường Tràng Thi, thành phố Nam Định (xem chi tiết các câu chuyện điển
trong phần A phụ lục báo cáo).
15
Với những công trình này, khi có chủ trương xây dựng, chính quyến cơ sở
(xã, thôn) họp dân, thông báo về chủ trương, kế hoạch đầu tư, lấy ý kiến
người dân về thiết kế và dự toán ngân sách của công trình và kêu gọi, đề xuất
các khoản đóng góp của người dân (ngày công lao động, tiền mặt hay hiến
đất). Người dân thấy được sự cần thiết của các công trình đối với cá nhân và
cộng đồng của mình, hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia
xây dựng công trình. Họ phần khởi và tích cực tham gia đóng góp ý kiến và
nguồn lực vào việc xây dựng kế hoạch, thực hiện và giám sát các công trình.
“Chúng tôi cảm thấy rất phấn khởi, hài lòng về chất lượng công trình vì có
sự tham gia của người dân và mong muốn các công trình trên địa bàn đều
có sự tham gia của người dân”(Một người dân tại thôn Xuân Lâm, xã Triệu
Nguyên, huyện Dakrông, tỉnh Quảng Trị ).
“Vì tài chính công khai, minh bạch, và sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân
nên mới có thể làm được công trình này” (Chị Tâm, người dân thôn Đồng
Riệc, xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, Hòa Bình)
“Tôi vẫn nhớ mãi cái ngày hôm ấy, trời mưa to lắm, nhưng là ngày đầu tiên
ban vận động bắt đầu đi gặp các hộ dân để huy động tiền đóng góp.
Chúng tôi đi một mạch đến đêm mới về nhưng chúng tôi huy động được
ngay lập tức của bà con hơn 30 triệu. Dân tôi đúng là có tấm lòng vàng. Có
việc gì khó dân làm xong ngay”. (ông Lê Thanh Sơn – thành viên ban
giám sát cộng đồng khu phố Phước Hòa, thị trấn Phước Bửu, tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu)
Qua tham vấn và khảo sát cũng thấy rõ một yếu tố quan trọng quyết định sự
thành công của các công trình này - chính là sự quyết tâm của cán bộ chính
quyền địa phương trong việc tổ chức cho người dân tham gia và giám sát các
công trình này.
“Khi có người dân tham gia công trình đảm bảo chất lượng hơn, họ có
trách nhiệm duy tu, bảo dưỡng công trình, thi công mà người dân thì giảm
được chi phí mà vẫn đảm bảo chất lượng tốt, có sự đồng thuận của người
dân thì việc gì cũng có thể làm được. Cái gì xuất phát từ nhu cầu của
người dân, lắng nghe người dân, có được sự đồng thuận của dân thì sẽ đạt
hiệu quả cao”. (ông Đặng Mai Sơn, phó bí thư tỉnh đoàn tỉnh Hòa Bình)
Các minh chứng này cho thấy người dân hoàn toàn có thể tham gia thực chất
và hiệu quả vào quản lý các công trình đầu tư công tại địa phương. Bên cạnh
đó cũng cho thấy rõ ràng khi chính quyền địa phương có quyết tâm thì họ
hoàn toàn có thể tổ chức cho người dân tham gia và giám sát các công trình
đầu tư công tại địa phương một cách thực chất và hiệu quả.
Thậm chí cộng đồng hoàn toàn có thể tham gia đấu thấu và quản lý xây
dựng công trình đầu tư công tại địa phương với 100% vốn đầu tư từ
16
ngân sách nhà nước. Cộng đồng xây dựng kế hoạch và tham gia đấu thầu
cho công trình mương tưới tiêu tại thôn Bảo, xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc
tỉnh Hòa Bình. Họ bầu các thành viên ban giám sát đầu tư cộng đồng để quản
lý và giám sát công trình, lập dự toán, tổ chức họp dân bàn bạc và thống nhất
kế hoạch xây dựng, thuê thợ và chia sẻ công khai minh bạch các thông tin về
tài chính với người dân của địa phương. Kết quả là, công trình được hoàn
thành chất lượng tốt, đảm bảo nhu cầu sản xuất và tiêu ứng cho nông nghiệp
và chi phí hiệu quả. Trong khi đó cũng ở thôn này, trước đó huyện làm chủ
đầu tư và thuê thợ về xây dựng hệ thống mương tưới tiêu cho thôn, nhưng
sau khi nghiệm thu con mương thì gần như không sử dụng được, chỉ ít lâu
sau khi hoàn thành nhiều chỗ đã bị vỡ, nứt, sụt và bục cả mảng lớn, nước
không thoát ra được. Đặc biệt, mương cao hơn đồng ruộng, không tưới được
cho đồng và cũng khó tiêu úng trong mùa mưa (xem chi tiết câu chuyện số 1
về xây dựng hệ thống mương tưới tiêu tại Thôn Bào, xã Thanh Hối, huyện
Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình).
Cộng đồng cũng hoàn toàn có thể tham gia vào việc lập kế hoạch phát
triên kinh tế xã hội và quản lý ngân sách nhà nước của xã/phường và
các công trình đầu tư công ở địa phương. Phường Tràng Thi, thành phố
Nam Định áp dụng mô hình mới để người dân tham gia vào việc lập kế hoạch
và quản lý ngân sách nhà nước, đại diện tổ dân phố được tham gia cuộc họp
lựa chọn ưu tiên những việc, những công trình sẽ làm trong năm tới, việc
nâng cấp con đường tại tổ 4 đã được đưa vào danh sách ưu tiên đầu tư của
phường. Sau khi được phổ biến về nguồn ngân sách hỗ trợ từ phường và quỹ
Sáng kiến cộng đồng, cán bộ tổ dân phố đã họp xin ý kiến người dân và cùng
nhau quyết tâm sửa con đường để cải thiện điều kiện đi lại và cảnh quan khu
dân cư. Người dân được xin ý kiến về thiết kế con đường, ngân sách và
phương án đóng góp và họ bầu ra một tổ tự quản để tổ chức thực hiện, giám
sát công trình và quản lý việc thu chi của công trình. Biên bản họp ghi chép nội
dung thảo luận và các điểm thống nhất trong các cuộc họp dân đều được gửi
tới toàn bộ hộ dân trong tổ để xem xét kỹ lưỡng và ký xác nhận đồng ý. (Xem
chi tiết câu chuyện số 2 về công trình làm đường tại tổ 4, phường Tràng Thi,
thành phố Nam Định tại phụ lục báo cáo)
Qua các cách làm công khai minh bạch và có sự tham gia của người dân,
người dân nhận thức được rõ lợi ích và nghĩa vụ của mình. Người dân hài
lòng với chất lượng và hiệu quả của công trình. Quy chế dân chủ cơ sở “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được áp dụng hiệu quả, sự hiểu biết
giữa chính quyền điạ phương và người dân được tăng cường, và người dân
tin tưởng hơn vào chính quyền địa phương.
17
PPHHẦẦNN IIIIII:: CCÁÁCC KKHHUUYYẾẾNN NNGGHHỊỊ TTỪỪ CCỘỘNNGG ĐĐỒỒNNGG VVÀÀ NNHHÓÓMM
TTHHAAMM VVẤẤNN
3.1. Khuyến nghị của cộng đồng
Về công khai minh bạch thông tin và cơ chế phản hồi thông tin
Công khai thiết kế, dự toán và mức đầu tư của các công trình xây dựng cơ
sở hạ tầng và công trình công cộng xây dựng trên địa bàn địa phương, và
công khai sử dụng ngân sách và vốn vay từ các ngân hàng phát triển tới
người dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng để thực hiện giám sát hiệu
quả hơn
Nâng cao nhận thức của người dân về các công trình đầu tư công và ngân
sách cho công trình thông qua tuyên truyền
Tăng cường cơ chế phản hồi thông tin giữa người dân, chính quyền địa
phương và chủ đầu tư, đơn vị thi công các công trình đầu tư công tại địa
phương
Bổ sung quy định nêu rõ chủ đầu tư phải công bố công khai những thông
tin sau đối với mọi công trình: Tên công trình, thời gian thực hiện, tổng dự
toán, đơn vị chủ đầu tư, đơn vị thực hiện, đơn vị giám sát, và tên cũng như
số điện thoại liên hệ của người chịu trách nhiệm giải đáp thông tin cũng
như tiếp nhận ý kiến phản hồi của người dân
Về sự tham gia của người dân
Tất cả các công trình công cộng trên địa bàn địa phương cần phải phải
xuất phát từ nhu cầu của người dân. Cần lấy ý kiến người dân về khoản
chi đầu tư để đảm bảo chi đúng nhu cầu của người dân.
Cần tham khảo ý kiến của chính quyền cơ sở (thôn và xã) và chính người
dân địa phương khi lập kế hoạch, thiết kế và thi công các công trình, đặc
biệt là đường xá
Đảm bảo cơ chế giám sát của người dân thông qua ban giám sát đầu tư
cộng đồng: nâng cao năng lực cho ban giám sát, có cơ chế giám sát hiệu
quả; khẳng định vai trò của ban giám sát đầu tư cộng đồng trong tất cả các
công trình và chương trình tại địa phương
Về chế tài thực hiện
Quy định chế tài đối với việc chủ đầu tư không cung cấp, không cung cấp
đầy đủ hồ sơ công trình cho Ban Giám sát đầu tư cộng đồng.
18
3.2. Kết luận và khuyến nghị của nhóm tham vấn
Sự tham gia giám sát của cộng đồng thực sự mang lại hiệu quả cho các
công trình đầu tư và niềm tin trong nhân dân
Các minh chứng cụ thể trên đã khẳng định khi có sự tham gia của người
dân thì những công trình đầu tư sẽ đáp ứng được đúng nhu cầu của người
dân từ đó sẽ tránh được lãng phí. Sự tham gia của người dân cũng làm
tăng tính sở hữu của họ với công trình và từ đó tăng trách nhiệm khi sử
dụng công trình. Sự tham gia của người dân cũng giúp củng cố sự hiểu
biết và niềm tin giữa người dân và chính quyền địa phương.
Đặt yêu cầu “minh bạch, giải trình và sự tham gia” thành một điều kiện
bắt buộc trong đầu tư công
Thực tế từ các công trình “nhà nước và nhân dân cùng làm” có thể thấy
các Bộ, ngành và địa phương hoàn toàn có thể thực hiện minh bạch và giải
trình cũng như tạo điều kiện để người dân tham gia đóng góp ý kiến, trao
đổi, thảo luận nếu họ thấy cần và bắt buộc phải làm như vậy.
Những băn khoăn/nghi ngờ về khả năng tham gia của người dân sẽ được
giải quyết khi sự tham gia của người dân là một yếu tố bắt buộc (hay nói
một cách khác là nếu đó là một điều kiện tiên quyết để một công trình nào
đó được thực hiện).
Cán bộ địa phương cần được hiểu rõ sự khác biệt giữa công khai với minh
bạch và ý nghĩa của trách nhiệm giải trình. Khi ý thức được công khai chưa
phải đã là minh bạch và nếu được yêu cầu phải đạt được sự minh bạch thì
các bên thực thi nhiệm vụ đầu tư công sẽ tìm được giải pháp để thực hiện
việc minh bạch
Sử dụng hiệu quả các kênh thông tin hiện có để đảm bảo sự công khai
minh bạch
Hiện giờ tại địa phương đã có rất nhiều các kênh thông tin khác nhau bao
gồm kênh thông tin trực tiếp (họp tiếp xúc cử tri, họp thôn/xóm) và kênh
gián tiếp (bảng tin, loa phóng thanh, trang web). Các kênh này cần được
sử dụng hiệu quả hơn để thông tin về các công trình đầu tư công trên địa
bàn đến với người dân. Các thông tin cần được trình bày rõ ràng, chi tiết
để người dân dễ hiểu.
Bên cạnh việc cung cấp thông tin, cũng cần có một chỉ dẫn rõ ràng về vai
trò trách nhiệm giải trình của các bên liên quan đến các công trình đầu tư
công. Cụ thể chỉ dẫn này phải đảm bảo người dân biết được với mỗi vấn
đề thì gặp ai, ở đâu, khi nào.
19
Phát huy vai trò của các tổ chức đại diện cho tiếng nói của người dân
trong tham gia và giám sát các công trình đầu tư công
Về mặt lý thuyết, người dân có thể tham gia và giám sát các công trình đầu
tư công thông qua các tổ chức đại diện của mình, tuy nhiên cần có các quy
định cụ thể về các nguyên tắc và qui trình đảm bảo sự tham gia.
Cần xem xét và điều chỉnh bổ sung Thông tư liên tịch 04/2006/TTLT-
BKHĐT-UBTƯMTTQVN-BTC hướng dẫn quyết định 80/2005/QĐ-TTg quy
định việc thành lập Ban GSĐTCĐ, vì trên thực tế trong quá trình triển khai
thực hiện thông tư vẫn chưa đảm bảo người dân chịu ảnh hưởng trực tiếp
tham gia và giám sát các công trình đầu tư công và chưa tạo điều kiện để
phát huy được vai trò thực chất của Ban GSĐTCĐ.
Các cơ quan đại diện, cụ thể là MTTQ, các tổ chức thành viên của MTTQ
và Ban GSĐTCĐ cần hiểu được vai trò đại diện của mình là làm gì và làm
như thế nào. Các cơ quan đại diện cần tích cực hỗ trợ và tổ chức cho
người dân tham gia và giám sát các hoạt động đầu tư công.
Cần huy động sự tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong quá
trình tổ chức, hỗ trợ và hướng dẫn người dân tham gia và giám sát các
hoạt động đầu tư công.
20
PPHHẦẦNN IIVV:: NNHHẬẬNN DDIIỆỆNN VVẤẤNN ĐĐỀỀ VVÀÀ NNGGUUYYÊÊNN NNHHÂÂNN
Trên cơ sở các kết quả tham vấn cộng đồng để góp ý cho dự thảo Luật NSNN
sửa đổi tại các tỉnh Hòa Bình, Nam Định, Quảng Trị và Bà Rịa Vũng Tàu, nhóm
chuyên gia và nhóm thực hiện tham vấn đã cùng tiến hành phân tích và nhận diện
các vấn đề, phân tích nguyên nhân liên quan đến chủ đề tham vấn về tăng cường
công khai, minh bạch và sự tham gia của người dân trong các hoạt động đầu tư
công. Nội dung phân tích tập trung vào các quy định pháp luật hiện hành có liên
quan và các quy định tương ứng trong dự thảo Luật đầu tư công.
4.1. Vấn đề 1: Tính công khai, minh bạch trong hoạt động đầu tƣ công
còn hạn chế, chƣa bảo đảm sự tham gia của ngƣời dân, dẫn đến còn
tình trạng đầu tƣ lãng phí, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của ngƣời
dân.
Các biểu hiện của vấn đề này:
Những công trình đầu tư 100% vốn từ ngân sách nhà nước, đặc biệt là do
cấp trên như cấp huyện, cấp tỉnh làm chủ đầu tư trên địa bàn, thì hầu hết
người dân không có hoặc không có đủ thông tin cần thiết và việc triển khai
thực hiện công trình không phù hợp với nhu cầu địa phương (vụ việc công
trình nước sạch ở xã Quy Hậu, huyện Tân Lạc, Hòa Bình, con đường Đá
Bạc – Bình Ba, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và các công
trình khác – xem thêm các câu chuyện trong phần B phụ lục báo báo).
Thông tin về các chương trình, dự án đầu tư công thường không đầy đủ,
khó hiểu, khó nhớ và khó tham gia để biết đâu là đúng hoặc sai, cũng như
để nhận diện được vi phạm xảy ra (ý kiến tham vấn tại hầu hết tất cả các
tỉnh Quảng Trị, Hòa Bình, Nam Định, Bà Rịa - Vũng Tàu).
Người dân thường không nắm rõ được các thông tin về kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương mình và không có thông tin về các kế
hoạch đầu tư công hoặc không biết về chủ trương đầu tư (điển hình vụ
việc xây dựng đường liên xã Bình Ba – Đá Bạc tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu, công trình đập Hồ Tràm xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc,
Hòa Bình, – xem thêm các câu chuyện trong phần B phụ lục báo báo).
Nhận diện các nguyên nhân:
Thứ nhất, việc thực hiện công khai, minh bạch trong đầu tư công mặc dù
đã được quy định tương đối toàn diện, song còn nằm trong nhiều văn bản
quy phạm pháp luật khác nhau, hiệu lực pháp luật chưa cao, dẫn đến quá
trình áp dụng còn hạn chế.
Thực hiện công khai, minh bạch trong đầu tư công chủ yếu được quy định trong
21
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 (sau đây gọi tắt là
Pháp lệnh) và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan1. Tuy nhiên, thực
hiện công khai, minh bạch trong đầu tư công chỉ là một trong các nội dung công
khai ở cấp cơ sở để người dân có ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết
định. Theo quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 19 Pháp lệnh, các nội dung công
khai bao gồm: dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương án
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cư, vùng kinh
tế mới và phương án phát triển ngành nghề của cấp xã; dự thảo quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh; việc quản lý, sử dụng quỹ đất
của cấp xã; dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp
xã; chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở
hạ tầng, tái định cư; phương án quy hoạch khu dân cư. Như vậy, các nội dung
công khai chưa bao gồm chủ trương đầu tư công, dự thảo các chương trình, dự
án, kế hoạch đầu tư công. Đồng thời, Pháp lệnh cũng chưa đề cập đến việc công
khai các thông tin, tài liệu mang tính hỗ trợ cho quá trình lấy ý kiến của người dân
(như thuyết minh các phương án đầu tư công hoặc phương án tính toán, phân bổ
nguồn vốn cho các chương trình, dự án đầu tư công...) và đặc biệt là chưa quy
định về các hành vi vi phạm, hình thức xử lý đối với thủ trưởng các ngành, các
cấp hoặc cá nhân, tổ chức có liên quan khi vi phạm việc thực hiện công khai,
minh bạch. Tương tự như vậy, các quy định về giám sát đầu tư của cộng đồng
cũng chưa quy định rõ về các biện pháp và điều kiện bảo đảm hiệu quả giám sát
đầu tư cộng đồng, xử lý kết quả giám sát và xử lý vi phạm. Ngoài ra, ở cấp độ
pháp lệnh, hiệu lực của các quy định pháp luật về công khai, minh bạch trong đầu
tư công không được đảm bảo khi có sự khác biệt với quy định của các đạo luật2.
Đối chiếu với dự thảo Luật đầu tư công cho thấy, các quy định về công khai, minh
bạch trong Dự thảo vẫn chưa khắc phục được những bất cập ở trên. Không chỉ
có vậy, Dự thảo còn chưa luật hóa được những quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành đã được khẳng định là phù hợp trên thực tế như quy
định về trách nhiệm của thủ trưởng các ngành, các cấp hoặc của các tổ chức, cá
nhân trong việc cung cấp thông tin, giải trình làm rõ các vấn đề có liên quan đến
đầu tư công; quy định về các hình thức thực hiện công khai, minh bạch tương
ứng với từng nội dung hoặc hoạt động đầu tư công cụ thể.
1 Đặc biệt là Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng ban hành kèm theo Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-KHĐT-UBTƯMTTQVN-TC ngày 04/12/2006 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg; 2 Luật phòng, chống tham nhũng (Luật PCTN), Luật đấu thầu, Luật thực hành tiết kiệm chống lãng
phí có một số quy định có liên quan như tại các Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 16 và Điều 17 (Luật PCTN) về công khai, minh bạch trong mua sắm công và xây dựng cơ bản; trong quản lý dự án đầu tư xây dựng; trong tài chính và ngân sách nhà nước; trong huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân; trong quản lý, sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ. Tuy nhiên, các yêu cầu về công khai, minh bạch chưa bao trùm hết các hoạt động đầu tư công và có những khác biệt so với Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007. Vì vậy, dự thảo Luật đầu tư công với vai trò là đạo luật chuyên ngành cần quy định thống nhất về nội dung này cho phù hợp với yêu cầu đặc thù trong hoạt động đầu tư công.
22
Thứ hai, pháp luật hiện hành chưa quy định về công khai, minh bạch trong
quá trình lập kế hoạch đầu tư công, đặc biệt là việc lập, phê duyệt chủ
trương đầu tư công; hoặc việc lập, thẩm định và phê duyệt các chương
trình, dự án đầu tư công.
Hiện tại Việt Nam chưa có văn bản quy phạm pháp luật riêng điều chỉnh về lập kế
hoạch, do vậy việc lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội được quy định trong
Luật ngân sách nhà nước (sau đây gọi tắt là Luật NSNN) và các văn bản quy
phạm pháp luật khác có liên quan3. Tuy nhiên, qua tham chiếu tới các quy định
pháp luật có liên quan, thì việc công khai, minh bạch các thông tin, dữ liệu trong
quá trình lập kế hoạch đầu tư công, việc phê duyệt chủ trương đầu tư công hoặc
lập, thẩm định và phê duyệt các chương trình, dự án đầu tư công chưa được làm
rõ, đặc biệt là dự thảo các quy hoạch, kế hoạch, chủ trương, chương trình, dự án,
cũng như kết quả tiếp thu, giải trình ý kiến của người dân. Vì vậy, trong rất nhiều
trường hợp, người dân không biết hoặc không tham gia được vào quá trình hình
thành chủ trương, xây dựng chương trình, dự án đầu tư công và do đó dẫn đến
tình trạng các chương trình, dự án đầu tư công chưa phù hợp với các ưu tiên
phát triển của địa phương.
Căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, việc thực hiện công khai, minh
bạch trong lĩnh vực đầu tư công chủ yếu được thực hiện qua việc công bố thông
tin, làm rõ và giải thích về các quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt (như quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất, kế hoạch đầu tư...); các chương trình, dự án đã được quyết định
(như quyết định đầu tư, chủ đầu tư, ban quản lý dự án, tiến độ và kế hoạch đầu
tư, diện tích thu hồi đất và sử dụng đất...). Như vậy, các thông tin, dữ liệu có liên
quan đến việc lập, phê duyệt chủ trương đầu tư; việc lập, thẩm định, quyết định
các chương trình, dự án đầu tư công đều không phải bắt buộc công khai.
Dự thảo Luật đầu tư công được xây dựng mới hoàn toàn đã bổ sung quy định về
việc lập kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm, lập và phê duyệt chủ
trương chương trình, dự án đầu tư công và các quy định về công khai, minh
bạch. Tại Khoản 5 Điều 12 Dự thảo quy định về bảo đảm tính công khai, minh
bạch trong quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; Điều 14 về công khai, minh bạch
trong đầu tư công và Điều 48 về nguyên tắc bảo đảm công khai, minh bạch và
công bằng trong lập kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm. Tuy nhiên, Dự
thảo vẫn chưa thể hiện được cụ thể các yêu cầu về thực hiện công khai, minh
bạch trong quá trình xây dựng chủ trương đầu tư, lập, thẩm định chương trình,
dự án và lập, thẩm định kế hoạch đầu tư công.
Thứ ba, hình thức công khai còn mang tính chiếu lệ mà chưa thực sự tạo
3 Đặc biệt là Nghị quyết số 387/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về việc ban hành Quy chế lập, thẩm tra, trình Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; Nghị định số 73/2003/NĐ-CP ngày 23/6/2003 của Chính phủ ban hành Quy chế xem xét, quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương.
23
thuận lợi cho người dân tiếp cận các thông tin về đầu tư công.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc công khai các thông tin có liên quan
đến đầu tư công ở cấp cơ sở chủ yếu dựa trên các hình thức, bao gồm: họp cử tri
hoặc đại diện các hộ gia đình; phát phiếu lấy ý kiến; qua hòm thư góp ý; thông
báo tại hội nghị nhân dân hoặc của MTTQ; thông báo trên các phương tiện thông
tin đại chúng; niêm yết tại trụ sở chính quyền địa phương hoặc nhà văn hóa xã.
Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định mang tính “chỉ dẫn”, “hỗ trợ” cho
người dân về việc công khai để thu hút sự quan tâm của họ. Ví dụ: quy định trách
nhiệm của các ngành, các cấp trong việc thông báo cho người dân về việc công
khai các thông tin về đầu tư công bằng những phương thức, nội dung đơn giản,
dễ hiểu như công bố địa chỉ giải đáp hoặc cung cấp thông tin hỗ trợ về đầu tư
công.
Tham chiếu đến dự thảo Luật đầu tư công cho thấy, các phương thức nhằm “chỉ
dẫn”, “hỗ trợ” cho người dân tiếp cận đến các thông tin đầu tư công được công
khai vẫn chưa rõ và do vậy chưa khắc phục được những bất cập phân tích ở trên,
như chưa quy định về trách nhiệm phải thông báo cho người dân và các chủ thể
có liên quan về việc công khai thông tin đầu tư công (công khai ở đâu, khi nào
công khai, công khai trong thời gian bao lâu và đơn giản hóa nội dung công
khai)4. Ngoài ra, Khoản 1 Điều 14 Dự thảo có quy định về trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực hiện công khai theo quy định của
pháp luật, tuy nhiên quy định này vẫn còn chưa cụ thể. Cơ quan, tổ chức, đơn vị
ở đây được hiểu là có liên quan đến quản lý, sử dụng vốn đầu tư công hay có liên
quan đến hoạt động đầu tư công nói chung?
Thứ tư, các quy định pháp luật hiện hành chưa quy định rõ các hình thức
xử lý đối với các hành vi vi phạm nghĩa vụ công khai, minh bạch trong hoạt
động đầu tư công.
Như đã phân tích ở trên, các quy định pháp luật hiện hành chưa quy định về việc
xử lý các hành vi vi phạm nguyên tắc, các quy định về công khai, minh bạch trong
hoạt động đầu tư công hoặc không tiếp thu ý kiến tham gia của người dân. Đây là
một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hiệu lực thực thi của các quy
định này còn hạn chế và trên thực tế người dân vẫn không có thông tin về các
chương trình, dự án đầu tư công hoặc người dân cũng không quan tâm đến vì
cho rằng ý kiến của mình không được tính đến một cách nghiêm túc.
Đối chiếu với dự thảo Luật đầu tư công cho thấy, bất cập phân tích trên chưa
được khắc phục. Mặc dù Dự thảo tại Điều 16 quy định về các hành vi bị cấm
trong đầu tư công; Điều 103 quy định về xử lý vi phạm, tuy nhiên cả hai điều này
đều không quy định về hành vi vi phạm nguyên tắc công khai, minh bạch trong
4 Điều 12 Luật PCTN có quy định về các hình thức công khai, tuy nhiên vẫn chưa bao quát được
hết các hình thức đã quy định trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007. Bên cạnh đó, Luật PCTN và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành vẫn chưa có các quy định cụ thể về phương thức thực hiện các hình thức công khai dẫn đến việc áp dụng còn hình thức, khó thống nhất.
24
đầu tư công để làm cơ sở cho việc đưa ra các hình thức xử lý phù hợp, bao gồm
cả xử lý kỷ luật và xử phạt hành chính trong các văn bản quy định chi tiết, hướng
dẫn thi hành.
4.2. Vấn đề 2: Trách nhiệm giải trình trong các hoạt động đầu tƣ công
chƣa rõ ràng để làm căn cứ cụ thể hóa trách nhiệm của từng chủ thể
có thẩm quyền.
Các biểu hiện của vấn đề này:
Người dân thường không biết hỏi ai để được làm rõ về các thông tin có liên
quan đến các chương trình, dự án đầu tư công ở địa bàn mình sinh sống
(đơn cử trường hợp vụ việc của ông Ty ở Vũng Tàu).
Trong một số trường hợp, người dân bị mất lòng tin vào các cấp chính
quyền do việc sử dụng ngân sách không hiệu quả trong các chương trình,
dự án đầu tư công (đơn cử trường hợp chị Dự ở Hòa Bình, hay bác Lâm
tại Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, xem thêm chi tiết các câu chuyện trong
phần B phụ lục báo báo).
Kênh tiếp xúc cử tri chưa đủ để HĐND nắm bắt được hết nhu cầu, mối
quan tâm và vấn đề cần ưu tiên giải quyết tại địa phương, đặc biệt là trong
việc phê duyệt chủ trương đầu tư công (ý kiến ở các địa phương tổ chức
tham vấn.
Đại biểu HĐND các cấp khó đưa ra các ý kiến độc lập do tình trạng không
chuyên trách, một người đảm nhiệm nhiều vị trí khác nhau (ý kiến ở các
địa phương tổ chức tham vấn).
Nhận diện các nguyên nhân:
Thứ nhất, các quy định pháp luật hiện hành chưa quy định rõ trách nhiệm
giải trình và mối quan hệ giữa các bên liên quan trong việc thực hiện trách
nhiệm giải trình về hoạt động đầu tư công5.
Xét ở một khía cạnh nhất định, việc phê duyệt chủ trương đầu tư công; lập, thẩm
định và quyết định chương trình, dự án đầu tư công có liên quan chặt chẽ đến
quá trình lập, phê duyệt dự toán, phân bổ ngân sách nhà nước. Vì vậy, khi xem
xét về trách nhiệm giải trình trong đầu tư công cần nhìn nhận cả từ góc độ pháp
5 Hiện tại, “trách nhiệm giải trình” mới được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của
Việt Nam như tại Điều 32a, Luật PCTN; từ Điều 73 đến Điều 76, Luật đấu thầu. Trên thực tế, các cơ quan nhà nước đã thực hiện trách nhiệm giải trình thông qua các hình thức “báo cáo”, “trả lời chất vấn” hoặc “giải thích, làm rõ”... trong quá trình thông qua các chủ trương, chính sách hoặc pháp luật... Tuy nhiên, thuật ngữ này vẫn chưa được quy định cụ thể trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư công, chưa gắn kết được với nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Đồng thời, các quy định trong Luật PCTN, Luật đấu thầu cũng không thay thế được trách nhiệm giải trình trong các hoạt động đầu tư công.
25
luật về NSNN và các quy định pháp luật về đầu tư công.
Chương II Luật NSNN năm 2002 về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ, các cơ quan khác của Nhà nước và trách nhiệm, nghĩa vụ của
tổ chức, cá nhân về ngân sách nhà nước (từ Điều 15 Đến Điều 29) đã có một số
quy định liên quan trách nhiệm giải trình như trách nhiệm báo cáo Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội về tình hình thức hiện ngân sách nhà nước... (Khoản 5
Điều 20); nhiệm vụ báo cáo tình hình thực hiện và kết quả sử dụng ngân sách
thuộc ngành, lĩnh vực quản lý (Khoản 4 Điều 24, Khoản 7 Điều 26); hoặc trách
nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra sai phạm thuộc phạm vi quản lý (Điều 29).
Tuy nhiên, các quy định pháp luật hiện hành chưa quy định đầy đủ về việc thực
hiện nghĩa vụ giải trình trong tất cả các giai đoạn của quy trình ngân sách và chưa
trả lời được câu hỏi cụ thể là Ai sẽ phải giải trình trước ai? Tương tự như vậy,
quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến đầu tư công
cũng không làm rõ được những vấn đề này như Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg
ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-
KHĐT-UBTƯMTTQVN-TC ngày 04/12/2006 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện
Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg
Tham chiếu đến dự thảo Luật đầu tư công cho thấy, khái niệm “trách nhiệm giải
trình” tiếp tục chưa được ghi nhận chính thức. Dự thảo Luật đã dành hẳn Chương
V quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong hoạt động đầu tư công. Tuy nhiên, mối quan hệ giải trình giữa các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phê duyệt chủ trương, kế hoạch đầu tư
công; đề xuất chương trình, dự án đầu tư công; quyết định chương trình, dự án
đầu tư công; quản lý và thực hiện chương trình, dự án đầu tư công; thanh tra,
kiểm tra hoạt động đầu tư công và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên
quan vẫn chưa được làm rõ. Đồng thời, mặc dù có quy định tại Mục 2 Chương V
về quyền và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong đầu tư công, song còn
thiếu cụ thể, chưa phân định được giữa trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm tổ
chức, đặc biệt là khi để xảy ra các sai phạm trong hoạt động đầu tư công.
Thứ hai, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ nội dung giải trình về các
vấn đề có liên quan trong phê duyệt chủ trương, các chương trình, dự án
đầu tư công; lập, thẩm định, phê duyệt và giao kế hoạch đầu tư công.
Về nguyên tắc, nội dung giải trình được xác định căn cứ vào yêu cầu thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo luật định đối với các cơ quan, tổ chức, đơn
vị, cá nhân có liên quan trong các hoạt động đầu tư công, bao gồm: lập đề xuất,
thẩm định và quyết định chủ trương đầu tư công; lập, thẩm định và phê duyệt
chương trình, dự án; lập, thẩm định, phê duyệt và giao kế hoạch đầu tư công;
thực hiện kế hoạch đầu tư công hằng năm và các chương trình, dự án đầu tư
công; việc thanh tra, kiểm tra hoạt động đầu tư công. Vì vậy, hiệu quả thực hiện
trách nhiệm giải trình không được đảm bảo khi Luật NSNN năm 2002 chỉ quy định
chung chung như “báo cáo về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước, các dự án
26
và công trình quan trọng quốc gia, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các
dự án và công trình xây dựng cơ bản quan trọng khác” (Khoản 5 Điều 20) hoặc
“báo cáo tình hình thực hiện và kết quả sử dụng ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực
phụ trách theo chế độ quy định” (Khoản 4 Điều 24).
Tham chiếu đến dự thảo Luật đầu tư công cho thấy, Dự thảo đã bước đầu quy
định về trình tự, thủ tục và yêu cầu thẩm định, phê duyệt chủ trương, chương
trình, dự án và kế hoạch đầu tư công. Tuy nhiên, Dự thảo còn thiếu nhiều nội
dung giải trình trong một số giai đoạn của hoạt động đầu tư công như: giải trình
về phương án đầu tư chương trình, dự án đầu tư công; giải trình về các bên liên
quan trong chương trình, dự án đầu tư công; giải trình về năng lực và kinh
nghiệm của cơ quan đề xuất chương trình, dự án đầu tư công (Điều 33 về nội
dung báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư chương trình đầu tư công hoặc Điều 35
về nội dung báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư dự án đầu tư nhóm B, nhóm C);
tương tự như vậy trong giai đoạn lập, thẩm định, quyết định đầu tư (Điều 39 về
căn cứ lập, thẩm định); lập, thẩm định, phê duyệt và giao kế hoạch đầu tư công
(Điều 47 về căn cứ lập kế hoạch đầu tư công; Điều 48 về nguyên tắc lập kế
hoạch; Điều 49 và Điều 50 về nội dung báo cáo kế hoạch đầu tư)... Đồng thời, dự
thảo Luật đầu tư công cũng chưa đề cập rõ về trách nhiệm giải trình của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc chấp hành kế hoạch đầu tư
công trước các cơ quan dân cử (Quốc hội và HĐND các cấp) và trước người dân
(với vai trò là người thụ hưởng của các chương trình, dự án đầu tư công và
người đóng góp nguồn thu cho việc thực hiện các chương trình, dự án), bao gồm
cả việc phê duyệt chương trình, dự án đầu tư công; việc giao kế hoạch đầu tư
công, việc thực hiện các chương trình, dự án đầu tư công.
Thứ tư, các quy định pháp luật hiện hành chưa thể hiện rõ hình thức thực
hiện trách nhiệm giải trình về các vấn đề liên quan đến việc phê duyệt,
quyết định chủ trương đầu tư công, các chương trình, dự án đầu tư công
và việc tổ chức thực hiện.
Như phân tích ở trên, mặc dù pháp luật hiện hành không có quy định riêng về
trách nhiệm giải trình, tuy nhiên vấn đề này vẫn ít nhiều được thực hiện chủ yếu
thông qua cơ chế “báo cáo”, “thuyết minh” hoặc “làm rõ” về đề xuất chủ trương
đầu tư, kế hoạch đầu tư công trung hạn, kế hoạch đầu tư công hằng năm.... Trên
thực tế, việc giải trình các nội dung có liên quan đến ngân sách nhà nước nói
chung và việc thực hiện các chương trình, dự án đầu tư công trong thời gian qua
còn được thực hiện thông qua hình thức trình bày hoặc trả lời chất vấn theo yêu
cầu trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy
ban của Quốc hội, cũng như gửi văn bản trả lời các câu hỏi chất vấn của các đại
biểu Quốc hội hoặc Đoàn đại biểu Quốc hội (tương tự như vậy đối với HĐND các
cấp). Như vậy có thể thấy, việc thực hiện trách nhiệm giải trình vẫn chưa trở
thành một nhiệm vụ “đương nhiên”, mang tính chủ động của các cơ quan quản lý
nhà nước khi trình chủ trương đầu tư các chương trình, dự án đầu tư công, các kế
hoạch đầu tư công hoặc việc chấp hành các kế hoạch đầu tư công.
27
Vì vậy, các hình thức giải trình cần được quy định cụ thể trong dự thảo Luật đầu
tư công. Tương tự như vậy, nếu khái niệm giải trình như phân tích ở trên được
ghi nhận, thì các hình hình thức thực hiện cũng cần được quy định rõ trong Luật
nhằm đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả của chế định này trong thực tế. Tuy nhiên,
khi tham chiếu đến dự thảo Luật đầu tư công cho thấy, các hình thức giải trình
vẫn chưa được quy định cụ thể.
4.3. Vấn đề 3: Ngƣời dân chƣa tham gia một cách thực chất và có hiệu
quả vào các hoạt động đầu tƣ công; hoạt động của các ban giám sát
đầu tƣ cộng đồng còn hình thức.
Các biểu hiện của vấn đề này là:
Người dân thường không nắm được thông tin, ít quan tâm hoặc không
được tham gia vào các chương trình, dự án 100% vốn ngân sách nhà
nước, trừ tại các địa phương đã triển khai đổi mới phương pháp lập kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội thì người dân có tham gia vào xây dựng kế
hoạch phát triển của xã/phường (trường hợp ở tỉnh Nam Định ).
Người dân thường không tham gia vào việc triển khai các chương trình, dự
án mà không có sự đóng góp của nhân dân địa phương (ý kiến của ở các
địa phương tham vấn).
Các công trình theo mô hình “Nhà nước và nhân dân cùng làm” và với sự
tham gia quản lý (trong lập dự toán, thiết kế, giám sát thực hiện) của
người dân thường mang lại hiệu quả bền vững (điển hình về các công
trình được mô tả chi tiết trong phần A phụ lục báo cáo) .
Các công trình, chương trình hoặc dự án không có sự tham gia của người
dân thường đạt hiệu quả thấp và lãng phí do không đáp ứng đúng nhu cầu
và hoàn cảnh thực tế, thậm chí gây thiệt hại cho người dân (xem thêm chi
tiết về các công trình trong các câu chuyện điển hình ở phần B phụ lục báo
cáo).
Việc sử dụng tiền (ngân sách) trong các chương trình, dự án đầu tư công
kém hiệu quả khiến người dân mất lòng tin vào các cấp chính quyền (điển
hình 3 công trình sau trong tổng số các công trình được khảo sát: công
trình nước sạch tại Quy Hậu, Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình, công trình đập đồng
nội xã Đồng Tâm, Lạc Thủy, Hòa Bình, công trình nhà sinh hoạt cộng đồng
Khóm 1, thị trấn Klông Kla, huyện Đakrông, xem thêm chi các câu chuyện
trong phần B phụ lục báo cáo).
Thực trạng này xuất phát từ một số nguyên nhân chính như sau:
Thứ nhất, pháp luật hiện hành chưa quy định đầy đủ về sự tham gia trực
tiếp của người dân vào các hoạt động đầu tư công.
28
Sự tham gia trực tiếp của người dân vào các hoạt động đầu tư công được thể
hiện thông qua hai phương thức chính, bao gồm: (i) tham gia ý kiến hoặc tham
vấn, thảo luận trong quá trình đề xuất, phê duyệt, quyết định chủ trương đầu tư
công, chương trình, dự án đầu tư công, kế hoạch đầu tư công và (ii) giám sát việc
triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư công (bao gồm cả các chương trình, dự án
đầu tư công). Cụ thể hơn, người dân ở cấp cơ sở cần được tham gia vào việc lựa
chọn các ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội đề cập trong kế hoạch phát triển kinh
tế-xã hội và kế hoạch đầu tư công ở địa phương mình sinh sống và có ý kiến về
việc phân bổ vốn, nguồn lực cho các nhiệm vụ đó; đồng thời, họ cũng chính là
người giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển và hiệu quả sử dụng ngân
sách trong quá trình thực hiện.
Sự tham gia trực tiếp của người dân vào các hoạt động đầu tư công xuất phát từ
việc họ vừa là chủ thể đóng góp tạo nguồn vốn triển khai các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, vừa là đối tượng thụ hưởng những kết quả phát triển kinh tế - xã
hội ở địa phương. Theo quy định của pháp luật hiện hành, các phương thức tham
gia trực tiếp của người dân trong một số hoạt động đầu tư công như tham gia ý
kiến vào dự thảo quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự thảo kế hoạch thực hiện
chương trình, dự án đầu tư công6 và giám sát đầu tư công7. Tuy nhiên hiệu quả
thực hiện các hình thức này còn hạn chế do thiếu thông tin, hạn chế về năng lực
hoặc nguồn lực thực hiện.
Tham chiếu đến dự thảo Luật đầu tư công cho thấy, những hạn chế phân tích ở
trên vẫn chưa được khắc phục. Mặc dù tại các Điều 80 và Điều 81 Dự thảo có
quy định về việc hình thức giám sát đầu tư cộng đồng, tuy nhiên còn chung chung
và chủ yếu ghi nhận tinh thần của các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về
giám sát đầu tư cộng đồng. Khoản 1 Điều 80 quy định các chương trình, dự án
đầu tư công chịu sự giám sát của cộng đồng. Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 80 lại quy
định cơ quan chủ quản tham khảo ý kiến cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án
đối với việc quyết định đầu tư các dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, các
dự án có quy mô di dân, tái định canh, định cư lớn, có nguy cơ tác động lớn đến
môi trường. Như vậy, còn có sự thiếu nhất quán giữa Khoản 2 với Khoản 1 Điều
80 khi giới hạn phạm vi các dự án mà cơ quan chủ quản tham khảo ý kiến của
người dân. Quy định này chưa phản ánh đúng nguyên tắc công khai, minh bạch
khi mọi chương trình, dự án có liên quan trực tiếp đến người dân (như triển khai
tại địa phương hoặc có liên quan, tác động trực tiếp đến người dân ở địa phương),
thì đều phải lấy ý kiến của họ. Ngoài ra, Dự thảo cũng chưa ghi nhận việc tham
vấn hoặc lấy ý kiến chuyên gia về các nội dung phức tạp, mang tính chuyên
ngành trong quá trình thẩm định chương trình, dự án hoặc kế hoạch đầu tư công.
Thứ hai, các hình thức tham gia gián tiếp thông qua đại biểu Quốc hội và
6 Theo quy định tại Điều 19, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007.
7 Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007; Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg
ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế giám sát đầu tư cộng đồng và Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-KH&ĐT-UBTƯMTTQVN-TC ngày 04/12/2006 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quy chế giám sát đầu tư cộng đồng.
29
đại biểu HĐND trong các hoạt động đầu tư công vẫn còn những hạn chế
về hiệu lực, hiệu quả thực hiện.
Căn cứ vào Luật NSNN năm 2002 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản có liên quan đến
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, HĐND các cấp có liên quan
đến hoạt động đầu tư công8. Quốc hội cũng đã thông qua Luật về hoạt động giám
sát của Quốc hội năm 2003. Tuy nhiên, vẫn còn những khoảng trống về pháp luật
trong việc phát huy vai trò của các đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp
với tư cách là những người đại diện cho nhân dân ở cấp cơ sở khi có ý kiến về
lập, phê duyệt chủ trương đầu tư công; lập, phê duyệt và thực hiện các chương
trình, dự án đầu tư công. Điều này thể hiện ở chỗ các văn bản hiện hành đều
không quy định về việc yêu cầu các đại biểu lấy ý kiến của người dân địa phương
về chương trình, dự án, kế hoạch đầu tư công trước khi tham gia quyết định các
vấn đề có liên quan đến họ. Bên cạnh đó, hoạt động giám sát của các cơ quan
dân cử cũng không thể đảm bảo thường xuyên, liên tục và bao quát được hết các
chương trình, dự án hoặc nhiệm vụ chi có sử dụng ngân sách nhà nước, đặc biệt
là các chương trình, dự án quy mô trung bình hoặc nhỏ ở cấp xã. Chính vì vậy,
hiệu lực và hiệu quả tham gia gián tiếp của người dân thông qua đại biểu các cơ
quan dân cử vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Đối chiếu với các quy định của dự thảo Luật đầu tư công cho thấy, thực trạng nêu
trên vẫn chưa được khắc phục hoàn toàn. Việc quyết định chủ trương đầu tư,
thông qua kế hoạch đầu tư công và giám sát việc chấp hành kế hoạch đầu tư
công, chương trình, dự án đầu tư công vẫn chưa đặt ra yêu cầu lấy ý kiến của
người dân ở cấp cơ sở thông qua các hoạt động tiếp xúc cử tri hoặc hoạt động
của các Đoàn đại biểu Quốc hội.
8 Đáng chú ý là Nghị quyết số 387/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 ban hành Quy chế lập,
thẩm tra, trình Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; Nghị định số 73/2003/NĐ-CP ngày 23/6/2003 của Chính phủ ban hành Quy chế xem xét, quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương, phê chuẩn quyết toán địa phương...
30
PPHHẦẦNN VV:: KKHHUUYYẾẾNN NNGGHHỊỊ VVỀỀ DDỰỰ TTHHẢẢOO LLUUẬẬTT ĐĐẦẦUU TTƯƯ
CCÔÔNNGG DDỰỰAA TTRRÊÊNN KKẾẾTT QQUUẢẢ TTHHAAMM VVẤẤNN CCỘỘNNGG ĐĐỒỒNNGG
Trên cơ sở kết quả tham vấn cộng đồng và khuyến nghị của người dân về công
khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý ngân sách và các công
trình đầu tư công tại các tỉnh Hòa Bình, Nam Định, Quảng Trị và Bà Rịa Vũng
Tàu, nhóm thực hiện tham vấn và nhóm chuyên gia đã cùng phân tích, nhận diện
các vấn đề, đánh giá và đề xuất các khuyến nghị nhằm hoàn thiện Dự thảo Luật
đầu tư công. Bên cạnh đó, nhóm cũng đã đưa ra một số khuyến nghị dựa trên
các yêu cầu trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật và so sánh, đối chiếu
với các quy định của pháp luật khác, qua đó giúp bảo đảm tính minh bạch, tính
thống nhất và tính đồng bộ của dự thảo Luật đầu tư công trong tổng thể hệ thống
pháp luật.
5.1 Mục tiêu 1: Mở rộng phạm vi, nội dung và hình thức thực hiện
công khai, minh bạch trong đầu tƣ công nhằm bảo đảm sự tham gia
của ngƣời dân.
Phạm vi các vấn đề khuyến nghị sửa đổi:
Sắp xếp lại, chỉnh lý và hoàn thiện các quy định về thực hiện công khai,
minh bạch (tại Khoản 2 Điều 12, Điều 14 và Khoản 5 Điều 48 dự thảo Luật)
nhằm bảo đảm tính nhất quán, cụ thể và rõ ràng trong tất cả các hoạt động
đầu tư công (dự kiến đưa các quy định về công khai, minh bạch vào
Chương I dự thảo Luật đầu tư công về Những quy định chung).
Bổ sung quy định về nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và trách nhiệm
thực hiện công khai, minh bạch của các tổ chức, cá nhân trong lập, thẩm
định, phê duyệt chủ trương đầu tư công; lập, thẩm định, phê duyệt chương
trình, dự án đầu tư công; lập, thẩm định, thông qua và giao kế hoạch đầu
tư công; chấp hành kế hoạch đầu tư công, bao gồm cả trách nhiệm thông
báo về việc công khai và thực hiện việc công khai (Chương V dự thảo Luật
đầu tư công).
Bổ sung thêm quy định cung cấp thông tin về đầu tư công, đặc biệt là về
chương trình, dự án và kế hoạch đầu tư công sau khi đã được phê duyệt
hoặc thông qua theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
(dự kiến đưa vào Chương I dự thảo Luật đầu tư công về Những quy định
chung).
Bổ sung quy định về nội dung giám sát, kiểm tra, thanh tra về đầu tư công,
trong đó quy định việc thực hiện công khai về đầu tư công (Điều 75, Điều
80 dự thảo Luật đầu tư công); bổ sung hành vi vi phạm nguyên tắc công
khai, minh bạch trong đầu tư công vào các hành vi bị cấm đầu tư công
(Điều 16 dự thảo Luật NSNN sửa đổi).
31
Các khuyến nghị cụ thể:
Khuyến nghị 1: Chỉnh lý Khoản 5 Điều 12 (về nguyên tắc quản lý đầu
tư công) theo hướng quy định chung cho các hoạt động đầu tư công,
bao gồm cả việc lập kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm
(Khoản 5 Điều 48 về nguyên tắc lập kế hoạch đầu tư công trung hạn
và hằng năm).
Sau khi chỉnh lý, Khoản 5 Điều 12 được coi là một quy định mang tính
nguyên tắc về thực hiện công khai, minh bạch về đầu tư công được đặt
trong Chương I về Những quy định chung, dự thảo Luật đầu tư công. Trên
cơ sở đó, các yêu cầu về công khai trong các hoạt động đầu tư công sẽ
được làm rõ trong các chương tiếp theo. Phương án này sẽ giúp nhấn
mạnh tầm quan trọng của tính công khai, minh bạch và coi đó như là một
yêu cầu mang tính xuyên suốt trong toàn bộ các hoạt động đầu tư công.
Đồng thời, qua đó cũng tránh việc nhắc lại hoặc bỏ sót nguyên tắc này
trong các chương cụ thể của dự thảo Luật.
Phương án đề xuất cụ thể như sau:
Dự thảo Luật đầu tƣ công Phƣơng án chỉnh lý
CHƢƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
.......
Điều 12. Nguyên tắc quản lý đầu tƣ công
1. ...
.........
5. Bảo đảm tính công khai, minh bạch trong
quản lý và sử dụng vốn đầu tư công
CHƢƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
........
Điều 12. Nguyên tắc quản lý đầu tƣ công
1. ...
.........
5. Bảo đảm tính công khai, minh bạch trong
các hoạt động đầu tư công(*).9
(*) Việc thay thế cụm từ “quản lý và sử dụng vốn đầu tư công” bằng “các hoạt động
đầu tư công” nhằm bảo đảm tính xuyên suốt của nguyên tắc công khai, minh
bạch; đồng thời bảo đảm tính nhất quán với quy định tại Khoản 2 Điều 4 Dự thảo
Luật về giải thích từ ngữ. Theo đó, “hoạt động đầu tư công” được hiểu bao gồm
lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư; lập, thẩm định, phê duyệt chương
trình, dự án sử dụng vốn đầu tư công; lập, thẩm định, phê duyệt, giao, triển khai
thực hiện, theo dõi và đánh giá, kiểm tra, thanh tra, thực hiện kế hoạch đầu tư
công.
9 Khuyến nghị này đã được tiếp thu trong Dự thảo chính thức trình Quốc hội xem xét, thông qua
tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XIII (Khoản 5 Điều 12).
32
Khuyến nghị 2: Chỉnh lý Điều 14, Dự thảo Luật theo mở rộng các nội
dung công khai, quy định hình thức công khai và trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan, tổ chức đơn vị trong việc thực hiện công
khai, minh bạch.
Sau khi chỉnh lý, Điều 14 được coi là một quy định chung, mang tính bao
trùm và làm rõ một bước nguyên tắc được ghi nhận tại Khoản 5 Điều 12.
Phương án này sẽ giúp bảo đảm việc thực hiện công khai, minh bạch trong
các hoạt động đầu tư công nhất quán và cụ thể hơn. Đồng thời, quy định
này cũng giúp xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị có liên quan đến các hoạt động đầu tư công trong việc thực
hiện công khai, minh bạch và làm căn cứ để giám sát, thanh tra, kiểm tra,
xử lý vi phạm và bảo đảm hiệu lực thực tế.
Phương án đề xuất cụ thể như sau:
Dự thảo Luật đầu tƣ công Phƣơng án chỉnh lý
CHƢƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
.......
Điều 14. Công khai, minh bạch
trong đầu tƣ công
1. Nội dung công khai, minh bạch
trong đầu tư công bao gồm:
a) Chính sách, pháp luật và việc tổ
chức thực hiện chính sách, pháp luật trong
quản lý và sử dụng vốn đầu tư công;
b) Nguyên tắc, tiêu chí, căn cứ xác
định, lựa chọn danh mục dự án đầu tư công;
tác động của dự án tới địa bàn đầu tư;
c) Nguyên tắc, tiêu chí và định mức
phân bổ vốn đầu tư công cho các dự án theo
từng nguồn vốn;
d) Kế hoạch phân bổ vốn đầu tư công
trung hạn và hằng năm theo từng nguồn vốn;
đ) Tình hình và kết quả thực hiện kế
hoạch, chương trình, dự án đầu tư công;
e) Tình hình huy động các nguồn lực
và nguồn vốn khác tham gia thực hiện các
dự án đầu tư công;
g) Quy hoạch, kế hoạch, các chương
trình đầu tư trên địa bàn, bao gồm: vốn bố trí
cho từng chương trình theo từng năm, tiến
độ thực hiện và giải ngân vốn chương trình;
CHƢƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
........
Điều 14. Công khai, minh bạch
trong hoạt động đầu tƣ công(*)
1. Nội dung công khai, minh bạch
trong hoạt động đầu tư công bao gồm:
a) Chính sách, pháp luật và việc tổ
chức thực hiện chính sách, pháp luật trong
quản lý và sử dụng vốn đầu tư công;
b) Việc xác định các nNguyên tắc,
tiêu chí, căn cứ xác định, lựa chọn danh mục
dự án đầu tư công; tác động của dự án tới
địa bàn đầu tư;
c) Việc xác định các nNguyên tắc, tiêu
chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công
cho các dự án theo từng nguồn vốn;
d) Dự kiến phương án và kKế hoạch
phân bổ vốn đầu tư công trung hạn và hằng
năm theo từng nguồn vốn;
đ) Việc lập, thẩm định, phê duyệt và
tình hình, kết quả Tình hình và kết quả thực
hiện kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư
công;
e) Kế hoạch và Ttình hình thực hiện
kế hoạch huy động các nguồn lực và nguồn
vốn khác tham gia thực hiện các dự án đầu
tư công;
33
Dự thảo Luật đầu tƣ công Phƣơng án chỉnh lý
h) Danh mục dự án đầu tư công được
quyết định chủ trương đầu tư và được quyết
định đầu tư trên địa bàn, bao gồm: quy mô,
tổng mức đầu tư, thời gian, địa điểm;
i) Danh mục dự án đầu tư công được
bố trí kế hoạch đầu tư trung hạn, hằng năm
theo từng nguồn vốn;
k) Mức vốn đầu tư công bố trí cho
từng dự án;
l) Tiến độ thực hiện và giải ngân các
dự án theo từng nguồn vốn;
m) Kết quả nghiệm thu, chất lượng
dự án đầu tư công.
2. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
phải thực hiện việc công khai các nội dung
đầu tư công theo quy định của pháp luật.
g) Quy hoạch, kế hoạch, các chương
trình đầu tư trên địa bàn, bao gồm: quá trình
lập, thẩm định, phê duyệt và vốn bố trí cho
từng chương trình theo từng năm, tiến độ
thực hiện và giải ngân vốn chương trình và
thuyết minh về chương trình;
h) Danh mục dự án đầu tư công được
đề xuất, bản thuyết minh về các dự án kèm
theo và Ddanh mục dự án đầu tư công được
quyết định chủ trương đầu tư và được quyết
định đầu tư trên địa bàn, bao gồm: quy mô,
tổng mức đầu tư, thời gian, địa điểm;
i) Danh mục dự án đầu tư công được
đề xuất, bản thuyết minh về các dự án kèm
theo và Ddanh mục dự án đầu tư công được
bố trí kế hoạch đầu tư trung hạn, hằng năm
theo từng nguồn vốn;
k) Mức vốn đầu tư công được bố trí
cho từng dự án;
l) Tiến độ thực hiện và giải ngân theo
kế hoạch đã được phê duyệt và trên thực tế
đối với các dự án theo từng nguồn vốn;
m) Kết quả nghiệm thu, kết quả thẩm
định, đánh giá chất lượng, tác động của các
chương trình, dự án đầu tư công.;
n) Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư
công, Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo
cáo nghiên cứu khả thi đối với các chương
trình, dự án đầu tư công, báo cáo kế hoạch
đầu tư công trung hạn và hằng năm;
o) Kết quả giám sát, kiểm tra, đánh
giá việc thực hiện các chương trình, dự án,
kế hoạch đầu tư công.
2. Việc công khai trong hoạt động đầu tư
công phải được thực hiện bằng các hình
thức: niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ
quan, đơn vị, tổ chức; thông báo bằng văn
bản đến các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá
nhân có liên quan; đưa lên trang thông tin
điện tử. Ngoài hình thức công khai bắt buộc,
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể lựa chọn
thêm một trong các hình thức công khai, bao
gồm: phát hành ấn phẩm; thông báo trên các
phương tiện thông tin ðại chúng; công bố
trong các kỳ họp thường niên; cung cấp theo
yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
34
Dự thảo Luật đầu tƣ công Phƣơng án chỉnh lý
4. Người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn
vị có trách nhiệm xác định nội dung công
khai và thực hiện công khai đầu tư công theo
quy định tại Khoản 2, Khoản 3 Điều này và
các quy định của pháp luật có liên quan.
5. Chính phủ quy định chi tiết về việc thực
hiện công khai, minh bạch trong lĩnh vực đầu
tư công.
2. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
phải thực hiện việc công khai các nội dung
đầu tư công theo quy định của pháp luật.
(*) Việc chỉnh lý Điều 14 nhằm bảo đảm quy định cụ thể về nội dung, hình thức và
trách nhiệm công khai của các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan đến các hoạt
động đầu tư công. Mặc dù các hình thức công khai đã được ghi nhận tại Điều 12
Luật PCTN, tuy nhiên còn thiếu cụ thể. Vì vậy, dự thảo Luật đầu tư công cần quy
định về việc áp dụng các hình thức công khai cho phù hợp với yêu cầu trong lĩnh
vực này, qua đó góp phần nâng cao tính khả thi của các quy định pháp luật.
Phương án đề xuất cũng mở rộng nội dung công khai, bao gồm cả các tài liệu có
liên quan trong đề xuất, lập, thẩm định hoặc phê duyệt để tăng cường sự tham gia
của người dân.
Khuyến nghị 3: Bổ sung nhiệm vụ “cung cấp thông tin, thực hiện
công khai, minh bạch trong hoạt động đầu tư công theo quy định của
Luật này và các quy định pháp luật khác có liên quan” của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị có liên quan đến các hoạt động đầu tư công
trong Dự thảo.
Phương án này sẽ tạo cơ sở cho việc thực hiện công khai, minh bạch
trong đầu tư công được triển khai một cách đồng bộ, thống nhất và thực
chất. Đồng thời, quy định này cũng giúp các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, đặc biệt là cơ quan thanh tra, cơ quan kiểm tra có căn cứ xử lý vi
phạm về công khai, minh bạch trong đầu tư công.
Nhiệm vụ này cần được bổ sung vào các điều tại Chương V Dự thảo, bao
gồm: Điều 85 về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; Điều 86 về nhiệm
vụ, quyền hạn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Điều 87 về nhiệm vụ, quyền
hạn của Bộ Tài chính; Điều 88 về nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ
quan trung ương; Điều 90 về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh; Điều 91 về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp huyện,
cấp xã; Điều 96 về quyền và trách nhiệm của chủ đầu tư; Điều 99 về quyền
và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan đến tư vấn thiết kế chương
trình...
Phương án đề xuất cụ thể như sau:
35
Chƣơng V
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN, TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC, CÁ NHÂN
TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ CÔNG
Điều...
........
x) Cung cấp thông tin, thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động đầu tư công theo
quy định của Luật này và các quy định pháp luật khác có liên quan.
Khuyến nghị 4: Bổ sung hành vi vi phạm chế độ công khai, minh bạch
theo quy định của pháp luật vào các hành vi bị cấm trong đầu tư
công.
Coi không thực hiện chế độ công khai, minh bạch như một trong các vi
phạm pháp luật nói chung là rất quan trọng nhằm tạo cơ sở pháp lý cho
việc xem xét, xử lý trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người
có thẩm quyền khi không thực hiện các quy định của Luật đầu tư công và
quy định của pháp luật khác có liên quan đến công khai, minh bạch trong
các hoạt động đầu tư công. Quy định như vậy cũng thể hiện tính phòng
ngừa và răn đe đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc
đảm bảo thực hiện nghiêm túc các quy định về công khai, minh bạch trong
đầu tư công.
Phương án đề xuất cụ thể như sau:
Dự thảo Luật đầu tƣ công Phƣơng án chỉnh lý
Chƣơng I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
.......
Điều 16. Các hành vi bị cấm trong
đầu tƣ công
1....
....
11. Cản trở, đe dọa, quấy rối việc phát hiện
các hành vi vi phạm việc thực hiện pháp luật
về đầu tư công.
Chƣơng I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
.......
Điều 16. Các hành vi bị cấm trong
đầu tƣ công
1....
....
11. Cản trở, đe dọa, quấy rối việc phát hiện
các hành vi vi phạm việc thực hiện pháp luật
về đầu tư công.
12. Không thực hiện công khai, minh bạch
theo quy định của Luật này và các văn bản
pháp luật khác có liên quan đến hoạt động
đầu tư công.
Khuyến nghị 5: Bổ sung việc thực hiện công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình là nội dung của hoạt động giám sát, thanh tra về đầu
36
tư công theo quy định tại Khoản 3 Điều 80 và Điều 83 dự thảo Luật
đầu tư công.
Quy định việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình là
nội dung của hoạt động giám sát, thanh tra sẽ giúp tạo ra cơ chế bảo đảm
các cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người có thẩm quyền trong các cơ
quan, tổ chức, đơn vị thực hiện nghiêm chỉnh chế độ công khai, minh bạch
và trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. Phương án
này cũng sẽ khắc phục tính hình thức trong việc thực hiện công khai, minh
bạch về đầu tư công như đã phân tích trong phần nhận diện vấn đề. Qua
đó giúp nhấn mạnh đến nỗ lực nhằm minh bạch hóa hoạt động đầu tư
công.
Phương án đề xuất cụ thể như sau:
Dự thảo Luật đầu tƣ công Phƣơng án chỉnh lý
CHƢƠNG IV
THỰC HIỆN VÀ THEO DÕI, KIỂM TRA,
ĐÁNH GIÁ, THANH TRA KẾ HOẠCH ĐẦU
TƢ CÔNG
MỤC 2. THEO DÕI, KIỂM TRA,
ĐÁNH GIÁ, THANH TRA KẾ HOẠCH,
CHƢƠNG TRÌNH, DỰ ÁN ĐẦU TƢ CÔNG
Điều 80. Giám sát đầu tƣ của cộng
đồng
1...
2.
3. Nội dung giám sát đầu tư của cộng
đồng:
a) ;
...
d) Giám sát tình hình triển khai và tiến
độ thực hiện các dự án;
...
CHƢƠNG IV
THỰC HIỆN VÀ THEO DÕI, KIỂM TRA,
ĐÁNH GIÁ, THANH TRA KẾ HOẠCH ĐẦU
TƢ CÔNG
MỤC 2. THEO DÕI, KIỂM TRA,
ĐÁNH GIÁ, THANH TRA KẾ HOẠCH,
CHƢƠNG TRÌNH, DỰ ÁN ĐẦU TƢ CÔNG
Điều 80. Giám sát đầu tƣ của cộng
đồng
1...
2.
3. Nội dung giám sát đầu tư của cộng
đồng:
a) ;
....
d) Giám sát tình hình triển khai và tiến
độ thực hiện các dự án; việc thực hiện công
khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình
trong các hoạt động đâu tư công10;
....
Điều 83. Thanh tra quản lý và sử
dụng vốn đầu tƣ công
1. Việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư
công chịu sự thanh tra của các cơ quan chức
Điều 83. Thanh tra quản lý và sử
dụng vốn đầu tƣ công11
1. Việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư
công chịu sự thanh tra của các cơ quan chức
10
Khuyến nghị này đã được tiếp thu trong Dự thảo chính thức trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XIII (Khoản 3 Điều 80). 11
Chỉnh lý cho phù hợp với quy định của Luật thanh tra năm 2010 và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành quy định về hoạt động thanh tra.
37
Dự thảo Luật đầu tƣ công Phƣơng án chỉnh lý
năng nhà nước theo quy định của Luật này
và quy định của pháp luật liên quan theo
từng lĩnh vực quản lý.
2. Công tác thanh tra về đầu tƣ
thực hiện theo quy định của pháp luật về
thanh tra.
năng nhà nước theo quy định của Luật này
và quy định của pháp luật liên quan theo
từng lĩnh vực quản lý.
2. Công tác thanh tra về đầu tƣ
thực hiện theo quy định của pháp luật về
thanh tra.
1. Thanh tra đầu tư công bao gồm thanh tra
việc chấp hành pháp luật về đầu tư công;
việc quản lý, sử dụng vốn đầu tư công và
việc thực hiện chế độ công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình trong các hoạt động
đầu tư công.
2. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục thanh tra đầu
tư công được thực hiện theo các quy định của
Luật thanh tra và các văn bản pháp luật khác
có liên quan.
3. Chính phủ quy định chi tiết
Khoản 1 Điều này.
5.2. Mục tiêu 2: Tăng cƣờng trách nhiệm giải trình của các cơ quan
nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền trong cơ quan nhà nƣớc và các cơ
quan, tổ chức, đơn vị khác trong các hoạt động đầu tƣ công.
Phạm vi các vấn đề khuyến nghị sửa đổi:
Bên cạnh những khuyến nghị sửa đổi về công khai, minh bạch có liên quan đến
thực hiện trách nhiệm giải trình trong các hoạt động đầu tư công, nhóm chuyên
gia và các tổ chức thực hiện tham vấn tiếp tục khuyến nghị sửa đổi một số vấn đề
khác có liên quan trực tiếp đến trách nhiệm giải trình như sau:
Bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình vào phần quy định chung nhằm
tạo cơ sở pháp lý chung cho việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các
cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước và các
cơ quan, tổ chức, đơn bị khác trong các hoạt động đầu tư công (Chương I
về Những quy định chung, dự thảo Luật).
Bổ sung nội dung giải trình về kết quả chấp hành kế hoạch đầu tư công và
các chương trình, dự án đầu tư công theo thẩm quyền vào các quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước và trách nhiệm, nghĩa vụ
của tổ chức, cá nhân về ngân sách nhà nước (Chương V dự thảo Luật).
Bổ sung các quy định về nội dung, phương thức và các yêu cầu thực hiện
trách nhiệm giải trình trong các hoạt động đầu tư công, đặc biệt là trong
quá trình thẩm định chủ trương đầu tư; thẩm định chương trình, dự án sử
dụng vốn đầu tư công; thẩm định, giám sát, đánh giá, kiểm tra, thanh tra
38
việc thực hiện kế hoạch đầu tư công (tại các Chương II, Chương III và
Chương IV dự thảo Luật).
Các khuyến nghị cụ thể:
Khuyến nghị 6: Bổ sung điều khoản giải thích và quy định về trách
nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước và tổ chức, cá nhân về hoạt
động đầu tư công.
Như đã phân tích ở trên, trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước
và các tổ chức, cá nhân về hoạt động đầu tư công mặc dù đã thể hiện
trong nhiều điều khoản của dự thảo Luật, tuy nhiên chưa được ghi nhận
chính thức với tính chất là một chế định quan trọng nhằm minh bạch hóa
hoạt động đầu tư công. Vì vậy, Dự thảo cần quy định 01 khoản giải thích
về khái niệm “trách nhiệm giải trình” và bổ sung các quy định cụ thể về
trách nhiệm giải trình theo 02 phương án. Phương án 1 là bổ sung 01 điều
riêng quy định về trách nhiệm giải trình và phương án 2 là bổ sung nội
dung “giải trình” vào các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động đầu tư công (Chương V Dự
thảo).
Phương án đề xuất cụ thể như sau12:
Phương án 1:
Chƣơng I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
.......
Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
......
....x. Trách nhiệm giải trình về đầu tư công là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền,
theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, cung cấp thông tin, làm rõ các vấn đề có
liên quan đến việc lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư; lập, thẩm định, phê duyệt
chương trình, dự án sử dụng vốn đầu tư công; lập, thẩm định, phê duyệt, giao, triển khai
thực hiện kế hoạch đầu tư công và quản lý nhà nước về đầu tư công trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn theo luật định.
Điều .... Trách nhiệm giải trình về đầu tƣ công
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến các hoạt động đầu tư công có trách nhiệm
giải trình trước các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình đề xuất, lập chủ
trương đầu tư; đề xuất, lập chương trình, dự án đầu tư công; đề xuất, lập, phê duyệt, giao,
triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư công (giải trình chủ động của các cơ quan, tổ chức,
đơn vị đề xuất, lập chủ trương đầu tư; đề xuất, lập chương trình, dự án sử dụng vốn đầu tư
12
Đề xuất trên căn cứ vào kinh nghiệm quốc tế về trách nhiệm giải trình, cũng như quy định về trách nhiệm giải trình tại Điều 32a Luật PCTN, Nghị định số 90/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về trách nhiệm giải trình và một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
39
công; đề xuất, lập kế hoạch đầu tư công với các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt hoặc
thông qua; của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao kế hoạch đầu tư công, được phân bổ vốn
đầu tư công với cơ quan giao và phân bổ).
2. Khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, lợi ích liên quan trực tiếp có yêu cầu, cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải giải trình về việc lập, thẩm định, quyết định chủ trương
đầu tư; lập, thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án có sử dụng vốn đầu tư công; lập,
thẩm định, phê duyệt, giao, triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư công (giải trình theo yêu
cầu của cá nhân, tổ chức là những đối tượng chịu tác động hoặc thụ hưởng trực tiếp từ việc
thực hiện các hoạt động đầu tư công).
3. Trách nhiệm giải trình có thể được thực hiện trực tiếp giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân giải
trình và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu giải trình. Trong trường hợp yêu cầu giải trình
bằng văn bản, thì cơ quan, tổ chức, cá nhân giải trình phải thực hiện giải trình bằng văn
bản. Kết quả giải trình phải được công khai theo quy định pháp luật (làm rõ hình thức giải
trình).
4. Thời hạn thực hiện việc giải trình là 15 ngày kể từ ngày tiếp nhận yêu cầu giải trình thuộc
thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Trường hợp phức tạp, có thể gia hạn một lần,
nhưng không quá 15 ngày. Trường hợp vì lý do khách quan mà không thể thực hiện trách
nhiệm giải trình, thì cơ quan, tổ chức, cá nhân giải trình phải có trách nhiệm thông báo bằng
văn bản cho cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu giải trình và nêu rõ lý do.
5. Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục yêu cầu giải trình và thực hiện trách nhiệm
giải trình về ngân sách nhà nước.
Phương án 2:
Chƣơng V
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN, TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC, CÁ NHÂN
TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ CÔNG
Điều...
........
x) Cung cấp thông tin, thực hiện công khai, minh bạch và thực hiện trách nhiệm giải trình
trong hoạt động đầu tư công theo quy định của Luật này và các quy định pháp luật khác có
liên quan (ghép thêm vào điều khoản đề xuất mới trong Khuyến nghị 3)(*).
(*) Bổ sung khoản trên vào: Điều 85 về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; Điều 86 về
nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Điều 87 về nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ
Tài chính; Điều 88 về nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ quan trung ương; Điều 90 về
nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Điều 91 về nhiệm vụ, quyền hạn của
Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã; Điều 96 về quyền và trách nhiệm của chủ đầu tư; Điều
99 về quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan đến tư vấn thiết kế chương
trình...
5.3. Mục tiêu 3: Quy định rõ phƣơng thức và các biện pháp bảo đảm
sự tham gia của ngƣời dân vào các hoạt động đầu tƣ công.
Phạm vi các vấn đề khuyến nghị sửa đổi:
Ghi nhận nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của người dân vào các hoạt
động đầu tư công, đặc biệt là lập chủ trương đầu tư, chương trình, dự án
đầu tư và kế hoạch đầu tư công (Chương I về Những quy định chung, dự
40
thảo Luật).
Bổ sung, sửa đổi các quy định nhằm làm rõ các biện pháp bảo đảm sự
tham gia của người dân vào các hoạt động đầu tư công (tham gia ý kiến
trong quá trình lập chủ trương đầu tư, lập chương trình, dự án đầu tư, lập
kế hoạch đầu tư; giám sát việc chấp hành kế hoạch đầu tư công quy định
tại các Chương II, III và IV).
Các khuyến nghị cụ thể:
Khuyến nghị 7: Chỉnh lý Điều 12 dự thảo Luật về nguyên tắc quản lý
đầu tư theo hướng bao quát tất cả các nguyên tắc được quy định
trong hoạt động đầu tư công tại các chương cụ thể của Dự thảo.
Trong các chương cụ thể của dự thảo Luật đầu tư công đưa ra nhiều
nguyên tắc như trong lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư; lập,
thẩm định và phê duyệt chương trình, dự án đầu tư... Xuất phát từ tầm
quan trọng của các quy định này, Dự thảo cần chỉnh lý theo hướng đưa
vào Điều 12 và đặt trong Chương I Dự thảo về Những quy định chung và
bổ sung thêm nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của người dân trong các
hoạt động đầu tư công.
Phương án đề xuất cụ thể như sau:
Chƣơng I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
.......
Điều... Các nguyên tắc trong hoạt động đầu tƣ công
....x. Khuyến khích và bảo đảm sự tham gia hiệu quả của người dân trong các hoạt động
đầu tư công.
Khuyến nghị 8: Sửa đổi, bổ sung một số điều khoản trong dự thảo
Luật nhằm quy định rõ về các biện pháp bảo đảm sự tham gia của
người dân vào các hoạt động đầu tư công.
Để hiện thực hóa nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của người dân, Dự
thảo cần có các quy định về các biện pháp bảo đảm cụ thể. Các biện pháp
này tập trung vào: (i) quy định rõ hơn về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong việc giám sát, tổ chức giám sát các hoạt động đầu tư công
ở cấp cơ sở; (ii) quy định về việc tham vấn xã hội trong các hoạt động đầu
tư công, đặc biệt là quá trình lập, thẩm định chủ trương đầu tư; lập, thẩm
định chương trình, dự án đầu tư công; (iii) điều chỉnh thời gian lập, thẩm
định và thông qua kế hoạch đầu tư công cho phù hợp với lập dự toán ngân
sách nhà nước và tạo điều kiện cho quá trình tham vấn.
Phương án đề xuất cụ thể như sau:
41
Chƣơng II
CHỦ TRƢƠNG ĐẦU TƢ VÀ LẬP, THẨM ĐỊNH, PHÊ DUYỆT
CHƢƠNG TRÌNH, DỰ ÁN ĐẦU TƢ CÔNG
(i) Bổ sung nhiệm vụ “lấy ý kiến của người dân là các đối tượng có liên quan trực tiếp ở địa
bàn thực hiện chương trình, dự án đầu tư công” trong quá trình xây dựng báo cáo đề xuất
chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia hoặc xây dựng báo cáo nghiên cứu tiền
khả thi đối với các dự án đầu tư công khác và nhiệm vụ “tổ chức thảo luận hoặc tham vấn ý
kiến chuyên gia gia độc lập”13 trong quá trình thẩm định báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư
chương trình mục tiêu quốc gia, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đối với các dự án đầu tư
công có tác động lớn về mặt xã hội và môi trường ở các địa bàn triển khai quy định tại Điều
19 và từ Điều 21 đến Điều 32. Đồng thời, bổ sung báo cáo tổng hợp ý kiến tham vấn vào hồ
sơ chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia tại Điều 20; nội dung báo cáo
đề xuất chủ trương đầu tư chương trình đầu tư công tại Điều 33 và báo cáo nghiên cứu tiền
khả thi tại Điều 34, Điều 35.
(ii) Bổ sung nhiệm vụ “lấy ý kiến nhân dân và các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan ở
các địa bàn thực hiện chương trình, dự án đầu tư công” trong quá trình xây dựng báo cáo
nghiên cứu khả thi đối với các chương trình, dự án đầu tư công khác và nhiệm vụ “tổ chức
thảo luận hoặc tham vấn ý kiến chuyên gia lập”14 trong quá trình thẩm định báo cáo nghiên
cứu khả thi đối với các chương trình, dự án đầu tư công có tác động lớn về mặt xã hội và
môi trường ở các địa bàn triển khai tại các điều từ 40 đến 45.
Chƣơng III
LẬP, THẨM ĐỊNH, PHÊ DUYỆT VÀ GIAO KẾ HOẠCH ĐẦU TƢ CÔNG
(iii) Bổ sung 01 khoản tại Điều 55 và Điều 56 quy định: “Cơ quan quản lý nhà nước về kế
hoạch và đầu tư các cấp tổ chức lấy ý kiến của người dân, các cơ quan, tổ chức và đơn vị
có quyền và nghĩa vụ liên quan trên địa bàn triển khai chương trình, dự án công về dự thảo
kế hoạch đầu tư công trung hạn, dự thảo kế hoạch đầu tư công hằng năm”.
(iv) Điều chỉnh các mốc thời gian trong trình tự lập, thẩm định kế hoạch đầu tư công hằng
năm cho phù hợp với Luật NSNN và xu hướng kiến nghị sửa đổi. Theo đó, trước 31 tháng 3
năm trước15, Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành văn bản về lập kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm sau, bao gồm mục tiêu, định hướng chủ yếu và
giao nhiệm vụ cho các cấp, các ngành triển khai xây dựng kế hoạch đầu tư năm sau. Các
mốc thời gian tiếp theo cũng cần có những điều chỉnh nhằm bảo đảm thời gian cần thiết để
lấy ý kiến về các dự thảo kế hoạch.
.......
Chƣơng IV
THỰC HIỆN VÀ THEO DÕI, KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ, THANH TRA KẾ HOẠCH ĐẦU TƢ
CÔNG
(v) Sửa đổi tên chương nhằm làm rõ nội dung giám sát việc thực hiện kế hoạch đầu tư công
13
Đồng thời, Luật giao Chính phủ quy định chi tiết các trường hợp cụ thể phải tổ chức thảo luận hoặc tham vấn ý kiến chuyên gia độc lập và quy định về trình tự, thủ tục và kinh phí tổ chức tham vấn, lấy ý kiến. 14
Như trên (footnote 11). 15
Hiện tại, theo dự thảo Luật NSNN sửa đổi (Dự thảo trình xin ý kiến của Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7), thì mốc thời gian này là 31 tháng 5 năm trước. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến của các chuyên gia cho rằng, mốc thời gian này không phù hợp và cần điều chỉnh bắt đầu trước ngày 31 tháng 3 năm trước.
42
tại Điều 80 và Điều 81, cụ thể: “Chương IV: Thực hiện và theo dõi, kiểm tra, đánh giá, giám
sát, thanh tra việc thực hiện kế hoạch đầu tư công”.
(vi) Bổ sung 01 khoản tại Điều 4 về giải thích từ ngữ: Giám sát đầu tư của cộng đồng là việc
cộng đồng dân cư nơi thực hiện chương trình, dự án đầu tư công thu thập, tổng hợp, phân
tích thông tin và đánh giá việc chấp hành pháp luật; tình hình triển khai chương trình, dự án
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo trình tự, thủ tục và nội dung do pháp
luật quy định.
Dự thảo Luật đầu tƣ công Phƣơng án chỉnh lý(*)
Điều 80. Giám sát đầu tƣ của
cộng đồng
1. Các chương trình, dự án đầu tư
công chịu sự giám sát của cộng đồng. Mặt
trận Tổ quốc Việt nam các cấp chủ trì tổ
chức thực hiện việc giám sát cộng đồng.
2. Cơ quan chủ quản tham khảo ý
kiến cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án
đối với việc quyết định đầu tư các dự án
quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, các dự
án có quy mô di dân, tái định canh, định cư
lớn và có nguy cơ tác động lớn đến môi
trường.
3. Nội dung giám sát đầu tư của
cộng đồng:
a) Theo dõi, kiểm tra việc chủ đầu tư
chấp hành các quy định của pháp luật về
chấp hành quy hoạch xây dựng, chỉ giới đất
đai và sử dụng đất; xử lý chất thải, bảo vệ
môi trường;
b) Giám sát công tác đền bù, giải
phóng mặt bằng và phương án tái định
canh, định cư bảo đảm quyền lợi của nhân
dân;
c) Giám sát toàn diện các chương
trình, dự án đầu tư công sử dụng một phần
vốn đóng góp của người dân;
d) Giám sát tình hình triển khai và
tiến độ thực hiện các dự án;
đ) Phát hiện những việc làm xâm hại
đến lợi ích của cộng đồng; những tác động
tiêu cực của dự án đến môi trường sinh
sống của cộng đồng trong quá trình thực
hiện đầu tư và vận hành dự án; những việc
làm gây lãng phí, thất thoát vốn, tài sản
thuộc dự án.
Điều 81. Trình tự, thủ tục, quy
Điều 80. Giám sát đầu tƣ của cộng
đồng
1. Các hoạt động đầu tư công đều chịu
sự giám sát của cộng đồng dân cư cấp cơ sở
tại nơi triển khai. Mặt trận Tổ quốc Việt nam
các cấp chủ trì tổ chức thực hiện việc giám sát
cộng đồng. (bỏ vì chuyển lên Điều 93 về
nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam để tránh trùng lặp và tại Điều 93 sẽ
dẫn chiếu trở lại; bổ sung thêm nơi thực hiện
để xác định phạm vi giám sát).
2. Cơ quan chủ quản, chủ chương
trình, dự án đầu tư công và các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm tiếp
nhận tham khảo ý kiến cộng đồng dân cư nơi
triển khai hoạt động đầu tư công đối với việc
quyết định đầu tư các dự án quan trọng quốc
gia, dự án nhóm A, các dự án có quy mô di
dân, tái định canh, định cư lớn và có nguy cơ
tác động lớn đến môi trường, giải trình, làm rõ
hoặc tiếp thu để có giải pháp phù hợp trong
quá trình thực hiện. Trường hợp không tiếp
thu, thì phải nêu rõ lý do bằng văn bản trong
thời hạn.... ngày theo quy định tại Điều... Luật
này (điều quy định trách nhiệm giải trình về
đầu tư công –chỉnh lý theo hướng mở rộng
phạm vi giám sát và quy định rõ biện pháp
thực hiện).
3. Nội dung giám sát đầu tư của cộng
đồng:
a) Chủ trương, quyết định đầu tư các
chương trình, dự án đầu tư công trên địa bàn;
ab) Việc chấp hành pháp luật của chủ
đầu tư về chấp hành quy hoạch xây dựng, chỉ
giới đất đai và sử dụng đất; xử lý chất thải,
bảo vệ môi trường về đầu tư công, đất đai,
xây dựng, bảo vệ môi trường và các lĩnh vực
khác có liên quan đến hoạt động đầu tư công
(mở rộng nội dung giám sát);
43
trình giám sát đầu tƣ của cộng đồng
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ
trì, phối hợp các tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội hằng năm lập kế hoạch giám
sát cộng đồng chương trình, dự án đầu tư
trên địa bàn theo các nội dung quy định tại
khoản 3, Điều 80 Luật này; ra Quyết định
thành lập Tổ giám sát cộng đồng cho từng
chương trình, dự án; Thông báo cho các
chủ chương trình, chủ đầu tư và Ban quản
lý chương trình, dự án trước 45 ngày làm
việc về kế hoạch giám sát và thành viên Tổ
giám sát.
2. Chủ các chương trình, dự án và Ban
Quản lý chương trình, dự án có trách nhiệm
cung cấp cho Tổ giám sát đầy đủ, trung
thực, kịp thời các tài liệu liên quan đến việc
triển khai thực hiện chương trình, dự án để
thực hiện các nội dung quy định tại khoản 2
Điều 80 Luật này và tạo điều kiện thuận lợi
cho Tổ giám sát thực hiện việc giám sát
theo quy định của pháp luật; chịu trách
nhiệm tiếp thu các ý kiến giám sát cộng
đồng và tăng cường các biện pháp thực
hiện dự án.
bc) Công tác đền bù, giải phóng mặt
bằng và phương án tái định canh, định cư bảo
đảm quyền lợi của nhân dân;
cd) Các chương trình, dự án đầu tư
công sử dụng một phần vốn đóng góp của
người dân;
dđ) Tình hình triển khai và tiến độ thực
hiện các chương trình, dự án đầu tư công trên
địa bàn;
đe) Phát hiện những việc làm xâm hại
đến lợi ích của cộng đồng; những tác động
tiêu cực của chương trình, dự án đến môi
trường sinh sống của cộng đồng trong quá
trình thực hiện đầu tư và vận hành chương
trình, dự án; những việc làm gây lãng phí, thất
thoát vốn, tài sản thuộc chương trình, dự án.
4. Hình thức giám sát đầu tư của cộng
đồng:
a) Tổ chức lấy ý kiến của người dân về
các nội dung giám sát quy định tại Điểm a,
Điểm c Khoản 3 Điều này;
b) Thành lập tổ giám sát đối với các nội
dung giám sát quy định tại Điểm b và từ Điểm
c đến Điểm e Khoản 3 Điều này.
Điều 81. Trình tự, thủ tục, quy trình
giám sát đầu tƣ của cộng đồng
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì,
phối hợp các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội hằng năm lập kế hoạch giám sát cộng
đồng chương trình, dự án đầu tư trên địa bàn
theo các nội dung quy định tại kKhoản 3, Điều
80 Luật này; ra Qquyết định thành lập Ttổ
giám sát cộng đồng cho từng chương trình, dự
án; Tthông báo cho các chủ chương trình, dự
án, chủ đầu tư và Ban quản lý chương trình,
dự án trước 415 ngày làm việc về kế hoạch
giám sát và thành viên Ttổ giám sát.
Trường hợp phát sinh việc giám sát
ngoài kế hoạch đã được phê duyệt, thì Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam ra quyết định thành lập
tổ giám sát và thông báo cho các chủ chương
trình, dự án, chủ đầu tư và Ban quản lý
chương trình, dự án trong thời hạn quy định ở
trên.
2. Chủ các chương trình, dự án, chủ đầu tư và
Ban Qquản lý chương trình, dự án có trách
nhiệm hợp tác, cung cấp đầy đủ, trung thực,
44
kịp thời các thông tin, tài liệu có liên quan và
giải thích, làm rõ khi có yêu cầu của cho Tổ
giám sát; giải đầy đủ, trung thực, kịp thời các
tài liệu liên quan đến việc triển khai thực hiện
chương trình, dự án để thực hiện các nội dung
quy định tại khoản 2 Điều 80 Luật này và tạo
điều kiện thuận lợi cho Tổ giám sát thực hiện
việc giám sát theo quy định của pháp luật; chịu
trách nhiệm tiếp thu các ý kiến giám sát cộng
đồng và tăng cường các biện pháp thực hiện
dự án.
(*) Việc chỉnh lý các Điều 81 và 82 nhằm:
- Thứ nhất là bảo đảm tính nhất quán, lô-gíc trong các quy định, đặc biệt là xác định rõ nội
dung giám sát của cộng đồng dân cư cấp cơ sở đối với các hoạt động đầu tư công được
triển khai trên địa bàn. Như phân tích ở trên, quy định giữa Khoản 2 và Khoản 1 Điều 80
chưa có sự nhất quán. Quy định tại Khoản 2 Điều 80 Dự thảo chưa thể hiện rõ là quy định
về hình thức, nội dung hay trách nhiệm giám sát?
- Thứ hai là mở rộng phạm vi giám sát đối với hoạt động đầu tư công nói chung mà không
chỉ giới hạn đối với các chương trình, dự án đầu tư công như trong Dự thảo.
- Thứ ba là khắc phục hạn chế của Dự thảo khi chưa quy định về hình thức giám sát. Căn
cứ vào quy định tại Điều 80 và Điều 81, thì hình thức giám sát bao gồm cả việc tổ chức lấy ý
kiến của người dân.
- Thứ tư là giảm thời gian thông báo trước kế hoạch giám sát xuống 15 ngày nhằm tạo
thuận lợi và tính khả thi cho hoạt động giám sát; quy định về trường hợp giám sát phát sinh
ngoài kế hoạch và lược bớt một số quy định tại Khoản 2 Điều 81 do đã được đề cập trong
các điều khoản ở trên theo phương án chỉnh lý.
Chƣơng V
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN, TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC, CÁ NHÂN
TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ CÔNG
Dự thảo Luật đầu tƣ công Phƣơng án chỉnh lý
.....
Điều 93. Nhiệm vụ, quyền hạn của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1. Tổ chức lấy ý kiến cộng đồng
chủ trương đầu tư các chương trình, dự án
đầu tư công trên địa bàn theo quy định tại
điểm a, d khoản 3, Điều 80 Luật này.
2. Tổ chức giám sát cộng đồng các chương
trình, dự án đầu tư công.
....
......
Điều 93. Nhiệm vụ, quyền hạn của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1. Tổ chức lấy ý kiến cộng đồng chủ
trương đầu tư các chương trình, dự án đầu tư
công trên địa bàn theo quy định tại điểm a, d
khoản 3, Điều 80 Luật này.
2. Tổ chức giám sát cộng đồng các chương
trình, dự án đầu tư công.
Điều 93. Nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên
của Mặt trận
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
thành viên của Mặt trận các cấp có trách
nhiệm giám sát hoạt động đầu tư công theo
45
quy định của Luật này và các văn bản pháp
luật khác có liên quan; tổ chức và hướng dẫn
cho cộng đồng dân cư ở địa phương thực hiện
giám sát đầu tư công theo quy định tại Điều
80, Điều 81 Luật này.
2. Trong quá trình giám sát, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận
có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu
cần thiết và giải trình về các vấn đề có liên
quan đến hoạt động đầu tư công. (nâng cao
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức thành viên trong giám sát đầu tư
công).
.....
46
PPHHẦẦNN VVII:: KKẾẾTT LLUUẬẬNN
Hoạt động tham vấn cộng đồng về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và
sự tham gia của người dân trong quy trình ngân sách, bao gồm quản lý và sử
dụng ngân sách các công trình đầu tư công đã phản ánh chân thực những trải
nghiệm và nguyện vọng sâu sắc của người dân tại các địa phương nơi tiến hành
tham vấn đối với quy trình ngân sách và các hoạt động đầu tư công. Trên cơ sở
các kết quả tham vấn cộng đồng, nhóm chuyên gia và các tổ chức thực hiện tham
vấn đã cùng tiến hành phân tích và nhận diện các vấn đề, phân tích nguyên nhân
liên quan đến chủ đề tham vấn về tăng cường công khai, minh bạch và sự tham
gia của người dân trong các hoạt động đầu tư công. Cụ thể như sau:
Vấn đề 1: Tính công khai, minh bạch trong hoạt động đầu tƣ công còn hạn
chế, chƣa bảo đảm sự tham gia của ngƣời dân, dẫn đến còn tình trạng đầu
tƣ lãng phí, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của ngƣời dân.
Nhận diện các nguyên nhân:
Thứ nhất, việc thực hiện công khai, minh bạch trong đầu tư công mặc dù
đã được quy định tương đối toàn diện, song còn nằm trong nhiều văn bản
quy phạm pháp luật khác nhau, hiệu lực pháp luật chưa cao, dẫn đến quá
trình áp dụng còn hạn chế.
Thứ hai, pháp luật hiện hành chưa quy định về công khai, minh bạch trong
quá trình lập kế hoạch đầu tư công, đặc biệt là việc lập, phê duyệt chủ
trương đầu tư công; hoặc việc lập, thẩm định và phê duyệt các chương
trình, dự án đầu tư công.
Thứ ba, hình thức công khai còn mang tính chiếu lệ mà chưa thực sự tạo
thuận lợi cho người dân tiếp cận các thông tin về đầu tư công.
Thứ tư, các quy định pháp luật hiện hành chưa quy định rõ các hình thức
xử lý đối với các hành vi vi phạm nghĩa vụ công khai, minh bạch trong hoạt
động đầu tư công.
Vấn đề 2: Trách nhiệm giải trình trong các hoạt động đầu tƣ công chƣa rõ
ràng để làm căn cứ cụ thể hóa trách nhiệm của từng chủ thể có thẩm quyền.
Nhận diện các nguyên nhân:
Thứ nhất, các quy định pháp luật hiện hành chưa quy định rõ trách nhiệm
giải trình và mối quan hệ giữa các bên liên quan trong việc thực hiện trách
nhiệm giải trình về hoạt động đầu tư công16.
16
Hiện tại, “trách nhiệm giải trình” mới được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam như tại Điều 32a, Luật PCTN; từ Điều 73 đến Điều 76, Luật đấu thầu. Trên thực tế, các cơ quan nhà nước đã thực hiện trách nhiệm giải trình thông qua các hình thức “báo cáo”, “trả lời chất vấn” hoặc “giải thích, làm rõ”... trong quá trình thông qua các chủ trương, chính sách hoặc pháp luật... Tuy nhiên, thuật ngữ này vẫn chưa được quy định cụ thể trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư công, chưa gắn kết được với nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Đồng thời, các quy định
47
Thứ hai, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ nội dung giải trình về các
vấn đề có liên quan trong phê duyệt chủ trương, các chương trình, dự án
đầu tư công; lập, thẩm định, phê duyệt và giao kế hoạch đầu tư công.
Thứ ba, các quy định pháp luật hiện hành chưa thể hiện rõ hình thức thực
hiện trách nhiệm giải trình về các vấn đề liên quan đến việc phê duyệt,
quyết định chủ trương đầu tư công, các chương trình, dự án đầu tư công
và việc tổ chức thực hiện.
Vấn đề 3: Ngƣời dân chƣa tham gia một cách thực chất và có hiệu quả vào
các hoạt động đầu tƣ công; hoạt động của các ban giám sát đầu tƣ cộng
đồng còn hình thức.
Thực trạng này xuất phát từ một số nguyên nhân chính như sau:
Thứ nhất, pháp luật hiện hành chưa quy định đầy đủ về sự tham gia trực
tiếp của người dân vào các hoạt động đầu tư công.
Thứ hai, các hình thức tham gia gián tiếp thông qua đại biểu Quốc hội và
đại biểu HĐND trong các hoạt động đầu tư công vẫn còn những hạn chế
về hiệu lực, hiệu quả thực hiện.
Từ thực trạng phân tích trên, nhóm tham vấn và tƣ vấn đã đƣa ra một số
khuyến nghị nhằm góp phần hoàn thiện dự thảo Luật đầu tƣ công cụ thể
nhƣ sau:
Mở rộng phạm vi, nội dung và hình thức thực hiện công khai, minh bạch
trong đầu tƣ công nhằm bảo đảm sự tham gia của ngƣời dân.
Khuyến nghị 1: Chỉnh lý Khoản 5 Điều 12 (về nguyên tắc quản lý đầu tư
công) theo hướng quy định chung cho các hoạt động đầu tư công, bao
gồm cả việc lập kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm17 (Khoản 5
Điều 48 về nguyên tắc lập kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm).
Khuyến nghị 2: Chỉnh lý Điều 14, Dự thảo Luật theo mở rộng các nội dung
công khai, quy định hình thức công khai và trách nhiệm của người đứng
đầu cơ quan, tổ chức đơn vị trong việc thực hiện công khai, minh bạch.
Khuyến nghị 3: Bổ sung nhiệm vụ “cung cấp thông tin, thực hiện công khai,
minh bạch trong hoạt động đầu tư công theo quy định của Luật này và các
quy định pháp luật khác có liên quan” của các cơ quan, tổ chức, đơn vị có
liên quan đến các hoạt động đầu tư công trong Dự thảo (các Điều 85 đến
Điều 88; Điều 90, Điều 91, Điều 96 và Điều 99).
Khuyến nghị 4: Bổ sung hành vi vi phạm chế độ công khai, minh bạch theo
quy định của pháp luật vào các hành vi bị cấm trong đầu tư công (Điều 16,
Điều 80 và Điều 83).
trong Luật PCTN, Luật đấu thầu cũng không thay thế được trách nhiệm giải trình trong các hoạt động đầu tư công. 17
Khuyến nghị này đã được tiếp thu trong Dự thảo chính thức trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XIII (Khoản 5 Điều 12).
48
Khuyến nghị 5: Bổ sung việc thực hiện công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình là nội dung của hoạt động giám sát18, thanh tra về đầu tư
công theo quy định tại Khoản 3 Điều 80 và Điều 83 dự thảo Luật đầu tư
công.
Tăng cƣờng trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nƣớc và các cơ quan, tổ chức, đơn vị khác trong
các hoạt động đầu tƣ công.
Khuyến nghị 6: Bổ sung điều khoản quy định về trách nhiệm giải trình của
cơ quan nhà nước và tổ chức, cá nhân về hoạt động đầu tư công (các
Điều 85 đến Điều 88; Điều 90, Điều 91, Điều 96 và Điều 99).
Quy định rõ phƣơng thức và các biện pháp bảo đảm sự tham gia của ngƣời
dân vào các hoạt động đầu tƣ công.
Khuyến nghị 7: Chỉnh lý Điều 12 dự thảo Luật về nguyên tắc quản lý đầu tư
theo hướng bao quát tất cả các nguyên tắc được quy định trong hoạt động
đầu tư công tại các chương cụ thể của Dự thảo.
Khuyến nghị 8: Sửa đổi, bổ sung một số điều khoản trong dự thảo Luật
nhằm quy định rõ về các biện pháp bảo đảm sự tham gia của người dân
vào các hoạt động đầu tư công (Điều 19 và các Điều từ 21 đến 32; Điều
20, Điều 33 đến Điều 35; từ Điều 40 đến Điều 55; Điều 56; Điều 80, Điều
81 và Điều 93)
Hoạt động tham vấn cộng đồng này đã phản ánh chân thực những trải nghiệm và
nguyện vọng sâu sắc của người dân tại các địa phương nơi tiến hành tham vấn
đối với các hoạt động đầu tư công. Vì vậy, những khuyến nghị đưa ra trong Báo
cáo được mong đợi là sẽ giúp các Đại biểu Quốc hội và cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo Luật đầu tư công trong quá trình
thảo luận và thông qua tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII. Việc phản ánh trung
thực tâm tư, nguyện vọng của người dân sẽ là một trong các điều kiện tiên quyết
để Luật đầu tư công sau khi được thông qua có thể đi vào cuộc sống và có tính
khả thi cao.
18
Khuyến nghị này đã được tiếp thu trong Dự thảo chính thức trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XIII (Khoản 3 Điều 80).
49
PPHHỤỤ LLỤỤCC BBÁÁOO CCÁÁOO
Một số câu chuyện điển hình về các công trình đầu tư công được nhóm tham vấn
đi khảo sát
A. Các câu chuyện điển hình về các công trình đầu tƣ công có ngƣời
dân tham gia quản lý nên đạt hiệu quả sử dụng cao
CCââuu cchhuuyyệệnn 11:: HHệệ tthhốốnngg mmưươơnngg ttưướớii ttiiêêuu ttạạii TThhôônn BBààoo,, xxãã TThhaannhh HHốốii,, hhuuyyệệnn TTâânn
LLạạcc,, ttỉỉnnhh HHòòaa BBììnnhh..
Hai hệ thống kênh mương nằm ngay cạnh nhau nhưng hiệu quả sử dụng
hoàn toàn trái ngược nhau. Con mương có người dân tham gia quản lý đầu
tư thì hoạt động tốt và đáp ứng như cầu sản xuất nông nghiệp của bà con.
Con mương còn lại, không có sự tham gia của người dân, chưa xong đã
hỏng, bị bỏ không và lãng phí của công.
Thôn Bào thuộc xã Thanh Hối huyện Tân Lạc tỉnh Hòa Bình, là thôn miền núi, tình
hình kinh tế chưa phát triển. Với 80% dân sinh sống bằng nghề nông, thôn được
coi là vùng phát triển nông nghiệp trọng điểm của toàn xã cả về diện tích và sản
lượng. Do vậy, việc cải tạo cơ sở vật chất để phát triển nông nghiệp được coi là
ưu tiên hàng đầu. Địa phương đã có nhiều dự án đầu tư cơ sở hạ tầng cho ngành
nông nghiệp, đặc biệt chú trọng đầu tư
vào hệ thống kênh mương tưới tiêu trên
địa bàn xã.
Ra đồng ruộng thôn Bào có thể phát hiện
ngay một điều “lạ” – có tới hai hệ thống
mương dẫn nước tưới tiêu được xây
dựng rất gần nhau. Trong đó, chỉ có một
hệ thống hoạt động – có nước dẫn tới
ruộng của bà con.
Kênh mương thứ nhất – hiện giờ không
hoạt động, là công trình ngân sách huyện
đầu tư và thuê thợ về xây dựng. Người
dân không được biết và cũng không được
tham gia ý kiến. Kết quả là, con mương ấy
sau khi nghiệm thu thì gần như không sử dụng được. Mương được làm cao hơn
đồng ruộng, nên nước không tưới được cho đồng và cũng khó tiêu úng trong mùa
mưa.. Chỉ ít lâu sau khi hoàn thành, nhiều chỗ đã bị vỡ, nứt, sụt và bục cả mảng
lớn nước không thoát ra được. Chưa kể đến ở mặt mương các tấm lưới đan
bằng thép quá thưa và không đảm bảo kỹ thuật của công trình.
Do tình trạng kênh mương như vậy nên người dân gặp nhiều khó khăn để cung
cấp nước cho sản xuất, để bảo đảm sản lượng và năng suất canh tác. Trước tình
Công trình mương không có sự tham gia
của người dân bị bỏ hoang vì không sử
dụng được
50
hình này, huyện lại phải cấp tiếp ngân sách để xây dựng hệ thống kênh
mƣơng khác cho xã chạy song song với con mương kia. Nhưng lần này, huyện
khoán về cho xã và người dân các thôn tự đứng ra đấu thầu và quản lý công
trình.
Người dân thôn Bào kể lại rằng họ được
tham gia ngay từ trong trong quá trình xây
dựng hệ thống kênh mương thứ hai này.
Các cán bộ chủ chốt của thôn đã cùng
nhau lập dự toán về công trình với các
hạng mục chi cụ thể, rồi họp dân để báo
cáo và xin ý kiến thống nhất những điểm
cơ bản cho việc xây dựng công trình như
thiết kế tổng thể, dự toán các hạng mục,
thời gian thực hiện, v.v. Trong các cuộc
họp này, người dân trong thôn cũng đưa
ra ý kiến của mình để bàn bạc và cuối
cùng thì thống nhất. Việc thuê thợ cũng do
người dân tự quyết định. Một ban giám sát
tại cộng đồng đã được bầu ra trong cuộc họp thôn để quản lý và giám sát công
trình.
Con mương được xây dựng nhanh chóng với chất lượng đúng như yêu cầu của
người dân. Khi con mương hoàn thành, cán bộ thôn cùng ban giám sát cộng
đồng đã tổ chức họp để báo cáo lại kết quả chi tiêu tài chính với người dân trong
thôn.
Tới nay, sau hai năm sử dụng, con mương vẫn hoạt động rất tốt. Trên thực tế,
hoạt động canh tác, sản xuất của bà con thôn Bào chủ yếu dựa vào nguồn nước
do hệ thống mương này cung cấp.
CCââuu cchhuuyyệệnn 22:: CCôônngg ttrrììnnhh llààmm đđưườờnngg ttạạii ttổổ 44,, pphhưườờnngg TTrràànngg TThhii,, tthhàànnhh pphhốố NNaamm
ĐĐịịnnhh
Việc thực hiện đúng quy chế dân chủ cơ sở trong quản lý đầu tư đã giúp
người dân tổ 4, phường Tràng Thi, thành phố Nam Định nhanh chóng cải
thiện chất lượng hạ tầng đường giao thông, đồng thời tăng cường sự đoàn
kết và hiểu biết giữa chính quyền và người dân.
Tổ 4 là một trong những tổ nghèo trên địa bàn phường Trường Thi. Con đường
dẫn vào tổ 4 vốn rất gập ghềnh, khó đi. Cống rãnh không có, các nhà ở mặt
đường đổ thẳng nước ra đường. Người dân thường xuyên kêu ca, cãi cọ nhau vì
con đường. Người dân ở nơi khác cũng ngại tới thăm bạn bè, người thân của
mình tại tổ 4 vì đường quá xấu.
Trước đây theo cơ chế cũ, ngân sách phân bổ xuống thế nào thì được hưởng thế
đó, người dân không có quyền chủ động gì nên con đường mãi cứ trong tình
Còn con mương được xây dưới sự quản lý
của người dân vẫn hoạt động hiệu quả
51
trạng như vậy. Năm 2009, áp dụng mô hình mới để người dân tham gia vào việc
lập kế hoạch và quản lý ngân sách nhà nước, đại diện tổ dân phố được tham gia
cuộc họp lựa chọn ưu tiên những việc sẽ làm trong năm tới, việc nâng cấp con
đường tại tổ 4 đã được đưa vào danh sách ưu tiên đầu tư của phường. Sau khi
được phổ biến về nguồn ngân sách hỗ trợ từ phường và quỹ Sáng kiến cộng
đồng, cán bộ tổ dân phố đã họp xin ý kiến người dân và cùng nhau quyết tâm sửa
con đường để cải thiện điều kiện đi lại và cảnh quan khu dân cư.
Để triển khai, tổ dân đã thực hiện qua các bước sau. Bước 1 - thực hiện khảo sát
giá cả; đo chiều dài, độ cao; lên ngân sách và phương án đóng góp. Bước 2 - họp
dân xin ý kiến của người dân, công bố số tiền dự trù cần phải chi, trong đó nêu rõ
số tiền mà phường có thể hỗ trợ, số tiền quỹ Sáng kiến ủng hộ, số còn thiếu
người dân sẽ phải tự đóng góp. Mức đóng góp được xác định theo các nhóm hộ
hưởng lợi trực tiếp (ở ngoài mặt đường) và hưởng lợi gián tiếp (ở trong xóm).
Theo đó, các hộ ở ngoài mặt đường đóng góp 1.000.000 đồng/hộ, các hộ trong
ngõ đóng 300.000 đồng/hộ, hộ nghèo được đóng theo khả năng.
Trong cuộc họp này, người dân bầu ra một “tổ tự quản” để giám sát công trình, có
9 người bao gồm tổ trưởng kiêm kế toán, tổ phó phụ trách chuyên môn kỹ thuật,
2 người giám sát có trách nhiệm giao nhận vật liệu và đảm bảo về số lượng, thủ
quỹ giữ tiền, thu chi và lưu giữ hóa đơn, và nhóm phục vụ hậu cần. Cuối cùng,
mọi người thống nhất kế hoạch thu tiền và thi công. Tất cả nội dung họp đều
được văn bản hóa để cả những người dân đi họp và không đi họp đều có thể xem
xét kỹ lưỡng trước khi ký xác nhận đồng ý. Tiếp đến, hoàn tất bước 3 - triển khai
và giám sát, và bước 4 - nghiệm thu, quyết toán và báo cáo chi tiêu.
Số tiền thực tế sử dụng để làm đường là 92.120.000 đồng, trong đó tiền hỗ trợ
chỉ là 13.500.000 đồng – chiếm khoảng 15%, toàn bộ phần còn lại do người dân
đóng góp và tự huy động thêm từ các nguồn khác. Qua cách làm công khai minh
bạch, người dân tin tưởng, nhận thức rõ lợi ích và nghĩa vụ của mình trong việc
này, nên nhiệt tình đóng góp, nhiều hộ còn ủng hộ thêm kinh phí. Ngày đổ con
đường, toàn bộ người dân đổ ra xem, nhiều người tham gia hỗ trợ hậu cần.
Trong suốt quá trình quản lý công trình, tổ tự quản thực hiện nghiêm túc nhiệm
vụ. Thông tin thường xuyên được cập nhật, tuyên truyền qua loa đài. Nhiều người
dân không nằm trong tổ tự quản nhưng vẫn rất nhiệt tình và trách nhiệm tham gia
giám sát tiến độ và kỹ thuật công trình. Trong quá trình làm, bất kỳ ai có băn
khoăn, thắc mắc đều có thể đến gặp thủ quỹ cho xem sổ sách, chứng từ. Con
đường được hoàn thành chỉ sau hơn một tháng kể từ khi có ý tưởng, rộng 4m dài
hơn 100m. Người dân hết sức phấn khởi.
Đây cũng là công trình đầu tiên tại tổ 4 được áp dụng theo đúng quy chế dân chủ
cơ sở dân biết – dân bàn – dân kiểm tra. Nhờ đó, “sự hiểu biết giữa chính quyền
với người dân được tăng cường”, người dân vui vẻ, đoàn kết hơn và cảm thấy
“năng lực của mình khá hơn” vì đã biết tổ chức cùng nhau hoàn thành một việc
chung lớn, và tin tưởng “mình có thể cùng nhau làm nhiều việc lớn hơn nữa”. Sau
52
công trình này, tổ 4 còn tiếp tục thực hiện nhiều công trình theo cách làm người
dân tham gia và đóng góp.
CCââuu cchhuuyyệệnn 33:: CCôônngg ttrrììnnhh đđiiểểmm ssiinnhh hhooạạtt ccộộnngg đđồồnngg ccủủaa kkhhuu pphhốố PPhhưướớcc HHòòaa,, tthhịị
ttrrấấnn PPhhưướớcc BBửửuu,, hhuuyyệệnn XXuuyyêênn MMộộcc,, ttỉỉnnhh BBàà RRịịaa –– VVũũnngg TTààuu..
Một công trình đầu tư xuất phát từ nguyện vọng của người dân và do chính
người dân lập dự toán, thiết kế, giám sát thực hiện không chỉ đem lại hiệu
quả sử dụng cao, mà còn là niềm tự hào của người dân và cán bộ trong khu
phố.
Khi vẫn còn thuộc xã Phước Bửu (chưa tách thành thị trấn Phước Bửu và xã
Phước Thuận), người dân của khu phố Phước Hòa sinh hoạt ở tụ điểm sinh hoạt
cộng đồng tại đường Huỳnh Minh Thạnh (địa điểm của xã). Đến năm 2004, do
mở rộng đường Huỳnh Minh Thạnh nên thị trấn lấy lại địa điểm. Người dân không
có tụ điểm sinh hoạt nên đã đề nghị với lâm trường cho đất để xây dựng. Năm
2005, giám đốc lâm trường là ông Nguyễn Xuân Quang đã cho một mảnh đất để
thị trấn xây nhà tạm cho dân sinh hoạt.
Nhà tạm là nhà cấp 4, rộng khoảng 50m. Tại khu phố, ngày Đại đoàn kết toàn dân
(18 tháng 11 hàng năm) là ngày hội của tất cả những người dân trong khu phố.
Trong ngày đó, khu phố sẽ tổ chức liên hoan văn nghệ. Mọi người dân đến sinh
hoạt rất đông. Tuy nhiên, nhà tạm chỉ chứa được tối đa 40 -50 người nên rất
đông bà con phải đứng ở bên ngoài sân, thậm chí là phải đứng tràn ra ở cả ngoài
bên đường. Tình trạng này cũng vẫn diễn ra ngay cả đối với những cuộc họp
thông thường của tổ dân phố. Trước tình hình đó, ban điều hành khu phố rất băn
khoăn và đau đáu muốn tìm được cách để cơi nới nhà tạm để có chỗ cho nhiều
người dân hơn đến sinh hoạt. Khu phố đã chủ động họp tổ dân phố để thành lập
ban sửa chữa cơi nới nhà tạm, tổ chức đi vận động sự đóng góp của người dân
và đến cuối năm 2009 thì đã hoàn thành việc làm mái tôn với diện tích 1.6m x
15m dọc theo bờ hiên của nhà tạm. Tổng kinh phí thực hiện là hơn 25 triệu và
hoàn toàn do người dân trong tổ khu phố tự đóng góp.
Tuy nhiên, việc cơi nới thêm nhà tạm vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người
dân trong tổ khu phố. Trong các cuộc họp người dân đến dự rất đông, mỗi lần có
hơn 100 người đến dự nên mỗi khi họp vẫn còn rất nhiều bà con phải đứng ở
ngoài theo dõi. Trước tình hình đó, tháng 4 năm 2013 chi bộ khu phố họp và
thông qua nghị quyết về việc nâng cấp tụ điểm sinh hoạt cộng đồng của khu phố
lần thứ 2. Ngay sau đó, các ban giám sát, ban vận động, ban tài chính được
thành lập để triển khai. Bác Lê Thanh Sơn – thành viên ban giám sát vẫn xúc
động khi nhớ lại :” Tôi vẫn nhớ mãi cái ngày hôm ấy, trời mưa to lắm, nhưng là
ngày đầu tiên ban vận động bắt đầu đi gặp các hộ dân để huy động tiền đóng
góp, chúng tôi đi một mạch đến đêm mới về nhưng chúng tôi huy động được ngay
lập tức của bà con hơn 30 triệu. Dân tôi đúng là có tấm lòng vàng. Có việc gì khó
dân làm xong ngay”.
53
Người dân trong khu phố tích cực ủng hộ đóng góp việc nâng cấp không chỉ bằng
tiền mặt mà còn góp công, góp vật liệu. Tháng 9 năm 2013 thì bắt đầu khởi công.
Trong suốt quá trình thực hiện, ban giám sát thường xuyên có mặt ở đó. Bác Sơn
thậm chí còn mua cả bánh và sữa đến
cho thợ xây. Đến đầu tháng 11 thì công
trình hoàn thành bao gồm các hạng mục:
mở rộng mái tôn cho toàn bộ diện tích
sân, làm sân khấu ,cùng trang bị thiết bị
loa đài, làm nhà ở cho tổ bảo vệ. Toàn
bộ trang thiết bị bên trong như đài, tivi,
phích nước và các thiết bị khác hoàn
toàn do bà con đóng góp. Tổng kinh phí
thực hiện là 72.900.000 đồng.
Bà con khu phố vô cùng tự hào và vui
sướng vì tự mình đã xây dựng được một
tụ điểm sinh hoạt cộng đồng to đẹp và
khang trang. Chị Nguyễn Thị Xanh nói
“chúng tôi cũng không thể tin là tự chúng tôi lại làm được một cái nhà văn hóa
như vậy. Bây giờ đến sinh hoạt trong nhà văn hóa khang trang, có cả sân khấu
biểu diễn văn nghệ… tôi cũng thấy tự hào”
CCââuu cchhuuyyệệnn 44:: CCôônngg ttrrììnnhh xxââyy ddựựnngg nnhhàà vvăănn hhóóaa tthhôônn ĐĐồồnngg RRiiệệcc,, xxãã ĐĐồồnngg TTââmm,,
hhuuyyệệnn LLạạcc TThhủủyy,, ttỉỉnnhh HHòòaa BBììnnhh
Việc người dân được tham gia ý kiến và giám sát thực hiện giúp tạo ra sự
đồng thuận cũng như ủng hộ nhiệt tình của người dân trong quá trình xây
dựng công trình. Nhờ vậy, công trình nhà văn hóa thôn Đồng Riệc đảm bảo
chất lượng tốt và có hiệu quả sử dụng cao.
Xã Đồng Tâm là một trong những xã xa nhất của tình Hòa Bình, dân số gần 1600
dân, có 18 thôn, có 7 dân tộc, dân tộc Kinh chiếm hơn 80% , còn lại là các dân
tộc: Mường, KơHo, … Người dân ở đây chủ yếu phát triển nông-lâm nghiệp-
chăn nuôi, trong đó lâm nghiệp và chăn nuôi chủ yếu. Thôn Đồng Riệc, trước đây
thuộc thông Đồng Nội. Để đảm bảo công tác quản lý tại cấp cơ sở.
Với nhu cầu cần một nơi hội họp, sinh hoạt tập thể, năm 2009, thôn Đồng Riệc đã
chủ trương xây dựng nhà văn hóa của thôn. Ý tưởng xây dựng nhà văn hóa thôn
được cả chính quyền huyện, xã và người dân nhất trí cao. Với ngân sách phân
bổ từ huyện 16 triệu cho mỗi nhà văn hóa, đại diện người dân trong thôn đã họp
xin ý kiến của dân và quyết tâm xây dựng.
Nhà văn hóa được xây dựng theo các bước:
Bà con tham gia sinh hoạt tại điểm sinh
hoạt cộng đồng khu phố Phước Hòa, thị
trấn Phước Bửu
54
Bước 1: Họp dân thông báo chương
trình xây dựng nhà văn hóa thôn, thông
báo về địa điểm đặt nhà văn hóa để
người dân thảo luận và đưa ra ý kiến
nhất trí xây dựng.
Bước 2: Họp các hộ trong thôn có đất
liên qua tới nơi đặt nhà văn hóa để thông
tin và hai hộ có đất liên quan đều nhất trí
về kế hoạch xây nhà văn hóa, cũng như
việc không cần bồi thường về phần đất
của mình.
Bước 3: Lập kế hoạch cho việc xây dựng
công trình, thông tin tới toàn dân trong thôn. Dự thảo về tổng kinh phí cần thiết để
xây dựng nhà văn hóa, bầu ban kinh tế và ban giám sát công trình (do người dân
tự bầu ra) để giám sát tiến trình xây dựng công trình.
Bước 4: Mời các Ban và đại diện người dân đến nghiệm thu, quyết toán và báo
cáo chi tiêu. Toàn bộ chi tiêu được ghi rõ từng hạng mục, nếu người dân có thắc
mắc sẽ được giải đáp cặn kẽ và bằng chứng rõ ràng bằng văn bản.
Việc công khai minh bạch về quá trình cũng như ngân sách đã tạo ra sự đồng
thuận cao của người dân. Với sự tin tưởng của người dân, Ban kinh tế sau khi
được bầu đã thiết kế và lập dự toán số tiền cần phải chi cho công trình. Nhận
thấy với vốn phân bổ ban đầu của huyện (16 triệu) không đủ để xây dựng nhà
văn hóa như người dân mong muốn, Ban kinh tế đề xuất họp dân để công bố bản
thiết kế và dự toán kinh phí, đồng thời xin ý kiến của dân về việc đóng góp xây
dựng công trình. Bản thân người dân cũng đưa ra chính sách ưu tiên không thu
của người cao tuổi (từ 80 tuổi trở lên); không thu của người khuyết tật. Ban kinh
tế cũng đề xuất sử dụng 16 triệu để xây dựng móng trước nhằm tiết kiệm thời
gian.
Bác Nguyễn Thị Tâm chia sẻ: “Làm móng xong, chúng tôi cũng thông báo với dân
là đã làm hết bao nhiêu tiền, đề nghị bà con đóng tiếp để hoàn thiện. Khi làm
xong thì chúng tôi nghiệm thu, mời ban giám sát, ban kinh tế, mời đại diện của
dân nghiệm thu từng hàng mục của công trình. Trong quá trình làm, chúng tôi
cũng đã nghiệm thu từng hàng mục của công trình rồi. Khi kết thúc chúng tôi
nghiệm thu tổng thể. Khi làm nhà này là ban giám sát theo dõi thường xuyên. Thợ
chúng tôi lấy là người địa phương. Khi làm xong chúng tôi báo cáo kết quả thu chi
ngân sách của thôn, bao nhiêu khẩu đã nộp, còn lại bao nhiêu khẩu, chúng tôi
phải trình bày để bà con nhân dân nắm được. Tiền ngân sách là của dân, mình
thu về quản lý không tốt, chi không đúng thì dân sẽ không hài lòng. Người dân
nắm rất rõ về công trình nên không thể lừa người ta được, 1 xu cũng phải báo
cáo”.
Công trình nhà văn hóa thôn Đồng Riệc
55
Trong quá trình xây dựng nhà văn hóa, nhiều người dân cũng đã tham gia đóng
góp ngày công, hỗ trợ hậu cần rất tích cực, khác hẳn với các công trình trước đây
mà dân không biết. Công trình được xây dựng xong vào tháng 9/2009. Tổng số
tiền đầu tư cho công trình là hơn 90 triệu, trong đó dân đóng góp hơn 70 triệu
(mỗi khẩu 225 nghìn, 330 khẩu).
Sau khi được tham gia tất cả các khâu và nhận bàn giao công trình, người dân vô
cùng phấn khởi. Sau khi xây dựng xong nhà văn hóa, thôn trưởng, các ban và
người dân tiếp tục họp bàn xây dựng thêm sân, khuôn viên và nhà bếp. Hiện nay,
sân và khuôn viên đã được xây xong, nhà bếp đang trong quá trình xây dựng.
Toàn bộ kinh phí đều do người dân đóng góp. Bác Đinh Công Thi, người dân
trong thôn cho biết: “Những công trình làm vì dân, công khai minh bạch thì sẽ
được người dân ủng hộ và tham gia nhiệt tình hết. Hiện nay, nhà văn hóa vẫn
được sử dụng và hầu như chưa có bất cứ vấn đề về mặt chất lượng. Khi nói tới
công trình nhà văn hóa của thôn, mỗi người chúng tôi nơi đây đều thấy như có
một phần công sức của mình ở đó. Chúng tôi càng tự đặt ra cho mình trách
nhiệm, bảo vệ và sử dụng công trình đúng mục đích”.
MMộộtt ssốố ccáácc ccôônngg ttrrììnnhh kkhháácc đđãã đđưượợcc kkhhảảoo ssáátt ccóó ssựự tthhaamm ggiiaa ccủủaa nnggưườờii ddâânn
mmaanngg llạạii hhiiệệuu qquuảả ssửử ddụụnngg cchhoo ccôônngg ttrrììnnhh
Công trình đường bê tông Kim Đồng tại Khu phố 6, phường 2, Thành phố
Đông Hà, tỉnh Quảng Trị có chiều dài là 150 m với vốn đầu tư 100 triệu
đồng, trong đó nhà nước góp 50% và người dân đóng góp 50%. Công
trình này có sự tham gia của người dân từ đầu đến cuối. Người dân tự
quyết định mức đóng góp trong cuộc họp khu phố. Người dân cũng cử đại
diện tham gia Ban Quản lý công trình. Người dân giám sát tài chính thông
qua sổ sách cập nhật hàng ngày và công khai thu chi như mua bao nhiêu
xi măng, cát, sỏi, rồi tiền điện nước..v..v và giám sát thi công trực tiếp khi
làm đường. Con đường đã hoàn thành vào tháng 01/2014, người dân rất
hài lòng vì chất lượng công trình tốt, đường sá sạch sẽ, và giao thông đi lại
thuận tiện.
Công trình sân nhà sinh hoạt cộng
đồng Khóm 1 thị trấn Krông Klang,
huyện Đak rông, tỉnh Quảng Trị do
người dân có ý kiến đề xuất, sau
đó chính quyền thị trấn bố trí ngân
sách và cộng đồng họp quyết định
sẽ thực hiện như thế nào. Người
dân vui vẻ tham gia: đóng góp thêm
phần ngân sách còn thiếu, lập dự
toán và lên phương án thi công,
đồng thời giám sát toàn bộ quá
trình cho đến khi công trình hoàn
thành. Người dân tin rằng công Công trình sân nhà sinh hoạt cộng đồng
Khóm 1 thị trấn Krông Klang
56
trình này có sự tham gia của họ nên chất lượng tốt hơn rất nhiều so với
các công trình không có sự tham gia của họ (như công trình xây nhà văn
hóa – được mô tả ở phần dưới)
Công trình đèn thắp
sáng cho đoạn đường
3km chạy qua thôn
Xuân Lâm và Na Nẫm,
xã Triệu Nguyên,
huyện Đakrông, tỉnh
Quảng Trị được Công
ty Bia Sài Gòn hỗ trợ
thông qua Huyện
Đoàn. Công ty hỗ trợ
bằng hiện vật như
dây, bóng đèn và cả
kỹ thuật với giá trị
khoảng 40 triệu. Do
phần hỗ trợ này chỉ đủ
thắp sáng dọc 2 bên trục đường chính mà không đủ đưa vào tới các gia
đình trong ngõ hẻm nên chính quyền đã tổ chức họp với người dân để xin
ý kiến về cách giải quyết. Người dân đã nhất trí sẽ góp tiền thêm để làm
hết các con đường ngõ hẻm. Thôn Xuân Lâm đóng góp 60 ngàn/hộ với
tổng số tiền là 9.240.000 đ và thôn Na Nẫm đóng 70 ngàn/hộ với tổng số
tiền là khoảng 8.000.000 đ. Công trình hoàn thành đưa vào sử dụng và
người dân rất hài lòng vì chất lượng công trình tốt và có các lợi ích đem lại
như giảm bớt tai nạn, giúp người dân đi lại dễ dàng lúc trời tối. Công trình
được người dân đánh giá hiệu quả và chất lượng cao nhất trong số các
công trình gần đây tại địa phương.
Công trình đường nhánh Đón Lang tại thôn Cộng 2, xã Quy Hậu, huyện
Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình nằm trong khuôn khổ dự án PSART (chương trình
cải thiện dịch vụ công trong nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hòa
Bình). Với cách làm của dự án, người dân được hỏi ý kiến khi khảo sát
công trình, được chia sẻ thông tin và tham gia đóng góp ý kiến vào thiết kế
và phương án huy động nguồn lực. Mọi người đều đồng ý đóng góp cho
công trình. Bà con rất hài lòng với con đường nhánh này vì đường được
hoàn thành nhanh, chất lượng tốt giúp bà con đi lại thuận tiện.
Công trình nhà văn hóa thôn Bào, xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa
Bình được xây dựng và đi vào sử dụng đã 10 năm mà chất lượng vẫn tốt
và chưa hề có dấu hiệu xuống cấp. Nguyên nhân là do công trình này
được xây dựng theo ý nguyện của người dân và có sự tham gia của người
dân từ khâu lập kế hoạch dự toán đến khâu giám sát thực hiện. Nhiều
cuộc họp thôn được tổ chức để xin ý kiến, thảo luận kế hoạch dự toán và
thống nhất phương án xây dựng cũng như đóng góp. Ban giám sát công
Công trình đèn đường tại thôn Xuân Lâm và
Na Nẫm
57
trình được bầu ra gồm 1
trưởng xóm, 1 phó xóm,
thành viên của xóm. Mỗi
người chịu trách nhiệm một
công việc quản lý, giám sát,
kiểm tra hoạt động xây
dựng công trình. Khi khởi
công xây dựng chính người
dân là người trực tiếp đi
chọn từng cây cột gỗ, vật
liệu, thuê thợ để xây dựng
nhà văn hóa. Khi công trình
được hoàn tất, mọi người
đều hài lòng với chất lượng
công trình và vui mừng vì
có nhà văn hóa khang trang, sạch đẹp để sử dụng.
B. Các câu chuyện điển hình về đầu tƣ công không có sự tham gia
của ngƣời dân dẫn đến việc đầu tƣ lãng phí, không hiệu quả, không
đáp ứng nhu cầu cộng đồng, thậm chí ảnh hƣởng tiêu cực đến cộng
đồng.
CCââuu cchhuuyyệệnn 55:: CCoonn đđưườờnngg lliiêênn xxãã ĐĐáá BBạạcc –– BBììnnhh BBaa,, hhuuyyệệnn XXuuyyêênn MMộộcc,, ttỉỉnnhh BBàà
RRịịaa –– VVũũnngg TTààuu
Con đường liên xã được đầu tư nhằm phục vụ lợi ích cho người dân, nhưng
lại đang gây trở ngại cho việc đi lại cũng như ảnh hưởng đến đời sống và
sinh kế của người dân hai bên đường, do thiết kế không phù hợp với thực
tế vì không tham khảo ý kiến người dân.
Con đường liên xã Đá Bạc- Bình Ba
là một công trình đầu tư hoàn toàn
từ ngân sách nhà nước, chạy qua
xã Xuyên Mộc, huyện Xuyên Mộc,
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Theo người
dân ở đây phản ánh lại thì con
đường này do tỉnh làm chủ đầu tư,
ban quản lý dự án là ở cấp huyện,
xã và người dân chỉ tham gia trong
quá trình đền bù giải phóng mặt
bằng. Do chủ đầu tư và bên thi công
không tham khảo ý kiến của những
người dân dọc theo tuyến đường
nên lúc đầu đường được làm không
có hệ thống cống thoát nước, dẫn
Vườn tiêu ngập nước chết do đường xây quá
cao so với nhà dân mà không có cống thoát
nước
Công trình nhà văn hóa thôn Bào, xã Thanh
Hối
58
đến việc ngập lụt và làm chết cây tiêu của một số gia đình.
Sau khi nhiều người dân có ý kiến, đơn
vị thi công đã làm thêm cống nhưng lại
không ăn khớp với mương dẫn nước và
đường cống cũ nên không có tác dụng
thoát nước. Phần cống này cũng chỉ
được làm ở một bên đường. Bên cạnh
đó nền đường cao hơn nền nhà dân xây
dựng hai bên đường, gây cản trở khó
khăn cho việc đi lại cho người dân và
ngập lụt nhà dân hai bên đường mỗi khi
mưa xuống
Bà Nương, ấp Nhân Tiến xã Xuyên Mộc
kể “Khi chúng tôi phát hiện ra, hỏi họ
(những người thợ ở đây) thì họ nói, họ
cứ thi công theo thiết kế! Mà giờ đây nhà bên kia đường họ không cho làm cống
thoát sang bên đó thì mùa mưa năm nay nước sẽ chảy đi đâu.”
Sau khi phải chịu đựng những nỗi khổ do con đường mang lại, người dân ở đây
đã có ý kiến với xã về việc ban quản lý dự án và bên thi công nên tham khảo kiến
của các hộ dân trước khi làm cống, vì “chỉ có người dân sinh sống ở đây mới biết
nước nó chảy thế nào, cống ra sao; chứ họ cứ bảo làm theo thiết kế; mà cái anh
thiết kế ở mãi trên tỉnh hay đâu đâu có nắm được địa bàn xã tôi đâu” (Bà Hoa, ấp
Nhân Tiến, xã Xuyên Mộc)
Chính quyền địa phương cũng ủng hộ ý kiến của bà con về việc thiết kế công
trình cần được thông tin và lấy ý kiến người dân. Ông Ngô Văn Hương – thường
trực HĐND xã Xuyên Mộc chia sẻ “chúng tôi (cấp xã) mong muốn được tham gia
nhiều hơn vào quá trình thiết kế chuẩn bị và thi công con đường này, chứ không
phải chỉ hỗ trợ BQL dự án trong quá trình giải phóng mặt bằng. Chúng tôi cũng bị
động, khi người dân có ý kiến về việc ngập lụt và cống đặt sai vị trí, chúng tôi
cũng chỉ biết báo cáo lên trên (huyện) để BQL dự án làm việc với bên thi công”.
Ông Hà văn Nam trưởng phòng TCKH huyện thì cho biết: “con đường Đá Bạc –
Bình Ba được xây dựng xong thì sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho bà con nhân dân
dọc theo tuyến đường đi qua. Nhưng đúng là BQL dự án nên tham khảo ý kiến
của xã và chính người dân địa phương khi thiết kế và thi công con đường thì sẽ
tránh được những điều đáng tiếc như vậy và công trình do nhà nước đầu tư sẽ
hiệu quả cao hơn”
CCââuu cchhuuyyệệnn 66:: CCôônngg ttrrììnnhh nnưướớcc ssạạcchh ttạạii xxãã QQuuyy HHậậuu,, hhuuyyệệnn TTâânn LLạạcc,, ttỉỉnnhh HHòòaa
BBììnnhh
Mặt đường quá cao gây nguy hiểm cho
người dân khi đi lại
59
Gần một tỷ đồng ngân sách nhà nước đầu tư vào công trình nước sạch đã
hoàn toàn lãng phí, do thiếu sự giám sát của người dân dẫn đến việc công
trình kém chất lượng và không sử dụng được.
Năm 2010, xã Quy Hậu được đầu tư xây dựng công trình nước sạch sử dụng cho
người dân bốn thôn (Khang 1, Khang 2, Cộng 1 và Cộng 2) với tổng kinh phí
khoảng 998 triệu đồng, do UBND huyện làm chủ đầu tư. Tuy nhiên, khi thực hiện
công trình, bà con chỉ biết là nhà nước làm đường nước, chứ không được biết ai
là chủ đầu tư, công trình hết bao nhiêu tiền, đơn vị thi công là ai, v.v và cũng
không được đóng góp ý kiến hay tham gia giám sát.
Đến nay công trình hoàn thành
xong nhưng vẫn để đó, người dân
chưa được sử dụng ngày nào do
chất lượng công trình quá kém.
Người dân xã Quy Hậu phản ánh
“Công trình nước sạch này là nỗi
mong chờ của người dân chúng
tôi. Khi nghe tin có công trình, ai ai
cũng phấn khởi và chờ đợi để
được dùng nước sạch. Ai dè đâu
công trình bị hỏng, dân cả 4 thôn
đều không được hưởng. Đây là công trình do nhà nước đầu tư, người dân không
tham gia giám sát mà do cấp trên cử người giám sát. Công trình này gần 1 t
đồng (khoảng 998 triệu), xây dựng năm 2010 nhưng đến nay đường ống đã hỏng
hết” (Anh Luyện) và “…nhưng giờ vứt đó không sử dụng, các đường ống vỡ hết
rồi, ống nhựa kém chất lượng” (chị Dự)
Theo người dân, nguyên nhân dẫn đến công trình không chất lượng là do công
trình không có sự tham gia giám sát của người dân, người dân không có quyền
giám sát. Chị Tương kể: “Có phát cho người dân 1 tờ nhưng không rõ cụ thể, có
bộ phận thi công giám sát riêng, dân không được giám sát, nếu bà con được giám
sát thì bây giờ bà con được sử dụng nước rồi , bà con không có quyền giám sát
nên công trình chưa sử dụng đã hỏng rồi, bà con phải chấp nhận thôi”. Bác n thì
cho rằng “Các công trình bà con tham gia giám sát thì đạt hiệu quả cao, các công
trình bà con tự tìm hiểu, tự biết thì không đạt hiệu quả mấy. Các công trình nhảy
dù xuống là những công trình kém chất lượng”.
Trong quá trình thi công và sau khi công trình đã hoàn thành, bà con đã liên tục
có ý kiến đến cấp trên nhưng không được giải quyết. Đến giờ đường ống đã hỏng
hết vì toàn ống nhựa kém chất lượng, và bà con 4 thôn xã Quy Hậu vẫn phải sử
dụng nước bẩn trong khi “mang tiếng” là đã được đầu tư đường nước sạch.
CCââuu cchhuuyyệệnn 77:: TTrruunngg ttââmm hhọọcc ttậậpp ccộộnngg đđồồnngg xxãã KKhhooaann DDụụ,, LLạạcc TThhủủyy,, HHòòaa BBììnnhh
60
Một công trình công ích không phát huy được hiệu quả mà có thể còn mang
đến gánh nặng về quản lý cho địa phương, khi chủ đầu tư không “lắng
nghe” ý kiến của những người sẽ sử dụng công trình.
Xã Khoan Dụ là một xã vùng lũ, năm nào người dân và chính quyền địa phương
cũng phải đối mặt với lũ lụt. Theo lời kể của người dân và cán bộ xã mỗi năm họ
phải vài lần bơi thuyền vượt qua nước lũ còn cao hơn hàng rào (cao hơn 2m) ở
gần UBND xã để hỗ trợ người dân chống lũ. Còn việc nước cao đến đầu gối, thắt
lưng, ngập vào nhà dân, vào trụ sở ủy ban thì rất thường xuyên. Vì vậy, người
dân ở đây đã quen với việc sống chung với lũ và có kinh nghiệm đối phó với
những cơn lũ hằng năm. Các công trình nhà cửa của người dân đều được xây
dựng sao cho việc tránh lũ và thoát lũ trở nên dễ dàng và thuận tiện nhất. Tuy
nhiên, các công trình công cộng thì không phải cái nào cũng đáp ứng được điều
đó.
Nhà văn hóa thôn Liên Hồng được xây dựng năm 2005 thường xuyên bị ngập
nước và mùa lũ, đỉnh điểm là năm 2007 mực nước ngập lên đến ngang cửa
chính. Bên cạnh đó, nhà văn hóa chỉ duy nhất có một cửa đi vào nên rất bất tiện
cho việc sử dụng. Nguyên nhân là do bên thiết kế công trình này tham khảo ý
kiến của người dân để nắm rõ thực tế và thiết kế phù hợp. Với thực tế như vậy,
công trình này hầu như bỏ không và nhanh chóng xuống cấp
Đến năm 2013 xã lại được trên đầu tư xây dựng công trình Trung tâm học tập
cộng đồng nằm ngay cạnh nhà văn hóa. Lúc nghe tin này, từ lãnh đạo đến người
dân ai cũng mừng, vì nghĩ rằng nó có thể thay thế nhà văn hóa thôn đang không
đáp ứng được nhu cầu. Bên cạnh đó, với vốn đầu tư 4 tỷ thì xã kỳ vọng sẽ có
một ngôi nhà khang trang, không ngập lụt và trang thiết bị tốt hơn so với nhà văn
hóa thôn 500 triệu trước đó. Tuy nhiên, việc đáng mừng lại trở thành đáng lo và
gây bức xúc cho cả chính quyền và người dân ở đây.
Trước khi xây dựng công trình này, các ban ngành liên quan của huyện đã về xã
3 lần để cùng với lãnh đạo UBND xã bàn bạc những vấn đề liên quan như: thiết
kế, dự toán, quy trình xây dựng, v.v. Cán bộ xã đã trình bày về điều kiện thực tế ở
địa phương là vùng ngập lụt, vì vậy nếu xây dựng những công trình mới trên địa
bàn cần phải khảo sát kỹ, cuụ thể phải đảm bảo chiều cao công trình, giảm tối đa
ảnh hưởng của lũ lụt. Tuy nhiên, huyện vẫn quyết định xây dựng công trình theo
mẫu Trung tâm học tập cộng đồng của tỉnh, tức là nhà thấp một tầng - hoàn toàn
không phù hợp với điều kiện thực tế của xã.
Ông Bùi Kim Liêm, Chủ tịch UBND xã và ông Đinh Công Tiến, Phó CT UBND xã
cho biết xã đã trình bày rất nhiều lần với huyện là cần thiết kế lại cho phù hợp
thực tế. Cụ thể, có thể xây diện tích nhỏ lại với nền cao và làm thành 2 tầng, hoặc
có gác xép rộng để khi có lũ còn vận chuyển trang thiết bị lên tầng tránh lũ. Tuy
nhiên, sau nhiều lần họp đến mức căng thẳng, các cơ quan cấp trên vẫn giữ
nguyên thiết kế theo mẫu của tỉnh và xã nhận được một câu: “Có nhận thì nhận,
không nhận thì chúng tôi mang đi xã khác”.
61
Vậy là chính quyền xã đành phải chấp nhận việc xây dựng công trình mà biết
chắc rằng nó sẽ bị nhấn chìm trong mùa lũ.
Hiện tại, công trình đang hoàn thiện phần thô và đang ngừng thi công vì phải chờ
vốn đối ứng của nhà nước. Nhìn bằng mắt thường cũng thấy rõ, nền nhà Trung
tâm sinh hoạt cộng đồng thấp hơn cả nền nhà văn hóa thôn khoảng 15m. Người
dân địa phương chia sẻ: “Công trình này làm xong thì cũng lụt mà thôi. Thấp hơn
nhà văn hóa cơ mà. Nhà văn hóa còn lụt huống hồ là những công trình khác thấp
hơn nó. Còn dây điện ở đây, chưa nói đến chịu tải mà chỉ 1 trận lụt thì bốc cháy
hết hoặc chỉ cần 1 trận lụt vào thì chập sạch.” Bà con cũng có ý kiến với nhà thầu
nhưng chỉ nhận được câu trả lời là họ làm đúng theo thiết kế.
Anh Lê Minh Đệ, chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã bức xúc: “Bây giờ mình ngồi đây
nói việc đã rồi. 4 tỉ ai mà dỡ ra được nữa. Họp ủy ban với chủ đầu tư, ông bí thư
còn đập bàn đập ghế định không nhận nữa. Lúc đó dân nghe thấy thì bảo mấy
ông này hâm rồi, người ta cho 4 tỉ làm cái nhà đẹp như thế thì không làm, đừng
bầu nữa, cho nghỉ. Đến lúc nhận xong thấy thế này thì dân lại bảo mấy ông hâm
rồi, nhà làm tối om om, kém hiểu biết như thế mà cũng làm được cán bộ mấy
chục năm. Cái này không phù hợp, người dân chỉ mong chóng hỏng để làm cái
khác. Lãng phí tiền của, tiền thì của dân chứ của ai. Cho nên người dân chúng tôi
không hài lòng.”
Việc xây dựng Trung tâm học tập cộng đồng đang là bức xúc của tất cả người
dân ở đây. Bà con cho biết không biết nguồn vốn từ đâu và cũng không được
tham gia giám sát. Hiện tại bà con đang lo lắng vì nền thấp sẽ bị ảnh hưởng của
ngập lụt khi mùa mưa đến.
CCââuu cchhuuyyệệnn 88:: ĐĐầầuu ttưư ccơơ ssởở hhạạ ttầầnngg tthheeoo cchhưươơnngg ttrrììnnhh xxââyy ddựựnngg nnôônngg tthhôônn mmớớii
ttạạii xxãã BBưưnngg RRiiềềnngg,, hhuuyyệệnn XXuuyyêênn MMộộcc,, ttỉỉnnhh BBàà RRịịaa –– VVũũnngg TTààuu
Việc đầu tư phát triển hạ tầng theo chủ trương xây dựng nông thôn mới là
hoàn toàn phù hợp với đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước.
Tuy nhiên việc phân bổ đầu tư có thể không đạt hiệu quả cao nhất và thậm
chí trở nên lãng phí khi quá chú trọng các “chỉ tiêu” cứng mà không lắng
nghe mong muốn của người dân.
Bưng Riềng được lựa chọn là xã điểm để thực hiện chương trình nông thôn mới
của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn 1. Năm 2013 vừa qua, Bưng Riềng chính
thức trở thành một trong những xã nông thôn mới đầu tiên của Tỉnh Bà Rịa Vũng
Tàu vì đã đạt 19/19 tiêu chí của chương trình, với tổng vốn đầu tư đã thực hiện
trong giai đoạn 2011 – 2013 là 508,387 tỷ đồng, trong đó nguồn ngân sách tỉnh là
135,030 tỷ đồng, vốn huy động doanh nghiệp là 230,167 tỷ đồng, còn lại là các
nguồn khác như ngân sách xã, vốn lồng ghép từ các chương trình dự án, vốn tính
dụng, vốn huy động nhân dân đóng góp. Cơ sở vật chất của xã khang trang, sạch
sẽ với các con đường trục xã, liên xã, đường thôn, xóm được cứng hóa, và các
công trình mới như Trường Mầm non Bưng Riềng với dự toán 48,329 tỷ đồng,
62
Trường tiểu học Bưng Riềng (giai đoạn 2) với dự toán 22,318 tỷ đồng, Trung tâm
Văn hóa – Học tập Cộng đồng xã với dự toán 33,601 tỷ đồng19.
Bên cạnh những công trình được
đầu tư một cách “thoải mái” và quá
mức so với nhu cầu sử dụng của
người dân tại đây, vẫn có những
nơi nhu cầu của người dân bị bỏ
qua, như con đường nhánh số 4
của ấp 3.
Bưng Riềng có 4 ấp dân cư. Về cơ
bản đường đi lại trong 3 ấp : 1, 2 và
4 đều đã được bê tông hoá. Tại ấp
3, con đường nhánh số 4 vẫn là
đường đất đỏ. Đoạn đường đất đỏ
duy nhất này của xã dài khoảng gần
500m, chạy qua hơn 30 hộ dân..
Cuộc sống của người dân ở trên con đường này gặp rất nhiều bất tiện do mùa
khô thì đường rất bụi còn mùa mưa thì đường lầy lội. Chị Nguyễn Thị Tuyết – 38
tuổi – người dân tại tổ 6 ấp 3 chia sẻ: “ cái đường này khô thì khói bụi, còn mưa
xuống thì cứ dính dính dính, trẻ con đi học bị té hoài. Cái bả nhà đối diện bên kia
năm rồi bị té xe máy ở đây phải khâu
tận mấy mũi” . Gia đình chị Cao Thị
Thiện – 33 tuổi –sống trên con
đường đã phải xây nhà lùi vào so
với mặt đường 2m để cho đỡ bụi
nhưng khi nhà lùi vào như vậy lại
cùng dãy với những nhà vệ sinh của
các hộ khác nên cũng gặp rất nhiều
vấn đề về hệ thống nước thải. Chị
nói vui :” Nhà mình sợ quá nên làm
lùi hẳn vào bên trong mà cũng
không xong”. Một số hộ dân ở đây
đã phản ứng lại bằng cách không
đóng các khoản quỹ do xã yêu cầu.
Khi được hỏi về việc các hộ dân tại
đây đã bao giờ “nói” những điều này cho chính quyền xã chưa thì người dân đều
khẳng định đã nói với xã rất nhiều lần nhưng xã luôn trả lời là “hết kinh phí” (chị
Nguyễn thị Tuyết, chị Cao Thị Thiện). Chị Tuyết chia sẻ “ Mình nói thì họ bảo là
hết kinh phí, mình có làm gì được đâu. Mình là người dân thì đi họp mình chỉ biết
nói thế thôi”.
19 Báo cáo chuyên đề Kết quả 3 năm thực hiện chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, giai đoạn 2011 – 2013 của UBND xã Bưng Riềng, ngày 31/12/2013.
Trường mầm non Bưng Riềng với tổng dự toán
đầu tư hơn 48 tỷ đồng
Chị Tuyết chia sẻ về nỗi khổ mà con đường đất
mang lại cho gia đình chị và hàng xóm
63
MMộộtt ssốố ccáácc ccôônngg ttrrììnnhh kkhháácc đđãã đđưượợcc kkhhảảoo ssáátt kkhhôônngg ccóó ssựự tthhaamm ggiiaa ccủủaa nnggưườờii
ddâânn ddẫẫnn đđếếnn llããnngg pphhíí vvàà tthhậậmm cchhíí ảảnnhh hhưưởởnngg đđếếnn ccuuộộcc ssốốnngg ccủủaa nnggưườờii ddâânn
Các công trình nhà sinh hoạt cộng đồng tại thị trấn Krông Klang do Ban
Quản lý dự án giảm nghèo của huyện làm chủ đầu tư và lấy từ nguồn vốn
vay giảm nghèo từ ngân hàng ADB. Người dân ở đây không được tham
gia vào bất cứ khâu nào trong quá trình thiết kế, lập dự toán cũng như
giám sát thực hiện. Mọi việc liên quan đến công trình đều do Ban Quản lý
giảm nghèo quyết định. Họ cho bên thi công vào làm và khi xong thì bàn
giao lại cho địa phương (Khóm) theo kiểu chìa khóa trao tay. Kết quả là,
người dân cho rằng thiết kế công trình không hợp lý, nhà sinh hoạt quá
nhỏ không đủ sử dụng (Khóm 1 có 220 hộ dân mà nhà sinh hoạt chỉ đủ
chỗ cho khoảng tầm 50 – 60 người), sử dụng bàn ghế học sinh khiến
người lớn dùng rất bất tiện. Thêm vào đó là chất lượng công trình không
đảm bảo, mới sử dụng năm 2010 mà nay đã xuống cấp. Người dân cũng
cho rằng những công trình này không tương ứng với số tiền đầu tư. Ông
Cường, đại diện người dân khóm 1 nói rằng : “Với số tiền 140 triệu khi đó
nếu giao cho dân làm thì sẽ làm được cái nhà tốt hơn nhà hiện tại rất
nhiều”.
Một loạt nhà văn hóa mới đã được xây dựng theo mô hình Nông thôn mới
tại xã Nghĩa Minh, huyện Nghĩa Hưng, thành phố Nam Định. Xã có 9 xóm
thì 8 xóm có Nhà Văn Hoá mới. Các công trình ngoài việc lấy nguồn kinh
phí chính từ Ngân Sách Nhà Nước thì còn có cả sự đóng góp của người
dân. Trong khi xã được đầu tư xây dựng đến 8 Nhà văn hóa mới một lúc,
thì những nhu cầu bức thiết hơn của bà con thì lại chưa được đáp ứng.
Người dân ở đây thích có một cái cầu bắc qua con sông chảy qua địa bàn
xã để thuận tiện làm ăn, buôn bán phát triển kinh tế gia đình cũng như địa
phương hơn là nhà văn hoá hay là trung tâm thể thao liên hợp của xã,
nhưng họ không được hỏi ý kiến và cũng chẳng được lắng nghe về việc
lựa chọn ưu tiên những công trình đầu tư công tại địa bàn của mình. Thế
là ngoài đóng thuế, đóng phí – lệ phí, người dân còn phải đóng thêm các
khoản để góp khác để xây dựng những thứ không phải nhu cầu của mình.
Và điều này khiến Nông thôn mới có thể làm tăng gánh nặng cho người
nghèo thay vì giúp cải thiện cuộc sống của họ.
Công trình Đập Hồ Tràm được xây
dựng năm 2012 với vốn đầu tư 40
tỷ đồng nhằm đảm bảo tưới tiêu
cho cánh đồng xã Thanh Hối,
Huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.
Tuy nhiên sau khi đập được xây
xong thì van xả nước bị hỏng,
không trữ được nước, tới đúng
mùa vụ không có nước để đảm
bảo tưới tiêu. Người dân đã phản
Công trình Đập Hồ Tràm
64
ánh rất nhiều thì nhận được câu trả lời “công trình đã được làm theo đúng
thiết kế”. Do công trình ảnh hưởng tới lịch mùa vụ của người dân, các hộ
dân đã phải góp sức góp công để đắp bờ mương mới đảm bảo cho tưới
tiêu. Người dân ở đây cho rằng do họ không được tham gia giám sát, và
ý kiến phản hồi cũng không được tiếp nhận nên công trình mới bị hỏng
như vậy. Mọi người đều có chung mong muốn được cung cấp thông tin,
được hỏi ý kiến và tham gia giám sát công trình.
Công trình Cầu khe nước Lặn
được xây dựng năm 2009, với
ngân sách là 25 triệu đồng, tại nội
đồng thôn Xuân Lâm, xã Triệu
Nguyên, huyện Dakrong, tỉnh
Quảng Trị với mục đích giúp giao
thông được thuận tiện, nhất là vào
mùa mưa. Nhưng thực tế, do thiết
kế thi công ẩu và do trong quá
trình đầu tư, thiết kế và thi công
người dân không được tham gia
vào khảo sát, dự toán, giám sát thi
công, đóng góp ý kiến hay được
tham gia trực tiếp thi công. Nên kết
quả công trình tuy được hoàn
thành nhưng đáng lẽ công trình phải giúp cho giao thông đi lại thuận tiện,
thì công trình lại gây cản trở giao thông trên địa bàn. Giờ đây tác dụng của
cầu khe nước Lặn, như ông Sỹ thôn trưởng thôn Xuân Lâm nhận định “cầu
chỉ còn dùng để chứa rác và cản lối đi của bà con”. Thậm chí người dân đã
nhiều lần kiến nghị phá bỏ cầu để đỡ bị trở ngại nhưng kiến nghị người
dân vẫn chưa nhận được phản hồi từ chính quyền.
Công trình Đập Đồng Nội tại địa bàn xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy được
xây dựng năm 2010. Do trong quá trình khảo sát thiết kế không hỏi và
cũng không tham khảo ý kiến của người dân nên công trình xây xong gây
thiệt hại cho người dân. Hiện giờ người dân ở gần khu vực công trình
đang phải chịu tình trạng nước tràn vào vườn nhà gây ngập úng, do chiều
cao của mặt tràn cao hơn so với quy định, đặc biệt lại cao hơn nhà dân,
trong khi lòng hồ ngày càng nhiều
bùn nên dẫn tới việc tràn nước vào
nhà dân. Điều này khiến người dân
mất lòng tin vào nhà nước. Bác Lâm
người dân tại xã Đồng Tâm, huyện
Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình cho biết
“Trước đây tôi rất tâm huyết với chủ
trương của nhà nước, nhưng quá
trình thực hiện đã làm mất lòng tin
của tôi và của người dân. Tôi chỉ
Công trình Cầu khe nước Lặn có “tác
dụng” chứa rác và cản trở giao thông
Căn nhà của bà Hồ Thị Ưa được xây theo
chương trình 16
65
mong có quyền xây dựng, giám sát, kiểm tra và có quyền được biết tất cả
thông tin”.
Các công trình xây dựng nhà ở cho hộ nghèo thuộc Chương trình 16 tại
huyện Đắk rông trước đây được giao cho Phòng kinh tế hạ tầng phụ trách.
Phòng KTHT đã thuê nhà thầu thiết kế và thi công mà thiếu sự tham gia
của dân. Kết quả là nhà xây xong dân không ưng ý, dân không đồng tình vì
chi phí cao và thiết kế không phù hợp và chất lượng kém. Chương trình
được đánh giá chưa được hiệu quả. Trường hợp cụ thể như căn nhà của
bà Hồ Thị Ưa hiện đang sinh sống với cô con gái Hồ Thị Thể tại khóm A
Ròng, thị trấn Krông Klang được xây dựng vào tháng 6/2003 do ông Hồ
Văn Xuân - để lại cho bà. Căn nhà thiết kế không hợp lý, mùa đông thì
lạnh, mùa hè thì nóng do lợp mái tôn, mưa to thì bị hắt ướt hết. Cách đây 4
năm, mái tôn bị hỏng, bà đã phải bỏ tiền ra lợp lại mái tôn mới. Bà Ưa cho
rằng giá trị căn nhà chỉ khoảng 5- 6 triệu đồng, trong khi theo thông tin từ
cán bộ xã ngôi nhà giá trị gần 29 triệu đồng từ các nguồn hỗ trợ khác
nhau.