tƢ tƢỞng phÁp quyỀn hỒ chÍ minh - hcma.vnhcma.vn/uploads/2018/2/6/la _ nguyen dac...

155
HC VIỆN CHÍNH TRỊ QUC GIA HCHÍ MINH NGUYỄN ĐẮC DŨNG TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HCHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC HÀ NỘI - 2018

Upload: others

Post on 06-Sep-2019

7 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐẮC DŨNG

TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

HÀ NỘI - 2018

Page 2: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐẮC DŨNG

TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

Mã số: 62 31 02 04

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. PHẠM NGỌC ANH

2. PGS.TS. NGUYỄN THỊ QUẾ

HÀ NỘI - 2018

Page 3: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

TÁC GIẢ

Nguyễn Đắc Dũng

Page 4: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI 6

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài 6

1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 28

Chƣơng 2: KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG PHÁP

QUYỂN HỒ CHÍ MINH 32

2.1. Khái niệm 32

2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh 43

Chƣơng 3: NỘI DUNG TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH 66

3.1. Về vai trò của pháp luật 66

3.2. Về phương thức thực hiện pháp quyền 83

3.3. Về điều kiện thực hiện pháp quyền 93

Chƣơng 4: NHỮNG GIÁ TRỊ THAM CHIẾU TRONG TƢ TƢỞNG PHÁP

QUYỀN HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN

NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY 110

4.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước 110

4.2. Pháp luật phải thể hiện ý nguyện của nhân dân 116

4.3. Chủ quyền nhân dân đối với các vấn đề quan trọng của quốc gia 120

4.4. Các quyền hiến định của công dân 125

4.5. Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt 128

KẾT LUẬN 135

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ

CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 137

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 138

Page 5: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH: Chủ nghĩa xã hội

DCCH: Dân chủ Cộng hòa

NNPQ: Nhà nước pháp quyền

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

Page 6: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án

Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam

đã sản sinh ra những anh hùng giải phóng dân tộc, những nhà tư tưởng lớn,

những danh nhân văn hóa của dân tộc; trong đó có Hồ Chí Minh, người vừa

để lại sự nghiệp vĩ đại cho dân tộc Việt Nam, vừa được nhân loại biết đến

rộng rãi, ca ngợi và khâm phục. Với dân tộc Việt Nam Người là lãnh tụ vĩ

đại, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động

[23]. Tổ chức UNESCO tôn vinh Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân

tộc và danh nhân văn hóa [144].

Hồ Chí Minh là người tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc;

đồng thời là người tổ chức, lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam thực hiện thắng lợi

con đường đó; con đường Người chỉ ra đã định hướng cho sự nghiệp xây dựng,

phát triển đất nước trong quá khứ, đến hiện tại và tương lai. Tư tưởng Hồ Chí

Minh phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, tính đúng đắn trong tư tưởng

của Người đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm và xác nhận.

Thực tiễn lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX đã cho thấy khi nào chúng ta xa rời

hoặc không quán triệt đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh thì khi đó chúng ta vấp váp

và sai lầm [93]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt

Nam khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh: “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và

quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của

nhân dân ta giành thắng lợi” [27, tr.88].

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về

những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc

cho đến cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN), trong đó, có tư tưởng pháp quyền,

Người đã đặt nền móng và định hướng xây dựng pháp quyền Việt Nam. Trên

Page 7: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

2

lĩnh vực chính trị, Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà lý luận, nhà kiến trúc sư lỗi

lạc trong thiết kế; đồng thời, Người còn là nhà tổ chức, lãnh đạo nhân dân, là

người trực tiếp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Người

luôn hướng tới một nền hành chính phục vụ nhân dân, hết sức chăm lo cho đời

sống nhân dân, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Với một tư duy hiện đại và tiến bộ, Hồ Chí Minh xác định quản lý nhà

nước bằng hệ thống pháp luật là quan trọng nhất, trong đó, đề cao vai trò của

Hiến pháp. Hệ thống pháp luật được đề cao trong toàn xã hội, pháp luật được đặt

ở vị trí tối thượng, toàn xã hội phải tuân thủ pháp luật, Nhà nước xây dựng và

thực thi pháp luật nhưng chính Nhà nước phải tuân thủ pháp luật. Hệ thống pháp

luật phải thể hiện ý chí của nhân dân, bản chất của hệ thống pháp luật thể hiện

tôn trọng quyền con người, bảo vệ quyền con người và hướng tới các giá trị nhân

văn. Pháp luật phải có hiệu lực mạnh mẽ, thể hiện sự nghiêm minh và tất cả mọi

chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật. Hồ Chí Minh cho rằng pháp luật phải đi

vào cuộc sống, trở thành nề nếp, thói quen, lối ứng xử tự nhiên của con người,

tạo nên ý thức pháp luật cao trong toàn xã hội. Trong tư tưởng pháp quyền Hồ

Chí Minh, còn có sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức, pháp luật phải hướng tới

lẽ phải, hợp đạo lý làm người. Đó là một pháp quyền văn minh và tiến bộ. Một

pháp quyền nhân nghĩa, hướng tới con người và vì con người, đặt con người ở vị

trí trung tâm.

Do những nguyên nhân khác nhau về chủ quan và khách quan, nhận thức

và thực tiễn, bối cảnh trong nước và quốc tế, trong một thời gian dài, chúng ta

không hoặc ít đề cập đến vấn đề pháp quyền, do đó vấn đề pháp quyền về

phương diện lý luận thiếu hệ thống, thiếu đồng bộ và chưa có sự thống nhất; về

phương diện thực tiễn thiếu tính nhất quán và hiệu quả.

Từ năm 1986 đến nay, với những thành tựu đạt được trong quá trình

đổi mới trên các mặt của đời sống xã hội, dân tộc Việt Nam chuyển sang một

thời kỳ phát triển mới. Trên lĩnh vực xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ),

Page 8: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

3

bên cạnh thành tựu, còn có hạn chế về nhận thức và thực tiễn. Về nhận thức:

bản chất, đặc trưng, cơ chế vận hành của NNPQ XHCN chưa được xác định

rõ, đầy đủ; các nguyên tắc dân chủ, pháp quyền; vai trò tối thượng của Hiến

pháp, vai trò, tiêu chuẩn của pháp luật, hệ thống pháp luật của NNPQ XHCN

chưa được nhận thức, quy định đầy đủ. Về thực tiễn thực hiện pháp luật, kỷ

cương, kỷ luật không nghiêm; việc xây dựng NNPQ XHCN chưa đáp ứng đầy

đủ các nguyên tắc cơ bản thượng tôn pháp luật; chăm lo quyền lợi chính đáng

của nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; việc kiểm soát

quyền lực, nhất là trong bộ máy nhà nước chưa được chế định rõ ràng, còn

thiếu nhất quán; cơ chế bảo vệ pháp luật, tăng cường pháp chế chưa đầy đủ;

công tác lập pháp còn nhiều bất cập; tổ chức của Quốc hội, Hội đồng nhân

dân các cấp còn có những hạn chế; tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của

Chính phủ còn bất cập; cải cách tư pháp còn có những vướng mắc, thiếu đồng

bộ [28]. Trước yêu cầu phát triển toàn diện đất nước, trong điều kiện hội nhập

quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam vấn đề pháp quyền lại được đặt ra.

Hiếp pháp năm 2013, tại Điều 2, khoản 1 quy định: Nhà nước cộng hòa

XHCN Việt Nam là NNPQ XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Vấn đề pháp quyền được đặt ra cần nghiên cứu và triển khai thực hiện.

Sau hơn 30 năm đổi mới và hơn 20 năm xây dựng NNPQ XHCN, cả về

lý luận và thực tiễn, Việt Nam thu được những thành tựu nhất định, đồng thời

cũng đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu, lý giải. Việt Nam đã có đầy đủ hơn

các cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng pháp quyền XHCN. Việc trở lại

nghiên cứu và tìm hiểu một cách hệ thống, toàn diện, sâu sắc tư tưởng pháp

quyền Hồ Chí Minh góp phần đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng phát

triển đất nước; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,

văn minh.

Với những lý do trên, tác giả chọn: “Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh”

làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sỹ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.

Page 9: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

4

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Luận án phân tích, lý giải một cách toàn diện tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh; đồng thời nêu những giá trị tham chiếu của tư tưởng đó đối với việc xây

dựng, hoàn thiện pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

- Phân tích nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

- Khẳng định giá trị tham chiếu của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh

đối với việc xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về pháp quyền.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh về pháp

quyền được thể hiện trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập (15 tập), trong các văn bản

pháp luật do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, công bố và thực tiễn chỉ đạo của Người

trong thực hiện tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam.

- Về thời gian: Luận án khảo cứu toàn bộ tư tưởng và thực tiễn của Hồ

Chí Minh về xây dựng pháp quyền ở Việt Nam, nhất là từ 1945 đến 1969, đó là

thời kỳ Hồ Chí Minh hiện thực hóa, bổ sung, phát triển tư tưởng pháp quyền.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được thực hiện dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về

Nhà nước và pháp luật.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả sử dụng

các phương pháp sau: lôgic - lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, văn

bản học, khảo cứu thực tế.

Page 10: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

5

5. Những đóng góp mới của Luận án

- Phân tích nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

- Đưa ra các giá trị tham chiếu của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đối

với việc xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa khoa học

- Phân tích làm rõ nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

- Chỉ rõ sự vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam của Hồ Chí Minh

trong tư tưởng pháp quyền.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Luận án rút ra những giá trị tham chiếu để Đảng, Nhà nước vận dụng đối

với xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.

- Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và

giảng dạy, học tập trong nhóm ngành khoa học chính trị, khoa học xã hội và

nhân văn.

7. Kết cấu của luận án

Luận án ngoài mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của

tác giả đã công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án

gồm 4 chương, với 12 tiết.

Page 11: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

6

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Vấn đề pháp quyền, NNPQ, NNPQ XHCN là vấn đề mới ở Việt Nam

trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, phải đầu thế kỷ XX,

các nhà tư tưởng và các nhà hoạt động chính trị Việt Nam mới đề cập đến vấn

đề Nhà nước dân chủ, vấn đề lập hiến...; về mặt thực tiễn, phải đến Cách

mạng tháng Tám năm 1945, những tư tưởng pháp quyền mới được hiện thực

hóa ở Việt Nam. Những vấn đề trên được đề cập nhiều từ khi Việt Nam tiến

hành đổi mới, nhất là từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng

Cộng sản Việt Nam và Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa XHCN Việt

Nam được xây dựng và ban hành. Tại Điều 2, Hiến pháp năm 2013 ghi: “Nhà

nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là NNPQ XHCN của Nhân dân, do Nhân

dân, vì Nhân dân” [106, tr.9]. Từ khi đổi mới đất nước, số lượng công trình

nghiên cứu về pháp quyền, NNPQ, NNPQ XHCN ở Việt Nam ngày càng

nhiều. Qua nội dung các công trình, tác giả của luận án tổng quan một số công

trình tiêu biểu có liên quan đến đề tài luận án của mình thành các vấn đề:

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.1. Những công trình nghiên cứu tƣ tƣởng pháp quyền

* Về sách chuyên khảo

Josef Thesing nêu ra các dữ kiện chủ yếu thể hiện tầm quan trọng của

pháp quyền: Phát triển kinh tế, xã hội có mối quan hệ tương hỗ với pháp luật;

mối liên hệ không thể tách rời giữa dân chủ và pháp quyền; ở bất kỳ đâu pháp

quyền hình thành trên cơ sở một trật tự chính trị, thì ở nơi đó nó cũng dạy cho

người dân biết phải giải quyết xung đột về giá trị hay lợi ích theo quy định

của pháp luật chứ không phải bạo lực. Tác giả đánh giá cao vai trò của pháp

quyền trên nhiều phương diện, nhưng đặc biệt chú ý đến giá trị nhân văn của

pháp quyền [125].

Page 12: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

7

Roman Herzog khẳng định khái niệm pháp quyền rất rộng, có rất nhiều

nghĩa khác nhau, nhưng theo tác giả đều thống nhất bản thân pháp quyền đã là

thiện và công bằng, sự không thống nhất là ở chỗ cái gì làm ra thiện và công

bằng. Theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng, khái niệm pháp quyền nghĩa

là một Nhà nước không xâm hại tới cá nhân và thực chất tồn tại để đem lại lợi

ích cho công dân của mình [125]. Tác giả đề cập tới mục đích của pháp quyền

và để đạt được mục đích đó cần thông qua yếu tố Nhà nước.

Gerhard Robbers đưa ra quan điểm pháp luật là tập hợp các quy định,

tạo ra những cấu trúc để con người cùng tồn tại hòa bình và tự do. Trong mối

quan hệ giữa đạo đức và Nhà nước, pháp quyền có vai trò tạo ra cơ cấu pháp

lý để cho cá nhân hành động theo nguyên tắc đạo đức và đích cuối cùng là tạo

sự chịu trách nhiệm về hành vi của mình, để đạt được khoan dung, tự do, bình

đẳng cho mọi người [125]. Tác giả đề cập mối quan hệ giữa pháp quyền và

đạo đức, trong đó nhấn mạnh đến tính tương hỗ của mối quan hệ này.

Waldemanr Beson và Gorthard Jasper cho rằng sự vượt trội của pháp

quyền so với cai trị của cảnh sát và quyền lực chuyên chế trong việc đảm bảo

quyền tự do của con người và sự tham gia vào đời sống chính trị của công

dân; đồng thời cũng chỉ ra những nguy cơ của pháp quyền, đặc biệt nguy cơ

“thủ tục trị” [125]. Các tác giả đã đề cập và nhấn mạnh đến giá trị của pháp

quyền, nhưng không tuyệt đối hóa, thừa nhận hạn chế của pháp quyền. Thể

hiện một cách tiếp cận biện chứng và rất có giá trị.

Lý Ba đưa ra quan điểm luật thành văn cần có năm đặc tính: Phải dựa

trên luật tự nhiên hay luật đạo đức; phải giản dị để con người hiểu là gì và

tuân theo như thế nào; phải không bị thay thế liên tục; phải ngăn ngừa sự áp

bức, ngăn ngừa sự lạm quyền của Nhà nước; phải hợp lý, nghĩa là việc tố tụng

giống nhau phải xử lý giống nhau. Tác giả đưa ra hai nguyên tắc trong pháp

quyền: Luật là tối thượng và quyền lập pháp phải có giới hạn [95]. Tác giả đã

đề cập đến các đặc trưng và nguyên tắc phổ biến của pháp quyền.

Page 13: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

8

Lý Ba cho rằng quan điểm pháp quyền ngày nay khác hoàn toàn với

quan niệm pháp trị của Trung Hoa thời kỳ cổ đại. Pháp quyền mang ba ý

nghĩa: Pháp luật là công cụ điều chỉnh quyền lực của Chính phủ; sự bình đẳng

trước pháp luật; thẩm quyền tài phán phải tuân theo thủ tục tố tụng đã được ấn

định trước [95]. Ba ý nghĩa trên đồng thời là ba nguyên tắc, ba yêu cầu của

pháp quyền.

Nhà chính trị nổi tiếng của nước Mỹ, James Madison trong Những

Luận cương về Liên bang cho rằng Chính phủ là sự phản ánh rõ ràng nhất bản

tính của con người, mà theo ông con người không phải là thần thánh, do đó

Nhà nước cũng không phải là thần thánh, nhưng con người cần Nhà nước.

Vấn đề là làm sao để Nhà nước thực sự phục vụ con người. Ông khẳng định

khó khăn lớn nhất là làm thế nào để chính phủ tự mình kiểm soát lấy mình,

theo ông phân quyền để kiểm soát lẫn nhau và giữ gìn sự cân bằng là giải

pháp chắc chắn [95]. J.Madison nhấn mạnh đến phân quyền và cân bằng

quyền lực trong pháp quyền.

Theo Alexander Hamilton để pháp quyền đảm bảo các quyền con

người, mấu chốt không phải ở việc liệt kê một danh sách các dân quyền, một

việc luôn không thể làm đầy đủ và tiềm ẩn nhiều nguy cơ, mà phải là ban

hành Hiến pháp để hạn chế quyền lực của Chính phủ [95]. Đây là một quan

điểm có giá trị và rất đáng lưu ý của A.Hamilton trong hoạt động lập hiến và

thực thi pháp quyền.

John Jay nêu luận điểm khi thành lập Chính phủ, nhân dân phải nhượng

lại một số quyền tự nhiên của mình cho Chính phủ; đổi lại quyền lợi của nhân

dân được đảm bảo nhiều hơn [95]. J.Jay nêu vấn đề mối quan hệ giữa Chính

phủ và nhân dân là mối quan hệ giữa nhượng quyền và nhận nhượng quyền,

bên nhận nhượng quyền phải có nghĩa vụ đối với bên nhượng quyền.

Ngô Thị Mỹ Dung và các cộng sự phân tích những điều kiện kinh tế, xã

hội, những tiền đề lý luận ảnh hưởng đến tư tưởng triết học pháp quyền Đức,

Page 14: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

9

phân tích nội dung tư tưởng triết học pháp quyền ở một số nhà tư tưởng điển

hình: Christian Thomasius, Christian Wolff, Immanuel Kant, Johann

Gottlieb Fichte, Georg Wilhelm Friedrich Hegel, Karl Marx, Friedrich

Engels, Gustav Radbruch và Arthur Kaufmann. Từ đó rút ra ý nghĩa đối với

việc xây dựng NNPQ Việt Nam hiện nay: Đề cao con người, nhấn mạnh các

quyền tự nhiên của con người; luật tự nhiên là cơ sở, tiêu chí đánh giá hiệu

lực của luật ban hành; gắn xây dựng NNPQ XHCN với phát triển kinh tế, xã

hội; pháp luật phải phản ánh đầy đủ và đúng đắn quyền, lợi ích của toàn thể

nhân dân; pháp quyền phải có sự bình đẳng, an toàn pháp lý, phổ biến, tiện

dụng, ổn định [14].

Nguyễn Duy Quý và Nguyễn Tất Viễn đã hệ thống các vấn đề liên

quan đến xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam, trong đó các nội dung đáng

chú ý và có giá trị tham khảo: khái niệm và các đặc trưng; những yếu tố chi

phối; phương hướng và giải pháp chủ yếu xây dựng NNPQ XHCN ở Việt

Nam [108]. Các tác giả mới gián tiếp đề cập đến tư tưởng pháp quyền qua

việc nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của Nhà nước pháp quyền.

Lưu Tiến Dũng đề cập tư tưởng pháp quyền từ góc độ tính độc lập của

tư pháp, một nhánh quyền lực nhà nước, trong đó tác giả tập trung chỉ ra

những tồn tại trong vấn đề về độc lập xét xử ở Việt Nam từ năm 1945 cho đến

nay, những vấn đề đó có giá trị đối với việc xây dựng, hoàn thiện NNPQ

XHCN Việt Nam hiện nay [13].

Các tác giả Nguyễn Bá Dương, Trần Hậu Thành và Lê Thị Hoài Thanh

đã đề cập đến các nội dung cơ bản của tư tưởng pháp quyền hiện đại: nhân

dân chủ thể của quyền lực; các quyền con người phải được tôn trọng, đảm

bảo; vai trò của pháp luật; phân quyền và giám sát quyền lực nhà nước; ưu

tiên pháp luật quốc tế trong quan hệ đối ngoại [22].

Các tác giả Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa đề cập đến tư tưởng

pháp quyền dưới góc độ lập hiến, trong đó tập trung vào nội dung của Hiến

Page 15: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

10

pháp; phân tích quá trình vận động của tư tưởng lập hiến Việt Nam trong lịch

sử. Trong đó nội dung có giá trị là các tác giả đã phân tích sự cọ sát, đấu tranh

giữa các khuynh hướng lập hiến ở Việt Nam; sự vượt trội, thắng thế của tư

tưởng lập hiến cách mạng do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam khởi

xướng, lãnh đạo [119].

Bùi Xuân Đức đặt ra một vấn đề lớn, có ý nghĩa cần thiết, cấp bách ở

Việt Nam hiện nay là phải dứt khoát thay đổi tư duy pháp lý, không phải

nguyên tắc pháp chế XHCN đổi mới mà là nguyên tắc pháp quyền [1].

* Bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành

Nguyễn Đăng Dung đã lý giải tính hai mặt của Nhà nước, một mặt thể

hiện sự phát triển của con người, bảo vệ, đem lại quyền lợi và sức mạnh cho

con người. Mặt khác, Nhà nước lại có xu hướng tùy tiện, xâm phạm đến

quyền lợi cá nhân. Biện pháp hiệu quả nhất để ngăn chặn xu hướng tùy tiện

của Nhà nước là dùng pháp luật kiểm soát Nhà nước, kết hợp với đạo đức

công vụ [16]. Như vậy, pháp quyền được tác giả nhìn nhận dưới góc độ các

nguyên tắc để hạn chế mặt trái của Nhà nước.

Võ Khánh Vinh nhấn mạnh phải triệt để thực hiện tư tưởng pháp

quyền: Nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật quy định; công dân được

làm những gì pháp luật không cấm [151]. Đây là vấn đề cốt lõi trong tư tưởng

pháp quyền nhân loại, Việt Nam hiện nay cần nghiên cứu và vận dụng.

Nguyễn Sỹ Dũng phân tích các đặc trưng của pháp quyền dưới góc

nhìn giá trị thể hiện sự tiến bộ, văn minh mà các Nhà nước cần hướng tới. Tác

giả tiếp cập pháp quyền từ góc độ văn hóa [21].

Các tác giả Lê Văn Cảm, Nguyễn Cảnh Hợp tiếp cận tư tưởng pháp

quyền dưới góc độ tổ chức nhà nước và chỉ ra hạn chế lớn trong việc tổ chức,

thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, từ hạn chế đó dẫn

đến nhiều hậu quả. Những hạn chế và hậu quả của việc tổ chức, thực hiện và

Page 16: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

11

kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ là những gợi mở cho việc tìm giải pháp xây

dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam [8].

Các tác giả Nguyễn Minh Đoan [33], Phạm Thị Ngọc Trầm [131],

Lương Đình Hải [37] và Vũ Văn Viên [150] đề cập đến mối quan hệ giữa xây

dựng NNPQ XHCN Việt Nam với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội,

như: xây dựng xã hội dân sự, dân chủ. Các tác giả đã nhìn xã hội như một

chỉnh thể gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, giữa chúng có mối quan hệ tác động

qua lại, do đó khi nghiên cứu một lĩnh vực cụ thể cần đặt trong sự tác động

qua lại với lĩnh vực khác.

Trong một số công trình của Hoàng Thị Hạnh đặt ra vấn đề xây dựng

NNPQ XHCN Việt Nam phải đặt trong bối cảnh lịch sử dân tộc và thời đại.

Nhưng tác giả giới hạn và tập trung trong phạm vi kinh tế, chưa có điều kiện

mở rộng sang các lĩnh vực khác [38, 39].

Thái Vĩnh Thắng đề cập vấn đề pháp quyền ở Việt Nam từ nhu cầu bảo

hiến. Trong đó, vấn đề cần kíp hiện nay là lựa chọn mô hình cơ quan bảo hiến

phù hợp với Việt Nam. Theo quan điểm của tác giả, mô hình Tòa án Hiến

pháp là phù hợp nhất ở Việt Nam. Khác với nhiều nhà nghiên cứu khác chỉ

nêu ra nhu cầu bảo hiến và đề xuất cần có mô hình bảo hiến, nhưng không xác

định mô hình cụ thể, tác giả xác định mô hình cụ thể [117].

Tống Đức Thảo trong các công trình của mình đưa ra các lập luận

chính trị căn bản của chủ nghĩa lập hiến Việt Nam, đó chính là những cơ sở

để Việt Nam xây dựng hoàn thiện NNPQ XHCN. Tác giả cho rằng, Việt

Nam có thể tiếp thu mô hình bảo hiến của Cộng hòa Pháp là Hội đồng bảo

hiến, một quan niệm về mô hình bảo hiến cụ thể có thể vận dụng ở Việt Nam

[123, 124].

Mai Thị Thanh chỉ ra những đặc thù trong xây dựng NNPQ XHCN

Việt Nam. Những đặc thù này được tác giả xem xét dưới hai góc độ: vừa là

những khó khăn, đồng thời cũng chính là những nguyên nhân của bất cập

Page 17: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

12

trong thực trạng NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay [118]. Cùng đề cập đến

tính đặc thù, các đặc trưng trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam có thể kể

đến Phạm Văn Đức [35], Lê Công Định [30], Nguyễn Như Phát [96], Nguyễn

Đình Tường [140]. Các tác giả một mặt chỉ ra tính đặc thù, đồng thời cũng

cho rằng xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam mang những đặc điểm chung

toàn nhân loại.

Các tác giả Hoàng Văn Tú [134], Nguyễn Đăng Dung [17], Hà Thị Mai

Hiên, Nguyễn Thị Việt Hường [44], Nguyễn Văn Luật [64], Ngọ Văn Nhân

[93], Nguyễn Như Phát, Phạm Hữu Nghị [96-98] nghiên cứu pháp quyền từ

góc độ lập hiến ở Việt Nam. Trong đó các tác giả tập trung chỉ ra những hạn

chế cần khắc phục để quá trình lập hiến Việt Nam đảm bảo pháp quyền. Các

hạn chế gồm: nhận thức; kỹ thuật lập hiến; nội dung lập hiến. Các hạn chế đó

là những gợi ý có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc trong nghiên cứu và vận

dụng tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.

Hoàng Thị Kim Quế đề cập pháp quyền trong quan hệ với đạo đức,

nhấn mạnh vai trò của đạo đức công quyền đối với pháp quyền. Theo tác giả

đạo đức nói chung và đạo đức công quyền phải tham gia và hiện diện trong tất

cả các hoạt động lập hiến, lập pháp, hành pháp và xét xử mới đảm bảo công

bằng, công lý, dân chủ [102].

Các tác giả Lê Hồng Sơn [113], Trần Thành [122] tiếp cận pháp quyền

dưới góc độ mô hình tổ chức nhà nước, cơ chế phân công, phối hợp giữa các

cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước; mối quan hệ giữa thiết chế nhà nước

và các thiết chế chính trị - xã hội khác, trong đó có quan hệ với Đảng Cộng

sản Việt Nam. Các tác giả đề cập đến một vấn đề lớn và mang tính thời sự lâu

dài trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam, cần phải tiếp tục nghiên cứu để

tìm ra giải pháp thỏa đáng.

Bùi Huy Tùng đưa ra hai phương thức đảm bảo tính hợp pháp, hợp hiến

và thống nhất của hệ thống pháp luật, phương thức mang tính phòng ngừa và

Page 18: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

13

phương thức mang tính ngăn chặn. Đối với hệ thống pháp luật Việt Nam hiện

nay, cả hai phương thức trên vẫn còn nhiều hạn chế [139]. Tác giả đề cập đến

pháp quyền dưới góc độ tính hợp pháp, hợp hiến và thống nhất của hệ thống

pháp luật, một vấn đề đang đặt ra hiện nay ở Việt Nam.

Hoàng Văn Nghĩa trong bài Sửa đổi Hiến pháp: Tiếp cận từ sự phát

triển lý luận về quyền con người của Đảng ta [90], tác giả đã phân tích quyền

công dân luôn hẹp hơn quyền tự nhiên của con người. Quyền tự nhiên của con

người là hiện tồn, bất kể chế định luật pháp quốc tế hay quốc gia có thừa nhận

hay không. Tuy nhiên, quyền tự nhiên ấy chỉ thực sự được hiện thực hóa, tức

là được tôn trọng, bảo vệ và thực thi trên nền tảng của chế định pháp luật.

Hiện nay, xây dựng pháp quyền ở Việt Nam cần chú ý: xác định cá nhân là

chủ thể tối cao của quyền con người; chế định về quyền con người không chỉ

dừng lại ở ghi nhận và đảm bảo các quyền và tự do cơ bản của công dân (con

người với tính cách là công dân trong Nhà nước, công dân là con người theo

nghĩa hẹp); mà quan trọng hơn đó là khơi dậy và phát triển tiềm năng để hiện

thực hóa các quyền và tự do cơ bản của cá nhân tồn tại với tính cách là con

người nói chung (con người theo nghĩa đầy đủ, vốn có, con người tự nhiên,

con người trước khi có Nhà nước), con người mang tính phổ quát của nhân

loại và mang tính loài. Tác giả cũng chỉ ra các bước thụt lùi của việc ghi nhận

quyền con người và quyền công dân trong các Hiến pháp Việt Nam về mặt

hình thức: Hiến pháp năm 1946 quy định ở Chương 2; Hiến pháp năm 1959

quy định ở Chương 3; Hiến pháp 1980 quy định ở Chương 4; Hiến pháp 1992

quy định ở Chương 5. Chưa tính đến sự thụt lùi về nội dung và bản chất của

quyền; quyền con người bị quy về quyền công dân và bị giới hạn trong Hiến

pháp và pháp luật. Bước thụt lùi này đã được khắc phục từng phần trong Hiến

pháp năm 2013.

Các tác giả Đinh Xuân Lý [66], Hoàng Công [11] chỉ ra trong Hiến

pháp năm 2013 thể hiện sự tiến bộ trong tư duy pháp quyền Việt Nam, hội

Page 19: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

14

nhập với tư tưởng pháp quyền nhân loại. Nhấn mạnh đến pháp quyền từ góc

độ quyền con người, ghi nhận sự tiến bộ trong Hiến pháp hiện hành hiến định

quyền con người phù hợp với chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền con người.

* Về luận án

Đào Ngọc Tuấn đưa ra nhận định có giá trị lý luận và thực tiễn xây

dựng NNPQ ở Việt Nam cần kết hợp tính phổ biến toàn nhân loại và tính đặc

thù của Việt Nam [135]. Tác giả đề cập vấn đề khi xây dựng pháp quyền Việt

Nam cần chú ý và chỉ ra những đặc thù riêng kết hợp với những giá trị mang

tính phổ biến toàn nhân loại. Vấn đề Việt hóa các điều ước và thông lệ quốc

tế có một ý nghĩa to lớn với Việt Nam đang trên đường hội nhập quốc tế ngày

càng sâu rộng.

Nguyễn Đình Hảo phân tích những nhược điểm trong hoạt động lập

quy của Chính phủ Cộng hòa XHCN Việt Nam từ 1992 đến nay, qua đó cho

thấy những biểu hiện thiếu, yếu tư tưởng pháp quyền trong hoạt động lập quy

của Chính phủ. Từ thực trạng đó, đặt ra giảm quyền và tăng năng lực lập quy

của Chính phủ [41].

Phạm Thế Lực phân tích những mâu thuẫn trong vấn đề tập trung và

phân chia quyền lực trong tổ chức, thực thi quyền lực ở Việt Nam. Các giải

pháp để giải quyết những mâu thuẫn trên có nhiều, giải pháp mang tính bao

trùm và chi phối là đảm bảo nguyên tắc pháp quyền [65].

Nguyễn Mậu Tuân phân tích một cách có hệ thống và cụ thể các hạn

chế trong hoạt động bảo hiến ở Việt Nam, tạo nên cơ sở thuyết phục khi đưa

ra kết luận về nhu cầu bảo hiến ở Việt Nam [137]. Vấn đề đặt ra tiếp theo là

cần phải xây dựng cơ chế và xác định mô hình cụ thể cho hoạt động bảo hiến

tại Việt Nam.

Cao Anh Đô đề cập đến một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt

động của NNPQ XHCN Việt Nam, đó là nguyên tắc quyền lực nhà nước là

thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện

Page 20: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

15

các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tác giả phân tích các hạn chế

trong việc thực hiện nguyên tắc trên, trong điều kiện đặc thù của Việt Nam là

có Đảng chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền [31]. Vấn đề chưa

đưa ra cơ chế cụ thể, khả thi về phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực

hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Hoàng Thị Hạnh khẳng định một trong những điều kiện đảm bảo quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế thành công

là phải xây dựng NNPQ XHCN. Như vậy, tác giả đã đi từ tính tất yếu của

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến tính tất yếu của NNPQ

ở Việt Nam, đó là mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, biểu hiện mối quan

hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội. Dưới góc độ triết học,

tác giả đã xem thực hiện pháp quyền như một đòi hỏi của thực tiễn đất nước;

đến lượt mình pháp quyền trở thành điều kiện đảm bảo cho thực hiện được

mục tiêu kinh tế, tạo dựng nền tảng vật chất của thời kỳ quá độ lên CNXH ở

Việt Nam, một mục tiêu của thời kỳ quá độ lên CNXH tại Việt Nam [40].

Tóm lại, những công trình đề cập trực tiếp đến tư tưởng pháp quyền ở

Việt Nam rất ít, chủ yếu đề cập gián tiếp qua NNPQ. Các công trình của học

giả nước ngoài được dịch ở Việt Nam tập trung vào đặc điểm, nội dung và các

yêu cầu của pháp quyền. Các nhà nghiên cứu Việt Nam đề cập: tính tất yếu

xây dựng NNPQ ở Việt Nam; các đặc trưng của NNPQ ở Việt Nam; xây dựng

NNPQ trong quan hệ với kinh tế, đạo đức, dân chủ, với xã hội dân sự; tổng

kết thực tiễn xây dựng NNPQ Việt Nam, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, đề

xuất giải pháp. Các nghiên cứu tập trung vào phương diện thực tiễn, phương

diện lý luận chưa được quan tâm đúng mức.

Các kết quả đạt được trong các công trình trên, một mặt được tác giả

luận án kế thừa, mặt khác những vấn đề chưa được đề cập, còn hạn chế là

những gợi ý cho tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu.

Page 21: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

16

1.1.2. Những công trình nghiên cứu tƣ tƣởng pháp quyền Hồ Chí Minh

* Các đề tài khoa học

Trong các công trình nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh

phải kể tới Chương trình KX.02: Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có đề tài

KX.02.13: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới - Nhà nước của dân,

do dân, vì dân, do Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp chủ trì.

Kết quả của đề tài mang tính khái quát cao và có giá trị định hướng trong

nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Trong các sản phẩm thuộc đề

tài có sách Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật

[148]. Trong đó các tác giả đã trực tiếp sử dụng đến khái niệm pháp quyền

trong tư tưởng Hồ Chí Minh và lý giải một số khía cạnh về nội dung, về hình

thức biểu hiện, đồng thời đưa ra những đánh giá.

Đoàn Trọng Truyến lý giải “thần linh pháp quyền” trong tư tưởng Hồ

Chí Minh vừa là nền tảng lý luận, nguyên tắc chi phối tổ chức và hoạt động

của bộ máy Nhà nước, vừa là đề cao vai trò của pháp luật, thượng tôn pháp

luật trong toàn bộ đời sống xã hội. Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh rất

nghiêm, nhưng cũng đầy tình người, đầy lòng nhân ái. Tác giả đánh giá: “Tư

tưởng Hồ Chí Minh về pháp quyền cũng là một tư tưởng vô cùng quý báu”

[148, tr.96]. Tác giả đã đề cập đến vai trò của pháp quyền trong tư tưởng Hồ

Chí Minh qua việc đề cao tuân thủ pháp luật, một nội dung quan trọng trong

khái niệm pháp quyền.

Đức Vượng đã đưa ra những nhận định có tính định hướng trong

nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Tác giả nghiên cứu tư tưởng

Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật xuất phát từ đặc điểm truyền thống

văn hóa pháp lý dân tộc; xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử đất nước từ một nước

thuộc địa nửa phong kiến tiến lên CNXH; xuất phát từ bối cảnh thời đại. Tác

giả đưa ra nhận định:

Page 22: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

17

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và pháp luật cũng chỉ xới xáo

những vấn đề có tính chất “lật ải”, chứ chưa thể “cày sâu, bừa kỹ”.

Tuy nhiên, Người cũng đã chỉ ra cho chúng ta một phương hướng

và phương pháp chung nhất để các thế hệ sau có điều kiện phát

triển. Chúng ta coi đó là những lời chỉ dẫn cao quý của Người.

Thiếu những lời chỉ dẫn cơ bản ấy, chúng ta không có cơ sở để làm

luật và thi hành luật, để xác định thể chế dân chủ và thực hành dân

chủ [148, tr.164].

Vũ Đình Hòe mong muốn tìm ra bản chất đích thực của pháp quyền

trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ông dùng cách so sánh giữa tư tưởng pháp

quyền Hồ Chí Minh với pháp trị của phương Đông. Tác giả chỉ ra bản chất

của pháp trị trong lịch sử phương Đông:

Người ta từng thấy chế độ pháp trị dưới những triều đại phong kiến

nào đó bên Tầu, chủ trương cai trị bằng pháp luật chứ không bằng

“đức độ” của kẻ cầm quyền. Nay ta bàn về pháp trị, pháp chế, thì

không phải loại pháp trị đó. Xưa pháp trị là để thu xã tắc về một mối,

tập trung quyền sinh, quyền sát vào tay Hoàng Đế; để Thiên Tử Ngài

dễ dàng thống trị chư hầu và nô dịch muôn dân [148, tr.184].

Tác giả khẳng định pháp trị, pháp chế hay pháp quyền mới khác hoàn

toàn với nền pháp trị phương Đông truyền thống, nó do nhân dân giành lấy từ

cách mạng, thể hiện rõ nhất là qua Hiến pháp do dân định, không phải do

“khâm định”, thông qua Quốc hội do nhân dân lập nên, đại diện cho nhân dân.

Chỉ có Quốc hội mới có quyền ban hành Hiến pháp và phải có đủ ít nhất 2/3

số đại biểu có mặt đồng thuận và trước khi ban bố phải tổ chức cho toàn dân

phúc quyết. Cách giải quyết vấn đề như trên, Vũ Đình Hòe lại trở lại với chủ

nghĩa lập hiến.

Các khái niệm pháp trị, pháp chế, pháp quyền chưa được tác giả phân

định rõ, trong một số trường hợp dùng thay thế lẫn nhau. Đây là một khó khăn

Page 23: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

18

lớn trong nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Tác giả Vũ Đình

Hòe trong một công trình có đặt vấn đề: nên phân biệt cụm từ Nhà nước và

pháp quyền với từ kép Nhà nước - pháp quyền [46], nhưng chính tác giả cũng

chưa giải quyết được vấn đề mà mình đặt ra.

Song Thành khẳng định chính trị Hồ Chí Minh là một nền chính trị đạo

đức, chính trị và đạo đức thống nhất với nhau, hỗ trợ cho nhau, đều là mục

đích cần vươn tới, không có cái nào là phương tiện cho cái nào. Đồng thời, tác

giả cũng khẳng định, nếu chỉ dựa trên “đức trị” không thể lý giải sự thành

công của Hồ Chí Minh, cho nên cần phải dựa trên cả “pháp trị” mới có thể lý

giải đầy đủ sự thành công của Hồ Chí Minh. Ở Hồ Chí Minh, có sự kết hợp

giữa “đức trị” và „pháp trị”. Tác giả đi đến nhận định: “Tùy hoàn cảnh và đối

tượng cụ thể, có lúc Người nhấn mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác,

song có thể khẳng định tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là sự thống nhất

giữa đạo đức và pháp luật” [148, tr.211]. Tác giả đưa một trong những nội

dung độc đáo của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh; ở Hồ Chí Minh có cả lý

luận và thực tiễn về pháp quyền, về điểm này, tác giả khẳng định Hồ Chí

Minh vượt các nhà tư tưởng về thực tiễn và tương đồng với các nhà chính trị

lỗi lạc trên thế giới. Quan điểm này đã nâng tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh trở thành một giá trị văn hóa.

Đề tài KX.04.01 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của

dân, do dân, vì dân - Lý luận và thực tiễn, thuộc Chương trình nghiên cứu

khoa học và công nghệ cấp Nhà nước, mã số KX.04, trong Đề tài có đề cập

đến tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ. Trong các sản phẩm của Đề tài có sách

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - Lý

luận và thực tiễn [108], tập thể tác giả nghiên cứu nhiều học thuyết về pháp

quyền. Khi đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ của dân, do dân, vì

dân các tác giả đã khái quát hóa thành bảy nội dung lớn: 1. Tư tưởng về một

Nhà nước của nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân với nền dân chủ triệt để; 2.

Page 24: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

19

Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của công chức nhà nước đối với nhân

dân trong Nhà nước kiểu mới; 3. Tư tưởng về một Nhà nước hợp hiến, hợp

pháp, thực hiện quản lý xã hội theo pháp luật; 4. Tư tưởng về một nền pháp

luật dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trên thực tế; 5. Tư

tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước có hiệu lực mạnh mẽ, có sự phân công

và phối hợp giữa các nhánh quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; 6. Tư tưởng

về NNPQ của Hồ Chí Minh gắn liền với củng cố đạo đức truyền thống của

dân tộc; 7. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với

Nhà nước. Các tác giả đã đưa ra nhận định: “Sự định hình rất sớm ở Nguyễn

Ái Quốc một quan niệm hoàn chỉnh về yêu cầu (nguyên tắc) quản lý xã hội

theo pháp luật trong một Nhà nước dân chủ theo tinh thần pháp quyền, thượng

tôn pháp luật” [108, tr.86].

Các tác giả khi đề cập tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đã tập trung

và nhấn mạnh đến pháp quyền trong công quyền, trong việc Nhà nước sử

dụng pháp luật để quản lý xã hội. Pháp quyền mới chỉ được xem xét chủ yếu

như phương tiện để Nhà nước sử dụng trong quản lý xã hội. Trong bảy nội

dung các tác giả khái quát vừa là nội dung của tư tưởng NNPQ, vừa mang

tính đặc thù, đặc điểm của NNPQ ở Việt Nam nói riêng, ở các nước trong hệ

thống XHCN nói chung.

* Về sách chuyên khảo

Khi sự nghiệp đổi mới đất nước vừa được Đảng Cộng sản Việt Nam

chính thức thừa nhận, Nguyễn Ngọc Minh xuất bản sách Nghiên cứu những tư

tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật [86], tác giả

không trực tiếp đề cập đến khái niệm pháp quyền, nhưng tư tưởng pháp quyền

Hồ Chí Minh được đề cập gián tiếp và đậm nét, tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh thể hiện trong việc lựa chọn con đường cứu nước; trong việc xác định

mô hình Nhà nước ở Việt Nam sau khi giành độc lập; trong việc thành lập ra

Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (DCCH) nhanh về thời gian và qua

Page 25: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

20

cuộc Tổng tuyển cử theo chế độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu

kín; pháp quyền trong việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tác

giả khẳng định:

Đối với một nước mà chế độ quân chủ ngự trị mấy mươi thế kỷ, với

ngôi vua cha truyền con nối, với các quan lại do vua phong, đối với

một nước thuộc địa gần một trăm năm, với chế độ quan cai trị do

thực dân bổ nhiệm, mà chỉ một tuần sau khi tuyên bố độc lập, dựng

nên chế độ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn với Chính phủ về

bầu cử Quốc hội, thật là cả một cuộc cách mạng to lớn: “Đem người

nô lệ thành người tự do”. Một chính thể hoàn toàn mới! Một nhà

nước kiểu mới lần đầu tiên được xây dựng trong lịch sử 4.000 năm

của dân tộc Việt Nam [86, tr.86-87].

Đặc biệt trong lĩnh vực luật pháp, tư tưởng pháp luật Hồ Chí Minh thể

hiện trong hệ thống pháp luật đầu tiên của nước Việt Nam DCCH, tác giả đã

khái quát hóa trên 7 lĩnh vực; trong đó đáng chú ý các lĩnh vực: thiết lập trật

tự cách mạng của chế độ mới, tạm thời duy trì các pháp luật cũ, miễn là

không phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam và không trái với

chính thể DCCH, pháp luật về dân sự. Tác giả kết luận:

Tóm lại, chỉ trong mấy năm đầu liền sau Cách mạng tháng Tám,

mặc dầu trong hoàn cảnh muôn vàn khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí

Minh, vị đứng đầu Nhà nước cách mạng của ta, và cũng là nhà lập

pháp đầu tiên của Nhà nước đó, đã ban hành được cả một hệ thống

pháp luật trên rất nhiều lĩnh vực để thiết lập một trật tự pháp luật

cách mạng và để quản lý đất nước. Hệ thống pháp luật đó được xây

dựng trên tư tưởng: “Pháp luật của ta bảo vệ quyền lợi cho hàng

triệu người lao động... Pháp luật của ta là pháp luật thực sự dân chủ,

vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi của nhân dân lao động”.

Tư tưởng nhà nước quản lý bằng pháp luật được thực hiện, kể cả

Page 26: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

21

khi phải điều chỉnh các quan hệ với các giai cấp bóc lột và đối với

kẻ thù của cách mạng, kể cả trong chiến tranh và ở ngay mặt trận

[86, tr.173-174].

Tác giả Nguyễn Ngọc Minh đã nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ

Chí Minh dưới góc độ pháp chế nhiều hơn dưới góc độ pháp quyền. Đặt trong

bối cảnh lịch sử những năm đầu đổi mới đã là giá trị to lớn, nhưng chỉ dừng

lại ở đó, chưa hết, chưa đầy đủ tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

Nguyễn Đình Lộc khẳng định ngay từ rất sớm, vào những năm 1920, ở

Hồ Chí Minh đã định hình quan điểm về nguyên tắc quản lý xã hội bằng pháp

luật trong một xã hội mới, một Nhà nước dân chủ. Toàn bộ hoạt động của bộ

máy nhà nước, của đội ngũ cán bộ, công chức mọi lúc, mọi nơi luôn phải thể

hiện được “thần linh pháp quyền”; ý thức pháp luật, tinh thần pháp luật phải

chỉ đạo, chi phối mọi hành vi, hoạt động của bộ máy nhà nước, mọi hành vi,

hoạt động của xã hội. Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh có sự thống nhất

giữa lý luận và thực tiễn, giữa lời nói và việc làm:

Nhất quán với những quan điểm hình thành ngay từ những buổi đầu

hoạt động cách mạng, khi đã trở thành người đứng đầu Nhà nước,

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến yêu cầu cơ bản của

chế độ pháp quyền, nguyên tắc pháp chế: tôn trọng, tuân thủ pháp

luật [62, tr.87].

Tác giả Nguyễn Đình Lộc không chỉ giải mã “thần linh pháp quyền”

trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, mà còn đề cập đến vấn đề chế độ

pháp quyền ở Hồ Chí Minh, đó chính là sự tôn trọng, tuân thủ pháp luật trong

thực tiễn đời sống xã hội.

Bằng trải nghiệm của một người trí thức được đào tạo dưới nền học vấn

của người Pháp, đã từng sống, làm việc dưới chế độ thực dân; cách mạng

thành công đi theo tiếng gọi của dân tộc và Hồ Chí Minh, ông làm việc trong

chế độ xã hội mới, đi cùng sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Được sự tin

Page 27: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

22

tưởng, dìu dắt của Hồ Chí Minh; được sống, làm việc gần và trực tiếp với Hồ

Chí Minh, Nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo, Nguyên Bộ trưởng Bộ

Tư pháp nước Việt Nam DCCH, Vũ Đình Hòe cho rằng “pháp quyền của

nhân nghĩa là cái đặc sắc nhất trong tư tưởng nhân nghĩa của Người”, trong

đó mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật là một nội dung độc đáo trong tư

tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, tất cả vì độc lập và tự do, cái đạo lý và pháp

lý tự nhiên của dân tộc, của cá nhân công dân. Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh về nội dung giai cấp và tính nhân văn thống nhất với nhau. Pháp quyền

là vấn đề ở đời và làm người; ở đời và làm người là phải thương nước, thương

dân, thương nhân loại lao khổ bị áp bức, phải làm sao đóng góp vào việc làm

cho nước độc lập, dân được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ, đó

chính là đạo ở đời và đạo làm người cao cả; pháp quyền của Nhà nước ta phải

bảo vệ và thúc đẩy thực hiện cái đạo ở đời và đạo làm người ấy, đối với xã

hội Việt Nam cần lập lại trật tự là để tổ chức đời sống yên bình cho toàn dân;

thì chính quyền mới của nhân dân lại phải biết lợi dụng vai trò tổ chức của

pháp luật [46].

Tác giả Nguyễn Ngọc Sơn là một trong không nhiều tác giả có đưa ra

khái niệm pháp quyền: “Pháp quyền thực chất là một mô hình tổ chức xã hội

mà trong đó nhà nước cũng như mọi chủ thể khác trong xã hội phải chịu sự

cương tỏa của quyền lực pháp luật” [111, tr.25]. Tác giả cho rằng, Hồ Chí

Minh không chỉ yêu cầu Nhà nước phải theo chế độ pháp quyền, mà yêu cầu

pháp quyền đối với toàn xã hội; pháp quyền trong công quyền và trong xã hội

công dân. Pháp quyền trong công quyền thì công quyền là đối tượng chịu sự

kiểm soát của pháp luật. Pháp quyền trong xã hội công dân thì công dân là

chủ thể sử dụng quyền lực của pháp luật để bảo vệ các quyền và tự do của

mình [111]. Như vậy, Nguyễn Ngọc Sơn là một trong các nhà nghiên cứu đã

nhìn nhận tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh theo nghĩa rộng. Nhưng cơ bản

Page 28: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

23

vẫn tập trung vào vai trò của pháp luật, đặc biệt trong việc kiểm soát quyền

lực Nhà nước.

Các tác giả Nguyễn Bá Dương, Trần Hậu Thành và Lê Thị Hoài Thanh

đã khái quát hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng NNPQ, tập trung vào các

vấn đề: 1. NNPQ - theo Hồ Chí Minh - trước hết phải được tổ chức và hoạt

động theo pháp luật, đảm bảo tính tối cao của pháp luật trong mọi lĩnh vực

của đời sống xã hội; 2. Trong “phép trị nước” của Hồ Chí Minh, “đức trị”,

“nhân trị” và “pháp trị” đều có vị trí quan trọng; 3. Thống nhất đạo đức và

pháp luật trong quan niệm về NNPQ của Hồ Chí Minh; 4. Một chính quyền

mạnh mẽ và sáng suốt - theo Hồ Chí Minh - phải là một NNPQ của nhân dân,

do nhân dân và vì nhân dân, 5. NNPQ còn là một Nhà nước của khối đại đoàn

kết dân tộc Việt Nam [22]. Các tác giả đã nêu được những nội dung cơ bản

của NNPQ, nhưng vẫn chưa phân nội dung pháp quyền và bản chất, nền tảng

của Nhà nước.

Tác giả Song Thành cho rằng Hồ Chí Minh đề cao vai trò của pháp luật

trong quản lý nhà nước và làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế; đề cập

đến pháp chế XHCN; đề cập đến vấn đề kết hợp đạo đức và pháp luật [121].

Nhìn một cách khái quát tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh theo cách luận

giải của tác giả vẫn nhấn mạnh vào pháp quyền là một công cụ hữu hiệu trong

quản lý nhà nước, khái niệm pháp chế và pháp quyền dùng thay thế lẫn nhau.

Trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền

kiểu mới ở Việt Nam [3], do Phạm Ngọc Anh và Bùi Đình Phong chủ biên, là

một trong rất ít công trình nghiên cứu công phu và đã hệ thống hóa khá toàn

diện tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Tuy các tác giả không trực tiếp đề

cập đến khái niệm pháp quyền, nhưng những vấn đề, những nội dung tư

tưởng pháp quyền Hồ Minh đã được các tác giả đề cập đến: quá trình hình

thành và phát triển; quan niệm về Nhà nước, bản chất Nhà nước, vai trò của

pháp luật trong quản lý xã hội (pháp luật là cơ sở thực hiện các quyền tự do

Page 29: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

24

dân chủ; cơ sở đảm bảo quyền làm chủ Nhà nước của nhân dân; pháp luật là

công cụ ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực của các cơ quan nhà nước

và các cá nhân được Nhà nước giao quyền; là cơ sở tạo cho xã hội có trật tự,

kỷ cương theo đường lối của giai cấp cầm quyền; là công cụ ngăn chặn tính

trạng công dân xâm phạm quyền và lợi ích của nhau); những điều kiện đảm

bảo tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật; trên cơ sở đó các tác giả nêu

ra sự vận dụng và phát triển.

* Bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành

Phạm Ngọc Anh cho rằng trong quan niệm của Hồ Chí Minh, pháp

luật có những vai trò: Cơ sở thực hiện các quyền tự do dân chủ; cơ sở đảm

bảo quyền làm chủ Nhà nước của nhân dân; ngăn chặn tình trạng lạm dụng

quyền lực của các cơ quan nhà nước và các cá nhân được Nhà nước giao

quyền; tạo cho xã hội có trật tự, kỷ cương theo đường lối của giai cấp cầm

quyền; ngăn chặn tình trạng công dân xâm phạm quyền và lợi ích của nhau

[2]. Tác giả nhấn mạnh vai trò của pháp luật, một nội dung quan trọng trong

tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

Vũ Hoàng Công luận giải những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí

Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước do dân bầu và dân kiểm

soát được. Phải có Hiến pháp dân chủ, được nhân dân chấp nhận, làm khuân

phép cho hoạt động của Nhà nước, của người cầm quyền, đồng thời khẳng

định tự do và các quyền cơ bản khác của con người, của công dân. Công chức

nhà nước là công bộc của dân. Nhà nước được tổ chức thống nhất và có hiệu

lực từ trung ương đến địa phương. Nhà nước phải trong sạch, không quan

liêu, tham ô, lãng phí [12]. Tác giả đã đề cập tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh từ phương diện bản chất nhà nước.

Nguyễn Hữu Đổng đề cập đến tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh dưới

góc độ kiểm soát quyền lực nhà nước. Tác giả khẳng định Hồ Chí Minh cho

rằng quyền lực nhà nước cần phải kiểm soát, dùng phép luật của nhân dân để

Page 30: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

25

ngăn cản những hành động có hại cho nhân dân, để bảo vệ lợi ích chung của

đại đa số nhân dân. Tác giả phân tích những cách kiểm soát quyền lực nhà

nước: kiểm soát từ bên trong Nhà nước, từ chính bộ máy, cách thức tổ chức

bộ máy nhà nước; kiểm soát từ bên ngoài Nhà nước, từ phía các tổ chức chính

trị, xã hội, nghề nghiệp và từ phía dân chúng; kiểm soát của Đảng [34].

Ngô Ngọc Thắng cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ được thể

hiện trên những quan điểm cơ bản sau: NNPQ phải là Nhà nước dân chủ;

nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, Nhà nước là

công cụ phục vụ nhân dân. Nhà nước tôn trọng pháp luật, được tổ chức và

hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp

luật. Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả. Nhà nước do Đảng Cộng sản

lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân

và tính dân tộc rộng rãi [116]. Tác giả chưa phân định một cách rõ tư tưởng

pháp quyền Hồ Chí Minh với tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất nhà nước.

Một hướng nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh được quan

tâm, đó là qua những bản Hiến pháp của nước Việt Nam DCCH khi Người

giữ vai trò đứng đầu Nhà nước, là người khởi xướng việc xây dựng, sửa đổi

Hiến pháp (chủ thể sáng kiến lập hiến) và đồng thời là Trưởng Ban soạn thảo

những Hiến pháp đó. Ở hướng nghiên cứu này có thể kể đến: Văn Thị Thanh

Hương với bài: Dấu ấn Hồ Chí Minh: từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp

năm 1959 [55]; Cao Hải Yến với bài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng

Nhà nước của dân, do dân, vì dân tại Hiến pháp năm 1946 [152]; Nguyễn Thị

Thu với bài: Về sách "Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa" trưng

bày tại nhà sàn [127]; Nguyễn Mạnh Hùng với bài: Nhân tố pháp quyền trong

Hiến pháp năm 1946 và những giá trị cần kế thừa [49]; Đỗ Đức Huỳnh với

bài: Chủ tịch Hồ Chí Minh với bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam

dân chủ cộng hòa (Hiến pháp - 1946) [56]; Văn phòng Quốc hội với sách:

Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam

Page 31: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

26

[145]... Trong hướng nghiên cứu này tiêu biểu có bài: Hiến pháp năm 1946

với tư tưởng pháp quyền của Nguyễn Sỹ Dũng [19], tác giả đã phân tích tư

tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh trong bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam

(Hiến pháp năm 1946). Tác giả khẳng định Hiến pháp năm 1946 thể hiện

những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền

không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ, đó chính

là tinh thần căn bản của pháp quyền. Trước hết, để lạm quyền không thể xảy

ra thì Hiến pháp đã được đặt cao hơn Nhà nước; các quyền của người dân

được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm; Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thì cao

hơn là Nhà nước ghi nhận và bảo đảm; vì rằng nếu Nhà nước ghi nhận và bảo

đảm thì quyền chủ động là thuộc Nhà nước, nhưng nếu Hiến pháp ghi nhận và

bảo đảm thì Nhà nước không có quyền chủ động; quyền năng giữa các cơ

quan nhà nước được phân chia khá rõ và nhiều cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn

nhau đã được thiết kế; quyền năng giữa chính quyền trung ương và chính

quyền địa phương cũng được phân chia rất rõ; vai trò độc lập xét xử của Toà

án được bảo đảm.

Nguyễn Thanh Tuấn trong bài Dân chủ và nhân quyền theo tư tưởng

Hồ Chí Minh [138], đã chỉ ra Hiến pháp năm 1946 bên cạnh những giá trị thì

cũng còn hạn chế trong phương diện pháp lý và thực tiễn. Tác giả khẳng định

trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến Hiến pháp năm

1992 sửa đổi năm 2001, Hiến pháp năm 1946 được đánh giá là có nhiều qui

định tiến bộ, đặc biệt là trên phương diện tổ chức quyền lực Nhà nước. Nhiều

sửa đổi của pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng đang theo hướng trở về

với những giá trị của Hiến pháp năm 1946. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra hạn

chế của Hiến pháp năm 1946, trên phương diện thực tế bản Hiến pháp này

chưa được hiện thực hóa đầy đủ, chưa được Chủ tịch nước ký lệnh công bố.

Nguyên nhân là không lâu sau khi Hiến pháp được thông qua, đất nước xảy ra

chiến tranh.

Page 32: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

27

Một hướng nghiên cứu khác về tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, đó

là thông qua Tuyên ngôn Độc lập do Người soạn thảo và tuyên bố năm 1945.

Trong hướng nghiên cứu này có thể kể tới: Nguyễn Thị Thu Trang với bài:

Tuyên ngôn Độc lập - cơ sở pháp lý đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ

cộng hòa [132]; Phùng Văn Tửu với bài: Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 - văn

bản pháp lý - chính trị, nền tảng của nước Việt Nam mới [141]... Trong đó

tiêu biểu, tác giả Nguyễn Sỹ Dũng với bài: Nguồn cội của pháp quyền [20],

đã khẳng định Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là cội nguồn của tư

tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, văn bản chính trị - pháp lý nền tảng của

nước Việt Nam mới. Vấn đề cốt lõi của pháp quyền là pháp luật về quyền.

Pháp luật phân định và bảo vệ các quyền: quyền của các công dân và quyền

của Nhà nước, quyền của các nhánh quyền lực Nhà nước như lập pháp, hành

pháp và tư pháp. Tư duy pháp lý bao trùm ở đây là: quan hệ xã hội được xây

dựng trên cơ sở của các quyền. Quyền của chủ thể này có thể là nghĩa vụ của

chủ thế khác. Pháp luật điều chỉnh và phân định các quyền này. Theo Tuyên

ngôn Độc lập năm 1945 các quyền của con người là bất khả xâm phạm, Nhà

nước đề ra hệ thống các nguyên tắc và thủ tục để bảo vệ các quyền của con

người được gọi là pháp quyền. Trên thực tế, những quyền được nêu ra trong

bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là phần cấu thành quan trọng nhất của

Hiến pháp năm 1946.

Một số tác giả khác đề cập tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh từ một

góc độ nào đó, như: bản chất Nhà nước; cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước;

cách thức lập ra Nhà nước; đề cao vai trò của pháp luật; mối quan hệ giữa đạo

đức và pháp luật... Trong đó có thể kể đến một số tác giả: Trần Nam Chuân

với bài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước kiểu mới [10]; Văn Thị

Thanh Hương với bài: Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng Nhà nước của

dân, do dân, vì dân [54]; Lê Huy Bình với bài: Cống hiến của Chủ tịch Hồ

Page 33: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

28

Chí Minh về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam [6]; Vũ Văn Hiển với bài: Tư

tưởng pháp luật Hồ Chí Minh với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa

ở Việt Nam hiện nay [45]; Nguyễn Thị Thu Hường với bài: Tư tưởng Hồ Chí

Minh về quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội [51];

Nguyễn Văn Mạnh với bài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới ở

Việt Nam [70]; Trần Nghị với bài: Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí

Minh về pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta [89]; Bùi Ngọc

Sơn với bài: Chủ tịch Hồ Chí Minh với thiết chế Chủ tịch nước ở Việt Nam

[112]; Lưu Văn Sùng với bài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về thể chế chính trị

[114]; Song Thành với bài: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh - Sự thống

nhất giữa đức trị và pháp trị [120].

Những công trình nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh của

các tác giả nêu trên là nguồn tài liệu rất quan trọng để tác giả thực hiện luận

án “Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh”. Những kết quả đạt được trong các

công trình nghiên cứu trên một phần được kế thừa trong luận án; đồng thời là

những gợi mở về những điểm mới của luận án.

1.2. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.2.1. Những vấn đề đã đƣợc nghiên cứu

Qua nghiên cứu, đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu liên

quan đến tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam, tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh, tác giả luận án nhận thấy các công trình đã đề cập những vấn đề sau:

Thứ nhất, các nhà nghiên cứu đều thống nhất tư tưởng pháp quyền là

một giá trị nhân văn mang tính phổ quát toàn nhân loại, mặc dù được định

hình và phát triển cả về phương diện lý luận và thực tiễn trong chế độ tư bản

chủ nghĩa. Tư tưởng pháp quyền trở thành một giá trị hướng tới, trở thành

một chuẩn mực, thước đo đối với xã hội hiện đại.

Page 34: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

29

Thứ hai, các nghiên cứu đã tập trung lý giải về tính tất yếu của việc xây

dựng NNPQ ở Việt Nam. Đặc biệt trong, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước, trong bối cảnh Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế, hội

nhập quốc tế ngày càng sâu, yêu cầu thực tiễn đó đặt ra Việt Nam phải có

những tương đồng về thể chế pháp luật, cũng như ứng xử phù hợp với thông

lệ quốc tế, các tiến bộ mà nhân loại đã đạt được. Đặt ra yêu cầu tất yếu xây

dựng NNPQ ở Việt Nam.

Thứ ba, các nghiên cứu đã thống nhất và khẳng định Hồ Chí Minh là

một trong những người đặt nền móng cho pháp quyền Việt Nam hiện đại; đặc

biệt là người đi đầu trong việc hiện thực hóa tư tưởng pháp quyền ở Việt

Nam. Thống nhất và khẳng định có tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh; hệ

thống tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh và thực tiễn pháp quyền Việt Nam

dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh còn giá trị tới ngày nay, có tác dụng định

hướng cho pháp quyền Việt Nam hiện tại và tương lai.

Thứ tư, các công trình nghiên cứu đã đề cập tới từng mặt hoặc một số

phương diện, khía cạnh trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, như: khái

niệm; nguồn gốc; quá trình hình thành và phát triển; nội dung; giá trị. Việc

nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh với tư cách là một hệ thống

chỉnh thể thống nhất chưa được quan tâm đúng mức. Tính hệ thống hóa chưa

cao, chưa đầy đủ và chưa toàn diện. Có những nội dung sự phân tích, lý giải

và đánh giá chưa đầy đủ, toàn diện. Đó là những vấn đề mà các nhà nghiên

cứu cần tiếp tục, trong đó có tác giả của luận án này.

Thứ năm, các công trình nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh

chủ yếu tập trung và nhấn mạnh pháp quyền trong công quyền, chưa tập trung

và nhấn mạnh pháp quyền trong xã hội công dân, xã hội dân sự, tức là pháp

quyền trong toàn xã hội, nói theo tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là “thần

linh pháp quyền” còn thiếu. Pháp quyền chủ yếu tập trung và nhấn mạnh dưới

Page 35: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

30

góc độ là công cụ, phương tiện trong quản lý nhà nước; chưa tập trung và

nhấn mạnh pháp quyền thấm sâu vào đời sống xã hội, thấm sâu vào quốc dân

đồng bào; pháp quyền trở thành nề nếp, thói quen, lối ứng xử tự nhiên của con

người. Một tầng sâu, một trình độ cao và một chất mới của pháp quyền Hồ

Chí Minh. Đây là một vấn đề mà các nhà nghiên cứu cần tiếp tục, trong đó có

tác giả của luận án này.

1.2.2. Những vấn đề đặt ra đƣợc luận án tiếp tục nghiên cứu

Trên cơ sở kế thừa những thành tựu và giá trị trong các công trình

nghiên cứu tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam và tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh của các tác giả đi trước, tác giả của luận án tiếp tục nghiên cứu tư tưởng

pháp quyền Hồ Chí Minh ở những vấn đề sau:

Thứ nhất, xác định các khái niệm pháp luật, pháp chế, pháp quyền, Nhà

nước pháp quyền, khái niệm tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh và nội dung

tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh;

Thứ hai, phân tích cơ sở hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh,

bao gồm: cơ sở thực tiễn, những tiền đề lý luận và nhân tố chủ quan;

Thứ ba, phân tích, luận giải nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh với tư cách là một hệ thống chỉnh thể thống nhất, hệ thống hóa nội dung

cơ bản trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, chỉ ra những nét độc đáo,

sáng tạo trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, bao gồm, tư tưởng về: vai

trò của pháp luật; phương thức thực hiện pháp quyền; điều kiện thực hiện

pháp quyền.

Thứ tư, rút một số giá trị tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh tham chiếu

đối với việc xây dựng NNPQ XHCN hiện nay, bao gồm: kiểm soát quyền lực

nhà nước; pháp luật thể hiện ý nguyện của nhân dân; chủ quyền nhân dân đối

với các vấn đề quan trọng của quốc gia; các quyền hiến định của công dân;

xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt.

Page 36: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

31

Tiểu kết chƣơng 1

Khái niệm pháp quyền có nội dung rộng, được các nhà nghiên cứu đề

cập đến trên nhiều khía cạnh, trên thế giới, tùy từng khu vực, tùy từng quốc

gia có điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, có cách hiểu khác nhau. Ở Việt

Nam, pháp quyền dưới góc độ lý luận chung không được đề cập nhiều, chủ

yếu từ những vấn đề thực tiễn trên thế giới và của Việt Nam các nhà tư tưởng,

các nhà chính trị và các nhà nghiên cứu nêu ra những giá trị, những vấn đề đặt

ra, đề xuất giải pháp đối với việc xây dựng NNPQ XHCN. Tư tưởng pháp

quyền Hồ Chí Minh được các nhà nghiên cứu đề cập trên những khía cạnh:

khái niệm, nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển, nội dung, giá trị. Tính

hệ thống, tính đầy đủ chưa cao; có nội dung sự phân tích, lý giải và đánh giá

chưa đầy đủ, chưa toàn diện. Vấn đề pháp quyền nói chung và tư tưởng pháp

quyền Hồ Chí Minh nói riêng cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ và vận

dụng vào xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam.

Page 37: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

32

Chƣơng 2

KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG

PHÁP QUYỂN HỒ CHÍ MINH

2.1. KHÁI NIỆM

2.1.1. Khái niệm pháp luật

Các nhà tư tưởng phương Tây đưa ra quan điểm về pháp luật tự nhiên

và pháp luật thực định. Pháp luật tự nhiên là khái niệm tư tưởng chính trị và

pháp quyền dùng để chỉ một hệ thống pháp luật lý tưởng, xuất phát từ bản

tính con người, lấy lý trí con người làm nền tảng, không phụ thuộc vào Nhà

nước và các điều kiện xã hội. Tư tưởng pháp luật tự nhiên có từ thời cổ đại:

Platon, Aristote, Cicéron, Socrat... Nhưng được lưu hành rộng rãi vào thời kỳ

Cách mạng tư sản ở châu Âu (thế kỷ 17 - 18), được coi là vũ khí tư tưởng của

giai cấp tư sản chống lại sự chuyên chế phong kiến, tư tưởng pháp luật tự

nhiên được phát triển qua các tác phẩm của J.Locke, J.J.Rousseua, C.L. de

Mongtesquiue, D.Diderot, A.N.Radishev. Từ thế kỷ 19 trở đi khái niệm pháp

luật tự nhiên được thay thế bằng khái niệm pháp luật thực định. Pháp luật

thực định là tổng thể các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước ở mỗi quốc

gia ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong khoa học pháp lý sử

dụng khái niệm pháp luật thực định để phân biệt với pháp luật tự nhiên.

K.Marx và F.Engels trong: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đưa ra

quan điểm: “pháp quyền của các ông chỉ là ý chí của các ông được đề lên

thành luật, cái ý chí mà nội dung là do điều kiện sinh hoạt vật chất của giai

cấp các ông quy định” [68, tr.619]. Quan điểm K.Marx và F.Engels đối với

pháp luật tư sản dựa trên sự khái quát hóa, trừu tượng hóa rất cao, chỉ tập

trung vào điểm cốt lõi và xét đến cùng, quan điểm trên có ý nghĩa phương

pháp luận. Thứ nhất, khi nghiên cứu và quan niệm về pháp luật phải thấy bản

chất giai cấp của pháp luật; pháp luật mang bản chất của giai cấp thống trị về

Page 38: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

33

chính trị, về kinh tế. Thứ hai, khi nghiên cứu và quan niệm về pháp luật phải

thấy cơ sở vật chất của pháp luật. Khái niệm về pháp luật trên được K.Marx

và F.Engels đưa ra dưới góc độ triết học.

Quan điểm của K.Marx và F.Engels được V.I.Lenin kế thừa, phát triển

và vận dụng vào thực tiễn xây dựng XHCN ở nước Nga. V.I.Lenin khẳng

định lại quan điểm của K.Marx: “Pháp quyền không bao giờ có thể cao hơn

chế độ kinh tế và trình độ phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế

quyết định” [57, tr.115]. Đồng thời, qua thực tiễn xây dựng chế độ xã hội

mới, thời kỳ quá độ lên CNXH, V.I.Lenin thấy vai trò quan trọng của pháp

luật đối với đời sống xã hội, ông nêu quan điểm cần phải có pháp luật để quản

lý xã hội. V.I.Lenin cho rằng: “Pháp quyền ấy vẫn còn tồn tại với tư cách là

yếu tố điều tiết việc phân phối sản phẩm và phân phối lao động giữa những

thành viên trong xã hội” [57, tr.114].

Trong sách Từ điển triết học do M.Rodentan và P.Iudin chủ biên, chịu

sự chi phối của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra quan niệm về pháp luật tập

trung và nhấn mạnh vào bản chất giai cấp của pháp luật, chịu sự quy định và

phản ánh quan hệ kinh tế [109].

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin chi phối quan niệm về pháp luật

ở Việt Nam từ khi chế độ xã hội mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm

1945 thành công, vai trò chi phối này ở các mức độ khác nhau tùy điều kiện

lịch sử.

Trong sách Từ điển bách khoa Việt Nam nêu khái niệm: “Pháp luật là

hệ thống các quy phạm xã hội có tính bắt buộc chung thể hiện ý chí của giai

cấp thống trị đề lên thành luật và được bảo vệ bằng quyền lực nhà nước” [48,

tr.420]. Khái niệm này đã đưa khái niệm pháp luật với một khái niệm rộng

hơn là khái niệm quy phạm xã hội, quy phạm xã hội có thể gồm đạo đức, tôn

giáo... chỉ ra các đặc tính riêng của quy phạm pháp luật: được Nhà nước thừa

Page 39: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

34

nhận hoặc đề lên thành luật, mang bản chất giai cấp, mang tính cưỡng chế,

tính bắt buộc, được đảm bảo bằng Nhà nước.

Trong giới nghiên cứu và giảng dạy pháp luật tại Việt Nam, có đưa

ra khái niệm về pháp luật, trong đó có thể kể tới Hoàng Thị Kim Quế với

khái niệm:

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung

do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai

cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã

hội, được đảm bảo thực hiện bằng Nhà nước nhằm điều chỉnh các

quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát

triển bền vững của xã hội [103, tr.288].

Trong khái niệm này, bên cạnh sự tương đồng với nội dung của những

quan niệm đã trình bày trên, tác giả bổ sung thêm hai điểm: một là, tính xã hội

của pháp luật; hai là, mục tiêu của pháp luật nhằm mục đích phát triển bền

vững xã hội, mục đích nhân văn, tiến bộ của pháp luật.

Từ các phân tích trên, có thể khái quát những nội dung của khái niệm

pháp luật gồm: pháp luật là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực hành vi ứng xử

mang tính phổ biến; pháp luật phải do Nhà nước ban hành, thừa nhận, Nhà

nước là chủ thể trực tiếp ban hành, thừa nhận; pháp luật mang tính cưỡng chế,

là những quy tắc, chuẩn mực hành vi ứng xử mang tính bắt buộc phải tuân

theo, được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh Nhà nước; đối với pháp luật

tiến bộ mục đích của pháp luật đảm bảo trật, ổn định và phát triển bền vững

của xã hội.

Từ tất cả sự phân tích trên, luận án đưa ra khái niệm về pháp luật như

sau: Pháp luật là hệ thống quy tắc hành vi xử sự xã hội mang tính phổ biến,

do Nhà nước quy định và đảm bảo thực thi, điều chỉnh quan hệ xã hội nhằm

đảm bảo trật tự, ổn định và tiến bộ xã hội.

Page 40: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

35

2.1.2. Khái niệm pháp chế

Trong khoa học pháp lý Việt Nam có khái niệm pháp chế và pháp chế

XHCN. Có nhiều khái niệm khác nhau về pháp chế.

Trong sách Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ nêu khái niệm: Pháp

chế là chế độ trong đó đời sống và hoạt động xã hội được bảo đảm bằng pháp

luật [149, tr.985]; trong sách Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học do

Hoàng Phê và các cộng sự đưa ra khái niệm về pháp chế tương tự như trên

[99]. Khái niệm pháp chế ở đây theo nghĩa rộng, nhấn mạnh đến vai trò của

pháp luật đối với toàn bộ xã hội, để có pháp chế điều kiện cần là có hệ thống

pháp luật đầy đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Theo Phạm Hữu Nghị quan niệm về pháp chế nhấn mạnh đến một hệ

thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội; sự tuân thủ pháp

luật của toàn xã hội, gồm: Nhà nước, mọi tổ chức xã hội và cá nhân công dân

[88]. Quan niệm này nhấn mạnh đến thành tố quan trọng, như là điều kiện cần

và đủ của pháp chế là có hệ thống pháp luật và sự tuân thủ pháp luật.

Theo Nguyễn Minh Đoan quan niệm pháp chế chính là pháp luật,

nhưng pháp luật đang thực thi trong đời sống xã hội, tức là pháp luật đang

sống [32]. Tác giả khi quan niệm về pháp chế nhấn mạnh đến tính hiệu lực

của pháp luật trong đời sống xã hội, trong quan niệm này tác giả đòi hỏi một

trình độ cao tính hiệu lực của pháp luật, không chỉ hiểu hiệu lực của pháp luật

ở tính cưỡng chế, mà phải đạt tới ý thức tự giác. Quan niệm này về pháp chế

gần với quan niệm về pháp quyền.

Theo Bùi Xuân Đức quan niệm pháp chế là một trật tự pháp luật trong

đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải

tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để, thống nhất

[1]. Trong quan niệm về pháp chế, tác giả nhấn mạnh đến sự tuân thủ pháp

Page 41: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

36

luật của toàn xã hội, các đặc trưng trong thực hiện pháp luật, quan niệm này

về pháp chế có những điểm tương đồng với quan niệm về pháp chế.

Pháp chế XHCN là chế độ tuân thủ nghiêm chỉnh và chính xác Hiến

pháp, luật của mọi chủ thể trong các quan hệ pháp luật. Đây là, một trong

những nguyên tắc cơ bản của pháp luật XHCN. Nguyên tắc này cũng được

coi là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ

máy nhà nước ở Việt Nam. Trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp cần

triệt để tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Nguyên

tắc pháp chế XHCN đòi hỏi phải đảm bảo các yêu cầu: tính thống nhất, đồng

bộ của hệ thống pháp luật, trong hệ thống pháp luật thượng tôn Hiến pháp và

luật; thừa nhận và bảo vệ có hiệu quả các quyền công dân; tuân thủ, chấp

hành pháp luật trong toàn xã hội; xử lý kịp thời, công minh hành vi vi phạm

pháp luật; đảm bảo hợp pháp, hợp lý và hợp tình; hệ thống pháp luật đảm bảo

cần và đủ cho việc điều chính các quan hệ xã hội. Như vậy, khái niệm pháp

chế có những nội dung tương đồng với khái niệm pháp chế.

Từ tất cả sự phân tích trên luận án đưa ra khái niệm về pháp chế như

sau: Pháp chế là chế độ pháp luật được thực thi một cách nghiêm minh đối

với mọi chủ thể trong xã hội.

2.1.3. Khái niệm pháp quyền

Trong các nghiên cứu ở Việt Nam về triết học, khoa học pháp lý, khoa

học chính trị, Hồ Chí Minh học... có đề cập đến khái niệm pháp quyền. Khái

niệm pháp quyền được sử dụng là công cụ để các tác giả đề cập đến nội dung

nghiên cứu.

Bùi Ngọc Sơn khẳng định pháp quyền là một lý thuyết của phương

Tây, trong thế kỷ XX, nó lan tỏa và có tầm ảnh hưởng rộng lớn tới khắp các

châu lục. Tác giả đưa ra quan điểm: “Pháp quyền thực chất là một mô thức tổ

chức xã hội mà trong đó Nhà nước cũng như mọi chủ thể khác trong xã hội

phải chịu sự cương tỏa của quyền lực pháp luật” [111, tr.25]. Tác giả cho rằng

Page 42: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

37

thực chất pháp quyền là quyền của pháp luật trong toàn bộ đời sống xã hội,

pháp luật trở thành tối cao, không chỉ dừng lại ở khâu Nhà nước áp dụng pháp

luật, mà trở thành “thần linh”. Tức là pháp luật được tôn trọng đến trình độ có

tính linh thiêng. Đến đây, đặt ra một câu hỏi: cái gì, yếu tố nào tạo nên tính

linh thiêng của pháp luật, khi trả lời được câu hỏi đó là chỉ ra được cốt lõi của

pháp quyền.

Hoàng Văn Nghĩa dẫn quan niệm về pháp quyền trong Báo cáo của

Tổng thư ký Liên hợp quốc về NNPQ và tư pháp chuyển đổi trong các xã hội

xung đột và hậu xung đột: Pháp quyền là một nguyên tắc quản trị mà ở đó, tất

cả các cá nhân, cơ quan và tổ chức, công và tư pháp, bao gồm cả Nhà nước, là

phải giải trình trước pháp luật được ban hành một cách công khai, được thực

thi một cách bình đẳng và được xét xử một cách độc lập, phù hợp với các quy

phạm và tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế. Cũng như nó đòi hỏi về các biện

pháp đối với việc đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc tính tối cao của pháp luật,

sự bình đẳng trước pháp luật, trách nhiệm giải trình trước pháp luật, tính công

bằng trong áp dụng pháp luật, phân chia quyền lực, tham gia vào việc ra quyết

định, đảm bảo pháp lý, tránh sự tùy tiện và sự minh bạch về thủ tục, về pháp

lý [91]. Đây là quan niệm pháp quyền theo nghĩa rộng, hàm chứa nhiều giá trị

của khoa học pháp lý hiện đại. Quan niệm như vậy, coi pháp quyền là một

phương thức tổ chức xã hội hiện đại, văn minh và tiến bộ.

Nguyễn Đăng Dung cho rằng thuật ngữ pháp quyền (The Rule of Law)

dùng để chỉ cả một xã hội được tổ chức và vận hành trên cơ sở các quyền

được pháp luật quy định rạch ròi theo luật của tự nhiên, sao cho các chủ thể

sử dụng quyền của mình một cách tự do để có khả năng nâng cao sự hạnh

phúc của mình, nhưng lại không xâm phạm sang quyền của các chủ thể khác

[18]. Tác giả đề cao vai trò của pháp luật, nhưng là pháp luật để phục vụ cho

con người, đem lại quyền cho con người, đem lại hạnh phúc cho con người.

Page 43: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

38

Trên cơ sở kế thừa kết quả đạt được trong các công trình đã công bố,

luận án đưa ra khái niệm về pháp quyền: Pháp quyền là nguyên tắc tổ chức và

hoạt động xã hội đề cao pháp luật, đảm bảo công bằng, quyền con người và

tiến bộ xã hội.

Nói đến pháp quyền là phải nói đến Nhà nước và pháp luật, theo quan

điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin Nhà nước và pháp luật mang bản chất giai

cấp, do vậy pháp quyền mang bản chất giai cấp; Nhà nước, pháp luật không

chỉ mang nguyên bản chất giai cấp, còn mang bản chất xã hội. Nhà nước,

pháp luật chỉ phục vụ quyền, lợi ích của một giai cấp thì sớm hay muộn Nhà

nước, pháp luật đó sẽ bị loại bỏ và thay thế bằng một Nhà nước, pháp luật

khác. Diễn trình lịch sử nhân loại đa dạng, phức tạp, có bước quanh co, thậm

chí thụt lùi, nhưng xu hướng chung là tiến bộ, phát triển. Lịch sử Nhà nước và

pháp luật của mỗi quốc gia và toàn nhân loại cũng nằm trong tiến trình chung

không ngừng tiến bộ và phát triển. Trong tiến trình phát triển của lịch sử Nhà

nước và pháp luật, tư tưởng pháp quyền thể hiện xu thế tiến bộ và phát triển.

Pháp quyền là một giá trị văn minh, tiến bộ của Nhà nước, của pháp luật.

Trước hết, pháp quyền được hiểu đó là quyền của pháp luật. Pháp luật

do Nhà nước ban hành để bảo vệ quyền và lợi ích trước hết của giai cấp nắm

Nhà nước, giai cấp thống trị về chính trị, về kinh tế. Do đó, quyền đầu tiên

của pháp luật là bảo vệ giai cấp thống trị, đi liền với đó là quyền giàng buộc

các giai cấp còn lại trong khuôn khổ, trong vòng trật tự, trừng trị nặng những

hành vi xâm hại, đe dọa địa vị của giai cấp thống trị. Quyền này của pháp luật

thấy rõ trong pháp luật chiếm hữu nô lệ và pháp luật phong kiến, nhưng đó

chưa phải là pháp quyền, chưa đạt đến pháp quyền.

Kiểu pháp luật tư bản chủ nghĩa, quyền thống trị giai cấp của pháp luật

vẫn còn, bên cạnh đó xuất hiện tư tưởng quyền của pháp luật với chính Nhà

nước, với các nhân viên nhà nước; đặc biệt khi chủ nghĩa lập hiến ra đời, yêu

cầu Nhà nước đặt dưới pháp luật, khi đó pháp quyền ra đời. Nhà nước và

Page 44: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

39

pháp luật không chỉ phục vụ một giai cấp, mà phục vụ toàn xã hội. Tư tưởng

pháp quyền hiện nay đã đạt đến Nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật

cho phép, cá nhân công dân có quyền làm những điều pháp luật không cấm;

nghĩa vụ giải trình của Nhà nước, nhân viên nhà nước. Như vậy, đến hiện nay,

quyền của pháp luật đã mở rộng ra toàn xã hội, không còn vùng cấm đối với

pháp luật.

Thứ hai, pháp quyền được hiểu là pháp luật về quyền. Pháp luật ghi

nhận và đảm bảo các quyền tự nhiên của con người, dưới góc độ quốc gia -

dân tộc, quốc gia - dân tộc có quyền; dưới góc độ cá nhân, có quyền con

người. Pháp luật về quyền của quốc gia - dân tộc, đó là pháp quyền quốc tế,

pháp quyền dân tộc; pháp luật về quyền con người, quyền công dân đó là

pháp quyền dân chủ. Pháp luật phải được xây dựng theo những trình tự nhất

định và thể hiện dưới hình thức nhất định do luật quy định. Pháp luật khi áp

dụng phải tuân thủ theo trình tự thủ tục nhất định theo do luật quy định.

Thứ ba, mục tiêu của pháp quyền là đảm bảo trật tự, ổn định và hướng

tới tiến bộ, phát triển xã hội. Pháp quyền dân tộc hay pháp quyền dân chủ

mục tiêu đầu tiên, trước hết là duy trì trật tự hiện tồn; trong thế giới hiện nay

pháp quyền còn phải hướng tới sự tiến bộ, phát triển xã hội. Pháp quyền lấy

con người làm trung tâm, xuất phát từ con người, vì con người, xu thế không

thể đảo ngược. Đích cuối cùng của pháp quyền là mỗi cá nhân người có tự do,

công bằng, công lý và hạnh phúc.

2.1.4. Khái niệm Nhà nƣớc pháp quyền

Tư tưởng pháp quyền có nguồn gốc từ châu Âu và được du nhập vào

Việt Nam từ đầu thế kỷ XX, trong hoàn cảnh Việt Nam là một quốc gia thuộc

địa, chế độ quân chủ chuyên chế vẫn tồn tại, do đó không có điều kiện phát

triển cả về lý luận và thực tiễn. Đến giữa thế kỷ XX, với thắng lợi của Cách

mạng tháng Tám năm 1945, với sự ra đời của nước Việt Nam DCCH tư tưởng

pháp quyền được hiện thực hóa. Đến thập niên cuối của thế kỷ XX, vấn đề

Page 45: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

40

pháp quyền được đề cập trở lại và được Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng

trong các Văn kiện của Đảng với tên gọi NNPQ, NNPQ XHCN của nhân dân,

do nhân dân, vì nhân dân. Khái niệm này được sử dụng chính thức và trở nên

phổ biến trong xã hội Việt Nam.

Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII) xác

định: "Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện NNPQ Việt Nam” [26,

tr.224]. Như vậy, đây là lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng chính thức nêu

trực tiếp và cụ thể vấn đề xây dựng NNPQ Việt Nam, trở thành chủ trương có

tầm chiến lược, bao trùm toàn bộ tổ chức, hoạt động của Nhà nước, trở thành

định hướng cho toàn bộ quá trình và nội dung đổi mới tổ chức, hoạt động của

Nhà nước. Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới,

Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tính tất yếu khách quan và cấp thiết của

việc xây dựng NNPQ XHCN; là một đặc trưng của xã hội XHCN; vừa tiếp

thu thành tựu của nhân loại về NNPQ, vừa thể hiện bản sắc, đặc điểm riêng

của Việt Nam [28, 29]. Quá trình tiếp cận, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt

Nam về NNPQ và xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam là một quá trình, gắn

liền với sự nghiệp đổi mới đất nước. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về NNPQ XHCN ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, cụ thể, đi vào

những vấn đề thực chất của tư tưởng pháp quyền. Quan điểm đó đã tiếp thu

những giá trị tư tưởng pháp quyền trên thế giới và trở về với tư tưởng pháp

quyền Hồ Chí Minh, trên cơ sở bám sát và đáp ứng được yêu cầu của thực

tiễn đất nước.

Theo Hoàng Văn Nghĩa dẫn quan niệm của Hội nghị quốc tế về NNPQ

của các nước sử dụng tiếng Pháp, tổ chức tại Benin vào tháng 9/1991: NNPQ

là một chế độ chính trị mà Nhà nước và cá nhân phải tuân thủ pháp luật.

Quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người đều được pháp luật nghi nhận và bảo

vệ, các quy trình và quy phạm pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng một hệ

thống tòa án độc lập. Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị của

Page 46: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

41

con người và đảm bảo cho công dân có khả năng, có điều kiện, chống lại sự

tùy tiện của cơ quan nhà nước bằng việc lập ra cơ chế kiểm tra tính hợp hiến

và hợp pháp của pháp luật cũng như các hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhà

nước pháp quyền phải đảm bảo cho công dân không bị đòi hỏi bởi những cái

ngoài Hiến pháp và pháp luật quy định. Trong hệ thống pháp luật thì Hiến

pháp giữ vị trí tối cao và nó phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo quyền tự

do và quyền công dân [91].

Theo Trần Ngọc Liêu, NNPQ là khái niệm dùng để chỉ xã hội tổ

chức theo cách quyền lực của nhân dân được thể chế hóa thành pháp luật

và được đảm bảo thực thi bằng bộ máy nhà nước cũng như các thiết chế

chính trị - xã hội khác nhằm mang lại quyền lợi cho nhân dân. Nhà nước

pháp quyền với tính cách là một khái niệm khác với mô hình nhà nước cụ

thể. Nhà nước pháp quyền phản ánh trình độ phát triển xã hội đạt tới quyền

lực nhân dân được tổ chức thành Nhà nước. Hình thức pháp quyền là pháp

luật thống trị Nhà nước và xã hội. Nội dung pháp quyền là quyền lực của

nhân dân, ý chí của nhân dân đề lên thành luật. Bản chất quan trọng nhất

của NNPQ là quyền lực của nhân dân được thể chế hóa thành pháp luật và

được đảm bảo thực thi bằng bộ máy nhà nước, cũng như các thiết chế chính

trị - xã hội khác nhằm mang lại quyền lợi cho nhân dân [61].

Theo Nguyễn Thị Việt Hương và Lê Thị Hương, NNPQ được hiểu là

cách thức sử dụng và biểu thị quyền lực của Nhà nước dân chủ, chống độc

đoán, chuyên quyền, mà nền tảng và đại lượng quan trọng nhất cho cách thức

thực thi quyền lực đó là luật pháp [53].

Theo Nguyễn Như Pháp, NNPQ một mặt là nguyên tắc, là học thuyết

tư tưởng để tổ chức, vận hành xã hội; mặt khác phản ánh những yêu cầu đối

việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, quyền lực xã hội trong bối

cảnh thượng tôn các giá trị dân chủ của pháp luật [96].

Page 47: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

42

Đào Trí Úc quan niệm NNPQ từ đòi hỏi về dân chủ và phương thức

thực hiện quyền lực, dân chủ là một đòi hỏi của xã hội văn minh, tiến bộ, dân

chủ trong mọi mặt của đời sống xã hội, cơ bản và trước tiên là trong chính trị.

Nhà nước pháp quyền là sự thống nhất giữa hai yếu tố Nhà nước và pháp luật.

Nhà nước pháp quyền có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật và hình

thức pháp lý của tổ chức quyền lực chính trị [142, 143].

Theo Lê Minh Tâm, NNPQ có những đặc điểm của Nhà nước nói

chung, đồng thời có những đặc điểm riêng trong mối quan hệ Nhà nước -

pháp luật - xã hội công dân; NNPQ không phải là một kiểu nhà nước, mà là

một mô hình nhà nước [115].

Theo Nguyễn Đăng Dung, NNPQ là một hình thức tổ chức nhà nước

mà cách thức tổ chức và hoạt động của nó đối nghịch với Nhà nước độc tài,

chuyên chế; đối nghịch với hình thức nhà nước được tổ chức theo phương

pháp nhân trị, pháp trị [15].

Theo Nguyễn Duy Quý, NNPQ là giá trị phổ biến, là một biểu hiện của

trình độ phát triển dân chủ. Nhà nước pháp quyền được xem xét như một cách

thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng

dân chủ [107, 108].

Từ tất cả sự phân tích trên luận án đưa ra khái niệm về NNPQ như sau:

Nhà nước pháp quyền là phương thức tổ chức và hoạt động của nhà nước đề

cao vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội.

2.1.5. Khái niệm tƣ tƣởng pháp quyền Hồ Chí Minh

Trên cơ sở kế thừa thành tựu trong các công trình nghiên cứu đã công

bố về triết học, về khoa học pháp lý, về khoa học chính trị, về Hồ Chí Minh

học liên quan đến khái niệm pháp quyền và từ sự khái quát những phân tích,

lý giải trên, luận án đưa ra khái niệm: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là

hệ thống quan điểm về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của toàn xã hội đề cao

pháp luật nhằm đảm bảo công bằng, quyền con người và tiến bộ xã hội.

Page 48: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

43

Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh bao gồm những nội dung: Các quan

điểm, luận điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của pháp luật; về phương thức

thực hiện pháp quyền; về điều kiện thực hiện pháp quyền; về pháp quyền

nhằm mục tiêu tạo ra trật tự, kỷ cương và tiến bộ xã hội.

2.2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH

2.2.1. Cơ sở thực tiễn

Các học thuyết lý luận đều ra đời trên cơ sở thực tiễn của một thời đại

lịch sử nhất định, nhằm giải đáp những nhiệm vụ lịch sử của thời đại mình đặt

ra, đồng thời có sự kế thừa tư tưởng của các thời đại trước để lại. Để thấy

được giá trị của một học thuyết lý luận, cần đặt trong bối cảnh lịch sự thời đại

nó ra đời, để thấy thời đại đó đặt ra nhiệm vụ lịch sử gì và học thuyết lý luận

đó đáp ứng như thế nào với nhiệm vụ lịch sử đó; đặt học thuyết lý luận đó

trong lịch sử vận động của vấn đề học thuyết đó đang giải quyết để thấy sự kế

thừa, tiếp tục, bổ sung và phát triển. Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh ra

đời trong bối cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh

Việt Nam đang đấu tranh giành, giữ độc lập dân tộc, tổ chức xây dựng xã hội

mới về chất so với xã hội thực dân phong kiến.

Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh có sự kế thừa những giá trị trong

truyền thống pháp lý dân tộc; tiếp thu tinh hoa tư tưởng pháp quyền nhân loại,

từ phương Đông cho đến phương Tây, từ cổ đại cho tới hiện đại, nhất là quan

điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật. Bối cảnh lịch sử

và những tiền đề tư tưởng kết hợp với nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh, để

Người sáng tạo ra tư tưởng pháp quyền.

Thực dân Pháp đã có âm mưu xâm lược Việt Nam từ thế kỷ XVII, năm

1645, giáo sỹ người Pháp Alexandre de Rhodes từ Việt Nam trở về Pháp

mang theo một bản đồ Việt Nam và đề xuất việc cần phải xâm lược Việt Nam

[94]. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, đến năm 1858, thực dân Pháp

Page 49: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

44

bắt đầu quá trình xâm lược Việt Nam và đến năm 1884 triều đình nhà Nguyễn

kí hiệp ước công nhận sự thống trị của thực dân Pháp trên toàn lãnh thổ Việt

Nam. Dân tộc Việt Nam mất độc lập, trở thành thuộc địa của thực dân Pháp,

việc này đưa đến nhiều hệ quả cho dân tộc Việt Nam.

Cùng với việc xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp áp đặt một nền cai

trị hà khắc, hạn chế về pháp quyền, thậm chí không pháp quyền, vi phạm

pháp quyền. Hồ Chí Minh tiến hành cuộc đấu tranh nhằm vạch trần và lên án

chế độ cai trị hà khắc, tàn bạo, phi nhân tính, phi pháp quyền của Chính phủ

Pháp tại Việt Nam. Thực dân Pháp thống trị toàn diện Việt Nam trên tất cả

các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, ở phương diện pháp quyền,

thực dân Pháp dùng pháp luật để đàn áp, thống trị nhân dân Việt Nam. Hồ

Chí Minh viết:

Ở Đông Dương có hai thứ công lý. Một thứ cho người Pháp, một

thứ cho người bản xứ. Người Pháp thì được xử như ở Pháp. Người

An Nam thì không có hội đồng bồi thẩm, cũng không có luật sư

người An Nam. Thường người ta xử án và tuyên án theo giấy tờ,

vắng mặt người bị cáo. Nếu có vụ kiện cáo giữa người An Nam với

người Pháp thì lúc nào người Pháp cũng có lý cả, mặc dù tên này ăn

cướp hay giết người [73, tr.445].

Dưới sự cai trị của thực dân Pháp, những quyền tự do, dân chủ tối thiểu

của người Việt Nam bị hạn chế, bị tước đoạt, bị xâm phạm. Người đã tố cáo

thực dân Pháp không cho nhân dân Việt Nam một chút tự do, dân chủ, nhân

dân Việt Nam không còn được sống với tư cách con người. Trước thảm trạng

đó, có những người Việt Nam gửi bản thỉnh cầu (Bùi Quang Chiêu); gửi bản

kiến nghị (Phan Châu Trinh); bản yêu sách (Nguyễn Ái Quốc), đòi những

quyền tự do, dân chủ cho người Việt Nam. Trong đó, tiêu biểu là Yêu sách

của nhân dân An Nam do Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Versailles:

Page 50: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

45

1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị; 2.

Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ

cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như

người Âu châu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công

cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân

An Nam; 3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận; 4. Tự do lập hội và

hội họp; 5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; 6. Tự do

học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các

tỉnh cho người bản xứ; 7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ

ra các đạo luật; 8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do

người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết

được những nguyện vọng của người bản xứ [73, tr.469 - 470].

Bản Yêu sách chỉ đề cập đến những quyền cơ bản của con người, tức

những quyền tối thiểu mà thiếu nó, con người không còn sống với tư cách con

người. Những yêu cầu tối thiếu đó của người Việt Nam không được thực dân

Pháp chấp nhận.

Về vấn đề công lý ở Việt Nam dưới sự cai trị của thực dân Pháp được

Hồ Chí Minh châm biếm một cách sâu sắc qua hình ảnh tượng thần công lý ở

Việt Nam, Hồ Chí Minh viết:

Công lý được tượng trưng qua hình ảnh một nữ thần tay cầm cân và tay

cầm kiếm. Nhưng Đông Dương lại ở quá xa nước Pháp, muôn trùng

cách trở, nên khi nữ thần tới xứ này thì cán cân đã mất thăng bằng, đĩa

cân đã chảy lỏng và biến thành những tẩu thuốc phiện và những chai

rượu ty. Trên tay nữ thần tội nghiệp ấy chỉ còn độc cái kiếm để chém

giết. Bà đã chém những người vô tội và cũng chỉ chém có họ mà thôi!

[73, tr.51].

Page 51: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

46

Pháp luật và công lý ở xứ thuộc địa Việt Nam nằm trong tay những tên

thực dân “cá mập” dùng để bóc lột, đàn áp, khủng bố nhân dân Việt Nam.

Một trong những mục tiêu của cách mạng Việt Nam là xóa bỏ bộ máy

cai trị và hệ thống luật pháp của thực dân Pháp, xóa bỏ sự cai trị không pháp

quyền, trái pháp quyền. Sau khi đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng dân tộc,

giành độc lập dân tộc, Việt Nam xây dựng xã hội mới, đem lại cuộc sống ấm

no, tự do, hạnh phúc cho toàn thể nhân dân, như Hồ Chí Minh viết: “Xây

dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu

mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” [85, tr.614].

Trong đó có việc xây dựng Nhà nước và hệ thống pháp luật kiểu mới ở

Việt Nam, một pháp quyền ở Việt Nam. Đó là cơ sở thực tiễn cho sự ra đời tư

tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

2.2.2. Tiền đề tƣ tƣởng lý luận

2.2.2.1. Các giá trị truyền thống pháp lý Việt Nam

Nhà nước xuất hiện sớm tại Việt Nam do nhu cầu trị thủy và chống

ngoại xâm, nên tất yếu phải có những công cụ, phương tiện để quản lý và điều

hành cộng đồng dân cư, trong đó có yếu tố luật lệ. Trước khi người Hán đặt

ách thống trị đối với người Việt thì người Việt đã có luật và sử dụng luật để

quản lý, điều hành cộng đồng cư dân. Điều đó cho thấy những manh nha của

pháp quyền Việt Nam đã xuất hiện từ đầu công nguyên [126].

Sau khi giành lại độc lập dân tộc các triều đại phong kiến Việt Nam,

một mặt củng cố nền độc lập dân tộc, chống lại sự xâm lược của người

phương Bắc; mặt khác xây dựng, phát triển đất nước. Trong quá trình đó, tư

tưởng coi trọng pháp luật trong quản lý xã hội ngày càng rõ nét, tiêu biểu là

thời kỳ Lê sơ. Sau khi giành độc lập các vua nhà Lê chú trọng xây dựng và

hoàn thiện bộ máy nhà nước từ cấp trung ương (triều đình) đến cấp cơ sở.

Cùng với việc hoàn thiện bộ máy nhà nước, các vua nhà Lê quan tâm xây

dựng pháp luật và hệ thống cơ quan xét xử. Đặc biệt, bộ Lê triều Hình luật

Page 52: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

47

(Bộ luật Hồng Đức) là bộ luật hoàn chỉnh nhất trong lịch sử Nhà nước phong

kiến Việt Nam. Bên cạnh bản chất giai cấp, bộ luật có nhiều điểm thể hiện

tiến bộ và nhân văn, tinh thần pháp luật trong bộ Lê triều Hình luật không chỉ

có giá trị thời điểm ra đời, mà có giá trị cho tới tận ngày nay [7, 50, 94, 108,

136]. Thời kỳ Lê sơ, trong Bộ Lê triều Hình luật các nhà tư tưởng, chính trị

chưa dùng khái niệm pháp quyền, nhưng xét ở góc độ nhất định, tinh thần

pháp quyền đã xuất hiện, như: muốn ngăn chặn sự lạm quyền trong đội ngũ

quan lại, người thực thi quyền lực nhà nước; trách nhiệm của triều đình với

người dân; muốn thống nhất, đồng bộ và hiệu lực của pháp luật trên phạm vi

toàn lãnh thổ; ghi nhận mức độ nào đó các quyền con người. Thời kỳ Lê sơ

là một thời kỳ phát triển rực rỡ trong lịch sử phong kiến Việt Nam, có nhiều

thành tựu đánh dấu bước phát triển của lịch sử dân tộc, trên phương diện

Nhà nước và pháp luật, tạo ra những giá trị tích cực được Hồ Chí Minh tiếp

thu, kế thừa.

Sang cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, một số trí thức Việt Nam chịu

ảnh hưởng của văn minh phương Tây, đưa ra quan điểm về pháp quyền, tập

trung vào vấn đề lựa chọn mô hình Nhà nước và ban hành Hiến pháp. Đứng

trên lập trường chính trị khác nhau, các nhà tư tưởng đưa ra quan điểm của

mình về pháp quyền, tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.

Khuynh hướng cải tạo chế độ phong kiến chuyên chế và thiết lập chế

độ quân chủ lập hiến, đại diện là Phan Bội Châu. Ông chủ trương đánh đuổi

thực dân Pháp, xây dựng chế độ quân chủ lập hiến của một quốc gia độc lập.

Ông thấy những hạn chế của chế độ phong kiến chuyên chế, nhưng chủ

trương không xóa bỏ chế độ phong kiến, mà cải tạo bằng cách ban hành

Hiến pháp, để hạn chế quyền lực của Hoàng đế Việt Nam, nghĩa là, xây

dựng chế độ quân chủ lập hiến; bên cạnh vua là Hiến pháp, bên cạnh vua là

Chính phủ [129].

Page 53: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

48

Khuynh hướng xóa bỏ chế độ phong kiến chuyên chế và thiết lập chế

độ mới, đại diện là Phan Châu Trinh. Ông chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”,

xóa bỏ chế độ phong kiến ở Việt Nam, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân

sinh, dần dần đưa nước ta trở thành độc lập. Phan Châu Trinh chủ trương xây

dựng Nhà nước dân chủ ở Việt Nam theo hướng tam quyền phân lập, gồm

Nghị viện, Tổng thống và Nội các, Viện Tư pháp. Về vấn đề pháp luật, ông

chủ trương xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, ổn định. Ông đề cao vai

trò của Hiến pháp, mọi người, kể cả thành viên Chính phủ cũng phải tôn trọng

Hiến pháp; các quyền của Chính phủ do Hiến pháp quy định. Mọi người bình

đẳng trước pháp luật. Phan Châu Trinh có quan điểm biện chứng và hợp lý,

khi ông cho rằng tiếp thu tư tưởng pháp quyền phương Tây, nhưng không

máy móc, có chọn lọc, vận dụng phù hợp vào hoàn cảnh Việt Nam; kết hợp

với giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc để xây dựng Hiến pháp và pháp

luật dân chủ.

Trên thực tiễn tư tưởng pháp quyền của Phan Bội Châu, Phan Châu

Trinh không đạt được mục tiêu đề ra, như vậy, thực tiễn kiểm nghiệm tư

tưởng pháp quyền của các ông chưa phù hợp với Việt Nam. Những giá trị và

bài học kinh nghiệm các ông để lại được Hồ Chí Minh kế thừa, tiếp thu trong

xây dựng, thực hiện tư tưởng pháp quyền.

Trong lịch sử Việt Nam, làng là một thực thể đặc biệt trên nhiều

phương diện, như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong hoàn cảnh dân tộc

mất độc lập, kẻ thù chưa bao giờ đặt được bộ máy cai trị tới làng; trong điều

kiện dân tộc độc lập, các triều đại phong kiến Việt Nam cũng không đặt được

bộ máy cai trị đến làng. Làng của người Việt luôn là một thực thể hiện hữu và

tồn tại độc lập tương đối trong quan hệ với quốc gia - dân tộc, với Nhà nước.

Thực thể làng tồn tại là một không gian địa lý tự nhiên để cư dân trong làng

cư trú, sản xuất, sinh sống. Thực thể làng tồn tại là một thiết chế xã hội, một

Page 54: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

49

thiết chế văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng... Trong mỗi làng của người Việt,

thường có hương ước riêng của mình, đó chính là bộ tổng luật của làng [121].

Nội dung của hương ước điều chỉnh tất cả các mối quan hệ của cư dân trong

làng: ruộng đất, sản xuất, thủy lợi, ứng xử trong làng xóm, hôn nhân, tang ma,

tổ chức làng... Hương ước có tính chi tiết, cụ thể, đặc điểm này làm cho

hương ước dễ thực hiện, điểm này trong các bộ luật quốc gia khó có thể có

được. Tính hiệu lực của hương ước cao, thể hiện qua tính tự nguyện rất cao,

tất cả cư dân làng tôn trọng, tuân thủ nghiêm chỉnh, nhiều điều khoản trở

thành lệ làng; trong tính hiệu lực cao của hương ước có cả yếu tố bình đẳng

giữa các cư dân trong làng, hương ước đảm bảo dân chủ làng trong Nhà nước

quân chủ chuyên chế [9]. Hương ước phù hợp với điều kiện, tâm lý, văn hóa

ứng xử người dân, điều đó góp phần tăng tính hiệu lực của các quy định; các

chế tài của hương ước rất đa dạng về hình thức, về tính chất: thưởng, phạt và

bằng sức ép dư luận của dân làng; hình thức phạt: tiền, hiện vật, bồi thường

thiệt hại, đánh đập, hạ ngôi thứ, đuổi khỏi làng. Trong truyền thống ứng xử

của người Việt có quan niệm phép vua (luật nước) thua lệ làng (hương ước),

điều này phần nào phản ánh tinh thần dân chủ, sự tôn trọng của Nhà nước đối

với làng [52]. Xem xét dưới góc độ khoa học pháp lý hiện đại, về hình thức

những điều khoản trong hương ước có sự tương đồng nhất định với các quy

phạm pháp luật hiện đại, bao gồm phần giả định, quy định và chế tài.

Bất kỳ người Việt nào, trong đó có Hồ Chí Minh ít hay nhiều, trực tiếp

hay gián tiếp chịu ảnh hưởng của văn hóa làng. Người tiếp thu những giá trị

văn hóa làng để xây dựng tư tưởng pháp quyền.

Tóm lại, trong truyền thống pháp lý dân tộc, chúng ta có thể rút ra một

số giá trị sau đây: Sự cần thiết của pháp luật trong việc quản lý và điều hành

xã hội, đảm bảo xã hội có trật tự, ổn định.Tính hiệu lực của các quy định, tuy

nhiên mức độ, phạm vi hiệu lực có thể khác nhau. Tính nhân văn, các bộ luật

Page 55: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

50

do Nhà nước ban hành trong lịch sử Việt Nam mang tính giai cấp rõ nét, đảm

bảo đặc quyền của vua; chế tài tàn khốc với hành vi chống đối, xâm phạm

vua; bảo vệ quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến; bên cạnh đó cũng có

những yếu tố tiến bộ, giàu tính nhân văn, ghi nhận và bảo vệ quyền con

người. Tính dân chủ, tính bình đẳng trong các hương ước là một giá trị rất quý

báu trong truyền thống pháp lý Việt Nam.

Hồ Chí Minh tiếp thu được những giá trị truyền thống dân tộc, trong đó

có truyền thống pháp lý, những giá trị đó làm nền tảng đầu tiên để Hồ Chí

Minh xây dựng tư tưởng pháp quyền.

2.2.2.2. Các giá trị tư tưởng pháp quyền nhân loại

- Các giá trị tư tưởng pháp quyền của phương Đông

Trong lịch sử tư tưởng phương Đông, có những yếu tố về mặt hình thức

và nội dung của tư tưởng pháp quyền. Điển hình là những quan điểm của

Pháp gia ở Trung Hoa. Tư tưởng của pháp gia ở Trung Hoa cổ đại ra đời vào

khoảng thế kỷ VII tr.CN, đến Hàn Phi (280 - 230 tr.CN) trên cơ sở kế thừa

quan điểm của các nhà tư tưởng trước, đồng thời phát triển tư tưởng pháp trị

lên tầm cao mới, xác lập trường phái pháp gia ở Trung Hoa cổ đại [42].

Hàn Phi đề cao, coi trọng pháp luật, ông cho rằng trong việc trị nước

của vua thì pháp luật là cái quan trọng nhất, thậm chí, ông cho rằng một ông

vua trung bình mà biết nắm lấy pháp luật và thuật trị nước thì vẫn có thể quản

lý đất nước mà không có sai sót. Ông quan niệm pháp luật là thước đo, chuẩn

mực việc làm của dân, của quan, thậm chí cả của vua; là cơ sở để điều khiển

công việc Nhà nước và xã hội; pháp luật cần ổn định, nhưng không phải bất

biến, khi cần phải thay đổi cho phù hợp với thời cuộc; tính công khai. Trong

thực thi pháp luật, Hàn Phi yêu cầu phải nghiêm minh, triệt để, bình đẳng, qua

đó thể hiện quan điểm thượng tôn pháp luật trong những khuân khổ, phạm vi

nhất định. Quan điểm của pháp gia chưa đầy đủ và hoàn chỉnh, nhưng đặt

Page 56: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

51

trong bối cảnh thời kỳ cổ đại là tiến bộ, có sự tương đồng với tư tưởng pháp

quyền ở phương Tây. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những giá trị của tư tưởng

pháp gia để xây dựng tư tưởng pháp quyền.

Tư tưởng Nho gia ra đời vào khoảng thế kỷ VI tr.CN, do Khổng Tử

(551 tr.CN - 479 tr.CN) sáng lập, sau này được Mạnh Tử, Tuân Tử và nhiều

thế hệ sau bổ sung và phát triển. Khác với pháp gia dùng pháp luật để cai trị,

Nho gia dùng đức để cai trị, đề cao việc tu dưỡng đạo đức cá nhân mỗi người,

nhất là của vua, của người quân tử, với tư cách là người cầm quyền, người

quản lý; việc tu dưỡng đạo đức là công việc đầu tiên, nền tảng của người cầm

quyền. Chủ trương dùng đức trị không có nghĩa Nho gia phủ nhận vai trò của

pháp luật và không sử dụng pháp luật trong việc trị nước, Nho gia cho rằng

giữa đức trị và pháp trị, thì đức trị là chủ, pháp trị là thứ, bổ trợ; chỉ sử dụng

pháp luật khi đức trị mất tác dụng. Các nhà Nho đã nhận thấy vai trò và sức

mạnh của dân chúng trong các thay đổi của lịch sử. Do hạn chế của thời đại

nên tư tưởng của Nho gia chưa đạt tới quan niệm dân chúng là chủ thể của

quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị, chưa đạt tới vấn đề chủ quyền nhân

dân trong tư tưởng pháp quyền hiện đại. Quan điểm về xây dựng một xã hội

trật tự, thái bình. Những giá trị trong tư tưởng của Nho gia gần với tư tưởng

pháp quyền hiện đại và được Hồ Chí Minh tiếp thu trong xây dựng tư tưởng

pháp quyền.

Tam dân chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn gồm chủ nghĩa dân tộc, chủ

nghĩa dân quyền và chủ nghĩa dân sinh. Trong điều kiện dân tộc mất độc lập

để đấu tranh đòi lại độc lập dân tộc, cần phải chấn hưng lại tinh thần dân tộc,

thức tỉnh đạo đức dân tộc, tri thức dân tộc, khơi dậy năng lực dân tộc tạo nên

nguồn sức mạnh giải phóng dân tộc, thực hiện quyền dân tộc. Nhấn mạnh chủ

nghĩa dân tộc, nhưng Tôn Trung Sơn không tuyệt đối hóa, ông yêu cầu học

thêm, nghiên cứu thêm những cái sở trường của các nước. Ông chủ trương

phát huy giá trị truyền thống dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân

Page 57: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

52

loại, giữa các dân tộc bình đẳng với nhau. Chủ nghĩa dân quyền là quyền lực

của nhân dân, dân chúng tự quản lý chính quyền; ông chỉ ra hạn chế của dân

quyền gián tiếp, khắc phục hạn chế của dân quyền gián tiếp bằng dân quyền

trực tiếp; trong chủ nghĩa dân quyền nhấn mạnh đến bình đẳng, tự do; ông

cũng nêu bốn quyền của nhân dân: quyền tuyển cử; quyền bãi miễn; quyền

sáng chế và quyền phúc quyết. Chủ nghĩa dân sinh theo Tôn Trung Sơn có nội

dung rộng, gồm: sự sinh hoạt của nhân dân; sự sinh tồn của xã hội; sinh kế

của quốc dân; sinh mệnh của quần chúng, tất cả đều nhằm đem lại lợi ích cho

nhân dân, nhằm đem lại việc làm, có cơm ăn, nhân dân đều được sống yên

vui. Tôn Trung Sơn cho rằng tam dân chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với

nhau, mà cốt lõi của nó là quốc gia của nhân dân cùng có, chính trị nhân dân

cùng quản lý, ích lợi nhân dân cùng hưởng chung. Mục đích của tam dân chủ

nghĩa là có hòa bình, có quyền và có lợi [133].

Tam dân chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn là sự tiếp biến phù hợp tư tưởng

pháp quyền phương Tây vào điều kiện của Trung Hoa, một quốc gia phong

kiến ở phương Đông, đang bị phương Tây thôn tính. Trong quá trình xây

dựng tư tưởng pháp quyền, Hồ Chí Minh đã tiếp thu được những giá trị, như:

coi trọng quyền lợi dân tộc, quyền lợi nhân dân, coi trọng thực tế, coi trọng

hiệu quả và mang tính dân tộc, đồng tiếp thu giá trị bên ngoài trong tam dân

chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn.

- Các giá trị tư tưởng pháp quyền của phương Tây

Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, một số nhà triết học đã đưa ra ý

tưởng về pháp quyền. Những tư tưởng về nhà nước, về dân chủ, về pháp luật

thời cổ đại được hình thành trên cơ sở tư duy triết học, tư duy lý tính mang

tính khám phá, tìm tòi; tuy mới chỉ là những khám phá ban đầu, nhưng có vai

trò đặt nền móng cho các giai đoạn sau. Trong các nhà tư tưởng phương Tây

thời cổ đại tiêu biểu có thể kể tới: Platon cho rằng khi ban hành pháp luật

người cầm quyền phải gạt bỏ ý chí cá nhân, chỉ tuân thủ và nhân danh ý chí

Page 58: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

53

của pháp luật, ông còn cho rằng cần có sự phân công lao động trong bộ máy

nhà nước để thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp

[101]. Aristot cho rằng trong Nhà nước có ba phương diện lập pháp, hành

pháp và xét xử, tiêu chuẩn đánh giá và thước đo đối với Nhà nước là mức độ

đem lại phúc lợi cho dân chúng; về pháp luật là quy tắc khách quan, chính

trực, vô tư, pháp luật là công lý [4]. Các ông đã đề cao tính công minh của

pháp luật trong việc xét xử, sự cần thiết phải xây dựng các bộ luật và quản lý

xã hội bằng pháp luật.

Tư tưởng pháp quyền xuất hiện từ rất sớm, nhưng phải đến thời đại

cách mạng tư sản mới có những điều kiện để phát triển thành học thuyết

và hiện thực hoá. Tiếp thu và phát triển các giá trị tư tưởng các nhà triết

học cổ đại, các nhà tư tưởng thời kỳ Khai sáng và cận đại , như: John

Locke, Jean Jacques Rousseau, Charles Luis Montesquieu, Imanuel Kant

và Georg Wilhelm Friedrich Hegel... đã nêu ra nhiều tư tưởng quan trọng

về pháp quyền.

John Locke cho rằng, con người có các quyền tự nhiên như tự do, bình

đẳng và sở hữu. Đó là những quyền tự nhiên bất khả xâm phạm của con người

và nhà nước lập ra luật pháp là để bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm đó.

Ông đề cao vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ tự do cá nhân của con

người và đòi hỏi phải phân chia quyền lực nhà nước để tránh mọi sự lạm

dụng, quyền lập pháp thuộc về nghị viên, hai quyền hành pháp và tư pháp

thuộc về nhà vua [63]. Quan điểm của J.Locke chưa hoàn toàn vượt khỏi tư

tưởng phong kiến, tuy vậy, nó trở thành nền tảng cho tư tưởng pháp quyền

trong xã hội phương Tây các giai đoạn sau.

Charles Luis Montesquieu cho rằng nhân dân là chủ thể của quyền lực

xã hội, để tránh sự lạm quyền, cần phải phân chia quyền lực để kiềm chế lẫn

nhau, không thể để cho cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong tay

một người, một cơ quan; không một cơ quan nào vượt lên trên hai cơ quan

Page 59: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

54

còn lại; không một cơ quan nào có quyền xâm phạm quyền cá nhân của công

dân. Theo ông, tự do chỉ có ở những thể chế chính trị mà trong đó luật pháp

thống trị và được bảo đảm bằng cách phân chia quyền lực tối cao thành quyền

lập pháp, hành pháp và tư pháp một cách độc lập, sao cho các quyền này kiềm

chế lẫn nhau. Việc phân chia quyền lực nhà nước như vậy, theo ông, xuất phát

từ lợi ích chung của xã hội và của nhân dân nhằm bảo đảm cho người dân

tránh khỏi tình trạng vô pháp luật, cũng như sự tuỳ tiện và lạm quyền của các

quan chức thuộc bộ máy nhà nước. Ông khẳng định rằng, nếu như quyền lập

pháp, hành pháp và tư pháp nằm trong tay một người hoặc một cơ quan (như

nằm trong tay vua) thì con người sẽ không có tự do. Còn nếu như quyền tư

pháp hợp nhất với quyền hành pháp thì toà án sẽ trở thành kẻ đàn áp và tất cả

sẽ bị huỷ diệt [87]. Tư tưởng của Ch.L.Montesquieu đã trở thành nội dung cơ

bản lý luận của pháp quyền tư sản.

Jean Jacques Rousseau cho rằng quyền lực nhà nước là thuộc về toàn

thể nhân dân, nhân dân ủy quyền cho các đại biểu của mình trong Nhà nước.

Khế ước xã hội là thỏa thuận chung của toàn dân, là ý chí chung, Nhà nước

không được vi phạm thỏa thuận chung ấy. Xuất phát từ con người và vì mục

đích tự do, hạnh phúc của con người, ông khẳng định tự do là bản chất và

phẩm giá cao nhất của con người. Từ đó, ông cho rằng, phải tìm và xây dựng

một thể chế chính trị hợp lý để bảo vệ quyền tự do của con người. Trong lý

luận của mình, ông khẳng định: “dân chúng tuân theo luật phải là những

người làm ra luật” và “người làm ra luật hiểu hơn bất cứ ai việc làm thế nào

để luật được thi hành”. Theo ông, mục đích tối cao của hệ thống pháp luật là

vì sự tự do và bình đẳng của con người; bởi vậy, về cơ cấu, quyền lực nhà

nước phải bao gồm ba bộ phận hợp thành: cơ quan lập pháp, cơ quan hành

pháp và cơ quan tư pháp [110].

Imanuel Kant bàn về sự vận động và phát triển của lịch sử nhân loại,

ông cho rằng con người từ trạng thái tự nhiên (không có luật) chuyển sang xã

Page 60: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

55

hội công dân (có luật), tức là con người cùng nhau ký kết một bản khế ước xã

hội. Trong xã hội công dân dựa trên khế ước xã hội, I.Kant gọi là lĩnh vực tư

hay lĩnh vực chính trị thực tiễn, ở đó xã hội công dân được hình thành trên cơ

sở ký kết một bản khế ước xã hội; thành lập Nhà nước tam quyền phân lập và

một hệ thống pháp luật. Con người được hưởng quyền công dân, đồng thời

phải thực hiện các nghĩa vụ đối với xã hội. Xã hội công dân dựa trên nguyên

tắc đạo đức, có sự tham gia của luật lương tâm, sự cưỡng buộc từ bên trong

mỗi người. Xã hội công dân dựa trên các nguyên tắc đạo đức là xã hội lý

tưởng, ở đó không cần sự can thiệp quá nhiều của pháp luật. Trạng thái xã hội

đó, I.Kant gọi là lĩnh vực công, trạng thái xã hội đó là mục tiêu pháp quyền

hướng tới.

Georg Wilhelm Friedrich Hegel dùng khái niệm pháp quyền bao gồm

cả pháp luật và hiện thực Nhà nước, tức là các chế định chính trị - xã hội. Ông

tiếp tục quan điểm của các nhà tư tưởng pháp quyền châu Âu thế kỷ XVII -

XVIII về pháp quyền tự nhiên và pháp quyền thực định, pháp quyền thực định

là những quy tắc có giá trị hiệu lực hiện hành, được thực hiện qua các điều

luật; pháp quyền tự nhiên hay pháp quyền đúng thực là những luật lệ chính

đáng, nó xác định cái gì là công chính đích thực; khi pháp quyền thực định

không đáp ứng được yêu cầu tốt lành, công chính, lẽ phải, con người dùng

pháp quyền tự nhiên để phê phán. Khái niệm pháp quyền được Hegel dùng rất

rộng, gồm: pháp quyền thực định; luân lý; gia đình; xã hội dân sự; Nhà nước

và lịch sử thế giới. Hegel cho rằng trong pháp quyền phải có tính tự ý thức

của mỗi cá nhân về nghĩa vụ, đồng thời phải thực hành nó một cách nghiêm

chỉnh để đạt đến tự do [43].

Hồ Chí Minh đã tiếp thu trực tiếp giá trị tư tưởng pháp quyền của văn

minh phương Tây, như: đề cao, thượng tôn vai trò pháp luật trong quản lý xã

hội, pháp luật đem lại tự do, hạnh phúc cho con người, đề cao và tôn trọng

quyền con người, phân chia quyền lực nhà nước và chống lạm quyền, vai trò

Page 61: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

56

của đạo đức trong pháp quyền. Những giá trị đó tạo thành cơ sở quan trọng

đối với việc hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

- Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật

Do điều kiện lịch sử của thời đại mình, các nhà sáng lập chủ nghĩa

Mác - Lênin chưa đi sâu vào lý luận pháp quyền; nhưng những quan điểm

của các ông về Nhà nước và pháp luật có những điểm tương đồng với tư

tưởng pháp quyền.

Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định bản chất của Nhà

nước là bộ máy duy trì sự thống trị của một giai cấp này lên các giai cấp khác

trong xã hội. F.Engels cho rằng: “Theo thông lệ, Nhà nước là Nhà nước của

giai cấp có thế lực nhất, của giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có Nhà

nước mà cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm

được những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức” [67,

tr.255]. Trong vấn đề bản chất Nhà nước thể hiện tính hai mặt, một mặt mang

bản chất giai cấp, mặt khác mang tính xã hội, Nhà nước có chức năng thống

trị chính trị và chức năng xã hội. Vấn đề tính giai cấp hay tính nhân dân phụ

thuộc vào vấn đề lợi ích [36].

V.I.Lenin cho rằng để tiến tới xã hội không còn người áp bức, thống trị

người, thời kỳ đầu vẫn cần chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô sản khác

hoàn toàn với các hình thức chuyên chính đã từng tồn tại trong lịch sử. Các

hình thức chuyên chính trong lịch sử là sự chuyên chính của một số ít đối với

tuyệt đại đa số, chuyên chính vô sản là sự chuyên chính của tuyệt đại đa số,

của quần chúng nhân dân lao động đối với của kẻ thù của nhân dân lao động,

mà chủ yếu và trước tiên nhất là giai cấp tư sản. V.I.Lenin viết:

Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai

cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động,

với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư

Page 62: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

57

sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức,...), hoặc với phần lớn những tầng

lớp đó, liên minh nhằm chống lại tư bản [59, tr.425].

V.I.Lênin khẳng định rằng mỗi dân tộc khi quá độ lên CNXH, phải

sáng tạo ra những hình thức tổ chức nhà nước vô sản thích hợp với đặc điểm

của dân tộc mình. Đây là một điểm hết sức đáng lưu ý trong di sản của

V.I.Lenin, nó đòi hỏi tính sáng tạo của mỗi dân tộc, sự thấu hiểu điều kiện,

đặc điểm dân tộc mình trên tất cả các bình diện, đồng thời nắm được quy luật

chung, mang tính phổ quát. Từ đó vận dụng phù hợp vào từng dân tộc, tránh

dập khuân, máy móc hình thức và kinh nghiệm của nước Nga.

K.Marx và F.Engels mới chỉ dừng lại trên phương diện lý luận,

V.I.Lenin có cả lý luận và thực tiễn về xây dựng, tổ chức nhà nước. V.I.Lenin

đưa ra quan điểm trong tổ chức xây dựng bộ máy nhà nước phải đảm bảo sự

tham gia đông đảo các tầng lớp nhân dân, bằng nhiều hình thức khác nhau,

nghiên cứu kỹ càng sự tham gia của nhân dân và các hình thức, thẩm tra bằng

kinh nghiệm rộng rãi hơn, cần phải được biến thành đạo luật [58]. Ông nêu

quan điểm phải luật hóa việc tổ chức bộ máy nhà nước.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia, V.I.Lenin nêu

quan điểm hợp nhất các quyền lập pháp với quyền hành pháp vào tay tổ chức

nhà nước Xô viết, Nhà nước là do nhân dân lập nên thông qua hoạt động bầu

cử, do đó quyền lực là thống nhất ở nhân dân, thuộc về nhân dân. Quan điểm

tập quyền, nhưng đề cao tính tự giác và chịu trách nhiệm trước nhân dân của

các đại biểu của nhân dân tham gia vào Nhà nước. V.I.Lenin khẳng định:

“Các nghị sĩ phải tự mình công tác, tự mình thực hiện những pháp luật của

mình, tự mình kiểm tra lấy tác dụng của những pháp luật ấy, tự mình phải

chịu trách nhiệm trực tiếp trước cử tri của mình” [57, tr.59].

Đảng Cộng sản lãnh đạo Nhà nước XHCN, đây là nguyên tắc đảm bảo

tính nhân dân của Nhà nước, đảm bảo Nhà nước đó thuộc về nhân dân. Trong

vấn đề này, V.I.Lenin yêu cầu phải phân định nhiệm vụ rõ ràng giữa vai trò

Page 63: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

58

lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hoạt động của chính quyền, tránh tình trạng

chồng chéo [60].

Từ thực tế xây dựng Nhà nước kiểu mới, V.I.Lenin đã nhận ra không

phải dễ dàng và nhanh chóng khắc phục được những khuyết tật của Nhà

nước: tình trạng quan liêu hóa, thoái hóa của bộ máy nhà nước... Biến Nhà

nước thành một thiết chế đứng trên nhân dân và xã hội, trái với lý tưởng

cao đẹp ban đầu. V.I.Lenin đã nhận ra vấn đề và tìm cách khắc phục, tuy

nhiên ông không có đủ thời gian để giải quyết triệt để vấn đề đó. Đây chính

là vấn đề đặt ra mà những người kế thừa chủ nghĩa Mác - Lênin tiếp tục

phải giải quyết.

Trong vấn đề pháp luật, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định trong xã

hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, pháp luật mang bản chất giai cấp.

Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ bản chất giai cấp của pháp quyền tư sản. Các

ông viết:

Chính tư tưởng của các ông là sản phẩm của những quan hệ sản

xuất và sở hữu tư sản, cũng như pháp quyền của các ông chỉ là ý chí

của giai cấp các ông được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung

là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết

định [68, tr.619].

Pháp luật XHCN cũng mang bản chất giai cấp, thể hiện ý chí của giai

cấp công nhân và nhân dân lao động, bảo vệ quyền tự do, dân chủ đại đa số

nhân dân lao động.

Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định pháp luật có vai trò như một điều

kiện cơ bản để xây dựng thành công XHCN. Trong việc đập tan bộ máy nhà

nước tư sản, thiết lập Nhà nước vô sản cần phải xóa bỏ hệ thống pháp luật tư

sản, xây dựng hệ thống pháp luật mới. Pháp luật XHCN là công cụ thực hiện

quyền lực nhà nước XHCN, vừa có tính trấn áp, cưỡng chế, vừa có tính tự

nguyện, xây dựng. Pháp luật XHCN là công cụ để Nhà nước giữ gìn an ninh,

Page 64: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

59

trật tự, an toàn xã hội, điều chỉnh quan hệ giữa con người và con người; công

cụ để Nhà nước tổ chức quản lý, phát triển kinh tế; cơ sở để xây dựng và hoàn

thiện chính bộ máy nhà nước.

Trong tư tưởng về Nhà nước và pháp luật XHCN, V.I.Lenin có đề cập

tới vấn đề pháp chế XHCN, trong đó toàn xã hội phải tôn trọng và tuân thủ

pháp luật một cách nghiêm minh. Để có pháp chế XHCN, theo V.I.Lenin

cần phải có nhiều yếu tố. Thứ nhất, khẳng định tính tối cao của Hiến pháp,

đề cao vai trò của luật, mọi quy định của pháp luật phải phù hợp với Hiến

pháp, đảm bảo tính thống nhất, tính đồng bộ của cả hệ thống pháp luật. Đảm

bảo hệ thống pháp luật đầy đủ nhằm điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội.

Tất cả nhằm đảm bảo tính hiệu lực của hệ thống pháp luật trong quản lý xã

hội. Thứ hai, bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên phạm vi toàn quốc,

tạo ra hiệu lực của pháp luật, sự chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của toàn

bộ tổ chức bộ máy nhà nước, của mọi công dân. Thứ ba, hình thành trong

toàn xã hội ý thức tuân thủ và tôn trọng pháp luật, đây là một cơ sở quan

trọng để có pháp chế XHCN, một xã hội dân chủ, tôn trọng quyền tự do, dân

chủ của cá nhân con người, đi liền với trật tự, kỷ cương, phép nước. Thứ tư,

pháp chế XHCN đòi hỏi mọi vi phạm pháp luật phải được xử lý kịp thời và

nghiêm minh.

Quan điểm của V.I.Lenin về pháp chế XHCN có nội dung gần với học

thuyết pháp quyền. Trong học thuyết pháp quyền ở phương Tây, các nhà tư

tưởng thống nhất và thừa nhận sự khác biệt, tính đa dạng và phong phú về

quan điểm và hình thức pháp quyền, đó là tùy thuộc vào những điều kiện lịch

sử, đặc điểm dân tộc. Trong hệ thống các nước XHCN, pháp chế XHCN được

xem như nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

Điều đó cho phép chúng ta đi đến nhận định pháp chế XHCN là một hình

thức cụ thể của học thuyết pháp quyền.

Page 65: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

60

Hồ Chí Minh đã tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về

bản chất Nhà nước và pháp luật; vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối

với Nhà nước; sự sáng tạo trong xây dựng mô hình Nhà nước; sự tham gia

của người dân vào xây dựng Nhà nước, pháp luật; vai trò của pháp luật

trong quản lý xã hội; nguyên tắc pháp quyền XHCN... để xây dựng tư

tưởng pháp quyền.

2.2.3. Nhân tố chủ quan

Bất kỳ một học thuyết lý luận nào cũng là sự kết hợp giữa điều kiện

khách quan và nhân tố chủ quan. Những yêu cầu của thực tiễn dân tộc cần xây

dựng Nhà nước và hệ thống pháp luật mới ở Việt Nam; những giá trị truyền

thống pháp lý dân tộc, những giá trị tư tưởng pháp quyền nhân loại tác động

lên mọi người Việt Nam trước và cùng thời với Hồ Chí Minh. Nhưng sự tiếp

nhận, lý giải, giải quyết đối với những vấn đề đó ở mỗi người là khác nhau, sự

khác nhau đó là do khả năng, tố chất của mỗi con người. Bằng những phẩm

chất cá nhân của mình, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận điều kiện khách quan xây

dựng tư tưởng pháp quyền. Những phẩm chất cá nhân đóng vai trò quyết định

việc hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

Sinh ra ở vùng đất Nghệ An giàu truyền thống học, trong một gia đình

có truyền thống Nho học, Hồ Chí Minh hình thành được phẩm chất ham học,

khổ công học tập, vượt mọi khó khăn, gian khổ để học tập [92, 128]. Quá

trình học tập của Hồ Chí Minh diễn ra ở trường, ở lớp, được cha, được các

thầy dạy; tự học, học bằng thực tiễn.

Khi còn nhỏ được cha, được các thầy dạy, Hồ Chí Minh tiếp thu nền

học vấn Nho, trên những nền tảng tri thức Nho học, Người tiếp thu giá trị

truyền thống pháp lý dân tộc, giá trị trong học thuyết Nho gia, Pháp gia, chủ

nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn về Nhà nước, pháp luật và pháp quyền. Khi

được học dưới nền giáo dục của thực dân Pháp, thời kỳ học ở trường Quốc

Page 66: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

61

học Huế, Hồ Chí Minh được tiếp cận trực tiếp với nền văn hóa Pháp, Người

bước đầu tiếp thu được giá trị tư tưởng của cách mạng tư sản Pháp, trong đó

có tư tưởng về tự do, dân chủ và pháp quyền. Khi đến với nước Nga Xô Viết,

Hồ Chí Minh được đi học tại Trường Đại học Cộng sản của những người lao

động phương Đông, Trường Quốc tế Lênin, Người tiếp thu được phương

pháp biện chứng, quan điểm về Nhà nước, pháp luật, pháp chế của chủ nghĩa

Mác - Lênin.

Phẩm chất ham học của Hồ Chí Minh thể hiện rõ ở việc tự học, học

bằng thực tiễn. Sau khi rời trường Quốc học Huế, một mặt lao động kiếm

sống nuôi thân, mặt khác Hồ Chí Minh tự học, tự đào tạo. Toàn bộ hành trình

tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc và quá trình lãnh đạo đất nước, cũng

chính là quá trình tự học, tự đào tạo của Người. Đặc biệt thời kỳ sống và hoạt

động tại các nước Mỹ, Anh, Pháp, Hồ Chí Minh tự học bằng hoạt động trong

phong trào cách mạng, học ở thư viện. Thời kỳ sống và làm việc tại Mỹ, Hồ

Chí Minh đã tới đọc sách tại thư viện của Đại học Harvard [146]. Khi trở lại

Pháp sống và hoạt động, sau sự kiện Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị

Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam, Người bị mật thám Pháp ở

Paris theo rõi sát sao, qua những báo cáo của mật thám Pháp về hoạt động của

Người, chúng ta thấy Hồ Chí Minh hay đi thư viện [92, 147]. Quá trình tự đào

tạo đem lại cho Hồ Chí Minh những hiểu biết về lý luận và thực tiễn pháp

quyền ở các quốc gia điển hình về pháp quyền trên thế giới.

Quá trình học tập đem lại cho Hồ Chí Minh những hiểu biết sâu rộng

về những giá trị truyền thống pháp lý dân tộc, nhân loại từ phương Đông cho

đến phương Tây, cả trong quá khứ cũng như hiện tại về tư tưởng pháp quyền.

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào điều kiện cụ thể của

Việt Nam hình thành nên tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

Page 67: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

62

Ở Hồ Chí Minh, từ sớm đã bộc lộ năng lực hoạt động thực tiễn nhiệt

huyết, khả năng khái quát thực tiễn thành lý luận và chuyển thành hành động

thực tiễn. Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh tìm hiểu đời

sống người dân, thực tiễn của các quốc gia những nơi Người đến từ châu Á,

châu Âu, châu Phi cho tới châu Mỹ, Người thấy sự thống trị tàn bạo, thiếu

pháp quyền, vi phạm pháp quyền của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc

đối với nhân dân lao động trên toàn thế giới. Thực tiễn đó đưa đến cho Hồ

Chí Minh kết luận cần phải xóa bỏ thảm trạng trên.

Từng sống trong môi trường xã hội pháp quyền, Hồ Chí Minh trực tiếp

tiếp thu tư tưởng, văn hóa pháp quyền của phương Tây, nơi phát xuất của tư

tưởng pháp quyền; có thực tiễn thực hành pháp quyền; được thụ hưởng các

giá trị tư tưởng pháp quyền. Thời kỳ hoạt động tại Pháp, Anh, Mỹ, Hồ Chí

Minh được tự do tham gia hoạt động và thành lập các tổ chức, các hội, đảng

chính trị, kể cả đảng chính trị đối lập; tham gia thảo luận, tranh luận, phát

biểu ý kiến, diễn thuyết; gặp mặt, hoạt động với các nhà tư tưởng, các nhà

hoạt động chính trị, các nhà chính trị, kể cả các quan chức của chính phủ Pháp

đang trực tiếp xâm lược, thống trị dân tộc Việt Nam; viết báo và xuất bản báo

vạch trần, tố cáo tội ác của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân trên chính

các nước đế quốc, thực dân; đồng thời Hồ Chí Minh cũng nhận ra những hạn

chế của tự do, dân chủ, của pháp quyền tư sản. Đặc biệt, khi Hồ Chí Minh đến

nước Nga XHCN, được sống, hoạt động và chứng kiến bầu không khí dân

chủ, tự do mới, đem lại cho Người những hiểu biết và kinh nghiệm mới về

pháp quyền. Sự trải nghiệm bản thân trong xã hội pháp quyền giúp Hồ Chí

Minh thấu hiểu giá trị của pháp quyền để Người đánh giá chính xác, tiếp thu,

vận dụng phù hợp vào Việt Nam.

Hoạt động thực tiễn phong phú đem lại cho Hồ Chí Minh một vốn tri

thức thực tiễn về dân chủ, tự do; hình thành ở Người phong cách dân chủ,

Page 68: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

63

khát vọng tự do, dân chủ; khát vọng hiện thực hóa tự do, dân chủ trong thực

tiễn xã hội Việt Nam. Những kinh nghiệm thực tiễn đó trở thành nền tảng cho

tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

Một phẩm chất đặc biệt ở Hồ Chí Minh là tư duy sắc sảo, khả năng

quan sát tinh tường, sáng suốt, tư duy phê phán, nhạy bén với cái mới, tư duy

mở, sẵn sàng tiếp thu cái mới, cái tiến bộ, thể hiện trí thông minh của Hồ Chí

Minh. Khi mới tiếp xúc với nền văn minh phương Tây, qua nền giáo dục của

thực dân Pháp, Hồ Chí Minh còn là một thiếu niên, Người thấy các lớp học

đều treo các chữ: tự do - bình đẳng - bác ái, trong đó có những điểm khác với

văn hóa, chính trị, pháp lý truyền thống của phương Đông, của Việt Nam mà

Người từng được dạy, được biết. Làm này sinh ở Người ý muốn tìm hiểu xem

đằng sau những từ ngữ ấy chứa đựng cái gì. Thể hiện khả năng quan sát tinh

tường, tư duy sắc sảo, nhạy bén với cái mới. Thực tiễn dân tộc bị thực dân

Pháp xâm lược, thống trị, dân tộc mất độc lập, nhân dân lầm than, cực khổ;

triều đình nhà Nguyễn từng bước khuất phục, đầu hàng; các cuộc khởi nghĩa

chống Pháp xâm lược, thống trị lần lượt thất bại. Ý thức được nhiệm vụ của

lịch sử dân tộc cần phải tìm một con đường cứu nước mới, Hồ Chí Minh đã

thể hiện sự nhạy bén và sáng suốt khi lựa chọn cách ra nước ngoài, hướng

sang phương Tây.

Khi đến các nước phương Tây, sống, hoạt động, nghiên cứu, tìm hiểu

nền văn minh phương Tây, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh khám phá ra

những điều mới, khác với văn hóa, chính trị, pháp lý phương Đông, như:

quyền con người, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền dân chủ, quyền mưu

cầu hạnh phúc, tư tưởng nhân dân làm chủ quyền lực Nhà nước, nhân dân

bầu cử để lập Nhà nước, đề cao vai trò Hiến pháp, pháp luật... Đó là, những

giá trị tiến bộ của nền văn minh phương Tây. Với một tư duy mở Hồ Chí

Page 69: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

64

Minh tiếp biến những giá trị tiến bộ trên của văn minh phương Tây xây dựng

tư tưởng pháp quyền.

Ở Hồ Chí Minh luôn thể hiện một tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo,

nhất là từ khi tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã được trang bị

một thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng giúp Người

đánh giá, chắt lọc, tiếp thu, vận dụng sáng tạo các giá trị truyền thống pháp lý

dân tộc, giá trị trong tinh hoa pháp quyền nhân loại vào điều kiện, hoàn cảnh

cụ thể của Việt Nam hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Phẩm

chất này ở Hồ Chí Minh là kết quả của các phẩm chất trên, đồng thời tạo nên

ở Hồ Chí Minh một trí tuệ siêu việt. Hình thành ở Hồ Chí Minh cách lý giải

và giải quyết riêng về tư tưởng pháp quyền, tạo nên giá trị sâu sắc của tư

tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

Bao trùm lên tất cả là tình yêu nước, thương dân của Hồ Chí Minh, sẵn

sàng hy sinh cao nhất cho quyền và lợi ích của dân tộc, của nhân dân. Tình

cảm này trở thành động lực mạnh mẽ bên trong, sức mạnh nội tại để Người

sẵn sàng đương đầu, vượt qua mọi khó khăn, thử thách đem độc lập cho dân

tộc, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Xây dựng xã hội mới, trong đó tư

tưởng pháp quyền thể hiện tư tưởng nhân văn, tôn trọng và đề cao con người.

Như Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao

cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai

cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [75, tr.187].

Page 70: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

65

Tiểu kết chƣơng 2

Thực tiễn dân tộc dưới sự cai trị của thực dân Pháp và xây dựng xã hội

mới, đặt ra yêu cầu phải xây dựng một mô hình nhà nước mới ở Việt Nam, để

Nhà nước quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả thực sự đem lại quyền lợi cho

đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động, Hồ Chí Minh đã ý thức được sự cần

thiết phải có những công cụ, phương tiện để quản lý, điều hành xã hội. Một

trong công cụ quan trọng, hiệu quả là bằng và thông qua hệ thống pháp luật,

hệ thống pháp luật phản ánh, bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động cần phải

thể hiện tinh thần pháp quyền. Đó là cơ sở thực tiễn của tư tưởng pháp quyền

Hồ Chí Minh.

Trong quá trình xây dựng tư tưởng pháp quyền của mình, Hồ Chí

Minh đã tiếp thu được những giá trị của truyền thống pháp lý dân tộc Việt

Nam, tiếp thu được những giá trị trong tinh hoa văn hóa pháp lý phương

Đông, phương Tây, trong đó có tư tưởng pháp luật của chủ nghĩa Mác -

Lênin. Đó là những tiền đề tư tưởng, lý luận của tư tưởng pháp quyền Hồ

Chí Minh.

Tất cả nhiều yếu tố trên là những cơ sở khách quan, tác động lên, phản

ánh qua lăng kính chủ quan của Hồ Chí Minh, sự thống nhất, hòa quyện của

các yếu tố trên hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, pháp quyền

Việt Nam.

Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, bao gồm các nội dung: các quan

điểm, luận điểm về vai trò của pháp luật; nội dung pháp luật ghi nhận và đảm

bảo quyền con người; các phương thức, điều kiện đảm bảo pháp quyền và

pháp quyền nhằm mục tiêu tạo ra trật tự, kỷ cương và tiến bộ xã hội.

Page 71: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

66

Chƣơng 3

NỘI DUNG TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH

3.1. VỀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT

3.1.1. Pháp luật là công cụ quản lý xã hội không thể thiếu, quan

trọng và hiệu quả

Tư tưởng Hồ Chí Minh đề cao pháp luật và thượng tôn pháp luật, dân

chủ, đi liền với trật tự, kỷ cương, phép nước. Hồ Chí Minh cho rằng quản lý

nhà nước bằng nhiều biện pháp, phương tiện, công cụ khác nhau, nhưng quan

trọng và hiệu quả nhất là bằng hệ thống pháp luật. Khi cách mạng chưa thành

công, chưa có chính quyền, chưa có điều kiện để thực hiện pháp quyền, Hồ

Chí Minh đã sớm thấy được vai quan trọng của pháp luật trong quản lý xã

hội. Trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam do Nguyễn Ái Quốc ký tên

gửi đến Hội nghị Versailles năm 1919, trong đó, có 2 điều trực tiếp đề cập

đến vấn đề pháp luật và vai trò của pháp luật:

2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ

cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như

người Âu châu; xoá bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công

cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân

An Nam;... 7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo

luật [73, tr.469].

Sau đó, bản Yêu sách của nhân dân An Nam được diễn ca thành Việt

Nam yêu cầu ca: "Hai xin phép luật sửa sang, Người Tây người Việt hai

phương cùng đồng. Bảy xin Hiến pháp ban hành, Trăm đều phải có thần linh

pháp quyền" [73, tr.472 - 473].

Điều 2 của bản Yêu sách đề cập đến địa vị pháp lý bình đẳng giữa

người bản xứ và người châu Âu. Điều 7 yêu cầu ban hành Hiến pháp và các

đạo luật thay thế cho các sắc lệnh, để thực hiện được điều này thì phải thay

Page 72: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

67

đổi chế độ cai trị của thực dân Pháp tại Việt Nam. Bối cảnh thời đại ra đời của

bản Yêu sách của nhân dân An Nam, ở các nước phương Tây, trong đó có

chính nước Pháp về phương diện lý luận đang thịnh hành tư tưởng pháp

quyền, về phương diện thực tiễn đang thực thi chính thể cộng hòa và thực

hiện pháp quyền. Trong chính thể cộng hòa về nguyên tắc và trong thực tiễn

Hiến pháp, các đạo luật do cơ quan lập pháp - Nghị viện (do nhân dân bầu ra)

ban hành. Để thực hiện điều 7 trong bản Yêu sách của nhân nhân An Nam, về

mặt tổ chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam, phải có cơ quan lập pháp. Bộ máy

đó hoàn toàn khác với Nhà nước thực dân phong kiến đang tồn tại ở Việt

Nam. Cao hơn và văn minh hơn là trong hệ thống pháp luật, từ Hiến pháp,

cho tới các đạo luật, các văn bản quy phạm pháp luật đều phải có thần linh

pháp quyền.

Khi nước nhà độc lập, giành được chính quyền, có đủ điều kiện, Hồ

Chí Minh quan tâm tới việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, sử dụng

hệ thống pháp luật điều hành Nhà nước, thực hiện pháp quyền. Chỉ một ngày

sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập, ngày 3/9/1945, Hồ Chí Minh nêu quan điểm

cần ban hành một bản Hiến pháp dân chủ: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân

chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế,

nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do

dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ" [75, tr.7].

Cao hơn, có giá trị hơn khi quan điểm này nhanh chóng được Người

hiện thực hóa, ngày 20/09/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 34 lập

Ủy ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam DCCH gồm 7 thành viên: Hồ

Chí Minh, Vĩnh Thuỵ, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến,

Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu [72], do Hồ Chí Minh làm Trưởng

ban, sau đó Ban soạn thảo Hiến pháp có thay đổi và bổ sung cho phù hợp với

tình hình thực tế. Với tư cách là người đứng đầu Chính phủ, Trưởng ban soạn

thảo Hiến pháp, Hồ Chí Minh đã tập hợp được giới tinh hoa của dân tộc thời

Page 73: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

68

điểm đó, đồng thời phát huy trí tuệ của toàn dân tộc xây dựng được một bản

Hiến pháp dân chủ và ngày 09/11/1946 được Quốc hội khóa I thông qua. Do

hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, nên Hiến pháp năm 1946 không được thi

hành đẩy đủ, triệt để trong đời sống xã hội, một phần giá trị của Hiến pháp đã

được hiện thực hóa, Quốc hội có Nghị quyết Uỷ nhiệm Chính phủ và Ban

Thường trực Quốc hội thi hành Hiến pháp; trong thời kỳ chưa thi hành được

thì Chính phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã định trong Hiến pháp để ban

hành các sắc luật.

Theo thống kê của Bộ Tư pháp trong 24 năm làm Chủ tịch nước Hồ

Chí Minh đã làm Trưởng ban soạn thảo 2 Hiến pháp năm 1946 và năm 1959;

ký và công bố 16 đạo luật và 613 sắc lệnh, văn bản dưới luật [116]. Hệ thống

pháp luật đó trở thành cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động của Nhà nước

Việt Nam DCCH, của toàn bộ xã hội Việt Nam nhằm “thực hiện chính quyền

mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”, như lời nói đầu của Hiến pháp năm

1946 đã ghi nhận.

Chủ trương nhanh chóng ban hành Hiến pháp và hệ thống pháp luật để

làm công cụ quản lý nhà nước thể hiện tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh;

chủ trương đó thể hiện tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh thống nhất với chủ

nghĩa lập hiến, với học thuyết pháp quyền của phương Tây.

Trong tư tưởng pháp quyền trên thế giới cũng như tại Việt Nam, hệ

thống pháp luật gồm Hiến pháp, luật và văn bản dưới luật. Hiến pháp được

coi là luật cơ bản, nguồn của các luật khác, có hiệu lực pháp lý cao nhất, tất cả

các luật không được trái với Hiến pháp. Sự ra đời của Hiến pháp và đề cao

Hiến pháp là một nguyên lý đảm bảo pháp quyền trong xã hội. Trong quá

trình lãnh đạo dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo 2

bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959.

Vị trí, vai trò của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật, là do cơ quan

nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu ra, đại diện cho nhân dân xây dựng, ban

Page 74: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

69

hành; là do nội dung chứa đựng trong nó quyết định. Hiến pháp năm 1946

và năm 1959 của nước Việt Nam DCCH do Quốc hội, cơ quan do nhân dân

trực tiếp bầu ra xây dựng, ban hành; nội dung quy định các quan hệ xã hội

quan trọng, xác định những vấn đề nền tảng, mang tính nguyên tắc của đất

nước, tạo căn cứ, cơ sở pháp lý cho các ngành luật khác cụ thể hóa. Các

ngành luật khác phải tuân thủ quy định của Hiến pháp, không được mâu

thuẫn với quy định của Hiến pháp. Quan điểm đề cao Hiến pháp, Hiến pháp

là đạo luật gốc, là nền tảng pháp lý quan trọng hàng đầu để “thực hiện

chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”, đó là, những biểu hiện

tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

Quản lý xã hội bằng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp khác nhau:

hệ thống luật pháp, bộ máy hành chính, quy định của các tổ chức xã hội, đạo

đức, phong tục, tập quán... Theo Hồ Chí Minh, quản lý bằng hệ thống pháp

luật là hiệu quả nhất. Pháp luật của nước Việt Nam DCCH là ý chí của nhân

dân đề lên thành luật, bảo vệ lợi ích của nhân dân, trừng trị những hành vi

chống lại quyền, lợi ích của nhân dân, bản chất này của pháp luật mới đã đảm

bảo tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật. Trong điều kiện đấu tranh bảo vệ

độc lập dân tộc, bảo vệ những thành quả cách mạng, pháp luật là công cụ

quan trọng và hiệu quả để ngăn chặn những hành vi xâm hại lợi ích dân tộc,

lợi ích nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định: “Ai làm mật thám, gián điệp, đặc

vụ cho thực dân, hoặc có những hành động chống lại kháng chiến Việt Nam,

hoặc giúp đỡ, che giấu cho giặc Pháp và bọn phản quốc thì sẽ bị xử phạt theo

pháp luật của Chính phủ Việt Nam” [78, tr.490].

Theo Hồ Chí Minh sử dụng pháp luật là một trong những nguyên tắc

quản lý xã hội, cũng là một yêu cầu của xã hội mới, Người cho rằng: “Người

nào có tội, thì điều tra cho ra, rồi có pháp luật trừng trị” [79, tr.95]. Người có

tội phải dựa vào pháp luật để trừng trị và khi sử dụng pháp luật để kết tội phải

qua một trình tự pháp lý nhất định. Dùng pháp luật trong quản lý xã hội và

Page 75: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

70

thực thi pháp luật nghiêm minh sẽ đem lại hiệu quả, Hồ Chí Minh khẳng định:

“pháp luật thì hết sức nghiêm trị ai cũng phải phục” [76, tr.710].

Hồ Chí Minh ý thức một cách sâu sắc xã hội không thể một ngày thiếu

pháp luật, khi chưa thể xây dựng được pháp luật cho xã hội mới, Hồ Chí

Minh chấp nhận sử dụng, áp dụng luật của chế độ cũ ở những mức độ nhất

định, khi sử dụng pháp luật cũ phải trên một tinh thần mới, sử dụng pháp luật

cũ một cách có nguyên tắc. Về nội dung không đi ngược lại mục tiêu độc lập,

tự do, để gìn giữ trật tự trị an. Tất cả vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc

của đông đảo các tầng lớp nhân dân Việt Nam [47]. Ngày 09/10/1945, Chủ

tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 48 quy định về việc tạm thời áp dụng đạo

luật cũ đối với các công ty, các hãng kỹ nghệ, thương mại ngoại quốc ở Việt

Nam. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 47, về việc tạm

thời sử dụng bộ luật cũ, trừ một số điểm thay đổi được ấn định trong sắc luật

này. Với quan điểm biện chứng thực tiễn, có thể thấy tư tưởng pháp quyền Hồ

Chí Minh trọng thực tế, trọng hiệu quả, thể hiện triết lý cao cả của Hồ Chí

Minh tất cả vì lợi ích nhân dân, lợi ích dân tộc; bất kỳ điều gì có lợi cho dân,

cho nước, phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước đều hữu dụng, đều có giá trị.

3.1.2. Pháp luật là cơ sở thực hiện quyền là chủ và làm chủ của

nhân dân

Nhà nước xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật xác lập và là căn cứ

pháp lý đảm bảo thực hiện quyền là chủ và làm chủ của nhân dân. Việc nhân

dân đi ứng cử và bầu cử thể hiện quyền là chủ và làm chủ của nhân dân. Sau

thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong một thời gian rất ngắn,

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký các sắc lệnh tạo căn cứ pháp lý để bầu Quốc hội

và lập Chính phủ chính thức: ngày 26/09/1945, ký Sắc lệnh số 39 thành lập

Ủy ban dự thảo thể lệ Tổng tuyển cử; ngày 17/10/1945, ký Sắc lệnh số 51 quy

định thể lệ Tổng tuyển cử; ngày 02/12/1945, ký Sắc lệnh số 71 và 72 về bổ

sung thể lệ Tổng tuyển cử. Ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử diễn ra trên cả

Page 76: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

71

nước, nhân dân lập ra cơ quan Quốc hội; ngày 2/3/1946 Quốc hội khóa I bầu

Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước và giao cho Hồ Chí Minh lập ra Chính phủ.

Tiếp sau đó, tiến hành thành lập bộ máy chính quyền ở cấp địa phương. Đối

với hệ thống cơ quan tư pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký các sắc lệnh thành

lập hệ thống cơ quan tư pháp để xét xử, duy trì, trật tự, kỷ cương, đảm bảo

tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo thực hiện pháp quyền: ngày

13/09/1945, ký sắc lệnh số 33C, thành lập Tòa án Quân sự ở Bắc Bộ, Trung

Bộ, Nam Bộ; ngày 21/02/1946, ký Sắc lệnh số 23, thành lập Việt Nam công

an vụ; ngày 23/11/1945, ký Sắc lệnh số 64, thành lập Ban thanh tra đặc biệt.

Cùng với ký các sắc lệnh thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký các sắc lệnh về

cơ cấu tổ chức, hoạt động; tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của bộ máy Nhà

nước, nhằm phục vụ xây dựng chế độ xã hội mới, phục vụ nhân dân. Những

sắc lệnh đó là căn cứ pháp lý để nhân dân lập bộ máy nhà nước từ cấp trung

ương đến địa phương, thể hiện quyền là chủ và làm chủ của nhân dân.

Hiến pháp Việt Nam hiến định quyền làm chủ của nhân dân, tại Hiến

pháp năm 1946, Điều 1 quy định: Tất cả quyền binh trong nước là của toàn

thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai

cấp, tôn giáo; tại Hiến pháp năm 1959, Điều 4 quy định: Tất cả quyền lực

trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Tư tưởng toàn

bộ quyền lực trong xã hội và trong Nhà nước thuộc về nhân dân không phải

do Hồ Chí Minh sáng tạo ra, tư tưởng đó đã xuất hiện từ thời cổ đại và trở nên

phổ biến ở phương Tây vào thời kỳ cận, hiện đại. Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế

thừa, vận dụng một cách sáng tạo vào một nước thuộc địa, một nước phương

Đông có bề dày lịch sử dưới chế độ quân chủ chuyên chế. Nét độc đáo, đặc

sắc của Hồ Chí Minh là ở chỗ làm cho tư tưởng đó trở nên thực chất và đi vào

thực tiễn đời sống xã hội.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, một chế độ xã hội mới

ra đời, tạo ra điều kiện thực hiện tư tưởng pháp quyền, tư tưởng nhân dân

Page 77: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

72

làm chủ Nhà nước. Quyền làm chủ nhà nước của nhân dân thể hiện cụ thể và

rõ nhất trong việc nhân dân bầu cử lập ra các cơ quan nhà nước, trong việc

quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Trong Lời kêu gọi quốc dân

đi bỏ phiếu, Hồ Chí Minh viết:

Ngày mai là một ngày sẽ đưa quốc dân ta lên con đường mới mẻ.

Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là

ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch

sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ

của mình [75, tr.166].

Pháp luật là cơ sở để nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng của

đất nước. Trong Hiến pháp năm 1946, tại Điều 21 xác lập nhân dân có quyền

phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia.

Trong quản lý, điều hành đất nước, Nhà nước đóng vai trò là chủ thể ra quyết

định trong nhiều trường hợp, nhưng những vấn đề hệ trọng, liên quan đến vận

mệnh quốc gia phải do nhân dân trực tiếp quyết định. Điểm này thể hiện trực

tiếp và rõ ràng nhân dân là chủ thể tối cao của đất nước. Đối với hoạt động

lập hiến, một hoạt động quan trọng của pháp quyền Việt Nam, chủ quyền

nhân dân thể hiện ở quyền phúc quyết đối với Hiến pháp. Tại Điều 70 quy

định về sửa đổi Hiến pháp xác lập quyền quyết định cuối cùng và trực tiếp đối

với bản Hiếp pháp sửa đổi; hiệu lực của Hiến pháp sửa đổi chỉ có khi có sự

đồng ý của nhân dân.

Ý thức được pháp luật là cơ sở để nhân dân thực hiện quyền là chủ và

làm chủ, ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam DCCH, Hồ Chí

Minh quan tâm đến việc ban hành các văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý để

nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, quyền làm chủ đất nước trên

thực tế. Chính Hồ Chí Minh khẳng định tính nhanh chóng, tính tiến bộ, tính

rộng rãi của cuộc bầu cử Quốc hội ở nước ta so với bầu cử ở Pháp: Pháp có

mấy chục lần tuyển cử rồi, nhưng mãi năm ngoái (1945), phụ nữ Pháp mới

Page 78: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

73

được hưởng quyền bỏ phiếu. Xem như thế, thì có cái ta chậm hơn nước ngoài,

nhưng cũng có cái ta đi quá họ. So sánh về đối tượng và số lượng người được

đi bầu cử Quốc hội ở nước Pháp năm 1791 càng thấy rõ tính rộng rãi, tính

toàn dân của cuộc bầu cử 6/1/1946 ở Việt Nam, thể hiện tư tưởng pháp quyền

dân chủ, thực sự dân là chủ và dân làm chủ của Hồ Chí Minh. Đối tượng được

đi bầu cử Quốc hội Pháp năm 1791 là từ 25 tuổi trở lên và không làm thuê

cho ai, có tên trong danh sách vệ quốc quân, phải nộp một khoản thuế trực thu

ít nhất bằng ba ngày công; với quy định đó chỉ có hơn 4 triệu người trên tổng

số 26 triệu người Pháp có quyền đi bầu cử. So với Liên Xô, Cách mạng tháng

Mười thành công gần 20 năm sau (năm 1936), cuộc Tổng tuyển cử với chế độ

phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín mới được thực hiện

[69]. So với Trung Quốc đến nay Quốc hội vẫn chưa thực hiện chế độ bầu cử

phổ thông, trực tiếp, bỏ phiếu kín [62]. Trong trong Sắc lệnh số 51 và Hiến

pháp năm 1946, tiêu chuẩn về người đi bầu cử là 18 tuổi; người ứng cử là

người có quyền bầu cử, 21 tuổi trở lên và biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ, với

quy định như vậy, đối tượng có quyền bầu cử và ứng cử rất rộng.

Các quy định trong hệ thống pháp luật do Chủ tịch Hồ Chí Minh tham

gia soạn thảo, ký và công bố thể hiện tư tưởng pháp quyền coi Nhà nước và

quyền lực nhà nước là từ nhân dân mà ra. Hồ Chí Minh viết:

Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu

quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm

của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn

thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền

hành và lực lượng đều ở nơi dân [77, tr.232].

Pháp luật là cơ sở để nhân dân giám sát hoạt động và bãi miễn đại biểu

do mình bầu ra khi không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân, thể hiện

tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Trong Hiến pháp năm 1946, tại Điều 20

Page 79: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

74

xác lập nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra, đó là các

Nghị viên, Nhân viên Hội đồng nhân dân, Ủy ban hành chính. Bầu cử là hành

động nhân dân ủy quyền cho các đại biểu sử dụng quyền của nhân dân để

quản lý, điều hành đất nước, địa phương. Sau hoạt động ủy quyền, nhân dân

giám sát quyền của mình được các đại biểu sử dụng như thế nào, khi phát

hiện các đại biểu sử dụng không đúng với lợi ích của mình, nhân dân góp ý

kiến phê bình, chất vấn, khi không xứng đáng với sự tín nhiệm của mình,

nhân dân bãi miễn đại biểu.

Pháp luật ghi nhận quyền lập ra Nhà nước, quyền kiểm soát Nhà nước,

quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước của nhân dân; đó là căn

cứ pháp lý để thực hiện trên thực tế quyền là chủ và làm chủ của nhân dân.

3.1.3. Pháp luật là cơ sở ngăn chặn sự lạm quyền của Nhà nƣớc,

của nhân viên nhà nƣớc

Nhà nước Việt Nam DCCH khi vừa ra đời đã thực hiện nhiều chính

sách đem lại lợi ích thiết thực cho dân chúng, được dân chúng ghi nhận và tin

tưởng, Hồ Chí Minh đánh giá:

Non hai tháng trước đây, trước cuộc khởi nghĩa 19-8-1945, nói tới

hai chữ Chính phủ người ta nghĩ ngay tới một bọn đầu đảng cướp

nguy hiểm, xảo quyệt. Trái lại, ai ai đối với Chính phủ nhân dân

hiện nay cũng đều có một cảm tình thân mật xen lẫn với một tôn

kính sâu xa: Chính phủ đối với ta như người "anh cả" trong gia

đình, một đồng chí phụ trách trong một địa phương, một người

đứng mũi chịu sào ta có thể vững lòng trông cậy và gửi số mệnh

vào [75, tr.24].

Thực tiễn khẳng định bản chất tốt đẹp và sự ưu vượt của Nhà nước

mới, nhưng đồng thời cũng làm bộc lộ những khuyết tật của Nhà nước mới,

làm giảm bản chất tốt đẹp và những ưu vượt của Nhà nước mới. Ngày

17/9/1945, trong Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà, Hồ Chí Minh chỉ ra các

Page 80: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

75

khuyết điểm to ở các địa phương, trong đó có khuyết điểm: cán bộ hủ hóa, lên

mặt làm quan cách mạng, độc hành độc đoán, lấy của chung làm của riêng.

Thậm chí dùng pháp luật để trả thù tư, coi thường pháp luật, vi phạm pháp

luật. Hồ Chí Minh nêu: “Đối với nhân dân thì quan liêu, mệnh lệnh; xem

thường pháp luật, không tôn trọng quyền lợi của nhân dân (như có khi khám

xét nhà mà không báo trước cho chủ nhà)” [83, tr.29].

Theo Hồ Chí Minh phải lập tức sửa đổi ngay và khắc phục ngay những

biểu hiện ban đầu, nhưng rất nguy hiểm đó. Hồ Chí Minh cho rằng có nhiều

biện pháp khác nhau để hạn chế, ngăn chặn, loại bỏ sự lạm quyền của Nhà

nước, của nhân viên nhà nước, trong đó sử dụng pháp luật là một trong biện

pháp quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 223, ngày 27/11/1946

trong đó quy định hình phạt nặng với tội đưa, nhận hối lộ, biển thủ công quỹ:

tù khổ sai từ 5 năm đến 20 năm; phạt tiền gấp đôi số tiền nhận hối lộ, biển

thủ; tịch biên ba phần tư tài sản; các đồng phạm và tòng phạm cũng phạt

tương tự. Dùng hình phạt nghiêm khắc được quy định trong pháp luật đối với

những hành vi lợi dụng quyền hạn của nhân viên Nhà nước là một trong

những biện pháp vừa mang tính trừng trị, vừa mang tính răn đe, phòng ngừa.

Hồ Chí Minh khẳng định đối với hành vi của nhân viên nhà nước xâm

hại quyền và lợi ích của nhân dân vừa phải bồi thường thiệt hại, đồng thời

dùng pháp luật để xử lý. Người viết: “Người quản lý hiện giờ, phải trả lại sản

vật hoa mùa đầy đủ theo lệ thường. Nếu thiếu hoặc hư hỏng vật gì, thì theo

phép luật mà xử trí. Nếu người quản lý mượn tên người nào hoặc đoàn thể

nào mà làm quấy, thì cứ theo phép luật mà trị” [76, tr.67].

Với hai bản Hiến pháp, cùng các sắc lệnh, luật về tổ chức hoạt động

của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban hành chính các cấp; hệ

thống cơ quan tư pháp quy định về chức năng, quyền hạn của các cơ quan nhà

nước, của các chức vụ trong chính quyền, của các nhân viên nhà nước làm cơ

sở pháp lý cho việc ngăn chặn lạm quyền của Nhà nước và nhân viên nhà

Page 81: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

76

nước. Việc đề xuất và nhanh chóng xây dựng, thông qua Hiến pháp năm

1946, một bản hiến pháp dân chủ, thể hiện đậm nét tư tưởng pháp quyền, tư

tưởng lập hiến dân chủ, tiến bộ của Hồ Chí Minh. Hiến pháp đó là văn bản

pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất, Hiến pháp quy định quyền lực của Nhà

nước, các chức vụ trong cơ quan nhà nước ở cấp trung ương, tạo thành giới

hạn, hành lang cho quyền lực nhà nước; tạo cơ sở pháp lý ngăn chặn sự lạm

quyền của Nhà nước, của nhân viên nhà nước. Xét hoàn cảnh lịch sử ra đời

của Hiến pháp năm 1946 và vai trò, vị trí cá nhân Hồ Chí Minh đối với Cách

mạng tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh sớm đề xuất và nhanh chóng xây

dựng, thông qua bản Hiến pháp dân chủ, càng thấy tư tưởng dân chủ, tiến bộ,

văn minh ở Hồ Chí Minh, một nhà tư tưởng vĩ đại, một nhân cách lớn của dân

tộc và nhân loại.

Bên cạnh việc phê phán, lên án và dùng pháp luật trừng trị những hành

vi vi phạm pháp luật của nhân viên nhà nước, Hồ Chí Minh yêu cầu, kêu gọi

nhân viên nhà nước tuân thủ pháp luật, phải gương mẫu chấp hành pháp luật.

Người viết: “Phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng. Gương mẫu chấp

hành pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần

chúng mà mình tham gia” [84, tr.242].

Dùng pháp luật không phải là biện pháp duy nhất; nhưng sẽ là biện

pháp hữu hiệu khi các biện pháp khác chưa phát huy hiệu quả; một cơ sở

quan trọng đề ngăn chặn tình trạng lạm quyền của Nhà nước, của nhân viên

nhà nước.

3.1.4. Pháp luật đảm bảo quyền con ngƣời

Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, có sự thống nhất biện chứng

giữa quyền của dân tộc và quyền con người. Trong điều kiện dân tộc mất độc

lập, thì quyền con người không có, không được bảo đảm; độc lập dân tộc là

trước hết, trên hết; độc lập dân tộc làm điều kiện, tiền đề cho thực hiện quyền

Page 82: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

77

con người. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành Trung ương

Đảng họp tháng 5/1941khẳng định:

Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự

sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu

không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được

độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc

gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận,

giai cấp đến vạn năm sau cũng không đòi lại được [24, tr.113].

Hồ Chí Minh hiểu rõ thực tiễn một nước thuộc địa, dân tộc đang mất

độc lập, các quyền dân tộc bị xâm phạm, yêu cầu bức thiết, cần kíp nhất lúc

này là đòi độc lập dân tộc và thực hiện các quyền dân tộc, pháp quyền dân

tộc, điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền con người, pháp quyền dân chủ.

Năm 1919, trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị

Versailles, Nguyễn Ái Quốc đã đề cập đến quyền con người; nhưng mới chỉ là

quyền cơ bản và tối thiểu của con người Việt Nam, mà thiếu nó con người

Việt Nam không còn được sống với tư cách con người. Nhưng không được

chấp nhận, tư duy chính trị của Nguyễn Ái Quốc có sự thay đổi, từ đây,

Người tập trung đấu tranh đòi quyền dân tộc, thực hiện pháp quyền dân tộc

trước, làm điều kiện thực hiện pháp quyền dân chủ. Đến Chánh cương vắn tắt

của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị hợp nhất của

Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 thông qua, trong đó ưu tiên cho

quyền dân tộc độc lập, cụ thể đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp và phong kiến,

làm cho An Nam hoàn toàn độc lập. Đây là một bước phát triển mới về nhận

thức pháp quyền ở Việt Nam, pháp quyền trở thành mục tiêu của một đảng

chính trị, đảng sau này lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh đòi được và

từng bước thực hiện quyền dân tộc, quyền con người. Đến Tuyên ngôn Độc

lập ngày 2/9/1945, Việt Nam tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với

Pháp, xóa bỏ những hiệp ước mà Pháp đã ký với Việt Nam, xóa bỏ mọi đặc

Page 83: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

78

quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam; tuyên bố Việt Nam có quyền hưởng

tự do và độc lập, và sự thực đã trở thành một nước tự do và độc lập; tuyên bố

nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ vững nền tự do và độc lập của mình. Như

vậy, với Tuyên ngôn Độc lập quyền của dân tộc Việt Nam đã được thực hiện.

Tuyên ngôn Độc lập là văn bản pháp lý khẳng định quyền sống của dân tộc,

của con người, đó cũng là những khái niệm pháp lý quan trọng trong luật

pháp quốc tế hiện đại. Tuyên ngôn Độc lập, một kiệt tác của lịch sử dân tộc

Việt Nam, một cột mốc trong lịch sử pháp quyền Việt Nam và tư tưởng pháp

quyền Hồ Chí Minh. Tuyên ngôn Độc lập đóng lại chế độ cai trị không pháp

quyền, trái pháp quyền của chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam; đồng thời mở ra

một thời kỳ mới của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, cho pháp quyền Việt

Nam, đó là, thời kỳ tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh hiện thực hóa, bổ

sung, phát triển.

Sau Cách mạng tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập, tư tưởng pháp

quyền Hồ Chí Minh về quyền con người nhanh chóng trở thành hiện thực. Hồ

Chí Minh với vai trò người đứng đầu Nhà nước đã nhanh chóng ban hành các

văn bản pháp luật ghi nhận và đảm bảo quyền con người ở Việt Nam. Ngày

13/09/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 31 quy định về thể thức tổ

chức các cuộc biểu tình, qua Sắc lệnh thừa nhận quyền tự do hội họp thông

qua hoạt động biểu tình. Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số

33B, quy định về trình tự thủ tục bắt người của Sở Liêm phóng và Sở Cảnh

sát, qua Sắc lệnh thừa nhận quyền tư pháp của cá nhân con người, Sắc lệnh

quy định các cơ quan trên khi bắt một người trong vòng 24 giờ phải lập biên

bản để thả người ngay hoặc chuyển sang tòa án, cả hai trường hợp đều phải

ghi lý do. Quyền là công dân và quyền trở thành công dân nước Việt Nam

DCCH theo Sắc lệnh số 53, ngày 20/10/1945, Sắc lệnh số 73, ngày

07/12/1945. Quyền học tập, học tập là bắt buộc và học tập miễn phí theo các

Sắc lệnh số 20, ngày 08/09/1945, Sắc lệnh số 147, ngày 07/12/1945. Quyền tự

Page 84: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

79

do cá nhân, quyền tài sản, quyền sống theo các Sắc lệnh số 17, ngày

28/01/1946, Sắc lệnh số 40, ngày 29/03/1946. Quyền về tự do báo chí và ra

báo theo Sắc lệnh số 41, ngày 22/04/1946. Quyền lập hội và họp hội và họp

hội theo Sắc lệnh số 52, ngày 22/04/1946.

Và một văn bản pháp luật hết sức đặc sắc, thể hiện nhiều khía cạnh của

tư tưởng pháp quyền nhân văn Hồ Chí Minh, Sắc lệnh số 84, ngày 29/05/1946

về triệt để bỏ xe kéo tay, quy định thay thế bằng một xe chở người mà không

do người kéo. Xe kéo tay, một hành ảnh phổ biến tại các đô thị Việt Nam

trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, hình ảnh đó liên quan đến danh dự,

nhân phẩm con người, thể hiện địa vị, thân phận con người; việc Chủ tịch Hồ

Chí Minh ban hành sắc lệnh bãi bỏ xe kéo tay, một việc tưởng chừng nhỏ,

nhưng thể hiện một tư tưởng lớn, thể hiện bản chất chế độ xã hội mới, thể

hiện tư tưởng pháp quyền đề cao, tôn trọng con người, nhân phẩm con người.

Đặt trong hoàn cảnh lịch sử Việt Nam năm 1946, tình thế cách mạng “ngàn

cân treo sợ tóc”, Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh như vậy, ta càng thấy sáng

ngời tư tưởng pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, pháp quyền vì con người,

lấy con người làm trung tâm.

Hiến pháp năm 1946, một cột mốc đánh dấu bước phát triển mới về

quyền con người ở Việt Nam, quyền con người được hiến định, một sự ghi

nhận và đảm bảo cao nhất về phương diện chính trị - pháp lý. Từ đây, quyền

con người tại Việt Nam được đảm bảo thực hiện, quyền con người trở thành

nghĩa vụ thiêng liêng của cả hệ thống chính trị, mà trực tiếp là của bộ máy

nhà nước. Quyền con người trở thành một đặc trưng của xã hội mới, trở thành

mục tiêu xây dựng xã hội mới ở Việt Nam.

Cùng với quá trình cách mạng, Hồ Chí Minh và các cơ quan Nhà nước

ban hành hai bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, các luật, các văn

bản dưới luật tạo thành hệ thống pháp luật ghi nhận và đảm bảo các quyền

con người, trở thành cơ sở pháp lý cho việc tổ chức, thực thi quyền con người

Page 85: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

80

ở Việt Nam. Quyền con người là nội dung trung tâm, cốt lõi của tư tưởng

pháp quyền Hồ Chí Minh; điều đó góp phần quan trọng vào thực hiện mục

tiêu suốt đời Hồ Chí Minh phấn đấu làm cho nhân dân Việt Nam sống một

đời sung sướng. Người viết: “XHCN là ai cũng được làm việc, được ăn no

mặc ấm, được học hành, người già yếu thì được giúp đỡ, các cháu bé thì được

săn sóc. Nói tóm lại, XHCN là sung sướng ấm no” [83, tr.5]. Đó là đạo lý

thiêng liêng, cao cả của toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng

pháp quyền.

Hệ thống pháp luật, trong đó có Hiến pháp của mỗi quốc gia, chỉ thừa

nhận, bảo vệ các quyền và tự do của công dân nước mình. Đối với người

không phải công dân Việt Nam, họ không được hưởng những quyền và tự do

theo pháp luật Việt Nam, nhưng họ cũng là con người, họ cũng có quyền con

người. Đối với người nước ngoài, Hồ Chí Minh cho rằng pháp luật, Chính

phủ, nhân dân Việt Nam sẽ tôn trọng và đảm bảo quyền con người ở mức độ

nhất định. Đối với ngoại kiều là người Pháp, người Hoa, người Âu châu...,

Chính phủ và pháp luật Việt Nam đảm bảo về tài sản và tính mạng. Đối với

tù binh của Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định nhân dân Việt Nam đối xử

nhân đạo, thể hiện dân tộc Việt Nam là dân tộc văn minh. Hồ Chí Minh ra

lệnh: “Phải bảo vệ sinh mệnh và tài sản các ngoại kiều, và đối đãi tử tế với

tù binh” [75, tr.537].

Tính nhân văn, nhân nghĩa, tôn trọng công lý, đạo làm người trở thành

một đặc trưng trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

3.1.5. Công pháp quốc tế là cơ sở thực hiện quyền dân tộc

Trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đang thống trị trên phạm vi thế giới,

xuất phát từ thân phận của người dân thuộc địa, quan hệ bất bình đẳng giữa

quốc gia chính quốc và thuộc địa, Hồ Chí Minh tập trung vào chủ thể trong

quan hệ quốc tế là quốc gia. Hồ Chí Minh quan tâm đấu tranh giành độc lập

Page 86: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

81

cho các dân tộc thuộc địa, thực hiện các quyền dân tộc, đấu tranh cho sự bình

đẳng dân tộc, cho nền hòa bình của nhân loại.

Hồ Chí Minh khẳng định các quyền tự nhiên vốn có của dân tộc là

quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Hồ Chí

Minh đã tán thành và ca ngợi các nguyên tắc trong quan hệ quốc tế được nêu

trong Hiến chương Đại Tây Dương và Hiến chương Xan Phranxixco. Hồ Chí

Minh viết:

Bản Hiến chương Đại Tây Dương đã được ký kết, xác định mục

tiêu chiến tranh của các nước Đồng minh và đặt nền tảng cho sự

nghiệp hòa bình. Những nguyên tắc cao quý của sự công bằng và

bình đẳng quốc tế về địa vị được nêu lên trong bản Hiến chương

này đã lôi cuốn mạnh mẽ dân Việt Nam, và góp phần làm cho

cuộc kháng chiến của Việt Minh ở các vùng có chiến tranh thành

một phong trào kháng Nhật rộng khắp quốc gia, có tiếng vang

mạnh mẽ trong những khát vọng về dân chủ của dân chúng. Hiến

chương Đại Tây Dương được xem như nền tảng của nước Việt

Nam trong tương lai [75, tr.81].

Đó là những căn cứ pháp lý quốc tế quan trọng để các dân tộc thuộc địa

đấu tranh đòi quyền dân tộc, trong đó có quyền tự quyết, quyền bình đẳng

trong quan hệ quốc tế. Hồ Chí Minh lên án, tố cáo sự xâm lược, thống trị của

chủ nghĩa đế quốc xâm phạm quyền dân tộc, quyền con người ở các dân tộc

thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Hồ Chí Minh viết: “Thế mà hơn 80 năm

nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất

nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và

chính nghĩa” [75, tr.1].

Đối với dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định có quyền được

hưởng độc lập tự do và sự thực đã trở thành một nước tự do độc lập; tuyên bố

Page 87: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

82

xóa bỏ mọi hiệp ước và quan hệ bất bình đẳng với Pháp; cũng như quyết tâm

bảo vệ các quyền của dân tộc Việt Nam.

Hồ Chí Minh khẳng định cuộc đấu tranh để đòi và thực hiện các quyền

dân tộc của nhân dân Việt Nam phù hợp với các căn cứ pháp lý quốc tế, đó

vừa là mong muốn của nhân dân Việt Nam, cũng là đóng góp của nhân dân

Việt Nam vào sự hợp tác và hòa bình trên thế giới. Hồ Chí Minh khẳng định:

Trong cuộc thế giới đại chiến vừa qua, trong khi thực dân Pháp

hàng phục trước phát xít Nhật Bản, nhân dân Việt Nam đã chiến

đấu chống Nhật, bên cạnh các nước Đồng minh. Nhờ sức tranh

đấu, dân Việt Nam đã giành lại được độc lập và theo đúng Hiến

chương Đại Tây Dương và Cựu Kim Sơn đã thành lập nền Dân

chủ Cộng hoà, dân Việt Nam muốn sống tự do và làm việc trong

hoà bình. Dân Việt Nam mong được hợp tác thân ái với dân tộc

Pháp [76, tr.100].

Hồ Chí Minh một mặt khẳng định chính sách ngoại giao của nhân dân

Việt Nam tuân thủ các nguyên tắc quốc tế: bình đẳng, mở cửa, hợp tác, tôn

trọng độc lập của các dân tộc trên thế giới; mặt khác kêu gọi, yêu cầu quốc tế

thừa nhận quyền của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh viết:

Chính vì tinh thần ấy mà Chính phủ chúng tôi trình bày với Hội

đồng bảo an về cuộc xung đột hiện nay, và đề nghị Hội đồng vui

lòng chấp nhận những điều mà chúng tôi đã nói ở trên để vãn hồi

hòa bình trong một phần thế giới này, để cho Hiến chương Đại Tây

Dương được tôn trọng và để khôi phục lại những quyền cơ bản của

Việt Nam là được thừa nhận độc lập dân tộc và thống nhất lãnh thổ

[75, tr.523 - 524].

Trong quan hệ quốc tế, trong việc thực hiện các quyền dân tộc, Hồ Chí

Minh thể hiện rõ tư tưởng căn cứ trên công pháp quốc tế. Hồ Chí Minh mong

Page 88: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

83

muốn và luôn thể hiện bằng hành động thiện chí sử dụng biện pháp hòa bình

thương lượng, đàm phán để giải quyết các xung đột vũ trang.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của pháp luật thể hiện tập trung:

Pháp luật là công cụ quản lý xã hội không thể thiếu, quan trọng, hiệu quả;

pháp luật là cơ sở thực hiện quyền là chủ, làm chủ của nhân dân; pháp luật là

cơ sở ngăn chặn sự lạm quyền của Nhà nước, của nhân viên nhà nước; pháp

luật đảm bảo quyền con người và công pháp quốc tế là cơ sở để thực hiện

quyền dân tộc.

3.2. VỀ PHƢƠNG THỨC THỰC HIỆN PHÁP QUYỀN

3.2.1. Thông qua hoạt động của Nhà nƣớc dân chủ

Sau khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đặt sự thống trị lên toàn

dân tộc Việt Nam, một mặt chúng duy trì triều đình nhà Nguyễn, mặt khác

chúng đặt bộ máy cai trị thực dân, đặt người đứng đầu ở mỗi kỳ, đối với

Trung kỳ bên cạnh triều đình phong kiến chúng đặt Khâm sứ ở Huế; Bắc kỳ

chúng đặt Công sứ; Nam kỳ chúng đặt Thống sứ; dưới các chức vụ đứng đầu

mỗi kỳ là đội ngũ viên chức, tất cả đặt dưới Toàn quyền Đông Dương [94].

Nhà nước thực dân phong kiến là công cụ bạo lực trong tay thực dân Pháp

dùng để cai trị nhân dân Việt Nam. Thông qua nhiều tác phẩm Hồ Chí Minh

viết vào những năm 1920: chúng ta thấy những tên quan thực dân tham lam

vô độ, tàn bạo, không còn chút nhân tính; những tên lính thực dân như những

con thú vật, thậm chí không bằng loài cầm thú (Tội ác của chủ nghĩa thực

dân; Sự quái đản của công cuộc khai hóa...); đặc biệt thông qua tác phẩm Bản

án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chí Minh lên án chính sách cai trị hà khắc của

thực dân Pháp với các thuộc địa, trong đó có Việt Nam [73, 74]. Như vậy,

Nhà nước thực dân phong kiến là một mục tiêu cần đánh đổ.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, thông qua cuộc Tổng

tuyển cử ngày 6/1/1946, nhân dân lập ra Nhà nước Việt Nam DCCH, theo Hồ

Page 89: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

84

Chí Minh, toàn bộ hoạt động của Nhà nước nhằm mục đích làm cho dân có

ăn, có mặc, được học hành và có chỗ ở. Khi vừa giành được độc lập trên 90%

dân số mù chữ, nạn đói hoành hành, Hồ Chí Minh nêu chủ trương diệt giặc

đói, diệt giặc dốt, ban hành các chính sách cụ thể, cùng với sự nỗ lực của nhân

dân, từng bước chúng ta thoát đói và xóa mù chữ. Các chính sách xã hội mà

Người nêu ra đã được quần chúng nhân dân ủng hộ và thu được thành tựu,

từng bước đưa đất nước vượt qua khó khăn. Hồ Chí Minh luôn khẳng định

pháp quyền qua bản chất phục vụ nhân dân, đem lại quyền và lợi ích cho nhân

dân của Nhà nước Việt Nam DCCH. Hồ Chí Minh viết:

Nhưng thực tế thì chỉ có chế độ của chúng ta mới thật sự phục vụ

lợi ích của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, bảo đảm mọi

quyền lợi của nhân dân, mở rộng dân chủ để nhân dân thật sự tham

gia quản lý Nhà nước. Vì vậy cho nên nhân dân ta đưa hết khả năng

làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà để xây dựng chủ nghĩa xã

hội, làm cho nước ta mạnh, dân ta giàu [82, tr.377].

Hồ Chí Minh nhiều lần dùng khái niệm “Chính phủ là đày tớ” để nói về

Nhà nước Việt Nam DCCH. Nhà nước vì dân là một Nhà nước lấy lợi ích

chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân,

ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một Nhà nước trong

sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào. Trên tinh thần đó Hồ Chí

Minh nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi

cho dân. Dân là gốc của nước. Một Nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ

Chí Minh, là từ Chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải làm công

bộc, làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải "làm quan cách mạng" để "đè

đầu cưỡi cổ nhân dân" như dưới thời đế quốc, thực dân. Ngay như chức

vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác

cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đày tớ cho nhân dân. Hoạt

động của Nhà nước phải thực hiện phương châm việc gì có lợi cho dân phải

Page 90: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

85

hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Phải chú ý giải quyết

những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Hồ Chí Minh viết:

Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc

cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc

chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ

dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải

hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta

phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta [75, tr.65].

Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại

biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình, không phải là

đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, "cậy thế" với dân, "quên rằng dân

bầu mình ra là để làm việc cho dân". Một Nhà nước như thế là một Nhà nước

tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam

DCCH do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2/9/1945 chính là Nhà nước tiến bộ

chưa từng có trong lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nam.

Mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân được thể hiện cụ thể trong

mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ. Nhà nước có nghĩa vụ với công dân,

đồng thời có những quyền theo quy định của pháp luật để thực thi công quyền

mà nhân dân giao phó; ngược lại công dân vừa có quyền, đồng thời có nghĩa

vụ đối với Nhà nước. Người cho rằng cơm của chúng ta ăn, áo của chúng ta

mặc, vật liệu chúng ta dùng đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì

vậy, chúng ta phải đền ơn xứng đáng cho nhân dân, chớ vác mặt làm quan

cách mạng để dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh

cũng rất cương quyết với những hành vi vi phạm pháp luật và trừng trị

nghiêm khắc những kẻ phạm tội, dù người đó ở cương vị nào. Hồ Chí Minh

nói: Chính phủ hết sức làm gương, nếu làm gương không xong thì sẽ dùng

pháp luật mà trị những kẻ hối lộ, đã trừng trị, đang trừng trị và sẽ trừng trị cho

kỳ hết.

Page 91: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

86

3.2.2. Thực thi pháp luật công tâm, nghiêm minh

Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh luôn yêu cầu toàn xã hội tuân

thủ và tôn trọng pháp luật. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải gương mẫu

trong tuân thủ kỷ luật và pháp luật, nêu gương cho quần chúng noi theo. Hồ

Chí Minh nhắc nhở cán bộ ngành tư pháp: "Các bạn là những người phụ trách

thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn cần phải nêu cao cái gương "phụng

công, thủ pháp, chí công vô tư" cho nhân dân noi theo" [76, tr.473].

Không phải mọi người dân luôn có ý thức tuân thủ pháp luật, không

phải mọi lúc, mọi nơi pháp luật luôn được tuân thủ, tôn trọng. Đối với hành vi

vi phạm pháp luật, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xử lý theo pháp luật: "Những

hành vi trái với luật này sẽ bị xử lý theo pháp luật" [82, tr.707]. Xử lý các

hành vi vi phạm pháp luật đảm bảo tính nghiêm minh, hiệu lực của pháp luật.

Hồ Chí Minh nêu quan điểm khi thực thi pháp luật phải đảm bảo tính

công bằng, bình đẳng. Mọi vi phạm đều phải xử lý bằng pháp luật, khi xử lý

vi phạm như nhau xử lý như nhau, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp

luật, không có bất kỳ sự phân biệt nào. Khi vi phạm pháp luật sẽ xử lý nghiêm

cho dù người vi phạm là ai, giữ cương vị gì. Hồ Chí Minh khẳng định: "Pháp

luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm

nghề nghiệp gì. Mỗi người phải nhận rằng, tham lam là một điều rất xấu hổ,

kẻ tham lam là có tội với nước, với dân" [77, tr.127].

Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa nhận thức và hành động là

nguyên tắc đặc trưng trong con người Hồ Chí Minh, nhanh chóng hiện thực

hóa những tư tưởng của mình trong thực tiễn đời sống xã hội là một điểm đặc

sắc, là phong cách Hồ Chí Minh, Người là một nhà thực tiễn. Điều này được

thể hiện rõ nét trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Trong quá trình cách

mạng, bên cạnh những cán bộ cúc cung tận tụy, hết sức trung thành với nhiệm

vụ, với Chính phủ, với quốc dân, thì vẫn còn có những cán bộ thoái hóa, vi

phạm pháp luật, vi phạm đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh tuyên bố đã, đang

Page 92: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

87

và sẽ trị cho hết. Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã xử lý

vi phạm pháp luật của những cán bộ cấp cao trong Chính phủ. Năm 1946,

Chu Bá Phượng, Bộ trưởng Bộ kinh tế trong Chính phủ liên hiệp kháng chiến,

là đại biểu của Việt Nam Quốc dân đảng, thành viên trong đoàn Chính phủ

Việt Nam DCCH dự Hội nghị Fontainbleau, bị các nhà chức trách Pháp bắt vì

mang vàng đi buôn, bị xử lý bãi miễn tư cách đại biểu Quốc hội và cách chức.

Trong kháng chiến chống Pháp (9-1950), Hồ Chí Minh đã bác đơn xin ân xá,

y án tử hình Trần Dụ Châu, Đại tá, Cục trưởng Cục quân nhu, phạm tội lợi

dụng chức vụ, quyền hạn, bớt xén phần cơm áo của bộ đội để sống trác táng,

trụy lạc [100].

Đảm bảo tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật, Hồ Chí Minh cho

rằng vi phạm pháp luật cần phải được xử lý kịp thời. Hồ Chí Minh viết:

Vừa qua có hiện tượng: Thủ tướng, Phó Thủ tướng đã ra lệnh,

nhưng cấp dưới không thi hành mà cũng không có kỷ luật. Có cán

bộ, đảng viên lợi dụng quyền thế của Đảng và Nhà nước làm những

việc trái với chính sách và pháp luật, xâm phạm đến lợi ích vật chất

và quyền tự do dân chủ của nhân dân, nhưng cũng chưa bị xử phạt

kịp thời... Như vậy là kỷ luật chưa nghiêm [84, tr.696].

Tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật trong tư tưởng pháp quyền

Hồ Chí Minh khác với tính hà khắc, tính dã man của các kiểu pháp luật đã

từng tồn tại trong lịch sử. Tính nghiêm minh, hiệu lực của pháp luật gắn với

tính nhân văn, nhân đạo; gắn với tính hiệu quả. Vi phạm pháp luật có nhiều

mức độ, tính chất khác nhau khi áp dụng pháp luật cần có chế tài phù hợp, thể

hiện tính nghiêm minh, đồng thời thể hiện tính nhân văn, nhân đạo, tính hiệu

quả. Trước khi áp dụng chế tài cần điều tra kỹ lưỡng, đầy đủ đánh giá chính

xác tính chất mức độ vi phạm và lựa chọn chế tài phù hợp. Hồ Chí Minh viết:

Page 93: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

88

Chúng ta phải xét rõ những phần tử khác nhau đó, và dùng chính

sách khác nhau mà đối phó. Đối với bọn đại gian đại ác thì phải

trừng trị theo pháp luật. Đối với bọn sau, thì cho "cải tà quy chính",

lập công chuộc tội [78, tr.388].

Trong xử lý vi phạm pháp luật, bên cạnh chế tài trừng trị, Hồ Chí Minh

còn nêu các hình thức xử lý mang tính giáo dục, cải tạo. Pháp quyền trong

đấu tranh với kẻ địch thì phải nghiêm minh, nhưng pháp quyền trong đấu

tranh nội bộ nhân dân, bên cạnh tính nghiêm minh, Hồ Chí Minh hết sức lưu

ý tới tính nhân văn, tính giáo dục, có lý có tình, phù hợp với đạo lý làm người.

Hồ Chí Minh cho rằng:

Đối với giai cấp địa chủ, nông dân cũng không "vơ đũa cả nắm",

mà có phân biệt: Đối với những địa chủ thật thà tuân theo pháp luật,

thì giúp đỡ cải tạo. Đối với những địa chủ cường hào gian ác, đã có

nhiều nợ máu, lại ngoan cố phá hoại thì mới trừng trị. Giáo dục cải

tạo là chính [81, tr.298].

Tư tưởng pháp quyền có đặc trưng là thượng tôn pháp luật, pháp luật

giữ vị trí chi phối đối với toàn bộ đời sống xã hội, trong đó có cả Nhà nước.

Về hình thức pháp luật là do Nhà nước ban hành, pháp luật giữ vai trò thống

trị đối với xã hội và được đảm bảo thực thi, mang tính cưỡng chế bằng Nhà

nước, nhìn dưới góc độ đó, pháp luật là công cụ, phương tiện để Nhà nước

áp đặt ý chí lên xã hội. Theo tư tưởng pháp quyền, bản thân Nhà nước đặt

mình dưới pháp luật, không được cho mình quyền đứng trên hay đứng ngoài

pháp luật.

Pháp luật có tính bắt buộc chung đối với mọi người, tôn trọng, tuân thủ

pháp luật là nghĩa vụ của mọi công dân. Tính nghiêm minh của pháp luật là

yếu tố hàng đầu đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật, đảm bảo pháp

quyền trong quản lý nhà nước. Đối với công dân nước Việt Nam DCCH tôn

trọng Hiến pháp và tuân thủ pháp luật là một nghĩa vụ hiến định. Hiến pháp

Page 94: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

89

năm 1946 quy định tại Điều thứ 4: Mỗi công dân Việt Nam phải: Tôn

trọng Hiến pháp; Tuân theo pháp luật. Hiến pháp năm 1959 quy định tại

Điều 39: Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có nghĩa vụ tuân

theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng, và những quy

tắc sinh hoạt xã hội. Hồ Chí Minh yêu cầu tất cả các tầng lớp nhân dân phải tôn

trọng và tuân thủ pháp luật, dựa trên pháp luật để điều chỉnh các hành vi ứng

xử cho phù hợp với quy định của pháp luật. Đối với các tầng lớp nhân dân Việt

Nam đang sống trong nước từ công nhân, nông dân, trí thức, cán bộ, công

chức, đảng viên, các lực lượng vũ trang, thanh niên, hào lý, cho đến tư sản, địa

chủ, các giới chức tôn giáo... phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật của Nhà nước

Việt Nam DCCH. Hồ Chí Minh viết: “Toàn thể nhân dân, không phân biệt giai

cấp, tín ngưỡng và nghề nghiệp, đều phải giữ gìn trật tự và ra sức ủng hộ chính

quyền nhân dân, thật thà hợp tác với quân đội nhân dân, tuân theo pháp luật của

Chính phủ và mệnh lệnh của quân đội” [78, tr.487].

Tư tưởng này hoàn toàn khác với quan niệm truyền thống về luật pháp

và Nhà nước; trong lịch sử Việt Nam, thời nào cũng có lệ và luật pháp để

quản lý đất nước, nhưng dưới thời phong kiến tinh thần pháp luật chỉ áp dụng

với thứ dân, không áp dụng với vua, quan.

3.2.3. Kết hợp đạo đức và pháp luật

Đạo đức và pháp luật là các hình thái ý thức xã hội khác nhau, nhưng

có mối quan hệ với nhau. Đạo đức là hệ thống giá trị, chuẩn mực được cộng

đồng xã hội thừa nhận, điều chỉnh quan hệ trong cộng đồng, được các cá nhân

trong cộng đồng tự nguyện, tự giác thực hiện. Chuẩn mực đạo đức được đảm

bảo thực thi bằng sức mạnh dư luận cộng đồng. Pháp luật là hệ thống các quy

định, các chuẩn mực hành vi được Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan

hệ xã hội, pháp luật mang tính cưỡng chế, được đảm bảo thực thi bằng sức

mạnh Nhà nước. Một số các chuẩn mực đạo đức được Nhà nước đề lên thành

luật, pháp luật hướng tới đạo đức. Hệ thống pháp luật của một quốc gia dù

Page 95: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

90

đồng bộ, đầy đủ đến đâu cũng không thể nào điều chỉnh hết các quan hệ xã

hội, các tính chất quan hệ xã hội. Do đó, cần có sự tham gia của đạo đức, tạo

nên sự tương hỗ lẫn nhau giữa đạo đức và pháp luật trong điều chỉnh xã hội.

Hồ Chí Minh cho rằng: "Giáo dục là chính, nhưng đối với những kẻ ngoan cố

không chịu sửa đổi thì chính quyền phải dùng phép luật" [80, tr.259].

Một nét đặc sắc trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là trong khi

coi trọng pháp luật, tính nghiêm minh, hiệu lực của pháp luật, đồng thời đề

cao vai trò của đạo đức, quan tâm tới việc xây dựng các quan hệ xã hội tốt

đẹp, thấm đượm tính nhân văn, góp phần điều chỉnh các hành vi của con

người. Theo Người, kết hợp giữa pháp luật và đạo đức làm cho phần tốt của

con người được phát triển, phần xấu trong mỗi con người ngày một giảm dần,

mất đi. Theo Hồ Chí Minh, dùng pháp luật để trừng trị, dùng đạo đức để giáo

dục, thuyết phục, cải tạo, trong đó giáo dục là chính, pháp luật sẽ thực hiện

vai trò răn đe, phòng ngừa, đó là tính nhân văn sâu sắc trong tư tưởng pháp

quyền Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm cách để thực hiện pháp quyền làm cho

Nhà nước Việt Nam DCCH trở thành một Nhà nước kiểu mới, trong sạch,

vững mạnh, hiệu quả, khắc phục được những căn bệnh cố hữu của Nhà nước.

Trong nhiều giải pháp đã thực hiện, có hai nội dung cơ bản được Người đặc

biệt quan tâm, đó là: Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với

đẩy mạnh giáo dục đạo đức, kết hợp chặt chẽ giữa “đức trị” và “pháp trị. Đi

đôi với giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh cũng rất kiên quyết với những hành vi

vi phạm pháp luật và trừng trị nghiêm khắc những kẻ phạm tội, dù người đó ở

cương vị nào. Ngày 27/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định

hình phạt tội đưa và nhận hối lộ. Ngày 26-01-1946, Người ban hành “Quốc

lệnh” khép tội tham ô, trộm cắp của công vào tội tử hình. Trong trả lời chất

vấn của Quốc hội vào năm 1946, Người nói: Chính phủ hết sức làm gương,

nếu làm gương không xong thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ hối lộ, đã

Page 96: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

91

trừng trị, đang trừng trị và sẽ trừng trị cho kỳ hết. Trong việc thực thi quyền

hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh

luôn thể hiện là một con người gương mẫu, sáng suốt, thống nhất hài hòa giữa

lý trí và tình cảm, bao dung, nhân ái, nhưng vẫn giữ nghiêm kỷ cương, phép

nước. Người không bao che, dung túng cho những hành vi sai lầm, khuyết

điểm, vi phạm pháp luật, nhưng đồng thời dùng sức mạnh, uy tín của mình để

cảm hóa những người có lỗi lầm, kéo họ về phía cách mạng.

Theo Hồ Chí Minh, pháp quyền phụ thuộc vào tính nghiêm minh của

việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu về đạo đức của những

người cầm quyền. Vì vậy, phải luôn nêu cao cảnh giác với những biểu hiện

tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, công chức, giữ cho Nhà nước luôn

trong sạch, vững mạnh. Chỉ một tháng sau khi lập nước, Hồ Chí Minh đã gửi

thư cho Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ sáu căn bệnh cần

đề phòng là: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người

nhắc nhở:

Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra

sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì

nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm

những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa

chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân

tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu

những chữ “công bình, chính trực” vào lòng [75, tr.66].

Theo Hồ Chí Minh, mục đích cuối cùng của pháp quyền là quyền lợi

của dân tộc, lợi ích, hạnh phúc của nhân dân, kết hợp giữa pháp luật và đạo

đức, giữa giáo dục đạo đức cách mạng và thực thi pháp luật nghiêm minh là

một phương pháp cần thiết.

Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm xây dựng bộ máy nhà nước trong

sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, có đội ngũ cán bộ liêm khiết “công

Page 97: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

92

bình, chính trực”, thạo việc, vì nhân dân phục vụ. Người đã nhiều lần nhấn

mạnh đến hai yếu tố “đức và tài” của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước và

yêu cầu người cán bộ phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, phải giỏi

chuyên môn, dám làm và dám chịu trách nhiệm, có năng lực lãnh đạo, thực

hiện đường lối quần chúng, v.v.. sẽ là người công bộc, người đày tớ trung

thành của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, cá nhân chủ nghĩa, đục khoét, tham

nhũng hoặc để người thân lợi dụng trục lợi, v.v.. đều là những kẻ sâu mọt,

đều là “cha mẹ của dân” và đó là một trong những nguyên nhân đánh mất

một lần nữa chính quyền vừa giành được. Hồ Chí Minh cho rằng có được

đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức, đủ tài là nền tảng quyết định có pháp

quyền trong công quyền và toàn xã hội.

Sự cai trị tàn bạo của thực dân, phát-xít để lại cho xã hội Việt Nam

nhiều tác hại, tệ nạn. Đối với những người làm tay sai cho đế quốc, thực dân,

một mặt dùng pháp luật trừng trị, mặt khác, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn thể

nhân dân đối xử khoan dung đại độ, dùng tình thân ái để cảm hóa, đưa họ về

với con đường chính nghĩa của dân tộc, giúp họ quay về với Tổ quốc. Hồ Chí

Minh viết: "Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà

quy chính nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán

nước buôn dân" [77, tr.49].

Đối với những người phạm pháp, nhưng không phải tội phản bội Tổ

quốc, Hồ Chí Minh cho rằng kết hợp giữa dùng pháp luật và dùng giáo dục để

cải tạo họ trở thành người lương thiện. Hồ Chí Minh viết: "Đối với những nạn

nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v., thì Nhà

nước phải dùng vừa giáo dục vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ

trở nên những người lao động lương thiện” [85, tr.617].

Hồ Chí Minh cho rằng phương thức thực hiện pháp quyền thông qua

hoạt động của bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân; thông qua sự kết hợp

Page 98: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

93

giữa pháp luật và đạo đức; thực thi pháp luật nghiêm minh đi đôi với đẩy

mạnh giáo dục đạo đạo đức cách mạng.

3.3. VỀ ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN PHÁP QUYỀN

3.3.1. Xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nƣớc kiểu mới

Tư tưởng pháp quyền quan hệ mật thiết với vấn đề Nhà nước, việc xây

dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước là điều kiện, tiền đề không thể

thiếu trong tư tưởng pháp quyền. Vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước là một nội

dung được Hồ Chí Minh quan tâm trong quá trình lãnh đạo cách mạng, xây

dựng tư tưởng pháp quyền; tổ chức bộ máy nhà nước để quyền lực thực sự

thuộc về nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Khi nước nhà

giành được độc lập, vấn đề này trở thành một trọng tâm trong tư tưởng Hồ

Chí Minh về xây dựng xã hội mới.

Quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước Việt Nam DCCH thể hiện tư

tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh; đến lượt mình sự xuất hiện Nhà nước Việt

Nam DCCH trở thành điều kiện đảm bảo thực hiện pháp quyền, trở thành chủ

thể trực tiếp xây dựng, ban hành pháp luật, tổ chức thực thi pháp luật hiện

thực hóa tư tưởng pháp quyền trong thực tiễn đời sống xã hội.

Quá trình thành lập Quốc hội nước Việt Nam DCCH, vừa diễn ra theo

quy luật chung của việc hình thành cơ quan lập pháp trên thế giới; vừa diễn ra

trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, riêng có của lịch sử dân tộc Việt Nam.

Thể hiện sự sáng tạo của Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại về

pháp quyền, vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam,

thể hiện tư duy biện chứng Hồ Chí Minh.

Quốc hội nước Việt Nam DCCH thể hiện tư tưởng pháp quyền, là ý chí

đại đoàn kết dân tộc, là hiện thân của khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức

mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc để khẳng định và bảo vệ nền độc lập dân

tộc. Từ cuối năm 1944 - đầu năm 1945, tình hình quốc tế và trong nước tạo cơ

Page 99: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

94

hội thuận lợi cho thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc. Đến tháng 8 - 1945 thời

cơ giành độc lập đã đến gần, Hồ Chí Minh cho triệu tập Quốc dân đại hội tại

Tân Trào, dự Đại hội có đủ đại diện cho các giới trong xã hội Việt Nam, các

vùng miền trên lãnh thổ Việt Nam, đã thể hiện tính đại diện cho dân tộc. Quốc

dân đại hội hoạt động và thực hiện chức năng như Quốc hội, do đó, Quốc dân

đại hội hình thức tiền Quốc hội. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, trong

phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam DCCH, Chủ tịch

Hồ Chí Minh nêu: “Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc

TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu” [75, tr.7].

Ngày 6/1/1946, bằng nguyên tắc thể hiện tư tưởng pháp quyền, nguyên

tác phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, bỏ phiếu kín, nhân dân Việt Nam đã đi bầu

đại biểu Quốc hội, lập nên Quốc hội khóa I của nước Việt Nam DCCH; Quốc

hội thể hiện trực tiếp ý chí của nhân dân, là cơ quan đại diện cho nhân dân.

Chủ quyền nhân dân là tối cao, thông qua bầu cử nhân dân trực tiếp ủy thác

quyền lực của mình cho Quốc hội, Quốc hội là cơ quan nhận sự ủy quyền trực

tiếp từ nhân dân [87, 110]. Hồ Chí Minh khẳng định:

Trong cuộc toàn quốc đại biểu đại hội này, các đảng phái đều có đại

biểu mà đại biểu không đảng phái cũng nhiều, đồng thời phụ nữ và

đồng bào dân tộc thiểu số cũng đều có đại biểu. Vì thế, cho nên các

đại biểu trong Quốc hội này không phải đại diện cho một đảng phái

nào mà là đại biểu cho toàn thể quốc dân Việt Nam. Đó là một sự

đoàn kết tỏ ra rằng, lực lượng của toàn dân Việt Nam đã kết lại

thành một khối [75, tr.217].

Đối với Quốc hội khóa II, do điều kiện lịch sử Việt Nam chia cắt thành

hai miền Bắc và Nam, cuộc bầu cử Quốc hội khóa II của nước Việt Nam

DCCH không thể tiến hành ở miền Nam, để đảm bảo có đại biểu của nhân

dân miền Nam, để Quốc hội là Quốc hội của toàn thể nhân dân Việt Nam,

Quốc hội quyết định kéo dài nhiệm kỳ của 91 đại biểu do đồng bào miền Nam

Page 100: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

95

bầu cử ở khóa I trong khóa II [111]. Pháp quyền về thủ tục chưa thực sự đảm

bảo, nhưng pháp quyền về nội dung, bản chất, Quốc hội là đại diện cho toàn

thể dân tộc Việt Nam được đảm bảo; xét trong điều kiện lịch sử cụ thể thời

điểm đó, mức độ pháp quyền đáp ứng yêu cầu.

Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất được hiến định

trong hai Hiến pháp năm 1946 và năm 1959. Tại Hiến pháp năm 1946:

“Điều thứ 22: Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” [104] và tại Hiến pháp năm 1959: “Điều 43:

Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hoà” [105]. Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng nhất

của đất nước: lập pháp, tổ chức bộ máy nhà nước, quan hệ ngoại giao. Trong

đó, Quốc hội có chức năng lập pháp và cơ quan nhà nước duy nhất thực hiện

quyền này, chức năng lập pháp của Quốc hội được hiến định trong Hiến

pháp. Khi Quốc hội thực hiện đúng chức năng hiến định là điều kiện quan

trọng đầu tiên của pháp quyền.

Quan niệm Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất thể hiện tư tưởng

pháp quyền, Quốc dân đại hội tại Tân Trào đã lập Ủy ban giải phóng dân tộc

Việt Nam, một hình thức tiền Chính phủ, sau Cách mạng tháng Tám Hồ Chí

Minh đề nghị cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam DCCH. Ngày

2/3/1946, Quốc hội khóa I họp phiên đầu tiên đã lập ra Chính phủ chính thức.

Một Chính phủ hợp pháp và có đầy đủ tư cách pháp lý để giải quyết tất cả các

vấn đề đối nội và đối ngoại của Việt Nam. Tại Hiến pháp năm 1946: “Điều

thứ 4: Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam

Dân chủ Cộng hoà” [104] và tại Hiến pháp năm 1959: “Điều 71: Hội đồng

Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất,

và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hoà” [105]. Tương tự như với Quốc hội, việc thành lập Chính phủ Việt

Page 101: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

96

Nam DCCH thể hiện pháp quyền, đến lượt mình, Chính phủ mới ra đời, hoạt

động đúng chức năng trở thành điều kiện trực tiếp thực hiện pháp quyền.

Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, thành lập Chính phủ không

nhằm phân chia quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tam quyền phân lập.

Quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân, việc lập ra Chính

phủ là phân công quyền lực nhà nước cho các cơ quan khác nhau đảm nhận

quyền lực do nhân dân ủy thác, Chính phủ và các cơ quan khác phối hợp với

nhau thực hiện các chức năng nhà nước, lãnh đạo nhân dân bảo vệ nền lập

dân tộc và xây dựng xã hội mới. Hồ Chí Minh khẳng định: "Chính phủ này tỏ

rõ cái tinh thần quốc dân liên hiệp, là một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ

nỗ lực làm việc, để tranh thủ quyền độc lập và thống nhất lãnh thổ cùng xây

dựng một nước Việt Nam mới" [75, tr.481].

Tòa án là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, để hoàn thiện tổ

chức bộ máy nhà nước, Hồ Chí Minh quan tâm đến việc xây dựng, hoàn thiện

hệ thống tòa án về mặt tổ chức, về nguyên tắc hoạt động. Tòa án là cơ quan

giữ một vị trí độc lập trong bộ máy nhà nước, thực hiện quyền xét xử. Hệ

thống tòa án và nguyên tắc hoạt động của tòa án vừa thể hiện tư tưởng pháp

quyền, vừa là điều kiện trực tiếp, quan trọng thực hiện pháp quyền. Tại Hiến

pháp năm 1946 quy định về cơ cấu tổ chức hệ thống tòa án của nước Việt

Nam DCCH gồm: Toà án tối cao, các Toà án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị

cấp và sơ cấp; nguyên tắc hoạt động của hệ thống tòa án: Trong khi xét xử,

các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can

thiệp. Tại Hiến pháp năm 1959, quy định về cơ cấu tổ chức tòa án: Toà án

nhân dân tối cao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, các Toà án nhân dân địa

phương, các Toà án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hoà, trong trường hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội có

thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt; về nguyên tắc hoạt động của hệ

thống Tòa án: Khi xét xử, Toà án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo

Page 102: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

97

pháp luật. Được tổ chức và hoạt động trên cơ sở những tư tưởng tiến bộ của

Hồ Chí Minh, hệ thống tòa án Việt Nam đã góp phần vào việc củng cố chính

quyền nhân dân, xây dựng xã hội mới, thực hiện pháp quyền.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực nhà nước thống nhất và thuộc

về nhân dân, quyền lực đó nhân dân ủy thác cho Nhà nước, trong bộ máy nhà

nước có sự phân công cho các cơ quan nhà nước thực thi, quyền lập pháp trao

Quốc hội, quyền hành pháp trao cho Chính phủ và quyền tư pháp trao cho

Tòa án. Trong khi thực thi các quyền đó có sự phối hợp giữa các cơ quan, các

bộ phận của quyền lực nhà nước. Xây dựng, tổ chức bộ máy nhà nước hoàn

chỉnh, ban hành pháp luật và tổ chức thi pháp luật trong thực tiễn đời sống xã

hội, đảm bảo tính hiệu lực, tính nghiêm minh của pháp luật, đó là, quá trình

hiện thực hóa tư tưởng pháp quyền trong thực tiễn đời sống xã hội. Đồng thời

là điều kiện đầu tiên, quan trọng thực hiện pháp quyền.

3.3.2. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân

Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh việc thành lập được bộ máy

nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng và ban hành hệ

thống pháp luật đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân là cần thiết, để pháp

luật đi vào cuộc sống, để pháp quyền được hiện thực hóa không thể thiếu việc

tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân. Theo quan điểm của Hồ Chí

Minh, tuyên truyền, giáo dục là một khâu, một bước tiếp theo sau việc xây

dựng, ban hành pháp luật, trong thực hiện pháp quyền. Hồ Chí Minh viết:

"Cho nên công bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn

phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được" [82, tr.301].

Hồ Chí Minh khẳng định tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải được

xem trọng, là một việc quan trọng, trọng yếu. Việc tuyên truyền, giáo dục

pháp luật đòi hỏi phải kiên trì, bền bỉ, phải rộng khắp, để nhân dân biết về

luật, hiểu về luật, trên cơ sở đó tuân thủ pháp luật, tôn trọng pháp luật. Hồ Chí

Minh nêu: "Tuyên truyền và giáo dục một rộng khắp và bền bỉ cho mỗi gia

Page 103: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

98

đình hiểu rõ pháp luật Nhà nước và thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa về

vấn đề này" [82, tr.706].

Theo Hồ Chí Minh tuyên truyền, giáo dục pháp luật chỉ dừng ở mức

nhân dân thấy pháp luật là những quy định bắt buộc phải tuân theo, đó là trình

độ thấp của pháp quyền. Người yêu cầu tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải

thấm sâu vào đời sống nhân dân, phải tạo ra ý thức tuân thủ pháp luật thành

nề nếp, thói quan, lối ứng xử tự nhiên của con người, pháp luật chuyển hóa

thành đạo đức xã hội. Pháp luật đi vào thực tiễn đời sống xã hội, tinh thần

thượng tôn pháp luật hiện hữu trong đời sống xã hội, một biểu hiện của xã hội

có pháp quyền. Hồ Chí Minh yêu cầu: "Phải vận động nhân dân, để dân tự

nguyện, tự giác, nếu bắt buộc thì chỉ có thể có kết quả ngay lúc đó thôi, còn

sau thì không thấm" [81, tr.448].

Hồ Chí Minh quan niệm tuyên truyền, giáo dục pháp luật thực hiện ở

tất cả các giai đoạn: xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật. Trong giai

đoạn xây dựng pháp luật cần tuyên truyền để nhân dân biết và góp ý kiến; giai

đoạn ban hành, thực thi tuyên truyền, giáo dục để nhân dân biết và tuân thủ

pháp luật. Hoạt động này thể hiện rõ tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh thông

qua việc tuyên truyền và lấy ý kiến cho hai bản Hiến pháp năm 1946 và năm

1959. Theo Hồ Chí Minh tuyên truyền, giáo dục pháp luật bằng nhiều phương

thức khác nhau, bằng nội dung pháp luật; bằng thực tiễn thực thi pháp luật

nghiêm minh, công bằng, bình đẳng; bằng hoạt động kiểm tra, giám sát. Khi

nói về việc giữ bí mật của Nhà nước Hồ Chí Minh viết:

Giữ bí mật của Nhà nước là một bộ phận trong cuộc đấu tranh với

địch. Đó là một vấn đề chính trị quan trọng. Chính phủ ta đã có

phép luật về việc ấy. Các cơ quan và các đoàn thể cần phải xem

trọng giáo dục, nghiêm chỉnh chấp hành và thường xuyên kiểm tra

việc ấy. Cũng như mọi công việc khác, việc phòng gian bảo mật

cần phải dựa vào lòng yêu nước và lực lượng của nhân dân. Chúng

Page 104: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

99

ta phải tuyên truyền giải thích cho nhân dân hiểu thấu, để nhân dân

giúp sức vào công việc này [81, tr.263].

Hồ Chí Minh nhấn mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật bằng tấm

gương tôn trọng và tuân thủ pháp luật của đảng viên, của nhân viên nhà nước,

nhất là cán bộ, nhân viên tư pháp, những người trực tiếp thực thi pháp luật.

Trong Thư gửi Hội nghị Tư pháp, Hồ Chí Minh nêu yêu cầu: "Các bạn là

những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn cần phải nêu

cao cái gương "phụng công, thủ pháp, chí công vô tư" cho nhân dân noi theo"

[76, 473].

Hồ Chí Minh quan niệm chủ thể thực hiện hoạt động tuyên truyền, giáo

dục pháp luật, gồm: Cơ quan Đảng, chính quyền, trực tiếp cán bộ, nhân viên

nhà nước phụ trách việc này; các tổ chức đoàn thể quần chúng, nhất là Đoàn

thanh niên và Hội phụ nữ, đối với chủ thể này, Hồ Chí Minh nêu: “Đoàn

Thanh niên Lao động cần phải phụ trách: Việc tuyên truyền sâu rộng và chấp

hành nghiêm chỉnh Luật hôn nhân gia đình” [83, tr.90].

Trong quan niệm về các chủ thể tuyên truyền, giáo dục pháp luật, Hồ

Chí Minh có một luận điểm thể hiện tư tưởng pháp quyền, đó là tính chủ

động, tích cực, nhất là ở các chủ thể có quyền và lợi ích trực tiếp từ các quy

định của pháp luật. Khi nói về Luật hôn nhân gia đình, Hồ Chí Minh nêu:

“Luật lấy vợ lấy chồng nhằm giải phóng phụ nữ, tức là giải phóng phân nửa

xã hội. Giải phóng người đàn bà, đồng thời phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến,

tư tưởng tư sản trong người đàn ông” [82, tr.301]. Trong Luật Hôn nhân gia

đình có mục bảo vệ và tôn trọng phụ nữ, do đó, phụ nữ là một chủ thể trước

tiên và chủ yếu có quyền và lợi ích trực tiếp từ Luật Hôn nhân gia đình. Vì

vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi

chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình mà tự mình phải tự

cường, phải đấu tranh” [82, tr.301].

Page 105: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

100

Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, tuyên truyền, giáo dục pháp

luật được xác định là khâu tiếp theo sau khâu ban hành pháp luật, khâu trọng

yếu để đưa pháp luật vào cuộc sống và hiện thực hóa pháp quyền.

3.3.3. Pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân

Một Nhà nước được thành lập bằng một phương thức dân chủ thế nào,

thì vẫn mang tính đại diện, tính gián tiếp so với khối dân chúng, với đặc

điểm cố hữu đó, Nhà nước luôn có nguy cơ phản ánh sai lệch ý chí của nhân

dân. Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới việc làm sao để chính sách, pháp luật

của Chính phủ phản ánh đúng nguyện vọng của nhân dân, muốn vậy phải

làm sao cho tình hình của nhân dân có thể đến và đến đầy đủ, chính xác với

Chính phủ. Khi nói về công việc của cán bộ, Hồ Chí Minh có chỉ một trong

hai chiều của cán bộ là đem tình hình dân chúng phản ánh lại để Chính phủ

đặt chính sách, pháp luật sát hợp với dân chúng, phán ánh đúng ý chí của

dân chúng. Hồ Chí Minh viết: "Cán bộ là những người đem chính sách của

Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng

thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ,

để đặt chính sách cho đúng" [76, tr.309].

Quán triệt tư tưởng pháp quyền đề cao, coi trọng ý chí của nhân dân,

trong xây dựng pháp luật, Hồ Chí Minh chủ trương thực hành dân chủ rộng

rãi với sự tham gia đông đảo và trực tiếp nhất có thể của các tầng lớp nhân

dân. Về phía nhân dân, cơ hội thể hiện trực tiếp tâm tư, nguyện vọng, vai trò

làm chủ của mình; về phía Nhà nước hiểu được dân tình, nắm được dân tâm,

dân nguyện, tranh thủ được trí tuệ, kinh nghiệm của nhân dân. Pháp luật là ý

chí của nhân dân được Nhà nước đề lên thành luật, ý chí của nhân dân được

đảm bảo thực thi bằng sức mạnh của Nhà nước. Sự tham gia của người dân

vào xây dựng pháp luật đảm bảo pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân, một

điều kiện thực hiện pháp quyền.

Page 106: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

101

Tiêu biểu cho tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đề cao ý chí của

nhân dân là hoạt động lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân trong

xây dựng Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Về thành phần ban

soạn thảo Hiến pháp năm 1946, có ba lần thay đổi và mở rộng, lần thứ nhất

theo Sắc lệnh số 34 ngày 20/9/1945 có 7 thành viên; lần thứ hai 2/3/1946 do

Quốc hội chính thức bầu gồm 11 thành viên, đủ đại biểu các đảng phái và

không đảng phái, đại biểu tôn giáo, đại biểu phụ nữ, đại biểu các giới; lần

thứ ba ngày 29/10/46, Tiểu ban đó lại mở rộng, lấy thêm 10 vị ở đại biểu các

nhóm, đại biểu trung lập, đại biểu Nam bộ và quốc dân thiểu số. Đối với

Hiến pháp năm 1959: Ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp gồm 29 ủy viên [56,

72, 134]. Ủy ban soạn thảo Hiến pháp đưa bản dự thảo Hiến pháp lấy ý kiến

rộng rãi trong các nhân sỹ, trí thức, các tầng lớp nhân dân trong nước, và

kiều bào ta ở nước ngoài, các tổ chức quần chúng, các giới, cán bộ, công

chức các cấp... Đối với Hiến pháp năm 1946, Hồ Chí Minh thúc giục các vị

đại biểu: “Không còn bao lâu nữa Quốc hội sẽ mở. Các vị đại biểu hãy gấp

rút sửa soạn đi dự Quốc hội. Muốn thế đại biểu tỉnh nào nên mở ngay những

cuộc khai hội rộng rãi với đồng bào tỉnh ấy, đặng thảo luận về Hiến pháp và

thu thập dân ý, dân nguyện về Hiến pháp nữa” [25, tr.409]. Bản dự thảo

Hiến pháp năm 1946 được đăng trên Báo Cứu quốc, kèm theo thông cáo của

Chính phủ lấy ý kiến của nhân dân. Đối với Hiến pháp năm 1959: “Bản dự

thảo đã đưa ra trưng cầu ý kiến các đại biểu Quốc hội, cán bộ, các chính

đảng, đoàn thể nhân dân, các cơ quan chính quyền. Tất cả 500 người tham

gia và góp 1.700 ý kiến. Những ý kiến ấy đều thể hiện tinh thần tích cực

đóng góp xây dựng Hiến pháp” [145, tr.158].

Sự tham gia của người dân vào xây dựng và thực thi pháp luật có hai

hình thức trực tiếp và gián tiếp. Gián tiếp là nhân dân ủy thác quyền của mình

và thông qua đại biểu, thông qua các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể

chính trị - xã hội thực hiện quyền xây dựng và thực thi pháp luật. Trực tiếp là

Page 107: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

102

nhân dân trực tiếp thực hiện ý chí của mình, trực tiếp tham gia xây dựng và

thực thi pháp luật. Hồ Chí Minh rất coi trọng dân chủ, Người quan tâm đến cả

hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp.

Sự tham gia của người dân vào xây dựng pháp luật sẽ đảm bảo hệ

thống pháp luật sát với thực tiễn, bắt nguồn từ cuộc sống, phản ánh nhu cầu

của cuộc sống. Đây cũng là cơ sở để đưa pháp luật vào cuộc sống, tăng tính

hiệu lực của pháp luật, thực hiện pháp quyền. Sự tham gia trực tiếp của nhân

dân góp phần rất lớn trong việc nhận ra các vấn đề trong xã hội, tạo cơ sở

thực tiễn trước khi xây dựng văn bản pháp luật. Những người chịu tác động

của một văn bản pháp luật sắp ban hành cần có cơ hội tối đa và khả thi để

đóng góp ý kiến hoặc tham gia vào quá trình ra quyết định. Sự tham gia của

người dân vào xây dựng pháp luật thể hiện quyền được lắng nghe, tiếp thu,

quyền yêu cầu các cơ quan Nhà nước phải công khai và có trách nhiệm. Dân

chúng hiểu rõ họ cần cái gì, làm thế nào để đáp ứng điều dân chúng cần, nên

có thể mách bảo nhiều giải pháp tốt mà các nhà lập pháp chuyên nghiệp, các

nhà quản lý cũng không ngờ tới. Khi được tham gia dân chúng thấy mình

thực sự là một thành viên có vai trò tích cực trong ra quyết định, các quyết

định sẽ được tiếp nhận và ủng hộ nhiều hơn, tránh được những xung đột trong

quá trình thực thi pháp luật. Một hệ thống pháp luật được xây dựng và ban

hành như vậy đảm bảo thể hiện ý chí của nhân dân.

Hồ Chí Minh quan niệm pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân là điều

kiện đảm bảo pháp quyền về bản chất, đảm bảo pháp luật phản ánh, đem lại

quyền và lợi ích cho nhân dân, pháp luật của nhân dân, phục vụ nhân dân.

3.3.4. Nâng cao trình độ dân trí, ý thức chính trị của nhân dân

Pháp quyền phụ thuộc vào nền tảng văn hóa của một dân tộc, một thời

đại; sự ra đời, tồn tại, phát triển, tạo ra những giá trị của pháp quyền phải dựa

trên một nền tảng văn hóa nhất định. Văn hóa được tạo dựng từ nhiều yếu tố,

trong đó có trình độ dân trí và ý thức chính trị của nhân dân. Trong tư tưởng

Page 108: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

103

pháp quyền Hồ Chí Minh nâng cao trình độ dân trí, ý thức chính trị của nhân

dân đóng vai trò làm nền móng thực hiện pháp quyền.

Theo J.S.Mill trong tác phẩm Chính thể đại diện, tình trạng dân chúng

quyết định sự thành bại của chính thể đại diện, tình trạng dân chúng bao hàm

cả hành động và nhẫn nhịn không hành động. Ông khẳng định tính tích cực

tạo nên sự tiến bộ, ngược lại tính thụ động là nguyên nhân của trì trệ, lạc hậu

[71]. Theo A. de Tocqueville trong tác phẩm Nền dân trị Mỹ đã cảnh báo một

nguy cơ lớn không chỉ với nền dân trị của nước Mỹ, mà với các thể chế chính

trị dân chủ khác đó là tình trạng thờ ơ với chính trị, phó thác tất cả cho Nhà

nước của dân chúng [130]. Tình trạng dân chúng, tích cực hay thụ động phụ

thuộc trực tiếp vào trình độ dân trí, vào ý thức chính trị của người dân.

Trải qua nhiều thế kỷ dưới chế độ phong kiến, gần một thế kỷ dưới sự

cai trị của thực dân và phát-xít, với chính sách hạn chế giáo dục, ngu dân để

trị, trình độ dân trí của nhân dân Việt Nam rất thấp. Với sự cai trị độc tài và

chính sách đàn áp dã man, nhân dân không được tham gia vào các hoạt động

chính trị, bị đặt ra ngoài các hoạt động chính trị, do đó hiểu biết và năng lực

tham gia các hoạt động chính trị của nhân dân hạn chế. Hồ Chí Minh quan

tâm đến việc nâng cao tính tích cực của dân chúng, nâng cao trình độ dân trí

và ý thức chính trị của nhân dân. Hồ Chí Minh coi giáo dục là biện pháp quan

trọng hàng đầu để nâng cao trình độ dân trí, ý thức chính trị của nhân dân, tạo

dựng nền tảng văn hóa cho pháp quyền.

Trong quá trình thực hiện pháp quyền dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận ra

sức mạnh to lớn của dân chúng, tính tích cực của dân chúng đóng vai trò

quyết định với pháp quyền dân tộc. Hồ Chí Minh nhận thấy phần đông dân

chúng tính thụ động còn cao, tính tích cực trong tiềm năng; một bộ phận dân

chúng đã có tích cực, nhưng hạn chế chưa được định hướng phù hợp để đạt

được mục tiêu, để giành thắng lợi. Hồ Chí Minh đã chỉ ra sự thống trị tàn bạo

của chủ nghĩa thực dân đã chuẩn bị mảnh đất cho việc giải phóng dân tộc,

Page 109: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

104

thực hiện quyền dân tộc, bộ phận tích cực nhất của dân tộc phải thúc đẩy quá

trình ấy, tức là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng. Hồ Chí Minh tự xếp

mình là một thành viên thuộc bộ phận tích cực nhất của dân tộc, những người

con ưu tú của dân tộc, mang trong mình tinh thần dấn thân vì sự nghiệp cao cả

là giải phóng, phát triển dân tộc, mang lại hạnh phúc cho nhân dân; những

người con có tinh thần tự nhiệm với dân tộc, với hạnh phúc của nhân dân.

Người là một trong những người con ưu tú của dân tộc, đã dấn thân đi tìm

đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy con

đường cứu nước. Khi đó, Hồ Chí Minh xác định: “Đối với tôi, câu trả lời đã

rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ,

huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” [73, tr.209].

Tuyên truyền, giáo dục để thức tỉnh dân chúng, phát huy tính tích cực

của dân chúng, tạo nên sức mạnh đưa cách mạng đi đến thắng lợi. Thực tiễn

cách mạng giải phóng dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc đã khẳng định tư

tưởng của Hồ Chí Minh.

Cách mạng thành công, giai đoạn phá bỏ sự cai trị của thực dân, phát-

xít đã thực hiện; giai đoạn bắt tay vào kiến thiết, xây dựng xã hội mới, pháp

quyền mới bắt đầu, trong giai đoạn mới vai trò của yếu tố trình độ dân trí, của

ý thức chính trị, của tính tích cực trong dân chúng càng phải phát huy cao độ.

Giai đoạn đầu khi mới bắt tay vào kiến thiết lại đất nước, cần có nhân tài, Hồ

Chí Minh kêu gọi nhân tài ra giúp nước, Người tìm người tài đức và trọng

dụng họ. Trên phương diện pháp lý, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký các Sắc lệnh

lưu giữ quan chức của chế độ cũ làm việc cho chế độ mới. Trên thực tế, Hồ

Chí Minh đã tập hợp được phần đông giới tinh hoa của dân tộc, phát huy vai

trò của họ, họ đã tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trong

đó có việc xây dựng pháp quyền Việt Nam.

Page 110: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

105

Sử dụng vốn nhân tài sẵn có chỉ là giải pháp ngắn hạn, tình huống tức

thời, tạm thời; để có thể đảm bảo phát triển vững bền của dân tộc, không có

cách nào khác là phải chủ động chuẩn bị, đào tạo thế hệ tiếp theo. Nhận thức

được tầm quan trọng của giáo dục - đào tạo đối với sự nghiệp kiến thiết và

phát triển dân tộc, ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, Hồ Chí Minh

quan tâm đến vấn đề giáo dục, mở mang nền học vấn nước nhà. Ngày

3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, sau khi đọc Tuyên

ngôn Độc lập, trong 6 nhiệm vụ cấp bách, nhiệm vụ thứ hai được Hồ Chí

Minh nêu:

Vấn đề thứ hai, nạn dốt - Là một trong những phương pháp độc ác

mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm

đồng bào chúng ta mù chữ. Nhưng chỉ cần ba tháng là đủ để học

đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc ngữ. Một dân tộc dốt là

một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống

nạn mù chữ [75, tr.7].

Để diệt giặc dốt, Chính phủ đã thành lập Nha Bình dân học vụ thuộc

Bộ Quốc gia Giáo dục có nhiệm vụ mở rộng phong trào chống nạn mù chữ và

gây dựng cơ sở cho một nền bình dân giáo dục trong toàn cõi Việt Nam,

Chính phủ ra Sắc lệnh bắt buộc trong một năm Bộ Quốc gia Giáo dục phải

thanh toán nạn mù chữ [46]. Bộ Quốc gia Giáo dục được Chính phủ giao cho

trọng trách xây dựng nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập, phát triển

các bậc học, các ngành học. Phát triển giáo dục mở mang hiểu biết, nâng cao

trình độ dân trí, tạo dựng một nền tảng văn hóa cho bộ phận tinh hoa dân tộc

xuất hiện; tạo dựng một nền tảng xã hội vững chắc đảm bảo cho những tư

tưởng tiến bộ được thực thi, nền tảng của pháp quyền.

Trong lĩnh vực pháp luật, nâng cao trình độ dân trí có quan hệ chặt chẽ

với tính hiệu lực của pháp luật, ý thức tuân thủ pháp luật, ý thức chính trị của

nhân dân. Trình độ dân trí phát triển là cơ sở xã hội quan trọng để mỗi người

dân có khả năng hiểu về pháp luật, đến lượt mình, sự hiểu biết về pháp luật là

Page 111: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

106

cơ sở để tuân thủ pháp luật, tôn trọng pháp luật, hình thành ý thức tuân thủ

pháp luật. Trình độ dân trí phát triển và ý thức chính trị của nhân dân là cơ sở

để nhân dân tham gia xây dựng luật, góp ý kiến cho các dự thảo pháp luật có

trách nhiệm, hiệu quả. Trình độ dân trí phát triển, am hiểu pháp luật, có ý thức

chính trị hòa quyện vào nhau tạo cho mỗi người dân năng lực giám sát tính

tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức trong

bộ máy nhà nước trong việc thực thi công vụ của mình; đảm bảo pháp quyền

trong công quyền. Đó là nền tảng văn hóa vững chắc để nhân dân thực hiện

vai trò làm chủ đối với quyền lực nhà nước.

Từ sự phân tích, lý giải nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh ở

trên, tác giả luận án rút ra những nét đặc sắc trong tư tưởng pháp quyền Hồ

Chí Minh như sau:

- Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là sự thâu thái, vượt gộp và vận

dụng các giá trị trong tư tưởng pháp quyền dân tộc, phương Đông, phương

Tây, đặc biệt chủ nghĩa Mác - Lênin.

Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là sự tiếp biến giá trị của các nền

pháp quyền khác nhau, giá trị pháp quyền trong truyền thống dân tộc Việt

Nam, trong học thuyết Nho gia, Pháp gia, trong chủ nghĩa tam dân của Tôn

Trung Sơn, trong văm minh phương Tây, trong chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự

khác nhau trên nhiều phương diện, khác nhau về thời gian,về không gian văn

hóa, về thể chế chính trị... Nét đặc sắc ở chỗ, Hồ Chí Minh thâu thái, tiếp

biến, vượt gộp cái đa dạng thành một trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh. Nét đặc sắc ở chỗ, Hồ Chí Minh Việt hóa, cụ thể hóa vào điều kiện

Việt Nam, phù hợp với văn hóa dân tộc, đáp ứng được yêu cầu của lịch sử

dân tộc. Nét đặc sắc này, trở thành nhân tố đầu tiên và quyết định giá trị bền

vững của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Bài học thành công và chưa

thành công của các quốc gia trên thế giới về pháp quyền, nhất là những quốc

gia có những nét tương đồng về hoàn cảnh lịch sử, về văn hóa với Việt Nam

Page 112: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

107

cho chúng ta những bài học kinh nghiệm, những giá trị tham chiếu làm sáng

rõ nét đặc sắc này trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

- Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, bên cạnh đề cao pháp luật, vai trò

pháp luật, sử dụng pháp luật, tính hiệu quả, hiệu lực pháp luật; rất coi trọng,

đề cao đạo đức, kết hợp đạo đức và pháp luật, tạo nên pháp quyền nhân nghĩa

Hồ Chí Minh. Pháp quyền Hồ Chí Minh là công lý, đạo lý làm người.

Đạo đức và pháp luật là những công cụ, phương tiện quan trọng, có

hiệu quả được Hồ Chí Minh sử dụng trong xây dựng và thực hiện pháp quyền.

Chúng có những đặc điểm và sức mạnh riêng, nét đặc sắc ở chỗ, Hồ Chí Minh

kết hợp, vừa coi trọng pháp luật, vừa đề cao đạo đức, tạo sự tương hỗ, phát

huy sức mạnh của cả đạo đức và pháp luật, nét đặc sắc ở chỗ, Hồ Chí Minh

quan niệm đạo đức là một mục đích, mục tiêu của pháp quyền. Nét đặc sắc ở

chỗ, Hồ Chí Minh biến đạo đức trở thành nội tại của mọi chủ thể xã hội, trở

thành nội lực thúc đẩy pháp quyền. Đạo đức trở thành nền tảng văn hóa cho

pháp quyền. Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho đạo đức toàn xã hội, đạo đức

công quyền, nền tảng thiết yếu cho pháp quyền văn minh, tiến bộ. Đạo đức

thấm sâu vào đội ngũ cán bộ, công chức tạo nên đạo đức công quyền làm nền

tảng trong các nhánh thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, đạo

đức tham gia và thấm sâu vào hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đạo

đức và pháp luật chuyển hóa cho nhau thành pháp quyền.

- Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh lấy quyền con người, quyền công

dân làm nền tảng, trong đó gắn quyền con người, quyền công dân với quyền

dân tộc, tạo nên sự gắn bó, hài hòa, thống nhất giữa quyền con người, quyền

công dân và quyền dân tộc. Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh mang một giá

trị nhân văn sâu sắc.

Mối quan hệ giữa cá nhân công dân với quốc gia dân tộc là cơ bản, đầu

tiên của mỗi cá nhân con người, các cá nhân hợp thành quốc gia dân tộc, cộng

đồng quốc gia dân tộc tạo nên sức mạnh mới cho cá nhân, mà từng cá nhân

riêng lẻ không thể có được. Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh quyền

Page 113: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

108

con người, quyền công dân và quyền dân tộc quan hệ biện chứng. Nét đặc sắc

ở chỗ, Hồ Chí Minh giải quyết hài hòa, tạo ra sự gắn bó, thống nhất giữa

chúng. Trong hoàn cảnh dân tộc mất độc lập, quyền dân tộc bị xâm phạm,

quyền con người, quyền công dân hòa vào quyền dân tộc, trong quyền dân tộc

có quyền con người, quyền công dân. Tất cả phải ưu tiên cho quyền dân tộc,

đòi và thực hiện quyền dân tộc, đồng thời là đòi và thực hiện quyền con

người, quyền công dân. Quyền dân tộc trở thành điều kiện tiên quyết của

quyền con người, quyền công dân. Ngược lại, khi thực hiện quyền con người,

quyền công dân không bỏ qua, không quên, không xâm phạm quyền dân tộc.

- Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là pháp quyền thực tiễn, Người

nêu các nguyên tắc, các nguyên lý, đồng thời tạo nên các thiết chế để hiện

thực hóa các nguyên lý pháp quyền trong đời sống hiện thực.

Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh trọng thực tiễn, trọng hành động và

hiệu quả. Tính thực tiễn thể hiện từ nguồn gốc ra đời, tư tưởng pháp quyền

Hồ Chí Minh ra đời từ thực tiễn dân tộc Việt Nam cần xây dựng Nhà nước và

hệ thống pháp luật đảm bảo, đem lại quyền lợi cho dân tộc, cho nhân dân. Nét

đặc sắc ở Hồ Chí Minh là các nguyên tắc, nguyên lý pháp quyền được thể

hiện trong các trường hợp, tình huống cụ thể, giá trị không chỉ trong trường

hợp, tình huống cụ thể, mà mang tầm lý luận cao hơn. Hồ Chí Minh xây

dựng, ban hành hệ thống chính sách, pháp luật, xây dựng hệ thống các thiết

chế, Nhà nước, các tổ chức quần chúng, Đảng chính trị để thực hiện pháp

quyền. Trong thực tế, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh

đòi và thực hiện các quyền dân tộc, bảo vệ các quyền dân tộc, đem lại độc lập,

tự do, quyền bình đẳng, quyền tự quyết cho dân tộc; khẳng định và thực hiện

quyền con người, quyền công dân, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc

cho nhân dân. Nét đặc sắc ở chỗ, Hồ Chí Minh nhanh chóng hiện thực hóa

những nguyên tắc, nguyên lý pháp quyền vào thực tiễn.

Page 114: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

109

Tiểu kết chƣơng 3

Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh có thể được tiếp cận với nhiều nội

dung khác nhau, trong chương 3 của luận án, tập trung vào 3 nội dung sau:

Thứ nhất, Hồ Chí Minh đề cao vai trò của pháp luật trong toàn bộ đời

sống xã hội. Pháp luật là công cụ quản lý xã hội cần thiết, quan trọng, hiệu

quả. Pháp luật là cơ sở để thực hiện quyền là chủ và làm chủ của nhân dân.

Pháp luật là cơ sở pháp lý ngăn chặn sự lạm quyền của Nhà nước, của nhân

viên nhà nước. Pháp luật đảm bảo quyền con người. Công pháp quốc tế là cơ

sở thực hiện quyền dân tộc.

Thứ hai, Hồ Chí Minh có đề cập đến các phương thức thực thi pháp

quyền, thông qua hoạt động của Nhà nước dân chủ; thông qua hoạt động thực

thi pháp luật công tâm, nghiêm minh; thông qua văn hóa, đạo đức, kết hợp

giữa Nhà nước và xã hội, giữa pháp luật và đạo đức.

Thứ ba, Hồ Chí Minh nêu những điều kiện thực hiện pháp quyền, điều

kiện đầu tiên phải xây dựng hoàn thiện Nhà nước kiểu mới về bản chất, về cơ

cấu tổ chức, về cơ chế vận hành của bộ máy, cũng như các nhánh trong việc

thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuyên truyền, giáo dục

pháp luật cho nhân dân. Pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân. Nâng cao trình

độ dân trí và ý thức chính trị của người dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là

điều kiện quan trọng, tạo nền tảng văn hóa đảm bảo pháp quyền.

Nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh tương đồng với tư tưởng

pháp quyền hiện đại, pháp quyền trong cả dân quyền và công quyền. Tư

tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh thể hiện tính nhân văn cao cả. Trong tư

tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh có nội dung mới chỉ mang tính khai phá,

ngày nay, chúng ta cần phải bổ sung, phát triển và cụ thể hóa trong thực tiễn

đời sống xã hội.

Page 115: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

110

Chƣơng 4

NHỮNG GIÁ TRỊ THAM CHIẾU TRONG TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN

HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN NHÀ

NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY

Từ những kết quả nghiên cứu nội dung tư tưởng pháp quyền và thực

tiễn chỉ đạo xây dựng pháp quyền Việt Nam của Hồ Chí Minh, tác giả luận án

xin nêu ra một số giá trị tham chiếu của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh

đối với việc xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay, như sau:

4.1. KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC

Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, quyền lực nhà nước là thuộc

về nhân dân, nhà nước nhận sự ủy quyền từ nhân dân, đại diện cho nhân dân

sử dụng quyền lực của nhân dân để quản lý, điều hành đất nước nhằm đem lại

quyền và lợi ích cho nhân dân. Trên thực tế, quyền lực nhà nước có nguy cơ

bị tha hóa, những người nhận sự ủy quyền từ nhân dân lạm dụng quyền lực

nhà nước, xâm hại quyền và lợi ích nhân dân.

Vấn đề hàng đầu trong tư tưởng pháp quyền là kiểm soát quyền lực nhà

nước, đây là vấn đề đặt ra từ khi Nhà nước xuất hiện, tạo một cơ chế để kiểm

soát hiệu quả quyền lực nhà nước là vấn đề luôn được quan tâm trong lịch sử

nhân loại. Ở Việt Nam, từ khi Nhà nước Việt Nam DCCH ra đời cho đến hiện

nay, tại mỗi giai đoạn, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước được đặt ra ở

những mức độ khác nhau.

Trong Tổng kết 30 năm đổi mới và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh đến việc kiểm soát quyền lực nhà

nước, vấn đề trọng tâm hiện nay là xác định rõ cơ chế kiểm soát quyền lực

nhà nước [5, 28, 29]. Kiểm soát quyền lực có hai hình thức kiểm soát bên

trong và kiểm soát bên ngoài, kiểm soát bên trong là sự kiểm soát giữa các cơ

Page 116: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

111

quan nhà nước thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với nhau;

kiểm soát bên ngoài là kiểm soát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các tổ

chức chính trị - xã hội thông qua hoạt động giám sát và phản biện xã hội,

thông qua việc nhân dân thực hiện quyền công dân, quyền con người.

Ở thời đại Hồ Chí Minh vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước có đặt ra,

nhưng chưa phải là vấn đề cần kíp, cấp bách hàng đầu đối với xã hội Việt

Nam. Toàn dân tộc dồn hết cho mục tiêu thiêng liêng nhất là giành và giữ độc

lập dân tộc. Cùng với đó là vai trò và phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh, người

đứng đầu Nhà nước luôn khẳng định cả về lý luận và thực tiễn Nhà nước Việt

Nam DCCH là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Làm cho vấn đề kiểm soát

quyền lực trở thành thứ yếu.

Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản chất tiến bộ, tính ưu

việt của Nhà nước mới đã được khẳng định, nhưng đồng thời cũng bộc lộ hạn

chế cần khắc phục, thiếu một cơ chế giám sát Nhà nước một cách cụ thể, rõ

ràng, hiệu quả, hạn chế này đến hiện nay vẫn chưa được khắc phục triệt để.

Giám sát của lập pháp, đó là giám sát của Quốc hội, chưa có những quy

định cụ thể và thiếu hiệu quả. Hiến pháp năm 1946, Nghị viện nhân dân là cơ

quan nhà nước có quyền cao nhất, quan điểm này được các Hiến pháp về sau

tiếp tục khẳng định, nhưng đẩy sang hướng tập trung quyền lực vào Quốc hội,

tính pháp quyền càng mờ nhạt, trong bản Hiến pháp đang hiện hành, Hiến

pháp năm 2013, quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất;

quyền hạn của Quốc hội rất lớn: quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định

các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của

Nhà nước, khi cụ thể hóa các quyền của Quốc hội có nhiều. Ở đây, nổi lên hai

vấn đề lớn, vấn đề thứ nhất, quyền của Quốc hội - Nghị viện lớn, nhưng

không có cơ chế cụ thể, không hiến định cơ chế giám sát Quốc hội - Nghị

viện; vấn đề thứ hai, nhất là Hiến pháp đang hiện hành quy định quyền hạn

của Quốc hội nhiều, chưa kể quyền của các Ủy ban của Quốc hội, Hội đồng

Page 117: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

112

dân tộc, dẫn đến tính hiệu quả không được đảm bảo, sự dàn trải, nhiệm vụ

chính của Quốc hội không được tập trung. Đối với vấn đề thứ nhất, cần phải

bổ sung cơ chế giám sát Quốc hội, phải hiến định cơ chế giám sát Quốc hội và

cụ thể hóa trong luật. Đối với vấn đề thứ hai, cần cụ thể hóa cơ chế phân

công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước; hiện nay cơ

chế thống nhất quyền lực, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan thực

hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thiếu cụ thể, rõ ràng; thực tế không

hiệu quả; Quốc hội cần tập trung vào hoạt động lập pháp và giám sát.

Giám sát của tư pháp, trong nền pháp quyền của nhiều quốc gia trên thế

giới, hoạt động giám sát này có vai trò quan trọng, tạo ra sự kiềm chế, đối

trọng, tạo sự cân bằng trong quyền lực nhà nước. Đặc điểm này không được

nhấn mạnh ở Việt Nam, trong thực tế, giám sát của tư pháp không phát huy

vai trò. Đây là một vấn đề cần được quan tâm, nghiên cứu và đề xuất giải

pháp hữu hiệu trong xây dựng, phát triển NNPQ XHCN. Trong vai trò giám

sát của tư pháp, có liên quan đến hệ thống cơ quan tòa án, Việt Nam đã có

Tòa án hành chính giải quyết các sự kiện pháp lý phát sinh giữa công dân và

cơ quan nhà nước, trên thực tế vai trò của Tòa án hành chính không phát huy

vai trò.

Thực hiện kiểm soát bên trong, giải quyết nguyên tắc phân công, phối

hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, cần trở lại tham khảo

và kế thừa giá trị tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh về cơ cấu tổ chức bộ

máy nhà nước được hiến định trong Hiến pháp năm 1946, những giá trị

trong chế định Quốc hội lập hiến, Nghị viện nhân dân, Chủ tịch nước,

Chính phủ, Tòa án.

Hiện nay, Việt Nam hoàn toàn thiếu một cơ chế bảo hiến; vai trò giải

thích Hiến pháp của Quốc hội không được phát huy; công dân không viện dẫn

Hiến pháp để bảo vệ quyền và lợi ích của mình; Tòa án không viện dẫn Hiến

pháp trong hoạt động xét xử. Tại Việt Nam, trong hoạt động bảo vệ quyền và

Page 118: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

113

lợi ích của mình, trong hoạt động xét xử của Tòa án, công dân và Tòa án

không viện dẫn, không sử dụng được công lý, lẽ phải khi hệ thống pháp luật

thiếu hay bất hợp lý. Những hạn chế trong hoạt động giám sát của tư pháp

đã tồn tại từ khi Nhà nước Việt Nam DCCH ra đời. Nguyên nhân có nhiều,

nhưng nguyên nhân cốt tử chính là tư tưởng pháp quyền, tinh thần pháp

quyền chưa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội Việt Nam, mức độ “thần

linh pháp quyền” như quan niệm của Hồ Chí Minh chưa đạt được. Vấn đề

đặt ra đối với Việt Nam hiện nay, nhanh chóng xây dựng, ban hành cơ chế

bảo hiến.

Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh thiếu cơ chế và thiết chế bảo

vệ Hiến pháp, pháp luật, xét hành vi của Chính phủ, pháp luật của Quốc hội

có hợp pháp hay không. Đây là một hạn chế cần khắc phục trong xây dựng

NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay, tiếp thu tư tưởng pháp quyền nhân loại,

trong điều kiện Việt Nam hiện nay, việc thành lập một Tòa án Hiến pháp độc

lập bao gồm các thẩm phán có uy tín là phù hợp, khả thi và hiệu quả.

Ban hành hệ thống pháp luật để phục vụ nhân dân và đưa pháp luật vào

cuộc sống. Trong việc xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật, có quan

điểm cho rằng cần phải đầy đủ và đồng bộ, đây là vấn đề khó khăn, lâu dài,

thiên về mặt lý tưởng hơn là thực tế, tính khả thi không cao; có quan điểm

hiện thực hơn là ban hành hệ thống pháp luật cần và đủ. Những quan điểm

trên đều có lý và cần thiết với Việt Nam, thực tế có lĩnh vực, có những quan

hệ xã hội thiếu quy định pháp luật điều chỉnh; tính đồng bộ của hệ thống pháp

luật chưa cao, thậm chí chồng chéo, mâu thuẫn. Vấn đề quan trọng hơn, mang

tính hiện thực hơn, vừa đáp ứng được những đòi hỏi của hiện tại, vừa có giá

trị quyết định, lâu dài là triệt để thực hiện nguyên tắc ban hành pháp luật để

phục vụ nhân dân. Trên nền tảng pháp quyền là pháp luật phục vụ nhân dân,

khi thực tiễn đặt ra yêu cầu, khi nhu cầu nhân dân cần, Nhà nước sẽ ban hành

pháp luật đề đáp ứng; gắn với thực tiễn, gắn với nhân dân tạo cơ sở cho pháp

Page 119: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

114

luật đi vào cuộc sống, đảm bảo tính khả thi. Triệt để tuân thủ nguyên tắc pháp

quyền trong xây dựng, ban hành pháp luật, khắc phục tình trạng hiện nay, ban

hành pháp luật tạo thuận lợi cho cơ quan Nhà nước trong hoạt động, gây khó

khăn, thiệt hại cho công dân, cho xã hội; khắc phục tình trạng, những điều bất

lợi, gây khó khăn, làm thiệt hại đến quyền và lợi ích của nhân dân thì các

nhân viên nhà nước, các cơ quan nhà nước viện lý do luật quy định như vậy;

ngược lại những việc có lợi cho nhân dân thì các nhân viên nhà nước, các cơ

quan nhà nước viện lý do pháp luật không có quy định. Thực trạng này nhìn

về hình thức rất đúng quy định, tuân thủ pháp luật nghiêm, thượng tôn pháp

luật; xét về bản chất và nguồn gốc sâu xa, thể hiện một Nhà nước thiếu tinh

thần pháp quyền, không đạt “thần linh pháp quyền”. Thực trạng này, làm nổi

bật tầm quan trọng của vấn đề pháp luật ấy như thế nào và pháp luật ấy phục

vụ ai; hình thức của pháp luật quan trọng, nhưng nội dung pháp luật, tinh thần

pháp luật, pháp quyền đóng vai trò quyết định.

Giải quyết vấn đề trên, chúng ta trở lại với giá trị tư tưởng và thực tiễn

pháp quyền Hồ Chí Minh. Chúng ta quay lại và triệt để thực hiện tư tưởng

pháp quyền Hồ Chí Minh: Việc gì có lợi cho dân, chúng ta phải hết sức làm;

việc gì có hại cho dân dù nhỏ mấy, chúng ta phải hết sức tránh. Chúng ta quay

lại và thấy được “thần linh pháp quyền” trong thực tiễn hoạt động xây dựng,

ban hành pháp luật của Hồ Chí Minh. Chúng ta thấy dường như có một mâu

thuẫn giữa điểm thứ hai trong Yêu sách của nhân dân An Nam và thực tế ban

hành rất nhiều sắc lệnh trong quản lý nhà nước của Hồ Chí Minh. Giải thích

mâu thuẫn đó có nhiều cách khác nhau, có nhiều lý do khác nhau tùy quan

điểm. Để thấy hết giá trị tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh của vấn đề đó,

cần phải có tư duy biện chứng. Nội dung quyết định hình thức, bản chất quyết

định hiện tượng; hình thức, hiện tượng, cái vỏ vật chất có thể giống nhau,

nhưng nội dung, bản chất bên trong quyết định, tạo nên sự khác nhau về chất

giữa các sự vật, hiện tượng. Cùng mang hình thức là các Sắc lệnh, nhưng các

Page 120: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

115

Sắc lệnh của chính quyền thực dân Pháp ban hành nhằm hạn chế, xâm phạm

quyền con người đối với nhân dân Việt Nam, các Sắc lệnh ấy không có pháp

quyền; ngược lại các Sắc lệnh do Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành nhằm đem

lại quyền và lợi ích cho nhân dân Việt Nam, bảo đảm quyền con người, thể

hiện pháp quyền. Đây là triết lý sâu sắc trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh: pháp luật phục vụ nhân dân.

Công đoạn tiếp theo sau ban hành pháp luật là đưa pháp luật vào cuộc

sống, làm sao để người dân dễ dàng tiếp cận với pháp luật, hiểu về luật, chủ

động sử dụng pháp luật để bảo vệ mình. Đưa pháp luật vào cuộc sống bao

gồm nhiều khâu, liên quan đến nhiều vấn đề, đây là việc khó khăn, phức tạp

và quan trọng không kém ban hành pháp luật. Công bố luật vừa là một khâu

trong quá trình ban hành pháp luật; cũng là bước đầu của đưa pháp luật vào

cuộc sống. Hiện nay, chúng ta chủ yếu đăng trên Công báo, một tờ báo không

mang tính phổ biến trong đời sống xã hội Việt Nam, cần mở rộng sang các

báo khác phát hành mang tính rộng rãi hơn; không chỉ trên báo in, mà mở

rộng ra các phương tiện thông tin đại chúng khác, báo nói, báo hình và báo

điện tử. Khâu tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chúng ta đang trong

tư duy để phục vụ quản lý nhà nước hơn là phục vụ nhân dân; tuyên truyền

tập trung, ưu tiên vào các văn bản pháp luật phục vụ chức năng quản lý nhà

nước hơn là các văn bản pháp luật về quyền công dân; tuyên truyền nhằm

mục đích để công dân tuân thủ pháp luật hơn là để công dân sử dụng pháp

luật. Hoạt động đưa pháp luật vào cuộc sống đặt ra yêu cầu thay tư duy pháp

quyền cho tư duy pháp chế.

Một hệ thống pháp luật hoàn thiện đến mức độ cao, được xác định là

tiến bộ, văn minh, khi được thực thi vẫn chịu ảnh hưởng của nhân tố chủ quan

người áp dụng; xu hướng lạm quyền gắn liền với Nhà nước, với quyền lực

nhà nước; giám sát quyền lực nhà nước bên cạnh biện pháp pháp lý, cần quan

tâm đến đạo đức công quyền. Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh kết

Page 121: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

116

hợp quản lý nhà nước bằng pháp luật với quản lý nhà nước bằng đạo đức

cách mạng. Hiện nay, trong xây dựng NNPQ XHCN, cần áp dụng tư tưởng

pháp quyền Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo đức công quyền. Pháp

luật làm cho người ta không dám lạm quyền, thì đạo đức công quyền làm

cho người ta không muốn lạm quyền, coi lạm quyền là trái với đạo đức; đạo

đức công quyền còn có tác dụng đề cao trách nhiệm cá nhân của nhân viên

nhà nước.

4.2. PHÁP LUẬT PHẢI THỂ HIỆN Ý NGUYỆN CỦA NHÂN DÂN

Tư tưởng pháp quyền phương Tây sử dụng khái niệm pháp luật tự

nhiên, hệ thống pháp luật phản ánh quy luật vốn có của con người, xã hội loài

người, đó là một hệ thống pháp luật lý tưởng. Hệ thống pháp luật thực định do

con người đặt ra là sự phản ánh luật tự nhiên, pháp luật thực định có khởi

nguyên là pháp luật tự nhiên. Pháp luật thực định luôn là tồn tại hiện hữu và

có hiệu lực thực tế trong đời sống hiện thực, để pháp luật thực định trở về với

pháp luật tự nhiên, pháp luật thực định phải phản ánh ý nguyện của nhân dân,

hợp lòng dân. Pháp luật phải là khế ước chung của nhân dân, một bản thỏa

thuận chung của nhân dân.

Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ

XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới [28]. Đối với

Việt Nam hiện nay, để pháp luật thể hiện ý nguyện của nhân dân, cần mở

rộng, bổ sung chủ thể sáng kiến luật là cá nhân công dân, tổ chức xã hội dân

sự. Điều này đảm bảo tính linh hoạt, tính thường xuyên của hoạt động xây

dựng pháp luật; đảm bảo tính thực tiễn của pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc

sống, đưa cuộc sống vào pháp luật.

Trên thực tế và trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành quy định

Quốc hội - Nghị viện nhân dân là chủ thể duy nhất có quyền lập hiến, lập

pháp, chủ thể duy nhất có quyền sáng kiến lập hiến, lập pháp; kết hợp với quy

Page 122: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

117

định Quốc hội - Nghị viện nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất,

dẫn tới quan niệm chưa chính xác trong quan niệm lập hiến, lập pháp. Trong

xã hội Việt Nam, thừa nhận cả hai loại hình: dân chủ trực tiếp và dân chủ gián

tiếp; trong dân chủ gián tiếp có hai loại: qua đại biểu, qua tổ chức. Trên thực

tế, dân chủ trực tiếp còn hạn chế, dân chủ gián tiếp phổ biến và trở thành bắt

buộc; dân chủ gián tiếp tại Việt Nam qua nhiều khâu, nhiều tầng, trở thành

gián tiếp của nhiều lần gián tiếp, đây là một hạn chế rất lớn, dẫn tới tình trạng

ý nguyện của nhân dân bị khúc xạ nhiều lần, khó đảm bảo phản ánh chính xác

ý nguyện của nhân dân. Hệ quả là quan niệm không chính xác về pháp quyền

là Quốc hội sáng tạo ra các quy tắc phổ quát cho công dân, cho tổ chức, cho

toàn xã hội. Trong khi thực chất Quốc hội chỉ là cơ quan do nhân dân ủy

quyền, đại diện cho nhân dân thông qua hoạt động lập pháp xác nhận các quy

tắc phổ quát. Hoạt động lập pháp của Quốc hội chỉ là một thủ tục xác định

quy tắc phổ quát. Chủ thể sáng tạo đích thực của các quy tắc phổ quát đó là

nhân dân. Dân chủ trực tiếp là một lý tưởng, người dân trực tiếp thể hiện ý

nguyện của bản thân; nhưng dân chủ trực tiếp khi thực thi có nhiều khó khăn,

chi phí về tài chính lớn; cần nhiều thời gian, công sức; phụ thuộc vào trình độ

dân trí; phương pháp, phương tiện, công cụ thực hiện dân chủ trực tiếp phải

khách quan, khoa học. Trong điều kiện thức tế của Việt Nam, thực hiện dân

chủ trực tiếp có nhiều khó khăn; nhưng là việc cấp thiết hiện nay, cần phải

tăng cường, mở rộng và có bước đi cụ thể, thực chất. Dân chủ gián tiếp cần

thiết và tiếp tục duy trì, nhưng phải xác định giới hạn.

Làm sao để hoạt động lập pháp của Quốc hội phản ánh chính xác ý

nguyện của nhân dân trong chính thể đại diện, chúng ta có thể trở lại với giá

trị tư tưởng và thực tiễn pháp quyền Hồ Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh, các vị

đại biểu phải gần dân, lắng nghe dân và tiếp thu được ý nguyện của nhân dân,

làm sao để nắm được dân tình, hiểu được dân nguyện, thấu được dân tâm. Khi

đó, các chính sách, trong đó có hoạt động lập pháp sẽ phản ánh được ý

Page 123: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

118

nguyện của nhân dân. Nhân dân tham gia trực tiếp vào hoạt động xây dựng

pháp luật; pháp luật là quy tắc ứng xử chung mang tính bắt buộc, tác động

trực tiếp và mạnh mẽ lên con người, đời sống xã hội, các chủ thể chịu sự tác

động của pháp luật có quyền góp ý kiến đối với pháp luật. Thực tiễn chỉ đạo

xây dựng Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 của Hồ Chí Minh, có lấy ý kiến

rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, tiếp thu và chỉnh lý theo góp ý của nhân

dân là một gợi ý trực tiếp. Vấn đề đặt ra là làm sao lấy ý kiến nhân dân thực

chất, tránh hình thức, tiếp thu được ý nguyện của nhân dân.

Thời đại Hồ Chí Minh chưa có điều kiện đề cập và thực hiện phản biện

xã hội đối với chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhưng Hồ Chí Minh đã có

những gợi mở về vấn đề này trong thực tiễn. Bản dự thảo Hiến pháp năm

1946 được đăng trên báo Cứu quốc, kèm theo Thông cáo của Chính phủ để

nhân dân được biết, mọi người được tự do bàn bạc và phê bình. Trong quá

trình thảo luận và thông qua Hiến pháp, có sự trao đổi, tranh luận trên từng

điều luật; có sự cọ sát giữa các khuynh hướng lập hiến khác nhau, một hoạt

động dân chủ rộng rãi và thực chất trong hoạt động lập hiến Việt Nam, điều

này khó có thể lặp lại trong lịch sử lập hiến Việt Nam. Những việc đó, có thể

được xem là những biểu hiện cụ thể của phản biện xã hội. Cách làm của Hồ

Chí Minh là những gợi mở có giá trị vận dụng trong hoạt động lập hiến, lập

pháp hiện nay. Xây dựng và thực hiện cơ chế phản biện của nhân dân đối với

các dự án luật, phản biện xã hội là điều kiện quan trọng để pháp luật phản ánh

đúng ý nguyện của nhân dân, nhất là những đối tượng chịu sự tác động trực

tiếp của luật, đảm bảo cho pháp luật thật sự là của nhân dân, do nhân dân, vì

nhân dân. Hiện nay, khi lấy ý kiến cho các văn bản pháp luật chủ yếu lấy ý

kiến của các cơ quan, tổ chức, của cán bộ; cần xác định lấy ý kiến phản biện

của nhân dân là điều kiện bắt buộc trong quá trình xây dựng dự thảo luật, việc

lấy ý kiến nhân dân phải đảm bảo thực chất. Việc tiếp thu ý kiến nhân dân vào

Page 124: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

119

các dự thảo luật phải được thông báo công khai, minh bạch và rộng rãi.

Do bối cảnh lịch sử cụ thể của đất nước, vừa giành độc lập, dân tộc có

chiến tranh, lãnh thổ bị chia cắt, Quốc hội không thể họp thường xuyên, do

đó, vai trò lập quy của Chính phủ Việt Nam DCCH nhiều, lớn, và đáp ứng

được yêu cầu của thực tiễn đất nước; dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí

Minh, hoạt động lập quy của Chính phủ đảm bảo và đậm nét pháp quyền.

Tính hiệu quả và pháp quyền trong hoạt động lập quy của Chính phủ khi đó

mang đậm dấu ấn cá nhân Hồ Chí Minh. Vai trò cá nhân Hồ Chí Minh nổi

bật, nhưng không chủ quan duy ý chí, không độc đoán chuyên quyền. Điều

này thể hiện qua cách thức lập quy và nội dung các Sắc lệnh, về thực tế chủ

thể sáng kiến lập quy là Chính phủ, các cuộc họp của Chính phủ luôn có sự

tham gia và cho ý kiến của Ban Thường vụ Quốc hội hoặc Trưởng Ban

Thường vụ Quốc hội; các Sắc lệnh của Chính phủ khi ban hành đều báo cáo

và có ý kiến của Ban Thường vụ Quốc hội hoặc Trưởng Ban Thường vụ Quốc

hội; về mặt pháp lý các Sắc lệnh của Chính phủ phải tuân thủ quy định Quốc

hội vào phiên họp gần nhất để ưng chuẩn hoặc phế bỏ; về nội dung các Sắc

lệnh phục vụ sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động

lập quy của Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu là một trường hợp

đặc biệt, đảm bảo phản ánh đúng ý nguyện của toàn dân tộc, chúng ta nhận

thấy ở đó nhân tố chủ quan, yếu tố phẩm chất cá nhân người lãnh đạo đóng

vai trò quyết định. Kinh nghiệm lập quy của Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí

Minh lãnh đạo có giá trị tham khảo sâu sắc cho hoạt động lập quy của Chính

phủ hiện nay.

Hiện nay, đã có nhiều thay đổi, điều kiện lịch sử thay đổi so với thời

đại Hồ Chí Minh, vai trò lập quy của Chính phủ cần phải hạn chế. Khắc phục

những hệ lụy khác và trái với tư tưởng pháp quyền, tình trạng luật phải chờ sự

chi tiết, sự hướng dẫn của các văn bản lập quy mới áp dụng được; tình trạng

các văn bản lập quy phục vụ cho quyền lợi, tạo sự thuận lợi cho cơ quan, cho

Page 125: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

120

nhân viên Nhà nước, không thuận lợi cho công dân, cho xã hội, cho lợi ích

chung của đất nước; tình trạng lập quy hạn chế quyền và lợi ích của công dân.

Hệ lụy chung là văn bản lập quy có giá trị, có hiệu lực cao hơn luật, Hiến

pháp, hoàn toàn trái với tư tưởng pháp quyền. Pháp luật đã bị khúc xạ, không

phản ánh nhanh, đúng ý nguyện của nhân dân.

4.3. CHỦ QUYỀN NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG

CỦA QUỐC GIA

Chủ quyền nhân dân trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh nhiều nội

dung có giá trị bền vững, cần tiếp thu và vận dụng trong xây dựng NNPQ

XHCN hiện nay. Chủ quyền nhân dân trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh thể hiện tập trung trong việc quyết định những vấn đề quan hệ đến vận

mệnh quốc gia.

Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Dân chủ phải được thực hiện

đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảm bảo nhân

dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên

quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân” [29, tr.38].

Chủ quyền nhân dân quan trọng hàng đầu là lập Nhà nước, trước tiên,

quyết định nhất là tham gia ứng cử và bầu cử Quốc hội, cơ quan quyền lực

Nhà nước cao nhất, cơ quan đại diện cao nhất trực tiếp do nhân dân bầu ra; cơ

quan đại diện cho nhân dân làm và sửa Hiến pháp, làm và sửa luật, quyết định

các vấn đề chung của đất nước. Theo quy định của pháp luật nước Việt Nam

DCCH, đối tượng có quyền ứng cử và bầu vào Quốc hội rất rộng. Cụ thể căn

cứ vào Sắc lệnh số 51, ngày 17/10/1945 của Chính phủ nước Việt Nam

DCCH và Hiến pháp năm 1946, tất cả công dân Việt Nam 18 tuổi trở lên,

không mất trí và mất công quyền có quyền bầu cử Quốc hội; những người có

quyền bầu cử, từ 21 tuổi, biết đọc, biết viết có quyền ứng cử vào Quốc hội.

Page 126: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

121

Theo Hồ Chí Minh, nguyên tắc xác định số lượng đại biểu căn cứ theo

số lượng dân số, đây là căn cứ chính, tuy nhiên có tính đến yếu tố ngoại lệ,

đặc thù là các thành phố lớn, các địa phương có tộc người thiểu số. Điều này

được cụ thể hóa trong các Sắc lệnh do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký liên quan đến

cuộc Tổng tuyển cử năm 1946, quy định cụ thể số lượng đại biểu của mỗi địa

phương, cơ cấu đại biểu cụ thể của những địa phương có đồng bào tộc người

thiểu số (Sắc lệnh số 51, 17/10/1945, Sắc lệnh số 72, ngày 2/12/1945) và Hiến

pháp năm 1946. Một nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh tiến bộ, văn

minh khi ra đời và được kế thừa, vận dụng cho đến hiện nay.

Quốc hội là Quốc dân đại biểu đại hội, đại biểu Quốc hội thay mặt cho

toàn dân, thay mặt cho địa phương mình, Hồ Chí Minh xác định nguyên tắc

đơn vị bầu cử theo địa phương, điều này có nhiều ý nghĩa, về phía người dân

sẽ hiểu rõ nhất các ứng cử viên của địa phương mình, sẽ lựa chọn người đại

diện cho mình chính xác, xứng đáng, thực sự có thể đại diện cho nhân dân; về

phía người được bầu, hiểu rõ tình hình địa phương, hiểu rõ nhân dân, phản

ánh đúng ý nguyện của nhân dân. Nguyên tắc này cần triệt để vận dụng trong

bầu cử Quốc hội hiện nay, kết hợp với những nguyên tắc khác, giúp lựa chọn

đại biểu xứng đáng của từng địa phương và cả nước. Hai nguyên tắc này được

hiến định trong Hiến pháp năm 1946, trở thành nguyên tắc quan trọng trong

hoạt động bầu cử Quốc hội ở Việt Nam.

Chủ quyền nhân dân trong việc sửa đổi Hiến pháp, quyết định hiệu lực

của Hiến pháp, xác định giá trị pháp lý của Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946

và năm 1959 không hiến định hiệu lực của Hiến pháp, từ Hiến pháp năm 1980

đều hiến định Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao

nhất, mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Giá trị pháp lý

của Hiến pháp được tạo bởi nội dung của Hiến pháp quy định những vấn đề

cơ bản của đất nước: chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bầu cử; quyền

con người, quyền và nghĩa vụ công dân; tổ chức quyền lực nhà nước; sửa đổi

Page 127: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

122

Hiến pháp. Yếu tố quyết định giá trị pháp lý của Hiến pháp là việc nhân dân

tham gia trực tiếp vào xây dựng và thông qua Hiến pháp, trực tiếp quyết định

hiệu lực của Hiến pháp, thể hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân

dân trực tiếp quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, khẳng định chủ

quyền nhân dân.

Về xây dựng Hiến pháp, về chủ thế sáng kiến lập hiến, tất cả các bản

Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Công hòa, nay là Cộng hòa XHCN

Việt Nam đều hiến định Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn làm Hiến pháp

và sửa đổi Hiến pháp; Hiến pháp năm 1946 quy định sửa đổi Hiến pháp do

hai phần ba nghị viên yêu cầu; các Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm

1992, và năm 1992 (sửa đổi năm 2001) đều quy định chỉ duy nhất Quốc hội

mới có quyền sửa đổi Hiến pháp; về tư tưởng chung của các Hiến pháp từ

năm 1946 cho đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) chủ thể sáng kiến

lập hiến chỉ duy nhất là Quốc hội. Nhân dân với tư cách chủ thể sáng kiến lập

hiến được thực hiện một cách gián tiếp.

Đến Hiến pháp năm 2013, vừa cụ thể hóa, vừa mở rộng hơn chủ thể

sáng kiến lập hiến, gồm: Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính

phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm

Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. So với các Hiến pháp trước, Hiến pháp năm

2013 quy định về số lượng đại biểu Quốc hội đủ để trở thành chủ thể sáng

kiến lập hiến thay đổi giảm xuống, cụ thể chỉ cần từ đủ một phần ba tổng số

đại biểu Quốc hội yêu cầu làm, sửa đổi Hiến pháp là trở thành một chủ thể

sáng kiến lập hiến; Chính phủ là một chủ thể lập hiến, theo Hiến pháp năm

2013, Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ,

các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; các thành viên trên có thể

không phải là đại biểu Quốc hội; chủ thể sáng kiến lập hiến mở rộng ra ngoài

Quốc hội; nhưng vẫn nằm trong giới hạn các thành viên Chính phủ; tuy vậy,

đây là một bước tiến bộ của tư tưởng lập hiến ở Việt Nam, một bước tiến bộ

Page 128: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

123

pháp quyền Việt Nam xét về phương diện chủ thể sáng kiến lập hiến. Tất cả

các bản Hiến pháp của nước Việt Nam DCCH, nay là nước Cộng hòa XHCN

Việt Nam chưa hiến định chủ thể sáng kiến lập hiến là cá nhân công dân, tổ

chức xã hội; quyền lập hiến trực tiếp của nhân dân, chủ quyền nhân dân trong

lập hiến chưa đầy đủ. Đây là một hạn chế trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh, trong pháp quyền Việt Nam cần khắc phục, bổ sung.

Cách thức sửa đổi và hiệu lực của Hiến pháp sửa đổi theo quy định

Hiến pháp năm 1946: Do hai phần ba tổng số Nghị viên yêu cầu; Nghị viện

bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi; Những điều thay đổi khi đã được

Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết. Một khâu, một thủ

tục bắt buộc trong cách thức sửa đổi Hiến pháp và quyết định giá trị, hiệu

lực pháp lý của Hiến pháp sửa đổi là đưa ra toàn dân phúc quyết, nhân dân là

chủ thể trực tiếp ra quyết định đối với hiệu lực của Hiến pháp sửa đổi. Đó là,

chủ quyền nhân dân trong sửa đổi Hiến pháp, một giá trị của tư tưởng pháp

quyền Hồ Chí Minh; một điểm sáng, một đỉnh cao thể hiện “thần linh pháp

quyền”, đó luật của tự nhiên, cái đạo lý nhân dân là chủ thể tối cao của toàn

bộ quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội; cốt lõi của dân chủ. Do hoàn

cảnh đất nước có chiến tranh, thực dân Pháp quay lại xâm lược Việt Nam,

Hiến pháp năm 1946 không có điều kiện để đưa ra toàn dân phúc quyết. Quy

định đưa ra toàn dân phúc quyết không được thực hiện trên thực tế, dù có

nguyên nhân bất khả kháng là đất nước có chiến tranh, thì đó vẫn là một hạn

chế trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, trong pháp quyền Việt Nam.

Quy định phải đưa Hiến pháp sửa đổi đã được Nghị viện ưng chuẩn đưa ra

toàn dân phúc quyết là một giá trị trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh,

cần phải được kế thừa và vận dụng trong xây dựng, hoàn thiện NNPQ

XHCN Việt Nam hiện nay.

Hiến pháp 2013 trở lại với giá trị này trong tư tưởng pháp quyền Hồ

Chí Minh, quy định cụ thể hơn về cách thức sửa đổi Hiến pháp, nhưng điểm

Page 129: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

124

cốt tử của thần linh pháp quyền vẫn chưa đạt tới. Hiến pháp năm 2013, tại

Điều 120 quy định: Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết

định; trưng cầu dân ý không phải là một yêu cầu, một thủ tục bắt buộc của

quy trình xây dựng, ban hành, xác định hiệu lực của Hiến pháp; là một quy

định mở, linh hoạt, bỏ ngỏ; trưng cầu dân ý với Hiến pháp sửa đổi là thuộc

thẩm quyền quyết định của Quốc hội; có thể quyết định trưng cầu dân ý, cũng

có thể không trưng cầu dân ý. Trên thực tế, Hiến pháp năm 2013 thông qua và

có hiệu lực không qua trưng cầu dân ý.

Chủ quyền nhân dân trong xây dựng, sửa đổi Hiến pháp, về mặt tư

tưởng, về mặt quy định của luật pháp đã có, nhưng về mặt thực tiễn chưa có,

do đó, chủ quyền nhân dân trong hoạt động lập hiến chưa hoàn chỉnh. Đây là

nhiệm vụ mà pháp quyền Việt Nam cần phải khắc phục và phát triển; một mặt

pháp quyền Việt Nam trở lại với các giá trị tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh, trở lại với quy định bắt buộc trưng cầu dân ý với Hiến pháp sửa đổi

theo Hiến pháp năm 1946; mặt khác, phải phát triển hơn thời đại Hồ Chí

Minh, thực hiện trên thực tế trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp sửa đổi; một

đảm bảo cao nhất về giá trị pháp lý của Hiến pháp. Chủ quyền nhân dân trong

hoạt động lập hiến được thực hiện đầy đủ.

Nhân dân không nên và không bao giờ ủy thác toàn bộ quyền cho Nhà

nước, nhân dân phải giữ lại quyền lập hiến. Nhân dân giữ lại quyền này để

kiểm soát quyền lực nhà nước, giám sát, kiểm soát việc nhà nước sử dụng

quyền lực nhân dân đã ủy thác. Qua Hiến pháp, nhân dân phân quyền lực nhà

nước thành các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; ủy quyền

cho các cơ quan nhà nước sử dụng các quyền đó. Qua Hiến pháp, nhân dân

tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của các cơ quan thực hiện quyền lập

pháp, hành pháp và tư pháp.

Do đó, việc đảm bảo thực hiện đầy đủ và hiệu lực, hiệu quả chủ quyền

nhân dân trong việc xây dựng, sửa đổi Hiến pháp là một yêu cầu cấp bách

trong xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay.

Page 130: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

125

Hiện nay, bối cảnh quốc tế và bối cảnh trong nước đã hội tụ đủ các yếu

tố cho Việt Nam thực hiện đầy đủ và hiệu lực, hiệu quả chủ quyền nhân dân

trong việc xây dựng, sửa đổi Hiến pháp, góp phần thực hiện mục tiêu vì một

nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

4.4. CÁC QUYỀN HIẾN ĐỊNH CỦA CÔNG DÂN

Lịch sử pháp quyền nhân loại cho thấy quyền công dân ngày một được

mở rộng, gắn liền với sự tiến bộ, văn minh của nhân loại; con người về mặt lý

luận và thực tiễn ngày càng được sống tốt hơn, xứng đáng với tư cách con

người. Quyền công dân là những quyền tự nhiên vốn có của con người được

pháp luật ghi nhận và bảo vệ, tư tưởng pháp quyền quan niệm quyền con

người là khởi nguyên của quyền công dân.

Trong tư tưởng pháp quyền, Hồ Chí Minh sớm đề cập đến quyền con

người, một mặt, Hồ Chí Minh đấu tranh cho việc thừa nhận quyền con

người; mặt khác, Người tổ chức thực hiện quyền con người ở Việt Nam.

Khi đất nước có độc lập, có Nhà nước độc lập, có điều kiện thực tế thực

hiện quyền con người, Hồ Chí Minh thông qua Nhà nước ban hành hệ

thống pháp luật ghi nhận quyền con người thành các quyền công dân; tổ

chức thực hiện các quyền con người trên thực tế. Nhân dân được xác định

là chủ thể của quyền công dân, chủ thể trong việc kiến thiết quyền công

dân qua hoạt động lập pháp, lập hiến; chủ thể trong việc thực hiện quyền

công dân qua việc thực thi pháp luật, xây dựng xã hội mới. Vai trò chủ thể

của Nhà nước chỉ giới hạn là người trực tiếp xác định cơ sở pháp lý của

quyền công dân; trong việc tổ chức thực hiện quyền con người một cách có

trật tự, có kỷ cương, đảm bảo thực hiện quyền con người của cá nhân này

không xâm hại quyền con người của cá nhân khác.

Trong Hiến pháp năm 1946, tại Chương 2: Nghĩa vụ và quyền lợi công

dân, tất cả các điều khoản đều toát lên hình ảnh công dân là chủ thể duy nhất

Page 131: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

126

và tối cao của các quyền công dân, quyền con người; về nội dung và giới hạn

phạm vi của các quyền rất rõ ràng; về kỹ thuật cách diễn đạt ngắn gọn, dễ

hiểu, dễ thực hiện. Trong các điều khoản toát lên và thể hiện đậm nét tư tưởng

pháp quyền Hồ Chí Minh, các quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn

có của con người, quan điểm đó tương đồng với tư tưởng pháp quyền phương

Tây. Hiến pháp năm 1946 cho thấy các nhà lập hiến Việt Nam, trong đó có

Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc về bản chất quyền con người và có tầm nhìn

tiến bộ về quyền con người. Thể hiện tư duy vượt trước thời đại, bởi những

quyền công dân quy định trong Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam

DCCH phải đến Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công

ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, Công ước quốc tế về các quyền

kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 có sự tương đồng về các quyền và nội dung

các quyền. Giá trị tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh cần kế thừa, vận dụng

không chỉ ở nội dung các quyền, mà còn ở phương pháp, ở tư duy định

hướng, khi ghi nhận các quyền con người trên tinh thần quyền con người là

quyền tự nhiên, vốn có, bẩm sinh của con người, hướng tới ghi nhận các

quyền thể hiện sự tiến bộ, văn minh, mang tính phổ biến toàn nhân loại, đảm

bảo cho con người ngày càng tự do và hạnh phúc.

Quyền con người thể hiện qua quyền công dân, nhân dân là chủ thể

quyền công dân, Nhà nước đóng vai trò thừa nhận, bảo vệ quyền con người

qua quyền công dân, Nhà nước không phải là chủ thể của quyền công dân.

Quan điểm này của Hồ Chí Minh có giá trị về lý luận và thực tiễn trong xây

dựng pháp quyền Việt Nam hiện nay.

Hoạt động lập hiến, lập pháp hiện nay cần phải quán triệt tư tưởng pháp

quyền, thứ nhất, cũng như quyền con người, quyền công dân là vốn có, Nhà

nước có nghĩa vụ thừa nhận, chứ không phải Nhà nước ban phát, cho mới có;

thứ hai, quyền công dân là giới hạn của công quyền, vùng cấm của công

quyền. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải có tinh thần trách nhiệm, năng lực

Page 132: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

127

cao, nói như ngôn từ Hồ Chí Minh là phải có đội ngũ cán bộ, công chức đủ

tài, đủ đức; nói như ngôn từ ngày nay là có tâm và có tầm. Quán triệt tinh

thần này, làm thay đổi tư duy pháp chế sang tuy duy pháp quyền trong hoạt

động lập pháp, lập hiến, trong toàn bộ đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. Sự

thay đổi này không đơn giản, nhưng vô cùng cần thiết, cấp bách hiện nay.

Điều này cần sự nỗ lực và quyết tâm của toàn xã hội, mà trước tiên là trong

bộ máy Nhà nước, trong giới lãnh đạo Đảng, Nhà nước hiện nay.

Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam,

quyền con người được xác lập trong Hiến pháp, Chương II: Quyền con người,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; các quyền con người được xác định

đầy đủ, hệ thống về nội dung, về giới hạn phạm vi các quyền đó. Chủ thể của

các quyền, gồm cá nhân và nhóm, không chỉ quyền của công dân, của người

Việt Nam, mà cả quyền của người nước ngoài, không phải công dân, không

phải người Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa và tiếp thu được các

giá trị trong lịch sử lập hiến Việt Nam, trong đó có Hiến pháp năm 1946 và

dần tiếp cận với hệ thống pháp luật và thông lệ quốc tế. Đó là, một tiến bộ của

hoạt động lập hiến, bước tiến bộ về quyền con người, bước tiến bộ của pháp

quyền Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phương hướng, nhiệm vụ trong thời

gian tới: “Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công

dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013” [29, tr.169].

Như vậy, các quyền con người, quyền công dân đã được Đảng Cộng

sản Việt Nam khẳng định, được Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam quy định; vấn đề với Việt Nam hiện nay là cụ thể hóa thành các đạo

luật và thực thi trong thực tiễn đời sống xã hội. Việc chậm cụ thể hóa các quy

định của Hiến pháp là một hạn chế cần khắc phục trong xây dựng, hoàn thiện

NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay.

Page 133: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

128

4.5. XÂY DỰNG MỘT CHÍNH QUYỀN MẠNH MẼ VÀ SÁNG SUỐT

Theo Hồ Chí Minh, tổ chức quyền lực trong Nhà nước Việt Nam

DCCH không hoàn toàn theo học thuyết tam quyền phân lập, các quyền lập

pháp, hành pháp và tư pháp độc lập với nhau, kiềm chế và đối trọng lẫn nhau;

quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ

quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lực Nhà nước

thống nhất ở nhân dân, đó là chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực Nhà

nước, của toàn xã hội; thông qua bầu cử, nhân dân trực tiếp ủy quyền cho Nhà

nước sử dụng quyền của mình để quản lý điều hành đất nước; Nhà nước nhận

ủy quyền. Quyền lực nhà nước có sự phân công, Quốc hội thực hiện chức

năng lập pháp; Chính phủ thực hiện chức năng hành pháp; Tòa án thực hiện

chức năng xét xử. Trong việc thực hiện chức năng của mình các cơ quan có

sự phối hợp với nhau.

Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối

hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chưa có

quy định cụ thể, rõ ràng; nhất là về cơ chế phối hợp. Mối quan hệ giữa Quốc

hội và Chính phủ, theo Hiến pháp năm 1946 quy định: Nghị viện nhân dân là

cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam DCCH, có quyền đặt ra pháp

luật; Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc, thi hành các

đạo luật và quyết nghị của Nghị viện. Qua quy định trên, có sự phân công

chức năng của từng cơ quan; đồng thời toát lên tính thứ bậc tương đối giữa

hai cơ quan, tính độc lập nhất định của Chính phủ trong quan hệ với Quốc

hội. Từ Hiến pháp năm 1959, quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của

cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, tính thứ bậc trong quan hệ được nhấn

mạnh, đề cao. Hiến pháp năm 2013 vừa kế thừa quy định tính thức bậc trong

Hiến pháp năm 1959, đồng thời kề thừa tính độc lập tương đối của Chính phủ

trong Hiến pháp năm 1946. Điều này thể hiện tư tưởng tập quyền chi phối cơ

chế tổ chức quyền lực nhà nước tại Việt Nam.

Page 134: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

129

Chính phủ, theo tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, phải có thẩm

quyền mạnh và hiệu quả; Chính phủ đảm bảo đủ thẩm quyền và phản ứng

nhanh, giải quyết hiệu quả với những vấn đề nảy sinh của thực tiễn đời sống

xã hội; song song với quản lý, điều hành. Chính phủ nước Việt Nam DCCH

do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, với một thẩm quyền mạnh, thích hợp để có thể

ứng phó mau lẹ với thời cuộc luôn biến chuyển, đã giải quyết tốt những khó

khăn về đối nội, đối ngoại tưởng chừng không vượt qua của đất nước. Tập

quyền nhưng không độc đoán chuyên quyền; thẩm quyền mạnh nhưng không

lạm quyền đó là những bài học kinh nghiệm quý báu trong tư tưởng pháp

quyền Hồ Chí Minh, có giá trị lý luận và thực tiễn trong xây dựng NNPQ

XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay.

Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh nói chung, quan điểm về một

chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân, một Chính phủ với thẩm

quyền mạnh và hiệu quả nói riêng, thì cốt tử phải trở lại vấn đề con người;

con người trong Chính phủ trước hết là các thành viên Chính phủ đóng vai trò

quan trọng hàng đầu; rộng ra là toàn bộ nhân viên nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã quy tụ được những hiền tài của dân tộc vào trong Chính phủ, tạo ra

một tập thể Chính phủ giàu trí tuệ, giàu đức độ, nền tảng của một chính quyền

mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân, một Chính phủ với thẩm quyền mạnh và

hiệu quả. Hồ Chí Minh giới thiệu chung về các Bộ trưởng trong Chính phủ

kháng chiến: “đều là những người có tuổi tác, có danh vọng, đạo đức, một

mặt có thể giúp ý kiến cho Chính phủ, một mặt có thể điều khiển quốc dân”

[75, tr.220]. Khi Hồ Chí Minh giới thiệu về từng thành viên trong Chính phủ,

Người tập trung nhấn mạnh, khắc họa tài năng, đạo đức, năng lực làm việc

của họ, chứ không phải những vấn đề khác. Điều này thể hiện quan điểm

trọng tài, trọng đức, trọng hiệu quả trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

Tư tưởng này nhất quán trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Hồ Chí

Minh, Người kêu gọi nhân tài ra giúp nước; lưu giữ quan lại, công chức của

Page 135: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

130

chế độ cũ làm việc cho chế độ mới; đào tạo và thi tuyển viên chức nhằm

tuyển chọn người có tài, có đức tham gia Nhà nước.

Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh trọng dụng trí thức, trọng dụng

nhân tài là một giá trị cần kế thừa và phát huy trong xây dựng, hoàn thiện

NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay. Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta những

bài học kinh nghiệm quý báu về thu hút và phát huy trí tuệ của nhân tài, của

trí thức đóng góp cho sự nghiệp cách mạng còn nguyên giá trị.

Để hoạt động có hiệu quả, cần xây dựng Nhà nước trong sạch, cần tạo

môi trường đạo đức công quyền trong sạch, hạn chế, ngăn chặn lạm quyền.

Hồ Chí Minh ý thức được không dễ và nhanh chóng cho bản chất tốt đẹp của

Nhà nước thể hiện đầy đủ; đặt ra một khuôn khổ pháp lý cho sự vận hành của

Chính phủ chưa đủ, cần một môi trường đạo đức công quyền trong sạch hỗ

trợ. Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến chăm lo, bồi dưỡng đạo đức cách mạng

cho nhân viên nhà nước. Đạo đức trở thành nội lực bên trong của mỗi con

người phấn đấu cho lợi ích của dân tộc, của nhân dân.

Hệ thống tư pháp của nước ta ra đời và phát triển từ sau Cách mạng

tháng Tám năm 1945 đã góp phần thực thi pháp luật nghiêm minh, hiệu lực,

hiệu quả; góp phần quan trọng trong xây dựng pháp quyền Việt Nam. Hệ

thống các cơ quan tư pháp ở Việt Nam bao gồm Toà án, các cơ quan điều

tra, Viện kiểm sát, thi hành án và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp như tổ

chức giám định tư pháp, tổ chức luật sư, cơ quan công chứng nhà nước, lý

lịch tư pháp, trong đó, Toà án được coi là trọng tâm của toàn bộ hệ thống tư

pháp. Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, cho nên tổ chức hệ

thống tòa án; nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Tòa án đóng vai trò quan

trọng trong thực hiện một trong ba nhánh quyền của quyền lực nhà nước -

quyền tư pháp.

Hiện nay, Toà án các cấp đang được tổ chức theo đơn vị hành chính -

lãnh thổ kết hợp với phân định thẩm quyền xét xử, có những ưu điểm: thuận

Page 136: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

131

lợi cho nhân dân; hoạt động của Tòa án nhân dân địa phương gắn với sự lãnh

đạo của cấp ủy Đảng và chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân. Đồng thời

bộc lộ nhiều hạn chế, ảnh hưởng nguyên tắc độc lập xét xử và năng lực, hiệu

quả trong hoạt động xét xử. Để khắc phục những hạn chế trong tổ chức hệ

thống tòa án hiện nay, cần trở lại và vận dụng tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh, Hiến pháp năm 1946 về tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử. Các

Tòa sơ cấp và đệ nhị cấp xét xử sơ thẩm các vụ án; Tòa phúc thẩm xét xử theo

trình tự phúc thẩm các vụ án đã được xét xử sơ thẩm bởi các Tòa sơ cấp và đệ

nhị cấp; Tòa án tối cao là Tòa phá án, thực hiện chức năng giám đốc thẩm và

tái thẩm. Cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của tòa án quy định trong

Hiến pháp năm 1946, làm cho hệ thống tòa án độc lập với hệ thống chính

quyền các cấp được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ; tạo ra sự độc lập

trong bản thân hệ thống tòa án. Đây là một giá trị trong tư tưởng pháp quyền

Hồ Chí Minh cần kế thừa và áp dụng trong việc cải cách hệ thống tư pháp ở

Việt Nam hiện nay, đảm bảo tính độc lập của quyền tư pháp với quyền lập

pháp và hành pháp, đảm bảo nguyên tắc độc lập trong xét xử, chỉ tuân theo

pháp luật.

Nguyên tắc độc lập xét xử là một giá trị của tư tưởng pháp quyền nhân

loại; là một đặc trưng điển hình của pháp quyền, là bộ phận thể hiện rõ nhất

sự đối trọng, kiềm chế với hai quyền lập và hành pháp, tạo cân bằng quyền

lực nhà nước. Nguyên tắc độc lập xét xử có nội hàm rộng: là một trong ba

bộ phận hợp thành quyền lực nhà nước, quan hệ ngang hàng, bình đẳng với

hai bộ phận còn lại; chỉ tuân theo pháp luật không chịu sự tác động, can

thiệp của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp; không chịu sự

tác động, chi phối của các Đảng phái chính trị; chỉ dựa trên công lý, lẽ phải,

đạo lý làm người.

Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, Hiến pháp năm 1946 quy định

thẩm phán khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được

Page 137: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

132

can thiệp; tinh thần này được các bản Hiến pháp sau kế thừa. Đây là một bước

nhảy về chất trong hoạt động xét xử ở Việt Nam, phù hợp với trào lưu tiến bộ

của nền tư pháp tiến bộ, văn minh, cần phải tiếp thu và bổ sung, phát triển.

Quy định trên đã thể hiện quyền tư pháp độc lập trong hệ thống quyền lực nhà

nước, nhưng chưa thể hiện rõ sự độc lập đối với quyền lực chính trị, đặc biệt

trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hiến pháp đang hiện hành, hiến định

Đảng Cộng sản lãnh đạo Nhà nước. Nguyên tắc độc lập xét xử cả về lý luận

và thực tiễn cần phải tính đến yếu tố đặc thù này, tạo một cơ chế đảm bảo

thực chất của nguyên tắc.

Nguyên tắc xét xử chỉ tuân theo pháp luật cần kế thừa, phát huy, nhưng

chỉ dựa vào đó chưa thể hiện hết tư tưởng pháp quyền, cần thiết phải bổ trợ

bằng các giá trị khác, các nguyên tắc khác, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích công

dân, bảo vệ quyền con người hiệu quả. Một hệ thống pháp luật hoàn hảo làm

cơ sở pháp lý cho hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử là một lý tưởng của

pháp quyền mỗi quốc gia. Trên thực tế, một hệ thống pháp luật thực định luôn

luôn tồn tại những hạn chế; kéo theo hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử chỉ

tuân theo pháp luật, khi pháp luật thiếu, pháp luật bất hợp lý, không những

không bảo vệ mà còn hạn chế, xâm hại quyền và lợi ích công dân, quyền con

người. Do đó, hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử khi đó phải dựa vào công

lý, lẽ phải, đạo lý làm người, dựa vào lý trí. Hoạt động của Tòa án phải nhân

danh công lý, nhân danh lẽ phải, đạo lý làm người. Đây là một yêu cầu mang

tính nhân văn và bức thiết ở Việt Nam hiện nay. Hiện nay, tư tưởng pháp

quyền nhân loại đã đạt tới trình độ cao với quan điểm khi cơ quan tư pháp

thực hiện một hành động, một công dân phải được quyền kháng cáo, nếu

quyền kháng cáo đến cấp cao nhất theo luật định đã hết, phải có một cơ chế

nào đó có hiệu lực cao hơn luật hiện có, cao hơn theo cách giải thích và áp

dụng của Tòa án. Cơ chế cao hơn đó có thể xảy ra: một là một luật mới ra đời,

điều này là một quá trình, luôn cần một thời gian và trải qua các trình tự thủ

Page 138: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

133

tục nhất định; thứ hai nhanh và cao hơn đó là công lý, lẽ phải, đạo lý làm

người. Hồ Chí Minh có đề cập đến vấn đề này, Người chủ trương tư pháp

phải “phụng công thủ pháp”, “chí công vô tư”; đó là những gợi ý, những định

hướng cho xây dựng nền tư pháp tiến bộ, văn minh, hiện đại.

Thủ tục xét xử của Tòa án góp phần tìm ra sự thật của sự kiện pháp lý,

cơ sở quyết định cho Tòa án ra bản án chính xác, quyền và lợi ích của các bên

được đảm bảo. Hiến pháp năm 2013 quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét

xử, một bước tiến bộ trong pháp quyền Việt Nam. Trong thực tiễn, thủ tục xét

xử của Tòa án ở Việt Nam là thủ tục xét hỏi, chưa phải tranh tụng đúng nghĩa.

Hoạt động tranh tụng có, nhưng mang nặng tính hình thức, Tòa án thường coi

kết quả điều tra là kết quả cuối cùng, ra bản án dựa trên kết quả điều tra, bản

án lệ thuộc vào cáo trạng của Viện Kiểm sát dẫn đến tình trạng phổ biến ở

Việt Nam là án tại hồ sơ, tức là khi đưa vụ án ra xét xử thì phán quyết đã có

sẵn, căn cứ chủ yếu dựa vào kết quả của cơ quan điều tra; bào chữa của luật

sư mang tính hình thức, cho hợp luật tố tụng, đặc biệt với bên gỡ tội. Tố tụng

tranh tụng có nhiều ưu điểm: giúp kiểm tra chéo kết quả điều tra, tìm ra sự

thật của sự kiện pháp lý; chấp nhận, tôn trọng mâu thuẫn; thừa nhận địa vị

ngang bằng giữa Nhà nước và công dân. Vấn đề hiện nay là hiện thực hóa

nguyên tắc này trong hoạt hoạt động xét xử.

Để tư pháp thực sự độc lập, hoạt động xét xử chỉ tuân theo pháp luật,

đảm bảo công lý, lẽ phải, tìm ra sự thật, bên cạnh việc kế thừa, tiếp thu các

giá trị trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đã nêu và phân tích ở trên, hệ

thống tòa án và trong hoạt động xét xử cần bổ sung, phát triển tư tưởng pháp

quyền Hồ Chí Minh, tiếp thu giá trị trong tư tưởng pháp quyền nhân loại hiện

đại, như: cơ chế bổ nhiệm thẩm pháp dài hơn nhiệm kỳ của chính quyền hoặc

suốt đời; nguyên tắc suy đoán vô tội...

Page 139: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

134

Tiểu kết chƣơng 4

Tư tưởng pháp quyền Hổ Chí Minh có giá trị lý luận và thực tiễn đối

với quá trình xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam; các vấn đề được Hồ Chí

Minh nêu ra và giải quyết là sự gợi mở cho việc tìm tòi, sáng tạo, phát hiện và

giải quyết các khía cạnh của thực tiễn hiện nay đang đặt ra.

Thứ nhất, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, Hồ Chí Minh sử dụng

nhiều cách, nhiều công cụ khác nhau, bằng hoạt động lập; bằng hoạt động tư

pháp; bằng đạo đức công vụ; cần phải kết hợp sử dụng đa dạng, nhiều cách,

nhiều công cụ khác nhau.

Thứ hai, pháp luật thể hiện ý nguyện của nhân dân, trước hết là của

công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động, lực lượng chiếm

tuyệt đại đa số; và có cả của bộ phận thiểu số; phải có những cách thức để

nhân dân tham gia trực tiếp vào xây dựng pháp luật.

Thứ ba, địa vị làm chủ của nhân dân đối với các vấn đề quan hệ đến

vận mệnh quốc gia phải được đảm bảo; nhân dân trực tiếp và gián tiếp lập nên

Nhà nước; nhân dân là chủ thể tối cao đối với hoạt động lập hiến là một giá trị

cần được tiếp thu về mặt lý luận và phát triển về mặt thực tiễn trong điều kiện

hiện nay.

Thứ tư, các quyền con người hiến định thành các quyền công dân, đó là

những quyền tự nhiên, vốn có của con người, quyền thiêng liêng mà Nhà

nước có nghĩa vụ ghi nhận và bảo vệ, hiện thực hóa.

Thứ năm, tổ chức bộ máy nhà nước và cơ chế thống nhất, có sự phân

công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp là một đặc trưng cần được làm rõ và cụ thể hóa, tạo thành một cơ chế tốt

trong vận hành bộ máy nhà nước.

Page 140: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

135

KẾT LUẬN

Bằng những phẩm chất cá nhân, đặc biệt là tình thương yêu, đề cao con

người kết hợp với trí thông minh, Hồ Chí Minh đã nhận ra thực trạng dân tộc

mất độc lập, dưới sự cai trị không có pháp quyền, trái pháp quyền, nhân dân Việt

Nam cùng khổ, trước hết phải giải phóng dân tộc, thực hiện quyền dân tộc; xây

dựng xã hội mới, thực hiện quyền con người, quyền công dân. Trong quá trình

tìm đường cứu nước, xây dựng xã hội mới, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những giá

trị của truyền thống pháp lý dân tộc; tiếp thu tư tưởng pháp quyền nhân loại, nhất

là những giá trị trong tư tưởng pháp quyền phương Tây, trong đó có lý luận pháp

luật của Mác - Lênin. Đó là những cơ sở để hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ

Chí Minh và từng bước được Người hiện thực hóa trong đời sống xã hội Việt

Nam, đem lại quyền và lợi ích cho nhân dân Việt Nam. Trong những cơ sở ấy,

nổi bật và tỏa sáng yếu tố cá nhân con người Hồ Chí Minh đóng vai trò quyết

định, trong việc nhận ra yêu cầu của thực tiễn dân tộc; trong việc đánh giá, tiếp

thu giá trị truyền thống dân tộc, văn hóa nhân loại hình thành quan điểm, luận

điểm về pháp quyền của mình; bằng hành động cụ thể đem lại tự do, bình đẳng,

hạnh phúc cho nhân dân.

Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh có thể được tiếp cận dưới nhiều góc

độ khác nhau, nhưng nội dung cơ bản bao gồm: tư tưởng về vai trò của pháp luật

đối với toàn bộ đời sống xã hội, bao hàm cả Nhà nước, chủ thể trực tiếp ban

hành pháp luật, áp dụng pháp luật; nội dung pháp luật ghi nhận và đảm bảo các

quyền con người, trước tiên trên lĩnh vực chính trị, các quyền tự do, quyền sống,

quyền mưu cầu hạnh phúc; tư tưởng về các phương thức và điều kiện thực hiện

pháp quyền... Tất cả để tìm ra quy tắc ứng xử chính đáng, bền vững, biết đối đãi

với người khác đúng tư cách con người. Đó là cốt lõi của pháp quyền, làm cho

pháp quyền trở thành “thần linh” theo đúng nghĩa là cái cao cả và thiêng liêng; là

giá trị mà con người luôn vươn tới.

Theo tác giả của luận án, tư tưởng pháp quyền và quá trình Hồ Chí Minh

lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện tư tưởng pháp quyền trong đời sống xã hội mang

Page 141: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

136

tính khai phá, có tác dụng định hướng, cần nghiên cứu, bổ sung, phát triển; cụ

thể hóa để đưa vào cuộc sống; hiện thực hóa cho phù hợp với thực tiễn hiện nay.

Trên cơ sở nghiên cứu nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, tác

giả của luận án nêu ra một số giá trị tham chiếu trong tư tưởng pháp quyền Hồ

Chí Minh đối với việc xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN ở Việt Nam. Các giá

trị đó đồng thời cũng là những định hướng, gợi mở để tác giả luận án tiếp tục

nghiên cứu về tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh và vấn đề pháp quyền, cụ thể:

vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, cơ chế kiểm soát, các loại hình kiểm soát

và vai trò của mỗi loại hình; cách thức để nhân dân tham gia vào xây dựng pháp

luật, để pháp luật thể hiện ý nguyện của nhân dân; xác định các vấn đề quan hệ

đến vận mệnh quốc gia và cách thức để nhân dân thực hiện quyền làm chủ đó;

vấn đề quyền con người, quyền công dân trong tư tưởng và thực hiện pháp

quyền, nhất là trong việc hiến định các quyền đó; vấn đề tổ chức và hoạt động

của bộ máy nhà nước là yếu tố quan trọng đảm bảo thực thi pháp quyền.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo

những giá trị khoa học trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh vào hoạch định

chủ trương, đường lối lãnh đạo xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam. Sự kế thừa,

vận dụng và phát triển sáng tạo qua nhiều giai đoạn với những mức độ khác

nhau, điều này phụ thuộc vào nhận thức của Đảng về giá trị khoa học của tư

tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, nhận thức được những yêu cầu, đòi hỏi của

thực tiễn đất nước và bối cảnh quốc tế. Xu hướng chung của quá trình nhận thức

và vận dụng là ngày càng đúng, đầy đủ giá trị khoa học tư tưởng pháp quyền Hồ

Chí Minh. Kết hợp phản ánh sát thực tiễn, xác định đúng yêu cầu của thực tiễn;

tiếp thu có phê phán và áp dụng các giá trị của tư tưởng pháp quyền trên thế giới,

Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương, đường lối lãnh đạo đáp ứng

được yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam.

Trên thực tiễn, giá trị khoa học của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đã

trở thành nền tảng lý luận cho xây dựng Nhà nước Việt Nam trước thời kỳ đổi

mới; định hướng cho xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam; xác định các đặc trưng

cơ bản của NNPQ XHCN Việt Nam; tìm kiếm các giải pháp chủ yếu để xây

dựng NNPQ XHCN Việt Nam hiện đại.

Page 142: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

137

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Đắc Dũng (2014), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về các yêu cầu đối

với người cán bộ”, Tạp chí Nguồn lực khoa học xã hội, (12), tr.33-40.

2. Nguyễn Đắc Dũng (2014), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về đào tạo và sử

dụng cán bộ”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (5), tr.70-74.

3. Nguyễn Đắc Dũng (2016), “Quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp

quyền kiểu mới - Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ”, Tạp chí

Lao động và công đoàn, (599), tr.6-7.

4. Nguyễn Đắc Dũng (2016), “Hồ Chí Minh với việc hiện thực hóa Nhà nước

kiểu mới ở Việt Nam”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (138), tr.19-21, 57.

5. Nguyễn Đắc Dũng (2017), “Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh trong Tuyên

ngôn độc lập - ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại”, Tạp chí Sinh hoạt lý

luận, 4(145), tr.20-22, 19.

Page 143: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

138

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Hoàng Anh, Vũ Công Giao và Nguyễn Minh Tuấn (2016), Tư

duy pháp lý: Lý luận và thực tiễn, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

2. Phạm Ngọc Anh (2011), "Quan niệm Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của

pháp luật trong quản lý xã hội", Tạp chí Lý luận chính trị, (5), tr.14 - 19.

3. Phạm Ngọc Anh và Bùi Đình Phong (Chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí

Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam, NXB Lao

động, Hà Nội.

4. Aristotle (2015), Chính trị luận (Nông Duy Trường dịch và chú giải),

NXB Thế giới, Hà Nội.

5. Ban Tuyên giáo Trung ương (2016), Những điểm mới trong Văn kiện Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, NXB Chính trị quốc gia - Sự

thật, Hà Nội.

6. Lê Huy Bình (2010), "Cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước

kiểu mới ở Việt Nam", Tạp chí Lịch sử Đảng, (10), tr.39 - 41.

7. Nguyễn Thanh Bình (2013), "Vấn đề xây dựng bộ máy nhà nước pháp

quyền ở Việt Nam thời Lê sơ (Qua Quốc triều hình luật)", Tạp chí Triết

học, (6), tr.56-65.

8. Lê Văn Cảm và Nguyễn Cảnh Hợp (2011), "Thực trạng tổ chức, thực hiện

và kiểm soát quyền lực Nhà nước ở Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và

pháp luật, (5), tr.28-31.

9. Dương Văn Chăm (2009), "Văn hóa pháp lý và đặc điểm truyền

thống văn hóa pháp lý Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và pháp luật,

(12), tr.21-25.

10. Trần Nam Chuân (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước

kiểu mới, tại trang https://thehehochiminh.wordpress.com, [truy cập

ngày 24/4/2015].

Page 144: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

139

11. Hoàng Công (2014), "Hiến pháp 2013 và vấn đề quyền con người,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của nhân dân", Tạp chí Lý luận chính

trị, (3), tr.66 – 70.

12. Vũ Hoàng Công (2012), "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước

vào sửa đổi Hiến pháp", Tạp chí Lý luận chính trị, (12), tr.19 – 25.

13. Lưu Tiến Dũng (2012), Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền ở Việt

Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.

14. Ngô Thị Mỹ Dung (2016), Lịch sử tư tưởng triết học pháp quyền Đức từ

thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Nguyễn Đăng Dung (2001), "Nhà nước pháp quyền một mô hình tổ chức

nhà nước", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (6), tr.31 - 35.

16. Nguyễn Đăng Dung (2008), "Bản tính tùy tiện của Nhà nước", Tạp chí

Nhà nước và pháp luật, (11), tr 3 - 9.

17. Nguyễn Đăng Dung (2012), "Từ chủ nghĩa hiến pháp đến hiến pháp", Tạp

chí Lý luận chính trị, (2), tr.81 – 84.

18. Nguyễn Đăng Dung, Bùi Ngọc Sơn và Nguyễn Mạnh Tường (2007),

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

19. Nguyễn Sĩ Dũng (2005), "Hiến pháp 1946 với tư tưởng pháp quyền", Tạp

chí Nghiên cứu lập pháp, (12), tr.10-12.

20. Nguyễn Sĩ Dũng (2014), Nguồn cội của pháp quyền, tại trang

http://chungta.com, [truy cập ngày 12/4/2016].

21. Nguyễn Sỹ Dũng (2006), "Pháp quyền hay Pháp trị?", Tạp chí Tia Sáng,

(8), tr.16 - 17.

22. Nguyễn Bá Dương, Trần Hậu Thành và Lê Thị Hoài Thanh (2010), Xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, NXB Quân đội nhân dân,

Hà Nội.

Page 145: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

140

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 53, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận

- thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Lê Công Định (2010), Học thuyết Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,

tại trang http://tiasang.com.vn, [truy cập ngày 26/12/2014].

31. Cao Anh Đô (2013), Phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc

thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam, Luận

án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

32. Nguyễn Minh Đoan (2005), "Bàn về khái niệm và những yêu cầu của

pháp chế xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Khoa học Pháp lý, (3), tr.1 - 5.

33. Nguyễn Minh Đoan (2009), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền gắn với

củng cố, phát triển xã hội dân sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật,

(12), tr.15-20.

34. Nguyễn Hữu Đổng (2013), "Hồ Chí Minh và vấn đề kiểm soát quyền

lực nhà nước", Tạp chí Lý luận chính trị, (7), tr.9 - 13.

Page 146: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

141

35. Phạm Văn Đức (2015), Về một số nét đặc thù của Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tại trang http://philosophy.vass.gov.vn,

[truy cập ngày 23/3/2016].

36. Nguyễn Ngọc Hà (2008), "Tính giai cấp và tính nhân dân của Nhà nước",

Tạp chí Triết học, (4), tr.51 – 55.

37. Lương Đình Hải (2015), Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân

chủ hóa xã hội ở nước ta hiện nay, tại trang http://philosophy.vass.gov.vn,

[truy cập ngày 23/3/2016].

38. Hoàng Thị Hạnh (2010), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế", Tạp chí Triết học,

(9), tr.50 - 56.

39. Hoàng Thị Hạnh (2011), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa trong điều kiện đặc thù kinh tế Việt Nam", Tạp chí Triết học,

(12), tr.61 - 71.

40. Hoàng Thị Hạnh (2013), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án

tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

41. Nguyễn Đình Hảo (2011), Quyền lập quy của Chính phủ, Luận án tiến sĩ

Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

42. Nguyễn Thị Hảo (2012), "Hàn Phi với quan niệm định pháp", Tạp chí

Triết học, (5), tr.75 – 80.

43. G.W.F. Hegel (2010), Các nguyên lý của triết học pháp quyền hay đại

cương pháp quyền tự nhiên và khoa học về Nhà nước (Bùi Văn Nam Sơn

dịch và chú giải), NXB Tri thức, Hà Nội.

44. Hà Thị Mai Hiên và Nguyễn Thị Việt Hường (2010), "Định hướng xây

dựng Nhà nước pháp quyền và cơ chế quyền lực trong Dự thảo cương lĩnh

(bổ sung và phát triển) trình Đại hội lần thứ XI", Tạp chí Nhà nước và

pháp luật, (11), tr.9-15.

Page 147: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

142

45. Vũ Văn Hiển (2012), "Tư tưởng pháp luật Hồ Chí Minh với việc tăng

cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết

học, (1), tr.9-16.

46. Vũ Đình Hoè (2005), Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, NXB Trẻ,

Tp. Hồ Chí Minh.

47. Vũ Đình Hòe (2007), Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, tại trang

http://tiasang.com.vn, [truy cập ngày 26/12/2014].

48. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (2003),

Từ điển bách khoa Việt Nam, 3, N - S, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.

49. Nguyễn Mạnh Hùng (2011), "Nhân tố pháp quyền trong Hiến pháp

năm 1946 và những giá trị cần kế thừa", Tạp chí Dân chủ và pháp luật,

(7), tr.12-19.

50. Ngô Văn Hưởng (2010), "Tư tưởng kết hợp đức trị và pháp trị trong

đường lối trị nước của triều đại Lê sơ và ý nghĩa lịch sử của nó", Tạp chí

Triết học, (6), tr.61 – 67.

51. Nguyễn Thị Thu Hường (2010), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ

giữa đạo đức và pháp luật trong quan lý xã hội", Tạp chí Triết học,

(12), tr.67 - 73.

52. Nguyễn Thị Việt Hương (2009), "Góp phần nhận diện lịch sử tư tưởng

pháp lý Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (7), tr.3-7.

53. Nguyễn Thị Việt Hương và Lê Thị Hương (2009), "Nhu cầu tích hợp các

giá trị truyền thống trong mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam", Tạp

chí Nhà nước và pháp luật, (12), tr.6-14.

54. Văn Thị Thanh Hương (2011), Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng Nhà

nước của dân, do dân, vì dân, tại trang http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn,

[truy cập ngày 8/4/2015].

Page 148: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

143

55. Văn Thị Thanh Hương (2014), Dấu ấn Hồ Chí Minh: từ Hiến pháp 1946 đến

Hiến pháp 1959, tại trang http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn, [truy cập

ngày 8/4/2015].

56. Đỗ Đức Huỳnh (2011), Chủ tịch Hồ Chí Minh với bản Hiến pháp đầu tiên

của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp - 1946), tại trang

http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn, [truy cập ngày 8/4/2015].

57. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, NXB Tiến bộ, Mát - xcơ - va.

58. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, NXB Tiến bộ, Mát - xcơ - va.

59. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 38, NXB Tiến bộ, Mát - xcơ - va.

60. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, NXB Tiến bộ, Mát - xcơ - va.

61. Trần Ngọc Liêu (2009), "Khái niệm Nhà nước pháp quyền từ góc nhìn

triết học", Tạp chí Triết học, (11), tr.71 – 77.

62. Nguyễn Đình Lộc (1998), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân,

do dân, vì dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. Jonh Locke (2017), Khảo luận thứ hai về chính quyền - Chính quyền dân

sự (Lê Tuấn Huy dịch, chú thích và giới thiệu), NXB Tri thức, Hà Nội.

64. Nguyễn Văn Luật (2012), "Luật – cốt lõi của pháp quyền", Tạp chí Nhà

nước và pháp luật, (3), tr.12-14.

65. Phạm Thế Lực (2012), Vấn đề tập trung và phân quyền trong tổ chức,

thực thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính

trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

66. Đinh Xuân Lý (2015), "Những điểm mới trong Hiến pháp 2013 về Nhà

nước pháp quyền ở Việt Nam", Tạp chí Lý luận chính trị, (6), tr.30 – 34.

67. Các Mác và Phri-đ-rích Ăng-ghen (1995), Toàn tập, tập 21, NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

68. Các Mác và Phri-đ-rich Ăng-ghen (1995), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

Page 149: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

144

69. Văn Thị Thanh Mai (2011), Chủ tịch Hồ Chí Minh với Quốc hội (1945 -

1969), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

70. Nguyễn Văn Mạnh (2010), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu

mới ở Việt Nam", Tạp chí Lịch sử Đảng, (5), tr.74 - 81.

71. John Stuart Mill (2016), Chính thể đại diện (Nguyễn Văn Trọng và Bùi

Văn Nam Sơn dịch và chú thích), NXB Tri thức, Hà Nội.

72. Hồ Chí Minh (1945), Sắc lệnh số 34, ngày 20 tháng 9 năm 1945 lập Ủy

ban dự thảo Hiến pháp, tại trang http://www.moj.gov.vn, [truy cập

ngày 13/09/2016].

73. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

74. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

76. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

77. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

78. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

79. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

80. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

81. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

84. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

85. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

86. Nguyễn Ngọc Minh (1988), Nghiên cứu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí

Minh về Nhà nước và pháp luật, NXB Sự thật, Hà Nội.

87. Charles de Montesquieu (2013), Bàn về tinh thần pháp luật (Hoàng

Thanh Đạm dịch), NXB Chính trị - hành chính, Hà Nội.

88. Phạm Hữu Nghị (1995), Những vấn đề cơ bản về Nhà nước và pháp luật,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 150: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

145

89. Trần Nghị (2009), "Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp

luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta", Tạp chí Nhà nước và

pháp luật, (12), tr.3-15.

90. Hoàng Văn Nghĩa (2012), "Sửa đổi Hiến pháp: Tiếp cận từ sự phát

triển lý luận về quyền con người của Đảng ta", Tạp chí Lý luận chính

trị, (2), tr.13 – 17.

91. Hoàng Văn Nghĩa (2014), "Một số vấn đề lý luận về Nhà nước pháp

quyền và giá trị tham khảo đối với Việt Nam", Tạp chí Lý luận chính trị,

(2), tr.49 – 54.

92. Thu Trang (Công Thị Nghĩa) (2002), Nguyễn Ái Quốc tại Paris (1917 -

1923), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93. Ngọ Văn Nhân (2011), "Một số điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua Văn kiện Đại hội XI của Đảng",

Tạp chí Triết học, (3), tr.3 – 11.

94. Lương Ninh và các cộng sự (2015), Lịch sử Việt Nam giản yếu, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. Đại học quốc gia Hà Nội (2012), Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến

(Một số tiểu luận của các học giả nước ngoài), NXB Lao động - xã hội,

Hà Nội.

96. Nguyễn Như Phát (2011), "Nhà nước pháp quyền và vấn đề xây dựng

Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam", Tạp chí Triết học, (8), tr.19 - 26.

97. Nguyễn Như Phát (2011), "Nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa trong các văn kiện của Đại hội XI và những vấn đề cần

được tiếp tục nghiên cứu, phát triển", Tạp chí Nhà nước và Pháp

luật, (8), tr.3-7.

98. Nguyễn Như Phát và Phạm Hữu Nghị (2010), "Nâng cao tính pháp

quyền của Nhà nước vì mục tiêu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước

Page 151: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

146

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân",

Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (10), tr.6-9.

99. Hoàng Phê và các cộng sự (2009), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà

Nẵng, Hà Nội.

100. Bùi Đình Phong (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh - sự thống nhất giữa "đức

trị" với "pháp trị", tại trang http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn,

[truy cập ngày 08/04/2014].

101. Plato (2014), Cộng hòa (Đỗ Khánh Hoan dịch), NXB Thế giới, Hà Nội.

102. Hoàng Thị Kim Quế (2005), "Nghiên cứu Nhà nước pháp quyền ở

nước ta: Góp phần nhìn lại và suy ngẫm", Tạp chí Nhà nước và pháp

luật, (5), tr.9-14.

103. Hoàng Thị Kim Quế (2007), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và

pháp luật, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

104. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946), Hiến pháp

nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946, tại trang http://moj.gov.vn,

[truy cập ngày 14/9/2016].

105. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1959), Hiến pháp

nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959, tại trang http://moj.gov.vn,

[truy cập ngày 14/9/2016].

106. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Hiến pháp

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

107. Nguyễn Duy Quý (2015), Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tại trang http://philosophy.vass.gov.vn, [truy

cập ngày 23/3/2016].

108. Nguyễn Duy Quý và Nguyễn Tất Viễn (2010), Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - lý luận và thực tiễn,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 152: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

147

109. M.Rodentan rô và P.Iudin (Chủ biên) (1976), Từ điển triết học (In lần thứ

ba), NXB Sự thật, Hà Nội.

110. Jean – Jacques Rousseau (2014), Khế ước Xã hội (Dương Văn Hóa dịch),

NXB Thế giới, Hà Nội.

111. Bùi Ngọc Sơn (2004), Tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh, NXB Lý luận

chính trị, Hà Nội.

112. Bùi Ngọc Sơn (2005), "Chủ tịch Hồ Chí Minh với thiết chế Chủ tịch nước

ở Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (5), tr.3-8.

113. Lê Hồng Sơn (2012), "Đánh giá thành tựu nhận thức lý luận, thực tiễn và

những vấn đề đang đặt ra đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở

Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ", Tạp chí Nhà nước và pháp

luật, (9), tr.12-18.

114. Lưu Văn Sùng (2013), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về thể chế chính trị", Tạp

chí Lịch sử Đảng, (10), tr.40 - 45.

115. Lê Minh Tâm (2002), "Về tư tưởng Nhà nước pháp quyền và khái niệm

Nhà nước pháp quyền", Tạp chí Luật học, (2), tr.36 - 39.

116. Ngô Ngọc Thắng (2014), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp

quyền, tại trang http://noichinh.vn, [truy cập ngày 24/04/2015].

117. Thái Vĩnh Thắng (2009), "Nhu cầu bảo hiến và mô hình cơ quan bảo hiến

phù hợp với Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (5), tr.3-11.

118. Mai Thị Thanh (2012), "Tính đặc thù trong xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Tạp chí Triết học, (3), tr.15-21.

119. Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa (2014), Lịch sử lập hiến cách

mạng Việt Nam, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố

Hồ Chí Minh.

120. Song Thành (2004), "Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh - Sự thống nhất

giữa đức trị và pháp trị", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề

năm 2004), tr.42-46.

Page 153: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

148

121. Song Thành (2013), Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng lỗi lạc, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

122. Trần Thành (2008), "Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, (4), tr.3 – 10.

123. Tống Đức Thảo (2013), "Có thể áp dụng mô hình bảo hiến nào cho Việt

Nam", Tạp chí Lý luận chính trị, (9), tr.23 – 27.

124. Tống Đức Thảo (2014), "Những lập luận chính trị căn bản của chủ nghĩa

lập hiến", Tạp chí Lý luận chính trị, (3), tr.85 – 87.

125. Josef Thesing (2002), Nhà nước pháp quyền, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

126. Bùi Thiết và các cộng sự (2014), Đối thoại sử học, NXB Thanh niên,

Hà Nội.

127. Nguyễn Thị Thu (2012), Về cuốn "Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa" trưng bày tại nhà sàn, tại trang http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn,

[truy cập ngày 8/4/2015].

128. Trần Dân Tiên (2015), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ

tịch, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

129. Lê Đức Tiết (2005), Văn hóa pháp lý Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.

130. Alexis de Tocqueville (2015), Nền dân trị Mỹ (Phạm Toàn dịch và Bùi

Văn Nam Sơn hiệu đính), NXB Tri thức, Hà Nội.

131. Phạm Thị Ngọc Trầm (2015), Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự với vấn

đề quyền và nghĩa vụ công dân, tại trang http://philosophy.vass.gov.vn,

[truy cập ngày 23/3/2016].

132. Nguyễn Thị Thu Trang (2010), "Tuyên ngôn độc lập - cơ sở pháp lý

đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", Tạp chí Lịch sử

Đảng, (9), tr.8 - 11.

Page 154: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

149

133. Trần Quốc Trinh và Nguyễn Di Luân (1946), Tam dân chủ nghĩa

(toàn bộ toát yếu) của Tôn Trung Sơn tiên sinh, NXB Nam Thiên thư

cục, Hà Nội.

134. Hoàng Văn Tú (2012), "Quy trình lập hiến ở Việt Nam hiện nay:

Thực trạng và một số kiến nghị", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (7),

tr.11-15, 24.

135. Đào Ngọc Tuấn (2002), Tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng

Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

136. Lương Văn Tuấn (2017), Các giá trị nhân văn, tiến bộ của Quốc triều

hình luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

137. Nguyễn Mậu Tuân (2012), Bảo hiến trong Nhà nước pháp quyền, Luận

án tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

138. Nguyễn Minh Tuấn (2015), Lập Hiến hướng đến pháp quyền ở Việt Nam,

tại trang http://tiasang.com.vn, [truy cập ngày 24/07/2016].

139. Bùi Huy Tùng (2010), "Các phương thức bảo đảm tính hợp hiến, hợp

pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật ", Tạp chí Nhà nước và

pháp luật, (7), tr.7-16.

140. Nguyễn Đình Tường (2015), Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về

Nhà nước pháp quyền và những vấn đề đặt ra ở nước ta hiện nay, tại

trang http://philosophy.vass.gov.vn, [truy cập ngày 23/3/2016].

141. Phùng Văn Tửu (2010), "Tuyên ngôn độc lập năm 1945 – văn bản pháp lý

– chính trị, nền tảng của nước Việt Nam mới", tại trang

https://thehehochiminh.wordpress.com, [truy cập ngày 24/4/2015].

142. Đào Trí Úc (1995), Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp

luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

143. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp

đổi mới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

Page 155: TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA _ Nguyen Dac Dung.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn ĐẮc dŨng tƢ

150

144. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1990), Hồ Chí Minh - Anh hùng giải

phóng dân tộc, danh nhân văn hóa, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

145. Văn phòng Quốc hội (1998), Hiến pháp 1946 và sự kế thừa, phát triển

trong các Hiến pháp Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

146. Văn phòng Quốc hội (2017), Hiến pháp năm 1946 - Những giá trị lịch sử,

NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

147. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (2016), Hồ Chí Minh - Biên

niên tiểu sử, tập 1, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

148. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1993), Nghiên cứu Tư

tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật – Chương trình khoa học

công nghệ cấp nhà nước KX.02, Đề tài KX-02-13, NXB Nhạc viện Hà

Nội, Hà Nội.

149. Viện ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng Việt, NXB Từ điển bách khoa,

Hà Nội.

150. Vũ Văn Viên (2015), Nhà nước pháp quyền - Công cụ thực hiện dân chủ, tại

trang http://philosophy.vass.gov.vn, [truy cập ngày 23/3/2016].

151. Võ Khánh Vinh (2009), "Một số ý kiến về sự thể hiện quan điểm xây

dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi

bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (3), tr.3 – 6.

152. Cao Hải Yến (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của

dân, do dân, vì dân tại Hiến pháp năm 1946, tại trang

http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn, [truy cập ngày 8/4/2015].