Ến lƯỢ vĨ mÔ vÀ thỊ trƯỜ · 3 • sự cải thiện mạnh trong quý iii đã giúp...
TRANSCRIPT
1
BÁO CÁO CHIẾN LƯỢC
VĨ MÔ VÀ THỊ TRƯỜNG
9 tháng đầu năm 2019
---Tháng 10/2019---
Phòng Phân Tích CTCP Chứng Khoán Bảo Việt Trụ sở chính Hà Nội Số 72Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, HN Tel: (84-24)-3928 8080 Fax: (84-24)-3928 9888 Email: [email protected] Website:www.bvsc.com.vn Chi nhánh Hồ Chí Minh Số 233 Đồng Khởi, Quận I, HCM Tel: (84-28)-3914 6888 Fax: (84-28)-3914 7999
NỘI DUNG CHÍNH
Kinh tế vĩ mô
• Sự cải thiện mạnh trong quý III đã giúp tăng trưởng
GDP trong 9 tháng đầu năm đạt 6,98%. Mức tăng
trưởng tích cực như trên cho thấy Việt Nam đang chống
đỡ tốt trước những rủi ro bên ngoài bao gồm kinh tế
toàn cầu chậm lại và xung đột thương mại Mỹ-Trung
leo thang.
• Chỉ số CPI chỉ tăng nhẹ trong quý III, giúp lạm phát bình
quân duy trì ở mức thấp. BVSC dự báo lạm phát tổng
thể trung bình cho cả năm 2019 sẽ có mức tăng trong
khoảng 2,5-3%.
• Quý III/2019 chứng kiến diễn biến trái chiều giữa tỷ giá
trung tâm và tỷ giá giao dịch thực tế tại các NHTM.
Trong 3 tháng cuối năm, VND nhiều khả năng sẽ giảm
giá nhẹ trở lại so với USD. Về tổng thể, BVSC dự báo
mức mất giá của VND cho cả năm 2019 sẽ dưới 2%.
• Việc giảm lãi suất điều hành vào ngày 13/09/2019 của
NHNN về cơ bản là theo xu hướng chung của NHTW
các nước trên thế giới. BVSC đánh giá động thái này
có tác dụng định hướng, “neo giữ” kỳ vọng khiến mặt
bằng lãi suất huy động nói riêng và mặt bằng lãi suất
cho vay nói chung sẽ ổn định trong thời gian tới.
Thị trường chứng khoán.
• Tinh đến hết ngày 30/09/2019, chỉ số VnIndex đóng
cửa ở mức 996,56 điểm, tăng +46,62 điểm tương
đương với +4,91% trong quý III và 11,65% tính từ đầu
năm.
• Trong quý III, giá trị mua ròng của NĐTNN giảm mạnh
so với thời điểm 2 quý đầu năm. Giá trị mua rong của
NĐTNN chỉ đạt 161,28 tỷ đồng, trong đó, giao dịch mua
qua thoa thuận đạt 718,18 tỷ đồng, con qua phương
thức giao dịch khớp lệnh khối ngoại đã bán rong 556,9
tỷ đồng.
• Sang quý IV, nhà đầu tư dần quen với những bắt ngờ
lớn mang tính ngoại biên. Các yếu tố nội tại như kết
quả kinh doanh, kỳ vọng dòng tiền mới sẽ giúp thị
trường sẽ diễn biến ổn định hơn trong xu hướng
sideway up. VnIndex nhiều khả năng sẽ đóng cửa trên
1000 điểm ở thời điểm cuối năm 2019.
2
KINH TẾ VĨ MÔ
Chí số CPI Diễn biến giá một số nhóm hàng
Chỉ số sản xuất công nghiệp Tổng mức HH bán lẻ và doanh thu DV tiêu dùng
FDI Cán cân thanh toán tổng thể
Lãi suất liên ngân hàng Tỷ giá
Nguồn: Bloomberg, GSO, BVSC
0.32
1.98
-5
-3
-1
1
3
5
-0.4
-0.2
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
9/1
/20
17
10/1
/20
17
11/1
/20
17
12/1
/20
17
1/1
/20
18
2/1
/20
18
3/1
/20
18
4/1
/20
18
5/1
/20
18
6/1
/20
18
7/1
/20
18
8/1
/20
18
9/1
/20
18
10/1
/20
18
11/1
/20
18
12/1
/20
18
1/1
/20
19
2/1
/20
19
3/1
/20
19
4/1
/20
19
5/1
/20
19
6/1
/20
19
7/1
/20
19
8/1
/20
19
9/1
/20
19
CPI MoM (LHS) CPI YoY (RHS)
-15.00
-5.00
5.00
15.00
25.00
35.00
45.00
55.00
-6.00
-4.00
-2.00
0.00
2.00
4.00
6.00
8.00
10.00
12.00
Food and foodstuff Tobaco and Beverages Apparel and footwear
Housing and construction Transport Medical (RHS)
-30.0%
-20.0%
-10.0%
0.0%
10.0%
20.0%
30.0%
40.0%
12/0
1/2
01
7
01/0
1/2
01
8
02/0
1/2
01
8
03/0
1/2
01
8
04/0
1/2
01
8
05/0
1/2
01
8
06/0
1/2
01
8
07/0
1/2
01
8
08/0
1/2
01
8
09/0
1/2
01
8
10/0
1/2
01
8
11/0
1/2
01
8
12/0
1/2
01
8
01/0
1/2
01
9
02/0
1/2
01
9
03/0
1/2
01
9
04/0
1/2
01
9
05/0
1/2
01
9
06/0
1/2
01
9
07/0
1/2
01
9
08/0
1/2
01
9
09/0
1/2
01
9
Chỉ số sản xuất công nghiệp MoM Chỉ số sản xuất công nghiệp o
Chỉ số sản xuất công nghiệp TD
12.4%
-10.00%
-5.00%
0.00%
5.00%
10.00%
15.00%
MoM YoY
-200.0%
-100.0%
0.0%
100.0%
200.0%
300.0%
-60.0%
-40.0%
-20.0%
0.0%
20.0%
40.0%
60.0%
80.0%
01/3
1/2
01
8
02/2
8/2
01
8
03/3
1/2
01
8
04/3
0/2
01
8
05/3
1/2
01
8
06/3
0/2
01
8
07/3
1/2
01
8
08/3
1/2
01
8
09/3
0/2
01
8
10/3
1/2
01
8
11/3
0/2
01
8
12/3
1/2
01
8
01/3
1/2
01
9
02/2
8/2
01
9
03/3
1/2
01
9
04/3
0/2
01
9
05/3
1/2
01
9
06/3
0/2
01
9
07/3
1/2
01
9
08/3
1/2
01
9
09/3
0/2
01
9
D ng o D thực hiện o
ốn g p u c ph n o
-8000
-6000
-4000
-2000
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
12
/1/2
013
3/1
/20
14
6/1
/20
14
9/1
/20
14
12
/1/2
014
3/1
/20
15
6/1
/20
15
9/1
/20
15
12
/1/2
015
3/1
/20
16
6/1
/20
16
9/1
/20
16
12
/1/2
016
3/1
/20
17
6/1
/20
17
9/1
/20
17
12
/1/2
017
3/1
/20
18
6/1
/20
18
9/1
/20
18
12/1
/2018
3/1
/20
19
6/1
/20
19
Cán cân vãng lai Cán cân tài chính
i s i s t C n c n th nh to n t ng th
0
1
2
3
4
5
6
2/19/2019 3/19/2019 4/19/2019 5/19/2019 6/19/2019 7/19/2019 8/19/2019 9/19/2019
%
Qu ê 1 tu n 2 tu n
93
94
95
96
97
98
99
100
22500
22600
22700
22800
22900
23000
23100
23200
23300
23400
23500
T gi t ung t T i TM Chỉ số D c t phải
3
• Sự cải thiện mạnh trong quý III đã giúp tăng trưởng GDP trong 9 tháng đầu năm đạt 6,98%. Mức tăng
trưởng tích cực như trên cho thấy Việt Nam đang chống đỡ tốt trước những rủi ro bên ngoài bao gồm
kinh tế toàn cầu chậm lại và xung đột thương mại Mỹ-Trung leo thang.
• Chỉ số CPI chỉ tăng nhẹ trong quý III, giúp lạm phát bình quân duy trì ở mức thấp. BVSC dự báo lạm
phát tổng thể trung bình cho cả năm 2019 sẽ có mức tăng trong khoảng 2,5-3%.
• Quý III/2019 chứng kiến diễn biến trái chiều giữa tỷ giá trung tâm và tỷ giá giao dịch thực tế tại các
NHTM. Trong 3 tháng cuối năm, VND nhiều khả năng sẽ giảm giá nhẹ trở lại so với USD. Về tổng thể,
BVSC dự báo mức mất giá của VND cho cả năm 2019 sẽ dưới 2%.
• Việc giảm lãi suất điều hành vào ngày 13/09/2019 của NHNN về cơ bản là theo xu hướng chung của
NHTW các nước trên thế giới. BVSC đánh giá động thái này có tác dụng định hướng, “neo giữ” kỳ
vọng khiến mặt bằng lãi suất huy động nói riêng và mặt bằng lãi suất cho vay nói chung sẽ ổn định
và khó tăng mạnh thêm trong thời gian tới.
Tăng trưởng GDP
Tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm
Tăng trưởng GDP qua các quý
Tốc độ tăng trưởng các khu vực
Nguồn: GSO, BVSC
GDP cải thiện mạnh trong quý III
Theo công bố của Tổng cục Thống kê, tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm
2019 của Việt Nam đạt 6,98% - ngang bằng với mức tăng của cùng kỳ năm
ngoái. Mặc dù có khởi đầu khá chậm trong nửa đầu năm nay nhưng tăng
trưởng đã có sự cải thiện mạnh riêng trong quý III (tăng 7,31% - cao hơn
mức 6,88% của quý III/2018), qua đó giúp tăng trưởng GDP 3 quý đầu năm
duy trì được đà tăng tích cực.
• Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt mức tăng trưởng thấp
(2%) do hạn hán ảnh hưởng tới năng suất và sản lượng cây trồng.
Nông sản gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ (đặc biệt là thị trường
Trung Quốc) và giá xuất khẩu. Ngành chăn nuôi thiệt hại nặng nề bởi
dịch tả lợn châu Phi. Điểm sáng của khu vực này là ngành thủy sản
có mức tăng khá với 6,12%.
• Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng
trưởng khá 9,56%, đóng góp 3,16 phần trăm vào tổng giá trị tăng thêm
của toàn nền kinh tế. Công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng
định là điểm sáng của khu vực này, là động lực chính của tăng trưởng
GDP với mức tăng cao 11,37%. Đáng chú ý, ngành khai khoáng, sau
3 năm suy giảm liên tiếp, đã lấy lại mức tăng trưởng dương (+2,68%).
• Khu vực dịch vụ tăng 6,85%, cao hơn mức tăng 6,75% của cùng kỳ
năm 2018. Trong khu vực dịch vụ, tăng trưởng một số ngành có tỷ
trọng lớn bao gồm: Bán buôn và bán lẻ (tăng 8,31%, cao nhất trong
khu vực dịch vụ); hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng
8,19%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 6,15%; ngành vận tải, kho bãi
tăng 7,82%...
Với mức tăng trưởng GDP tích cực như trên, Việt Nam đang cho thấy sức
chống đỡ khá tốt trước những rủi ro chung là kinh tế toàn cầu tăng chậm lại
và xung đột thương mại Mỹ-Trung leo thang. Trong quý III, sự thặng dư lớn
của cán cân thương mại đã đóng góp vào mức tăng trưởng GDP chung.
Bên cạnh sự đóng góp của yếu tố vốn, nếu tốc độ tăng năng suất lao động
của Việt Nam tiếp tục được cải thiện (trên thực tế còn nhiều dư địa để thực
6.50%
5.93%
6.41%
6.98% 6.98%
5.40%
5.60%
5.80%
6.00%
6.20%
6.40%
6.60%
6.80%
7.00%
7.20%
9T/2015 9T/2016 9T/2017 9T/2018 9T/2019
4
4.5
5
5.5
6
6.5
7
7.5
8
Q1 Q2 Q3 Q4 Cả n
%
2015 2016 2017 2018 2019
0.65%
2.78%
3.65%
2.02%
7.5% 7.2%
8.9%9.4%
6.66%7.25% 6.89% 6.85%
0.00%
1.00%
2.00%
3.00%
4.00%
5.00%
6.00%
7.00%
8.00%
9.00%
10.00%
9T/2016 9T/2017 9T/2018 9T/2019
ông thủ sản CN-XD Dịch ụ
4
Tăng trưởng các ngành trong khu vực CN-XD
Nguồn: GSO, BVSC
hiện, nhất là ở khía cạnh cải cách thể chế) thì tăng trưởng của Việt Nam
trong các năm tới sẽ tăng được khả năng chống chịu với các rủi ro từ bên
ngoài
Theo dự báo của chúng tôi, tăng trưởng kinh tế cả năm 2019 có thể đạt
mức 6,8-7%. Một số yếu tố thuận lợi cho tăng trưởng trong 3 tháng cuối
năm là: (i) xuất khẩu tiếp tục gia tăng (đặc biệt tại một số mặt hàng như dệt
may, thủy sản, giày dép, đồ gỗ nội thất...) nhờ tận dụng được cơ hội từ xung
đột thương mại Mỹ-Trung mang lại; (ii) vốn đầu tư nước ngoài gia tăng nhờ
kỳ vọng về Hiệp định EVFTA sớm được quốc hội EU thông qua và xu hướng
dịch chuyển nhà máy ra khởi Trung Quốc. Một số khó khăn đối với tăng
trưởng trong 3 tháng cuối năm 2019 (và kể cả đầu năm 2020) là (i) bất định
của thị trường tài chính thế giới và dòng vốn đầu tư nước ngoài; (ii) kinh tế
một số thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam (Mỹ, EU, Trung Quốc) tăng
trưởng chậm lại; (iii) giải ngân vốn đầu tư công vẫn chậm.
Lạm phát
Chỉ số CPI
Diễn biến giá các nhóm hàng hóa
Diễn biến lạm phát cơ bản
Nguồn:GSO, BVSC
CPI bình quân Quý III/2019 tăng 2,23% so với cùng kì năm 2018 và tăng
0,48% so với Quý II/2019. CPI YoY giảm nhẹ liên tục trong ba tháng của
quý III, lần lượt ở mức 2,44%, 2,26% và 1,98%. Đặc biệt, mức tăng theo
tháng của chỉ số CPI trong tháng 8 (tăng 0,28%) và tháng 9 (tăng 0,32%)
năm 2019 đều thấp hơn hẳn so với ba năm gần nhất.
Tính chung 9 tháng đầu năm 2019, CPI bình quân tăng 2,5% (YoY) –
mức tăng thấp nhất trong vòng ba năm trở lại đây. Lạm phát tăng kể từ
đầu năm đến nay do những nguyên nhân sau: (i) Giá thực phẩm tăng
khoảng 4,2% YoY do giá thịt lợn tăng 8% dưới tác động tiêu cực của dịch
tả lợn châu Phi; (ii) giá điện tăng cuối Quý I/2019 gây áp lực đến nhiều nhóm
ngành hàng; (iii) CPI nhóm ngành giáo dục tăng 6,7% do việc tăng giá sách
giáo khoa và thực hiện lộ trình tăng trần học phí đại học và sau đại học theo
Nghị định 86/2015/NĐ-CP của Chính phủ; iv) giá dịch vụ y tế tăng 3,36%
theo Thông tư số 13/2019/TT-BYT và Thông tư số 37/2018/TT-BYT của Bộ
Y tế. Tuy nhiên, việc giá xăng dầu giảm khoảng 3,46% (tác động CPI chung
giảm 0,14%) là một yếu tố tích cực trong việc kiềm chế lạm phát.
Điểm đáng lưu ý là lạm phát cơ bản có xu hướng giảm trở lại kể từ
tháng 8/2019, từ mức 2,04% vào tháng 7/2019 xuống còn 1,96% vào tháng
9/2019. Mặc dù mức giảm của lạm phát lõi trong hai tháng gần đây còn khá
khiêm tốn nhưng diễn biến này phần nào cho thấy áp lực lên mặt bằng giá
cả chung trên thị trường đã tạm thời dịu bớt, qua đó tạo điều kiện thuận lợi
để NHNN giảm các loại lãi suất điều hành (như đã thực hiện vào ngày 13/09
vừa qua). Trong khung thời gian dài hơn (từ nay đến cuối năm 2020),
lạm phát cơ bản nhiều khả năng sẽ tăng nhẹ trở lại và duy trì quanh
mức 2%. Còn lạm phát tổng thể trung bình cho cả năm 2019 được dự
báo sẽ có mức tăng trong khoảng 2,5-3%.
Xuất nhập khẩu
11.2%
-10.0%
-5.0%
0.0%
5.0%
10.0%
15.0%
9T/2016 9T/2017 9T/2018 9T/2019
Khai khoáng Ch bi n ch tạo ựng
0.32
1.98
-5
-3
-1
1
3
5
-0.4
-0.2
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
9/1
/20
17
10/1
/20
17
11/1
/20
17
12/1
/20
17
1/1
/20
18
2/1
/20
18
3/1
/20
18
4/1
/20
18
5/1
/20
18
6/1
/20
18
7/1
/20
18
8/1
/20
18
9/1
/20
18
10/1
/20
18
11/1
/20
18
12/1
/20
18
1/1
/20
19
2/1
/20
19
3/1
/20
19
4/1
/20
19
5/1
/20
19
6/1
/20
19
7/1
/20
19
8/1
/20
19
9/1
/20
19
CPI MoM (LHS) CPI YoY (RHS)
-15.00
-5.00
5.00
15.00
25.00
35.00
45.00
55.00
-6.00
-4.00
-2.00
0.00
2.00
4.00
6.00
8.00
10.00
12.00
Food and foodstuff Tobaco and Beverages Apparel and footwear
Housing and construction Transport Medical (RHS)
1.96
0.8
1
1.2
1.4
1.6
1.8
2
2.2
3/1
/20
16
5/1
/20
16
7/1
/20
16
9/1
/20
16
11/1
/20
16
1/1
/20
17
3/1
/20
17
5/1
/20
17
7/1
/20
17
9/1
/20
17
11/1
/20
17
1/1
/20
18
3/1
/20
18
5/1
/20
18
7/1
/20
18
9/1
/20
18
11/1
/20
18
1/1
/20
19
3/1
/20
19
5/1
/20
19
7/1
/20
19
5
Xuất khẩu các mặt hàng điện tử
Xuất khẩu các mặt hàng nông sản
Xuất khẩu mặt hàng công nghiệp chế biến
Nguồn:GSO, BVSC
Trong quý III, xuất khẩu đạt 71,7 tỷ USD, tăng 12,7% so với quý II/2019 và
tăng 10% so với cùng kỳ năm 2018. Tính chung 9 tháng đầu năm, tổng xuất
khẩu đạt 194,3 tỷ USD, tăng 8,2% YoY, trong đó khu vực FDI đóng góp
70%.
Các mặt hàng xuất khẩu chính là điện thoại và linh kiện (38,6 tỷ USD); máy
tính và linh kiện (25,4 tỷ USD); dệt may (24,8 tỷ USD), giày dép (13,3 tỷ
USD). Do giá xuất khẩu bình quân giảm so với cùng kỳ năm trước nên kim
ngạch xuất khẩu hầu hết các mặt hàng nông, thủy sản 9 tháng năm nay đều
giảm: Thủy sản đạt 6,2 tỷ USD, giảm 1,7%; rau quả đạt 2,8 tỷ USD, giảm
4,6%; hạt điều đạt 2,4 tỷ USD, giảm 6%; cà phê đạt 2,2 tỷ USD, giảm 20,7%;
gạo đạt 2,2 tỷ USD, giảm 9,7%. Các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt
nam trong 9 tháng đầu năm là Hoa Kỳ (44,9 tỷ USD, tăng mạnh 28%, phần
nào cho thấy xu hướng hưởng lợi từ chiến tranh thương mại Mỹ - Trung) và
EU (31,1 tỷ USD, giảm 0,7%).
Ở chiều ngược lại, nhập khẩu trong quý III/2018 ước tính đạt 67,5 tỷ USD,
tăng 6,3% so với quý II/2019 và tăng 9% so với cùng kỳ năm 2018. Tính
chung 9 tháng, tổng kim ngạch nhập khẩu ước tính đạt 188,4 tỷ USD, tăng
9% YoY..
Cán cân thương mại hàng hóa ước đạt thặng dư 5,9 tỷ USD trong 9 tháng
đầu năm. Tuy nhiên, cán cân thương mại vẫn chịu thâm hụt tại một số thời
điểm. Nguyên nhân chủ yếu là do cơ cấu xuất nhập khẩu tập trung hơn vào
một số mặt hàng và chịu ảnh hưởng từ các diễn biến liên quan đến các mặt
hàng này, điển hình là mặt hàng điện thoại di động của Samsung.
Về triển vọng xuất nhập khẩu trong quý IV, chúng tôi cho rằng cơ cấu xuất
nhập khẩu (theo nhóm hàng và theo thị trường) sẽ ít có sự thay đổi. Cán
cân thương mại có thể theo chiều hướng gia tăng nhập siêu trong 3 tháng
cuối năm do nhu cầu nhập khẩu tăng nhằm đáp ứng mùa kinh doanh và tiêu
dùng cuối năm, tuy nhiên mức độ nhập siêu có thể không lớn. Chúng tôi
dự báo cán cân thương mại của Việt Nam có thể đạt thặng dư khoảng
5 tỷ USD cho cả năm nay.
Tỷ giá
Diễn biến tỷ giá VND/USD
Nguồn: Bloomberg, BVSC
Tỷ giá trung tâm tăng tăng 1,5%, tỷ giá tại các NHTM không thay đổi so
với đầu năm
Quý III/2019 chứng kiến diễn biến trái chiều giữa tỷ giá trung tâm và tỷ giá
giao dịch thực tế tại các NHTM. Theo đó, tính đến cuối tháng 9, tỷ giá trung
tâm có mức tăng 1,5% trong khi tỷ giá giao dịch thực tế tại các NHTM gần
như không thay đổi so với cuối năm 2018. Đáng lưu ý, những lo ngại về việc
VND sẽ giảm giá mạnh theo đà lao dốc của đồng NDT so với USD trên thị
trường thế giới (hơn 4%) trên thực tế đã không diễn ra. Trong khi đó, hầu
hết các đồng tiền tại các nước mới nổi ở châu Á đều giảm giá mạnh so với
USD. Tính từ đầu năm 2019 đến nay, giảm giá mạnh nhất trong số các đồng
tiền của các nước mới nổi (theo mẫu theo dõi của BVSC) là đồng Won của
Hàn Quốc (-7,8%), tiếp đến là CNY của Trung Quốc (-4,2%), Rupee của Ấn
Độ (-2,4%)…
17.51
6.7
7.50.00
10.00
20.00
30.00
40.00
50.00
60.00
Electronics and Computers Machinery Transport
-60.0
-40.0
-20.0
0.0
20.0
40.0
60.0
80.0
100.0
Vegetables Cassava Cashew nuts Coffee Rice Fishery
-10.0
-5.0
0.0
5.0
10.0
15.0
20.0
25.0
30.0
Textile Footwear Wood Handbags, Wallets, Suitcases
93
94
95
96
97
98
99
100
22500
22600
22700
22800
22900
23000
23100
23200
23300
23400
23500
T gi t ung t T i TM Chỉ số D c t phải
6
Đồng tiền của các EMs so với USD kể từ đầu
2019 đến nay
Nguồn: Bloomberg, BVSC
Theo BVSC, có hai nguyên nhân chính giúp VND trụ vững, không bị
mất giá theo NDT. Thứ nhất là cán cân thương mại của Việt Nam đã quay
trở lại trạng thái xuất siêu mạnh trong quý III (đạt 4,28 tỷ USD), giúp tăng
nguồn cung ngoại tệ trên thị trường. Thứ hai, mặc dù xuất hiện sức ép phải
giảm giá VND nhằm hỗ trợ cho xuất khẩu khi NDT giảm giá nhưng rủi ro
Việt Nam bị chính phủ Mỹ đưa vào danh sách thao túng tiền tệ đã khiến việc
bơm tiền Đồng, mua ngoại tệ của NHNN diễn ra thận trọng hơn.
Trong 3 tháng cuối năm, VND nhiều khả năng sẽ giảm giá trở lại so với USD
do cán cân thương mại có thể sẽ giảm bớt xuất siêu trong quý cuối năm và
diễn biến khó lường của xung đột thương mại Mỹ-Trung. Tuy nhiên, sức ép
giảm giá VND được nhận định chung là không lớn. Về tổng thể, BVSC dự
báo mức mất giá của VND cho cả năm 2019 sẽ dưới 2%.
Chính sách tiền tệ và lãi suất
Lãi suất liên ngân hàng
Nguồn: Bloomberg, BVSC
Mặt bằng lãi suất huy động
Nguồn: Fiinpro. BVSC
Thanh khoản ngân hàng biến động mạnh trong quý III
Khác với diễn biến khá bình lặng trong 2 quý đầu năm, thanh khoản hệ thống
ngân hàng trong quý III có biến động rất mạnh. Cụ thể, trong 2 tuần cuối
tháng 8, lãi suất liên ngân hàng đã có lúc tăng lên mức 4,8-5%/tháng. Tuy
nhiên, bắt đầu từ tháng 9, thanh khoản hệ thống đã có dấu hiệu hạ nhiệt rõ
rệt, đặc biệt trong tuần cuối tháng 9 khi lãi suất các kỳ hạn lùi về dưới mức
2%/năm.
Theo đánh giá của BVSC, việc thanh khoản dồi dào trở lại trong những tuần
gần đây xuất phát từ hai nguyên nhân chính. Thứ nhất là động thái cắt giảm
một loạt các loại lãi suất điều hành của NHNN ngày 13/09/2019. Theo đó,
lãi suất cho vay tái chiết khấu, tái cấp vốn, lãi suất cho vay OMO và lãi suất
tín phiếu đều được giảm 0,25%. Những loại lãi suất này hầu hết đều có tác
động lớn tới thanh khoản ngắn hạn của các ngân hàng do liên quan đến
nghiệp vụ bơm/hút vốn thường xuyên của NHNN qua thị trường mở hoặc
các tình huống NHTM tìm đến vay vốn tại NHNN với tư cách là người cho
vay cuối cùng. Thứ hai là động thái mua vào ngoại tệ của NHNN đã giúp
đẩy một lượng lớn tiền Đồng ra thị trường, qua đó giúp thanh khoản hệ
thống dồi dào. Theo NHNN, dự trữ ngoại hối của Việt Nam hiện đã đạt 70 tỷ
USD, tăng 10 tỷ USD so với 1 năm trước, đồng thời là mức cao nhất trong
lịch sử.
Mặt bằng lãi suất huy động tăng nhẹ
Trên thị trường, kể từ giữa tháng 8 đã xuất hiện một cuộc đua lãi suất huy
động trong nhóm các NHTM cổ phần có quy mô vừa và nhỏ. Mức lãi suất
cho các kỳ hạn dài (trên 6 tháng) đã được đẩy lên mức cao nhất 8,5-
8,7%/năm. Theo đánh giá của chúng tôi, việc phải chuẩn bị vốn cho mùa
kinh doanh cuối năm cũng như áp lực phải cơ cấu lại nguồn vốn nhằm đáp
ứng các quy định về hệ số CAR theo Basel II và tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay
trung và dài hạn là những nguyên nhân chính dẫn đến cuộc đua lãi suất
trên. So với thời điểm đầu năm 2019, mặt bằng lãi suất huy động nhìn
chung đã tăng khoảng 0,4%.
NHNN giảm lãi suất điều hành - Mặt bằng lãi suất huy động khó tăng
mạnh thêm
1
2
1
1
2
-10.00%
-8.00%
-6.00%
-4.00%
-2.00%
0.00%
2.00%
4.00%
6.00%
South
Korea
China India Malaysia Vietnam Philippines Indonesia Thailand
0
1
2
3
4
5
6
2/19/2019 3/19/2019 4/19/2019 5/19/2019 6/19/2019 7/19/2019 8/19/2019 9/19/2019
%
Qu ê 1 tu n 2 tu n
0.00%
1.00%
2.00%
3.00%
4.00%
5.00%
6.00%
6.30%
6.50%
6.70%
6.90%
7.10%
7.30%
7.50%
7.70%
G1: Commercial Joint Stock BanksG2: Commercial Joint Stock Banks (capital below 5.000 bil VND)State-owned BanksCPI YoY (RHS)
7
Việc NHNN cắt giảm lãi suất điều hành vào giữa tháng 9 về cơ bản là theo
xu hướng chung của NHTW các nước trên thế giới trong bối cảnh rủi ro kinh
tế toàn cầu suy giảm ngày càng tăng. Tuy vậy, ở góc độ thực tế, chúng tôi
đánh giá tác động của việc giảm các loại lãi suất trên tại Việt Nam sẽ không
quá lớn như ở các nước phát triển như Mỹ hay châu Âu... Việc điều hành
chính sách tiền tệ ở Việt Nam là đặt mục tiêu trực tiếp về khối lượng cung
tiền thông qua các chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng tổng phương
tiện thanh toán (M2) chứ không như FED hay ECB là điều tiết cung tiền
thông qua mục tiêu trung gian là lãi suất. Do đó, muốn biết Việt Nam có thật
sự nới lỏng hơn chính sách tiền tệ hay không thì phải chờ các số liệu thực
tế về tăng trưởng tín dụng và M2 trong thời gian tới. Trên thực tế tăng trưởng
tín dụng tính đến ngày 20/9 mới tăng 8,4%, thấp hơn mức 9,52% của cùng
kỳ năm 2018 và còn cách khá xa mục tiêu 14% cho cả năm nay.
Mặc dù vậy, BVSC cho rằng việc giảm lãi suất điều hành sẽ có tác dụng
định hướng, “neo giữ” kỳ vọng khiến mặt bằng lãi suất huy động nói
riêng và mặt bằng lãi suất cho vay nói chung sẽ ổn định và khó tăng
mạnh thêm trong thời gian tới. Tuy nhiên, chúng tôi cũng không loại trừ
khả năng trước thềm năm 2020 khi hệ số CAR theo Basel II được chính
thức áp dụng cho toàn hệ thống và tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài
hạn được tiếp tục điều chỉnh giảm sẽ vẫn có những đợt tăng lãi suất huy
động mang tính cục bộ và chủ yếu diễn ra ở các ngân hàng có quy mô vốn
vừa và nhỏ.
Chính sách tài khóa và đầu tư
Tăng trưởng tổng vốn đầu tư toàn XH & GDP
Nguồn: GSO, BVSC
Vốn đầu tư toàn XH chia theo khu vực kinh tế
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 10,3%
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 556,5 nghìn tỷ đồng trong quý III, thấp hơn
khá nhiều mức 662 nghìn tỷ đồng của cùng kỳ năm 2018. Tuy nhiên, tính
chung 9 tháng đầu năm, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 1.378 nghìn tỷ đồng
(tương đương 34,3% GDP) và tăng 10,3% YoY.
Trong đó, vốn từ Ngân sách Nhà nước đến hết tháng 9 đạt 224 nghìn tỷ
đồng, bằng 59,7% kế hoạch năm và chỉ tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước
(cùng kỳ năm 2018 bằng 60,7% và tăng 11,4%). Như vậy, tình hình giải
ngân vốn đầu tư công vẫn đang chậm. Luật Đầu tư công sửa đổi đã được
Quốc hội chính thức thông qua hồi tháng 5 vừa qua nhưng phải đầu năm
2020 mới có hiệu lực. Trên cơ sở đó, BVSC kỳ vọng giải ngân vốn đầu tư
công sẽ có sự cải thiện từ đầu năm tới, tuy nhiên tốc độ cải thiện sẽ ở mức
vừa phải, khó có sự đột biến. Trái ngược với nguồn vốn đầu tư từ NSNN,
vốn đầu tư của dân cư và tư nhân đạt 624,6 nghìn tỷ đồng, đạt mức
tăng khá tốt (17%) và là động lực chính trong mức tăng chung của tổng
vốn đầu tư toàn xã hội. Giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
đạt 327 nghìn tỷ đồng, tăng 8,4% YoY.
Dự báo trong quý cuối năm, đầu tư từ nguồn Ngân sách Nhà nước và vốn
TPCP sẽ giải ngân nhanh hơn nhằm hoàn thành kế hoạch năm trên cơ sở
mức độ hoàn thành kế hoạch trong 3 quý đầu năm là rất thấp. Đầu tư tư
nhân trong quý IV có thể sẽ tiếp tục tăng nhanh hơn quý III do dư địa tăng
trưởng tín dụng vẫn còn khá nhiều (khoảng 6%). Dòng vốn FDI giải ngân
nhiều khả năng sẽ có mức tăng 8-10% cho cả năm 2019.
-5.00%
-3.00%
-1.00%
1.00%
3.00%
5.00%
7.00%
9.00%
11.00%
13.00%
15.00%
T ng ốn u t to n TD o GDP
-10.00%
-5.00%
0.00%
5.00%
10.00%
15.00%
20.00%
25.00%
T ng ốn u t to n TD o ốn u t t nh n TD o
ốn D TD o ốn u t công TD o
8
Vốn FDI
Nguồn: GSO, BVSC
Chính sách tài khóa
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/9/2019 ước
tính đạt 73% dự toán năm, cao hơn mức 68% của cùng kỳ năm ngoái. Trong
khi đó, tổng chi ngân sách ước tính đạt 59% dự toán năm (thấp hơn mức
61,5% của cùng kỳ), chủ yếu do giải ngân vốn đầu tư phát triển từ nguồn
ngân sách nhà nước chậm (đạt 40,6%). Tốc độ tăng thu (trong đó có một số
nguồn tăng mạnh so với cùng kỳ như thuế tiêu thụ đặc biệt mặt hàng ô tô)
lớn hơn so với tăng chi (chủ yếu do chi đầu tư phát triển thấp) giúp ngân
sách Nhà nước thặng dư 66 nghìn tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm. BVSC
cho rằng việc thặng dư ngân sách có thể chỉ mang tính ngắn hạn do
phụ thuộc vào các yếu tố không bền vững. Ngoài ra, việc chi tăng thấp
do giải ngân vốn đầu tư chậm trên thực tế là một diễn biến kém tích
cực cho cả nền kinh tế.
Nhận định
• Sự cải thiện mạnh trong quý III đã giúp tăng trưởng GDP trong 9 tháng đầu
năm đạt 6,98% với lực đẩy chính từ lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo.
Mức tăng trưởng tích cực như trên cho thấy Việt Nam đang chống đỡ tốt
trước những rủi ro bên ngoài bao gồm kinh tế toàn cầu chậm lại và xung
đột thương mại Mỹ-Trung leo thang.
• Chỉ số CPI chỉ tăng nhẹ trong quý III, giúp lạm phát bình quân duy trì ở mức
thấp. BVSC dự báo lạm phát tổng thể trung bình cho cả năm 2019 sẽ có
mức tăng trong khoảng 2,5-3%.
Quý III/2019 chứng kiến diễn biến trái chiều giữa tỷ giá trung tâm và tỷ giá
giao dịch thực tế tại các NHTM. Trong 3 tháng cuối năm, VND nhiều khả
năng sẽ giảm giá trở lại so với USD do cán cân thương mại có thể sẽ giảm
bớt xuất siêu trong quý IV và diễn biến khó lường của xung đột thương mại
Mỹ-Trung. Tuy nhiên, sức ép giảm giá VND được nhận định chung là không
lớn. Về tổng thể, BVSC dự báo mức mất giá của VND cho cả năm 2019 sẽ
dưới 2%.
Việc giảm lãi suất điều hành vào ngày 13/09/2019 của NHNN về cơ bản là
theo xu hướng chung của NHTW các nước trên thế giới. BVSC đánh giá
động thái này có tác dụng định hướng, “neo giữ” kỳ vọng khiến mặt bằng lãi
suất huy động nói riêng và mặt bằng lãi suất cho vay nói chung sẽ ổn định
và khó tăng mạnh thêm trong thời gian tới.
Bảng dự báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chính của BVSC
-200.0%
-100.0%
0.0%
100.0%
200.0%
300.0%
-60.0%
-40.0%
-20.0%
0.0%
20.0%
40.0%
60.0%
80.0%
01/3
1/2
01
8
02/2
8/2
01
8
03/3
1/2
01
8
04/3
0/2
01
8
05/3
1/2
01
8
06/3
0/2
01
8
07/3
1/2
01
8
08/3
1/2
01
8
09/3
0/2
01
8
10/3
1/2
01
8
11/3
0/2
01
8
12/3
1/2
01
8
01/3
1/2
01
9
02/2
8/2
01
9
03/3
1/2
01
9
04/3
0/2
01
9
05/3
1/2
01
9
06/3
0/2
01
9
07/3
1/2
01
9
08/3
1/2
01
9
09/3
0/2
01
9
D ng o D thực hiện o
ốn g p u c ph n o
Mục t ê của Chính phủ BV C dự báo
Tăng trưởng GDP (%) 7.08 6.6-6.8 6.8-7
Lạm phát bình quân (%) 3.54 4 3
Tăng trưởng tín dụng (%) 14 14-17 14
Biến động tỷ giá USD/VND (%) 2.4 N/A dưới 2%
Tăng trưởng xuất khẩu (%) 12 7-8 5-10
Tăng trưởng vốn FDI giải ngân (%) 9.1 N/A 8-10
Các chỉ t ê chính 2018
2019
9
PHẦN II: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Biến động một số thị trường kể từ đầu năm P/E tại HSX và HNX
Biến động chỉ số P/E ở một số thị trường trong khu vực So sánh lợi suất các kênh đầu tư tại Việt Nam
Giá trị giao dịch trên 2 sàn theo quý Giao dịch nhà ĐTNN trong tháng tại HSX
Tỷ trọng giao dịch các ngành tại HSX Tỷ trọng giao dịch các ngành tại HNX
Nguồn: Bloomberg, IMF, HNX, HSX, BVSC, Finnpro
-14.00%-12.00%-10.00%
-8.00%-6.00%-4.00%-2.00%0.00%2.00%4.00%6.00%8.00%
FBMKLCI
SPX
Q2-2019 Q3-2019
0.00
5.00
10.00
15.00
20.00
25.00
1/2/2015 1/2/2016 1/2/2017 1/2/2018 1/2/2019
VnIndex HnxIndex
0.00
5.00
10.00
15.00
20.00
25.00
30.00
35.00
1/2/2015 1/2/2016 1/2/2017 1/2/2018 1/2/2019
Indonesia
Philippines Pakistan India
0.00%
2.00%
4.00%
6.00%
8.00%
10.00%
1/8/2016 1/8/2017 1/8/2018 1/8/2019
E/P t t á ph chính phủ n
0
2,000
4,000
6,000
8,000
10,000
12,000
14,000
1/2
/20
18
2/2
/20
18
3/2
/20
18
4/2
/20
18
5/2
/20
18
6/2
/20
18
7/2
/20
18
8/2
/20
18
9/2
/20
18
10/
2/2
018
11/
2/2
018
12/
2/2
018
1/2
/20
19
2/2
/20
19
3/2
/20
19
4/2
/20
19
5/2
/20
19
6/2
/20
19
7/2
/20
19
8/2
/20
19
9/2
/20
19
V HOSE HNX
-30,000.00
-20,000.00
-10,000.00
0.00
10,000.00
20,000.00
30,000.00
40,000.00 V
0,00%
5,00%
10,00%
15,00%
20,00%
25,00%
Bất động sản
Xây dựng
Ngânhàng
Thực phẩm
Hàngkhông
Thép và sản
phẩm thép
Phân phối hàng
chuyên dụng
Nuôi trồng
nông & hải sản
Phần mềm
Dầu khí
Q1/2019 Q2/2019 Q3/2019
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
Ngânhàng
Dầu khí Xây
dựng
Vật liệu
xây
dựng & Nội thất
Bất
động
sản
Hàng
May
mặc
Bảo
hiểm
phi nhân thọ
Môi
giới
chứng khoán
Thực
phẩm
Sản
phẩm
Hóa chất
Q1/2019 Q2/2019 Q3/2019
10
• Tinh đến hết ngày 30/09/2019, chỉ số VnIndex đóng cửa ở mức 996,56 điểm, tăng +46,62 điểm tương
đương với +4,91% trong quý III và 11,65% tính từ đầu năm.
• Trong quý III, giá trị mua ròng của NĐTNN giảm mạnh so với thời điểm 2 quý đầu năm. Giá trị mua rong
của NĐTNN chỉ đạt 161,28 tỷ đồng, trong đó, giao dịch mua qua thoa thuận đạt 718,18 tỷ đồng, con qua
phương thức giao dịch khớp lệnh khối ngoại đã bán rong 556,9 tỷ đồng.
• Sang quý IV, nhà đầu tư dần quen với những biến cố lớn mang tính ngoại biên. Các yếu tố nội tại như
kết quả kinh doanh, kỳ vọng dòng tiền mới sẽ giúp thị trường sẽ diễn biến ổn định hơn trong xu hướng
sideway up. VnIndex nhiều khả năng sẽ đóng cửa trên 1000 điểm ở thời điểm cuối năm 2019.
Tổng quan TTCK Việt Nam Quý 3 và 9 tháng đầu năm 2019
Diễn biến chỉ số VNINDEX 9 tháng đầu năm 2019
Các mã tác động lớn nhất đến chỉ số và mức độ ảnh hưởng trong 9 tháng đầu năm 2019
Biến động về giá của các ngành
(Nguồn: Bloomberg, BVSC)
Trong Quý 3/2019, chỉ số VnIndex đóng cửa ở mức 996,56 điểm, tăng
+46,62 điểm tương đương với +4,91%. So với thời điểm cuối năm 2018,
chỉ số VnIndex tăng 104,02 điểm, tương đương với 11,65%. Trong Quý
3/2019, thị trường chịu tác động của các nhiều yếu tố bao gồm biến động
của thị trường chứng khoán thế giới khi chiến tranh thương mại Mỹ-Trung
tiếp tục diễn biến khó lường, các đợt cắt giảm lãi suất của FED và ngân hàng
trung ương các nước, bất ổn chính trị thế giới tăng lên như biểu tình tại
Hongkong, căng thẳng chính trị tại khu vực Trung đông, quan hệ Hàn Quốc
– Nhật Bản căng thẳng... Tuy nhiên, thị trường lại nhận được sự hỗ trợ từ
các thông tin trong nước như kết quả kinh doanh Q2 có tăng trưởng, lãi suất,
lạm phát và tỷ giá được kiểm soát tốt, ổn định.
Xét về diễn biến các nhóm ngành, một số ngành có mức tăng trưởng mạnh
nhất trong Q3 như Ngân hàng (tăng 13,72%), đóng góp 28,69 điểm cho chỉ
số VNINDEX với đại diện là mã VCB (tăng 53,46%), BID (tăng 14,53%).
Nhóm Bất động sản cũng tăng tương đối tốt đạt mức 6,98%, đóng góp 16,78
điểm vào chỉ số VnIndex, trong đó chủ yếu đến từ VHM (tăng 23,13%). Nhóm
Bán lẻ có mức tăng mạnh nhất, tương ứng với 30,03%, nổi bật đến từ MWG
tăng 47,43%.
Nếu xem diễn biến nhóm ngành tính từ thời điểm cuối năm 2018 tới ngày
30/09/2019 thì đa số các nhóm ngành lớn đều tăng điểm. 3 nhóm Bán lẻ
(tăng 36,36%), Bất động sản (tăng 20,69%) và Ngân hàng (tăng 19,46%) tiếp
tục là 3 nhóm ngành tăng trưởng tốt trong 9 tháng đầu năm. Ngược lại, nhóm
Bảo hiểm (giảm 11,02%) và Tài nguyên cơ bản (giảm 3,15%) là 2 nhóm bị
giảm mạnh trong 9 tháng đầu năm.
Quý 3/2019, giá trị mua ròng của khối ngoại giảm mạnh.
Tính từ đầu năm 2019, khối ngoại mua ròng trên sàn HOSE đạt 10.304
tỷ đồng. Trong đó có 781 tỷ đồng được NĐTNN mua qua phương thức khớp
lệnh và 9.523 tỷ đồng được mua qua phương thức thoản thuận. Trong đó,
E1VFVN30 được NĐT nước ngoài mua ròng 1.881 tỷ đồng. Các quỹ ETFs
ngoại khác như VanEck, DB hay Ishare đều mua ròng, tổng giá trị đạt 2.601
tỷ đồng. Tổng giá trị NĐTNN mua ròng thông qua các quỹ ETFs lên tới trên
4.482 tỷ đồng. Như vậy nếu xét về tỷ trọng giá trị mua ròng từ các quỹ ETFs
đã chiếm tới 47% tổng giá trị mua ròng của khối ngoại trong giai đoạn này.
0
2.000
4.000
6.000
8.000
10.000
800
850
900
950
1000
1050
01/2019 03/2019 05/2019 07/2019 09/2019
i t ị gi o ịch c t phải n n x c t t i
Ma đong gop tích cực ác đông đ n chỉ ô
VCB 31,81
VIC 23,98
VHM 17,18
GAS 13,99
VNM 7,05
Ma đong gop tích cực ác đông đ n chỉ ô
BVH -3,02
TCB -2,695
HVN -2,455
ROS -2,116
POW -1,888
Ma đong gop tích cực Thay đôi Các a tiêu b êu
Công nghệ Thông tin 49,64% FPT, CMG, SAM
B n ẻ 36,36% MWG, DGW, BTT
Bất ng sản 20,69% VIC, VHM, VRE
Ngân hàng 19,46% VCB, BID, MBB
Ô tô phụ tùng 19,32% TCH, DRC, SRC
Ma đong gop tích cực Thay đôi Các a tiêu b êu
Bảo hi -11,02% BMI, PGI, BVH
Dịch ụ t i chính -4,77% SSI, VCI, FTS
T i ngu ên Cơ bản -3,15% HPG, DTL, POM
D u hí -2,72% PVD, PLX
ựng ật iệu 1,96% ROS, CTD, CII
11
Các mã khối ngoại mua/bán ròng mạnh nhất trên Hsx trong 9 tháng đầu năm 2019
(Nguồn: Bloomberg, BVSC)
Tác động của diễn biến đàm phán thương mại Mỹ – Trung lên TTCK Mỹ
Nguồn: Bloomberg, BVSC
Xét riêng Quý 3, giá trị mua ròng của NĐTNN chỉ đạt 161,28 tỷ đồng. Trong
đó, giá trị mua qua giao dịch thỏa thuận đạt 718,18 tỷ đồng. Tổng 4 quỹ ETFs
bị bán ròng lên tới 1.289 tỷ đồng trong quý.
Xét về mã cổ phiếu, trong quý 3, khối ngoại tập trung mua ròng mạnh nhất
tại PLX, với giá trị 1.466 tỷ đồng. Tiếp đó, các cổ phiếu được mua ròng mạnh
nhất bao gồm VIC (936 tỷ), AST (322 tỷ đồng), BID (245 tỷ đồng) và NVL
(222 tỷ đồng). Các mã cổ phiếu bị bán ròng mạnh nhất bao gồm HPG (-814
tỷ đồng), VRE (-420 tỷ đồng), NVT (-241 tỷ đồng) và STB (-216 tỷ đồng).
Động thái bán ròng của khối ngoại trong Quý 3/2019 cùng chung với xu
hướng dòng tiền thế giới khi rút khỏi thị trường các nước mới nổi. Nguyên
nhân một phần đến từ những số liệu cho thấy tăng trưởng toàn cầu chậm lại
và những rủi ro về kinh tế, chính trị của khu vực tăng lên. Theo đó, chiến
tranh thương mại Mỹ-Trung tiếp tục khó lường, căng thẳng quan hệ Mỹ-Iran
và chiến tranh thương mại Nhật Bản-Hàn Quốc có dấu hiệu leo thang.
Quý IV, bối cảnh thị trường thế giới khó đoán định
Tình hình chính trị trên toàn thế giới tiếp tục có những chuyển biến không
mấy tích cực gây ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý của thị trường chứng khoán
toàn cầu. Diễn biến đàm phán chiến tranh thương mại Mỹ – Trung tiếp tục
nhận được sự quan tâm của giới đầu tư và tạo ra những biến động trên thị
trường chứng khoán toàn cầu.
Việc đàm phán thương mại Mỹ – Trung tiếp tục chưa đạt được kết quả tạo
ra tâm lý cẩn trọng của các nhà đầu tư về triển vọng tăng trưởng của nền
kinh tế Mỹ và thị trường chứng khoán toàn cầu. Theo quan sát của chúng tôi,
thị trường chứng khoán Mỹ khá nhạy cảm trước diễn biến đàm phán thương
mại Mỹ – Trung và điều này sẽ gián tiếp ảnh hưởng tới động thái của khối
ngoại cũng như tâm lý nhà đầu tư trong nước.
Trong trường hợp, Mỹ và Trung Quốc đạt được thỏa thuận chấm dứt chiến
tranh thương mại. Đây sẽ là một yếu tố tích cực giúp cải thiện kỳ vọng của
nhà đầu tư về tương lai và giúp thị trường chứng khoán toàn cầu tăng điểm.
Ở chiều ngược lại, trong trường hợp đàm phán thương mại Mỹ – Trung đổ
vỡ và chiến tranh thương mại leo thang, nỗi sợ hãi về suy thoái toàn cầu của
nhà đầu tư tăng cao khiến thị trường thế giới có thể giảm điểm mạnh. Với
tính cách và chiến thuật của tổng thống Donald Trump, thì gần như không
thể nói trước bất kỳ điều gì, tuy vậy đây là là 1 trong những yếu tố chính trị
mà nhà đầu tư cần phải theo doi và bám sát.
Ngoài câu chuyện đàm phán thương mại chiến tranh thương mại, việc khởi
động quy trình luận tội tổng thống Donald Trump bởi Hạ viện bị phe đảng
Dân chủ nắm giữ cũng là một trong những yếu tố chính trị mà thị trường quan
tâm. Tuy nhiên, theo trong quá khứ, việc tổng thống bị luận tội không có tác
động nhiều đến diễn biến của thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, khả
năng tổng thống Donald Trump bị kết tội là không cao khi thượng viện Mỹ
vẫn do đảng Cộng hòa chiếm đa số. Do vậy, khó có khả năng phe Dân Chủ
huy động đủ 2/3 số phiếu cần thiết để kết tội ông Trump.
Top a mua ong ác đông đ n chỉ ô
VIC 6.553
MSN 2.590
PLX 2.036
VCB 1.571
MWG 569
Top a bán ong ác đông đ n chỉ ô
VJC -2.228
VHM -1.156
HDB -857
DHG -676
HPG -624
2400
2500
2600
2700
2800
2900
3000
3100
1/1/2019 2/1/2019 3/1/2019 4/1/2019 5/1/2019 6/1/2019 7/1/2019 8/1/2019 9/1/2019 10/1/2019
Trade-War Events S&P 500
12
Biên lơi nhuận thuần của EM và Mỹ
Tăng trưởng EPS của EM và Mỹ
Nguồn: Bloomberg, BVSC
Doanh thu các ngành Q2/2019
Lơi nhuận các ngành Q2/2019
(Nguồn: Bloomberg, BVSC)
NHTW nhiều nước đã hạ lãi suất, nới lỏng chính sách tiền tệ,
nhưng dòng tiền vẫn chưa tìm đến thị trường mới nổi
Trong quý 3 vừa qua, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã có 2 lần giảm lãi
suất trong kỳ họp diễn vào ngày 31/07 và 17/08. Ngoài ra, trong thông cáo
được đưa ra ngày 12/09, ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) cũng đã
chính thức giảm 10 điểm cơ bản lãi suất lãi suất tiền gửi tại ngân hàng trung
ương xuống mức -0,50% và sẽ khởi động lại chương trình mua tài sản tài
chính (AAP) từ ngày 01/11 với tần suất ở mức €20 tỷ EUR mỗi tháng nhằm
kích thích nền kinh tế. Trong quá khứ điều này thường dẫn tới sự ổn định
của giá trị các đồng ngoại tệ của thị trường mới nổi và cho phép nhà đầu tư
tiếp cận dòng vốn giá rẻ, giúp cho thị trường này hấp dẫn được dòng vốn
ngoại. Nhưng dường như diễn biến này chưa xảy ra trong đợt cắt giảm vừa
qua. Chỉ số Bloomberg Emerging Market Capital Flow Index thậm chỉ còn
giảm trong quý III, từ 141.985 điểm xuống 136.799 điểm.
Diễn biến này có thể xuất phát từ một số nguyên nhân như: Thứ nhất, lo ngại
về tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại gia tăng, khiến cho nhà đầu tư tìm
đến các tài sản tài chính an toàn như trái phiếu chính phủ Mỹ, Nhật, đồng
USD và đồng Yên, đồng thời rút khỏi các tài sản tài chính có tính rủi ro cao
như cổ phiếu đến từ thị trường mới nổi. Thứ hai, định giá của thị trường mới
nổi hiện vẫn chưa ở vùng hấp dẫn. Tính đến hết quý 3/2019, chỉ số P/E của
thị trường mới nổi ở mức 13.00 thấp hơn khoảng 28,33% so với chỉ số P/E
của thị trường chứng khoán Mỹ, mức chiết khấu này thấp hơn so với mức
chiết khấu trung bình 6 năm 29,10%. Điều này có thể cho thấy thị trường mới
nổi chưa chiết khấu đủ mức để có thể hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài. Cuối
cùng, về mặt các yếu tố cơ bản, biên lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, biên
lợi nhuận thuần và tăng trưởng EPS của thị trường mới nổi đều ở mức thấp
hơn so với mức của thị trường chứng khoán Mỹ từ đầu năm 2019 tới nay,
với mức tăng trưởng lợi nhuận này, thị trường mới nổi chưa tạo ra sự hấp
dẫn đủ mạnh so với các thị trường phát triển.
Quý IV, yếu tố nội tại sẽ dẫn dắt thị trường chứng khoán. Kết quả
kinh doanh các doanh nghiệp niêm yết duy trì tăng trưởng nhưng
P/E hiện đã ở mức khá cao
Kết quả kinh doanh quý 2 tiếp tục cho thấy bức tranh về tăng trưởng chậm
lại, tốc độ tăng trưởng của doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp
được niêm yết trên sàn HOSE và HNX. Doanh thu của các doanh nghiệp
được niêm yết trên 2 sàn HOSE và HNX đạt tốc độ tăng trưởng ở mức
10,21% trong quý 2 năm 2019 so với cùng kỳ năm 2018, thấp hơn so với
mức 17,63% của quý 2 năm 2018. Lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp
tại HSX và HNX trong quý 2 tăng trưởng 10,53% so với cùng kỳ, thấp hơn
so với mức 15,82% của quý 2 năm 2018 và 23,01% của quý 2 năm 2017.
Tính đến hết Quý 3/2019, chỉ số của P/E và P/B của Việt Nam ở mức 16,6
và 2,4. So với mẫu so sánh gồm 12 quốc gia bao gồm Mỹ, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Philippines, Indonesia.... Có thể thấy, chỉ số P/E và
P/B của Việt Nam đang ở mức trung bình so với các nước trong khu vực.
Trong quá khứ, mặc dù P/E và P/B của Việt Nam nằm ở mức trung bình, sự
hấp dẫn về mặt định giá của Việt Nam đến từ tốc độ tăng trưởng EPS ở mức
7
7.5
8
8.5
9
9.5
10
10.5
11
12/31/2013 12/31/2014 12/31/2015 12/31/2016 12/31/2017 12/31/2018
MSCI Emerging Markets Index S&P500
-40.00%
-30.00%
-20.00%
-10.00%
0.00%
10.00%
20.00%
30.00%
40.00%
12/31/2014 12/31/2015 12/31/2016 12/31/2017 12/31/2018
MSCI Emerging Markets Index S&P500
0 40.000 80.000
Dịch ụ t i chính
Ô tô phụ tùng
iện n c x ng u hí
ốt
Thực ph uống
B n ẻ
D u hí
ựng ật iệu
Du ịch iải t í
ng Dịch ụ Công nghiệp
Q2/2018 Q2/2019
0 5.000 10.000 15.000 20.000
Ngân hàng
Bất ng sản
Thực ph uống
iện n c x ng u hí
ốt
ựng ật iệu
ng Dịch ụ Công nghiệp
T i ngu ên Cơ bản
D u hí
B n ẻ
Q2/2018 Q2/2019
13
P/E và tăng trưởng EPS trung bình 4 năm
Nguồn: Bloomberg, BVSC
cao. Tuy nhiên, thời điểm hiện tại P/E của Việt Nam đã giảm sức hấp dẫn khi
tốc độ tăng trưởng EPS không còn cao như trước.
Luật chứng khoán mới sẽ sớm được thông qua.
Trong quý 4 năm 2019, luật chứng khoán sửa đổi dự kiến sẽ được Quốc hội
thảo luận và xem xét thông qua Luật Chứng Khoán sửa đổi trong kỳ họp thứ
8 diễn ra từ cuối tháng 10 năm 2019. Theo đánh giá của chúng tôi, việc Luật
chứng khoán sử đổi dược dự kiến thông qua trong kỳ họp thứ 8 diễn ra vào
cuối tháng 10/2019 sẽ giúp cho nhà đầu tư nước ngoài gia tăng đầu tư vào
thị trường chứng khoán Việt Nam qua đó thu hút được thêm dòng vốn đầu
tư từ nước ngoài. Thêm vào đó, luật chứng khoán sử đổi cũng giúp gia tăng
và cải thiện chất lượng thị trường chứng khoán Việt Nam giúp cho Việt Nam
sớm được sớm được nâng hạng lên thị trường mới nổi bởi tổ chức MSCI.
Do vậy, việc này sẽ có ảnh hưởng tích cực đến yếu tố dòng tiền và tâm lý
của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới.
Và kỳ vọng dòng vốn ngoại sớm quay trở lại thị trường.
Ngày 27/09/2019 vừa qua, tổ chức FTSE đã công bố kết quả đánh giá và
xếp loại phân hạng thị trường thường niên năm 2019, thị trường chứng
khoán Việt Nam vẫn chưa được nâng hạng lên thị trường mới nổi loại hai và
sẽ tiếp tục ở lại danh sách này cho đến kỳ review tiếp theo. Lý do của việc
này là do thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn hai điểm chưa thỏa mãn
đạt, đó là “Thanh Toán – It khi xảy ra giao dịch thất bại” và “Thanh Toán Bù
Trừ”. Lý do được FTSE đưa ra là do thông lệ phải cấp đủ vốn trước khi giao
dịch tại thị trường chứng khoán Việt Nam được quy định tại thông tư
203/2015/TT-BTC. Trong mục 2 điều 7 tại thông tư này có quy định: ngoại
trừ trường hợp giao dịch kỹ quỹ và giao dịch trong ngày, nhà đầu tư chỉ được
đặt lệnh mua khi đã ký quỹ đủ tiền trên tài khoản giao dịch chứng khoán.
Điều này chưa phù hợp với quy trình thực hiện giao dịch và thanh toán bù
trừ theo mô hình DvP (Delivery versus Payment) được thực hiện tại các nước
phát triển trên thế giới.
Đáng chú ý, đây cũng là yếu tố khiến cho MSCI đánh giá tiêu chí “Thanh
Toán Bù Trừ” của thị trường chứng khoán Việt Nam ở mức cần phải có sự
cải thiện. Với việc hỗ trợ Việt Nam được nâng hạng lên thị trường mới nổi
nhận được nhiều sự quan tâm và hỗ trợ bởi các cơ quan chức năng, chúng
tôi kỳ vọng “điểm nghẽn” này sẽ sớm được khắc phục để TTCK Việt Nam
chính thức được nâng hạng.
Theo quan sát của BVSC, trong khoảng thời gian từ 6-7 tháng trước khi thị
trường chứng khoán của một quốc gia được chính thức nâng hạng lên thị
trường mới nổi, thị trường chứng khoán của quốc gia đó thường bắt đầu có
sóng tăng điểm. Điều này là do sự tham gia của các quỹ đầu tư chủ động
benchmarking theo chỉ số FTSE/MSCI Emerging Markets (hoặc tương đồng)
do các quỹ này không phải chịu sự ràng buộc về cơ cấu chỉ số) và tâm lý
hứng khởi đón trước dòng tiền ngoại của các quỹ ETF từ phía các nhà đầu
tư trong nước.
Cùng với kỳ vọng về nâng hạng, việc được gia tăng tỷ trọng trong rổ cổ phiiếu
MSCI Frontier Markets 100 và MSCI Frontier Markets Markets Index, chúng
-
2.00
4.00
6.00
8.00
10.00
12.00
14.00
16.00
2.00 7.00 12.00 17.00 22.00 27.00 32.00
EPS
Gro
wth
PE
SET TWSE HSI SHCOMP KOSPI SENSEX
KSE JCI PCOMP VnIndex SPX STI
14
tôi còn kỳ vọng các Sở giao dịch HSX và HNX có thể ban hành các bộ chỉ số
mới nhằm làm đa dạng sản phẩm ETF nội địa, nhờ đó khơi thông thêm dòng
vốn ngoại vào thị trường. Trong bối cảnh nhiều cổ phiếu đã kín “room” thì
đây là một cách giúp thu hút vốn ngoại vào thị trường hữu hiệu (nhà ĐTNN
không bị hạn chế sở hữu ở các quỹ ETF).
Một số nhận định
Nhiều nhà đầu tư trên thế giới đã dần quen với môi trường thông tin biến
động điều này khiến tâm lý nhà đầu tư vững vàng hơn, biên độ dao động của
thị trường sẽ không còn lớn trong quý IV. Với sự thích ứng của nhà đầu tư,
bối cảnh thế giới sẽ giảm tác động tới diễn biến thị trường chứng khoán trong
nước. Những thông tin về kết quả kinh doanh quý III, triển vọng kinh doanh
2019, 2020 của doanh nghiệp niêm yết cùng kỳ vọng về các quỹ ETF mới sẽ
dẫn dắt sự quan tâm của dòng tiền. Với quan điểm này, chúng tôi cho rằng
thị trường sẽ tiếp tục duy trì xu hướng “sideway up”, mở ra cơ hội để VnIndex
đóng cửa ở mức trên 1000 vào cuối năm 2019. Ngoài những cổ phiếu có thể
nằm trong rổ chỉ số mới sẽ thu hút được dòng tiền, chúng tôi cho rằng các
cổ phiếu thuộc nhóm ngành ngân hàng, cảng biển hay cổ phiếu chứng khoán
đang có mức định giá khá hấp dẫn là những cơ hội đầu tư tốt.
15
KHUYẾN CÁO SỬ DỤNG
Tất cả những thông tin nêu trong báo cáo phân tích này đã được xem xét cẩn trọng, tuy nhiên báo cáo chỉ nhằm mục tiêu cung
cấp thông tin mà không hàm ý khuyến cáo người đọc mua, bán hay nắm giữ chứng khoán. Người đọc chỉ nên sử dụng báo cáo
phân tích này như một nguồn thông tin tham khảo. Mọi quan điểm cũng như nhận định phân tích trong báo cáo cũng có thể được
thay đổi mà không cần báo trước. Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) có thể có những hoạt động hợp tác kinh
doanh với các đối tượng được đề cập đến trong báo cáo. Người đọc cần lưu ý rằng BVSC có thể có những xung đột lợi ích đối
với các nhà đầu tư khi thực hiện báo cáo phân tích này.
Báo cáo này có bản quyền và là tài sản của BVSC. Mọi hành vi sao chép, sửa đổi, in ấn mà không có sự đồng ý của BVSC đều
trái luật. Bản quyền thuộc Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt.
BỘ PHẬN PHÂN TÍCH VÀ TƯ VẤN ĐẦU TƯ
Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt
Địa chỉ trụ sở chính: 72 Trần Hưng Đạo,Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội Chi nhánh: 233 Đồng Khởi, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh
Tel: (84 24) 3928 8080 Fax: (84 24) 3928 9888 Tel: (84 28) 39146888 Fax: (84 28) 39147999
Phân tích vĩ mô
Trần Hải Yến [email protected]
Phân tích chiến lược thị trường
Lê Hoàng Phương [email protected]
Nguyễn Đức Hoàng [email protected]
Chịu trách nhiệm nội dung
Phạm Tiến Dũng [email protected]