siêu áp lực đối với các siêu thành phố -...

40
Siêu áp lực đối với các Siêu thành phố Xếp hạng mức độ Dễ Tổn thương về Khí hậu đối với Các thành phố lớn ven biển ở Châu Á THAILAND CAMBODIA VIETNAM SINGAPORE CHINA INDIA BANGLADESH PHILIPPINES MALAYSIA INDONESIA Calcutta Dhaka Hong Kong Shanghai Manila Jakarta Bangkok Phnom Penh Kuala Lumpur Ho Chi Minh

Upload: others

Post on 03-Sep-2019

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Siêu áp lực đối với các Siêu thành phốXếp hạng mức độ Dễ Tổn thương về Khí hậu đối với Các thành phố lớn ven biển ở Châu Á

THAILAND

CAMBODIAVIETNAM

SINGAPORE

CHINA

INDIA

BANGLADESH

PHILIPPINES

MALAYSIA

INDONESIA

Calcutta Dhaka

Hong Kong

Shanghai

Manila

Jakarta

Bangkok

PhnomPenh

KualaLumpur

Ho Chi Minh

2

Mục lục

Phần I 3 - 6 Tóm tắt

Phần II 7 - 8 Bối cảnh

Phần III 9 - 10 Phương pháp

Phần IV Bảng cho điểm các thành phố

11 - 12 Dhaka, Bangladesh

13 - 14 Jakarta, Indonesia

15 - 16 Manila, Philippines

17 - 18 Calcutta, Ấn Độ

19 - 20 Phnom Penh, Cam pu chia

21 - 22 Hồ Chí Minh, Việt Nam

23 - 24 Thượng Hải, Trung Quốc

25 - 26 Bangkok, Thái Lan

27 - 28 Hồng Kông, Trung Quốc

29 - 30 Kuala Lumpur, Malaysia

31 - 32 Singapore, Cộng Hòa Singapore

Phần V 33 - 34 Xếp hạng tính tổn thương

Phần VI 35 - 36 Các khuyến nghị chính sách

Phần VII 37 - 39 Tài liệu tham khảo

3

Tóm tắtChâu Á có thể coi là một trong những vùng bị chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu và sự dị biệt của khí hậu đã, đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến mọi mặt, từ an ninh - kinh tế quốc gia đến sức khỏe con người, sản xuất lương thực, hạ tầng, dự trữ nước và các hệ sinh thái. Bằng chứng về biến đổi khí hậu ở Châu Á ngày càng rõ rệt: nhiệt độ trung bình đã tăng từ 1°C đến 3°C trong vòng 100 năm qua, lượng mưa thay đổi, các hiện tượng thời tiết cực đoan tăng lên, và mực nước biển dâng cao hơn. Do có nhiều thành phố lớn ở Châu Á nằm cạnh bờ biển và trong khu vực đồng bằng của các con sông lớn, các thành phố này càng chịu nhiều ảnh hưởng hơn từ biến đổi khí hậu. Do đó, báo cáo này nhấn mạnh đến mức độ bị ảnh hưởng của một số thành phố như vậy - với mục tiêu nâng cao nhận thức của khu vực về tác động của biến đổi khí hậu, khởi động cho các nghiên cứu và thảo luận về chính sách, thúc đẩy các hành động bảo vệ con người và thiên nhiên trong và xung quanh các siêu thành phố của Châu Á thoát khỏi siêu áp lực trong tương lai.

Các thành phố chiếm chưa đến 1% bề mặt hành tinh chúng ta, và là ngôi nhà của khoảng 50% dân số thế giới, nhiều đô thị có xu thế tăng trưởng nhanh. Tất cả các thành phố và khu vực đô thị trên thế giới sử dụng khoảng 75% năng lượng của thế giới và chịu trách nhiệm đối với 75% khí phát thải. Nếu không có những đột phá về sử dụng hiệu quả năng lượng và giảm khí thải ở các thành phố, chúng ta sẽ không thể tránh khỏi những tác động nguy hiểm do biến đổi khí hậu mang lại ở cả khu vực đô thị và nông thôn. Các thành phố là những điểm nóng về đổi mới và công nghệ, và từ lâu đã là nơi mà nhiều giải pháp đối với các vấn đề toàn cầu được triển khai, điều này có nghĩa là các thành phố cũng có tiềm năng là những hạt nhân tiên phong trong nỗ lực toàn cầu vì một tương lai carbon thấp.

Tuy nhiên, báo cáo này tập trung vào mức độ tổn thương bởi biến đổi khí hậu và khả năng thích ứng của các thành phố. Báo cáo được chia thành bốn phần: bối cảnh, phương pháp luận, thẻ tính điểm và chính sách. Mặc dù chúng tôi tập trung làm nổi bật những ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu tới 11 thành phố chủ chốt của Châu Á, bản tóm tắt này không mang ý nghĩa hoàn toàn tiêu cực. Các thành phố được chọn trong báo cáo này đại diện cho các thành phố có diện tích rộng, phần lớn nằm ven biển và đều bị đe dọa bởi biến đổi khí hậu. Các thành phố được chọn còn bởi chúng đại diện trên một mặt cắt của vùng ven biển Châu Á và sẽ phải chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu. Chúng tôi khuyến khích các Chính phủ và các bên liên quan sử dụng báo cáo này như là chất xúc tác cho các cuộc thảo luận sâu hơn về biến đổi khí hậu trong khu vực, từ đó quyết định nên nghiên cứu thêm về vấn đề cụ thể nào, và chính sách nào phù hợp. Đối với mỗi thẻ tính điểm, chúng tôi đưa ra một hồ sơ ngắn về thành phố được lựa chọn, nhấn mạnh các biến đổi khí hậu đã được ghi nhận, tóm tắt các tác động lớn về khí hậu mà thành phố đó đang phải đối mặt, và đề xuất một số chiến lược ứng phó nhằm giảm ảnh hưởng đến thành phố. Trong nghiên cứu này, tính dễ bị tổn thương của các thành phố được xem xét như là một hàm số của tính nhạy cảm, năng lực thích ứng và hiểm họa mà các thành phố này phải đối mặt. Ba tham số này được trung bình hóa để tính điểm và xếp hạng mức độ tổn thương. Tuy nhiên, trong báo cáo

Phần I

4

này, WWF tiếp cận vấn đề tính toán mức độ tổn thương dựa trên phân tích đơn giản nhất tới mức có thể, chúng tôi luôn đánh giá cao những phân tích dựa trên những yếu tố khác để xem xét về tính dễ tổn thương cũng như những phương pháp khác để đánh giá tính dễ tổn thương.

Xếp hạng tính dễ tổn thương tổng thể Dưới đây, chúng tôi sẽ làm rõ thang điểm dùng để tính mức độ dễ tổn thương và xếp hạng chúng. Tuy nhiên, bên cạnh việc xếp hạng tổng thể trong đó có xem xét tất cả các tiêu chí đã được đánh giá, báo cáo này cũng tóm tắt một số các so sánh khác như thành phố nào phải chịu nhiều rủi ro về môi trường nhất, thành phố nào nhạy cảm về mặt kinh tế xã hội nhất trước các tác động của thay đổi khí hậu và thành phố nào có năng lực ứng phó thấp nhất. Chúng tôi cũng đưa ra một bảng tóm tắt về tính dễ tổn thương để góp phần minh họa về phương pháp so sánh giữa các thành phố khác nhau trong khu vực.

Báo cáo tóm tắt này cho thấy trong số 11 thành phố được kiểm tra, Dhaka của Bangladesh là thành phố dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu. Thành phố Dhaka rộng lớn và khá nghèo này có cao trình rất thấp, chỉ cao hơn mực nước biển hiện tại có vài mét, nơi đây thường xuyên bị ảnh hưởng của bão nhiệt đới và lũ lụt trong khi năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu lại rất hạn chế. Thành phố Jakarta của Indonesia và Manila của Philippines cũng có tính tổn thương cao và được xếp thứ hai, lý do chính là vì quy mô lớn, mức độ phải hứng chịu rủi ro cao (cả hai thành phố này đã phải hứng chịu tình trạng lụt lội khá thường xuyên) và khả năng ứng phó biến đổi khí hậu khá thấp. Đứng thứ 3 về mức độ dễ bị tổn thương là Calcutta của Ấn Độ và Phnom Pênh của Campuchia, nguyên do chính là vì Calcutta rất dễ bị xâm nhập mặn và chịu hậu quả của mực nước biển dâng cao; còn Phnom Pênh thì năng lực ứng phó biến đổi khí hậu lại rất thấp. Thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam và Thượng Hải của Trung Quốc đứng hàng thứ 4 trong danh sách các thành phố dễ dễ bị tổn thương nhất bởi vì cả hai thành phố này rất dễ bị ảnh hưởng của mực nước biển dâng cao; mặc dù vậy thì Việt Nam và Trung Quốc có thể có năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu cao hơn một chút khi so sánh với các thành phố khác. Bangkok của Thái Lan đứng thứ 5 trong danh sách trong danh sách các thành phố dễ bị tổn thương nhất vì về cơ bản thành phố này khá nhạy cảm kinh tế xã hội trước các tác động của biến đổi khí hậu (cụ thể là thành phố này đông dân cư và có đóng góp một phần rất quan trọng cho tổng sản phẩm quốc dân của Thái Lan). Kuala Lumpur của Malaysia, Hồng Kông của Trung Quốc và Singapore đứng hàng thứ 6 về mức độ dễ bị tổn thương. Mặc dù các quốc gia này có khả năng ứng phó biến đổi khí hậu cao hơn các quốc gia khác, nhưng tác động do biến đổi khí hậu đưa đến vẫn rất lớn.

Rủi ro: So sánh hiểm họa trước tác động của biến đổi khí hậu Tất cả các thành phố được xem xét sẽ phải hứng chịu những tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, tuy vậy khi xem xét một số tác động như bão nhiệt đới, mực nước biển dâng, lũ lụt và hạn hán, nghiên cứu này đã chỉ ra rằng một số thành phố có thể phải hứng chịu các hiểm họa thường xuyên hơn và ở cường độ cao hơn so với các thành phố khác. Trong báo cáo này, hiểm họa được tính là trung bình của 3 yếu tố môi trường: (a) sự dễ dàng bị tác động của một thành phố

Phần I

Tính dễ tổn thương tổng thể

9 8 8 7 7 6 6 5 4 4 4Dhaka Jakarta Manila Calcutta Phnom Pênh Hồ Chí Minh Thượng Hải Bangkok Hồng Kong KL Singapore

1. Hiểm họa

8 6 9 6 4 8 8 5 7 3 4Dhaka Jakarta Manila Calcutta Phnom Pênh Hồ Chí Minh Thượng Hải Bangkok Hồng Kong KL Singapore

5

khi nước biển dâng cao 1 m và 2 m khi có bão (như được minh họa trong hình ảnh ở cuối mỗi chương về các thành phố được nghiên cứu), (b) tần suất của các sự kiện thời tiết cực đoan như lũ lụt và hạn hán và (c) tần suất của các cơn bão nhiệt đới và mực nước dâng lên do bão. Khi chỉ xem xét hiểm họa do các yếu tố này, chúng tôi nhận ra một bức tranh có sự khác biệt nhỏ so với xếp hạng tính tổn thương tổng thể. Thành phố Manila, do chịu nhiều hiểm họa của các cơn bão nhiệt đới và lụt lội, có mức độ dễ bị tổn thương cao nhất do hiểm họa mà nó có thể phải gánh chịu là lớn nhất. Cơn bão nhiệt đới Ketsana gần đây là một minh chứng cho thấy hiểm họa này mà Manila và vùng phụ cận đã phải hứng chịu. Với mực nước ngập dâng cao gần 7 m và hàng trăm người thiệt mạng do một tác động của biến đổi khí hậu gây ra làm cho chúng ta hiểu rằng Manila thực sự rất dễ bị tổn thương. Dhaka, thành phố Hồ Chí Minh và Thượng Hải được xếp hạng thứ hai về mức độ phải gánh chịu hiểm họa do tác động của biến đổi khí hậu gây ra; nguyên nhân chủ yếu là sự dễ dàng bị tác động bởi ngập lụt và các cơn bão nhiệt đới. Hồng Kong được xếp hàng thứ 3, tuy nhiên Hồng Kong có năng lực ứng phó khá cao, và vì vậy nhìn tổng thể thì tính dễ bị tổn thương thấp hơn. Calcutta và Jakarta xếp thứ 4 trong bảng xếp hạng và thành phố Bangkok đứng hàng thứ 5. Phnom Pênh, Singapore và Kuala Lumpur đứng cuối trong bảng xếp hạng về hiểm họa môi trường, nhưng điều này cũng không có nghĩa là các thành phố này không gặp rủi ro trước các tác động của biến đổi khí hậu. Tất cả các thành phố được kiểm tra đều đứng trước những đe dọa đáng kể như thiệt hại tính mạng con người, tài sản; tình hình này còn diễn biến xấu hơn trong tương lai.

Xếp hạng theo tính nhạy cảm: Tài sản và tổng thu nhập quốc nội bị đe dọa

Tính nhạy cảm tương đối của 11 thành phố được lựa chọn đối với tác động của biến đổi khí hậu dựa trên số dân, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và mức độ quan trọng tương đối của các thành phố này tới nên kinh tế quốc gia. Trên nền những tiêu chí đó, thành phố Jakarta có mức độ nhạy cảm cao nhất đối với tác động của biến đổi khí hậu. Nguyên nhân chính vì Jarkata là một thành phố đông dân và có đóng góp khổng lồ vào GDP của Indonesia. Thành phố nhạy cảm thứ hai là Thượng Hải của Trung Quốc với lý do tương tự như Jakarta. Dhaka đứng hàng thứ 3, thứ 4 về độ nhạy cảm gồm các thành phố Calcutta, Manila và Bangkok. Phnom Penh, Hong Kong; thành phố Hồ Chí Minh đứng hàng thứ 5, Kuala Lumpur xếp hàng thứ 6 trong các thành phố nhạy cảm nhất với tác động của biến đổi khí hậu.

Chuẩn bị đối mặt với bão tố: So sánh năng lực ứng phó

Chúng tôi ước tính năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu của 11 thành phố dựa trên phương pháp tính sự sẵn sàng của các thành phố trong triển khai các chiến lược ứng phó (được tính toán trên số các ví dụ ứng phó sẵn có và những phản ứng đối với các tác động đã xảy ra trước đây) và thu nhập theo đầu người. Cũng cần phải chú ý rằng có thể có một số lượng đáng kể các ví dụ về giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu không được xem xét do chưa có tư liệu. Ví dụ, ở đâu đó, con người đã đề ra các giải pháp ứng phó của riêng họ. Tuy nhiên, thông tin đại chúng, Internet và các bài báo khoa học lại không có khả năng tiếp cận được với những thông tin đó. Về cơ bản, những ước tính cho 11 thành phố được

Phần I

2. Nhạy cảm

8 10 7 7 6 6 9 7 6 5 6Dhaka Jakarta Manila Calcutta Phnom Pênh Hồ Chí Minh Thượng Hải Bangkok Hồng Kong KL Singapore

3. Năng lực ứng phó

10 7 7 7 10 3 2 4 1 3 1Dhaka Jakarta Manila Calcutta Phnom Pênh Hồ Chí Minh Thượng Hải Bangkok Hồng Kong KL Singapore

6

Phần I

tính toán dựa trên các thông tin sẵn có. Để đảm bảo tính đồng bộ, chúng tôi đã nghịch đảo các con số về năng lực ứng phó sao cho năng lực ứng phó thấp sẽ tương ứng với một con số lớn (ví dụ, số 10 sẽ tương đương với một năng lực ứng phó rất thấp). Dhaka và Phnom Penh đứng đầu trong bảng xếp hạng vì có năng lực ứng phó thấp nhất. Điều này không có gì ngạc nhiên bởi Bangladesh và Campuchia được Liên hiệp quốc xếp vào hạng các quốc gia kém phát triển nhất. Calcutta, Jakarta và Manila có mực độ ứng phó kém thứ hai, tiếp theo là Bangkok, Kuala Lumpur và thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Thượng Hải có năng lực ứng phó cao thứ hai. Hồng Kong và Singapore có năng lực cao nhất trong số 11 thành phố được nghiên cứu.

Các khuyến nghị về chính sách: Các siêu thành phố sẽ ứng phó thế nào với những siêu tác động Dù rằng đánh giá một hay cả ba hợp phần của tính dễ tổn thương đi chăng nữa thì rõ ràng là biến đổi khí hậu sẽ tác động đến các thành phố của châu Á theo nhiều cách khác nhau. Các thông tin khoa học được Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) và một số cơ quan khác đưa ra phân tích ở mức độ chi tiết hơn rất nhiều so với những hiểu biết trước đây. Báo cáo này chỉ ra rằng các thành phố được nghiên cứu nằm trong vùng nguy hiểm trước các tác động của biến đổi khí hậu. Các thành phố này phải rất khẩn trương để hành động một cách quyết liệt nhằm phòng tránh các ngưỡng nguy hiểm của sự ấm lên toàn cầu và góp phần giới hạn nhiệt độ tăng dưới 20C so với nhiệt độ thời kì trước cách mạng công nghiệp. Nếu tiếp tục để cho biến đổi khí hậu diễn biến không có kiểm soát, nó sẽ đe dọa tính mạng của nhiều người và tài sản trong tương lai. Tuy nhiên nếu chúng ta hành động ngay bây giờ, chúng ta có thể phòng tránh được những tác động xấu nhất. Chi phí phải trả cho phòng ngừa những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu có thể chỉ giới hạn trong 1% GDP của toàn cầu / năm, trong khi đó cái giá của việc không hành động ngay sẽ chiếm từ 5% tới 20% GDP của toàn cầu / năm. Để có trên 50% cơ hội thành công cho việc giới hạn sự gia tăng nhiệt độ trên thế giới trong ngưỡng 20C, đòi hỏi lượng khí phát thải trên toàn cầu đạt đỉnh trước năm 2015 và giảm dần ttừ 80% đến 90% của mức năm 1990 vào năm 2050. Chính vì vậy WWF kêu gọi các quốc gia phát triển cắt giảm lượng khí phát thải của họ xuống ít nhất 40% vào năm 2020 và xuống 95% vào năm 2050 so với mức của năm 1990. Để giữ nhiệt độ của trái đất tăng dưới 20C thì hệ thống năng lượng phải được thay đổi về cơ bản và các giải pháp thích ứng phải được bắt đầu ngay lập tức. Có thể nói đây là một thách thức chính trị, đòi hỏi hệ thống ra chính sách phải hành động ngay mới có thể làm nên những thay đổi cần thiết. Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp và khoa học cần tập trung nỗ lực để giữ cho nhiệt độ trái đất tăng dưới 20C, báo cáo này sẽ đưa ra một số ví dụ về hành động ứng phó biến đổi khí hậu cấp địa phương và cấp vùng cũng như những nỗ lực của địa phương, của vùng hỗ trợ cho ứng phó và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. WWF hy vọng rằng báo cáo này sẽ là xuất phát điểm cho các hành động trong tương lai.

7

Bối cảnh

Không còn nghi ngờ gì nữa, biến đổi khí hậu là mối đe dọa lớn nhất có quy mô toàn cầu đối với sự phát triển bền vững và quản lý tài nguyên mà chúng ta đang phải đối mặt. Hiện nay nồng độ khí các bô nic (CO2) trong không khí là cao nhất trong vòng 800.000 năm qua. Lượng khí các bô nic này chủ yếu xuất phát từ các hoạt động của con người như đốt nguyên liệu hóa thạch và thay đổi sử dụng đất. Kể từ đầu thế kỷ 20, nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng lên khoảng 0,70C. Thật không may mắn, nếu như chúng ta dừng tất cả hoạt động phát thải khí CO2 ngay lập tức thì nhiệt độ trái đất vẫn tăng ít nhất là 0.60C do lượng khí CO2 chúng ta đã phát thải vào không khí gây nên và phản ứng không đảo ngược của hệ thống khí hậu. Như một hậu quả tất yếu, chúng ta bị bẫy trong một kịch bản là nhiệt độ sẽ tăng lên khoảng 1,30C và chúng ta không làm gì được nhiều để cải thiện kịch bản này. Do đó, điều quan trọng và sống còn cho toàn bộ các quốc gia và các nền văn hóa là chúng ta phải giữ cho nhiệt độ tăng càng thấp hơn mức ngưỡng 20C càng tốt.

Hai năm sau khi Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu công bố báo cáo tổng hợp về biến đổi khí hậu, các nghiên cứu đã cho thấy các kịch bản khí hậu xấu nhất đang ngày càng trở thành hiện thực; thế giới ngày càng cảm nhận rõ ràng hơn về tác động của nó gây ra. Báo cáo tổng hợp gần đây thậm chí đã chỉ ra rằng một số vùng trên thế giới có thể phải đối mặt với những thay đổi không thể đảo ngược được về mặt sinh học và vật lý do biến đổi khí hậu đưa đến.

Châu Á sẽ đặc biệt dễ bị tổn thương Châu Á là nơi đông dân cư nhất và sẽ là một lục địa dễ bị tổn thương nhất trên thế giới bởi nó đang đứng trước rủi ro cao do tác động của biến đổi khí hậu trong khi năng lực ứng phó khá thấp. Biến đổi khí hậu và các dị biệt khí hậu ở châu Á sẽ tiếp tục ảnh hưởng tới nhiều ngành, nhiều quốc gia và tới an ninh kinh tế cho con người, tới sản lượng lương thực, cơ sở hạ tầng, dự trữ nước ngọt và các hệ sinh thái.

Bằng chứng của biến đổi khí hậu ở châu Á đã hiện hữu ở nhiều vùng: nhiệt độ ở Châu Á đã tăng lên từ 1 tới 30C trong thế kỷ qua, sự nóng lên ở châu Á chủ yếu thể hiện ở vùng phía bắc. Chế độ mưa cũng thay đổi, các hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng và mực nước biển dâng cao.

Tác động đang hiện hữu và đang diễn ra, thách thức lớn hơn đang ở phía trước Thật không may là con người dường như chưa nhận thức đầy đủ hoàn toàn quy mô của biến đổi khí hậu. Dự báo thay đổi khí hậu đã chỉ ra rằng nhiệt độ sẽ tiếp tục tăng cao, chế độ mưa sẽ ngày càng diễn biến phức tạp, các sự kiện thời tiết cực đoan như mưa bão, hạn hán, bão nhiệt đới sẽ tăng lên về cả tần suất lẫn cường độ; mực nước biển sẽ tiếp tục tăng cao. Một số các tác động này sẽ diễn ra bất thình lình và chúng có thể sẽ làm biến đổi nơi cư trú và hình thức cư trú của con người một cách mạnh mẽ.

Thực tế thì biến đổi khí hậu có khả năng biến một số vùng đất mầu mỡ nhất trên trái đất thành nơi có khả năng canh tác thấp và phải hứng chịu những tác động không thể đảo ngược được; trong đó một số tác động mang tính then chốt có thể xuất hiện trong thế kỉ này (ví dụ mưa mùa mùa hè ở Ấn Độ có thể biến mất). Những thay đổi khác như dịch chuyển các vùng khí hậu, ví dụ vùng nhiệt đới và bán khô hạn; hiện tượng axit hóa đại dương đe dọa tới các động vật tổng hợp can xi như san hô, ảnh hưởng tới nghề cá và khả năng cung cấp thực phẩm cho một phần lớn nhân loại. Chất lượng và nguồn dự trữ nước ngọt cũng sẽ thay đổi, các dòng sông mà lượng nước cấp cho chúng được bắt nguồn từ những núi băng khổng lồ sẽ dần cạn kiệt. Tình trạng lại trở nên xấu hơn khi chế độ mưa thay đổi, làm ảnh hưởng tới sản lượng lương thực và có thể biến những vùng đất bán khô hạn, năng suất thấp thành nơi không thể canh tác được.

Các vùng duyên hải và đồng bằng châu thổ đặc biệt bị đe dọa

Cư dân vùng ven biển là những người đang đứng trước rủi ro cao nhất vì mực nước biển dâng, cộng thêm gia tăng lụt lội và xâm nhập mặn (xem hình 1). Thêm vào đó, phần lớn châu Á đang phải hứng chịu hiện tượng sụt lún kiến tạo địa chất (sự chìm xuống của lục địa châu Á) do khai thác nước ngầm quá mức, hoạt động của địa tầng và dịch chuyển tự nhiên của thềm lục địa. Xói mòn vùng ven biển, trong bối cảnh mực nước biển dâng, đe dọa mạnh hơn những vùng đất dễ bị tổn thương và cả những đồng bằng châu thổ. Trên thực tế, một số thành phố lớn nhất ở châu Á, như những siêu thành phố được phân tích trong báo cáo này, được xây dựng trên những đồng bằng châu thổ như vậy và hậu quả là đang phải hứng chịu nhiều rủi ro lớn do biến đổi khí hậu đưa đến.

Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu và các cơ quan khác đã nêu rõ là những đồng bằng châu thổ rộng lớn trên thế giới đều là những khu vực dễ bị tổn thương nhất trước những tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt là mực nước biển

Phần II

8

dâng, thay đổi dòng chảy lục địa; sức ép từ con người trong việc biến đổi dòng chảy và sử dụng đất vùng đồng bằng. Do phải hứng chịu tổ hợp các sức ép này mà phần lớn đồng bằng châu thổ của châu Á đang phải đối diện với sự gia tăng mực biển dâng với tốc độ cao hơn trung bình của thế giới. Thêm vào đó, rất nhiều vùng đồng bằng châu thổ ngày càng được bồi đắp ít hơn do hệ thống đập ở thượng nguồn đã giữ lại lượng cung cấp trầm tích mà lẽ ra đã được bồi đắp cho vùng duyên hải. Rất nhiều vùng đồng bằng rộng lớn và một phần lớn dân cư đang bị ảnh hưởng bởi những tác động này, đặc biệt là ở châu Á.

Đứng trước một thực tế như vậy, việc phân tích các tác động của biến đổi khí hậu cho các thành phố châu Á cũng như thiết lập khung giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu trở thành một nhu cầu cấp thiết hơn. Để góp phần giải quyết vấn đề nêu trên, WWF đưa ra báo cáo này dựa trên những nghiên cứu về khí hậu có sẵn do Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu và các cơ quan khác tiến hành.

Các thành phố lớn: Phần chính của vấn đề, chìa khóa cho giải pháp Việc xem xét các thành phố chính trong bối cảnh biến đổi khí hậu không chỉ có lý do chính đáng trên phương diện con người và tài sản gặp rủi ro mà còn có ý nghĩa trên phương diện các giải pháp ứng phó cần thiết. Rất nhiều thành phố sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết vấn đề biến khí hậu, vì nó vừa là tác nhân gây ra vấn đề và cũng là nhân tố giải quyết vấn đề. Các thành phố chỉ chiếm ít hơn 1% diện tích trên bề mặt hành tinh, vậy mà đó lại là hơn cư trú của hơn 50% dân số của hành tinh. Các thành phố này có trách nhiệm rất lớn trong gây nên biến đổi khí hậu: cộng tất cả lại, các thành phố trên thế giới tiêu thụ 75% năng lượng của thế giới và đã thải ra 75% tổng lượng khí thải CO2 trên thế giới.

Nếu không có đột phá để tăng hiệu quả sử dụng năng lượng và giảm phát thải ở các thành phố, chúng ta sẽ thất bại trong ứng phó với biến đổi khí hậu. Các thành phố vẫn luôn là điểm nóng về phát minh, sáng tạo và khoa học công nghệ, vì vậy từ xưa tới nay, thành phố vẫn là nơi đề ra các giải pháp để giải quyết các vấn đề của thế giới; như thế thành phố phải là các nhà lãnh đạo dẫn dắt thế giới tới một tương lai mà ở đó phát thải CO2 thấp. Điều này cũng đúng đối với một số thành phố của châu Á được đề cập tới trong báo cáo này, những thành phố này đang làm việc chặt chẽ cùng các thành phố khác trên thế giới để tìm ra giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu qua việc hợp tác với nhau.

Giành nỗ lực lớn chống biến đổi khí hậu: Các thành phố lớn của châu Á đang hành động Bangkok, Dhaka, Hồng Kong, Jakarta và Thượng Hải đã tham gia vào nhóm C40, một mạng lưới các thành phố chính trên thế giới hợp tác chống biến đổi khí hậu. Nhấn mạnh tầm quan trọng của các thành phố khi xây dựng và thực thi các giải pháp về khí hậu, thị trưởng của các thành phố này đã thúc giục chính phủ các quốc gia trao cho họ nhiều quyền quyết định hơn để xây dựng một tương lai ít các-bon hơn. Họ mong muốn Tổng thống các quốc gia, những người có quyền lực quyết định, hỗ trợ họ trong việc cắt giảm khí thải nhà kính. Nhóm C40 cũng thúc dục chính phủ trao quyền và trang bị cho lãnh đạo các thành phố đủ quyền lực và nguồn lực cần thiết để hành động trong phạm vi thành phố của họ.

Phần II

Hình 1. Biến đổi khí hậu và hệ thống ven biển, một số yếu tố tác động,

bao gồm yếu tố nguồn gốc biển và nguồn gốc lục địa. Nguồn: Ban liên

chính phủ về biển đổi khí hậu (IPCC 2007)

Tác động của yếu tố biển

Tác động của yếu tố lục địa

Tiểu hệ thống tự nhiên

Tiểu hệ thống xã hội

Hệ thống ven biển

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬUBão Sóng biển Mực nước biển Nhiệt Độ Khí Các bô nic (CO2) Dòng chảy từ lục địa

9

Rất nhiều thành phố được đề cập đến trong báo cáo này cũng đã có nhiều nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu trong Giờ trái đất, một sự kiện toàn cầu do WWF tổ chức vào ngày 28 tháng 3 năm 2009, sự kiện mà chúng ta đã thấy hàng trăm triệu người và khoảng 4000 thành phố của 88 quốc gia, cũng như 20.000 công ty và 1000 những biểu tượng lớn của thế giới tắt đèn trong vòng 1 giờ đồng hồ để kêu gọi cho một hiệp định đầy tham vọng và công bằng về khí hậu. Ví dụ ở Thái Lan, ngài thủ tướng nước này đã tự tay tắt đèn khi những biểu tượng nổi tiếng của đất nước như Grand Palace và Đền bình minh (temper of Dawn) tắt điện. Ở Hồng Kong hầu hết các tòa nhà chọc trời đều tắt điện. Jakarta cũng tắt điện tại những địa điểm nổi tiếng như bảo tàng quốc gia, trong khi thành phố Thượng Hải tắt đèn ở tháp Oriental Pearl. Ở Kuala Lumpur, rất nhiều các nghệ sĩ nổi tiếng chứng kiến tháp đôi nổi tiếng tắt đèn. Hàng loạt các hoạt động tương tự cũng được thực hiện tại Manila, Singapore, thành phố Hồ Chí Minh và rất nhiều địa điểm khác ở châu Á và trên thế giới, làm cho Giờ Trái đất trở thành một cuộc biểu dương lực lượng lớn nhất trên thế giới về chống biến đổi khí hậu.

Phương phápBáo cáo này nhấn mạnh những tác động chính của biến đổi khí hậu lên các siêu thành phố của châu Á bao gồm thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam, Bangkok của Thái Lan, Phnom Pênh của Campuchia, Thượng Hải và Hồng Kong của Trung Quốc, Dhaka của Bangladesh,

Calcutta của Ấn Độ, Jakarta của Indonesia, Manila của Philippines, Kuala Lumpur của Malaysia, Singapore của Cộng hòa Singapore. Báo cáo này cũng cố gắng nhận dạng một số lựa chọn ứng phó biến đổi khí hậu ngắn hạn khả thi nhất và kinh tế nhất, đồng thời báo cáo cũng đưa ra những khuyến nghị mang tính xây dựng về mặt chính sách.

Báo cáo này được xây dựng dựa trên thông tin từ các nghiên cứu và phân tích hiện có. Thông tin được dùng để biên soạn lấy từ các báo cáo mới nhất của Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu, đặc biệt là “Nhóm làm việc I: Cơ sở khoa học vật lý” và “Nhóm làm việc II: Tác động, ứng phó và tính tổn thương”. Báo cáo này cũng sử dụng nhiều thông tin từ báo cáo gần đây nhất của Anshory và Franciso (2009) về “Bản đồ hóa tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu cho vùng Đông Nam Á”. Báo cáo của Anshory và Francisco đã cung cấp nền tảng về đánh giá tính dễ bị tổn thương và rất nhiều số liệu môi trường cũng như kinh tế xã hội.

Báo cáo này chia đánh giá tính dễ bị tổn thương thành các hồ sơ ngắn cho các thành phố, cung cấp tóm tắt ngắn gọn về điều kiện của địa phương cho từng thành phố (cụ thể là hồ sơ thành phố và bằng chứng của biến đổi khí hậu), những tác động chính của biến đổi khí hậu (bao gồm nhưng không chỉ giới hạn ở mực nước biển dâng, lũ lụt, hạn hán, bão nhiệt đới và nước dâng do bão), và cuối cùng là một phần về những lựa chọn tiềm năng cho ứng phó biến đổi khí hậu.

Tóm lại báo cáo này cố gắng tổng hợp và phân tích tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu của một số siêu thành phố quan trọng (mega-cities) ở châu Á. Trong đánh giá xếp hạng tính dễ bị tổn thương và cho điểm về môi trường và xã hội, từng thành phố có tổng điểm là 60 (10 điểm tối đa cho một trong 6 loại). Số liệu thô đã được chuẩn hóa trong thang điểm từ 0 đến 10 để cho phép so sánh giữa các tập hợp số liệu và thành phố khác nhau. Lý do của việc sử dụng hàng loạt các tiêu chí vì tính dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu là một hàm số của không chỉ những thay đổi mang tính vật lý của khí hậu

mà còn có các yếu tố kinh tế xã hội, bao gồm dân số của một thành phố, tài sản bị đe dọa, năng lực ứng phó và các chi phí.

Thông tin từ các bài báo khoa học được sử dụng để đánh giá hàng loạt các tác động và năng lực ứng phó bất cứ khi nào có thể. Tuy nhiên do hiểu biết về thay đổi khí hậu là khá mới và biến đổi khí hậu có tác động lên hàng loạt các ngành khác nhau, nên rất nhiều báo cáo và thông tin dường như chưa được xuất bản tại các tạp chí khoa học hoặc bằng các phương tiện thông tin truyền thống. Các đồng nghiệp tại các quốc gia khác nhau cũng được huy động để cung cấp càng nhiều thông tin càng tốt tuy nhiên việc thu thập thông tin và số liệu cho báo cáo này có thể vẫn bị hạn chế do thông

Phần III

Các tác động được đánh giá trong báo cáo này:

• Thay đổi nhiệt độ

• Thay đổi lượng mưa

• Tăng mực nước biển dâng

• Các sự kiện thời tiết cực đoan (lụt lội, hạn hán,

bão nhiệt đới, sóng và nước dâng do bão)

Các tiêu chí so sánh cho từng thành phố

HIểM HọA MôI TRườNG

• Đe dọa từ bão (bão nhiệt đới, sóng và nước dâng

do bão)

• Mực nước biển dâng và sụt lún kiến tạo

• Nước (Lũ lụt / hạn hán)

Tính nhạy cảm về kinh tế xã hội

• Số lượng dân của một thành phố

• Sự giàu có (tổng sản phẩm của một thành phố)

• Đóng góp cho tổng sản phẩm quốc dân

Năng lực ứng phó

• Các ví dụ ứng phó biến đổi khí hậu

• Thu nhập đầu người

10

tin chưa được biên tập và chưa được lưu truyền rộng rãi. Thông tin cung cấp trong báo cáo này chưa phải là tổng kết toàn diện, mà chỉ tóm tắt một số ảnh hưởng quan trọng và phổ biến có nguy cơ diễn biến xấu đi trong tương lai nếu khí phát thải tiếp tục gia tăng.

Trong nghiên cứu này, tính dễ bị tổn thương của các thành phố được xem xét như là một hàm số của tính nhạy cảm, năng lực thích ứng và hiểm họa mà các thành phố này phải đối mặt. Hiểm họa được tính bằng trung bình của 3 loại tác nhân môi trường bao gồm sự dễ dàng bị tác động của thành phố khi nước biển dâng cao 1 m, tần suất của các sự kiện thời tiết cực đoan như lũ lụt, hạn hán; tần suất của các cơn bão nhiệt đới và nước dâng do bão. Mức độ nhạy cảm được tính dựa trên dân số, GDP và tầm quan trọng tương đối của thành phố đó đối với nền kinh tế quốc dân. Khả năng ứng phó được tính bằng việc xem xét tính sẵn sàng tổng thể của một thành phố để thực hiện các chiến lược ứng phó với mực nước biển dâng (tính toán dựa trên những ví dụ đã có sẵn về ứng phó với biến đổi khí hậu hoặc những phản ứng với tác động đã xảy ra trong quá khứ) và thu nhập theo đầu người. Cũng cần phải chú ý rằng có thể có một số lượng đáng kể các ví dụ về giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu không được xem xét do chưa có tư liệu. Ví dụ, ở đâu đó, con người đã đề ra các giải pháp ứng phó của riêng họ. Tuy nhiên, thông tin đại chúng, Internet và các bài báo khoa học lại không có khả năng tiếp cận được với những thông tin đó. Về cơ bản, những ước tính cho 11 thành phố được tính toán dựa trên những thông tin sẵn có. Để đảm bảo tính đồng bộ, chúng tôi đã nghịch đảo các con số về năng lực ứng phó sao cho năng lực ứng phó thấp sẽ tương ứng với một con số lớn (ví dụ, số 10 sẽ tương đương với một năng lực ứng phó rất thấp).

Ngoài xếp hạng tính dễ bị tổn thương tổng thể trong đó có đánh giá tất cả các tiêu chí, báo cáo này cũng tóm tắt một số những so sánh khác như thành phố nào sẽ gặp nhiều rủi ro nhất trước những đe dọa về môi trường, thành phố nào có mức độ nhạy cảm kinh tế xã hội cao nhất với các tác động của biến đổi khí hậu và thành phố nào có năng lực ứng phó biến đổi khí hậu thấp nhất. Cũng cần phải chú ý rằng WWF tiếp cận vấn đề để tính toán mức độ dễ tổn thương dựa trên phân tích đơn giản nhất tới mức có thể, chúng tôi luôn đánh giá cao những phân tích dựa trên những yếu tố khác để xem xét về tính rủi ro cũng như những phương pháp khác để đánh giá rủi ro, chúng tôi cũng hy vọng rằng báo cáo này sẽ là một xuất phát điểm cho những thảo luận sâu hơn về tác động của biến đổi khí hậu, tính nhạy cảm, ứng phó biến đổi khí hậu, những chính sách và giải pháp phù hợp để phản ứng lại với đe dọa từ biến đổi khí hậu.

Phần III

Trong báo cáo này, chúng tôi sử dụng một số định nghĩa quan trọng theo Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC):Ứng phóLà một sự thay đổi, điều chỉnh của hệ thống tự nhiên hoặc xã hội để phản ứng trước các tác động của biến đổi khí hậu đang hiện hữu hoặc được dự báo sẽ xảy ra nhằm làm giảm những tác hại hoặc để tận dụng, biến đổi nó thành các lợi ích kinh tế. Có rất nhiều loại ứng phó khác nhau như ứng phó mang tính chuẩn bị; ứng phó mang tính tự phát và ứng phó có kế hoạch.

Ứng phó mang tính chuẩn bị Là ứng phó được thực hiện trước khi các tác động của biến đổi khí hậu xảy ra. Đây cũng được xem là ứng phó tích cực

Ứng phó tự phátLà ứng phó xuất phát trên cơ sở không có hiểu biết đầy đủ về các kích thích khí hậu mà được khởi nguồn từ những thay đổi sinh thái, trong hệ thống tự nhiên, thay đổi trên thị trường và phúc lợi xã hội trong hệ thống xã hội.

Ứng phó có kế hoạch Là loại ứng phó được phân tích và lập ra một cách tinh vi, khoa học dựa trên những hiểu biết về điều kiện thay đổi hoặc sẽ thay đổi và các hành động cần thiết để đưa về, duy trì hay để đạt đến một trạng thái mong muốn.

Năng lực ứng phóLà khả năng của một hệ thống để điều chỉnh trước biến đổi khí hậu (các dị biệt về khí hậu và các hiện tượng khí hậu cực

11

Dhaka, Bangladesh

Hồ sơ thành phốDhaka là thủ đô và trung tâm chính trị, văn hóa và kinh tế của Bangladesh. Với dân số trên 13 triệu người, đây cũng là thành phố lớn nhất thế giới ở Đông Nam Á. Trên thực tế, Dhaka được xếp là trung tâm đô thị lớn thứ 9 trên thế giới, do mật độ dân số rất cao, và tốc độ gia tăng dân số nhanh nhất ở Châu Á. Dân số của Dhaka ước tính là 25 triệu người đến năm 2050. Dhaka nằm trên bờ sông Buriganga hay còn gọi là “sông Hằng cổ” trong khu vực đồng bằng cực kỳ rộng lớn Ganges-Brahmaputra. Trung tâm thành phố có diện tích 154 km2, tuy nhiên quận Dhaka có diện tích gần 1500 km2.

Dhaka thực sự là một thành phố quốc tế và trung tâm của các ảnh hưởng văn hóa Ba Tư-Ả Rập và văn hóa phương Tây trong tiểu lục địa Đông Ấn. Với dân số tăng rất nhanh, Dhaka gặp phải nhiều vấn đề nghiêm trọng về tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm và dịch vụ công cộng với chất lượng còn thấp, làm giảm năng lực ứng phó vốn đã rất thấp của thành phố này. Nghèo đói còn nặng nề ở Dhaka. Thu nhập hàng năm trên một người dân ước tính là 500 USD, với 48% hộ gia đình sống dưới mức nghèo khó. Nhiều người từ nông thôn đi tìm việc làm và sống qua ngày với chưa đến 10$ một ngày. Vì vậy, thành phố gặp nhiều vấn đề về rác thải rắn và do đó có tỉ lệ người chết vì các bệnh truyền nhiễm cao hơn bất kỳ thành phố nào của châu Á. Tuy nhiên, thành phố này thu hút ngày càng nhiều người, đầu tư nước ngoài lớn, và thương mại ngày càng phát triển. Dhaka có hạ tầng cơ sở phát triển nhất Bangladesh và gần đây đã hiện đại hóa giao thông, truyền thông và công trình công cộng.

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Bangladesh năm 2008 là khoảng 82 tỷ USD và GDP đang tăng lên khoảng 4 đến 6%. Chỉ số sức mua tương đương (PPP) là khoảng 224 tỷ USD (2008) và GDP trên mỗi người dân là khoảng 1.500 USD năm 2008. Ngành dịch vụ chiếm khoảng 52% tổng GDP và là ngành kinh tế lớn nhất. Ngành công nghiệp chiếm 29% GDP, trong khi nông nghiệp

chiếm khoảng 19% (2008). Bangladesh xuất khẩu số lượng lao động lớn tới nhiều khu vực trên thế giới, bao gồm Ả rập Xê-út, Cô-oét, Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất (UAE), Oman, Qatar và Malaysia. Tiền gửi về của người đi xuất khẩu lao động ước tính khoảng 4,8 tỷ USD trong năm 2005-6.

Dhaka có đặc điểm khí hậu nóng ẩm nhiệt đới. Thành phố này có khí hậu gió mùa với nhiệt độ trung bình dao động từ 18°C trong tháng 1 đến 29°C trong tháng 8. Đại đa phần mưa diễn ra giữa tháng 5 và tháng 9, với lượng mưa trung bình là 1.800 mm mỗi năm.

Bằng chứng biến đổi khí hậuIPCC nhấn mạnh Bangladesh đang ấm dần lên với nhiệt độ có xu thế tăng khoảng 1°C trong tháng 5 và 0.5°C trong tháng 11 suốt giai đoạn 14 năm từ 1985 đến 1998. Lượng mưa trung bình cũng tăng, lượng mưa bất thường trong thập kỷ qua cao hơn lượng mưa trung bình trong thời gian dài từ những năm 1960.

Tác độngMực nước biển dâng, triều cường, và lũ lụt là những mối đe dọa lớn nhất đối với Dhaka, thành phố này xếp hạng 8/10 về hiểm họa môi trường. ước tính mực nước biển dâng khoảng 1 m. Bangladesh sẽ mất khoảng 1.000 km2 đất canh tác và nhiều khu vực nuôi trồng thủy sản. Bangladesh và Dhaka chỉ cao hơn mực nước biển có vài mét, trong khí đó lại phải hứng chịu hai tác động cùng một lúc đó là mực nước biển dâng và sụt lún của thềm lục địa ước tính khoảng 0,6 đến 1,9 m đã và đang làm cho quốc gia này gặp nhiều rủi ro hơn. Do sự lún thềm lục địa và mực nước biển dâng, IPCC dự báo nước mặn có thể xâm nhập sâu vào đất liền khoảng 100 km, tác động đến hàng nghìn người. Nhiễm nước mặn sẽ tác động đến dự trữ và chất lượng nước ngọt cũng như sản lượng gạo, một nguồn lương thực khổng lồ cho khu vực. Trên thực tế, dự báo về biến đổi khí hậu có khuyến nghị sản lượng gạo và lúa mỳ có thể giảm 8% và 32% (tương ứng mỗi loại), đến giữa thế kỷ này. Nhiễm mặn nước sẽ không chỉ ảnh hưởng đến nước ngọt mà còn cả các hệ sinh thái thiên nhiên, như rừng ngập mặn làm đệm bảo vệ bờ biển khỏi triều cường. ước tính khoảng 10.000 km2 trong khu vực đồng bằng Ganges- Brahmaputra cực kỳ rộng lớn. Những hệ sinh thái cực kỳ quan trọng này hiện đang giới hạn tác động của mực nước biển dâng và triều cường, nhưng nhiều đợt triều cường vẫn đã xảy ra. Các đợt triều cường cao 6 m do bão nhiệt đới gây ra đã làm cho 500.000 người bị thiệt mạng trong năm 1970 và 150.000 người vào năm 1991, đồng thời làm cho hàng triệu người mất nhà cửa. Những thiệt hại trong tương lai có thể còn nghiêm trọng hơn khi những rừng ngập

Điểm số cho tính dễ tổn thương = 9

Hiểm họa môi trường 8

Đe dọa do bão 4

Dâng cao mực nước biển 9

Lũ lụt / hạn hán 10

Nhạy cảm kinh tế xã hội 8

Dân số 6

Đe dọa đến tài sản 10

Năng lực ứng phó nghịch đảo 10

12

Dhaka, Bangladesh

mặn làm lá chắn chống triều cường bị mất đi.

Các tác động biến đổi khí hậu khác bao gồm lũ lụt do lượng mưa cực lớn trong suốt mùa gió mùa và hạn hán trong mùa khô hạn dài. Các dữ liệu khí hậu đã được ghi nhận cho thấy tính trung bình, lượng mưa tăng lên, không có gì bất thường khi phần lớn lượng mưa hàng năm rơi xuống trong các sự kiện thời tiết cực đoan. Trên thực tế, các trận lụt nghiêm trọng vào năm 2004 đã ảnh hưởng đến 38% Bangladesh, phá hủy trên 3/4 mùa màng và làm cho 10 triệu người mất nhà cửa. Độ nhạy cảm về kinh tế - xã hội của Dhaka cao (10/10). Tần suất các đợt bão nhiệt đới tăng sẽ tác động tiêu cực hơn đến tính dễ tổn thương của Dhaka bởi vì thành phố này phải chịu quá nhiều ảnh hưởng. 174 thảm họa thiên nhiên đã xảy ra từ năm 1974 đến 2003. Ngoài ra, nhiều người dân Dhaka hiện đang bị mất nhà cửa và buộc phải sống và canh tác gần khu đất dễ bị ngập lụt, cũng làm họ càng dễ bị tổn thương hơn. Những người dân này ít có điều kiện về nơi ở an toàn và ít có cơ hội sinh kế mang về nhiều lợi nhuận hơn. Suy thoái và xói mòn đất, phá rừng, ô nhiễm, bệnh tật, và khai thác quá mức nước ngầm đã cùng góp phần làm tăng tính dễ tổn thương của Dhaka.

Năng lực ứng phóBangladesh là nước rất nghèo, và nói chung là có năng lực ứng phó biến đổi khí hậu rất hạn chế. Mặc dù Dhaka có vị thế tốt hơn nhiều nước trong việc này vì phần lớn của cải của cả đất nước tập trung ở đây, thành phố cũng là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa. Tuy nhiên, thực hiện các biện pháp ứng phó ở quy mô lớn cho toàn bộ 13 triệu người dân của Dhaka sẽ là thách thức không hề nhỏ. Ứng phó với biến đổi khí hậu của Dhaka trở nên phức tạp hơn vì nhiềuthủy vực và các vùng đất ngập nước xung quanh Dhaka bị san lấp để xây nhà cao tầng. Tăng cường sử dụng nước ngầm cũng làm tăng tính dễ tổn thương và gây phức tạp trong quá trình ra quyết định cho các phương án ứng phó khả thi. Có nhiều ví dụ hay về việc ứng phó ở cấp độ cộng đồng ở khắp nước Bangladesh, như đa dạng hóa mùa vụ, các dự án quản lý nước và trồng trọt cây lương thực trên các mảng bè. Mặc dù có nhiều ví dụ ở Bangladesh, các ví dụ này không được thực hiện rộng khắp và ở quy mô lớn, nhiều dự án đa vùng như quản lý nước tổng hợp nên được giám sát chặt chẽ và nhanh chóng nhân rộng mô hình sang các ngành khác. Do vậy, nếu không thực hiện các biện pháp bảo vệ đầy đủ, người dân nghèo của Dhaka sẽ bị đẩy đến những nguy cơ cao do lũ lụt và các sự kiện thời tiết cực đoan, như bão nhiệt đới và triều cường kèm theo.

1 m sea-level rise 2 m storm surge

50 km

© 2009 Google Map

N

13

Jakarta, Indonesia

Hồ sơ thành phốJakarta là trung tâm kinh tế, văn hóa và chính trị của Indonesia. Đây cũng là thủ đô của Indonesia và là thành phố có dân cư đông đúc nhất trong các thành phố lớn Đông Nam Á (các thành phố này có ít nhất ước tính 8,5 triệu người). Khu vực trung tâm của thủ đô Jakarta, còn được gọi là Jabodetabek, là thành phố đông dân thứ sáu trên thế giới với trên 24 triệu dân. Jakarta có diện tích 662 km2 và có vị trí ở bờ biển tây nam của Java, nằm ngay cửa sông Ciliwung thuộc Vịnh Jakarta. Jakarta còn có Thousand Islands, nằm ở phía bắc thành phố trong Vịnh Jakarta. Địa hình của Jakarta rất đa dạng, với phía bắc chỉ cách mực nước biển vài mét. Do đó, phần này của thành phố thường chìm trong lũ lụt. Phía nam của thành phố lại là địa hình đồi núi. Ngoài sông Ciliwung, còn có 12 con sông khác chảy qua vùng đồi phía nam thành phố ra biển. Sông Ciliwung là con sông quan trọng nhất và chia thành phố thành hai phía Tây và Đông.

Trong lịch sử, Jakarta là một thương cảng chủ chốt của khu vực và vẫn tiếp tục có vai trò quan trọng về kinh tế. Kinh tế của Jakarta phụ thuộc lớn vào các dịch vụ tài chính, các dịch vụ này đóng góp 1/4 GDP quốc gia. Do vậy, Jakarta nhận được 10/10 điểm về sự nhạy cảm vì đóng góp khổng lồ này đối với GDP quốc gia và do dân số đông của thành phố. Thương mại, sản xuất, và dịch vụ cũng có những đóng góp quan trọng. Ngành sản xuất của Jakarta bao gồm điện tử, ô tô, hóa chất, kỹ thuật cơ khí, và khoa học y sinh học. Mặc dù có một lượng của cải rất lớn, thành phố này đã gặp phải hàng loạt các vấn đề do tăng dân số quá mức, mức độ nghèo cao, và phân chia tài sản không công bằng. Jakarta đã nỗ lực cung cấp các nhu cầu cơ bản như nước, nơi ở và quản lý rác thải cho những người dân nghèo nhất.

Jakarta có khí hậu nhiệt đới xích đạo (nóng và ẩm). Nhiệt độ rất ổn định, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 23°C đến 32°C. Jakarta có lượng mưa lớn, với tổng lượng mưa hàng năm khoảng 2.200 mm. Mùa ẩm ướt của Jakarta đạt lượng mưa cao nhất vào

khoảng 400 mm trong tháng 1 và trong mùa khô lượng mưa là 70 mm vào tháng 8. Thành phố ẩm trong suốt năm.

Bằng chứng biến đổi khí hậuIndonesia đã trở nên ấm hơn trong thế kỷ qua, với nhiệt độ tăng lên khoảng 1°C trong suốt mùa ẩm ướt và 1.4°C trong mùa khô. Tổng lượng mưa hàng năm đã giảm xuống 2 đến 3% trên khắp nước Indonesia trong thế kỷ qua. Tuy nhiên, những con số này ở nhiều nơi rất khác nhau, với lượng mưa hàng năm giảm ở các khu vực phía nam của Indonesia (ví dụ Java, Lampung, Nam Sumatra, Nam Sulawesi, và Nusa Tenggara) trong đó bao gồm Jakarta và sự gia tăng về lượng mưa ở các vùng phía bắc Indonesia (ví dụ phần lớn vùng Kalimantan, Bắc Sulawesi). Có chuyển biến về chế độ mưa theo mùa (mùa khô và mùa ẩm ướt); ở miền nam của Indonesia lượng mưa vào mùa ẩm ướt đã tăng trong khi lượng mưa vào mùa khô lại giảm, mặc dù một chế độ mưa ngược lại đã được quan sát ở vùng phía bắc của Indonesia.

Tác độngBiến đổi khí hậu đã và sẽ tiếp tác tác động đến Indonesia. Một đánh giá lập bản đồ về mức độ tổn thương khuyến nghị rằng các vùng phía tây và đông của đảo Java (bao gồm Jakarta) bị đe dọa bởi hạn hán, lũ lụt, lở đất, và mực nước biển dâng cao. Jakarta có nguy cơ cao về tác động do biến đổi khí hậu gây ra bởi vì khu vực này thường xuyên bị lụt và lở đất nghiêm trọng, đây cũng là những khu vực có mật độ dân cư cao nhất của Đông Nam Á. Mùa ẩm ướt ở Jakarta đã trở nên ẩm ướt hơn và vì thế thành phố đã gặp nhiều lũ lụt hơn, các trận lụt này đã làm bít các ống cống và đường tàu bè qua lại, phần lớn thành phố bị ngập bằng hoặc gần mực nước biển. Các trận lụt trước đây đã tàn phá thành phố. Những trận lụt lớn từ trong năm 1996 và 2007 đã nhấn chìm 5.000 hec-ta đất, thiệt hại do hỏng hạ tầng cơ sở và thu nhập quốc gia ước tính là 572 triệu USD. Hai trận lụt lớn này đã làm chết 85 người và làm cho 350.000 người bị mất nhà cửa. Khoảng 70% tổng diện tích của Jakarta bị ngập lụt với mực nước sâu 4m ở một số nơi của thành phố. Thật không may, những trận lụt có tần suất và cường độ cao hơn đã được dự báo trong tương gần và mực nước biển dâng sẽ cộng gộp các tác động, làm cho việc ứng phó trở nên khó khăn hơn và tốn kém hơn. Vì vậy, đối với phân tích này, Jakarta xếp hạng 6/10 về hiểm họa môi trường.

Mực nước biển dâng cũng đe dọa Jakarta và thành phố này đứng trước nguy cơ nhanh chóng mất thêm đất. Cụ thể, mực nước biển trong Vịnh Jakarta được dự đoán là tăng lên 57 mm mỗi năm, do vậy sẽ nhấn chìm khoảng 160 km2 phía bắc Jakarta tính đến năm 2050 và làm ngập vĩnh viễn một vài khu vực. Không may thay, người nghèo sẽ là đối tượng bị tác động nặng nề nhất. Theo báo cáo phát triển bền vững

Điểm số cho tính dễ tổn thương = 8

Hiểm họa môi trường 6

Đe dọa do bão 2

Dâng cao mực nước biển 8

Lũ lụt / hạn hán 9

Nhạy cảm kinh tế xã hội 10

Dân số 10

Đe dọa đến tài sản 9

Năng lực ứng phó nghịch đảo 7

14

Jakarta, Indonesia

về biến đổi khí hậu, một số dân lớn của Jakarta, khoảng 1,2 triệu người, hiện đang tập trung ở các ổ chuột ven biển nơi dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu. Thiếu cơ sở hạ tầng trong các khu ổ chuột làm cho dân cư ở đây có nguy cơ bị tổn thương cao bởi các sự kiện do biến đổi khí hậu mang lại. Theo các tác động ảnh hưởng đến Jakarta, mực nước biển dâng lên cũng gây ra nhiễm mặn nước ngọt và nguồn nước ngầm, dẫn đến thiếu nước trầm trọng hơn do lượng nước mưa giảm và khai thác quá mức nước ngầm. Nhiễm mặn ở tầng ngậm nước nông và sâu của Jakarta được báo cáo là đã lên tới 10-15 km trong đất liền. Mực nước biển tăng cũng đẩy nhanh ngập lụt và nhấn chìm đất liền trong các thành phố và cộng đồng ven biển, dẫn đến mất đi nguồn thu đáng kể từ du lịch và ngành nuôi trồng thủy sản.

Năng lực ứng phóJakarta có mức độ dễ bị tổn thương cao bởi biến đổi khí hậu và cần phải có hành động giảm thiểu ngay để góp phần làm giảm hiệu ứng nhà kính trên toàn cầu. Điều này mang tính quyết định đối với việc ngăn chặn các tác động tương lai do biến đổi khí hậu mang lại và tăng cơ hội thực hiện các hành động ứng phó phù hợp để chống lại biến đổi khí hậu. Do vậy, Jakarta đã có nhiều ví dụ hay về ứng phó và đạt điểm 7/10 về năng lực ứng phó. Tuy nhiên, bằng việc thi hành thêm các biện pháp ứng phó phù hợp khác nữa, hàng triệu mạng người sẽ được cứu sống và hàng triệu USD sẽ được tiết kiệm. Tăng cường lập kế hoạch cho các khu đô thị và hạ tầng cơ sở, như cung cấp nước sạch và xử lý rác thải, không chỉ những tác động do biến đổi khí hậu được giảm thiểu mà phát triển bền vững còn được tăng cường. Các hành động ứng phó bao gồm tạo ra các không gian mở nhiều cây xanh, tăng cường quản lý rác thải (bao gồm thay đổi về hành vi của công dân Jakarta trong việc xử lý rác thải) và duy trì, nâng cao hạ tầng cơ sở, trong đó có xử lý nước và rác thải. Để đối mặt với các ảnh hưởng không thể tránh khỏi, các biện pháp ứng phó cần được triển khai càng sớm càng tốt và IPCC đã khuyến nghị các phương cách sau để tăng cường nguồn vốn xã hội và giảm tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu: cải thiện giáo dục và các kỹ năng chuyên môn, tăng mức thu nhập, hoàn thiện việc phân phối lương thực cho cộng đồng, và nâng cao tính sẵn sàng đối phó thảm họa thiên nhiên, cải thiện hệ thống quản lý và y tế thông qua phát triển bền vững và công bằng. Đối với Jakarta, các biện pháp nhằm ứng phó với nước biển dâng, các hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng, và các mối đe dọa đến hệ sinh thái và đa dạng sinh học nên được ưu tiên cao. Dự trữ nước tăng và hệ thống cảnh báo sớm hiệu quả hơn về hiện tượng El Niño có thể giúp cư dân chuẩn bị sẵn sàng hơn trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu.

Quản lý bền vững các khu vực ven biển thông qua Quản lý Tổng hợp Vùng Ven bờ (ICZM) cũng giúp bảo vệ bờ biển hiệu quả và tối ưu hóa các lợi ích từ vùng ven bờ. Bảo tồn rừng ngập mặn cũng có thể giúp chống lại triều cường, xói mòn bờ biển và hoạt động mạnh mẽ của sóng biển như đã diễn ra trong trận sóng thần ở Ấn Độ Dương vào ngày 26 tháng 12 năm 2004.

Mặc dù có nhiều vấn đề còn cản trở việc ứng phó, ví dụ như nghèo đói, thiếu thông tin và tri thức về tác động của khí hậu và hạn chế thông tin về chi phí và các lợi ích của việc ứng phó, Jakarta cần tiếp thu các kinh nghiệm ứng phó hiện có trước khi tác động toàn diện của biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến những công dân nghèo khó và có nguy cơ bị tổn thương nhất.

1 m sea-level rise 2 m storm surge

50 km

© 2009 Google Map

N

15

Manila, Philippines

Hồ sơ thành phốManila là thủ đô, đồng thời cũng là trung tâm tài chính, thương mại và công nghiệp của Philippines. Siêu thành phố Manila bao gồm 17 đơn vị chính quyền địa phương, có tổng số dân là 11,5 triệu người (2007), tổng diện tích là 636 km2 và có mật độ dân số trên 18.000 người/km2. Vì vậy nó có mức độ nhạy cảm rất cao về mặt kinh tế xã hội trước tác động của thay đổi khí hậu, 7 trên 10 điểm. Manila là thành số lớn thứ 5 trên thế giới trên phương diện dân số; đứng thứ nhì ở Đông Nam Á (sau Jakarta). Nếu gộp cả những vùng ngoại ô của các tỉnh kế cận với thủ đô Manila làm một, thường được gọi là Greater Manila, thì dân số của toàn vùng đạt khoảng 20 triệu người. Khu vực này đóng góp 32% (124 tỷ Đô la (PPP) trong năm 2007) vào tổng GDP của Philippines. Ma-nila còn là một hải cảng chính của Philippines và là trung tâm chế tạo, sản xuất hóa chất, thép, hàng dệt may và đồ điện tử. Manila giống như nhiều thành phố lớn trên thế giới được đặc trưng bởi các thái cực kinh tế với một khoảng cách giàu nghèo vô cùng lớn giữa một nhóm nhỏ người giầu có và đại bộ phận quần chúng sống dưới mức nghèo khổ. Các báo cáo đã cho thấy, 15% dân số Philippines đã kiểm soát tới 97% tổng GDP của Philippines.

Đường thủy chính của thành phố Manila là sông Pasig, uốn lượn vòng vèo qua chạy qua nhiều thành phố và chảy qua Manila trước khi đổ vào vịnh Manila. Khu siêu đô thị này được xây dựng trên trầm tích do dòng sông Pasig bồi đắp và một số vùng đất khai hoang, lấn vịnh Manila. Cao trình của siêu thành phố Manila chỉ vỏn vẹn có 10m.

Manila là một địa điểm du lịch chính của Philippines, thành phố này thu hút trên 1 triệu lượt khách hàng năm. Trong năm 2000, tổng thu nhập ròng từ du lịch là 2.1 tỷ Đô la, và đang phát triển rất mạnh. Với tốc độ tăng trưởng của ngành du lịch như hiện nay, người ta dự báo rằng lượng du khách tới Manila sẽ vượt Singa-pore vào năm 2020.

Nằm ở phía bắc đường xích đạo 140, Manila có khí hậu nhiệt đới ẩm và khô (thường được biết đến như khi hậu savan nhiệt đới).

Nhiệt độ trung bình biến động trong khoảng từ 210C trong tháng 1 tới 330C vào tháng 4 và 5. Lượng mưa rất khác biệt trong một năm, nhưng điển hình mùa khô thường bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 3 hàng năm và mùa ẩm ướt từ tháng 6 tới tháng 10. Lượng mưa trung bình vào khoảng 200 mm / năm.

Bằng chứng biến đổi khí hậu Philippines đã chứng kiến sự gia tăng về nhiệt độ. Trong thời gian từ 1961 tới 1990, nhiệt độ trung bình hàng năm tăng khoảng 0.610C, nhiệt độ cực đại tăng 0.340C, nhiệt độ cực tiểu tăng 0.890C. Hệ quả cho thấy tần suất của những ngày nóng và những đêm ấm áp tăng lên, trong khí đó số ngày lạnh và số đêm mát mẻ lại giảm xuống. Lượng mưa trung bình năm kể từ những năm 1980 cũng tăng lên, tương tự số ngày mưa kể từ những năm 1990 cũng nhiều hơn. Giống như rất nhiều thành phố khác trong vùng Đông Nam Á, Manila cũng đang phải đối diện với việc bắt đầu gia tăng lượng mưa hàng năm.

Các tác độngCho tới năm 2080, nhiệt độ ở Philippines có thể tăng lên 1,2 tới 3,90C; tác động của biến đổi khí hậu như bão nhiệt đới, dâng cao mực nước biển, lụt lội và hạn hán cũng sẽ tăng lên. Manila được xếp vào số các thành phố phải hứng chịu hiểm họa cao (9 trên 10 điểm), do nó phải chịu hàng loạt tác động của biến đổi khí hậu. Bão lốc sẽ ảnh hưởng tới phần phía bắc và đông của nước này, phần lãnh thổ còn lại có thể sẽ bị ảnh hưởng nặng nề của lụt, trượt lở đất và hạn hán. Nhìn chung, lượng mưa đã, đang và sẽ tăng lên, khi cộng gộp với bão nhiệt đới đã dẫn tới mưa cực đoan, lụt lội và sạt lở đất vào các năm 1990, 2001, 2004 và 2009. Thành phố Manila đặc biệt dễ bị tổn thương trước lũ lụt có nguồn gốc từ mưa cực đoan và các cơn bão nhiệt đới, như đã được chứng kiến trong cơn bão Ketsana (Ondo) trong tháng 9 năm 2009, đã ảnh hưởng tới 4.3 triệu người, làm mất nơi ở của 500,000 người và cướp đi sinh mạng của 337 người. Thiệt hại do cơn bão này gây ra ước tính khoảng 230 triệu USD. Trên quy mô quốc gia, lũ lụt do bão gây ra là khá thường xuyên. Ví dụ, nạn lụt Camiguin năm 2001 có nguyên nhân từ bão Nanang đã làm ảnh hưởng 35.000 người và cướp đi sinh mạng của 157 người. Tổng thiệt hại ước tính là 96 triệu Đô la. Về trượt lở đất, gần đây đã xảy ra những vụ khủng khiếp như ở Guinsaugon, Leyte năm 2006 có nguồn gốc từ cơn bão Reming rất mạnh, làm chết

Điểm số cho tính dễ tổn thương = 8

Hiểm họa môi trường 9

Đe dọa do bão 10

Dâng cao mực nước biển 8

Lũ lụt / hạn hán 10

Nhạy cảm kinh tế xã hội 7

Dân số 5

Đe dọa đến tài sản 9

Năng lực ứng phó nghịch đảo 7

16

Manila, Philippines1.126 người. Trong cùng cơn bão này, trượt lở đất cũng xảy ra ở Legazpi, Albay, đã làm chết 1.399 người. Hai vụ trượt lở đất này đã ảnh hưởng tới 800.000 gia đình và được xem như những tai họa khủng khiếp hàng thứ 2 và thứ 3 của thế giới trong năm 2006.

Hạn hán, mưa cực đoan và bão được dự báo là sẽ tăng lên về cường độ và phức tạp trong tương lai ở Philippines và các hậu quả này có thể còn bị ảnh hưởng bởi các sự kiện thời tiết cực đoan thường xuyên đang gia tăng (ví dụ El Niño). Hạn hán thường có quan hệ với El Niño ở Philippines, sự kiện hạn hán trong giai đoạn 1997 tới 1998 đã đưa ra một số thông điệp sâu sắc hơn về điều gì nữa sẽ xảy ra dưới tác động của biến đổi khí hậu.

Trong sự kiện này, Philippines đã thiếu nước ngọt trầm trọng, nhiều loại hình mùa màng bị thất bát, rất nhiều diện tích rừng bị cháy và tẩy trắng rạn san hô. Hậu quả đưa đến là hồ dự trữ nước ngọt của Manila, đập Angat bị thiếu nguồn nước bổ sung. Thiếu hụt này đã giảm xuống 10%, và một số địa phương đã phải tổ chức cấp phát nước ngọt cho nhân dân. Hạn hán cũng ảnh hưởng tới các nhà máy thủy điện, nguồn năng lượng chính cho thành phố. Tình trạng còn trở nên tồi tệ hơn khi những năm hạn hán cộng với mực nước biển dâng càng làm cho nhu cầu nước ngọt khủng hoảng hơn.

Trong vòng 20 năm gần đây, cường độ của bão lốc nhiệt đới đã tăng lên đáng kể, gây thiệt hại nặng nề đến tài sản và tính mạng con người. Dự báo trong tương lai cho thấy hiện tượng này còn tiếp tục tăng lên về cường độ và tần suất. Các cơn bão cũng thường kèm sau nó là mưa trong lục địa làm trượt lở đất và lũ quét, làm thiệt hại về người, phá hủy tài sản và mùa màng. Số liệu thống kê đã cho thấy, 80% thảm họa xẩy ra ở Philippines trong vòng 100 năm qua có liên quan đến thời tiết, trong đó bão tố và lũ lụt gây ra nhiều nhất. Mực nước biển xung quanh Manila cũng đang tăng lên, dự báo tới cuối thế kỉ này, sẽ tăng lên từ 0,4 đến 1 m, một phần của nguyên nhân là do sự chìm xuống của lục địa tại địa phương và khai thác nước ngầm. Mức độ thay đổi này có thể làm 2,5 triệu người phải di dời nơi sinh sống và làm ngập chìm hơn 5.000 ha vùng ven vịnh Manila. Những rủi ro này sẽ cao hơn do mực nước biển dâng khi có bão. Xói lở bờ biển cũng đang gia tăng và ngày càng trầm trọng do tần suất bão tăng lên, khai thác cát ở bãi biển, phá hủy rạn san hô, rừng ngập mặn và các đụn cát.

Năng lực ứng phóDo rủi ro cao từ các cơn bão nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán và mực nước biển dâng cao, ứng phó với các hiểm họa này là vô cùng cần thiết đối với Manila và phần còn lại của Philipines. Giải pháp ứng phó phải có hệ thống cảnh báo sớm cho cư dân biết về thông tin bão lốc sắp đến để người dân có thể tránh những nơi bị tác động mạnh và chuẩn bị thiết bị cứu trợ cần thiết. Giải pháp ứng phó cũng cần thiết kế và xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp nhằm bảo vệ người dân tốt hơn và phục vụ sơ tán dân trong trường hợp cần thiết. Trang bị và duy trì hệ thống dự báo thời tiết (ví dụ Doppler radar để dự báo lượng mưa) và hệ thống cảnh báo rủi ro, đặc biệt trong mùa mưa bão là rất cần thiết để giảm thiểu thiệt hại tính mạng con người. Philippines cũng cần phải học hỏi kinh nghiệm từ các nghiên cứu điển hình khác. Ví dụ ở Cairns của nước Úc, kinh nghiệm và giáo dục về bão đã góp phần thay đổi nhận thức về rủi ro và làm giảm tính dễ bị tổn thương của cộng đồng trước các cơn bão nhiệt đới và nước biển dâng do bão.

Bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên cũng là một giải pháp ứng phó tiến bộ, nó đã chứng minh là rất hiệu quả về mặt kinh tế. Nhưng thật không may là việc chuyển đổi trên quy mô lớn rừng ngập mặn sang nuôi tôm, nuôi cá và sản xuất muối đã xảy ra trong ba thập kỉ vừa qua tại Philippines. Tuy nhiên với việc bảo vệ thích hợp và phục hồi lại các hệ sinh thái này có thể giúp giảm thiểu năng lượng của sóng biển khi có bão và làm vùng đệm rất tốt chống lại các tác động cho vùng ven biển. Các rạn san hô cũng đã chứng minh cho chúng ta thấy chúng có vai trò vô cùng lớn trong bảo vệ vùng bờ và cung cấp một lượng lớn thực phẩm cũng như công ăn việc làm cho nhân dân. Rất nhiều loại hệ sinh thái này đang đứng trước ngưỡng nguy hiểm, nhưng nếu giành nỗ lực và năng lực phù hợp cho công tác bảo tồn và phát triển bền vững, các hệ sinh thái này có thể được phục hồi. Thiết kế lại quy hoạch đô thị ở Manila là rất quan trọng. Chuyển những cộng đồng tại vùng có rủi ro cao nhất cũng như tại những vùng thoát nước chính (ví dụ các khu dân cư cản đường thoát nước trong khi bão) cũng rất quan trọng. Một cách tương tự, phục hồi đất ngập nước và những ngọn núi xung quanh Manila sẽ làm giảm đi đáng kể dòng chảy bề mặt, một nhân tố chính gây nên lũ lụt trong tháng 9 vừa qua.

Các giải pháp ứng phó kém là một rủi ro. Thậm chí các hoạt động được thiết kế để phòng tránh xói lở đất, như xây dựng tường và kè chắn sóng biển, đã được chứng minh là kém hiệu quả và đôi khi còn làm tồi tệ thêm tình hình, vì vậy cần phải rất chú ý đến việc này. Thành phố Manila được 7 trên thang điểm 10 (thang điểm đảo ngược; điểm càng cao năng lực ứng phó càng kém) cho năng lực ứng phó, vì vậy việc bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên như rừng ngập mặn, rạn san hô và những chiến lược ứng phó khác cần được thực hiện ngay.

1 m sea-level rise 2 m storm surge

20 km

© 2009 Google Map

N

17

Calcutta, Ấn Độ

Hồ sơ thành phố Với trên 15 triệu người, Calcutta là thành phố trung tâm lớn thứ ba của Ấn Độ và là thành phố lớn thứ 8 trên thế giới. Calcutta bao gồm thủ phủ Kolkata, là thủ phủ của bang Indian thuộc Tây Bengal. Nằm trên bờ sông Hooghly, Calcutta thuộc đồng bằng sông Hằng và khoảng cách so với mực nước biển hiện tại chỉ tính bằng mét. Trước áp lực phải mở rộng thành phố để có đủ chỗ ở cho dân số đang tăng nhanh, Calcutta đã phải khai hoang nhiều vùng đất xung quanh khu vực đất ngập nước. Do vậy, thành phố nằm trên khu vực bồi đắp phù sa và trong khu vực địa chấn, do vậy có nguy cơ bị động đất.

Calcutta từng là thủ đô của Ấn Độ và đã là một trung tâm công nghiệp, văn hóa và chính trị. Mặc dù đã trải qua suy thoái kinh tế nghiêm trọng từ những năm 1950, thành phố này gần đây đã vực dậy và đang lớn mạnh. Tương tự với các khu vực trung tâm khác ở Ấn Độ, tuy nhiên, Calcutta gặp nhiều vấn đề do nghèo đói trên diện rộng, hạ tầng cơ sở, và ô nhiễm, đặc biệt là ô nhiễm không khí và ô nhiễm nước. Calcutta là trung tâm chính của Ấn Độ về kinh doanh, thương mại, và tài chính và là thương cảng lớn. Đây cũng là thành phố duy nhất trong khu vực có sân bay quốc tế, nếu sân bay này phải đóng cửa do các sự kiện thời tiết cực đoan thì sẽ làm gián đoạn các chuyến bay khu vực, Calcutta xếp hạng 7/10 về độ nhạy cảm về kinh tế xã hội đối với tác động biến đổi khí hậu. Sau khi giành được độc lập, Calcutta đã trải qua suy thoái kinh tế nghiêm trọng cho tới gần đây và nền kinh tế mới vực dậy của Calcutta phát triển chủ yếu nhờ các dịch vụ công nghệ thông tin, ngành này có mức tăng trưởng khoảng 70% hàng năm, gấp đôi tốc độ trung bình ngành này của cả nước. Có thể nói, đã có sự tăng mạnh về nhu cầu nhà ở, với những phát triển nhanh chóng trong cả thành phố này.

Calcutta có khí hậu điển hình của khu vực. Thành phố có khí hậu khô ẩm nhiệt đới hay còn gọi là khí hậu xavan nhiệt đới. Do vậy, nhiệt độ nhất quán với nhiệt độ trung bình hàng năm là 27°C.

Ngoài ra, nhiệt độ trung bình hàng tháng chỉ dao động từ 19°C đến 30°C. Các mùa ẩm ướt đặc trưng bởi thời tiết nóng và ẩm, trong khi các mùa khô điển hình có nhiệt độ 40°C trong suốt tháng 5 và tháng 6. Calcutta cũng có mưa lớn theo mùa, dẫn đến lụt lội. Lượng mưa trung bình là 1.582 mm và thường chảy về vịnh Bengal trong suốt tháng 6 và tháng 9. Lượng mưa lớn nhất là vào tháng 8, trung bình là trên 300 mm.

Bằng chứng biến đổi khí hậuTương tự với Bangladesh, Calcutta có nhiệt độ ấm lên đáng kể và nhiều thay đổi về chế độ mưa. Cụ thể là nhiệt độ đã tăng khoảng 0,68°C trong thế kỷ qua, với xu thế tăng nhiệt độ trung bình hàng năm và nhiệt độ ấm lên rõ rệt sau mùa gió mùa và trong mùa đông. Mặc dù số ngày mưa đã giảm dọc theo bờ biển Ấn Độ, có vẻ như lượng mưa trong mùa mùa gió mùa mùa hè ẩmngày càng lớn

Tác độngDDo vị trí và diện tích của mình, Calcutta bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các hậu quả của biến đổi khí hậu. Hiểm họa môi trường đối với Calcutta là ở hạng 6/10. Mực nước biển tăng và triều cường sẽ nhấn chìm diện tích lớn của thành phố và khu vực xung quanh trong mấy năm tới. Trên thực tế, mực nước biển dâng 1 m có thể làm ngập 5.763 km2 đất của Ấn Độ Ngoài mực nước biển dâng, việc đất bị lún xuống khoảng 0,6 đến 1,9 mm mỗi năm làm tăng thêm nguy cơ đối với đồng bằng Sông Hằng. Do tác động kết hợp bởi mực nước biển dâng và đất ngập, đồng bằng sông Hằng có khả năng sẽ bị nước biển xâm nhập khoảng 100km từ bờ biển, ảnh hưởng nặng nề đến cung cấp nước ngầm. kết hợp các ảnh hưởng của nhiễm mặn, khai thác quá mức nước ngầmtrong và xung quanh Calcutta đã làm cho mực nước ngầm hạ xuống, tạo điều kiện cho nước biển xâm nhập nhiều hơn và do đó làm cho nước ngầm bị nhiễm mặn. Các đợt hạn hán xảy ra thường xuyên hơn trong vài thế kỷ lại đây và được dự đoán là sẽ tồi tệ hơn, điều này dẫn tới nước biển xâm nhập nhiều hơn và vì thế làm suy giảm chất lượng nước bề mặt và nước ngầm. Trên thực tế, Ấn Độ có thể gặp phải tình trạng thiếu nước trầm trọng kèm theo các sức ép trước năm 2025 khi nguồn nước dự trữ theo đầu người được dự đoán là giảm xuống dưới 1.000 m3 mỗi năm , so sánh với mức của năm 2001 là 1.820 m3 mỗi năm.

IPCC dự đoán sẽ có sự suy giảm về lượng mưa trong mùa đông ở tiểu lục địa Ấn Độ, dẫn đến giảm tổng lượng mưa theo mùa trong tháng 12, tháng 1 và 2, gây ra giảm dự trữ nước và tăng áp lực trong suốt thời kỳ gió mùa. Ngược lại, các đợt mưa sẽ có cường độ cao hơn nhưng

Điểm số cho tính dễ tổn thương = 7

Hiểm họa môi trường 6

Đe dọa do bão 3

Dâng cao mực nước biển 8

Lũ lụt / hạn hán 7

Nhạy cảm kinh tế xã hội 7

Dân số 7

Đe dọa đến tài sản 6

Năng lực ứng phó nghịch đảo 7

18

Calcutta, Ấn Độ

tần suất lại giảm đi dẫn tới các trận lụt thường xuyên hơn với mức độ khắc nghiệt tăng trong mùa mưa. Các đợt mưa cực đoan ngăn nước thấm xuống đất, làm tăng dòng chảy trực tiếp và dẫn tới giảm tiềm năng bổ sung nước ngầm. Lượng mưa quá cao dẫn đến các trận lụt nặng nề và tổn thất nhiều ở phía đông bắc Ấn Độ trong các năm 2002, 2003 và 2004, dẫn tới thiệt mạng hàng trăm người, lập kỷ lục về lượng mưa, và làm cho khu vực (gồm Bangladesh, Nepal, và Ấn Độ) tốn kém trên 250 triệu USD. Các sự kiện thời tiết cực đoan khác như tăng về tần suất ngày nóng và nhiệt sóng kéo dài trong nhiều ngày suốt thế kỷ qua dẫn tới nhiều người chết hơn trong những năm gần đây và đưa ra những dấu hiệu mà biến đổi khí hậu có thể sẽ gây ra trong tương lai. Sự gia tăng về tần suất các trận bão nhiệt đới khắc nghiệt đã được ghi nhận và dự báo cũng sẽ dẫn tới thiệt hại và tổn thất về tài chính hơn nữa cho Calcutta.

Mặc dù Calcutta có tỉ lệ đất nông nghiệp tương đối thấp, các tác động của biến đổi khí hậu lên mùa màng sẽ ảnh hưởng đến việc dự trữ lương thực của thành phố và khả năng người dân được đáp ứng nhu cầu ăn chay. IPCC nhấn mạnh rằng do sức nhiệt và thiếu nước ở một số vùng của châu Á, sản lượng gạo có thể giảm gần 4% vào cuối thế kỷ và thiệt hại lớn về lúa mạch vốn phụ thuộc vào nước mưa ở cả khu vực Đông Nam Á. Ví dụ, tăng nhiệt độ từ 0,5° đến 1,5°C sẽ làm giảm sản lượng tiềm năng của lúa mạch và ngô từ 2 đến 5% ở Ấn Độ.

Năng lực ứng phóCalcutta dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu và xếp hạng 7/10 về năng lực ứng phó (có nghĩa là năng lực ứng phó thấp). Tuy nhiên, kinh tế của Ấn Độ đang phát triển và do đó có những phương án ứng phó theo kiểu “không hối tiếc” cần được thực hiện ngay, các phương án này sẽ làm giảm các chi phí trong tương lai bị gây ra do không hành động. Ví dụ, do áp lực về nước là vấn đề đa chiều, các chiến lược quản lý nước sẽ giảm thiểu các vấn đề trong tương lai do khai thác quá mức nước ngầm, mực nước biển dâng, nước biển xâm nhập và gia tăng triều cường. Ấn Độ còn phải cân nhắc các nghiên cứu điển hình của các nước khác và chia sẻ các bài học từ các dự án của mình. Dự báo về dân số khu vực cho thấy dân số Calcutta tiếp tục tăng và thiếu nước vẫn là cả một vấn đề. Hành động để nâng cao công tác quản lý nước có thể tiết kiệm hàng triệu USD và cứu sống nhiều mạng người trong tương lai.Do mối đe dọa về tăng tần suất và cường độ các cơn bão nhiệt đới, triều cường, và nước mặn xâm nhập, việc gia tăng các biện pháp bảo vệ, thực thi pháp luật và phục hồi rừng ngập mặn cũng như đất ngập nước rất được khuyến khích. Các chiến lược này có chi phí tương đối thấp, các hành động mang lại lợi ích cao có thể được thực hiện ngay lập tức với các công nghệ hiện có. Calcutta có cao trình thấp và cần tăng cường bảo vệ bờ biển, các hệ sinh thái đệm là lá chắn chống lại các cơn bão và triều cường vừa cung cấp lương thực và sinh kế cho hàng triệu người Ấn Độ.

1 m sea-level rise 2 m storm surge

10 km

© 2009 Google Map

N

19

Hồ sơ Thành phốPhnom Pênh là thủ đô của Campuchia và là trung tâm kinh tế, công nghiệp, thương mại, văn hóa, du lịch và lịch sử của đất nước. Với trên 14% dân số của Campuchia (2 triệu người) và có diện tích 375 km2, Phnom Pênh là thành phố lớn nhất của Cam-puchia. Tốc độ gia tăng dân số được dự báo là khoảng 4% mỗi năm. Tuy nhiên Chính quyền thành phố Phnom Pênh cho biết, trong năm 2002, 25% số dân thành phố sống dưới mức ngèo khó. Phnom Pênh nằm ở vị trí giao với ba con sông: Tôn lê sáp, Mê Kông, và Bassac. Những con sông này không chỉ cung cấp nước ngọt cho hàng triệu người, chúng còn giúp chung chuyển hàng hóa và dịch vụ, đem lại lương thực, sinh kế và các dịch vụ hệ sinh thái.

Campuchia là một nước tương đối nghèo, nhưng Phnom Pênh vẫn đạt tăng trưởng kinh tế cao trong những năm gần đây, dẫn đến sự bùng nổ về kinh tế với những khách sạn, nhà hàng, quán bar, khu chung cư mới mọc lên xung quanh thành phố. Ngoài ra, Phnom Pênh còn là trung tâm lịch sử và văn hóa của Campuchia, và là điểm du lịch rất nổi tiếng. GDP của Campuchia năm 2007 là khoảng 8,60 tỉ USD, hay thu nhập khoảng 606 USD/người, và ước tính Phnom Pênh đóng góp khoảng 20% GDP của quốc gia. Tăng trưởng hàng năm của thành phố là khoảng 10,2% trong năm 2007. Du lịch là ngành công nghiệp tăng trưởng nhanh nhất ở Campuchia, với trên một triệu du khách trong năm 2004, đại đa số du khách đến thăm Phom Pênh. Tuy nhiên, ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu gần đây chưa thể hiện hết và tác động của nó cũng chưa được biết đến.

Nhiệt độ hàng năm của Phnom Pênh dao động từ 18° đến 38°C nhưng khí hậu nói chung là nóng quanh năm với hai mùa: khô và mưa. Hai mùa phân biệt rõ rệt này là điển hình của gió mùa và chi phối khí hậu của thành phố. Mùa mưa, do gió mùa Tây Nam

thổi vào đất liền từ Vịnh Thái Lan và Ấn Độ Dương từ tháng 5 đến tháng 10 và đem đến gió bão hòa ẩm. Các tháng ẩm ướt nhất thường là từ tháng 9 đến tháng 10 với nhiệt độ trên 40°C và độ ẩm cao. Mùa khô, do gió mùa Đông Bắc, mang không khí khô vào thành phố và kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4. Các tháng khô nhất thường là từ tháng 1 đến tháng 2 và nhiệt độ có thể xuống đến 22°C.

Bằng chứng biến đổi khí hậuXét một cách toàn diện nhiệt độ của Đông Nam Á đã tăng 0,1 đến 0,3°C trong mỗi thập kỷ từ năm 1951 đến 2000. Mặc dù lượng mưa đã có xu thế giảm từ khoảng năm 1961 đến 1998, với số ngày mưa giảm, tần suất các trận mưa tăng lên ở nhiều nơi đã tăng lên. Điều này đã dẫn đến các trận lụt, sạt lở đất, và các dòng chảy bùn cát diễn ra với mức độ nặng nề hơn, trong khi số ngày mưa và tổng lượng nước mưa hàng năm lại giảm.

Tác độngNhiệt độ ấm lên và các thay đổi về chế độ mưa sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến Campuchia và cụ thể là Phnom Pênh. Trên thực tế, trong một đánh giá được bản đồ hóa gần đây, Campuchia được xác định là bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu do tác động như hạn hán, ngập lụt, mực nước biển dâng cao và năng lực ứng phó của quốc gia còn tương đối hạn chế. Mặc dù năng lực về tài chính của Phnom Pênh về ứng phó biến đổi khí hậu đã có tăng nhẹ, độ cao so với mực nước biển tương đối thấp, lại giáp với đại dương và sông Mekong làm cho thành phố này đặc biệt dễ tổn thương. Trong báo cáo này, Phnom Pênh đạt 4/10 điểm về hiểm họa môi trường do biến đổi khí hậu gây ra, mà lũ lụt và hạn hán là những nguyên nhân chính. Các đợt mưa cực đoan đã dẫn tới mức lụt kỷ lục vào năm 2000, làm chết 350 người và làm cho hàng trăm nghìn người khác bị mất nhà cửa ở đồng bằng sông Mekong. ước tính những trận lụt này cũng ảnh hưởng đến 1 triệu người dân ở Campuchia, Lào và Thái Lan. Theo báo cáo gần đây về biến đổi khí hậu ở Châu Á, cũng trong đợt lụt này, các bờ sông Mekong trong và xung quanh thủ đô đã được kè bởi các túi cát, nhưng một số khu vực ngoại vi Phnom Pênh bị ngập lụt và tình trạng khẩn cấp đã được ban bố. Các quan chức cho rằng đợt lụt này, vốn bắt đầu bằng mưa mùa lớn và trên diện rộng một cách bất thường vào cuối tháng 7, là trận lụt tồi tệ nhất trong lịch sử Campuchia trong 70 năm qua. Một khu vực đất canh tác rất rộng lớn đã bị phá hủy (cụ thể là thiệt hại khoảng 80% sản lượng gạo của Campuchia) và thiệt hại đáng kể trong 11 trên 24 tỉnh của cả nước. Ngoài ra, trong trận lụt và hạn hán năm 2002, gần 1 triệu người Campuchia đã phải nhận viện trợ lương thực do mùa vụ của họ đã bị cuốn trôi.

Thật không may, lũ lụt không phải là mối đe doạ duy nhất đến Phnom Pênh và người dân ở đây. Chế độ mưa thay đổi cũng ảnh hưởng lớn

Phnom Pênh, Campuchia

Điểm số cho tính dễ tổn thương = 7

Hiểm họa môi trường 4

Đe dọa do bão 2

Dâng cao mực nước biển 1

Lũ lụt / hạn hán 10

Nhạy cảm kinh tế xã hội 6

Dân số 1

Đe dọa đến tài sản 10

Năng lực ứng phó nghịch đảo 10

20

Phnom Pênh, Campuchia

đến khối lượng và chất lượng nước cung cấp cho thành phố, dẫn đến các hậu quả tiêu cực đối với hàng triệu người. Những mối đe dọa khác bao gồm ảnh hưởng của bão nhiệt đới vốn đã tăng về số lượng trong vài thập kỷ qua và được dự đoán sẽ tăng lên về tần suất và cường độ. Mực nước biển dâng cao cũng ảnh hưởng đến lượng dữ trữ nước sạch do tăng nước nhiễm mặn ở các vùng trũng và góp phần dẫn đến xói mòn bờ biển. Tồi tệ hơn, việc mất đất tự nhiên ven biển, bao gồm các rừng ngập mặn, sẽ dẫn tới xói mòn và đe doạ nghiêm trọng hơn vì rừng ngập mặn còn là vùng đệm chắn bão và triều cường.

Năng lực ứng phóTheo đánh giá mức độ tổn thương đối với các nước Đông Nam Á, Campuchia nằm trong danh sách những nước có nguy cơ bị tổn thương nhất do biến đổi khí hậu đưa đến, chủ yếu là do năng lực ứng phó còn hạn chế. Trước tình hình đó, các tổ chức đã nỗ lực tăng cường khả năng ứng phó của Campuchia bằng cách hỗ trợ phát triển bền vững và các hoạt động thích ứng ở cấp độ cộng đồng. Các nỗ lực này đã tập trung hỗ trợ các kho dự trữ gạo ở cộng đồng và hồ chứa nước mưa để tăng cường khả năng đối phó với thiếu lương thực do hạn hán và lũ lụt. Các sự kiện thời tiết cực đoan (như hạn hán và lũ lụt) trong năm 2000, 2001, và 2002 đã cho thấy các hậu quả cộng gộp lại và làm đời sống của nhiều người Campuchia trở nên khốn đốn. Mặc dù Phom Pênh có năng lực cao hơn một chút về ứng phó với biến đổi khí hậu vì thành phố này có GDP và nguồn lực đáng kể hơn, đây lại là nơi đặc biệt dễ bị tổn thương và có số điểm về kinh tế - xã hội là 6/10 và năng lực ứng phó là 10, điều này cho thấy thành phố có năng lực ứng phó biến đổi khí hậu cực kỳ thấp so sánh với các thành phố khác của châu Á.

Có nhiều phương án và chính sách thích ứng dựa vào hệ sinh thái có thể được áp dụng để nâng cao năng lực ứng phó. Ví dụ, Chính phủ Campuchia có thể thúc đẩy thêm công tác bảo vệ, thực thi pháp luật và phục hồi rừng ngập mặn, các khu rừng này có vai trò là vùng đệm giúp chống lại các trận bão và triều cường đồng thời là bãi đẻ cho cá biển. Rừng ngập mặn đang bị chia cắt trên quy mô lớn để khai thác than đá, nuôi trồng thủy sản và làm nhà ở, dẫn đến gia tăng tính dễtổn thương của vùng bờ biển, tuy nhiên cần huy động nhiên liệu rẻ tiền và các phương án xây dựng thay thế, giá trị đích thực của rừng ngập mặn cần được công nhận. Nghiên cứu sâu hơn về cấp độ và chi phí phù hợp để bảo vệ biển sẽ giúp các quan chức chuẩn bị tốt hơn cho tương lai.

Dân số của Phnom Pênh được dự đoán là sẽ gấp đôi trong tương lai và sự gia tăng này sẽ làm tăng nhu cầu về lương thực và quỹ đất trồng trọt vốn đã rất ít ỏi. Cần có thêm các nghiên cứu và lựa chọn ứng phó, ví dụ như đa dạng hóa mùa vụ, thay đổi thời vụ trồng cây ở các khu vực khác nhau, và trồng các giống cây dễ thích nghi hơn. Cần có đủ nguồn lực đển giảm nhẹ thiên tai, như mùa vụ, lương thực, và đê kè sẽ nâng cao năng lực ứng phó. Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) khuyến nghị rằng thay vì phân phát viện trợ lương thực cho những người dân bị ảnh hưởng sau thảm họa, WFP đang hỗ trợ lương thực cho thực hiện một số công việc, theo hình thức xây dựng năng lực dựa vào cộng đồng. Ví dụ, sau các sự kiện thảm họa trước đây, WFP đã cung cấp 1.700 tấn lương thực cho các dự án giảm nhẹ thiên tai như phục hồi các hồ chứa nước, ao, kè và đập của cộng đồngvì các mục đích tưới tiêu.

1 m sea-level rise 2 m storm surge

10 km

© 2009 Google Map

N

21

Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

Hồ sơ thành phốThành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất của Việt nam. Siêu thành phố này bao gồm cả Thủ Dầu Một, Di An, Biên Hòa và các thành phố phụ cận là nơi sinh cư của 9 triệu người, đến năm 2020 dân cư vùng này được dự báo là sẽ tăng lên 20 triệu người. Trung tâm thành phố Hồ Chí Minh tọa lạc dọc theo hai bên bờ của sông Sài Gòn và trải dài về phía nam ra phía Biển Đông với 15 km đường bờ biển.

Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế quan trọng nhất của Việt Nam, có đóng góp một phần rất lớn cho nên kinh tế của Việt Nam, vì thế có độ nhạy cảm về kinh tế xã hội xếp hàng thứ 6 trong thang điểm 10. Dân số của thành phố Hồ Chí Minh chỉ chiếm 7,5% dân số của Việt Nam, nhưng thành phố này lại đóng góp tới 20% tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam và 28% tổng sản lượng công nghiệp của quốc gia này trong năm 2005. GDP của thành phố Hồ Chí Minh năm 2007 được ước tính là 14,3 tỷ USD và thu nhập đầu người trung bình là 2.280 USD. Trong năm 2007, thành phố Hồ Chí Minh đón khoảng 3 triệu lượt du khách quốc tế, chiếm 70% tổng lượng du khách quốc tế tới Việt Nam.

Thành phố Hồ Chí Minh có khí hậu nhiệt đới với hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Lượng mưa trung bình hàng năm trong mùa mưa vào khoảng 1800 mm; số ngày mưa trung bình năm là 150 ngày. Thông thường mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào cuối tháng 11. Mùa khô kéo dài từ tháng 12 tới tháng 4 hàng năm. Nhiệt độ trung bình là 280C, nhiệt độ cao nhất đôi khi lên tới 390C vào buổi trưa cuối tháng 4, trong khi nhiệt độ thấp nhất đạt 160C vào cuối tháng 12.

Bằng chứng biến đổi khí hậu Nhiệt độ trung bình năm đã tăng lên 0.70C trong 50 năm vừa

qua. Mùa khô đang trở nên khô hơn, mùa mưa đang trở nên ẩm ướt hơn. Việt Nam có độ nhạy cảm rất cao với diễn biến thời tiết bất thường (ví dụ như El Nino).

Tác động Cao trình trung bình của thành phố Hồ Chí Minh là 19 m, một phần đáng kể của thành phố đang bị đe dọa với mực nước biển dâng và nước dâng do bão. Một phân tích gần đây do Ngân hàng Thế giới tiến hành về tác động tiềm tàng của mực nước biển dâng lên 84 vùng duyên hải của các quốc gia đang phát triển đã xếp Việt Nam vào danh sách 5 quốc gia đứng đầu về mức độ bị ảnh hưởng của mực nước biển dâng, điều này đã làm cho thành phố bị hứng chịu hiểm họa tiềm tàng cao, (8 trong tổng 10 điểm). Nếu mực nước biển dâng cao 1m, thì 11% dân số của Việt Nam, 10% GDP và 29% diện tích đất ngập nước của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng. Ngoài ra nó sẽ gây thiệt hại khoảng 17 tỷ USD mỗi năm và mất khoảng 12% diện tích đất đai phì nhiêu. Bản đồ hóa tính dễ bị tổn thương cho toàn vùng Đông Nam Á cũng xếp châu thổ sông Mekong của Việt Nam vào danh sách các vùng dễ bị tổn thương nhất. Mực nước biển sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới nông nghiệp trong vùng duyên hải, giảm sản lượng gạo sản xuất trong vùng châu thổ sông Mekong. Thực tế mà nói, an toàn lương thực và công ăn việc làm sẽ là những đe dọa chính trong vùng châu thổ sông Mekong. Không thể phủ nhận một điều là người nghèo sẽ là những người dễ bị tổn thương nhất.

Mực nước biển dâng cao sẽ làm ngập một phần không nhỏ thành phố Hồ Chí Minh và sẽ làm cho nước biển xâm nhập sâu vào đất liền trong mùa khô, đặc biệt là lúc thời tiết hạn hán. ước tính trên toàn bộ đồng bằng châu thổ sông Mekong, nếu mực nước biển dâng cao 1m, nước mặn có thể đi sâu vào trong đất liền 60 tới 70 km và làm ngập khoảng 15.000 - 20.000 km2. Sự xâm nhập của nước biển sẽ làm mặn hóa nước mặt và nước ngầm, đe dọa đến khả năng cấp nước cho thành phố Hồ Chí Minh và hàng triệu người.

Ngoài việc bị đe dọa bởi mực nước biển dâng, ngập lụt, nước dâng do bão, mặn hóa nguồn nước ngọt và nước ngầm, thành phố Hồ Chí Minh còn bị đe dọa bởi lũ và xói lở đất. Vì thành phố Hồ Chí Minh tọa lạc ngay trên hai bờ của sông Sài Gòn nên nó thường phải hứng chịu ảnh hưởng của lũ, lũ quét do mưa cực đoan và sạt lở đất. Các đợt lũ quét trước đây đã phá hủy một phần của thành phố, gây thiệt hại hàng triệu USD, và ảnh hưởng nhiều nhất tới người nghèo. Ví dụ bão và lụt ở Việt Nam trong năm 2007 đã cướp đi sinh mạng của khoảng 435 người và gây thiệt hại khoảng 917 triệu USD.

Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu đã nêu lên rằng, dòng chảy tối đa hàng tháng của sông Mekong được ước tính là tăng lên từ 16 tới 19% ở vùng châu thổ cho giai đoạn từ 2010 tới 2038 và con số này sẽ cao hơn trong giai đoạn từ 2070 tới 2099 khi so sánh với số liệu giai

Điểm số cho tính dễ tổn thương = 6

Hiểm họa môi trường 8

Đe dọa do bão 6

Dâng cao mực nước biển 10

Lũ lụt / hạn hán 8

Nhạy cảm kinh tế xã hội 6

Dân số 4

Đe dọa đến tài sản 7

Năng lực ứng phó nghịch đảo 3

22

Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

đoạn 1961 tới 1990. Ngược lại dòng chảy cực tiểu được ước tính là giảm từ 26 tới 29% trong vùng châu thổ, điều này có thể hiểu là rủi ro về lũ lụt sẽ cao hơn trong mùa mưa và khả năng thiếu nước ngọt trong mùa khô sẽ lớn hơn. Lũ có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới nghề nuôi trồng thủy sản và cơ sở hạ tầng, và giảm dòng chảy trong mùa khô có thể sẽ làm giảm mức độ phong phú của một số loài.

Thành phố Hồ Chí Minh cũng nằm trong vành đai bão. Những cơn bão trước đã phá hủy đi hàng nghìn héc-ta đất canh tác và gây rối loạn giao thông. Chúng đã gây thiệt hại hàng tỷ đô la và được dự báo là còn xấu hơn trong tương lai. Trầm trọng hơn nữa, những nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng tần suất và cường độ của các cơn bão nhiệt đới xuất phát từ Thái Bình Dương không những tăng lên trong vài thập kỷ qua mà còn được dựa báo là sẽ tăng lên trong tương lai.

Năng lực ứng phó Cư dân của thành phố Hồ Chí Minh phải ứng phó với biến đổi khí hậu. Mặc dù thành phố có một năng lực ứng phó khá cao, nhưng ứng phó với mực nước biển dâng và xử lý các hiện tượng thời tiết cực đoan như lũ lụt là cực kỳ tốn kém. Bởi vì thành phố Hồ Chí Minh có địa hình khá thấp, lựa chọn di chuyển tới vùng đất cao hơn không có nhiều. Bởi vậy, tăng cường bảo vệ vùng ven biển trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Dự báo đã cho thấy, với mực nước biển dâng cao 1 m, sẽ có 2.500 km2 rừng ngập mặn hoàn toàn biến mất và 1000 km2 diện tích nuôi trông thủy sản sẽ biến thành các đầm muối. Bảo vệ tốt hơn, thậm chí phục hồi lại rừng ngập mặn là rất quan trọng nhằm bảo vệ thành phố Hồ Chí Minh và các vùng ven biển khác. Vì mực nước biển dâng cao sẽ đẩy những người ở vùng nông thôn ra thành thị kiếm sống, gây sức ép mạnh lên những nguồn lực vốn có hạn, nên thành phố phải xem xét lồng ghép tác động của mực nước biển dâng cũng như các tác động khác vào trong quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng và thiết kế hệ thống cấp thoát nước. Thật may là Việt Nam đã bắt đầu hành động. Quốc gia này đã ký hiệp định Kyoto vào năm 1999 và đã thành lập một Cục Biến đổi Khí hậu thuộc Bộ tài nguyên và Môi trường. Trên thực tế Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Việt Nam đã bắt đầu giám định những tác động của biến đổi khí hậu tới sự phát triển bền vững quốc gia. Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao nhiệm vụ chuẩn bị chương trình mục tiêu quốc gia chống biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cho giai đoạn 2009 tới 2015. Các sáng kiến như Mạng lưới các thành phố châu Á chống biến đổi khí hậu, đang xây dựng các nghiên cứu điểm về các dự án xây dựng thích ứng biến đổi khí hậu, bao gồm cả các hệ thống y tế nhằm phòng chống bệnh sốt dengue, và cải thiện cơ sở hạ tầng cho kiểm soát lũ lụt. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn cần những trợ giúp về kĩ thuật lẫn tài chính từ cộng đồng thế giới để có thể ứng phó thành công với biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng.

1 m sea-level rise 2 m storm surge

20 km

© 2009 Google Map

N

23

Thượng Hải, Trung Quốc

Hồ sơ thành phốThượng Hải là thành phố lớn nhất của Trung Quốc với trên 20 triệu dân. Diện tích thành phố là 6.400 km2 và vẫn đang được mở rộng. Nằm cách Hồng Kông và Bắc Kinh khoảng cách gần bằng nhau, Thượng Hải là thành phố cửa sông trong đồng bằng Trường Giang. Thượng Hải là cảng hàng hóa với 560 triệu tấn hàng trong năm 2007. Ngoài ra, cảng container từ Thượng Hải đi Hồng Kông sắp trở thành cảng tấp nập thứ hai trên thế giới, sau Singapore. Do đó, hệ thống kinh tế - xã hội nhạy cảm cao trước biến đổi khí hậu và vì vậy, xếp hạng 9/10 trong nghiên cứu này.

Độ cao trung bình so với mặt nước biển của Thượng Hải chỉ là 4m. Phía đông Thượng Hải là biển Hoa Đông. Thành phố này bị chia đôi bởi sông Hoàng Phố, một nhánh của sông Trường Giang. Thượng Hải nằm trên vùng bùn xốp của đồng bằng và độ lún tự nhiên được ước tính là 2 đến 2,6 m, góp phần làm cho thành phố có hiểm họa môi trường cao, xếp hạng 8/10.

Là một thành phố lớn về kinh doanh, Thượng Hải tiếp hàng trăm nghìn du khách thương gia (trong đó 700.000 người đến từ Đài Loan). Mặc dù Thượng Hải và Hông Kông cạnh tranh vị trí trung tâm kinh tế của Trung Quốc, Thượng Hải có tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên 200 triệu USD và sức mua tương đương (PPP) là 371 USD. Chỉ số GDP bình quân theo đầu người là 10.500 USD và đang tăng ít nhất là 10% một năm. Con số GDP này được coi là cao hơn đáng kể so với những thành phố khác của châu Á được phân tích, vì thế, Thượng Hải được xếp hạng là một trong những thành phố có năng lực ứng phó hơn trong nghiên cứu này.

Thượng Hải có khí hậu cận nhiệt đới ẩm và có bốn mùa rõ rệt. Vào mùa đông (tháng 12-tháng 2), gió lạnh từ phía bắc bắt nguồn từ Siberi có thể gây ra nhiệt độ ban đêm giảm xuống đến giá lạnh (trung bình thấp là 1°C trong tháng 1), và mặc dù không thường xuyên kết hợp có tuyết, thành phố có thể có một hoặc hai ngày tuyết rơi mỗi năm. Mùa hè (tháng 6- tháng 8) ở Thượng

Hải rất ấm (nhiệt độ trung bình cao là 32°C trong suốt tháng 7) và ẩm ướt, với mưa rào thỉnh thoảng diễn ra do bão có sấm sét bất thình lình. Lượng mưa thay đổi nhưng mưa chủ yếu là vào các tháng hè. Trung bình có khoảng 112 ngày mưa mỗi năm, tổng lượng mưa trên 1.100 mm hàng năm. Mặc dù gần đây Thượng Hải không bị ảnh hưởng nặng nề , thành phố vẫn có nguy cơ gặp bão.

Bằng chứng biến đổi khí hậuCũng như nhiều thành phố châu Á khác, Trung Quốc đã chứng kiến biến đổi khí hậu đáng kể. Theo IPCC, nhiệt đô tăng được ghi nhận trong các thập kỷ gần đây dao động từ 1°C đến 3°C trong vòng 100 năm qua (hiện tượng ấm lên rõ rệt hơn đã được ghi nhận ở các vĩ độ Bắc). Ngoài ra, sự ấm lên trong vòng 50 năm qua ngày càng trở nên rõ rệt trong mùa đông hơn mùa hè, và tỉ lệ tăng ở nhiệt độ thấp rõ rệt hơn so với tăng ở nhiệt độ cao. Mặc dù các dữ liệu khí hậu cụ thể của Thượng Hải chưa có, IPCC báo cáo rằng lượng mưa hàng năm tăng trong thập kỷ qua ở Tây Trung Quốc, dọc theo sông Trường Giang và ở bờ biển đông nam.

Tác độngBiến đổi khí hậu là mối đe dọa lớn đối với Thượng Hải và nó được phản ánh rõ rệt nhất bởi thiệt hại rất lớn xảy ra vào năm 2006. Các tác động do kết hợp bởi mực nước biển dâng, xói mòn bờ biển, và xâm nhập của nước mặn đã gây ảnh hưởng nặng nề đến các nền kinh tế ven biển của Trung Quốc. Ví dụ, năm 2006, sự xâm nhập của nước mặn và xói mòn bờ biển đã tác động đến phần lớn khu vực đồng bằng Trường Giang.

Cụ thể, nước biển đã làm nhiễm mặn nguồn dự trữ nước và giảm đáng kể chất lượng nước ngầm. Thật không may, việc nước biển xâm nhập này cũng ảnh hưởng đến hệ sinh thái ở địa phương, như đất ngập nước, những hệ sinh thái này có thể nâng cao chất lượng nước bằng cách lọc tự nhiên các chất ô nhiễm vàmùn bã hữu cơ. Các khu vực bờ biển là nơi sinh cư của các loài thủy sinh như cá, những loài này hỗ trợ đáng kể lương thực và sinh kế cho các dân cư nghèo nhất Thượng Hải.

Các sự kiện trong năm 2006 cũng cho thấy các trận bão nhiệt đới và giông tố có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng đến nhường nào. Cơn bão nhiệt đới Bilis đã ảnh hưởng đến gần 32 triệu người, khoảng 3,4 triệu người phải sơ tán. Cơn bão nhiệt đới này gây ra thiệt hại trên 1,3 hecta mùa màng và thêm 250.000 hecta mùa vụ chưa kịp thu hoạch. Thêm vào đó, gần 900.000 ngôi nhà bị sập hoặc bị hư hại. IPCC khuyến cáo

Điểm số cho tính dễ tổn thương = 6

Hiểm họa môi trường 8

Đe dọa do bão 7

Dâng cao mực nước biển 10

Lũ lụt / hạn hán 7

Nhạy cảm kinh tế xã hội 9

Dân số 9

Đe dọa đến tài sản 8

Năng lực ứng phó nghịch đảo 2

24

Thượng Hải, Trung Quốc

tần suất và cường độ của các đợt bão trong khu vực sẽ tăng cùng biến đổi khí hậu và đến năm 2006, thiệt hại sẽ tăng. Thật không may, đồng bằng sông Trường Giang đặc biệt dễ bị tổn thương bởi bão, và đã có triều cường cao tới 5,2 m được ghi nhận từ trước.

Mực nước biển dâng đang cùng xảy ra với sự lún xuống của đồng bằng sông Yangtze. Hiện tượng sụt lún hiện tại là khoảng 2,0 đến 2,6 m, khi ngày càng nhiều người đổ về Thượng Hải, việc sử dụng nước ngầm tăng đang làm đất lún nhanh hơn. Ngoài ra, dự báo nước biển dâng từ 50 đến 70 cm đến năm 2050. Các mô hình cho thấy mực nước biển dâng 0,3 m thì khu vực này sẽ bị ngập khoảng 54.500 km2. Lụt lội cũng là mối đe dọa nghiêm trọng khác ở đồng bằng sông Trường Giang. Trên thực tế, đã ghi nhận sự gia tăng về tần suất của các sự kiện thời tiết cực đoan với nhiều trận bão hơn trong thập kỷ vừa qua và dự báo điều này sẽ tiếp tục xảy ra cùng với tác động của biến đổi khí hậu. Thượng Hải dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu, các sự kiện năm 2006 cho thấy sự kết hợp của bão nhiệt đới, mực nước biển dâng, xói mòn bờ biển và xâm nhập của nước mặn sẽ ảnh hưởng đến các khu vực trung tâm đồng bằng lớn của Châu Á.

Năng lực ứng phóThượng Hải và đồng bằng sông Trường Giang đóng góp một phần đáng kể vào tổng sản phẩm quốc nội của Trung Quốc. Trên thực tế, ước tính cho thấy nền kinh tế của cả đồng bằng sông Trường Giang tương đương với một nước phát triển tầm trung, với GDP (khi so sánh với sức mua tương ứng) vào khoảng 2.000 tỷ USD, chiếm 21% nền kinh tế Trung Quốc theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Do sự phát triển rộng khắp trong khu vực, đồng bằng sông Trường Giang có thể là nơi tập trung lớn nhất liền kề các khu vực trung tâm của thế giới, chiếm diện tích 99.600 km2 và là nơi sinh sống của 80 triệu người (2007). Rõ ràng là, bảo vệ Thượng Hải và các khu đô thị quan trọng khác trong đồng bằng sông Yangtze có tầm quan trọng về kinh tế và nhân đạo cực kỳ quan trọng.

Thượng Hải đã thực hiện một số chiến lược ứng phó bao gồm những chiến lược IPCC gọi là hệ thống theo dõi và cảnh báo nhiệt hiệu quả, hệ thống này có vẻ như hữu ích trong việc giảm tác động của biến đổi khí hậu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, chất lượng không khí kém ở các khu công nghiệp của Thượng Hải góp phần tăng tính tổn thương tổng thể và có khả năng đóng góp vào việc gây ô nhiễm nhiệt trên diện rộng; làm nảy sinh các bệnh tim mạch và hô hấp do do phải tiếp xúc nhiều với khói bụi. Cũng đã có những hành động bảo vệ bờ biển. Tuy nhiên, những hành động này bị đánh giá là còn hạn chế, cần có nhiều hành động bảo vệ hơn nữa để làm lá chắn cho các mức nước biển cao hơn và các trận bão cũng như triều cường trong tương lai. IPCC cũng nhấn mạnh rằng Thượng Hải dễ bị tổn thương với các sự kiện thời tiết cực đoan do thành phố phụ thuộc nặng nề vào các biện pháp bảo vệ bờ biển nhân tạo với những thất bại mang tính hệ thống dẫn tới nhiều vấn đề xảy ra trên quy mô lớn. Thượng Hải nên tăng các tiêu chuẩn về thiết kế đối với các đường đê và đập nước để chuẩn bị ứng phó bão và lũ lụt trong tương lai. Ứng phó bảo vệ bờ biển cũng nên kết hợp các phương án không-hối-tiếc vốn đòi hỏi chi phí thấp mà hiệu quả cao, như bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái ven biển như rừng ngập mặn.

1 m sea-level rise 2 m storm surge

50 km

© 2009 Google Map

N

25

Bangkok, Thái LanHồ sơ thành phốNằm trên bờ sông Chao Praya, Bangkok là khu vực đô thị lớn nhất và là thành phố thủ đô của Thái Lan. Với diện tích trên 1,500 km2, đây là một trong những thành phố lớn nhất trên thế giới. Bangkok còn được coi là trung chính trị, kinh tế và xã hội khộng chỉ của Thái Lan mà còn của các Châu Á. Bangkok là một trong những trung tâm kinh doanh, tài chính, và văn hóa lớn của châu Á và thành phố này ảnh hưởng đến mọi mặt, từ nghệ thuật đến chính trị, thời trang, giáo dục và giải trí.

Bangkok có dân số đa dạng với khoảng 6 triệu người và vùng xung quanh Bangkok có dân số khoảng 12 triệu người (2008). Bangkok được cho là khu vực bê tông hóa nhiều nhất ở Đông Nam Á. Bangkok thường được coi là “Venice của phương Đông”, vì nó cách cửa sông Chao Praya và Vịnh Bangkok 30 km, với nhiều kênh rạch chia khu vực này thành nhiều dải đất.

Bangkok là trung tâm kinh tế của Thái Lan, đóng góp 220 tỉ USD hay 44% GDP của cả nước. Với phần đóng góp GDP đáng kể này, GDP theo đầu người của Bangkok là trên 20.000 USD. Tuy đây là một trong những tỉ lệ GDP theo đầu người cao nhất Đông Nam Á, nó không phản ánh khoảng cách rất lớn giữa thu nhập của người giàu và người nghèo sinh sống ở Bangkok. Do vậy, Bang-kok xếp hạng 7 trên 10 về tính nhạy cảm về kinh tế-xã hội đối với biến đổi khí hậu.

Thái Lan thu hút tổng cộng khoảng 14,5 triệu khác du lịch nước ngoài mỗi năm (2007) và ước tính Bangkok thu hút gần 11 triệu người (2007), hơn thành phố New York khoảng 3 triệu khách du lịch. Do vậy, du lịch đóng góp khoảng 5% GDP của Thái Lan và có đóng góp đáng kể cho nền kinh tế Thái Lan.

Bangkok có hai mùa: khí hậu khô và ẩm ướt nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình ở Bangkok dao động từ nhiệt độ thấp khoảng 21°C trong tháng 12 và tháng 1 cho đến nhiệt độ cao khoảng 35°C trong tháng 4. Lượng mưa trung bình từ 10 mm trong tháng 12 - tháng 1 đến 320 mm trong tháng 9.

Bằng chứng biến đổi khí hậuNhiệt độ ở Đông Nam Á đã tăng từ 0.5 đến 1.5°C trong khoảng từ năm 1951 đến 2000. Mặc dù lượng mưa có xu hướng giảm trong khoảng từ năm 1961 đến 1998, số ngày mưa giảm, tần suất các đợt mưa có cường độ cao hơn lại tăng ở nhiều nơi. Điều này dẫn đến các trận lụt, lở đất, tạo ra các dòng chảy bùn cát, mặc dù số ngày mưa và tổng lượng mưa hàng năm đã giảm.

Tác độngMực nước biển dâng là mối đe dọa biến đổi khí hậu chính đối với Bangkok. Thành phố nằm trên mực nước biển 2m và IPCC nhận định rằng sự lún xuống hay chìm ngập của đồng bằng sông Chao Phraya đang bị đẩy nhanh bởi các hoạt động của con người như khai thác quá mức nguồn nước ngầm và nguồn cung cấp trầm tích cho dòng sông đang suy giảm do các con đập ở thượng nguồn. Sự lún xuống này được ước tính là khoảng 0,2 đến 1,6 m. Nghiên cứu gần đây cho thấy mực nước biển sẽ dâng lên khoảng 10 đến 100 cm trong vòng 50 năm nữa ở trên của Vịnh Thái Lan. Do vậy, nước mặn sẽ xâm nhập vào nhiều km đất liền thuộc đồng bằng sông Chao Praya, dẫn tới ảnh hưởng đến nguồn cung cấp nước ngọt của Bangkok. Điều này sẽ ảnh hưởng đến mọi mặt, từ sản lượng nông sản đến nguồn dự trữ nước uống. Nhiễm mặn nước cũng trở nên trầm trọng hơn bởi các đợt triều cường trong những trận bão thường xuyên hơn và khắc nghiệt hơn. Việc mất đất liền do mực nước biển dâng tăng khoảng 50 cm đến 100 cm có thể làm giảm GDP của Thái Lan xuống 0,36% đến 0,69% (tương ứng 300 đến 600 triệu USD) mỗi năm. Sản xuất có lẽ sẽ là ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất, ngành này ở Bangkok có thể chiếm 61 và 38% tổng thiệt hại. Hiểm họa môi trường được xếp điểm 5/10 trong nghiên cứu này.

Xói mòn đất ở ven biển là mối đe dọa khác nữa đối với Thái lan và với mực nước biển tăng như dự đoán, nước này sẽ mất nhiều mảnh đất quý giá hơn. Ở một số nơi dọc bờ biển dài 2.667 km của Thái Lan, xói mòn đất đang diễn ra với tốc độ 15 đến 25 m mỗi năm. Tình hình này sẽ ảnh hưởng không chỉ Bangkok và các khu ngoại ô xung quanh, mà còn có tác động nghiêm trọng về kinh tế đến ngành du lịch. Thật không may mắn, việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ở ven biển -rừng ngập mặn- vốn đang bị chia cắt với tốc độ báo động, cũng bị ảnh hưởng bởi xói mòn bờ biển. Ví dụ, huyện ven biển duy nhất của Bangkok, Bang Khunthian, từng có 5km đường bờ biển bùn lầy và đã mất trên 483 ha rừng ngập mặn trong vòng 30 năm qua. Những khu rừng ngập mặn có vai trò vùng đệm làm lá chắn cho các đợt triều cường bằng cách thẩm thấu năng lượng từ các con sóng và khi không còn rừng ngập mặn, con người sẽ dễ bị tổn thương. Những vạt rừng ngập

Điểm số cho tính dễ tổn thương = 5

Hiểm họa môi trường 5

Hiểm họa môi trường 2

Dâng cao mực nước biển 7

Lũ lụt / hạn hán 7

Nhạy cảm kinh tế xã hội 7

Dân số 5

Đe dọa đến tài sản 9

Năng lực ứng phó nghịch đảo 4

26

Bangkok, Thái Lan

mặn đóng vai trò hập thụ và làm giảm nhẹ năng lược sóng, tạo chức năng đêm cho cộng đồng cư dân ở phía trong, khi rừng ngập mặn mất đi, con người sẽ dễ bị tổn thương hơn. Một ví dụ về hiểm họa môi trường là ở ngôi làng nhỏ của Khun Samutchine, thuộc tỉnh Samut Prakan phía nam Bangkok. Do xói mòn bờ biển và các nhân tố khác, nhiều người sinh sống ở đây đã phải bỏ nhà của họ ở ven biển để chuyển vào vùng nội địa, do vậy họ mất rất nhiều của cải.

Do Bangkok có độ cao so với mực nước biển quá thấp và nằm ngay trên bờ sông Chao Praya, lũ lụt là một mối đe dọa khác do biến đổi khí hậu mang lại. Trong lịch sử, Bangkok vẫn luôn bị lũ lụt thường kỳ. Tuy nhiên, với sự gia tăng dự kiến về các đợt mưa cực lớn, việc bảo vệ thành phố khỏi lũ lụt trong suốt đợt gió mùa sẽ còn khó khăn và tốn kém hơn. Như đã đề cập, Bangkok nằm trong đồng bằng sông Chao Phraya và do đó có rất nhiều kênh rạch xung quanh. Trong suốt mùa mưa, nước sông dâng cao và tràn ra cả bờ sông, gây ra ngập lụt nhiều nơi.

Năng lực ứng phóBiến đổi khí hậu gây ra nhiều mối đe dọa nghiêm trọng đối với Bangkok. Với lượng của cải tương đối lớn, Bangkok có năng lực ứng phó cao hơn phần lớn các thành phố khác trong Đông Nam Á và vì vậy, xếp hạng 5/10 cho năng lực ứng phó. Bangkok đã áp dụng nhiều phương án phòng chống và kiểm soát lũ lụt. Cụ thể, Hội đồng Đô thị Bangkok (BMA) gần đây đã xây dựng bờ sông cao hơn và các trạm bơm trong các khu vực chiến lược của thành phố để điều hòa nước trong các kênh và sông vốn có khả năng gây ngập lụt trong mùa mưa và thời tiết cực đoan. Hệ thống cống cũng cần phải được thiết lập ở một số vùng để chống xâm nhập mặn và kiểm soát lũ lụt

Sự kết hợp của các đợt lũ lớn với những đợt hạn kéo theo đó gây đe dọa đến an ninh lương thực trong vùng và là mối quan ngại của Chính phủ Thái Lan. Do đó, các hầm dự trữ gạo đã được xây dựng trên các vùng đất cao ở một số vùng. Cũng đã có tập huấn ở cấp độ cộng đồng về ứng phó với trường hợp khẩn cấp và cách thức chuẩn bị cho những sự kiện thời tiết cực đoan. Một ví dụ tích cực từ Việt Nam là thiết lập hệ thống cảnh báo sớm cho cộng đồng địa phương. Việc này không chỉ giúp cứu mạng người mà còn giảm chi phí thiệt hại đáng kể.

Do ảnh hưởng của nước biển dâng và hạn hán kéo theo cùng các triều cường, sẽ là khôn ngoan hơn nếu Bangkok bảo vệ tốt hơn các rừng ngập mặn hiện có và phục hồi các khu rừng đã bị mất đi do chặt phá. Những khu rừng này giúp bảo vệ đắc lực khỏi các trận bão và là môi trường sống dưới biển quan trọng cho các loài cá. Bảo vệ và phục hồi rừng ngập mặn có thể mang lại lợi ích cao hơn do chi phí thực hiện thấp.

1 m sea-level rise 2 m storm surge

10 km

© 2009 Google Map

N

27

Hồng Kong, Trung QuốcHồ sơ thành phốHồng Kong, hay còn gọi là Đặc khu hành chính Hồng Kong, là một phần lãnh thổ của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Vùng lãnh thổ quay mặt ra phía biển Đông này có diện tích là 1.100 km2, bao gồm đảo Hồng Kong, đảo Lantau, bán đảo Kowloon, vùng New Territories và khoảng 260 hòn đảo lớn nhỏ khác nhau. Hồng Kong từ rất lâu đã nổi tiếng vì có cảng nước sâu tự nhiên, được bao bọc xung quanh bởi hoàng loạt đồi núi cao và là một nơi đô thị phát triển với sự hòa trộn của hai nên văn hóa Đông - Tây. Sự đa dạng về văn hóa của Hong Kong được thể hiện trong ẩm thực, phim ảnh, âm nhạc và phong tục tập quán của họ. Hồng Kong cách Macau khoảng 60 km về phía Đông và nằm ở phần đối diện với Đồng bằng châu thổ sông Pearl, nơi thải ra một lượng lớn chất ô nhiễm môi trường không khí. Hồng Kong chủ yếu có địa hình đồi núi thấp (ví dụ đỉnh núi cao nhất là 958 m), trong đó chỉ có dưới 25% diện tích có hoạt động phát triển. Tổng số dân của Hồng Kong vào khoảng 7 triệu người với mật độ dân số là trên 6.200 người /km2, cao nhất trên thế giới. Hồng Kong đã và đang có nhiều nỗ lực trong việc kiểm soát việc khai hoang lấn biển dọc theo vùng cảng Victoria, chính quyền nơi đây cũng đang cố gắng để đảm bảo 40% diện tích sẽ là không gian xanh và khu bảo tồn thiên nhiên

Hồng Kong là một trung tâm tài chính quốc tế quan trọng, nơi có nền một kinh tế tư bản phát triển rất cao được bắt nguồn từ thời kỳ là thuộc địa của Vương quốc Anh. Nền kinh tế Hồng Kong khá nhạy cảm với biến đổi khí hậu, vì thế nên được xếp vào vị trí thứ 6 trong tổng số 10. Hồng Kong là một trong những khu vực tập trung đông nhất trụ sở của các công ty trong vùng Châu Á - Thái Bình Dương, và được xem là một trong những nền kinh tế tự do nhất trên thế giới. Thu nhập chính của Hồng Kong đến từ du lịch, xuất nhập khẩu và dịch vụ tài chính. Trong khi ngành du lịch của Hồng Kong đang rất mạnh - với 25 triệu lượt du khách trong năm 2006 - thì sự trỗi dậy của các thành phố khác ở Trung Quốc đang tạo ra một áp lực cạnh tranh rất mạnh mẽ.

Hồng Kong có khí hậu cận nhiệt đới ẩm tương tự như Thượng Hải. Tuy nhiên Hồng Kong có nhiệt độ ấm hơn do gần xích đạo hơn. Mùa hè ở Hồng Kong nóng và ẩm, với nhiệt độ trung bình khoảng 310C trong giai đoạn từ tháng 6 tới tháng 8. Mùa đông khí hậu tương đối lạnh, nhiệt độ trung bình là 140C trong tháng lạnh nhất - tháng 1. Lượng mưa nhiều nhất thường tập trung vào giai đoạn từ tháng 7 tới tháng 9 (tương ứng là 374 - 444 mm) khi luồng không khí ấm thổi từ phía tây nam lên. Đây cũng là khoảng thời gian thường xảy ra bão và mưa nhiều, lụt lội và sạt lở đất.

Bằng chứng biến đổi khí hậu Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu đã nêu rõ là nhiệt độ ở Trung Quốc đã tăng trong biên độ từ 10C đến 30C trong 100 năm vừa (nhiệt độ ở vùng vĩ độ cao tăng rõ rệt hơn). Thời tiết ấm lên trong vòng 50 năm vừa qua thể hiện trong mùa đông rõ rệt hơn trong mùa hè, tỷ lệ tăng cũng rõ rệt hơn khi nhiệt độ thấp. Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu cũng nhấn mạnh rằng, trong thập kỉ qua, lượng mưa hàng năm trong vùng phía tây và vùng duyên hải phía đông nam của Trung Quốc đã tăng lên.

Tác động Hồng Kong nằm chắn ngang phía ngoài của Đồng bằng châu thổ sông Pearl (hay còn gọi là đồng bằng châu thổ sông Zhujiang) được xem như một phần của toàn bộ vùng châu thổ rộng lớn này. Dân số của toàn bộ khu vực được ước tính là khoảng 60 triệu người, trong đó Hồng Kong đóng góp 7 triệu người. Bởi vì mối quan hệ kinh tế và sự cận kề về mặt địa lý rất gần gũi với Đồng bằng châu thổ sông Pearl, báo cáo này đưa ra những tác động của biến đổi khí hậu đối cho toàn bộ khu vực châu thổ, tuy nhiên chỉ đưa dân số và thu nhập theo đầu người của Hồng Kong vào các hợp phần tính toán tính dễ bị tổn thương khác. Tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu tới Hồng Kong và các khu vực phụ cận đó là dâng cao mực nước biển, nước dâng do bão, lụt lội, xâm nhập mặn và các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão nhiệt đới. Hệ quả là, Hồng Kong xếp hạng 7 trong trong 10 về mức độ chịu hiểm họa. Cộng cả tác động sụt lún nhẹ của thềm lục địa, mực nước biển được dự báo dâng cao từ 40 - 60 cm vào năm 2025 trong vùng đồng bằng châu thổ sông Pearl. Thêm vào đó, diện tích khu vực bị ngập 30 cm được ước tính là 5,500 km2, làm tăng diện tích ngập lụt vùng ven biển tăng lên 5 - 6 lần. Mực nước biển tăng từ 0,4 tới 1 m sẽ làm nước mặn xâm nhập sâu vào lục địa từ 1 đến 3 km, gây ảnh hưởng nhiều hơn đến nông nghiệp và công nghiệp dọc theo vùng cửa sông Zhujiang.

Gia tăng biến động về thời tiết được dự báo sẽ diễn ra trong toàn vùng và gây thay đổi lượng mưa, và có thể làm hạn hán ngày càng nghiêm trọng và kéo dài trong mùa khô. Lũ lụt sẽ xuất hiện nhiều hơn và ở cường độ mạnh hơn trong mùa mưa. Theo Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu tần suất mưa cực đoan đang gia tăng ở một số vùng của Trung Quốc lên 3 lần và thiệt hại đã tăng lên khoảng 8 lần vào những năm

Điểm số cho tính dễ tổn thương = 4

Hiểm họa môi trường 7

Đe dọa do bão 7

Dâng cao mực nước biển 7

Lũ lụt / hạn hán 6

Nhạy cảm kinh tế xã hội 6

Dân số 3

Năng lực ứng phó nghịch đảo 8

Năng lực ứng phó nghịch đảo 1

28

Hồng Kong, Trung Quốc

1990, tương tự như đã xuất hiện trong giai đoạn những năm 1970 và 1980. Xu thế này có thể sẽ tiếp tục trong tương lai. Trong mùa khô, tần suất và cường độ hạn hán tăng sẽ làm cho tác động của xâm nhập mặn mạnh lên, hủy hoại nhiều hơn chất lượng nước ngầm và nước mặt. Tần suất và cường độ của bão nhiệt đới xuất phát từ Thái Bình Dương cũng tăng lên trong một vài thập kỷ vừa qua - xu thế này được dự báo là sẽ tiếp tục. Cụ thể là số lượng và cường độ của các cơn bão mạnh tăng lên từ năm 1950 với 21 đợt nước dâng rất cao do bão trong giai đoạn 1950 tới 2004, trong đó 14 cơn bão đã xuất hiện trong giai đoạn 1986 và 2004. Thiệt hại do những cơn bão này gây ra và chi phí liên quan cũng tăng lên đang kể. Thực tế là thiệt hại trực tiếp do bão nhiệt đới gây nên ở châu Á đã tăng hơn 5 lần trong những năm 1980 so với thời kỳ những năm 1970, và vào khoảng 35 lần vào đầu những năm 1990 so với những năm 1970. Bởi vì số lượng các cơn bão được dự báo nhiều hơn trong tương lai, vì vậy chi phí cũng có chiều hướng gia tăng. Sự gia tăng về tần suất và cường độ của các sự kiện thời tiết cực đoan cũng sẽ có tác động xấu tới hệ sinh thái thủy sinh, càng làm cho vùng cửa sông trở nên dễ bị tổn thương hơn, sinh kế của cộng đồng người nghèo ở ven biển trở nên khó khăn hơn.

Biến đổi khí hậu cũng sẽ tác động tới sức khỏe của người dân ở Hồng Kong. Nhiệt độ ấm lên sẽ làm giảm số ngày lạnh trong mùa đông ở Hồng Kong. Các nghiên cho thấy rằng tác động cộng gộp của biến đổi khí hậu và đô thị hóa nhanh chóng sẽ làm cho Hồng Kong ấm lên rất nhiều, mùa đông với trung bình là 20 ngày lạnh (là những ngày nhiệt độ dưới 120C) của Hồng Kong sẽ biến mất; cụ thể là số ngày lạnh này sẽ biết mất không trong 50 năm tới. Số liệu quan sát đã chỉ ra rằng trong giai đoạn 1961 và 1990, số ngày lạnh trong một tháng mùa đông trung bình khoảng 21 ngày. Ngược lại, trong mùa hè số lượng ngày nóng (khi nhiệt độ cao hơn 280C) đã tăng lên gần 4 lần kể từ những năm 1990. Xu thế này có khả năng còn tăng lên trong điều kiện khí hậu thay đổi và làm có khí hậu trở nên khắc nghiệt hơn với người dân Hồng Kong.

Năng lực ứng phó Đồng bằng châu thổ sông Pearl là một trong những trung tâm chế tạo và sản xuất lớn nhất trên thế giới và có tầm quan trọng rất lớn cho nền kinh tế của Trung Quốc, cụ thể là đóng góp một phần rất lớn cho tổng sản phẩm quốc nội của nước này. Bởi vì vùng này có cao trình thấp và phải hứng chịu nhiều hiểm họa của biến đổi khí hậu, vì vậy hạn chế và ứng phó tác động của biến đổi khí hậu là ưu tiên hàng đầu. Do đồng bằng châu thổ sông Pearl là một trung tâm chế tạo, mà nguồn năng lượng dùng cho công việc này lại chủ yếu là than bẩn, do vậy nó bị ô nhiễm rất trầm trọng. Chất lượng không khí tại các thành phố chính trong vùng như Guangzhou, Hồng Kong, và Shenzhen rất kém, đã góp phần làm khủng hoảng sức khỏe cộng đồng, đóng góp vào con số trên 300.000 người chết trước lúc trưởng thành do ô nhiễm không khí ở Trung Quốc hàng năm. Tuy vậy, chuyển đổi sang các hình thức sử dụng năng lượng bền vững ở đồng bằng châu thổ sông Pearl sẽ có tác động tích cực ra cả ngoài phạm vi của khu vực này. Là một vùng giầu nhất và quan trọng nhất của Trung Quốc, việc xây dựng quy tắc sử dụng năng lượng tốt nhất ở đồng bằng châu thổ sông Pearl sẽ có tác động tích cực tới quy hoạch năng lượng ở các vùng khác thuộc Trung Quốc. Ngoài ra, làm sạch ô nhiễm môi trường (không khí, đất và nước) khá dễ, nếu chính quyền quyết định chuyển sang các hình thức sản xuất điện khác như sử dụng sức gió, năng lượng mặt trời, và địa nhiệt sẽ thì sẽ làm cho vùng này có tính đàn hồi cao hơn trước các tác động của biến đổi khí hậu.

Hồng Kong, giống như nhiều thành phố châu Á khác, đã chuyển một diện tích lớn rừng ngập mặn để nuôi tôm trong 3 thập kỉ vừa qua. Thật là may vì xu thế này đã thay đổi nhanh chóng bằng việc thực hiện các biện pháp bảo vệ bổ xung, tăng cường thực thi luật pháp và các chính sách phục hồi để cho rừng ngập mặn tiếp tục là vùng đệm chống lại bão tố và triều cường; đồng thời cung cấp nơi ương nuôi và sinh sản cho rất nhiều loài cá. Rừng ngập mặn gần đây bị chặt phá trên diện rộng để làm than củi, nuôi trồng thủy sản và làm nhà, nên đã làm tính dễ bị tổn thương của vùng ven biển này tăng lên. Nhưng các loại nhiên liệu rẻ tiền và vật liệu xây dựng thay thế đã có, giá trị đích thực của rừng ngập mặn phải được nhận thức đầy đủ. Các nghiên cứu sâu hơn ở mức độ phù hợp và chi phí cho bảo vệ vùng ven biển cũng sẽ giúp các quan chức trân trọng rừng ngập mặn hơn, nhưng hành động nên bắt đầu ngay.

1 m sea-level rise 2 m storm surge

20 km

© 2009 Google Map

N

29

Kuala Lumpur, Malaysia

Hồ sơ thành phốKuala Lumpur là thủ đô của Malaysia và là thành phố lớn nhất về số dân và quy mô kinh tế. Với diện tích 244 km2 , Kuala Lumpur có dân số ước tính 1,8 triệu người (năm 2009), nếu bao gồm cả các khu vực ngoại ô gần Kuala Lumpur (thường được biết đến như thung lũng Klang), dân số sẽ đạt khoảng 7,2 triệu USD. Kuala Lumpur có tốc độ tăng dân số và tăng trưởng kinh tế nhanh nhất, là trung tâm về tài chính, bảo hiểm, bất động sản, truyền thông và nghệ thuật. Kuala Lumpur xếp hạng 5/10 cho mức độ nhạy cảm về kinh tế - xã hội trước tác động của biến đổi khí hậu.

Nổi tiếng với tòa nhà cao nhất thế giới, tòa tháp đôi Petronas, Kuala Lumpur cũng là trung tâm văn hóa và kinh tế của Malaysia và nơi tập trung cơ quan đầu não của Chính phủ Malaysia. Kuala Lumpur có nghĩa nôm na là “ngã ba sông bùn lầy” vì thành phố này là nơi hợp dòng của hai con sông Klang và Gombak. Kuala Lumpur nằm trong thung lũng Klang xung quanh là dãy núi Main và Eo biển Malacca. Kuala Lumpur có độ cao so với mực nước biển là 22 m.

GDP của Kuala Lumpur được ước tính là 7,5 triệu USD trong năm 2000 với tỉ lệ tăng trưởng hàng năm trung bình là 4,2%. GDP theo đầu người của Kuala Lumpur trong năm 2000 là 8.800 USD, với tỉ lệ tăng trưởng hàng năm là 6,1%. Lĩnh vực dịch vụ tạo khoảng 83% việc làm và bao gồm: tài chính, bảo hiểm bất động sản, dịch vụ kinh doanh, thương mại bán buôn và bán lẻ, nhà hàng-khách sạn, giao thông, lưu trữ và truyền thông, ngành phục vụ công cộng, các dịch vụ cho cá nhân và chính phủ. 17% việc làm còn lại thuộc lĩnh vực sản xuất và xây dựng. Du lịch cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Kuala Lumpur, mang lại thu nhập và việc làm cho nhiều người.Khí hậu Kuala Lumpur mang tính chất xích đạo, hay còn gọi chính thức là khí hậu rừng mưa nhiệt đới. Nhiệt độ thường nhất quán và dao động từ trung bình thấp là 22°C trong tháng 1 và tháng 2 đến trung bình cao là 33°C trong tháng 3 và tháng 4. Lượng mưa trung bình là 2.266 mm mỗi năm và lượng mưa cao nhất trong tháng 3,4, 10, 11 và 12. Lũ lụt thường xuyên xảy ra ở Kuala Lumpur khi có mưa lớn và gây

ảnh hưởng nặng nề cho trung tâm thành phố. ô nhiễm không khí từ cháy rừng trong mùa khô và các sự kiện thời tiết cực đoan như El Nino, có thể là nguồn gốc quan trọng gây ra ô nhiễm ở Kuala Lumpur.

Bằng chứng biến đổi khí hậuThay đổi nhiệt độ của Kuala Lumpur cũng tương tự như thay đổi ở các thành phố khác của Đông Nam Á. Nói chung, nhiệt độ đã ấm lên 0,5 đến 1,5°C từ những năm thuộc thập kỷ 50. Đã có sự suy giảm tổng thể về lượng mưa ở cả khu vực Đông Nam Á với số ngày mưa giảm nhưng cường độ mưa bão tăng ở một số khu vực. Cũng có sự gia tăng về số ngày nóng nực và đêm ấm và giảm về số ngày và đêm lạnh trong khoảng từ năm 1961 đến 1998.

Tác độngCác sự kiện thời tiết cực đoan, như mưa bão và lũ lụt với cường độ cao đã và sẽ là một vấn đề lớn đối với Malaysia và cụ thể là Kuala Lumpur. IPCC nhấn mạnh rằng tần suất các đợt mưa cực đoan gây ra lũ lụt chóng vánh trong quá khứ và sự việc này sẽ càng tồi tệ trong những kịch bản biến đổi khí hậu. Các trận lụt trước gây ra thiệt hại đáng kể, bao gồm lở đất lớn cùng với thiệt hại về người và của nặng nề. Tốc độ đô thị hóa và tăng dân số tăng ở khu vực trung tâm của Kuala Lumpur sẽ kéo theo mở mang và phát triển nhiều khu vực nữa. Khi các sườn đồi càng bị lấn chiếm, nguy cơ sạt lở đất và thiệt hại tài sản càng tăng vào thời điểm có đợt mưa lớn. Gia tăng thời lượng và cường độ sóng nhiệt cũng được dự đoán là sẽ tồi tệ đi trong tương lai và sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến người dân nghèo của Kuala Lumpur, vì họ không có hoặc có ít năng lực ứng phó với gia tăng sốc nhiệt. Người nghèo ở Kuala Lumpur cũng có giai đoạn khó khăn đối mặt với nhiệt độ tăng, nhiều nhiễu loạn về lượng mưa hơn và sốc nhiệt. Dự kiến bệnh tiêu chảy do lũ lụt và hạn hán gây ra sẽ hoành hành ở địa phương kéo theo tăng số người tử vong vì bệnh này trong khu vực.

Tần suất hạn hán ở một số vùng của Malaysia khá cao, đặc biệt là ở bang Sabah, và với việc tiếp tục khai thác ồ ạt nguồn nước bề mặt, hạn hán có thể trở thành vấn đề lớn trong tương lai gần đối với Kuala Lumpur (ví dụ mất hồ dự trữ nước). Hạn hán ở Đông Nam Á cũng bị gây ra bởi các sự kiện El Nino. Đợt hạn hán năm 1997 đến 1998 đã gây ra mất mùa hàng loạt, thiếu nước, và cháy rừng trên diện rộng. Biến đổi khí hậu sẽ tiếp tục mở rộng diện tích thiếu nước nghiêm trọng của Malaysia, gây khó khăn cho dân nghèo trong cuộc đấu tranh sinh tồn khi gặp thiên tai.

Điểm số cho tính dễ tổn thương = 4

Hiểm họa môi trường 3

Đe dọa do bão 1

Dâng cao mực nước biển 1

Lũ lụt / hạn hán 7

Nhạy cảm kinh tế xã hội 5

Dân số 3

Đe dọa đến tài sản 7

Năng lực ứng phó nghịch đảo 3

30

Kuala Lumpur, Malaysia

Kuala Lumpur có khả năng sẽ không bị ảnh hưởng bởi nước biển dâng nhiều như những nơi khác trong khu vực, và do đó chỉ xếp hạng 3/10 về hiểm họa môi trường. Tuy nhiên, một phân tích gần đây cho thấy mực nước biển dâng có thể ảnh hưởng 7% dân số của Malaysia và 6% GDP quốc gia. Tác động cộng hưởng do mực nước biển dâng, xói mòn đất ven biển và chuyển đổi rừng ngập mặn ven biển sang nuôi trồng tôm đã diễn ra trong 3 thập kỷ qua suốt dọc bờ biển của Malaysia.

Năng lực ứng phóKuala Lumpur được coi là khu vực đô thị quan trọng nhất của Malaysia và ứng phó với biến đổi khí hậu mang tính quyết định đối với tăng trưởng kinh tế và bảo đảm phát triển bền vững. Hơn nữa, với trên 16 triệu du khách nước ngoài năm 2005 và một đóng góp đáng kể cho GDP quốc gia, các biện pháp ứng phó là thiết yếu để duy trì vị thế điểm đến du lịch chủ chốt của Malaysia. Thực tế cho thấy ứng phó với biến đổi khí hậu hiện tại sẽ ít tốn kém hơn và tương đối dễ dàng hơn là chờ đợi đến khi các hậu quả do biến đổi khí hậu gây ra trở nên trầm trọng hơn.

Do có sự gia tăng dự kiến về áp lực sử dụng nước, Malaysia, và cụ thể là Kuala Lumpur nên xem xét bảo vệ nguồn nước bề mặt và nước ngầm, nâng cao hạ tầng cơ sở, từ đó có thể sử dụng nước tái chế và tích trữ nước mưa. Chiến lược quan trọng khác nữa bao gồm nâng cao công tác quản lý và bảo trì hệ thống cung cấp nước, bảo vệ và bảo vệ các khu vực dẫn nước, xây dựng hệ thống kiểm soát lũ lụt, như Đường hầm quản lý nước lũ (SMART Tunnel), hệ thống theo dõi hạn hán, và cải cách chính sách về nước, bao gồm hệ thống định giá và tưới tiêu nước. Mặc dù nghiên cứu này không tìm ra được nhiều ví dụ ứng phó ở Kuala Lumpur, thành phố này có năng lực ứng phó tốt hơn các thành phố còn lại của Malaysia và xếp hạng 3/10. Hơn nữa, có nhiều nghiên cứu điển hình hay từ các nước khác của Đông Nam Á, và Kuala Lumpur nên chia sẻ kinh nghiệm của riêng mình.

Đối với các tài nguyên ven biển, Kuala Lumpur nên tập trung tăng cường bảo vệ hạ tầng kinh tế, nâng cao nhận thức và giáo dục cộng đồng về bảo vệ hệ sinh thái biển và ven bờ, bao gồm các khu rừng ngập mặn, hoàn thiện lập kế hoạch và khoanh vùng vùng ven bờ (như phát triển bền vững) và quản lý ven biển tổng hợp để các thành phần kinh tế có sự trao đổi với nhau và các chính sách cũng như luật pháp được nhìn nhận và thực thi.

1 m sea-level rise 2 m storm surge

20 km

© 2009 Google Map

N

31

Singapore, Cộng hòa Singapore

Hồ sơ thành phốSingapore, tên chính thức là Cộng hòa Singapore, vừa là thành phố vừa là một quốc đảo ở phía Nam của bán đảo Malay. Singa-pore là quốc gia nhỏ nhất ở Đông Nam Á với diện tích 710 km2. Mặc dù vậy, với dân số 4,7 triệu người và mật độ dân số là 6.672 người trên một km2, Singapore là nước có mật độ dân số cao thứ ba trên thế giới. Singapore có nền văn hóa đa dạng, với cộng đồng người Hoa chiếm đa số, cùng với số dân khá lớn người Malay, Ấn Độ và các dân tộc khác.

Singapore nằm ở ngay cửa sông Singapore và từ những năm 1960 đã phát triển gần như toàn bộ đất đai xung quanh thành khu đô thị với khoảng 23% đất được biến thành công viên. Trên thực tế, Singapore đã xây dựng một phần đất của mình từ biển (ví dụ Công viên East Coast) và có thể sẽ bổ sung thêm 100 km2 đến năm 2030.

Nền kinh tế Singapore tập trung vào công nghiệp, giáo dục, và quy hoạch đô thị, là quốc gia có mức sống cao và do đó xếp hạng về năng lực ứng phó với số điểm ngược lại là 1/10, tức là Singa-pore có năng lực ứng phó tương đối cao. Với thu nhập GDP bình quân theo đầu người (PPP) là 51.142 USD (2008), Singapore được coi là nước giàu thứ sáu trên thế giới. Tổng sản phẩm quốc nội GDP ước tính là 238,8 triệu USD (2008). Singapore được xếp hạng thứ 10 trong danh sách các thành phố sinh sống đắt đỏ nhất trên thế giới và thứ 3 trong khu vực châu Á. Du lịch cũng mang đến đóng góp đáng kể cho GDP nước này, với trên 10 triệu khách tham quan trong năm 2008.

Nằm cách đường xích đạo chưa đến hai độ, Singapore có khí hậu xích đạo điển hình hay còn gọi là khí hậu rừng mưa nhiệt đới với hai mùa không phân biệt rõ rệt. Do có lượng mưa ít nhất là 60 mm mỗi tháng, nước này không có mùa khô thực sự. Khí hậu Sin-gapore có đặc điểm nhiệt độ ấm đồng nhất, độ ẩm cao, và lượng mưa lớn. Nhiệt độ dao động từ 22°C đến 34°C và độ ẩm tương

đối là khoảng 90% vào buổi sáng và 60% vào buổi chiều. Trong các đợt mưa kéo dài, độ ẩm tương đối thường đạt 100%. Tháng 6 và tháng 7 thường là các tháng nóng nhất, trong khi tháng 11 và 12 tạo thành mùa gió mùa ẩm. Từ tháng 8 đến tháng 10, thường có khói mù, có khi nghiêm trọng và phải báo có cảnh báo về sức khỏe cộng đồng ngay, do cháy rừng từ Indonesia.

Bằng chứng biến đổi khí hậuTheo các dữ liệu khí hậu được theo dõi, Singapore đã ấm lên khoảng 0.6°C trong khoảng từ 1987 đến 2007, tương đồng với khu vực còn lại của Đông Nam Á. Singapore đã thấy có ít mưa hơn, với lượng mưa hàng năm giảm đáng kể trong ba thập kỷ qua, nhưng cường độ các trận mưa tăng cao trong đợt gió mùa, dẫn đến ngập lụt.

Tác độngTheo các dự án của IPCC nhiệt độ của Singapore tiếp tục tăng khoảng 1,7 đến 4,4°C vào cuối thế kỷ này. Ngoài ra, có khả năng Singapore sẽ tiếp tục có thay đổi về lượng mưa, nguồn nước sạch, và mực nước biển dâng cao. Các hiện tượng thời tiết cực đoan, như sóng nhiệt, mưa lớn, và lũ lụt cũng đe dọa Singapore, và vì vậy thành phố xếp hạng 4/10 về hiểm họa môi trường. Mùa gió mùa của Singapore kéo dài từ tháng 11 đến tháng 1 và lượng mưa tăng đáng kể trong thời gian này có thể gây ra lũ lụt nghiêm trọng và thiệt hại nặng nề. Ban đầu, lượng mưa tăng có vẻ như là một dấu hiệu tích cực đối với Singapore. Tuy nhiên, phần lớn lượng mưa lại là từ một vài cơn bão, dẫn đến khó giữ nước ở các khu vực dẫn nước trong khi nhu cầu về nước sạch và lương thực lại ngày càng tăng. Gần đây, Singapore đã nhập khẩu nước từ Johor, Malaysia và vẫn phải nhập khẩu lương thực, khiến cho Singapore dễ bị tổn thương trước các đổi thay ở các nước Đông Nam Á. Thực ra, ngành nông nghiệp của Singapore chỉ đóng góp chưa đến 1% GDP cả nước và do vậy, thiệt hại nghiêm trọng về mùa màng ở các nước láng giềng sẽ ảnh hưởng đến nông nghiệp và cung ứng thực phẩm. Để ứng phó với nguy cơ này, chính phủ Singapore đã thực hiện một số dự án được nêu bật trong phần ứng phó với biến đổi khí hậu dưới đây. Các dự đoán về biến đổi khí hậu cho thấy lượng mưa của Singapore sẽ thay đổi từ –2% đến +15% với trung bình là +7%, nhưng với chỉ 138 m3 nước sạch cung cấp cho mỗi người dân Singapore, việc thay đổi về lượng mưa tuy nhỏ nhưng sẽ dẫn đến những thay đổi lớn lao trong việc cung cấp nước sạch.

Điểm số cho tính dễ tổn thương = 4

Hiểm họa môi trường 4

Đe dọa do bão 1

Dâng cao mực nước biển 6

Lũ lụt / hạn hán 5

Nhạy cảm kinh tế xã hội 6

Dân số 2

Đe dọa đến tài sản 10

Năng lực ứng phó nghịch đảo 1

32

Singapore, Cộng hòa Singapore

Các dự đoán về biến đổi khí hậu cũng chỉ ra lượng mưa và gió cực đoan kết hợp với bão nhiệt đới có khả năng tăng lên. Đồng thời, mực nước biển dâng cao sẽ tiếp tục làm sạt lở vùng ven biển vốn đã ít ỏi của Singapore và dẫn đến giảm độ dài đường bờ biển tổng thể. Với tư cách là một hòn đảo, Singapore có ít đất liền và có nguy cơ cao về xói mòn bờ biển. Do vậy, mất đất ven biển là mối lo ngại lớn đối với Sin-gapore và xói mòn đất tăng đã ảnh hưởng đến một số khu vực giải trí dọc bờ biển như Công viên East Coast. Mực nước biển được dự đoán là tăng khoảng 60 cm vào cuối thế kỷ này và sẽ dẫn đến mất thêm đất liền.Hiểm họa khác do biến đổi khí hậu có thể bao gồm các tác động đến sức khỏe con người. Ví dụ, các bệnh tật như sốt dengue lan rộng và thường xuyên hơn ở các khu vực trước đây chưa bị ảnh hưởng. Dịch Dengue bùng phát trong năm 2005 lớn gấp ba lần cao điểm đợt dịch năm 1998 (bệnh này có 6 đến 7 đợt cao điểm) và năm 2007 chứng kiến đợt bùng phát cao thứ 3. Dịch Dengue đang lan ra những khu vực trước đây chưa hề bị ảnh hưởng.

Năng lực ứng phóSingapore có GDP bình quân đầu người khá cao, lượng dữ trữ tiền mặt lớn(ước tính 170 tỷ USD trong tháng 1 năm 2009), và có nhiều điều kiện tiếp cận các công nghệ mới và sáng tạo, vì vậy, người ta tin tưởng rằng đất nước này có năng lực ứng phó tương đối cao. Tuy nhiên, Singapore đặc biệt dễ bị tổn thương bởi các tác động do biến đổi khí hậu mang lại bởi đây là một quốc đảo, có mật độ dân số cao tập trung vào một thành phố và phụ thuộc vào nguồn lương thực từ các quốc gia khác. Do vậy, Singapore xếp hạng 6/10 mức độ nhạy cảm đối về kinh tế-xã hội trước tác động của biến đổi khí hậu. Ngoài ra, nguồn cung cấp nước cũng là vấn đề lớn ở Singapore vì nguồn nước của quốc gia này rất ít ỏi trong khi dân số và các hoạt động kinh tế tăng nhanh. Trước tình hình này, chính phủ Singapore có kế hoạch nâng cao hệ thống dẫn nước trên một nửa đến hai phần ba diện tích cả nước thông qua ba hồ chứa nước Marina, Punggol, và Serangoon. Singapore đang tập trung nhiều nguồn lực vào các công nghệ nâng cao hiệu quả sử dụng nước, như tái chế và tái sử dụng nước đã qua sử dụng. Dự án này được gọi là công nghệ NEWater, gần đây đã cung cấp khoảng 15% lượng nước tiêu dùng và sẽ tăng lên để đáp ứng 30% nhu cầu nước của Singapore đến năm 2011. Singapore đang sử dụng công nghệ lọc nước đổi chiều đối với nước biển, công nghệ này sẽ tạo ra 136 triệu lít nước sạch trong một ngày.

Xói mòn đất ven biển đang ảnh hưởng đến Singapore và tình hình sẽ càng tồi tệ đi với việc mực nước biển dâng và tần suất bão tăng. Ng-hiên cứu gần đây ước tính chi phí hàng năm để bảo vệ bờ biển Singapore là từ 0,3 đến 5,7 triệu USD đến năm 2050 và khoảng 0,9 đến 16,8 triệu USD đến năm 2100. Bảo vệ bờ biển được đánh giá là chiến lược ít tốn kém nhất để đối phó với mực nước biển dâng ở Singapore và các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng để bờ biển bị nhiễm mặn rồi mới xử lý sẽ tốn kém hơn việc bảo vệ bờ biển. Tuy nhiên, việc ứng phó không thay thế được các biện pháp giảm thiểu, đây là hai việc cần tiến hành cùng nhau.

1 m sea-level rise 2 m storm surge

5 km

© 2009 Google Map

N

33

Phần V

Tính dễ tổn thương tổng thể

9 8 8 7 7 6 6 5 4 4 4Dhaka Jakarta Manila Calcutta Phnom Pênh Hồ Chí Minh Thượng Hải Bangkok Hồng Kong KL Singapore

1. Hiểm họa

8 6 9 6 4 8 8 5 7 3 4Dhaka Jakarta Manila Calcutta Phnom Pênh Hồ Chí Minh Thượng Hải Bangkok Hồng Kong KL Singapore

1.1 Đe dọa do bão

4 2 10 3 2 6 7 2 7 1 1Dhaka Jakarta Manila Calcutta Phnom

Pênh

Hồ Chí Minh

Thượng Hải

Bangkok Hồng Kong

KL Singapore

1.2 Dâng cao mực nước biển

9 8 8 8 1 10 10 7 7 1 6Dhaka Jakarta Manila Calcutta Phnom

Pênh

Hồ Chí Minh

Thượng Hải

Bangkok Hồng Kong

KL Singapore

1.3 Lũ lụt / hạn hán

10 9 10 7 10 8 7 7 6 7 5Dhaka Jakarta Manila Calcutta Phnom

Pênh

Hồ Chí Minh

Thượng Hải

Bangkok Hồng Kong

KL Singapore

34

Phần V

2. Nhạy cảm

8 10 7 7 6 6 9 7 6 5 6Dhaka Jakarta Manila Calcutta Phnom Pênh Hồ Chí Minh Thượng Hải Bangkok Hồng Kong KL Singapore

3. Năng lực ứng phó

10 7 7 7 10 3 2 4 1 3 1Dhaka Jakarta Manila Calcutta Phnom Pênh Hồ Chí Minh Thượng Hải Bangkok Hồng Kong KL Singapore

2.1 Dân số

6 10 5 7 1 4 9 5 3 3 2Dhaka Jakarta Manila Calcutta Phnom

Pênh

Hồ Chí Minh

Thượng Hải

Bangkok Hồng Kong

KL Singapore

2.2 Đe dọa đến tài sản

10 9 9 6 10 7 8 9 8 7 10Dhaka Jakarta Manila Calcutta Phnom

Pênh

Hồ Chí Minh

Thượng Hải

Bangkok Hồng Kong

KL Singapore

35

Khuyến nghị về chính sách Không thể phủ nhận được rằng con người đã gây nên sự biến đổi khí hậu và những hậu quả không thể đảo ngược từ biến đổi khí hậu, cơ hội để hạn chế những tổn hại do biến đổi khí hậu gây ra đang dần đóng lại. Như đã được liệt kê trong báo cáo này, các tác động của biến đổi khí hậu ở châu Á là có thật và đang xảy ra. Tính dễ bị tổn thương của vùng này khá cao và hàng triệu người đang bị ảnh hưởng. Nhưng cũng may là có hàng loạt các giải pháp ứng phó tốt có thể được thực hiện ngay lập tức và sẽ góp phần bảo vệ con người, tài sản và các hệ sinh thái tự nhiên. Tuy vậy, hành động nhanh là vô cùng cần thiết vì trái đất không còn thời gian chờ đợi. Biến đổi khí hậu và những tác động của nó như dâng cao mực nước biển, lụt lội, hạn hán và bão nhiệt đới sẽ ngày càng trầm trọng. Chi phí để ứng phó với biến đổi khí hậu ngay từ bây giờ sẽ ít tốn kém hơn hành động muộn màng sau này vì các hư hại do biến đổi khí hậu gây ra sẽ ngày càng leo thang và chi phí để ứng phó cũng vậy.

Trước tình hình này, mục đích tối quan trọng trong hiệp định khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu là ổn định nồng độ khí phát thải để tránh những biến đổi khí hậu nguy hiểm. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng khi nhiệt độ trung bình của trái đất tăng lên 20C sẽ đưa đến những hậu quả nguy hiểm và không thể đảo ngược được đối với con người và tự nhiên. Nếu nhiệt độ tăng trên 20C, thì hậu quả sẽ nhanh chóng trở nên rất tồi tệ. Lợi ích của việc hành động sớm và mạnh sẽ cao hơn rất nhiều so với không hành động gì. Chi phí để phòng tránh những tác động xấu nhất của biến đổi khí hậu có thể chỉ giới hạn trong 1% GDP toàn cầu / năm, trong khi đó chi phí do không hành động ngay từ bây giờ sẽ dao động từ 5 tới 20% GDP của toàn cầu / năm. Các nghiên cứu về phát thải khí nhà kính khuyến cáo rằng, cơ hội để giữ cho nhiệt độ tăng dưới 20C đang dần khép lại, nhưng các nhà khoa học tuyên bố rằng điều này vẫn còn có thể thực hiện được. Để có được 50% cơ hội giữ cho nhiệt độ trái đất tăng dưới 20C đòi hỏi phát thải khí toàn cầu đạt đỉnh trước năm 2015 và giảm dần từ 80% tới 95% dưới mức của năm 1990 vào năm 2050. Vì vậy WWF kêu gọi các quốc gia phát triển cắt giảm lượng khí phát thải của họ ít nhất là 40% và 95% so với mức năm 1990 tương ứng vào năm 2020 và 2050.

Báo cáo này minh họa tính dễ bị tổn thương cao của các siêu thành phố ở châu Á và đưa ra một số giải pháp ứng phó chung. Đây cũng là một chất xúc tác cho những thảo luận xã hội về tính dễ bị tổn thương của vùng, những loại rủi ro khác nhau được phép và những điều có thể được thực hiện để cải thiện tình hình. Hy vọng rằng nó không chỉ thúc đẩy cho một thảo luận ở vùng này mà nó còn khởi xướng nên các cuộc thảo luận ở những vùng dễ bị tổn thương khác trên thế giới cũng như thảo luận về sự bất công trong lịch sử giữa những người gây ô nhiễm nhiều nhất và các quốc gia vốn có đóng góp rất ít vào biến đổi khí hậu nhưng lại phải hứng chịu nhiều hậu quả nhất.

Thực hiện các giải pháp giảm thiểu và ứng phó là rất bức thiết. Chúng ta cần triển khai những chính sách giảm thiểu tham vọng và hiệu quả ngay lập tức, đạt đỉnh phát thải càng nhanh càng tốt (nhưng không muộn hơn năm 2015) và duy trì cắt giảm ít nhất là 3% lượng khí thải hàng năm kể từ 2015 trở đi. Nếu chúng ta muốn phòng tránh những hậu quả không thể đảo ngược được và tiết kiệm chi phí thì chúng ta cần giảm nồng độ CO2 tới mức thấp hơn 350 ppm càng sớm càng tốt. Hiện nay, nồng độ CO2 trên thế giới được ước tính là khoảng 396 ppm, đã bao gồm cả hiệu ứng làm lạnh tạo aerosol trên khí quyển. Cách khác để chứng minh cho thực tế rất khó giữ cho nhiệt độ tăng trong ngưỡng 20C là kiểm tra tổng lượng CO2 cho phép trong khí quyển. Nhằm thực hiện được yêu cầu này, chúng ta phải hạn chế mức phát thải CO2 từ đốt cháy nguyên liệu hóa thạch trong khoảng 10 tỉ tấn trong giai đoạn từ 2010 tới 2050. Nếu chúng ta làm tốt được việc này, thì có hơn 70% cơ hội là chúng ta sẽ giữ cho nhiệt độ trái đất tăng dưới 20C.

Để giữ cho nhiệt độ trung bình của trái đất tăng dưới 20C, hệ thống năng lượng của chúng ta phải được thay đổi theo hướng bền vững, chúng ta cần một phương hướng năng lượng mới. Một tương lai năng lượng đảm bảo cho nhiệt độ tăng dưới 20C có tính thực tiễn và công nghệ hiện nay cho phép chúng ta tăng hiệu quả sử dụng năng lượng, tạo ra một ngành năng lượng có mức phát thải CO2 là không hoặc rất thấp. Thách thức này mang tính chính trị theo đó hệ thống ra chính sách phải hoạt động tích cực để có thể đem lại sự thay đổi cần thiết. Kiểm soát tăng nhiệt độ của thế giới dưới 20C để tránh những tác động do biến đổi khí hậu đem lại không thể thành công được nếu không có nỗ lực để thay đổi về chính trị. Một lượng của cải vật chất khổng lồ và một hệ thống quản lý đi theo nó đã được giành ra nhằm giải quyết những xung đột quân sự, trong khi khả năng xảy ra những xung đột quân sự này lại thấp hơn khả năng xảy những các tác động của biến đổi khí hậu rất nhiều. Các chính phủ, các

Phần VI

36

doanh nghiệp và cộng đồng khoa học cần tập trung nỗ lực để tạo ra sự thay đổi này hơn là cứ thầm lặng để cho thế giới phải hứng chịu những tác động khủng khiếp của biến đổi khí hậu

Thời gian không còn nhiều, thực hiện các chiến lược giảm thiểu và chiến lược ứng phó là rất quan trọng. Chúng ta phải nhớ rằng, với hai chiến lược này, chúng ta đều có thể hành động được mà không phụ thuộc vào việc chúng ta là ai và có vai trò như thế nào trên hành tinh này. Cơ hội thực hiện giảm thiểu và ứng phó tác động của biến đổi khí hậu là cho mọi người. Tính dễ bị tổn thương rất quan trọng để đánh giá vì lập kế hoạch ứng phó biến đổi khí hậu thực chất mà nói là việc thiết kế các lựa chọn của chúng ta để hạn chế bị tổn thương. Tuy nhiên, không có một kế hoạch nào được lập ra chỉ để giảm thiểu tổn thương do một loại tác động cụ đem lại tại một địa điểm cụ thể. Một kế hoạch ứng phó biến đổi khí hậu hiệu quả đòi hỏi nhiều biện pháp được lồng ghép chặt chẽ với nhau, trong đó các hành động đề ra bổ trợ cho nhau, tạo ra lợi ích cao nhất, hạn chế được nhiều loại tổn thương nhất hoặc những tổn thương phải được ưu tiên giải quyết trước nhất. Để hạn chế bị tổn thương, các hoạt động ứng phó cấp vùng, địa phương và toàn cầu nên được lồng ghép với nhau để hỗ trợ cho nhau.

Dưới đây là một số hoạt động ưu tiên ứng phó biến đổi khí hâu quốc tế:

• Ứng phó biến đổi khí hậu, một hậu quả có phần do các nước phát triển gây nên, là một gánh nặng thêm cho các quốc gia đang phát triển, vì vậy các quốc gia phát triển cần tài trợ về tài chính và kĩ thuật cho các nước đang phát triển như một cam kết pháp lý bắt buộc vì các nước phát triển phải chịu trách nhiệm cho những việc họ đã gây ra trong quá khứ. Lập ra một khung ứng phó và phòng chống rủi ro cho những nước, những vùng dễ bị tổn thương nhất với một Quỹ ứng phó biến đổi khí hậu được tài trợ hợp lý và hoạt động tốt. Khung ứng phó và phòng chống rủi ro cũng phải có cơ chế bảo hiểm và đền bù để chi trả cho những mất mát, hư hại hoặc phản ứng với những hệ quả khủng khiếp và không phòng chống được của biến đổi khí hậu.

• Đảm bảo quyền cho các quốc gia trong vùng châu Á có tiếng nói quan trọng hơn nhằm xác định những can thiệp và lượng tài chính thích hợp theo ưu tiên ứng phó biến đổi khí hậu của chính họ

Có một số hoạt động ưu tiên cấp vùng và quốc gia sẽ được áp dụng đối với tất cả các quốc gia châu Á và đây cũng là một phần của giái pháp phòng tránh và giảm nhẹ những tổn thương chủ yêu, bao gồm:

• Lồng ghép lập kế hoạch ứng phó và thích ứng khí hậu (climate resilience) vào quy hoạch phát triển kinh tế trong ngắn, trung và dài hạn - có quan tâm đầu tư vào cơ sở hạ tầng và năng lượng. Đánh giá lại chiến lược bảo tồn và phát triển để xác định tính dễ bị tổn thương của chúng trước tác động của biến đổi khí hậu và nếu cần thiết thì thiết kế lại

• Xây dựng các chiến lược ứng phó biến đổi khí hậu cấp quốc gia và cấp vùng theo hướng tiếp cận đa ngành để cân bằng các quy hoạch bảo tồn và phát triển và tối đa hóa tính bền vững trong bối cảnh rất nhiều khó khăn vì biến đổi khí hậu

• Xây dựng các quy trình cho sự tham gia của cộng đồng và những bên liên quan vào việc ứng phó biến đổi khí hậu. Những bên phải chịu tác động của biến đổi khí hậu cần được tham gia vào quá trình tạo ra và thực hiện các giải pháp ứng phó nhằm tạo nên sự công bằng và hiệu quả. Tri thức bản địa là rất quan trọng và sẽ là khởi nguồn cho những chiến lược ứng phó biến đổi khí hậu đầy sáng tạo, và có thể các chiến lược đó sẽ chứng minh là thành công nhất

• Mở rộng và củng cố các mạng lưới cấp vùng về những khu vực được quản lý bởi cộng đồng có tiềm năng thích ứng và chống chịu tốt với tác động của biến đổi khí hậu. Những khu vực này cần bao gồm nhiều loại hình hệ sinh thái ven biển khác nhau. Chúng đóng vai trò như một bàn đạp cho các loài thích ứng với biến đổi khí hậu và cũng hỗ trợ con người phản ứng lại với thay đổi khí hậu.

• Vận dụng quản lý dựa vào hệ sinh thái trong quản lý các vùng biển của khu vực để bảo vệ những dịch vụ hệ sinh thái có vai trò sống còn; nhằm ứng phó với sự bất ổn và thách thức trong tương lai.

• Bảo vệ đa dạng sinh học biển và ven biển; thúc đẩy quản lý thủy sản bền vững để giải quyết chiều hướng suy thoái năng suất và ứng phó với những thách thức trong tương lai do biến đổi khí hậu đưa đến

Phần VI

37

Tài liệu tham khảo

Alam, M., 1996. Subsidence of the Ganges–Brahamaputra Delta of Bangladesh and associated drainage, sedimentation and salinity problems. In: Milliman, J.D., Haq, B.U. (Eds.), Sea-Level Rise and Coastal Subsidence. Kluwer Academic Publishers, pp. 169–187.

Allen, K.M., 2006: Community-based disaster preparedness and climate adaptation: local capacity building in the Philippines. Disasters, 30, 81-100.

Ali, A., 1999: Climate change impacts and adaptation assessment in Bangladesh. Climate Res., 12, 109-116.

Ali, A., 1996. Vulnerability of Bangladesh to climate change and sea level rise through tropical cyclones and storm surges. Water, Air, and Soil Pollution 92, 171–179.

Anderson-Berry, L.J., 2003: Community vulnerability to tropical cyclones: Cairns, 1996-2000. Nat. Hazards, 30, 209-232.

Anthoff, D., Nicholls, R.J., Tol, R.S.J. and Vafeidis, A.T. (2006). Global and regional exposure to large rises in sea-level: a sensitivity analysis. Working Paper 96. Tyndall Centre for Climate Change Research, Norwich

ADB (Asian Development Bank), 2009. The economics of climate change in Southeast Asia: A regional review. ADB, Manila.

Boer, R. and Perdinan. 2008. Adaptation to Climate Variability and Climate Change: Its Socio-economic Aspect. Proceedings of the Workshop on Climate Change: Impacts, Adaptation, and Policy in South East Asia, Economy and Environmental Program for Southeast Asia, Bali.

Boer, R. and R.G. Dewi. 2008. Indonesian Country Report—A Regional Review on the Economics of Climate Change in Southeast Asia. Report submitted for RETA 6427: A Regional Review of the Economics of Climate Change in Southeast Asia. Asian Development Bank, Manila.

Boer, R., and A. Faqih. 2005. Current and Future Rainfall Variability in Indonesia. Technical Report of the AIACC Project Integrated Assessment of Climate Change Impacts, Adaptation and vulnerability In Watershed Areas and Communities in Southeast Asia (AIACC AS21): Indonesia Component. Assessments of Impacts and Adaptations to Climate Change, Washington, DC.

Boer, R., Sutikno, A. Faqih, B.D. Dasanto, and A. Rakhman. 2007. Deteksi Perubahan Iklim dan Dampak Sosio-ekonominya. Laporan Proyek Kerjasama Badan Meteorology Dan Geofisika (Geophysics and Meteorology Agency) dan Institut Pertanian Bogor (Bogor Agricultural University), Bogor.

Boer, R. and A. Faqih. 2004. Current and Future Rainfall Variability in Indonesia. In An Integrated Assessment of Climate Change Impacts, Adaptation and Vulnerability in Watershed Areas and Communities in Southeast Asia, Report from AIACC Project No. AS21 (Annex C, 95-126). International START Secretariat, Washington, District of Columbia. http://sedac.ciesin.org/aiacc/progress/ FinalRept_AIACC_AS21.pdf

Chen, X.Q., 1991: Sea-level changes since the early 1920s from the long records of two tidal gauges in Shanghai, China. J. Coastal Res., 7, 787-799.

Cruz, R.V.O., R.D. Lasco, J.M. Pulhin, F.B. Pulhin and K.B. Garcia, 2006: Climate change impact on water resources in Pantabangan Watershed, Philippines. AIACC Final Technical Report, 9-107. http://www.aiaccproject.org/FinalReports/final_reports.html.

Dasanto, B. D., and B. Istanto. 2007. Indonesia Country Report: Climate Variability and Climate Change. Jakarta. Dasgupta, S, B. Laplante, C. Meisner, D. Wheeler, and J. Yan. 2007. The Impact of Sea Level Rise on Developing Countries: A Comparative Analysis. World Bank Policy Research Working Paper 4136, Washington, DC.

Du, B.L. and J.W. Zhang, 2000:Adaptation strategy for sea-level rise in vulnerable areas along China’s coast. Acta Oceanologica Sinica, 19, 1-16.

Duong, L.C., 2000: Lessons from severe tropical storm Linda. Workshop report: The Impact of El Niño and La Niña on Southeast Asia, Hanoi.

Ericson, J.P., C.J. Vorosmarty, S.L. Dingman, L.G.Ward and M. Meybeck, 2006: Effective sea-level rise and deltas: causes of change and human dimension implications. Global Planet Change, 50, 63-82.

Faisal, I.M. and S. Parveen, 2004: Food security in the face of climate change, population growth and resource constraints: implications for Bangladesh. Environ. Manage., 34, 487-498.

Fan, D.D. and C.X. Li, 2005: Complexities of Chinese coast in response to climate change. Advance in Research on Climate Change, 1, 111-114 (in Chinese with an English abstract).

Ge, D.K., Z.O. Jin, C.L. Shi and L.Z. Gao, 2002: Gradual impacts of climate change on rice production and adaptation strategies in southern China, Jiangsu. J. Agr. Sci., 18, 1-8.

Glantz, M.H., Ed., 2001: Once Burned, Twice Shy? Lessons Learned from the 1997-98 El Niño. United Nations University, Tokyo, 294 pp.

Haq, B.U., 1997. Regional and global oceanographic, climatic and geological factors in coastal zone planning. In: Haq, B.U., Haq, S. M., Kullenber, G., Stel, J.H. (Eds.), Coastal Zone Management Imperative for Maritime Developing Nations. Kluwer Academic Publishers, pp. 55–74.

Hara,Y., K. Takeuchi and S. Okubo, 2005: Urbanization linked with past agricultural landuse patterns in the urban fringe of a deltaic Asian mega-city: a case study in Bangkok. Landscape Urban Plan., 73, 16-28.

Hay, J.E., and N. Mimura, 2005: Sea-level rise: Implications for water resources management.Mitigation and Adaptation Strategies for Global Change, 10, 717-737.

Hay, J.E., and N.Mimura , 2006: Supporting climate change vulnerability and adaptation assessments in theAsia-Pacific Region –An example of sustainability science. Sustainability Science, 1, DOI 10.1007/s11625-11006-10011-11628.

Ho, J. 2008. Singapore Country Report—A Regional Review on the Economics of Climate Change in Southeast Asia. Report submitted for RETA 6427: A Regional Review of the Economics of Climate Change in Southeast Asia. Asian Development Bank, Manila.

Hu, D.X.,W.Y. Han and S. Zhang, 2001: Land-Ocean Interaction in Changjiang and Zhujiang Estuaries and Adjacent Sea Areas. China Ocean Press, Beijing, 218 pp. (in Chinese).

Phần VII

38

Hu, Z.Z., S. Yang and R. Wu, 2003: Long-term climate variations in China and global warming signals. J. Geophys. Res., 108, 4614, doi:10.1029/2003JD003651.

Huang, Z.G. andW.Q. Zhang, 2004: Impacts of artificial factors on the evolution of geomorphology during recent 30 years in the Zhujiang Delta. Quaternary Research, 24, 394-401.

Hulme, M., and N. Sheard. 1999. Climate Change Scenarios for the Philippines. Climatic Research Unit, Norwich.

IPCC. 2007. 2007. Climate Change 2007. Contribution of Working Groups I and II to the Fourth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change, Cambridge University Press Cambridge, United Kingdom and New York, NY, USA

Jiongxin, X., 2003: Sediment flux to the sea as influenced by changing human activities and precipitation: example of theYellow River, China. Environ.Manage, 31, 328-341.

Kelly, P.M. andW.N. Adger, 2000: Theory and Practice in Assessing Vulnerability to Climate Change and Facilitating Adaptation. Climatic Change, 47, 325-352.

Khan, T.M.A., O.P. Singh andM.D. Sazedur Rahman, 2000: Recent sea level and sea surface temperature trends along the Bangladesh coast in relation to the frequency of intense cyclones. Marine Geodesy, 23, 103-116.

Kripalani, R.H., S.R. Inamdar and N.A. Sontakke, 1996: Rainfall variability over Bangladesh and Nepal: comparison and connection with features over India. Int. J. Climatol., 16, 689–703.

Lal,M., G. Srinivasan and U. Cubasch, 1996: Implications of global warming on the diurnal temperature cycle of the Indian subcontinent. Curr. Sci. India, 71, 746-752.

Lal, M., T. Nozawa, S. Emori, H. Harasawa, K. Takahashi, M. Kimoto, A. Abe-Ouchi, T. Nakajima, T. Takemura and A. Numaguti, 2001b: Future climate change: implications for Indian summer monsoon and its variability. Curr. Sci.

India, 81, 1196-1207.

Lenton et al. 2008. Tipping elements in the Earth’s climate system. PNAS 105(6): 1786-1793.

Li, C.X., D.D. Fan, B. Deng, and V. Korotaev, 2004: The coasts of China and issues of sea-level rise. J. Coastal Res., 43, 36-47.

Lin, E.D.,Y.L. Xu, H. Ju andW. Xiong, 2004: Possible adaptation decisions from investigating the impacts of future climate change on food and water supply in China. Paper presented at the 2ndAIACC Regional Workshop for Asia and the Pacific, 2-5 November 2004, Manila, Philippines. http://www.aiaccproject.org/meetings/Manila_04/Day2/erda_nov3.doc.

Liu, C.M. and Z.K. Chen, 2001: Assessment onWater Resources Status and Analysis on Supply and Demand Growth in China. ChinaWater Conservancy and Hydropower Press, Beijing, 168pp.

Liu, C.Z., 2002: Suggestion on water resources in China corresponding with global climate change. China Water Resources, 2, 36-37.

Lüthi et al., 2008. High-resolution carbon dioxide concentration record 650,000-800,000 years before present. Nature 453: 379-382.

Manton,M.J., P.M. Della-Marta,M.R. Haylock, K.J. Hennessy, N. Nicholls, L.E. Chambers, D.A. Collins, G. Daw and Co-authors, 2001: Trends in extreme daily rainfall and temperature in Southeast Asia and the South Pacific; 1961–1998. Int. J. Climatol., 21, 269–284.

Milliman, J.D., Broadus, J.M., Gable, F., 1989. Environmental and economic implications of rising sea-level and subsiding deltas: the Nile and Bengal examples. Ambio 18, 340–345.

Mirza, M.Q., 2002: Global warming and changes in the probability of occurrence of floods in Bangladesh and implications. Global Environ. Chang., 12, 127-138.

NEF. 2007. Up in smoke? Asia and the Pacific: The threat from climate change to human development and the environment. London, UK.

Nicholls, R.J., 2004: Coastal flooding and wetland loss in the 21st century: changes under the SRES climate and socio-economic scenarios. Glob. Environ. Chang., 14, 69-86.

Nicholls, R.J., 2006: Stormsurges in coastal areas. Natural Disaster Hotspots: Case Studies. Disaster Risk Management 6,M.Arnold, R.S. Chen, U. Deichmann,M. Dilley, A.L. Lerner-Lam, R.E. Pullen and Z. Trohanis, Eds., The World Bank, Washington, District of Columbia, 79-108.

Nicholls, R.J., and R.J.T. Klein, 2005: Climate change and coastal management on Europe’s coast. Managing European Coasts: Past, Present and Future, J.E. Vermaat, L. Bouwer,K. Turner andW. Salomons, Eds., Springer, Environmental Science Monograph Series. 199-226.

Nicholls, R.J., and J.A. Lowe, 2006: Climate stabilisation and impacts of sea-level rise. Avoiding Dangerous Climate Change, H.J. Schellnhuber, W. Cramer, N. Nakićenović, T.M.L. Wigley and G. Yohe, Eds., Cambridge University Press, Cambridge, 195-202.

Nicholls, R.J., and R.S.J. Tol, 2006: Impacts and responses to sea-level rise: a global analysis of the SRES scenarios over the twenty-first century. Philos. T. Roy. Soc. A, 364, 1073-1095.

Nicholls, R.J., S.E. Hanson, J. Lowe, D.A. Vaughan, T. Lenton, A. Ganopolski, R.S.J. Tol andA.T. Vafeidis, 2006: Metrics for Assessing the Economic Benefits of Climate Change Policies: Sea Level Rise. Report to the OECD.ENV/EPOC/GSP(2006)3/FINAL. Organisation for Economic Co-operation and Development (OECD). 128 pp.

Ong, J.E., 2001: Vulnerability of Malaysia to sea level change. Proceedings of the APN/SURVAS/LOICZ Joint Conference on Coastal Impacts of Climate Change and Adaptation in the Asia – Pacific Region, 14-16th November 2000, Kobe, Japan, Asia Pacific Network for Global Change Research, 89-93.

PAGASA (Philippine Atmospheric, Geophysical and Astronomical Services Administration), 2001: Documentation and analysis of impacts of and responses to extreme climate events. Climatology and Agrometeorology Branch Technical Paper No. 2001-2, PhilippineAtmospheric, Geophysical and Astronomical Services Administration, Quezon City, 55 pp.

Perez, R. T., L. A. Amadore, and R. B. Feir. 1999. “Climate Change Impacts and Responses in the Philippine Coastal Sector.” Climate Research Journal 12:97–107.

Perez, R. 2008. Philippines Country Report—A Regional Review on the Economics of Climate Change in Southeast Asia. Report submitted for RETA 6427: A

Phần VII

39

Regional Review of the Economics of Climate Change in Southeast Asia. Asian Development Bank, Manila.

Pusat Pengembangan Kawasan Pesisir dan Laut, Institut Teknology Bandung. 2007.

Rawadee and Areeya. 2008. Adaptation Strategies for Coastal Erosion/Flooding: A Case Study of Two Communities in Ban Khun Thian District, Bangkok. Thailand Development Research Institute Quarterly Review 23(1, March):11–8.

Ren, M., 1993. Relative sea-level rise in Huanghe, Changjiang and Zhuijiang (Yellow, Yangtze and Pearl River) deltas over that last 30 years and prediction for the next 40 years (2030). Acta Geographica Sinica/Dili Xuebao 48, 385.

Ren, M., Milliman, J.D., 1996. Effect of sea-level rise and human activity on the Yangtze Delta, China. In: Milliman, J.D., Haq, B.U. (Eds.), Sea-Level Rise and Coastal Subsidence. Kluwer Academic Publishers, pp. 205–214.

Rodolfo, K.S., and F.P. Siringan, 2006: Global sea-level rise is recognised, but flooding from anthropogenic land subsidence is ignored around northern Manila Bay, Philippines. Disaster Manage., 30, 118-139.

Singh, N. and N.A. Sontakke, 2002: On climatic fluctuations and environmental changes of the Indo-Gangetic plains, India. Climatic Change, 52, 287-313.

Solomon et al., 2009. Irreversible climate change due to carbon dioxide emissions. PNAS 106(6): 1704-1709.

Spalding, M., F. Blasco and C. Field, 1997: World Mangrove Atlas. The International Society for Mangrove Ecosystems, 178 pp.

Stern, N. 2007. The Economics of Climate Change: The Stern Review. Cambridge: Cambridge University Press.

Tam, N.Y.Y., and Y.S. Wong, 2002: Conservation and sustainable exploitation of mangroves in Hong Kong. Trees, 16, 224-229.

Tan, J., L.S. Kalkstein, J. Huang, S. Lin, H. Yin and D. Shao, 2004: An operational heat/health warning system in Shanghai. Int. J. Biometeorol., 48, 157-62.

Tran, V.L., D.C. Hoang and T.T. Tran, 2005: Building of climate change scenario for Red River catchments for sustainable development and environmental protection. Preprints, Science Workshop on Hydrometeorological Change in Vietnam and Sustainable Development, Hanoi, Vietnam, Ministry of Natural Resource and Environment, Hanoi, 70-82.

TEI. 1999. A Study on Thailand’s Climate Change. Thailand Environment Institute, Bangkok.

TEI. 2000. Report for the Preparation of Climate Change National Action Plan for Thailand. Thailand Environment Institute, Bangkok.

Thanawat, J. 2006. Coastal Erosion in Thailand: Causes and Management. Department of Geology, Chulalongkorn University.

Trenberth, K.E. and T.J. Hoar, 1997: El Niño and climate change. Geophys. Res. Lett., 24, 3057-3060.

UNDP, 2004: Reducing disaster risk: A challenge for development, Disaster Reduction Unit, Bureau for Crisis Prevention and Recovery, 161 pp.

Wassmann, R., N.X. Hien, C.T. Hoanh and T.P. Tuong, 2004: Sea level rise affecting the Vietnamese Mekong Delta: water elevation in the flood season and implications for rice production. Climatic Change, 66, 89-107.

World Bank, 2004: Modelled Observations on Development Scenarios in the Lower Mekong Basin, Prepared for the World Bank with cooperation of the Mekong Regional Water Resources Assistance Strategy, World Bank, Vietnam, 142 pp.

The World Bank.2003. Building Safer Cities. The Future of Disaster Risk.

The World Bank.2008. Global Monitoring Report. MDGs and the Environment. Agenda for Inclusive and Sustainable Development.

Yanagi, T., and T. Akaki. 1994. “Sea Level Variation in the Eastern Asia.” Journal of Oceanography 50:643–51.

Yusuf, A.A. and H.A. Francisco, 2009. Climate Change Vulnerability Mapping for Southeast Asia. Economy and Environment Program for Southeast Asia (EEPSEA), Singapore www.eepsea.org.

Phần VII

WWF International

Avenue du Mont-Blanc1196 GlandSwitzerland

Tel: +41 22 364 9111

www.panda.org

Tôn chỉ của WWF là ngăn chặn sự xuống cấp của môi trường tự nhiên trên trái đất và xây dựng một tương lai trong đó con người sống hài hòa với thiên nhiên thông qua:

- Bảo tồn đa dạng sinh học của thế giới

- Đảm các nguồn tài nguyên thiên nhiên tái tạo được sử dụng bền vững

- Khuyến khích giảm thiểu ô nhiễm và giảm tiêu dùng lãng phí

©1986 Panda symbol WWF - World Wide Fund For Nature (Formerly World Wildlife Fund) ® “WWF” and “living planet” are Registered Trademarks

Hãy bình chọn trái đất để thể hiện sự ủng hộ của bạn cho một hiệp định khí hậu công bằng, tham vọng và bắt buộc http://www.earthhour.org