sỐ12 (12/12/2009 - 19/12/2009 bẢn tin ĐỐi thoẠi chÍnh …agro.gov.vn/images/2010/03/ban...
TRANSCRIPT
1
& DOANH NGHIỆP
SỐ12 (12/12/2009 - 19/12/2009)
Chịu trách nhiệm nội dung
PHẠM HOÀNG NGÂN
Chịu trách nhiệm sản xuất
AN LAN ANH
PHẠM THÙY LINH
Đơn vị sản xuất Trung tâm Thông tin
Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT
• TIN TỨC & SỰ KIỆN: Ưu đãi cho Doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp,
nông thôn Tiếp tục hỗ trợ lãi suất 2%/năm cho các khoản vay Hỗ trợ lãi suất đến hết năm 2011 ADB hỗ trợ 630 triệu USD để đổi mới DNNN Theo dõi sát giá gạo, đường 15-16/12/2009: Hội thảo "Các giải pháp cho doanh
nghiệp sản xuất trong nước trở về chiếm lĩnh thị trường nội địa"
15/12/2009: Tọa đàm về Khảo sát hiện trạng ứng dụng CNTT của DN
• ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH: Doanh nghiệp Việt chiếm lĩnh thị trường nội địa? Định vị thương hiệu - một lẽ sống của Doanh
nghiệp thời hội nhập • TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG:
Doanh nghiệp mất lãi vì ngoại tệ tăng Không thiếu gạo trong nước và xuất khẩu Philippines giảm lượng gạo nhập do giá tăng Xuất khẩu vào Campuchia: Vướng thuế cao Gỡ vướng thủy sản vào Mỹ
• TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH: Chênh lệch giá trị hàng xuất khẩu và giấy báo có
của ngân hàng? • ĐIỂM TIN HOẠT ĐỘNG ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH
AGROINFO:
BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH
2
Ưu đãi cho Doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn
Theo Dự thảo Nghị định về
một số chính sách ưu đãi
và hỗ trợ bổ sung dành
cho Doanh nghiệp đầu tư
vào nông nghiệp, nông
thôn do Viện Nghiên cứu
và quản lý kinh tế trung
ương - CIEM (Bộ KH-ĐT)
soạn thảo, DN đầu tư vào
lĩnh vực này sẽ nhận được
nhiều hỗ trợ, ưu đãi. Dự
kiến nghị định sẽ được ban
hành vào quý 1 năm 2010.
Tiếp tục hỗ trợ lãi suất 2%/năm cho các khoản vay
Thủ tướng vừa ký Quyết
định số 2072/QĐ – TTg về
việc tiếp tục hỗ trợ lãi suất
2%/năm cho các khoản
vay trung và dài hạn. Theo
đó, trong năm 2010, Nhà
nước sẽ tiếp tục hỗ trợ lãi
suất 2%/năm cho các
khoản vay trung và dài hạn
để thực hiện đầu tư mới
phát triển sản xuất - kinh
doanh. Chính sách hỗ trợ
lãi suất trên được áp dụng
theo cơ chế đã quy định tại
Quyết định 443/QĐ-TTg
ngày 4-4-2009 (hỗ trợ lãi
suất 4%/năm). Thời hạn hỗ
trợ lãi suất tối đa là 24
tháng, kể từ khi giải ngân
khoản vay trong năm 2010.
Cụ thể, các khoản vay
được hỗ trợ lãi suất
2%/năm là các khoản vay
trung và dài hạn tại các
ngân hàng thương mại
bằng đồng Việt Nam thuộc
các ngành và lĩnh vực kinh
tế: Nông nghiệp và lâm
nghiệp; thủy sản; công
nghiệp chế biến; hoạt động
khoa học công nghệ; hoạt
động thu mua và kinh
doanh các mặt hàng nông
sản, lâm sản, thủy sản,
muối.
Cũng nằm trong đối tượng
thụ hưởng chính sách hỗ
trợ lãi suất trên còn gồm
các tổ chức tín dụng thực
hiện cho vay vốn đối với
các tổ chức, cá nhân, cụ
thể: Ngân hàng Thương
mại Nhà nước, ngân hàng
thương mại cổ phần, công
ty tài chính, ngân hàng liên
doanh, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài hoạt
động tại Việt Nam, ngân
hàng 100% vốn nước
ngoài, Quỹ Tín dụng nhân
dân Trung ương.
Theo NLĐ
Hỗ trợ lãi suất đến hết năm 2011
Ngân hàng Nhà nước vừa
ban hành Thông tư 21 sửa
đổi, bổ sung một số điều
về việc thi hành việc hỗ trợ
TIN TỨC & SỰ KIỆN
3
lãi suất đối với các tổ chức,
cá nhân vay vốn trung, dài
hạn (Thông tư 05). Đối
tượng và phạm vi áp dụng
quy định về hỗ trợ lãi suất
được bổ sung các khoản
cho vay để đáp ứng nhu
cầu vốn lưu động, chu kỳ
sản xuất, kinh doanh trên
12 tháng thuộc các ngành,
lĩnh vực kinh tế được hỗ
trợ lãi suất vào các khoản
cho vay của ngân hàng
thương mại và công ty tài
chính. Mức hỗ trợ khách
hàng vay là 4%/năm, tính
trên số tiền vay và thời hạn
cho vay thực tế, nằm trong
khoảng thời gian từ 1-4-
2009 đến 31-12-2011. Các
khoản vay được hỗ trợ lãi
suất không phù hợp với
quy định tại thông tư này
phải điều chỉnh hợp đồng
tín dụng kể từ ngày 9-10-
2009.
Theo NLĐ
ADB hỗ trợ 630 triệu USD để đổi mới DNNN
Ngân hàng Phát triển Châu
Á (ADB) ngày 14/12/2009
đã phê chuẩn kế hoạch
cấp vốn trị giá 630 triệu
USD cho chương trình tạo
thuận lợi cho quản trị và
đổi mới doanh nghiệp Nhà
nước (DNNN) của VN.
Nguồn vốn của ADB chiếm
gần 36% trong tổng số chi
phí ước tính khoảng 1,77 tỉ
USD dành cho việc chuyển
đổi các DNNN đến năm
2015.
Theo NLĐ
Theo dõi sát giá gạo, đường
Phó Thủ tướng Hoàng
Trung Hải vừa có văn bản
chỉ đạo sở Công Thương
các tỉnh, TP trực thuộc
Trung ương theo dõi sát
diễn biến cung - cầu đối
với các mặt hàng thiết yếu,
chủ động có biện pháp
bình ổn thị trường khi cần
thiết. Từ nay đến Tết
Nguyên đán, sở Công
Thương các tỉnh, thành
phải tóm tắt tình hình cung
- cầu, giá cả thị trường mặt
hàng lúa gạo, đường và
một số mặt hàng phục vụ
Tết; tình hình chuẩn bị, dự
trữ hàng hóa, phương án
bình ổn thị trường khi cần
thiết và báo cáo nhanh về
bộ mỗi ngày.
15-16/12/2009: Hội thảo
"Các giải pháp cho doanh nghiệp sản xuất trong nước trở về chiếm lĩnh thị trường nội địa" do Viện khoa học quản trị
doanh nghiệp vừa và nhỏ
thuộc Hiệp hội doanh
nghiệp vừa và nhỏ Việt
Nam phối hợp với Tạp chí
Thương mại thuộc Bộ
Công Thương tổ chức tại
Hà Nội. Hội thảo là một
trong chuỗi các hoạt động
quan trọng nằm trong
khuôn khổ Chương trình
"Xúc tiến thương mại thị
trường trong nước 2009"
do Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt và cũng là thiết
thực hưởng ứng cuộc vận
động "Người Việt Nam ưu
4
tiên dùng hàng Việt Nam"
của Bộ Chính trị.
Theo Vietrade
15/12/2009: Tọa đàm về
Khảo sát hiện trạng ứng
dụng CNTT của DN
Tọa đàm do Viện tin học
Doanh nghiệp (Phòng
Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam, VCCI) tổ
chức tại Hà Nội, với sự
tham dự của các doanh
nghiệp trong nước (trừ
doanh nghiệp CNTT). Toạ
đàm đã tập trung thảo luận
về các nội dung, phương
pháp điều tra như thông tin
sử dụng phần cứng, mạng
máy tính, sử dụng Internet,
sử dụng phần mềm bảo
mật, phần mềm tác nghiệp
hành chính, sự vụ, thương
mại điện tử…Ông Lê Văn
Lợi, Viện trưởng Viện Tin
học doanh nghiệp, Phó
Trưởng ban chỉ đạo Đề án
191 về “Hỗ trợ doanh
nghiệp ứng dụng CNTT
phục vụ hội nhập và phát
triển giai đoạn 2005 –
2010” của Chính phủ cho
biết: Vấn đề điều tra khảo
sát nhu cầu và hiện trạng
ứng dụng CNTT-TT của
các doanh nghiệp là nhiệm
vụ quan trọng của Đề án
191 để xây dựng chỉ số
ứng dụng CNTT-TT trong
doanh nghiệp hàng năm,
qua đó sẽ xây dựng chính
sách chung phù hợp, góp
phần cải thiện lợi thế cạnh
tranh của các doanh
nghiệp.
Theo Bưu điện
Doanh nghiệp Việt chiếm lĩnh thị trường nội địa?
Quy mô thị trường nội địa VN đã khá lớn, tổng mức luân chuyển hàng hóa bán lẻ, dịch vụ chiếm khoảng 56% GDP, là điểm tựa để doanh nghiệp trong nước vượt lên, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế…
Sức mua rất lớn và những cơ hội cho Doanh nghiệp
Ông Võ Văn Quyền, Vụ phó
Vụ Phát triển Thị trường
trong nước - Bộ Công
Thương, khẳng định thị
trường nội địa chính là điểm
tựa quan trọng giúp VN vượt
qua suy thoái kinh tế năm
2009. Lý do: Trong ba yếu tố
tạo thế “chân kiềng” cho tăng
trưởng GDP là đầu tư, xuất
khẩu và thương mại trong
nước, chỉ có thương mại
trong nước tăng trưởng
dương (10% sau khi loại trừ
yếu tố trượt giá), mức cao
nhất trong khu vực châu Á.
Cũng theo ông, hiện nay, các
ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH
5
TP lớn, các khu công nghiệp
đều có quỹ trọng điểm dự trữ
hàng Tết.Tại Hà Nội đã bố trí
hàng trị giá 250 tỉ đồng,
TPHCM hơn 400 tỉ đồng.
Chưa năm nào người dân
nhận thức về thị trường trong
nước tốt như năm nay thông
qua tuần bán hàng Việt,
tháng bán hàng Việt, chương
trình “Đưa hàng Việt về nông
thôn”... Đây là cơ hội để DN
củng cố và khai thác thị
trường trong nước.
Ông Phan Thế Ruệ, nguyên
Thứ trưởng Bộ Thương mại,
Chủ tịch Hiệp hội Các nhà
bán lẻ VN, đánh giá thị
trường nội địa VN đã có quy
mô khá lớn, tổng mức luân
chuyển hàng hóa bán lẻ, dịch
vụ chiếm khoảng 56% GDP
và trở thành một trong những
nhân tố quyết định thúc đẩy
nền kinh tế. Theo ông Phan
Thế Ruệ, đưa hàng về nông
thôn chính là đưa hàng từ
nơi thừa về nơi thiếu và là
việc của DN. Nhà nước có hỗ
trợ phải bằng cơ chế chính
sách, cụ thể là miễn giảm,
dãn thuế, hỗ trợ lãi suất, đơn
giản hóa thủ tục hành chính
chứ không phải tìm mặt bằng
cho DN làm lều quán bán
hàng.
Đề xuất các giải pháp giúp
DN quay lại chiếm lĩnh thị
trường nội địa một cách lâu
dài, chắc chắn, ông Đỗ Gia
Phan, Phó Chủ tịch Hội Tiêu
chuẩn và Bảo vệ người tiêu
dùng VN, cho rằng DN phải
đặt chữ tín lên hàng đầu.
Ông Võ Văn Quyền cho biết
vấn đề cơ chế chính sách
cho tiêu thụ hàng hóa tại thị
trường nội địa hiện đang rất
nóng. Vài ngày tới, Chính
phủ sẽ phê duyệt nghị định
phát triển hệ thống chợ trong
cả nước, trong đó có hai vấn
đề đáng lưu ý là các chợ
vùng sâu vùng xa sẽ được
Nhà nước hỗ trợ đầu tư. Đối
với các chợ đầu mối, trung
tâm thương mại, siêu thị...
được khuyến khích đầu tư.
Giải pháp cạnh tranh trên thị trường nội địa cho Doanh nghiệp Việt?
Theo PGS.TS Phạm Tất
Thắng, nghiên cứu viên cao
cấp của Bộ Công Thương,
để chiếm lĩnh được thị
trường nội địa, tất cả những
quy định, thói quen bán hang
trên thị trường nội địa cần
phải thay đổi. Với cam kết khi
gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO), năm
nay nước ta đã mở cửa cho
tất cả các công ty bán lẻ
100% vốn nước ngoài. Từ
1/1/2010, hầu hết các mặt
hàng, các công ty nước
ngoài sẽ được phép bán tại
Việt Nam. Đây sẽ là thách
Theo điều tra của Hội Tiêu
chuẩn và Bảo vệ người
tiêu dùng Việt Nam
(Vinastas): Có tới 62%
người tiêu dùng đã từng
mua phải hàng giả, hàng
xấu. Trong khi đó, về phía
người bán hàng chỉ có
20% trả lại tiền cho người
mua, 49% đổi hàng cho
khách và có tới 31%
không giải quyết những
“bức xúc” của người tiêu
dùng khi hàng không đảm
bảo chất lượng.
6
thức không chỉ của các
doanh nghiệp bán lẻ mà của
tất cả các doanh nghiệp Việt
Nam. Doanh nghiệp ngoài
việc đưa hàng hóa có chất
lượng tốt giá cả hợp lý về
nông thôn cũng phải đầu tư
cải tiến mẫu mã, trọng lượng
phù hợp hơn với thị hiếu và
túi tiền của những người dân
quê; có kế hoạch, chính sách
thu mua tiêu thụ nông sản
cho người dân để họ có tiền
mua hàng hóa.
Ở cấp độ vĩ mô, TS Thắng
cho rằng: Nhà nước nên thay
đổi mô hình tăng trưởng kinh
tế thay vì dựa chủ yếu vào
xuất khẩu và đầu tư nước
ngoài như hiện nay, để có sự
thay đổi cơ chế chính sách
cho phù hợp mới tình hình
mới. Thêm nữa, gần 70%
người tiêu dùng Việt Nam
đang sống ở nông thôn, vùng
sâu, vùng xa nên để chiếm
lĩnh được thị trường to lớn
này, doanh nghiệp rất cần có
chính sách ưu đãi của Nhà
nước như trợ cước, trợ giá,
giảm thuế cho hàng hóa đưa
về khu vực này.
Ông Nguyễn Hữu Sự, Tổng
thư ký Hiệp hội doanh nghiệp
nhỏ và vừa Hà Nội: Cơ quan
chức năng nên công bố tiêu
chuẩn đối với các loại hàng
hóa khi lưu hành trên thị
trường. Điều này cũng sẽ
giúp ngăn chặn những hàng
hóa kém chất lượng ở nước
ngoài đưa vào nước ta, tạo
điều kiện bảo vệ DN trong
nước.
(Agroinfo Tổng hợp)
Định vị thương hiệu - một lẽ sống của Doanh nghiệp thời hội nhập Trong thị trường nội địa, các tập đoàn, công ty
nước ngoài một mặt tăng cường đầu tư chi
phí quảng bá mạnh mẽ thương hiệu của mình,
tạo một sức ép cạnh tranh lớn lao đối với
doanh nghiệp nội địa. Mặt khác, họ bắt đầu
khai thác một số thương hiệu nổi tiếng sẵn có
của Việt Nam, bằng cách bỏ tiền mua lại
thương hiệu và phát triển sản phẩm thành
thương hiệu của mình. Chẳng hạn tập đoàn
Unilever mua lại thương hiệu kem đánh răng
P/S và khai thác địa điểm xuất xứ “Phú Quốc”
với sản phẩm nước mắm Knorr Phú Quốc.
Trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp Việt
Nam xuất khẩu mạnh các mặt hàng tiêu dùng,
nông thủy hải sản, thực phẩm, … với chất
lượng không thua kém với các sản phẩm quốc
tế. Tuy nhiên, khoảng 90% sản phẩm Việt
Nam vào thị trường thế giới hầu hết thông qua
trung gian dưới dạng thô hoặc gia công cho
các thương hiệu nước ngoài.
Do đó, hình ảnh thương hiệu Việt Nam
thường mờ nhạt đối với khách hàng nước
ngoài. Chưa kể một số thương hiệu Việt Nam
thường phải đối phó với những tranh chấp
7
thương hiệu trên thị trường thế giới (trường
hợp Trung Nguyên, Vinataba, Sa Giang,
Biti’s,…)
Trong thời gian gần đây, nhận thức được tầm
quan trọng của thương hiệu đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh, một số doanh nghiệp
Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đến việc xây
dựng thương hiệu và bảo hộ thương hiệu trên
thị trường toàn cầu (Phở 24, bưởi Năm Roi,
…)
Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp Việt
Nam chưa có nhận thức đầy đủ và đúng mức
về vấn đề xây dựng thương hiệu một cách lâu
dài và phát triển thương hiệu bền vững trong
môi trường cạnh tranh và kinh doanh toàn
cầu.
Theo một điều tra gần đây của Dự án hỗ trợ
Doanh nghiệp về năng lực xây dựng và quảng
bá thương hiệu, với mẫu 500 doanh nghiệp
trên toàn quốc thì có đến 25 – 30% doanh
nghiệp không hề đầu tư vào việc xây dựng
thương hiệu, trên 70% có đầu tư nhưng không
toàn diện, đầy đủ ở mức dưới 5%.
Xuất phát từ hoạt động kinh doanh ngày càng
phát triển và tăng trưởng mạnh mẽ trên thị
trường toàn cầu, đặc biệt trên thị trường khu
vực ASEAN, các doanh nghiệp bây giờ cần
phải tập trung vào việc xây dựng cho mình hệ
thống chiến lược Marketing đúng đắn.
Doanh nghiệp phải đảm bảo duy trì và gia
tăng doanh số trong điều kiện cạnh tranh gay
gắt. Doanh nghiệp phải học hỏi bằng cách nào
thu hút cho được những khách hàng ngày
càng khó tính, có nhiều kiến thức, nhiều thông
tin và thậm chí nhiều quyền lực? Doanh
nghiệp phải thấu hiểu khách hàng và kết nối
chặt chẽ với họ.
Như vậy, vấn đề xây dựng thương hiệu có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc phát triển
bền vững doanh nghiệp, hay nói cách khác có
ý nghĩa chiến lược. Vậy thì, trong việc thiết kế
chiến lược thương hiệu, đối với doanh nghiệp
Việt Nam, cần đặc biệt chú trọng một số vấn
đề cốt lõi sau đây :
1. Vấn đề thứ nhất : Hình thành rõ nét Bộ ba
của tam giác : Định vị - Khác biệt hóa - thương
hiệu.
Thương hiệu trước hết xuất phát từ việc phân
khúc thị trường, xác định khách hàng mục
tiêu, từ đó mà định vị (Positioning) để giúp cho
khách hàng nhận dạng thương hiệu, hiểu rõ
bản sắc thương hiệu (Brand identity). Sau đó
bằng con đường khác biệt hóa (Differentiation)
để tạo phẩm chất trung thực của thương hiệu
(Brand integrity). Để rồi cuối cùng xây dựng
được hình ảnh của thương hiệu ( Brand
image).
8
2. Vấn đề thứ hai : Cụ thể hóa bộ ba tam giác
nêu trên thông qua một quy trình xây dựng
chiến lược thương hiệu.
Bao gồm 9 giai đoạn được mô hình hóa thành
9 chữ P sau đây (mô hình Philip Kotler) :
(1) Probing the market (P1) – Nghiên cứu,
phân tích, đánh giá và tiên đoán thị trường.
(2) Partitioning the market (P2) – Phân khúc
thị trường.
(3) Pursuing the market (P3) – Lựa chọn thị
trường mục tiêu.
(4) Positioning the brand (P4) – Định vị
thương hiệu.
(5) Producing the brand (P5) – Xây dựng
thương hiệu.
(6) Pricing the brand (P6) – Định giá thương
hiệu.
(7) Placing the brand (P7) – Phân phối
thương hiệu.
(8) Promoting the brand (P8) – Chiêu thị/
quảng bá thương hiệu.
(9) Post-purchasing Activities (P9) – Các hoạt
động dịch vụ.
Có 9 yếu tố cốt lõi cuả Marketing được hình
thành ở quy trình nêu trên:
(1) Phân khúc (Segmenting)
(2) Khách hàng mục tiêu (Targeting)
(3) Định vị (Positioning)
(4) Khác biệt hoá (Differentiation)
(5) Marketing hỗn hợp (Marketing mix)
(6) Bán hàng (Selling)
(7) Thương hiệu (Brand)
(8) Dịch vụ (Services)
(9) Quy trình sản xuất (Process)
Chiến lược xây dựng thương hiệu Việt Nam
gắn liền với tiến trình hội nhập kinh tế toàn
cầu và khu vực, do đó nó phải được tiến hành
theo công thức 3C :
(1)Consistant global value : Phù hợp với giá trị
toàn cầu. Nghĩa là thương hiệu, dịch vụ và
quy trình sản xuất phải được thiết kế theo tiêu
chuẩn hoá toàn cầu, phù hợp với xu hướng
hội nhập kinh tế quốc tế. Chẳng hạn như từ
tên gọi (Brand name), cho đến khẩu hiệu
(Slogan)…
(2)Coordinated regional strategy : Liên kết,
phối hợp với khu vực ASEAN trong phân khúc
thị trường, xác định khách hàng mục tiêu và
định vị.
(3)Customized local tactic : Chiến thuật nhắm
vào khách hàng địa phương, nội địa thông qua
khác biệt hoá, Marketing hỗn hợp và bán
hàng.
Cách tiếp cận toàn cầu hoá cuả việc xây dựng
thương hiệu, đó là thực hiện mô hình tạo ra
thương hiệu toàn cầu trong thị trường địa
phương. Công thức 3C là cốt lõi cho cách tiếp
cận này.
(Vietnambranding - GS. TS. Hồ Đức Hùng)
9
Doanh nghiệp mất lãi vì ngoại tệ tăng Do thiếu vốn đầu tư, nhiều doanh nghiệp
(DN) phải vay ngoại tệ để mua sắm
phương tiện, máy móc, thiết bị... Đối với
những DN vay ngoại tệ đầu tư mà có sản
phẩm bán thu bằng ngoại tệ thì việc trượt tỉ
giá không gây rủi ro cao. Nhưng với những
DN mà sản phẩm bán trong nước (thu
bằng tiền đồng), khi tỉ giá ngoại tệ biến
động mạnh thì rủi ro tăng lên. Do USD
giảm giá nên đồng tiền hầu hết của các
nước đều tăng giá, còn tại VN thì ngược
lại, tỉ giá USD tăng mạnh, làm cho những
DN có nợ ngoại tệ đầu tư mua thiết bị,
công nghệ hoặc nhập khẩu luôn phải gánh
chịu rủi ro. Để phòng ngừa trượt tỉ giá vốn
vay, DN cần cảnh giác khi vay vốn ngoại
tệ, cần biết hạch toán dự phòng rủi ro tài
chính, nếu không sẽ lâm vào cảnh bị lãi giả
nhưng... lỗ thật. Mặc dù được hưởng lãi
vay thấp (thường từ 3% - 5%/năm) nhưng
do tiền đồng mất giá mạnh nên khi cộng tỉ
lệ trượt giá và lãi vay thì có khi bất lợi hơn
vay VNĐ. Từ cuối năm 2007 đến nay, tỉ giá
JPY đã tăng thêm 74,43 đồng (từ 142,34
lên 216,77 đồng), tức tăng 52,29%. Nếu
cộng với lãi vay (giả sử 3%/năm) thì sau 2
năm, chi phí vốn tăng thêm 58,29%. Đây là
mức tăng khá cao, gây tổn hại không nhỏ
cho DN vay JPY.
(Theo lao động)
Không thiếu gạo trong nước và xuất khẩu
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương
Nguyễn Thành Biên, việc các doanh
nghiệp đẩy mạnh thu mua để thực hiện các
hợp đồng xuất khẩu gạo mới đây có làm
tăng giá gạo trong nước, song lượng gạo
tồn kho hiện hoàn toàn đáp ứng nhu cầu
trong nước cũng như xuất khẩu. Thứ
trưởng Nguyễn Thành Biên cho biết do sản
xuất nông nghiệp tiếp tục được mùa nên
lượng gạo hàng hóa tồn kho tính đến cuối
năm 2009 khoảng 1,45 triệu tấn, dù cả
năm đã xuất khẩu trên 6 triệu tấn. Nếu
cộng thêm lượng gạo thu hoạch vụ đông
xuân trong quý I/2010, lượng gạo hàng hóa
tồn kho của VN sẽ lên tới 2,65 triệu tấn.
Trong khi đó, cả nước chỉ xuất khẩu
khoảng 1,6-1,7 triệu tấn gạo trong quý
I/2010 theo các hợp đồng đã ký nên lượng
gạo trong nước vẫn còn khoảng 1 triệu tấn
(Agroinfo tổng hợp)
TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG
10
Philippines giảm lượng gạo nhập do giá tăng
Theo Cơ quan Lương thực Quốc gia
Philippines (NFA), do giá gạo tăng nên
nước này sẽ chỉ mua 509.950 tấn gạo, ít
hơn so với kế hoạch 600.000 tấn đưa ra
trong đợt mở thầu thứ nhất vào ngày 1/12.
Người phát ngôn của NFA, Rex Estoperez,
cho biết đợt mở thầu tiếp theo, Philippines
có thể mua ít hơn, do ngân sách hạn hẹp.
Bên cạnh kế hoạch mua 1,8 triệu tấn gạo
trong tháng này, Philippines đã nhập khẩu
250.000 tấn cho năm 2010 trong tháng
11/2009.
(vietnamplus)
Xuất khẩu vào Campuchia: Vướng thuế cao
Thuế suất nhập khẩu nhiều mặt hàng vào
Campuchia hiện nay ở mức cao, khoảng
25%-40%, đang là một trở ngại lớn đối với
hàng hóa Việt Nam. Đây là một trong
những vấn đề quan trọng được các doanh
nghiệp (DN), hiệp hội ngành và lãnh đạo
các tỉnh, thành có biên giới với Campuchia
đặt ra tại buổi trao đổi, bàn biện pháp tháo
gỡ khó khăn nhằm thúc đẩy kim ngạch
thương mại Việt Nam – Campuchia, diễn
ra tại TPHCM ngày 11/12.
Hiện 2 nước đang có danh mục để có thể
đàm phán giảm thuế cho thời gian tới. Bộ
Công thương cho biết, VN đã gởi danh
mục với 32 mặt hàng tiêu dùng chủ yếu
như thực phẩm, sữa để phía bạn nghiên
cứu. Nếu nhanh, năm 2010 mới có thể bắt
đầu đàm phán được. Nhiều DN đồng tình
với khó khăn, thuế chính là vấn đề mấu
chốt để hàng hóa VN vào CPC.
Năm 2009, hàng hóa VN XK vào CPC có
giảm sút, dự kiến chỉ đạt khoảng 1,2 tỷ
USD. Trong khoảng 2 năm gần đây, cùng
với việc đẩy mạnh công tác quảng bá, xúc
tiến vào thị trường của các DN VN, CPC sẽ
là thị trường mở ra rất nhiều cơ hội để
hàng hóa VN thâm nhập.
(tinkinhte)
Gỡ vướng thủy sản vào Mỹ
Ngày 14/12/2009 tại Hà Nội, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn cùng các
doanh nghiệp thủy sản Việt Nam đã họp
với ông John Connelly - Chủ tịch Hiệp hội
thuỷ sản Mỹ (NFI) về kiểm soát chất lượng
thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ. Tại
đây, một số vấn đề khúc mắc đã được bàn
thảo vì lợi ích chung của hai bên trên cơ
sở phát triển hoạt động thương mại cá tra
nói riêng, thủy sản nói chung.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Lương Lê Phương cho biết, sản
11
lượng cá tra và cá ba sa hiện chiếm 31,8%
trong tổng các loại thủy sản xuất khẩu, bởi
vậy việc Mỹ vẫn áp thuế chống bán phá giá
đối với cá tra, cá basa là không công bằng
trong giao thương. Ông đề nghị doanh
nghiệp thủy sản Việt Nam và Mỹ cần phải
thống nhất lại một số vấn đề về phương
thức mua hàng.
Ông Connelly đưa ra một số vấn đề mà
các doanh nghiệp thủy sản hai bên cần
phải bàn thảo giải quyết. Một là, trọng
lượng tịnh của thủy sản đông lạnh. Theo
ông, các sản phẩm bán ra tại Mỹ có trọng
lượng thực thấp hơn 100% trọng lượng
tịnh ghi trên bao bì đều là bất hợp pháp.
Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ
(FDA) đã nêu rõ việc tính chung trọng
lượng mạ băng vào trọng lượng tịnh của
thủy sản đông lạnh là hành vi lừa đảo. Các
sản phẩm thủy sản của Việt Nam khi xuất
khẩu vào Mỹ thường mạ băng để bảo quản
sản phẩm, và khi cân đóng hàng lại không
trừ đi khối lượng băng mạ. Hai là ngăn
chặn các chuyển tải sản phẩm. NFI đang
nghi ngờ thủy sản Việt Nam chuyển tải qua
Mehico trước khi vào Mỹ. Ba là, tên các
loài cá khác nhau có thể khiến người tiêu
dùng Mỹ nhầm lẫn. Bốn là, sử dụng các
chất giữ nước trong sản phẩm.
(Vietnambranding - GS. TS. Hồ Đức Hùng)
Chênh lệch giá trị hàng xuất khẩu và giấy báo có của ngân hàng Công ty tôi bán hàng và khách hàng nhập khẩu đã thanh toán tiền qua ngân hàng. Chỉ có điều, trên giấy báo có của ngân hàng thể hiện số tiền thấp hơn giá trị hàng xuất khẩu, vì ngân hàng thu phí chuyển khoản. Xin hỏi, làm thế nào để công ty tôi được khấu trừ thuế tương ứng với giá trị hàng xuất khẩu?
Lê Thanh Quý, Đội Nhân, Ba Đình, Hà Nội
Trả lời: Theo quy định tại tiết c, điểm 1.3, mục III, phần B Thông tư số 129/2008/TT-BTC ngày
26/12/2008 của Bộ Tài chính thì một trong các điều kiện để được kê khai khấu trừ, hoàn
thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu là phải thanh toán qua ngân hàng.
Chứng từ thanh toán tiền là giấy báo Có của ngân hàng bên xuất khẩu về số tiền đã nhận
được từ tài khoản của ngân hàng bên nhập khẩu.
TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH
12
Trường hợp công ty xuất khẩu hàng hoá nhưng số tiền trên giấy báo có thấp hơn giá trị
hàng xuất khẩu thì công ty chỉ được khấu trừ hoặc hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào
tương ứng với giá trị ghi trên giấy báo có của ngân hàng.
Trường hợp ngân hàng thu phí chuyển tiền, để được kê khai khấu trừ thuế giá trị gia tăng
đầu vào tương ứng với giá trị hàng hoá xuất khẩu thì công ty yêu cầu ngân hàng lập riêng
hoá đơn thu phí chuyển tiền, đồng thời trên giấy báo có thể hiện đúng giá trị hàng hoá xuất
khẩu mà khách hàng thanh toán cho công ty.
( TBKTVN)
Danh mục phát hành Bản tin Đối thoại chính sách và DN
I. Nhóm hỗ trợ phát triển quốc tế (ISG) của bộ nông nghiệp
1. TS. Bùi Bá Bổng, Thứ trưởng Bộ NN và PTNT, Chủ tịch Ban điều hành ISG
2. TS. Lê Văn Minh, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ NN và PTNT; Phó Chủ tịch
Ban điều hành
3. Ông Lã Văn Lý, Cục trưởng Cục Hợp tác xã và PTNT, Bộ NN và PTNT
4. Ông Trang Hiếu Dũng, Vụ trưởng Kế hoạch, Bộ NN và PTNT
5. Ông Nguyễn Trí Ngọc, Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NN và PTNT
6. Ông Nguyễn Đăng Vang, Cục trưởng Cục Chăn nuôi, Bộ NN và PTNT
7. Ông Nguyễn Ngọc Bình, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, Bộ NN và PTNT
8. Ông Phạm Xuân Sử, Cục trưởng Cục Thuỷ lợi, Bộ NN và PTNT
9. Ông Vũ Trọng Hà , Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ, Bộ NN và PTNT
10. Ông Nguyễn Thanh Tùng, Cán bộ xây dựng chính sách, Văn phòng liên lạc
IFAD
11. Ông Nguyễn Văn Thân, Q.Vụ trưởng Vụ Tài chính, Bộ NN và PTNT
12. Ông Triệu Văn Hùng, Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ, Bộ NN và PTNT
13. Ông Đào Quang Thu, Vụ trưởng Vụ Kinh tế Nông nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư
ĐIỂM TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH DOANH NGHIỆP --AGROINFO--
13
14. Bà Nguyễn Hồng Yến, Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính Đối ngoại, Bộ Tài chính
II. Viện Chính sách và Chiến lược NNPTNT (IPSARD) 1. TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng IPSARD
2. TS. Nguyễn Đình Long, Viện phó IPSARD,
3. TS. Dương Ngọc Thí, Viện phó IPSARD
4. Các phòng ban/đơn vị trực thuộc IPSARD
III. Cơ quan hợp tác quốc tế Tây Ban Nha 1. Ban quản lý dự án Hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa SMEs- Tây Ban
Nha
IV. Các hiệp hội 1. Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành nghề nông thôn Việt Nam (varisme)
2. Hiệp hội DN NVV Việt Nam (vinasme)
3. Hiệp hội ngành hàng (cà phê, hồ tiêu, thủy sản, chăn nuôi, lương thực,…)
4. Hiệp hội làng nghề
V. Doanh nghiệp (đối tác thông tin của AGROINFO và các Doanh nghiệp có quan tâm) VI. Các đối tác khác có liên quan trong nội dung bản tin
14
Thư ngỏ Nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ nông nghiệp nông thôn Việt
Nam (DNVVN NNNT), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dành nhiều quan tâm cho
nghiên cứu chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực nông nghiệp và địa
bàn nông thôn. Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn là một
trong các cơ quan đang tích cực thực hiện hoạt động đó, thông qua các hoạt động nghiên
cứu, và truyền thông thông tin để hỗ trợ phát triển DNVVN NNNT.
Trung tâm Thông tin-Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT (AGROINFO/IPSARD) đang
đi tiên phong trong lĩnh vực truyền thông thông tin chính sách và chiến lược phát triển
NNNT. Tích cực hợp tác kết nối với các cơ quan nghiên cứu và cơ quan truyền thông,
AGROINFO không ngừng phát triển và khẳng định uy tín trong các hoạt động Đối thoại
Chính sách bao gồm:
Cổng thông tin phát triển doanh nghiệp www.agro.gov.vn
Tổ chức tọa đàm trao đổi với các chuyên gia tư vấn về chiến lược hàng đầu
trong nước và quốc tế
Truyền thông kết quả nghiên cứu và đối thoại chính sách
o Báo cáo tham khảo chính sách NNNT IPSARD www.ipsard.gov.vn
o Bản tin Đối thoại chính sách NNNT IPSARD
o Chuyên trang Đối thoại Chính sách, Báo Nông thôn Ngày nay, phát
hành 80.000 bản/1 số, ra hàng ngày
o Chương trình tọa đàm, diễn đàn chính sách với doanh nghiệp trên
truyền hình, truyền thanh: VTV1, InfoTV, InvestTV, VIT TV, VOV
o Bài viết phân tích và xã luận được đăng tải trên các tờ báo, tạp chí
khoa học hàng đầu trong nước
Tư vấn thông tin chính sách và thị trường nông sản Việt Nam và nước ngoài
Tổ chức sự kiện, kết nối truyền thông và nghiên cứu theo yêu cầu
.Chương trình đối thoại chính sách hướng đến mục tiêu thúc đẩy hoạt động truyền
thông và đối thoại chính sách giữa nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và các
15
chuyên gia giỏi. Với sự hỗ trợ của Cơ quan hợp tác quốc tế Tây Ban Nha (AECI), chương
trình Đối thoại chính sách được thực hiện bởi đội ngũ truyền thông thông tin chuyên
nghiệp, năng động.
Trung tâm Thông tin AGROINFO kính mong nhận được sự quan tâm và hợp tác từ
các cơ quan, cá nhân có quan tâm trên cả nước.
Trân trọng cảm ơn.
Phó giám đốc
Phạm Hoàng Ngân
Trân trọng cảm ơn sự quan tâm và theo dõi của Quý vị!
Nhã ý hợp tác xin gửi về
Lê Hương Thảo (Ms)
Trợ lý Giám đốc Truyền thông
Email: [email protected]
Điện thoại:
Phạm Linh (Ms)
Phụ trách Đối ngoại
Điện thoại
Ý kiến, bài viết đóng góp cho Nội dung Bản tin
liên hệ:
Email: [email protected]
Website : Chuyên mục Đối thoại chính sách,
www.agro.gov.vn
Điện thoại : 844 3 9725154
Người liên hệ : An Lan Anh (Ms)