quan hỆ xà hỘi trong bỐi cẢnh phi nÔng nghiỆp...
TRANSCRIPT
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN GIÁO
QUAN HỆ XÃ HỘI
TRONG BỐI CẢNH PHI NÔNG NGHIỆP HÓA:
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP
LÀNG NINH HIỆP, GIA LÂM, HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN GIÁO
QUAN HỆ XÃ HỘI
TRONG BỐI CẢNH PHI NÔNG NGHIỆP HÓA:
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP
LÀNG NINH HIỆP, GIA LÂM, HÀ NỘI
Ngành: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 62 31 06 40
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. LÊ THANH BÌNH
2. TS. ĐÀO THẾ ĐỨC
HÀ NỘI - 2016
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành đề tài này, nghiên cứu sinh xin trân trọng cảm ơn:
- Học viện Khoa học xã hội và khoa Văn hóa học, cơ sở đào tạo
- GS.TS. Nguyễn Xuân Kính và GS.TS. Lê Hồng Lý, lãnh đạo Viện Nghiên
cứu văn hóa qua các thời kì và là những người đã tạo điều kiện thuận lợi về mọi
mặt cho nghiên cứu sinh trong suốt quá trình thực hiện luận án
- PGS.TS. Lê Thanh Bình và TS. Đào Thế Đức, những người thày hướng
dẫn trực tiếp
- Các nhà khoa học đã nhiệt tình góp ý cho luận án từ lúc mới là những
trang bản thảo đầu tiên cho đến nay, đặc biệt là PGS.TS. Nguyễn Thị Phương
Châm, PGS.TS. Phạm Quỳnh Phương và TS. Hoàng Cầm
- Các thành viên của gia đình và bạn bè - những người đã dành sự quan
tâm đầy ý nghĩa cho nghiên cứu sinh trong những năm qua
- Và cuối cùng, nhưng quan trọng nhất, người dân tại địa bàn nghiên cứu -
các cộng tác viên đã cung cấp rất nhiều tư liệu cho nghiên cứu sinh để bản luận án
này ra đời!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của tôi và công trình này đảm bảo
các nguyên tắc đạo đức trong việc trích dẫn tài liệu!
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Giáo
MỤC LỤC
Mở đầu 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
3. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 5
4. Đóng góp của luận án 12
5. Bố cục 12
Chương 1. Tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết 13
1.1 Tình hình nghiên cứu 13
1.1.1 Tình hình nghiên cứu quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp 13
1.1.2 Tình hình nghiên cứu quan hệ xã hội ở nông thôn Việt Nam 15
1.1.3 Tình hình nghiên cứu quan hệ xã hội ở nông thôn châu Á 23
1.2 Cơ sở lí thuyết 27
1.2.1 Lí thuyết 27
1.2.2 Khái niệm 32
Tiểu kết 33
Chương 2. Làng Ninh Hiệp 35
2.1 Lịch sử hình thành 35
2.2 Đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa 41
Tiểu kết 63
Chương 3. Mạng lưới quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp 64
3.1 Các quan hệ cơ bản trong mạng lưới 64
3.1.1 Quan hệ họ hàng 65
3.1.2 Quan hệ láng giềng 68
3.1.3 Quan hệ bạn bè 71
3.2 Cấu trúc của mạng lưới 74
3.2.1 Bộ phận quan hệ xã hội trung tâm 76
3.2.2 Bộ phận quan hệ xã hội ngoại vi 81
Tiểu kết 85
Chương 4. Vốn xã hội ở Ninh Hiệp - sự vận dụng mạng lưới quan hệ xã
hội trong hoạt động mưu sinh của người dân
87
4.1 Vốn xã hội nội bộ 87
4.2 Vốn xã hội bắc cầu 95
Tiểu kết 108
Chương 5. Tính chiến lược trong quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp - sự ứng xử
với vốn xã hội
109
5.1 Bảo vệ vốn xã hội 110
5.2 Phát triển vốn xã hội 122
5.2.1 Củng cố quan hệ xã hội đã có 122
5.2.2 Tạo quan hệ xã hội mới 136
Tiểu kết 140
Kết luận 141
Danh mục công trình của tác giả liên quan đến đề tài nghiên cứu 151
Tài liệu tham khảo 152
Phụ lục 181
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU THỐNG KÊ
Bảng 1. Các dạng quan hệ xã hội (lấy chủ hộ làm trung tâm) ở
khách dự đám cưới của 02 gia đình làm nghề thương mại
76
Bảng 2. Tiền mừng ở khách dự đám cưới của 02 gia đình làm
nghề thương mại
80
Biểu 1. Số lượng bình quân các sự kiện mang tính nghi lễ đã
tham gia và chi phí bình quân cho các sự kiện này của
người làm nghề thương mại (hoặc có liên quan đến
thương mại) và người làm nghề phi thương mại trong
năm 2013
130
Biểu 2. Số lượng bình quân các sự kiện mang tính nghi lễ đã
tham gia và chi phí bình quân cho các sự kiện này của
người làm nghề thương mại ở các quy mô khác nhau
trong năm 2013
131
Biểu 3. Số lượng bình quân hội nhóm phi quan phương đã tham
gia của người làm nghề thương mại (hoặc có liên quan đến
thương mại) và người làm nghề phi thương mại trong năm
2013
138
Biểu 4. Số lượng bình quân hội nhóm phi quan phương đã tham
gia của người làm nghề thương mại ở các quy mô khác
nhau trong năm 2013
138
NGHĨA CỦA CÁC CHỮ VIẾT TẮT
KHXH Khoa học xã hội
Nxb. Nhà xuất bản
STT Số thứ tự
TP. Thành phố
tr. Trang
UBND Ủy ban Nhân dân
xb. Xuất bản
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Những người có quan hệ tình cảm thân thiết luôn sẵn sàng giúp nhau
lúc khó khăn!”, Trung1, một người bạn học cũ của tôi và giờ là một thương
nhân khá điển hình cho hàng ngàn thương nhân Ninh Hiệp, ngôi làng buôn
vải và thuốc bắc rất có tiếng của ngoại thành Hà Nội, đã khẳng định như vậy
khi đề cập đến vai trò của các mối quan hệ xã hội ở làng trong hoạt động kinh
doanh. Tôi hỏi lại: “Thế còn trong phát triển việc làm ăn?”. Trung đáp: “Với
anh em hay bạn bè, người ta hỏi vay lúc có sự cố; còn muốn phát triển việc
làm ăn thì người ta sẽ đi vay lãi!”. Đó là những trao đổi giữa chúng tôi cách
đây mấy năm - vào một ngày mùa đông giá rét cuối tháng 12 năm 2011, khi
tôi trở về quê tham dự đám cưới của người quen. Bên chén rượu, sau những
bàn luận dông dài về chính trị, thể thao và phim ảnh, câu chuyện đã đưa đẩy
chúng tôi đến chỗ nói về sự gắn kết giữa quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp hiện nay
với công việc buôn bán, công việc mà đại đa số dân cư của làng đang miệt
mài theo đuổi.
Trung vốn là bạn đồng môn khá thân thiết của tôi, đồng thời cũng là
một người họ hàng xa (nhiều đời). Chúng tôi đều từng sống tại một thôn của
làng, nơi khá có truyền thống buôn bán của Ninh Hiệp trước đây cũng như
bây giờ. Hết cấp III, Trung theo học một trường nghề trong hai năm, sau đó vì
thất nghiệp nên về làng lấy vợ. Thời gian đầu, vợ chồng Trung làm rất nhiều
việc, ngoài làm ruộng vốn là nghiệp nhà, còn mua bán đồ điện tử cũ (mua về
sửa chữa, tân trang rồi bán), buôn cá cảnh, vận chuyển, may mướn, bán hàng
thuê... Sau khi đất ruộng bị thu hồi cho khu công nghiệp, vợ chồng anh - nhờ
sự giúp đỡ tài chính từ những người thân thiết - đã mua được một chỗ ngồi
nhỏ trên chợ để chuyển hẳn sang buôn vải. Kể từ đó, anh tập trung phụ giúp
vợ bán hàng. Dần dà, gia đình anh cũng có thu nhập vào loại trung bình khá
trong làng. Giờ anh đã xây được ngôi “biệt thự” ba tầng có tổng diện tích gần
400m2 trên mảnh đất được thừa kế từ cha mẹ. Ngoài ra, anh cũng mua được
1 Từ đây trở đi, vì lí do đạo đức khoa học, tên thật của các nhân vật được đổi. Mọi sự trùng hợp là
ngẫu nhiên.
2
hai mảnh đất “để sau này cho các con khi chúng lớn”. Có thể nói, Trung
chính là hình mẫu tiêu biểu cho những người Ninh Hiệp chuyển từ làm nghề
hỗn hợp mà chủ yếu là làm nông sang buôn bán (sau khi đất canh tác của làng
bị chuyển đổi mục đích sử dụng) một cách thành công.
Trung và tôi duy trì một mối quan hệ khá thân mật, dù tôi đã rời làng
kể từ lúc trở thành sinh viên, tức hơn hai mươi năm nay. Mỗi khi tôi về quê,
chúng tôi thường hẹn nhau đi uống nước và tán gẫu vào buổi chiều muộn, sau
khi anh thu dọn hàng hóa xong. Qua những câu chuyện của Trung, tôi hiểu
rằng việc mưu sinh của một tiểu thương như anh giữa “biển” tiểu thương
Ninh Hiệp là không hề đơn giản. Anh tâm sự, có những lúc việc làm ăn thất
bát đến mức tưởng như phải bỏ cuộc, nhưng cuối cùng nhờ sự trợ giúp của bà
con trong họ và bạn bè thân thiết mà vợ chồng anh đã trụ lại được. Tuy nhiên,
anh nhấn mạnh một lần nữa rằng ở Ninh Hiệp, sự trợ giúp từ mạng lưới quan
hệ xã hội gần gũi sẽ chỉ đến trong thời điểm một cá nhân gặp khó khăn và
thường người ta cũng xác định sẽ trông đợi vào nó những lúc nào gặp sự cố,
còn muốn làm giàu thì phải tự thân vận động. Tự thân vận động là gì? Đó là,
cùng với việc vay lãi để kinh doanh, người ta nhất thiết phải xây dựng được
một mạng lưới quan hệ trong và ngoài làng (càng rộng càng tốt) để khai thác
cho việc làm ăn. Anh khẳng định một cách quả quyết: “Quan hệ rộng là điều
rất quan trọng! Nhờ quan hệ mà mình có được những thông tin cần thiết về
mặt hàng, giá cả cũng như nguồn khách hàng. Trong tình hình kinh doanh
cạnh tranh hiện nay, không có mạng lưới như vậy thì khó lòng có thể phát
triển được!”.
Lời Trung nói khiến tôi quan tâm. Sự nhìn nhận một cách phân biệt
đối với những nguồn lực từ các mối quan hệ đa dạng nhưng đều đánh giá cao
chúng, đặt trong bối cảnh đặc thù của làng là phi nông nghiệp hóa dạng
thương mại hóa (theo thống kê gần đây, trong tổng số 3.370 hộ với 16.138
nhân khẩu của Ninh Hiệp, số hộ làm nông nghiệp chỉ chiếm 10%, còn lại chủ
yếu là các hộ buôn bán hoặc sản xuất công nghiệp/ tiểu thủ công nghiệp/ dịch
vụ mà một phần khá lớn các hộ sản xuất công nghiệp/ tiểu thủ công nghiệp đó
cũng kiêm luôn cả hoạt động thương mại) cho thấy một thực tế khá rõ: các
3
quan hệ xã hội truyền thống vẫn giữ những vai trò quan trọng, dù có thể là
khác nhau, đối với đời sống của người dân nơi này. Cụ thể, có những quan hệ
đóng vai trò trợ giúp người ta trong hoàn cảnh khó khăn và có những quan hệ
đóng vai trò trợ giúp người ta trong việc phát triển kinh tế. Ta vẫn biết, một
số lí thuyết hiện đại - tiêu biểu là lí thuyết của Parsons - nhận định rằng trong
một xã hội “hiện đại”, các quan hệ xã hội truyền thống sẽ dần dần giải thể, tan
rã do không còn những vai trò vốn có. Như vậy, hiện tượng chứa đựng trong
câu chuyện nêu trên phần nào đã vượt ra khỏi khả năng giải thích của các lí
thuyết này. Nó cần được tìm hiểu.
Nếu như cách đây khoảng hơn thập kỉ, các làng - xã Việt phi nông
nghiệp hầu như chưa xuất hiện thì nay một số làng - xã đã tiến tới phi nông
nghiệp toàn diện mà Ninh Hiệp là một trường hợp. Ngôi làng này2, nơi hiện
về mặt địa giới thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, là một trong những làng lớn
của đồng bằng Bắc Bộ với lịch sử lâu đời, cũng là làng tiêu biểu trong phát
triển kinh tế kể từ sau thời điểm bắt đầu Đổi mới của cả nước. Câu chuyện
với Trung đã thôi thúc tôi bước đầu tìm hiểu các quan hệ xã hội tại đây. Kết
quả cho thấy, có sự gia tăng rất đáng chú ý của một số dạng quan hệ xã hội
trong làng vì những lí do liên quan đến bối cảnh chuyển đổi về sinh kế. Nói
cách khác, đang có một xu hướng phát triển của tính duy lí trên nền tảng đan
xen giữa tình và lí trong quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp mà (nền tảng đó) theo
tôi vốn là mẫu số chung của quan hệ xã hội ở nông thôn Việt. Tôi cho rằng,
việc nhận diện điều này và lí giải nó có thể giúp góp thêm được một ý kiến
vào cuộc thảo luận về quan hệ xã hội ở nông thôn nước ta và trong khu vực
hiện nay.
Từ những lí do trên, Quan hệ xã hội trong bối cảnh phi nông nghiệp
hóa: Nghiên cứu trường hợp làng Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội được tôi chọn
làm đề tài cho luận án tiến sĩ văn hóa học của mình3.
2 Ninh Hiệp vừa là làng vừa là xã nhưng trong đời sống hàng ngày, người dân thường gọi nó là làng. 3 Xin nói thêm, giữa nhiều định nghĩa về văn hóa, chúng tôi theo quan điểm đang trở nên phổ
biến hiện nay của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) rằng
văn hóa là một tập hợp “các đặc trưng tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm của xã hội hay một
nhóm xã hội, và bao gồm, ngoài văn học và nghệ thuật, cả lối sống, cách thức cùng chung sống,
hệ giá trị, phong tục và tín ngưỡng” [247], vì thế xem quan hệ xã hội là cái thuộc về văn hóa.
4
2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Quan tâm đến bức tranh quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp hiện nay và việc
nó có thể đem lại nhận thức gì mới so với những nhận thức đã có về quan hệ
xã hội ở nông thôn Việt Nam và khu vực, mục đích nghiên cứu của đề tài là
chỉ ra được tính chất của mặt duy lí trong quan hệ xã hội của một ngôi làng
Việt trong bối cảnh đương đại với tư cách nét trội đã nói. Quan hệ xã hội ở
Ninh Hiệp - như vừa đề cập - có sự đan xen của cả tình và lí, tuy nhiên trong
khuôn khổ có hạn về mặt dung lượng của một luận án, đề tài chủ trương chỉ
tập trung tìm hiểu cái là nét trội này4. Người viết xác định đây là một đề tài
nghiên cứu cơ bản, hướng đến những thảo luận mang tính lí thuyết, song nó
cũng sẽ là một nguồn tư liệu có ý nghĩa tham khảo cho việc hoạch định chính
sách trong các lĩnh vực có liên quan.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp trong
bối cảnh phi nông nghiệp hóa.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp kể từ
thời điểm mà theo chủ trương của chính quyền xã, phần lớn đất nông nghiệp
trong làng bắt đầu bị chuyển đổi mục đích sử dụng (năm 2002). Trước kia
Ninh Hiệp là một làng hỗn hợp, trong đó người làm ruộng chiếm tỉ lệ tương
đối và bản thân người làm các ngành nghề khác như thủ công nghiệp, thương
mại, dịch vụ… cũng không ly nông hoàn toàn. Tuy nhiên, từ sau năm 2002,
với việc diện tích canh tác ngày càng thu hẹp do đất nông nghiệp trở thành
đất giãn dân và trở thành đất dành cho các hoạt động công nghiệp/ thương
mại - dịch vụ, thành phần lao động thuần nông giảm thiểu một cách rất rõ rệt,
chưa kể việc có rất nhiều hộ chỉ còn là hộ “thuần nông” trên giấy tờ tức thuần
nông một cách hình thức. Hiện, đại bộ phận dân làng đã trở thành những
người kinh doanh hoặc có liên quan đến các hoạt động kinh doanh. Người
viết sẽ tập trung vào lực lượng này. Và vì giới hạn vấn đề nghiên cứu ở mặt
duy lí của quan hệ xã hội, người viết sẽ quan tâm đến bức tranh quan hệ xã
hội ở đây trong sự gắn kết với vốn xã hội.
4 Nét trội đang đề cập dĩ nhiên được hiểu là “nét trội” ở một thời điểm cụ thể, nhất định trong lịch
sử của ngôi làng (tức cái được đưa lại bởi một bối cảnh đặc thù).
5
3. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Như mọi công trình văn hóa học, đề tài này tập trung vào mối quan hệ
giữa hiện tượng được nghiên cứu với bối cảnh. Quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp
trong bối cảnh chuyển đổi của làng - từ một xã hội mà con số lao động nông
nghiệp chiếm tỉ lệ đáng kể sang một xã hội phi nông nghiệp, hay diễn đạt
cách khác, từ một xã hội vốn được xem là “truyền thống” sang một xã hội
được xem là “hiện đại” - nói lên điều gì về phản ứng (hiểu theo nghĩa sự lựa
chọn) của người dân để thích nghi với nó cũng như theo đuổi những mục
đích đã đặt ra và do vậy sáng tạo nên văn hóa của mình, đó là điều mà đề tài
hướng tới.
Đề tài chú trọng đến cái nhìn “từ bên trong” nhằm tìm hiểu, khám phá
quan điểm của chủ thể văn hóa xung quanh những gì mà họ lựa chọn. Cách
tiếp cận này - đang trở nên rất có ảnh hưởng trong khoa học xã hội và nhân
văn trên thế giới hiện nay - bắt nguồn từ việc xem người dân là những chủ
thể có tính tự quyết đối với hành vi của mình, khác với cách tiếp cận thuần
túy “từ bên ngoài” vốn cho rằng chủ thể văn hóa không thực sự ý thức được
lí do khiến họ làm cái việc mà họ đã làm và vì thế không phải/ không được
là người có thẩm quyền trả lời về hành vi đó. Với sự xác định trên, nguyên
tắc của đề tài là quan tâm đến câu trả lời của bản thân người dân làng Ninh
Hiệp trong việc lí giải những gì liên quan đến việc họ khởi tạo, duy trì, gia
tăng, giảm thiểu hay kết thúc các mối quan hệ xã hội của mình. Tất nhiên,
đề tài cũng lưu ý đúng mức đến cái nhìn từ bên ngoài, vì như ta biết, có
những điều của bức tranh mà người ở hoàn toàn trong bức tranh không hẳn
dễ nhận ra.
Xin nói thêm, việc nghiên cứu với tư cách là một người trong cuộc
(sinh ra, lớn lên tại làng và đến nay vẫn duy trì mối quan hệ thường xuyên,
đồng thời đã có những trải nghiệm nhiều mặt gắn với nghề buôn bán đặc thù
trong các thập niên gần đây của nó) đem lại cho người viết khá nhiều thuận
lợi, nhưng cũng không phải không có khó khăn. Trước hết, về thuận lợi. Có
những vấn đề mà người ngoài cuộc khó hiểu được như người trong cuộc, vì
dẫu dành nhiều thời gian để thâm nhập thực địa đến đâu, người ngoài cuộc
6
cũng không thể thực sự đồng hóa mình với đối tượng nghiên cứu. Không một
quan sát nào có thể tách khỏi người quan sát, mà người quan sát thì luôn bị
chi phối bởi thế giới quan/ nhân sinh quan mang đặc điểm cá nhân và bối
cảnh cụ thể của việc nghiên cứu với các biến số “gây nhiễu” nhất định -
những điều dễ dẫn đến khoảng cách giữa người nghiên cứu và đối tượng
nghiên cứu. Nếu người nghiên cứu là người trong cuộc, khoảng cách vừa đề
cập sẽ được khắc phục phần lớn. Tuy nhiên, mặc dù với người ngoài, dân
làng sẽ có sự thận trọng nhất định và không muốn hoặc không muốn nói hết
về những gì mình nghĩ và làm5, có những điều họ chỉ cảm thấy thoải mái khi
nói với người ngoài hơn là với người làng hay thậm chí là với người thân
quen, kể cả trong trường hợp người đó không còn sinh sống hẳn ở làng nữa.
Ngoài ra, vì là nhà nghiên cứu “người làng”, tức thiếu đi đôi mắt hoàn toàn
mới mẻ của các nhà nghiên cứu lần đầu tiếp xúc với đối tượng nghiên cứu, sẽ
có những hiện tượng mà người viết không cảm thấy đủ ngạc nhiên để dừng
lại đặt câu hỏi và quan sát, dù chúng xứng đáng. Tóm lại, thuận lợi và khó
khăn cùng đến. Dẫu vậy, nhìn chung thuận lợi vẫn là chính, đặc biệt là vì thái
độ sẵn sàng chia sẻ của người dân thì vẫn nhiều hơn thái độ ngược lại. Bên
cạnh đó, vị trí quan sát có phần “đa chiều” (là người làng nhưng không còn
thường trú tại làng) dù sao vẫn đem lại cho người viết một may mắn là có thể,
mượn một cách nói hình ảnh, cân bằng nhất định được giữa việc “ở đó” như
yêu cầu của Geetz với “nhìn từ xa” như yêu cầu của Levi-Strauss.
Với việc tìm hiểu các quan hệ xã hội ở làng Ninh Hiệp, đề tài áp dụng
phương pháp nghiên cứu quen thuộc của văn hóa học - bộ môn khoa học
nằm ở giao điểm của các ngành khoa học xã hội và nhân văn, hay nói cách
khác một chuyên ngành không chuyên ngành (non - disciplinary discipline).
Đó là phương pháp nghiên cứu liên ngành. Bên cạnh phương pháp quan sát
tham dự và phỏng vấn sâu là những phương pháp phổ biến trong dân tộc học
và được lựa chọn như các phương pháp nghiên cứu chính vì thích hợp để tìm
5 Trước đây, đã có những nhóm nghiên cứu về khảo sát tại Ninh Hiệp. Một số người làng cho tôi
biết họ khá phân vân khi nói với những đoàn này về con số thu nhập của mình.
7
hiểu động cơ, ý nghĩa ẩn kín của các hành động của chủ thể văn hóa, người
viết cũng quan tâm đến việc áp dụng phương pháp thống kê của xã hội học
khi xem các thông số định lượng là những dữ kiện vừa có ý nghĩa gợi mở vừa
hỗ trợ cho việc giải quyết vấn đề nghiên cứu, đồng thời lưu ý đến việc phân
tích - tổng hợp các tư liệu thành văn và cả phi thành văn có liên quan để nhận
thức rõ hơn về vấn đề.
Về việc quan sát và việc phỏng vấn sâu, nếu đối tượng quan sát của
đề tài là thực trạng của quan hệ xã hội của người Ninh Hiệp ở các điểm
nghiên cứu tại một số thôn trong đời sống thường nhật và đời sống phi
thường nhật (ví dụ như trong các sự kiện có tính nghi thức: cưới xin, mừng
thọ, giỗ chạp...) thì đối tượng phỏng vấn sâu của đề tài là những người làng
và cũng đang cư trú tại làng với các độ tuổi, giới, trình độ học vấn, mức
sống… khác nhau. Trước nhất, về việc quan sát. Hầu hết quan sát của tôi là
quan sát tham dự. Gặp gỡ họ hàng, bạn bè... hay đi các đám “quan hôn tang
tế” trong làng vốn là việc mà tôi vẫn làm lâu nay, nhưng từ khi bước vào
nghiên cứu này, những điều đó được tôi quan tâm và thực hiện thường xuyên
hơn (trước đây, vì không sống ở làng nên tôi vẫn để các em trai kế mình
gánh vác giúp một phần trách nhiệm con trưởng). Mặc dù “thâm nhập địa
bàn nghiên cứu” và “xây dựng quan hệ” là những giai đoạn quan trọng cho
một quá trình điền dã như Shaffir và Stebbins (1991) [237] đã chỉ ra, vì là
người làng, tôi có may mắn là không phải mất nhiều thời gian cho chúng như
những người nghiên cứu “ngoài cuộc”. Sau nữa, về việc phỏng vấn sâu.
Nhằm thu được những thông tin mà tôi cho là đáng tin cậy nhất có thể, tôi đã
lựa chọn và tiếp cận đối tượng phỏng vấn từ nhiều nguồn, cụ thể là mạng lưới
quan hệ của bản thân, sự giới thiệu của những người quen biết, sự giới thiệu
của chính những người đã từng được phỏng vấn, và sự giới thiệu của các cơ
quan chức năng; hứa hẹn giữ bí mật thông tin liên quan đến người được
phỏng vấn bằng cách ẩn các thông tin có thể khiến họ bị nhận diện khi công
bố kết quả nghiên cứu; lựa chọn phương pháp phỏng vấn mở để người được
phỏng vấn thoải mái bộc lộ suy nghĩ; và cuối cùng, phỏng vấn đối tượng
nhiều lần ở nhiều tình huống khác nhau và phỏng vấn chéo các đối tượng
8
trong những trường hợp cần thiết. Bên cạnh việc đưa ra các câu hỏi về những
vấn đề hiện tại, việc đưa ra các câu hỏi mang tính hồi cố nhằm có được thông
tin về làng trong quá khứ - đặc biệt là quan hệ xã hội của làng - cũng là điều
tôi chú trọng: tôi đã đề nghị các thông tin viên lớn tuổi cho biết càng nhiều
càng tốt những trải nghiệm liên quan mà họ còn nhớ được. Phỏng vấn sâu
làm tốn khá nhiều thời gian của người được hỏi và theo đạo đức nghiên cứu
thì rất cần có thù lao thỏa đáng cho họ, song ở trường hợp của tôi (một người
làng), đưa phong bì là phản tác dụng nên tôi đã dừng lại sau vài lần “thử
nghiệm” và thay vào đó chỉ chuẩn bị quà cáp đơn giản là ít hoa quả theo mùa.
Số lượng người được tôi phỏng vấn có sự xê dịch tùy theo từng câu hỏi. Với
mỗi câu hỏi, tôi hỏi ít nhất 5 - 7 người và chỉ dừng lại chừng nào nhận thấy
rằng không có thêm ý kiến khác với những ý kiến đã có (thường thì thông tin
cũng khá nhanh chóng bão hòa). Trong quá trình phỏng vấn, tôi không quay
phim hay ghi âm vì không muốn thông tín viên của mình mất đi sự tự nhiên,
điều hay xảy ra khi có sự hiện diện của các “thiết bị kĩ thuật”. Tôi cũng hết
sức hạn chế ghi chép, mặc dù thông tín viên không phản đối. Điều này có hai
lí do. Thứ nhất, tôi không muốn làm gián đoạn mạch câu chuyện - biết đâu
đấy, những điều hay ho nhất có thể trôi tuột đi trong khoảng gián đoạn này.
Thứ hai, tôi không muốn ngừng sự giao tiếp bằng mắt giữa người phỏng vấn
và các thông tín viên - lắng nghe cảm giác của mình rằng thông tín viên có
hứng thú tiếp tục câu chuyện hay không và thậm chí có nói “thực lòng” hay
không là điều tôi đặc biệt quan tâm. Vì quan hệ xã hội là vấn đề khá nhạy
cảm nên tôi đã tập cho mình sự kiên nhẫn khi phỏng vấn và không ít lần đã
thay thế các câu hỏi trực tiếp bằng các câu hỏi gián tiếp để người được
phỏng vấn không cảm thấy e ngại. Tất cả mọi sự ghi chép được tôi thực hiện
khi trở về nhà cha mẹ tôi (cạnh UBND xã) ngay sau đó. Điều này khiến tôi có
thể lưu lại gần như trọn vẹn những gì đã thu nhận khi chúng vẫn còn khá rõ
ràng trong trí nhớ. Xin nói thêm, sở dĩ tôi không tiến hành các thảo luận
nhóm tập trung bên cạnh việc quan sát và phỏng vấn sâu, dù nó cũng là một
phương pháp nghiên cứu định tính quen thuộc, là có lí do. Thoạt đầu, tôi cũng
dự định tổ chức những cuộc thảo luận như vậy, nhưng vì các thông tín viên
9
của tôi nói rằng quan hệ xã hội là chủ đề mà người làng không thực sự muốn
trao đổi trước một nhóm đông người nên cuối cùng tôi đã đổi ý.
Cả trong phỏng vấn sâu và quan sát, sau khi có từng kết quả, tôi đều
bắt đầu luôn việc phân tích dữ liệu. Nói cách khác, tôi làm điều đó ngay trong
không khí trên thực địa (làng), khi những cảm nhận của mình về thông tin và
về bối cảnh có được thông tin vẫn còn sinh động. Việc làm này cho phép
người nghiên cứu kịp thời rút kinh nghiệm trong việc thu thập dữ liệu hoặc
thậm chí điều chỉnh chiến lược nghiên cứu cho phù hợp với tình hình thực tế
như Miles và Huberman (1994) [214] đã khẳng định, và vì thế tôi coi nó là
một cơ chế để kiểm soát chất lượng của nghiên cứu.
Về việc thống kê, tức về việc nghiên cứu định lượng, đề tài tiến hành
một số thống kê liên quan đến vấn đề nghiên cứu mà kết quả thể hiện trong
bản luận án như tỉ lệ các loại quan hệ xã hội trong danh sách khách dự đám
cưới của một số gia đình hay số lượng sự kiện mang tính nghi lễ đã dự trong
năm/ mức độ tham gia vào các hội nhóm phi quan phương của cá nhân. Nhìn
chung, tôi không vấp phải khó khăn gì đáng kể với việc đề nghị đối tượng
tham gia vào khảo sát định lượng của mình, trước hết bởi - như chính người
được hỏi nói - tôi là “người làng người nước”. Bản thân tôi vốn có một mạng
lưới quan hệ tương đối nên tiện đặt vấn đề đã đành, ngay cả với những đối
tượng chưa quen biết thì tôi cũng có thể đến gặp và đề nghị họ cung cấp
thông tin một cách khá “thuận buồm xuôi gió” mà không cần người giới
thiệu, chỉ cần xưng là dân ở thôn nào, ngõ nào là đủ. Những vất vả như kiểu
của Whyte khi ông nghiên cứu một góc phố đô thị - rằng việc được chấp nhận
trong xã hội căn cứ vào các quan hệ do cá nhân tự xây dựng và “tất cả những
sự giải thích về bản thân với người lạ đều vô nghĩa trong xã hội này” [250, tr.
300] - là điều tôi không phải đối mặt. Sau nữa, sự thuận lợi của tôi một phần
còn vì người Ninh Hiệp đã khá quen với khảo sát định lượng, do mươi năm
trở về trước làng hay được những người làm xã hội học về nghiên cứu (nhiều
người đứng tuổi đã từng là người trả lời các phỏng vấn xã hội học trước đây
và nhiều người trẻ hiện đang là chủ một gia đình thì vẫn nhớ về chuyện đó).
10
Để việc khảo sát được thuận lợi, tôi lựa chọn đến các nhà mà mình đã lên
danh sách vào thời điểm chiều muộn, khoảng trước bữa cơm, vì đó là lúc dễ
gặp được chủ nhà nhất và không gây ảnh hưởng đến lịch trình làm việc đặc
thù liên quan đến hoạt động kinh doanh của họ (buổi tối là lúc người buôn
bán Ninh Hiệp kiểm hàng, giao hàng, thu tiền hàng... - những việc bắt đầu
ngoài 19 giờ và sẽ kết thúc vào khoảng 22 giờ). Tuy nhiên, mặc dù coi trọng
các thông số định lượng, xin nhấn mạnh lại rằng với những vấn đề liên quan
đến nhận thức, quan niệm, thái độ, tình cảm... của chủ thể văn hóa về quan hệ
xã hội của họ, người viết vẫn ưu tiên sử dụng các phương pháp nghiên cứu
định tính mà cụ thể ở đây là quan sát tham dự và phỏng vấn sâu vì chúng có
hiệu quả hơn, nhất là trong một vấn đề có phần nhạy cảm như vấn đề đang
triển khai. Các thống kê được thực hiện, do đó, chủ yếu là nhằm tạo tiền đề
và/ hoặc bổ sung cho điều tra định tính. Việc lựa chọn sử dụng kĩ thuật định
tính hay định lượng, như ta vẫn biết, phụ thuộc vào sự tương thích của chúng
đối với vấn đề nghiên cứu và việc phối hợp chúng như thế nào cũng vậy.
Về việc phân tích - tổng hợp các tư liệu có liên quan, đối tượng của
đề tài là các tư liệu về quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp nói riêng và các tư liệu có
thể không về quan hệ xã hội nhưng gắn kết nhất định với vấn đề nghiên cứu.
Trong đó, tư liệu thành văn bao gồm: i) các công trình nghiên cứu đã được
công bố của người nghiên cứu chuyên hoặc không chuyên, ii) các văn bản
của Đảng bộ/ Đảng ủy và UBND xã, và iii) các tư liệu của người làng chưa/
không xuất bản. Các công trình nghiên cứu chuyên nghiệp về Ninh Hiệp khá
phong phú, lí do là bởi mấy thập niên gần đây, nó được các nhà khoa học về
nông thôn/làng ở Việt Nam dành cho nhiều sự quan tâm. Các công trình
nghiên cứu không chuyên về Ninh Hiệp đã công bố cũng không ít6. Với các
văn bản của Đảng bộ/Đảng ủy và UBND xã, tôi gặp thuận lợi lớn trong việc
6 Thậm chí cách đây khoảng chục năm, báo chí Hà Nội vẫn thường nhắc đến một người làng hay
viết về Ninh Hiệp với danh xưng “người viết sử làng”. Tuy nhiên, ít người biết rằng đây là người
viết sử làng đặc biệt, vì ông đã nhận được cả tiếng vang lẫn tai họa từ những trang viết của mình
(có quyển sách của ông đã bị UBND xã thu hồi do xuất hiện đơn kiện của một dòng họ trong
làng rằng nó có những điểm chưa chính xác). Câu chuyện này khiến tôi luôn tự nhắc bản thân
phải hết sức thận trọng khi sử dụng các nguồn tư liệu thứ cấp bằng cách hỏi thật nhiều người làng
trong khả năng có thể của mình về những thông tin liên quan để đối chứng.
11
tiếp cận do một cán bộ xã là bạn học cũ của tôi - anh đã giúp tôi sớm có được
những gì mà tôi muốn. Những văn bản này rất cần thiết vì chúng không chỉ
đem lại con số mà còn cho tôi biết quan điểm của các tổ chức, cơ quan công
quyền đối với vấn đề phi nông nghiệp hóa tại làng ở từng giai đoạn cụ thể.
Với các tư liệu của người làng chưa hoặc không xuất bản, việc tiếp cận khó
hơn. Vì quen biết “dây mơ rễ má” với người thân của các tác giả, tôi mượn
được một vài bản thảo viết tay hoặc đánh máy đề cập đến những khía cạnh ít
nhiều liên quan tới lịch sử của làng để tham khảo. Tôi nhận thấy rằng thái độ
trân trọng các bản thảo được mượn là điều khiến người mượn khá nhanh
chóng giành được thiện cảm của người cho mượn và sau đó sẽ dễ được tạo
điều kiện để tiếp cận nhiều tư liệu hơn nữa. Ví dụ, có bản thảo, trước khi
đem trả, tôi xin phép được đóng quyển để tránh khả năng sau này các trang
ruột của nó bị thất lạc, không ngờ việc nhỏ như vậy cũng đủ để tôi nhận
được sự hài lòng lớn từ phía người cho mượn - người này đã cung cấp thêm
một vài tài liệu “độc” khác mà trước đó tôi không hề biết đến. Ngoài ra, tôi
cũng tham khảo các thông tin về làng trên internet - một nguồn có tính cập
nhật và đa dạng - để biết thêm rằng người Ninh Hiệp nghĩ về mình như thế
nào và người nơi khác nghĩ về họ ra sao trong những vấn đề mà tôi quan
tâm. Còn về việc phân tích - tổng hợp các tư liệu phi thành văn có liên quan,
đối tượng của đề tài là những câu chuyện, lời ca gắn với quá trình hình
thành, phát triển của làng mà một số người trong làng vẫn nhớ, cái lắng đọng
hình ảnh cuộc sống của cư dân nơi này qua các thế hệ. Tôi có được chúng chủ
yếu từ các lão niên trong làng. Họ biết tương đối nhiều và rất vui khi một
người còn khá trẻ mong muốn tìm hiểu về di sản đó. Cũng phải nói thêm rằng
những sáng tác này không chỉ được lưu một cách tĩnh tại trong trí nhớ người
già mà vẫn tiếp tục tồn tại sống động trong cuộc sống của họ theo một cách
thức nhất định. Không ít lần tôi đã chứng kiến các ông, các bà vui vẻ đọc, hát
và bàn luận về các sáng tác thơ ca truyền miệng lâu đời của làng khi họ sinh
hoạt với nhau trong Câu lạc bộ văn nghệ người cao tuổi Ninh Hiệp do chính
bà thân sinh tôi là chủ tịch - hiện tượng cho thấy vẫn có một đời sống thực
của văn hóa dân gian ở đây.
12
4. Đóng góp của luận án
Đây là một nghiên cứu về quan hệ xã hội ở một làng người Việt trong
bối cảnh phi nông nghiệp hóa đặc thù - phi nông nghiệp hóa dạng thương mại
hóa - dưới góc độ văn hóa học.
Về mặt lí luận, qua việc giải quyết vấn đề nghiên cứu, luận án thảo
luận với và bổ sung cho quan điểm “người nông dân duy lí”, được biết đến
nhiều trong lĩnh vực nghiên cứu quan hệ xã hội ở nông thôn châu Á nói
chung và Việt Nam nói riêng, do Popkin khởi xướng. Đồng thời, luận án còn
thảo luận với và bổ sung cho quan điểm “mạng xã hội” về vốn xã hội và phát
triển kinh tế, được biết đến nhiều trong lĩnh vực nghiên cứu vốn xã hội, của
Burt, Portes, Massey, Woolcock và một số người khác.
Về mặt thực tiễn, đề tài góp phần làm toàn diện hơn nữa nhận thức về
bức tranh toàn cảnh của quan hệ xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay khi phi
nông nghiệp hóa đang là một xu hướng ngày càng phát triển và vì thế, cung
cấp thêm một cơ sở cho những nhà hoạch định chính sách và những người
thực hiện các dự án phát triển trong các lĩnh vực/ vấn đề có liên quan.
5. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
các công trình của tác giả liên quan đến đề tài và phụ lục, luận án có 05 chương:
Chương 1. Tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết;
Chương 2. Làng Ninh Hiệp;
Chương 3. Mạng lưới quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp;
Chương 4. Vốn xã hội ở Ninh Hiệp - sự vận dụng mạng lưới quan hệ
xã hội trong hoạt động mưu sinh của người dân;
Chương 5. Tính chiến lược trong quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp - sự ứng
xử với vốn xã hội.
13
Chương 1
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Tình hình nghiên cứu quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp
Ninh Hiệp là một trong những ngôi làng Bắc Bộ được giới nghiên cứu
về nông thôn ở Việt Nam khá quan tâm. Đến nay, một số công trình khảo sát
về nó đã được thực hiện như: Ninh Hiệp truyền thống và phát triển của Tô
Duy Hợp (chủ biên) (1997) [45]; “Thương mại - dịch vụ trong phát triển
kinh tế - xã hội ở Ninh Hiệp” của Lê Thanh Bình (2002) [8]; “Tiểu thủ công
nghiệp ở Ninh Hiệp (lịch sử và hiện tại)” của Dương Duy Bằng (2002) [5];
“Những biến đổi của quan hệ dòng họ ở Ninh Hiệp” của Vũ Văn Quân
(2002) [85]; Chợ nông thôn châu thổ sông Hồng trong quá trình chuyển đổi
kinh tế - xã hội thời kì đổi mới (trường hợp chợ Ninh Hiệp, chợ Hữu Bằng,
chợ Thổ Tang) của Lê Thị Mai (2004) [64]7; Sinh hoạt văn hóa cổ truyền ở
các làng - xã Đa Tốn, Ninh Hiệp, Bát Tràng huyện Gia Lâm ngoại thành Hà
Nội trong thời kỳ đổi mới của Phan Thanh Tá (2010) [95]… Những nghiên
cứu mang tính tổng quát (Tô Duy Hợp) cũng như những nghiên cứu đi sâu
tìm hiểu từng lĩnh vực như kinh tế (Lê Thị Mai, Lê Thanh Bình), văn hóa
(Phan Thanh Tá), và xã hội (Vũ Văn Quân, Nguyễn Đức Truyến…) đã đưa
đến một số kiến giải quan trọng về đối tượng này. Ninh Hiệp cũng được giới
nghiên cứu quốc tế ít nhiều chú ý. Chẳng hạn trong công trình của Lương
Văn Hy và Unger, “Wealth, Power, and Poverty in the Transition to Market
Economies: The Process of Socio-economies Differentiation in Rural China
and Northern Vietnam” [Thịnh vượng, quyền lực và sự nghèo đói trong việc
chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường: Quá trình của sự phân hóa kinh tế -
xã hội ở nông thôn Trung Quốc và Bắc Việt Nam] (1998) [207], nó được lấy
làm ví dụ cho dạng làng có truyền thống về nghề thủ công và chuyên nghiệp
hóa thương mại (truyền thống này được xem là một trong các yếu tố có ý
7 Công trình đã được xuất bản bởi Nxb. Thế giới (Hà Nội) vào năm 2004 với tên gọi Chợ quê
trong quá trình chuyển đổi.
14
nghĩa nền tảng đối với “mức độ của sự định hướng thị trường của một ngôi
làng”). Hay mới đây, trong “Tư nhân hóa và sự năng động của thị trường
mang tính chất giới ở Ninh Hiệp, Gia Lâm” (2014) [41], Horat đã mô tả việc
phân công lại lao động cùng những thỏa thuận đối với vai trò và mối quan hệ
giới trong gia đình ở làng hiện nay.
Về việc nghiên cứu các quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp (hoặc lấy Ninh
Hiệp làm một mẫu nghiên cứu trường hợp), có hai công trình tập trung hơn cả
là “Những biến đổi của quan hệ dòng họ ở Ninh Hiệp” của Vũ Văn Quân
(trong Làng ở vùng châu thổ sông Hồng, vấn đề còn bỏ ngỏ do Papin và
Tessier chủ biên) (2002) [85] và Kinh tế hộ gia đình và các quan hệ xã hội ở
nông thôn đồng bằng sông Hồng trong thời kì đổi mới của Nguyễn Đức
Truyến (2003) [116].
Trong công trình thứ nhất, tác giả đã lần lượt đề cập tới i) sự gắn kết
của quan hệ dòng họ trước Cách mạng (1945); ii) sự phai nhạt của quan hệ
dòng họ trong giai đoạn từ sau Cách mạng cho đến trước thời điểm bắt đầu
Đổi mới (1986) do những chi phối của bối cảnh chính trị; và iii) sự phục hồi
của quan hệ dòng họ trong giai đoạn Đổi mới dưới tác động của sự phát triển
kinh tế và đặc biệt là các chủ trương liên quan của Nhà nước. Như vậy,
nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi của quan hệ dòng họ ở Ninh Hiệp, theo tác
giả, là do tác nhân lịch sử - xã hội, nhất là những chính sách quan phương.
Quan điểm này có những cơ sở của nó, tuy nhiên tác giả mới chỉ đề cập đến
các nguyên nhân khách quan chứ chưa chú ý đến các nguyên nhân chủ quan
của sự biến đổi quan hệ dòng họ ở đây, trong khi do bản chất của các hoạt
động mưu sinh phi nông nghiệp mà nó có rất nhiều khả năng mang nặng tính
chiến lược.
Trong công trình thứ hai, lấy làng Ninh Hiệp làm mẫu chính để khảo
sát về các quan hệ xã hội ở nông thôn đồng bằng sông Hồng trong thời kì
Đổi mới, tác giả khẳng định, các quan hệ xã hội truyền thống phục hồi trên
nền tảng tái lập kinh tế hộ gia đình. Luận điểm cơ bản của tác giả là sự phục
hồi kinh tế hộ gia đình một mặt phát triển ý thức về lợi ích kinh tế cá nhân,
15
mặt khác cũng đòi hỏi củng cố quan hệ cộng đồng truyền thống - được coi là
giá đỡ chủ yếu cho sự phát triển của bản thân mô hình kinh tế, cũng như cho
từng thành viên. Mặc dù vậy, mô hình được nói đến trong nghiên cứu mới
chỉ là mô hình kinh tế hộ nông dân, cái mà quan hệ cộng đồng vẫn có thể là
“giá đỡ”, chứ chưa bao gồm những mô hình khác.
Có thể nói, phần nào giống như chính ngôi làng, quan hệ xã hội ở
Ninh Hiệp cũng đã nằm trong mối quan tâm của các nghiên cứu. Tuy nhiên,
những công trình đề cập đến nó so với những công trình đề cập đến các khía
cạnh khác của làng lại chưa phong phú, và về cơ bản tập trung vào thời điểm
cách đây trên một thập kỉ, khi Ninh Hiệp còn là một ngôi làng hỗn hợp điển
hình thay vì phi nông nghiệp hóa như hiện tại.
Nhìn rộng hơn, tình hình nghiên cứu quan hệ xã hội ở nông thôn Việt
Nam và khu vực ra sao?
1.1.2. Tình hình nghiên cứu quan hệ xã hội ở nông thôn Việt Nam
Đề tài quan hệ xã hội thường được gặp trong những nghiên cứu về
nông thôn và nông dân ở Việt Nam. Có thể thấy hai mảng chính được quan
tâm là i) đặc điểm quan hệ xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng
Tám (1945), và ii) đặc điểm quan hệ xã hội nông thôn Việt Nam từ sau thời
điểm bắt đầu Đổi mới (1986) đến nay. Một trong những lí do khiến quan hệ xã
hội nông thôn giai đoạn từ sau năm 1945 đến trước năm 1986 không trở thành
đối tượng được chú ý là sự chi phối của bối cảnh chính trị ở miền Bắc (quan hệ
này bị xóa nhòa nhiều phần dưới thể chế “hợp tác xã”).
Thứ nhất, mảng đề tài về đặc điểm quan hệ xã hội nông thôn trước
Cách mạng tháng Tám (1945).
Về tổng thể, có ba cách nhìn nhận khác nhau với đối tượng đang đề
cập: duy tình, duy lí và trung hòa.
Nằm trong số những người nghiên cứu sớm nhất về làng Việt, với
Người nông dân châu thổ Bắc Kì (1936), Gourou nhận định: “Làng là một
cộng đồng tự trị, tự giải quyết những mâu thuẫn giữa các thành viên, tự thu
lấy thuế cho nhà nước” [31, tr. 247] và “mặc dầu có sự tố giác và thủ đoạn
16
giữa các phe đảng, tình đoàn kết làng xã không phải là lời nói suông” [31, tr.
254]. Đồng tình với Gourou, Nguyễn Văn Huyên trong Văn minh Việt Nam
(1944) đánh giá rằng các thành viên trong làng có sự đoàn kết, và điều này
đặc biệt xảy ra khi quyền lợi cộng đồng bị xâm phạm: “... làng xã Việt Nam,
ngoài tổ chức hành chính chính thức, còn vô số nhóm có những mối quan hệ
rõ rệt. Do tinh thần tương trợ của họ, những nhóm đó đóng vai trò tốt lành ở
cái xứ sở ít tiền bạc này... Dù sao đi nữa, đúng là có một cộng đồng làng xã
thật sự” [48, tr. 148 - 149]. Scott, với The Moral Economy of the Peasant:
Rebellion and Subsistence in Southeast Asia [Kinh tế đạo đức của nông dân:
Sự phản kháng và sinh tồn ở Đông Nam Á] (1976) [236] - công trình khởi
nguồn cho những tranh luận kéo dài của các nhà nghiên cứu trên thế giới về
tính chất tình - lí ở nông thôn châu Á nhiều thập niên qua8 - nhấn mạnh rằng
làng của người Việt thời thuộc địa là một thiết chế giảm thiểu rủi ro trong
tình trạng khí hậu thất thường mà kĩ thuật sản xuất thì hạn chế, và sự đùm
bọc giữa các thành viên của làng luôn tồn tại với trách nhiệm lớn của những
người thuộc tầng lớp trên. Trong “Công cuộc trị thủy - thủy lợi yêu cầu quan
hệ tập thể làng xã” (1977) [78], Vũ Huy Phúc và Lê Đình Sỹ nhận định việc
phải đoàn kết để đấu tranh không ngừng với những thử thách của thiên nhiên
đã là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành tinh thần cộng
đồng ở nông thôn. Nguyễn Đổng Chi, với “Sự tồn tại của quan hệ thân tộc
trong làng xã Việt Nam” (1978) [11] và “Vài nét về biện pháp cứu tế tương
trợ trong làng xã Việt Nam trước Cách mạng” (1978) [12], nói đến “sự cố
kết lâu bền” trong quan hệ thân tộc nói riêng và “tinh thần tập thể rất cao”
trong quan hệ làng xã nói chung ở người nông dân. Trần Đình Hượu với
““Làng - Họ”, những vấn đề của quá khứ và hiện tại” (1989) xem làng là
“một thế giới riêng” và mọi người dân “có thể dựa vào thiết chế của làng,
tinh thần cộng đồng, tình nghĩa bà con xóm làng mà sống, không cần ra khỏi
làng...” [51, tr. 20]. Diệp Đình Hoa trong Tìm hiểu làng Việt (1990) khẳng
8 Và còn không chỉ châu Á. Ví dụ, xem bài viết gần đây bàn về công trình này của Edelman,
“Bringing the Moral Economy back in… to the Study of 21st-Century Transnational Peasant
Movements” [Đưa nền kinh tế đạo đức trở lại... với việc nghiên cứu xuyên quốc gia về phong
trào nông dân của thế kỉ 21] (2005) [165].
17
định: “Tinh thần đoàn kết và cố kết đã gắn những người nông dân lại với
nhau, gắn họ với làng xã và được họ coi là nhu cầu, là lẽ sống, là tình cảm
sâu sắc, là một nghĩa vụ thiêng liêng” [36, tr. 544]. Còn Đỗ Thái Đồng trong
“Làng hiện thực và biểu trưng” (1995) nhìn nhận, làng “có chức năng tổ
chức, duy trì và tái tạo các quan hệ cộng đồng” và “là một hệ thống được
biểu trưng về một sự an toàn xã hội vững chắc nhất” [28, tr. 91].
Trong khi các nhà nghiên cứu nói trên nhấn mạnh đến sự lấn át của
tính cộng đồng đối với tính cá nhân ở làng Việt thì ngược lại, Popkin qua
công trình tranh luận với Scott, The Rational Peasant: The Political Economy
of Rural Society in Vietnam [Người nông dân duy lí: Nền kinh tế chính trị của
xã hội nông thôn ở Việt Nam] (1979) [224], đã dành sự quan tâm cho mâu
thuẫn giữa lợi ích cá nhân và nhóm. Cùng với tác phẩm của Scott, công trình
của Popkin cũng chính là công trình đã đưa vấn đề tình - lí ở nông thôn Việt
Nam vào tâm điểm chú ý của giới nghiên cứu quốc tế về nông thôn châu Á.
Popkin nhận định rằng người nông dân Việt thời thuộc địa luôn hành động
dưới sự chi phối của việc ra quyết định cá nhân và những tương tác chiến
lược, nhưng trước hết, anh ta quan tâm đến phúc lợi và sự an toàn của bản
thân cũng như gia đình. Nói cách khác, với Popkin, hành động của người
nông dân mang nặng sự cân nhắc nhằm mục đích thu lợi tối đa hơn là bị chi
phối bởi những vấn đề đạo đức: khi xem xét đến khả năng nhận được kết quả
tốt đẹp hơn trên cơ sở hành động cá nhân, anh ta sẽ đi theo hướng tư lợi. Tác
giả vì thế cho rằng nên coi làng là một nghiệp đoàn hơn là một cộng đồng.
Một người khác, Trần Từ, trong Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở
Bắc Bộ (1984), cũng lưu ý đến những mâu thuẫn thường trực, không thể hòa
giải trong cộng đồng làng xã. Theo ông, mỗi làng của người Việt chính là một
“biển” tiểu nông tư hữu, trong đó từng hộ nông dân tự do, dù thuộc giai cấp
hay thành phần xã hội nào, vẫn là một tế bào kinh tế độc lập với “lí tưởng”
vươn lên riêng rẽ của nó [126, tr. 29]. Đồng thời, ông đánh giá rằng tuy “họ”
của người Việt là một hình thức của gia đình mở rộng và chủ yếu có chức
năng tạo ra niềm cộng cảm dựa trên huyết thống, vai trò của nó sau này chỉ
18
còn nằm ở lĩnh vực tâm tưởng hơn là đời sống hiện thực. Đấy là chưa kể, “dù
tổ chức họ có thỉnh thoảng cung cấp một chỗ dựa tinh thần cho từng gia đình
nhỏ đang phải đương đầu với mâu thuẫn làng mạc thì bản thân nó đã là một
cái túi chứa mâu thuẫn rồi” [126, tr. 44].
Bên cạnh đó, nhiều nhà nghiên cứu lại khẳng định sự tồn tại đan xen
của cả hai yếu tố vừa đề cập ở làng xã Việt (mặc dù có thể có điểm nhấn).
Brocheux, trong “Moral Economy or Political Economy? The Peasants are
Always Rational” [Kinh tế đạo đức hay kinh tế chính trị? Nông dân luôn
sáng suốt] (1983), cho rằng tùy theo từng thời điểm và tình huống cụ thể,
người nông dân Việt Nam sẽ lựa chọn gắn mình vào nền kinh tế đạo đức (duy
tình) hay nền kinh tế chính trị (duy lí), vì thế cuộc chiến quan điểm diễn ra
giữa Scott và Popkin “là không tương ứng với cuộc sống thực tế” [154, tr.
801]. Lương Văn Hy, trong “Agrarian Unrest from an Anthropological
Perspective: The Case of Vietnam” [Tình trạng bất ổn nông nghiệp từ một góc
nhìn nhân học: Trường hợp của Việt Nam] (1985), khẳng định làng Việt thời
kì tiền thuộc địa và thuộc địa bao gồm cả sự “đoàn kết tận cùng” và cả “sự
đua tranh dữ dội” mà nếu không có “những phân tích sâu về sự đan xen và
đối lập trong nguyên lí cấu trúc và thông số sinh thái học” của nó thì sẽ không
thể hiểu hết các vấn đề liên quan [206, tr. 153]. Trần Quốc Vượng, với Văn
hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm (2000) nhận định, ngoài một “chủ nghĩa
cộng đồng”, hệ ý thức Việt Nam cổ truyền còn có cả “chủ nghĩa cá nhân tiểu
nông” [135, tr. 83]. Trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (2001), Trần
Ngọc Thêm đánh giá, “cộng đồng” và “tự trị” là hai đặc trưng căn rễ dẫn đến
“tính nước đôi” của người nông dân Việt: vừa có tinh thần đoàn kết tương trợ
lại vừa có óc tư hữu, ích kỉ và thói cào bằng; vừa có tính tập thể hòa đồng lại
vừa có tính bè phái, địa phương; vừa có nếp sống dân chủ bình đẳng lại vừa
có tính gia trưởng tôn ty; vừa có sự cần cù, tự lập lại vừa có thói dựa dẫm, ỷ
lại... [102, tr. 197 - 198]. Xác định làng xã Việt mang những đặc trưng kép là
“tự trị và phụ thuộc”, “tự cung tự cấp và thị trường”, “đồng thuận và xung
đột”, “biệt lập và giao lưu”, Tô Duy Hợp, trong Định hướng phát triển làng -
xã đồng bằng sông Hồng ngày nay (2003) [47] rồi sau đó là Lương Hồng
19
Quang, trong “Các tổ chức phi quan phương trong làng - xã vùng châu thổ
Bắc Bộ (trường hợp hội đồng niên)” (2010) [80], cho rằng sự đồng thuận
trong các quan hệ xã hội là hằng số chính, còn xung đột là hằng số phụ, và ở
những làng hỗn hợp hoặc có hơi hướng phi nông như làng nghề, làng buôn
hay làng ven đô thì những căn tính thuộc hằng số phụ bộc lộ mạnh hơn. Và
Bùi Xuân Đính, với “Từ một kiểu chia làng, suy nghĩ về tính thống nhất và
đồng thuận của làng Việt thời phong kiến” (2007), quả quyết làng Việt vốn
mang tính cộng đồng cao song lại là một cái gì đó rất dễ phân tán “về
phương diện quyền lực” [26, tr. 8].
Tóm lại, khi tìm hiểu quan hệ xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách
mạng, các nhà nghiên cứu đã đi đến những nhận định khác nhau: một số xem
nó là duy tình, số khác xem nó là duy lí và số còn lại xem nó có cả tình lẫn lí
(với nét trội hoặc không). Nhìn chung, các tác giả này chủ yếu tiếp cận đối
tượng dưới góc độ chức năng và hướng về nhóm hơn là về cá nhân.
Thứ hai, mảng đề tài về đặc điểm quan hệ xã hội nông thôn sau thời
điểm bắt đầu Đổi mới (1986) đến nay.
Sau thời điểm bắt đầu Đổi mới, tức sau giai đoạn tồn tại của mô hình
kinh tế “hợp tác xã”, người ta đã chứng kiến sự gia tăng rất mạnh mẽ của các
yếu tố có tính truyền thống trong bối cảnh mới ở nông thôn. Có một sự lấy lại
đáng kể những khuôn mẫu của quá khứ, theo đó các giá trị cũ được tái khẳng
định sau một thời gian tương đối dài mất đi hoặc chìm lắng. Nói cách khác,
làng xã Việt, đặc biệt là các quan hệ xã hội của nó, được phục hồi/ tái cấu
trúc. Điều này đã thu hút sự quan tâm của không ít nhà nghiên cứu.
Ở đây, cũng có ba cách nhìn nhận khác nhau: một nghiêng về duy tình,
một ngược lại, và một trung hòa.
Trong cách nhìn thứ nhất, các tác giả chủ yếu nhấn mạnh đến yếu tố
duy tình trong việc phục hồi những cấu trúc văn hóa - xã hội truyền thống
của nông thôn. Với Đối diện tương lai hồi sinh quá khứ: Nghiên cứu biến đổi
xã hội ở một làng Bắc Việt Nam (2007) [55], Kleinen nói tới sự trở về quá
khứ hay hồi sinh quá khứ ở nông thôn sau thời điểm bắt đầu Đổi mới, một
20
quá khứ trước thời điểm cải cách ruộng đất với vai trò quan trọng của giới
tinh hoa vốn là những “người cũ”, mang trong mình những “giá trị cũ”. Tác
giả đánh giá, sở dĩ có sự phục hồi đang đề cập là do những hình thức quan hệ
xã hội truyền thống cũng như những thực hành văn hóa được trao truyền qua
nhiều thế hệ đã đáp ứng được nhu cầu tinh thần vốn có của người dân. Tìm
hiểu các tổ chức phi quan phương của làng xã qua trường hợp hội đồng niên,
Lương Hồng Quang, với “Các tổ chức phi quan phương trong làng - xã vùng
châu thổ Bắc Bộ (trường hợp hội đồng niên)” (2010) [80], cho rằng sự phục
hồi của những tổ chức này có cơ sở từ việc lấy lại các khuôn mẫu vốn có và
đưa thêm vào những yêu cầu mới của cuộc sống. Theo tác giả, khái niệm
“hiện đại” cần được hiểu là một sự tái tạo truyền thống có chọn lọc, và trong
sự phục hồi hội đồng niên có thể nhận thấy tính cộng đồng vẫn mạnh hơn
tính cá nhân dẫu bối cảnh xã hội đã thay đổi. Còn Mai Văn Hai và Ngô Thị
Thanh Quý, với bài viết có tên “Vai trò của mạng lưới họ hàng lấy cá nhân
làm trung tâm trong hoạt động kinh tế ở nông thôn hiện nay” (2012) [35] thì
nhận định, mạng lưới họ hàng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng đối với
các hoạt động kinh tế nông thôn trong bối cảnh kinh tế thị trường, và mối
liên kết kinh tế giữa các thành viên trong mạng lưới họ hàng lấy cá nhân làm
trung tâm là biểu hiện cụ thể của tâm lí cộng đồng vốn đã tồn tại từ rất lâu
đời ở nông thôn Việt Nam trong lịch sử (mặc dù không còn bó hẹp trong
phạm vi làng xã).
Ở cách nhìn thứ hai, là cách nhìn có phần trội hơn, các tác giả lại nhấn
mạnh đến sự duy lí trong quan hệ xã hội ở nông thôn khi đề cập đến vai trò
của các quan hệ này trong phát triển kinh tế hộ gia đình, tức đặt chúng vào
mối liên hệ với nhu cầu về sinh kế của những người dân. Trong Quan hệ
dòng họ ở châu thổ sông Hồng: Qua hai làng Đào Xá và Tứ Kỳ (2000) [33],
Mai Văn Hai và Phan Đại Doãn khẳng định, hiện tượng phục hưng dòng họ
hiện nay có nguyên nhân từ sự tái lập kinh tế hộ gia đình và theo các tác giả,
việc liên kết/ hợp tác trong dòng họ diễn ra ở hầu hết các phương diện quan
trọng nhất của nghề: việc sử dụng nguồn đất đai canh tác, việc sở hữu tư liệu
21
sản xuất, và việc thực hiện những công đoạn sản xuất cụ thể. Ở Kinh tế hộ gia
đình và các quan hệ xã hội ở nông thôn đồng bằng sông Hồng trong thời kì
đổi mới (2003) [116], Nguyễn Đức Truyến cũng cùng quan điểm khi cho rằng
sự tái lập kinh tế hộ gia đình đòi hỏi củng cố các quan hệ cộng đồng truyền
thống - vốn được xem là giá đỡ chủ yếu cho sự phát triển của bản thân mô
hình kinh tế, cũng như cho từng thành viên. Với “Sử dụng vốn xã hội trong
chiến lược sinh kế của nông dân ven đô Hà Nội dưới tác động của đô thị hóa”
(2007) [100], Nguyễn Duy Thắng đánh giá, sự biến đổi một cách nhanh
chóng của vùng nông thôn ven Hà Nội để hòa nhập với đô thị đã kéo theo
việc mạng lưới xã hội của người nông dân ngày càng được mở rộng, cái khiến
cho họ có cơ hội tích lũy được nhiều vốn xã hội hơn trong chiến lược sinh kế
riêng. Trong ““Giúp đỡ” và tương trợ trong cộng đồng làng quê ở miền Bắc
Việt Nam: Quan hệ giữa tình đoàn kết và sự phụ thuộc” (2010), Tessier
khẳng định sẽ là ảo tưởng nếu chỉ thấy ở “hệ thống giúp đỡ” được miêu tả
trong công trình của ông những biểu hiện của tình đoàn kết gia đình hay dấu
vết cuối cùng của các quan hệ kinh tế xã hội trước kia bởi thực ra nó là công
cụ điều tiết xã hội và kinh tế, và tác giả cho rằng hệ thống này có tính hợp
đồng [96, tr. 374]. Với Kinship as Social Capital: Economic, Social and
Cultural Dimensions of Changing Kinship Relations in a Northern
Vietnammese Village [Họ hàng như là vốn xã hội: Các chiều cạnh kinh tế, xã
hội và văn hóa của quan hệ họ hàng đang chuyển đổi ở một làng miền Bắc
Việt Nam] (2010), Nguyễn Tuấn Anh cho biết, quan hệ họ hàng ở nông thôn
Việt Nam đã được khai thác tích cực cho việc xây dựng vốn xã hội kể từ sau
giai đoạn hợp tác hóa nông nghiệp, bao gồm vốn xã hội nội bộ (được sử
dụng để giảm thiểu những rủi ro của hoạt động sản xuất) và vốn xã hội bắc
cầu (được sử dụng để gia tăng lợi nhuận và cải thiện phúc lợi gia đình) [218,
tr. 225]. Còn trong Từ lúa sang tôm: Hành vi giảm thiểu rủi ro và khai thác
vốn xã hội của nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long (2014), Ngô Thị
Phương Lan đã nêu lên vai trò quan trọng của quan hệ xã hội với tư cách là
vốn xã hội trong sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của người nông dân, mà theo
22
đó quan hệ họ hàng “vẫn là quan hệ cơ bản và có vai trò nổi trội trong việc
hỗ trợ nhau trong đời sống của cá nhân và đây cũng là mối quan hệ mà các
cá nhân tập trung đầu tư và củng cố...” [56, tr. 290].
Bên cạnh đó, cũng có người nghiên cứu cho rằng có sự đan xen của cả
yếu tố duy tình và duy lí trong thuộc tính của quan hệ xã hội ở nông thôn Việt
Nam đương đại. Chẳng hạn, với “Cộng đồng làng trong hệ thống an sinh xã
hội hiện nay” (2007), Lê Mạnh Năm và Nguyễn Phan Lâm cho biết, tại hai
địa bàn được các tác giả nghiên cứu là làng Tam Sơn và Đồng Kỵ thuộc tỉnh
Bắc Ninh, họ hàng, láng giềng và những tổ chức tự nguyện có vai trò rất quan
trọng đối với người dân trong vấn đề hỗ trợ khi rủi ro, hỗ trợ khi có việc, hỗ
trợ khi gặp tình trạng đói nghèo... Lí do hành động của các chủ thể (của
những hoạt động này) là “động viên tinh thần” và “hỗ trợ phần nào về kinh
tế” với các đối tượng cần giúp đỡ, là tâm lí phòng thân “giúp người là giúp
mình”, là nhận thức “tập thể và nhà nước không trợ cấp hết được”, và cuối
cùng là “làm theo lệ làng, phong tục của làng” [69, tr. 72 - 74], tức có sự đan
xen giữa tình cảm, việc ứng xử theo chuẩn mực và những cân nhắc về lợi
ích. Còn trong bài viết “Quà và vốn xã hội ở hai cộng đồng nông thôn Việt
Nam” (2010), Lương Văn Hy đánh giá dòng quà ở các địa bàn khảo sát -
làng Hoài Thị, tỉnh Bắc Ninh và ấp Dinh thuộc xã Khánh Hậu, tỉnh Long An
- là kết quả của mối tương tác giữa một mặt là sự lựa chọn có tính chiến lược
của từng cá nhân và một mặt là quy ước văn hóa xã hội cùng điểm nhấn của
các chủ thể về tình cảm. Tác giả nhấn mạnh, ngay cả khi họ nói về tình cảm
như là nền tảng của việc tặng quà ở mức độ nào, thì sự tặng quà đó cũng liên
quan đến “những quyết định có suy nghĩ” trong việc sử dụng các nguồn lực
vật chất. Ông kết luận rằng ý thức hệ và những quy ước văn hóa xã hội đặc
thù đã hòa quyện với sự tính toán và sự chủ động của người trong cuộc ở cả
hai điểm nghiên cứu [52, tr. 420].
Như vậy là, có thể thấy, về thuộc tính quan hệ xã hội ở nông thôn Việt
Nam sau khi kết thúc giai đoạn hợp tác hóa nông nghiệp đến nay, các nhà
nghiên cứu cũng có những nhận định không giống nhau: một số xem nó là
duy tình, một số xem nó là duy lí và số khác thì xem nó có cả hai. Nhưng, so
23
với mảng đề tài về quan hệ xã hội trước Cách mạng, các tác giả trong mảng đề
tài này - dẫu về cơ bản vẫn khảo sát đối tượng dưới góc độ chức năng - chú ý
hơn tới việc lấy các cá nhân làm trung tâm để từ đó tìm hiểu mạng lưới quan
hệ xã hội, tức đã bắt đầu có một sự chuyển dịch từ tiếp cận nhóm sang tiếp
cận cá nhân.
Tóm lại, xuất phát từ những góc nhìn khác nhau, các công trình nghiên
cứu vừa điểm luận đã chứa đựng những phân tích đáng chú ý về quan hệ xã
hội ở nông thôn Việt Nam trên phương diện đồng đại cũng như lịch đại. Mặc
dù vậy, đối tượng nghiên cứu của chúng đến nay chủ yếu vẫn là các làng xã
thuần nông và hỗn hợp trọng nông, còn các làng xã phi nông nghiệp hóa vừa
xuất hiện thì chưa được quan tâm một cách thật thích đáng.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu quan hệ xã hội ở nông thôn châu Á
Cuộc thảo luận về tính duy tình/ duy lí nói chung và tính duy tình/ duy
lí trong quan hệ xã hội nói riêng của người nông dân châu Á bắt đầu trở nên
sôi nổi cách đây gần nửa thế kỉ, tức những năm 1970. Có thể nói, đây là một
cuộc thảo luận rất thu hút sự quan tâm của giới học thuật quốc tế. Tham gia
vào cuộc thảo luận này, mà Scott (1976)9 và Popkin (1979) - với các công
trình đã được đề cập ở trên - là hạt nhân, cần kể đến những cái tên đáng chú ý
như: Feeny, với “The Moral or the Rational Peasant? Competing Hypotheses
of Collective Action” [Người nông dân duy tình hay duy lí? Những giả thuyết
đối ngược nhau về hành động tập thể] (1983) [170]; Evans, với “From Moral
Economy to Remembered Village: The Sociology of James C. Scott” [Từ nền
kinh tế đạo đức đến ngôi làng được đề cập: Xã hội học của James C. Scott]
(1986) [168]; Chovanes, với “On Vietnamese and Other Peasants” [Về người
nông dân Việt Nam và những người nông dân khác] (1986) [159]; Zawawi,
với The Malay Labourer: By the Window of Capitalism [Người lao động
Malay: Bên cánh cửa của chủ nghĩa tư bản] (1998) [258]; Kurtz, với
“Understanding Peasant Revolution: From Concept to the Theory and Case”
9 Trước Scott, Swiff trong Malay Peasant Society in Jelebu [Xã hội nông dân Malay tại Jelebu]
(1965) [243] đã đề cập đến vấn đề mối quan hệ giữa đạo đức và nền kinh tế nông dân, nhưng chỉ
sau công trình của Scott, cuộc thảo luận mới thực sự bùng nổ.
24
[Thấu hiểu cuộc cách mạng của nông dân: Từ khái niệm đến lí thuyết và
trường hợp cụ thể] (2000) [200]… Các nhà nghiên cứu đã tập trung tìm hiểu
thuộc tính của đối tượng theo những cách nhìn nhận khác biệt nhau - nếu
cách nhìn đầu tiên nhấn mạnh đến sự duy tình, cách nhìn thứ hai nhấn mạnh
đến sự duy lí thì cách nhìn thứ ba cũng mang tính trung hòa. Xin dừng lại ở
một số bài viết mà tôi hứng thú. Trong “Moral Economy or Contest State?:
Elite Demands and the Origins of Peasant Protest in Southeast Asia” [Kinh tế
đạo đức hay tình trạng cạnh tranh: Đòi hỏi của tầng lớp tinh hoa và nguồn
gốc các cuộc nổi dậy của nông dân tại Đông Nam Á] (1980) [140], Adas
nhận định rằng luôn xuất hiện mâu thuẫn trong đời sống nông thôn giữa
nông dân với tầng lớp trên và nguyên nhân dẫn đến sự phản kháng của người
nông dân nằm ở những biến đổi liên quan đến mối quan hệ quyền lực giữa
họ với tầng lớp này cùng những biến đổi khác về kinh tế - xã hội mà có thể
làm cho khả năng tự bảo vệ và vị thế thương lượng của họ suy yếu. Theo tác
giả, việc tìm cách mở rộng cơ hội nắm giữ nguồn lực đã đóng vai trò lớn
trong sự xung đột giữa hai lực lượng. Trong “Indulgence and Abundance as
Asian Peasant Values: A Bengali Case in Point” [Niềm đam mê và sự dư dật
như là những giá trị của nông dân châu Á: Trường hợp người Bengali]
(1983) [179], Greenough cho biết những người dân ở địa bàn nghiên cứu
thuộc phía đông tiểu lục địa Ấn Độ vẫn trồng lúa vì lí do thờ thần lúa, dù
được nhà nước khuyến khích trồng loại cây lương thực khác có giá trị kinh tế
cao hơn, và ông đánh giá rằng các truyền thống sinh hoạt của họ vì thế bắt
nguồn từ những giá trị được tạo ra tại địa phương của “niềm đam mê” và “sự
dư dật” hơn là nền kinh tế đạo đức. Còn trong “Economic Action and
Buddhist Morality in a Thai Village” [Hành vi kinh tế và đạo lí Phật giáo ở
một làng người Thái] (1983) [191], Keyes đặt các nỗ lực kinh tế nhằm nâng
cao chất lượng cuộc sống của người nông dân vào mối liên hệ với nền kinh
tế chính trị và văn hóa Phật giáo. Xuất phát từ quan điểm rằng người nông
dân trong sự cố gắng tìm kiếm lợi ích đã bị chi phối bởi cả những điều kiện
kinh tế chính trị lẫn những đòi hỏi xã hội của việc sống tại một cộng đồng
mà “luân lí đạo đức” gắn liền với một thế giới quan cụ thể, Keyes nhận định,
25
tuy vẫn có sự tính toán duy lí, những người vừa là nông dân lại vừa là Phật
tử ở địa bàn nghiên cứu của ông đã thực hành một thứ “đạo lí” kinh tế đặc
trưng chịu ảnh hưởng của triết thuyết Phật giáo10.
Cuộc thảo luận đến nay vẫn chưa kết thúc. Ví dụ, gần đây, vào năm
2006, Rigg trong “Land, Farming, Livelihoods, and Poverty: Rethinking the
Links in the Rural South” [Đất đai, nông nghiệp, sinh kế, và nghèo đói: Suy
nghĩ lại về những mối liên kết ở vùng nông nghiệp phương Nam] [233] đã
chỉ ra nhiều biểu hiện của xu hướng duy lí ở người nông dân Đông Nam Á
như hiện tượng đa dạng hóa nghề nghiệp trở nên phổ biến, thu nhập từ hoạt
động phi nông nghiệp tăng lên, cuộc sống có tính di động hơn và sinh kế
tương ứng được “giải địa phương hóa”...; tức người ta đang hướng đến
những lựa chọn mang tính lợi ích hơn là hướng đến sự an toàn; còn vào năm
2007, McElwee, trong “From the Economy to the World Economy:
Revisiting Vietnamese Peasants in the Globalizing Era” [Từ nền kinh tế đạo
đức tới nền kinh tế thế giới: Nhìn nhận lại người nông dân Việt Nam trong kỉ
nguyên toàn cầu hoá] [213], lại làm “hồi sinh” quan điểm người nông dân
duy tình của Scott sau khi tiến hành nghiên cứu tại chính điểm nghiên cứu cũ
của Scott và kết quả cho thấy người nông dân vẫn không hướng đến tính duy
lí khi thích tìm kiếm sự an toàn hơn là mạnh dạn đầu tư trong bối cảnh kinh
tế thị trường. Tuy nhiên, cách nhìn trong đó thừa nhận sự tồn tại của cả khía
cạnh duy tình và duy lí ở quan hệ xã hội của khu vực nông thôn châu Á trong
một hai thập niên qua đang dần trở nên chiếm ưu thế hơn. Có thể thấy khá rõ
điều này qua những nghiên cứu về Trung Quốc, một địa bàn rất thu hút các
nhà khoa học trong chủ đề đang bàn. Các tác giả như Yan với The Flow of
Gifts: Reciprocity and Social Networks in a Chinese Village [Dòng quà: Sự
10 Trong “On the Symposium, Peasant Strategy in Asian Societies” [Về chuyên đề Chiến lược của nông dân trong các xã hội châu Á] (1984) [216], Moise cho là Keyes và các tác giả khác trong chuyên đề Chiến lược của nông dân trong các xã hội châu Á của Tạp chí Nghiên cứu châu Á, Đại học Cambridge số 3 năm 1983 đã nhầm lẫn khi khẳng định rằng Scott muốn rút ra mô hình tiếp cận chung từ trường hợp có tính đặc thù, nhưng trong “Still More on Peasant Strategies: A Reply to Edwin Moise” [Tiếp tục bàn về chiến lược của người nông dân: Trả lời Edwin Moise] (1984) [192], Keyes đã khẳng định không có sự nhầm lẫn đó và đồng thời nhấn mạnh thêm rằng ở bài viết của mình cho chuyên đề, tức bài viết mà chúng ta đang đề cập, ông đã không đồng ý với cách tiếp cận của cả Popkin lẫn Scott.
26
trao đổi có đi có lại và những mạng lưới xã hội ở một làng Trung Quốc]
(1996) [257], Kipnis với Producing Guanxi: Sentiment, Self, and Subculture
in a North China Vilage [Tạo ra quan hệ: Tình cảm, cái tôi và tiểu văn hóa ở
một làng Bắc Trung Quốc] (1997) [193], Wilson với “The Cash Nexus and
Social Networks: Mutual Aid and Gifts in Contemporary Shanghai Villages”
[Mối liên hệ tiền bạc và những mạng lưới xã hội: Sự trợ giúp có đi có lại và
quà tặng trong các làng Thượng Hải đương đại] (1997) [252] và “Face,
Norm, and Instrumentality” [Thể diện, chuẩn mực và quy ước] (2002) [253]...
đều cho rằng có sự tồn tại của cả yếu tố tình cảm và tính toán trong quan hệ
xã hội ở các địa bàn nông thôn được họ khảo sát. Chẳng hạn, qua trường hợp
một làng ở hạt Shuangcheng có tên Xiajia, Yan (1996) nhận định rất khó
phân biệt chính xác đâu là sự tính toán hoặc không trong dòng quà của người
dân. Về nguyên tắc có đi có lại và đạo đức trong việc tặng quà, Yan đề cập
đến ba chiều cạnh: sự tính toán duy lí, nghĩa vụ đạo đức và sự gắn bó về tình
cảm, những cái cùng tồn tại ở mọi tương tác xã hội có liên quan mà người ta
có thể có những nhấn mạnh cụ thể tùy tình huống nhất định. Nói cách khác,
theo ông, dòng quà tặng gắn với những cân nhắc thực dụng, sự hòa đồng xã
hội, đạo đức và tình cảm cá nhân. Còn Wilson (2002), qua việc tìm hiểu các
ngôi làng đang ở giai đoạn đầu của công nghiệp hóa và đô thị hóa ở Thượng
Hải, đã khẳng định, quà tặng và sự trợ giúp có đi có lại là các phương tiện để
đạt được thể diện và là một biện pháp không trực tiếp để tiếp cận vốn xã hội
(trong dạng quà và món tiền cho vay, lao động thông qua trợ giúp tương hỗ,
và các nguồn vật chất khác). Theo tác giả này, sự trao đổi dựa trên chuẩn mực
là sự đầu tư lâu dài về vốn xã hội, cái có thể tạo ra lợi nhuận vật chất về sau
và vì thế đường biên giới giữa việc trao đổi theo chuẩn mực với việc trao đổi
thực dụng là không dứt khoát.
Trở lên trên là tình hình nghiên cứu vấn đề ở khu vực.
Tóm lại, quan hệ xã hội của nông thôn Việt đã được các nhà nghiên
cứu trong và ngoài nước khảo sát trên một số phương diện và sự khảo sát này
đạt được những kết quả đáng chú ý. Tuy nhiên, làng xã Việt một hai thập niên
27
qua đã có những biến đổi quan trọng, mà việc tìm hiểu chúng trong bối cảnh
mới là phi nông nghiệp hóa lại chưa được quan tâm đúng mức. Còn, các công
trình có liên quan về Ninh Hiệp nói riêng - một làng đến nay đã trở thành làng
phi nông nghiệp rất tiêu biểu - thì hoặc chưa nói đến, hoặc chưa đi sâu, hoặc
chưa bao quát, hoặc có những nhận định không còn mang tính cập nhật với
các vận động xã hội diễn ra nhanh chóng những năm vừa qua, trong khi
những gì xuất hiện ở đây được người viết ghi nhận từ các quan sát sơ bộ có
thể đem lại một sự thảo luận phần nào giúp nhận thức rõ hơn quan hệ xã hội ở
“dạng” nông thôn này (phi nông nghiệp hóa). Đây là khoảng trống mà người
viết muốn bổ khuyết và vì thế cũng quy định vị trí của công trình trong bối
cảnh nghiên cứu. Với đối tượng đang đề cập (quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp),
người viết nhận thấy tính duy lí là nét trội. Tuy nhiên, tính duy lí đó có đặc
thù riêng.
1.2. CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.2.1. Lí thuyết
Ở đề tài này, quan điểm chính mà người viết hướng tới sự thảo luận và
bổ sung là “người nông dân duy lí” với tác giả tiêu biểu là Popkin.
Quan điểm của Popkin hình thành trên cơ sở thuyết duy lí hay còn
gọi là lựa chọn hợp lí.
Nội dung chính của thuyết duy lí/ lựa chọn hợp lí là các cá nhân luôn
làm điều mà họ xét thấy đem lại kết quả tốt nhất cho họ, hay nói cách khác
luôn hành động một cách có chủ đích để sử dụng nguồn lực sao cho đạt được
kết quả lớn nhất với chi phí nhỏ nhất. Đồng thời, việc tối đa hóa lợi ích còn
bao gồm cả sự lựa chọn một hành động tuy đem đến lợi ích không phải là lớn
nhất nhưng bù lại có khả năng đạt được cao nhất, trên cơ sở đánh giá các cơ
may. Cụ thể, Homans, trong The Nature of Social Science [Bản chất của
khoa học xã hội] (1967) [187], đã phân tích rằng khi lựa chọn một trong số
những cách hành động có thể có, mỗi cá nhân sẽ dừng lại ở cách nào mà họ
cho là tích xác suất thành công của hành động với giá trị phần thưởng của
hành động đó là lớn nhất. Thuyết duy lí cũng còn được gọi là lí thuyết trao
28
đổi bởi nó quan tâm đến việc con người đạt được những gì trong các quá
trình tương tác cũng như đóng góp của các quá trình đang bàn cho mối quan
hệ hoặc cho nhóm xã hội bao trùm hơn, với cái được trao đổi trong tương tác
là những giá trị vật chất hoặc tinh thần. Sự trao đổi thường được nói đến là
trao đổi kinh tế và trao đổi xã hội. Vì đều dựa trên nguyên tắc cùng có lợi, sự
khác biệt giữa trao đổi kinh tế và trao đổi xã hội chỉ mang tính chất tương
đối. Với Exchange and Power in Social Life [Trao đổi và quyền lực trong
đời sống xã hội] (1964) [152], Blau lưu ý rằng trao đổi xã hội có chức năng
tạo ra mối quan hệ quyền lực giữa các bên tham gia. Ngoài ra, theo Blau, cần
nhấn mạnh tới một số đặc điểm nữa của trao đổi xã hội (trong sự so sánh với
trao đổi kinh tế) là có giá trị tự thân, có sự cố gắng gây ấn tượng tốt với nhau
giữa các đối tác tham gia, có sự ngang vị thế và có sự thỏa thuận ngầm giữa
các bên. Tuy nhiên, theo Braudel trong Civilization and Capitalism, 15th -
18th Century [Nền văn minh và chủ nghĩa tư bản, thế kỉ XV - XVIII] (1979)
[153], không đơn giản để có thể nhận diện một hình thức trao đổi là trao đổi
kinh tế hay xã hội và trên thực tế thì nó thường chứa đựng cả hai.
Trong trường hợp nghiên cứu cụ thể của mình, với công trình The
Rational Peasant: The Political Economy of Rural Society in Vietnam [Người
nông dân duy lí: Nền kinh tế chính trị của xã hội nông thôn ở Việt Nam]
(1979) [224], Popkin khẳng định người nông dân luôn lựa chọn cái mà họ tin
là sẽ làm tối đa hóa lợi ích mong đợi. Khi người nông dân, bởi lí do nào đó,
có được thu nhập vượt ra ngoài mức ổn định vốn có từ trước, anh ta sẽ đem
phần dư thừa ra đầu tư. Dù đó là sự đầu tư “an toàn” hay không, anh ta vẫn cứ
tiến hành, vì thứ nhất, việc này không đe dọa vị trí kinh tế mà anh ta đang có
(chỉ liên quan đến bản thân khoản đầu tư), và thứ hai, chừng nào các nấc
thang kinh tế khác nhau còn tồn tại, chừng đó mỗi con người còn quan tâm
đến việc vươn lên nấc thang cao hơn so với hiện tại. Nói cách khác, việc đầu
tư là điều được người nông dân thực hiện khi vị trí đang có của họ đủ để
chống lại những tổn thất và khi sự thành công có thể cải thiện phần nào vị trí
ấy. Bởi vậy, Popkin xem người nông dân là những cá nhân duy lí. Và, trong
29
khi Scott (1976) cùng các nhà kinh tế đạo đức khác cho rằng làng, với tư cách
một thiết chế giảm thiểu rủi ro cho những thành viên của nó, là một cộng
đồng đoàn kết, thì Popkin, vì xem người nông dân là những cá nhân duy lí, lại
khẳng định nó mang tính chất một “nghiệp đoàn” nhiều hơn. Popkin vẫn thừa
nhận có sự hợp tác trong nội bộ các nhóm nhỏ và giữa toàn thể các thành viên
của làng nhằm đạt được những lợi ích tập thể (chẳng hạn, việc tự quản làng
xã hay tưới tiêu thủy lợi), nhưng bên cạnh đó, theo ông, là rất nhiều sự mâu
thuẫn nảy sinh liên quan đến lợi ích cá nhân. Mặt thứ hai được nhìn nhận là
biểu hiện của tính duy lí trong quan hệ xã hội ở làng.
Hướng tới việc thảo luận với quan điểm mà Popkin đại diện, lí thuyết
được người viết sử dụng trong đề tài là lí thuyết vốn xã hội.
Xin trình bày vài nét về lí thuyết này.
Nội dung cơ bản của lí thuyết vốn xã hội là con người có thể sử dụng
các quan hệ xã hội để tìm kiếm lợi ích. Các định nghĩa phổ biến về vốn xã hội
của Bourdieu (trong “The Forms of Capital” [Hình thức của vốn xã hội]
(1986) [156]), của Coleman (trong “Social Capital in the Creation of Human-
Capital” [Vốn xã hội trong việc tạo dựng vốn con người] (1988) [160]), của
Putnam (trong “Bowling Alone: America’s Declining Social Capital”
[Bowling một mình: Sự suy giảm vốn xã hội của Mĩ] (1995) [231]), của
Portes (trong “Social Capital: Its Origins and Applications in Modern
Sociology” [Vốn xã hội: Nguồn gốc và những ứng dụng trong xã hội học hiện
đại] (1998) [227]), của Fukuyama (trong “Social Capital, Civil Society and
Development” [Vốn xã hội, xã hội dân sự và phát triển] (2001) [174])… đều
nhấn mạnh đến điều đó. Ví dụ, Bourdieu xem vốn xã hội là “tổng hợp những
nguồn lực thực tế hoặc tiềm tàng gắn với việc làm chủ một mạng lưới lâu
bền những quan hệ quen biết hoặc thừa nhận lẫn nhau không ít thì nhiều
được thể chế hóa” [156, tr. 248 - 249]; Coleman cho rằng vốn xã hội là
“những thực thể khác biệt với hai điểm chung: chúng đều bao gồm một khía
cạnh nào đấy của các cơ cấu xã hội, và chúng tạo thuận lợi cho những hành
động của các tác nhân - hoặc cá nhân, hoặc tổ chức - trong cơ cấu” [160, tr.
30
98]; còn Putnam nhận định: “Giống như khái niệm vốn vật chất và vốn con
người - công cụ và sự đào tạo, cái thúc đẩy hiệu suất cá nhân - vốn xã hội nói
tới các đặc tính của tổ chức xã hội như là các mạng lưới, các chuẩn mực và
niềm tin xã hội, những gì làm trôi chảy sự phối hợp và cộng tác vì lợi ích qua
lại” [231, tr. 67].
Có những góc tiếp cận khác nhau về vốn xã hội. Góc nhìn mạng xã
hội (social network view) là góc nhìn cụ thể được tác giả luận án quan tâm
trong nghiên cứu của mình. Cùng với góc nhìn cộng đồng (communitiarian
view), thể chế (institutional view) và đồng vận (synergy view), nó nằm trong
các góc nhìn chủ yếu về vốn xã hội. Góc nhìn này gắn với các công trình
Structural Holes: The Social Structure of Competition [Lỗ hổng cấu trúc:
Cấu trúc xã hội của sự đua tranh] (1992) [157] của Burt, “Embeddedness
and Immigration: Notes on the Social Determinants of Economic Action”
[Sự gắn bó và di trú: Ghi chép về yếu tố quyết định có tính xã hội của hành
động kinh tế] (1993) [228] của Portes và Sensenbrenner, “Neoliberalism and
the Sociology of Development” [Chủ nghĩa tân tự do và xã hội học về phát
triển] (1997) [226] của Portes, “What's Driving Mexico-U.S. Migration? A
Theoretical, Empirical, and Policy Analysis” [Cái gì dẫn dắt việc di cư
Mexico - Mĩ? Một phân tích lí thuyết, thực nghiệm và chính sách] (1997)
[212] của Massey và Espinosa, “March of Folly: US Immigration Policy
after NAFTA” [Diễn tiến của sự xuẩn ngốc: Chính sách nhập cư của Mĩ sau
NAFTA] (1998) [211] của Massey; “Social Capital and the Firm: Evidence
From Agricultural Trade” [Vốn xã hội và công ty: Bằng chứng từ nền thương
mại nông nghiệp] (1999) [169] của Fafchamps và Minten; “Learning from
Failures in Microfinance: What Unsuccessful Cases Tell Us about How
Group-Based Programs Work” [Bài học từ thất bại trong tài chính vi mô:
Các trường hợp không thành công cho chúng ta biết gì về sự hoạt động của
các chương trình dựa vào nhóm] (1999) [254] của Woolcock... Các tác giả
của những công trình vừa nêu đã phân biệt tính hướng nội và hướng ngoại
của vốn xã hội. Theo đó, vốn xã hội hướng nội (hay cũng gọi là vốn xã hội
31
nội bộ) nằm trong nhóm, còn vốn xã hội hướng ngoại (hay cũng gọi là vốn
xã hội bắc cầu) nằm ngoài nhóm; và nếu vốn xã hội hướng nội chủ yếu giúp
giảm thiểu/ bảo hiểm rủi ro thì vốn xã hội hướng ngoại chủ yếu giúp phát
triển kinh tế. Nói cách khác, vốn xã hội được nhìn nhận là gắn với dạng thức
liên kết của các quan hệ xã hội: liên kết trong nội bộ (bonding), hoặc bắc cầu
(bridging). Thế mạnh được ghi nhận của góc nhìn mạng xã hội là sự sẵn sàng
của nó cho việc tham gia vào các thảo luận chi tiết về chính sách trên cơ sở
của các bằng chứng thực nghiệm11. Vì thế, nhiều nghiên cứu phát triển cũng
gắn với góc nhìn này như các công trình Enterprise Clusters and Networks in
Developing Countries [Các cụm doanh nghiệp và mạng lưới xã hội ở những
nước đang phát triển] (1997) [163] của Van Dijk và Rabellotti, “Enterprise
Performance and the Functional Diversity of Social Capital” [Hiệu suất
doanh nghiệp và sự đa dạng chức năng của vốn xã hội] (1998) [148] của
Barr, hay “Poverty in Rural India: The Contribution of Qualitative Research
in Poverty Analysis” [Nghèo ở nông thôn Ấn Độ: Sự đóng góp của nghiên
cứu định tính trong phân tích nghèo] (1999) [197] của Kozel và Parker12.
Đặt vấn đề tìm hiểu quan hệ xã hội của làng Ninh Hiệp trong bối cảnh
đương đại, sử dụng lí thuyết vốn xã hội trong đề tài, người viết căn cứ vào
thực tiễn ở Ninh Hiệp, cái được phản ánh qua những câu trả lời của chủ thể
văn hóa - việc chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế phi
11 Xem thêm “Social Capital: Implications for Develoment Theory, Research, and Policy” [Vốn
xã hội: Hàm ý cho lí thuyết, nghiên cứu và chính sách phát triển] của Woolcock và Narayan
(2000) [255]. 12 Ở Việt Nam, lí thuyết vốn xã hội bắt đầu được giới thiệu kể từ đầu thập niên 2000 và ngày
càng được chú ý nhiều hơn. Các bài viết nổi bật, theo dòng thời gian, về vấn đề này là của Trần
Hữu Dũng (2003) [21], Trần Hữu Quang (2006) [83], Lê Minh Tiến (2007) [114], Hoàng Bá
Thịnh (2009) [105], Phạm Như Hồ (2013) [42]… Xin nói thêm, vốn xã hội là vấn đề khá mới
mẻ đối với giới nghiên cứu ở Việt Nam nhưng đang thu hút được nhiều sự quan tâm, và các công
trình liên quan đến nó gần đây xuất hiện khá phong phú. Về cơ bản, có thể chia các công trình
này thành 02 nhóm, bao gồm những công trình tìm hiểu chức năng, vị trí và biểu hiện của vốn xã
hội ở Việt Nam nói chung, ví dụ như các công trình của Nguyễn Quý Thanh (2005) [98], Đào
Thế Tuấn (2006) [122], Đặng Kim Sơn (2006) [92], Lê Ngọc Hùng (2008) [203], Nguyễn Thị
Ánh Tuyết (2012) [123], Hoàng Tụy (2013) [124], Nguyễn Đức Chiện (2013) [13]… và những
công trình tìm hiểu các nét đặc trưng của nó qua trường hợp nghiên cứu cụ thể, ví dụ như các
công trình của Thomése và Nguyễn Tuấn Anh (2007) [111], Nguyễn Vũ Hoàng (2008) [40],
Lương Văn Hy (2010) [52], Nguyễn Anh Tuấn (2011) [119], Khúc Thị Thanh Vân (2012)
[128]… Tuy nhiên, về dạng thứ hai, đến nay vẫn khá hiếm các công trình khảo sát nhóm làng xã
phi nông nghiệp hóa.
32
nông nghiệp dạng đặc thù là thương mại hóa đã thúc đẩy một cách mạnh mẽ
các “chiến lược” của người dân trong quan hệ xã hội của mình nhằm bảo hiểm
rủi ro và phát triển lợi ích. Kết quả có được là cơ sở để người viết thảo luận
với quan điểm mà Popkin đại diện về “người nông dân duy lí”. Về đối tượng
đang đề cập (quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp), như đã nói, người viết nhận thấy
tính duy lí là nét trội. Tuy nhiên, khác với Popkin, người viết cho rằng tính
duy lí trong quan hệ xã hội của người nông dân không chỉ biểu hiện qua sự
cạnh tranh mà còn có thể biểu hiện qua sự cố kết - một sự cố kết nhằm đạt
được những mục đích có tính cá nhân - nữa. Đồng thời, kết quả nghiên cứu
cũng bổ sung cho chính góc nhìn mạng xã hội về vốn xã hội và phát triển
kinh tế: vốn xã hội không chỉ gắn với dạng thức liên kết của các quan hệ xã
hội mà còn gắn với cả tính chất của chúng.
1.2.2. Khái niệm
“Quan hệ xã hội” (social relations) là khái niệm trung tâm của đề tài.
Trên cơ sở tham khảo các định nghĩa liên quan của các từ điển/ bách khoa thư
trong và ngoài nước có tính tổng hợp cũng như chuyên ngành như Từ điển
bách khoa Việt Nam (2003) [44], Dictionary of Social Sciences [Từ điển khoa
học xã hội] (2002) [158], The Social Science Encyclopedia [Bách khoa thư về
khoa học xã hội] (2003) [199], International Encyclopedia of Sociology
[Bách khoa thư quốc tế về xã hội học] (1995) [208], Dictionary of Sociology
[Từ điển xã hội học] (2001) [202], The Dictionary of Anthropology [Từ điển
nhân học] (1997) [147], Encyclopedia of Social and Cultural Anthropology
[Bách khoa thư về nhân học văn hóa và xã hội] (1997) [151]…, khái niệm
này được người viết dùng với nghĩa những tương tác giữa người với người
xuất hiện trong các quá trình hoạt động đa dạng về kinh tế, chính trị, và văn
hóa. Trong đề tài, người viết chủ trương tập trung vào quan hệ xã hội phi
quan phương là những quan hệ do cá nhân xây dựng và quyết định.
Gắn với “quan hệ xã hội”, có các khái niệm đáng chú ý như “cộng
đồng” (community), “nhóm” (group), “mạng lưới xã hội” (social network),
“thiết chế” (instiutions) và tất nhiên là “vốn xã hội” (social capital). Khái niệm
33
vốn xã hội đã được đề cập đến trong phần lí thuyết nên người viết không nhắc
lại ở đây. Với những khái niệm còn lại, tham khảo The Social Science
Encyclopedia [Bách khoa thư về khoa học xã hội] (2003) [199, tr. 114 - 115,
351 - 352, 417 - 418, 794 - 795], người viết xem:
- “Cộng đồng” là những người cùng chia sẻ một không gian địa lí xác
định hay chia sẻ những đặc điểm chung nào đó (ví dụ như dân tộc, tôn giáo,
học thuật, nghề nghiệp…) và/ hoặc duy trì các mối quan hệ tương tác, cái
định dạng nó thành một thực thể xã hội dễ phân biệt.
- “Nhóm” là tập hợp cá nhân được ràng buộc bởi các nguyên tắc
tuyển mộ và bởi các quyền cùng nghĩa vụ của một thành viên.
- “Mạng lưới xã hội” là mô hình kết nối các quan hệ xã hội của cá
nhân, nhóm và tập thể (mạng lưới xã hội được lựa chọn khảo sát trong đề tài
này là mạng lưới lấy cá nhân làm trung tâm).
- “Thiết chế xã hội” là i) tổ chức mà qua đó hoạt động xã hội thiết yếu
được thực hiện và nhu cầu xã hội được đáp ứng, có mức độ cao của sự cam kết
- cái tích hợp, sắp xếp và ổn định các lĩnh vực chính của đời sống xã hội và ii)
mô hình hành vi tồn tại, kết tinh theo thời gian, khiến con người trở nên gắn bó
như là hệ quả của vai trò của chúng trong việc tạo nên bản sắc.
Sau “quan hệ xã hội”, “duy lí” (rationality) là một khái niệm trung
tâm nữa của luận án. Trong lịch sử tồn tại lâu dài của mình, khái niệm này đã
được đề cập đến bởi nhiều học giả, trong đó, đáng chú ý, Weber [139] - một
tên tuổi lớn của khoa học xã hội và nhân văn thế kỉ cuối thế kỉ XIX và đầu thế
kỉ XX - xem nó là một giá trị gắn với chủ nghĩa tư bản phương tây cận đại
(chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp dân sự). Cách hiểu của luận án về khái niệm
duy lí không nằm ngoài cách hiểu chung ở các lí thuyết gia của thuyết duy lí
đã thể hiện trong phần lí thuyết.
Tiểu kết
Những thập niên qua, Ninh Hiệp trở thành địa bàn nghiên cứu khá
quen thuộc của một số ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam - không
ít nghiên cứu về làng đã lấy Ninh Hiệp làm điểm khảo sát. Quan hệ xã hội,
34
một trong những mảng đề tài được giới nghiên cứu về nông thôn quan tâm,
cũng bắt đầu được chú ý khảo sát tại đây. Tuy nhiên, trong bối cảnh chung
của việc nghiên cứu quan hệ xã hội nông thôn ở Việt Nam là các làng xã phi
nông nghiệp hóa chưa được đề cập nhiều, thì các công trình có liên quan về
Ninh Hiệp nói riêng - một làng mà đến nay đã trở thành làng phi nông nghiệp
rất tiêu biểu - lại chưa phản ánh những vận động mới nhất vừa diễn ra. Đề tài
này, trên cơ sở lí thuyết vốn xã hội, từ cách tiếp cận liên ngành của văn hóa
học và nhấn mạnh đến cái nhìn từ bên trong, hướng tới việc tìm hiểu tính chất
của các quan hệ xã hội lấy cá nhân làm trung tâm mà cụ thể là mặt duy lí như
là nét trội trong bối cảnh cơ cấu kinh tế của làng đang chuyển dịch từ hỗn hợp
sang phi nông nghiệp triệt để.
35
Chương 2
LÀNG NINH HIỆP
2.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Ninh Hiệp, nay thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội, trước có
tên chữ là Phù Ninh (cũng từng có tên chữ là Ninh Trang), tên nôm là Nành,
vốn thuộc phủ Từ Sơn, Bắc Ninh.
Bắc Ninh trong quá khứ là một đơn vị hành chính lớn, cho đến cuối
thế kỉ XIX13 bao gồm toàn bộ tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Bắc Giang, một phần
quan trọng của tỉnh Vĩnh Phúc cùng một số địa phận của các tỉnh Hải Dương,
Hưng Yên, Thái Nguyên và Lạng Sơn hiện tại, với diện tích gấp khoảng 05
lần ngày nay (xấp xỉ 6.500 km2).
Theo Văn minh Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên, công trình được
công bố năm 1944 và cho đến nay đã được tái bản nhiều lần, Bắc Ninh trải
qua không ít biến động về duyên cách. Trước Công nguyên, Bắc Ninh được
xem là một bộ phận của bộ Vũ Ninh thuộc Văn Lang. Sau Công nguyên,
trong gần 10 thế kỉ nước ta bị phương Bắc đô hộ (từ năm 43 đến năm 938),
Bắc Ninh đã lần lượt thuộc về Tượng Quận (đời Tần), Giao Chỉ (đời Hán),
Giao Châu (đời Ngô), Giao Chỉ (đời Tấn), và Giao Châu (đời Đường). Thời
Lý, buổi đầu của nền độc lập sau đó, vùng này bao gồm cả đất đai của phủ
Phú Lương, và có ý kiến cho rằng nó đã trở thành một quận là quận Gia
Lâm. Thời Trần, nó tương ứng với các lộ Bắc Giang và Như Nguyệt Giang.
Thời Hồ, nó được tổ chức thành Bắc Giang lộ đô tổng phủ. Giai đoạn Minh
thuộc, nó bao gồm phủ Bắc Giang và châu Lạng Giang. Thời Tiền Lê, nó
thuộc về một trong năm đạo của cả nước là đạo phía Bắc, rồi bản thân nó
được gọi là đạo Bắc Giang, đạo Kinh Bắc và tiếp đó là xứ Kinh Bắc. Thời
Nguyễn và giai đoạn Pháp thuộc, từ xứ Kinh Bắc nó lần lượt được đổi thành
trấn Kinh Bắc, trấn Bắc Ninh, cuối cùng là tỉnh Bắc Ninh [49, tr. 681 - 684]14.
13 Tức trước thời điểm tổ chức lại hành chính lãnh thổ vào năm thứ 07 của đời vua Thành Thái,
nhà Nguyễn (1895). 14 Về chi tiết, các tư liệu liên quan không hoàn toàn trùng khớp.
36
Bản đồ Kinh Bắc
(Nguồn: Bức tranh địa lí hành chính của một tỉnh Việt Nam xưa: Tỉnh Bắc Ninh
(hay Kinh Bắc) [49])
Bắc Ninh có đất đai trù phú, lại có khí hậu ôn hòa, rất thuận lợi cho
sản xuất và sinh hoạt. Ca dao xưa có câu:
“Ai lên xứ Bắc mà trông
Đất lành, gạo trắng, nước trong thay là...”
Còn thông tin trong các thư tịch cổ về Bắc Ninh đều cho thấy rằng
vùng được thiên nhiên ưu đãi. Đến thời thuộc Pháp, Bắc Ninh địa dư mông
học và bản đồ tỉnh Bắc Ninh (Bắc Kì), cuốn sách giáo khoa nằm trong hệ
thống sách soạn cho các trường học ở Đông Dương cũng thừa nhận rằng đây
là “một miền lành” [17, tr. 7]. Với ưu thế trên, nơi này trong nhiều thế kỉ đã
sản sinh ra một tiểu vùng văn hóa có thành tựu rực rỡ về nhiều mặt - tiểu
vùng văn hóa xứ Bắc. Thậm chí, một số nhà nghiên cứu đã nhận định rằng
Bắc Ninh chính là cái nôi của con người và văn hóa Việt [50, tr. 865], [90, tr.
32], [134, tr. 6]... Về kinh tế, Bắc Ninh là vùng đa ngành nghề với sự phát
37
triển của nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp. Trước hết, do
đất đai bằng phẳng, có độ phì nhiêu cao15, lại hầu như không bị ngập lụt,
người Bắc Ninh có thể canh tác với chất lượng tốt nhiều loại cây lương thực,
cây hoa màu, cây rau quả, cây tiêu dùng và ghi dấu ấn bởi vô số đặc sản
[109]. Bên cạnh đó, mặc dù làng Việt nhìn chung đều có một vài nghề phụ
ngoài nghề nông [136, tr. 51 - 52], nghề thủ công nơi đây vẫn được xem là
phát triển nhất nước [107, tr. 107], với sự có mặt rất nhiều làng nghề nổi
tiếng như làng gốm Thổ Hà, làng đồng Quảng Bố, làng rèn Đa Hội, làng sơn
Đình Bảng, làng giấy Đống Cao, làng pháo Đồng Kỵ, làng dệt Cẩm Giang...
Nằm ở vị trí địa lí thuận lợi (liền kề Thăng Long, lại là cửa ngõ thông thương
với phương Bắc), Bắc Ninh còn có một nền thương nghiệp hết sức phát đạt,
với hệ thống chợ làng và chợ vùng phong phú [121, tr. 4]. Về chính trị, Bắc
Ninh - như sử sách ghi nhận - là một địa bàn có ý nghĩa chiến lược. Không
phải ngẫu nhiên mà thời Bắc thuộc, nó được chính quyền đô hộ chọn đặt trị
sở [63, tr. 27], và cũng không phải ngẫu nhiên mà người Việt đã tổ chức
“những cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm sớm nhất và lớn nhất” ở đây [107,
tr. 108]. Suốt thời kì phong kiến tự chủ sau đó, Bắc Ninh đã đóng vai trò là lá
chắn vững chắc của kinh thành trước sự dòm ngó của kẻ thù. Về văn hóa,
Bắc Ninh vừa là mảnh đất tiếp thu và truyền tải tinh hoa văn hóa bên ngoài
[19], [121], [134], vừa là nơi bảo lưu nhiều di sản văn hóa đặc sắc của người
Việt xưa. Có đội ngũ trí thức đông đảo16, không khó hiểu khi ở đây sớm hình
thành một nền văn hóa bác học với các tên tuổi lớn như Vạn Hạnh, Lý Đạo
Thành, Huyền Quang, Nguyễn Thiên Tích, Thân Nhân Trung, Giáp Hải, Đỗ
Nhuận, Vũ Viết Hiền, Phạm Khiêm Ích, Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Gia
Thiều, Cao Bá Quát... (thậm chí, vào đầu thời Lê, có tới 13 người trong số
“nhị thập bát tú” của Hội Tao đàn do Lê Thánh Tông làm “nguyên soái” là
15 Dư địa chí của Nguyễn Trãi cho biết ruộng đất ở đây vào hạng “thượng thượng” (tức hạng tốt nhất) [115, tr. 464]. 16 Theo các số liệu thống kê, trong gần 09 thế kỉ của nền giáo dục Nho học, xứ Bắc là nơi có số người đỗ đại khoa cao nhất nước (chiếm khoảng 1/4 tổng số) và đa phần có đóng góp trực tiếp cho đời sống văn hóa của đất nước [110, tr. 10 - 11]. Từ lâu nó đã được dân gian vinh danh rằng có “một giỏ ông đồ, một bồ ông cống, một đống ông nghè, một bè tiến sĩ, một bị trạng nguyên...” [103, tr. 14].
38
người xứ Bắc, bao gồm cả ba phó “nguyên soái”). Đồng thời, văn hóa dân
gian, cái thể hiện rõ nét qua kho tàng nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật biểu
diễn và nghệ thuật tạo hình cùng lễ hội, phong tục tập quán... vẫn được bảo
lưu và phát triển. Về nghệ thuật ngôn từ, có thể nói xứ Bắc sở hữu một kho
tàng rất phong phú các truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện thơ, ca dao, tục
ngữ... Về nghệ thuật biểu diễn, thì chèo, tuồng, múa rối... là loại hình sân
khấu đặc biệt được yêu thích, còn ví, trống quân, quan họ... là những dạng
thức dân ca mang đậm bản sắc vùng, trong đó quan họ đã được UNESCO
công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Về nghệ thuật tạo hình,
Bắc Ninh nổi tiếng với các công trình điêu khắc, kiến trúc liên quan đến tín
ngưỡng (người ta vẫn có câu “Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”) và một làng
tranh dân gian là làng Đông Hồ. Đặc biệt, xứ Bắc là “quê hương của nhiều lễ
hội cổ truyền đặc sắc” [132, tr. 42]17, với những sinh hoạt văn hóa hấp dẫn
luôn thu hút đông đảo người dân trong và ngoài vùng từ trước đến nay.
Ngoài ra, rất nhiều phong tục, tập quán phản ánh đời sống tinh thần của
người Việt xưa được lưu giữ ở vùng đất này, mà một số trong chúng đã được
công trình Bắc Ninh phong thổ tạp kí [54] và Bắc Ninh tỉnh khảo dị [62] ghi
chép lại.
Ninh Hiệp, hay Phù Ninh xưa, là ngôi làng lâu đời của Bắc Ninh.
Trong các thư tịch còn lại đến nay, cái tên Phù Ninh được nhắc đến sớm nhất
là ở Thiền uyển tập anh [74], một công trình ra đời vào thế kỉ XII - XIII viết
về các tông phái thiền học và danh tăng của nước ta. Như đã đề cập, Phù Ninh
nằm trong huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn. Nếu phủ Từ Sơn được Bắc Ninh
địa dư chí gọi là đất “văn học” của Bắc Ninh18 thì huyện Đông Ngàn được
đánh giá là nơi “văn hiến hơn cả” [129, tr. 169]. Dân gian trong vùng có câu
“Dốt Đông Ngàn hơn người ngoan thiên hạ” hay “Tương Vân Cầu, bầu Đông
Lữ, chữ Đông Ngàn” chính là để nhấn mạnh điều này. Và ở huyện Đông
Ngàn, Phù Ninh lại được xem là “danh thắng địa”. Trong sự tồn tại của mình,
17 Một tác giả còn dùng cụm từ “vương quốc của lễ hội” để nói về vùng đất này [63, tr. 28]. 18 Tác phẩm Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, phần “Địa dư chí” cũng cho biết
thông tin tương tự [14, tr. 118].
39
làng đã trải qua một số đổi thay về hành chính: vào thời Tiền Lê đã là một xã
lớn gồm 01 thôn (Tố Thôn) và 05 giáp (Ninh Thượng, Nhân Hậu, Đính
Thượng, Đính Hạ, và Nội Ninh), đến thời Mạc được tách thành bốn xã là Phù
Ninh, Ninh Giang, Hiệp Phù và Ninh Xuyên, sau Cách mạng tháng Tám
(1945) trở về tên cũ với sự hợp nhất các xã Phù Ninh, Hiệp Phù và Ninh
Giang, vài năm sau ghép với xã Công Tế và Hạ Dương của tổng Hạ Dương
thành xã mới là Năng Hạ, đến năm 1955 lại tách ra với tên gọi Ninh Hiệp.
Mặc dù vậy, Ninh Hiệp trong ý thức dân cư của nó nhiều thế kỉ vẫn là một
cộng đồng thống nhất. Từ năm 1961, Ninh Hiệp đã chính thức trở thành một
xã của huyện Gia Lâm, Hà Nội theo địa giới như ta biết ngày nay - phía bắc
và đông bắc giáp xã Phù Chẩn, xã Đình Bảng thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh; phía đông và đông nam giáp xã Phù Đổng, phía tây và tây bắc giáp xã
Đình Xuyên, xã Yên Thường thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Với gần 500 ha
diện tích đất tự nhiên và trên 16.000 dân, Ninh Hiệp hiện nằm trong số các xã
lớn của ngoại thành Hà Nội.
Bản đồ Ninh Hiệp ngày nay
(Nguồn: http://www.google.com)
40
Ninh Hiệp là nơi vốn giáp rừng, gần sông, lắm ao hồ và có thổ nhưỡng
đa dạng. Nói là giáp rừng, vì trước kia làng nằm cạnh một số cánh rừng lớn.
Điều đó từng được nhắc đến trong ca dao:
“Xưa Long Thành, Long Biên, Kinh Bắc
Chung một dòng xuyên dọc đường quang
Rừng Sặt, rừng Báng, rừng Ngang
Rừng Nành, rừng Sộp, Tương giang lách dòng”.
Tương giang là dòng Tiêu Tương19 chảy qua một số xã của huyện
Đông Ngàn, mất đã lâu [131, tr. 96], nhưng những cánh rừng thì cho đến tận
đầu thế kỉ XX mới bị khai phá hết để làm ruộng. Cách đây gần ba chục năm,
khi xã xây dựng đài tưởng niệm liệt sĩ, người ta còn đào được ở khu vực thi
công những cành gỗ lớn có đường kính vào khoảng 20 cm [87, tr. 167]. Còn
nói là giáp sông, vì trước kia làng nằm cạnh sông Thiên Đức. Mô tả về Phù
Ninh, Thiền sư Vạn Hạnh (thế kỉ X - XI)20, người từng có thời gian trụ trì tại
ngôi chùa mang tên Song Lâm của làng, viết: “Thiên Đức phú quý mãn ốc
thịnh”, nghĩa là “Bên dòng Thiên Đức nhà cửa san sát thịnh vượng” [87, tr.
33], trong khi ca dao xưa thì phác họa: “Có sông Thiên Đức uốn quanh đầu
làng...”. Đến nửa cuối thế kỉ XIX, con sông này mới bị nắn dòng, không còn
đi qua làng nữa. Với bến Dĩ nức tiếng sầm uất, làng từng được mệnh danh là
nơi “trên bến dưới thuyền”. Hiện, con đê cũ của làng, trước kéo dài tiếp nối
với đê Phù Đổng, còn một đoạn nằm cuối các thôn. Thậm chí, một trong chín
thôn của làng vẫn được gọi bằng tên cũ là “xóm chài” do xưa kia người dân
chủ yếu kiếm sống bằng nghề đánh cá. Như là vết tích sự hiện diện của dòng
sông này, làng có lắm ao hồ. Đất đai của làng thì đủ thành phần, cả bồi lẫn
trũng. Với điều kiện tự nhiên như vậy, Ninh Hiệp một mặt có khá nhiều
thuận lợi, mặt khác cũng có một vài khó khăn nhất định so với các làng khác
trong vùng để phát triển.
19 Còn gọi là Tiêu Lương. 20 Vạn Hạnh là danh tăng thời Tiền Lê được xem đã đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, mở ra
triều đại Lý [27, tr. 454].
41
2.2. ĐỜI SỐNG KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA
Ninh Hiệp trước Cách mạng (1945) là một làng quê có những nét
vừa tiêu biểu, lại vừa đặc thù cả về đời sống kinh tế, xã hội lẫn văn hóa
của xứ Bắc.
Từ rất sớm, Ninh Hiệp đã là một làng đa ngành nghề. Vì thế, người ta
có thể tìm được ở đây bức tranh của hầu hết các hoạt động lao động đa dạng
của người Kinh Bắc xưa. Tính đa ngành nghề ấy phần nào được thể hiện qua
những câu đối cổ còn lưu ở các di tích tại trung tâm làng, ca ngợi sự kết hợp
hài hòa của nghề làm ruộng, dệt vải và làm thuốc.
Về nông nghiệp, dù có diện tích đất canh tác bình quân thấp hơn so
với mức trung bình trong vùng do dân số đông21 (ngoài ra, một phần ruộng
đất ở phía bắc và phía đông lại là vùng trũng), sự tính toán hợp lí cũng như
“khéo tay hay làm” trong sản xuất đã khiến người Ninh Hiệp xưa hiếm khi
thiếu lương thực và thậm chí vẫn có thể hãnh diện miêu tả bản thân trong ca
dao rằng: “Chiêm mùa hai vụ thảnh thơi...”. Cái tài của thợ mạ, thợ cấy làng
Nành đã đi vào không ít giai thoại trong vùng. Làng còn nổi danh với khá
nhiều giống lúa ngon được trồng cấy, trong đó có những loại như tám thơm,
dự hương, nếp cái hoa vàng, nếp mây... Bên cạnh đó, chăn nuôi gia súc (ngoài
trâu và lợn là hai loại gia súc quen thuộc, còn có bò, ngựa…), gia cầm và chế
biến nông sản (nhãn, táo, vải…) cũng được chú ý phát triển ở đây từ lâu. Tuy
làng có nhiều nghề, nhưng nghề nông vẫn được xem là “vi bản” và luôn nhận
được sự quan tâm lớn của chức sắc cũng như dân làng. Những người già
trong làng cho biết, ngày trước đã có không ít các cuộc rước thành hoàng
hàng tổng (thành hoàng của tất cả các thôn) để làm lễ cầu vũ, lần gần nhất là
vào năm 1938.
Về tiểu thủ công nghiệp, Ninh Hiệp trước hết được biết đến với nghề
dệt vải. Đây là nghề thủ công phổ biến hơn cả ở Ninh Hiệp, có mặt tập trung
ở các thôn từ 1 đến 5. Tư liệu thành văn không cho biết nghề dệt nổi tiếng của
ngôi làng này có từ khi nào, còn theo truyền thuyết dân gian, nó xuất hiện từ
21 Vào cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, diện tích đất canh tác bình quân ở đây là khoảng 7 sào/
suất đinh [5, tr. 562].
42
thời Lý do công của một người gốc xứ Thanh. Tuy nhiên, sử sách có ghi lại
rằng kể từ đầu thời Lê sơ, Ninh Hiệp hàng năm đều phải tiến cống vải lụa cho
triều đình và lệ đó kéo dài đến mãi thế kỷ XVIII, khi công chúa Lê Ngọc Hân
xin cho quê ngoại của mình được miễn22. Do thiếu đất trồng bông, trồng dâu,
người làng thường mua tơ sợi từ các vùng lân cận (Đình Bảng, Phù Lưu...) về
để dệt sau khi thực hiện các công đoạn đập, ngâm, hồ, phơi, giã... Sản phẩm
cuối cùng được họ làm ra từ những chiếc khung cửi gỗ cổ truyền là các tấm
lụa, đũi, sồi từ tơ tằm và vải từ sợi bông bền đẹp. Đến thời thuộc Pháp, mặc
dù nghề dệt thủ công ở nhiều nơi bị đình đốn trước sự thắng thế của hàng
ngoại nhập, đồ dệt của Ninh Hiệp vẫn tồn tại được, và thợ dệt nơi đây còn
năng động làm thêm cả nghề nhuộm. Nghề chỉ suy tàn vào thời điểm trước
Đại chiến thế giới II do thiếu nguyên liệu. Không phải ngẫu nhiên mà từ lâu,
vải Ninh Hiệp đã đi vào rất nhiều câu ca dao:
“Quê em tên gọi kẻ Nành
Có nghề canh cửi nổi danh khắp miền.”
“Ai về Nành chợ mà xem
Lụa vàng tiến ngự tay em dệt thành”.
“Vải Nành, tơ Báng thì mua
Tam Sơn, Nội Duệ có cho chẳng màng”...
Đặc biệt, một khuynh hướng “chuyên nghiệp hóa” của nghề dệt
dường như đã được bắt đầu. Có những phụ nữ ở Ninh Hiệp xưa tập trung
vào việc này đến nỗi giao phó phần lớn chuyện đồng áng cho người chồng
của mình:
“Cửi canh khuya sớm em lo
Ruộng đồng tát nước be bờ mặc anh”.
hoặc chỉ thu xếp tham gia được những công đoạn quan trọng:
“Ruộng đồng cày cấy xong rồi
Phân tro cỏ rả anh thời chăm lo
22 Cũng có tài liệu nói rằng đó là bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, vợ vua Lê Hiển Tông và là
thân mẫu của công chúa.
43
Bấy nay bông sợi lụa tơ
Con thoi khung cửi vẫn chờ tay em”.
Mặc dù trong thời gian tồn tại của mình, nghề dệt chưa thực sự vượt ra
khỏi khuôn khổ của thủ công nghiệp gia đình, có thể nói truyền thống lâu năm
của nó vẫn chính là một trong những nền tảng hết sức quan trọng cho các hoạt
động kinh doanh liên quan đến vải vóc ở Ninh Hiệp nhiều thế kỉ qua cũng như
hiện nay.
Cùng với dệt, nghề làm thuốc có mặt rất sớm ở đây, tương truyền do
vị tổ nghề là “Thái Mẫu dược sư” truyền dạy, cũng vào thời Lý. Nghề này tập
trung ở một địa bàn nhất định trong làng là thôn 8. Người làm thuốc tại Ninh
Hiệp vẫn nhắc đến ngày giỗ của tổ nghề qua câu ca:
“Ai đi bốc thuốc nơi đâu
Tháng giêng mười tám rủ nhau mà về”.
Giống như trường hợp nghề dệt, điều kiện tự nhiên của làng không có
nhiều thuận lợi cho nghề làm thuốc. Người làng chỉ trồng được một số loại
cây dược liệu nhất định như sinh địa, hoài sơn, ngưu tất, bạch chỉ v.v... và số
lượng thì không lớn. Tuy nhiên, cũng như với nghề dệt, sự năng động đã
khiến người Ninh Hiệp ghi được dấu ấn riêng trong hoạt động này. Phường
thuốc của làng không giới hạn mình ở việc sử dụng nguyên liệu tại chỗ mà
chịu khó tìm kiếm nguyên liệu thô tại các địa phương khác, chế biến qua
nhiều công đoạn như thái, sấy, sao, tẩm... để thành hàng hóa có chất lượng,
đáp ứng nhu cầu trong và ngoài vùng. Người Ninh Hiệp làm thuốc rất khéo.
Không như những nơi khác, nguyên liệu thuốc nam, thuốc bắc qua tay họ rồi
đều trở thành sản phẩm tốt vượt trội, có thể để rất lâu mà không sợ mốc,
hỏng. Chính vì ưu thế kĩ thuật trên mà người làng duy trì và phát triển được
nghề suốt bao thế kỉ nay, dù nhìn chung không tự túc được đáng kể về
nguyên liệu. Có thể nói, họ đã thực sự biến kĩ thuật của mình thành một “mặt
hàng” có giá trên thị trường xưa. (Thậm chí sau này, vào cuối thập niên 70, đã
có phái đoàn người Nhật đến xin tham quan công xưởng chế biến thuốc của
Ninh Hiệp mà không biết rằng sản phẩm của người làng chỉ được làm ra một
44
cách thuần túy thủ công tại các hộ gia đình [87, tr. 281 - 282]23). Và theo tôi,
có lẽ vì tập trung vào khâu chế biến mà hình ảnh người làm thuốc - chẳng hạn
như “chặt” sen24 - mới đi vào ca dao của làng, chứ không phải là hình ảnh
người trồng cây thuốc:
“Em ngồi bên cối chặt sen
Cây cao, bóng mát, cảnh tiên non bồng”.
Từ việc làm thuốc, người Ninh Hiệp có nhiều thầy thuốc giỏi, hình
thành nên một thương hiệu:
“Chàng lên bốc thuốc Bắc Giang
Người ta vẫn gọi là ông lang Nành”.
Nhưng nghề làm thuốc của Ninh Hiệp không chỉ có tiếng vang trong
vùng mà thôi, nó còn tạo nên một trường phái riêng được giới y học cả nước
chú ý. Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) đã ghi nhận điều đó trong tác phẩm Vũ
trung tùy bút của mình: “Y học bây giờ chia làm hai khoa: nội khoa và ngoại
khoa. Trong ngoại khoa lại chia làm ba phái: 1 - Phái họ Nguyễn ở Bảo Từ, 2
- Phái họ Nguyễn ở Phù Ninh, 3 - Phái họ Nguyễn ở Vân Lũng...” [43, tr. 97].
Thực tế, từ thế hệ này qua thế hệ khác, các danh y của Ninh Hiệp đã không
ngừng xuất hiện: Nguyễn Khắc Quảng, Nguyễn Khắc Thiệu, Nguyễn Duy
Khảo, Nguyễn Thọ Nho, Nguyễn Đình Lệ, Nguyễn Duy Khán, Lý Văn
Uông... Đặc biệt, một số đã trở thành Chánh, phó ngự y của triều đình các
thời Lê và Nguyễn mà tên tuổi đến nay vẫn được lưu lại trong các văn bia của
làng như Thạch Duy Khiêm, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Tán, Nguyễn Khắc
Hoạt… Chẳng thế mà người làng vẫn luôn tự hào:
“Ngự y giữa chốn triều đường
Một làng chánh, phó dễ thường mấy nơi”25.
Đến thời thuộc Pháp, không ít người có điều kiện đã rời làng tới các
nơi khác làm ăn. Ngoài các tỉnh đồng bằng và trung du phía bắc vốn là thị
23 Cho đến bây giờ, ở thôn 8, mỗi nhà vẫn cứ là một “xưởng” [97]. 24 Tách vỏ đen của hạt sen để lấy “nhân” đỏ sau khi đã phơi khô, một việc đòi hỏi kĩ thuật đặc biệt. 25 Có dòng họ còn giữ được bộ sách quý về nghề thuốc của danh y trong họ mình và là một trong
những nhân vật nói trên, như họ Nguyễn Khắc. Vì sự trân trọng bộ sách mà một người trong họ
đó - từng là bạn thuở nhỏ của tôi - đã bỏ dở việc học ở Đại học Nông nghiệp, thi vào Đại học Y
Dược cổ truyền với mong muốn có thể vận dụng và làm nó không bị quên lãng.
45
trường quen thuộc, họ chú ý khuếch trương nghề ở các đô thị lớn là Hà Nội
và Sài Gòn. Đặc biệt, phố Lãn Ông ở Hà Nội đã trở thành điểm hội tụ có
tiếng của rất nhiều cửa hàng thuốc của người làng cho đến ngày nay.
Nghề da của làng thì xuất hiện muộn hơn, khoảng đầu thế kỷ XX, do
một người tên là Thạch Văn Ngũ vốn là nông dân đi lính cho Pháp và phục vụ
trong các công binh xưởng chuyên sản xuất đồ dùng bằng da mang về26. Nhiều
người trong họ và trong làng đã được ông đích thân đào tạo và còn đưa ra Hà
Nội làm việc. Nếu năm 1910, cửa hiệu da đầu tiên của người Ninh Hiệp ở Hà
Nội được mở thì đến năm 1919, tại hội chợ ở nhà Đấu xảo, các mặt hàng của
nó đã nhận được bằng khen của Hội Kĩ nghệ Pháp - Việt và thu hút được sự
chú ý của đông đảo khách hàng. Các sản phẩm quen thuộc đem lại uy tín cho
nghề da của làng trước Cách mạng là cặp sách, va li, thắt lưng, yên ngựa, bóng
đá, bóng chuyền... Dân làng vẫn còn truyền miệng câu chuyện về việc vua
Bảo Đại từng cho người ra Hà Nội đặt làm bộ yên ngựa tại cửa hàng ông Ngũ
vào những năm 30, và ông này đã trổ tài thiết kế ngay một mẫu mã mới đẹp
đến mức vua phải khen ngợi hết lời vì trông “bắt mắt” hơn cả hàng của Pháp.
Nghề da không những phát đạt ở Ninh Hiệp (nhất là tại xóm 6 và 7) trong
nhiều thập kỉ mà còn được mở rộng ra các địa phương khác (Hải Phòng, Nam
Định, Bắc Giang, Vĩnh Phúc...), nhưng vẫn do người làng đảm nhiệm. Trước
Cách mạng, đã có lúc thanh niên Ninh Hiệp đua nhau học nghề này để mở cửa
hiệu. Những người không có vốn thì ra Hà Nội làm thuê (ở đây có cả một phố
nghề của người Ninh Hiệp - phố Hà Trung) hoặc nhận hàng về nhà làm. Sự
phát triển rầm rộ của nó đã khiến dân gian có câu:
“Thứ nhất là chú thợ da
Thứ hai cày ruộng, thứ ba học trò”
“Thợ da lên làm hoàng đế
Thợ cày lép vế
Học trò ế ẩm...”
Và đáng chú ý, ở bất cứ địa phương nào, người làm nghề da Ninh
Hiệp cũng rất có ý thức liên kết và tương trợ. Họ từng thành lập hẳn một hiệp
26 Sau khi mất vào năm 1949, ông đã được dân làng tôn làm tổ nghề.
46
hội mang tên “Phù Ninh tương tế” ở Sài Gòn để giúp đỡ những đồng hương
mới vào hoặc đang có hoàn cảnh khó khăn. Theo công trình Chuyện cũ làng
Nành, hội này còn biên soạn cả sách về lịch sử và danh lam thắng cảnh của
làng, tặng cho bà con để tăng thêm tình gắn bó với nhau và cũng để thế hệ sau
“biết làng Nành, yêu làng Nành” [87, tr. 297]. Một người trong họ nội của tôi
cũng cho tôi biết rằng gia đình ông có quyển sách thú vị trên, nhưng rất tiếc là
đã thất lạc sau khi bạn bè trong thôn chuyền tay nhau mượn.
Về thương nghiệp, người Ninh Hiệp cũng rất có truyền thống và kinh
nghiệm, thậm chí so với hoạt động sản xuất còn có phần nổi bật hơn. Bắc
Ninh địa dư chí, khi mô tả đặc điểm các làng thuộc huyện Đông Ngàn của
phủ Từ Sơn, đã nhận xét rằng làng này “lắm người buôn” [129, tr. 170]. Thực
tế, nghề buôn ở Ninh Hiệp có cơ sở từ chính các ngành nghề thủ công - lúc
đầu người ta tự bán các sản phẩm làm ra, sau đó những người buôn bán
chuyên nghiệp mới xuất hiện, từng bước xóa dần mối quan hệ trực tiếp giữa
người sản xuất và người tiêu thụ. Việc buôn bán của Ninh Hiệp chủ yếu là do
phụ nữ đảm nhiệm, vì thế tiếng tăm trong nghề gắn với chị em:
“Con gái kẻ Nành
Mặc áo lụa xanh
Mà đi bán vải
Được lờ được lãi
...
Đồn danh đồn tiếng
Con gái kẻ Nành...”27
Thương nghiệp Ninh Hiệp được cắm cột mốc bởi sự xuất hiện của chợ
Nành - ra đời từ thế kỉ X và nổi danh không lâu sau đó. Nằm ở vị trí giao
thương rất thuận lợi, đây là một trung tâm trao đổi hàng hóa sầm uất của cả
vùng, nhất là các sản phẩm từ vải, thuốc… Ngoài ra, người Ninh Hiệp còn
vào Thăng Long và ngược lên các tỉnh phía bắc nhằm mở rộng thêm thị
trường buôn bán của mình. “Chợ Nành một tháng sáu phiên”, có thể nói, đã
27 Vai trò về mặt này từ xưa đã đem lại cho người phụ nữ Ninh Hiệp một vị thế khá đặc biệt cả
trong và ngoài gia đình [68, tr. 68].
47
thực sự là điểm đến của đông đảo thương nhân (sáu phiên này là sáu phiên
chính vào các ngày 3 và 8, ngoài ra chợ còn có sáu phiên phụ nữa vào các
ngày 1 và 6). Nghề buôn của làng tập trung ở thôn 4 và 5 là nơi gần chợ nhất.
Thời Lê, do xuất hiện nhiều biến cố chính trị dẫn đến những phen loạn lạc
cho dân tình, chợ được dời từ bến vào trong làng để đảm bảo an ninh và có lẽ
vì vai trò quan trọng của nó mà việc này đã được ghi lại ở văn bia, điều ít gặp
trong lịch sử [87, tr. 292]. Dấu ấn của một nền thương nghiệp sớm sủa và có
tiếng tăm được thể hiện ở khá nhiều di tích trong làng, đặc biệt là đôi câu đối
ngay nơi cổng chợ:
“Nhi tác nhi tức ẩm hòa thực đức
Dư túc dư bố dịch vụ thông công”.
(Nghĩa: Lúc làm, lúc nghỉ, khi ăn khi uống đều theo đức hạnh
Thừa thóc, thừa vải dù mua dù bán, cốt phải công bằng28.)
Trước đây, làng còn có cả một ngôi chùa gắn với việc tôn vinh chữ tín
trong nghề, rất tiếc là đến nay không còn. Tương truyền, có vị khách buôn
Trung Hoa cất chuyến hàng lớn cho một phụ nữ trong làng nhưng rồi không
trở lại nhận khoản tiền đã thỏa thuận. Chờ đợi hơn mười năm không thấy tin
tức, người phụ nữ này bèn đem toàn bộ số tiền dựng một ngôi chùa, đúc
tượng thờ ông. Chùa có tên Giác Diên.
Xu hướng kết hợp nhiều nghề trong sinh kế là truyền thống xuyên suốt
lịch sử của Kinh Bắc và với người Ninh Hiệp, điều này thực sự đem lại cho
họ một cuộc sống khá ấm no, sung túc. Đúng như nhận định của Ellis trong
Rural Livelihoods and Diversity in Developing Countries: Evidence and
Policy Implications [Sinh kế nông thôn và sự đa dạng ở các nước đang phát
triển: Bằng chứng và hàm ý chính sách] (1999) rằng sinh kế đa dạng là cái
“gắn liền với sự linh hoạt, khả năng phục hồi và ổn định” [167, tr. 8], nó đã
giúp người Ninh Hiệp dễ dàng thích nghi với nhiều tình huống. Đó cũng là
một lí do xuất hiện câu tục ngữ nói về sự khôn ngoan của họ: “Dốt kẻ Nành
cũng là đàn anh thiên hạ”. Tương tự một vài trường hợp khác của vùng như
28 Nguyễn Khắc Quýnh, một người làng, lược dịch [87, tr. 233].
48
Phù Lưu hay Đồng Kỵ [4], việc tồn tại sớm của những nghề phi nông và lối
tư duy coi trọng hiệu quả kinh tế đi liền có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự
chuyển mình nhanh chóng của người làng giữa bối cảnh mới như sau này ta
thấy. Và có thể khẳng định, tuy nông dân, thợ thủ công cũng như thương
nhân Ninh Hiệp có nét văn hóa riêng của mỗi tầng lớp, tất cả đều chung một
thế ứng xử khá hài hòa từ nhiều đời, tạo nên một cộng đồng thống nhất trong
đa dạng. Đồng thời, với sự thực hành nhiều nghề mặc dù nông nghiệp vẫn là
“nghiệp” chính, một mặt người dân có thêm sự gắn kết do các hoạt động
ngoài nông nghiệp đem lại, mặt khác từ rất sớm còn có những mối quan hệ đa
dạng vượt ra khỏi phạm vi địa phương của mình, hiện tượng phần nào khác
với nhận định về tính khép kín “hằng xuyên” của cộng đồng nông thôn Việt ở
không ít nhà nghiên cứu.
Về các hình thức tổ chức của làng, như tình hình chung của làng Việt
cổ truyền mà Trần Từ (1984) [126], Phan Đại Doãn (2008) [20] và Nguyễn
Quang Ngọc (2009) [73] từng đề cập, ở Ninh Hiệp có tập hợp người theo địa
vực (ngõ, xóm), tập hợp người theo huyết thống (họ), tập hợp người theo lớp
tuổi (giáp), tập hợp người trong những tổ chức dựa trên sự tự nguyện tham
gia của cá nhân (phe, hội, phường), và tập hợp người trong bộ máy chính
quyền cấp xã. Đồng thời, cũng như nhiều làng xã khác, ở Ninh Hiệp trong
nhiều thế kỉ đã tồn tại đồng thời hai thiết chế quản lí là thiết chế hành chính
nhà nước và thiết chế tự trị làng xã, theo đó các hoạt động của nó được điều
chỉnh cả bởi “phép nước” lẫn “lệ làng”. Số liệu thống kê cho biết, về thiết chế
hành chính nhà nước, những người tham gia vào bộ máy hành chính xã ở thế
kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX thuộc khá nhiều dòng họ, trong đó người thuộc
những họ lớn (đông nhân khẩu) chiếm tỉ lệ cao, nhưng người thuộc những
dòng họ nhỏ cũng không phải không có mặt; còn về thiết chế tự trị làng xã, số
người tham gia vào Hội đồng sắc mục của làng đa số thuộc về các dòng họ có
truyền thống khoa hoạn [85, tr. 318 - 320]. Cơ cấu nhân sự này, có thể nói,
phù hợp với tình hình của làng trong quá khứ cả về nhân khẩu (là nơi có sự
chênh lệch đáng kể trong nhân khẩu giữa các dòng họ) và nhân lực (là nơi
49
vốn có nhiều người tham chính29). Cần nói thêm, có lẽ cơ chế tự quản ở làng
đã hoạt động rất hiệu quả vì trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, làng vẫn ổn
định và phát triển, như một danh nhân thời Lê từng nhận định: “Quốc biến
dân bất biến” (nước biến động nhưng dân không biến động).
Sự hội tụ một lượng lớn dòng họ là nét đặc thù của Ninh Hiệp và tôi
cho đó là dấu hiệu nữa của tính “mở” của làng. Điều này được thể hiện ngay
trong truyền thuyết về Bà chúa Nành, người tương truyền có công trong sự ra
đời của làng:
“Tay cầm chín hạt đậu nành
Gọi dân khắp chốn lập thành thôn trang”.
Thực tế, sớm có nền kinh tế hàng hóa30, trong các thế kỉ qua, Ninh
Hiệp đã thu hút rất nhiều người từ nơi khác đến làm ăn hoặc kết hôn với con
gái làng và ở lại. Khác với phần lớn cư dân của các làng xã trong bầu khí
quyển văn hóa Bắc Bộ, người Ninh Hiệp không khắt khe với việc nhập cư và
cũng không có sự phân biệt ít nhiều mang tính kì thị giữa dòng họ đến sau với
dòng họ đến trước, điều mà tới nay vẫn được các cụ cao niên trong làng xác
nhận với tôi. Nhiều họ chỉ định cư ở Ninh Hiệp đến đời thứ hai, thứ ba đã có
thành viên được tham gia vào hội đồng sắc mục, lắm khi còn giữ cả ngôi chủ
tế trong lễ hội các thôn. Nếu biết rằng ở một làng lân cận trong vùng là Bát
Tràng, “con gái làng không lấy người ngụ cư làm chồng” và “dân ngụ cư có
tiền cũng không mua được nhà trong làng” [18, tr. 343] thì ta sẽ thấy hiện
29 Theo thống kê sơ bộ, từ thế kỉ XVII đến giữa XVIII, trong số những người Ninh Hiệp làm quan
ở triều đình có 05 người tước công, 22 người tước hầu, 11 người tước bá, 4 người tước tử, 14
người tước nam, thuộc 15 họ [85, tr. 135]. Những dòng họ nhiều người thành đạt nhất có thể kể
đến là Nguyễn Đức, Nguyễn Thọ, Nguyễn Công, Đào, Nguyễn Đình, Nguyễn Khắc...: Họ Nguyễn
Đức có Nguyễn Phúc Thăng nhận tước hầu, là trọng thần thời Lê Trịnh, làm Đô chỉ huy sứ, rồi
Tham đốc, con là Nguyễn Đức Chiêm nhận tước công, làm Tham tri giám sự, sau cũng làm Tham
đốc (thế kỉ XVII). Họ Nguyễn Thọ có Nguyễn Thọ Trường nhận tước công, rồi được truy phong
tước vương sau khi mất, là trọng thần thời Lê Trịnh, từng làm trấn thủ Thanh Hoa, anh em là
Nguyễn Thọ Vực và Nguyễn Thọ Hưởng đều nhận tước hầu (thế kỉ XVIII). Họ Nguyễn Công có
Nguyễn Công Luận và Nguyễn Công Nhĩ nhận tước hầu, Nguyễn Công Đĩnh nhận tước nam và
nhiều người khác làm quan trong triều Lê Trịnh (thế kỉ XVIII). Họ Đào có Đào Quang Nhậm nhận
tước hầu, làm Tham tri giám sự, Đào Quốc Hiển nhận tước bá, làm Bồi tụng hình bộ hữu thị lang
(thế kỉ XVII - XVIII). Họ Nguyễn Đình có Nguyễn Đình Thi nhận tước hầu, Nguyễn Đình Vượng
nhận tước bá (thế kỉ XVIII)... Đấy là chưa kể, không ít quan lại của triều đình là rể của làng sau
khi thôi làm quan đã rời Thăng Long về trí sĩ ở đây. 30 Tất nhiên, như cách nói của Nguyễn Quang Ngọc về nền kinh tế hàng hóa ở đồng bằng Bắc Bộ
thời trung cận đại, đó là một nền kinh tế hàng hóa còn “giản đơn” [72, tr. 247].
50
tượng trên đáng chú ý thế nào. Vượt lên trên tính cục bộ thường tình, các
dòng họ ở Ninh Hiệp nhìn chung duy trì một mối quan hệ khá tốt đẹp với
nhau và điều này gặp gỡ ý kiến của Strauch trong “Community and Kinship
in Southeastern China: The View from the Multilineage Villages of Hong
Kong” [Cộng đồng và quan hệ họ hàng ở đông nam Trung Quốc: Cái nhìn từ
những làng có nhiều họ của Hồng Kông] (1983), rằng sự gắn kết dòng họ ở
các làng nhiều dòng họ có thể “cùng tồn tại được với một cảm thức bao trùm
hơn về cộng đồng” và rằng quan hệ họ hàng có thể “cung cấp sức mạnh cố
kết trong nhiều dạng thức khác nhau” trên tất cả các cấp độ xã hội [242, tr.
48]. Có lẽ một phần lớn vì tinh thần này mà “đất lành chim đậu”, con số dòng
họ ở đây không ngừng tăng? Dù rằng rất ít làng Việt chỉ có một họ như Yu đã
nhận xét (1994) [138], song khá hiếm làng nào trong vùng có nhiều họ đến
như Ninh Hiệp - khoảng 80 họ. Có họ lớn, nhân khẩu lên tới con số ngàn, lại
có một số họ nhỏ với nhân khẩu chỉ chừng trăm. Đặc biệt, họ ngoại của tôi là
Thạch Văn, vốn gốc họ Mạc - một trong những họ đông nhân khẩu nhất làng
hiện nay - được xem là cũng chỉ mới đến sinh cơ lập nghiệp kể từ thế kỉ XVII
(một thời gian sau khi nhà Mạc thất thủ ở Thăng Long). Việc tất cả thành
hoàng của các thôn và hầu hết tổ nghề được suy tôn đều là người ngoài làng
còn từng được một nhà nghiên cứu nhìn nhận như là biểu hiện của tư duy cởi
mở đã thành truyền thống ở nơi đây [45, tr. 93 - 94].
Nằm trong cái nôi Kinh Bắc, Ninh Hiệp - với lịch sử ngàn năm tuổi
của mình - có một kho tàng di sản văn hóa rất phong phú. Về di sản phi vật
thể, đáng chú ý là các sáng tác văn học truyền miệng (truyền thuyết, giai
thoại, thơ ca, vè…) cùng các tri thức về nghề thủ công (nghề dệt, nghề
nhuộm, nghề thuốc…). Đặc biệt, các lễ hội gắn với đình, chùa Ninh Hiệp nói
chung đều là các lễ hội thu hút được sự quan tâm của đông đảo người dân
trong vùng, với sự có mặt hầu hết các sinh hoạt văn nghệ, giải trí hấp dẫn của
lễ hội cổ truyền Kinh Bắc như hát tuồng, hát chèo, hát quan họ, dệt vải thi,
nấu cơm thi, đua thuyền, đấu vật, chọi gà, đá cầu, đánh cờ người... [58]. Về di
sản vật thể, do thuộc địa phận của trung tâm Phật giáo Luy Lâu xưa [120],
Ninh Hiệp có nhiều ngôi chùa nổi tiếng mà Pháp Vân, Khánh Ninh và Đại Bi
51
là những gì vẫn còn bảo tồn được. Ngoài ra, làng cũng có nhiều đình, đền lâu
đời, giàu giá trị thẩm mĩ như Hiệp Phù, Ninh Giang, Từ Vũ...31 Bảy trong số
hai mươi ba công trình cổ còn lại ở đây sau những cơn dâu bể đã được Bộ
Văn hóa Thông tin và UBND TP. Hà Nội công nhận là di tích lịch sử và kiến
trúc nghệ thuật. Đáng chú ý nhất trong số các di tích của Ninh Hiệp là chùa
Pháp Vân - ngôi chùa Tứ pháp lớn của Bắc Bộ, gắn với một trong hai hệ phái
Phật giáo lâu đời nhất nước ta do các nhà sư dòng Thiền phương Nam dựng,
được tôn vinh là Bắc giang đệ nhất thiền môn [88, tr. 23]. Ông thân sinh của
tôi kể rằng trước đây trong chùa có cả một khu kiến trúc dạng hang động mô
tả cảnh địa ngục rất đặc sắc, nơi mà thuở thiếu thời ông và nhiều bạn đồng
trang lứa ở làng hay vào chơi trước khi nó bị phá hủy hoàn toàn trong cuộc
cách mạng về văn hóa và tư tưởng. Tiếp đó, phải kể đến bãi Thạch Sàng,
tương truyền là nơi nghỉ hàng đêm của danh tăng Khâu Đà La người Ấn Độ
khi dừng chân một thời gian ở Ninh Trang trên con đường truyền đạo đầu
Công nguyên và thủy đình múa rối, do thân mẫu công chúa Lê Ngọc Hân -
một người làng - bỏ tiền xây dựng, hiện là một trong các thủy đình xưa nhất
còn lại của Bắc Bộ. Tôn giáo và lễ hội là các thiết chế văn hóa có tác động
đáng chú ý tới quan hệ xã hội, nhất là quan hệ cộng đồng, của ngôi làng này
trước đây cũng như hiện tại.
Về truyền thống giáo dục, Ninh Hiệp trong lịch sử từng được xem là
mảnh đất đại khoa với sự hiện diện của nhiều tiến sĩ: Phạm Ngữ (1463),
Nguyễn Khắc Trung (1523), Lê Dao (1559), Đào Quốc Hiển (1691) và
Nguyễn Bá Tôn (1706)32. Theo truyền thuyết, làng có trường học rất sớm (thế
kỉ II TCN) và người mở trường chính là một trong những vị thành hoàng của
làng về sau - thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu33 - còn trên thực tế, trường học của
làng là một trung tâm giáo dục thực sự của khu vực bắc Thăng Long trong
31 Ninh Hiệp cũng đang lưu giữ một lượng lớn di vật lịch sử như trống đồng, chuông khánh, đồ tế
tự, đạo sắc phong, thần phả, sách cổ... Đặc biệt, làng có tới ngót 100 văn bia cổ, phần lớn đã
được dịch và giới thiệu trong công trình Văn bia làng Nành của Đinh Khắc Thuân (2003) [112].
Một tài liệu cho biết, số văn bia vào thời Lê của phủ Từ Sơn là nhiều nhất xứ Bắc (cả xứ có 497
văn bia) [130, tr. 94], và văn bia làng Nành đã đóng góp lớn vào điều này. 32 Một số trong họ hiện vẫn còn tên ở văn bia văn miếu Bắc Ninh [53, tr. 119, 174, 261, 269]. 33 Lữ Gia là người gốc phương Bắc, đại thần của nhiều đời vua Triệu (Nam Việt) từ Văn Vương
(136 - 125 TCN) đến Thuật Dương Vương (112 - 111 TCN).
52
thời gian kéo dài từ cuối thời Lê đến hết thời Nguyễn, nơi đào tạo không chỉ
con em trong làng mà còn nhiều người ngoài làng nữa. Lại thêm một biểu
hiện cho tính mở của ngôi làng chăng? Trong số các trí thức tên tuổi của vùng
trưởng thành từ trường, cần phải kể đến Đàm Văn Khiêm quê ở làng Me, nay
thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh mà tục gọi là ông nghè Me và Nguyễn Đình
Tuân quê ở làng Sổ, nay thuộc huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang mà tục gọi là ông
nghè Sổ. Với ngôi trường này, từ lâu người dân Ninh Hiệp đã có câu ca:
“Quê em tên gọi Kẻ Nành
Có trường Hán học nổi danh khắp vùng
Mùa hạ cho chí mùa đông
Văn nhân tài tử trập trùng lại qua”.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng sự phát triển của nền giáo dục Nho học
trong một thời gian dài không phải không ít nhiều chi phối đến quan hệ xã hội
ở làng, mà vĩ thanh tới nay vẫn còn.
Với Ninh Hiệp, việc tích cực tiếp thu tinh hoa văn hóa bên ngoài như
truyền thống chung của xứ Bắc không chỉ bộc lộ ở sự hiện diện của các yếu tố
văn hóa Trung Hoa (Nho) hay Ấn Độ (Phật). Đầu thế kỉ XX, khi tư tưởng duy
tân khởi nguồn từ những thành tựu của thế kỉ Ánh sáng và của các cuộc cách
mạng tư sản phương Tây tràn vào nước ta [113], Ninh Hiệp đã trở thành một
địa bàn quan trọng của phong trào hưởng ứng nó là Đông Kinh nghĩa thục
trong thời gian tồn tại tuy ngắn ngủi nhưng đầy ý nghĩa của phong trào
(3/1907 - 11/1907). Vài thập niên trước, hình ảnh buổi lễ ăn thề thành lập chi
hội vẫn còn được nhớ bởi dân làng và đã được khắc họa trong Chuyện cũ làng
Nành [87]. Làng cũng là nơi gặp gỡ của các nhà duy tân tiếng tăm bấy giờ như
Lương Văn Can, Ngô Đức Kế, Dương Bá Trạc... Sau khi phong trào tan rã,
trước sự khủng bố của thực dân Pháp, nhiều thành viên chi hội Đông Kinh
nghĩa thục của làng - Nguyễn Mộng Huyên, Nguyễn Ngọc Truy, Nguyễn
Khắc Hoài, Nguyễn Khắc Tế, Nguyễn Bá Quyến, Nguyễn Hữu Thiện, Nguyễn
Công Chức, Nguyễn Huy Lan, Nguyễn Đình Thiệp... - đã phải ẩn náu tứ xứ
hầu như đến hết cuộc đời mình. Tuy nhiên, dư âm của phong trào “khai dân
trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” này vẫn được thể hiện qua dòng chữ nổi tiếng
53
ở Ngũ môn chùa Pháp Vân khi nó được dựng vào năm 1923: “Bình đẳng tự
do chân bảng rạng” (nghĩa là: “Bình đẳng, tự do là mục tiêu chân chính, rõ
ràng” [125, tr. 12]). Dẫu kẻ thù không ngừng gây khó dễ (đặc biệt vì Ngũ
môn của chùa lại nằm đối diện với trụ sở chính quyền thực dân), dòng chữ
vẫn tồn tại trong sự bảo vệ của dân làng suốt thời kì thuộc địa. Và người Ninh
Hiệp vẫn nhớ rằng, vào thập niên 30 của thế kỉ XX, làng chính là một trung
tâm lưu giữ, phát tán tài liệu của Tôn Trung Sơn trong vùng. Theo lời các cụ
cao tuổi, nhà cách mạng Trung Hoa với tư tưởng Tam dân - dân tộc độc lập,
dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc - rất được ngưỡng vọng lúc đó.
Trên đây là bức tranh khái lược về Ninh Hiệp trước năm 1945.
Từ sau Cách mạng, cụ thể hơn là sau giải phóng (1954), đến trước Đổi
mới, Ninh Hiệp chia sẻ tình trạng chung của các làng xã miền Bắc và tiếp đó
là cả nước về kinh tế, xã hội và văn hóa, mặc dù không phải luôn chia sẻ cách
ứng xử.
Về kinh tế, người Ninh Hiệp bước vào quá trình sản xuất tập thể.
Những người nông dân, thợ thủ công và tiểu thương của làng đã trở thành xã
viên của các hợp tác xã nông nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ... Các nghề phi
nông nghiệp từng làm nên gương mặt của Ninh Hiệp đến lúc này còn được
duy trì là nghề làm thuốc và nghề da. Có điều, trong khi nghề da vẫn tồn tại
như một trong những nghề cơ bản (từ đầu những năm 60 đến cuối những năm
80, Hợp tác xã Da, vải bạt Ninh Hiệp thường có khoảng 300 xã viên kèm
1000 khẩu ăn theo [45, tr. 37]) thì nghề thuốc lại chỉ tồn tại như một nghề phụ
của các gia đình. Trong bối cảnh các hoạt động kinh doanh tư nhân đã chính
thức bị cấm như Turner (2009) [246] từng mô tả, nghề buôn của làng tất
nhiên không được thừa nhận nữa, mặc dù - do những khoảng trống luôn mở
ra từ sự thiếu hiệu quả của cơ chế cho khu vực “phi chính thức” [183] - nó
vẫn tìm cách tồn tại ở chỗ này, chỗ kia. Chúng ta đều biết, mô hình kinh tế
chỉ huy có tác dụng trong những bối cảnh nhất định, song việc kéo dài nó quá
mức lại gây ra những bất lợi lớn. Tuy không khó khăn so với mặt bằng, thậm
chí phần nào còn khá hơn do có thể xoay sở làm thêm, với người Ninh Hiệp,
mô hình này thực sự là một lực cản cho tố chất hoạt động kinh tế vốn là thế
54
mạnh của họ. Có nhà nghiên cứu còn nhận định, “năng lực làm giàu bằng
kinh tế thị trường của con người và cộng đồng Ninh Hiệp đứng trước nguy cơ
bị tiêu diệt bởi cơ chế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp”, thậm chí nhấn mạnh
“đây là thời kì thử thách khắc nghiệt nhất đối với con người và cộng đồng
làng - xã Ninh Hiệp” [45, tr. 225]. Như vừa nói, người Ninh Hiệp vẫn tìm
cách duy trì hoạt động thương mại ngoài luồng của mình. Đó không phải là
sự đối phó công khai với chính sách của nhà nước mà là sự đối phó ngấm
ngầm. Hàng ngày, hàng vài ngày, hàng tuần, hàng vài tuần, hàng tháng, hay
hàng vài tháng, chị em phụ nữ Ninh Hiệp lại “gom hàng” là các nhu yếu
phẩm (phích nước, chăn, màn, đèn pin...) về bán theo kiểu chợ đen cho người
dân khắp vùng. Đến giờ, tôi vẫn còn nhớ như in rằng bà ngoại mình đã vừa
trông đứa cháu là tôi vừa bán hàng ở cầu chợ như thế nào. “Quầy” chỉ đơn
giản là một chỗ ngồi con con, với ít xấp vải được bà xếp chồng, để lộ đầu
chừng 1 - 2 phân cho khách nhìn được màu sắc và chất liệu. Tôi thì ngồi chơi
tha thẩn bên cạnh. Người lấy hàng về cho bà bán là mẹ tôi. Với độ lùi của
thời gian, nhìn lại, có thể khẳng định sở dĩ việc buôn bán của Ninh Hiệp tồn
tại được - dẫu khá chật vật - trong đêm trường bao cấp lúc bấy giờ, là bởi
ngoài sự đồng thuận của cả cộng đồng, còn có sự hỗ trợ của các đời lãnh đạo
xã. Phần nào giống như việc Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc là Kim Ngọc thực hiện
khoán hộ cho nông dân kể từ những năm 60, lãnh đạo Ninh Hiệp cũng tạo
điều kiện cho dân làng mình đan dệt một mạng lưới buôn bán trong bối cảnh
việc đó là trái chủ trương của nhà nước (tuy trên thực tế thì nó phù hợp với
quy luật vận hành tự nhiên của kinh tế). Nhưng may mắn hơn Kim Ngọc,
những người lãnh đạo này đã không gặp phải tai ách như ông34 vì họ, tương
tự dân làng của họ, không chính thức hóa hành động của mình.
Về xã hội và văn hóa, đồng dạng với những làng xã khác, các thiết chế
xã hội và văn hóa cổ truyền ở Ninh Hiệp bao gồm tổ chức và hệ giá trị bị giải
thể và thay thế bằng các thiết chế xã hội chủ nghĩa. Và, giữa bối cảnh “quan
34 Chủ trương khoán được đưa vào Nghị quyết 68 của Đảng bộ Vĩnh Phúc năm 1966 và - mặc dù
sẽ là tiền đề của một trong những chính sách nền tảng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
nông nghiệp và nông thôn sau này [9, tr. 266 - 267]) - bị Trung ương ra lệnh dừng vào năm 1968
còn người khai sinh ra nó bị kiểm điểm (dân vẫn âm thầm làm tiếp nên gọi là “khoán chui”).
55
điểm giai cấp trong quan hệ giữa người với người dường như được nhấn
mạnh nhiều hơn” [85, tr. 321], các quan hệ xã hội truyền thống - điều mà
chúng ta quan tâm - khó tránh khỏi bị nhìn nhận như là tàn dư tiêu cực của xã
hội cũ. Được dán mác “cơ sở” của chủ nghĩa cục bộ, cái có hại cho việc xây
dựng xã hội mới, những quan hệ đang bàn như ta biết đã không còn điều kiện
để có thể tồn tại nguyên dạng ở bất cứ đâu, và lẽ tất yếu Ninh Hiệp cũng
không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên, với sự tồn tại của những hoạt động
kinh tế phi chính thức, một mạng lưới quan hệ xã hội loại này trong và ngoài
làng của người Ninh Hiệp cũng vẫn được duy trì ở một mức độ nhất định (tôi
nhấn mạnh: ở một mức độ nhất định) nhằm đáp ứng những nhu cầu có liên
quan của họ.
Công cuộc Đổi mới bắt đầu từ năm 1986 và các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn tiếp nối sau đó
[1], [2] chính là bước ngoặt đem lại những thay đổi hết sức to lớn về nhiều mặt
cho nông thôn Việt nói chung [6], [15], [93], cho đồng bằng sông Hồng nói
riêng [46] và đặc biệt, cho ngôi làng của người Ninh Hiệp.
Kinh tế Ninh Hiệp xưa vốn đã ít nhiều mang tính đa dạng và tổng hợp;
với chủ trương đổi mới và nhất là thông thương biên giới phía Bắc của Nhà
nước cuối những năm 80 [150], xu hướng đó đã bùng nổ. Trường hợp Ninh
Hiệp là một minh chứng cho nhận định của Pettus (2003) [222] rằng tương tự
tình hình các nước hậu xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, việc tự do hóa nền kinh
tế ở Việt Nam đã làm trỗi dậy ở mức độ chưa từng thấy nền thương mại quy
mô nhỏ do phụ nữ nắm giữ35. Tất nhiên, đó là buổi ban đầu, vì sau đó nó cũng
không phải luôn ở “quy mô nhỏ” nữa. Trong sự đa dạng, tổng hợp nói trên,
thương mại - dịch vụ là lĩnh vực mũi nhọn cho sự tăng trưởng nhảy vọt của
kinh tế làng nói chung và các hộ gia đình nói riêng, đồng thời ngày càng thẩm
thấu vào các ngành nghề nông nghiệp cũng như thủ công nghiệp. Các nhà
nghiên cứu và thống kê đều đánh giá, Ninh Hiệp là một trong những xã đứng
đầu của miền Bắc, thậm chí cả nước, về sự phát triển kinh tế sau thời điểm
35 Ở Việt Nam, như nhiều nơi khác, việc kinh doanh quy mô nhỏ thường gắn với phụ nữ do được xem là phù hợp với tư duy có tính trực quan của họ [204], và trên thực tế thì “luồng tiểu thương khá phát đạt ở miền Bắc trước năm 1954 chủ yếu là nằm trong tay phụ nữ” [22, tr. 86].
56
bắt đầu Đổi mới, với tốc độ tăng trưởng đạt 12% đến 14%/năm [45, tr. 21].
Thập niên 2000, đà phát triển này vẫn tiếp tục: Giá trị sản xuất các ngành
kinh tế trong những năm 2001 - 2005 tăng bình quân 11,5%, trong đó sản
xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 12,3%, thương mại -
dịch vụ tăng bình quân 15,3%, nông nghiệp - thủy sản tăng bình quân 3,2%
[23, tr. 2]; giá trị sản xuất các ngành kinh tế trong những năm 2006 - 2010
tăng bình quân 12,9%, trong đó sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
tăng bình quân 14,9%, thương mại - dịch vụ tăng bình quân 10,9%, nông
nghiệp - thủy sản tăng bình quân 2,28% [24, tr. 2]. Trong xu thế chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nông thôn nước
ta [7], [38], [76] (và của đồng bằng sông Hồng [60] cũng như ngoại thành Hà
Nội nói riêng [16]) thời gian qua, cơ cấu kinh tế Ninh Hiệp đã có được những
con số ấn tượng, trong đó tỉ trọng ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp -
xây dựng cơ bản và ngành thương mại dịch vụ tăng nhanh (56,72% và
37,33% năm 2004, 64,1% và 33,71% năm 2009, 47,64% và 51,3% năm
2013) còn tỉ trọng ngành nông nghiệp - thủy sản giảm dần (5,95% năm 2004,
2,2% năm 2009, 1,06% năm 2013) [23, tr. 2], [24, tr. 2], [25, tr. 2]. Về cơ cấu
lao động, với tổng số 3.370 hộ (16.318 nhân khẩu) của làng, số làm nông
nghiệp hiện chỉ chiếm 10% - 328 hộ (nhân khẩu trong độ tuổi lao động là
1640), còn số làm thương mại và dịch vụ chiếm 1247 hộ (nhân khẩu trong độ
tuổi lao động là 2620) và số làm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng
cơ bản chiếm 1765 hộ (nhân khẩu trong độ tuổi lao động là 4069). Đáng lưu
ý, trong số hộ làm các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây
dựng cơ bản, đối tượng làm tiểu thủ công nghiệp (chủ yếu là gia công hàng
may mặc) lại chiếm con số áp đảo, mà nhóm này bên cạnh việc sản xuất
thường cũng đồng thời kinh doanh luôn mặt hàng mình làm ra. Mặt khác, rất
nhiều hộ tuy trên giấy tờ chính thức còn làm nông nghiệp nhưng thực tế thì đã
“ly nông” từ khá lâu bằng cách thuê người hoặc cho anh em trong họ làm để
chuyển sang buôn bán (ngay gia đình tôi cũng vậy - từ sau Đổi mới, tất cả số
ruộng của gia đình đều được giao cho người nhà bác làm giúp). Như vậy, có
thể nói, về cơ bản Ninh Hiệp đang là một làng phi nông nghiệp hóa dạng
57
thương mại hóa. Nhìn chung, không như dân cư nhiều địa phương khác của
cả nước [37], [94], [106], của đồng bằng sông Hồng [101] và cụ thể hơn là
của khu vực ngoại thành Hà Nội [127], [137], việc chuyển đổi nghề ở người
Ninh Hiệp diễn ra khá nhanh chóng.
Do thương mại đã trở thành hoạt động mưu sinh chính của người Ninh
Hiệp, tôi muốn dừng lại để giới thiệu về các khu buôn bán đang xuất hiện
ngày một nhiều ở đây.
Hiện ở Ninh Hiệp có 06 khu buôn bán tập trung, bao phủ một phần
lớn không gian làng khi trải dài từ đầu làng đến trung tâm theo trục giao
thông chính.
Trên đường liên xã vào làng, đầu tiên ta sẽ gặp khu buôn bán mang tên
“Lò ông Phước”. Nó có tên gọi như vậy vì trước vốn là vùng đồng đất, chỉ
duy nhất gia đình một người tên là Phước làm nghề đóng gạch sinh sống (nơi
ở cũng đồng thời là nơi xây dựng lò gạch). Vào năm 1988, một số gia đình
thuộc diện nghèo đói đã được xã cấp đất tại đây và nó dần trở thành một khu
dân cư. Mươi năm gần nhất, cùng với sự phát triển công việc kinh doanh của
dân làng, nơi này trở thành khu buôn bán với mặt hàng là các loại vải. Cũng
trên con đường liên xã, tiếp giáp khu buôn bán “Lò ông Phước” là khu buôn
bán Ba Da. Nó được người Ninh Hiệp thuê dài hạn của làng Đình Bảng liền
kề. Hiện nay, nó bao gồm: i) dãy nhà cao tầng chia thành các căn độc lập kéo
dài từ “Lò ông Phước” đến con dốc có tên Ba Da, một phần đất nông nghiệp
bị chiếm dụng làm nơi bán hàng nằm đối diện, cùng dãy nhà trệt đầu làng
thuộc địa phận đất cho dân thuê; ii) chợ Ba Da với diện tích khoảng 2000m2;
và iii) kho chứa hàng nằm giữa “Lò ông Phước” và chợ Ba Da của một số đầu
nậu. Cũng như khu buôn bán “Lò ông Phước”, nơi này chỉ bán vải36. Sau khi
đi hết khu buôn bán Ba Da, ta sẽ thấy một dãy cửa hàng bán quần áo chạy dọc
theo con đường chính vào giữa làng, đó là khu buôn bán của thôn 6. Khu
36 Một trong những lí do của việc phân chia nơi buôn bán thành khu vực bán vải và khu vực bán
quần áo là giá thuê cửa hàng và mặt bằng kinh doanh. Các tiểu thương khu “Lò ông Phước” cho
tôi biết, muốn mở cửa hàng bán vải, người ta cần một diện tích tối thiểu là 40 m2 để bày hết
được khoảng trăm cuộn vải mẫu, còn buôn bán quần áo thì chỉ cần 10 m2 trở lên,. Thật dễ hiểu
khi những nơi có giá thuê cao nhất lại chỉ dành cho việc kinh doanh quần áo may sẵn.
58
buôn bán này hình thành cách đây khoảng chục năm từ việc người dân hai
bên mặt đường đua nhau biến nơi ở thành ki ốt bán hàng. Căn cứ vào quy
hoạch của Ủy ban nhân dân xã (chợ được mở rộng dần về phía đông và
đường vào chợ là con đường liên xã chạy từ dốc Ba Da, ngang qua trụ sở Ủy
ban), có thể nói sự phát triển của khu buôn bán thôn 6 nằm ngoài dự kiến của
chính quyền. Với việc đường làng thành phố chợ, nơi này cách đây chừng
dăm bảy năm bắt đầu được mệnh danh là “Hàng Ngang”, “Hàng Đào” của
Ninh Hiệp khi giá một m2 của mảnh đất kinh doanh tốt vào khoảng một tỉ
đồng và giá cho thuê trung bình một cửa hàng có 03 mét mặt đường lên đến
một triệu/ ngày (tức xấp xỉ 360 triệu/năm)37. Qua thôn 6, ta sẽ tiến vào khu
chợ truyền thống. Chợ truyền thống, hay “chợ Nành - Ninh Hiệp” là một khu
vực buôn bán có từ rất lâu, được dân làng gọi như vậy để phân biệt với các
khu buôn bán mới xuất hiện gần đây, đặc biệt là khu thương mại Sơn Long và
Phú Điền nằm gần hơn cả. Trước kia, khu chợ truyền thống này là một quần
thể bao gồm tám cầu chợ. Cuối chợ, có một cái ao rộng ngăn cách nó với
cánh đồng của làng. Tháng 10 năm 2001, chợ được xây dựng lại. Sau đó, nó
tiếp tục được cải tạo vào tháng 9 năm 2003 và tháng 12 năm 2009. Hiện chợ
bao gồm hai khối nhà liền kề với tổng diện tích khoảng hơn 6000m2. Khối
thứ nhất được sửa chữa trên cơ sở chợ truyền thống, lại bao gồm cả các ki ốt
tự phát của nhà dân lân cận nên thiếu tề chỉnh, với những gian hàng nằm chen
chúc bên những lối đi rất ngoằn ngoèo. Khối thứ hai được xây mới nên có sự
bố trí gian hàng quy củ hơn, mặc dù hiện tại thì sự quy củ cũng đang giảm đi
đáng kể38. Khối này mở rộng trên đất lưu không và ao đã san lấp. Đây là nơi
tập trung tới hơn một nửa số thương nhân của làng, vì thế là “cần câu cơm”
của rất nhiều gia đình (trên giấy tờ chính thức là 1300 hộ, nhưng thực tế là
xấp xỉ 1600 hộ). Nhìn chung, nơi bán hàng của chợ khá chật chội, lại thêm
trần thấp và hàng hóa chất cao nên vào mùa hè rất nóng bức và ngột ngạt (tiểu
37 Vào thời điểm tôi bắt đầu việc nghiên cứu, mức giá cho thuê cao nhất là 600 triệu/năm, thấp
nhất là 150 triệu/năm. Hiện nay (2016), giá đã tăng lên nhiều. 38 Do việc mua chỗ bán hàng mới là khá tốn kém, nhiều thương nhân ở đây đã “xắn” một phần
chỗ của mình cho con cháu cùng bán.
59
thương của chợ thường không dọn hàng về nhà, vào cuối buổi họ chỉ phủ một
tấm bạt lớn và dày che kín hàng hóa trong quầy lại). Cuối cùng, tiếp nối chợ
truyền thống là 02 khu thương mại mới xây dựng vào năm 2010 - Sơn Long
và Phú Điền. Đây là các khu thương mại cao tầng, gồm khoảng hơn 1000
gian hàng được xây dựng với thiết kế hiện đại, chỗ ngồi thoáng mát và lối đi
rộng rãi, sạch sẽ. Dù vậy, hiện người dân mới chỉ thuê hết tầng một. Các tầng
trên được Ban quản lí tạm dùng làm kho chứa hàng. Dân buôn bán tại đây cho
biết, hai khu thương mại này khá ế ẩm vì khách tới Ninh Hiệp chủ yếu dừng
chân ở “Lò ông Phước” hay Ba Da là các chợ nằm ngay đầu làng hoặc phố
chợ thời trang thôn 6 là nơi cập nhật hàng mới nhất, một số thì vào khu chợ
truyền thống là nơi tập trung của các thương nhân hoạt động lâu năm và giá
cả có rẻ hơn39. Những người thuê cửa hàng tại hai khu thương mại này
thường chỉ là những người muốn mở rộng việc kinh doanh vốn đã có cơ sở
nhất định của mình (theo kiểu chồng bán hàng tại chợ mới, trong khi vợ vẫn
bán hàng ở chợ truyền thống), những công chức muốn cải thiện thu nhập,
những người không phải người làng muốn thử vận may hay những người
trước đây là nông dân mới chuyển sang buôn bán nhưng không thể thuê ở địa
điểm khác vì “hết chỗ”. Cũng bởi vắng khách nên giá mua, thuê cửa hàng ở
đây hiện rẻ hơn hẳn so với hồi nó mới được đưa vào sử dụng40. Như vậy,
Ninh Hiệp có khá nhiều khu buôn bán tập trung với mức độ hút khách khác
nhau. Tuy nhiên, bởi số người muốn mua/thuê chỗ ngồi bán hàng ở làng đang
ngày càng tăng mạnh với không ít lí do (muốn gia nhập vào việc buôn bán,
muốn khuếch trương sự làm ăn, muốn cho con gái của hồi môn để kinh
doanh41…), sẽ có những khu buôn bán mới được xây dựng và chợ làng sẽ
ngày càng chiếm lĩnh không gian làng.
39 Chỗ ngồi ở khu chợ truyền thống là chỗ ngồi thuê của “nhà nước” nên không tốn khoản chi phí
quá lớn. 40 Lúc đầu, giá mua cửa hàng ở đây có thể lên đến hơn chục tỉ, còn giá thuê thấp nhất là hơn trăm
triệu/năm, nhưng từ khi thôn 6 thành chợ, giá mua và thuê cửa hàng nói chung đều giảm xuống
khá nhiều. 41 Ngày trước, biết buôn bán là tiêu chuẩn chọn vợ ở Ninh Hiệp [45, tr. 99], còn hiện tại, tiêu
chuẩn này khắt khe hơn với việc người con gái tối thiểu phải có một chỗ bán hàng trên chợ.
60
Ở phương diện xã hội và văn hóa, cũng trong sự biến đổi chung của
nông thôn Việt Nam đương đại [81], [82], nhiều vận động mới đã và đang
xuất hiện ở Ninh Hiệp.
Về mặt xã hội, các thiết chế xã hội truyền thống bị “giải thể” trong
thời kì bao cấp đã được phục hồi, tất nhiên thường là với hình thức không
hoàn toàn như trước. Trong đó, rất đáng chú ý là tổ chức dòng họ, một tổ
chức ngày càng được củng cố và phát triển qua sự quan tâm của các thành
viên đến cơ sở vật chất và tinh thần của nó. Sự quan tâm này thể hiện ở việc
phát triển quỹ họ, tôn tạo nhà thờ họ và mộ tổ, làm gia phả và gia tăng sinh
hoạt dòng họ cả về số lượng lẫn mức độ mà tôi sẽ có dịp đề cập kĩ hơn ở phần
sau của luận án.
Về mặt văn hóa, người dân Ninh Hiệp một mặt khuếch trương các
thực hành văn hóa theo khuôn mẫu truyền thống ở mức độ chưa từng có so
với trước, mặt khác không ngừng tiếp thu những yếu tố của nền văn hóa đô
thị - công nghiệp. Trước hết, phải kể đến việc gia tăng bảo tồn và phát huy
giá trị các di sản văn hóa vật thể cũng như phi vật thể của dân làng, mà biểu
hiện rõ nét chính là sự đầu tư nâng cấp các di tích lịch sử và phục hồi các sinh
hoạt văn hóa - tinh thần cổ (như lễ hội, các sinh hoạt tín ngưỡng, các hình
thức diễn xướng văn nghệ dân gian thường nhật…). Ví dụ, vào giữa thập niên
90 của thế kỉ trước, các vị “túc nho” còn lại của Ninh Hiệp đã góp sức mở
một lớp dạy chữ Hán tại ngôi đền có tên Điếm Kiều với khẩu hiệu “Học nhi
bất yếm - Hối nhân bất quyện” (Học không biết chán - Dạy không biết mỏi)
nhằm bảo lưu truyền thống Hán học một thời, được rất nhiều người dân trong
và thậm chí ngoài làng (cả những người ở các tỉnh khá xa như Thanh Hóa,
Ninh Bình, Hải Dương, Nam Định, Yên Bái...) nhiệt tình hưởng ứng42. Đến
nay, đã có khoảng trên 500 con người đủ cả nam phụ lão ấu tới đây trau dồi
bút mực. Nhiều bạn đồng niên của ông thân sinh của tôi có nói rằng họ còn
tìm đến với việc học thứ văn tự này như một món ăn tinh thần, giúp cân bằng
42 Theo tư liệu báo chí, chính các cụ đồ của đất Ninh Hiệp còn là những người đầu tiên khơi dậy
truyền thống viết thư pháp ở Quốc tử giám vào mỗi dịp xuân về.
61
tâm lí trong bối cảnh nhiều xáo trộn của nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, một
số người làng có tâm huyết đã dày công sưu tầm được khối lượng tư liệu đồ
sộ về văn hóa dân gian thể hiện qua hàng ngàn trang bản thảo mà xã đã tổ
chức tiếp nhận trọng thể vào năm 2001 [86, tr. 80]. Đặc biệt, câu lạc bộ văn
nghệ người cao tuổi Ninh Hiệp là một trong những câu lạc bộ văn nghệ người
cao tuổi có tiếng nhất của Hà Nội với nhiều tiết mục văn nghệ truyền thống
độc đáo dàn dựng rất công phu, thường xuyên nhận được lời mời đi biểu diễn
khắp miền Bắc. Khoảng sân rộng sau ngôi nhà sàn của cha mẹ tôi ở khu vườn
quả chính là một điểm tập luyện của các thành viên câu lạc bộ hàng tối.
Những khi về quê, tôi đã không ít lần phải ngẩn ngơ trước các màn biểu diễn
điệu nghệ, đặc biệt là với trống và cờ, của họ dưới sự chỉ dẫn của các chuyên
gia được thuê từ nội thành sang. Sau nữa, bên cạnh sự phục hưng mạnh mẽ
của văn hóa truyền thống, nếp sinh hoạt kiểu đô thị cũng đang không ngừng
gia tăng ở đây. Với mức sống cao43, việc xây dựng nhà cửa theo những thiết
kế hiện đại, mua sắm các tiện nghi sinh hoạt tân kì, thưởng thức các loại hình
giải trí có chất lượng, tham gia các hoạt động thể thao chi phí lớn, chơi sinh
vật cảnh đắt tiền, nghỉ dưỡng tại các resort cao cấp, tổ chức liên hoan gia
đình ở nhà hàng sang trọng… đã rất phổ biến với người Ninh Hiệp. Du lịch
thường xuyên ở các nước châu Á (Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung
Quốc, Malaysia...) và cả các nước Âu Mỹ cũng không còn là điều gì đó quá
xa lạ với họ. Bản thân người làng Ninh Hiệp còn mở nhiều khu sinh thái có
diện tích hàng hecta với các loại hình dịch vụ đa dạng để đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt văn hóa - tinh thần tại chỗ, bao gồm cả việc mời các ca sĩ, các vũ
đoàn và các nhóm diễn viên hài ăn khách hàng đầu của thị trường miền Bắc
về biểu diễn. Hình ảnh những chiếc ô tô có gắn loa đi quanh làng để ra rả
thông báo về một chương trình tạp kĩ nào đó và phát tờ rơi về nó là không
hiếm gặp. Thậm chí, ngay những thực hành văn hóa tưởng như mang tính
43 So với các nơi khác trong vùng kể từ thời điểm đầu Đổi mới [61] cho đến những năm gần đây
[59], người Ninh Hiệp nhìn chung có một điều kiện sống khá hơn đáng kể. Về khía cạnh này, một
người nghiên cứu đã nhận xét: “Các chỉ báo về mức sống và chất lượng sống của cộng đồng dân
cư Ninh Hiệp quả là đáng mơ ước đối với nhiều vùng nông thôn khác ở Việt Nam” [118, tr. 31].
62
truyền thống nhất cũng được xu thế mới thổi làn gió của mình vào. Có thể lấy
ví dụ về điều này qua lễ hội, một hiện tượng văn hóa có tính tổng thể và dễ
quan sát. Thời gian vừa qua, dân làng thường đóng góp khoảng năm bảy trăm
triệu đồng tiền mặt mỗi năm để tổ chức hội làng và/ hoặc hội thôn, một khoản
đóng góp đáng kể so với nhiều địa phương khác cho lễ hội, và ban tổ chức đã
chủ yếu sử dụng nguồn kinh phí đó vào các hoạt động văn nghệ - thể thao
phục vụ người xem hội. Lễ hội Ninh Hiệp với những hình thức sinh hoạt văn
hóa cổ truyền phong phú vốn thu hút sự quan tâm của du khách trong vùng từ
xưa, gần đây còn hấp dẫn khách thập phương hơn nữa bởi sự xuất hiện các
hoạt động văn nghệ và thể thao mang màu sắc “tân kì”. Cụ thể, cùng với việc
mời các đoàn nghệ thuật truyền thống (Đoàn chèo Tổng cục Hậu Cần, Đoàn
cải lương Trung ương, Đoàn dân ca quan họ Bắc Ninh...), hay các đoàn vận
động viên của những môn thể thao truyền thống (vật, đá cầu, cờ tướng...),
người ta cũng mời các đoàn nghệ thuật hiện đại và các đoàn vận động viên
của những môn thể thao hiện đại tham gia - lễ hội chùa Nành một vài năm
gần đây đều có sự góp mặt của Đoàn Xiếc Trung ương và của các đôi nhảy
đẹp đã đạt nhiều giải thưởng đến từ các câu lạc bộ khiêu vũ lớn của Hà Nội,
còn lễ hội của thôn như thôn 8 thì có cả sự góp mặt của các câu lạc bộ hàng
đầu đang thi đấu tại giải vô địch bóng chuyền quốc gia như Bộ Tư lệnh
Thông tin, Ngân hàng Công thương, Phòng không Không quân, Hải Dương,
Hưng Yên (nữ); Thể Công, Sanest Khánh Hòa, Đức Long Gia Lai, Tràng An
Ninh Bình, Hà Nội (nam)... Đặc biệt, việc tổ chức trình diễn khiêu vũ ở sân
chùa chính là việc mà Ninh Hiệp đi “tiên phong”. Thậm chí, nhiều bà luống
tuổi trong làng cũng đã tự tin trổ tài bên cạnh những cặp vũ công chuyên
nghiệp. Nói cách khác, với sự hưởng ứng nhiệt tình của người dân, các yếu tố
văn hóa đô thị ngày càng trở nên có ảnh hưởng ở làng cả trong đời sống
thường nhật lẫn phi thường nhật. Điều này nằm trong tình hình chung của các
làng ven đô [30], [67], [77], nhưng xét về cường độ thì cao hơn hẳn.
Ninh Hiệp xưa là một làng quê xứ Bắc vừa tiêu biểu vừa độc đáo của
tiểu vùng cả về đời sống kinh tế, xã hội lẫn văn hóa, và nay đang trong quá
63
trình phi nông nghiệp hóa rất mạnh mẽ. Những yếu tố đó đã chi phối bức
tranh quan hệ xã hội nơi đây.
Tiểu kết
Bên cạnh việc vẫn duy trì nghề nông như là nghề cơ bản, Ninh Hiệp
trước Cách mạng nổi tiếng bởi nghề dệt, nghề chế biến thuốc và đặc biệt là
nghề buôn gắn với chợ Nành - một chợ lớn trong vùng có từ thời Lý. Nghề da
được du nhập vào đây thời Pháp thuộc và ngày càng phát triển sau đó đã tô
đậm thêm tính chất đa nghề của ngôi làng. Vì vậy, đời sống kinh tế, xã hội và
văn hóa của làng vừa có nét chung lại vừa có nét riêng so với những nơi khác
trong vùng. Sau Cách mạng mà cụ thể hơn là sau năm 1954, tiếp tục là một
làng hỗn hợp nông nghiệp - phi nông nghiệp nhưng Ninh Hiệp khó tránh khỏi
sự hòa lẫn trên một số khía cạnh vào bộ mặt chung của các làng xã trong cơ
chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung cho đến những năm Đổi mới (dù không hẳn
chia sẻ cách ứng xử). Các thập niên gần đây, Ninh Hiệp trở thành làng phi
nông nghiệp hóa triệt để với nhiều vận động mới cả về kinh tế, văn hóa và xã
hội. Tất cả các yếu tố trên là bối cảnh xa và gần của bức tranh quan hệ xã hội
ở Ninh Hiệp hiện nay.
64
Chương 3
MẠNG LƯỚI QUAN HỆ XÃ HỘI Ở NINH HIỆP
3.1. CÁC QUAN HỆ CƠ BẢN TRONG MẠNG LƯỚI
Người viết đã bắt đầu việc tìm hiểu về các quan hệ xã hội cơ bản trong
mạng lưới quan hệ xã hội của người làng Ninh Hiệp bằng cách đề nghị thông
tín viên của mình liệt kê những loại quan hệ mà họ có và những loại quan hệ
có thể có của cả những người khác. Kết quả là rất nhiều loại quan hệ được chỉ
ra. Một số xuất hiện liên tục trong các danh sách liệt kê, một số thì không. Ba
loại quan hệ mà bất cứ người nào cũng có và vì thế là những quan hệ cơ bản
nhất trong mạng lưới quan hệ xã hội theo loại hình của họ là họ hàng (bao
gồm cả gia đình), láng giềng và bạn bè. Một số quan hệ có ở người này nhưng
không có ở người khác, ví dụ như quan hệ đồng nghiệp, quan hệ trong hội
đồng ngũ và quan hệ trong các câu lạc bộ theo sở thích.
Như vừa đề cập, theo liệt kê của những người cấp tin cho tôi, các quan
hệ họ hàng, láng giềng, và bạn bè là các quan hệ phổ biến nhất. Điều này cũng
gặp gỡ nhận thức chung trong các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước
đã có về những quan hệ phi quan phương cơ bản của một cộng đồng làng xã.
Tuy nhiên, có nét đáng lưu ý trong sự phân loại là, nếu Tessier đưa ra nguyên
tắc hàng xóm là những người không có quan hệ bà con và sống cùng địa vực
còn bạn bè là những người không có quan hệ bà con và không sống cùng địa
vực [96, tr. 364] thì kết quả phỏng vấn ở Ninh Hiệp lại cho thấy trong đời
sống thực tiễn, người Ninh Hiệp công nhận cả quan hệ “vừa là họ hàng vừa là
láng giềng” giữa những người có họ hàng xa và sống cùng địa vực, quan hệ
“vừa là họ hàng vừa là bạn bè” giữa những người có họ hàng xa và là bạn bè,
và cuối cùng, quan hệ “vừa là bạn bè vừa là hàng xóm” giữa những người là
bạn bè và sống cùng địa vực. Nói cách khác, ba loại quan hệ trên ở Ninh
Hiệp không hoàn toàn loại trừ nhau, và người viết cho rằng khó có thể có
được một nguyên tắc thật rạch ròi cho việc phân biệt các loại quan hệ xã hội
trong đời sống làng xã tại địa bàn này.
65
Dưới đây là thực trạng các quan hệ cơ bản trong mạng lưới quan hệ xã
hội của người Ninh Hiệp.
3.1.1. Quan hệ họ hàng
Quan hệ họ hàng của một người Ninh Hiệp, như ở nhiều nơi khác,
được xem là bao gồm các quan hệ bên phía cha, bên phía mẹ, và bên phía
vợ/ chồng. Trong đó, các quan hệ bên phía cha là loại quan hệ có tính điển
hình nhất.
Trong cư trú, các dòng họ ở Ninh Hiệp vừa có sự đan xen, vừa có sự
tập trung. Tương tự tình hình của nhiều làng xã Bắc Bộ, người các dòng họ ở
đây thoạt đầu sống mật tập, sau đó với việc nhân khẩu gia tăng đã không tránh
được sự phân tán dần. Dấu ấn của điều này được thể hiện qua việc mỗi dòng
họ thường có một (hoặc một vài) nơi cư trú tập trung hơn những nơi khác: Vũ,
Trần ở thôn 1; Nguyễn Đức, Nguyễn Bá, Nguyễn Tiến ở thôn 2; Nguyễn
Đình, Nguyễn Như, Nguyễn Xuân ở thôn 3; Thạch Văn, Trần, Nguyễn Thọ ở
thôn 4; Nguyễn Văn, Nguyễn Đức, Nguyễn Thọ ở thôn 5; Nguyễn Ngọc, Lý ở
thôn 6; Nguyễn Khắc, Đỗ ở thôn 7; Nguyễn Khắc, Nguyễn Thạc ở thôn 8;
Nguyễn Văn, Hoàng, Nguyễn Như, Nguyễn Đỗ ở thôn 9. Sự đan xen trong cư
trú của các dòng họ ở Ninh Hiệp theo dòng thời gian là điều khá dễ hiểu, khi
làng có con số dòng họ đáng kể so với các làng khác trong vùng, và lại là một
làng có tính “mở”. Hiện nay, người của những dòng họ có nhân khẩu trung
bình và lớn đang cư trú ở hầu khắp các thôn của làng.
Trước năm 1945, ý thức dòng họ ở Ninh Hiệp, cũng như ở nhiều làng
Bắc Bộ khác, là khá rõ nét. Ý thức này thể hiện chủ yếu ở việc giữ gìn gia
phả, xây dựng/ tôn tạo nhà thờ họ, chăm sóc mộ tổ, và tổ chức ngày giỗ
chung. Đặc biệt, tuy không phải là dạng làng - họ (loại hình công xã mà quan
hệ huyết thống và quan hệ địa vực chồng lên nhau và quan hệ họ hàng là nền
tảng của quản lí làng xã), việc làng có nhiều dòng họ hiển đạt, được xem là
“vọng tộc” trong vùng cũng làm cho ý thức về dòng họ ở đây phát triển, vì
các dòng họ lớn thường có điều kiện hơn trong việc lập hoặc phục dựng gia
phả, xây dựng/ tôn tạo nhà thờ họ và lăng mộ tổ tiên, tổ chức ngày giỗ tổ… -
66
những cơ sở quan trọng cho việc kết nối thành viên của dòng họ qua các đời.
Sau năm 1954, dân cư Ninh Hiệp bước vào quá trình hợp tác hóa theo chủ
trương chung của Nhà nước. Do những thay đổi triệt để trong tư tưởng và
trong cơ cấu tổ chức kinh tế - xã hội, ý thức về dòng họ và quan hệ dòng họ
không còn như trước. Cơ sở vật chất của dòng họ ít được hoặc không được
quan tâm (gia phả bị mất mát, nhà thờ họ có khi bị chiếm dụng, lăng mộ hầu
như không được tôn tạo...) và việc giỗ tổ chỉ còn được tổ chức ở quy mô
nhỏ, thậm chí chỉ mang tính tượng trưng. Kể từ Đổi mới (1986) trở ra, quan
hệ dòng họ ở Ninh Hiệp mới được khôi phục trở lại, cả ở tổ chức dòng họ và
ý thức về dòng họ của các thành viên. Và, nếu như giai đoạn từ sau thời điểm
bắt đầu Đổi mới đến đầu thập niên 2000 ghi nhận ở Ninh Hiệp quá trình
phục hồi, tái cấu trúc quan hệ dòng họ - như nhiều nơi khác trong vùng [10]
hay ngoài vùng [3] - thì giai đoạn từ đầu thập niên 2000 trở đi, tức thời điểm
Ninh Hiệp bước vào quá trình phi nông nghiệp hóa triệt để, đã được chứng
kiến một sự gia tăng với cường độ cao các sinh hoạt liên quan đến dòng họ.
Tôi sẽ dừng lại để nói về điều này.
Sự gia tăng quan hệ dòng họ mà tôi muốn đề cập có biểu hiện đầu tiên
là cơ sở vật chất và tinh thần của các dòng họ được củng cố. Cụ thể, quỹ họ
được duy trì ổn định và phát triển; các nhà thờ họ và mộ tổ được tôn tạo hoặc
làm mới khang trang; và việc phục hồi/ xây dựng cũng như phổ biến gia phả
được chú trọng thực hiện. Hiện nay, tất cả các dòng họ ở Ninh Hiệp đều có
quỹ họ để phục vụ cho hoạt động của họ. Những họ lớn có quỹ họ lên đến
hàng trăm triệu, còn những họ nhỏ cũng có quỹ họ hàng chục triệu. Bên cạnh
việc đóng góp quỹ họ hàng năm cố định theo suất đinh, hiện nay ngày càng
có nhiều người ủng hộ cho quỹ với số tiền đáng kể và thường xuyên. Đối với
nhà thờ họ, sau một số đợt sửa chữa rải rác đầu thời kì Đổi mới, trong
khoảng một thập niên trở lại đây việc xây mới hoặc tôn tạo rất được người
làng chú ý thực hiện. Vấn đề mộ tổ được quan tâm hơn. Trong mươi năm
qua, nhiều dòng họ đã quy hoạch lại khu lăng mộ tổ tiên và lập sơ đồ mộ chí,
đồng thời thường xuyên tôn tạo mộ phần. Gia phả cũng được nhiều dòng họ
67
phục hồi (trên cơ sở các văn bản còn lại) hoặc viết mới (dựng cây phả hệ cho
từng chi dựa vào trí nhớ của các cụ cao tuổi). Một số dòng họ đã tổ chức
dịch gia phả từ tiếng Hán ra tiếng Việt để phổ biến cho con cháu trong họ, ví
dụ như họ Nguyễn Khắc, Thạch Văn và Nguyễn Thọ. Biểu hiện tiếp theo của
sự gia tăng quan hệ dòng họ là các sinh hoạt dòng họ diễn ra thường xuyên
với tần suất và mức độ ngày càng lớn, cụ thể là việc làm giỗ tổ và làm giỗ
gia tiên. Về việc giỗ tổ, những họ lớn trong làng đã mở rộng mạnh mẽ quy
mô của việc làm giỗ tổ, vốn được khôi phục và có nền tảng nhất định từ sau
thời điểm bắt đầu Đổi mới. Những năm trước 1986, việc giỗ tổ của họ Thạch
Văn, một trong những họ lớn nhất trong làng, được thực hiện với mỗi ngành
họ chỉ một đại diện; đến cuối thập niên 80 và những năm 1990, các chi họ
vẫn làm giỗ độc lập, riêng giỗ tổ thì được tổ chức với khoảng 30 mâm (mỗi
gia đình có một người tham gia); còn từ cuối thập niên 90 và đầu những năm
2000 trở đi, việc giỗ tổ bắt đầu được tổ chức thống nhất trên phạm vi toàn
họ. Thời gian qua, số lượng mâm cỗ trong các ngày giỗ của họ này đã tăng
lên rất đáng kể, hiện nay là vào khoảng 70 mâm. Họ Nguyễn Thọ, một họ lớn
khác của làng, trong khoảng 10 năm nay cũng tổ chức giỗ tổ khá quy mô -
trên dưới 35 mâm. Sự gia tăng quan hệ dòng họ qua việc tổ chức giỗ tổ đồng
thời được thấy ở các họ nhỏ. Chẳng hạn, đầu những năm 90, họ Nguyễn Văn
làm khoảng 4, 5 mâm mỗi kì giỗ, nhưng trong mươi năm trở lại đây thì làm
tới 20 mâm, mời đủ cả dâu rể. Sau nữa, việc giỗ gia tiên của các gia đình ở
Ninh Hiệp hiện ngày càng được chú trọng. Nhiều gia đình vốn chỉ làm giỗ
cha mẹ, ông bà (tức trong phạm vi 3 đời tính từ gia chủ trở về trước) thì nay
còn làm giỗ cho cả những đời xa hơn. Số lượng họ hàng được mời trong ngày
giỗ gia tiên cũng đang có xu hướng ngày một gia tăng. Trước đây, người ta
chủ yếu mời họ hàng gần hoặc tương đối gần, nay diện được mời đã mở rộng
hơn nhiều.
Tuy nhiên, và điều này là khá quan trọng, sự gia tăng các sinh hoạt họ
hàng không phải lúc nào cũng tỉ lệ thuận với mức độ cố kết. Mặc dù xác nhận
rằng quan hệ họ hàng có ý nghĩa về nhiều mặt, trong đời sống thực tiễn/
68
thường nhật, người dân Ninh Hiệp cũng như nhiều nơi khác nhìn chung chỉ
xây dựng sự cố kết trong một phạm vi nhất định. Thứ nhất, họ hướng đến
quan hệ trong ba đời, cả nội và ngoại. Thứ hai, song song với sự phân hóa về
kinh tế, có một sự phân hóa trong mạng lưới quan hệ họ hàng khi các cá nhân
có xu hướng đi lại nhiều hơn với những người cùng hoàn cảnh kinh tế. Diễn
đạt cách khác, đằng sau sự gia tăng có ý nghĩa biểu trưng của sinh hoạt dòng
họ nói chung ở Ninh Hiệp là sự gia tăng trên thực tế tính cố kết trong mối
quan hệ giữa họ hàng gần và những thành viên đồng đẳng.
3.1.2. Quan hệ láng giềng
Vào làng Ninh Hiệp hôm nay, ta sẽ thấy những “con phố” hiện đại trải
dài trong khuôn viên làng. Nếp sinh hoạt kiểu đô thị đang mỗi lúc một phổ
biến ở đây với không gian mang tính riêng tư của từng hộ gia đình. Có lẽ,
hiếm nơi nào thuộc ngoại thành Hà Nội có mật độ biệt thự, theo nghĩa đen
của từ này (nhà lớn và biệt lập), dày đặc như Ninh Hiệp. Cuộc sống khép kín
liệu có làm láng giềng xa cách nhau?
Nói đến quan hệ láng giềng là nói đến dạng quan hệ dựa trên không
gian cư trú vì láng giềng được xem là những người cùng cư trú trong một địa
bàn giới hạn. Tất nhiên, giới hạn này có thể co giãn tùy theo quan niệm từng
nơi. Nhìn chung, ở nông thôn Bắc Bộ, những người láng giềng thường là
những người sống chung một xóm hoặc ngõ. Với Ninh Hiệp, tình hình về cơ
bản là tương tự, song cũng có nét riêng.
Ninh Hiệp trước có 5 thôn, nay tách thành 9 (thôn 1, 2, 3 thuộc thôn
Thượng cũ; thôn 4, 5 thuộc thôn Trung cũ; thôn 6, 7 thuộc thôn Hạ cũ, thôn 8
vốn là thôn Ninh Giang, còn thôn 9 vốn là thôn Hiệp Phù). Trên thực tế, vì
dân số của từng thôn khá lớn, người làng vẫn coi quan hệ láng giềng của
mình chủ yếu chỉ tồn tại trong phạm vi ngõ, tức trùng với phạm vi của tổ liên
gia (mỗi thôn có từ 8 đến 12 tổ liên gia). Ngoài ra, tất nhiên người ta không
chỉ xem những người đang sống cùng ngõ mới là láng giềng, mà còn xem
những người vốn sống cùng ngõ nhưng đã chuyển đến các thôn khác cũng là
như vậy.
69
Phần đất thổ cư của Ninh Hiệp có các xóm và ngõ nằm kề nhau thành
một khối, mặc dù vẫn mang chút hơi hướng hình thế “xương cá” khi các xóm
và ngõ này đều chạy dọc theo trục đường chính nằm giữa làng. Sự phân bố
đó khiến quan hệ láng giềng ở Ninh Hiệp có tính mở hơn so với những làng
có kiểu phân bố dân cư phi mật tập, nơi mỗi xóm/ ngõ bị tách biệt thành một
“ốc đảo” tương đối độc lập44. Tức là, nó khiến mối quan hệ láng giềng của
cư dân ở đây không bị bó hẹp theo địa giới “chính thức” của xóm/ ngõ.
Nhiều nhà tuy khác xóm/ ngõ nhưng lại rất gần nhau về mặt không gian sống
(nằm đối diện hai bên mặt đường hoặc cùng nằm ở nơi tiếp giáp giữa các
xóm/ ngõ mà nếu không tính đến một vài chỗ bị chia cắt ra bởi ao, chuôm...
thì không hề có một ranh giới rõ ràng) đã trở thành láng giềng thực sự. Vì
thế, có thể nói, sự phân bố dân cư của Ninh Hiệp có những ảnh hưởng đến
diện mạo của mối quan hệ này.
Xưa, những người làm các ngành nghề phi nông nghiệp ở Ninh Hiệp
thường tập trung theo những địa bàn nhất định nên láng giềng cũng hay là
bạn nghề, và điều này khiến cho mối quan hệ láng giềng ở làng thêm gắn bó.
Nghề buôn không phải là ngoại lệ. Thôn 4 và thôn 5 là nơi có nhiều người
buôn bán do gần chợ nhất, và hoạt động thương mại ở đây cũng góp phần vào
việc củng cố sự gắn kết giữa láng giềng theo kiểu “buôn có bạn, bán có
phường” suốt thời kì phong kiến, thậm chí cho đến tận giai đoạn buôn bán phi
chính thức trước Đổi mới. Hiện tại, trong bối cảnh hầu như cả làng đã trở
thành người buôn bán hoặc có liên quan đến buôn bán, ảnh hưởng của hoạt
động thương mại như là nghề mưu sinh chính lại mang tính đa chiều đối với
quan hệ láng giềng hơn.
Trên thực tế, lịch trình kinh doanh bận rộn khiến những người buôn
bán ở độ tuổi tráng niên không còn nhiều điều kiện qua lại với láng giềng như
44 Về sự phân bố dân cư của làng Việt, Trần Từ, trong Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở
Bắc Bộ cho rằng cho rằng nó có bốn kiểu khác nhau là i) phân bố thành khối dài và mỏng dọc
đường cái, nhất là dọc bờ sông và chân đê theo hình “xương cá”; ii) phân bố thành một khối chặt,
trong đó các xóm tự xếp thành những “ô bàn cờ”; iii) phân biệt bởi những lối đi tương đối thẳng,
hay thành những ô không hình thể rõ ràng, phân biệt bởi những lối đi ngoằn ngoèo; phân bố
thành hình “vành khăn” từ chân đồi lên lưng chừng đồi (ở khu vực trung du); và iv) phân bố lẻ tẻ,
mỗi xóm cách biệt những xóm khác cùng làng bởi đồng ruộng [126, tr. 33].
70
trước: người kinh doanh rời nhà từ sáng sớm và chỉ trở về lúc 6 - 7 giờ tối,
cơm nước xong là lo kiểm hàng, giao hàng, thu tiền hàng… cho tới khoảng
10 giờ đêm. Chưa kể, ngày thứ bảy, chủ nhật và cả những dịp lễ lạt ngoại trừ
Tết Nguyên đán, họ cũng không được nghỉ ngơi, một phần vì giá tiền thuê
cửa hàng rất cao nên không bán ngày nào là thiệt ngày đó và một phần vì vào
cuối tuần hay dịp lễ lạt, khách mua lẻ đông hơn nên doanh số đạt gấp đôi, gấp
ba ngày thường (khách mua lẻ thường kết hợp đi mua hàng với chơi chợ).
Dưới áp lực của việc buôn bán, người ta dường như chỉ có thể dành thời gian
cho quan hệ láng giềng trong những sự kiện quan trọng có tính nghi thức như
cưới hỏi, tang ma, giỗ chạp, lễ tết... Điều này khiến mối quan hệ đang bàn ở
không ít trường hợp dần chỉ còn mang tính biểu trưng. Nhưng đó là nói về
những người buôn bán đang ở độ tuổi sung sức, còn những người buôn bán
đã “nghỉ hưu” thì có phần khác. Với đặc thù của nghề là cần có sự nhạy bén
và quyết đoán, người làng ít khi còn buôn bán ở tuổi ngoài 55 - họ không
muốn khinh suất khi đã đi qua độ tuổi thích hợp nhất, vả chăng đến lúc đó thì
sự tích lũy là đã khá đủ cho những ngày cuối đời. Vì thế người có tuổi không
thiếu thời gian, tương tự nông dân trước kia, để quan tâm đến quan hệ láng
giềng như một cách thụ hưởng tuổi già. Hiện nay, vào buổi tối, nhìn chung ít
có người già nào dù là nam hay nữ ở Ninh Hiệp quanh quẩn trong nhà mình.
Họ thường tụ tập với một nhóm láng giềng ở nhà một người nào đó, bên ấm
trà, để giải trí bằng đủ mọi hình thức mà đặc biệt là đánh bài lá. Hình ảnh này
tạo nên một vẻ thanh bình rất đặc biệt của làng trong làn sóng hiện đại hóa và
gợi ta nhớ đến phong vị thôn quê trong quá khứ.
Do kinh tế phát triển, việc trợ giúp thường nhật giữa láng giềng theo
kiểu tối lửa tắt đèn có nhau như trong quá khứ trở nên không còn cần thiết
nữa45. Nhưng mặc dù sự tương trợ theo kiểu thường nhật không còn, người ta
- vì có điều kiện kinh tế - lại có thể giúp đỡ nhau những “khoản” lớn hơn khi
ai đó cần tiền đầu tư cho những cơ hội kinh doanh đột xuất hay giải quyết
45 Ngay việc trợ giúp trong những dịp lễ lạt cũng có sự thay đổi, khi dịch vụ đã trở nên rất sẵn (ví
dụ, trước kia nhà nào có đám tang là láng giềng xúm vào làm giúp vài ngày - dựng rạp, kéo xe,
đào huyệt… - còn nay chỉ “hỗ trợ” bằng phong bì).
71
những sự cố bất ngờ trong làm ăn. Đây là một nét khác biệt so với trước. Tất
nhiên, điều này còn phụ thuộc vào sự sâu sắc của từng mối quan hệ. Thực tế
thì, khá giống quan hệ họ hàng, trong quan hệ láng giềng cũng có một sự lựa
chọn theo kiểu “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” - những người
cùng hoàn cảnh sống, hay nói cách khác là cùng điều kiện kinh tế, thì gần gũi
nhau hơn.
Nhìn chung, có thể nói quan hệ láng giềng ở Ninh Hiệp hiện nay là
một bức tranh có nhiều mảng màu. Do sự chuyển đổi nghề nghiệp, tuy người
ta vẫn luôn có ý thức duy trì nó, dạng quan hệ này trong một số trường hợp
có xu hướng nghiêng về tính hình thức và được thực thi chủ yếu vào những
dịp nghi lễ. Nhưng cũng do sự chuyển đổi nghề nghiệp, trong không ít
trường hợp khác, quan hệ này lại có xu hướng gắn kết hơn, nhất là trong
nhóm đồng đẳng.
3.1.3. Quan hệ bạn bè
Quan hệ bạn bè, mối quan hệ thuần túy do cá nhân xây dựng và phát
triển, vốn không phải là phương thức tập hợp điển hình để hình thành các
cộng đồng dân cư ở làng xã như quan hệ họ hàng (gắn kết các thành viên dựa
trên huyết thống) hay quan hệ láng giềng (gắn kết các thành viên dựa trên
không gian sống), nhưng đối với mỗi người, nó vẫn là một trong những dạng
quan hệ xã hội cơ bản. Ở Ninh Hiệp, điều này là rất rõ nét. Người viết sẽ tập
trung đề cập đến ba dạng quan hệ bạn bè chính ở Ninh Hiệp là “bạn chơi”,
“bạn nghề”, và “bạn trong các tổ chức phi quan phương” (bạn đồng học, đồng
niên, đồng ngũ…).
“Bạn chơi” là mối quan hệ bạn bè đầu tiên mà tôi muốn nói tới, vì đó
là mối quan hệ chọn lọc và có chiều sâu nhất. “Bạn chơi” hay còn được gọi là
“bạn kết nghĩa” là từ của người Ninh Hiệp dùng để chỉ những người bạn thân
thiết, gắn bó lâu dài (thường nhóm bạn chơi của mỗi cá nhân có khoảng dăm
bảy người). Vai trò của mối quan hệ này, ở nhiều trường hợp, là không thua
kém so với quan hệ họ hàng gần. Nhiều người cho biết, họ hàng thì không thể
bỏ được, nhưng ngoài quan hệ với các chú bác, cô dì, anh em trong ba đời,
72
quan hệ với những người còn lại chủ yếu mang tính chất biểu trưng, trong khi
đó các bạn chơi thì qua lại với nhau thường xuyên và chia sẻ đủ mọi chuyện
buồn vui, chưa kể khi một người buôn bán thất bát thì những người khác
thường sẵn sàng giúp đỡ giống như với người trong nhà. Người Ninh Hiệp
đánh giá rất cao sự hiện diện của dạng quan hệ này trong đời sống của mình.
Hiện nay, dường như mọi người kinh doanh tại Ninh Hiệp đều quan tâm đến
việc xây dựng được cho bản thân một nhóm bạn dạng như vậy. Trong quan
hệ bạn bè, bạn chơi thường là nhóm đồng đẳng về kinh tế.
“Bạn nghề” là một dạng quan hệ bạn bè do đặc thù của làng đem lại.
Ninh Hiệp có nhiều nghề truyền thống nên đã từ lâu quan hệ bạn nghề giữ
một vai trò khá quan trọng với người làng, đặc biệt khi mỗi nghề đều có sự
phân bố tập trung nhất định như đã nói (xưa nghề dệt của làng tập trung ở
các thôn từ 1 đến 5, nghề làm da tập trung ở thôn 6 và 7, nghề làm thuốc tập
trung ở thôn 8...). Hoạt động mưu sinh phi nông nghiệp của người Ninh Hiệp
trước kia không phải luôn là một chu trình đóng, ngược lại họ rất cần sự phối
hợp hoặc nhiều khi là giúp đỡ của những người cùng nghề. Chẳng hạn, do
người làm nghề dệt, nghề thuốc, hay nghề da đều cần nguyên liệu mà phần
lớn nguyên liệu đó Ninh Hiệp lại không sản xuất được, một số trong họ sẽ
được gửi gắm đi mua về để cung cấp cho những bạn nghề khác, thay vì việc
tất cả phải mua qua thương lái với giá cao hơn: “Một cụ già kể, trước đây,
khi cả thôn xóm còn làm nghề canh cửi, không phải ai cũng đến chợ Giầu,
hoặc lên tận Bắc Giang để mua tơ và sợi bông. Chỉ một số người chuyên đi
thôi. Sau đó đem về giao cho từng gia đình làm. Lúc thành phẩm rồi cũng
vậy. Bà con có những thỏa thuận với nhau, để ai cũng có lợi là được” [45, tr.
98 - 99], “Người Nành “phân công” làm sen theo chu trình khép kín. Khắp
miền Bắc nơi nào có đầm sen là nơi đó có dấu chân người Nành. Họ thuê
đầm sen từ khi sen mới thành, trông nom cho đến khi sen già, thu hạt phơi
khô gọi là sen đen, đem về cho những người ở nhà chế biến” [87, tr. 283].
Hiện nay, môi trường làm nghề ở Ninh Hiệp đã khác trước rất nhiều do tính
cạnh tranh ngày càng tăng, thậm chí đã đến mức khốc liệt. Tuy nhiên, dấu ấn
73
của quan hệ bạn nghề một thuở phần nào vẫn có thể được nhận thấy qua
quan hệ “bạn chợ”. Đó là quan hệ giữa những người cùng buôn bán - thường
là chung một mặt hàng - ở một khu vực nhất định, mang tính chất tương trợ
trong việc làm ăn hàng ngày. Về cơ bản, nó dựa trên nền tảng là không gian
hoạt động nghề. Những lúc phải xử lí một công chuyện nào đó và không thể
ở lại quầy, mỗi người hoàn toàn có thể nhờ những người bạn chợ của mình
trông và bán hàng giúp thay vì phải dọn hàng. Khi có khách đến mua, người
được nhờ sẽ gọi điện cho người nhờ để hỏi những thông tin cần thiết (vì,
chẳng hạn, mức giá sẽ rất khác giữa khách quen với khách vãng lai). Ở Ninh
Hiệp, ai buôn bán cũng đều có bạn chợ. Một số người cho biết, vì họ tiếp xúc
với bạn chợ còn nhiều hơn tiếp xúc với người nhà nên mối quan hệ cũng khá
thân mật, và mối quan hệ này có nhiều lúc vượt ra khỏi cái gọi là không gian
hoạt động nghề khi họ cùng nhau tổ chức các buổi liên hoan hoặc đi tỉnh nọ
tỉnh kia lễ chùa.
Bạn trong tổ chức phi quan phương là một dạng khác của quan hệ bạn
bè ở Ninh Hiệp. Rất khó thống kê có tổng cộng bao nhiêu hội nhóm như thế
trong làng vì dân số của làng quá lớn, tuy nhiên qua khảo sát từ năm 2011
đến nay, tôi nhận thấy không ít người có tới trên dưới mười loại hội. Ba
nhăm đến bốn mươi là quãng tuổi mà người Ninh Hiệp rất tích cực tham dự
vào các loại hội nhóm phi quan phương. Điều này có hai lí do. Thứ nhất,
cũng là quan trọng nhất, nếu người Ninh Hiệp làm quen với việc buôn bán từ
khi còn nhỏ và cho đến tuổi xấp xỉ ba mươi, việc buôn bán của họ vẫn một
phần dựa vào kinh nghiệm, vốn và đặc biệt là mạng lưới quan hệ sẵn có của
gia đình thì từ độ tuổi ngoài ba mươi trở đi, hoạt động buôn bán của mỗi
người phải trở nên hoàn toàn độc lập (lúc này, thông thường cha mẹ đã nghỉ
hẳn buôn bán). Việc tham gia nhiều hơn vào sinh hoạt cộng đồng làng xã sẽ
giúp họ tạo dựng một mạng lưới quan hệ xã hội rộng nhằm đáp ứng nhu cầu
kinh doanh. Thứ hai, ở Ninh Hiệp, do kết hôn sớm (nữ 18, nam 20), ở tầm
tuổi đang bàn người ta thường đã có con cái sắp đến tuổi lập gia đình nên
cần tăng cường các mối quan hệ xã hội để chuẩn bị cho những “nghi lễ lớn”
74
sẽ diễn ra46. Thậm chí, nhiều người còn cho biết họ vào các hội nhóm phi
quan phương là để có cơ sở tham gia “việc đám” của nhà khác và vì thế sẽ
được người ta tham gia lại vào đám nhà mình. Nói chung, so với quan hệ bạn
chơi và bạn nghề, thì bạn trong tổ chức phi quan phương là mối quan hệ ít sâu
sắc bằng, song lại phong phú hơn vì đó là một dạng quan hệ bạn bè rất dễ
thiết lập. Hiện nay quan hệ bạn bè qua các hội nhóm phi quan phương ở đây
đang có xu hướng gia tăng mạnh.
3.2. CẤU TRÚC CỦA MẠNG LƯỚI
Tại Ninh Hiệp, giống như mẫu số chung ở nhiều nơi khác, cấu trúc
mạng lưới quan hệ xã hội gắn liền với tính thân - sơ của các quan hệ. Theo
đó, các quan hệ thân là những quan hệ tình cảm quan trọng nhất: với những
người trong gia đình, họ hàng gần, và những người bạn bè đặc biệt gắn bó.
Tiếp đến là các quan hệ không thân bằng: với họ hàng xa, một số láng giềng
có qua lại thật sự (chứ không phải là hình thức) và bạn bè thông thường.
“Cũng là tình cảm” là cách mà người Ninh Hiệp nói về loại quan hệ này.
Còn lại là các quan hệ sơ - không thuộc phạm trù tình cảm. Đó có thể là mối
quan hệ với những bạn hàng, những người cùng sinh hoạt trong một hội
nhóm phi quan phương hoặc đơn giản là những người cùng làng.
Trong công trình nổi tiếng về quan hệ xã hội ở nông thôn Trung Quốc
của Yan, The Flow of Gifts: Reciprocity and Social Networks in a Chinese
Village [Dòng quà: Sự trao đổi có đi có lại và những mạng lưới xã hội ở một
làng Trung Quốc] (1996) [257], tác giả phân biệt các đơn vị trong hình thái
cấu trúc của mạng lưới quan hệ xã hội tại địa bàn nghiên cứu là: i) “Khu vực
nòng cốt”, ii) “Khu vực tin cậy”, iii) “Khu vực hiệu quả”, iv) “Xã hội làng”,
v) “Ngoài làng”. Những đơn vị này được nhà nghiên cứu xếp vào 02 bộ phận
46 Nghiên cứu của Yan (1996) [257] cho biết, những cặp vợ chồng tại địa bàn khảo sát của tác giả
chính thức bước vào quá trình “trao đổi quà vô tận” khi con cái họ lớn lên, vì lúc đó người ta cảm
thấy cần có một mạng lưới hỗ trợ cả về kinh tế lẫn xã hội rộng hơn, hay nói cách khác, việc tặng
quà có liên quan đến chu kì phát triển của tổ chức gia đình. Thực tế ở Ninh Hiệp cho thấy, với
khả năng kinh tế của mình, người dân không có nhu cầu được hỗ trợ cho việc tổ chức một đám
cưới. Tuy nhiên, họ cần một đám cưới có quy mô nhất định vì vấn đề thể diện. Nếu đám cưới mà
họ tổ chức cho con cái thiếu vắng bạn bè, đó sẽ là chuyện khiến dân làng đàm tiếu.
75
là bộ phận trung tâm (bao gồm ba yếu tố đầu) và bộ phận ngoại vi (bao gồm
hai yếu tố sau). Đối chiếu với mô hình của Yan, căn cứ trên cái nhìn của
những người trong cuộc, tôi nhận thấy có thể xác định mạng lưới quan hệ xã
hội của dân làng Ninh Hiệp bao gồm 03 đơn vị: nòng cốt, lân cận và ngoại
vi, trong đó khu vực nòng cốt và lân cận thuộc bộ phận trung tâm còn khu
vực cuối thuộc bộ phận ngoại vi. Về khu vực nòng cốt, nếu khu vực nòng cốt
trong trường hợp nghiên cứu của Yan thường chỉ bao gồm người trong gia
đình, những họ hàng gần nhất thuộc về đàng cha và đàng vợ thì kết quả khảo
sát ở Ninh Hiệp lại cho thấy khu vực này còn bao gồm cả một số quan hệ
thuộc về đàng mẹ (các anh chị em ruột của mẹ: bác, dì, và cậu) và bạn bè
thân thiết. Không ít người trong làng cho biết, vào thời điểm họ kinh doanh
thất bại và phá sản, sự trợ giúp đã đến từ cả họ hàng đàng cha và họ hàng
đàng mẹ với mức độ tương đương, có khi họ hàng đàng mẹ còn chiếm phần
hơn nếu có điều kiện. Điều này có liên quan đến thực tế ở Ninh Hiệp là phụ
nữ theo đuổi nghề buôn bán đã từ lâu. Mặc dù tính gia trưởng nông dân mà
Wiegersma (1991) [251] từng đề cập vẫn còn duy trì ảnh hưởng và mặc dù
đúng là ở Ninh Hiệp, người phụ nữ tuy gánh vác kinh tế vẫn không phải là
người đứng đầu gia đình xét trên hình thức - tương tự nhận định về các địa
bàn khác ở Việt Nam gần đây của Barbieri và Bélanger (2009) [146] hay
Martin (2013) [210] - song họ có quyền đối với tiền mà họ kiếm được. Nói
cách khác, họ đủ điều kiện để giúp đỡ, công khai hoặc không công khai,
những người bà con của mình47. Một số người nữa thì khẳng định, sự trợ
giúp lớn nhất mà họ có trong hoàn cảnh như vậy lại đến từ bạn bè chí cốt -
những người cho họ vay tiền để khôi phục việc kinh doanh sau khi đã được
chủ nợ “giãn nợ”48. Về khu vực lân cận, với người Ninh Hiệp đây là khu vực
bao gồm những họ hàng hay bạn bè không nằm trong quan hệ đã được xác
47 Xin nói thêm, những năm qua, nam giới ở Ninh Hiệp đã tham gia tích cực hơn trong việc kinh
doanh song nhìn chung quyền quản lí tài chính vẫn thuộc về người vợ (trừ khi người chồng buôn
bán bằng vốn riêng). Hiện tượng này khác với kết quả khảo sát của Knodel và cộng sự trước đây
(2004) [196] về vai trò của giới trong các gia đình Việt Nam mà theo đó nam giới ngày càng
can dự nhiều vào việc quản lí tài chính. Nó cũng khác với nhận định mới nhất của Horat (2014)
[41] rằng ở Ninh Hiệp đang có “xu hướng quản lí chung toàn diện” của cả vợ và chồng đối với
ngân quỹ hộ gia đình. 48 Cho hoãn trả nợ để có điều kiện kinh doanh.
76
định thuộc khu vực nòng cốt, và láng giềng. Về khu vực ngoại vi, người
Ninh Hiệp xem đây là khu vực bao gồm những người mà với họ có mối quan
hệ xa hơn hai khu vực đã kể (có thể là toàn bộ cộng đồng làng và bên ngoài
làng). Một điểm cần lưu ý, ở Ninh Hiệp, cái Yan gọi là “vùng tin cậy” trên
thực tế chứa đựng i) một phần thuộc về khu vực nòng cốt và ii) một phần
nằm đâu đó giữa khu vực nòng cốt với khu vực lân cận.
3.2.1. Bộ phận quan hệ xã hội trung tâm
Để có một hình dung cụ thể về bộ phận quan hệ xã hội trung tâm trong
mạng lưới quan hệ xã hội của người dân ở Ninh Hiệp, tôi dựa vào việc khảo
sát danh sách khách dự đám cưới của các gia đình nằm trong mẫu gia đình
tiêu biểu ở Ninh Hiệp hiện nay. Sở dĩ có sự lựa chọn này là vì danh sách
những người dự đám cưới cho thấy rõ cơ cấu bộ phận trung tâm trong mạng
lưới quan hệ xã hội của gia chủ hơn bất cứ danh sách những người tham gia
một sự kiện nghi thức có tính gia đình nào (ví dụ, với đám ma thì người ta
đến mà không cần có lời mời, còn đám giỗ - vì mang tính chất định kì hàng
năm - có đối tượng khách khá linh hoạt). Nói cách khác, đám cưới chính là sự
kiện điển hình về mức độ hiện diện như chúng đáng có của các mối quan hệ
xã hội thuộc bộ phận trung tâm qua thành phần khách. Trong số 30 danh sách
khách dự đám cưới mấy năm gần đây của các hộ gia đình buôn bán mà tôi thu
thập được (vì các hộ gia đình buôn bán hoặc ít ra là có liên quan đến buôn
bán chính là bộ mặt của Ninh Hiệp hiện nay khi mà tỉ lệ hộ phi thương nghiệp
hoàn toàn chỉ còn chiếm một con số rất nhỏ), tôi xin chọn ra danh sách của
một hộ gia đình buôn bán ở mức trung bình - hộ gia đình anh Thọ49 và danh
sách của một hộ gia đình buôn bán nhỏ - hộ gia đình anh Thảo50, là những hộ
gia đình đại diện cho những mức độ buôn bán phổ biến ở Ninh Hiệp51 để giới
thiệu một cách chi tiết (xem thêm Phụ lục 6). Ba mươi danh sách vừa đề cập
bao gồm một nửa là các danh sách thuộc về hộ buôn bán trung bình và một
49 Đám cưới được tổ chức năm 2012. 50 Đám cưới được tổ chức năm 2013. 51 Hộ buôn bán lớn hiện chiếm một tỉ lệ thấp hơn.
77
nửa là các danh sách thuộc về hộ buôn bán nhỏ. Sở dĩ tôi dừng việc thu thập ở
con số này là vì nhận thấy không có điều gì mới cho từng loại danh sách nữa:
các danh sách của mỗi loại bộc lộ sự na ná. Xin nói thêm, những gia đình
đồng ý cung cấp danh sách khách dự đám cưới cho tôi có điểm chung cơ bản
là chủ hộ cùng ở độ tuổi trung niên và họ nội, họ ngoại cùng họ bên vợ của
chủ hộ đều thuộc về những họ có nhân khẩu trung bình của làng. Đó cũng là
sự lựa chọn có chủ ý của tôi khi thu thập dữ liệu để giảm bớt những biến số
gây nhiễu có thể ảnh hưởng đến tính chính xác của kết quả.
Bảng 1: Các dạng quan hệ xã hội (lấy chủ hộ làm trung tâm) ở khách dự đám
cưới của 02 gia đình làm nghề thương mại
Họ nội Họ
ngoại
Họ
vợ
Bạn Bạn
vợ
Bạn
chợ52
Láng
giềng
Khác Tổng
Thọ 95
(16,3%)
100
(17,2%)
88
(15,1%)
28
(4,8%)
78
(13,4%)
51
(8,7%)
125
(21,5%)
16
(2,7%)
581
Thảo 64
(17,5%)
69
(17,6%)
56
(15,4%)
25
(6,9%)
29
(7,7%)
15
(3,3%)
96
(26,3%)
8
(3,6%)
362
Từ những con số trên, có thể thấy:
Thứ nhất, kích cỡ mạng lưới quan hệ xã hội trung tâm liên quan đến
quy mô của việc buôn bán.
Theo khảo sát của Lương Văn Hy (và các cộng sự) ở làng Hoài Thị,
tỉnh Bắc Ninh, thể hiện trong bài viết có tên “Quà và vốn xã hội ở hai cộng
đồng nông thôn Việt Nam” (2010) [52], người giàu thường có mạng lưới
quan hệ xã hội rộng hơn những người còn lại53. Qua trường hợp khảo sát ở
Ninh Hiệp, tôi lại thấy kích cỡ mạng lưới quan hệ xã hội ở đây không thật sự
bị chi phối bởi thu nhập. Hộ anh Thảo mặc dù chỉ là hộ buôn bán nhỏ nhưng
52 Bạn chợ thường là người cùng buôn bán với người vợ nhưng lại được xem là bạn chung của cả
gia đình. 53 Nguyên văn: “giàu vốn xã hội hơn”.
78
kinh tế cũng rất khá giả vì có một ngôi nhà được thừa kế nằm trên mặt đường
thôn 6, nơi hiện là khu vực buôn bán sầm uất. Từ khi mặt đường thôn 6 trở
thành khu buôn bán, gia đình đã cho thuê 2 cửa hàng với giá 200 triệu/1 cửa
hàng/năm. Như vậy, thu nhập riêng từ tiền cho thuê cửa hàng đã là 400
triệu/năm. Ở Ninh Hiệp, số hộ có thu nhập lớn từ việc cho thuê cửa hàng như
hộ anh Thảo là không ít. Mức sống khá giả tương đương, nhưng mạng lưới
quan hệ xã hội thể hiện qua danh sách khách dự đám cưới của hộ anh Thảo
có quy mô nhỏ hơn nhiều so với hộ anh Thọ (khoảng gần 2/3). Lí do ở đây,
như người trong cuộc tự giải thích, có liên quan đến mức độ của việc buôn
bán. Vợ anh Thọ là người buôn bán từ khi còn trẻ, và hiện là người buôn bán
ở mức trung bình khá trong làng, trong khi vợ anh Thảo vốn là nông dân và
cách đây hơn chục năm (tức là vào quãng năm 2002, thời điểm đất đai canh
tác của làng bị chuyển đổi mục đích sử dụng) mới chuyển sang buôn bán.
Người buôn bán càng lớn càng cần có một mạng lưới quan hệ đáng kể để
phát triển lợi ích và bảo hiểm rủi ro. Ta hãy lưu ý đến sự khác biệt giữa số
lượng “bạn chợ” của hai gia đình: 51 so với 15 người - gấp hơn 3 lần và số
lượng “bạn” (không tính bạn chợ) của hai người phụ nữ: 78 so với 29 người -
gấp gần 3 lần.
Thứ hai, quan hệ họ hàng chiếm tỉ lệ lớn trong bộ phận quan hệ xã
hội trung tâm.
Hai danh sách khách dự đám cưới được đề cập cho thấy quan hệ họ
hàng chiếm tỉ lệ khoảng trên dưới 50%, gấp đôi quan hệ láng giềng hay bạn
bè. Ở hộ số 1, quan hệ họ hàng chiếm 285/581 người (họ bên chồng là 195,
họ bên vợ là 88); quan hệ bạn bè chiếm 157/581 người (27%); quan hệ láng
giềng chiếm 125/581 người (21,5%). Ở hộ số 2, quan hệ họ hàng chiếm
189/362 người (họ bên chồng là 133, họ bên vợ là 56); quan hệ láng giềng
chiếm 96/362 người (26,5%); quan hệ bạn bè chiếm 69/362 người (19%).
Kết quả vừa nêu cho thấy sự tương phản với kết quả nghiên cứu của Yan về
mạng lưới quan hệ xã hội ở ngôi làng Trung Quốc trong công trình mà tôi đã
nói đến. Yan ghi nhận là trong bộ phận trung tâm của mạng lưới, quan hệ phi
79
họ hàng - chứ không phải quan hệ họ hàng - chiếm tỉ lệ áp đảo. Ông lấy ví
dụ, ở trường hợp đám cưới con một người làng, trong tổng số 320 khách đến
dự có 226 khách thuộc quan hệ phi họ hàng, tức gấp 2,5 lần số người có
quan hệ họ hàng. Nhận xét rằng các quan hệ thuộc bộ phận trung tâm hầu
như được tạo dựng bởi nỗ lực cá nhân của gia chủ chứ không phải được thừa
kế, ông cũng kết luận đây là đặc điểm chung của những quan hệ thuộc bộ
phận này của mạng lưới quan hệ xã hội tại điểm nghiên cứu. Trong khi đó, ở
trường hợp khảo sát của tôi tại Ninh Hiệp, quan hệ họ hàng lại chiếm tỉ lệ
lớn trong bộ phận trung tâm. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, mặc dù các quan hệ
họ hàng vốn là quan hệ được thừa kế, trên thực tế ở Ninh Hiệp chúng được
duy trì và phát triển dựa nhiều vào nỗ lực cá nhân. Do nhu cầu lớn về việc
bảo hiểm rủi ro, người Ninh Hiệp đã đặt quan hệ họ hàng vào mối quan tâm
thực tiễn của họ. Anh Thọ khẳng định, dân làng thường quan niệm rằng, với
những người có quan hệ tình cảm gần gũi nhất (đặc biệt là người trong gia
đình và họ hàng gần), họ luôn có thể trông đợi một sự trợ giúp khi cần thiết;
với những người có quan hệ tình cảm ít sâu sắc hơn, họ có thể trông đợi một
sự trợ giúp “nào đó”; và cuối cùng, với những người còn lại, họ sẽ hầu như
không thể trông đợi gì. Vì thế, trên tư cách là thương nhân, tức những người
luôn đối mặt với nguy cơ rủi ro cao trong việc làm ăn, người Ninh Hiệp
không thể nào không củng cố mối quan hệ quan trọng hàng đầu trong bộ
phận trung tâm - quan hệ họ hàng.
Theo Yan và Rupp, trong đa số trường hợp, số tiền mừng càng lớn
càng thể hiện mối quan hệ gần gũi giữa người mừng và gia chủ. Về vấn đề
này, trường hợp nghiên cứu của tôi không phải là ngoại lệ. Nguyễn Đức
Truyến từng cho biết rằng, ở Ninh Hiệp trước đây: “Trật tự quan hệ xã hội ưu
tiên cũng được phản ánh trong trật tự giá trị tiền mừng. Trong gia đình, tiền
mừng thường cao hơn người ngoài gia đình, quan hệ mật thiết cao hơn quan
hệ bình thường. Khi được mừng bao nhiêu thì khi đi mừng cũng phải tương
đương hoặc cao hơn. Nghi lễ và tiền mừng trở thành công cụ mở rộng, duy trì
và sắp đặt các quan hệ xã hội theo trật tự ưu tiên của mỗi người” [116, tr.
80
177]. Quả thực, nhìn vào giá trị các món quà mừng của hai gia đình đang bàn,
ta có thể phần nào thấy được mức độ xa - gần của các quan hệ thuộc bộ phận
trung tâm.
Bảng 2: Tiền mừng ở khách dự đám cưới
của 02 gia đình làm nghề thương mại54
100.000
đồng
200.000
đồng
300.000
đồng
Trên
300.000
đồng
Thọ 274
(47,4%)
229
(39,6%)
33
(5,7%)
41
(7,1%)
Thảo 157
(43,9%)
155
(43,4%)
23
(6,4%)
22
(6,1%)
Trong số khách dự tiệc, những người mừng 100.000 đồng phần lớn là
những người có quan hệ ít thân thiết hơn cả trong bộ phận trung tâm của
mạng lưới quan hệ xã hội của gia chủ. Nhiều khách trong số đó chỉ đến chơi
buổi tối chứ không đi ăn cỗ ngày hôm sau. Đây chắc chắn là những đối
tượng nằm trong khu vực quan hệ lân cận. Cũng cần phải nói thêm rằng, mặc
dù thiếp mời luôn chứa đựng lời mời ăn cỗ, cách mời (tôi nhắc lại, cách mời)
dường như sẽ xác định việc gia chủ chờ đợi người đó ở tiệc ngọt hay tiệc
mặn. Với một nghiên cứu của mình, “Mời cưới ở Hà Nội và quản lí các mối
quan hệ”, Soucy cũng nói đến điều tương tự: “Những người được mời ăn
ngọt đến dự buổi tiệc trà vào đêm trước tiệc cưới chính sẽ mừng cưới ít hơn.
Quyết định xem ai chỉ được mời ăn ngọt thay vì ăn mặn là một việc làm tính
toán cân đối về mặt xã hội, thể hiện sự cân đo đong đếm về mặt ơn nghĩa,
tình cảm và sự thực dụng. Một trong số những tiêu chí đó là khoảng cách về
mặt xã hội của vị khách với gia đình, vì có một số người sẽ bị xúc phạm khi
54 Một số rất ít khách mừng 50.000 đồng, tôi không đưa vào thống kê. Đây là số tiền mừng ngoài
của các cụ cao niên (các con cháu đã mừng thay). Số tiền mừng này mang tính chất biểu trưng và
được hiểu như là “lộc” cho cặp vợ chồng trẻ.
81
bị loại ra hoàn toàn khỏi danh sách khách mời trong khi họ không đủ thân
thiết để được mời đến dự tiệc chính” [91, tr. 388]. Những người mừng
200.000 đồng thường là những người có mối quan hệ sâu sắc với gia chủ hơn
những người vừa kể. Đáng quan tâm là những người mừng 300.000 đồng.
Khi tôi hỏi anh Thọ về những người này, anh cho biết, họ là những người
láng giềng gần gũi, những người bạn có mức độ thân thiết hơn bình thường
(chú ý là hơn bình thường), những người mừng để trả nợ55 và cũng có cả
những người thuộc hộ gia đình giàu có muốn thể hiện vị thế. Từ cách diễn
giải của người cấp tin, tôi nhận định rằng một bộ phận thuộc nhóm này nằm
đâu đó giữa quan hệ nòng cốt và lân cận. Cuối cùng là những người mừng
trên 300.000 đồng (từ 400.000 đồng đến 3 triệu đồng). Đó là những người họ
hàng gần và bạn bè rất thân thiết56.
Trên đây là kết quả khảo sát danh sách khách dự đám cưới của hộ anh
Thọ và anh Thảo, hai trong rất nhiều hộ buôn bán vừa và nhỏ ở Ninh Hiệp
hiện nay. Với các danh sách khách dự đám cưới của những hộ khác thu thập
được, như đã nói, chúng tôi cũng nhận thấy tình trạng tương tự, tức kích cỡ
mạng lưới quan hệ xã hội trung tâm liên quan đến quy mô của việc buôn bán
và quan hệ họ hàng chiếm tỉ lệ lớn trong bộ phận quan hệ xã hội trung tâm.
3.2.2. Bộ phận quan hệ xã hội ngoại vi
Ngoài khu vực nòng cốt và lân cận thuộc bộ phận trung tâm trong
mạng lưới, cái được thể hiện rất rõ qua danh sách khách dự đám cưới như
phân tích ở trên, người ta còn có các quan hệ thuộc khu vực ngoại vi mà tự nó
làm thành một bộ phận là bộ phận quan hệ xã hội ngoại vi. Ở Ninh Hiệp, như
đã nói, đó là mối quan hệ nằm ngoài khu vực nòng cốt và lân cận, ví dụ như
55 Điều này liên quan đến số con trong gia đình họ: số con nhiều hay ít của gia chủ so với người
đi mừng sẽ quyết định việc người ta cân đối mức tiền mừng (tăng hay giảm) cho phù hợp trong
mỗi lần dự đám. 56 Còn một cách khác để xác định tính chất mối quan hệ của khách với gia chủ, đó là căn cứ vào
việc khách có tham dự hai bữa cỗ hay không. Theo lệ, bên cạnh việc tổ chức bữa cỗ chính trong
ngày cưới, người Ninh Hiệp còn làm một bữa cỗ nhỏ vào ngày hôm trước. Bữa cỗ này được họ
xác nhận là mang tính chất nội bộ (chủ yếu dành cho người trong gia đình, họ hàng gần và bạn bè
thân thiết), dao động khoảng từ 5 - 10 mâm. Qua phỏng vấn, tôi được biết ở hai trường hợp hai
danh sách đang đề cập, hầu hết những người tham dự hai bữa cỗ được gia chủ xác định là “những
người gần gũi nhất”.
82
những người sinh hoạt cùng trong các hội nhóm phi quan phương, bạn hàng,
hay đơn giản là người làng. Nếu minh họa mức độ thân - sơ của các quan hệ
xã hội của một cá nhân bằng mô hình các vòng tròn đồng tâm thì dạng quan
hệ này nằm ở vòng ngoài cùng. Trong khi tình cảm được hiểu là thuộc tính
chính của các quan hệ nòng cốt và lân cận thì thực dụng có thể được hiểu là
thuộc tính chính của quan hệ đang bàn.
Chúng ta hãy dừng lại ở một dạng quan hệ phổ biến thuộc khu vực
này là quan hệ giữa những người trong cùng hội nhóm phi quan phương để
quan sát.
So với thời điểm cách đây khoảng một thập niên, số lượng hội nhóm
phi quan phương ở Ninh Hiệp đang gia tăng. Anh Thọ và anh Thảo cho biết,
trước kia - như nhiều người - họ chỉ sinh hoạt trong hội bạn chơi, hội đồng
niên và hội đồng xóm, cũng có năm bỏ sinh hoạt. Nay, những hội nhóm mà
anh Thọ tham dự bao gồm hội bạn chơi, hội đồng học, hội đồng niên, hội
đồng xóm, hội bạn chợ và hội cờ tướng; còn với anh Thảo, đó là hội bạn
chơi, hội đồng học, hội đồng niên, hội đồng ngũ và hội đồng xóm. Những
hội nhóm này có số lượng các thành viên dao động từ 10 đến 30 người. Mỗi
hội nhóm gặp mặt sinh hoạt từ 1 đến 2 lần/năm (ví dụ, sinh hoạt của hội cầu
lông mà anh Thọ là thành viên diễn ra vào dịp lễ hội cổ truyền của làng).
Tổng số thành viên các hội nhóm của họ lên tới một con số khá lớn. Vì thế,
nếu không tính các quan hệ trùng nhau, anh Thọ có hơn 100 mối quan hệ,
anh Thảo có hơn 70 mối quan hệ từ chúng. Đồng thời, không ai trong hai
người vợ của các anh có số lượng hội nhóm tham gia ít hơn chồng mình,
thậm chí con số này ở vợ anh Thọ còn nhiều hơn. Khi gia đình các thành viên
của hội có các sự kiện lớn, các hội đều cử một người đại diện tới tham dự với
phong bì chung57, còn thì tùy theo tính chất từng hội mà các thành viên có
trực tiếp tham dự hay không (người của hội đồng học và đồng niên thường tới
khá đông đủ, các hội nhóm theo sở thích thì ngược lại). Cũng có người tham
57 Phong bì của các hội không giống nhau. Hội đồng học cấp II mà tôi tham gia thường “đi”
một phong bì chung là 5 triệu cho đám cưới của gia đình thành viên trong hội, nhưng hội thể
thao của anh Thọ chỉ “đi” 1 triệu.
83
dự đám hiếu, hỉ của gia đình thành viên trong hội với phong bì riêng nhưng
đó là trên tư cách khác (chẳng hạn, trong đám cưới của con anh Thọ có ba
người trong hội thể thao đến ăn cỗ thì ngoài hội trưởng là người đại diện, hai
người còn lại đồng thời là láng giềng), và tất nhiên trường hợp như vậy thì
không nằm trong nhóm quan hệ ngoại vi mà tôi đang bàn. Đáng nói là, mặc
dù bản thân anh Thọ và anh Thảo đều dự kiến trước rằng người của một số
hội không tới, các anh vẫn có lời mời họ đến dự đám cưới của gia đình, cũng
như họ sẽ có lời mời các anh trong tình huống tương tự. Những người trong
các hội nhóm này có thể sẽ đến uống nước vào tối ngày hôm trước nhưng
không đi ăn cỗ vào ngày hôm sau. Các anh cho biết: “Những quan hệ đó hiện
tại không quan trọng, nhưng chúng tôi thấy vẫn cứ nên duy trì. Biết đâu sau
này có việc gì lại cần đến nhau!”. Về bản chất, quan hệ thực tiễn là quan hệ
“được xác định”, do đó người trong cùng hội nhóm có thể trở thành quan hệ
thực tiễn của anh Thọ và anh Thảo hay không tùy thuộc vào tính toán của các
anh ở từng trường hợp cụ thể. Các anh còn cho biết thêm: “Lúc nào mình cần
đến họ, mình sẽ thúc đẩy quan hệ! Lúc đó quan hệ nó sẽ khác!”. Có nghĩa,
chúng hoàn toàn mang tính “tình huống” và “mềm dẻo”. Nói cách khác, các
quan hệ thuộc bộ phận quan hệ xã hội ngoại vi ở Ninh Hiệp đều có một độ
mở và kích cỡ thì phụ thuộc lớn vào sự cân nhắc của chủ thể về việc, như
cách nói của Yan, có “muốn làm gì đó vì sự quan tâm thực tiễn”.
Nghiên cứu về làng ở Thượng Hải, Trung Quốc, Wilson từng đề cập
tới hiện tượng các cá nhân gạt bỏ những quan hệ không cần thiết đang tồn tại
trong mạng lưới quan hệ của họ [252]. Ở công trình nghiên cứu về mạng lưới
quan hệ xã hội của Soucy mà tôi đã nói đến, tác giả cũng đưa ra nhận định
rằng qua các sự kiện có tính nghi thức, các quan hệ xã hội có thể được “cơ
cấu lại” theo nhiều hướng chứ không phải chỉ thuần túy bồi đắp: “Cụ thể là
trong khi các mối quan hệ quan trọng và có nhiều lợi ích cần được duy trì và
củng cố, đám cưới cũng là cơ hội để loại bỏ hay giảm tầm quan trọng của
những mối quan hệ không quan trọng lắm. Cũng giống như để duy trì sự
phát triển lâu dài cho một cái cây, cần phải biết tỉa bớt những cành chết và
84
mọc sai hướng” [91, tr. 377 - 378]. Theo tác giả, điều này liên quan đến
những cân đo, đong đếm của chủ thể trong việc tạo dựng, duy trì, phát triển
hay giảm thiểu mạng lưới. Tuy nhiên, khác với trường hợp nghiên cứu của
Wilson và Soucy, ở trường hợp Ninh Hiệp, đối với những quan hệ “ít quan
trọng” và “ít lợi ích”, người ta không loại bỏ theo kiểu “tỉa bớt cành chết và
mọc sai hướng” như vậy mà vẫn duy trì chúng ở mức độ cần thiết để có thể
sử dụng/ tận dụng trong tình huống cụ thể nào đó. Họ coi đó là những quan
hệ thuộc dạng khả năng, một thứ “vốn xã hội tiềm ẩn” sẽ kích hoạt khi nào
cần thiết.
Dưới đây là hai ví dụ.
Khánh tham gia hai nhóm đồng học cấp II, do anh có một lần chuyển
lớp khi còn đi học (là học sinh lớp 6C, 7C và sau đó là 8B của trường cấp II
Ninh Hiệp)58. Nhóm đồng học lớp B dành được phần lớn sự quan tâm của
anh, vì những mối quan hệ từ nhóm này (nhiều người trong nhóm là thương
nhân phát đạt hiện nay ở Ninh Hiệp) có lợi cho anh hơn, song không vì thế
mà anh loại bỏ quan hệ với nhóm đồng học lớp C. Dù rất ít khi tham dự
những hoạt động của nhóm vì những lí do “khách quan” lẫn “chủ quan”, anh
luôn có ý thức đóng quỹ đều đặn để duy trì tư cách thành viên. Tháng ba vừa
rồi, khi hai nhóm tổ chức liên hoan trùng ngày, mặc dù Khánh lựa chọn nhóm
đồng học lớp B, anh vẫn cẩn thận gọi điện cho trưởng nhóm đồng học còn lại
để cáo lỗi.
Anh Toàn và Minh, con trai ông Thành thì có một mối quan hệ được
thừa kế từ quan hệ của cha mẹ. Cha anh Toàn và cha Minh vốn là bạn rất thân
của nhau. Ngày trước, mỗi khi được gia đình ông Thành mời đến ăn cỗ nhân
một sự kiện có tính nghi lễ nào đó, cha anh Toàn thường đưa anh là con trai
trưởng đi cùng. Từ mối quan hệ của hai người cha, anh và con trai của ông
Thành cũng có những sự giao thiệp. Tuy nhiên, sau khi cha anh mất (cách đây
6, 7 năm) và ông Thành già yếu chỉ còn nằm nhà, gia đình anh và gia đình họ
ít qua lại hơn. Anh giải thích rằng mình và người con trai ông Thành “giờ
58 Thời kì này không có lớp 9 (chưa cải cách giáo dục).
85
cảm thấy ngày càng khác nhau” nên hầu như không gặp gỡ - anh chỉ là một
tiểu thương bình thường còn con trai ông Thành đã là một nhân vật có vai vế
trong làng. Ngày cưới con gái đầu và con gái út vừa rồi, anh vẫn có lời mời
“phải phép”, nhưng người kia báo rằng bận, không đến dự được (có gửi
phong bì). “Khi nào ông Thành mất, mình sẽ đến phúng cho trọn đạo!”, anh
Toàn nói. “Và sau đó sẽ “thôi” mối quan hệ này?”, tôi hỏi. Anh Toàn đáp:
“Cũng không hẳn! Đại khái là cứ để thế, không cần phải vun đắp!...”. Như
vậy, quan hệ mà hai người có được từ các bậc cha mẹ dần chỉ còn là quan hệ
mang tính xã giao bởi sự khác biệt về điều kiện kinh tế, nghề nghiệp, vị trí xã
hội... của các bên và bởi cả việc những ràng buộc về nghĩa vụ đi lại thông qua
dòng quà tặng trong những dịp mang tính lễ nghi không còn đáng kể. Một lần
nữa, ta có thể thấy được tính chất đứt gẫy giữa các thế hệ của sự “trao đổi xã
hội” mà Blau từng nói đến. Tuy nhiên, quan hệ giữa các nhân vật trên rõ ràng
là không bị xóa đi một cách chính thức cho dù nhu cầu về nó từ các phía được
“thừa kế” không còn.
Tóm lại, ở cả hai ví dụ đang đề cập, có thể thấy rằng các chủ thể đều
không cắt bỏ hoàn toàn những “cành chết/ mọc sai hướng” trong cái cây quan
hệ của họ. Đó cũng chính là nguyên tắc ứng xử chung của người Ninh Hiệp
đối với bộ phận quan hệ xã hội ngoại vi của mình.
Tiểu kết
Bên cạnh các dạng quan hệ xã hội cơ bản là họ hàng (quan hệ dựa
trên huyết thống), láng giềng (quan hệ dựa trên không gian cư trú) và bạn bè
(quan hệ dựa trên tình cảm), người Ninh Hiệp đồng thời công nhận những
quan hệ chồng lấn: vừa là họ hàng vừa là láng giềng, vừa là họ hàng vừa là
bạn bè, vừa là láng giềng vừa là bạn bè... Mạng lưới quan hệ xã hội lấy cá
nhân làm trung tâm của họ được xác định bao gồm các đơn vị nòng cốt, lân
cận và ngoại vi, trong đó đơn vị nòng cốt (chứa đựng không chỉ các quan hệ
đàng cha mà cả các quan hệ đàng mẹ và bạn bè thân thiết) cùng đơn vị lân
cận tạo thành bộ phận quan hệ xã hội trung tâm, còn đơn vị cuối tự nó tạo
thành một bộ phận là quan hệ xã hội ngoại vi. Đặc điểm của bộ phận quan
86
hệ xã hội trung tâm ở Ninh Hiệp là quan hệ họ hàng chiếm tỉ lệ lớn và kích
cỡ mạng lưới có liên quan đến quy mô của việc buôn bán là nghề mưu sinh
chính của dân làng hiện nay. Đặc điểm của bộ phận quan hệ xã hội ngoại vi
ở Ninh Hiệp là tất cả các quan hệ đều được duy trì ngay cả khi chủ thể
không có nhu cầu về nó, dù là trong khoảng thời gian xác định hay không
xác định.
87
Chương 4
VỐN XÃ HỘI Ở NINH HIỆP - SỰ VẬN DỤNG MẠNG LƯỚI QUAN HỆ
XÃ HỘI TRONG HOẠT ĐỘNG MƯU SINH CỦA NGƯỜI DÂN
Vốn xã hội ở Ninh Hiệp gắn với mạng lưới quan hệ xã hội của người
dân nơi đây.
Như những gì đã giới thiệu trong phần tổng quan, các định nghĩa quan
trọng về vốn xã hội đều chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa mạng lưới quan hệ xã
hội với vốn xã hội khi xem vốn xã hội là nguồn lực (có đòi hỏi sự đầu tư) mà
con người đạt được thông qua tư cách thành viên của một mạng lưới quan hệ
xã hội cụ thể, cái hàm chứa khả năng đưa lại các hệ quả tích cực đối với mỗi
cá nhân. Vốn xã hội nằm trong mạng lưới quan hệ xã hội, vì thế, trên phương
diện nhất định, có mối quan hệ nhân quả với nó59.
4.1. VỐN XÃ HỘI NỘI BỘ
Có những trải nghiệm trực tiếp, đồng thời cũng có những quan sát
khách quan trong một thời gian dài, người viết luận án này đã nhiều lần
chứng kiến mặt trái sau sự vươn mình mạnh mẽ của cộng đồng dân cư ở
Ninh Hiệp qua những trường hợp thất bại nặng nề trong việc kinh doanh. Và
cũng không khó để nhận ra, cảm giác lo lắng đã luôn là một dòng chảy ngầm
song hành với những thành công bề mặt trong kinh doanh của người dân
Ninh Hiệp. Salemink, trong bài viết “Tìm kiếm an toàn tinh thần trong xã hội
Việt Nam đương đại”, từng nhận xét rằng “điều thực sự mang lại cảm giác
dễ tổn thương và bất an kinh tế sâu sắc chính là ảnh hưởng của các lực lượng
thị trường hay thay đổi hoặc những quyết định kinh doanh sai lầm không giải
thích được, những tác động diễn ra mà không thể nhận thức hoặc dự đoán
được” [89, tr. 9]. Với Ninh Hiệp, một làng đã có truyền thống buôn bán nhất
định từ xưa và nay đang ngày càng trở thành một làng thương mại toàn diện,
có thể nói rằng nhận xét trên còn hơn cả “chính xác”.
59 Nói một cách cụ thể, đây là mối quan hệ tương đối biện chứng, tức vốn xã hội bị quy định bởi
mạng lưới quan hệ xã hội, nhưng khi phát triển đến mức độ nhất định sẽ quy định trở lại mạng
lưới này.
88
Có nhiều vấn đề khiến người ta phải lo lắng khi tham gia vào hoạt
động buôn bán đòi hỏi số vốn đáng kể nhưng tựu trung lại xoay quanh một từ
là rủi ro60.
Muốn có được nhiều lợi nhuận, người ta phải đầu tư lớn, mà đầu tư
lớn bao nhiêu thì nguy cơ gặp rủi ro cũng lớn bấy nhiêu:
Thường hàng bán được là tất cả đổ xô đi lấy về, thị trường chẳng
mấy chốc bão hòa liền. Đã nhập là phải nhập nhiều để kịp thu được
lãi trước khi những người khác nhảy vào! Đầu tư không thể nhỏ
giọt vì nếu khách đặt hàng tiếp mà mình không có ngay là để lỡ
thời cơ! Nhưng nhập nhiều, mà mình lại phán đoán sai về thời tiết,
thị hiếu và sức mua của thị trường thì sẽ lỗ nặng.
(Nam, 50 tuổi, phỏng vấn ngày 13/7/2013)
Mưa đến đâu mát mặt đến đó, buôn to nếu thắng thì thắng lớn mà
thua thì thua đậm, không thể nói trước điều gì! Trong trường hợp
thua, mình sẽ vừa ôm một cục nợ, vừa không còn vốn để xoay
sang cái khác!
(Nữ, 40 tuổi, phỏng vấn ngày 29/7/2013)
Nếu tính toán sai thì đành phải chấp nhận bán thanh lí thôi, gỡ
được tí nào hay tí ấy! Nhưng mà nói thật, cứ vài lần lỗ là đủ phá
sản rồi!
(Nữ, 53 tuổi, phỏng vấn ngày 3/8/2013)
Trong buôn bán, ngoài vốn, người Ninh Hiệp vẫn thường phải vay
mượn thêm để mua hàng. Những lúc hàng bán không được thì không có tiền
trả, lãi đẻ ra theo ngày. Vì thế, mỗi chuyến hàng sẽ là một “cơ hội” hoặc “cơ
nguy”. Hỏng vài chuyến là cạn vốn, muốn vay lãi cũng không được nữa. Đến
lúc đó, người ta chỉ còn có thể vay mượn bà con ruột thịt hoặc bạn bè thân
thiết. “Làm nghề này luôn phải đương đầu với rủi ro”, đó là nhận định chung
của dân làng về tình trạng của mình.
60 Như ta biết, khái niệm rủi ro trong khoa học xã hội có thể được hiểu theo hai nghĩa mà theo đó
nghĩa thứ nhất hàm ý một khả năng (xác suất được/mất) còn nghĩa thứ hai hàm ý một thực tế
(tình trạng nguy hiểm) [172, tr. 18]. Với người Ninh Hiệp, từ “rủi ro” chỉ có nghĩa thứ hai.
89
Trường hợp rủi ro lớn nhất có thể gặp phải, như ta thấy, là phá sản, tức
trắng tay và mang nợ. Khi đó, người bị phá sản thường xin giãn nợ (nới rộng
thời gian trả nợ) và khoanh nợ (cố định khoản nợ, không tính thêm lãi) để có
cơ hội kinh doanh, lấy lợi nhuận mới trả nợ cũ. Trong trường hợp này, cách
ứng xử mang tính nguyên tắc của cộng đồng Ninh Hiệp là đồng ý cho giãn nợ
và khoanh nợ nhưng quy đổi giá trị món nợ sang vàng để tránh trượt giá.
Người ta cũng tính toán xem món nợ đã được trả bao nhiêu so với nợ gốc và
xem số lãi mà người cho vay được thụ hưởng đã đạt tới mức nào tính từ thời
điểm cho vay đến thời điểm người vay vỡ nợ để cân nhắc giảm trừ một phần
món nợ đó. “Cháo nóng húp quanh, công nợ trả dần” là điều mà cả người cho
vay và người vay đều hiểu. Đây là kiểu trợ giúp có tính chất đạo lí của người
Ninh Hiệp đối với những người sa cơ lỡ vận, nhưng nó đồng thời cũng cho
thấy sự tính toán đầy chủ động của họ. Sự tính toán nằm ở chỗ: nếu không tạo
điều kiện cho người ta kiếm tiền trả nợ thì có nghĩa món nợ đó sẽ không bao
giờ thu hồi được.
Từ các ý kiến đã nêu của những người trong cuộc, có thể thấy rằng
rủi ro là nguy cơ thường trực với người kinh doanh. Đó cũng là lí do khiến
người ta luôn phải tính đến những điều kiện đảm bảo cho việc vượt qua nó,
hay nói cách khác tính đến những gì có thể làm chỗ dựa khi rơi vào tình
trạng xấu, mà một trong những sự đảm bảo quan trọng nhất là có một mạng
lưới quan hệ xã hội thân thiết với các thành viên luôn sẵn lòng giúp đỡ lẫn
nhau bất cứ lúc nào khó khăn.
Đã có nhiều trường hợp bị phá sản trong quá khứ. Cách nay 20 năm
(14/7/1994), vụ cháy chợ Đồng Xuân dẫn đến thiệt hại lớn (nhiều tỉ đồng)
cho các tiểu thương Ninh Hiệp. Rất nhiều người mất hết hàng hóa, tiền bạc
và sổ sách tài chính trong vụ cháy. Nhưng đó chỉ là một sự cố nhìn thấy
được. Trước nó và sau nó, người Ninh Hiệp còn phải đối mặt với vô vàn “vụ
cháy” vô hình khác. Trên thực tế thì bất cứ một phán đoán nào sai trong kinh
doanh cũng có thể là ngọn lửa thiêu rụi cơ đồ của họ. Bà Lương là một
trường hợp. Những năm đầu thập niên 90 của thế kỉ trước, bà nổi lên như
90
một trong những người buôn bán tháo vát nhất ở Ninh Hiệp. Tuy nhiên, sau
thất bại của một số chuyến buôn đường dài Nam - Bắc, bà đã bị phá sản (bán
hết nhà cửa và đất đai rồi mà vẫn không đủ trả nợ). Do chủ nợ truy bức gắt
gao, bà phải tạm lánh đi tỉnh khác. Chồng bà là một công chức cũng bị chủ
nợ gây sức ép bằng cách đến tận cơ quan mạt sát và đe dọa hành hung. Có
dịp giỗ chạp, bà vì đạo hiếu mà trở về thì chủ nợ đã chờ sẵn tại nhà thờ họ để
đòi. Trưởng họ phải tuyên bố rằng: “Đứa nào dám vào phá giỗ, cả họ đánh
chết!”, bà mới được an toàn tham dự buổi giỗ đó để rồi sau lại hối hả ra đi.
Nhưng đó không phải là lần vỡ nợ duy nhất của bà. Sau khi bà khôi phục lại
được phần nào sản nghiệp, cơn ác mộng này còn xảy ra một lần nữa vào cuối
thập niên 90.
Trường hợp như bà Lương không hề hiếm gặp ở Ninh Hiệp. Môi
trường buôn bán của làng đã, đang và sẽ có những người thành công và
những người không thành công, thậm chí rơi vào bi kịch. Với những người đã
kinh qua bi kịch, rất nhiều năm sau nỗi ám ảnh vẫn đeo đuổi họ. Ông Quyền,
một công chức về hưu đã luôn năn nỉ bà vợ dừng việc buôn bán và cùng sống
bằng đồng lương của ông vì “ít nhất cũng vẫn có thịt ăn ngày hai bữa”. Ông
rất lo sợ việc vỡ nợ lại xảy ra, sau khi nếm trải tình cảnh bị chủ nợ đi theo
chửi bới từ trường học nơi ông đang giảng dạy về tận nhà trước con mắt của
nhiều người làng (để đối phó, có thời gian ông chỉ dám về nhà tầm 9 giờ tối
trở ra, thậm chí còn đưa các con đến ở nhờ phòng bảo vệ của trường để né
tránh). Bà Hạ, cũng từng vỡ nợ, thì trở nên hết sức căng thẳng mỗi khi thấy
những chiếc xe ô tô chở các kiện vải do cô con dâu ham buôn lớn của mình
đặt hàng kéo tới, vì thế nhiều khi con dâu bà đành phải “bí mật” thuê kho ở
ngoài để gửi dù kho của nhà vẫn còn chỗ. Với những người chưa trải qua việc
vỡ nợ bao giờ, họ cũng luôn thấp thỏm vì không có gì cho thấy điều đó sẽ
không xảy ra. Trường hợp ông Dương là một ví dụ. Khi con gái ông xin nghỉ
học để đi buôn như mẹ, ông đã thiểu não nói với con rằng từ lúc vợ ông
chuyển hẳn sang buôn bán, ông chưa có ngày nào được “kê cao gối mà ngủ”,
và yêu cầu cô suy nghĩ thêm trước khi quyết định. Còn ông Nhân, nghe
91
phong thanh vợ thua lỗ mấy chuyến hàng lớn, đã rất hoảng hốt. Sau này, ông
có giải thích với tôi rằng, vào thời điểm đó, ông không thể nào không nhớ đến
những lời đàm tiếu ác ý mà láng giềng đã nửa kín nửa hở ném về phía gia
đình một người bạn của ông cách đây mươi năm, rằng: “Vỡ nợ thế sao không
treo cổ mà chết quách đi?”... Bởi vậy, việc tìm kiếm lợi ích đã luôn được
người Ninh Hiệp đặt song hành với việc bảo hiểm những rủi ro có thể gặp
phải. Có thể thấy, sự phụ thuộc hoàn toàn vào nghề buôn đầy bấp bênh không
phải không làm tăng cảm giác của cư dân Ninh Hiệp về việc thiếu vắng một
cơ sở kinh tế ổn định, mà “cơ sở” này là điều rất quan trọng đối với họ, vì đã
có nghiên cứu chỉ ra rằng cách đây một hai thập niên thôi, mặc dù nông
nghiệp không còn đem lại thu nhập chính, người Ninh Hiệp vẫn không bỏ
ruộng, thậm chí ngược lại coi nó như một sự bảo hiểm cho cuộc sống: “Hiện
tượng mất mát, rủi ro trong kinh doanh lớn đối với từng hộ đã xảy ra. Những
lúc “trắng tay” như vậy, họ cảm thấy yên tâm hơn khi họ còn có “nghề nông”
làm chỗ dựa” [116, tr. 31]. Với tình hình hiện nay, có thể hiểu được việc tạo
ra “chỗ dựa” khi gặp rủi ro của người dân đang ngày càng trở thành một nhu
cầu rõ nét.
Taylor, trong công trình Goddess on the Rise: Pilgrimage and Popular
Religion in Vietnam [Nữ thần gia tăng: Hành hương và tôn giáo phổ biến ở
Việt Nam] (2004) [244] cho rằng cảm giác lo âu trước những biến động
không thể lường trước của thị trường là cái khiến nhiều người Việt tìm kiếm
chỗ dựa về tinh thần ở tôn giáo. Điều này quả không sai đối với những người
kinh doanh ở Ninh Hiệp, vì cảm giác lo âu nói trên đã thực sự thúc đẩy họ
đến với niềm tin vào lực lượng siêu nhiên (rất nhiều người đã là tín đồ của
đạo Tứ phủ). Tuy nhiên, còn có một sự thật hiển nhiên không kém khác nữa:
họ đồng thời tìm kiếm sự an toàn từ hiện thực là các mối quan hệ xã hội của
mình. Trong đó, quan hệ thuộc bộ phận trung tâm, đặc biệt là vùng nòng cốt
trở thành lựa chọn không thể tốt hơn.
Vụ cháy chợ Đồng Xuân vừa nói đã khiến nhiều thương nhân Ninh
Hiệp rơi vào tình trạng phá sản và nợ nần chồng chất, song dần dần, nhờ có
92
sự trợ giúp từ các mối quan hệ xã hội mà họ khôi phục lại được công việc làm
ăn. Họ cho biết, sự giúp đỡ của người ruột thịt và bạn bè thân đóng vai trò hết
sức quan trọng đối với họ vào thời điểm đó. Vợ chồng ông Hoàng là một ví
dụ. Sau khi phải bán nhà trả nợ, vợ chồng ông đã đưa các con đến tá túc một
người thân là nông dân. Các con ông đã hòa nhập rất nhanh với cuộc sống
mới. “Anh ạ, lắm khi nhìn cả ba đứa đi nhổ cỏ là tôi lại ngậm ngùi nghĩ đến
chuyện “vật đổi sao dời”. Trước đó, trong nhà tiền cứ gọi là chất đầy tủ,
chúng nó sống có khác gì công tử đâu? Đến lúc vỡ nợ thì cũng lăn lộn như
ai…!”, ông kể. Vợ ông xin khoanh nợ được rồi thì vay những người thân
quen một khoản tiền, đầu tư dàn máy khâu để may gia công. Bà mua một số
loại quần áo bán chạy của Trung Quốc, tháo ra, cắt theo, may hàng loạt và
bán với giá đúng là rất “gia công” cho những người mua buôn trong vùng.
Xưởng của bà đắt khách đến độ không ngờ. Vài năm sau bà đã trả được hết
toàn bộ số tiền nợ và chuyển sang hướng kinh doanh mới. Cảnh nhà lại trở
nên sung túc như ngày nào.
Những trường hợp khác, không liên quan đến vụ cháy như bà Lương
cũng vậy. Ban đầu, gia đình bà Lương được ông Trần (anh chồng bà) cho ở
nhờ và mỗi tháng được bà Hiên (em ruột bà) hỗ trợ lương thực. Những năm
sau này, các khoản vay có được từ nhóm chị em thân thiết người trong họ và
nhóm bạn thân ở làng đã khiến bà dần vực lại được công ăn việc làm của
mình. Bà có cả thảy bốn chị em ruột thì tới ba người là những tay buôn bán
đảm ở Ninh Hiệp nên được giúp đỡ khá nhiều. Bà lại có một nhóm bạn thân
thiết vốn là đồng môn thời phổ thông, trong đó có một người sau này học
trung cấp ngành xăng dầu với bà (đến lúc bấy giờ chơi với nhau được gần 25
năm), cũng dành cho sự giúp đỡ chân tình. Bà nhắc lại chuyện cũ với tâm
trạng nặng nề:
Lúc vỡ nợ rồi thì những người quen biết hay bạn bè thông thường
còn tránh mặt chứ đừng nói là cho vay mượn. Mình làm mình chịu,
ai lo thay cho mình được! Chỉ có ruột thịt với bạn chí cốt là cho
vay thôi! Tiền cho vay cũng không phải để trả nợ mà là để ổn định
93
cuộc sống và bước đầu khôi phục lại việc làm ăn. Còn chuyện trả
nợ thì mình phải tự xoay xở!
(Phỏng vấn ngày 5/9/2013)
Tất nhiên, đối chiếu trong bản thân khu vực nòng cốt, thì quan hệ
giữa những người là họ hàng gần từ trước đến nay - về cơ bản - vẫn được
người Ninh Hiệp xem là sâu sắc hơn quan hệ giữa những người là bạn bè
thân với nhau. Tương tự như các kết quả nghiên cứu đi trước hoặc cùng thời
của Freedman (1966) [171], Skinner (1971) [239], Torry (1979) [245],
Prindle (1979) [229], Dirks (1980) [164]... về vai trò của mạng lưới họ hàng
trong hoàn cảnh rủi ro, Trịnh Thị Quang ở một nghiên cứu thực hiện vào thời
kì tiền Đổi mới (1984) [84] về quan hệ dòng họ của nông thôn Việt Nam
cũng khẳng định rằng vai trò đó vẫn là quan trọng, và tôi nhận thấy điều này
đến nay tiếp tục đúng với người Ninh Hiệp dù họ hầu như không còn là
những nông dân nữa. Lí do là yếu tố tình cảm cũng như sự ràng buộc mang
tính thể chế khiến quan hệ họ hàng nhìn chung vẫn là một dạng quan hệ
mang tính “chặt”/ “đóng kín” hơn so với các dạng quan hệ xã hội cơ bản còn
lại (bạn bè và láng giềng)61. Thực tế, hầu hết những người từng gặp sự cố
trong việc buôn bán mà tôi biết đều đã nhận được sự giúp đỡ có ý nghĩa từ
họ hàng gần trong khả năng của những đối tượng đó. Kết quả phỏng vấn của
tôi trong nhiều thời điểm tại Ninh Hiệp cho thấy những người được hỏi luôn
khẳng định họ hàng là quan hệ đầu tiên được tính đến khi họ gặp khó khăn
và cần giúp đỡ: “Họ hàng thì tình cảm hơn là đương nhiên rồi! Trách nhiệm
cũng có hơn so với các quan hệ khác! Cùng là máu mủ ruột rà thì có cái ràng
buộc!”. Những minh chứng từ quá khứ như trường hợp bà Lương càng khiến
người ta đặt niềm tin vào sức mạnh của quan hệ này62. Dân buôn bán ở làng
cách đây không lâu vẫn còn nhắc đến trường hợp kể trên như một ví dụ về
61 Đến lượt mình, quan hệ bạn bè lại mang tính chặt/ đóng kín hơn quan hệ láng giềng vì nó ít
nhiều được thể chế hóa thông qua những tổ chức hội nhóm cũng như những quy tắc ứng xử
trong nhóm. 62 Thuyết lựa chọn hợp lí cho rằng, đối chiếu với kết quả đã đạt được trong quá khứ, người ta
thường lựa chọn hành động mà người ta cho là có khả năng thành công nhất, dù lợi ích có thể
không phải là lớn nhất.
94
việc có thể tận dụng mạng lưới họ hàng để gây dựng lại sự nghiệp khi gặp
biến cố như thế nào. Đề cập đến nguy cơ phá sản, Hoa, một người buôn cả
vải kiện và vải cây được chừng hơn mười năm nay đã đưa ra nhận định
như sau:
Cái chuyện thất bát thì khó nói trước lắm, ai bước vào nghề cũng
có thể gặp phải! Nhưng mà còn có anh em họ hàng, làng xóm
nữa... Em thấy là nhiều người vỡ nợ rồi sau cũng vẫn làm ăn trở lại
được, không đến nỗi cùng đường!
(Nữ, 30 tuổi, phỏng vấn ngày 11/9/2013)
Tôi đồng ý với Nguyễn Tuấn Anh trong Kinship as Social Capital:
Economic, Social and Cultural Dimensions of Changing Kinship Relations in
a Northern Vietnammese Village [Họ hàng như là vốn xã hội: Các chiều
cạnh kinh tế, xã hội và văn hóa của quan hệ họ hàng đang chuyển đổi ở một
làng miền Bắc Việt Nam] (2010) [218] rằng sở dĩ sự đóng kín của mạng lưới
xã hội ở bộ phận họ hàng diễn ra “tốt hơn” sự đóng kín của mạng lưới xã hội
ở bộ phận bạn bè hoặc hàng xóm là vì “các chuẩn mực và sự trừng phạt
trong quan hệ họ hàng thì hiển nhiên hơn trong mối quan hệ với hàng xóm và
bạn bè”. Có thể nói, chính bởi tính “chặt”/ “đóng kín” này mà quan hệ họ
hàng vẫn luôn được xem là chỗ dựa đầu tiên, rồi sau mới đến những dạng
quan hệ xã hội khác, khi gặp bất trắc. Sự nhấn mạnh vào quan hệ họ hàng
với lí do như trên phần nào đã biểu hiện qua cơ cấu bộ phận trung tâm của
mạng lưới quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp bởi tỉ lệ vượt trội của quan hệ họ hàng
so với các quan hệ khác. (Xin nói thêm, Nguyễn Đức Truyến - khi so sánh
tính cố kết trong quan hệ họ hàng của nhóm hộ phi nông nghiệp với nhóm hộ
thuần nông và hỗn hợp ở Ninh Hiệp - từng cho rằng: “Cũng do tính chất kinh
doanh buôn bán lớn mà tính cố kết của các quan hệ họ hàng của nhóm này có
phần yếu hơn so với hai nhóm trên. Biểu hiện của tình hình này là sự hợp tác
tương trợ trong quan hệ kinh tế và đời sống của nhóm thường ít được quan
tâm” [116, tr. 163], nhưng theo tôi ở đây có điểm cần thảo luận. Thứ nhất,
việc kinh doanh thường mang tính cạnh tranh, nên rất khó có thể có sự
“tương trợ” theo nghĩa thường được hiểu của từ này như trong sản xuất nông
95
nghiệp; thứ hai, nhóm phi nông nghiệp là nhóm có kinh tế khá, vì thế các hộ
gia đình của nó thật ra không có nhu cầu được trợ giúp trong sinh hoạt
thường nhật như các nhóm khác nếu không phải đang ở trong hoàn cảnh đặc
biệt. Sự cố kết nằm ở chỗ người ta thúc đẩy mối quan hệ họ hàng với mục
đích bảo hiểm những rủi ro dễ gặp phải của việc buôn bán). Không hoàn toàn
tương tự, nhưng thực tế ở Ninh Hiệp có gặp gỡ thực tế về sự tiếp tục của vai
trò họ hàng ở các quốc gia láng giềng trong khu vực mà một số tác giả đã chỉ
ra, chẳng hạn Kuah trong “The Changing Moral Economy of Ancestor
Worship in a Chinese Emigrant District” [Nền kinh tế đạo đức đang chuyển
đổi liên quan đến tục thờ cúng tổ tiên ở một khu vực di dân của Trung Quốc]
[198] cho biết rằng có những gia đình hoặc dòng họ người Hoa di cư đến
Singapore đã không những hỗ trợ về kinh tế cho bà con ở quê gốc mà còn có
các tác động lớn đến hoạt động tôn giáo truyền thống ở địa phương. Vì thế,
đây chính là một ví dụ thêm vào cho thấy thiết chế họ hàng không hẳn sẽ nhất
định rơi vào tình trạng mất đi chức năng và tàn lụi như nhiều lí thuyết gia
hiện đại vẫn luôn khẳng định.
Như vậy, vốn xã hội nội bộ là cái giúp người dân Ninh Hiệp vượt qua
những khó khăn mà họ gặp phải trong công việc buôn bán của mình. Nó
không chỉ gắn với “nội bộ” của những nhóm có tính đồng nhất như đặc điểm
chung mà ta vẫn biết của loại vốn này, tức gắn với dạng thức liên kết của các
quan hệ xã hội, mà còn gắn với tính chất của các quan hệ đó nữa. Ở làng
Ninh Hiệp, họ hàng gần và bạn bè thân thiết, những quan hệ được xem là tình
cảm, gần gũi nhất - được xếp vào quan hệ nòng cốt - là cơ sở của loại vốn
đang đề cập.
4.2. VỐN XÃ HỘI BẮC CẦU
Làng Ninh Hiệp hiện nay là một đấu trường.
Bourdieu từng coi xã hội là một đấu trường trong đó các chủ thể của
hành động tham gia vào và cạnh tranh với nhau nhằm mục tiêu đạt được
những nguồn lực cần thiết. Kẻ thắng là người giàu có các loại vốn, vì vậy cần
phải xây dựng nó thông qua những chiến lược đầu tư trong mục đích thể chế
96
hóa các quan hệ nhóm (làm nguồn gốc đáng tin cậy sản sinh ra những điều
lợi khác). Yếu tố quy định việc đó là bản thân quan hệ xã hội, cái cho phép
mỗi cá nhân có quyền tiếp cận các nguồn lực thuộc sở hữu của những người
cùng nhóm với mình63. “Làng là một đấu trường” ở trường hợp Ninh Hiệp có
thể được diễn giải như là sự tồn tại một cuộc cạnh tranh tìm kiếm lợi nhuận
kinh doanh giữa các hộ gia đình trong môi trường là làng.
Mỗi một người buôn bán ở Ninh Hiệp là một tiểu chủ. Và làng chính
là một biển tiểu thương độc lập64. Thực tế, trong việc buôn bán ở Ninh Hiệp
hiện nay không có sự liên kết đáng nói nào. Các tiểu thương Ninh Hiệp vừa
là người làng nhưng cũng vừa là những đối thủ cạnh tranh của nhau trong
việc tìm kiếm lợi ích từ hoạt động kinh tế. Họ có thể chia sẻ những thông tin
về các đợt động biên (bao gồm các đợt thanh kiểm tra thị trường của các cơ
quan công quyền), tình hình bạn hàng hoặc tình hình buôn bán của người
làng v.v..., nhưng họ sẽ không bao giờ chia sẻ thông tin về nguồn hàng và về
những bí mật trong kinh doanh của mình, kể cả với anh chị em ruột. Không
giấu diếm, Sơn cho tôi biết:
Với một mối hàng tốt, nếu thiếu vốn thì đương nhiên là người ta sẽ
vay tiền để khai thác. Bao giờ người ta cũng muốn giữ độc quyền
những nguồn hàng bán chạy để có thể một mình đánh hàng chứ không
buôn chung với ai cả!
(Nam, 40 tuổi, phỏng vấn ngày 19/2/2014)
Như một “quy tắc” bất thành văn, trong việc mua hàng hoặc gia công,
nếu cùng kinh doanh một chủng loại hàng, các thương nhân Ninh Hiệp
thường giữ kín sự lựa chọn của mình về mẫu mã, kiểu dáng nhằm tránh việc
bị những người khác, kể cả người thân quen, “copy”. Việc chọn mẫu mã,
kiểu dáng sản phẩm cần nhiều kinh nghiệm và sự nhạy bén vì có như vậy
mới dự đoán tương đối chính xác sản phẩm nào sẽ đáp ứng thị hiếu của
63 Xem thêm Pierre Bourdieu (2002) [190, tr. 84 - 91]. 64 Mượn cách diễn đạt của Trần Từ trong Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ
(1984) [126]. Nguyên văn: “Làng là một biển tiểu nông tư hữu”.
97
người tiêu dùng trong thời gian sắp diễn ra65, và chẳng ai muốn người khác
hưởng lợi từ những kinh nghiệm mà bản thân phải bỏ bao mồ hôi và tiền bạc
mới có được.
Thậm chí, khi đã bày bán sản phẩm ngoài cửa hàng rồi, người ta vẫn
còn cảnh giác với nhau đến mức độ nếu thấy ai đó lạ mặt mon men chụp ảnh
cửa hàng với các trang phục đắt khách đang được bày thì lập tức ngăn lại
ngay, vì sợ người ta lấy mất mẫu mã sản phẩm. Có lần tôi xớ rớ vác máy ảnh
ra chụp một cửa hàng trong đợt về quê “điền dã” liền bị mấy người trong cửa
hàng xông ra nạt nộ, may mà có vài người quen gần đó giải thích giúp rằng
tôi là con ông bà nọ, ở thôn kia và hiện không phải là người buôn bán mới
tạm yên. Và sau rốt, bây giờ người ta còn không cả đem bày những mẫu trang
phục đắt khách ngoài cửa hàng mà chỉ bày kín ở bên trong, khi nào có khách
buôn đến hỏi mới dẫn vào cho xem vì rằng “nhiều máy ảnh hiện đại lắm,
đứng từ xa vẫn chụp được”.
Áp lực từ khoản tiền thuê địa điểm bán hàng cũng khiến cho sự cạnh
tranh trở nên căng thẳng hơn. Vài năm trước, vợ chồng Trung thuê một chỗ
ngồi bán hàng thuộc mức trung bình ở mặt đường thôn 6, có chiều rộng 3m,
với giá 360 triệu/năm, tức một triệu/ngày (giá thuê cửa hàng ở mặt đường thôn
6 lúc đó thấp nhất là 50 triệu/1 mét mặt đường/năm, cao nhất là 200 triệu/1
mét mặt đường/năm)66. Nếu ngày nào tiền lãi chỉ đạt một triệu trở xuống tức là
ngày đó âm vốn vì ngoài tiền thuê chỗ còn là tiền vay lãi nằm trong hàng hóa,
65 Liên quan đến chuyện sang Trung Quốc đánh hàng, xin nói thêm, nhiều người kinh doanh sản
phẩm thời trang như vải, quần áo, khăn, mũ, túi xách, giày dép... ở Ninh Hiệp thường vào TP. Hồ
Chí Minh nhiều lần trong năm với mục đích khảo sát, nắm bắt xu hướng (chí ít cũng là hai lần:
một lần là vào dịp đầu năm, khoảng tháng 3 dương lịch để nắm bắt xu hướng chung của cả năm
và một lần là vào dịp cuối năm, khoảng tháng 10 âm lịch, tức trước Tết một thời gian để nắm bắt
xu hướng thời trang Tết). TP. Hồ Chí Minh xưa nay vẫn được xem là nơi tiên phong về thời trang
trong cả nước do bắt kịp sớm nhất các trào lưu thời trang của khu vực và quốc tế, vì thế trừ
những người kinh doanh lớn, đủ điều kiện ra hẳn nước ngoài - Thái Lan, Hồng Kông, Hàn Quốc,
Singapore... - để khảo sát, nhìn chung thương nhân Ninh Hiệp bằng lòng với việc “sử dụng” TP.
Hồ Chí Minh như là một “cửa sổ” để nhìn ra đời sống thời trang bên ngoài. Họ đến các trung tâm
kinh doanh sản phẩm thời trang ở đây và quan sát những mặt hàng được bày bán, rồi tùy theo
cảm nhận của mình mà xác định cái gì là thứ sẽ đầu tư khi trở ra Bắc. Không ít người còn di
chuyển như con thoi quanh năm giữa biên giới phía Bắc và TP. Hồ Chí Minh để luôn cập nhật
tình hình và giảm thiểu tối đa những rủi ro của hoạt động kinh doanh. 66 Tính đến thời điểm hiện nay (2016), giá thuê nói chung tăng lên gấp rưỡi - tức chỗ ngồi của vợ
chồng Trung đã có giá xấp xỉ 550 triệu - và có xu hướng lên nữa.
98
chưa kể đến công sức của cả hai vợ chồng. Vẻ mặt đầy “nỗi niềm”, chị vợ giãi
bày với tôi:
Đến ốm cũng không dám ốm, đi ăn cỗ cũng vội vội vàng vàng để
về anh ạ! Ngày nào trời mưa gió là ruột gan như lửa đốt vì cứ một
ngày không bán hàng là mất tiền triệu rồi!
(Nữ, 30 tuổi, phỏng vấn ngày 6/1/2014)
Trong một nghiên cứu về Ninh Hiệp, khi phân tích chợ thôn 6, Horat
nhận xét rằng: “Giá cho thuê cửa hàng trong khu vực này cao hơn so với bất
cứ nơi nào khác trong cộng đồng, và bởi tính cạnh tranh cũng ngày càng gay
gắt, các cuộc xung đột giữa những người buôn bán xảy ra thường xuyên hơn”
[41, tr. 31]. Nhận xét này rất chính xác. Vì chi phí thuê cửa hàng quá lớn,
trong các nhóm cùng kinh doanh một chủng loại, sự ganh ghét và kèn cựa là
thường trực. Bình, một người bán vải kaki còn nói một cách thật thà:
Ngồi cùng dãy, bán cùng một loại, mà người ta bán được nhiều,
mình ế thì nhìn người ta bán hàng thôi đã nóng hết cả tai! Lúc ấy
chỉ một va chạm nhỏ cũng dễ dẫn đến cãi nhau to!
(Nam, 40 tuổi, phỏng vấn ngày 6/1/2014)
Quả thực, mấy năm trước, cô em dâu trong họ của tôi cũng có kể về
vụ ẩu đả khá ồn ào giữa vợ chồng cô với chủ quầy bên cạnh vì những xích
mích rất vụn vặt về chỗ để hàng, mà nguồn cơn sâu xa là cô bán đắt hàng
(mỗi ngày doanh số khoảng hơn một trăm triệu) trong khi những người khác
“ngồi giãi thẻ”. Điều này cho thấy, mặc dù quan hệ bạn nghề đem đến cho
người ta những gắn bó nhất định, khi sự chênh lệch về thu nhập từ kinh
doanh đi đến một ngưỡng nào đấy thì quan hệ này sẽ khó có thể là cái van
điều hòa mâu thuẫn. Thậm chí, có người còn bất chấp nhiều thứ để giành lợi
thế mong muốn. Ông Truyền, một người có nhiều trải nghiệm trong nghề
buôn, kể rằng vài năm trước đây những chuyện hại nhau có xảy ra: “Thỉnh
thoảng người này người kia lại mất hẳn một chuyến hàng, biết là có kẻ thọc
gậy bánh xe đấy nhưng cũng vẫn phải chịu vì chả có cớ gì!”. Nhận xét về sự
đấu đá lẫn nhau trong hoạt động thương mại, Trung cho tôi hay rằng sơ sẩy
vài vụ là hết đường làm nghề, vì lợi nhuận lớn quá thì việc chơi xấu nhau là
chuyện không có gì khó hiểu.
99
Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt đó, người Ninh Hiệp phải làm thế
nào để có thể đảm bảo được lợi ích trong công việc kinh doanh? Một mạng
lưới quan hệ rộng là câu trả lời của Trung và cũng là ý kiến chung của những
người buôn bán trong làng. Theo sự diễn đạt của họ, tính chất “rộng” ở đây
phụ thuộc vào mức độ hiện diện của các quan hệ thuộc bộ phận ngoại vi (tức
các quan hệ mang tính thực dụng). Họ cho biết, mạng lưới rộng giúp họ dễ
dàng hơn trong tạo vốn, tiêu thụ sản phẩm và nắm bắt được những thông tin
cần thiết cho việc buôn bán. Và lúc này chính là lúc vốn xã hội bắc cầu thể
hiện vai trò của mình.
Với mối quan hệ đan xen chằng chịt giữa các cá nhân trong một cộng
đồng chung là làng, việc mở rộng vốn xã hội bắc cầu của người dân Ninh Hiệp
không chỉ là sự mở rộng các quan hệ (thực tế thì trong làng, những người làm
ăn trên cùng một lĩnh vực thường đã ít nhiều có một mối quan hệ nào đó) mà
còn - và điều này mới là chủ yếu - là sự phát triển các quan hệ ngoại vi căn cứ
trên niềm tin và sự thừa nhận của cả cộng đồng mà cá nhân đạt được thông
qua quan hệ trung tâm. Nói cách khác, người dân Ninh Hiệp phát triển vốn xã
hội bắc cầu bằng chính việc có được sự thừa nhận từ quan hệ thuộc vùng
trung tâm, tức qua quan hệ trung tâm phát triển những quan hệ ngoại vi đã có
nền tảng sẵn. Mặc dù do làng lớn, dân làng không có quan hệ trên thực tế với
“tất cả mọi người trong làng” như một số nơi (ví dụ, địa bàn nghiên cứu được
biết đến nhiều của Harrell (1982) [185] ở Hồng Kông), trong bối cảnh “cả
làng biết nhau” - theo cách nói của người Ninh Hiệp - thì việc gây dựng quan
hệ xã hội ở phạm vi rộng hơn này lại không phải là vấn đề cần đặt ra với họ,
mà cái cần đặt ra là phát triển những mối quan hệ đó67.
67 Lưu ý, việc xác định tính chất nội bộ hay bắc cầu của vốn xã hội là tương đối, vì xét ở bối
cảnh này nó có thể mang tính chất nội bộ nhưng xét ở bối cảnh khác nó lại có thể mang tính chất
bắc cầu.
Về mối quan hệ giữa vốn xã hội nội bộ và vốn xã hội bắc cầu, cũng cần nhắc đến ý kiến của
Putnam trong Bowling Alone: The Collapse and Revival of American Community [Bowling một
mình: Sự suy thoái và phục hồi của cộng đồng Mĩ] (2000) [232]. Putnam khẳng định hai kiểu vốn
xã hội này không thể thay thế cho nhau và nhấn mạnh rằng không có mối liên hệ tất yếu giữa một
mức độ cho sẵn của vốn xã hội nội bộ hay là vốn xã hội bắc cầu với mức độ của cái còn lại. Tuy
nhiên, trong trường hợp Ninh Hiệp, chúng tôi nhận thấy, việc phát triển vốn xã hội nội bộ có
quan hệ nhân quả với việc phát triển vốn xã hội bắc cầu.
100
Nếu vốn xã hội nội bộ gắn với sự ràng buộc và tình cảm của các thành
viên trong nhóm thì vốn xã hội bắc cầu gắn liền với vị thế68, hay thể diện
trong nhóm, của chủ thể.
Trong đời sống làng xã Việt truyền thống, vị thế/ thể diện có mối liên
quan chặt chẽ đến “thân phận” và “diện mạo” của con người, tức vị trí mà
cộng đồng cấp cho mỗi người dân của làng xã xưa. Theo đó, từng thành viên
của một cộng đồng sẽ tồn tại không phải với tư cách cá nhân độc lập mà với
vị trí này, tức với tư cách người đó được nhận. Nói cách khác, sự tồn tại của
từng con người được xác định thông qua một “thân phận” và “diện mạo” cụ
thể nào đó trong cộng đồng mà nếu thiếu nó, con người ấy sẽ không thể là gì
cả [71, tr. 74 - 103]. Theo Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam
hiện nay, do Phan Huy Lê và Vũ Minh Giang chủ biên (1994) [57], điều này
không tách rời xã hội tổng thể luận, nơi mà như người ta vẫn khẳng định, mỗi
cá thể được tích hợp vào một hệ thống cộng đồng, đồng tâm từ nhỏ đến lớn:
gia đình, làng xã, quốc gia. Với sự ràng buộc đó, cách ứng xử của cá nhân nói
chung đều bị chi phối bởi vị trí của họ trong các mối quan hệ xã hội khác
nhau, cái khiến cho hành động của mỗi người phải hướng tới việc làm sao để
các “vai” của mình trong từng nhóm không bị ảnh hưởng. Sự biến đổi của
làng xã đương đại theo hướng đô thị hóa, hiện đại hóa khiến cho con người cá
nhân được đề cao hơn, nhưng không vì thế mà tính cộng đồng hoàn toàn bị
triệt tiêu. Với Ninh Hiệp, tình hình về cơ bản cũng là như vậy. Nhất là, trong
khi việc di cư lao động dưới nhiều hình thức đã và đang là điều quen thuộc
với người dân nông thôn - như các kết quả nghiên cứu của Đặng Nguyên
Anh, Goldsteinand và McNally (1997) [162], Adger và cộng sự (2002) [141],
68 Vị thế là một thuật ngữ quen thuộc trong xã hội học, được các nhà nghiên cứu dùng theo nhiều
cách: i) Linton sử dụng từ vị thế theo nghĩa mà ngày nay có nội dung là địa vị, tức vị trí tương đối
của một cá nhân trong bối cảnh xã hội giới hạn, từ đó có những hi vọng nhất định về vai trò. ii)
“Đẳng cấp” của Weber cũng được dịch sang tiếng Anh bằng vị thế (status), được hiểu là các quyền
lợi và nghĩa vụ mà một cá nhân được thừa kế. iii) Trong khuôn khổ của xã hội học phân tầng, vị
thế một lần nữa lại được dùng một cách phân biệt: a) Độc lập với những tiêu chuẩn và kích cỡ
phân tầng nhất định đã chọn, vị thế một cá nhân có thể được xác định là địa vị cao hay thấp trong
một hệ thống được sắp xếp theo thứ bậc, b) Sẽ có khái niệm vị thế hẹp hơn, nếu địa vị xã hội
tương đối này chủ yếu liên hệ tới việc đánh giá giá trị, tức uy tín, bên trong tiêu chuẩn phân tầng
[29, tr. 560]. Căn cứ vào quan niệm của người dân Ninh Hiệp, cách hiểu thứ nhất - của Linton -
được chúng tôi sử dụng trong đề tài này.
101
Agergaard và Vũ Thị Thảo (2009) [142]... cho biết - thì ở đây, do làng có
nhiều nghề, hiện tuyệt đại đa số người dân vẫn xác định gắn sinh kế (và vì thế
cả cuộc sống) của mình với làng69.
Việc duy trì tốt mối quan hệ thuộc vùng trung tâm, trên thực tế, đem
đến cho người ta một vị thế vượt ra khỏi phạm vi của nó. Ở Ninh Hiệp,
những người có quan hệ xã hội tốt trong làng, trước hết là với những quan hệ
nòng cốt và lân cận thường nhận được sự đánh giá cao của cộng đồng như là
những người sống tình cảm và có đạo lí, cái tạo nên lợi ích nhiều mặt cho họ,
trong đó có cả những lợi ích liên quan đến kinh doanh (như trả nợ chậm, mua
chịu, vay vốn…). Có thể nói, ngoài việc giành được sự tôn trọng trong các
nhóm mà họ thuộc về, những người có ý thức xây dựng và duy trì thể diện
bản thân trong các mối quan hệ xã hội tại Ninh Hiệp, đặc biệt là quan hệ gần
gũi, sẽ tạo được nhiều thuận lợi “ngoài nhóm” cho việc làm ăn. Ứng xử với
bộ phận trung tâm trong mạng lưới quan hệ xã hội được xem là cái góp phần
không nhỏ thể hiện tư cách của mỗi cá nhân, và điều này có ý nghĩa rất quan
trọng với người buôn bán khi môi trường của hoạt động kinh doanh ở đây
cho phép người ta luôn có thể nắm rõ và đánh giá từng hành vi của nhau.
Mặc dù mạng lưới quan hệ xã hội thường được biết đến như là những mối
quan hệ lấy cá nhân làm trung tâm và do vậy những người trong cùng mạng
lưới nhìn chung có quan hệ độc lập với “cái tôi nhất định” [215], sự tương
tác giữa những người này với nhau lại diễn ra khá thường xuyên ở Ninh
Hiệp. Điều tồn tại nơi đây thật tương đồng với nhận định của Yan về trường
hợp nghiên cứu của ông, rằng “mạng lưới xã hội được đặc trưng bởi cả tỉ lệ
đa thành phần cao trong hình thái quan hệ lẫn mật độ lớn ở những trao đổi
liên cá nhân” [257, tr. 239]. Việc biết ứng xử hay không sẽ tác động đến sự
nhìn nhận của đối tác, mà phần lớn cũng chính là người làng, vì thế thực sự
chi phối mạnh mẽ đến công việc kinh doanh lâu dài của bất cứ ai. Hãy nhớ
đến nghiên cứu mới đây của Grillot (2014) [32], trong đó cho hay, trước kiến
69 Ngay từ thập niên đầu sau Đổi mới, Ninh Hiệp đã được mổ tả là “thường xuyên không thiếu việc làm”, thậm chí còn “xuất khẩu” việc làm sang các xã lân cận (hiểu theo nghĩa thu hút lao động từ các nơi khác đến làm việc) [99, tr. 88].
102
trúc phô bày ra trước mắt công chúng mọi khía cạnh của một cuộc giao dịch
trong mỗi cửa hàng của chợ Móng Cái (khi các dãy cửa hàng đều vây quanh
và quay mặt vào nhau), những người Trung Quốc kinh doanh ở đây đã phải
hết sức dè chừng để tránh xảy ra lùm xùm, bởi nếu nó xảy ra thì những người
cùng kinh doanh khác sẽ biết hết. Hãy thử tưởng tượng, các thương nhân ở
Ninh Hiệp đã sống trong một cái lồng kính ra sao với việc những người cùng
buôn bán/ đối tác đồng thời cũng là người làng! Khi được hỏi về ảnh hưởng
của cách ứng xử trong quan hệ thân tộc đến các mối quan hệ khác ở trong
làng, Đức - 40 tuổi, buôn vải kiện rất có tiếng ở làng - khẳng định một cách
quả quyết:
Tất nhiên là nó ảnh hưởng rất nhiều rồi! Ai chẳng muốn quan hệ
với người tốt? Những người đối xử với anh em họ mạc còn chả ra
gì thì làm sao tử tế với thiên hạ được! Ở làng người ta vẫn ngại
những người ghê gớm! Mà đánh giá tư cách chẳng nhìn vào lối
ứng xử thì mình còn nhìn vào đâu được cơ chứ?
(Phỏng vấn ngày 5/1/2014)
Do vậy, bên cạnh việc đầu tư cho vốn xã hội nội bộ để bảo hiểm rủi ro
trong đời sống kinh doanh vốn nhiều bất trắc thì phát triển vốn xã hội bắc cầu
là điều mà những người buôn bán ở Ninh Hiệp không thể nào không quan
tâm, nhất là khi môi trường kinh doanh chính là làng, nơi niềm tin và sự thừa
nhận của cộng đồng đóng vai trò lớn quyết định sự thành bại. Chắc chắn nhận
định của các nhà kinh doanh người Hoa về thương nhân Việt rằng chỉ vì ham
mê lợi ích ngắn hạn mà bất chấp những ảnh hưởng tới các hoạt động thương
mại trong tương lai, như Barton (1977) [145] cho biết, là không chính xác với
tất cả, ít nhất là ở đây và vào thời điểm này.
Về việc tạo vốn trong làm ăn ở Ninh Hiệp, có hai hình thức là vay bằng
tiền mặt và mua hàng trả nợ chậm (chiếm dụng vốn).
Hình thức tạo vốn thứ nhất, vay bằng tiền mặt, bao gồm việc vay
không trả lãi và vay có trả lãi. Vay không trả lãi thường xảy ra khi một cá nhân
gặp sự cố, hoặc bắt đầu khởi nghiệp và đối tượng được hỏi vay là người có
quan hệ tình cảm gần gũi. Việc hoàn trả là linh hoạt vì không có ràng buộc cụ
103
thể (lúc nào có thì trả). Món tiền được vay này trên thực tế gần giống như
món tiền giúp đỡ. Vay có tính lãi thì diễn ra thường xuyên hơn trong quá
trình buôn bán và nó được tiến hành hoàn toàn trên nguyên tắc kinh tế. Điều
kiện cho vay đối với người làng là khá mềm dẻo (không thế chấp, thời gian
có thể co giãn, lãi suất được điều chỉnh nếu người vay gặp khó khăn) và mức
lãi suất cũng chỉ tương đương với vay ngân hàng. Người ta cho vay căn cứ
vào các yếu tố sau của người vay: i) Tài sản cố định; ii) Mục đích vay; iii)
Khả năng kinh doanh; và iv) Mạng lưới quan hệ xã hội trong làng. Yếu tố thứ
tư cực kì quan trọng. Trước hết, mạng lưới quan hệ xã hội rộng được xem là
bằng chứng cho sự đáng tin tưởng của người đó. “Có dễ chơi và đàng hoàng
thì mới quan hệ rộng được, chứ xấu tính thì ai người ta muốn qua lại!”, người
làng quan niệm. Sau nữa, mạng lưới quan hệ xã hội rộng còn được xem là
một sức ép khiến người vay không dám không trả hoặc trả chậm - nếu người
vay chây ỳ, anh ta sẽ bị tẩy chay và khó có thể tiếp tục tồn tại với bê bối của
mình trong toàn bộ không gian mà mạng lưới đó bao phủ (không gian đó có
thể là cả làng). Vì thế, những đối tượng ở trong một mạng lưới quan hệ xã hội
rộng thì được ưu tiên cho vay, và ngược lại, người không ở trong một mạng
lưới như vậy thường bị e ngại.
So với hình thức tạo vốn bằng tiền mặt vừa nói thì hình thức tạo vốn
thứ hai, mua hàng trả nợ chậm chủ yếu được thực hiện bởi những người mới
buôn hoặc vốn ít. Lí do khiến nó được cả người “vay” lẫn “cho vay” chấp
nhận là vì nó phù hợp với nguyên tắc kinh tế hai bên đều có lợi. Người bán
tiêu thụ được nhiều hàng, còn người mua không phải vay lãi để có vốn và họ
cũng cảm thấy an toàn hơn khi nguy cơ rủi ro được giảm thiểu tối đa (nếu
không bán được hàng, họ có thể gửi lại chủ hàng). Tuy nhiên, việc mua hàng
trả nợ chậm được giới hạn trong phạm vi xác định: i) Mặt hàng đó không phải
là mặt hàng bán chạy; ii) Số lượng hàng không quá lớn; iii) Việc hoàn vốn
phải thực hiện ngay khi bán được hàng; iv) Việc lấy gối đầu hàng mới chỉ
được chấp nhận khi hàng cũ đã được tiêu thụ ở một mức độ hợp lí. Trong
hình thức tạo vốn thứ hai này, người có mạng lưới quan hệ xã hội rộng được
ưu tiên cũng với lí do như đã nói đến ở trên.
104
Trong việc tiêu thụ hàng hóa, mạng lưới quan hệ xã hội của những
người buôn bán ở Ninh Hiệp cũng đóng vai trò quan trọng. Ở Ninh Hiệp, tuy
người ta không chia sẻ thông tin về nguồn hàng cũng như mối hàng của mình
cho người khác như đã nói ở trên, nhưng thông qua mạng lưới quan hệ xã hội,
hàng ngày mỗi người buôn bán sẽ có rất nhiều khách hàng gián tiếp. Khi
khách muốn nhập thêm một loại hàng hóa nào đó mà người bán không kinh
doanh, người đó sẽ đi lấy hàng của người quen biết trong làng về để bán.
Chẳng hạn, Tú chuyên bán hàng vải lanh nhưng khách của anh muốn lấy
thêm một lô hàng kaki, Tú sẽ tới cửa hàng của chị Thu là người có kinh
doanh loại này để mua với giá thấp hơn so với giá ngoài chợ và đóng bao
giao cho khách70. (Lưu ý rằng, đây không phải là hàng tồn. Theo tính toán
của người kinh doanh ở Ninh Hiệp, việc bán được hàng nhanh dù với giá thấp
bao giờ cũng tốt hơn là bán chậm). Như vậy, Tú vẫn giữ được mối tiêu thụ
cho riêng mình còn chị Thu thì bán thêm được hàng. Theo chiều ngược lại,
chị Thu cũng ứng xử tương tự. Bên cạnh đó, với tình huống bị tồn một khối
lượng lớn hàng do không bán được, và điều này thì xảy ra như là cơm bữa ở
Ninh Hiệp, mạng lưới quan hệ xã hội rộng sẽ giúp họ thuận lợi hơn nhiều khi
thanh lí71. Tú cho biết cụ thể:
Với những lô hàng tồn, tôi gửi mẫu cho mọi người xem có mối
nào tiêu thụ giúp với giá thanh lí không. Bán được lại trích
thêm phần trăm cho họ. Nhìn chung, càng có nhiều quan hệ thì
càng có cơ hội để giải quyết chỗ hàng đó.
(Phỏng vấn ngày 6/1/2014)
Có thể nói, cùng trong một mạng lưới, sự hưởng lợi tùy thuộc vào
mức độ hòa nhập của mỗi người vào mạng lưới và mối quan hệ nông - sâu
của người đó với các thành viên khác. Thực tế, tiểu thương Ninh Hiệp giúp
nhau tiêu thụ hàng theo chuẩn mực có đi có lại, nhưng ưu tiên người quen
70 Khách tỉnh xa thường gọi điện đặt hàng và chủ hàng đóng bao chuyển đi thông qua các tuyến xe liên tỉnh. Những người này nhìn chung có mối quan hệ làm ăn lâu năm và có sự tin tưởng lẫn nhau (khách chuyển khoản một phần tiền, nhận hàng xong hoặc thậm chí một thời gian sau khi nhận hàng xong mới thanh toán tiếp phần còn lại). 71 Với việc kinh doanh đồ thời trang ở Ninh Hiệp, cứ khoảng một vài tuần không “cập nhật” sản phẩm mới là đủ để hàng hóa bị xem là lỗi mốt và nếu tình trạng đó kéo dài hơn thì chủ hàng phải bán thanh lí để có vốn làm ăn tiếp.
105
biết (từ gần đến xa). Trong trường hợp ngang giá, họ sẽ chọn lấy hàng của
những người có quan hệ gần gũi hơn với họ.
Và cuối cùng, mạng lưới quan hệ xã hội còn có vai trò đắc lực trong
việc cung cấp những thông tin cần thiết cho việc kinh doanh của người Ninh
Hiệp. Thông qua nó, người Ninh Hiệp thu được những tin tức mà mình cần
biết về thị trường, về khách hàng và về những vấn đề khác nữa. Một mạng
lưới quan hệ xã hội với biên độ càng lớn sẽ càng giúp họ cập nhật được
những thông tin hữu ích và có quyết định hợp lí nhất, đặc biệt là nắm được
hàng nào bán được, hàng nào không để có thể chuyển hướng kịp thời. Chị
Thanh (42 tuổi) nói:
Tin tức chung chung thì mọi người đều rõ cả: Nhà này sắp báo
vỡ72, nhà nọ vừa trúng lô hàng ngon… Nhưng vì sao mà nhà đấy
báo vỡ, nhà kia trúng lô hàng gì… lại phải có nguồn cụ thể mới
biết được! Việc buôn bán ấy mà, lúc nào cũng phải bám sát thông
tin trong làng, nào là giá cả các loại hàng, nào là tình hình của các
chủ hàng…, nói chung là cái “thế” buôn bán của cả làng, thì mới
ăn thua!
(Phỏng vấn ngày 12/3/2014)
Nay hàng này, mai hàng kia, người Ninh Hiệp luôn sống trong cuộc
đua với sự thay đổi chóng mặt, và việc “bám sát thị trường” dĩ nhiên là phải
được thực hiện thông qua mạng lưới quan hệ mà mỗi người xây dựng nên.
Dưới góc độ khác, mạng lưới quan hệ rộng cũng giúp các tiểu thương
tránh được những tổn thất. Mạnh chuyên giao vải bò cho một mối hàng ở Đà
Nẵng. Anh kể, nhờ có những thông tin kịp thời từ người quen mà đầu năm
nay anh đã thu về được cả trăm triệu tiền hàng từ mối hàng đang có nguy cơ
“bể mối”. Quân, buôn quần áo trẻ em Trung Quốc, cũng đã hạn chế được mất
mát khi sớm biết mối hàng của anh ở Huế ngừng buôn và không chịu kết toán
nợ đọng - anh không tiếp tục đổ hàng cho họ nữa. Quân nói: “Tính ra tôi còn
mấy chục triệu chưa đòi được, nhưng thôi! Thế này là may lắm rồi!”. Những
chuyện như vậy không hiếm.
72 Tức thông báo vỡ nợ.
106
Mạng lưới quan hệ xã hội không chỉ giúp các tiểu thương ở làng Ninh
Hiệp hòa nhập mạnh với môi trường kinh doanh nội bộ mà còn giúp họ mở
rộng được việc buôn bán ra ngoài làng, tới các chợ thương mại trên cả nước
thông qua những quan hệ có tính chất bắc cầu, hay, mượn cách nói của
Hirsch (2009) [186], làm thay đổi “đường biên giới” của làng với bên ngoài.
Quân cho biết từ người khách hàng ở Huế, anh có thêm các mối quan hệ
khác là một số người kinh doanh vải ở các chợ của thành phố này:
Năm ngoái mình mua được trọn kho hàng thanh lí của một công ty
trong Nam có giá rất rẻ, chỉ nhờ quen biết dắt dây thôi. Hàng trơn,
không có họa tiết nên không sợ lỗi mốt. Mình om đấy, đầu hè vừa
rồi tung ra giống như là hàng mới nhập. Bán tốt lắm!
(Phỏng vấn ngày 21/4/2015)
Mạnh cũng vậy: mối hàng ở chợ Đà Nẵng chỉ có một người thôi,
nhưng qua đó Mạnh lại quen được với một nhóm tiểu thương khá lớn ở đây.
Anh cho biết, việc liên lạc giữa họ diễn ra chủ yếu là qua các phương tiện
viễn thông nhưng cũng đủ để tạo nên các mối quan hệ làm ăn những khi có
điều kiện:
Điện thoại hỏi thăm thường xuyên, ngày tết thì gọi chúc tết! Rồi
thông tin cho nhau xem có thể cùng làm cái gì đó được không…
Nói chung là liên lạc luôn để duy trì quan hệ, không cần vào lúc
này thì cần vào lúc khác!
(Phỏng vấn ngày 26/4/2014)
Các quan hệ như vậy giúp những thương nhân nói trên hiểu biết hơn
về những thị trường khác đã đành, chúng cũng giúp họ có thêm các thông tin
để có thể phần nào kiểm soát được mối hàng của mình, tức là biết được tình
trạng của đối tác hiện tại - điều rất quan trọng trong việc làm ăn. Thực tế,
những vấn đề của một đối tác như có định kinh doanh lâu dài mặt hàng đang
kinh doanh không, có biến cố gì về gia cảnh và tài chính không… đều ảnh
hưởng lớn đến các quyết định trong làm ăn với đối tác đó của tiểu thương
Ninh Hiệp.
Trong hoạt động kinh tế, nếu đối với một công ty sản xuất và kinh
doanh, sự gia tăng lợi nhuận phụ thuộc khá lớn vào mạng lưới quan hệ bên
107
ngoài hay vốn xã hội hướng ngoại, tức mạng lưới quan hệ giữa công ty (nói
một cách chính xác hơn thì là người đứng đầu của công ty) và các khách
hàng, nhà vận chuyển, những cơ quan quản lí thị trường, thậm chí là cả
những công ty đối thủ... [39], thì đối với tiểu thương ở Ninh Hiệp, ngoài việc
củng cố những quan hệ xã hội thuộc nhóm trung tâm, người ta cũng luôn
quan tâm đến mạng lưới các quan hệ xã hội thuộc nhóm ngoại vi của mình.
Trường hợp Ninh Hiệp cho thấy các quan hệ xã hội thuộc nhóm ngoại vi có
vai trò rất đáng chú ý trong việc phát triển lợi ích kinh tế và đó cũng là lời
giải thích cho ý thức duy trì/ mở rộng những mối quan hệ mang tính thực
dụng này.
Như vậy, vốn xã hội bắc cầu ở Ninh Hiệp không chỉ là vốn vươn ra
bên ngoài những nhóm có tính đồng nhất như đặc điểm chung mà ta vẫn biết
của loại vốn này, tức gắn với dạng thức liên kết của quan hệ xã hội, mà còn -
cũng giống như vốn xã hội nội bộ nơi đây - gắn với tính chất của các quan hệ.
Vốn xã hội bắc cầu của người Ninh Hiệp chủ yếu tồn tại trong các quan hệ xã
hội thuộc khu vực ngoại vi.
Có thể thấy, quá trình thương mại hóa đã tác động đáng kể tới vốn xã
hội của các cá nhân ở Ninh Hiệp, tuy nhiên vốn xã hội nơi đây cũng chi phối
quá trình này một cách mạnh mẽ. Đòi hỏi của việc kinh doanh khiến cho
người ta phải có chiến lược củng cố và phát triển vốn xã hội; và mặt khác,
vốn xã hội - trên nền tảng các quan hệ xã hội với sự nhấn mạnh đến tính gắn
bó trong làng và quảng giao ngoài làng vốn là đặc điểm của người Ninh Hiệp
- cũng có vai trò thúc đẩy quá trình thương mại hóa từ quá khứ và ngày càng
mạnh mẽ hơn trong giai đoạn đương đại. Là một làng hỗn hợp có sự xuất
hiện kinh tế thị trường từ rất sớm trên cơ sở hoạt động của các nghề nghiệp
vượt ra khỏi không gian của làng, nếu đa ngành nghề là xu thế của Ninh
Hiệp từ thời kì phong kiến và thuộc địa thì thương mại hóa toàn diện là xu
thế đã được định hình của nó từ ngay sau thời điểm bắt đầu Đổi mới, với nền
tảng không thể thiếu là nguồn vốn xã hội. Câu chuyện về quá trình thương
mại hóa và vốn xã hội ở Ninh Hiệp, trên thực tế, là một câu chuyện có tính
chất hai chiều.
108
Tiểu kết
Dựa trên mạng lưới quan hệ xã hội lấy cá nhân làm trung tâm, vốn xã
hội của các cá nhân ở Ninh Hiệp được hình thành. Trước hết, đó là vốn xã hội
nội bộ, hay vốn nằm trong những nhóm đồng nhất, loại vốn được người Ninh
Hiệp sử dụng để bảo hiểm những rủi ro dễ gặp phải của nghề buôn bán. Vốn
xã hội nội bộ ở Ninh Hiệp thường đi liền với bộ phận quan hệ xã hội trung
tâm. Họ hàng gần và bạn bè thân thiết, những quan hệ được xem là tình cảm,
gần gũi nhất và được xếp vào quan hệ nòng cốt chính là cơ sở của loại vốn
này. Sau nữa, đó là vốn xã hội bắc cầu, hay vốn vươn ra ngoài những nhóm
đồng nhất, loại vốn được người Ninh Hiệp sử dụng để tìm kiếm lợi ích trong
bối cảnh làng là một đấu trường kinh tế. Vốn xã hội bắc cầu ở Ninh Hiệp
thường đi liền với bộ phận quan hệ xã hội ngoại vi. Nói cách khác, vốn xã hội
ở Ninh Hiệp không chỉ gắn với dạng thức liên kết của quan hệ xã hội mà còn
gắn với tính chất của các quan hệ này.
109
Chương 5
TÍNH CHIẾN LƯỢC TRONG QUAN HỆ XÃ HỘI Ở NINH HIỆP -
SỰ ỨNG XỬ VỚI VỐN XÃ HỘI
Trong lúc những cánh đồng lúa quen thuộc trước đây đang ngày càng
lùi xa và khuất dạng, thì khối lượng vải đổ về Ninh Hiệp lại ngày càng ồ ạt
hơn. Vợ tôi, một người không phải là người làng, nhận xét một cách ngạc
nhiên rằng mới có chục năm trước, vào ngày cưới, ngồi trên xe hoa, cô ấy còn
ấn tượng mãi với những cánh đồng xanh mướt của làng, thế mà bây giờ đã
chẳng thấy cánh đồng đâu. Quả thực là khó thấy, vì diện tích đất ruộng của
làng ngày một giảm đi, đồng nghĩa với việc trong làng xuất hiện ngày một
nhiều những thương nhân mới chỉ vài năm trước thôi còn đang ăn thứ gạo do
chính mình làm được. Thay vào các cánh đồng là những cửa hàng vải mọc
lên san sát, làm thành những dãy phố buôn bán vô cùng sầm uất và có thể nói
đẹp ngang với những dãy phố trung tâm của Hà Nội. Không khí của làng bây
giờ cũng không còn sự thoáng đãng như trước nữa, mà vương vất mùi vị khó
tả của vải, đúng hơn là của bụi vải. Người dân trong ngôi làng cổ thuộc xứ
Bắc một thời này nói với nhau rằng nếu đem toàn bộ số vải đang trữ ở Ninh
Hiệp nối lại thì sẽ có một tấm vải “che kín được bầu trời Bắc Ninh”, và khi
nói như vậy, không phải bản thân họ không có sự choáng ngợp. Không
choáng ngợp sao được, khi quá trình phi nông nghiệp hóa của làng chưa bao
giờ diễn ra mạnh mẽ và triệt để như nó đã là trong thời gian qua! Và, người
dân Ninh Hiệp, như một lẽ tất nhiên, với sự “choáng ngợp” đó, cũng xây
dựng cho mình một chiến lược có thể nói là mạnh mẽ và triệt để hơn bao giờ
hết trong quan hệ xã hội nhằm bảo hiểm rủi ro và tìm kiếm những lợi ích liên
quan đến thương mại, cái đang là nghề mưu sinh chính của làng hiện nay.
Chiến lược này gắn liền với vốn xã hội. Cụ thể hơn, nó được thể hiện
trong việc bảo vệ và phát triển vốn xã hội. Việc xây dựng chiến lược bảo
hiểm rủi ro và phát triển kinh tế của người Ninh Hiệp về cơ bản dựa trên tính
chất tự nhiên của các mối quan hệ trong mạng lưới của họ. Không phải bây
giờ người ta mới nhận ra rằng càng củng cố các quan hệ mang tính tình cảm,
110
người ta càng có chỗ dựa vững chắc trong những hoàn cảnh khó khăn và
càng có nhiều quan hệ mang tính thực dụng, người ta lại càng có cơ hội tiến
tới những nấc thang cao hơn về kinh tế. Vai trò của các quan hệ xã hội đã
được nhận thấy từ những gì diễn ra trong quá khứ và người ta vẫn nghĩ về
chúng như thế trong hiện tại. Thật vậy, việc bảo vệ và phát triển vốn xã hội
được quy định bởi tính chất của những quan hệ này - tính chất thế nào thì
chiến lược thế ấy. Để bảo hiểm rủi ro người ta hướng tới chất lượng của các
quan hệ tình cảm và để phát triển kinh tế người ta hướng tới số lượng của các
quan hệ thực dụng.
5.1. BẢO VỆ VỐN XÃ HỘI
Việc bảo vệ vốn xã hội chỉ diễn ra với vốn xã hội nội bộ. Bảo vệ vốn
xã hội phi nội bộ không phải là vấn đề mà người ta cần đặt ra vì trong khi
vốn xã hội nội bộ gắn với với mạng lưới quan hệ xã hội trung tâm là những
quan hệ mang tính tình cảm thì vốn xã hội phi nội bộ lại gắn với mạng lưới
quan hệ ngoại vi là những quan hệ mang tính thực dụng, tức chủ yếu dựa
trên cơ sở lợi ích.
Người làng Ninh Hiệp giữ gìn vốn xã hội nội bộ của mình, cụ thể là
tránh để nó bị tổn hại, bằng cách tách quan hệ xã hội nòng cốt khỏi các hoạt
động kinh tế.
Đối với các thành viên thuộc khu vực nòng cốt trong mạng lưới quan
hệ xã hội của mình là những người họ hàng gần và bạn bè thân thiết, người
Ninh Hiệp i) không liên kết trong các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp
(thương mại, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ), ii) không thuê mướn làm nhân
công, và iii) không vay vốn để làm ăn. Đó là những gì mà tôi đã rút ra được
khi tìm hiểu về “mối quan hệ” giữa hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội
gần gũi ở nơi đây73.
Kể từ năm 1986, chủ trương đổi mới của Nhà nước và việc thông
thương biên giới phía Bắc đã tạo cơ hội lớn cho người Ninh Hiệp trong việc
khuếch trương hoạt động kinh doanh của mình, vốn khá có truyền thống từ
73 Tất nhiên vẫn tồn tại những trường hợp cá biệt, nhưng đúng như tên gọi, đó thực sự chỉ là
những trường hợp cá biệt.
111
trước. Như ghi nhận của Endres (2012) [166] và Grillot (2014) [32], đã có rất
nhiều người từ cả hai phía Việt Nam lẫn Trung Quốc lao vào “vùng kinh tế
biên giới” đang trỗi dậy này để làm ăn và các trao đổi thương mại đã diễn ra
không ngừng nghỉ ở đây. Trong xu hướng đó, đến nay hầu như gia đình nào ở
Ninh Hiệp cũng có người tham gia buôn bán. Khu chợ Ninh Hiệp ngày càng
được mở rộng cả về quy mô và tính chất (số lượng ki ốt lớn và hiện đại hơn)
cũng là để đáp ứng nhu cầu này của người dân. Giữa bối cảnh cơ cấu kinh tế
của làng đang chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng thương mại hóa hiện nay, có
thể thấy nổi lên hiện tượng độc lập trong làm ăn của các tiểu thương với tư
cách “tiểu chủ”.
Trước đây, vào những năm 90 của thế kỉ XX, khu thương mại Ninh
Hiệp là sự tập hợp của rất nhiều tiểu thương - người buôn bán nhỏ. Cuối thập
niên 90 và đầu thập niên 2000, những người có khả năng cũng như tiềm lực
kinh tế đủ mạnh để trở thành người buôn bán lớn bắt đầu xuất hiện. Họ, bằng
vào sự nhạy bén và cả may mắn, đã thành công hơn những người khác, ngày
càng trở nên giàu có và nuôi dưỡng nhiều tham vọng trong hoạt động thương
mại. Đó là những trường hợp đầu tiên trở thành những đầu mối bán vải cho
người làng. Việc tổ chức mua, vận chuyển hàng hóa về Ninh Hiệp để cung
cấp cho những người bán vải ở làng và mở rộng tìm kiếm nguồn hàng không
chỉ ở Trung Quốc mà còn ở cả Hàn Quốc, Nhật Bản và châu Âu của đối
tượng này kéo theo một xu hướng mới chuyên nghiệp hơn trong mạng lưới
kinh doanh. Họ thực sự nắm vai trò trung gian cung cấp phần lớn nguồn hàng
cho người bán vải ở Ninh Hiệp. Thế nhưng vào quãng năm 2005 trở ra, do sự
trở lại của xu hướng kinh doanh độc lập của những tiểu thương Ninh Hiệp74,
những người này chỉ còn “bỏ mối” cho dân tỉnh. Nguyên nhân khiến tiểu
thương Ninh Hiệp không còn tiếp tục mua lại hàng của những đầu mối này
nữa mà chủ động liên hệ nguồn hàng, cũng như vận chuyển và kinh doanh
theo đúng kiểu “buôn tận gốc, bán tận ngọn” - như kết quả phỏng vấn hồi cố
của tôi cho biết - là lợi nhuận thu về sẽ lớn hơn, vì không phải chia sẻ ở tỉ lệ
74 Cũng có những hộ gia đình mua lại vải của người làng để bán nhưng đó là vì những hộ này
chỉ có vợ (hoặc chồng) làm nghề nên không có người đảm nhiệm việc sang bên kia biên giới
Việt - Trung để lấy hàng.
112
rất cao cho trung gian. Tất nhiên, trong quá trình kinh doanh, cũng vẫn có
những tiểu thương Ninh Hiệp hợp tác với nhau, song điều đó chỉ mang tính
nhất thời. Sự thành lập nhóm thường diễn ra rất nhanh để chớp cơ hội về một
nguồn hàng nào đó có khả năng đem lại lợi nhuận cao mà một cá nhân thì khó
đáp ứng được đủ yêu cầu về vốn, và nhóm này sẽ tan rã ngay khi việc làm ăn
kết thúc. Hoặc giả, để cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường với cá nhân hay nhóm
nào đó về một mặt hàng, người ta cũng có thể tạm thời thiết lập một liên
minh, nhưng chỉ là tạm thời mà thôi.
Việc độc lập làm ăn, hay nói cách khác chủ động lấy hàng tận gốc -
mà thường là Trung Quốc - về bán đã kéo theo rất nhiều sự vất vả và rủi ro
cho các thương nhân. Ít nhất 1 tuần/lần, thương nhân Ninh Hiệp phải đích
thân sang Trung Quốc để chọn và đặt hàng. Trước đây, việc đó thường do
phụ nữ thực hiện, nhưng nay một số nam giới đã đảm nhiệm thay (có người
tự quyết định việc chọn hàng, có người chụp ảnh các mẫu rồi gửi về qua
mạng để vợ chọn, sau đó đặt mua). Họ không thể đi với tần suất thưa hơn vì
mặt hàng kinh doanh chủ yếu của làng là hàng thời trang - vải và quần áo,
những thứ đòi hỏi phải liên tục cập nhật trào lưu mới. Để không bị mất quá
nhiều buổi chợ ở Việt Nam và giảm chi phí thuê chỗ trọ tại Trung Quốc, họ
đi và về vào buổi chiều muộn (ngủ đêm trên ô tô). Mặc dù vậy chuyến đi
cũng kéo dài tới hai ngày. Ngoài việc di chuyển bằng phương tiện cơ giới
qua quãng đường vài trăm ki lô mét với nhiều địa hình, địa thế phức tạp, họ
còn phải cuốc bộ theo những con đường mòn xuyên rừng mới tới nơi. Sự vất
vả là rõ ràng. Một cựu công chức, nay là dân buôn kể rằng sau lần đầu tiên
sang Trung Quốc lấy hàng cho vợ, anh đã lăn ra ốm vì kiệt sức. Nhưng
không chỉ vất vả, việc chủ động lấy hàng tận gốc còn chứa đựng đầy rẫy
nguy cơ. Nguy cơ chủ yếu và quan trọng nhất nằm ở việc lựa chọn mặt hàng.
Nếu phán đoán sai xu hướng của thị trường, người ta sẽ phải trả giá. Chỉ cần
vài lần phán đoán sai cũng có thể khiến một thương nhân phá sản. Sự phán
đoán này vẫn chứa đựng trong nó tính chất may rủi. Không chỉ những người
không có kinh nghiệm dễ mắc sai lầm mà ngay cả những người có nhiều
113
kinh nghiệm cũng không dám đảm bảo mọi sự tính toán của họ luôn chính
xác. Có thể thấy, việc mua hàng tận gốc về kinh doanh tuy đem lại lợi ích lớn
hơn so với việc mua lại của người bán buôn, song thử thách cũng thật đáng kể
và nhiều khi còn vượt quá cả lợi ích. Đến đây, hẳn nhiều người sẽ nghĩ rằng
dù thương nhân Ninh Hiệp không muốn liên kết với người làng vì không
muốn mất quá nhiều “lãi ròng” vào tay những nhà buôn lớn, họ cũng sẽ liên
kết (chung vốn) với những người trong khu vực nòng cốt của mạng lưới quan
hệ xã hội của họ - họ hàng gần và bạn bè thân - vì lợi ích của chính họ? Sự
thực lại không phải như thế. Mặc dù có nhiều cơ sở để thực hiện việc liên kết
với người có quan hệ gần gũi và rất nên thực hiện sự liên kết này (độ tin cậy
cao, cơ hội lớn trong việc tận dụng khả năng phán đoán thị trường của những
người có kinh nghiệm và trong việc tận dụng vốn, tính khả thi của việc
thương lượng để có một tỉ lệ phân chia lợi nhuận hợp lí…), ở Ninh Hiệp hiện
nay rất hiếm gặp một nhóm buôn bán như dạng đang đề cập. Chưa kể đến
những mối quan hệ rộng hơn, ngay trong một nhà thì việc cha mẹ với con
cái, anh chị em ruột với nhau (chưa lập gia đình) kinh doanh độc lập cũng là
tình trạng cực kì phổ biến. Khảo sát nhanh những đối tượng sinh quãng giữa
thập niên 70, tức đang ở giai đoạn làm ăn sung sức nhất vì vừa có kinh
nghiệm và vốn, lại vừa có sự nhạy bén và quyết đoán, tôi chỉ thấy được một
“nhóm” mà mình muốn tìm, đó là trường hợp hai chị em Hà và Dung buôn
vải và quần áo may sẵn - quá ít cho cả một lớp người buôn bán.
Bên cạnh việc không liên kết trong buôn bán, người Ninh Hiệp cũng
không liên kết với người thân quen trong những hoạt động kinh tế khác của
làng là sản xuất tiểu thủ công nghiệp và làm dịch vụ. Hoạt động sản xuất tiểu
thủ công nghiệp phổ biến nhất ở Ninh Hiệp vào thời điểm này là gia công
hàng may mặc75 còn các hoạt động dịch vụ ở Ninh Hiệp thì khá phong phú,
do đặc thù của làng (khách tứ xứ rất đông đúc và người buôn bán thì không
có nhiều thời gian cho việc gia đình). Dẫu vậy, hầu như không có chuyện
người trong họ hay bạn bè thân “cộng tác” với nhau ở đây, hiểu theo nghĩa
75 Người Ninh Hiệp thường vừa sản xuất, vừa kinh doanh luôn các mặt hàng mà mình làm ra.
114
góp vốn làm chung. Tại một số thôn, nơi việc gia công hàng may mặc diễn ra
rất sôi động, khá nhiều người là anh chị em ruột mở xưởng may độc lập dù
làm cùng một loại hàng. Để loại trừ khả năng đây chỉ là tình trạng tạm thời,
tôi đã nhiều lần hỏi họ rằng liệu có ý định kết hợp làm ăn với nhau vào một
thời điểm nào đó trong tương lai hay không và tôi luôn nhận được câu trả lời
mang tính phủ định. “Ở làng người ta tránh làm chung với thân thích”, một số
giải thích rõ với tôi như vậy.
Cùng với việc không liên kết trong các hoạt động kinh tế với người
thuộc khu vực nòng cốt của mạng lưới quan hệ xã hội, dân làng Ninh Hiệp
còn hạn chế việc thuê nhân công là người thuộc khu vực này. Những người
kinh doanh vải ở Ninh Hiệp mà tôi biết cùng lắm chỉ nhận người thân quen,
thường là còn trẻ, vào bán hàng với mục đích giúp người đó tập tành công
việc kinh doanh (nói chính xác là tạo điều kiện cho người đó có kinh nghiệm
và chút vốn trước khi bắt đầu đứng ra buôn bán độc lập) chứ không thuê lâu
dài. Những người mở xưởng sản xuất tiểu thủ công nghiệp cũng vậy. Kiên,
chủ một xưởng may mặc quần áo, khẳng định dứt khoát rằng anh chỉ giúp
con cháu trong nhà để chúng có được một cái nghề, còn việc thuê để mà thuê
thì “nói thẳng là không muốn”. Tương tự, xưởng sản xuất gỗ công nghiệp
của vợ chồng Lâm cũng không có một công nhân nào là thân thích.
Mặt khác, vào thời điểm hiện tại, cũng hầu như không có hiện tượng
vay mượn để phát triển kinh doanh giữa những người có quan hệ xã hội gần
gũi ở Ninh Hiệp. Việc này được hiểu là, không có chuyện vay và cũng không
có chuyện cho vay. Đã thành luật bất thành văn ở nơi đây, muốn mở rộng
kinh doanh người ta đi vay lãi, chỉ khi khởi nghiệp hay gặp khó khăn (phá
sản) mới yêu cầu sự trợ giúp của người thân quen. Cách đây gần 10 năm, bà
Lương muốn mở một xưởng may với quy mô 50 máy khâu công nghiệp trên
mảnh vườn 2000 m2 ở khu vực gần Ủy ban xã, bà đã đem giấy tờ nhà đất của
mình đi vay, mặc dù con dâu bà là người buôn bán tháo vát có tiếng và
không thiếu tiền. Còn nếu có ai đó phá lệ, hỏi vay tiền để kinh doanh, người
được hỏi sẽ có cách nói hoặc thẳng thắn, hoặc khéo léo, hoặc hơi “phũ” để từ
chối. Chẳng hạn, năm ngoái, bà Thoan ngỏ ý vay tiền bà Nhài - là bạn lâu
115
năm - để mở thêm xưởng may, bà Nhài đã đáp luôn: “Chị khó khăn thì em
giúp một ít, chứ cho vay thì em chịu thôi!”.
Như vậy, đang có một xu hướng tách các hoạt động kinh tế ra khỏi các
quan hệ xã hội gần gũi ở người Ninh Hiệp.
Nguyên nhân của hiện tượng trên là mong muốn tránh làm tổn hại
quan hệ của mỗi cá nhân do những va chạm từ hoạt động kinh tế gây ra và vì
thế tránh làm tổn hại thể diện của mỗi người trong nhóm, hay nói cách khác,
bảo vệ vốn xã hội nội bộ và bắc cầu của mỗi cá nhân.
Việc xuất hiện những đổ vỡ trong quan hệ xã hội từ hoạt động kinh tế
là một thực tế từng xảy ra ở Ninh Hiệp.
Như đã nói, sự hợp tác kinh doanh khá phổ biến ở Ninh Hiệp trong
khoảng cuối những năm 1990 đến giữa những năm 2000. Và, từ các xích
mích khó tránh khỏi trong làm ăn kinh tế, không ít trường hợp anh em, họ
hàng từ mặt nhau. Lí do của sự xích mích là việc cân bằng giữa các nguyên
tắc làm ăn mang tính thị trường và việc giữ gìn tình cảm theo chuẩn mực
truyền thống khó có thể thực hiện đồng thời. Cuối những năm 1980, bà
Lương từng vay của chị ruột, bà Châu, một khoản tiền lớn để kinh doanh
đường dài Nam - Bắc với mặt hàng là đồng và niken. Bà Châu là một thương
gia rất giàu có, giàu đến mức nhà “có tới hai xe máy Dream” trong khi con số
xe máy Dream ở cả Hà Nội bấy giờ mới đếm trên đầu ngón tay. Bà Châu đã
cho em vay. Không may bà Lương thất bại, phá sản. Vốn được mệnh danh là
“Do Thái” của Ninh Hiệp, bà Châu đánh hơi ngay được tình hình và là người
đầu tiên trong số các chủ nợ đến thu hồi nợ, tuy thế cũng chỉ vớt vát được một
phần. Vì bà Châu là chủ nợ lớn, vợ chồng bà Lương đã đến nhà vợ chồng bà
Châu xin giãn nợ. Chồng bà Châu, không nể nang gì, đã nặng lời với bà Châu
ngay trước mặt vợ chồng bà Lương về “tội” cho em gái vay tiền làm ăn. Từ
đó về sau, trừ khi nghĩa vụ bắt buộc, vợ chồng bà Lương hầu như không qua
lại với vợ chồng bà Châu nữa. Chuyện nhà bà Thường cũng gần giống như
vậy. Giữa thập niên 90, sau nhiều lần vào Sài Gòn buôn bán, bà Thường học
được nghề làm áo khoác nhung cho người cao tuổi. Bà đã quyết định góp vốn
với chị dâu mở xưởng sản xuất tại nhà. Mặt hàng này rất được ưa chuộng, đã
116
từng gây sốt ở Hà Nội suốt thời gian dài. Tuy nhiên, sau một thời gian làm ăn
chung, thấy có nhiều điều bất tiện, bà Thường đã tách ra. Vậy là ở Ninh Hiệp
lúc đó có hai xưởng sản xuất áo khoác nhung độc lập. Có điều, trong khi
xưởng của bà Thường ngày một hưng thịnh thì xưởng của chị dâu bà lại ngày
một vắng khách. Chị dâu bà Thường cho rằng bà đã cướp nguồn thu nhập của
mình, nên nhiều lần nói lời khó nghe. Va chạm giữa hai bên đã nảy sinh như
một điều tất yếu. Đỉnh điểm của sự va chạm này là việc xảy ra vào một ngày
trước tết. Khi con trai cả của bà Thường mang đồ lễ đến để gửi Tết theo phong
tục, chị dâu bà Thường đã sai con đem trả. Nếu không có người can, ẩu đả đã
xảy ra giữa các con bà Thường và người này. Quan hệ giữa hai gia đình đổ vỡ
một thời gian dài sau sự kiện nói trên. Ngay cả khi quan hệ đó được hàn gắn ở
mức độ nhất định (vì suy nghĩ rằng “ruột thịt chẳng bỏ được nhau”), nó vẫn
hết sức nhạt nhẽo. Trong ngày cưới của mình, thậm chí con trai cả bà Thường
còn tránh mặt, không chào hỏi những người anh họ đến ăn cỗ. Những hiện
tượng như trên, có thể nói, không hề hiếm gặp kể từ sau khi các hoạt động
kinh tế của làng trở nên khởi sắc (tức sau khi mở cửa biên giới Việt - Trung).
Và, việc những tổn hại về mặt tình cảm trong các quan hệ xã hội gần
gũi đã kéo theo sự mất thể diện, cái ảnh hưởng đến vốn xã hội bắc cầu, cũng
diễn ra. Có thể liệt kê một số hành động dễ dẫn đến điều này như không thấu
lí đạt tình trong chuyện chia lợi nhuận với người thân quen, lợi dụng mối
quan hệ với người thân quen để có được địa điểm kinh doanh tốt rồi ngay sau
đó chuyển nhượng cho người khác hưởng chênh lệch, vay mượn người thân
quen để kinh doanh mà không trả đúng hẹn76... Đến nay, người ta vẫn còn
nhắc đến câu chuyện mấy năm trước của con gái bà Thơ như một bài học
kinh nghiệm về mối liên quan giữa việc đánh mất thể diện trong quan hệ với
người thân và việc đánh mất lợi ích trong chuyện làm ăn ở làng. Chị gái bà
Thơ, buôn vải ở chợ truyền thống, bán (nói đúng ra là nhượng quyền sử
dụng) một ki ốt cho con gái bà Thơ với giá “tình cảm” là 2 tỉ đồng. Ai ngờ,
vừa mua xong, đứa cháu đã bán ngay cho người khác với giá 2 tỉ 3. Chị gái
76 Tiền ở Ninh Hiệp ít khi là tiền “chết” mà thường nằm trong một chu trình kinh doanh nhất
định, vì thế việc trả không đúng hẹn dễ gây ra hậu quả không mong muốn đối với người cho vay.
117
bà Thơ có nói với hai mẹ con là bà tưởng cháu mua ki ốt để bán hàng thì bà
lấy giá đấy, chứ mua để bán cho người khác thì phải bù thêm tiền cho bà. Bà
Thơ trả lời rằng bà không phải người mua nên bà không chịu trách nhiệm
trong việc này, còn con gái bà Thơ thì khẳng định như đinh đóng cột là mình
không có lỗi gì cả vì đã “mua đứt bán đoạn” rồi. Dần dần, việc cũng loang ra.
Làng xóm rất chê trách mẹ con bà Thơ và một số người cùng buôn bán đã tẩy
chay họ một thời gian dài. “Scandal” của Vĩnh cũng là chủ đề đàm tiếu.
Trong một thời điểm “nóng” của việc kinh doanh, Vĩnh vay của mẹ vợ
khoảng 1 tỉ. Số tiền đó thật ra không đáng kể so với số vốn mà Vĩnh có, vì
anh này trước nay vẫn buôn lớn và có nhiều mối hàng ở nhiều tỉnh, bao gồm
cả những tỉnh xa là Huế và TP. Hồ Chí Minh. Song vì lí do nào đó, Vĩnh
không trả nợ đúng hẹn, cũng không có lời thưa lại rõ ràng với mẹ vợ. Bà mẹ
vợ liên lạc với Vĩnh lại nhận được những lời lẽ khó nghe của con rể, đã bù lu
bù loa với bạn chợ của mình. Thế là chẳng mấy chốc cả làng hay chuyện. Một
thời gian sau, Vĩnh bình thường hóa quan hệ với mẹ vợ. Ắt hẳn là Vĩnh đã
tìm cách dàn xếp được vụ việc với người trong cuộc, tuy nhiên, trong làng
không còn ai nghĩ tốt về anh chàng. Quả thực, với những người vướng phải
tai tiếng, quan hệ xã hội của họ ở trong làng đều không tránh khỏi rơi vào
tình trạng bị giới hạn đáng kể như một sự trừng phạt. Tôi từng được thành
viên của một số hội đồng niên cho biết hội của họ đã từ chối kết nạp khá
nhiều trường hợp “có vấn đề”. Trong làm ăn, những đối tượng như vậy cũng
không nhận được sự tương hỗ nào từ người cùng buôn bán77. Nếu với trường
hợp nghiên cứu của Yan ở công trình đã dẫn, người làng chỉ thể hiện sự
không đồng tình qua việc cô lập một đối tượng có hành vi xấu trong những
tình huống đặc thù (ví dụ tẩy chay việc dự đám cưới, đám ma... của gia đình
người đó), thì ở Ninh Hiệp - gay gắt hơn - điều này còn được thể hiện cả
77 Sự tương hỗ này giữa những người cùng buôn bán ngoài chợ được thực hiện theo từng khu vực,
tức theo không gian chứ không phải theo chủng loại hàng. Người ngồi cùng một khu vực thường
có sự liên thông nhằm trao đổi thông tin và khách hàng cho nhau. Ví dụ: chị Hòa (thôn 6) cho biết
khu vực của chị gồm có nhiều loại hàng hóa: quần áo gia công do người làng sản xuất, quần áo
may sẵn của Trung Quốc, các loại vải… Mỗi khi có khách hỏi về một loại hàng mà chị không
buôn, chị gọi điện liên hệ với người chuyên bán loại hàng đó rồi trực tiếp dẫn khách đến sạp của
người ta. Những người khác cùng buôn bán trong khu vực cũng ứng xử như vậy với chị. Ở phạm
vi rộng hơn, tình hình nhìn chung tương tự.
118
trong đời sống thường nhật, đặc biệt là khi đời sống thường nhật đó lại liên
quan đến việc mưu sinh của anh ta.
Ngoài ra, việc một người nhận được sự đánh giá như thế nào về vấn đề
này không chỉ ảnh hưởng đến chuyện làm ăn của bản thân người đó mà còn
ảnh hưởng tới cả những đối tượng khác trong gia đình anh ta nữa. Không ít
người đã gặp khó khăn khi đi lấy hàng của người làng để kinh doanh vì có
người thân mang tiếng không hay trong quan hệ họ mạc (ví dụ như chia chác
lợi nhuận không sòng phẳng khi làm ăn chung), cuối cùng đành phải nhờ đến
bảo lãnh - điều mà bình thường vốn là không cần thiết. Sự đánh giá đối tượng
bằng cách lồng ghép tư cách trong làm ăn với bản chất con người được thể
hiện qua các quan hệ gần gũi, nhất là quan hệ họ hàng, là rất đặc trưng cho
môi trường làng xã Việt và địa bàn mà tôi đang nghiên cứu rõ ràng không
phải là ngoại lệ.
Trước thực trạng vừa nêu, người Ninh Hiệp cũng dần rút ra những
“kinh nghiệm” cho mình. Do nhận thức được rằng không thể dung hòa quan
hệ kinh tế và quan hệ tình cảm, họ không còn tiếp tục sự hợp tác trong việc
làm ăn.
Dân làng Ninh Hiệp, như đã nói, không góp vốn chung, vay mượn để
kinh doanh hay thuê mướn nhân công trong các quan hệ thuộc khu vực nòng
cốt của mình. Theo sự phân tích của họ, việc buôn bán khó lòng không theo
nguyên tắc thị trường mà liên quan đến đồng tiền lại có rất nhiều vấn đề phức
tạp nảy sinh và khó kiểm soát nên không sớm thì muộn sẽ gây ra những đổ vỡ
nhất định nếu đối tác là người thân. Chủ trương chung của người làng hiện
nay là không để đồng tiền can thiệp vào các quan hệ dễ rạn nứt nhưng lại khó
hàn gắn này, trên tinh thần “việc ai nấy làm” và “mất lòng trước, được lòng
sau”. Dưới đây là những giải thích cụ thể hơn của họ.
Trước hết, về việc liên kết làm ăn. Chung vốn với người thân quen tất
nhiên có lợi, nhất là trong trường hợp không đủ khả năng tài chính hay thiếu
kinh nghiệm, nhưng mặt khác nó cũng đem lại cho người ta những điều khó
xử. Chẳng hạn, nếu người kia muốn hàng hết nhanh nên bán rẻ hơn mức
thống nhất ban đầu, hoặc giả gặp khách quen nên tự động bớt đi một hai giá,
119
thì người còn lại rất khó phản ứng. Mặt khác, tiền ra tiền vào dễ nhầm lẫn,
mỗi người bán một nơi sẽ không thể quản lí giúp nhau được (việc chưa kịp
ghi sổ một khách mua chịu nào đó rồi sau quên mất, hay việc bán vải sơ ý
tính thiếu vài chục mét… là những chuyện rất dễ xảy ra, tránh được trong
một vài tuần chứ không thể tránh được trong một vài tháng). Nhiều lần như
vậy dồn vào thì số tiền hao hụt là không nhỏ, trong khi người này không thể
trách người kia vì đây chỉ là lỗi vô tình. Đó là chưa kể việc bị lấy trộm hàng,
hay bị người bán thuê bớt xén tiền. Dở nhất là chuyện khách hàng của một
người vỡ nợ hoặc “bùng”, lúc ấy tiền hàng không đòi được và tất cả đều phải
gánh hậu quả, bởi chỗ họ hàng, bạn bè với nhau không dễ xử lí sòng phẳng.
Rồi, dù người này bán được 9, người kia bán được 1, lãi vẫn cứ phải chia đều
vì không thể chia theo kiểu bán được bao nhiêu hưởng bấy nhiêu như với
người ngoài. Ngoài ra, có những việc phải quyết định nhanh để không lỡ cơ
hội, nhưng làm chung thì phải bàn bạc với nhau rồi mới quyết định được mà
do vai vế, nhiều khi người “khôn ngoan” hơn lại không phải là người được
quyền có tiếng nói cuối cùng.
Tương tự, với việc không thuê mướn nhân công hay việc không vay/
cho vay trong khu vực quan hệ xã hội nòng cốt vì mục đích kinh doanh,
người Ninh Hiệp có những tính toán rất thực tế. Nhiều người không muốn
thuê người thân quen bán hàng vì nếu thuê người ngoài, mất mát thiếu hụt gì
là có thể yêu cầu bù bất kể người được thuê có lỗi hay không, nhưng với
người thân quen thì khó có thể yêu cầu như thế. Mặt khác, nhận người thân
quen vào làm ở xưởng, nếu đó là người có ý thức thì không sao còn nếu đó là
người bê trễ, người thuê ắt gặp khó khăn bởi thúc ép sẽ bị mang tiếng mà
không thúc ép lại ảnh hưởng đến tiến độ của công việc chung. Với những
xưởng may từ vải ra thành phẩm, các công đoạn có liên quan với nhau thì
người này chậm là người kia phải chờ, mà trong thời buổi cạnh tranh hiện
nay, chủ xưởng chỉ cần sai hẹn một vài lần thôi là đủ để mất khách hàng.
Điều này có nét tương đồng với những gì mà người cung cấp thông tin cho
công trình của Tong và Yong mô tả: “Làm ăn với anh em ruột hoặc anh em
họ, rồi đôi khi hỏng việc, bạn có thể rầy la và muốn sa thải, không làm ăn với
120
anh ta nữa. Nhưng điều này không dễ. Mẹ bạn hoặc ai đó sẽ đến suốt và nói,
nó là em là em họ con, hãy cho nó một cơ hội nữa. Và thế là lại phải cho cơ
hội nữa, rồi lại hỏng việc. Lại cho cơ hội nữa. Cứ thế mãi. Làm sao bây giờ?
Cứ phải như thế mãi đến khi muốn chấm dứt cái quan hệ này, mà đây là điều
bạn không muốn. Đó là vấn đề” [133, tr. 70]. Không phải vô cớ mà các chủ
xưởng ở Ninh Hiệp hiện nay chỉ thuê thợ là người ngoài (đặc biệt là người
của các làng làm nông lân cận thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Còn về chuyện vay mượn, gần như hầu hết những người kinh doanh ở
Ninh Hiệp đều xác định rằng khi cần họ sẽ đi vay lãi chứ không hỏi họ hàng
hay bạn bè vì biết tiền của những đối tượng này cũng không phải là tiền rỗi,
nếu họ không trả lãi thì cảm thấy có lỗi mà trả lãi thì người bị hỏi vay sẽ rất
khó xử.
Rõ ràng, việc khó áp dụng những nguyên tắc thông thường của hoạt
động kinh doanh vào đối tác là người có quan hệ gần gũi đã gây ra cho người
ta một tâm lí không thoải mái. Các quy ước của cộng đồng trong ứng xử với
người thân quen là sự ràng buộc lớn mà nếu họ không theo sẽ bị đánh giá là
không tốt (tính toán khắt khe với những đối tượng không nên khắt khe), còn
nếu theo sẽ thiệt hại không nhỏ về kinh tế78. Không thể giải quyết được nan
đề này thì tránh hoặc hạn chế, đó là quan điểm nhất quán bộc lộ qua những
câu chuyện của họ. Như vậy, việc tách hoạt động kinh tế ra khỏi các quan hệ
tình cảm gần gũi ở người Ninh Hiệp được thực hiện là để tránh cho chúng
những sự tổn hại, và qua đó bảo vệ vốn xã hội nội bộ. Đồng thời, việc tách
hoạt động kinh tế khỏi các quan hệ xã hội nòng cốt - tức việc tránh những
chuyện rắc rối có thể có liên quan đến người thân quen - được thực hiện cũng
là để bảo vệ thể diện “bên trong nhóm” của mỗi cá nhân như một cách giữ gìn
và phát triển vốn xã hội bắc cầu.
78 Điều này khiến chúng tôi liên tưởng đến những gì xảy ra với một vị thầu khoán ở tỉnh Hebei
mà Yan nhắc đến trong công trình của mình. Vị thầu khoán này đã tổ chức một đội xây dựng trên
cơ sở những quy tắc và kỉ luật cứng nhắc, sẵn sàng đuổi việc những người không đáp ứng yêu
cầu dù quan hệ cá nhân giữa ông ta và họ ra sao. Tuy đội hoạt động hiệu quả, song ông làm mất
lòng nhiều người và hủy hoại quan hệ của mình trong làng. Cuối cùng, không thể tồn tại ở làng,
ông phải bỏ lên thành phố lập nghiệp.
121
Nói thật, làm chung với người thân, tuy là có thỏa thuận từ trước
nhưng mà rồi nhiều khi cũng không rạch ròi được! Ví dụ, nếu một
bên vừa gặp sự cố, thì dù người ta góp vốn ít hơn, mình cũng khó
lòng chia cho người ta tiền lãi ít hơn. Không nghĩ đến đạo lí thì sau
này bà con trong họ còn ai coi mình ra gì? Thế nên tôi vẫn bảo các
cháu nhà tôi, chuyện có làm ăn chung với anh em, bạn bè thân hay
không phải cân nhắc thật kĩ, vì sau này sơ sẩy một chút thôi là
mang tiếng!
(Nam, 54 tuổi, phỏng vấn ngày 18/10/2013)
Mấy năm trước tôi buôn hàng Bắc - Nam, có lần cần tiền gấp định
hỏi vay bà chị, rồi nghĩ kĩ lại thôi. Bà ấy thì giàu, nứt đố đổ vách...
Có điều, ông chồng với mấy đứa con khó tính lắm... Vay rồi trả
ngay thì chẳng nói làm gì, lỡ chưa trả được ngay mà chồng con bà
ấy biết lại bảo là mình lợi dụng, rồi nói nọ nói kia trong làng! Vay
lãi cho đỡ nặng đầu!
(Nữ, 50 tuổi, phỏng vấn ngày 18/10/2013)
Thế này nhé! Tình cảm bình thường thì vẫn tốt, nếu người ta cần
mà mình giúp thì càng tốt hơn nữa, đúng không ạ? Nhưng thuê
người trong họ vào xưởng, kể cả đã thống nhất điều khoản nọ kia
rồi, tức là đồng ý mới vào làm thì về lâu về dài những cái chuyện
không bằng lòng vẫn cứ xảy ra, chẳng bao giờ tránh được đâu
anh… Không bằng lòng mà phàn nàn với nhà mình đã may, ngại
nhất là không bằng lòng lại đi phàn nàn với người ngoài, mình sẽ
mang tiếng! Kiểu như đi ăn cỗ nói chuyện với người này người
khác ấy mà! Sợ lắm! Em nghĩ tránh được lùm xùm chừng nào thì
hay chừng ấy, nên em cứ thuê người ngoài!
(Nam, 35 tuổi, phỏng vấn ngày 18/10/2013)
Cũng có thể thấy hiện tượng phần nào giống như vậy - hạn chế hợp tác
kinh tế trong các mối quan hệ gần gũi - qua một mô tả của Yan. Yan cho biết,
ở Xiajia, nam giới có xu hướng tạo lập liên minh làm ăn với họ hàng đàng vợ
thay vì liên minh với họ hàng đàng cha (mà hiển nhiên được xem là quan hệ
122
họ hàng gần). Việc trồng dưa hấu, do nhu cầu về vốn lớn và độ rủi ro cao, là
một việc rất cần hợp tác, song trong số gần chục trường hợp được khảo sát thì
có tới bảy người chọn hợp tác với anh em đồng hao thay vì anh em trai của
mình. Lý do được đưa ra là làm việc với anh em đồng hao dễ hơn. Quan hệ
của anh em đồng hao ở đây là quan hệ thông qua một chiếc cầu - quan hệ chị
em của những người vợ - nên không có xung đột lợi ích do thừa kế như quan
hệ giữa anh em ruột với nhau. Tuy nhiên, nếu ở địa bàn nghiên cứu của Yan,
việc không hợp tác với các đối tượng thuộc khu vực quan hệ xã hội nòng cốt
xuất phát từ chỗ việc hợp tác đó là khó thực hiện thì với địa bàn nghiên cứu
của tôi, nó lại xuất phát từ mong muốn bảo vệ lợi ích lâu dài, hay nói cách
khác là lợi ích mong đợi có được.
5.2. PHÁT TRIỂN VỐN XÃ HỘI
Bên cạnh việc bảo vệ vốn xã hội, người Ninh Hiệp cũng rất quan tâm
đến việc phát triển vốn xã hội. Việc phát triển vốn xã hội bao gồm củng cố
các quan hệ xã hội đã có và tạo các quan hệ xã hội mới, nói cách khác là gia
tăng chất lượng cũng như số lượng của các quan hệ trong mạng lưới quan hệ
xã hội của mỗi người.
5.2.1. Củng cố quan hệ xã hội đã có
Có hai hình thức để củng cố các mối quan hệ xã hội đã có là i) củng
cố mối quan hệ với nhóm, và ii) củng cố mối quan hệ song phương với các
cá nhân.
Những “nhóm” mà với chúng người ta muốn củng cố mối quan hệ là
những nhóm nằm trong bộ phận quan hệ xã hội trung tâm. Tôi sẽ lấy ví dụ ở
ngay chính nhóm bao trùm hơn cả lên quan hệ họ hàng là tổ chức dòng họ, vì
đó là nhóm mà tôi thấy rằng dễ quan sát nhất. Người ta củng cố mối quan hệ
với tổ chức này bằng việc tích cực tham gia và tích cực đóng góp công của
cho các hoạt động của nó. Trước hết là về việc đóng góp quỹ họ. Không chỉ
góp quỹ họ theo suất đinh cố định hàng năm, rất nhiều người còn ủng hộ quỹ
với số tiền đáng kể. Chẳng hạn, mới đây ông Vinh đã ủng hộ 25 triệu cho
quỹ của một họ lớn trong làng còn hàng năm, vợ chồng anh Dân đều ủng hộ
123
khoảng chục triệu cho quỹ của một họ nhỏ hơn. Trong hoạt động tôn tạo nhà
thờ họ, nhiều thành viên cũng đóng góp những khoản tiền hoặc hiện vật có
giá trị. Mươi năm trước, với việc từ đường của dòng họ được tôn tạo, gia
đình ông Phan đã ủng hộ gần 20 triệu, gia đình ông Quý cung tiến bộ cửa giá
15 triệu..., còn ở lần nâng cấp mới nhất của nó, gia đình bà Hà ủng hộ 25
triệu và một số gia đình khác ủng hộ 10 triệu trở lên. Hộ ông Chinh, ông
Khả, ông Duật… cũng ủng hộ 15 - 20 triệu cho việc tương tự ở dòng họ
mình. Trong hoạt động tôn tạo lăng mộ, dù hội đồng gia tộc chỉ yêu cầu
thành viên đóng góp theo suất đinh, nhiều gia đình đã xin đóng góp thêm để
tôn tạo một số hạng mục nhất định. Việc tôn tạo cụ thể như thế nào là do các
phụ lão trong họ quyết định trên cơ sở tham khảo nguyện vọng của người
đóng góp. Số tiền sẽ được công đức sau khi việc tôn tạo hoàn thành. Ví dụ
như cách đây vài năm, anh Thịnh đã đóng góp hàng chục triệu để tôn tạo mộ
tổ với các hạng mục ốp lại gạch, sơn mới, làm lại bia, thay bát hương đá và
mua thêm hai bình hoa cúng. Ngoài ra, có những người thậm chí còn nhận
chi trả toàn bộ số tiền xây lại lăng mộ của một chi họ, như anh Lâm. Là một
thương gia rất thành đạt, Lâm đã tận dụng mối quan hệ quen biết để chọn vị
trí đẹp cho khu lăng mộ của chi họ sau khi xã có chủ trương di dời nghĩa
trang và cũng đài thọ cả chi phí thuê thầy xem phong thủy khi khu lăng mộ
được khởi công xây dựng. Cuối cùng là việc góp công của cho những hoạt
động khác. Ông Tường, ông Văn và một số người nữa đang thuê người phục
hồi lại gia phả của dòng họ mình trên những tư liệu còn sót lại. Còn Lâm, tuy
“chẳng có chữ nghĩa gì” như anh tự nhận, mỗi lần giỗ tổ đều thuê mấy
chuyến xe đưa họ tộc lên Văn miếu Bắc Ninh thắp hương cho hai vị tiến sĩ
thời Lê là người trong họ. Khi tôi hỏi về lí do của sự nhiệt tình này, những
người được phỏng vấn đều giải thích: “Việc đóng góp cho các hoạt động của
dòng họ đương nhiên là vì tình cảm rồi!”. Tuy nhiên, nhiều người trong số
họ cũng thừa nhận: “Ứng xử tốt với họ tộc sẽ khiến bà con ghi nhận, mình
cũng sẽ được nhận lại sự ứng xử tốt. Sau này, trong cuộc sống, có gặp khó
khăn cũng dễ được mọi người giúp!”. Như vậy, có thể nói, sự củng cố mối
124
quan hệ với tổ chức dòng họ của không ít người ngoài nguyên cớ “tình” còn
có “lí” nữa. Không hề biết đến cái gọi là thuật ngữ vốn xã hội, nhưng có vẻ
hầu hết đều nhận thức rất rõ về nó - dù cho họ có gọi nó bằng gì - rằng đó là
một dạng vốn.
Việc củng cố mối quan hệ song phương lại có hai dạng - củng cố mối
quan hệ ở mức độ không làm thay đổi sự định danh quan hệ và củng cố mối
quan hệ ở mức độ làm thay đổi sự định danh quan hệ.
Thứ nhất, việc củng cố mối quan hệ ở mức độ không làm thay đổi sự
định danh quan hệ.
Điều này diễn ra với các quan hệ thuộc cả bộ phận trung tâm lẫn bộ
phận ngoại vi.
Trước hết, về các quan hệ xã hội trung tâm.
Như ta biết, nhiều người từng bị phá sản ở Ninh Hiệp, nhờ sự trợ giúp
từ những người có quan hệ họ hàng và bạn bè đã khôi phục được việc kinh
doanh. Tuy nhiên, khi một người vỡ nợ, sẽ không có ai cho người đó vay để
trả nợ mà chỉ cho vay để làm ăn sau thời điểm người đó đã đạt được thỏa
thuận với chủ nợ về việc khoanh nợ và giãn nợ. Hơn thế, việc vay mượn
không phải là dễ dàng nếu như giữa hai phía không có mối quan hệ thường
xuyên từ trước. Ngay cả quan hệ họ hàng gần là quan hệ huyết thống đặc biệt
- quan hệ chứa đựng vốn xã hội của người ta một cách tự nhiên ở mức độ
nhất định - cũng không đem lại một sự đảm bảo hoàn toàn nếu đó là mối
quan hệ không được đầu tư. Sự giúp đỡ của những người họ hàng gần do
trách nhiệm sẽ chỉ dừng ở một khoản không lớn và cũng chỉ trong một thời
gian xác định. Nói cách khác, mọi trợ giúp mà một người nhận được từ một
mối quan hệ sẽ liên quan mật thiết đến những gì người ấy đã làm với mối
quan hệ đó. Người buôn bán ở Ninh Hiệp đều hiểu nguyên tắc này, vì thế rất
chú ý xây dựng cũng như bồi đắp các quan hệ thuộc bộ phận trung tâm (bao
gồm khu vực nòng cốt và khu vực lân cận), một sự “dự phòng” cho những
bất trắc mà nghề buôn bán dễ đem lại. Họ biết rằng những người có thể cho
họ vay tiền đều phải là những người mà họ có mối quan hệ tốt, vì dù là thân
125
thích, bạn bè thật nhưng không qua lại thường xuyên mà vẫn đến nhờ cậy thì
bản thân họ cũng thấy không ra sao, vả lại “nếu không năng qua lại thì tình
cảm tất nhiên là có mức độ, đến lúc khó khăn, người ta cũng giúp nhưng mà
ở mức nào đó thôi theo kiểu cho có đạo lí, còn quan hệ đậm đà lại khác, đáng
lẽ chỉ giúp một đồng thì sẽ giúp năm đồng, mười đồng”. Ý thức rằng để có
thể nhận được sự hỗ trợ trong lúc khó khăn thì phải đầu tư, người Ninh Hiệp
rất quan tâm củng cố các mối quan hệ xã hội gần gũi. Đầu tiên là sự đầu tư ở
khía cạnh vật chất. Sơn là một ví dụ. Anh luôn nhiệt tình giúp đỡ về tài chính
mỗi khi họ hàng và bạn bè thân gặp khó khăn trong làm ăn, mà chuyện này
thì khá dễ xảy ra ở một làng buôn. Riêng trong năm 2014, là năm việc buôn
bán của Sơn không thuận lợi lắm, anh vẫn cho một người em họ và một
người bạn vay tổng cộng 400 triệu đồng để khôi phục việc kinh doanh sau
khi họ bị thua lỗ vì “dù sao mình cũng còn may mắn hơn bọn đấy”. Anh Việt
thì cho biết đã chủ động hỗ trợ kinh phí cho đứa cháu con người em đi học.
Anh giải thích: “Bây giờ đang có điều kiện thì anh giúp nhà nó, sau này biết
đâu mình lỡ vận, nó lại giúp được mình! Ăn nhau ở lộc, cái nghề buôn bán ở
làng mình có nói trước được gì đâu?”. Cùng suy nghĩ với anh Việt, bà Chí,
một người buôn bán có tiếng cũng rất quan tâm tới các cô em gái là thương
nhân của mình khi thường xuyên mời những người này tham gia các chuyến
du lịch tốn kém (riêng trong năm 2014, họ đã tới Đà Lạt, Huế, Nha Trang và
sang cả Campuchia thăm đền Angkor Wat), mặc dù bệnh khớp khiến bà đi
lại chẳng dễ dàng gì như bà nói. Quyên thì hay mua mĩ phẩm hoặc các loại
“thực phẩm chức năng” cao cấp để biếu các chị gái - những người buôn bán
đường dài rất phát đạt - trong khi cô này đang vận ế ẩm và động một tí là cáu
kỉnh với chồng (năm ngoái, khi chồng thuê khoan lại giếng hết chưa đến
chục triệu, cô thậm chí đã từ chối trả số tiền vì lí do làm mà không hỏi ý kiến
cô trước). Ở đây, có cái gì đó thật đúng với việc “trao đi một phần thu nhập
nhằm lo liệu cho sự an toàn” [236, tr. 36]. Mặt khác, ta có thể nhận thấy là sự
đầu tư lại nằm ở cả hai chiều - người vị thế thấp đầu tư vào mối quan hệ với
người vị thế cao đã đành, người vị thế cao cũng đầu tư vào mối quan hệ với
126
người vị thế thấp. Điều này thật trái ngược quan niệm chung của giới nghiên
cứu về hướng chảy của dòng quà có tính chất công cụ (tức dòng quà nhằm
mục đích nhận được “ơn huệ” hay “sự bảo hộ”), và nó có lí do: ở một làng
thương mại, khả năng chuyển từ vị thế này sang vị thế khác về kinh tế là rất
dễ xảy ra. Nếu một vài chuyến buôn thành công đủ để người ta làm giàu thì
một vài chuyến buôn thất bại cũng đủ để người ta rơi vào cảnh khuynh gia
bại sản. Vì thế, không có sự phân tầng thật ổn định về thu nhập ở Ninh Hiệp,
điểm khiến nó rất khác với những làng không phải là làng buôn. Và, bên
cạnh sự đầu tư vật chất, để tìm kiếm “thiết bị giảm sốc” cho thời điểm khủng
hoảng kinh tế, người Ninh Hiệp tất nhiên còn đầu tư cả trên khía cạnh tinh
thần nữa. Một trong những biểu hiện đáng chú ý của nó là sự xuất hiện
phong trào làm “giỗ tiếp sức”: nhiều người dù không phải con trưởng nhưng
cũng xin làm giỗ cha (thường tổ chức trước ngày giỗ chính do con trưởng
thực hiện một ngày), hoặc không phải ngành trưởng nhưng cũng xin làm giỗ
cụ (thường tổ chức trước ngày giỗ chính do ngành trưởng thực hiện một
ngày). Được gọi là giỗ tiếp sức, tức với nghĩa người vai thứ/ ngành thứ chia
sẻ việc giỗ cùng người vai trưởng - người vai trưởng làm giỗ thì không phải
làm thêm cỗ do người vai thứ/ ngành thứ đăng kí cho những người có quan
hệ với họ, vì thế gánh nặng cỗ bàn giảm đi - nhưng về thực chất, phong trào
này lại hướng đến sự tiện lợi đối với việc mời khách của bản thân người xin
giỗ. Hưng, người xin làm giỗ cha, giải thích, anh không thể mời khách, mà
chủ yếu là bạn bè, một cách đông đủ nếu như chỉ đăng kí cỗ ở nhà anh cả
(theo thông lệ vốn không quá 1, 2 mâm). Đặng, người xin làm giỗ cụ cũng
giải thích rằng việc anh làm giỗ xuất phát từ mong muốn có thêm cơ hội mời
những người cần mời mà không phụ thuộc vào ai. Có thể nói, với việc làm
giỗ tiếp sức, người ta đã dựa vào những sự kiện có tính trang trọng để củng
cố mối quan hệ gắn kết với một trong những thành phần cơ bản thuộc nhóm
nòng cốt của mình là bạn bè. Một ví dụ khác, cứ đến cuối năm âm lịch, trong
làng có rất nhiều phụ nữ đưa con về sinh hoạt bên nhà mẹ đẻ cùng các chị
em gái khác cho đến tận ngày 30 như là một dịp củng cố tình cảm. Các bà
127
mẹ chồng của họ, cũng là những thương nhân, đều không ngăn cản chuyện
này dù việc nhà cửa cuối năm khá bận rộn. Hiện tượng vừa nêu sẽ không là
khó hiểu, nếu chúng ta biết rằng có một mối liên hệ gắn bó rất đặc biệt giữa
những người buôn bán là nữ giới ở Ninh Hiệp với gia đình họ. Chẳng rõ việc
đó có bắt nguồn từ một tập quán trong quá khứ rằng con gái làng này đã lấy
chồng mà sơ sẩy trong buôn bán là cha mẹ đẻ sẽ gánh “trách nhiệm” giúp
như một vài nghiên cứu đã cho biết không (thực tế là cho đến những năm
gần đây, vẫn có rất nhiều người gặp thất bát trong buôn bán ở Ninh Hiệp đã
vực dậy được cơ nghiệp từ sự trợ giúp của cha mẹ đẻ và anh chị ruột), song
dường như không có người phụ nữ nào theo đuổi nghiệp thương mại mà lại
lơ là mối quan hệ với “nhà mình”. Điều này khá phù hợp với những mô tả
của Jacobs (1979) [189] về việc dùng tình cảm như một “cách thức” để nâng
cao không ngừng chất lượng của mối quan hệ. Nó đồng thời gặp gỡ kết quả
khảo sát của Gallin (1966) [176] trong trường hợp nghiên cứu của ông ở một
ngôi làng của Đài Loan - nơi cũng nằm trong quỹ đạo văn hóa Trung Quốc -
rằng các quan hệ họ hàng đàng mẹ và đàng vợ vẫn có thể giữ một vai trò
quan trọng không kém các quan hệ khác trong cái nhìn của người dân, và
tương tự nhận định của Pasternak (1972) [221], có thể thấy mục đích kinh tế
là một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến sự vượt thoát phần nào mô
hình dòng họ phụ hệ ở Ninh Hiệp79.
Sau nữa, về các quan hệ xã hội ngoại vi.
Các quan hệ ngoại vi cũng được người Ninh Hiệp đầu tư củng cố. Một
trong những biểu hiện của điều này là việc tăng cường mời những người
thuộc dạng quan hệ đang bàn tham dự cái mà thuật ngữ xã hội học gọi là “tiệc
tùng qua lại”. Chẳng hạn, những năm gần đây, cứ vào dịp hội làng, những
người kinh doanh lại chuẩn bị cỗ bàn linh đình để mời bạn kinh doanh (bạn
hàng) ở các nơi khác dự. Lệ mời khách đến chơi hội thì đã có từ lâu, nhất là
vì hội làng Ninh Hiệp là một trong những lễ hội lớn nhất vùng, song chưa khi
79 Pasternak, trong nghiên cứu so sánh cũng ở Đài Loan của mình, cho rằng sự vượt thoát khỏi mô hình dòng họ phụ hệ được quy định bởi ba yếu tố chính là khuôn mẫu định cư nguyên ủy, sự phân bố tài sản và nhu cầu hợp tác vì mục đích kinh tế hoặc phòng vệ [221, tr. 149].
128
nào được khuếch trương và tập trung vào một đối tượng nhất định như hiện
nay. Trong dịp này, nhà nào ít thì sẽ làm ba mâm, vừa thì làm dăm mâm,
nhiều thì làm bảy, tám mâm cỗ đãi khách, tức số khách tối thiểu cũng vào
khoảng 15 người (hội kéo dài vài ngày, nên họ không nhất thiết mời khách
đến cùng một ngày). Đây là cơ hội để tăng thêm mối quan hệ của gia chủ với
các bạn hàng của mình. Ngoài ra, cũng đáng chú ý là ở làng đang manh nha
xu hướng đưa đối tác kinh doanh vào danh sách mời dự các sự kiện có tính
nghi lễ của gia đình. Trong danh sách khách dự đám cưới của một số gia đình
mà tôi khảo sát, đã xuất hiện những người được ghi là “bạn hàng” và những
người này có thể chiếm tới vài phần trăm.
Việc tìm hiểu các quan hệ xã hội và sự đầu tư vào các quan hệ xã hội
thông qua tìm hiểu về dòng quà tặng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm
(Malinowski (1922) [65], Mauss (1954) [66], Befu (1968) [149], Strathern
(1971) [241], Sahlins (1972) [235], Vatuk (1975) [248], Gregory (1982)
[180], Yang (1989) [256], Yan (1996) [257], Wilson (1997) [252], Rupp
(2003) [234], Lương Văn Hy (2010) [52]...). Trong đề tài, tôi cũng đã tiến
hành những khảo sát của mình về mức độ đầu tư cho các loại quan hệ xã hội
thuộc bộ phận trung tâm của một số người dân làng Ninh Hiệp thông qua
những sự kiện mang tính lễ nghi80 vì từ góc nhìn vốn xã hội, quà tặng vào
những dịp này hiển nhiên là - như cách nói của Goffman (1971) [177] - “dấu
hiệu của một sự ràng buộc”.
Có rất nhiều sự kiện mang tính nghi thức mà một người Ninh Hiệp
trưởng thành tham gia. Việc tặng quà trong những dịp đang đề cập, như ta
biết, đã rơi vào khoảng lặng suốt thời kì hợp tác hóa trong bức tranh chung
của nông thôn cả nước, với xu hướng “giản dị hóa các lễ tiết” [209, tr. 111]
và mới nở rộ trở lại sau thời điểm bắt đầu Đổi mới. Đây cũng là tình hình ở
đất nước láng giềng, Trung Quốc, mà Siu trong “Recycling Rituals: Politics
and Popular Culture in Contemporary Rural China” [Phục hồi các nghi lễ:
Đời sống chính trị và văn hóa đại chúng ở nông thôn Trung Quốc đương
80 Việc tham dự những sự kiện lễ nghi của người Ninh Hiệp, giống như những nơi khác, thường
gắn với các quan hệ thuộc bộ phận trung tâm.
129
đại] (1989) [240] đã chỉ ra lí do là các lễ nghi của vòng đời người bị mất đi
những mối liên hệ xã hội rộng hơn và chỉ còn giới hạn trong gia đình81. Tuy
nhiên, nếu vào đầu thời kì Đổi mới, sự đầu tư cho các quan hệ xã hội thông
qua những sự kiện mang tính lễ nghi ở Ninh Hiệp được thể hiện qua nhiều
hình thức: tiền, công lao động, thời gian... thì nay, trong làn sóng dân làng ồ
ạt trở thành những người làm nghề phi nông nghiệp, tất cả đều được gói gọn
vào chỉ chiếc phong bì. Điều này bộc lộ rất rõ, chẳng hạn, trong đám cưới.
Cách đây chừng hai chục năm thôi, khi một đám cưới được tổ chức, có rất
nhiều người được cậy nhờ/ đề nghị đến làm giúp và những người đó tham gia
vào đủ mọi công đoạn - dựng rạp, kê bàn ghế, làm cỗ..., còn hiện tại, việc
tham gia vào một đám cưới chỉ đơn giản là “đi ăn cỗ”, do người được mời
thường vướng bận việc kinh doanh. Hơn nữa, các dịch vụ giờ cũng rất sẵn,
chủ nhà chỉ cần bỏ một khoản tiền ra thuê. Tình hình hoàn toàn là tương tự
với đám tang82.
Người Ninh Hiệp tham dự bao nhiêu sinh hoạt xã hội mang tính lễ
nghi trong vòng một năm và chi phí bao nhiêu cho chúng?
Dưới đây là biểu đồ về số lượng các sự kiện chính mang tính lễ nghi
đã tham gia và chi phí cho các sự kiện này của 100 người làng, những người
có các mức độ liên hệ khác nhau với hoạt động buôn bán, để chúng ta có
được một cái nhìn cụ thể. Mẫu được người viết sử dụng là mẫu phân tầng
ngẫu nhiên (stratified random sampling) dạng tỉ lệ, mà theo đó, như tên gọi,
tỉ lệ của mẫu tương ứng với tỉ lệ trong tổng thể - 90% đối tượng phỏng vấn
là những người làm các ngành nghề phi nông nghiệp. Những người được
hỏi đều là chủ hộ, thuộc các lứa tuổi và địa bàn cư trú khác nhau trong làng.
Các sự kiện mang tính lễ nghi được đề cập ở đây là đám cưới, đám tang, và
đám giỗ.
81 Theo Parish và Whyte (1978) [219], một trong những luận điểm phê phán của nhà nước lúc
bấy giờ đối với các lễ nghi này là chúng làm lãng phí thời gian và tiền bạc. 82 Việc chuyển từ sự trợ giúp bằng lao động sang trợ giúp bằng tiền đã được nói đến bởi Rupp
với trường hợp nghiên cứu ở Nhật Bản và Wilson với trường hợp nghiên cứu ở Trung Quốc. Các
nhà nghiên cứu này cho hay, trong bối cảnh đô thị và phi nông nghiệp hóa, người dân không còn
thời gian để có thể đến làm giúp ở các sự kiện lớn của gia đình khác, thay vào đó họ giúp đỡ
bằng tiền với tư cách một món quà tặng.
130
Biểu 1. Số lượng bình quân các sự kiện mang tính nghi lễ đã tham
gia và chi phí bình quân cho các sự kiện này của người làm nghề thương
mại (hoặc có liên quan đến thương mại) và người làm nghề phi thương
mại trong năm 2013
Qua biểu đồ, dễ nhận thấy, trong số những người được khảo sát, người
làm nghề thương mại (hoặc có liên quan đến thương mại) tham gia các sự
kiện mang tính nghi lễ nhiều hơn gần gấp rưỡi (1,54 lần) và chi phí cho các
sự kiện này nhiều hơn gần gấp đôi (1,91 lần) người làm nghề phi thương mại.
Như vậy, đã có một mối tương quan tỉ lệ thuận giữa số lượng bình quân sự
kiện mang tính nghi lễ đã tham gia cũng như chi phí cho các sự kiện này ở
nhóm những người được khảo sát với hoạt động thương mại của người ấy.
Mặt khác, thực tiễn điều tra định lượng ở Ninh Hiệp còn hiển thị một
mối liên hệ nhất định giữa quy mô của việc buôn bán với mức độ tham dự các
sự kiện mang tính nghi lễ và mức độ chi phí cho chúng. (Quy mô của việc
buôn bán được đo bằng thu nhập - theo ý kiến của dân làng vài năm trước,
thương nhân83 thu nhập khoảng dưới 350 triệu/năm được xem là người kinh
83 Theo nghĩa cá nhân nếu người vợ/chồng không làm nghề buôn hoặc cặp vợ chồng nếu cả hai cùng làm nghề này.
0
20
40
60
80
100
120
Số đám Số tiền Số đám Số tiền
Thương mại Phi thương mại
119.12
29.72
77.05
15.55
131
doanh nhỏ, từ 350 triệu đến tiệm cận 700 triệu được xem là người kinh doanh
vừa và từ 700 triệu trở lên được xem là người kinh doanh lớn). Biểu đồ dưới
đây bộc lộ điều đó.
Biểu 2. Số lượng bình quân các sự kiện mang tính nghi lễ đã tham
gia và chi phí bình quân cho các sự kiện này của người làm nghề thương
mại ở các quy mô khác nhau trong năm 2013
Biểu đồ này cho thấy mối tương quan tỉ lệ thuận, trong một chừng
mực, giữa quy mô của việc buôn bán với mức độ tham dự các sự kiện mang
tính nghi lễ cũng như mức độ chi phí cho các sự kiện đó ở những người được
khảo sát. Những người kinh doanh ở mức trung bình tham dự số đám nhiều
hơn 1,25 lần so với những người kinh doanh nhỏ, còn những người kinh
doanh lớn tham dự số đám nhiều hơn gần 1,3 lần84 so với những người kinh
84 Thực tế, cá biệt có một vài thương nhân cho tôi biết trong những năm gần đây họ đã tham dự tới gần 200 đám/năm.
0
20
40
60
80
100
120
140
160
Số đám Số tiền Số đám Số tiền Số đám Số tiền
Kinh doanh nhỏ Kinh doanh vừa Kinh doanh lớn
90.03
20.31
112.72
31.73
145.81
64.92
132
doanh trung bình. Mặt khác, những người kinh doanh ở mức trung bình chi
phí cho số đám nhiều hơn 1,56 lần so với những người kinh doanh nhỏ, còn
những người kinh doanh lớn chi phí cho số đám nhiều hơn 2 lần so với những
người kinh doanh trung bình.
Thứ hai, việc củng cố mối quan hệ ở mức độ làm thay đổi sự định
danh quan hệ.
Với các quan hệ xã hội phân theo loại hình.
Như nhiều làng xã khác, quan hệ họ hàng, láng giềng và bạn bè ở
Ninh Hiệp có thể chồng lấn lên nhau. Trong trường hợp này, sự xác định mối
quan hệ sẽ căn cứ vào nguyện vọng của chủ thể ở thời điểm nhất định. Và do
vậy, các quan hệ theo loại hình của mỗi người sẽ có những chuyển dịch - hay
nói cách khác, những vận động - nhất định. Quan hệ họ hàng có thể chuyển
dịch thành quan hệ bạn bè và ngược lại, quan hệ họ hàng có thể chuyển dịch
thành quan hệ láng giềng và ngược lại, quan hệ láng giềng có thể chuyển dịch
thành quan hệ bạn bè và ngược lại - tất cả xoay quanh cái trục xuyên suốt là
nhu cầu cá nhân. Có lẽ ít ở đâu mà tính “tự quyết” của người ta thể hiện rõ nét
như trong sự xác định các quan hệ này.
Dưới đây, xin nêu một vài trường hợp chuyển dịch từ quan hệ chồng
lấn giữa họ hàng và các dạng khác sang quan hệ họ hàng là điều hay xảy ra
khi người ta muốn thắt chặt mối quan hệ.
Trước tiên là câu chuyện của Lan, Mai và Thảo - những người bạn học
có họ xa và hiện đều đang buôn quần áo ở một chợ mới hình thành. Họ có xu
hướng chuyển dịch mối quan hệ của mình từ bạn bè sang họ hàng kể từ khi
trở thành những người buôn bán cùng địa điểm. Gần đây, trong cách xưng hô,
họ bắt đầu gọi nhau theo vai vế họ mạc (Mai và Thảo gọi Lan bằng chị), khác
với cách gọi theo kiểu đồng môn khi còn học cùng nhau. Đám thay áo bố
chồng Lan, Mai và Thảo thể hiện mối quan hệ gần gũi với gia chủ hơn những
người bạn khác trong cùng nhóm đồng học qua việc túc trực cả ngày và còn
có phong bì riêng, dù Hội đồng học đã tham dự sự kiện này bằng một phong
bì chung. Họ giải thích: “Trước đây chúng tôi cũng không chú ý mấy, nhưng
bây giờ buôn bán cùng ở đây thì nhận quan hệ họ hàng để chị em có gì còn
giúp đỡ lẫn nhau!”.
133
Câu chuyện giữa bà Chinh và chị Hiền là một trường hợp khác. Bà
Chinh là người buôn bán thành đạt, một mình quán xuyến mấy cửa hàng bán
quần áo ở vị trí đẹp (cổng chợ cũ). Chị Hiền sống gần nhà bà Chinh, có họ
bảy đời về đàng nội với bà. Vì họ xa, quan hệ giữa hai người thực tế cũng
không khác gì quan hệ giữa các láng giềng khác ở nơi đó. Chị Hiền lại làm
việc trong nội thành, sáng đi sớm và tối muộn mới về nên hầu như chẳng còn
có dịp gặp gỡ, trò chuyện với ai. Mấy năm qua do khủng hoảng kinh tế, công
ty chị nợ lương nhiều. Chán tình cảnh này, chị quyết tâm bỏ nghề về đi buôn.
Chị đã cậy nhờ cha chị sang bên nhà bà Chinh đề nghị giúp đỡ vì “giọt máu
đào hơn ao nước lã”. Thế là, từ đầu năm ngoái, chị được bà Chinh cho ngồi
một góc trong một cửa hàng của bà với mức giá khá “mềm” để khởi đầu việc
buôn bán. Như đã nói, các cửa hàng của bà ở vị trí đắc địa nên rất hút khách.
Bà lại giới thiệu thêm một số lượng đáng kể khách quen của mình đến mua
hàng của “đứa cháu tôi” nữa! Nhờ đó, chỉ trong vòng hơn một tháng giáp tết,
chị đã thu về hơn 20 triệu tiền lãi từ việc bán sỉ bít tất trẻ con dù trước đó
chẳng có mảy may kinh nghiệm buôn bán. Vậy là với sự chủ động của chị
Hiền và sự tán thành của bà Chinh, quan hệ họ hàng giữa hai người được định
vị (dẫu ở Ninh Hiệp, họ bảy đời là một quan hệ họ hàng rất xa). Kể từ đó,
những dịp lễ tết, chị Hiền đều qua lại gia đình bà Chinh như con cháu trong
nhà, điều mà trước đây chị chưa từng làm.
Ở hai trường hợp trên, ta có thể thấy rằng quan hệ họ hàng đã được
thiết lập sau một quá trình chồng lấn. Nó phần nào trở nên na ná với cái mà
Bourdieu gọi là “họ hàng thực tiễn” - thứ quan hệ thể hiện “một trường hợp
cụ thể của việc sử dụng các mối quan hệ” [155, tr. 34] - vì, dù là có họ hàng
xa, mối quan hệ trước đó giữa những người này vốn đã không như là họ hàng.
Như vậy, với những trường hợp chồng lấn về quan hệ xã hội, người
Ninh Hiệp tùy “tình hình” sẽ định danh nó bằng mối quan hệ nào mà người ta
muốn nhấn mạnh, trong khi (các) mối quan hệ còn lại - ít nhất là tạm thời - sẽ
bị lờ đi. Có một xu hướng dễ chỉ ra, điều này liên quan đến những cân nhắc
thực dụng của họ trong bối cảnh đặc thù là thương mại hóa của làng, hay diễn
đạt cách khác là liên quan đến mục đích tạo dựng vốn xã hội của họ. Ngay cả
134
khi họ khẳng định rằng quyết định của họ còn xuất phát từ khía cạnh tình
cảm, thì đặt hành vi của họ trong bối cảnh mà nó được thực hiện, yếu tố lí vẫn
là điểm nhấn rõ nét.
Với các quan hệ xã hội phân theo tính chất.
So với các mối quan hệ xã hội phân theo loại hình có tính chồng lấn,
các mối quan hệ xã hội phân theo tính chất nhìn chung có khả năng dịch
chuyển nhiều hơn, nhất là các quan hệ lân cận và ngoại vi. Khởi điểm là
những quan hệ ngoại vi, theo thời gian, một số quan hệ đã dịch chuyển
hướng vào tâm. Ví dụ dễ nhận thấy là sự hình thành các “nhóm” trong nội bộ
của từng hiệp hội phi quan phương. Quan sát từ vị trí một thành viên của hội
đồng học ở làng, tôi nhận thấy rằng ngoài việc tham gia các hoạt động chung
mang tính nghi thức như việc tang ma, cưới xin, giỗ chạp,… và gặp gỡ nhau
hai lần/ năm để liên hoan, người của hội chủ yếu quan hệ với nhau theo
nhóm riêng. Dũng, Phong, Giang và Quốc tạo thành một nhóm như thế trong
hội đồng học cấp II. Họ đã có rất nhiều dịp hợp tác trong buôn bán kể từ sau
khi hội được thành lập và họp mặt lần đầu cách đây hơn 10 năm. Do mối
quan hệ trở nên gắn bó, mỗi khi có sự kiện liên quan, họ cũng chuẩn bị cả
phong bì riêng cho nhau bên ngoài món quà tập thể của hội. Nhóm Minh và
anh em Nam, Nguyên thì thuộc về một câu lạc bộ theo sở thích ở làng. Minh
là quan chức nhà nước, còn Nam và Nguyên là những thương nhân có máu
mặt. Hai bên quen biết nhau khi chơi thể thao. Dần dần, mối quan hệ giữa họ
trở nên gắn bó và họ trở thành một nhóm riêng của hội này. Trong lễ mừng
thọ của cha Nam và Nguyên, Minh được tiếp đón như một thượng khách.
Anh em Nam đã đánh tiếng nhờ Minh giúp đỡ trong việc làm ăn và họ nhận
được câu trả lời vui vẻ: “Cứ yên tâm, chỗ anh em với nhau, không phải
ngại!”. Như vậy, với “dung môi” là hội đồng học và hội thể thao, quan hệ
của những người kể trên đã dịch chuyển từ ngoại vi đến lân cận. Nó có dịch
chuyển tiếp vào tâm hay không sẽ là do sự quyết định của các chủ thể, nhưng
khả năng “có” là rất lớn. Còn những ví dụ khác, không dễ nhận diện bằng, là
sự thâm nhập vào một nhóm có sẵn để thúc đẩy mối quan hệ với thành viên
135
của nhóm. Tuy vậy, vẫn có thể thấy điều đó, chẳng hạn, ở những cố gắng của
bà Ngọ trong việc bước vào nhóm của bà Nhàn, bà Tâm và bà Sửu, các “đại
gia” trong việc buôn bán đường dài của làng và là những thành viên kì cựu
của Câu lạc bộ văn nghệ người cao tuổi Ninh Hiệp. Bà Ngọ là bạn chợ của
mấy bà trên, muốn gia nhập vào nhóm, bèn đến nói khó với người đứng đầu
câu lạc bộ cho mình vào đội. Sở dĩ gọi là nói khó vì vào câu lạc bộ này là
mong muốn của rất nhiều bà trung niên ở Ninh Hiệp (cái sẽ đáp ứng nhu cầu
tham gia các sinh hoạt văn hóa cộng đồng và cũng là cơ hội để mở rộng và
phát triển các mối quan hệ) mà bà Ngọ lại không có “năng khiếu” cho lắm.
Câu lạc bộ văn nghệ người cao tuổi Ninh Hiệp là câu lạc bộ rất có tiếng
trong vùng và thường được mời đi biểu diễn nhiều nơi ở miền Bắc, vì thế
việc gia nhập được nó không hề đơn giản. Tuy thế, sau rất nhiều bền bỉ, cuối
cùng bà Ngọ cũng đạt được nguyện vọng. Dần dần, với sự khéo léo của bà
Ngọ, mối quan hệ giữa bà với nhóm bà Nhàn, bà Tâm và bà Sửu trở nên thân
thiết và việc hợp tác làm ăn giữa họ cũng ngày một “rôm rả” hơn nhiều so
với khi chỉ là bạn chợ thông thường. Mấy lần cùng mẹ tôi sang chơi nhà một
người bạn cũng ở trong ngõ, bà thường “xúi” bà này vào câu lạc bộ vì rằng
theo bà muốn buôn bán dễ dàng thì phải gắng mở rộng quan hệ. Thật không
khó nhận thấy ở những ví dụ trên ý thức xác lập “mối quan hệ cần thiết” để
nhận được “nguồn lực đáng mong muốn” mà Walder (1986) [249] hay Yang
(1989) [256] đã nói đến trong các công trình của mình. Điều này cũng gợi tôi
nhớ đến kết quả nghiên cứu gần đây về các tổ chức xã hội tự nguyện ở xã
Đồng Quang thuộc Từ Sơn, Bắc Ninh của Đặng Thị Việt Phương và Bùi
Quang Dũng (2011) [79], theo đó “liên kết và trao đổi xã hội là một trong
những động cơ tham gia các hội và đoàn thể tự nguyện” vì tham gia vào một
sân chơi là các thành viên có thêm những cơ hội mở mang quan hệ. Thậm
chí, một chủ nhiệm câu lạc bộ cầu lông ở Đồng Kỵ, đồng thời là doanh nhân,
còn nhấn mạnh với các tác giả vừa nêu về tầm quan trọng của việc thu hút
các nhân vật biết làm ăn, có uy tín trong xã hội tham gia câu lạc bộ, nơi
“người ta tụ hội với nhau chứ không phải chơi không” [79, tr. 38].
136
Tóm lại, việc quản lí các mối quan hệ xã hội phân theo tính chất ở
người dân Ninh Hiệp đã tạo ra khả năng dịch chuyển của các mối quan hệ này
với xu thế hướng tâm là chủ yếu. Sự gia tăng hay suy giảm các quan hệ xã hội
tỉ lệ thuận với sự gia tăng hay giảm sút vốn xã hội, nên nếu không vì những
mâu thuẫn không thể hòa giải85, sẽ không có quan hệ nào thực sự bị xóa bỏ
trong mạng lưới.
5.2.2. Tạo quan hệ xã hội mới
Việc tạo các mối quan hệ xã hội mới, đúng như tên gọi của nó, đem lại
cho người ta những quan hệ chưa từng có cả với nhóm lẫn với từng cá nhân.
Tuy vậy, người ta hiển nhiên cũng không hoàn toàn gây dựng nên chúng từ
con số không.
Cách tạo mới mối quan hệ dễ nhận thấy nhất ở người Ninh Hiệp là
thông qua người quen, và tất yếu những mối quan hệ mới là những mối quan
hệ có tính hướng đích. Những người chưa có thâm niên kinh doanh chú ý đến
điều này vì nó tạo cơ sở ban đầu cho việc làm ăn của họ, còn những người đã
có thâm niên kinh doanh cũng chú ý đến điều này vì nó giúp việc làm ăn của
họ tiến triển hơn. Vừa rồi, tôi có hỏi thăm chị Tươi, một người mới trở thành
thương nhân rằng việc kinh doanh của chị ra sao và đã nhận được một câu trả
lời có phần kém vui vẻ: “Chưa ăn thua! Mới buôn thì phải chịu vậy thôi, lấy
đâu ra bạn hàng ngay! Không so sánh với người đi buôn từ lúc mười mấy tuổi
được!”. Quả thực, ở Ninh Hiệp, tuổi nghề có mối quan hệ chặt chẽ với thu
nhập, vì nó liên quan đến quy mô của vốn xã hội mà mỗi người tích lũy được.
Tươi từng là nông dân. Thế giới buôn bán không phải là thế giới không thể
hình dung với chị, vì nó tồn tại ngay trong làng, nhưng dù sao đi nữa nó vẫn
có nhiều phần xa lạ với thế giới mà chị đã sống. Bởi vậy, chị phải bỏ không ít
công sức để thâm nhập, tìm hiểu. Tươi gặp thuận lợi hơn bạn bè là có một số
85 Nhìn chung thì người ta thường cố gắng bảo vệ đến mức có thể các quan hệ nòng cốt mang
tính huyết thống, song các mối quan hệ này vẫn có khả năng bị đẩy ra ngoài mạng lưới quan hệ
xã hội của một cá nhân trong những tình huống đặc biệt. So với chúng, các quan hệ nòng cốt
không mang tính huyết thống có khả năng bị đổ vỡ nhiều hơn, nhưng cũng là trong tình huống
“đặc biệt”.
137
người họ hàng gần làm nghề buôn và nhận được những sự chỉ dẫn, giúp đỡ
rất chu đáo của họ. Mặc dù vậy, người mới vào nghề như chị chưa thể sớm có
được thu nhập như những người khác, do còn thiếu hụt lớn về vốn xã hội. Bắt
đầu việc buôn bán ở độ tuổi muộn hơn hẳn so với người cùng trang lứa (ngoài
ba mươi và đã có mấy mặt con), không có gì ngạc nhiên khi chị đang huy
động đến mức triệt để “tài nguyên” của một người bác và hai người dì -
những người đã có nhiều năm buôn bán - cho việc mở rộng mạng lưới quan
hệ của mình. Trong khi đó, Hương, người em họ, hơn chị Tươi chưa đến chục
tuổi nhưng đã có 25 năm buôn bán thì giàu có hơn hẳn về kho vốn quan hệ.
Hương vẫn rất chú ý phát triển mạng lưới quan hệ của bản thân từ những
người trong gia đình và họ hàng vì đó là những người có mạng lưới buôn bán
lớn cả trong và ngoài nước. Qua họ, mạng lưới của cô lại mở rộng tiếp. Như
vậy, trong khi chị Tươi đang cố gắng xâm nhập vào “thế giới địa phương”
còn lại của Ninh Hiệp mà chị chưa hẳn thuộc về - cái hiển nhiên cấu trúc trên
những kinh nghiệm xã hội được nhìn nhận là “một địa hạt liên cá nhân, liên
chủ thể của những ràng buộc, giao dịch, giao tiếp và các hoạt động xã hội
khác” theo xác định của Kleinman [194, tr. 128] - bằng các quan hệ đơn
tuyến, thì Hương đã từ lâu đi đến chỗ tạo mạng lưới mới cho mình bằng các
quan hệ đa tuyến.
Còn có một cách khác khá phổ biến mà người Ninh Hiệp sử dụng để
tạo mới quan hệ là tham gia vào hội nhóm phi quan phương, nơi có thể sẽ có
những con người hoàn toàn xa lạ với nhau bước vào. Mặc dù các tổ chức xã
hội tự nguyện ở nông thôn Việt có vai trò trợ giúp đối với các cá nhân [34],
[70], [104], người Ninh Hiệp không tìm kiếm điều này từ nó, mà chủ yếu
muốn gây dựng mối quan hệ với những thành viên cụ thể. Thực tế, đó là sự
tìm kiếm vốn xã hội tiềm tàng từ các quan hệ song phương - vốn này sẽ được
kích hoạt khi chủ thể có nhu cầu.
Dưới đây là hai biểu đồ về mức độ tham gia vào các loại hội nhóm phi
quan phương của những người nằm trong mẫu khảo sát đã được đề cập, vào
năm 2013.
138
Biểu 3. Số lượng bình quân hội nhóm phi quan phương đã tham
gia của người làm nghề thương mại (hoặc có liên quan đến thương mại)
và người làm nghề phi thương mại trong năm 2013
Biểu 4. Số lượng bình quân hội nhóm phi quan phương đã tham
gia của người làm nghề thương mại ở những quy mô khác nhau trong
năm 2013
0
1
2
3
4
5
6
7
8
Thương mại Phi thương mại
7.12
3.11
0
2
4
6
8
10
12
Kinh doanh nhỏ Kinh doanh vừa Kinh doanh lớn
4.51
7.82
10.81
139
Các biểu đồ trên đã chỉ ra rằng: Thứ nhất, trong số những người được
khảo sát, những người làm nghề thương mại (hoặc có liên quan đến thương
mại) tham gia nhiều hội nhóm phi quan phương hơn hẳn những người không
làm nghề thương mại (gấp 2,29 lần). Thứ hai, cũng trong số những người
được khảo sát, những người kinh doanh ở quy mô lớn thì tham gia nhiều hội
nhóm hơn những người kinh doanh ở quy mô vừa (gấp 1,38 lần), và những
người kinh doanh ở quy mô vừa thì tham gia nhiều hội nhóm hơn những
người kinh doanh ở quy mô nhỏ (gấp 1,73 lần). Như vậy, có thể nhận ra một
mối tương quan mang tính tỉ lệ thuận nhất định giữa số lượng bình quân hội
nhóm phi quan phương đã tham gia của những người được khảo sát với hoạt
động thương mại của người đó, và tương tự, một mối tương quan tỉ lệ thuận
nhất định giữa số lượng bình quân hội nhóm phi quan phương đã tham gia
với quy mô buôn bán của anh ta/chị ta. Thực tế điều tra đã cho thấy, những
người tham gia nhiều hội nhất là người kinh doanh lớn nhất, từ 10 đến 12
hội, và tiếp đó là những người kinh doanh ở mức độ khá, khoảng 9 - 10 hội.
Khi người viết phỏng vấn những người tham gia nhiều hội nhóm về quyết
định của họ, các thương nhân này trả lời rằng với việc kinh doanh, mạng lưới
quan hệ xã hội càng rộng lớn càng là một điều tốt. Quan điểm chung của họ
là “không có mối quan hệ nào là tồi” vì “mối quan hệ nào cũng trở nên có
giá trị khi cần”. Những người tham gia ít hội nhất thường là những người
hoàn toàn không kinh doanh. Khi được hỏi, họ giải thích rằng do không “làm
ăn” gì, một vài hội nhóm là vừa đủ với nhu cầu giao tiếp xã hội và giải trí
của bản thân.
Tiểu kết
Liên quan đến sự tổ chức một mạng lưới quan hệ xã hội theo ý đồ cá
nhân, tính chiến lược trong quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp được thể hiện trong
cách họ ứng xử với vốn xã hội của mình, bao gồm việc hành động để bảo vệ
và phát triển nó. Người dân làng Ninh Hiệp bảo vệ vốn xã hội bằng cách tách
các quan hệ xã hội thuộc khu vực nòng cốt khỏi các hoạt động kinh tế: không
liên kết, không thuê mướn làm nhân công, và không vay vốn để làm ăn với
140
các thành viên thuộc khu vực quan hệ xã hội này; đồng thời phát triển vốn xã
hội bằng cách gia tăng chất lượng và số lượng của các quan hệ trong mạng
lưới quan hệ xã hội của mỗi người: củng cố các quan hệ xã hội đã có đối với
nhóm cũng như đối với các cá nhân (cả ở mức độ có và không làm thay đổi
sự định danh mối quan hệ), và tạo các quan hệ xã hội mới đối với nhóm cũng
như đối với các cá nhân thông qua những quan hệ đã tồn tại trước đó hay
bằng sự tham gia vào các loại hội nhóm phi quan phương.
141
KẾT LUẬN
Đề tài này, với những gì được đặt ra qua tên gọi của nó, quan tâm đến
các quan hệ xã hội trong bối cảnh chuyển đổi về cơ cấu kinh tế tại một ngôi
làng lâu đời thuộc khu vực ngoại thành của thủ đô Hà Nội hiện nay. Thừa
nhận sự tồn tại của cả mặt tình và mặt lí trong quan hệ xã hội ở địa bàn
nghiên cứu, tuy nhiên, trong khuôn khổ có hạn của một luận án, đề tài - như
đã giới thuyết - không đề cập đến tất cả các mặt trong quan hệ xã hội tại địa
bàn nghiên cứu mà tập trung vào việc tìm hiểu nét trội của nó là tính duy lí.
Và lẽ tất nhiên, với tác giả, nét trội này được nhìn nhận là “nét trội” tại một
thời điểm cụ thể, nhất định trong lịch sử của ngôi làng, cái được đưa lại bởi
một bối cảnh đặc thù.
Phi nông nghiệp hóa là điều đang chi phối nhiều mặt quan hệ xã hội
của Ninh Hiệp đương đại. Vốn là ngôi làng cổ vừa tiêu biểu, vừa độc đáo của
xứ Bắc trước kia, Ninh Hiệp từ sau thời điểm bắt đầu Đổi mới (1986) đã có
những chuyển biến đáng kể về kinh tế, văn hóa, xã hội và kể từ đầu thập niên
2000, thời điểm mà theo chủ trương của chính quyền xã, phần lớn đất nông
nghiệp bắt đầu bị chuyển đổi mục đích sử dụng, số hộ làm các ngành nghề
phi nông nghiệp, đặc biệt là thương nghiệp ở đây ngày càng tăng lên. Từ một
ngôi làng hỗn hợp (trong quá khứ, nó là làng đa ngành nghề mà trong đó các
nghề thủ công như dệt, làm thuốc, và làm da cùng nghề buôn khá có tiếng
nhưng nông nghiệp vẫn đóng vai trò là nghề chính và cách đây vài thập niên,
người làm ruộng đang chiếm một tỉ lệ tương đối còn bản thân người làm các
ngành nghề khác như thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ… cũng không ly
nông hoàn toàn), Ninh Hiệp trong thời gian ngắn đã trở thành nơi mà đại bộ
phận dân cư là người kinh doanh hoặc có liên quan đến hoạt động kinh
doanh. Hiện nay, nó là một trong những làng phi nông nghiệp hóa nổi bật
nhất của cả nước về tốc độ và hiệu quả, khi hiện tại, số người làm nông
nghiệp chỉ chiếm khoảng 10% cơ cấu lao động, đồng thời tỉ trọng của các
ngành phi nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế ngày càng tăng nhanh, chiếm
khoảng 99% theo những số liệu thống kê gần nhất [25, tr. 2]. Có thể nói, làng
đã đi đến điểm cuối của quá trình phi nông nghiệp hóa (phi nông nghiệp hoàn
142
toàn) hay diễn đạt cách khác, đã đi đến hồi kết của xã hội nông dân với các
thành viên là hậu nông dân (post - peasants). Các quan hệ xã hội ở làng mặc
dù vẫn còn mang không ít dấu ấn của khuôn mẫu cổ truyền, đang có những
thay đổi đáng kể so với trước kia do chịu ảnh hưởng hoặc nhiều hoặc ít của
những yếu tố mới mang tính đô thị. Tuy nhiên, thực tế ở Ninh Hiệp cho thấy,
các quan hệ xã hội truyền thống bên ngoài gia đình hạt nhân không hẳn sẽ
nhất định rơi vào tình trạng suy thoái, tàn lụi mà một số lí thuyết gia hiện đại
như Parsons (1943) [220] hay Shorter (1975) [238] từng nhấn mạnh. Ngược
lại, có những quan hệ trong số đó ngày một phát huy vai trò của mình hơn.
Tiếp cận dưới góc nhìn vốn xã hội mà cụ thể là quan điểm mạng xã hội86, qua
trường hợp nghiên cứu, người viết đã tập trung tìm hiểu những quan hệ cơ
bản trong mạng lưới quan hệ xã hội và cấu trúc mạng lưới này, vai trò của
vốn xã hội trong các hoạt động kinh tế của người dân tại địa bàn, cùng sự ứng
xử với vốn xã hội trên tư cách là một chiến lược trong quan hệ xã hội và rút
ra những nhận định cụ thể dưới đây.
Bên cạnh các dạng quan hệ xã hội cơ bản là họ hàng, láng giềng và
bạn bè, người Ninh Hiệp đồng thời công nhận các dạng quan hệ có tính chồng
lấn (vừa là họ hàng vừa là láng giềng, vừa là họ hàng vừa là bạn bè, vừa là
bạn bè vừa là láng giềng). Mạng lưới quan hệ xã hội lấy cá nhân làm trung
tâm của họ được xác định bao gồm các đơn vị nòng cốt, lân cận và ngoại vi,
trong đó đơn vị nòng cốt (họ hàng gần - cả bên nội và bên ngoại - cùng bạn
bè thân thiết) và đơn vị lân cận tạo thành bộ phận quan hệ xã hội trung tâm
còn đơn vị cuối cùng tự nó tạo thành một bộ phận là quan hệ xã hội ngoại vi.
Vốn xã hội của các cá nhân trong làng hình thành trên cơ sở mạng lưới đang
bàn. Vốn xã hội nội bộ - hay vốn nằm trong những nhóm đồng nhất và được
sử dụng để bảo hiểm rủi ro - thường gắn với bộ phận quan hệ trung tâm. Cụ
thể, người ta sử dụng vốn này để gây dựng lại việc làm ăn sau khi gặp sự cố
(thậm chí phá sản), điều dễ xảy ra trong môi trường kinh doanh ở làng hiện
nay. Còn vốn xã hội bắc cầu - hay vốn vươn ra ngoài những nhóm đồng nhất
86 Xin nhắc lại, góc nhìn vốn xã hội chứa đựng 04 quan điểm cơ bản: quan điểm cộng đồng
(communitiarian view), quan điểm mạng xã hội (networks view), quan điểm thể chế (institutional
view), và quan điểm đồng vận (synergy view).
143
và được sử dụng để tìm kiếm các lợi ích - thường gắn với bộ phận quan hệ
ngoại vi. Cụ thể, người ta sử dụng vốn này để khuếch trương việc làm ăn của
mình. Nhằm bảo vệ vốn xã hội, người dân Ninh Hiệp chủ trương tách các
quan hệ xã hội thuộc khu vực nòng cốt (bao gồm họ hàng gần và bạn bè thân)
khỏi các hoạt động kinh tế, tức về cơ bản không liên kết, không thuê mướn
làm nhân công và không vay vốn để làm ăn với những đối tượng là người
nằm trong các mối quan hệ xã hội thuộc phạm vi khu vực này. Việc tránh để
các va chạm liên quan đến kinh tế làm tổn hại tới những quan hệ được xem là
quan trọng nhưng lại “rất khó hàn gắn nếu xảy ra rạn nứt” của cá nhân kể trên
- hay nói cách khác, giữ gìn vốn xã hội của mỗi người - là điều mà họ rất chú
ý. Trên thực tế, người ta cho rằng sự áp dụng các nguyên tắc kinh tế một cách
sòng phẳng với những người thân quen dễ gây sứt mẻ quan hệ và chủ thể sẽ
bị mang tiếng không tốt trong khi môi trường kinh doanh chính là làng, nơi
mà mọi hành vi đều được biết đến và bị đánh giá. Mặt khác, để phát triển vốn
xã hội, họ gia tăng chất lượng và số lượng của các loại quan hệ trong mạng
lưới quan hệ xã hội, cụ thể là củng cố các quan hệ đã tồn tại đối với các
nhóm/ cá nhân ở mức độ có hoặc không làm thay đổi sự định danh quan hệ,
và tạo các quan hệ mới đối với các nhóm/ cá nhân chủ yếu thông qua những
quan hệ tồn tại từ trước hay thông qua sự tham gia vào các loại hội nhóm phi
quan phương.
Xin lưu ý, trên đây là những gì đã được rút ra từ việc khảo sát một
trường hợp nghiên cứu cụ thể, vì thế - tuy ở một mức độ nhất định, có thể
được suy rộng ra cho những bối cảnh khác mang đặc điểm tương tự như bối
cảnh được khảo sát - không đại diện cho làng xã Việt nói chung. Thậm chí,
đương nhiên, chúng cũng không phải luôn đúng với mọi đối tượng và mọi
thời điểm ở Ninh Hiệp.
Như ta biết, quan điểm mạng xã hội về vốn xã hội với các đại diện là
Burt (1992) [157], Portes (1998) [226], Massey (1998) [211], Woolcock
(1999) [254]... phân biệt vốn xã hội làm hai loại gắn với dạng thức liên kết
của các quan hệ - loại thứ nhất là vốn xã hội nội bộ, nằm trong những nhóm
có tính đồng nhất, giúp giảm thiểu rủi ro và loại thứ hai là vốn xã hội bắc cầu,
144
nằm ngoài những nhóm có tính đồng nhất, giúp tìm kiếm lợi ích. Những khảo
sát của người viết ở Ninh Hiệp cho thấy, vốn xã hội tại đây, ngoài việc gắn
với dạng thức liên kết của các quan hệ, còn gắn với tính chất của chúng. Theo
đó, vốn xã hội nội bộ nằm trong những nhóm thuộc về bộ phận quan hệ xã
hội trung tâm còn vốn xã hội bắc cầu nằm trong những nhóm thuộc về bộ
phận quan hệ xã hội ngoại vi của mạng lưới quan hệ xã hội mà mỗi cá nhân
sở hữu. Cụ thể là, vốn xã hội nội bộ ở Ninh Hiệp thường không tách khỏi các
quan hệ nòng cốt như họ hàng gần, bạn bè thân thiết còn vốn xã hội bắc cầu
thì hòa vào các quan hệ xa hơn - khi người ta gặp khó khăn trong hoạt động
kinh tế, người ta dựa vào các quan hệ nòng cốt để tiến hành việc khôi phục
tình trạng cũ, nhưng khi muốn phát triển hoạt động này, người ta lại dựa vào
các loại quan hệ phi nòng cốt với những trao đổi có đi có lại trên cơ sở lợi
ích. Tóm lại, vai trò của vốn xã hội ở Ninh Hiệp gắn với cả dạng thức liên kết
lẫn tính chất của các quan hệ xã hội. Như vậy, bất cứ một quan hệ xã hội nào
cũng có thể trở nên quan trọng và điều đó đồng nghĩa với việc các quan hệ xã
hội truyền thống vẫn luôn được để ngỏ chứ không ở vào tình thế chắc chắn bị
triệt tiêu87.
Tính duy lí là nét trội trong bức tranh quan hệ xã hội ở Ninh Hiệp hiện
nay. Tuy nhiên, bổ sung cho quan điểm “người nông dân duy lí” mà Popkin
(1979) đại diện, tác giả luận án nhấn mạnh rằng tính duy lí trong các quan hệ
xã hội của người dân Ninh Hiệp không chỉ biểu hiện qua sự cạnh tranh mà
còn biểu hiện qua sự cố kết, một sự cố kết nhằm đạt được những mục đích có
tính cá nhân. Trong bối cảnh thương mại hóa triệt để hiện nay, Ninh Hiệp đã
thực sự là một đấu trường giữa các thương nhân, nơi “miếng bánh” (thị
trường) chỉ có hạn mà số lượng người muốn được dự phần thì không ngừng
tăng lên. Cạnh tranh vì lợi ích, nhưng mặt khác họ cũng cố kết vì lợi ích. Đó
là một sự cố kết nhằm đi tới cái đích là bản thân thay vì tập thể. Sự cố kết
đang bàn thể hiện ở việc người Ninh Hiệp bảo vệ và phát triển vốn xã hội của
87 Trong một bài viết công bố năm 2012 trên Tạp chí Văn hóa dân gian có tên “Quan hệ làng xã
trong bối cảnh thương mại hóa ở nông thôn Bắc Bộ (trường hợp xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà
Nội)”, dưới ảnh hưởng của các lí thuyết hiện đại, tôi nhận định rằng ở Ninh Hiệp hiện tại, ý thức
cộng đồng làng của một xã hội nông nghiệp xưa đang trên con đường phân rã. Bước chuyển từ
quan điểm hiện đại sang hậu hiện đại, với tôi, là kết quả của một quá trình nhận thức.
145
mình bằng cách tách các quan hệ xã hội thuộc khu vực nòng cốt khỏi các hoạt
động kinh tế như đã nói, đồng thời củng cố các quan hệ xã hội đã có đối với
nhóm cũng như đối với các cá nhân và tạo các quan hệ xã hội mới. Tính cố
kết ở đây không phải là biểu hiện của tư duy “an toàn trên hết”, mà là biểu
hiện của chiến lược đối phó với những thử thách mà người Ninh Hiệp luôn
phải đương đầu trong công việc kinh doanh của họ. Việc tăng cường và mở
rộng các quan hệ xã hội trong mạng lưới quan hệ của mỗi cá nhân nhằm
hướng tới chiến lược bảo hiểm rủi ro và tìm kiếm lợi ích ở Ninh Hiệp là một
nguyên nhân để các quan hệ xã hội truyền thống vẫn có thể tiếp tục tồn tại,
thậm chí còn phát triển mạnh mẽ.
Những gì diễn ra tại Ninh Hiệp nói lên sự tương tác sâu sắc giữa quá
trình thương mại hóa và quan hệ xã hội. Quá trình thương mại hóa chi phối
mặt duy lí trong quan hệ xã hội, tuy nhiên mặt duy lí đó cũng chi phối trở lại
quá trình này. Tìm hiểu về sự hình thành của chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp
dân sự thời kì cận đại, Weber (1902) [139] từng đặt câu hỏi là tại sao nó lại
xuất hiện ở các nước phương Tây chứ không phải ở nơi khác. Cách đây gần
hai thập niên, Tô Duy Hợp và cộng sự (1997) [45] cũng đặt câu hỏi về việc
tại sao Ninh Hiệp lại trở thành làng - xã nổi bật của cả nước trong sự tận dụng
gần như ngay lập tức các cơ hội từ chính sách mở cửa của nhà cầm quyền để
vươn lên làm giàu mà không phải là các làng xã liền kề, nơi ít nhất cũng cùng
điều kiện cơ bản về tự nhiên và xã hội với nó. Và một cách tương tự, ngày
hôm nay ta có thể đặt câu hỏi là trong xu thế phi nông nghiệp hóa chung của
nông thôn, tại sao ở khu vực bắc Hà Nội chỉ có Ninh Hiệp chuyển mình từ
một làng hỗn hợp thành một làng thương mại hóa triệt để? Câu trả lời, thực
tế, nằm trong chính truyền thống buôn bán của làng. Truyền thống này có bề
dày đến mức đã từng đi vào thư tịch xưa, khi làng được miêu tả là “lắm người
buôn”. Và ngay cả ở thời kì hợp tác hóa cách đây mấy chục năm, khi các hoạt
động kinh doanh tư nhân bị cấm đoán, việc buôn bán dưới dạng phi chính
thức vẫn lặng lẽ diễn ra - với bối cảnh làng xã cả nước nằm trong một mô
hình kinh tế đồng dạng, người dân Ninh Hiệp đã tự “tạo cơ chế” để làm kinh
tế theo cách mình muốn, tất nhiên là không phải không có những chật vật. Ở
146
Ninh Hiệp, như đã nói, đòi hỏi của việc buôn bán khiến cho người ta phải có
chiến lược củng cố và phát triển mạng lưới quan hệ xã hội trước đây cũng
như bây giờ, và mặt khác, các quan hệ xã hội với sự nhấn mạnh đến tính gắn
kết trong làng và quảng giao ngoài làng cũng trở thành nguồn “vốn” có vai
trò thúc đẩy quá trình thương mại hóa phát triển một cách tiệm tiến trong quá
khứ và ngày càng mạnh mẽ hơn ở giai đoạn hiện tại. Nếu buôn bán là một
trong những xu thế của làng từ thời kì phong kiến và thuộc địa thì thương mại
hóa toàn diện đã là xu thế chủ đạo được định hình của làng ngay sau thời
điểm bắt đầu Đổi mới, và việc đi đến kết quả ngày hôm nay chỉ là vấn đề thời
gian. Hiện thực này gặp gỡ nhận định trong các công trình bàn đến vấn đề
liên quan của Granato cùng cộng sự (1996) [178] rằng việc thừa nhận vai trò
của chỉ một yếu tố trong mối quan hệ kinh tế - văn hóa là không toàn diện và
Guiso cùng cộng sự (2006) [184] rằng văn hóa có một ảnh hưởng có thể nhận
thức được đến kinh tế88.
Câu chuyện về sự ứng xử của người dân làng Ninh Hiệp đối với các
quan hệ xã hội vốn có của mình cho thấy phản ứng của họ trong một xã hội
đang chuyển đổi một cách mạnh mẽ từ tiền phi nông nghiệp hóa sang phi
nông nghiệp hay từ nông thôn sang đô thị89, tức từ dạng xã hội được xem là
“truyền thống” sang dạng xã hội được xem là “hiện đại”, và liên quan tới vấn
đề rộng lớn hơn về sự ứng xử đối với các quan hệ xã hội vốn có của người
nông dân Việt nói chung trong quá trình hiện đại hóa những thập niên gần
đây. Diễn đạt cách khác, nó cho thấy một phần bức tranh của sự lựa chọn của
người nông dân Việt trước những chuyển đổi này. Chúng ta đều biết rằng, sau
thời điểm chính sách Đổi mới được thông qua và bắt đầu triển khai trên toàn
88 Xin nói thêm, về mối quan hệ giữa các chiều cạnh kinh tế và văn hóa, đã có một cuộc thảo
luận khá sôi nổi diễn ra trên diễn đàn học thuật thế giới trong thế kỉ XX, nhất là từ nửa cuối thế
kỉ XX cho đến hiện tại, thu hút sự tham gia của nhiều nhà khoa học như Polanyi, Arensberg và
Pearson (1957) [223]; Banfield (1958) [144]; Muth (1961) [217]; Lucas (1976) [205];
Iannaccone (1988) [188]; Gambetta (1988) [175]; Coleman (1990) [161]; Fukuyama (1995)
[173]; Putnam (1993) [230]; Knack và Keefer (1997) [195]; Landes (1998) [201]; Porta (1997)
[225]; Akerlof và Kranton (2000) [143]; Greif (2005) [181]... Có khởi nguồn từ những công
trình của các tiên khu là Marx hoặc Weber, các nghiên cứu đã ngày càng tập trung hơn vào
những tác động cụ thể của các chiều cạnh này đến nhau. 89 Trước đây, khái niệm “đô thị hóa” chỉ sự tập trung không ngừng dân cư vào các vùng đô thị,
còn hiện nay, nó chỉ sự biến đổi của các xã hội từ sống dựa vào sản xuất nông nghiệp sang phi
nông nghiệp [117, tr. 16].
147
quốc vào giữa thập niên 80 của thế kỉ XX (1986) và đặc biệt là sau khi nó
được thúc đẩy hơn vào đầu thập niên 90, với việc đổi mới từng bước nhưng đi
đến triệt để từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung mang tính chất quan liêu,
bao cấp sang nền kinh tế thị trường, những người nông dân khắp các làng xã
đã nhanh chóng và chủ động phục hồi nhiều quan hệ xã hội truyền thống để
làm “giá đỡ” cho kinh tế hộ gia đình (bên cạnh những nguyên nhân khác liên
quan đến tình, ví dụ như nhu cầu tinh thần về các thực hành văn hóa được
trao truyền qua nhiều thế hệ hay sự trỗi dậy của tâm lí cộng đồng vốn ẩn
trong tiềm thức). Làng Ninh Hiệp hoàn toàn không phải là một ngoại lệ.
Song, từ đầu thập niên 2000 trở đi, trong xu thế phi nông nghiệp hóa mạnh
mẽ, với tất cả sự chông chênh và bất trắc, thậm chí đến mức khốc liệt của
hoạt động thương mại xuyên biên giới đặc thù của mình, nhu cầu tìm kiếm
“giá đỡ” đó ở người dân làng Ninh Hiệp có thể nói còn quyết liệt hơn bao giờ
hết. Như đã trình bày, ở Ninh Hiệp hiện nay, một số dạng quan hệ xã hội
truyền thống được gia tăng, nhưng không còn hoàn toàn dựa trên những
khuôn mẫu trước giai đoạn hợp tác hóa vốn đã được phục hồi thời kì đầu Đổi
mới nữa. Với việc để ngỏ các mối quan hệ, đảm bảo cho chúng có thể di động
từ bộ phận ngoại vi vào bộ phận trung tâm và ngược lại ở mọi thời điểm,
đồng thời gần như từ chối loại bỏ bất cứ quan hệ nào trong mạng lưới quan hệ
xã hội của mình (nghĩa là chỉ làm điều đó trong trường hợp thật, thật đặc
biệt), người Ninh Hiệp - trong khi xem các loại quan hệ xã hội như là một
dạng vốn - đang có những sự lựa chọn mà theo đó tính duy lí trở thành điểm
nhấn nhằm thích ứng với những biến đổi to lớn đang tác động đến cộng đồng
cũng như đến đời sống của mỗi cá nhân. Trước hết, họ tạo ra những hình thức
mới cho các thực hành mang tính duy lí trong quan hệ xã hội của mình bằng
việc “cải biên” một số yếu tố cũ, ví dụ như hiện tượng những người buôn bán
là nữ giới đưa con về sinh hoạt với gia đình cha mẹ đẻ trong khoảng thời gian
trước tết âm lịch, việc những người đóng vai thứ trong gia đình và trong họ tổ
chức giỗ tiếp sức (cha mẹ/ ông bà/ cụ...) với thành phần khách mời chủ yếu là
bạn bè thuộc khu vực quan hệ xã hội nòng cốt hơn là những đối tượng mang
tính “biểu trưng”, hay việc người làng làm cỗ lớn mời đông đảo bạn hàng -
148
những người từ trước đến nay vẫn bị xem là hoàn toàn nằm trong khu vực
quan hệ xã hội ngoại vi - về dự hội lễ của cộng đồng mà tôi đã đề cập. Đây
chính là những cơ hội tốt để mỗi cá nhân củng cố và mở rộng mạng lưới quan
hệ xã hội, và vì thế vốn xã hội của mình. Quá trình thương mại hóa triệt để
chính là cơ sở để duy lí từ một giá trị được khẳng định trở thành giá trị cốt lõi
trong đời sống cộng đồng, nên nó khiến cho tất cả những việc làm trên được
cộng đồng hưởng ứng hoặc ít nhất là chấp nhận như một điều hết sức bình
thường và quen thuộc. Sau nữa, họ còn tạo ra những nội dung mới cho các
thực hành mang tính duy lí trong quan hệ xã hội của mình. Như đã nhiều lần
nhấn mạnh, đó không phải là sự duy lí chỉ dựa trên cạnh tranh, mà còn cả dựa
trên cố kết vì những lợi ích cá nhân. Bởi thế, mới có chuyện người ta tách các
quan hệ xã hội nòng cốt khỏi hoạt động mưu sinh để bảo vệ vốn xã hội nội bộ
của mình và củng cố các quan hệ khác để tăng cường vốn xã hội bắc cầu.
Tóm lại, bối cảnh chuyển đổi đã làm thay đổi cả hình thức lẫn nội dung của
các mối quan hệ xã hội ở đây. Tiếp tục tồn tại trong một xã hội “làng xã” hiện
đại nhưng với những màu sắc mới, các quan hệ xã hội truyền thống đã trở
thành những gì mà một thương - nhân - của - ngày - hôm - nay nhưng là nông
- dân - của - ngày - hôm - qua cần đến cho cuộc sống của mình. Sự tồn tại của
những quan hệ này ở trạng thái đã thay đổi của nó, quả thực, “thể hiện những
phân mảnh văn hóa được quay vòng lại trong hoàn cảnh mới” [240, tr. 134].
Vì văn hóa không phải là cái nhất thành bất biến mà là cái không ngừng được
làm mới, vận hành trên cơ sở của những mối quan tâm tại từng thời điểm, có
thể thấy qua sự ứng xử với các quan hệ xã hội, người Ninh Hiệp vẫn đang
tiếp tục quá trình sáng tạo văn hóa của mình - của những con người ham làm
giàu, năng động, quyết đoán, luôn đi tiên phong trong sự “hiện đại hóa” bằng
cách khai thác một cách khôn ngoan, khéo léo các nguồn lực đã có90. Với việc
“nghiên cứu xã hội chuyển đổi” đang là điều được quan tâm của khoa học xã
hội và nhân văn của Việt Nam [108], [75], thật ý nghĩa khi có thể ghi lại
90 Như ta biết, sự sáng tạo văn hóa (cultural innovation) thường xảy ra trong một xã hội đang
chuyển đổi. Cụ thể hơn, đó là việc xây dựng những yếu tố mới trên nền tảng cũ như một cách
đáp lại những biến động từ bối cảnh [182, tr. 47 - 68].
149
những gì mà người dân của một ngôi làng cổ đã nghĩ và làm trong lúc làn
sóng đô thị hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa... vỗ không ngơi vào họ, vì rằng
tất cả những sự “nghĩ” và “làm” đó đều là những ánh xạ theo cách này hay
cách khác của một phần bối cảnh xã hội chuyển đổi rộng lớn ở Việt Nam,
cũng như của sự lựa chọn mang tính chủ động, tự quyết của con người trong
bối cảnh đang đề cập. Tuy hiển nhiên là rất khó khái quát điều gì đó cho quan
hệ xã hội ở toàn bộ khu vực phi nông nghiệp hóa ở nước ta (cũng như bất cứ
khu vực nào) từ một trường hợp cụ thể và luận án chỉ có thể hướng đến sự
khẳng định rằng trong khu vực nông thôn phi nông nghiệp hóa đang có hiện
tượng mà chúng ta thấy ở điểm nghiên cứu được đề cập, song hiện tượng
được nêu ra sẽ là một miếng ghép để cùng với kết quả của những khảo sát tại
các điểm nghiên cứu đa dạng của những tác giả còn lại tạo thành một bức
tranh chung về quan hệ xã hội của khu vực nông thôn phi nông nghiệp hóa
hiện nay, hay nói cách khác, viết nên câu chuyện về quan hệ xã hội ở nông
thôn Việt trong bối cảnh mà chúng ta đang quan tâm. Nó cũng cập nhập thêm
một miếng ghép vào bức tranh rộng lớn về xã hội hậu nông dân (post -
peasantry) vốn đang là đối tượng nghiên cứu ngày càng được chú ý trên thế
giới hiện nay.
Đã mấy năm trôi qua kể từ ngày cuộc trò chuyện thoáng chốc nhưng
đáng nhớ với Trung trong một chiều đông giá rét dẫn dắt tôi vào việc nghiên
cứu về các quan hệ xã hội ở làng mình, Ninh Hiệp. Nhiều mùa đông khác nữa
đến rồi đi, nhưng cảm giác giá rét ở Ninh Hiệp dường như đã vơi bớt đáng kể
khi hàng loạt dãy cửa hàng cao tầng sừng sững không ngừng nối tiếp nhau
mọc lên, ngăn cản làn gió từ những cánh đồng thổi vào. Dòng người và dòng
hàng hóa lũ lượt đổ về nơi này hàng ngày và mỗi lúc một nhiều hơn dường
như cũng góp phần làm “tăng nhiệt” bầu không khí. Giờ đây, có thể nói
không phải chợ vải nằm trong Ninh Hiệp nữa, mà là Ninh Hiệp đang chìm
nghỉm trong chợ vải của chính nó, hay theo cách diễn đạt của một nhà nghiên
cứu từng dừng sự quan tâm của mình tại nơi này thì chợ làng đã được thay
thế bằng làng chợ. Thậm chí, chỉ bẵng đi độ dăm bảy tháng không lui tới là
những vị khách của làng có thể bị lạc đường khi tìm nhà người quen, bởi các
150
cửa hàng mọc lên như nấm sau mưa đã khiến nó thực sự trở thành một mê
cung thương mại khổng lồ. Những dáng nét cuối cùng của “chợ quê” sắp mất
đi, với việc khắp làng là những công trường ngổn ngang, những đống vật liệu
xây dựng bề bộn - đang còn rất nhiều người cần một chỗ ngồi để có thể đấu
đá trên thương trường, vì thế rất nhiều trung tâm thương mại mới sẽ phải
được xây dựng. Và những thanh âm rộn ràng của chợ búa mà tôi đã quen
nghe từ thuở thiếu thời, nay trở nên ồn ã hơn bao giờ hết trong ngôi làng đang
chứa cả một “biển” những tiểu thương. Trở về làng, nhưng không chỉ trên tư
cách một người dân mà còn trên tư cách một người nghiên cứu, tôi đã cố
gắng tìm hiểu các quan hệ xã hội ở đây bằng cả sự tiếp cận “bên trong” lẫn
“bên ngoài”, “gần” lẫn “xa”, “rộng” lẫn “hẹp”, với nguyên tắc coi trọng tiếng
nói của chủ thể văn hóa, những người đang đan dệt không ngơi nghỉ mạng
lưới quan hệ xã hội của mình để có thêm sức mạnh đối diện những thử thách
mới. Không ít người trong số đó ngày hôm qua còn gắn mình với việc đồng
áng hay chăn nuôi, ngày hôm nay đã phải lăn lộn vào Nam ra Bắc “nghiên
cứu” thị trường để đáp ứng những đòi hỏi khắc nghiệt của việc kinh doanh
trong cơn lốc hiện đại hóa và toàn cầu hóa, nhất là kinh doanh sản phẩm thời
trang. Không thể nào khác được, vì rằng, dù làm chủ chỉ một sạp hàng quy
mô nhỏ hay hẳn một hệ thống cửa hàng lớn, nếu không tuân theo những yêu
cầu hết sức riêng biệt của nghề, nguy cơ bị đào thải hay phá sản là như nhau.
Và, với những gì dân làng chia sẻ, với hiện thực cuộc sống của họ mà tôi đã
hòa mình vào để quan sát, sau tất cả, điều cuối cùng tôi muốn nhấn mạnh là
mặc dù sự ứng xử với các quan hệ xã hội truyền thống ở Ninh Hiệp sẽ còn có
những vận động không ngừng nghỉ và không dễ dự đoán, nhìn từ góc độ vốn
xã hội và xét trong xu thế phi nông nghiệp hóa đặc thù của làng hiện nay - là
thương mại hóa - thì khả năng những quan hệ nói trên sẽ tiếp tục giữ các vai
trò quan trọng theo những cách thức khác nhau với người dân trong tương lai
gần là có thể khẳng định. Ngày nào đó, nếu như hoạt động thương mại ở đây
không tiếp tục nữa, thực trạng này có thể sẽ thay đổi, và những gì tôi viết ra
sẽ chỉ còn là tư liệu thuần túy về một thời, nhưng đó lại là một câu chuyện
khác mất rồi/.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. “Hành trình tìm lại vị thế trong gia đình truyền thống ở người lập
nghiệp xa quê qua nghiên cứu trường hợp xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà
Nội”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1, 2012, tr. 55 - 65.
2. “Quan hệ làng xã trong bối cảnh thương mại hóa ở nông thôn Bắc
Bộ (trường hợp xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội), Tạp chí Văn hóa dân gian,
số 3, 2012, tr. 45 - 51.
3. “Tình cảm và chiến lược trong quan hệ họ hàng ở khu vực nông
thôn Bắc Bộ phi nông nghiệp hóa (trường hợp xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà
Nội)”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6, 2013, tr. 50 - 58, 77.
4. “Mạng lưới quan hệ xã hội ở một làng Bắc Bộ trong bối cảnh
thương mại hóa (trường hợp xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội)”, Tạp
chí Văn hóa dân gian, số 4, 2015, tr. 69 - 73.
Dịch thuật khoa học:
Putnam, R.D., “Bowling một mình, sự suy giảm vốn xã hội của Mĩ”,
Tạp chí Khoa học xã hội, số 9, 2013, tr. 74 - 87.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Ban chỉ đạo Đề án nông nghiệp - nông dân - nông thôn (2008), Chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn thời kì 1997 - 2007, tập 1 (Các chủ trương của Đảng
về nông nghiệp - nông dân - nông thôn từ Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII đến nay), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban chỉ đạo Đề án nông nghiệp - nông dân - nông thôn (2008), Chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn thời kì 1997 - 2007, tập 2 (Chủ trương, chính sách
của chính phủ về nông nghiệp - nông dân - nông thôn thời kì 1997 -
2007), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Tuấn Anh (2001), “Vài nét về quan hệ dòng họ trong cộng
đồng làng xã hiện nay”, Tạp chí Tâm lí học, số 2, tr. 40 - 45, 51.
4. Nguyễn Lâm Tuấn Anh (2005), “Ảnh hưởng của mô hình làng xã
truyền thống tới sự biến đổi làng xã đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật, số 4, tr. 30 - 35.
5. Dương Duy Bằng (2002), “Tiểu thủ công nghiệp ở Ninh Hiệp (lịch
sử và hiện tại)”, in trong: Papin, P., Tessier, O. (chủ biên), Làng ở
vùng châu thổ sông Hồng, vấn đề còn bỏ ngỏ, Nxb. Lao động - Xã
hội, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Bích (2007), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau
hai mươi năm Đổi mới: Quá khứ và hiện tại, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Bích, Chu Tiến Quang chủ biên (1999), Phát triển
nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện
đại hóa ở Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
8. Lê Thanh Bình (2002), “Thương mại - dịch vụ trong phát triển kinh
tế - xã hội ở Ninh Hiệp”, in trong: Papin, P., Tessier, O. (chủ biên),
153
Làng ở vùng châu thổ sông Hồng, vấn đề còn bỏ ngỏ, Nxb. Lao
động - Xã hội, Hà Nội.
9. Lê Thanh Bình (2009), Một số vấn đề quản lí nhà nước về kinh tế,
văn hóa, giáo dục trên thế giới và Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Phương Châm (2009), Biến đổi văn hóa ở các làng quê
hiện nay: Trường hợp làng Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đình Bảng
thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
11. Nguyễn Đổng Chi (1978), “Sự tồn tại của quan hệ thân tộc trong
làng xã Việt Nam”, Ủy ban KHXH Việt Nam, Viện Sử học, Nông
thôn Việt Nam trong lịch sử (nghiên cứu xã hội nông thôn truyền
thống), tập 2, Nxb. KHXH, Hà Nội.
12. Nguyễn Đổng Chi (1978), “Vài nét về biện pháp cứu tế tương trợ
trong làng xã Việt Nam trước Cách mạng”, Ủy ban KHXH Việt
Nam, Viện Sử học, Nông thôn Việt Nam trong lịch sử (nghiên cứu
xã hội nông thôn truyền thống), tập 2, Nxb. KHXH, Hà Nội.
13. Nguyễn Đức Chiện (2013), “Vốn xã hội cho sự phát triển ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7, tr. 42 - 49.
14. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
15. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kì
Đổi mới 1986 - 2002, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
16. Hoàng Văn Cường (chủ biên), Lê Đình Thắng, Ngô Đức Cát…
(2000), Định hướng phát triển kinh tế xã hội vùng ngoại thành Hà
Nội đến năm 2020, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
17. Daydé, G. (1914), Bắc Ninh địa dư mông học và bản đồ tỉnh Bắc
Ninh, Bắc Kì, Trương Quý Bình dịch, Imprimerie d’ Extrême -
Orient, Hà Nội - Hải Phòng.
18. Phan Hữu Dật (1977), “Vài tài liệu về làng gốm Bát Tràng trước
Cách mạng tháng Tám”, in trong: Ủy ban KHXH Việt Nam, Viện
154
Sử học, Nông thôn Việt Nam trong lịch sử (nghiên cứu xã hội nông
thôn truyền thống), tập 1, Nxb. KHXH, Hà Nội.
19. Phạm Đức Dương (1997), “Kinh Bắc và sự giao lưu tiếp xúc với văn
hóa thế giới”, Tạp chí Đông Nam Á, số 2, tr. 16 - 20.
20. Phan Đại Doãn (2008), Làng xã Việt Nam - một số vấn đề kinh tế -
văn hoá - xã hội, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Trần Hữu Dũng (2003), “Vốn xã hội và kinh tế”, Tạp chí Thời đại,
số 8, tr. 82 - 102.
22. Bùi Quang Dũng (2009), “Kinh tế nông dân: khái niệm và các vấn
đề”, Tạp chí Xã hội học, số 4, tr. 81 - 93.
23. Đảng ủy xã Ninh Hiệp (2005), Báo cáo chính trị trình Đại hội đại
biểu Đảng bộ xã Ninh Hiệp lần thứ XXIV nhiệm kì 2005 - 2010.
24. Đảng ủy xã Ninh Hiệp (2010), Báo cáo chính trị trình Đại hội đại
biểu Đảng bộ xã Ninh Hiệp lần thứ XXV nhiệm kì 2010 - 2015.
25. Đảng ủy xã Ninh Hiệp (2014), Báo cáo công tác lãnh đạo, chỉ đạo
và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm 2013. Mục tiêu, nhiệm vụ và giải
pháp chủ yếu năm 2014.
26. Bùi Xuân Đính (2007), “Từ một kiểu chia làng, suy nghĩ về tính
thống nhất và đồng thuận của làng Việt thời phong kiến”, Tạp chí
Dân tộc học, số 5, tr. 3 - 9.
27. Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, Phạm Trọng Điềm dịch, Nxb.
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
28. Đỗ Thái Đồng (1995), “Làng hiện thực và biểu trưng”, in trong: Mạc
Đường (chủ biên), Làng xã ở châu Á và ở Việt Nam, Nxb. TP. Hồ
Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
29. Endruweit, G., Trommsdorff, G. (2001), Từ điển xã hội học, Ngụy
Hữu Tâm và Nguyễn Hoài Bão dịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
30. Ngô Văn Giá (chủ biên), Lương Văn Khuê, Nguyễn Duy Bắc (2007),
Những biến đổi về giá trị văn hóa truyền thống ở các làng ven đô Hà
Nội trong thời kì đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
155
31. Gourou, P. (2003), Người nông dân châu thổ Bắc Kì, Nxb. Trẻ, TP.
Hồ Chí Minh.
32. Grillot, C. (2014), ““Làm kinh doanh không dễ”: Những thay đổi
thất thường của buôn bán ở vùng biên giới theo cách nhìn của người
bán buôn Trung Quốc”, Nguyễn Văn Thắng dịch, Tạp chí Dân tộc
học, số 3, tr. 16 - 25.
33. Mai Văn Hai, Phan Đại Doãn (2000), Quan hệ dòng họ ở châu thổ
sông Hồng: Qua hai làng Đào Xá và Tứ Kỳ, Nxb. KHXH, Hà Nội.
34. Mai Văn Hai, Ngô Thị Thanh Quý (2011), “Mạng lưới tổ chức phi
chính thức ở nông thôn trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay”,
Tạp chí Xã hội học, số 4, tr. 46 - 53.
35. Mai Văn Hai, Ngô Thị Thanh Quý (2012), “Vai trò của mạng
lưới họ hàng lấy cá nhân làm trung tâm trong hoạt động kinh tế ở
nông thôn hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, số 5,
tr. 42 - 52.
36. Diệp Đình Hoa (1990), Tìm hiểu làng Việt, Nxb. KHXH, Hà Nội.
37. Hoàng Văn Hoa (2006), “Tác động của đô thị hóa đối với lao động,
việc làm của người có đất bị thu hồi ở nước ta hiện nay”, Tạp chí
Kinh tế và phát triển, số 106, tr. 3 - 5.
38. Hoàng Ngọc Hòa (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Nguyễn Trọng Hoài, Huỳnh Thanh Điền (2010), “Xây dựng khung
phân tích vốn xã hội trong doanh nghiệp cho điều kiện Việt Nam:
Tổng quan lí thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm”, Tạp chí Phát
triển và hội nhập, số 6, tr. 22 - 28.
40. Nguyễn Vũ Hoàng (2008), “Vốn xã hội trong đô thị: Một nghiên cứu
nhân học về hành động tập thể ở một dự án phát triển đô thị tại Hà
Nội”, Tạp chí Dân tộc học, số 5, tr. 11 - 26.
156
41. Horat, E., (2014), “Tư nhân hóa và sự năng động của thị trường
mang tính chất giới ở Ninh Hiệp, Gia Lâm”, Nguyễn Thị Hồng Nhị
dịch, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 26 - 36.
42. Phạm Như Hồ (2013), “Thử nhìn lại vấn đề vốn xã hội”, Tạp chí Tia
sáng, số 3 + 4, tr. 6 - 12.
43. Phạm Đình Hổ (2003), Vũ trung tùy bút, Nguyễn Hữu Tiến dịch,
Nxb. Trẻ, Hội Nghiên cứu giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh, TP.
Hồ Chí Minh.
44. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam
(2003), Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 3, Nxb. Từ điển bách
khoa, Hà Nội.
45. Tô Duy Hợp (chủ biên) (1997), Ninh Hiệp truyền thống và phát
triển, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
46. Tô Duy Hợp (2000), Sự biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay ở
đồng bằng sông Hồng, Nxb. KHXH, Hà Nội.
47. Tô Duy Hợp (chủ biên) (2003), Định hướng phát triển làng - xã
đồng bằng sông Hồng ngày nay, Nxb. KHXH, Hà Nội.
48. Nguyễn Văn Huyên (2000), Văn minh Việt Nam, Đỗ Trọng
Quang dịch (từ tiếng Pháp), in trong: Phạm Minh Hạc, Hà Văn
Tấn (chủ biên), Nguyễn Văn Huyên toàn tập, tập 1, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
49. Nguyễn Văn Huyên (2000), Bức tranh địa lí hành chính của một
tỉnh Việt Nam xưa: Tỉnh Bắc Ninh (hay Kinh Bắc), Trần Đỉnh dịch
(từ tiếng Pháp), in trong: Phạm Minh Hạc, Hà Văn Tấn (chủ biên),
Nguyễn Văn Huyên toàn tập, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
50. Nguyễn Văn Huyên (2000), Về một bản đồ phân bố các thành hoàng
ở tỉnh Bắc Ninh (Bắc Kì), Trần Đỉnh dịch (từ tiếng Pháp), in trong:
Phạm Minh Hạc, Hà Văn Tấn (chủ biên), Nguyễn Văn Huyên toàn
tập, tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
157
51. Trần Đình Hượu (1989), ““Làng - Họ”, những vấn đề của quá khứ
và hiện tại”, Tạp chí Xã hội học, số 3, tr. 18 - 27.
52. Lương Văn Hy (2010), “Quà và vốn xã hội ở hai cộng đồng nông
thôn Việt Nam”, in trong: Nhiều tác giả, Hiện đại và động thái của
truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học, quyển 1,
Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
53. Nguyễn Quang Khải (2000), Văn bia Văn miếu Bắc Ninh, Nxb. Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
54. Khuyết danh (2009), Bắc Ninh phong thổ tạp kí, Nguyễn Thị
Hường, Nguyễn Tô Lan dịch, in trong: Đinh Khắc Thuân (chủ
biên), Địa phương chí tỉnh Bắc Ninh qua tư liệu Hán nôm, Nxb.
KHXH, Hà Nội.
55. Kleinen, J. (2007), Đối diện tương lai hồi sinh quá khứ: Nghiên cứu
biến đổi xã hội ở một làng Bắc Việt Nam, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
56. Ngô Thị Phương Lan (2014), Từ lúa sang tôm: Hành vi giảm
thiểu rủi ro và khai thác vốn xã hội của nông dân vùng đồng bằng
sông Cửu Long, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ
Chí Minh.
57. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (1994), Các giá trị truyền thống và
con người Việt Nam hiện nay, Nxb. KHXH, Hà Nội.
58. Nguyễn Hương Liên (1985), “Thử tìm hiểu một lễ hội cổ truyền
trên đất Bắc Ninh cũ”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3 + 4, tr.
72 - 76.
59. Vũ Thanh Liêm (2008), Mức sống hộ gia đình Bắc Ninh ngày nay
(qua số liệu khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2002, 2004, 2006),
Nxb. Thống kê, Hà Nội.
60. Trần Gia Long (2012), Nghiên cứu xu hướng chuyển đổi nghề của
lao động nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng, Luận án tiến sĩ
kinh tế, Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Hà Nội.
158
61. Tạ Long, Đỗ Thị Chính (1993), “Đời sống làng quê một vùng
Kinh Bắc: Những số liệu và ý niệm”, Tạp chí Dân tộc học, số 4,
tr. 29 - 36.
62. Phạm Xuân Lộc (2009), Bắc Ninh tỉnh khảo dị, Nguyễn Thị
Hường, Nguyễn Tô Lan dịch, in trong: Đinh Khắc Thuân (chủ
biên), Địa phương chí tỉnh Bắc Ninh qua tư liệu Hán nôm, Nxb.
KHXH, Hà Nội.
63. Trần Đình Luyện (2005), “Bắc Ninh, vùng đất văn hóa”, Tạp chí Xưa
và nay, số 245, tr. 27 - 30.
64. Lê Thị Mai (2002), Chợ nông thôn châu thổ sông Hồng trong quá
trình chuyển đổi kinh tế - xã hội thời kì đổi mới (trường hợp chợ
Ninh Hiệp, chợ Hữu Bằng, chợ Thổ Tang), Luận án tiến sĩ Xã hội
học, Trường Đại học KHXH và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
65. Manilowski, B. (2010), “Thực chất của Kula”, in trong: McGee, R.
J., Warm, R. L., Lí thuyết nhân loại học, giới thiệu lịch sử, Lê Sơn
Phương Ngọc, Nguyễn Hoàng Trung, Đinh Hồng Phúc… dịch, Nxb.
Từ điển bách khoa, Hà Nội.
66. Mauss, M. (2011), Luận về biếu tặng, Nguyễn Tùng dịch, Nxb. Tri
thức, Hà Nội.
67. Nguyễn Hữu Minh (2003), “Đô thị hóa và sự phát triển nông thôn ở
Việt Nam - Một số vấn đề cần quan tâm nghiên cứu”, Tạp chí Xã hội
học, số 3, tr. 15 - 20.
68. Lê Mạnh Năm (2005), “Ảnh hưởng của một số yếu tố văn hóa trong
sự tăng trưởng kinh tế tại các làng xã châu thổ sông Hồng”, Tạp chí
Xã hội học, số 3, tr. 64 - 72.
69. Lê Mạnh Năm, Nguyễn Phan Lâm (2007), “Cộng đồng làng
trong hệ thống an sinh xã hội hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, số 1,
tr. 66 - 75.
159
70. Bế Quỳnh Nga (2008), “Các tổ chức xã hội tự nguyện ở nông thôn
và vai trò trợ giúp xã hội trong bối cảnh nền kinh tế chuyển đổi”,
Tạp chí Xã hội học, số 2, tr. 43 - 51.
71. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn học,
Hà Nội.
72. Nguyễn Quang Ngọc (1993), Về một số làng buôn ở đồng bằng sông
Hồng thế kỉ XVIII - XIX, Hội Sử học Việt Nam xb., Hà Nội.
73. Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề làng xã Việt Nam, Nxb.
ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
74. Nhiều tác giả (1993), Thiền uyển tập anh, Ngô Đức Thọ, Nguyễn
Thúy Nga dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội.
75. Nhiều tác giả (2007), Những nghiên cứu xã hội học trong thời kì
chuyển đổi, Nxb. KHXH, Hà Nội.
76. Lê Quang Phi (2007), Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn trong thời kì mới, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
77. Lê Du Phong, Nguyễn Văn Áng, Hoàng Văn Hoa (chủ biên) (2002),
Ảnh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Vũ Huy Phúc, Lê Đình Sỹ (1977), “Công cuộc trị thủy - thủy lợi yêu
cầu quan hệ làng xã”, in trong: Ủy ban KHXH Việt Nam, Viện Sử
học, Nông thôn Việt Nam trong lịch sử (nghiên cứu xã hội nông thôn
truyền thống), tập 1, Nxb. KHXH, Hà Nội.
79. Đặng Thị Việt Phương, Bùi Quang Dũng (2011), “Các tổ chức xã
hội tự nguyện ở nông thôn đồng bằng sông Hồng: Liên kết và trao
đổi xã hội”, Tạp chí Xã hội học, số 4, tr. 31 - 45.
80. Lương Hồng Quang (2010), “Các tổ chức phi quan phương trong
làng - xã vùng châu thổ Việt (trường hợp hội đồng niên)”, in trong:
Nhiều tác giả, Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam:
160
Những cách tiếp cận nhân học, quyển 1, Nxb. Đại học Quốc gia TP.
Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
81. Lương Hồng Quang, Nguyễn Tuấn Anh, Phạm Nam Thanh
(2000), “Thực trạng văn hóa nông thôn đương đại và những xu
hướng biến đổi”, phần đầu, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 7, tr.
15 - 23.
82. Lương Hồng Quang, Nguyễn Tuấn Anh, Phạm Nam Thanh
(2000), “Thực trạng văn hóa nông thôn đương đại và những xu
hướng biến đổi”, phần cuối, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 8, tr.
55 - 61.
83. Trần Hữu Quang (2006), “Tìm hiểu khái niệm vốn xã hội”, Tạp chí
Khoa học xã hội, số 7, tr. 74 - 81.
84. Trịnh Thị Quang (1984), “Mấy vấn đề quan hệ thân tộc ở nông
thôn”, Tạp chí Xã hội học, số 2, tr. 47 - 52.
85. Vũ Văn Quân (2002), “Những biến đổi của quan hệ dòng họ ở
Ninh Hiệp”, in trong: Papin, P., Tessier, O. (chủ biên), Làng ở
vùng châu thổ sông Hồng, vấn đề còn bỏ ngỏ, Nxb. Lao động -
Xã hội, Hà Nội.
86. Nguyễn Khắc Quýnh (2002), “Làng Nành”, Tạp chí Diễn đàn văn
nghệ Việt Nam, số 4, tr. 79 - 81.
87. Nguyễn Khắc Quýnh (chủ biên) (2004), Chuyện cũ làng Nành, Nxb.
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
88. Nguyễn Khắc Quýnh (2004), Những ngôi chùa làng Nành, tài liệu
đánh máy.
89. Salemink, O. (2010), “Tìm kiếm an toàn tinh thần trong xã hội Việt
Nam đương đại”, Nguyễn Tuấn Anh và Nguyễn Vũ Hoàng dịch, in
trong: Nhiều tác giả, Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt
Nam: Những cách tiếp cận nhân học, quyển 2, Nxb. Đại học Quốc
gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
90. Trịnh Sinh (1997), “Bắc Ninh, một vùng văn hóa Việt cổ”, Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật, số 9, tr. 31 - 34.
161
91. Soucy, A. (2010), “Mời cưới ở Hà Nội và quản lí các mối quan hệ”,
Nguyễn Lan Hà dịch, in trong: Nhiều tác giả, Hiện đại và động thái
của truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học, quyển
1, Nxb. ĐHQG TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
92. Đặng Kim Sơn (2006), “Vốn xã hội ở nước ta, thực trạng và giải
pháp”, Tạp chí Tia sáng, số 13, tr. 30 - 31.
93. Đặng Kim Sơn (2006), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, 20 năm
đổi mới và phát triển, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Đặng Kim Sơn (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam
hôm nay và mai sau, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Phan Thanh Tá (2010), Sinh hoạt văn hóa cổ truyền ở các làng - xã
Đa Tốn, Ninh Hiệp, Bát Tràng huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội
trong thời kỳ đổi mới, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa
nghệ thuật, Hà Nội.
96. Tessier, O. (2010), ““Giúp đỡ” và tương trợ trong cộng đồng làng
quê ở miền Bắc Việt Nam: Quan hệ giữa tình đoàn kết và sự phụ
thuộc”, in trong: Nhiều tác giả, Hiện đại và động thái của truyền
thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học, quyển 1, Nxb.
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
97. Hoàng Thanh (2012), “Làng Nành xưa, Ninh Hiệp nay”,
www.nhandan.com.vn
98. Nguyễn Quý Thanh (2005), “Sự giao thoa giữa vốn xã hội với các
giao dịch kinh tế trong gia đình: so sánh gia đình Việt Nam và gia
đình Hàn Quốc”, Tạp chí Xã hội học, số 2, tr. 108 - 121.
99. Đặng Xuân Thao (1998), Mối quan hệ giữa dân số và việc làm ở một
xã phát triển ngoại thành Hà Nội, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
100. Nguyễn Duy Thắng (2007), “Sử dụng vốn xã hội trong chiến lược
sinh kế của nông dân ven đô Hà Nội dưới tác động của đô thị hóa”,
Tạp chí Xã hội học, số 4, tr. 37 - 47.
162
101. Đặng Văn Thắng, Phạm Ngọc Dũng (2003), Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế công - nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng: Thực trạng và
triển vọng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb.
TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
103. Khổng Đức Thiêm (1994), “Phương ngôn với truyền thống cử
nghiệp Kinh Bắc”, Tạp chí Văn học, số 3, tr. 14 - 16.
104. Dương Chí Thiện (2011), “Các tổ chức xã hội tự nguyện ở nông
thôn Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5,
tr. 66 - 76.
105. Hoàng Bá Thịnh (2009), “Vốn xã hội, mạng lưới xã hội và những
phí tổn”, Tạp chí Xã hội học, số 1, tr. 42 - 51.
106. Hoàng Bá Thịnh (2010), “Vấn đề lao động, việc làm của người nông
dân trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa”, in trong: Đại học
Quốc gia Hà Nội (2010), Những vấn đề kinh tế - xã hội ở nông thôn
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Kỉ yếu Hội thảo khoa
học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
107. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt
Nam, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
108. Ngô Đức Thịnh (2007), “Một số vấn đề nghiên cứu xã hội chuyển
đổi ở Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, tr. 13 - 15.
109. Trần Quốc Thịnh (2004), Văn hóa ẩm thực Kinh Bắc, Nxb. Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
110. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga (1994), “Các nhà khoa bảng
trên địa bàn văn hóa xứ Kinh Bắc xưa”, Tạp chí Văn học, số 3, tr.
9 - 11, 20.
111. Thomése, F., Nguyễn Tuấn Anh (2007), “Quan hệ họ hàng với việc
dồn điền đổi thửa và sử dụng ruộng đất dưới góc nhìn vốn xã hội ở
một làng Bắc Trung Bộ”, Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, số 4,
tr. 3 - 16.
163
112. Đinh Khắc Thuân khảo cứu, giới thiệu (2003), Văn bia làng Nành,
Nxb. KHXH, Hà Nội.
113. Đỗ Thị Minh Thúy, Nguyễn Hồng Sơn (chủ biên) (2010), Phong
trào duy tân với sự chuyển biến của văn hóa Việt Nam đầu thế kỉ XX,
Nxb. Từ điển bách khoa và Viện Văn hóa.
114. Lê Minh Tiến (2007), “Vốn xã hội và đo lường vốn xã hội”, Tạp chí
Khoa học xã hội, số 3, tr. 72 - 77.
115. Nguyễn Trãi (2000), “Dư địa chí”, in trong: Trung tâm Nghiên cứu
quốc học, Nguyễn Trãi toàn tập, tập 2, Nxb. Văn học - Trung tâm
nghiên cứu quốc học, Hà Nội - TP. Hồ Chí Minh.
116. Nguyễn Đức Truyến (2003), Kinh tế hộ gia đình và các quan hệ xã
hội ở nông thôn đồng bằng sông Hồng trong thời kì đổi mới, Nxb.
KHXH, Hà Nội.
117. Nguyễn Đức Truyến (2012), “Đô thị hóa và biến đổi xã hội tại các
làng nông thôn ngoại thành Hà Nội”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 9,
tr. 16 - 34.
118. Trương Xuân Trường (2003), “Một số biến đổi kinh tế - xã hội ở
nông thôn vùng châu thổ sông Hồng hiện nay”, Tạp chí Xã hội học,
số 3, tr. 28 - 41.
119. Nguyễn Anh Tuấn (2011), ““Sổ nợ đời” - Vốn xã hội: Định đề giới
hạn về trao đổi xã hội hay những mối liên hệ liên chủ thể”, Tạp chí
Dân tộc học, số 5, tr. 25 - 34.
120. Lê Hữu Tuấn (1998), “Luy Lâu, trung tâm Phật giáo đầu tiên tại
Việt Nam và Đông Nam Á”, Tạp chí Nghiên cứu Phật giáo, số 5,
tr. 7 - 15.
121. Đào Thế Tuấn (2005), “Tính năng động của vùng Kinh Bắc”, Tạp
chí Xưa và nay, số 245, tr. 4 - 5.
122. Đào Thế Tuấn (2006), “Vốn xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Xưa và
nay, Hà Nội, số 269, tr. 8 - 14.
164
123. Nguyễn Thị Ánh Tuyết (2012), “Vốn xã hội trong quản lý và
phát triển nông thôn nước ta hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, số
2, tr. 33 - 40.
124. Hoàng Tụy (2003), “Thực trạng vốn xã hội Việt Nam: Hai vấn đề
cần bàn”, Tạp chí Tia sáng, số 3 + 4, tr. 16 - 18.
125. Vũ Tiến Tuynh, Trần Trung Sơn (biên soạn) (2007), Lịch sử cách
mạng Đảng bộ và nhân dân Ninh Hiệp (1930 - 2005), Nxb. Văn hoá
dân tộc, Hà Nội.
126. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ,
Nxb. KHXH, Hà Nội.
127. Nguyễn Thị Hải Vân (2012), Tác động của đô thị hoá đối với lao
động, việc làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội, Luận án tiến sĩ
Kinh tế, Học viện KHXH, Hà Nội.
128. Khúc Thị Thanh Vân (2012), Vai trò của vốn xã hội trong phát triển
kinh tế hộ ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay - Nghiên cứu
trường hợp tại Nam Định và Bắc Ninh, Luận án tiến sĩ Xã hội học,
Học viện KHXH, Hà Nội.
129. Đỗ Trọng Vĩ (1997), Bắc Ninh địa dư chí, Đỗ Tuấn Anh dịch, Nxb.
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
130. Phạm Thị Thùy Vinh (2003), Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự
phản ánh sinh hoạt làng xã, Nxb. Văn hóa thông tin - Viện Viễn
Đông bác cổ xb., Hà Nội.
131. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập 4,
Phạm Trọng Điềm dịch, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
132. Lê Trung Vũ (1997), “Lễ hội xứ Bắc, những đặc điểm”, Tạp chí
Đông Nam Á, số 2, tr. 42 - 47.
133. Tong, C.K., Yong, P.K. (2014), “Guanxi, xinyong và mạng lưới kinh
doanh của người Hoa”, Bùi Thế Cường dịch, Tạp chí Khoa học xã
hội, số 3, tr. 67 - 86, 66.
165
134. Trần Quốc Vượng (1995), “Xứ Bắc - Kinh Bắc: Một cái nhìn địa -
văn hóa”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 7, tr. 6 - 9.
135. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm,
Nxb. Văn hóa dân tộc - Tạp chí Văn hóa nghệ thuật xb., Hà Nội.
136. Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (2014), Nghề thủ công truyền thống
Việt Nam và các vị tổ nghề, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
137. Trần Thị Hồng Yến (2009), “Chuyển đổi nghề nghiệp ở một số xã
ngoại thành Hà Nội được chuyển thành phường”, Tạp chí Dân tộc
học, số 5, tr. 28 - 38.
138. Yu, I. (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỉ XVII - XVIII, Nguyễn
Quang Ngọc dịch, Nxb. KHXH, Hà Nội.
139. Weber, M. (2008), Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa
tư bản, Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu
Quang dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
Tiếng Anh
140. Adas, M. (1980), “Moral Economy or Contest State?: Elite Demands
and the Origins of Peasant Protest in Southeast Asia” [Kinh tế đạo
đức hay tình trạng cạnh tranh: Đòi hỏi của tầng lớp tinh hoa và
nguồn gốc các cuộc nổi dậy của nông dân tại Đông Nam Á], Journal
of Social History, 13.4: 521 - 546.
141. Adger, W., Kelly, P.M., Winkels, A., Le, Q.H., Locke, C. (2002),
“Migration, Remittances, Livelihood Trajectories, and Social
Resilience” [Di dân, kiều hối, quỹ đạo sinh kế, và khả năng phục
hồi xã hội], AMBIO: A Journal of the Human Environment, 31.4:
358 - 366.
142. Agergaard, J., Vu, T.T. (2010), “Mobile, Flexible, and Adaptable:
Female Migrants in Hanoi’s Infomal Sector” [Di động, linh hoạt
và thích nghi: Phụ nữ di dân trong bộ phận kinh tế phi chính thức
của Hà Nội], Population, Space and Place, 17.5: 407 - 420.
166
143. Akerlof, G., Kranton, R.E. (2000); “Economic and Identity” [Kinh tế
và bản sắc], Quartely Journal of Economics, 115.3: 715 - 753.
144. Banfield, E.C. (1958), The Moral Basis of a Backward Society
[Nền tảng đạo đức của các xã hội tụt hậu] , The Free Press,
New York.
145. Barton, C.G. (1977), Credit and Commercial Control: Strategies and
Methods of Chinese Businessmen in South Vietnam [Tín dụng và sự
kiểm soát thương mại: Chiến lược và phương pháp của doanh nhân
người Hoa ở Nam Việt Nam], Doctoral Dissertation, Cornell
University.
146. Barbieri, M., Bélanger, D. (2009), “Introduction” [Giới thiệu], in
M. Barbieri, D. Bélanger (eds.), Reconfiguring Families in
Contemporary Vietnam, Stanford University Press, Stanford.
147. Barfield, T. (1997), The Dictionary of Anthropology [Từ điển nhân
học], Blackwell, Oxford.
148. Barr, A. (1998), “Enterprise Performance and the Functional Diversity
of Social Capital” [Hiệu suất doanh nghiệp và sự đa dạng chức năng
của vốn xã hội], Working Paper Series 98 - 1, Institute of Economics
and Statistics, University of Oxford.
149. Befu, H. (1968), “Gift-Giving in a Modernizing Japan” [Tặng
quà ở một nước Nhật hiện đại hóa] , Monumenta Nipponica,
23.3-4: 445 - 456.
150. Beresford, M., Dang, P. (2001), Economic Transition in Vietnam:
Trade and Aid in the Demise of a Centrally Planned Economy
[Chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam: Thương mại và hỗ trợ trong sự sụp
đổ của một nền kinh tế kế hoạch tập trung], Edward Elgar
Publishing Ltd., Cheltenham.
151. Bernard, A., Spencer, J. (1997), Encyclopedia of Social and Cultural
Anthropology [Bách khoa thư về nhân học văn hóa và xã hội],
Routdle, London - New York.
167
152. Blau, P. (1964), Exchange and Power in Social Life [Trao đổi và
quyền lực trong đời sống xã hội], Transaction Publishers, New
Jersey.
153. Braudel, F. (1979), Civilization and Capitalism, 15th - 18th Century
[Nền văn minh và chủ nghĩa tư bản, thế kỉ XV - XVIII], Vol. 2: The
Wheels of Commerce, trans. S. Reynolds, University of California
Press, Berkeley - Los Angeles.
154. Brocheux, P. (1983), “Moral Economy or Political Economy? The
Peasants are Always Rational” [Kinh tế đạo đức hay kinh tế chính
trị? Nông dân luôn sáng suốt], trans. C.F. Keyes and K. Adams,
Journal of Asian Studies, 42.4: 791 - 803.
155. Bourdieu, P. (1977), Outline of a Theory of Practice [Phác thảo một
lí thuyết về thực hành], Cambridge University Press, Cambridge.
156. Bourdieu, P. (1986), “The Forms of Capital” [Hình thức của vốn xã
hội], in J.G. Richardson (ed.), Handbook of Theory and Research for
the Sociology of Education, Greenwood, New York.
157. Burt, R. (1992), Structural Holes: The Social Structure of
Competition [Lỗ hổng cấu trúc: Cấu trúc xã hội của sự kiện đua
tranh], Harvard University Press, Cambridge.
158. Calhoun, C. (ed. in chief) (2002), Dictionary of Social Sciences [Từ
điển khoa học xã hội], Oxford University Press, New York.
159. Chovanes, A.B. (1986), “On Vietnamese and Other Peasants” [Về
người nông dân Việt Nam và những người nông dân khác], Journal
of Southeast Asian Studies, 17.2: 203 - 235.
160. Coleman, J.S. (1988), “Social Capital in the Creation of Human-
Capital” [Vốn xã hội trong việc tạo dựng vốn con người], American
Journal of Sociology, 94: 95 - 120.
161. Coleman, J.S. (1990), Foundations of Social Theory [Nền tảng của lí
thuyết xã hội], Havard University Press, Cambridge.
168
162. Dang, N.A., Goldsteinand, S., McNally, J.W. (1997), “Internal
Migration and Development in Vietnam” [Di cư nội địa và phát
triển ở Việt Nam], International Migration Review, 31.2: 312 - 337.
163. Dijk, M.P.V., Rabellotti, R., (ed.) (1997), Enterprise Clusters and
Networks in Developing Countries [Các cụm doanh nghiệp và
mạng lưới xã hội ở những nước đang phát triển] , Frank Cass,
London.
164. Dirks, R. (1980), “Social Responses During Severe Food Shortages
and Famine” [Những phản ứng xã hội trong tình trạng thiếu hụt
lương thực nghiêm trọng và nạn đói] , Current Anthropology, 21:
21 - 44.
165. Edelman, M. (2008), “Bringing the Moral Economy back in… to
the Study of 21st-Century Transnational Peasant Movements” [Đưa
nền kinh tế đạo đức trở lại... với việc nghiên cứu xuyên quốc gia về
phong trào nông dân của thế kỉ 21], American Anthropologist, 107.
3: 331 - 345.
166. Endres, K.W. (2012), “Neighborly Bargains: Small-scale Trade and
Social Dynamics at the Vietnam-China Border” [Thương lượng như
láng giềng với nhau: Thương mại quy mô nhỏ và tính năng động xã
hội tại biên giới Việt Nam - Trung Quốc], Paper prensented in
workshop on Vietnam and Its Minorities, Vietnam and Its Neighbors
- Are There Historical Lessons for the 21st Century? Hamburg, 9 -
10/6/2012.
167. Ellis, F. (1999), “Rural Livelihoods and Diversity in Developing
Countries: Evidence and Policy Implications” [Sinh kế nông thôn và
sự đa dạng ở các nước đang phát triển: Bằng chứng và chính sách],
www.odi.org
168. Evans, G. (1986), “From Moral Economy to Remembered
Village: The Sociology of James C. Scott” [Từ nền kinh tế đạo
đức đến ngôi làng được đề cập: Xã hội học của Jame C. Scott] ,
169
Working Paper No. 40, Monash University Centre of Southeast
Asian Studies.
169. Fafchamps, M., Minten, B. (1999), “Social Capital and the Firm:
Evidence From Agricultural Trade” [Vốn xã hội và công ty: Bằng
chứng từ nền thương mại nông nghiệp], Social Capital Initiative,
Working Paper No. 17, World Bank.
170. Feeny, D. (1983), “The Moral or the Rational Peasant? Competing
Hypotheses of Collective Action” [Người nông dân duy tình hay duy
lí? Những giả thuyết đối ngược nhau về hành động tập thể], Journal
of Asian Studies, 42.4: 769 - 789.
171. Freedman, M. (1966), Chinese Lineage and Society: Fukien and
Kwangtung [Dòng họ và xã hội Trung Quốc: Fukien và
Kwangtung], Athlone, London.
172. Fox, J.N. (1999), “Post Modern Reflections on Risk, Hazard and
Life Choices” [Những suy nghĩ hậu hiện đại về rủi ro, nguy hiểm và
các lựa chọn cuộc sống], in: Lupton, D. ed., Risk and Sociocultural
Theory: New Directions and Perspectives, Cambridge University
Press, Cambridge.
173. Fukuyama, F. (1995), Trust: The Social Virtues and the Creation of
Prosperity [Niềm tin: Đạo đức xã hội và việc tạo ra sự phồn vinh],
The Free Press, New York.
174. Fukuyama, F. (2001), “Social Capital, Civil Society and Development”
[Vốn xã hội, xã hội dân sự và phát triển], Third World Quarterly,
22.1: 7 - 20.
175. Gambetta, D. (1988), “Can We Trust Trust?” [Chúng ta có thể tin
vào niềm tin?], in D. Gambetta (ed.), Trust: Making and Breaking
Cooperative Relations, Basil Blackwell, New York.
176. Gallin, B. (1966), Hsin Hsing, Taiwan: A Chinese Village in Change
[Hsin Hsing, Đài Loan: Một làng Trung Quốc đang chuyển đổi],
University of California Press, Berkeley.
170
177. Goffman, E. (1971), Relations in Public: Microstudies of the Public
Order [Quan hệ ở nơi công cộng: Những nghiên cứu vi mô về trật tự
công cộng], Basic Books, New York.
178. Granato, J., Inglehart, R., Leblang, D. (1996), The Effect of
Cultural Values on Economic Development: Theory, Hypotheses,
and Some Empirical Tests [Ảnh hưởng của những giá trị văn hóa
đối với sự phát triển về kinh tế: Lí thuyết, các giả thuyết và một số
khảo sát thực nghiệm], American Journal of Political Science,
40.3: 607 - 631.
179. Greenough, P. (1983), “Indulgence and Abundance as Asian Peasant
Values: A Bengali Case in Point” [Niềm đam mê và sự dư dật như là
những giá trị của nông dân châu Á: Trường hợp người Bengali],
Journal of Asian Studies, 42.4: 831 - 850.
180. Gregory, C.A. (1982), Gift and Commodities [Quà tặng và hàng
hóa], Academy Press, London.
181. Greif, A. (2005), Institutions: Theory and History [Thiết chế xã hội:
Lí thuyết và lịch sử], Cambridge University Press, Cambridge.
182. Griswold, W. (2008), Cultures and Societies in a Changing World
[Văn hóa và xã hội trong một thế giới đang thay đổi], Pine Forge
Press, London.
183. Guha-Khasnobis, B., Kanbur, R., Ostrom, E. (eds.) (2006), Linking
the Formal and Informal Economy: Concepts and Policies [Nối kết
các nền kinh tế chính thức và không chính thức: Những khái niệm và
chính sách], Oxford University Press, Oxford.
184. Guiso, L., Sapienza, P., Zingales, L. (2006), “Does Culture Affect
Economic Outcomes?” [Văn hóa có ảnh hưởng đến các kết quả kinh
tế?], Journal of Economic Perspectives, 20.2: 23 - 48.
185. Harrell, S. (1982), Ploughshare Village: Culture and Context in
Taiwan [Làng Ploughshare: Văn hóa và bối cảnh ở Đài Loan],
University of Washington Press, Seattle.
171
186. Hirsch, P. (2009), “Revisiting Frontiers as Transitional Spaces in
Thailand” [Nhìn nhận lại đường biên giới như là những không
gian chuyển dịch ở Thái Lan] , The Geographical Journal, 175.2:
124 - 132.
187. Homans, G.C. (1967), The Nature of Social Science [Bản chất của
khoa học xã hội], Harcourt, Brace & World, New York.
188. Iannaccone, L. (1988), “A Formal Model of Church and Sects” [Một
mô hình chính thức của giáo hội và các giáo phái], American
Journal of Sociology, 94: 241 - 268.
189. Jacob, B. (1979), “A Preliminary Model of Particularistic Ties in
Chinese Political Alliances: Kan-ch’ing and Kuan-hsi in a Rural
Taiwanese Township” [Một mô hình sơ bộ về những mối ràng buộc
đặc thù trong các liên minh chính trị người Hoa: Kan-ch’ing và
Kuan-hsi ở một thị trấn nông thôn Đài Loan], China Quarterly, 78:
237 - 273.
190. Jenkins, R. (2002), Pierre Bourdieu, Routledge, London - New York.
191. Keyes, C.F. (1983), “Economic Action and Buddhist Morality in a
Thai Village” [Hành vi kinh tế và đạo lí Phật giáo ở một làng người
Thái], Journal of Asian Studies, 42.3: 851 - 868.
192. Keyes, C.F. (1984), “Still More on Peasant Strategies: A Reply to
Edwin Moise” [Tiếp tục bàn về chiến lược của người nông dân: Trả
lời Edwin Moise], Journal of Asian Studies, 43.3: 501 - 502.
193. Kipnis, A. (1997), Producing Guanxi: Sentiment, Self, and Subculture
in a North China Vilage [Tạo ra quan hệ: Tình cảm, cái tôi và tiểu
văn hóa ở một làng Bắc Trung Quốc], Duke University Press,
Durham.
194. Kleinman, A. (1992), “Local Worlds of Suffering: An Interpersonal
Focus for Ethnographies of Illness Experience” [Thế giới địa
phương của những nỗi thống khổ: Một tiêu điểm liên cá nhân cho
172
những mô tả dân tộc học về trải nghiệm bệnh tật], Qualitative
Health Research, 2.2: 127 - 134.
195. Knack, S., Keefer, P. (1996), “Does Social Capital Have an
Economic Payoff? A Cross-Country Investigation” [Phải chăng vốn
xã hội có một hiệu lực kinh tế?], The Quarterly Journal of
Economics, 112.4: 1251 - 1288.
196. Knodel, J., Vu, M.L., Jayakody, R., Vu, T.H. (2004), “Gender Roles
in the Family: Change and Stability in Vietnam” [Vai trò giới trong
gia đình: Sự biến đổi và ổn định ở Việt Nam], PSC Research Report,
No. 04-559.
197. Kozel, V., Parker, B. (1999), “Poverty in Rural India: The
Contribution of Qualitative Research in Poverty Analysis” [Nghèo ở
nông thôn Ấn Độ : Sự đóng góp của nghiên cứu định tính trong phân
tích nghèo], Poverty Reduction and Economic Management Unit,
World Bank.
198. Kuah, K.E. (1999), “The Changing Moral Economy of Ancestor
Worship in a Chinese Emigrant District” [Nền kinh tế đạo đức
đang chuyển đổi liên quan đến tục thờ cúng tổ tiên ở một địa khu
vực di dân của Trung Quốc], Culture Medicine and Psychiatry,
23.1: 99 - 132.
199. Kuper, A., Kuper, J. (2001), The Social Science Encyclopedia [Bách
khoa thư về khoa học xã hội], Routledge, London - New York.
200. Kurtz, M.J. (2000), “Understanding Peasant Revolution: From
Concept to the Theory and Case” [Thấu hiểu cuộc cách mạng của
nông dân: Từ khái niệm đến lí thuyết và trường hợp cụ thể], Theory
and Society, 29.1: 93 - 124.
201. Landes, D. (1998), The Wealth and Poverty of Nations [Sự thịnh
vượng và nghèo đói của các quốc gia], W. W. Norton & Company,
New York.
173
202. Lawson, T., Garrod, J. (2001), Dictionary of Sociology [Từ điển xã
hội học], Fitzroy Dearborn Publishers, London - Chicago.
203. Le, N.H. (2008), “Social Capital, Social Relations and Social
Network of Vietnamese People” [Vốn xã hội, quan hệ xã hội và
mạng lưới xã hội của người Việt Nam], in Nguyen Quy Thanh (ed.),
Contemporary Vietnam and Republic of Korea: A Glimpse from
both Sides, Vietnam National University.
204. Leshkowich, A.M. (2011), “Making Class and Gender: (Market)
Socialist Enframing of Traders in Ho Chi Minh City” [Tạo thành
giai cấp và giới: Sự gia tăng cơ cấu xã hội chủ nghĩa (thị trường) ở
thương nhân tại thành phố Hồ Chí Minh], American Anthropologist,
113.2: 277 - 290.
205. Lucas, J.R.E. (1976), “Econometric Policy Evaluation: A Critique”
[Đánh giá chính sách kinh tế: Một phê phán], in K. Brunner, A.H.
Meltzer (eds.) The Phillips Curve and Labor Markets, Carnegie
Rochester Conference Series on Public Policy, Vol.1.
206. Luong, V.H. (1985), “Agrarian Unrest from an Anthropological
Perspective: The Case of Vietnam” [Tình trạng bất ổn nông nghiệp
từ một góc nhìn nhân học: Trường hợp của Việt Nam], Comparative
Politics, 17.2: 153 - 174.
207. Luong, V.H., Unger, J. (1998), “Wealth, Power, and Poverty in
the Transtion to Market Economies: The Process of Socio-
economies Differentiation in Rural China and Northern Vietnam”
[Thịnh vượng, quyền lực và sự nghèo đói trong việc chuyển dịch
sang nền kinh tế thị trường: Quá trình của sự phân hóa kinh tế - xã
hội ở nông thôn Trung Quốc và Bắc Việt Nam], China Journal, 40:
61 - 93.
208. Magill, F. (1995), International Encyclopedia of Sociology [Bách
khoa thư quốc tế về xã hội học], Vol.2, Fitzroy Dearborn Publishers,
London - New York.
174
209. Malarney, S.K. (2002), Culture, Ritual and Revolution in Vietnam
[Văn hóa, nghi lễ, và cách mạng ở Việt Nam], Routledge Curzon,
London.
210. Martin, P. (2013), “‘I Want to Take Risks, Like My Mother’:
Memory, Affect, and Vietnamese Masculinities - the Legacy of
Gendered Variations in Socio-economic Mobility during Ðổi Mới”
[“Tôi muốn chấp nhận rủi ro, giống như mẹ tôi”: Kí ức, ảnh hưởng
và nam tính Việt - di sản của các biến thể giới trong sự di động kinh
tế - xã hội trong thời kì Đổi mới], Norwegian Journal of Geography,
67.4: 210 - 218.
211. Massey, D. (1998), “March of Folly: US Immigration Policy after
NAFTA” [Diễn tiến của sự xuẩn ngốc: Chính sách nhập cư của Mĩ
sau NAFTA], The American Prospect, 37: 22 - 33.
212. Massey, D., Espinosa, K. (1997), “What's Driving Mexico-U.S.
Migration? A Theoretical, Empirical, and Policy Analysis” [Cái gì
dẫn dắt việc di cư Mexico - Mĩ? Một phân tích lí thuyết, thực nghiệm
và chính sách], American Journal of Sociology, 102.4: 939 - 999.
213. McElwee, P. (2007), “From the Moral Economy to the World
Economy: Revisiting Vietnamese Peasants in the Globalizing Era”
[Từ nền kinh tế đạo đức tới nền kinh tế thế giới: Nhìn nhận lại người
nông dân Việt Nam trong kỉ nguyên toàn cầu hoá], Journal of
Vietnamese Studies, 3.2: 57 - 107.
214. Miles, M.B., Huberman, A.M. (1994), Qualitative Data Analysis,
Sage Publications, Thousand Oaks - London - New Delhi.
215. Mitchell, J.C. (1974), “Social Networks” [Mạng lưới xã hội],
Annual Review of Anthropology, 3: 279 - 299.
216. Moise, E.E. (1984), “On the Symposium, Peasant Strategy in Asian
Societies” [Về chuyên đề Chiến lược của nông dân trong các xã hội
châu Á], Journal of Asian Studies, 43.3: 499 - 501.
175
217. Muth, J.F. (1961), Rational Expectations and the Theory of Price
Movements [Những kì vọng duy lí và lí thuyết về biến động giá],
Econometrica, 29.3: 315 - 335.
218. Nguyen, T.A. (2010), Kinship as Social Capital: Economic, Social
and Cultural Dimensions of Changing Kinship Relations in a
Northern Vietnammese Village [Họ hàng như là vốn xã hội: Các
chiều cạnh kinh tế, xã hội và văn hóa của quan hệ họ hàng đang
chuyển đổi ở một làng miền Bắc Việt Nam], Doctoral Dissertation,
Vrije Universiteit Amsterdam, The Netherlands.
219. Parish, W., Whyte, M. (1978), Village and Family in Contemporary
China [Làng và gia đình Trung Quốc ngày nay], University of
Chicago Press, Chicago.
220. Parsons, T. (1943), “The Kinship System of the Contemporary
United States” [Hệ thống họ hàng của nước Mĩ đương đại],
American Anthropologist, 45.1: 22 - 38.
221. Pasternak, B. (1972), Kinship and Community in Two Chinese
Villages [Họ hàng và cộng đồng ở hai ngôi làng Trung Quốc],
Stanford University Press, Stanford.
222. Pettus, A. (2003), Between Sacrifice and Desire: National Identity
and the Governing of Femininity in Vietnam [Giữa sự hi sinh và mong
muốn: Bản sắc quốc gia và sự kiểm soát nữ tính ở Việt Nam],
Routledge, London.
223. Polanyi, K., Arensberg, C.M., Pearson, H.W. (eds.) (1957), Trade
and Market in the Early Empires: Economies in History and Theory
[Thương mại và thị trường trong các đế chế sớm: Các nền kinh tế
trong lịch sử và lí thuyết], The Free Press, New York.
224. Popkin, S.L. (1979), The Rational Peasant: The Political Economy
of Rural Society in Vietnam [Người nông dân duy lí: Nền kinh tế
chính trị của xã hội nông thôn ở Việt Nam], University of California
Press, Berkeley.
176
225. Porta, R.L. et al. (1997), “Trust in Large Organizations” [Niềm
tin trong các tổ chức lớn] , American Economic Review, 87.2: 333
- 338.
226. Portes, A. (1997), “Neoliberalism and the Sociology of Development”
[Chủ nghĩa tân tự do và xã hội học về phát triển], Population and
Development Review, 23.2: 229 - 259.
227. Portes, A. (1998), “Social Capital: Its Origins and Applications in
Modern Sociology” [Vốn xã hội: Nguồn gốc và những ứng dụng
trong xã hội học hiện đại] , Annual Review of Sociology, 24: 1 - 24.
228. Portes, A., Sensenbrenner, J. (1993), “Embeddedness and
Immigration: Notes on the Social Determinants of Economic
Action” [Sự gắn bó và di trú: Ghi chép về yếu tố quyết định có tính
xã hội của hành động kinh tế], American Journal of Sociology, 98.6:
1320 - 1350.
229. Prindle, P.H. (1979), “Peasant Society and Famine: A Nepalese
Example” [Xã hội nông dân và nạn đói: Một ví dụ ở người Nepal],
Ethnology, 18.1: 31 - 60.
230. Putnam, R.D. et al. (1993), Making Democracy Work: Civic
Traditions in Modern Italy [Thúc đẩy nền dân chủ: Truyền thống
dân sự trong nước Ý đương đại], Princeton University Press,
Princeton.
231. Putnam, R.D. (1995), “Bowling Alone: America’s Declining Social
Capital” [Bowling một mình: Sự suy giảm vốn xã hội của Mĩ],
Journal of Democracy, New York, 6.1: 65 - 78.
232. Putnam, R.D. (2000), Bowling Alone: The Collapse and Revival of
American Community [Bowling một mình: Sự suy thoái và phục hồi
của cộng đồng Mĩ ], Simon & Schuster, New York.
233. Rigg, J. (2006), “Land, Farming, Livelihoods, and Poverty:
Rethinking the Links in the Rural South” [Đất đai, nông nghiệp,
177
sinh kế, và nghèo đói: Suy nghĩ lại về những mối liên kết ở vùng
nông nghiệp phương Nam], World Development, 34.1: 180 - 202.
234. Rupp, K. (2003), Gift - Giving in Japan: Cash, Connections and
Cosmologies [Tiền mặt, những sự kết nối và các vũ trụ quan],
Stanford University Press, Stanford.
235. Sahlins, M. (1972), Stone Age Economics [Kinh tế thời đồ đá], Aldine
de Gruyter, New York.
236. Scott, J.C. (1976), The Moral Economy of the Peasant: Rebellion
and Subsistence in Southeast Asia [Kinh tế đạo đức của nông dân:
Sự phản kháng và sinh tồn ở Đông Nam Á], Yale University Press,
New Haven & London.
237. Shaffir, W.B., Stebbins, R.A. (1991), Experiencing Fieldwork: An
Inside View of Qualitative Reasearch [Trải nghiệm việc điền dã: Cái
nhìn từ bên trong của nghiên cứu định tính], Sage Publications,
London.
238. Shorter, E. (1975), The Making of the Mordern Family [Sự tạo thành
gia đình hiện đại], Basic Book, New York.
239. Skinner, G.W. (1971), “Chinese Peasants and the Closed
Community: An Open and Shut Case” [Người nông dân Trung Quốc
và cộng đồng khép kín: Một trường hợp mở và đóng], Comparative
Studies in Society and History, 13.3: 270 - 281.
240. Siu, H.F. (1989), “Recycling Rituals: Politics and Popular Culture in
Contemporary Rural China” [Phục hồi các nghi lễ: Đời sống chính
trị và văn hóa đại chúng ở nông thôn Trung Quốc đương đại], in P.
Link, R.P. Madsen, P. Pickowicz (ed.), Unofficial China: Popular
Culture and Thought in the People’s Republic, Westview Press,
Boulder.
241. Strathern, A. (1971), The Rope of Moka [Sợi dây ràng buộc của
Moka], Cambridge University Press, Cambridge.
178
242. Strauch, J. (1983), “Community and Kinship in Southeastern China:
The View from the Multilineage Villages of Hong Kong” [Cộng
đồng và quan hệ họ hàng ở đông nam Trung Quốc: Cái nhìn từ
những làng có nhiều họ của Hồng Kông], Journal of Asian Studies,
43.1: 21 - 50.
243. Swiff, M.G. (1965), Malay Peasant Society in Jelebu [Xã hội nông
dân Malay tại Jelebu], The Athlone Press, London.
244. Taylor, P. (2004), Goddess on the Rise: Pilgrimage and Popular
Religion in Vietnam [Nữ thần gia tăng: Hành hương và tôn giáo phổ
biến ở Việt Nam], University of Hawaii Press, Honolulu.
245. Torry, W.I. (1979), “Anthropological Studies in Hazardous
Environments: Past Trends and New Horizons” [Các nghiên cứu
nhân học về những môi trường nguy hiểm: Những khuynh hướng
của quá khứ và những chân trời mới] , Current Anthropology,
20.3: 517 - 538.
246. Turner, S. (2009), “Hanoi’s Ancient Quarter Traders: Resilient
Livelihoods in a Rapidly Transforming City” [Thương nhân phố cổ
Hà Nội: Sinh kế phục hồi trong một thành phố chuyển đổi nhanh],
Urban Studies, 46.5-6: 1203 - 1222.
247. UNESCO (2001), Universal Declaration on Cultural Diversity
[Tuyên bố toàn cầu về đa dạng văn hóa], http://portal.unesco.org
248. Vatuk, S. (1975), “Gifts and Affines in North India” [Quà tặng
và hôn nhân ở Bắc Ấn Độ] , Contributions to Indian Sociology, 9:
155 - 196.
249. Walder, A. (1986), Communist Neo-traditionalism: Work and
Authority in Chinese Industry [Chủ nghĩa tân truyền thống cộng
sản: Lao động và quyền lực trong nền công nghiệp Trung Quốc],
University of California Press, Berkeley.
250. Whyte, W.F. (1993), Street Corner Society - The Social Structure of
an Italian Slum [Xã hội góc phố - Cấu trúc xã hội một khu ổ chuột
của người Ý], University of Chicago Press, Chicago.
179
251. Wiegersma, N. (1991), “Peasant Patriarchy and the Subversion of
the Collective in Vietnam” [Chế độ gia trưởng nông dân và sự phá
hoại đối với tập thể ở Việt Nam], Review of Radical Political
Economics, 23.3-4: 174 - 197.
252. Wilson, S. (1997), “The Cash Nexus and Social Networks: Mutual
Aid and Gifts in Contemporary Shanghai Villages” [Mối liên hệ
tiền bạc và những mạng lưới xã hội: Sự trợ giúp có đi có lại và
quà tặng trong các làng Thượng Hải đương đại], The China
Journal, 37: 91 - 112.
253. Wilson, S. (2002), “Face, Norm, and Instrumentality” [Thể diện,
chuẩn mực và quy ước], in T. Gold, D. Guthrie, D. Wank,
Socialconnections in China: Institutions, Culture, and the
Changing Nature of Guanxi, Cambridge University Press,
Cambridge.
254. Woolcock, M. (1999), “Learning from Failures in Microfinance:
What Unsuccessful Cases Tell Us about How Group-Based
Programs Work” [Bài học từ thất bại trong tài chính vi mô: Các
trường hợp không thành công cho chúng ta biết gì về sự hoạt động
của các chương trình dựa vào nhóm], The American Journal of
Economics and Sociology, 58.1: 17 - 42.
255. Woolcock, M., Narayan, D. (2000), “Social Capital: Implications
for Develoment Theory, Research, and Policy” [Vốn xã hội: Hàm ý
cho lí thuyết, nghiên cứu và chính sách phát triển], The World Bank
Research Observer, 15.2: 225 - 249.
256. Yang, M.M. (1989), “The Gift Economy and State Power in China”
[Nền kinh tế quà tặng và sức mạnh nhà nước ở Trung Quốc],
Comparative Studies in Society and History, 31.1: 25 - 54.
257. Yan, Y. (1996), The Flow of Gifts: Reciprocity and Social Networks
in a Chinese Village [Dòng quà: Sự trao đổi có đi có lại và những
180
mạng lưới xã hội ở một làng Trung Quốc], Stanford University
Press, Stanford.
258. Zawawi, I. (1998), The Malay Labourer: By the Window of
Capitalism [Người lao động Malay: Bên cánh cửa của chủ nghĩa tư
bản], Institute of Southeast Asian Studies, Singapore.
181
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN GIÁO
QUAN HỆ XÃ HỘI
TRONG BỐI CẢNH PHI NÔNG NGHIỆP HÓA:
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP
LÀNG NINH HIỆP, GIA LÂM, HÀ NỘI
Ngành: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 62 31 06 40
PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2016
182
MỤC LỤC
1. Nét xưa của làng Ninh Hiệp qua di tích và một số hình ảnh về
lễ hội làng hiện nay
183
2. Bản đồ hiện trạng sử dụng đất 191
3. Một số hình ảnh liên quan đến tình hình đất nông nghiệp 193
4. Một số hình ảnh về các khu thương mại 202
5. Một số hình ảnh về quan hệ xã hội 208
6. Mạng lưới quan hệ xã hội (lấy chủ hộ làm trung tâm) thể hiện
qua danh sách khách dự đám cưới và số tiền mừng của 02 gia
đình làm nghề thương mại
217
183
PHỤ LỤC 1
NÉT XƯA CỦA LÀNG NINH HIỆP QUA DI TÍCH VÀ MỘT SỐ HÌNH
ẢNH VỀ LỄ HỘI LÀNG HIỆN NAY
184
1. Cổng làng, xây từ thế kỉ XVIII
Tác giả chụp ngày 15/3/2015.
2. Chùa Pháp Vân, dựng vào thời Lý, là một trong bốn ngôi chùa Tứ
Pháp lớn nhất Bắc Bộ, được trùng tu vào thế kỉ XVI bởi tôn thất Mạc
Tác giả chụp ngày 8/8/2015.
185
3. Thủy đình múa rối trước chùa Pháp Vân, dựng từ cuối thế kỉ XVIII
Tác giả chụp ngày 15/3/2015.
4. Chùa Đại Bi, do tôn thất Lê - Trịnh góp công xây dựng vào thế kỉ XVII
Tác giả chụp ngày 8/8/2015.
186
5. Đình Ninh Giang, dựng vào thế kỉ XVII, được đánh giá là một trong
những ngôi đình to, đẹp của đất Kinh Bắc xưa
Tác giả chụp ngày 15/3/2015.
6. Đình Hiệp Phù, dựng từ thời Lê sơ, trùng tu vào thế kỉ XVIII, cũng được
đánh giá là một trong những ngôi đình to, đẹp của đất Kinh Bắc xưa
Tác giả chụp ngày 8/8/2015.
187
7. Rước kiệu lên chùa trong ngày hội
Tác giả chụp ngày 16/3/2013.
8. Hát quan họ trong ngày hội
Tác giả chụp ngày 25/3/2013.
188
9. Biểu diễn tuồng trong ngày hội
Tác giả chụp ngày 15/3/2013.
10. Hát giá đồng trong ngày hội
Tác giả chụp ngày 25/3/2015.
189
11. Đấu vật trong ngày hội
Tác giả chụp ngày 16/3/2013.
12. Đấu bóng chuyền trong ngày hội
Nguồn: http://thethao.tuoitre.vn
190
13. Khiêu vũ trong ngày hội
Tác giả chụp ngày 17/3/2013.
191
PHỤ LỤC 2
BẢN ĐỒ HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT
192
193
PHỤ LỤC 3
MỘT SỐ HÌNH ẢNH LIÊN QUAN ĐẾN TÌNH HÌNH ĐẤT NÔNG NGHIỆP
194
1. Đường cao tốc chạy xuyên giữa cánh đồng Ninh Hiệp
Tác giả chụp ngày 21/3/2015.
2. Đường cao tốc và khu công nghiệp Ninh Hiệp liền kề
Tác giả chụp ngày 21/3/2015.
195
3. Đất giãn dân trên cánh đồng đầu làng
Tác giả chụp ngày 11/4/2015.
4. Nghĩa trang mở rộng trên cánh đồng đầu làng
Tác giả chụp ngày 3/2/2015.
196
5. Đất bỏ hoang trên cánh đồng đầu làng
Tác giả chụp ngày 11/4/2015.
6. Cổng vào khu công nghiệp trên cánh đồng giữa làng
Tác giả chụp ngày 21/3/2015.
197
7. Khu công nghiệp trên cánh đồng giữa làng
Tác giả chụp ngày 15/3/2015.
8. Khu thương mại trên cánh đồng giữa làng
Tác giả chụp ngày 11/4/2015.
198
9. Khu công nghiệp trên cánh đồng cuối làng
Tác giả chụp ngày 15/3/2015.
10. Bên trong khu công nghiệp này
Tác giả chụp ngày 21/3/2015.
199
11. Một khu sinh thái trên cánh đồng cuối làng
Tác giả chụp ngày 28/4/2015.
12. Bên trong khu sinh thái này
Tác giả chụp ngày 28/4/2015.
200
13. Một khu sinh thái khác trên cánh đồng cuối làng
Tác giả chụp ngày 28/4/2015.
14. Bên trong khu sinh thái này
Tác giả chụp ngày 28/4/2015.
201
15. Trường học trên cánh đồng cuối làng
Tác giả chụp ngày 15/3/2015.
16. Đất bỏ hoang trên cánh đồng cuối làng
Tác giả chụp ngày 15/3/2015.
202
PHỤ LỤC 4
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CÁC KHU THƯƠNG MẠI
203
1. Khu buôn bán “Lò ông Phước”, hình thành cách đây khoảng 10 năm,
nằm trên con đường vào làng
Tác giả chụp ngày 15/3/2015.
2. Khu thương mại Ba Da, được xây dựng năm 2006, nằm trên đường
vào làng
Tác giả chụp ngày 15/3/2015.
204
3. Khu buôn bán trung tâm, hình thành từ đầu những năm 90, nằm trên
con đường giữa thôn 5 và thôn 6
Tác giả chụp ngày 16/3/2013.
4. Khu chợ cũ (chợ truyền thống), được xây dựng lại năm 2001, nâng
cấp năm 2003 và 2009
Tác giả chụp ngày 15/3/2015.
205
5. Bên trong khu chợ này
Tác giả chụp ngày 10/5/2015.
6. Khu thương mại Sơn Long, xây dựng năm 2010 trên cánh đồng giữa làng
Tác giả chụp ngày 15/3/2015.
206
7. Bên trong khu thương mại Sơn Long
Tác giả chụp ngày 21/3/2015.
8. Khu thương mại Phú Điền, xây dựng năm 2010 trên cánh đồng giữa làng
Tác giả chụp ngày 15/3/2015.
207
9. Bên trong khu thương mại Phú Điền
Tác giả chụp ngày 21/3/2015.
208
PHỤ LỤC 5
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ QUAN HỆ XÃ HỘI
209
1. Tiệc ngọt buổi tối trước đám cưới
Tác giả chụp ngày 12/6/2013.
2. Đám cưới
Tác giả chụp ngày 15/3/2015.
210
3. Lễ mừng thọ
Nguồn: Một người làng cung cấp (2015)
4. Thân hữu và láng giềng đến chia buồn với một gia đình có tang
Tác giả chụp ngày 05/6/2015.
211
5. Đưa tiễn người đã khuất ra nghĩa trang ngoài cánh đồng
Tác giả chụp ngày 05/6/2015.
6. Họp hội đồng học
Tác giả chụp ngày 7/6/2013.
212
7. Họp hội đồng học
Tác giả chụp ngày 15/3/2014.
8. Họp họ
Tác giả chụp ngày 14/2/2014.
213
9. Trao quà của họ cho gia đình có con cháu là học sinh giỏi
Tác giả chụp ngày 14/2/2014.
10. Ăn giỗ họ
Tác giả chụp ngày 22/2/2016.
214
11. Mừng thọ những người cao tuổi trong ngày giỗ họ
Tác giả chụp ngày 22/2/2016.
12. Đại diện một nhánh ở ngoài làng về dự đám giỗ họ gốc tại làng
Tác giả chụp ngày 22/2/2016.
215
13. Thành viên một chi họ đi thăm di tích liên quan đến danh nhân
trong họ ở Bắc Ninh
Một người của họ này chụp ngày 14/2/2014.
14. Một chi họ tảo mộ đầu xuân ở nghĩa trang của làng
Tác giả chụp ngày 3/2/2014.
216
15. Dân làng tảo mộ đầu xuân
Tác giả chụp ngày 3/2/2014.
217
PHỤ LỤC 6
MẠNG LƯỚI QUAN HỆ XÃ HỘI (LẤY CHỦ HỘ LÀM
TRUNG TÂM) THỂ HIỆN QUA DANH SÁCH KHÁCH DỰ ĐÁM
CƯỚI VÀ SỐ TIỀN MỪNG CỦA 02 GIA ĐÌNH LÀM NGHỀ
THƯƠNG MẠI
218
DANH SÁCH KHÁCH DỰ ĐÁM CƯỚI
TỔ CHỨC VÀO NĂM 2013 CỦA GIA ĐÌNH ANH THỌ
VÀ SỐ TIỀN MỪNG91
STT Dạng quan hệ Địa chỉ (thôn) Số tiền (nghìn đồng)
1. Bạn 1 100
2. Họ nội 1 100
3. Bạn chợ 1 200
4. Họ vợ 1 100
5. Họ vợ 1 100
6. Họ vợ 1 200
7. Bạn chợ 1 300
8. Họ nội 1 200
9. Họ ngoại 1 200
10. Họ vợ 1 100
11. Họ vợ 1 200
12. Bạn vợ 1 100
13. Họ ngoại 1 100
14. Họ nội 1 200
15. Họ vợ 1 200
16. Họ vợ 1 200
17. Bạn chợ 1 200
18. Họ bên cha nuôi của mẹ Ngoài làng 100
19. Họ bên cha nuôi của mẹ Ngoài làng 100
20. Họ bên cha nuôi của mẹ Ngoài làng 100
21. Họ bên cha nuôi của mẹ Ngoài làng 100
22. Họ bên cha nuôi của mẹ Ngoài làng 100
91 Danh sách này do chủ hộ là anh Thọ lập. Tên khách đã được ẩn.
219
23. Họ bên cha nuôi của mẹ Ngoài làng 100
24. Họ bên cha nuôi của mẹ Ngoài làng 300
25. Họ bên cha nuôi của mẹ Ngoài làng 200
26. Họ bên cha nuôi của mẹ Ngoài làng 100
27. Họ bên cha nuôi của mẹ Ngoài làng 200
28. Họ vợ Ngoài làng 100
29. Họ vợ Ngoài làng 300
30. Họ vợ Ngoài làng 200
31. Họ vợ Ngoài làng 200
32. Họ vợ Ngoài làng 200
33. Họ vợ Ngoài làng 100
34. Họ vợ Ngoài làng 100
35. Họ vợ Ngoài làng 100
36. Họ vợ Ngoài làng 100
37. Họ vợ Ngoài làng 100
38. Họ vợ Ngoài làng 200
39. Họ vợ Ngoài làng 200
40. Họ vợ Ngoài làng 1.000
41. Họ vợ Ngoài làng 500
42. Họ vợ Ngoài làng 100
43. Họ vợ Ngoài làng 100
44. Họ vợ Ngoài làng 100
45. Bạn vợ Ngoài làng 200
46. Bạn vợ Ngoài làng 200
47. Bạn vợ Ngoài làng 500
48. Bạn vợ Ngoài làng 200
49. Họ vợ Ngoài làng 100
50. Bạn vợ Ngoài làng 200
51. Bạn vợ Ngoài làng 200
220
52. Bạn vợ Ngoài làng 200
53. Họ ngoại 7 200
54. Họ ngoại 7 200
55. Họ ngoại 7 100
56. Họ ngoại 7 100
57. Họ vợ 7 100
58. Bạn chợ 7 100
59. Bạn chợ 7 100
60. Họ ngoại 7 100
61. Họ ngoại 7 200
62. Họ nội 7 200
63. Họ ngoại 7 300
64. Họ ngoại 7 200
65. Hàng xóm 7 100
66. Bạn vợ 7 100
67. Bạn vợ 7 100
68. Họ vợ 7 50
69. Họ nội 7 100
70. Họ nội 7 200
71. Bạn vợ 7 100
72. Bạn vợ 7 1.000
73. Bạn em trai 9 200
74. Bạn chợ 9 200
75. Bạn chợ 9 200
76. Bạn chợ 9 200
77. Bạn chợ 9 300
78. Họ vợ 9 200
79. Họ vợ 9 100
80. Bạn chợ 9 100
221
81. Bạn chợ 9 100
82. Bạn chợ 9 100
83. Họ vợ 9 100
84. Bạn chợ 9 200
85. Bạn vợ 9 200
86. Họ nội 9 300
87. Bạn chợ 9 200
88. Họ nội 9 100
89. Họ nội 9 100
90. Họ nội 9 100
91. Bạn chợ 9 100
92. Họ ngoại 9 100
93. Họ nội 9 100
94. Bạn vợ 9 500
95. Họ nội 9 200
96. Bạn vợ 9 200
97. Bạn chợ 9 100
98. Bạn 9 200
99. Họ ngoại 9 200
100. Họ nội 7 200
101. Họ vợ 7 200
102. Bạn vợ 7 100
103. Bạn vợ 7 100
104. Bạn vợ 7 100
105. Bạn vợ 7 200
106. Bạn vợ 7 200
107. Bạn vợ 7 200
108. Bạn vợ 7 100
109. Bạn chợ 7 500
222
110. Bạn chợ 7 200
111. Bạn chợ 7 100
112. Họ ngoại 7 200
113. Bạn 7 200
114. Họ ngoại 7 500
115. Bạn vợ 7 100
116. Bạn vợ 6 300
117. Họ nội 6 200
118. Họ ngoại 6 100
119. Bạn 6 200
120. Họ ngoại 6 100
121. Họ vợ 6 200
122. Họ nội 6 200
123. Họ vợ 6 200
124. Họ nội 6 200
125. Bạn vợ 6 100
126. Bạn vợ 6 200
127. Bạn chợ 6 100
128. Bạn vợ 6 200
129. Họ ngoại 6 100
130. Họ ngoại 6 100
131. Bạn vợ 6 500
132. Bạn vợ 6 300
133. Họ nội 6 100
134. Họ nội 6 200
135. Họ nội 6 300
136. Họ ngoại 6 100
137. Họ ngoại 6 100
138. Họ nội 6 100
223
139. Bạn chợ 6 200
140. Bạn chợ 6 100
141. Bạn vợ 6 100
142. Họ ngoại 6 100
143. Bạn chợ 6 100
144. Bạn vợ 6 100
145. Họ nội 6 500
146. Bạn vợ 6 100
147. Bạn 6 200
148. Bạn chợ 6 100
149. Bạn vợ 6 200
150. Bạn vợ 6 100
151. Thông gia 6 100
152. Hàng xóm 5 100
153. Hàng xóm 5 200
154. Họ ngoại 5 500
155. Hàng xóm 5 100
156. Hàng xóm 5 200
157. Bạn 5 200
158. Hàng xóm 5 200
159. Bạn vợ 5 1.000
160. Hàng xóm 5 100
161. Hàng xóm 5 200
162. Họ nội 5 300
163. Họ vợ 5 100
164. Họ vợ 5 50
165. Bạn 5 200
166. Hàng xóm 5 100
167. Họ nội 5 100
224
168. Họ ngoại 5 100
169. Họ vợ 5 100
170. Họ nội 5 100
171. Hàng xóm 5 200
172. Bạn chợ 5 200
173. Họ vợ 5 100
174. Họ vợ 5 300
175. Họ vợ 5 100
176. Họ nội 5 200
177. Hàng xóm 5 100
178. Họ ngoại 5 500
179. Họ nội 5 100
180. Họ nội 5 200
181. Họ nội 5 500
182. Hàng xóm 5 100
183. Hàng xóm 5 100
184. Họ nội 5 100
185. Họ nội 5 100
186. Họ ngoại 5 100
187. Hàng xóm 5 100
188. Hàng xóm 5 100
189. Họ nội 5 100
190. Họ nội 5 100
191. Bạn vợ 5 100
192. Họ nội 5 300
193. Họ ngoại 5 200
194. Bạn 5 200
195. Họ vợ 5 500
196. Hàng xóm 5 100
225
197. Họ ngoại 5 200
198. Họ nội 5 200
199. Hàng xóm 5 100
200. Hàng xóm 5 100
201. Bạn chợ 5 100
202. Hàng xóm 5 100
203. Họ nội 5 100
204. Hàng xóm 5 200
205. Hàng xóm 5 100
206. Họ nội 5 100
207. Hàng xóm 5 100
208. Hàng xóm 5 100
209. Hàng xóm 5 200
210. Hàng xóm 5 100
211. Hàng xóm 5 100
212. Hàng xóm 5 200
213. Họ nội 5 200
214. Hàng xóm 5 100
215. Hàng xóm 5 200
216. Hàng xóm 5 100
217. Hàng xóm 5 200
218. Hàng xóm 5 100
219. Hàng xóm 5 200
220. Hàng xóm 5 100
221. Họ nội 5 50
222. Hàng xóm 5 100
223. Họ nội 5 100
224. Hàng xóm 5 100
225. Hàng xóm 5 100
226
226. Họ vợ 5 200
227. Họ vợ 5 500
228. Họ vợ 5 500
229. Họ ngoại 5 100
230. Hàng xóm 5 200
231. Hàng xóm 5 200
232. Hàng xóm 5 200
233. Họ nội 5 200
234. Họ ngoại 5 300
235. Họ vợ 5 300
236. Họ vợ 5 100
237. Họ ngoại 5 200
238. Họ vợ 5 1.000
239. Hàng xóm 5 100
240. Họ vợ 5 200
241. Hàng xóm 5 100
242. Họ vợ 5 500
243. Họ nội 5 100
244. Hàng xóm 5 200
245. Hàng xóm 5 100
246. Họ ngoại 5 200
247. Hàng xóm 5 100
248. Họ ngoại 5 100
249. Hàng xóm 5 100
250. Hàng xóm 5 100
251. Họ nội 5 200
252. Hàng xóm 5 200
253. Họ nội 5 200
254. Họ vợ 5 100
227
255. Họ vợ 5 500
256. Hàng xóm 5 100
257. Hàng xóm 5 200
258. Hàng xóm 5 100
259. Hàng xóm 5 100
260. Họ nội 5 100
261. Họ vợ 5 200
262. Họ nội 5 100
263. Họ ngoại 5 300
264. Hàng xóm 5 100
265. Hàng xóm 5 200
266. Bạn chợ 5 100
267. Hàng xóm 5 200
268. Hàng xóm 5 200
269. Hàng xóm 5 100
270. Họ ngoại 5 100
271. Hàng xóm 5 100
272. Họ nội 5 100
273. Họ ngoại 5 200
274. Hàng xóm 5 100
275. Hàng xóm 5 100
276. Hàng xóm 5 100
277. Họ vợ 5 200
278. Bạn vợ 5 100
279. Họ nội 5 100
280. Họ vợ 5 100
281. Họ nội 5 100
282. Hàng xóm 5 100
283. Hàng xóm 5 200
228
284. Họ ngoại 5 200
285. Họ ngoại 5 100
286. Hàng xóm 5 200
287. Hàng xóm 5 100
288. Họ ngoại 5 200
289. Hàng xóm 5 100
290. Họ ngoại 5 100
291. Họ ngoại 5 100
292. Hàng xóm 5 500
293. Hàng xóm 5 200
294. Họ nội 5 200
295. Bạn vợ 5 100
296. Họ nội 5 100
297. Hàng xóm 5 200
298. Hàng xóm 5 100
299. Hàng xóm 5 100
300. Hàng xóm 5 100
301. Họ ngoại 5 100
302. Bạn 5 100
303. Hàng xóm 5 200
304. Bạn 5 200
305. Bạn vợ 5 1.000
306. Bạn vợ 5 300
307. Họ nội 5 100
308. Hàng xóm 5 200
309. Hàng xóm 5 300
310. Bạn vợ 5 200
311. Bạn vợ 5 200
312. Em ruột 5 500
229
313. Em ruột 5 500
314. Bạn chợ 5 1.000
315. Bạn 5 200
316. Họ ngoại 5 300
317. Hàng xóm 5 300
318. Hàng xóm 5 100
319. Hàng xóm 5 100
320. Hàng xóm 5 100
321. Hàng xóm 5 200
322. Hàng xóm 5 200
323. Hàng xóm 5 100
324. Hàng xóm 5 100
325. Họ vợ 5 200
326. Hàng xóm 5 100
327. Họ nội 5 100
328. Hàng xóm 5 200
329. Họ nội 5 100
330. Hàng xóm 5 500
331. Bạn vợ 5 200
332. Bạn vợ 5 500
333. Bạn vợ 5 500
334. Bạn 5 300
335. Em ruột 5 500
336. Bạn vợ 5 200
337. Họ vợ 5 300
338. Họ nội 5 200
339. Họ nội 5 200
340. Họ nội 5 300
341. Bạn 5 200
230
342. Hàng xóm 5 200
343. Bạn 5 100
344. Hàng xóm 5 100
345. Hàng xóm 5 100
346. Bạn vợ 5 200
347. Bạn vợ 5 200
348. Hàng xóm 5 200
349. Hàng xóm 5 100
350. Họ vợ 5 100
351. Bạn chợ 5 100
352. Hàng xóm 5 100
353. Họ vợ 5 100
354. Họ nội 5 500
355. Hàng xóm 5 100
356. Họ vợ 5 1.000
357. Họ nội 5 200
358. Hàng xóm 5 200
359. Họ ngoại 5 200
360. Hàng xóm 5 300
361. Hàng xóm 5 200
362. Họ nội 5 300
363. Hàng xóm 5 200
364. Bạn chợ 5 200
365. Họ vợ 5 100
366. Họ vợ 5 500
367. Họ nội 5 100
368. Họ vợ 5 100
369. Họ nội 5 100
370. Họ nội 5 100
231
371. Họ nội 5 100
372. Bạn chợ 5 100
373. Bạn 5 200
374. Họ nội 5 200
375. Hàng xóm 5 100
376. Hàng xóm 5 100
377. Bạn chợ 5 100
378. Họ ngoại 5 100
379. Họ vợ 5 100
380. Họ vợ 5 100
381. Họ ngoại 5 200
382. Hàng xóm 5 100
383. Họ nội 5 200
384. Họ ngoại 5 200
385. Bạn vợ 5 200
386. Bạn 5 200
387. Bạn 5 100
388. Bạn vợ 2 100
389. Họ ngoại 2 200
390. Họ vợ 2 200
391. Họ ngoại 2 100
392. Họ nội 2 100
393. Bạn 2 100
394. Thông gia mẹ 2 200
395. Bạn vợ 2 100
396. Họ nội 2 100
397. Họ nội 2 100
398. Họ nội 2 100
399. Bạn chợ 2 200
232
400. Họ nội 2 100
401. Họ nội 2 100
402. Bạn chợ 2 200
403. Bạn vợ 2 200
404. Bạn chợ 2 200
405. Bạn chợ 2 200
406. Họ nội 2 100
407. Họ nội 2 200
408. Họ nội 2 100
409. Họ nội 2 200
410. Họ vợ 2 200
411. Bạn chợ 2 100
412. Bạn chợ 2 100
413. Bạn chợ 2 200
414. Bạn 2 200
415. Họ nội 2 100
416. Bạn 2 100
417. Bạn vợ 2 200
418. Họ vợ 2 200
419. Họ vợ 2 500
420. Họ vợ 2 200
421. Họ vợ 2 200
422. Họ vợ 2 200
423. Bạn 2 200
424. Họ nội 2 100
425. Bạn vợ 2 100
426. Họ nội 2 200
427. Bạn chợ 2 200
428. Bạn vợ 2 100
233
429. Bạn 2 200
430. Họ ngoại 2 200
431. Anh ruột 2 200
432. Họ nội 2 100
433. Họ nội 2 200
434. Bạn vợ 2 200
435. Họ vợ 3 500
436. Bạn em gái 3 100
437. Bạn 3 200
438. Họ ngoại 3 100
439. Họ ngoại 3 100
440. Bạn vợ 3 200
441. Họ vợ 3 100
442. Họ vợ 3 200
443. Họ ngoại 3 100
444. Họ ngoại 3 100
445. Hàng xóm 3 100
446. Họ ngoại 3 100
447. Bạn chợ 3 100
448. Họ ngoại 3 100
449. Họ vợ 3 1.000
450. Bạn chợ 3 200
451. Bạn chợ 3 200
452. Họ ngoại 3 200
453. Họ ngoại 3 300
454. Họ ngoại 3 200
455. Họ ngoại 3 100
456. Họ ngoại 3 200
457. Họ ngoại 3 100
234
458. Họ ngoại 3 100
459. Họ ngoại 3 200
460. Họ ngoại 3 100
461. Họ ngoại 3 300
462. Họ ngoại 3 200
463. Họ ngoại 3 200
464. Bạn vợ 3 200
465. Hàng xóm 3 100
466. Họ ngoại 3 200
467. Hàng xóm 3 100
468. Hàng xóm 3 100
469. Họ ngoại 3 100
470. Họ nội 3 200
471. Họ vợ 3 100
472. Bạn 3 100
473. Họ ngoại 3 100
474. Họ ngoại 3 100
475. Họ ngoại 3 100
476. Họ ngoại 3 100
477. Họ ngoại 3 100
478. Họ ngoại 3 200
479. Họ nội 3 200
480. Họ ngoại 3 100
481. Họ ngoại 3 200
482. Họ ngoại 3 200
483. Họ ngoại 3 200
484. Bạn chợ 3 200
485. Bạn 3 100
486. Họ vợ 3 200
235
487. Họ ngoại 3 200
488. Hàng xóm 3 100
489. Họ ngoại 3 200
490. Bạn 3 100
491. Họ ngoại 3 200
492. Họ ngoại 3 200
493. Bạn chợ 3 100
494. Họ ngoại 3 300
495. Bạn 3 200
496. Bạn 3 300
497. Bạn vợ 3 100
498. Họ nội 3 100
499. Họ ngoại 3 50
500. Họ ngoại 3 200
501. Họ ngoại 3 100
502. Họ ngoại 3 100
503. Họ ngoại 3 100
504. Họ ngoại 3 200
505. Họ ngoại 3 300
506. Bạn vợ 4 100
507. Họ vợ 4 100
508. Họ ngoại 4 100
509. Họ ngoại 4 200
510. Họ ngoại 4 200
511. Họ nội 4 100
512. Họ ngoại 4 100
513. Họ vợ 4 1.000
514. Họ vợ 4 200
515. Bạn vợ 4 500
236
516. Bạn chợ 4 200
517. Họ vợ 4 200
518. Bạn chợ 4 100
519. Bạn chợ 4 100
520. Họ ngoại 4 500
521. Họ vợ 4 100
522. Hàng xóm 4 100
523. Bạn vợ 4 200
524. Bạn vợ 4 200
525. Họ vợ 4 100
526. Họ nội 4 200
527. Họ nội 4 200
528. Họ vợ 4 100
529. Bạn vợ 4 200
530. Bạn vợ 4 500
531. Bạn vợ 4 200
532. Bạn vợ 4 100
533. Họ ngoại 4 200
534. Họ vợ 4 200
535. Họ vợ 4 200
536. Bạn vợ 4 100
537. Họ vợ 4 100
538. Bạn vợ 4 200
539. Thông gia 4 1.000
540. Họ nội 4 200
541. Bạn chợ 4 200
542. Họ vợ 4 300
543. Họ nội 4 100
544. Họ nội 4 100
237
545. Họ ngoại 4 100
546. Họ vợ 4 500
547. Họ vợ 4 300
548. Bạn vợ 4 500
549. Bạn vợ 4 200
550. Bạn vợ 4 200
551. Bạn vợ 4 100
552. Họ ngoại 4 200
553. Họ ngoại 4 200
554. Bạn chợ 4 100
555. Bạn vợ 5 300
556. Họ nội 5 200
557. Hàng xóm 5 100
558. Họ vợ 5 300
559. Hàng xóm 5 200
560. Hàng xóm 5 100
561. Hàng xóm 5 200
562. Hàng xóm 5 200
563. Hàng xóm 5 200
564. Hàng xóm 5 200
565. Hàng xóm 5 100
566. Hàng xóm 5 200
567. Bạn vợ 5 200
568. Thông gia của mẹ 5 200
569. Hàng xóm 5 100
570. Hàng xóm 5 100
571. Hàng xóm 5 200
572. Hàng xóm 5 100
573. Hàng xóm 5 200
238
574. Hàng xóm 5 100
575. Hàng xóm 5 100
576. Hàng xóm 5 200
577. Hàng xóm 5 200
578. Bạn 5 200
579. Họ nội 5 100
580. Hàng xóm 5 100
581. Hàng xóm 5 200
Hội nông dân 1.000
Hội đồng niên 1.000
Hội đồng niên vợ 2.600
(Tổng số tiền mừng: 113.700.000 đồng)92
92 Ghi chú: Trong danh sách, có một số người vừa là “bạn đồng niên” của người vợ vừa là
“bạn chợ”.
239
DANH SÁCH KHÁCH DỰ ĐÁM CƯỚI
TỔ CHỨC VÀO NĂM 2013 CỦA GIA ĐÌNH ANH THẢO
VÀ SỐ TIỀN MỪNG93
STT Dạng quan hệ Địa chỉ (thôn) Số tiền (nghìn đồng)
1. Thông gia của cha 8 100
2. Họ nội 7 200
3. Hàng xóm 9 100
4. Họ ngoại 9 300
5. Họ ngoại 9 200
6. Hàng xóm 7 200
7. Họ nội 4 100
8. Họ ngoại 5 200
9. Họ nội 6 200
10. Hàng xóm 6 100
11. Bạn 6 200
12. Bạn vợ 9 300
13. Họ ngoại 3 100
14. Hàng xóm 1 100
15. Họ ngoại 9 100
16. Họ vợ 7 200
17. Họ ngoại 9 200
18. Họ vợ 4 500
19. Hàng xóm 6 200
20. Hàng xóm 4 100
21. Hàng xóm 6 200
22. Hàng xóm 1 100
23. Hàng xóm 7 200
93 Danh sách này do chủ hộ là anh Thảo lập. Tên khách đã được ẩn.
240
24. Hàng xóm 6 100
25. Hàng xóm 6 100
26. Hàng xóm 7 200
27. Bạn chợ Ngoài làng 500
28. Bạn vợ 4 100
29. Họ nội 1 200
30. Bạn chợ 1 100
31. Bạn chợ 7 100
32. Hàng xóm 1 200
33. Họ ngoại 9 100
34. Hàng xóm 7 200
35. Bạn Ngoài làng 100
36. Họ vợ 5 200
37. Hàng xóm 4 200
38. Họ vợ 5 100
39. Thông gia 4 200
40. Họ nội 6 300
41. Họ nội 8 100
42. Họ vợ 4 100
43. Thông gia 2 1000
44. Họ vợ 5 200
45. Họ vợ 6 200
46. Bạn chợ 3 100
47. Họ ngoại 6 100
48. Bạn chợ Ngoài làng 200
49. Họ nội 1 200
50. Họ vợ Ngoài làng 100
51. Họ nội 4 200
52. Bạn vợ 9 300
241
53. Bạn chợ 1 200
54. Bạn vợ 9 300
55. Hàng xóm 7 100
56. Họ vợ 1 500
57. Bạn 6 200
58. Họ nội 6 200
59. Họ vợ Ngoài làng 200
60. Bạn cha Ngoài làng 100
61. Bạn cha Ngoài làng 100
62. Bạn cha Ngoài làng 100
63. Bạn cha Ngoài làng 100
64. Họ ngoại 4 100
65. Họ ngoại 1 100
66. Bạn vợ Ngoài làng 100
67. Bạn chợ Ngoài làng 100
68. Bạn 7 200
69. Họ nội 6 200
70. Họ nội 6 500
71. Họ nội Ngoài làng 500
72. Họ nội 1 200
73. Hàng xóm 7 100
74. Họ vợ Ngoài làng 200
75. Bạn chợ Ngoài làng 200
76. Họ ngoại 2 100
77. Họ vợ 1 300
78. Họ vợ Ngoài làng 200
79. Họ ngoại 5 50
80. Họ ngoại 7 500
81. Họ nội 1 100
242
82. Bạn chợ 7 100
83. Hàng xóm 6 200
84. Hàng xóm 7 200
85. Bạn 2 100
86. Hàng xóm 6 100
87. Bạn vợ 2 300
88. Hàng xóm 2 300
89. Họ ngoại 7 100
90. Hàng xóm 7 200
91. Hàng xóm 9 100
92. Hàng xóm 9 100
93. Bạn chợ 1 200
94. Bạn chợ 6 100
95. Họ nội 1 100
96. Họ ngoại 9 100
97. Họ ngoại 9 100
98. Bạn chợ 7 100
99. Bạn chợ 6 100
100. Họ ngoại 3 200
101. Họ nội 6 100
102. Họ nội 6 300
103. Bạn 4 200
104. Họ vợ 3 100
105. Hàng xóm 7 100
106. Họ vợ 3 500
107. Họ nội 6 200
108. Họ ngoại 9 300
109. Họ nội 6 200
110. Họ nội 6 100
243
111. Hàng xóm 7 100
112. Họ ngoại 6 200
113. Họ vợ 5 100
114. Bạn vợ 1 200
115. Họ ngoại 6 200
116. Họ vợ 2 100
117. Họ ngoại 2 100
118. Họ vợ 3 100
119. Họ vợ 3 100
120. Họ vợ 5 200
121. Họ vợ Ngoài làng 200
122. Hàng xóm 6 200
123. Họ vợ 2 300
124. Họ vợ Ngoài làng 100
125. Họ vợ 2 100
126. Họ vợ 5 50
127. Họ vợ Ngoài làng 200
128. Họ nội 5 100
129. Họ nội 1 200
130. Họ ngoại 6 100
131. Hàng xóm 6 100
132. Họ nội 4 300
133. Họ nội 4 200
134. Họ ngoại 9 100
135. Họ nội 1 200
136. Họ ngoại 9 300
137. Họ ngoại 6 100
138. Bạn 9 100
139. Hàng xóm 6 200
244
140. Họ ngoại 1 50
141. Họ nội 9 500
142. Họ nội 1 200
143. Hàng xóm 7 100
144. Họ nội 1 200
145. Hàng xóm 1 300
146. Hàng xóm 6 100
147. Họ nội 6 200
148. Hàng xóm 6 100
149. Bạn chợ 2 100
150. Bạn vợ 7 200
151. Hàng xóm 6 200
152. Hàng xóm 7 100
153. Bạn 8 100
154. Hàng xóm 6 100
155. Họ vợ 9 200
156. Bạn 5 200
157. Họ vợ Ngoài làng 100
158. Họ ngoại 1 100
159. Họ ngoại 9 200
160. Họ vợ Ngoài làng 200
161. Họ vợ Ngoài làng 100
162. Họ nội 6 300
163. Họ ngoại 1 100
164. Thông gia của cha 1 100
165. Hàng xóm 7 100
166. Họ nội 6 200
167. Họ ngoại 9 100
168. Họ vợ Ngoài làng 200
245
169. Họ nội 1 100
170. Bạn chợ 6 100
171. Bạn chợ 6 200
172. Bạn chợ 7 200
173. Hàng xóm 9 100
174. Họ nội 7 200
175. Hàng xóm 6 200
176. Em ruột 6 1000
177. Họ vợ 2 200
178. Hàng xóm 7 100
179. Bạn 5 100
180. Họ nội 4 200
181. Hàng xóm 7 200
182. Bạn 8 200
183. Họ nội 5 100
184. Họ nội 4 200
185. Hàng xóm 7 200
186. Hàng xóm 1 100
187. Họ ngoại 6 200
188. Họ vợ 3 200
189. Họ nội 1 100
190. Hàng xóm 6 100
191. Bạn 9 200
192. Hàng xóm 7 100
193. Hàng xóm 7 200
194. Hàng xóm 6 100
195. Hàng xóm 1 100
196. Hàng xóm 7 100
197. Họ ngoại 9 200
246
198. Họ ngoại Ngoài làng 500
199. Họ ngoại Ngoài làng 200
200. Họ ngoại Ngoài làng 100
201. Bạn 7 200
202. Họ nội 5 200
203. Họ vợ 7 100
204. Bạn vợ 1 200
205. Bạn vợ 1 100
206. Bạn vợ 4 100
207. Bạn vợ 1 100
208. Họ nội 5 200
209. Họ ngoại 9 200
210. Bạn vợ 5 100
211. Họ nội 5 400
212. Hàng xóm 6 500
213. Hàng xóm 7 300
214. Hàng xóm 7 100
215. Bạn vợ 2 200
216. Họ nội 1 200
217. Bạn 9 100
218. Họ ngoại Ngoài làng 200
219. Họ ngoại Ngoài làng 200
220. Họ ngoại Ngoài làng 200
221. Họ ngoại Ngoài làng 200
222. Họ ngoại Ngoài làng 200
223. Họ ngoại Ngoài làng 200
224. Họ nội 4 300
225. Hàng xóm 6 200
226. Họ nội 1 100
247
227. Họ ngoại 4 100
228. Họ ngoại 1 100
229. Hàng xóm 6 500
230. Hàng xóm 7 200
231. Họ vợ 2 100
232. Họ nội 1 100
233. Hàng xóm 7 100
234. Họ vợ 7 100
235. Họ ngoại 2 200
236. Hàng xóm 5 100
237. Hàng xóm 6 200
238. Hàng xóm 6 200
239. Hàng xóm 6 200
240. Hàng xóm 6 100
241. Họ vợ 1 500
242. Hàng xóm 6 200
243. Họ nội 1 100
244. Họ vợ 5 200
245. Họ nội Ngoài làng 100
246. Họ ngoại 9 200
247. Họ nội Ngoài làng 200
248. Họ ngoại 4 200
249. Em gái 6 200
250. Họ nội 2 100
251. Họ vợ 1 200
252. Bạn 1 100
253. Bạn 8 200
254. Họ vợ 1 500
255. Họ ngoại 6 200
248
256. Họ ngoại 7 100
257. Họ vợ 1 100
258. Hàng xóm 6 200
259. Bạn vợ 1 100
260. Hàng xóm 7 100
261. Hàng xóm 1 100
262. Họ nội 2 100
263. Hàng xóm 6 200
264. Hàng xóm 7 100
265. Hàng xóm 6 100
266. Họ ngoại 9 200
267. Họ ngoại 9 200
268. Họ ngoại 7 200
269. Hàng xóm 6 200
270. Hàng xóm 6 200
271. Hàng xóm 6 100
272. Hàng xóm 6 200
273. Bạn 6 200
274. Hàng xóm 6 100
275. Họ ngoại 7 200
276. Bạn 7 100
277. Bạn vợ 9 200
278. Hàng xóm 6 200
279. Hàng xóm 6 100
280. Bạn 9 300
281. Họ vợ 1 200
282. Bạn vợ 1 200
283. Hàng xóm 6 100
284. Hàng xóm 6 200
249
285. Anh vợ 9 500
286. Họ ngoại 9 100
287. Họ ngoại Ngoài làng 100
288. Hàng xóm 6 100
289. Bạn vợ 2 100
290. Bạn vợ 5 100
291. Hàng xóm 7 100
292. Hàng xóm 6 100
293. Họ nội 3 200
294. Bạn 6 200
295. Họ ngoại 2 200
296. Họ vợ Ngoài làng 500
297. Họ vợ Ngoài làng 500
298. Họ vợ 1 100
299. Họ vợ Ngoài làng 200
300. Bạn vợ 6 300
301. Họ nội 6 100
302. Họ nội 1 200
303. Họ ngoại 9 200
304. Họ ngoại Ngoài làng 200
305. Bạn 2 200
306. Hàng xóm 6 200
307. Bạn vợ 1 100
308. Họ vợ Ngoài làng 200
309. Hàng xóm 6 100
310. Họ vợ 2 200
311. Họ vợ 1 200
312. Họ vợ Ngoài làng 200
313. Họ vợ Ngoài làng 200
250
314. Họ ngoại 7 100
315. Họ vợ Ngoài làng 200
316. Hàng xóm 7 200
317. Hàng xóm 6 200
318. Bạn vợ 6 100
319. Họ ngoại 9 200
320. Họ nội 6 200
321. Hàng xóm 7 200
322. Hàng xóm 6 100
323. Họ vợ Ngoài làng 50
324. Hàng xóm 6 300
325. Hàng xóm 6 200
326. Hàng xóm 6 200
327. Hàng xóm 6 200
328. Bạn vợ 6 100
329. Họ nội 5 300
330. Họ ngoại 2 100
331. Họ ngoại 2 200
332. Họ ngoại 9 100
333. Họ ngoại 2 100
334. Họ ngoại 1 500
335. Em gái 2 500
336. Họ ngoại 7 200
337. Họ nội 1 100
338. Họ nội 1 100
339. Bạn vợ 1 200
340. Bạn vợ 6 100
341. Bạn vợ 5 200
342. Bạn vợ 5 300
251
343. Bạn vợ 3 300
344. Hàng xóm 3 200
345. Họ vợ Ngoài làng 200
346. Họ ngoại 9 100
347. Họ nội 6 100
348. Họ nội 5 100
349. Họ nội 5 100
350. Họ nội 5 100
351. Hàng xóm 6 200
352. Họ ngoại 9 100
353. Họ ngoại 2 100
354. Họ vợ Ngoài làng 100
355. Bạn 7 200
356. Hàng xóm 6 100
357. Bạn 4 500
358. Họ ngoại 9 100
359. Hàng xóm 6 200
360. Họ ngoại 9 100
361. Hàng xóm 7 200
362. Bạn 7 200
Hội đồng niên 1.000
(Tổng số tiền mừng: 64,8 triệu đồng)