nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân...

21
Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong ttụng hình sự Vũ Đức Hnh Đại hc Quốc gia Hà Nội; Khoa Lut Chuyên ngành: Lut Hình sự; Mã số: 60 38 40 Người hướng dn: TS Phm Mạnh Hùng Năm bảo v: 2012 Abstract. Nghiên cứu lch sphát triển của các quy phạm pháp luật vthực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong ttụng hình sự Vit Nam tnăm 1945 cho đến nay, phân tích khái niệm, ni dung, phm vi, chth, mi quan hgia hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong ttụng hình sđể làm sáng tỏ bn chất pháp lý và những nội dung cơ bản của nguyên tắc này theo quy định ca Lut ttụng hình sự Việt Nam. Đánh giá việc áp dụng nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong ttụng hình sự trong thc tiễn áp dụng pháp luật ttng hình sự nước ta, đồng thời phân tích những tn tại xung quanh các quy định trong BLTTHS (Blut ttụng hình sự) thhiện nguyên tắc này và thực tiễn áp dụng nhm kiến nghsửa đổi mt squy định của BLTTHS liên quan đến nguyên tắc này trong pháp luật ttụng hình sự Vit Nam. Keywords. Pháp luật Vit Nam; Lut ttụng hình sự; Quyền công tố; Luật hình sự Content. PHN MĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Vit Nam hin na Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Vit Nam hin nay, bmáy Nhà nước đang trong quá trình cải cách nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quhoạt động ca bmáy nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng. Việc nghiên cứu để hoàn thiện các cơ chế bo vpháp luật, trong đó có vấn đề thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong ttụng hình sự là một trong nhng nhim vcp thiết vì nó không chỉ liên quan đến tchức và hoạt động ca Vin kiểm sát nhân dân mà còn liên quan đến tchức và hoạt động ca bmáy nhà nước nói chung, trước hết và đặc biệt là các cơ quan tư pháp. Nghquyết s49/NQ-TW ca BChính trị vChiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ nhiệm vtrọng tâm của cải cách tư pháp, trong đó đề ra một định hướng quan trng là xây dựng nền công tố mnh. Ngoài ra, một định hướng mi rt quan trng ti Hi nghln thchín Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X, yêu cầu đẩy mnh vic thc hin Chiến lược ci cách tư pháp đến năm 2020; bảo đảm các điều kin cho Vin kiểm sát nhân dân thực hin tt chc

Upload: others

Post on 31-Aug-2019

5 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự

Vũ Đức Hạnh

Đại học Quốc gia Hà Nội; Khoa Luật

Chuyên ngành: Luật Hình sự; Mã số: 60 38 40

Người hướng dẫn: TS Phạm Mạnh Hùng

Năm bảo vệ: 2012

Abstract. Nghiên cứu lịch sử phát triển của các quy phạm pháp luật về thực hành quyền

công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945

cho đến nay, phân tích khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể, mối quan hệ giữa hoạt động

thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình

sự để làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của nguyên tắc này theo quy

định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Đánh giá việc áp dụng nguyên tắc thực hành quyền

công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong thực tiễn áp dụng

pháp luật tố tụng hình sự nước ta, đồng thời phân tích những tồn tại xung quanh các quy

định trong BLTTHS (Bộ luật tố tụng hình sự) thể hiện nguyên tắc này và thực tiễn áp dụng

nhằm kiến nghị sửa đổi một số quy định của BLTTHS liên quan đến nguyên tắc này trong

pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.

Keywords. Pháp luật Việt Nam; Luật tố tụng hình sự; Quyền công tố; Luật hình sự

Content.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện na

Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, bộ máy

Nhà nước đang trong quá trình cải cách nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy

nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng. Việc nghiên cứu để hoàn thiện các cơ chế bảo

vệ pháp luật, trong đó có vấn đề thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

tố tụng hình sự là một trong những nhiệm vụ cấp thiết vì nó không chỉ liên quan đến tổ chức và

hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân mà còn liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà

nước nói chung, trước hết và đặc biệt là các cơ quan tư pháp.

Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

đã xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp, trong đó đề ra một định hướng quan trọng

là xây dựng nền công tố mạnh. Ngoài ra, một định hướng mới rất quan trọng tại Hội nghị lần thứ

chín Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X, yêu cầu đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020; bảo đảm các điều kiện cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức

năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm của

công tố trong hoạt động điều tra. Hội nghị cũng yêu cầu Viện kiểm sát phải đổi mới tổ chức và hoạt

động để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp bảo

đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là chức

năng của Viện kiểm sát nhân dân, là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự được

quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Việc nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận nội dung

của nguyên tắc và thực tiễn thực hiện nguyên tắc này, tìm ra những bất cập, khó khăn để có những

kiến giải về lập pháp góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thực hành quyền công tố

và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Đây là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và

thực tiễn, là lý do tôi chọn đề tài “nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự” làm luận văn Cao học luật của mình.

2. Tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài

Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự được quy

định thành một nguyên tắc tố tụng, việc nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề liên quan về nguyên tắc này

ở các mức độ khác nhau đã được một số nhà khoa học pháp lý, các chuyên gia lý luận và thực tiễn quan

tâm nghiên cứu, cụ thể: Trong thời gian qua, Viện khoa học kiểm sát thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối

cao phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ và các cơ quan hữu quan tổ chức triển khai nghiên cứu các đề tài

cấp Bộ như: “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ

1945 đến nay”, “Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp”, “Vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị”.

Ngoài ra, nhiều số chuyên đề của Tạp chí kiểm sát thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao

cũng tập trung nghiên cưu về những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố

và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.

Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu tổng thể nội dung

của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.

Hơn nữa, trong cả lý luận và thực tiễn hiện nay, xung quanh vấn đề này còn chưa thực sự thống

nhất về khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự; chưa có sự phân định cụ thể, rõ ràng giữa hai chức năng và đánh

giá mối quan hệ biện chứng giữa hai chức năng này. Vì thế, nhiều nội dung xung quanh nội dung

nguyên tắc này cũng đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn nữa.

3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi và thời gian nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung

cơ bản của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng

hình sự và việc áp dụng nguyên tắc này trong thực tiễn, từ đó xác định những bất cập để đề xuất

kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (sau đây gọi tắt là

BLTTHS) liên quan đến nguyên tắc này.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu

chủ yếu sau:

Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của các quy phạm pháp luật về thực

hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự Việt Nam từ năm

1945 cho đến nay, phân tích khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể, mối quan hệ giữa hoạt động

thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự để

làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của nguyên tắc này theo quy định của Luật

tố tụng hình sự Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật TTHS).

Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng nguyên tắc thực hành quyền công tố và

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng

hình sự nước ta, đồng thời phân tích những tồn tại xung quanh các quy định trong BLTTHS thể

hiện nguyên tắc này và thực tiễn áp dụng nhằm kiến nghị sửa đổi một số quy định của BLTTHS

liên quan đến nguyên tắc này trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.

3.3. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng nguyên tắc thực

hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, cụ thể là: khái niệm,

nội dung, phạm vi, chủ thể của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong tố tụng hình sự; thực tiễn áp dụng các quy định thể hiện nguyên tắc này để qua đó kiến

nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS liên quan đến nguyên tắc này.

3.4. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên tắc thực hành quyền công

tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam

dưới góc độ của luật tố tụng hình sự, đồng thời, luận văn cũng có đề cập đến một số quy phạm pháp

luật có liên quan nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu.

Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự

Việt Nam có liên quan đến việc thực hiện nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn từ năm 2005-2008.

4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như thành tựu

của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã

hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm

khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của

một số nhà khoa học pháp lý Việt Nam.

Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề

tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê;

v.v... Dựa trên những số liệu thống kê một số chỉ số hoạt động nghiệp vụ được tổng kết hàng năm

trong các báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cũng như những thông tin trên mạng internet

để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương

ứng được nghiên cứu trong luận văn.

5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn

Trong luận văn này, tác giả đã giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau:

1) Phân tích một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận về nguyên tắc thực

hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự: khái niệm, nội dung,

phạm vi, chủ thể của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

tố tụng hình sự, ranh giới và mối quan hệ giữa hai hoạt động trên

2) Hệ thống hóa lịch sử phát triển của các quy phạm về thực hành quyền công tố và kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự từ 1950 cho đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá.

3) Nêu ra thực trạng việc áp dụng nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân

theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân từ năm 2005 – 2008

trên cơ sở các báo cáo về công tác kiểm sát năm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (sau đây gọi tắt

là VKSNDTC), qua đó góp phần đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự liên

quan đến thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong

thời gian qua. Đặc biệt, luận văn còn chỉ ra một số tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn và những

nguyên nhân của thực trạng này để tìm ra giải pháp khắc phục.

4) Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân trong thực tiễn áp dụng, luận văn đã đưa ra các

kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm liên quan đến nguyên tắc thực

hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong pháp luật tố

tụng hình sự Việt Nam để phục vụ yêu cầu của thực tiễn công tác phòng và chống tội phạm, cũng

như việc bảo đảm việc tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết án.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về mặt lý luận: Giải quyết về mặt lý luận tổng thể, toàn diện nội dung nguyên tắc thực hành quyền

công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự theo pháp luật TTHS Việt Nam.

Về mặt thực tiễn: Góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động thực hành quyền

công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong thực tiễn hiện nay, cũng

như đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm có liên quan đến nguyên tắc thực hành quyền

công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.

Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho cán bộ thực tiễn và

các sinh viên, học viên cao học, cũng như góp phần phục vụ hoạt động lập pháp, hoạt động thực

tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết án hình sự.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương với

các nội dung chủ yếu sau:

Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.

Chƣơng 2: Thể hiện nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong tố tụng hình sự trong một số quy phạm pháp luật tố tụng hình sự.

Chƣơng 3: Thực trạng và một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện nguyên tắc thực hành quyền

công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.

CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG

TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN CÔNG TỐ, THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ

VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1.1. Khái niệm, đối tƣợng, phạm vi, nội dung quyền công tố

1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố

Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự

đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực

hiện (ở nước ta là Viện kiểm sát nhân dân) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự

đối với người phạm tội. Cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm bảo

đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó

quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa.

1.1.1.2. Đối tượng, nội dung và phạm vi quyền công tố:

- Đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội.

- Nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội.

- Phạm vi quyền công tố được bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án

có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị.

1.1.2. Khái niệm, đối tƣợng và phạm vi thực hành quyền công tố

1.1.2.1. Khái niệm

Thực hành quyền công tố là hoạt động thực hiện các quyền năng pháp lý thuộc nội dung

quyền công tố của cơ quan được giao thực hiện quyền công tố thông qua các hành vi tố tụng theo

quy định của BLTTHS để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội trong các giai đoạn điều

tra, truy tố và xét xử.

1.1.2.2. Đối tượng và phạm vi của thực hành quyền công tố

- Đối tượng của hoạt động thực hành quyền công tố cũng là tội phạm và người phạm tội.

- Phạm vi thực hành quyền công tố và phạm vi quyền công tố có những khác nhau cơ bản.

Thực hành quyền công tố thì thời điểm phát sinh hoạt động thực hành quyền công tố phải là thời

điểm được sử dụng các quyền năng pháp lý công khai để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với

người phạm tội, tức là sau khi tội phạm đã được phát hiện (xác định có dấu hiệu của tội phạm) và

có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Thời điểm kết thúc hoạt động thực hành quyền công tố có sự

trùng khớp với thời điểm kết thúc quyền công tố, đó là khi vụ án hình sự bị đình chỉ hoặc khi có

bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật và không bị khác nghị.

1.1.3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự

1.1.3.1. Khái quát các quy định của pháp luật Việt Nam về chức năng kiểm sát việc tuân

theo pháp luật của Viện kiểm sát

Căn cứ những quy định của pháp luật nước ta từ những năm 1950 đến nay, chức năng này

của Viện kiểm sát nhân dân có những thay đổi về phạm vi, đối tượng và nội dung hoạt động kiểm

sát việc tuân theo pháp luật.

- Sắc lệnh số 150-SL ngày 07/11/1950 quy định: về lĩnh vực giam giữ thì Ban giám thị đặt

dưới quyền kiểm soát của Công tố ủy viên tỉnh hoặc liên khu.

- Ngày 01/7/1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 256-TTg tổ chức và nhiệm vụ

của Viện công tố, theo đó, nhiệm vụ của Viện công tố là: “Giám sát việc tuân thủ và chấp hành

pháp luật của Nhà nước, truy tố theo pháp luật hình sự những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân

chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của công

dân, bảo đảm công cuộc kiến thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi”. Trên cơ sở quy

định của Hiến pháp năm 1959, ngày 15/7/1960, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1960 được

ban hành. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ

quan thuộc Hội đồng Chính phủ, các cơ quan nhà nước ở địa phương, các nhân viên cơ quan nhà

nước và công dân.

- Sau khi Hiến pháp năm 1980 ban hành, ngày 04/7/1981 Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ

nhất đã thông qua Luật tổ chức VKSND năm 1981, Luật mới vẫn giữ nguyên chức năng của Viện

kiểm sát như Luật tổ chức VKSND 1960, đồng thời có những bổ sung và cụ thể hóa nhiệm vụ,

quyền hạn của VKSND.

- Năm 1992, Hiến pháp mới được ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ của Viện

kiểm sát không có gì thay đổi so với quy định của Hiến pháp 1980.

- Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năn 2001 đã xóa bỏ công tác kiểm sát viêc

tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội, nhấn mạnh việc tăng cường chức

năng thực hành quyền công tố và ghi nhận chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp.

1.1.3.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự:

Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là hoạt động kiểm sát việc tuân theo

pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các cơ quan được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các cơ quan, tổ chức và công dân trong việc

thực hiện một số biện pháp ngăn chặn, thi hành bản án, quyết định của cơ quan tiến hành tố

tụng…. (các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các cơ quan được giao nhiệm vụ

tiến hành một số hoạt động điều tra và những “người” tham gia tố tụng)

- Kiểm sát các hoạt động tư pháp:

Kiểm sát các hoạt động tư pháp là việc kiểm sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ

quan tư pháp và các cơ quan được giao một số thẩm quyền tư pháp trong quá trình tố tụng hình sự.

Đối tượng của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp hình sự là hành

vi xử sự của các cơ quan tư pháp (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành án) và

cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Như vậy, khái niệm kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự rộng hơn khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng

hình sự, phạm vi kiểm sát các hoạt động tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự bao trùm phạm

vi kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự.

1.2. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ

KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.2.1. Khái niệm nguyên tắc cơ bản của luật TTHS

Tuy có những cách hiểu khác nhau về nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự và nguyên tắc

cơ bản của luật tố tụng hình sự, song các quan niệm trên đều thống nhất rằng, nguyên tắc cơ bản

của luật tố tụng hình sự là những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc

đối với một số giai đoạn nhất định của tố tụng hình sự, được thể hiện trong việc xây dựng và áp

dụng pháp luật.

Xuất phát từ khái niệm nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự cho thấy, nguyên tắc cơ bản

của tố tụng hình sự có một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là tư tưởng chỉ đạo, định hướng cơ bản,

“sợi chỉ đỏ” và là tiền đề quan trọng nhất quy định cách thức tổ chức và thực hiện các hoạt động tố

tụng hình sự, có vai trò chi phối hoặc là toàn bộ các hoạt động trong quá trình giải quyết vụ án hình

sự hoặc một số giai đoạn trong quá trình đó.

Thứ hai, các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự có mối quan hệ mật thiết với mô hình tố

tụng hình sự.

Thứ ba, nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự được thể hiện thông qua các quy phạm pháp

luật tố tụng hình sự.1.

Thứ tư, các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự có tính ổn định cao do phản ánh những

nguyên lý cơ bản nhất của các qui luật cơ bản trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

1.2.2. Khái niệm nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong tố tụng hình sự

- Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng

hình sự được quy định trong BLTTHS và chi phối toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét

xử, thi hành án hình sự và các hoạt động tố tụng hình sự khác của các chủ thể tham gia vào các

quan hệ tố tụng hình sự.

- Nguyên tắc này chứa đựng những nội dung thể hiện phương châm, định hướng quan trọng

về hoạt động TTHS của Đảng và Nhà nước ta và được thể hiện trong việc xây dựng và thực hiện

pháp luật tố tụng hình sự.

- Nguyên tắc này là sự kết hợp giữa hai chức năng của Viện kiểm sát là chức năng thực

hành quyền công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.

Tóm lại, nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố

tụng hình sự là nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự được quy định trong BLTTHS, thể hiện ở

vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố, quyết định việc truy cứu trách

nhiệm hình sự đối với người phạm tội và kiểm sát việc pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự,

đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,

thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không

làm oan người vô tội.

1.2.3. Nội dung nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong tố tụng hình sự:

Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình

sự được quy định tại Điều 23 BLTTHS bao gồm những nội dung cơ bản sau:

1.2.3.1. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc

truy tố người phạm tội ra trước Tòa án.

Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự qua các hoạt động:

- Khởi tố vụ án: Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện

kiểm sát huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án của các cơ quan quy định tại khoản này và trong

trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu

cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội

1 Nguyễn Ngọc Chí, Các nguyên tắc cơ bản trong Luật Tố tụng Hình sự – những đề xuất sửa đổi, bổ sung, Tạp chí khoa

học Đại học quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật 24 (2008).

phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra. Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, mặc dù

Viện kiểm sát không trực tiếp ra các quyết định khởi tố, nhưng căn cứ các quy định của Bộ luật

TTHS thì trong trường hợp khởi tố vụ án, xét cho cùng là do Viện kiểm sát quyết định.

- Khởi tố bị can: Quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra phải được gửi cho Viện

kiểm sát xem xét phê chuẩn, nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì quyết định khởi tố bị can của

Cơ quan điều tra không còn hiệu lực thực hiện.

- Điều tra vụ án hình sự: Hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra nhằm

đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời thông qua việc xử dụng tổng hợp các

quyền năng pháp lý mà pháp luật tố tụng hình sự quy định. Mặt khác, hoạt động thực hành quyền

công tố trong giai đoạn này cũng nhằm đảm bảo việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

góp phần ngăn chặn kịp thời việc khởi tố bị can một cách không thận trọng, thiếu chính xác.

- Quyết định việc truy tố: Hoạt động truy tố là chức năng quan trọng của Viện kiểm sát

nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của

toàn bộ các hành vi tố tụng mà Cơ quan điều tra có thẩm quyền đã áp dụng và để loại trừ những hậu

quả tiêu cực của các sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong hai giai đoạn tố tụng hình sự trước

đó thông qua các quyền năng pháp lý được quy định trong BLTTHS.

- Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử thông qua các hoạt động:

Đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên

toà; thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải

quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố

tụng khác tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm; phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về

việc giải quyết vụ án tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm.

1.2.3.2. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách

nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành

tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ

việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này.

- Viện kiểm sát tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự thông qua

các hoạt động: kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm và

kiến nghị khởi tố; kiểm sát việc khởi tố; các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của cơ quan

điều tra; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng; giải quyết các tranh

chấp về thẩm quyền điều tra theo quy định của pháp luật; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

hoạt động xét xử của Toà án nhân dân; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia

tố tụng; kiểm sát các bản án và quyết định của Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật; yêu

cầu Toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án hình sự để xem xét, quyết

định việc kháng nghị; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án nhân dân, cơ quan thi hành án,

Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan trong việc thi hành bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật và những bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định của

pháp luật nhằm bảo đảm các bản án, quyết định đó được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời.

- Trong quá trình kiểm sát, để thực hiện quyền kiểm sát, luật tố tụng hình sự quy định trách

nhiệm của Cơ quan điều tra, Tòa án, Cơ quan thi hành án hình sự về việc gửi các quyết định, hành

vi tố tụng cùng hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát để tiến hành kiểm sát; quy định việc trực tiếp tham

gia các hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát; quy định Viện kiểm sát có thẩm quyền trực tiếp kiểm

sát; quyền yêu cầu kiểm tra, yêu cầu gửi hồ sơ, tài liệu đến Viện kiểm sát…

- Khi tiến hành kiểm sát, nếu phát hiện những vi phạm tố tụng của cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, Viện kiểm sát có quyền áp dụng các biện

pháp theo quy định của BLTTHS để khắc phục các vi phạm đó, như quyền hủy bỏ; yêu cầu; kiến

nghị và kháng nghị tùy từng giai đoạn tố tụng.

1.2.3.3. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật

trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc

khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt

tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự thuộc

chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát được pháp luật quy định. Hai chức năng này có nội dung,

phạm vi và đối tượng và mục đích không giống nhau, nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ, biện

chứng và hỗ trợ cho nhau. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố

tụng hình sự để có chung một mục đích khái quát là nhằm đảm bảo cho mọi hành vi phạm tội đều

được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Hoạt động kiểm

sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có hiệu quả là điều kiện để bảo đảm thực hành

quyền công tố đúng đắn, chính xác, khách quan và ngược lại.

CHƢƠNG 2

THỂ HIỆN NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN

THEO PHÁP LUẬT TRONG MỘT SỐ QUY PHẠM PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

2.1. SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ

KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG CÁC

QUY ĐỊNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN TRƢỞNG, PHÓ VIỆN TRƢỞNG

VÀ KIỂM SÁT VIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên trong tố tụng hình

sự được quy định tại các điều 36, 37 BLTTHS;

2.2. SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ

KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG CÁC

QUY ĐỊNH VỀ VIỆC QUYẾT ĐỊNH VIỆC PHÊ CHUẨN, ÁP DỤNG, THAY ĐỔI, HỦY BỎ

BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN.

Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp; quyết định việc tạm giữ, tạm

giam, bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Những biện pháp

này được quy định tại các điều 80, 81, 86, 87, 88, 91, 92, 93, 120 BLTTHS.

2.3. SỰ THỂ HIỆN NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM

SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở CÁC GIAI ĐOẠN

TỐ TỤNG HÌNH SỰ.

2.3.1. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can

2.3.1.1. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự trong việc khởi tố vụ án hình sự

- Trong các quy định về việc tiếp nhận và kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm

và kiến nghị khởi tố được quy định tại khoản 1 Điều 103 BLTTHS; khoản 2 Điều 103 BLTTHS;

Điều 107 BLTTHS thì ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

- Trong các quy định về khởi tố vụ án hình sự được thể hiện tại Điều 109 BLTTHS; khoản 1

Điều 104, Điều 112 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và khoản 1 Điều 13 Luật tổ chức Viện kiểm

sát nhân dân; Điều 106, Điều 112 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 và Khoản 1 Điều 13 Luật tổ

chức Viện kiểm sát.

2.3.1.2. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự trong việc khởi tố bị can

Được thể hiện ở các quy định về phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can; quyết

định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định việc khởi tố bị can hoặc thay đổi, bổ

sung quyết định khởi tố bị can tại các điều 112, 126, 127 BLTTHS.

2.3.2. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Viện kiểm sát được áp dụng các biện pháp pháp lý được quy định tại Điều 112, 113

BLTTHS cùng với các biện pháp pháp lý cụ thể trong từng hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều

tra đảm bảo việc điều tra, truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội

và không bỏ lọt tội phạm. Ngoài ra, sự thể hiện của nguyên tắc này ở giai đoạn điều tra còn được

quy định cụ thể trong từng hoạt động tố tụng hình sự.

2.3.3. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn truy tố

Các quy định của BLTTHS trong giai đoạn truy tố đều là những quy định thể hiện nguyên

tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Khi truy tố

bị can ra Tòa án để xét xử, tức là Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, hoạt động đó thể hiện qua

việc ban hành quyết định truy tố.

2.3.4. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự

2.3.4.1. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bao gồm: Các quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc tiến

hành xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ; về thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong

trường hợp Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung; về thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát

trong kiểm sát việc chuẩn bị xét xử của Toà án; về thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát đối

với việc kiểm sát việc chấp hành các thủ tục tố tụng tại phiên tòa; về thẩm quyền và trách nhiệm

của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố tại phiên tòa như: Đọc cáo trạng (Điều 206

BLTTHS); Tham gia xét hỏi (theo quy định tại các điều 207; 209; 210; 211; 212, 213, 215, 216

BLTTHS); Trình bày luận tội (theo quy định tại Điều 217 BLTTHS); Tranh luận của Kiểm sát viên

(theo quy định tại Điều 218 BLTTHS) và về thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát sau khi

kết thúc phiên toà sơ thẩm hình sự.

2.3.4.2. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.

Nội dung các quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát ở cấp xét xử phúc

thẩm được thể hiện qua các quy định sau: Quy định về việc kiểm sát thủ tục kháng cáo, kháng nghị;

kiểm sát nội dung kháng cáo, kháng nghị; bổ sung, thay đổi nội dung kháng cáo, kháng nghị; rút

kháng nghị của Viện kiểm sát trước khi mở phiên tòa; bổ sung chứng cứ mới; kiểm sát việc chấp

hành thủ tục tố tụng của Hội đồng xét xử; xem xét chứng cứ tại phiên toà; việc tham gia xét hỏi tại

phiên toà của Kiểm sát viên; về việc trình bày quan điểm của Viện kiểm sát; tranh luận tại toà; thẩm

quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc kiểm tra biên bản phiên toà, bản án, quyết định

của Tòa án; trách nhiệm kiến nghị của Viện kiểm sát với Tòa án, các cơ quan, tổ chức hữu quan áp

dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa vi phạm...

2.3.4.3. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự ở trong giai đoạn xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm

Thẩm quyền và trác nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử giám đốc thẩm được

thể hiện qua các quy định về thẩm quyền kháng nghị của Viện kiểm sát theo thủ tục giám đốc thẩm;

việc đình chỉ thi hành án; việc xác minh theo thủ tục giám đốc thẩm; việc bổ sung, rút kháng nghị;

việc tham gia phiên toà giám đốc thẩm và việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật ở thủ tục giám

đốc thẩm...

2.3.4.4. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử theo thủ tục tái thẩm

Thẩm quyền và trác nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử tái thẩm được thể hiện

qua các quy định về thẩm quyền kháng nghị của Viện kiểm sát theo thủ tục tái thẩm; về việc xác

minh tình tiết mới; về việc yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án; về việc gửi kháng nghị; xác minh theo thủ

tục tái thẩm; về việc tham gia phiên toà tái thẩm và việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật ở thủ tục

tái thẩm tại phiên tòa như: Kiểm sát thành phần Hội đồng xét xử, thời hạn xét xử, thủ tục xét hỏi

những người được Tòa án triệu tập đến phiên tòa (nếu có) và việc biểu quyết của Hội đồng xét xử.

2.3.5. Sự thể hiện nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự ở

giai đoạn thi hành án hình sự.

Thể hiện qua các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc thi

hành án hình sự (được quy định tại các điều 26, 27, 28, 29 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

năm 2002 và Điều 141 Luật thi hành án hình sự năm 2010); quy định về trách nhiệm kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án hình sự được quy định

tại Điều 142 Luật thi hành án hình sự.

CHƢƠNG 3

THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGUYÊN TẮC

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

3.1. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN

CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.

3.1.1. Đánh giá chung về việc thực hiện nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm

sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.

Trong thời gian qua, ngoài những kết quả đã đạt được thì công tác thực hành quyền công tố

và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự vẫn còn những tồn tại, thiếu sót như: Vẫn

còn tình trạng oan sai trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; việc bắt giữ hình sự chưa thật sự

chính xác; chưa thực hiện tốt chủ trương gắn công tố điều tra; tỷ lệ án đình chỉ do không phạm tội

còn cao; việc trả hồ sơ điều tra bổ sung còn nhiều; chất lượng tranh tụng tại phiên tòa còn ở mức

hạn chế...Điều này ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, của

Viện kiểm sát nói riêng làm ảnh hưởng đến quyền tự do dân chủ của công dân.

3.1.2. Một số khó khăn, vƣớng mắc khi thực hiện một số quy định thể hiện nguyên tắc

thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.

Thứ nhất, Trong các quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện

trưởng và Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự hiện nay chưa phân biệt được rạch ròi giữa thẩm

quyền quản lý hành chính và thẩm quyền tư pháp; thẩm quyền quản lý hành chính với thẩm quyền

tố tụng của những người đứng đầu cơ quan Viện kiểm sát.

Thứ hai, quy định về các hình thức bắt người, nhất là giữa bắt người phạm tội quả tang với

bắt khẩn cấp; trong việc áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam với biện pháp tạm giam;

về thời hạn tạm giữ và việc ra hạn tạm giữ; trong việc thực hiệc các quy định về biện pháp tạm

giam; trong việc thực hiện các quy định về các biện pháp ngăn chặn khác.

Thứ ba, về các quy định liên quan đến công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong các giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can; các quy

định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành

án hình sự.

3.2. NHU CẦU, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG NỘI DUNG CẦN HOÀN THIỆN BẢO

ĐẢM TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ CỦA NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ

VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.

3.2.1. Nhu cầu và phƣơng hƣớng hoàn thiện nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm

sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.

Nhu cầu và phương hướng hoàn thiện nguyên tắc tố tụng hình sự nói chung và nguyên tắc

thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS phải xuất phát tư những

chủ trương cụ thể của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp để định hướng cho hoạt động xây

dựng, thực hiện pháp luật TTHS không đi lệch những mục tiêu chung. Những chủ trương của Đảng

và Nhà nước đã được thể hiện cụ thể trong Nghị quyết 08, Nghị quyết 49 của Bộ chính trị; Nghị

quyết Hội nghị lần thứ năm khóa X của Đảng; Kết luận 37, Kết luận 79 của Bộ chính trị…

3.2.2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS liên quan đến nguyên

tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong

pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.

Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự,

theo chúng tôi, cần giữ nguyên như quy định tại Điều 23 BLTTHS hiện hành, nhưng để thể chế hóa chủ

trương của Đảng theo hướng tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố

với hoạt động điều tra và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa; tăng cường công tác kiểm sát

việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật thì cần phải bổ sung thêm nguyên tắc tranh tụng trong

BLTTHS và sửa đổi, bổ sung các quy định thể hiện nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự; nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm

giữ, bị can, bị cáo trong mối quan hệ với việc hoàn thiện các chế định, quy định khác của BLTTHS bảo

đảm cho các quy định của BLTTHS thống nhất và thể hiện được các mục tiêu đề ra. Cụ thể:

- Đổi mới việc thực hiện chức năng công tố theo hướng tăng cường trách nhiệm công tố

trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra để thực hiện tốt việc

truy tố tội phạm, tranh tụng có chất lượng tại các phiên toà xét xử vụ án hình sự, theo đó, cần sửa

đổi, bổ sung một số điều luật sau của BLTTHS:

+ Điều 103 BLTTHS cần sửa đổi, bổ sung theo hướng Viện kiểm sát phải tham gia vào quá

trình phân loại xử lý các tin báo, tố giác về tội phạm; trực tiếp thẩm tra, xác minh tin báo, tố giác tội

phạm và kiến nghị khởi tố khi thấy cần thiết.

+ Điều 104, Điều 109 BLTTHS cần sửa đổi, bổ sung theo hướng Viện kiểm sát có quyền

trực tiếp ra các quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát trực tiếp tiếp nhận,

thẩm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố hoặc trường hợp Viện kiểm sát

huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án của các cơ quan quy định tại khoản này và trong trường hợp

Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Trường hợp Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự thì

Quyết định khởi tố đó phải được Viện kiểm sát phê chuẩn.

+ Điều 126 BLTTHS cần sửa đổi theo hướng Viện kiểm sát có quyền trực tiếp khởi tố bị

can trong cả quá trình điều tra.

+ Điều 110 BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng Viện kiểm sát được trực tiếp

điều tra vụ án khi cần thiết;

+ Bổ sung quy định theo hướng, yêu cầu của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra có giá trị

bắt buộc đối với Điều tra viên, nếu không đồng ý thì Điều tra viên vẫn phải chấp hành nhưng có

quyền kiến nghị Viện trưởng Viện kiểm sát xem xét.

- Điểu 207 BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng, tại phiên tòa, Kiểm sát viên

phải là người xét hỏi chính, trình tự xét hỏi là Kiểm sát viên (bên buộc tội) hỏi trước sau đó đến

Luật sư (bên gỡ tội) hỏi để nâng cao tính độc lập, chủ động và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong

việc xét hỏi, luận tội, tranh tụng.

Sửa đổi, bổ sung quy định Viện kiểm sát có quyền rút quyết định truy tố trước ngày mở phiên

tòa sơ thẩm hoặc ngay tại phiên tòa, nếu thấy có một trong các căn cứ để rút truy tố theo quy định của

BLTTHS. Khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử

không được tiến hành xét xử vụ án để đảm bảo nguyên tắc có truy tố thì mới có xét xử.

- Điều 36, 37 BLTTHS cần sửa đổi, bổ sung theo hướng phân định rõ thẩm quyền quản lý

hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tố tụng của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và

việc tăng quyền cho Kiểm sát viên. Phân định thẩm quyền giữa các loại Kiểm sát viên để ở mỗi cấp

tố tụng có nhiều loại Kiểm sát viên thích ứng với từng loại công việc.

- Điều 166 BLTTHS về thời hạn quyết định truy tố cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng

không căn cứ vào sự phân loại tội phạm mà quy định chung cho mọi vụ án. Tăng thời hạn giao

nhận các quyết định tố tụng của Viện kiểm sát cho Tòa án và những người tham gia tố tụng.

- BLTTHS cần bổ sung quy định nhằm nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên trong

nghiên cứu hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra chuyển sang đề nghị truy tố theo hướng khi kết thúc

việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng đầy đủ và

trung thực các vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án.

- Vấn đề đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án cần phân biệt rõ trường hợp đình chỉ vụ án với

trường hợp miễn truy tố.

- Bổ sung quy định về phục hồi truy tố trong BLTTHS đối với trường hợp bắt được bị can

đang bị truy nã hoặc bị can bị đã khỏi bệnh tâm thần hoặc khỏi bệnh hiểm nghèo khác …mà không

cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để phục hồi điều tra.

KẾT LUẬN

1. Trong tiến trình cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, tôn trọng và bảo vệ nhân phẩm,

danh dự, các quyền cơ bản của con người được coi là nhiệm vụ trong tâm của công cuộc cải cách tư

pháp. Tồn tại với tích chất là một nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, thực hành quyền công tố và

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là chức năng của Viện kiểm sát đã có quá

trình hình thành và phát triển từ lâu trong lịch tư pháp nước ta và được thể hiện ở những hình thức,

mức độ khác nhau, dần dần phát triển thành một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự được

quy định trong BLTTHS năm 2003.

2. Trong các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, nguyên tắc thực hành quyền công tố và

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự thể hiện rõ vị trí, vai trò của Viện kiểm sát

trong việc quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự, đưa người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử,

đồng thời Viện kiểm sát còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tiến hành tố tụng và

tham gia tố tụng hình sự, bảo đảm mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy

tố và xét kịp thời trên cơ sở không để lọt tôi phạm và không làm oan người không có tội; bảo đảm

các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án phải đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

3. Trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, BLTTHS hiện hành đã ghi

nhận và thể hiện trong các quy định của mình những nội dung của nguyên tắc thực hành quyền

công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Điều đó cho thấy hoạt động thực

hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là hoạt động mang

tính khách quan, phù hợp với thiết chế quyền lực của Nhà nước ta, góp phần đảm bảo cho bộ máy

nhà nước nói chung và hoạt động tư pháp nói riêng được chôi chảy, có sự phối hợp và chế ước lẫn

nhau đảm bảo sự hài hòa và cân bằng trong việc thực hiện quyền lực tư pháp, góp phần quan trọng

trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm đồng thời đảm bảo thực hiện tốt quyền tự do,

dân chủ trong lĩnh vực tư pháp.

4. Bảo đảm nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

tố tụng hình sự trong luật tố tụng hình sự là một yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện đúng đắn, kịp

thời chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà

nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

5. Để bảo đảm tăng cường hiệu quả của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự phải được

thực hiện theo hướng các quy định về trình tự, thủ tục tố tụng phải rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, dễ áp

dụng tránh vi phạm, nhất là các quy định có liên quan đến nội dung quyền công tố, thực hành quyền

công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự ở các giai đoạn tố tụng mà đặc

biệt là trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Đối với các chế định liên quan đến việc thực hiện

chức năng của Viện kiểm sát thì phải thể hiện được chủ trương nâng cao trách nhiệm của công tố

đối với hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra và nâng cao chất lượng tranh tụng tại

phiên tòa; tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động kiểm sát việc bắt, tạm giữ,

tạm giam..

References.

1. Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

2. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985 (1998), Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (2002), Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 sửa đổi (2009),

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1988

(2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003

(2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Lê Cảm (2001), "Chương IV - Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm

hình sự". Trong sách: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Tập I - Phần chung), Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. Lê Cảm (chủ biên) (2007), Bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con

người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà

Nội.

9. Lê Văn Cảm (1997), Học thuyết về Nhà nước pháp quyền và thực tiễn của nó ở Liên

bang Nga, Nxb "Sáng tạo" Hội Khoa học-Kỹ thuật Việt Nam tại Liên bang Nga, Maxcơva.

10. Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học

luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

11. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2001), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại

học Quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính

trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị về

chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến

năm 2020, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6 của Bộ Chính trị

về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Kết luận số 37-KL/TW ngày 02/02 của Hội nghị lần

thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ

nay đến năm 2020.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7 của Bộ Chính trị về

về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Nguyễn Ngọc Điệp, Đinh Thị Ngọc Dung (1996), 900 thuật ngữ pháp lý Việt Nam, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh.

20. Giáo trình Triết học Mác - Lênin (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Phạm Hồng Hải (2001), "Về chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự

năm 1999", Dân chủ và pháp luật, (12).

22. Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (1998), Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

23. Phạm Mạnh Hùng (2002), "Hoàn thiện các quy định của luật tố tụng hình sự về đình

chỉ điều tra và đình chỉ vụ án", Kiểm sát, (5).

24. Đỗ Mười (1995), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền là một trong những nhiệm vụ trọng

tâm của đổi mới hệ thống chính trị", Thông tin Khoa học pháp lý, (12).

25. C. Mac - Ph. ăngghen (1978), Toàn tập, Tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội.

26. Hoàng Thị Kim Quế (2002), "Tư tưởng Đông, Tây về Nhà nước và pháp luật - Những

nhân tố của Nhà nước pháp quyền", Nghiên cứu lập pháp, (3).

27. Hoàng Thị Kim Quế (2007), "Triết học pháp luật trong hệ thống các khoa học pháp lý",

Khoa học (chuyên san Kinh tế-Luật), (2).

28. Đào Trí úc (chủ biên) (1994), Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Đào Trí úc (chủ biên) (1994), Nghiên cứu về hệ thống pháp luật Việt Nam thế kỷ XV

đến thế kỷ XVIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

30. Đào Trí úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

31. Tạp chí kiểm sát từ năm 2003 đến nay.

32. Nguyên Ngọc Chí, Các nguyên tắc cơ bản trong Luật Tố tụng Hình sự – những đề xuất

sửa đổi, bổ sung, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội năm số 03/2008;

33. Đề tài khoa học cấp Bộ: “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động

công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay” - Viện khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

34. Đề tài khoa học cấp Bộ: “Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công

tố và kiểm sát các hoạt độngtư pháp”, Viện khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

35. Đề tài khoa học cấp Bộ: “Vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố

và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị”, Viện

khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

36. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong

giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp năm 2008;

37. Lê Cảm, Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố (Nhìn nhận từ góc độ nhà

nước pháp quyền) - http://luathinhsu.wordpress.com;

38. Ts. Phạm Mạnh Hùng, Hoàn thiện nguyên tắc cơ bản trong Luật TTHS đáp ứng yêu cầu

cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2010 – 2011;

39. Giáo trình Công tác kiểm sát, Nxb Công An nhân dân năm 1996 tập 1;

40. Võ Quang Nhạn, Bàn về quyền công tố, Tạp Chí công tác kiểm sát số 2/1984.

41. Võ Thọ, Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự, Nxb Pháp lý năm 1985;

42. Thạch Giản, Tìm hiểu bộ máy nhà nước, Nxb Pháp lý năm 1982.

43. Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Công tác kiểm sát phần chung, Nxb Công

an nhân dân năm 1984;

44. Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Công tác kiểm sát tập 1. Nxb Công an

nhân dân năm1996.

45. Thuật ngữ pháp lý phổ thông tập 1, Nxb Pháp lý năm 1986;

46. Tội phạm học, Luật hình sự và tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1995;

47. Đỗ Văn Đương – Khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung quyền công tố (Kỷ yếu đề tài

khoa học cấp Bộ “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt

Nam từ năm 1945 đến nay”. H 1999;

48. Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Một số vấn đề góp

phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

H1997.

49. Lê Tài Triển, Nhiệm vụ của Công tố viện, Sài Gòn 1970;

50. Hoàng Tuấn Lộc, Hình sự tố tụng chú giải. Quyển 1. Sài Gòn, 1973.

51. Phạm Hồng Hải, Bàn về quyền công tố (Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ “Những vấn đề

lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”), H

1999;

52. Võ Thọ, Một số vấn đề về luật TTHS, Nxb Pháp lý năm 1985;

53. Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà

Nội, Nxb Đại học Quốc gia năm 2005.

54. Võ Khánh Vinh, Về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

dân, do dân và vì dân ở nước ta. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2003.

55. Nguyễn Tất Viễn, Hoạt động tư pháp và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Kỷ yếu đề tài

cấp Bộ “Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động

tư pháp”, H.2002-2003.

56. Theo lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Đại học luật Hà Nội, Nxb Tư pháp năm

2006;

57. Từ điển tiếng Việt [50, tr. 672];