sri aurobindo ghose - freefreephung.free.fr/cactacphamchuain/andophuchung/13)au... ·...
TRANSCRIPT
SRI AUROBINDO
GHOSE
( 1872 - 1950 )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
ẤN-ĐỘ PHỤC-HƯNG
AUROBINDO GHOSE
( TẬP ĐẠI THÀNH
TRUYỀN-THỐNG
YOGA )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
1
SRI AUROBINDO
GHOSE
( 1872 - 1950 )
Nhân-vật mà Romain Rolland tuyên-bố là
" Một trong những lãnh-tụ của vận-động Thức-
tỉnh đầu tiên của xứ Bengale... Vị chủ-tịch
được công-nhận của tư-tưởng triết-học Ấn-
Độ " .
_ ( Journal Inde _ 1905 - 1943 )
Điều đặc-biệt để ghi-nhận là thiếu-thời
giáo-dục của Aurobindo hoàn-toàn Âu-hóa.
Sinh ở tỉnh Calcutta năm 1872, được cha ông
gửi sang nước Anh khi ông mới bẩy tuổi. Sau
khi hoàn-thành học-vấn ở Đại-học Cambridge
( Luân-Đôn ). Ông là học-giả hai cổ-ngữ La-Hy
truyền-thống văn-hóa Âu-Tây, và ông cũng
thông-thạo tiếng Đức, tiếng Ý và tiếng Pháp.
Tuy thế mà điều lạ là, theo học-giả Ấn ngày
ADPH AUROBINDO GHOSE
2
nay, không một học-giả Ấn nào tỏ ra hiểu
thâm-thúy hơn ông về tâm-hồn truyền-thống
Ấn-Độ .
Sau khi du-học ở Anh-quốc trở về cố-
hương, Sri Aurobindo, từ 1893 đến 1906 làm
bí-thư cho Quốc-Vương ở Baroda, rồi giáo-sư
văn-học Anh ở Đại-học, rồi Viện-trưởng.
Trong khi ấy Nivedita đang đi khắp các tỉnh để
thức-tỉnh dân Ấn về truyền-thống dân-tộc của
họ, và cô đã gặp Aurobindo ở Đại-học Baroda.
Bấy giờ " Aurobindo 30 tuổi chưa ai biết. Từ
khi ở Âu-châu trở về, suốt chín năm ông sống
hầu như ẩn-cư, dùng thời giờ vào chức-nghiệp
của mình và sự nghiên-cứu văn-hóa Ấn và
Đông-phương với nhiệt-tâm như ông đã dụng
tâm tiếp-thâu văn-hóa Tây-phương trong thời-
kỳ ở Đại-học Cambridge. Người ta bảo ông là
đòi-hỏi, vũ-đoán và tỉ-mỉ .
Ngay buổi gặp-gỡ đấu tiên, Aurobindo và
Nivedita rất thông-cảm với nhau và quyết-định
phối-hợp năng-lực và đặt cơ-sở cho một sự
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
3
hợp-tác lâu dài. Họ tự nhận là chủ-động cùng
một công-trình : thức-tỉnh Ấn-Độ ra khỏi giấc-
mê. Sung-sướng thay họ nếm vị gần-gũi lý-
thuyết triết-học của họ, tuy khác nhau đều dẫn
đến cùng một mục-đích ! Đệ-tử của Viveka-
nanda tìm vũ-trụ trong Ảo-hóa ( Maya ), dạy
người ta tự thấy chính mình. Phải chăng điều
ấy Aurobindo Ghose không hiểu được, người,
ngay trong hình-thức hiện-tại của thế-giới , đã
có thể phát-hiện một sự biểu-hiện Thần-linh ?
Không, vì người ấy, với con mắt soi-mói nhìn
thấy chính thể-tính luôn luôn biến-đổi đến nỗi
trở nên trong thân-thể mình một thể-hiện Thần-
linh. Nivedita cảm-động. Chính nàng đầu tiên
nói với Aurobindo :
_ " Calcutta cần có ông, chỗ của ông là xứ
Bengale .
_ " Không. Tôi ở lại đàng sau. Công-việc
của tôi là tạo nên những nhân-cách .
ADPH AUROBINDO GHOSE
4
_ " Hãy trông vào tôi, cô Nivedita vừa nói
vừa chìa tay cho Aurobindo, tôi là đồng-
minh của ông ."
_ ( Lizelle Reymond, " Nivedita " _ ed.
Victor Attinger )
Năm 1905 Lord Curson tuyên-bố chia đôi
xứ Bengale khiến cho toàn-thể nhân-dân phẫn-
nộ, làm nổi dậy phong-trào bài Anh. Sri
Aurobindo từ bỏ Đại-học Baroda, đến Calcutta
tham-gia và cổ-võ vận-động dân-tộc Ấn chống
đế-quốc Anh. Aurobindo là một trong những
lãnh-tụ đảng chủ-nghĩa Dân-tộc mới thành-lập,
tạo thành một cuộc cách-mệnh trong tư-tưởng
chính-trị của xứ-sở với những cuộc diễn-thuyết
cổ-võ và những báo-chí : " Bande Mataram "
( Mẹ ơi, con kính chào Mẹ ); " Karma - Yogin"
( Đạo-sĩ Nghiệp ) và " Dharma " ( Pháp ).
Hoạt-động chính-trị của Aurobindo ngắn
ngủi, có bốn năm, nhưng chủ-nghĩa Dân-tộc
Ấn đã sớm bùng-nổ thành các cuộc bạo-động,
vì chủ-trương của ông cùng với Tilak là không
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
5
cải-cách và thương-lượng, cầu xin với đế-quốc
Anh mà nhằm tự-chủ. Và mục-đích ấy phải đạt
bằng tự-lực ( Swaraj ) với nền Kỹ-nghệ quốc-
gia, Đại-học và Giáo-dục quốc-gia, tổ-chức
định-chế bản-xứ. Chương-trình ấy không thực-
hiện được vì cuộc bạo-động nổi dậy ở xứ
Bengale, khiến cho ông bị truy-tố và bị bắt
( 1907 ), ông bị bắt giam ở nhà-tù Alipur chờ
xét-xử. Sau một năm ở tù, ông được trắng án.
Và ông kể lại kinh-nghiệm của mình trong tù ở
một bài diễn-thuyết Uttarapara, là cả một thực-
nghiệm tôn-giáo thâm-trầm. Ông cho biết một
hôm ông thấy thân nhẹ bay-bổng trên-không,
làm người canh nhà tù sợ bỏ chạy, một thị-hiện
Thần-linh chung-quanh ông trong nhà giam, ở
ngoài sân. Ông nhìn thấy hiện-hình của
Bhagavan ( Thượng-Đế ) thân-mật, của Thế-
Tôn-Ca mà ông thấy khắp nơi, ở tù-nhân bị
xích, ở cửa song sắt, trên ngọn cây và sau cùng
ở người chánh-án, và trạng-sư khi ông đang
đứng ở vành-móng-ngựa. Có một tiếng nói cho
ông hay rằng ông nên sửa-soạn cho một công-
việc khác mà ông sẽ đảm-nhận sau khi ra khỏi
ADPH AUROBINDO GHOSE
6
tù. Thần-linh ông thị-hiện là hình-tướng của
Chúa Tối-cao Krishna trong Kinh Bhagavat-
Gita của Ấn-Độ-giáo ( Thế-Tôn Ca ) .
Năm 1910, ông lại bi truy-tố, nhưng ông
đã di-cư sang thuộc-địa Pháp ở Pondichery,
miền Nam Ấn và sống ở đây cho tới 1950 thì
tạ-thế. Năm 1914 sau khi từ bỏ chính-trị, Sri
Aurobindo bắt đầu cho phát-hành tạp-chí Arya,
trong đó ông chuyên viết về Vedas - Upani-
sads, kinh Ấn-Độ-giáo Gita, Khoa Yoga, Ấn-
Độ Phục-hưng v.v. Tác-phẩm chính là " Life
Divine " ( Đời Sống Thần-Linh ), Khái-luận về
Gita, Lý-tưởng của Nhân-loại Thồng-nhất,
Tuần-vận Nhân-loại ( Human Cycle ), Sự
Phục-hưng ở Ấn-Độ v.v. Năm 1926, Sri
Aurobindo rút lui hẳn đời sống xã-hội để thực-
hành đạo Yoga và Định-niệm cho tới năm 1950
tạ-thế, ông không xuất-hiện ra công-chúng, chỉ
thường viết cho đệ-tử và hướng-dẫn họ trên
đường tiến-bộ tâm-linh. Dần dần chung-quanh
ông, người bốn-phương đến tụ-họp, nam, nữ
các nước, có tới ngót một ngàn người. Họ tự
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
7
cống-hiến cho nhiệm-vụ tuân theo những lý-
tưởng thực-hiện đạo Integral Yoga ( Khoa Du-
Da Toàn-diện ). Ông cho xuất-bản tạp-chí Arya
cho đến 1921 mới đóng cửa. Thông-điệp của
Sri Aurobindo và Tùng-Lâm Pondichery nói :
" Người ta có thể trưởng-thành từ
những khuyết-điểm hiện-tại đến một cá-
nhân hoàn-toàn, con người hoàn-toàn ấy
có thể trở nên một nhân-tố và một năng-
lực cho sự tiến-hóa của một xã-hội hoàn-
hảo. Và cái Nhất-tính thật của Nhân-loại
chỉ có thể nẩy-nở từ một sự hòa-hợp trên
bình-diện linh-hồn _ đấy là cốt-yếu trọng-
tâm giáo-lý của Aurobindo. Then-chốt
của biến-đổi ấy ở con người thì cốt-yếu là
tâm-linh, và nó ở tại sự gọi dậy và phát-
triển những năng-khiếu tiềm-tại của bản-
thể tối nội-tại. Loài người phải dừng sống
bề-ngoài, học-tập sống từ trong ra ngoài,
nó phải tìm thấy linh-hồn của nó. Tất cả
đời sống của Tùng-Lâm xoay quanh cái
Chân-lý ấy ."
ADPH AUROBINDO GHOSE
8
Giáo-lý của Aurobindo có thể trở về dấu-
tích trong Tantras ( Mật-giáo ), trong Gita
( Thế-Tôn-ca ), trong Isha-Upanisad, trong
chính Rig-Veda .
Sri Aurobindo nói rằng _" cả đến
Upanisads về phần phát-triển cuối cùng, đi từ
chủ-nghĩa " Tâm linh thực hiện " của các vị
Thánh-thị Rishis Vedas, cũng đã bỏ mất một số
yếu-tố giá-trị nhất trong giáo-lý của họ và
không biết ngụ-ý ở chủ-nghĩa tượng-trương của
họ .
" Những liên-hiệp phức-tạp, những nội-
dung phong-phú, những ý-tưởng suy-luận
sáng-sủa bị che mờ và những hình-ảnh nghĩa-lý
thuộc về quan-niệm của danh-từ Vedas phần
lớn mất-mát trong một ngôn-ngữ chính-xác
hơn và siêu-hình hơn, thiếu tâm-lý và uyển-
chuyển ." _ ( The Life Divine )
Aurobindo đồng-tình với đạo-sĩ Swami
Dayananda nghĩ rằng Kinh Thi Vedas suy-tôn
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
9
một Thượng-Đế có nhiều danh-hiệu, rằng nó
lễ-tụng Pháp-luật Thần-linh và sự Khát-vọng
của Nhân-loại về nó, và nó chủ-trương đem
cho người ta Pháp-luật Vũ-trụ .
Quan-niệm riêng của ông về Veda được
dụng-tâm bầy ra với thí-dụ thành hai hệ-thống
trong tạp-chí Arya với nhan-đề : " Thánh-ca
của vị Thấu-thị xứ Atris " và " Bí-quyết của
Veda ". Theo ông thì Lực-Veda ( Rig-Veda )là
kinh-thánh tượng-trưng của các nhà tâm-linh-
học Ấn xưa. Ý-nghĩa của nó là tâm-linh và
luân-lý chứ không phải huyền-thoại và lễ-nghi .
Tóm lại, Sri Aurobindo tin rằng Rig-Veda
là bài ca của Nhân-loại cao-vọng. Những khúc
hát ấy là đoạn trữ-tình hùng-hồn của linh-hồn
trong sự vươn lên của nó. Xa hơn nữa, ông
nghĩ rằng Hệ Vedanta đại-diện sớm nhất cho
Upanisad cổ-hơn, như Chhandogya, Brihada-
ranyka, Taittiriya, Aitareya và Isha gần với
nguồn-gốc Veda, phản-chiếu trung-thực hơn
tâm-lý của các vị Rishis-Veda, và bảo-toàn
ADPH AUROBINDO GHOSE
10
quan-điểm sống toàn-diện của họ. Hệ Veda về
sau trở nên có tính-cách khắc-kỷ, phản thực-
tiễn về quan-điểm và phát-triển một bộ mặt
giá-trị khác. Bình-luận về Isha - Upanisad, Sri
Aurobindo viết : “ trong tư-tưởng sớm nhất,
những cực-đoan như thế-gian và Thượng-Đế,
Nhiều và Một... đã được dung-hòa và một
quan-điểm sống quân-bình đã được nêu ra . ”
Chính trong quan-điểm tổng-hợp sớm
nhất đã được đề ra ở kinh Gita :_ Một sự kiện-
toàn tổng-hợp Thượng-Đế và thế-giới ; Thể
tồn-tại và Dụng sinh-thành ; Nhất và Đa ; Sáng
và tối ; Tri và Hành... mà Sri Aurobindo giải-
thích kỹ-càng trong " Khái-luận về Gita " của
ông. Những điểm trọng-yếu trong bình-luận kỹ
ấy có thể toát-yếu vào một số điểm :
1)_ Kinh Gita ( Thế-Tôn-Ca, kinh chính
của Ấn-Độ-giáo ) không chỉ là một Thánh-kinh
về hành-động nhân-đạo hay là phục-vụ xã-hội,
hay là bổn-phận vì bổn-phận như các văn-sĩ
cận-đại giả-thuyết, nhưng trước hết nó là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
11
Thánh-kinh của đạo Yoga hay là hội-hiệp với
Thượng-Đế .
2)_ Hội-hiệp ấy về phần nhân-loại ngụ cả
một sự tái-sinh và một lý-tưởng mới về hành-
động như chứng-minh bằng sự sinh và hành-
động của chính Giáng-thế Avatar .
3)_ Sự hội-hợp đồng-minh ấy phải đạt
bằng hành-động vô-tư trong xã-hội, sùng-bái tự
quên mình, định-niệm kiên-nhẫn bền-bỉ, và
bằng nội-quan tâm-linh vào đồng-nhất-tính của
tất cả mọi vật trong Thượng-Đế. Như thế Kinh
Gita dạy ta một đạo Yoga tổng-hợp nhất-quán,
điều-hòa tất cả yếu-tố đời sống tâm-linh và
dành chỗ chính-đáng cho đạo Karma-Yoga
(Đạo Nghiệp), Bhakti-Yoga (Đạo Sùng-bái),
Dhyana-Yoga (Đạo Thiền), và Jñāna-Yoga
(Đạo Trí-Tuệ) .
4)_ Theo Karma - Yoga dạy ở đây, chúng
ta phải hy-sinh không những kết-quả của hành-
động mà cũng cả chính hành-động tự-thân và
ADPH AUROBINDO GHOSE
12
chủ-động của nó nữa. Theo Aurobindo bước
thứ nhất trong việc tự giải-thoát là giải-trừ cái
ảo-tưởng chủ-động để thực-hiện rằng Thiên-
nhiên hành-động chứ không phải tâm-hồn. Và
bước sau là đặt chủ-động Thiên-nhiên vào
Năng-khí Thần-linh. Nói cách khác, khi tâm-
hồn tự rút về Thượng-Đế và làm toàn-thể cái
khung vật-lý và tâm-lý hành-động tuân theo
Luật-pháp Thần-linh, đấy là tự-do của nó, sự
giải-thoát cứu-cánh của nó .
5)_ Khi nào bản-tính của người ta đã thật
theo định-luật về tồn-tại của nó, động-tác kết-
quả sẽ dễ-dáng và bột-nhiên. Điều ấy thì Kinh
Gita gọi là Tự-pháp (Svadharma). Tự-pháp
Svadharma lệ-thuộc vào Svabhava ( Tự-tính ).
Tự-pháp như Gita dạy không phải chỉ là bổn-
phận giai-cấp mà là hành-động liên-hệ hữu-cơ
với chính bản-tính người ta. Nó ngụ ý rằng tất
cả động-tác phải từ trong quyết-định bởi năng-
khiếu phú-bẩm của nhân-loại. Đúng như Gita
thừa-nhận thuyết nghi-lễ Veda như với một ý-
nghĩa thâm-trầm và đại-đồng, cũng thế, nó
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
13
thừa-nhận thuyết giai-cấp với ý-nghiã chủ-quan
và phổ-biến. Nó không chủ-trương vô lý rằng
mỗi người sinh ra " con vua thì lại làm vua,
con sãi chùa thì quét lá đa " không kể gì đến
khả-năng cá-nhân. Điều mà Aurobindo chú ý là
Kinh Gita không đề-cao trật-tự xã-hội A-ry-an
phần lớn không hợp thời nữa, mà nó chú-trọng
về quan-hệ với sự tiến-hóa ở hành-động của nó
theo luật-pháp thiên-nhiên nội-tại .
6)_ Con người lý-tưởng của Kinh Gita là
một người không những hành-động làm việc
theo luật-pháp thiên-nhiên mà còn vượt tính
thiên-nhiên. Bằng cách ẩn-náu vào Thượng-Đế
và tự hàng-phục hoàn-toàn Ngài, có thể nói nó
đã vượt qua phẩm-tính thiên-nhiên như là Hòa
( Sattva ), Động ( Rajas ) và Tĩnh ( Tamas ).
Nó có tên là một vị Trung-Hòa ( Trigunatita )
hay là một người vượt qua tính thiên-nhiên.
Nói cách khác, nó là một thể tâm-linh, không
những đạo-đức, trí-thức, tình-cảm hay là vật-lý.
Thân-thể tinh-thần và tâm-hồn nó chỉ là
phương-tiện công-cụ để cho tâm-linh nó đồng-
ADPH AUROBINDO GHOSE
14
nhất-hóa với Thượng-Đế, hành-động trong thế-
gian. Đạo-Nghiệp ( Karma - Yoga ) bởi vậy là
hợp-nhất với Thượng-Đế ( Chúa ) ở thân-thể,
tinh-thần và tâm-hồn để thi-hành mục-tiêu vũ-
trụ của Ngài. Sự hợp-nhất kết-thúc vào sự hạ-
giáng Ihakti ( Năng-khí ) xuống người, biến-
hóa nó, làm nó trở nên dụng-cụ của Thượng-
Đế. Bấy giờ người không còn là người nữa, mà
chỉ là một đường dây để cho năng-khí thần-linh
tuôn vào thế-giới .
7)_ Kinh Gita ( Thế-Tôn-Ca ) là trọng-
tâm của Ấn-Độ-giáo, nói về ba Thần-ngã
( Purushas ) là Kshara, Akshara và Uttama.
Theo Aurobindo thì Kshara là linh-hồn cá-
nhân, lệ-thuộc Thiên-nhiên, Ashara là Chúa
giám-sát hành-vi của Thiên-nhiên, còn Uttama
là Tâm-linh Tối-cao thông qua Thiên-nhiên và
vượt ra ngoài. Sự phân-biệt được giải-thích với
hình-ảnh trứ-danh Upanisad như sau :
" Có hai con chim, anh em, không
dời trên một ngọn cây. Một con đậu ở
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
15
cành dưới, ăn trái cây, gọi là Anisha, tự
nó không phải là Chúa. Con kia đậu trên
ngọn, chỉ nhìn mà không ăn, gọi là Isha,
tự là Chúa. Kinh Upanisad nói : “ Khi con
ăn nhìn lên và thấy hào-quang của con
ngắm nhìn ở trên, thì nỗi phiền-muộn và
sự ác-cảm vì bất-lực của nó biến đi mất.”
Trong một khái-luận, Aurobindo giải-
thích rằng cái cây là Thiên-nhiên ( Prakriti )
với trái ngọt và cay. Con chim ăn trái là
(Kshara-purusha) linh-hồn chim trong Thiên-
nhiên và hưởng-thụ. Con chim nhìn ngắm
không ăn là (Akshara-purusha) Chúa-tể của
Thiên-nhiên quan-sát hành-vi của nó. Nhưng
còn có Một không ngự ở đấy mà tư-hữu Thiên-
nhiên và vượt ra ngoài nó. Cái Một ấy không
những là Chúa của tự nó mà còn của tất cả
hiện-hữu. Cái Ấy là Purushattama, Tâm-linh
Tối-cao. Bởi vậy, theo Aurobindo, Tâm-linh
Tối-cao chẳng là Một hay nhiều, mà là Một ở
trong, thông qua và vượt cả nhiều. Tương-tự
thế, nó vừa hữu-ngã vừa vô-ngã, vì hữu và vô
ADPH AUROBINDO GHOSE
16
đều là sự phân-biệt do tinh-thần khái-niệm của
chúng ta mà ra, nhưng không có ở Thực-tại .
8)_ Sau hết Aurobindo chứng-minh rằng
Kinh Gita không có chủ-trương nhất-diện như
là ảo-hóa, khổ-hạnh, tịch-tĩnh.v.v. như các
trường-phái triết-học về sau chủ-trương .
Cái quan-điểm sinh-tồn toàn-diện với đạo
Yoga tổng-hợp mà Aurobindo đã thấy dạy ở
Kinh Gita, Upanisads nguyên-thủy và ở phần
tâm-linh của Veda, được giữ lại ở Mật-giáo
( Tantra ). Mục-tiêu của Aurobindo là xác-định
lại quan-điểm sinh-tồn toàn-diện đã được
Veda, Upanisads, Gita và Tantras phát-triển và
cũng tái phát-hiện Sadhana (Đạo-dẫn ) xưa,
khai-phóng tất cả giới-hạn cùng tượng-trưng
của tất cả Thần-học đặc-biệt và làm cho nó hợp
tầm với tất cả, không phân-biệt đẳng-cấp hay là
tín-ngưỡng khác nhau, dân-tộc hay tôn-giáo
khác nhau, khiến cho theo đấy nhân-loại có thể
đạt được một trình-độ cao hơn của tiến-hóa
tâm-linh. Ông nói : “ Tất cả tôn-giáo đã cứu-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
17
vớt được một số tâm-hồn, nhưng chưa có một
tôn-giáo nào đã có khả-năng tâm-linh-hóa
nhân-loại. Bởi thế nên không cần nghi-lễ và
tín-điều, mà chỉ cần tinh-tiến tâm-linh, tự biến-
hóa khí-chất và bao-dung tất cả .”
Triết-lý của Aurobindo là cố-gắng cổ-
động sự tiến-hóa của chủng-tộc, thì đã được
trình-bày đầy đủ trong tác-phẩm chính-yếu :
" Life Divine " ( Sống Thần-Linh ) tạm phác
lược như sau :
Ông căn-cứ vào cái gọi là Vedanta
nguyên-thủy, không phải các trường-phái siêu-
hình mà chính là Upanisads. Và Vedanta là
tinh-hoa chung-kết của Vedas - Upanisads.
Ông trình-bày trong Upanisads vấn-đề do sư-
phụ hỏi lẫn nhau : “ Anh biết được gì ? ” và
không phải “ Anh phải nghĩ gì ? ” Bởi vì theo
các vị Thấu-thị Veda ( Rishis ) thì trực-giác
không thể tu sửa bằng suy-lý, mà bằng trực-
giác hoàn-hảo hơn. Không thể qua suy-luận la-
tập mà có thể đạt tới Chân-lý tâm-linh cao hơn.
ADPH AUROBINDO GHOSE
18
Sự thực tinh-thần nhân-loại còn khuyết-điểm
đến nỗi nó chỉ cho phép nắm được một nửa
Chân-lý chứ không bao giờ nó nắm được
Chân-lý hoàn-toàn. Bởi thế nên những sai-lầm
của tinh-thần khái-niệm phải được tu sửa bằng
siêu tinh-thần ( super-mind ), theo Aurobindo
nó là môi-trường giữa hai nửa bình-diện của
Hữu-thể và Sinh-thành, Tuyệt-đối và Tương-
đối, Thể và Dụng, Giác và Vô-minh. Sự
khuyết-điểm của tinh-thần khái-niệm với thị-
hiện toàn-diện của siêu-tinh-thần là đề-tài nhắc
đi nhắc lại trong các trang của Life Divine .
Sự mâu-thuẫn bề ngoài giữa Hữu-thể
Thuần-túy và hoạt-động vũ-trụ chỉ do sự lầm-
lẫn ở tinh-thần hữu-hạn của chúng ta, nó không
có khả-năng quan-niệm một ý-thức bao-quát và
mạnh-mẽ đủ để gồm cả hai trong một nhất-
quán đồng-thời. Luận-lý phiến-diện tuyên-bố
rằng vì cái Một là thực-tại, số nhiều là một
huyễn-tượng, rằng vì Tuyệt-đối là Sat = Chân,
Tương-đối là Asat = Phi-Chân. Chúng ta phải
vượt khỏi hạn hẹp tinh-thần đến siêu-tinh-thần
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
19
trong đó " cá-thể " và " toàn-thể " cùng có
trong nhất-tính của một Chân-lý và phù-hiệu
đa-thù. Luận-lý ( logic ) của Siêu-tinh-thần
( Supermind ) là luận-lý của vô-cực có thể giải-
quyết được sự đối-kháng mâu-thuẫn trong tinh-
thần khái-niệm giữa nhất-tính và phức-tính,
giữa đại-đồng và cá-thể và giữa Thể và Dụng,
Hữu-thể và Sinh-thành. Siêu-tinh-thần hay
siêu-thức là tự-giác thuần-túy nó đã trở nên
năng-động, Brahman biểu-tượng là Ishvara hay
Shiva khích-động Shakti của nó, tức là theo
Dịch Thái-Cực : Một Tối-cao sinh Lưỡng-nghi
Âm và Dương. Âm tĩnh Dương động, trong
Dương-khí có Âm-khí, trong Âm-khí có
Dương-khí, như sóng trên mặt nước bể lên
xuống, " Sinh sinh chi vị Dịch ". Đấy là một
trạng-thái ý-thức mà nhân-loại dần dần đạt
được để dùng biến-hóa khí-chất của toàn-thể
sinh-tồn, thân-thể, tinh-thần và tâm-hồn. Vậy
theo Aurobindo, cái siêu-tinh-thần, siêu-thức,
ý-thức tâm-linh, lý khí sáng-tạo, " Linh khâm
bảo hợp thái hòa ", " Nhân tâm nhất điểm linh
thông ", và cả chính cái " Supermind " của
ADPH AUROBINDO GHOSE
20
Aurobindo, là môi-trường giữa Đạo-thể và Đời,
Hữu-thể và Sinh-thành .
Tuyệt-đối của Aurobindo ở bán-cầu tối-
cao của Hữu-thể thì thuần-nhất thực-tại nhưng
tam diện theo quan-điểm của chúng ta, ba
phương-diện làm một là Sat ( Chân ), Chit ( Ý-
thức ), Ananda ( Hoan-lạc ), tức như ba
phương-diện điển-hình của Thực-tại : Chân,
Thiện, Mỹ. Aurobindo dịch danh-từ Bất-nhị-
pháp ( Vedanta ) ấy là Sinh-tồn Thuần-túy,
Năng-lực Ý-thức và Thích-thú Sinh-tồn. Theo
ông giải-thích, thì Chit không chỉ là Ý-thức mà
là Ý-thức Năng-động, vì năng-lực thì bản-lai
cố-hữu ở Bản-thể Vĩnh-cửu ( Eternal Being )
vừa tĩnh vừa động vì Brahman tĩnh và động
đều cùng một Thực-tại Tối-cao. Năng-lực trong
thần-thoại Ấn-Độ không dời khỏi tồn-tại
( Being ) cũng như Shakti ( Âm-khí ) không
dời khỏi Shiva ( Dương-khí ). Vậy phương-
diện ý-thức của Tuyệt-đối bản-nhiên là một
năng-lực tự biểu-xuất có khả-năng biến-hóa vô
cùng vào hiện-tượng và hình-tướng và thích-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
21
thú sự biến-hóa ấy. Tất cả tạo-hóa chỉ là sự tự
biểu-hiện ấy thôi. Hữu tồn thuần-túy nhờ có
năng-lực bản-lai và Thích-thú tự-động tự-biểu-
hiện, bất tăng bất giảm như là thế-giới thiên-
hình vạn-trạng. Nhờ vào sự tự-phân-hóa, tự-
giới-hạn, tự-thu-hồi hay là tập-trung mà tâm-
linh tự biểu-hiện trong vũ-trụ. Do đấy mà
chúng ta ở đây có sự phản-ảnh của Sinh-tồn
Thần-linh, Năng-lực Ý-thức, Cực-lạc và Siêu-
thức trong vật-chất, sự sống và tâm-lý hay là
linh-hồn và tinh-thần. Aurobindo viết :
" Thần-linh từ Sinh-tồn thuần-túy
qua trò chơi của Ý-thức-Lực và Cực-lạc
và Siêu-tinh-thần môi-giới giáng xuống
hữu-thể vũ-trụ ; chúng ta từ một vật-chất
qua một sự sống phát-triển, tâm-hồn,
tinh-thần và môi-giới siêu-tinh-thần giác-
ngộ vươn lên hữu-thể thần-linh. Cái đốt
của hai nửa thế-giới, cái cao và thấp là
điểm gặp-gỡ của tinh-thần và siêu-tinh-
thần bị một màn ngăn. Xé rách màn ngăn
ấy là điều-kiện của đời sống thần-linh ở
ADPH AUROBINDO GHOSE
22
nhân-loại, vì sự xé rách ấy bởi sự giác-
ngộ hạ giáng của bình-diện cao xuống
bản-tính thấp của tồn-tại, và sự hướng
thượng mãnh-liệt của bình-diện tồn-tại
thấp vào bản-tính của bình-diện cao, tinh-
thần có thể phục-hồi ánh-sáng thần-linh
trong siêu-thức bao-quát thông-đồng,
linh-hồn thực, tự-tính linh-thiêng của nó
trong cảnh Hoan-lạc ( Ananda ) đầy đủ
cực-lạc, sự sống đặt cơ-sở thế-lực linh-
thiêng của nó trong trò hý-lộng của Ý-
thức-Lực toàn-trí và vật-chất mở ra tự-do
Thần-linh như là một hình-thức của sinh-
tồn Thần-linh vậy ."
_ ( Life Divine )
Đấy là toát-yếu tinh-hoa triết-học của
Aurobindo. Sự hạ-giáng của Thần-linh vào vật-
chất là sự hồi-toàn của tâm-linh. Nhưng sự hạ
giáng của tâm-linh xuống tinh-thần, sinh-sống
và vật-chất không quan-trọng bằng sự từ vật-
chất vươn lên. Tiến-hóa đối với ta còn quan-
trọng hơn là hồi-toàn. Sự thăng tiến từ vật-chất,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
23
sinh-sống, tâm-lý và tinh-thần, và theo đấy từ
tồn-tại vật-lý, sinh-lý, tình-cảm và trí-thức của
chúng ta vào cái siêu-tinh-thần tâm-linh thuần-
túy là sự tiến-hóa của tâm-linh trên mặt đất.
Ảo-ảnh vô-ý-thức của vật-chất cầm giữ nơi
mình trong bóng tối tất cả cái gì vĩnh-viễn, tự
biểu-lộ trong cõi siêu-thức. Để biểu-lộ, điều ấy
là mục-tiêu của Thiên-nhiên trong tất cả quá-
trình của nó. Aurobindo bảo điện-tử và
nguyên-tử vật-chất là mộng-du vĩnh-cửu. Mỗi
vật-thể chứa một ý-thức bao-hàm, hay là thu-
hút trong hình-tướng do một Sinh-tồn nội-tại,
không biết và không cảm thấy, nó lại vẫn là cái
mà Upanisads gọi là " Antaryamin " (Nội-tính).
Ở cây cỏ cái hình-thức ý-thức còn ở trạng-thái
ngủ, nhưng đầy đủ mộng thần-kinh " luôn luôn
sắp sửa thức tỉnh nhưng không bao giờ tỉnh
thức ". Sự sinh-sống đã hiện ra và cái cây đã
trở nên tinh-thần có trách-nhiệm Sinh-lý đối
với Sinh-tồn, tuy tinh-thần không biết. Ở động-
vật chúng có tinh-thần biết và do đấy có một
bậc hoạt-động cao hơn và tế-nhị hơn. Khi đi
đến nhân-loại, chúng ta có sự chuyển-tiếp từ
ADPH AUROBINDO GHOSE
24
tinh-thần sinh-lý sang tinh-thần phản-tỉnh và
suy-tư và hậu-quả là một khả-năng quan-sát
cao, phát-minh, sáng-tạo và thẩm-mỹ.v.v. Sau
khi đã đạt được trình-độ nhân-loại thì sự tiến-
hóa khác với trước về hai mặt quan-trọng :
Trước hết là từ đấy trở đi nó được hướng-
dẫn bởi nỗ-lực có ý-thức .
Sau nữa là nó không giới-hạn vào tiến-bộ
của bề mặt, vì nó hướng nội vào nguyên-lý bí-
ẩn của bản-tính chúng ta và hướng ngoại vào
bản-thể vũ-trụ, cũng như hướng thượng lên một
nguyên-lý cao hơn. Tuy nhiên bản-tính tinh-
thần và tư-tưởng còn căn-cứ vào ý-thức về
hữu-hạn. Tinh-thần luôn luôn nhìn và cảm thấy
sự chia-rẽ như là khởi-điểm của nó và chỉ có
một hiểu-biết xây-dựng về đồng-nhất-tính. Bởi
thế nên nó không thành-tựu được hòa-điệu
hoàn-toàn trong thế-giới. Nó không thể cả đến
hợp-nhất tồn-tại của chính nhân-loại. Nó quá
bất-lực, chẳng hạn đối với tiềm-thức và vô-
thức tại nó. Cả đến một tinh-thần có khả-năng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
25
cũng chỉ có thể giữ phần vật-chất và sinh-lý
của tồn-tại lệ-thuộc, mà không thành-tựu được
một biến-hóa gì cả. Chỉ khi nào nó chuyển
quyền chỉ-huy cho siêu-tinh-thần, siêu-thức bị
một sự biến-hóa khí-chất hoàn-toàn mới có thể
thay-thế được. Sự siêu-độ của nhân-loại không
chỉ ở tại siêu-thoát thế-giới mà ở sự biến-hóa
nó nữa. Bởi vậy không phải chỉ là một vấn-đề
hướng thượng và trốn thoát của linh-hồn mà
còn là vấn-đề hợp-nhất và biến-hóa nữa. Và vì
mục-tiêu ấy, chỉ một tinh-thần loài người
không đủ vậy. Cái siêu-tinh-thần phải hạ giáng.
Sự sai trái giữa hành-động của tinh-thần và của
siêu-tinh-thần như vậy đã được Aurobindo
vạch ra như sau :
" Tinh-thần hành-động theo quy-tắc
hay phương-pháp hay là theo ý-chí lựa
chọn suy-luận hay là kích-thích tinh-thần
hay là do tuân theo kích-thích sinh sống ;
nhưng siêu-tinh-thần bản-tính nó không
hành-động bởi ý-tưởng tinh-thần hay là
quy-tắc hay là lệ-thuộc vào khích-động
ADPH AUROBINDO GHOSE
26
thấp nào ; mỗi bước của nó là do một
tâm-linh nội-tại hiện-thị nó điều-khiển ;
một sự thông-hiểu bao-quát và thâm-nhập
vào chân-lý của tất cả và của mỗi vật ; nó
luôn luôn hành-động theo thực-tại bản-
lai ; không phải bởi ý-tưởng tinh-thần,
không theo một phép hành-vi bắt buộc
hay là một tư-tưởng xây-dựng hay là kế-
hoạch tri-giác. Vận-động của nó bình-
tĩnh, tự-chủ, bồng-bột, dẻo-dai ; nó nổi
dậy tự nhiên và tất nhiên từ đồng-nhất-
tính hòa-hợp của sự cảm thấy trong chính
bản-chất của tồn-tại ý-thức, một bản-chất
tâm-linh đại-đồng và bởi vậy mà mật-
thiết đồng-nhất với tất cả gồm trong
nhận-thức về sinh-tồn ."
_ ( Life Divine )
Sứ-mệnh trọng-yếu của Aurobindo là làm
phục-hồi lý-tưởng tâm-linh truyền-thống Ấn ở
Rig - Veda, ở Upanisads nguyên-thủy, ở Kinh
Gita, và thực-nghiệm tổng-hợp tập-đại-thành
khoa Yoga ( Bhaktiyoga, Jñānayoga, Karma-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
27
yoga, Rajayoga ). Theo ông mục-đích của khoa
Yoga chân-chính là Thần-linh-hóa con người
toàn-diện, đem siêu-tinh-thần ( supermind )
xuống tinh-thần nhân-loại và biến-hóa khí-chất
nó đi, sinh-lý, tâm-lý cũng như thân-thể thành
con người siêu-thức. Con người trở nên một
siêu-nhân, một Jnani hay là thần-bí trực-quan.
Ở chương kết-luận " The Divine Life " ông
hùng-biện cho nhân-cách thần-bí trực-quan và
lối sống của y như sau :
1)_ Một Jnani hay là Gnostic-being ( Trí-
tuệ ) là một thể hoàn-thành đầy đủ _ thân-thể,
sinh sống và tinh-thần đã được biến-hóa hoàn-
toàn và thành tự-động phản-ứng đòi-hỏi của
tâm-linh .
2)_ Dụng-cụ của một vị Trí-tuệ hành-
động trong thế-giới không phải là tinh-thần
( mind ) hữu-hạn, mà là siêu-tinh-thần ( super-
mind ) vô-hạn, mà đặc-trưng căn-bản là ý-thức
liên-tục về đồng-nhất-thể của tất cả sự-vật .
ADPH AUROBINDO GHOSE
28
3)_ Ích-kỷ ở y hoàn-toàn tiêu-diệt, trừ
nhân-cách. Tất cả các Bậc Trí-tuệ không giống
hẳn nhau về tính-cách và bản-chất. Họ không
phải những cá-thể hoàn-thành không sắc-thái.
Trong ý-thức họ nhân-cách và phi-nhân-cách
không phải những nguyên-lý chống-đối mà là
phương-diện bất ly của cùng thực-tại. Và cái
thực-tại ấy là tồn-tại trong bản-tính thì vô-ngã
nhưng làm nó thành một nhân-cách rõ-rệt .
4)_ Trong ý-thức của nó, cá-tính không
có cách gì can-thiệp với đại-đồng tính của nó
và cái đại-đồng-tính ấy cũng không can-thiệp
với siêu-nhiên-tính của nó. Sống trong ý-thức
vô-hạn, y sẽ sáng-tạo sự tự biểu-hiện riêng,
nhưng sẽ không làm như là trọng-tâm của một
đại-đồng lớn hơn và đồng thời như là một
trung-tâm của siêu-nhiên .
5)_ Không có trở-ngại đối với một bậc
Trí-tuệ ( Jnani ), cá-nhân tu-luyện và sử-dụng
thần-thông, chúng đến với tất cả ai thực-tập
khoa Yoga, và người ta đòi người bình-thuờng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
29
không được coi họ làm trọng và phải bỏ qua.
Bởi vì ở trình-độ siêu-tinh-thần những quyền-
năng thần-thông hầu như tự nhiên .
6)_ Mục-tiêu của Bậc Trí-tuệ cuối cùng là
thiết-lập Thiên-đường ở trần-gian. Bởi vậy,
trước hết y tìm cách tạo nên một cộng-đồng
của những cá-nhân thành-tựu như chính y để
sống cảm-hóa đời sống nhân-loại. Và đặc-trưng
tất nhiên của một đoàn-thể trí-tuệ như thế sẽ là
đồng-nhất, hỗ-trợ và hòa-điệu .
Aurobindo trong khái-niệm về " The
Superman " (Siêu-nhân) có phân-biệt với quan-
niệm của văn-sĩ Đức Nietzche, là ông này
trình-bày một siêu-nhân thù-nghịch với Thần-
linh, còn " Superman " của Aurobindo không
những có quyền-năng thần-thông mà còn có
tình-yêu, trí-tuệ và thần-linh .
Đặc-biệt khoa Đạo-dẫn Yoga tập-đại-
thành của Aurobindo đòi một tín-ngưỡng tôn-
giáo nhiệt-thành, bước đầu là một sự hàng-
ADPH AUROBINDO GHOSE
30
phục tuyệt-đối, vô-điều-kiện Thượng-Đế_ ( At-
masamarpana ). Loài người không có khả-năng
gì nếu không có trợ-lực Thần-linh. Ấy là năng-
lực Thần-linh giáng xuống vào linh-hồn mới
làm cho biến-hóa được khí-chất mong muốn.
Bước thứ hai là người ta xa lìa với chính mình
và chờ xem cơ-quan Thiên-nhiên làm việc ở
mình trong khi ân-điển Thần-linh hành-động.
Và rồi đến bước thứ ba là tu-sửa ý-nghĩa hiện-
diện của Thượng-Đế ở tại vạn-vật, không
những như một tinh-thần tiềm-tại trong vạn-vật
và bảo-trì, mà còn như một Đấng Tự-biểu-hiện
trong tất cả hình-tướng. Cái thực-nghiệm tuyệt-
đỉnh của bước này theo Aurobindo là khi nào ta
biết được toàn thế-giới là biểu-thị, trò hý-lộng
của một nhân-cách Thần-linh vô-biên .
Trải qua những bước thực-nghiệm là cả
một công-phu của người học đạo Yoga, mà ông
đã tu-luyện ở Tùng-Lâm ( Asram ) Pondichery,
theo gương các vị Rishis Vedas. Ông bảo cho
đệ-tử là trong kỷ-luật đạo-dẫn của ông thì sự
khởi-hứng và hướng-dẫn của một sư-phụ là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
31
thiết-yếu. Sự kinh-nghiệm lão-luyện của ông về
khoa Yoga không những giúp đệ-tử bằng giáo-
điều và gương-mẫu mà còn bằng khả-năng
truyền tâm chính kinh-nghiệm của ông, hoặc
bằng mắt nhìn " tứ mục tương cố " như Rama-
mana-Maharshi ở Arunacha (Nam-Ấn) (1879-
1950) hay là bằng " đụng chạm thân-thể " như
Ramakrishna Paramahamsa ở Dakshineswar
( gần Calcutta - Bengale ) ( 1836-1886 ) .
Theo nhà tâm-linh-học Ấn-Độ người
Pháp, Jean Herbert, viết về Sri Aurobindo :
" Sự tập-đại-thành tôn-giáo mà
Ramakrishna tiên-tri và từng thực-hiện
phải chờ một góc thế-kỷ sau khi sư-phụ
nhập-tịch. Sri Aurobindo quan-niệm,
thực-hiện và thuyết-giảng ở Pondichery
khoa Yoga Tổng-hợp thì đã tỏ ra là người
thừa-kế chính-thức Ramakrishna. Sự
tổng-hợp của ông bắt nguồn trong truyền-
thống Vedanta và Tantras cũng có cơ-sở
ở tất cả các khải-ngộ tôn-giáo lớn và
ADPH AUROBINDO GHOSE
32
thừa-nhận tất cả có trước để cho vào lò
đúc thành một nhất-quán mới. Tuy ông
là một triết-gia trứ-danh nhưng ông coi
tri-thức siêu-hình là phụ-thuộc vào thực-
nghiệm tâm-linh. Ông khuyên đệ-tử
không nên mất thời giờ vào ý-nghĩa siêu-
hình và tinh-vi triết-lý về Ảo-hóa (Maya)
và Tuyệt-đối Bất-nhị-pháp ( Advaïta ),
mà giải-pháp sẽ hiện ra sáng-sủa đầy đủ
khi các anh giác-ngộ tri-thức thần-minh
do thực-nghiệm thiền-định ( yoguique )
đem lại. Tất cả triết-học nhất-phiến chỉ là
mô-tả khiếm-khuyết chân-lý. Thế-giới do
Hóa-công đã tạo ra thì không phải công
việc của luận-lý hình-thức, nó giống như
một điệu nhạc, một hòa-điệu thái-hòa
phong-phú đa dạng. Và cả sự hiện-hữu
của Hóa-công tự-do và tuyệt-đối đều
không thể định nghĩa với danh-từ hợp-
lý . "
_ ( The Yogas and its Objects )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
33
Aurobindo tiếp-theo công-trình của Sri
Ramakrishna để lại dám tuyên-bố :
" Đạo Yoga chúng tôi thực-hành thì
không phải để riêng cho chúng tôi mà cho
cả nhân-loại. Mục-tiêu của nó không phải
để khai-phóng cá-nhân, tuy đấy là điều
thiết-yếu của Yoga, nhưng còn là để cho
sự sinh-tồn và tâm-linh-hóa nòi-giống,
giải-thoát nhân-loại, không để hưởng lạc
hay là giải-thoát cá-nhân, mà là sự giáng
xuống mặt đất hoan-lạc thần-linh, thực-
hiện Thiên-đường như Đấng Cơ-Đốc
tiên-tri, thực-hiện nhân-linh nơi chính
chúng ta và tha-nhân . "
_ ( The Yoga and its Objects )
Các đạo-sĩ Yoga trước thời Aurobindo
đều chủ-trương thoát-ly bình-diện vật-chất thô-
kệch để tập-trung ý-thức vào bình-diện tinh-vi
hơn, như thái-độ Vedanta chẳng hạn ; hay là
dùng phương-tiện thô-kệch làm bàn đạp để
vươn lên tâm-linh cao như thái-độ Tantra Mật-
ADPH AUROBINDO GHOSE
34
giáo. Aurobindo thực đã tổng-hợp cả hai
phương-diện vào vận-động sinh đôi, một mặt
khát-vọng của nhân-loại muốn vươn lên bình-
diện tâm-linh cao, và mặt khác là sự hạ giáng
của Thần-linh xuống bình-diện vật-chất thô-
kệch. Hoài-bão của ông là làm con người gia-
nhập vào bình-diện tâm-linh siêu-tinh-thần
( Supramental ), không phải kéo con người
hiện-tại lên, mà là làm cho cái siêu-tinh-thần
làm việc ở bình-diện tinh-thần, sinh-lý, vật-lý
khiến cho có sự biến-hóa khí-chất, thành một
con người khác, một Siêu-nhân, một Bồ-Tát
của Phật-giáo .
Đấy là tập-đại-thành các khoa Yogas Ấn-
Độ, như ông thực-nghiệm ở Tùng-Lâm
Pondichery cho đến lúc nhập-tịch ( 1950 ) .
******
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
35
TÁC-PHẨM BỔ-TÚC
AUROBINDO-GHOSE
( 1872 - 1950 )
*
TIẾN - HÓA - LUẬN
Nguyên-lý và phạm-vi tiến-hóa trong ấy
thì cái sức-mạnh gì tiến-hóa và nó đã hành-
động tạo-tác ra thế-giới thế nào ?
Thuyết tiến-hóa đã là trọng-điểm của tư-
tưởng Âu-Tây thế-kỷ XIX. Không những nó đã
ảnh-hưởng vào tất cả khoa-học và thái-độ tư-
tưởng bấy giờ, mà còn ảnh-hưởng mạnh-mẽ về
đạo-đức, chính-trị và xã-hội nữa. Không có nó
thì đâu đã có sự toàn-thắng của quan-niệm duy-
vật về nhân-sinh và vũ-trụ. Cái quan-niệm duy-
ADPH AUROBINDO GHOSE
36
vật ấy là đặc-trưng của thế-kỷ XIX, ngày nay
đã bị vượt qua, tuy rằng thời ấy sự toàn-thắng
của nó đã được coi như vĩnh-viễn. Và hậu-quả
của sự toàn-thắng ấy là sự thất-bại của tinh-
thần tín-ngưỡng tôn-giáo. Về xã-hội và chính-
trị chủ-nghĩa duy-vật ấy đã dẫn đến sự thay-thế
cho tiến-bộ về ý-niệm đạo-đức, hậu-quả là sự
cụ-thể-hóa những ý-niệm xã-hội và tiến-bộ xã-
hội, sự thắng thế của con người kinh-tế đối với
con người lý-tưởng .
Giáo-điều khoa-học về luật di-truyền,
thuyết-lý mới về động-vật nhân-loại tư-duy,
quan-niệm phổ-thông về sinh-tồn cạnh-tranh
phổ-quát, nó giúp cho bản-năng cạnh-tranh
phát-triển quá mức, cái ý-niệm về cơ-thể xã-hội
nó đã giúp cho sự phát-triển chống với chủ-
nghĩa xã-hội kinh-tế, và sự thắng-thế càng ngày
càng tăng lên của một Thể-chế tổ-chức-hóa hay
là cộng-đồng tập-thể đối với cá-nhân tự-do _
tất cả những điều ấy đều do một nguồn xuất-
phát ra, tức là chủ-nghĩa duy-vật .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
37
Quan-điểm duy-vật về thế-giới nay đã bị
sụp đổ mau lẹ, và lôi theo với nó cả thuyết tiến-
hóa duy-vật cũng phải biến đi. Tư-tưởng Âu-
Tây hiện-đại tiến-bộ hết sức mau. Nếu tinh-
thần Nhật-Nhĩ-Man của nó có tỏ ra trung-thành
với sự quan-sát và khuynh-hướng hệ-thống-hóa
cần-cù, thì nó cũng có phương-diện khác là
tinh-thần Celtic Hellenic La-Hy uyển-chuyển,
sẵn-sàng cải-biến mau lẹ, với sự tò-mò vô-hạn.
Nó không cho phép một tư-tưởng nào, một hệ-
thống nào chi-phối độc-tôn lâu mãi. Nó vội-
vàng phê-phán, thử-thách, bãi-bỏ, uốn-nắn lại,
khám-phá những chân-lý mới và đối-nghịch
lại, để phiêu-lưu vào những thí-nghiệm khác.
Hiện nay cái tinh-thần ấy, hay thắc-mắc, đã
không chống-đối thuyết tiến-hóa tại trọng-tâm
của nó, nhưng rõ-ràng nó đang sửa soạn cho
một hình-thức mới với ý-nghĩa mới về tiến-
hóa .
Ý-niệm đại-cương của sự tiến-hóa là sự
liên-hệ của mỗi hình-thái kế-tiếp hay là trạng-
thái sự-vật với hình-thái đi trước nó, sự xuất-
ADPH AUROBINDO GHOSE
38
hiện qua quá-trình sinh-xuất hay là sự phô-diễn
của một số khả-năng do những trạng-thái có
trước, hay khuynh-hướng có trước, đã sửa-soạn
hay là cả đến tạo điều-kiện thiết-yếu cho nó.
Không những một hình-thái chứa đựng mầm-
mống chủng-tử cho hình-thái nó tái-sinh, mà
cũng còn chứa-đựng mầm-mống chủng-tử của
hình-thái mới, có thể có do nó biến-thái ra.
Bằng sự tiến-bộ kế-tiếp một thế-giới-hệ từ
trong tinh-vân tiến-hóa ra, một hành-tinh có thể
ở được xuất-hiện từ trong một hệ-thống không
có thể sinh sống được. Nguyên-hình-chất của
sự sống từ vật-chất xuất-hiện theo cách-thức
đường lối chưa được biết, cơ-thể phát-triển mở-
mang hơn, nẩy sinh từ cơ-thể kém mở-mang.
Loài cá là con cháu loài sâu bọ, loài hai chân
và bốn chân truy-nguyên từ loài cá, nhân-loại
là một loài khỉ, vượn bốn chân đã học-tập đi
hai chân, đứng thẳng và đã tự lột bỏ tất cả đặc-
tính không thích-hợp với cách sống và tiến-bộ
mới. Năng-lực được Nữ-thần vô-ý-thức tạo-tác
những kỳ-tích ấy ở Vật-chất bằng cái nguyên-
lý bản-nhiên cố-hữu của mình là sự thích-ứng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
39
tự-nhiên và trong cơ-thể bằng bộ máy di-truyền
tăng-tiến, bổ-sung. Với sự thiên-trạch, lựa-chọn
tự nhiên những chủng-loại ấy tái-sinh những
đặc-tính mới, phát-triển bằng sự thích-ứng với
hoàn-cảnh và sự ưu-đãi để tục-tồn, có khuynh-
hướng tự truyền-bá và tồn-tại ; những loại khác
trụy-lạc, thoái-hóa trong cuộc sống và biến đi .
Đấy đã một lần là những ý-niệm đặc-
trưng. Nhưng một số ý-niệm ấy, ý-niệm khá
chính-yếu ngày nay bị phê-phán. Cái ý-niệm
" sinh tồn cạnh tranh " ( The Struggle for life )
có khuynh-hướng bị cải-biến và cả đến bị phủ-
nhận nữa. Người ta xác-định hay ít ra được
hiểu một cách phổ-thông rằng ý-niệm ấy không
phải thành-phần chính thật của học-thuyết
Darwin. Sự biến-cải là một sự nhượng-bộ để
làm sống lại các khuynh-hướng tư-tưởng đạo-
đức và lý-tưởng tìm một nguyên-lý tình-yêu,
cũng như nguyên-lý vị-ngã ở tại nguồn-gốc của
sự sống. Những kết-luận cũng tương-đương
quan-trọng của các nhà khảo-cứu trong hiện-
tượng di-truyền đã thấy rằng những đặc-tính
ADPH AUROBINDO GHOSE
40
được hưởng-thụ không phải sẽ truyền xuống
cho thế-hệ sau, và thuyết-lý rằng phần lớn
khuynh-hướng thiên-tư, phú-bẩm được di-
truyền ; bởi vì sự biến-cải ấy trong quá-trình
tiến-hóa bắt đầu có bộ mặt ít vật-chất và cơ-
giới máy-móc. Nguyên-lai và vị-trí của năng-
lực động-cơ lui về cái gì ít vật-chất, và đi vào
Vật-chất tâm-lý hơn .
Sau nữa, cái ý-niệm đầu tiên về cuộc tiến-
hóa tuần-tự và chậm-chạp, đã bị thay-thế bằng
một thuyết tiến-hóa bột-phát và mau lẹ. Hơn
nữa chúng ta đi đến ý-nghĩa tất-yếu vật-chất
đầy đủ và máy-móc hình-thức để tiến vào bề
sâu của bí-quyết còn phải thăm dò .
Thực vậy, ở những lý-thuyết ấy thì những
biến-cải chưa được triệt-để. Sự quan-trọng của
chúng là ở chỗ chúng xuất-hiện đồng thời với
phong-trào trỗi dậy ở hình-thức mới của những
ý-niệm xưa từng đã bị làn sóng duy-vật tràn-
ngập. Nào thuyết duy-sinh, những tư-tưởng
khuynh-hướng duy-tâm coi như đã bị Khoa-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
41
học vật-lý bóp chết, ngày nay nổi dậy tranh đấu
và thấy ảnh-hưởng của chúng ở mỗi biến-
chuyển của sự phổ-biến khoa-học, nó mở
đường cho chính sự tiến-triển và củng-cố của
mình. Về phương-diện gì mà thuyết tiến-hóa có
vẻ như bị thất-bại với tư-tưởng sâu rộng hơn
của ngày mai và bắt buộc phải cải biến triệt-
để ?
Trước hết là thuyết duy-vật tiến-hóa bắt
đầu với thái-độ như học-thuyết Samkhya, chủ-
trương tất cả thế-giới chỉ là sự phát-triển của
Vật-chất bất-định, nhờ vào Năng-lực Thiên-
nhiên, nhưng thuyết duy-vật gạt bỏ ở học-
thuyết Samkhya cái Nguyên-nhân Yên-lặng và
Thần-ngã ( Purusha ) hay là Linh-hồn quan-sát
và suy-tư. Do đấy mà thuyết duy-vật Tây-
phương quan-niệm thế-gìới như một cái máy
tự-động nó biểu-diễn vậy. Không một nguyên-
nhân trí-tuệ, không mục-đích, không có lý-do
đương nhiên, mà trái lại chỉ là phô-diễn tự-
động, hợp-hóa, tự thích-ứng của phương-tiện
ADPH AUROBINDO GHOSE
42
với cứu-cánh, không một hiểu-biết hay là ý-
hướng trong sự thích-ứng .
1)_ Đây là điều phi-lý đầu tiên của thuyết
tiến-hóa, và nếu nó được tinh-thần nhân-loại
công-nhận, thì sự chính-đáng và kết-luận của
nó phải là một điều cưỡng-ép .
Hơn nữa, Năng-lực trong Vật-chất bất-
định, không xác-thực, không có Linh-hồn, Ý-
thức, trở nên tất cả khởi-thủy và tất cả chất-liệu
của sự-vật. Tinh-thần, Sinh-mệnh và Ý-thức
chỉ có thể do Vật-chất phát-triển ra thôi và chỉ
là động-tác của Vật-chất. Chúng không có thể
là tất cả vật-tự-thân, khác với Vật-chất hay là ở
trình-độ cuối cùng độc-lập với Vật-chất .
2)_ Đây là điều phi-lý thứ hai và là cái
điểm mà lý-thuyết có thể thất-bại việc thành-
lập. Càng ngày chiều-hướng hiểu-biết càng đưa
đến quan-điểm rằng cả ba : Vật-chất, Sinh-
mệnh và Tinh-thần đều là những hình-thái khác
nhau của Năng-lực, mỗi cái với đặc-tính riêng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
43
và cách động-tác riêng, mỗi đàng hỗ-tương
hành-động vào nhau để làm cho nhau thêm
phong-phú hình-thái trong sự tiếp-xúc với
nhau .
Một mà Ba ._
Một ý-niệm bắt đầu sáng-tỏ cho rằng chỉ
có một sáng-tạo duy-nhất nhưng ba mặt : Vật-
chất, Sinh-mệnh và Tinh-thần trí-khôn ( Mate-
rial, Vital and Mental ). Nó có thể coi như hợp-
thể ba giới hỗ-tương hành-động vào nhau. Đấy
là cái ý-niệm cổ xưa ở Veda về thế-giới sinh ba
của chúng ta sinh sống. Chúng ta có thể tiên-
liệu một cách hợp-lý rằng khi những động-tác
của nó được xét theo quan-điểm mới này thì
các trí-thức Veda cổ xưa sẽ được chứng-nhận
rằng chỉ có một Luật-pháp và Chân-lý hành-
động trong toàn-thể tất cả, nhưng khác nhau về
hình-thức, tùy theo môi-trường trong đó công
việc diễn-tiến với nguyên-lý của nó chi-phối .
ADPH AUROBINDO GHOSE
44
Những Thần-linh giống nhau hiện-hữu
trên tất cả bình-diện và duy-trì những luật-pháp
căn-bản giống nhau, nhưng với một bộ mặt và
cách-thức hành-động khác nhau, và đi đến kết-
quả luôn luôn triển-khai và rộng hơn .
Nguyên-Lý Sáng-Tạo ._
Nếu đấy là Chân-lý thì bấy giờ sự tiến-
hóa phải khác hẳn với điều đã được giả-thiết.
Ví dụ sự tiến-hóa về Sinh mệnh trong Vật-chất
đã phải được sản-sinh và cai-quản không phải
bởi một Nguyên-lý duy-vật, mà bởi một
Nguyên-lý Sinh-động hành-động ở trong và ở
trên những điều-kiện của Vật-chất, và áp-dụng
vào nó Luật-pháp cùng những khích-động,
những nhu-yếu của chính mình. Cái ý-niệm về
một Sinh-mệnh toàn-năng khác với Nguyên-lý
Vật-chất hành-động ở bên trong và ở trên Vật-
chất đã bắt đầu chi-phối tư-tưởng cấp-tiến của
Âu-châu. Cái ý-niệm khác về một Tinh-thần
còn toàn-năng hơn hành-động ở trong Sinh-
mệnh và ở trên nó thì chưa đủ phát-triển bởi vì
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
45
sự khảo-cứu về luật-pháp của Tinh-thần hãy
còn ấu-trĩ .
Hơn nữa, thuyết duy-vật giả-định một
chuỗi dây cứng nhắc những nhu-yếu vật-chất,
mỗi điều-kiện trước là một phối-hợp nhất-trí
của nhiều năng-lực và điều-kiện biểu-hiện, mỗi
điều-kiện thành-quả là kết-quả biểu-hiện của
nó. Tất cả bí-quyết, tất cả yếu-tố không có thể
tính được đều biến mất. Nếu chúng ta có thể
phân-tích đầy đủ những điều-kiện về trước và
khám-phá luật-pháp đại-cương của chúng,
chúng ta có thể chắc chắn về hậu-quả, ví như ở
trường-hợp một hiện-tượng nhật-thực hay là
động-đất vậy. Bởi vì tất cả đều là biểu-hiện kết-
quả hợp-lý của một biểu-hiện trước .
Một lần nữa, kết-luận có vẻ quá đơn-giản
và dứt-khoát ; thế-giới còn phức-tạp hơn thế
nữa. Ngoài những nguyên-nhân hiển-nhiên còn
những nguyên-nhân không biểu-hiện hay là
ngấm-ngầm và không phải là đề-tài phân-tích
của chúng ta. Những yếu-tố này càng tăng lên
ADPH AUROBINDO GHOSE
46
với cái đà chúng ta leo thang sinh-tồn, phạm-vi
của nó sâu rộng trong Sinh-mệnh hơn là Vật-
chất, sâu rộng ở Tinh-thần hơn là ở Sinh-mệnh.
Tư-tưởng Âu-Tây đã có khuynh-hướng thiết-
định đàng sau tất cả hoạt-động biểu-hiện, tùy
theo sự ưa-thích của giới trí-thức, hoặc gọi tên
là Vô-ý-thức ( Inconscient ) hay là Tiềm-thức
( Subconscient ), nó chứa-đựng nhiều hơn, và
chúng ta không có thể nắm được, nó biết hơn
và có thể thấy nhiều hơn là ở bề ngoài của
sinh-tồn. Từ trong cái Vô-thức hay Tiềm-thức
ấy luôn luôn xuất-phát ra cái biểu-hiện .
Một lần nữa, chúng lại trở về cái Chân-lý
mà hiền-triết Veda đã biết, ấy là ý-niệm về một
cái biển hữu-thể vô-thức hay tiềm-thức " Tiêm
duy phục hỹ diệc khổng chi chiêu"
( ). Cái biển của nội tâm sự-
vật do đấy xuất-phát ra thế-giới tự-biểu-hiện.
Nhưng Veda cũng thiết-định một siêu-thức
khởi-thủy và cai-quản, nó giải-thích sự xuất-
hiện của cái ý-thức tiềm-tàng và cái biết quán-
thông những động-tác của Tiến-hóa và nó làm
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
47
cho Luật-pháp và Chân-lý tự-động đàng sau
chúng .
Thuyết duy-vật tiến-hóa tự-nhiên dẫn đến
cái ý-niệm về một sự tiệm-tiến tuần-tự chậm-
chạp theo đường thẳng. Nó thừa-nhận có
những phản-hồi, di-truyền quanh-co, khúc-
khuỷu của những phản-ứng làm sai lạc đường
thẳng, nhưng những điều ấy tất nhiên phải lệ-
thuộc, ít hiển-nhiên, nếu chúng ta tính bằng
thế-hệ hơn là trong một thời-gian ngắn-ngủi. Ở
đây cũng thế, sự hiểu-biết đầy đủ đánh tan
những ý-kiến đã nhận được có trước đây, có
sẵn. Trong lịch-sử của loài người, tất cả đều
chứng-minh rằng những biến-đổi của tính-chất
quan-trọng, thời-kỳ tiến-bộ, thời-kỳ thoái-hóa,
toàn-thể tạo nên một cuộc tiến-hóa có tính-cách
tuần-hoàn hơn là theo chiều thẳng. Một thuyết
tuần-vận văn-minh nhân-loại đã được trình-
bày, chúng ta có thể đã đi đến cái thuyết tiến-
hóa nhân-loại tuần-vận, thuyết Kalpa ( kiếp,
một tăng một giảm của kiếp người từ 10 đến
80.000 để lại trở lại ), và Manvantara ( 432
ADPH AUROBINDO GHOSE
48
triệu năm, gồm 4 Yuga là Vàng, Bạc, Đồng, và
Sắt. Hai ngàn Manvantara là một Kalpa ) theo
thuyết Ấn-Độ-giáo. Nếu thuyết này đúng về
vận-hội tiến-hóa của thế-giới sinh-tồn, thì nó
không phải là một sự khẳng-định suông vô căn-
cứ, bởi vì những vận-hội ấy lớn quá, những
thời-kỳ dài quá, để cho người ta có thể quan-sát
được, mà có thể suy-diễn .
Thay thế cho sự tiến-hóa chậm, chắc-chắn
từng bước ngắn tuần-tự, ngày nay người ta đề-
nghị rằng những bước mới trong tiến-hóa đi
theo con đường bồng-bột, đột-ngột mau lẹ từ
trong cái không hiển-hiện biểu-hiện ra. Phải
chăng Tạo-hóa Thiên-nhiên sửa soạn dần dần
bên trong bức màn, tiến lên một bước, lùi lại
một bước, để một ngày kia tiến đến những hợp-
hóa của sự-vật xuất-hiện, ngõ hầu để có thể
ném ra ý-niệm mới vào một sự thành-lập bạo-
động, đột-ngột, với một bước tiến dài, rực-rỡ.
Và điều ấy giải-thích sự tiết-kiệm của Tạo-vật
về sự tái-diễn và phục-sinh của vật chết từ lâu.
Tạo-hóa nhằm đến kết-quả tức thì và đạt tới
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
49
đấy mau hơn và toàn-vẹn, nó hy-sinh đi nhiều
hiện-tượng của nó và ném chúng trở về chỗ
ngấm-ngầm, tiềm-tàng, chưa phát-hiện, về
tiềm-thức. Nhưng nó chưa dứt-khoát được với
chúng, nó sẽ còn cần đến chúng ở giai-đoạn
khác, cho một thành-quả cao xa hơn. Bởi thế
nên Tạo-hóa đem chúng tiến lên một bước nữa
và chúng tái-hiện vào hình-thái mới trong
những hợp-hóa khác để đi về mục-đích mới.
Cứ như thế mà cuộc tiến-hóa phô-diễn .
Và còn về phương-diện cụ-thể để tiến-hóa
thì sao ? Hẳn là không phải sinh-tồn cạnh-
tranh ( the struggle for life ) mà thôi. Định-luật
thật ngày nay được đưa ra thì hỗ-tương thích-
hợp. Cạnh-tranh có thật, hỗ-tương hủy-diệt có,
nhưng là một vận-động phụ-thuộc, một hòa-âm
nhỏ, và chỉ đến lúc nào có âm-điệu cao mà vận-
động hỗ-tương thất-bại thì mới phải mở cửa
cho sự cố-gắng mới, một hợp-hóa mới .
Sự truyền-bá của đặc-tính thừa-hưởng
được do di-truyền đã quá vội tự xác-định là đủ.
ADPH AUROBINDO GHOSE
50
Ngày nay, có lẽ phủ-nhận nó vội vàng cũng
nguy-hiểm. Không phải chỉ có Vật-chất mà còn
Sinh-mệnh và Tinh-thần hành-động vào Vật-
chất mới có thể quyết-định cho sự tiến-hóa. Di-
truyền chỉ là một cái bóng vật-chất của Linh-
hồn tái-sinh, của Sinh-mệnh và Tinh-thần tái-
hiện vào những hình-thái mới. Thông thường
coi như một yếu-tố hay cơ-bản bền vững là có
sự tái-sinh của cái gì đã tiềm-tàng ; bởi vì
những tính-chất mới để truyền-bá vào những
chủng-loại, chúng phải đã đưọc tiếp-nhận,
công-nhận, kiểm-soát trong thế-giới tinh-thần
và sinh-sống. Chỉ bấy giờ thôi chúng mới có
thể tự-động tự tái-sinh từ chủng-tử vật-chất.
Không thế chúng là thụ-đắc cá-nhân và riêng-
tư, và trở về kho-tàng chung của tiềm-thức chứ
không đi về kho-tàng của gia-tộc. Khi nào
Tinh-thần và Sinh-mệnh đã sẵn-sàng thì chúng
được tự-do tràn ra vào các khuôn chứa-đựng
thích-hợp. Đấy là lý-do tại sao có khuynh-
hướng tiên-thiên, là phần lớn được di-truyền.
Năng-lực tâm-linh và sinh-lý trong nguyên-lý
vật-chất được in dấu trước tiên. Khi nào nó đã
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
51
làm xong đến mức đầy đủ thì bấy giờ nó mới
sẵn-sàng cho một bước đi đại-cương mới và
một di-truyền đổi khác xuất-hiện .
Đấy là đại-quan về thuyết Tiến-hóa bắt
đầu thay đổi. Thay-thế cho tiến-hóa máy móc,
tuần-tự, cứng-nhắc, của Vật-chất bất-định bởi
Năng-lực Thiên-nhiên, thì chúng ta tiến tới tri-
giác về một tiến-hóa ý-thức, uyển-chuyển,
mềm dẻo, hết sức bất-ngờ và luôn luôn bi-kịch
bởi một cái Biết siêu-thức, nó biểu-lộ sự-vật ở
Vật-chất, Sinh-mệnh và Tinh-thần từ trong cái
Vô-thức sâu thẳm phát-xuất, hiện ra .
*******
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
53
VÔ -TÂM LUẬN
( )
Cái quan-điểm phù-phiếm đầu tiên mà
tinh-thần quan-sát một đối-tượng nào của tri-
thức thì luôn luôn là một huyễn-tưởng. Tất cả
khoa-học hiểu-biết, tất cả chân tri-thức đều
phải tìm vào bên trong, đàng sau bề-mặt bên
ngoài để khám-phá cái sự thật nội-tại và pháp-
luật tiềm-tàng ẩn-náu. Không phải vật tự-thân
là huyễn-tưởng ảo-hóa mà nó không phải là cái
gì bề ngoài biểu-hiện như là nó. Cũng chẳng
phải rằng những công việc và tác-dụng chúng
ta quan-sát ở ngoài mặt là không có, nhưng là
chúng ta không có thể thấy được năng-lực
động-cơ thật của chúng, quá-trình liên-hệ thật
của chúng, bằng sự chỉ khảo-sát chúng ở chỗ
chúng cho ta thấy qua sự quan-sát của giác-
quan .
ADPH AUROBINDO GHOSE
54
Trong giới khoa-học vật-lý điều ấy đã rõ
ràng lắm và được công-nhận đại-đồng. Trái đất
phẳng không tròn, không ở một chỗ mà vận-
động hai cách ; mặt-trời vận-động không phải
chung-quanh trái đất. Vật-thể hiện ra cho
chúng ta như sáng. Sự-vật thuộc kinh-nghiệm
hàng ngày của chúng ta như mầu sắc, thanh-
âm, ánh-sáng, không-khí, gần như khác hẳn với
sự thực của chúng, như chúng đòi hỏi. Giác-
quan cho ta quan-điểm sai lầm về xa cách,
diện-tích, hình-dáng, liên-quan. Vật-thể hiện ra
cho giác-quan như là hình-thể tự-tại thì đều là
giả-hợp và do những phần-tử nhỏ cấu-tạo nên,
mà năng-khiếu bình-thường của chúng ta
không thể khám-phá được. Những thành-phần
vật-chất ấy lại cũng chỉ là công-thức-hóa của
một Năng-lực mà chúng ta không có thể mô-tả
như là vật-chất và ý-nghĩa của chúng không
minh-bạch. Tuy nhiên, tinh-thần ( mind ) và
giác-quan có thể sinh-hoạt hầu như thỏa-mãn
và tin-tưởng trong cái thế-giới ấy của huyễn-ảo
và công-nhận chúng như là chân-lý thực-tiễn _
vì đến một mức nào đó chúng sẽ là chân-lý
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
55
thực-tiễn và tạm đủ cho một cuộc sinh-hoạt
giới-hạn, thông-thường và thô-sơ .
Nhưng chỉ đến một mức-độ nào thôi, vì
có nhiều khả-năng của một đời sống rộng lớn
hơn, chủ-động hơn, thực-tiễn hơn, và chỉ chừng
nào người ta đi sâu vào bối-cảnh và sử-dụng
một sự hiểu-biết chân-xác hơn về vật-thể và
năng-lực. Sự khám-phá những bí-mật của Tạo-
hóa dẫn đến một sự phát-minh ngẫu-nhiên, đến
cái khả-năng có công-dụng xa hơn về năng-lực
thiên nhiên mà chính Thiên-nhiên đã không
tiến hành vì không thấy cần-thiết cho sự bảo-
tồn chỉ đời sống mà thôi với những công-việc
thông-thường. Nhưng nó để lại cho loài người,
cho đời sống tinh-thần, sự khám-phá và sử-
dụng cho mục-tiêu cải tiến sinh-tồn và phát-
triển khả-năng của nó .
Tất cả những điều trên thì dễ thấy trong
đời sống Vật-chất, nhưng nhân-loại chưa hoàn-
toàn sẵn-sàng thừa-nhận cùng một chân-lý ấy
và tuần theo cùng một nguyên-lý ấy trong cõi
ADPH AUROBINDO GHOSE
56
Tinh-thần. Sự thật, khoa tâm-lý-học đã tiến-bộ
và bắt đầu cải-tiến phuơng-pháp của nó. Trước
kia nó là một hệ-thống phù-phiếm học, quy về
sự mê-muội của chính con người. Cái động-tác
tâm-lý bề mặt, ý-chí, tinh-thần, cảm-giác, lý-trí,
ý-thức, v.v. đều xếp loại trong một sự phân-
loại khô-khan, bản-tính và quan-hệ chân-thật
của chúng với nhau đã không được xét về bề
sâu và cũng không được sử-dụng ngoài hành-
động giới-hạn. Thiên-nhiên đã thấy mãn-
nguyện với đời sống tâm-lý và tinh-thần phù-
phiếm, và cho là những công việc hàng ngày
đều rất hời-hợt. Bởi vì chúng ta không hiểu-
biết về mình cho nên chúng ta không có khả-
năng cải-tiến triệt-để đời sống nội-tâm của
chúng ta, hay là phát-triển tinh-thông mau lẹ
với sự hiểu-biết chắc-chắn những khả-năng
tiềm-tàng của năng-lực tinh-thần và bản-tính
đạo-đức của chúng ta. Thực ra, tân-tâm-lý-học
có tìm thâm-nhập vào bên trong hiện-tượng
phù-phiếm bề ngoài, nhưng nó còn bị vướng
vào những sai lầm đầu tiên cản-trở cái biết
thâm sâu của nó :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
57
1)_ Sai lầm duy-vật, căn-cứ vào thân-thể
để nghiên-cứu tinh-thần ;
2)_ Sai lầm hoài-nghi, nó cản-trở sự thẩm
cứu bạo-dạn và sáng-suốt vào bề sâu tiềm-tàng
của sinh-tồn chủ-quan ;
3)_ Sai lầm vì ngờ-vực, thoái-hóa, bảo-
thủ, nó coi bất-cứ trạng-thái hay là kinh-
nghiệm nội-tâm, xuất-phát từ động-tác thông-
thường của tinh-thần và bản-tính tâm-linh của
chúng ta, như là bệnh-hoạn hay là huyễn-tưởng
_ đúng như thời Trung-cổ, người ta coi tất cả
khoa-học mới mẻ như là ma-thuật và là sự
phát-xuất quỷ-quái của khả-năng nhân-loại
ngoài giới-hạn chính-đáng ;
4)_ Sau hết là sai lầm về khách-quan, nó
dẫn các nhà tâm-lý-học vào công-việc khảo-
cứu tha-nhân, từ bên ngoài nhìn vào hơn là
nhìn vào môi-trường chân-thật của tri-thức và
vào phòng thí-nghiệm tại chính con người
mình. Tâm-lý-học bắt buộc tất nhiên là một
ADPH AUROBINDO GHOSE
58
khoa-học chủ-quan, và người ta phải bắt đầu
khảo-sát từ sự hiểu-biết về chính mình, để rồi
đi đến hiểu-biết về người .
Nhưng mặc dầu sự thô-sơ của khoa-học
mới này, nó cũng đã đi được một bước đầu,
bằng không có bước đầu ấy thì không có thể có
tri-thức tâm-lý-học chân-chính được. Nó đã có
những khám-phá làm bước khởi-điểm cho tri-
thức, tự-tính, tự-ngã và ai nghiên-cứu sâu vào
thực-kiện ý-thức đều phải bắt đầu nhận-thức
rằng sự sinh-hoạt bề mặt ở trạng-thái Thức chỉ
là một phần nhỏ của sinh-tồn chúng ta chứ
không cho thấy gốc rễ và bí-ẩn của tính-cách,
tính-tình hay là hành-vi của chúng ta. Nguyên-
lai còn ở trong sâu-thẳm hơn. Khám-phá ra
chúng, hiểu-biết bản-tính và những quá-trình
của tự-tính vô-thức hay là tiềm-thức, càng sâu
xa được chừng nào càng hay, nắm được chúng
và dùng chúng như là khoa vật-lý-học đối với
bí-ẩn của năng-lực Thiên-nhiên, đấy phải là
mục-tiêu của khoa tâm-lý khoa-học .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
59
Nhưng ở đây chúng ta gặp phải khó-khăn
đầu tiên, ấy là vấn-đề phải chăng cái tự-tính
rộng lớn và khác kia ( mà trạng thái sống lúc
thức chỉ là một bộ-mặt và một hiện-tượng ) thì
là vô-thức hay là tiềm-thức ? Và phải chăng
đấy là cửa vào toàn-thể vận-mệnh của tồn-tại
nhân-loại ? Bởi vì nếu thực bản-tính chính của
nó là vô-thức thì chúng ta không có thể hy-
vọng tự-minh với ánh-sáng ẩn-náu của các đáy
sâu-thẳm ấy được, vì không có gì là ánh-sáng.
Chúng ta cũng không có hy-vọng tìm thấy và
nắm lấy cái bí-ẩn về năng-lực của nó .
Mặt khác, nếu nó là tiềm-thức, nghĩa là
cái ý-thức sâu rộng hơn bị che phủ, có khả-
năng hơn là tự-tính ngoại-diện của chúng-ta, thì
có một triển vọng vô-biên tự khai-triển mở ra
trước mắt ta, và nhân-loại tiến bước về những
khả-năng vô-hạn vậy .
Thực-nghiệm và quan-sát tâm-lý-học tối-
tân cận-đại đã thi-hành trên hai đường mà chưa
tìm thấy điểm gặp nhau .
ADPH AUROBINDO GHOSE
60
1)_ Một mặt, tâm-lý-học đã lấy khởi-
điểm là những khám-phá và lý-thuyết cơ-bản
của khoa-học vật-lý và đã làm việc như là một
khoa sinh-lý-học tiếp theo. Khoa vật-lý-học là
khoa nghiên-cứu Năng-lực vô-thức hành-động
trong Vật-chất vô-thức. Một tâm-lý-học thừa-
nhận cái công-thức làm cơ-bản cho tất cả sinh-
tồn thì phải coi ý-thức như là một hiện-tượng
hậu-quả của cái Vô-thức hành-động vào vô-
thức. Tinh-thần ( tâm-thức ) chỉ là thành-quả và
dĩ-nhiên là ghi lại những phản-ứng thần-kinh.
Tự-tính chân-thật thì vô-thức, động-tác tinh-
thần là một hiện-tượng phụ-thuộc của nó. Cái
Vô-thức lớn hơn là ý-thức, nó là thần-linh, thày
pháp, sáng-tạo, hóa-công, mà hành-động còn
chính-xác hơn nhiều hành-động bão-phụ nhưng
mù-quáng của tâm-trạng ý-thức. Cái cây còn
được hướng-dẫn hoàn-hảo hơn là người trong
động-tác giới-hạn hơn, chính vì nó sống không
cao-vọng theo Thiên-nhiên và nó thụ-động
trong tay Vô-thức. Tinh-thần gia-nhập vào để
mở rộng phạm-vi hoạt-động, nhưng cũng để
tăng thêm lầm lỗi, xấu-sa, phản-loạn chống
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
61
Thiên-nhiên, ly-khai với sự hướng-dẫn bản-
năng của Tự-tính Vô-thức, nó tạo nên cái yếu-
tố vô-minh vĩ-đại, mê lầm và đau khổ của đời
sống nhân-loại, cái mà Thi-sĩ Veda phàn-nàn
rằng " nhiều mê lầm ở nơi chúng ta " .
Ở đâu bây giờ có cái hy-vọng rằng tinh-
thần ( tâm thức ) sẽ sửa chữa sai lầm và tự
hướng-dẫn vào chân-lý của sự-vật ? _ Hy-vọng
nằm trong Khoa-học, trong sự quan-sát thông-
minh, sử-dụng, truyền-thụ ở năng-lực và động-
tác của Vô-thức. Hãy lấy một tỉ-dụ : Vô-thức
hành-động theo luật di-truyền và để nó một
mình với nó, nó hành-động sai lầm để bảo-trì
sự sống-còn của kiểu-mẫu khỏe-mạnh và tốt
lành. Người ta lạm-dụng di-truyền trong điều-
kiện sai lầm của đời sống xã-hội để truyền lại
và làm cho dài lâu tính suy-đồi. Chúng ta phải
nghiên-cứu luật di-truyền, phát-triển khoa-học,
cải-thiện nhân-chủng và khéo sử-dụng nó làm
sao cho ít ăn-năn _ với sự khôn-ngoan ít ăn-năn
của Thiên-nhiên _ ngõ hầu lấy trí-tuệ bảo-đảm
kết-quả mà Vô-thức bảo-chứng bằng bản-năng
ADPH AUROBINDO GHOSE
62
thích-ứng. Chúng ta có thể thấy cái ý-niệm ấy
và cái tinh-thần ấy dẫn chúng ta về đâu _ đến
chỗ thay-thế chủ-nghĩa lý-tưởng tâm-linh và
tình-cảm mà nhân-loại đã phát-triển bằng một
lý-tưởng duy-vật kiện-toàn, lạnh-lẽo. Và nó
dẫn đến một sự cải-tiến nhân-loại của nhà
chuyên-môn khoa-học cố-gắng thử bằng chủ-
nghĩa cơ-giới chặt-chẽ. Không còn cảm-hứng
thâm-trầm của thiên-tài nữa và khát-vọng
uyển-chuyển của nhân-cách và bản-lĩnh mạnh-
mẽ. Vả lại, là cái chi nếu điều này chỉ là một
sai lầm khác của tinh-thần ý-thức (tâm ý-thức).
Cái chi, nếu lỗi lầm và bệnh-hoạn, phản-kháng
và ly-khai với Thiên-nhiên đã tự là thành-phần,
một bộ-phận tất-yếu của kế-hoạch, khôn-khéo
và không sai lầm của Tự-tính Vô-thức thâm-
trầm và là một phương-tiện sai lầm nhất để đạt
tới một chân-lý sâu rộng hơn và một khả-năng
phấn-khởi hơn. Cái thực-kiện tự thiên-tài, kết-
quả tối cao của ý-thức chúng ta được phát-
triển, thường hay nẩy-nở trên một ngành bệnh-
hoạn, đấy là một hiện-tượng giầu ngụ-ý làm ta
bối-rối. Con đường minh-bạch của khoa-học
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
63
chính-xác không phải luôn luôn cần là con
đường tối hảo. Nó có thể thường vẫn giữ chủ-
trương phát-triển một Hiểu-biết còn sâu rộng
hơn .
2)_ Mặt khác của sự nghiên-cứu tâm-lý-
học đang làm cho khoa-học chính-thống trau
mày, nhưng nó thịnh-vượng và thu-hoạch kết-
quả của nó, mặc cho các nhà bác-học nguyền-
rủa. Nó dẫn chúng ta vào những con đường tắt
của khảo-cứu tâm-linh, thôi-miên-học, huyền-
bí-học, với tất cả các loại dò-dẫm về tâm-lý-
học kỳ lạ. Chắc hẳn là ở đây không có gì giống
như phương-pháp vật-lý-học căn-cứ vào chủ-
nghĩa thực-tiễn vững-chắc và minh-bạch. Tuy
nhiên sự thực chứng-minh, và với một sự-thực
thì có một kết-luận tạm, kết-luận rằng có một
cái tự-tính, tự-ngã tiềm-tại ( sumbliminal )
đàng sau tinh-thần ở cách-thức phù-phiếm bề
ngoài ngoại-biểu, bẩm-thụ những năng-khiếu
kỳ lạ và có khả-năng hành-động, kinh-nghiệm
chắc-chắn hơn, có ý-thức về tinh-thần tâm-thức
ngoại-biểu, tuy rằng cái tinh-thần tâm-thức
ADPH AUROBINDO GHOSE
64
ngoại-biểu không ý-thức về nó. Bây giờ thì một
vấn-đề được đặt ra. Làm thế nào, nếu thực
không làm gì có Vô-thức chút nào, nhưng lại
có một cái Ý-thức tiềm-tàng ở khắp cả, hoàn-
toàn về trí-năng mà tinh-thần chúng ta là cửa
mở ra đầu tiên, chậm-chạp, ngập-ngừng và
khiếm-khuyết, và hình-ảnh của nó thì tâm tính
nhân-loại có định-phận tiến-triển tuần-tự vào
đấy ? Ít nhất nó sẽ là một phổ-quát-hóa chẳng
kém chính-xác và nó sẽ giải-thích tất cả thực-
kiện mà ngày nay chúng ta được hiểu nhiều
hơn là thuyết duy-vật về định-mệnh mù-quáng
và không có mục-đích .
Trong sự theo đuổi xét cứu tâm-lý-học
theo con đường ấy, chúng ta sẽ chỉ làm lại cái
gì mà tiền-nhân xưa của chúng ta đã làm rồi.
Bởi vì, họ cũng thế, khi họ bắt đầu quan-sát,
thực-nghiệm, nhìn vào bên trong sự-vật ngoại-
biểu, họ bắt buộc phải tri-giác thấy rằng tự-tính
chân-thật là cái gì sâu rộng hơn vô cùng. Họ
cũng trải qua duy-vật đầu tiên của khoa-học và
triết-học. Bởi vì chúng ta đọc trong Aitareya
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
65
Upanisad thấy Thần-Ngã Purusha, Linh-hồn,
Ý-thức sáp chiếm lấy thế-giới vật-chất và thân-
thể, tự hỏi : " Nếu sự phát-biểu là bằng lời nói
và sinh-sống bằng hơi thở, nhìn bằng mắt, nghe
bằng tai, nghĩ bằng tinh-thần " tóm lại, nếu tất
cả hoạt-động bề ngoài của sinh-tồn có thể giải-
thích bằng tác-dụng tự-động của Thiên-nhiên,
thì bấy giờ " Ta là ai ? " Và Kinh Upanisad
nói xa hơn : " Nó được sinh ra chỉ phân-biệt
công-tác của những yếu-tố vật-chất, vì có cái
chi khác ở đây để nó sẽ bàn cãi và quy kết ? "
Tuy nhiên, cuối cùng " nó nhìn cái sinh-tồn ý-
thức ấy, nó là Brahman, Thực-tại tối-cao hoàn-
toàn phóng ra và nó tự nói với mình: " Nay ta
đã thực thấy chưa ." Ở trong Taittiriya
Upanisad cũng thế, Bhrigu Varuni, định-niệm
về Thực-tại tuyệt-đối Brahman, đã đi đến kết-
luận đầu tiên rằng :
a)_ " Vật-chất là Brahman ", và chỉ sau
đấy mới khám-phá ra rằng :
b)_ " Sinh-mệnh là Brahman ", _ cứ thế
vươn lên từ thuyết duy-vật đến duy-sinh, ví
ADPH AUROBINDO GHOSE
66
như tư-tưởng Âu-Tây hiện nay đang vươn lên.
Rồi đến :
c)_ " Tâm-thức ( tinh-thần " mind " ) nó
là Brahman ", và rồi đến :
d)_ " Hiểu-biết là Brahman ", _ cứ thế
tiến đến sự thực-hiện cảm-giác và duy-tâm về
chân-lý _ và cuối cùng :
e)_ " Hoan-lạc Sinh-tồn là Brahman ". Ở
đây nó dừng lại trong thực-hiện tâm-linh cùng
tột, công-thức tối-cao của hiểu-biết mà nhân-
loại có thể đạt được .
Bởi vậy, cái Ý-thức mà không phải Vô-
thức đã là cái Chân-lý mà tâm-lý-học cổ xưa đã
đạt tới. Và nó phân-biệt có ba bình-diện của tự-
tính ý-thức, bình-diện thức, mộng và ngủ-say
của Nhân-loại. Nói cách khác là sinh-tồn
ngoại-diện, tiềm-thức hay là ý-thức thăng-hoa
và siêu-thức đối với ta hình như vô-thức, bởi vì
trạng-thái ý-thức của nó là mặt-trái của trạng-
thái ý-thức chúng ta. Bởi vì ý-thức chúng ta thì
giới-hạn và căn-cứ vào phân-chia và đa-thù,
nhưng cái ấy là "cái nó trở nên một đồng-nhất"
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
67
( that which becomes a unity ). Ý-thức chúng ta
phân-tán vào tri-thức, nhưng trong cái tự-ngã
ý-thức kia, thì tri-thức tập-trung và tự tụ-hợp ;
ý-thức chúng ta thì nghiêng-ngả giữa những
thực-nghiệm lưỡng-nguyên, nhưng cái ấy thì
thuần là lạc-thú, nó là cái ở tại chính trung-tâm
tồn-tại của chúng ta, đối-diện mọi vật với một
ý-thức thuần toàn-hữu và vui hưởng lạc-thú
sinh-tồn. Bởi vậy nên, tuy địa-bàn của nó là cái
tầng lớp ý-thức, đối với ta là cảnh ngủ-say
( ), _ tuy nhiên danh-hiệu là Nó, người
biết, Trí-tuệ Prājña. " Cái Ấy " theo Mandukya
Upanisad là " toàn-tri, toàn-năng, quản-lý nội-
tại, tử-cung của tất cả và từ đấy tạo-vật được
sản-xuất và chúng lại trở về đấy " .
Bởi thế nó giải-đáp đầy đủ, sát vào cái ý-
niệm cận-đại về Vô-thức được tu-chỉnh bằng ý-
niệm cận-đại khác là " tiềm-tại tự-ngã " ( subli-
minal self ). Bởi vì nó chỉ vô-thức trong trạng-
thái tinh-thần lúc thức, chính vì nó là siêu-thức
đối với trạng-thái ấy, và vì thế mà tinh-thần chỉ
có thể nắm được nó ở hậu-quả tác-dụng của nó,
ADPH AUROBINDO GHOSE
68
chứ không phải tự thân nó. Và còn bằng chứng
nào về sự thâm-trầm và xác-thực của khoa tâm-
lý-học cổ-điển, hơn là thực-kiện khi tư-tưởng
cận-đại với tất cả hãnh-diện về hiểu-biết thận-
trọng và chính-xác, bắt đầu nhòm vào trong
những bề sâu, nó bắt buộc phải nhắc lại với
luận-điệu ngôn-ngữ khác cái gì đã được ghi-
chú gần ba ngàn năm trước đây .
Chúng ta cũng thấy cùng một ý-niệm về
cái khoa kiểm ước nội-tại được nhắc lại trong
kinh Gita ( Chỉ-Tôn-Ca ) ; vì là Đấng Chỉ-tôn,
Ngài " ngự-tại trong lòng tạo-vật và vận-
chuyển tất cả tạo-vật do Ảo-hóa ( Maya ) tạo
thành " bộ máy huyền-vi mở đóng khôn
lường ". Ở thời-kỳ Upannisad cái Tự-tính, Tự-
ngã ấy được tả như là " tồn-tại tâm-thức, chủ-
động của sinh-mệnh và thân-thể ", nó chính
thật là tự-ngã tiềm-tại của các nhà khảo-cứu
tâm-linh. Nhưng đấy chỉ mới là một mô-tả
tương-đối. Tâm-lý-học Vedanta ( kết-luận
Veda ) đã ý-thức về những bề sâu khác, chúng
dẫn chúng ta vượt khỏi cái công-thức ấy và đối
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
69
với nó thì đến lượt tồn-tại tinh-thần trở nên
cũng ngoại-biểu như là trạng-thái lúc thức của
chúng ta đối với tinh-thần tiềm-tại. Và ở đây,
một lần nữa trong những cuộc cách-mệnh của
tư-tưởng nhân-loại, những bề sâu ấy phải được
biểu dương. Tâm-lý-học cận-đại sẽ bị bắt buộc,
vì sự ép bức của chân-lý, nó đang cầu tìm phải
đi vào con đường của người xưa. Cái tia sáng
mới noi dấu con đường của Chân-lý, đi theo tới
đích của những tia sáng đã từng chiếu qua
trưóc kia _ bao nhiêu lần rồi, ai mà biết được ?
Bởi vì cái biết ấy không phải mới khám-
phá lần đầu, thời tương-đối gần cổ-đại nó đã
cho chúng ta kinh Upanisad ( Ảo-nghĩa-thư )
mà chúng ta còn giữ được đến ngày nay. Nó
vẫn tại đấy, trong những bài thơ bất-hủ của
Rig-Veda, và các bậc hiền-trí thời Veda nói
đến như là phát-minh của các bậc thấu-thị xưa
hơn nữa, mà chính họ là đại-biểu mới và cận-
đại. Từ trong các thời-kỳ nhật-thực xuất ra,
đêm vô-minh bao-phủ nhân-loại, chúng ta
thường cho rằng chúng ta thiết-lập nên một tri-
ADPH AUROBINDO GHOSE
70
thức hiểu-biết mới. Sự thực chúng ta luôn luôn
khám-phá lại tri-thức ( ) " Ôn cố tri
tân ", và chúng ta luôn luôn nhắc lại thành-tựu
của các thời-đại đã đi qua từ trước _ tiếp-nhận
lại từ trong " Vô-thức " cái ánh-sáng nó đã
từng được rút ra trong bí-mật của nó, và nay nó
lại giải-phóng một lần nữa cho một ngày mới
và một giai-đoạn khác của lịch-trình vô-hạn .
Và cứu-cánh của lịch-trình ấy không
ngoài cái đích Chí Thiện : " Đại học chi Đạo
tại minh Minh đức, tại thân Dân, tại chỉ ư Chí
Thiện " ( )
Cái mục-đích Chí Thiện ấy mà các nhà tâm-lý-
học xưa đã đề ra cho sinh-mệnh và tiến-triển
của tâm-hồn loài người, cái tồn-tại tâm-thức, đã
một lần giác-ngộ rằng có cái tự-tính, tự-ngã sâu
rộng tiềm-tàng, cái thực-tại tồn-tại của mình,
thì ắt phải tìm cầu gia-nhập vào đấy làm trung-
tâm, thay vì sống trên bề mặt ngoại-diện, để
chinh-phục và áp-dụng luật-pháp linh-thiêng
hơn của nó, và bản-tính với khả-năng tối-cao
để tự đồng-nhất-hóa với nó mà trở nên Thật,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
71
Chân-nhân ( ) " Chân nhân tẩm
nhi bất mộng " _ ( ) " Bản lai diện
mục ", thay vì con Người Ảo-ảnh ( Apparent
Man ) .
" Bức tranh vân cẩu vẽ Người Tang-thuơng "
_ ( Nguyễn-Du )
Và vấn-đề duy-nhất còn lại là hỏi xem
phải chăng cuộc chinh-phục vĩ-đại ấy có thể
thành-tựu và được vui hưởng ở tại đời sống
nhân-loại này với cái thân-thể trần-tục hay là
chỉ có được ở ngoài trần-thế. Phải chăng thực-
tế, ý-thức nhân-loại là một công-cụ được lựa-
chọn cho sự tự khải-ngộ dần dần cái gọi là
" Vô-thức " ấy, cái tự-tính chân-thật ở tại trong
nơi ta, hay là một nỗ-lực tuyệt-vọng không có
kết-quả tại đấy, hay là cái ý-thức nhân-loại ấy
chỉ là một sự tình-cờ và là một phác-họa
khiếm-khuyết không bao giờ có thể hoàn-thành
theo hình-ảnh thần-linh ?
_ ( Aurobindo Ghose )
*******
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
73
CHỦ-NGHĨA DUY-VẬT
( Aurobindo Ghose )
Người ta nói nhiều về thuyết duy-vật. Và
những người đã ưa nhìn vào đời sống từ bên
trên xuống hơn là từ dưới lên, hay là những ai
đòi sống trong một bầu không-khí sáng-sủa
hơn của tinh-thần, duy-tâm, lý-tưởng hoặc
thanh-tao của đời sống tâm-linh, đã nói nhiều
điều nặng-nề về chủ-nghĩa duy-vật. Người ta
đã tin rằng chủ-nghĩa duy-vật tạo nên những tội
ác lớn, cả đến coi nó như ma quỷ của sự biến-
hóa đáng ghét, hay là như người dẫn đường
nhân-loại đến một tai-họa khủng-khiếp. Những
người có tính-tình và trí tưởng-tượng đùa-cợt
với một quá-khứ lý-tưởng thì trách chủ-nghĩa
duy-vật về những biến-đổi văn-hóa, xã-hội,
chính-trị mà họ ghê-tởm, coi chúng như một sự
phá-rối _( cũng may họ tin và cho nó là nhất-
ADPH AUROBINDO GHOSE
74
thời )_ làm đảo-lộn những giá-trị tinh-thần
vĩnh-cửu và những trật-tự điều-lý thiêng-liêng.
Còn nhiều người khác nữa nhìn xa lên cái hy-
vọng của một chủ-nghĩa duy-tâm rộng-rãi và
một tâm-linh cao-siêu, thì tuyên-bố về sự thoái-
lui sụp-đổ của chủ-nghĩa duy-vật là một sự
giải-thoát may-mắn cho tinh-thần nhân-loại.
Người ta cho rằng thế-giới xung-đột tranh-chấp
là kết-quả của chủ-nghĩa duy-vật. Chiến-tranh
và những hy-sinh khủng-khiếp, trong đó nhân-
loại đã phao-phí sức-lực, máu xương, tài sản _
tuy đấy không phải những tai-họa mới-mẻ,
hoặc mong rằng chúng là tại-họa chót _ tất cả
đều đổ vào đầu chủ-nghĩa duy-vật hay là được
coi như một đài hỏa-thiêu mà nó tự đốt mình
bằng ngọn lửa ác-độc, và những tội-lỗi và ô-uế
nó mang vào đời đều bị đốt cháy ra than tro.
Người ta tuyên-bố khoa-học đáng nghi-ngờ về
sứ-mệnh hướng-dẫn hay là dạy bảo nhân-loại
và bị chỉ-định giới-hạn trong phạm-vi của nó,
bởi vì đã bao lâu nó đã là đồng-minh của quan-
điểm sinh-tồn duy-vật, một khởi-xướng của
chủ-nghĩa vô-thần và bất-khả tri-luận, mang lại
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
75
đắc thắng cho chủ-nghĩa duy-vật và chủ-nghĩa
hoài-nghi, ngôi ngự-trị và cột-trụ vững bền của
nó. Lý-trí đã bị thách-đố bởi vì chủ-nghĩa duy-
lý và tư-tưởng tự-do đã bị đồng-hóa như là
đồng nghĩa với tư-tưởng duy-vật .
Tất cả những phong-trào tố-cáo có thể có
chân-lý của nó và phần lớn đã chính-đáng.
Nhưng phần nhiều điều mà tinh-thần nhân-loại
hết cổ-võ, đến phỉ-báng, đều có hai mặt sấp,
ngửa. Chúng đến với chúng ta với hai mặt
chống-đối, mặt tốt và mặt xấu của chúng,
phương-diện đen tối của mê lầm và phương-
diện sáng sủa của chân-lý. Và vì chúng ta nhìn
mặt này hay mặt kia mà chúng ta nghiêng ngả
về ý-kiến cực-đoan của chúng ta hay là lưỡng-
lự giữa chúng. Chủ-nghĩa duy-vật có thể chưa
hẳn đã chết như phần đông người ta tuyên-bố.
Hãy còn rất nhiều khoa-học gia, có lẽ phần đa
số, và quan-điểm khoa-học, luôn luôn là một
sức mạnh, vừa vì quyền-thế của chân-lý chính-
xác vừa vì sự phục-vụ tiếp-tục của nó cho
nhân-loại, nó hiện này còn là phần lớn của
ADPH AUROBINDO GHOSE
76
khuynh-hướng sinh-sống và hành-động thật, cả
đến ở trong giới mà nó bị từ-chối như là quan-
điểm lập thành. Những ấn-tượng sâu của quá-
khứ không phải dễ mà tẩy sạch khỏi tâm-hồn
con người. Nhưng nó sớm là một sức mạnh
thoái lui. Những ý-tưởng khác và lập-trường
khác sô vào trong và tung nó ra từ những thắng
lợi còn lại. Một điều sẽ có ích trước khi chúng
ta từ-giã nó, và có thể từ-giã lúc này với bảo-
đảm để nhìn xem cái gì đã đem lại cho nó sức
mạnh, cái gì còn lại thường xuyên đàng sau nó,
và để thích-ứng với những quan-điểm mới của
chúng ta vào bất cứ bản-chất chân-lý nào có thể
nằm bên trong và cho nó khả-năng ứng-dụng.
Cả đến chúng ta có thể nhìn nó với cảm-tình
vô-tư, tuy chỉ như là chân-lý sơ-đẳng, như kém
hơn chân-lý của sự hiện tồn của chúng ta, _ vì
nó là tất cả cái ấy không hơn không kém, _ và
chúng ta cố công-nhận và giới-định những
hoài-bão và giá-trị chính-đáng của nó. Chúng
ta bây giờ có thể nhìn thấy nó đã bị bắt buộc
bao nhiêu để vượt khỏi nó bằng cách mở rộng
tri-thức mà tự nó đã xây dựng .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
77
Sự thật, hãy nhận rằng thời-đại này, chủ-
nghĩa duy-vật đã là sản-phẩm đáng sợ và ở đấy
nó đã có vai-trò đầu tiên như là nhà tư-tưởng
ngỗ-nghịch hung-hăng và hay gây-sự, rồi lại
như là một giáo-sư nghiêm-nghị và nỗ-lực của
nhân-loại, thời-đại không phải chỉ có sai lầm,
tại họa và trụy-lạc, nhưng trái lại, là thời-đại có
sáng-tạo mạnh nhất của nhân-loại. Hãy xét kết-
quả của nó một cách công-bằng. Không những
nó đã khuếch-trương vô-hạn và bồi-bổ tri-thức
của nhân-loại và tập luyện nó có cái tính nhẫn-
nại, khảo-cứu tỉ-mỉ, chính-xác _ nếu nó đã làm
điều ấy chỉ ở trong một phạm-vi lớn của sự cầu
tìm học-hỏi, _ nó còn sửa soạn mở rộng cái
khiếu tò mò ấy, cái tính ngay-thẳng, trí-thức,
năng-lực cho tri-thức, về những phạm-vi khác
và cao hơn. Không những nó đem vào tay
chúng ta một sức mạnh vô song và một sức
sáng-tạo phong-phú, nhằm mục-tiêu ác cũng
như mục-tiêu thiện về phát-minh, khí-cụ,
quyền-năng thực-tiễn, chinh-phục và tiện-nghi.
Những điều ấy chúng ta có thể cho là không đủ
để phụng-sự cho ích-lợi tối-cao của chúng ta,
ADPH AUROBINDO GHOSE
78
nhưng ít có kẻ có thể bỏ qua được ; nhưng nó
cũng còn củng-cố cho lý-tưởng nhân-loại, mặc
dầu điều ấy có vẻ phi-lý. Nói tổng-quát, nó đã
đem cho nhân-loại một hy-vọng tốt lành hơn và
nó đã nhân-bản-hóa bản-tính nhân-loại. Sự
cảm-thông tín-ngưỡng lớn hơn và tự do của
con người đã tiến-bộ, lòng từ-thiện trở nên
thiết-thực hơn, hòa-bình, nếu chưa thực-hành
được cũng trở nên có thể tưởng-tượng được.
Sau hết tư-tưởng của thế-kỷ XVIII chủ-trương
tục-thế-hóa đã hài-hước và ít quan-trọng-hóa
tư-tưởng thế-kỷ XIX, phát-triển tư-tưởng tục-
hóa ấy giải-quyết được phê-pháp của đối-
phương và đã vượt qua. Hơn nữa người ta
không thờ-phụng một thiên-đường nào. Lý-trí,
khoa-học, tiến-bộ, tự-do, nhân-loại, đấy là
những thần-tượng. Và trong những thần-tượng
ấy, nếu gọi là thần-tượng thì thần-tượng nào
chúng ta muốn thì phải ném xuống ngày nay
nếu chúng ta thực khôn-ngoan hay là chúng ta
phải và muốn bỏ đi như là tàn-tích không đáng
thờ ? Nếu có thiên-đường nào khác và còn lớn
hơn hay là nếu những hình-thức cụ-thể được
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
79
thờ-phụng chỉ là tượng đất hay tượng đá hay là
những nghi-lễ rỗng suông ý-nghĩa nội-tại. Tuy
nhiên những thờ-phụng của họ đã sửa-soạn cho
chúng ta một sự mở đạo nhập môn và sự hy-
sinh vật-chất lâu dài đã sửa soạn chúng ta cho
một tôn-giáo vĩ-đại hơn .
Lý-trí không phải ánh-sáng tối-cao,
nhưng tuy vậy, nó luôn luôn còn là bó đuốc cần
thiết. Và cho đến khi nó đã nhượng quyền của
nó và cho phép xét-đoán, thanh-lọc, những
bản-năng, xúc-động, hăm-hở, bừa-bải, tín-
ngưỡng chất-phác và dự-đoán mù-quáng đầu
tiên phi-lý, thì chúng ta chưa hẳn sẵn-sàng để
có được tia sáng nội-tâm lớn hơn không bị che
phủ. Khoa-học là một hiểu-biết chân-chính thì
chỉ là một kết-thúc cho quá-trình của lý-trí,
nhưng sự hiểu-biết của quá-trình cũng còn là
bộ-phận của cái hiền-triết toàn-thể nhất-quán
và là cốt-yếu cho một sự tiếp-cận sáng-suốt về
Chân-lý thâm-trầm ở tại bên trong. Nếu lý-trí
đã làm việc nhiều ở trong khu-vực vật-lý, nếu
nó có tự giới-hạn và định biên-giới hay là bị
ADPH AUROBINDO GHOSE
80
lấp bóng bởi một đám mây của vô-minh đầy
thiện-chí, thì người ta cũng đã phải bắt đầu
phương-pháp của nó ở một nơi nào, và khu-vực
vật-lý là khu-vực đầu tiên, gần với ta nhất và
dễ hơn cả cho cái loại và cách cầu tìm được thi-
hành. Ngu-mê một mặt của Chân-lý hay là
chọn lấy một sự ngu-mê nhất-diện hay là
không biết để tập-trung hơn vào một mặt khác,
thường là sự tất nhiên tinh-thần khuyết-điểm
của bản-tính chúng ta. Điều không may, nếu
ngu-muội trở thành giáo-điều và phủ-nhận điều
nó đã từ-chối không xét, nhưng tuy vậy, chưa
có chi tai-hại nếu sự giới-hạn thiện-chí ấy buộc
phải biến đi khi trường-hợp ích-dụng của nó
hết rồi. Nay đến lúc chúng ta đã xây-dựng
vững-vàng tri-thức của chúng ta về vật-lý thì
chúng ta có thể tiến lên một bước vững-chãi
hơn đến một sự phục-hồi tri-thức tinh-thần và
tâm-linh sáng-lạn, bảo-đảm và cởi mở hơn. Cả
đến chân-lý tâm-linh cũng do lý-trí mà đạt
được ánh-sáng cao hơn và sâu xa hơn _ nhưng
mà là một ánh-sáng rộng-rãi và tự biểu-diễn
đầy đủ hơn .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
81
Tiến-bộ là trọng-tâm của ý-nghĩa đời
sống nhân-loại, vì nó ngụ ý cuộc tiến-hóa đến
hữu-thể phong-phú và vĩ-đại hơn. Và những
thời-đại này, nhờ sự nhấn mạnh vào nó thúc-
đẩy chúng ta nhận-thức như là mục-đích và tất-
yếu, nhờ sự làm cho từ nay về sau, sự cố-gắng
tồn-tại trong sự u-mê hay là sự sung-sướng thô-
tục của một việc tự-mãn cố-định, đã giúp ích
rất nhiều cho đời sống thế-gian và mở đường
thiên-đạo. Tiến-bộ ngoại-hướng đã là phần lớn
ở mục-đích của nó và tiến-bộ nội-hướng lại còn
cốt-yếu hơn, nhưng cả tiến-bộ nội-hướng cũng
không đầy đủ, nếu tiến-bộ ngoại-hướng không
được chú-trọng. Vả lại, nếu sự khẩn-khoản về
việc tiến-bộ của chúng ta trong một thời-gian
chuyển-hướng phát-triển một mặt, mà tất cả
vận-động tiến lên rất có ích, thì phải kết-thúc
vào sự đem lại một sức mạnh lớn hơn và rộng
hơn về ý-nghĩa cho nhu-cầu của chúng ta tiến-
triển vào phạm-vi thâm-sâu và cao-cả hơn của
hữu-thể sinh-tồn. Tự-do là một thần-linh mà sự
vĩ-đại của nó chỉ có cái tinh-thần hạn-hẹp, là kẻ
sùng-bái chính-thể hay là kẻ phản-động ngày
ADPH AUROBINDO GHOSE
82
nay mới có thể phủ-nhận. Vả lại, chắc hẳn rằng
cốt-yếu-tính là một sự tự-do nội-tâm. Nhưng
thiếu sự thực-hiện nội-tâm thì sự cố-gắng bên
ngoài về tự-do rút cục tỏ ra là một sự hão-
huyền, nhưng để theo đuổi một sự tự-do nội-
tâm và diên-trì một sự nô-lệ bên ngoài hay là
thích-thú trong một sự cô-lập-hóa mà bỏ mặc
nhân-loại cho hệ-lụy, cũng là một sự bất-
thường phải phá tan, đó là một lý-tưởng giam-
hãm quá vị-kỷ lấy mình làm trọng-tâm. Nhân-
loại không phải là thần-linh tối-cao, Thượng-
Đế còn cao hơn nhân-loại, nhưng chúng ta phải
cầu tìm và phụng-sự Thượng-Đế ở trong con
người, trong nhân-loại nữa. Sự thờ-phụng
nhân-loại có nghĩa là sự tăng-tiến lòng từ-thiện,
cảm-thông, bác-ái, tương-trợ, tình đoàn-kết,
tinh-thần đại-đồng, thống-nhất, trưởng-thành
đầy đủ cá-nhân và đoàn-thể. Và hướng về
những mục-tiêu ấy chúng ta tiến-bộ mau lẹ hơn
là ở các thời-đại trước, dù còn phải vấp ngã hay
là phải nhắc lại một vài cử-chỉ tàn-bạo. Thờ-
phụng nhân-tính khác của nhân-loại trong sự
thờ-phụng Thần-linh thì nó đến gần chúng ta
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
83
hơn, như là lý-tưởng cao rộng cùa chúng ta. Đi
được một bước tiến gần hơn dù chỉ một trong
những mục-tiêu trên, thành-lập được chúng với
bất cứ cách biểu-diễn và công-thức khuyết-
điểm nào ở tại trong tinh-thần chúng ta, xúc-
tiến, vận-động hướng về chúng, tất cả đều là
những thành-tựu vững chắc, những phụng-sự
cao quí .
Người ta liền chỉ-trích rằng tất cả những
điều ấy vĩ-đại thật, nhưng không có liên-can gì
với chủ-nghĩa duy-vật. Sự thúc-đẩy về những
điều trên vốn là chủ-trương cũ và hoạt-động từ
lâu trong tinh-thần nhân-loại. Chính cái
nguyên-lý nhân-đạo nó đã là một sự phát-triển
đáng chú-ý của tình-cảm cận-đại, đầu tiên do
bản-tính của ta mà ra và được tôn-giáo đề-cao,
lòng từ-bi và bác-ái đầu tiên được Thiên-Chúa-
giáo và Phật-giáo nhấn-mạnh tha-thiết. Nếu
chúng, ngày nay, được mở mang ít nhiều là do
những hạt-giống từng gieo rắc từ lâu mà
trưởng-thành tự-nhiên. Chủ-nghĩa duy-vật đã
trù-tính khuyến-khích bản-năng đối-lập với
ADPH AUROBINDO GHOSE
84
những khuynh-hướng trên ; và nó nâng-đỡ điều
tốt lành bị nó giới-hạn, làm cho khô-cằn cơ-
giới. Nếu tất cả những mục-tiêu cao cả trên đã
nẩy-nở và phá-vỡ những hạn-chế bị giam-hãm
là bởi vì con người may-mắn có tính mâu-
thuẫn, và sau một giai-đoạn phát-triển nó
không có thể thực-sự và hoàn-toàn duy-vật
được ; nó cần có lý-tưởng, khuếch-trương đạo-
đức, một sự đầy đủ cảm-xúc mật-thiết và nó
nắm lấy những nhu-cầu ấy để đòi hỏi sự phát-
triển chủ-trương duy-vật và điều-chỉnh kết-quả
tự-nhiên của nó bằng những lý-tưởng kia.
Nhưng chính những lý-tưởng cũng lấy ở trong
chủ-trương và văn-hóa từ trước .
Đấy là sự thật, nhưng không phải tất cả sự
thật. Những văn-hóa tôn-giáo xưa thường đáng
được kính-phục về toàn-bộ hay thường là ở
một thành-phần nào. Nhưng nếu chúng đã
không bị hư-hỏng, chẳng phải là chúng có thể
dễ bị phá đổ, cũng chẳng phải vì đã có nhu-cầu
của một thời tục-hóa, để đem lại những kết-quả
của những tôn-giáo đã gieo-rắc. Những sai lầm
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
85
của chúng đã do những kẻ có nhãn-quan hẹp-
hòi và độc-chuyên. Tập-trung tất vào lý-tưởng
của họ và hiệu-nghiệm thâm-trầm, ảnh-hưởng
của họ vào tinh-thần nhân-loại thì hạn-hẹp. Họ
quá cô-lập-hóa hành-động của mình vào cá-
nhân, giới-hạn quá hẹp-hòi công-tác của những
lý-tưởng của mình trong trật-tự xã-hội, ví như
bao-dung và cả đến lợi-dụng vào mục-tiêu tín-
ngưỡng và nhà-thờ bao nhiêu độc-ác và dã-
man, trái với tinh-thần và chân-lý mà họ đã bắt
đầu xây-dựng ban-sơ. Những điều họ chán
ngán ở linh-hồn cá-nhân, họ lại duy-trì trong
hành-vi và khuôn-khổ xã-hội, khó cho ta có thể
tưởng được ở một trật-tự nhân-văn do những
vết ấy xuất ra. Bề sâu và nồng-nhiệt trong khát-
vọng của chúng đòi có một sự minh-bạch trí-
thức để soi sáng bóng râm của nó, cái bóng tối
làm mờ mất công-trình của chúng và làm trở-
ngại sự khuếch-trương những yếu-tố tâm-linh
của chúng. Chúng cũng nuôi một trung-tâm-
điểm khổ-hạnh và ít để tâm tin-tưởng vào sự
trau-dồi nhất-định về đời sống trần-thế, chúng
khinh-miệt như là một sự trụy-lạc hay sa-đọa
ADPH AUROBINDO GHOSE
86
đau-đớn, hoặc là một khuyết-điểm của tinh-
thần nhân-loại. Hay bất cứ hy-vọng thế-gian
nào họ thừa-nhận, tự thấy hoãn lại đến hàng
năm, chung-kết sự vật. Một sự tin-tưởng vào
cuộc đời nhân-loại hão-huyền hay là vào chính
sinh-tồn thích-hợp hơn là sự bận tâm với mục-
đích ngoài trần-thế. Tu sửa tiến-triển đạo-đức,
giải-thoát, trở nên những lý-tưởng cá-nhân và
hình-dung quá như là một sự sửa-soạn cô-lập
của linh-hồn cho thế-giới bên kia. Hiệu-quả xã-
hội của tâm-tình tín-ngưỡng, dù có tiềm-năng
lớn, đã bị co giúm bởi chủ-nghĩa siêu thế-gian
quá-đáng và mất tin-tưởng vào trí-thức, thiên
về chủ-nghĩa ngu-muội .
Các thế-kỷ tục-thế nghiêng nặng quá về
đường-hướng trái-nghịch. chúng chuyển-hướng
tinh-thần nhân-loại hoàn-toàn về trần-thế và
nhân-gian, nhưng bằng cách chuyên-chú vào sự
sáng-sủa tri-thức, lý-trí, công-lý, tự-do, bao-
dung, nhân-đạo, đặt những điều ấy lên trước và
đặt sự tiến-bộ của chủng-loại với sự hoàn-toàn
của nó như là nguyên-tắc trực-tiếp cho đời
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
87
sống trần-thế, là luôn luôn xúc-tiến không gián-
đoạn về lý-tưởng xã-hội cho tới ngày phán-xét
cuối cùng do sự xét-xử của phép lạ Thần-linh.
Nhưng thế-kỷ tục-thế ấy đã mở đường cho đại-
chúng tập-thể tiến bước. Bởi vì họ làm cho
những khả-năng cao quý ấy của loài người
càng tất-yếu hơn về trí-tuệ thực-tiễn .
Nếu họ không còn thấy Thiên-đường hay
bỏ mất ý-nghĩa tâm-linh của những lý-tưởng
mà họ thừa-kế được của các thời-đại trước,
nhưng họ nhìn vào chúng theo mặt hợp-lý và
thực-tiễn, họ lôi chúng về cho tinh-thần suy-
tưởng. Cả đến bằng cách quá cơ-giới của họ do
dục-cầu chính-đáng phát-triển ra, để tìm
phương-tiện làm cho những lý-tưởng kia tác-
động có hiệu-nghiệm thành một điều-kiện của
chính cái cơ cấu xã-hội. Chủ-nghĩa duy-vật chỉ
là kết-quả trí-thức quá-khích của tác-phong
tục-thế và nhân-loại ở tinh-thần chủng-loại. Nó
là một bộ máy trí-thức mà tinh-thần thời-đại đã
sử-dụng để bảo-vệ đất đứng vững chắc cho cái
tác-phong đặc-biệt của tư-tưởng và hành-vi,
ADPH AUROBINDO GHOSE
88
một quan-kiến cố-chấp để giữ lấy tinh-thần
người ta càng lâu, chừng nào còn có sự cần-
thiết đến nó. Nhân-loại không cần phát-triển
mạnh về phương-diện thế-gian, củng-cố và
sửa-soạn thân-thể nó, đời sống của nó, tinh-
thần hướng ra ngoài của nó, để chiếm hữu đầy
đủ trái đất làm nhà ở, để biết và dùng bản-tính
vật-lý, mở mang hoàn-cảnh và thỏa-mãn cho
cái hữu-thể trí-năng, sinh-lý và vật-lý của nó,
nhờ có sự giúp đỡ của tri-thức phổ-quát-hóa.
Đấy không phải là tất cả điều nó nhu-yếu,
nhưng là một phần lớn và sơ-khởi của nhu-yếu
và của sự thành-tựu nhân-loại. Ý-nghĩa đầy đủ
của nó hiện ra sau này. Một thúc-giục của đời
sống chỉ ở bước đầu và trong sự biểu-hiện bề
ngoài và về sau cùng, thực sự người ta sẽ thấy
phải có một nhu-cầu của linh-hồn nó, một sự
sửa-soạn công-cụ thích-hợp và sáng-tạo về một
hoàn-cảnh thích-hợp cho một đời sống linh-
thiêng hơn. Nhân-loại đã hiện ra tại đây để
phụng-sự Thiên-mệnh, đạo Trời trên mặt đất và
thành-tựu Thiên-tính, tính Trời ở con người, và
nó không được miệt-thị thế-gian hay là chối bỏ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
89
cái cơ-bản đã giao-phó cho quyền-năng đầu
tiên và tiềm-năng của Thiên-tính. Khi tư-tưởng
và mục-đích của nó đã ngưng-trệ quá lâu ở
chiều-hướng ấy, nó không cần phàn-nàn nếu nó
có lùi lại, hồi-toàn mất một thời-gian về cực-
đoan kia, hoặc tiêu-cực hay tích-cực, một chủ-
nghĩa duy-vật công-khai hay thầm-kín. Đấy là
con đường bạo-động của Tạo-vật Thiên-nhiên
để chỉnh-đốn chính sự quá-trớn ở tại nó .
Nhưng sức-mạnh trí-thức của chủ-nghĩa
duy-vật là do sự đáp-ứng cho một chân-lý đại-
đồng của sinh-tồn. Quan-điểm phổ-quát của
chúng ta luôn luôn có hai năng-lực đàng sau
chúng là một nhu-cầu của bản-tính và một
chân-lý của sinh-tồn đại-đồng do đấy nẩy sinh
nhu-cầu kia. Chúng ta có :
a)_ Nhu-cầu vật-chất và sinh-lý, bởi vì trong
vật-chất có cơ-bản thực-tế của chúng ta ;
b)_ Các khuynh-hướng nhập-thế của tinh-thần,
bởi vì thế-gian đã và hiện là, để trở nên nền-
ADPH AUROBINDO GHOSE
90
móng tại đây cho các động-tác của Tâm-linh.
Thực thế, khi chúng ta xét kỷ và tỉ-mỉ bộ mặt
của sinh-tồn đại-đồng phô-bầy cho ta hay là
chúng ta nghiên-cứu cái điểm ở đâu chúng ta
đồng-nhất với nó, hay là cái chi ở nó khiến cho
tất cả có vẻ thường-xuyên và đại-đồng nhất,
giải-đáp đầu tiên chúng ta thấy được là vật-chất
chứ không phải tâm-linh. Các nhà thấu-thị của
Ảo-nghĩa-thư ( Upanisads ) đã thấy điều ấy
một cách thấu-triệt khi họ phát-biểu rằng sự
biểu-hiện đầu tiên có vẻ đầy đủ này của chúng
ta, về say này là quan-điểm thiếu-sót không đủ
của Thực-hữu :
" Vật-chất là Phạm-Thiên ( Brah-
man ), từ Vật-chất vạn-vật xuất sinh, nhờ
Vật-chất chúng sinh-tồn và chúng trở vào
Vật-chất ."
Các nhà Thấu-thị đã ghi-chú cái công-
thức của chân-lý đại-đồng mà tất cả tư-tưởng
duy-vật và khoa-học vật-lý đã thừa-nhận, đã
khảo-cứu, đã bổ-sung với những ý-nghĩa chi-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
91
tiết, minh-chứng, hiện-tượng xác-chính và quá-
trình biểu-thị cái giải-thích sâu rộng đại-đồng
về Tạo-hóa thiên-nhiên, căn cứ vào một bản
văn đơn độc .
Hãy để ý rằng cái thực sự kinh-nghiệm
chúng ta lấy làm khởi-điểm, và đến một mức
độ nào là một chân-lý đại-đồng không thể phủ-
nhận của hữu-thể. Vật-chất chắc-chắn ở đây là
cơ-bản của chúng ta, một vật duy-nhất có thực
và tồn-tại trong khi sự sống, tâm-thức và linh-
hồn và tất cả vật khác nữa hiện ra trong ấy là
hiện-tượng thứ-yếu, có vẻ như tự nó xuất-hiện
ra, sinh-tồn vào nó _ cho nên danh-từ dùng
trong Upanisads cho vật-chất là annam = thực-
phẩm _ và chìm mất khỏi nhỡn-giới chúng ta
khi nó biến đi. Hình như sự có thật của Vật-
chất là tất nhiên, thiết-yếu cho chúng, sự có
thật của chúng không hiện ra là một điểm nhỏ
thiết-yếu cho Vật-chất chút nào. Tồn-tại bắt
đầu tự biểu-hiện với bộ mặt ấy, vô-tình như là
đời phải như thế chứ không khác được, nhấn
mạnh vào cái cơ-bản vật-chất của nó và nhu-
ADPH AUROBINDO GHOSE
92
yếu của nó sẽ trước hết được thỏa-mãn. Cho
đến khi nào điều ấy thành-tựu rồi, nó còn giữ
mãi bộ mặt dữ-tợn không chút để ý đến thắc-
mắc về lý-tưởng của chúng ta và bất chấp, nếu
nó phá thủng cái lưới mỏng-manh về đạo-đức,
về thẩm-mỹ và về các tri-giác tế-nhị khác nữa
của chúng ta. Chúng có hy-vọng về thời-thế
của chúng, nhưng hiện này đây là bộ mặt đầu
tiên của sinh-tồn đại-đồng, và chúng ta chẳng
phải giấu-giếm là bộ mặt chúng ta chẳng khác
gì Arjuna, không thể làm ngơ bộ mặt ghê-gớm
của Thần-linh trên chiến-trường Kurukshetra,
hay là tìm trốn-tránh và tảo-thoát ở bộ mặt
Thần Shiva, khi xuất-hiện chung-quanh nó,
thiên-hình vạn-trạng lạ-lùng của Năng-lực
nguyên-thủy, thoát bộ mặt ấy ở khu-vực này
hay khu-vực kia, quên cả Thần-tính của chính
mình. Chúng ta phải nhìn-nhận sinh-tồn ở bất
cứ bộ mặt nào nó biểu-hiện cho ta, và chúng ta
hãy mạnh-bạo mà khám-phá Thần-linh, ở trong
ấy cũng như đàng sau các bộ mặt ấy .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
93
Khoa-học duy-vật đã có can-đảm nhìn
thẳng vào cái chân-lý đại-đồng ấy với con mắt
bình-thản, bình-tĩnh công-nhận nó như là khởi-
điểm và tìm-tòi xem phải chăng rút cục nó là
toàn-thể công-thức của sinh-tồn đại-đồng.
Khoa-học vật-lý tất-nhiên phải có quan-điểm
đầu tiên là duy-vật, vì chừng nào nó làm công-
việc vật-lý, nó phải là vật-lý về lập-trường lẫn
phương-pháp vì chính đó là chân-lý của nó. Nó
phải giải-thích thế-giới vật-chất trước hết bằng
ngôn-ngữ và dấu-hiệu của Brahman vật-chất,
bởi vì chúng là giới-hạn bắt đầu và đại-cương
của nó, và tất cả cái khác đến sau như là hậu-
quả thì đều một âm-biểu đặc-biệt. Theo đuổi
bước đường tự-mãn từ khởi-thủy sẽ dẫn đến
ngay về phiá tưởng-tượng và sai lầm. Khởi-kỳ-
thủy, khoa-học được biện-minh trong sự oán-
trách, không đòi nó hướng vào một loại tưởng-
tượng và trực-giác khác. Bất cứ cái gì kéo nó ra
ngoài phạm-vi của hiện-tượng vật đối-tượng
như chúng được biểu-thị ở giác-quan và công-
cuộc phụ-thuộc, và kéo xa lý-trí làm việc với
chúng bằng trắc-nghiệm nghiêm-khắc và thực-
ADPH AUROBINDO GHOSE
94
nghiệm, phải làm cho nó quên nhiệm-vụ của nó
và như thế sẽ không được thừa-nhận. Nó không
cho phép đem quan-điểm nhân-văn về sự-vật
vào trong phạm-vi của nó. Nó phải giải-thích
con người theo quan-điểm vũ-trụ chứ không
phải vũ-trụ theo quan-điểm nhân-loại. Hai kết-
luận giản-đơn của phái duy-tâm cho rằng :
a)_ Sự-vật chỉ có như là ý-thức tri-giác ;
b)_ Chúng chỉ có thể có qua ý-thức và phải là
tạo-tác của tinh-thần, thì không có ý-nghĩa gì
với khoa-học vật-chất buổi sơ-khởi. Trước hết
nó phải hỏi xem ý-thức là cái gì, phải chăng ý-
thức là hậu-quả hơn là nguyên-nhân của Vật-
chất, nó đi vào hiện-hữu như có vẻ như thế, chỉ
phải ở trong khuôn-khổ của một vũ-trụ vật-chất
vô-ý-thức và hình-như chỉ có thể có được trong
điều-kiện là cái khuôn-khổ ấy được thiết-lập
trước đã. Khởi-điểm từ Vật-chất, khoa-học ít
nhất phải được giả-thiết là duy-vật .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
95
Khi nào động-tác của nguyên-lý vật-chất,
nguyên-lý đầu tiên để tự tổ-chức lấy, đã được
hiểu, thấy đến mức nào rồi, bấy giờ cái khoa-
học ấy có thể tiếp-tục xét đến những đòi hỏi gì
khác về cái thực-hữu của chúng ta, sinh-mệnh
và tri-thức. Nhưng trước hết nó phải tự hỏi,
phải chăng cả tinh-thần lẫn sinh-mệnh không
phải như chúng có vẻ là thành-quả đặc-biệt của
lịch-trình tiến-hóa vật-chất, chính chúng là
năng-lực và vận-động của Vật-chất ? Sau đấy,
và nếu giải-thích ấy thất-bại, không đủ để giải-
thích những thực-kiện, nó có thể được khảo-
cứu rộng-rãi hơn xem phải chăng sinh-mệnh và
tinh-thần là những nguyên-lý khác-hẳn với
thực-hữu ? Nhiều vấn-đề triết-học được nêu ra,
như là phải chăng chúng đã nhập vào trong
Vật-chất và từ bao giờ hay là chúng vẫn ở tại
trong ấy ? Và nếu như thế, thì phải chăng
chúng mãi mãi kém cỏi và phụ-thuộc về động-
tác hay là chúng lớn mạnh hơn về năng-lực
căn-bản ? Phải chăng sinh-mệnh và tinh-thần
chỉ được chứa-đựng trong Vật-chất hay là thực
sự chúng chứa-đựng Vật-chất ? Phải chăng
ADPH AUROBINDO GHOSE
96
chúng là thành-quả và lệ-thuộc vào sự biểu-
hiện trước tiên của vật-chất, hay là ở đấy chỉ là
tổ-chức hình-thức của chúng, mà thực ra hiện-
hữu và quyền-năng có trước Vật-chất, và Vật-
chất tự nó lệ-thuộc vào căn-bản có trước của
sinh-mệnh và tinh-thần ? Có một vấn-đề lớn
hiện ra là phải chăng tinh-thần, tâm-thức tự nó
là giai-đoạn cuối cùng của sinh-tồn hay là còn
cái gì khác xa hơn nữa ? Phải chăng linh-hồn
chỉ là một kết-quả ngoại biểu và là một hiện-
tượng của động-tác hỗ-tương giữa tinh-thần,
sinh-mệnh và thân-thể, hay là ở đấy chúng ta là
một giới-hạn độc-lập về thực-hữu của chúng ta
và của tất cả hữu-thể, lớn hơn, trước hơn và
cùng tột, tất cả vật-chất chứa-đựng và bị chứa
trong một ý-thức tâm-linh bí-hiểm, tâm-linh
khởi-thủy, cứu-cánh và vĩnh-cửu, chữ A mẫu-
tự và chữ O, tức là OM ? Đối với triết-học
thực-nghiệm thì hoặc Vật-chất, Tinh-thần,
Sinh-mệnh hay Tâm-linh có thể là Thực-hữu,
nhưng không phải một trong những nguyên-lý
cao ấy có thể chắc-chắn lấy làm cơ-bản của tư-
tưởng chúng ta đối với tất cả vấn-nạn trí-thức,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
97
chừng nào giả-thuyết duy-vật trước tiên được
có cơ-hội và được trắc-nghiệm. Có thể rằng,
kết-cục điều ấy đã là công-dụng của sự khảo-
cứu vật-chất về vũ-trụ và sự cứu-xét của nó là
công-trình lớn nhất có thể có cho cứu-cánh của
giải-thích tâm-linh về sinh-tốn. Dù thế nào đi
nữa, khoa-học và triết-học rút cục đã là một sự
cố-gắng lớn lao và vất-vả để tìm biết vô-tư và
để nhìn-nhận khách-quan. Họ đã phủ-nhận
nhiều điều mà rồi lại khẳng nhận, nhưng sự
phủ-nhận đã là điều-kiện của một nỗ-lực
nghiêm-khắc của tri-thức và người ta có thể nói
về họ như Upanisads ( Ảo-Nghĩa-Thư ) nói về
Bhrigu, con của Thần Varuna rằng : " Người đã
thực-hành khổ-hạnh khám-phá thấy rằng Vật-
chất đã là Brahman ( Phạm-Thiên ) ."
Cửa ngõ thoát của cái tri-thức khởi-điểm
từ quan-điểm duy-vật có thể ra khỏi những
giới-hạn của chính nó tự giam-hãm đại khái
như sau :
ADPH AUROBINDO GHOSE
98
Khoa-học vật-lý có trước mắt hai yếu-tố
vĩnh-cửu của sinh-tồn : Vật-chất và Năng-lực,
và không còn yếu-tố nào khác mà sinh-tồn cần
đến trong công việc của nó nữa. Tinh-thần
tham-dự với những thực-kiện và liên-hệ của
Vật-chất và Năng-lực như chúng được xếp đặt
cho giác-quan trong thực-nghiệm và thí-
nghiệm liên-tiếp và được lý-trí phân-tích, có
thể như thế là một giới-thuyết tạm đủ cho
khoa-học vật-lý. Con mắt đầu tiên của nó để ý
vào Vật-chất, coi như là một nguyên-lý sinh-
tồn và vào Năng-lực thì chỉ coi như một hiện-
tượng của Vật-chất. Nhưng về cuối, có người
hỏi rằng phải chăng có thể đi ngược lại mà cho
rằng tất cả sự-vật là tác-động của Năng-lực và
Vật-chất chỉ là môi-trường, thân-thể và công-
cụ của Năng-lực làm việc. Quan-điểm thứ nhất
thì có tính-cách lượng số và hoàn-toàn cơ-giới,
quan-điểm thứ hai đưa vào một yếu-tố phẩn-
tính và tâm-linh hơn. Chúng ta không thể một
lúc nhẩy ra ngoài vòng duy-vật được, nhưng
chúng ta nhìn thấy có một lối ra, ở đấy nó mở
vào khu-vực mà nhờ đó chúng ta nhìn vào
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
99
sinh-mệnh và tinh-thần không phải chỉ là hiện-
tượng trong Vật-chất mà là những Năng-lực, và
thấy rằng chúng là những Năng-lực hầu như
khác hẳn với Vật-chất cùng những phẩm-tính
đặc-biệt của chúng, quyền-năng và động-tác.
Nếu sự thực tất cả động-tác của sinh-mệnh và
tinh-thần như người ta đã hy-vọng chỉ có thể
quy về Vật-chất, lượng-tính và cơ-giới, toán-
số, sinh-lý-học và hóa-học, thì bấy giờ cửa mở
đi vào bế-tắc. Nó sẽ bị nghẹt thở, hết đường.
Cuộc thí-nghiệm ấy đã thất-bại, và người ta
không thấy dấu-hiệu gì để nó có thể thành-công
được. Chỉ có một loại hiện-tượng có giới-hạn
thuộc về sinh-mệnh và tinh-thần có thể được
thỏa-mãn với giải-thích hoàn-toàn, là sinh-vật-
lý-học, tâm-vật-lý-học hay là sinh-tâm-học. Vả
lại, nếu những dữ-kiện ấy có thể cống-hiến
nhiều hơn, chúng cũng chỉ giải-thích được về
một phương-diện ở bí-quyết của chúng là cứu-
cánh thấp kém mà thôi. Sinh-mệnh và tinh-thần
giống như Thần Lửa ( Agni ) của truyền-thống
Veda, có hai cực-đoan tiềm-tàng trong bí-mật,
và chúng ta, bằng con đường ấy, chỉ nắm được
ADPH AUROBINDO GHOSE
100
đàng đuôi mà thôi ; đàng đầu vẫn còn là thần-bí
và bí-mật. Muốn biết hơn chúng ta phải cứu-
xét không những động-tác thực-tại có thể có
của thân-thể và vật-chất vào tinh-thần và sinh-
mệnh, mà chúng ta còn phải khám-phá tất cả
động-tác có thể có của tinh-thẩn vào sinh-mệnh
và thân-thể nữa. Điều ấy mở ra một viễn-tượng
chưa từng mộng-tưởng. Và luôn luôn vẫn có
một phạm-vi hành-động rộng lớn của tinh-thần
tại tự thân nó và vào tự thân nó. Điều này cần
đến một khoa-học tâm-linh, tinh-thần khác nữa
để giải-thích .
Sau khi đã xem xét và giải-thích Vật-chất
bằng phương-pháp vật-lý và qua ngôn-ngữ của
Brahman vật-chất _ thực sự nó không giải-
thích được, nhưng hãy bỏ qua _ và sau khi thất-
bại để đem đường lối tri-thức ấy vào phạm-vi
khác ngoài giới-hạn chật-hẹp, bấy giờ chúng ta,
ít nhất, phải bằng lòng cứu-xét sinh-mệnh và
tinh-thần bằng phương-pháp thích-hợp với
chúng và giải-thích những thực-kiện của chúng
bằng ngôn-ngữ, dấu-hiệu của Brahman sinh-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
101
khí và tinh-thần. Bấy giờ chúng ta mới có thể
khám-phá thấy ở đâu và như thế nào mà những
tiếng nói của một sinh-tồn nói lên cùng một
chân-lý và chiếu sáng mỗi câu một khác, và
cũng khám-phá thấy luận-điệu khác cao hơn,
sáng-sủa và tiết-lộ, có thể chiếu sáng như là
danh-từ kết-thúc giải-thích cho tất cả. Điều ấy
chỉ có thể có được nếu chúng ta theo đuổi
những khoa-học kia cùng với cái tinh-thần vật-
lý-học, với một sự quan-sát không những về
hiện-tượng thực-tế đầu tiên và hiển-nhiên,
nhưng còn về tất cả tiềm-năng tinh-thần và
năng-lực tâm-linh vô-hạn chưa trắc-nghiệm của
chúng, cùng với phương-pháp thí-nghiệm tự-do
vô-biên nữa. Chúng ta sẽ tìm thấy rằng phạm-
vi không được biết của chúng thì vô-giới-hạn.
Chúng ta sẽ tri-giác thấy rằng chừng nào những
khả-năng của tinh-thần và tâm-linh chưa được
thẩm-xét hơn, và chân-lý về chúng chưa được
biết hơn, thì chúng ta chưa có thể tuyên-bố
công-thức tổng-quát cuối cùng về sinh-tồn đại-
đồng. Trên lịch-trình ấy, cái vòng duy-vật sẽ
rất sớm thấy mở ra ở các mặt cho đến khi nào
ADPH AUROBINDO GHOSE
102
nó vỡ ra mau lẹ và biến đi. Tuy nhiên nó vẫn
bám chặt lấy phương-pháp nghiêm-chỉnh cốt-
yếu của khoa-học, tuy không phải nó bám chặt
vào khí-cụ hoàn-toàn vật-lý, soi-xét, thí-
nghiệm, không chấp-nhận điều gì như thành-
lập, mà nó không có thể chứng-nghiệm một
cách tỉ-mỉ và đại-đồng, chúng ta sẽ còn đi tới
những sự xác-thực siêu vật-lý. Còn những
phương-tiện khác, những phép cận-đạo lớn
hơn, nhưng kế-hoạch này cũng có thể dẫn đến
một chân-lý đại-đồng .
Có ba vật còn lại của công-trình các thế-
hệ tục-học ; chân-lý của thế-giới vật-lý, sự
trọng-yếu của nó, và phương-pháp tri-thức, _
của khoa-học, _ nó phải dẫn-dụ Thiên-nhiên và
Thực-tồn biểu-lộ con đường sinh-tồn và diễn-
tiến của chúng, không vội vàng đặt lên chúng
những thành-kiến và tưởng-tượng của chúng ta,
adhyāropa ; và sau hết, tuy không phải là thứ-
yếu, ấy là cái chân-lý cùng sự trọng-yếu của
đời sống trần-thế và bổn-phận nhân-sinh, ý-
nghĩa tiến-hóa của nó. Chúng sẽ còn lại, nhưng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
103
sẽ đổi sang ý-nghĩa khác và khai-triển những
đường lối lớn hơn, chắc-chắn về hy-vọng và
công việc của chúng ta, chúng sẽ thấy chúng
biến-hóa tất cả vào ánh-sáng của một tri-thức
thế-giới và tự-giác sâu rộng hơn và thân-mật
hơn .
( Arya. tháng 10 - 1918,
Sri Aurobindo- Ghose )
%%%%%%%%%%%%%%%