thập thiện nghiệp Đạo kinh - wordpress.com · web view“tuần hồ khả dĩ tùy cũng...

686
THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO KINH, HT TỊNH KHÔNG GIẢNG Lời người dịch Kinh Thập Thiện nói đủ là Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo. Sự giáo dục của Đức Phật hợp với chân lý, hợp với căn cơ của người nghe dù ở trong môi trường nào, người nghe học đều được lợi ích lớn. Lời dạy của Đức Phật trải qua ba thời: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai không có sai biệt. Thập Thiện là mười điều lành. Thế nào là điều lành, thế nào là điều chẳng lành? Ai cũng khuyên ăn hiền ở lành, song bản chất của điều lành như thế nào thì chưa biết rõ. Có người giải nghĩa lành là không dữ, dữ thì không phải là lành, hoặc lành là hiền là tốt. Nói như vậy là giải thích nghĩa trống rỗng, không có lẽ thực. Nghiệp. Nghiệp: là tác động của thân khẩu ý lập đi lập lại nhiều lần thành thói quen và khi thành thói quen, nó có sức mạnh dẫn người đi thọ quả báo hoặc vui hoặc khổ. Sự sai lầm của chúng ta ai cũng thầm nghĩ rằng: Con người sinh ra là do tạo hóa xác định sẵn số phận. Hễ sinh ra đời sống vui khổ như thế nào thì phải chịu như thế ấy, không thay đổi được. Có quan niệm: Con người sinh ra là do số mình đời trước đã định sẵn. Bởi số mệnh định sẵn nên sao phải chịu vậy. Thế nên gặp cảnh khổ nói: “Tại số tôi khổ”, còn gặp cảnh sướng thì nói: “Tại số tôi sướng”, hoặc có quan niệm rằng: “Đời người sinh ra là do rủi may, rủi thì khổ, may thì vui, được là may, mất là rủi…” Sự vui khổ của con người không có nhân duyên. Trong kinh A Hàm, Đức Phật dạy: “Chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người vui sướng, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng sanh”. Những hành động từ nơi tâm gọi là ý nghiệp, từ nơi miệng gọi là khẩu nghiệp, từ nơi thân gọi là thân nghiệp. Thân - khẩu - ý của con người tạo nên nghiệp, vì vậy mà khổ vui là do mình tạo. Chớ không do ai khác, cũng không phải tạo hóa sắp định, cũng không do số mệnh may rủi gây nên. Bộ kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo do Kỳ Túc Ngài Pháp sư Tịnh Không dùng đại bi tâm luận giảng, được tập thành sách. Thượng tọa Ngộ Thông muốn đem chánh pháp phổ cập nên nhờ tôi phiên dịch, nay bản kinh đã hoàn tất, tôi xin tri ân pháp sư Tịnh Không đã dùng phương tiện giảng dạy kinh Thập Thiện. Nguyện cho người đọc được hiểu lời Phật dạy, y theo đây chuyển hóa thân, tâm thành thập thiện. Trang 1

Upload: others

Post on 28-Dec-2019

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh

THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO KINH, HT TỊNH KHÔNG GIẢNG

Lời người dịch

Kinh Thập Thiện nói đủ là Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo.

Sự giáo dục của Đức Phật hợp với chân lý, hợp với căn cơ của người nghe dù ở trong môi trường nào, người nghe học đều được lợi ích lớn. Lời dạy của Đức Phật trải qua ba thời: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai không có sai biệt.

Thập Thiện là mười điều lành.

Thế nào là điều lành, thế nào là điều chẳng lành? Ai cũng khuyên ăn hiền ở lành, song bản chất của điều lành như thế nào thì chưa biết rõ. Có người giải nghĩa lành là không dữ, dữ thì không phải là lành, hoặc lành là hiền là tốt. Nói như vậy là giải thích nghĩa trống rỗng, không có lẽ thực.

Nghiệp. Nghiệp: là tác động của thân khẩu ý lập đi lập lại nhiều lần thành thói quen và khi thành thói quen, nó có sức mạnh dẫn người đi thọ quả báo hoặc vui hoặc khổ. Sự sai lầm của chúng ta ai cũng thầm nghĩ rằng: Con người sinh ra là do tạo hóa xác định sẵn số phận. Hễ sinh ra đời sống vui khổ như thế nào thì phải chịu như thế ấy, không thay đổi được. Có quan niệm: Con người sinh ra là do số mình đời trước đã định sẵn. Bởi số mệnh định sẵn nên sao phải chịu vậy. Thế nên gặp cảnh khổ nói: “Tại số tôi khổ”, còn gặp cảnh sướng thì nói: “Tại số tôi sướng”, hoặc có quan niệm rằng: “Đời người sinh ra là do rủi may, rủi thì khổ, may thì vui, được là may, mất là rủi…” Sự vui khổ của con người không có nhân duyên.

Trong kinh A Hàm, Đức Phật dạy:

“Chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người vui sướng, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng sanh”. Những hành động từ nơi tâm gọi là ý nghiệp, từ nơi miệng gọi là khẩu nghiệp, từ nơi thân gọi là thân nghiệp. Thân - khẩu - ý của con người tạo nên nghiệp, vì vậy mà khổ vui là do mình tạo. Chớ không do ai khác, cũng không phải tạo hóa sắp định, cũng không do số mệnh may rủi gây nên.

Bộ kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo do Kỳ Túc Ngài Pháp sư Tịnh Không dùng đại bi tâm luận giảng, được tập thành sách. Thượng tọa Ngộ Thông muốn đem chánh pháp phổ cập nên nhờ tôi phiên dịch, nay bản kinh đã hoàn tất, tôi xin tri ân pháp sư Tịnh Không đã dùng phương tiện giảng dạy kinh Thập Thiện. Nguyện cho người đọc được hiểu lời Phật dạy, y theo đây chuyển hóa thân, tâm thành thập thiện.

Bản dịch còn nhiều thiếu sót. Kính mong các bậc cao minh nhận ý quên lời đóng góp cho bản dịch được hoàn hảo.

TU VIỆN PHƯỚC LONG

Trọng Đông Đinh Hợi

THÍCH GIÁC THIỆN

Tập 1

Chào tất cả chư vị đồng học! Hôm qua chúng tôi đã giảng xong bài Cảm Ứng Thiên. Văn tự của bài Cảm Ứng tuy không dài, người xưa viết những công án, nhân duyên; cũng chính là nhiều câu chuyện cảm ứng trong lịch sử. Chư tổ sưu tập rất phong phú, có lý luận, có sự thật. Nếu giới thiệu một cách tỷ mỉ thì nói hoài cũng không hết được. Ngày xưa có rất nhiều câu chuyện cảm ứng, ngày nay thì càng nhiều hơn nữa. Chúng ta nghe được những bản tin về phương diện này ở trong nước, ở ngoài nước hay ở trên báo đài. Những nguồn tin này quả thực làm tăng thêm lòng tin của chúng ta, tuyệt đối không thể nói chúng tôi không tận mắt thấy cho nên chúng tôi không thừa nhận. Trước kia thầy Lý thường nói tỷ dụ này, ông ấy nói: “Ông nội của anh, ba của anh, anh thấy được cho nên anh thừa nhận. Ông cố, ông nội của anh anh không thấy cho nên anh không thừa nhận, nào có cái đạo lý này?” Những việc chúng ta không thấy được thì quá nhiều. Khoa học hiện đại cho chúng ta biết rằng công năng của mắt chúng ta rất có hạn chế. Ánh sáng thấy được, sóng ánh sáng chỉ có thể ở độ sáng thích hợp chúng ta mới có thể thấy được. Ví như sóng ánh sáng dài chúng ta không thấy được, sóng ngắn cũng không thấy được. Nhưng dụng cụ khoa học ngày nay đã đo được, quả thật có sóng dài có sóng ngắn, có điều mắt chúng ta không thấy được, không thấy không thể nói nó không có, không thấy không thể nói nó không phải là sự thật, đây thuộc về mê tín, hay rơi vào đoạn kiến.

Đức Phật nói rất có khoa học, Ngài khiến chúng ta đi chứng minh, vũ trụ bao la, không có điều gì mà không có, đây là sự thật. Các nhà khoa học ngày nay biết được không gian có những duy thứ không giống nhau (những cảnh giới khác). Chúng ta thường nghe nói không gian ba chiều, không gian bốn chiều, không gian năm chiều. Về mặt lý luận, nói không gian là vô cùng tận, không gian duy thứ không giống nhau, chúng ta nhìn không thấy, không cách nào tiếp xúc được. Các nhà khoa học hiểu được sự thật này, quả thật có tồn tại không gian duy thứ không giống nhau. Nhưng làm thế nào khám phá, hiện nay khoa học kỹ thuật còn chưa làm được. Những người học Phật làm được rồi, có nhiều tôn giáo lớn cũng làm được rồi. Vì sao họ làm được? Họ biết nguồn gốc duy thứ không gian không giống nhau. Họ biết nguyên nhân tạo thành không gian duy thứ không giống nhau. Vì sao tạo thành? Là do tất cả vọng tưởng, chấp trước, phân biệt của chúng sanh tạo thành. Vọng tưởng, chấp trước, phân biệt của chúng sanh vô lượng vô biên, cho nên duy thứ không gian cũng vô lượng vô biên. Biết được nguồn gốc của nó, nếu tiêu diệt nguồn gốc ấy, thì vấn đề được giải quyết rồi. Những người học Phật đã dùng phương pháp niệm Phật để xả bỏ tất cả vọng tưởng chấp trước phân biệt, thế là đột phá được không gian duy thứ bất đồng. Quý vị buông bỏ càng nhiều thì tầng lớp đột phá càng nhiều, đây chính là “thần thông” mà hôm nay chúng ta bàn tới. Người Trung Quốc nói công năng đặc biệt, chính là việc này.

Tâm càng thanh tịnh, cảnh giới quý vị có thể tiếp xúc càng rộng lớn, vọng niệm càng nhiều, phiền não càng nhiều thì cảnh giới của quý vị càng nhỏ, như vậy quý vị không có cách nào đột phá được. Con người chúng ta đang ở trong không gian ba chiều hay không gian bốn chiều, hoàn toàn không hiểu rõ. Đức Phật hiểu điều này, hiểu hiện tượng sự thật này vì sao mà có, cho nên Ngài có phương pháp. Đức Phật nói có tám vạn bốn ngàn pháp môn, chính là nói tám vạn bốn ngàn phương pháp khác nhau, cách thức khác nhau. Tu cái gì? Đều là tu thiền định. Nói cách khác, tức là dẹp bỏ tất cả những vọng tưởng, chấp trước, phân biệt của chúng ta, khôi phục lại chân tâm của mình. Chân tâm là “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới” (tâm bao trùm cả thái hư, dụng của tâm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới), “vô sở bất tri, vô sở bất năng” (không gì mà không biết, không gì mà không thể). Đúng như vậy, có căn cứ lý luận rõ ràng, điều này Phật dạy chúng ta. Cho nên chư vị đồng tu đến đây để học hỏi, quan trọng nhất chính là học xả bỏ từ trong Phật pháp, “nhìn thấu, buông xuống”. Tôi thường nói với mọi người rằng: cái gốc của chúng ta, điều sai trái của gốc này, giống như gốc cây bị mục nát, làm sao mà cứu được? Gốc đó là gì? Chính là chân tâm, bổn tánh. Chân tâm, bổn tánh của chúng ta làm sao mục nát được? Làm sao mà hư được? Bị ô nhiễm tự tư tự lợi là xong rồi!

Trong kinh Phật dạy chúng ta, chân tâm là cái gì? Trong kinh luận đã nói rất nhiều rồi, chân tâm ly niệm. Nói cách khác, tâm không có vọng niệm chính là chân tâm; tâm có vọng niệm là vọng tâm, vọng hành. Vọng là gì? Vọng là niệm. Trong vọng niệm quan trọng nhất là Chấp Ngã. Khởi tâm động niệm là “Ngã”, chỉ có lợi ích của ngã. Như vậy cảnh giới của quý vị, cái vòng của quý vị vẽ quá nhỏ, chỉ có ngã, không có người khác. Chúng ta nghe rất nhiều người nói, hai vợ chồng đều có bí mật. Một lần nọ, có một vị rất có tiếng tăm ở nơi này, chúng tôi nói chuyện về “Đường thành”. Ông ấy là một ông chủ, thấy Phật giáo Cư Sĩ Lâm của chúng ta được công khai thừa nhận, ông ấy rất khâm phục. Ông ấy nói, ông ấy và vợ có những điều riêng tư, như ông ấy có rất nhiều tiền, vợ ông ấy không biết; người vợ có nhiều tiền, ông ấy cũng không biết. Cái Ngã Chấp này còn được phải không? Đúng là chỉ có ngã, ngoài ngã ra không có gì khác. Ông ấy không tin trên thế giới này có người đáng tin, cả đời không dám nói thật với người khác. Quý vị nói xem, người này sống trong đời thật đáng thương! Trong kinh Đức Phật gọi là “người đáng thương xót”. Nào có giống với người học Phật chúng ta, trong lòng không có bận tâm gì, nhất định không có tự tư tự lợi, đối đãi với bất cứ ai cũng công khai, hoàn toàn không có bí mật.

Người học Phật muốn thành tựu, muốn vãng sanh về thế giới Cực Lạc, gần gũi Đức Phật A Di Đà, nếu quý vị có tâm ích kỷ thì đi không được! Niệm Phật đến cỡ nào cũng không đi được. Vì sao vậy? Ở trong kinh Đức Phật đã giới thiệu cho chúng ta biết, thế giới Cực Lạc ở Tây Phương là “nơi ở của chư Thượng Thiện nhân”. Không chỉ là thiện mà là tối thiện, thượng thiện. Chúng ta không thiện làm sao đi đến đó được. Cho dù Phật A Di Đà từ bi đón rước quý vị, đại chúng ở đó cũng không tiếp đón quý vị, chúng ta phải hiểu rõ vấn đề này. “Thượng thiện” là gì? Tuyệt đối không có tự tư tự lợi. Quý vị có tự tư tự lợi, đó là phước báu của quý vị quá lớn. Quý vị hưởng thụ cả đời, cả cuộc đời quý vị hưởng thọ hết rồi. Xả bỏ tự tư tự lợi, nên mang cái tâm vì xã hội vì chúng sanh, như vậy vẫn chưa đủ lớn. Tâm của Phật và Bồ Tát không phải vì chúng sanh ở địa cầu chúng ta, mà còn vì tất cả chúng sanh ở mười phương pháp giới. Người có tâm như vậy mới gọi là “thượng thiện”. Trước hết mở cái tâm mình ra, quyết không phải vì mình, đừng vì lợi ích của mình quá nhiều. Chư vị đồng tu hãy lặng lẽ quan sát, tư duy kỹ càng. Quý vị cũng thấy biết nhiều, cũng có người xuất gia luôn sống vì mình, hình tượng của họ như thế nào? Chúng ta không vì mình, nên mỗi tuần đều có hai ba đoàn đến thăm tôi, đây là tỷ dụ rất rõ ràng. Nếu tôi tự tư tự lợi, quý vị nhất định không đến đây thăm tôi, cũng không có nhiều người đến Cư Sĩ Lâm hay Tịnh Tông Học Hội. Không có tự tự tự lợi, tất cả đều công khai. Quý vị cúng dường tiền cho tôi, tôi chuyển qua tay người khác thì xong rồi. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên không bao giờ đụng đến tiền, quý vị cúng dường bất cứ cái gì cho cư sĩ Lâm, dù là chi phiếu, ông ấy cũng bảo người khác nhận, bản thân ông ấy không nhận. Quý vị giao cho tôi, tôi chuyền tay cho người khác thì đã chuyển đi mất rồi. Tất cả vì Chánh Pháp cửu trụ, Chánh Pháp giáo hóa chúng sanh, giúp chúng sanh giác ngộ, trong tất cả các điều tốt, đây là điều tốt hơn hết.

Nhiều lần tôi nói với quý vị rằng, xã hội cần yên ổn, thế giới cần hòa bình, tất cả mọi người muốn sống hòa thuận với nhau, đối xử bình đẳng với nhau, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, cả thế giới là một đại gia đình. Làm thế nào mới được yên ổn? Chính trị làm không được, vũ lực làm không được, kinh tế khoa học kỹ thuật làm cũng không được. Điều này quý vị đều thấy rất rõ. Mấy nghìn năm lịch sử chúng ta cũng đã thấy rõ, chỉ có giáo dục mới có thể làm được. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thân từ vương tử, Ngài có thể làm vua. Trong kinh có ghi, khi Đức Phật còn là thái tử, võ nghệ xuất chúng, thái tử có thể làm tướng quân hay nguyên soái nhưng Ngài không làm. Ngài biết nếu làm cũng không giải quyết được vấn đề, cho nên Ngài đã từ bỏ, suốt đời Ngài làm công việc giáo dục xã hội đa nguyên văn hóa. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người như thế nào? Nói như hiện nay, Ngài là người làm giáo dục xã hội đa nguyên văn hóa, Ngài làm việc này. Nhiệm vụ là dạy học, nhưng Ngài không thu học phí, không nhận vật cúng dường của mọi người. Ngài sống một cuộc sống rất đơn giản, mỗi ngày chỉ ba y và một bát, thanh tịnh tự tại, an lạc vô cùng, làm mô phạm cho chúng ta.

Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài du học khắp nơi ở Ấn Độ. Ấn Độ thời đó chia làm năm khu, mỗi khu là một nước nhỏ, chưa thống nhất, giống như thời nhà Chu ở Trung Quốc. Thời nhà Chu, đọc lịch sử chúng ta thấy có đến 800 chư hầu, như vậy có đến 800 nước nhỏ. Nước lớn đại khái giống như một huyện lớn ngày nay; nước nhỏ giống như một thôn trang hay thị trấn. Những nước nhỏ này có mâu thuẫn, có xung đột, có chiến tranh. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy học, Ngài đã hóa giải tất cả những xung đột đó. Cho nên chúng ta thấy trong điển tịch, mười sáu vị đại quốc vương thời đó đều quy y Đức Phật, đều bái Đức Phật làm thầy. Các bậc thánh hiền ngày xưa ở Trung Quốc cũng hiểu điều này. Khi Phật giáo chưa truyền đến Trung Quốc, Trung Quốc đề xướng hiếu đạo, sư đạo. Hán Vũ Đế chế ra phương châm giáo dục quốc gia, cũng chính là chính sách giáo dục mà hôm nay chúng ta nói. Thời Hán Vũ Đế, Phật pháp chưa truyền đến Trung Quốc, Phật pháp truyền đến Trung Quốc vào thời Hán Minh Đế, còn sau mấy đời Hậu Hán Minh Đế, Hán Minh Đế là tiền Hán. Chính sách giáo học lúc này căn cứ trong Lễ Ký và thực hiện theo Học ký. Học Ký là triết học giáo dục cổ xưa của Trung Quốc, trong đó có câu: “Kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên” (nghĩa là xây dựng đất nước, lấy việc dạy học làm đầu).

Quý vị phải biết, quan hệ trị loạn của một quốc gia là ở giáo dục, gia đình của quý vị hưng khởi hay suy sụp quan trọng cũng ở giáo dục. Gia đình của quý vị hưng khởi hay không, hãy xem những người con trong gia đình quý vị. Quý vị làm cha mẹ cần phải biết con mình cần gì, muốn gì, nghĩ gì, nói gì và làm gì? Quý vị phải hiểu con của mình, tất cả những điều sai trái, lỗi lầm quý vị phải uốn nắn, sửa chữa đây là giáo dục. Điều quan trọng là không được dùng tâm tự tư ích kỷ dạy chúng, phải khuyên chúng nỗ lực học tập. Trong học tập quan trọng nhất là đạo đức, trí huệ và kỹ năng. Sau khi học xong phải phục vụ cho xã hội, phục vụ cho đất nước, phục vụ cho nhân loại trên toàn thế giới. Đây là điều rất vĩ đại, bậc cha mẹ phải dạy chúng từ nhỏ. Những bậc cha mẹ không hiểu biết nhiều thì chỉ dạy con kiếm tiền cho gia đình, vì hưởng thụ của gia đình. Quý vị phải hiểu, có câu ngạn ngữ nói rằng “một nhà no ấm, ngàn nhà hận”. Gia đình quý vị rất giàu có, quý vị không quan tâm đến người khác, những người khác đều là oan gia trái chủ của quý vị, họ hận quý vị đến tận xương tủy, đến lúc suy sụp họ cùng nhau nguyền rủa quý vị, gia đình của quý vị sẽ đi đến thất bại. Cho nên muốn bố thí, chính mình phải có khả năng về kinh tế để bố thí cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, như vậy gia đình quý vị mãi mãi không bị suy sụp. Vì sao? Vì những người nghèo khổ ủng hộ quý vị, họ nói: “Anh là người tốt, anh giúp đỡ chúng tôi, chúng tôi hy vọng anh phát tài, anh phát tài chúng tôi được thơm lây”, mọi người đều giúp đỡ quý vị. Nếu quý vị sống không có tình người, quý vị giàu có, mọi người sẽ ghét quý vị. Giả như nhà quý vị bị cháy, họ không đến giúp quý vị chữa cháy, họ còn nói “Cháy nữa đi, cháy nữa đi!” Khi gia đình quý vị bị cướp, họ đứng bên cạnh nhìn và hô to: “Cướp đi! Nên cướp đi!” Hiện tượng này là chuyện thường tình của con người. Chúng ta nên giúp đỡ người khác, cũng là giúp đỡ xã hội. Chúng ta giúp đỡ mọi người, khi chúng ta gặp khó khăn mọi người sẽ giúp đỡ chúng ta, đây là giúp đỡ lẫn nhau, quý vị nên hiểu điều này.

Tôi gặp rất nhiều bạn đạo đồng học, thậm chí có cả những vị pháp sư lớn tuổi đến hỏi tôi: “Tịnh Không pháp sư! Tôi muốn tham học với ngài”. Tôi nói: “Học cái gì? Ở tôi có gì để học, tôi không có gì cả”. Ông ấy nói: “Pháp duyên của ngài rất thù thắng, ngài nên dạy tôi”. Tôi nói: “Điều này rất đơn giản: bố thí, ngài bố thí pháp là tốt rồi, ngài không chịu bố thí thì pháp duyên của ngài ở đâu mà có?” Chúng ta mấy mươi năm nay, tôi đã giảng kinh bốn mươi mốt năm rồi, băng ghi hình, băng ghi âm của chúng tôi, những đĩa hiện nay đang làm cho đến sách vở, những thứ này của chúng tôi đều rất hoan nghênh mọi người in ấn, tuyệt đối không có giữ bản quyền, không truy cứu khi in lại. Cho nên pháp của chúng tôi lưu thông trên khắp thế giới. Nếu sau này tôi in lên chữ “sở hữu bản quyền, truy cứu in lại” thì pháp duyên sẽ hết. Vì sao ngày nay có ảnh hưởng lớn trên thế giới như vậy, có nhiều vị đồng tu nói với tôi, số người giữ gìn băng, đĩa đã hơn hai trăm triệu người. Nguyên nhân vì sao? Chính là không có bản quyền, mọi người vui vẻ lưu hành. Chúng tôi vì lợi ích xã hội, lợi ích mọi người, thì cần gì bản quyền? Quý vị lấy bản quyền, quý vị được bao nhiêu tiền? Rất hạn chế. Chúng tôi không cần bản quyền, quý vị xem như vậy có hơn không. Tôi ở tại Singapore, mỗi tháng đều có mấy trăm người từ nước ngoài đến thăm tôi, những người đó đến thăm tôi đều mang một ít để cúng dường, tiền nhiều hơn mấy lần so với bản quyền của quý vị, đây là sự thật.

Chúng ta lấy tiền này làm nhiều việc, kết duyên với mọi nơi trên thế giới. Cho nên tiền nhiều làm nhiều, tiền ít làm ít, không tiền là tốt nhất, không tiền tôi không có việc gì để làm, tôi có thể tìm nơi sơn thủy hữu tình để ẩn cư, đọc sách, niệm Phật, quá an lạc! Hiện nay chúng tôi vẫn chưa tìm ra biện pháp dùng tiền vào việc gì, quý vị cúng nhiều tiền như vậy để làm gì? Tôi nghĩ ra cách làm sao dùng hết chúng, hãy mau mau dùng hết chúng, tiền quyết không thể giữ lại. Tiền của là tiền tệ lưu thông, giống như nước chảy vậy, phải lưu thông, dùng nhiều thì có nhiều, dùng ít thì có ít, không dùng thì không có. Tiền tệ lưu hành thì phải lưu hành mới được, tiền không nên tích trữ mãi, hễ tích trữ là sai. Trong kinh Phật nói: “Tích tài thương đạo” (tích trữ tiền bạc làm tổn thương đến đạo), đạo sẽ không còn, cho nên tiền của không nên tích trữ, tiền của nhất định phải dùng, đặc biệt là phải giúp đỡ những người khốn khó. Cho nên chúng ta làm nhiều việc lợi ích cho xã hội, lợi ích cho mọi người, đây là công đức thật sự, như vậy quý vị có sống một đời không uổng phí.

Quý vị đến đây, điều quan trọng là xả bỏ: “Tự tư tự lợi, danh văn lợi dưỡng, tham sân si mạn”, buông bỏ những điều này thì học Phật quý vị mới có thể thành Phật. Quý vị học Phật mà không thể thành Phật, là vì trong mười hai chữ này còn mấy chữ chưa buông bỏ, nó làm chướng ngại quý vị. Sở dĩ Phật và Bồ Tát có thể thành Phật, thành Bồ Tát, vì quý Ngài hoàn toàn không có những điều đó. Học Phật, quý vị nghe nói Phật và Bồ Tát vì nguyện mà xuất hiện ở đời. Sao gọi là “vì nguyện mà xuất hiện ở đời?” Nếu chúng ta phát nguyện, nguyện lực của chúng ta sẽ vượt qua nghiệp lực, chúng ta sẽ vì nguyện mà đến. Nguyện của Phật và Bồ Tát là gì? Chúng ta biết, Phật và Bồ Tát ứng hóa ở thế giới này, với thân này là vì phục vụ mọi người, không phải vì mình. Ngày nay chúng ta được thân này, luôn luôn vì ngã, vì ngã là vì nghiệp lực. Thân này không phải là ta, thân này là công cụ phục vụ tất cả chúng sanh, như vậy quý vị sẽ thừa nguyện mà đến, quý vị không có khác với Phật, Bồ Tát. Phật và phàm phu chỉ khác nhau ở một niệm, một niệm mê. Mê là gì? Mê chấp thân này là ta, tất cả đều là ta, đó là mê. Giác là Phật và Bồ Tát. Giác là gì? Giác thân này không phải là ta, thân này là công cụ phục vụ chúng sanh, ra sức phát huy công cụ này, tạo phước cho tất cả chúng sanh. Chính cái niệm này, chuyển từ mê thành giác, từ phàm phu thành Phật. Không vì mình phước báu vô lượng vô biên, trí huệ cũng vô lượng vô biên. Chúng ta ở đây xoay chuyển một trăm tám mươi độ, quý vị học Phật nhất định phải thành Phật ngay trong đời này. Tốt rồi, hôm nay chúng tôi giảng đến đây.

Tập 2

Chư vị đồng học, chào tất cả quý vị! Hôm nay có mấy vấn đề phải giải đáp, chư vị sắp về Trung Quốc, sắp rời nơi này rồi. Vấn đề thứ nhất: Có người hỏi sau khi vãng sanh về thế giới Cực Lạc thì lập tức trở lại độ chúng sanh phải không? Hay phải đợi đến “hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh” mới được?

Vấn đề này trong kinh Vô Lượng Thọ nói rất rõ, Phật A Di Đà rất từ bi, rất từ tâm với mọi người. Ngài luôn gia hộ những ai có pháp duyên. Nếu có người phát nguyện độ chúng sanh trước, sau đó mới thành tựu cho chính mình thì Phật A Di Đà cũng giúp đỡ người ấy. Chỉ cần thấy Phật A Di Đà thì sẽ được sự gia trì của bổn nguyện Di Đà, bất luận thọ sanh ở đâu cũng không mất tự tánh. Cho nên đây là pháp môn bất khả tư nghì, cũng là pháp khó tin mà chư tổ sư xưa nay đã nói rất nhiều, trong các kinh Phật không có nói qua pháp này, tất cả chư Phật xưa nay cũng không có pháp này, duy chỉ ở thế giới Tây Phương Cực Lạc mới có. Lý này rất sâu, sự rất rõ ràng, chúng ta cần phải tin.

Phật pháp là giáo dục không phải là tôn giáo. Điều này chúng ta đã hiểu rõ rồi. Tinh thần dạy học của Đức Phật và Khổng lão Phu Tử hoàn toàn giống nhau. “Hữu giáo vô loại” nghĩa là bình đẳng giáo hóa chúng sanh. Nhưng phạm vi dạy học của Phu Tử chỉ dạy con người ở thế gian. Còn thiên đạo, quỷ thần, Phu Tử thường nói “kính quỷ thần nhi viễn chi”, nghĩa là chúng ta kính lễ họ nhưng không gần gũi học tập họ. “Viễn” nghĩa là không học tập với họ. Phạm vi dạy học của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì rất lớn. Ngài dạy tất cả chúng sanh ở khắp hư không, không có biên giới. Ở đây nói về mười pháp giới, chúng sanh ở không gian duy thứ khác nhau mà nhà khoa học nói, hiện nay có bao nhiêu duy thứ khác nhau, không có ai biết. Về mặt lý luận gọi là vô lượng vô số, mà Đức Phật giáo hóa tất cả. Đức Phật có năng lực gì? Phật không phải nói Ngài có năng lực, Phật là tự tánh của mỗi người. Chúng ta nghĩ kỹ xem, tự tánh là gì? Chính là chân tâm. Chân tâm của chúng ta vốn đầy đủ vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tài nghệ, vô lượng tướng tốt. Chúng ta thường nói Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, trong các kinh cũng nói “Phật có vô lượng tướng, tướng có nhiều vẻ đẹp”, quý vị cũng có như thế. Sở dĩ Phật nói Ngài không có gì dạy chúng sanh, vì những gì Ngài dạy đều là Phật tánh. Phật nói Phật tánh của chúng sanh bị che khuất khiến cho không khởi tác dụng được; không phải không có, thật sự là có. Cho nên Phật xem tất cả chúng sanh đều bình đẳng, không có cao thấp, pháp môn Phật dạy cũng bình đẳng, không có cao thấp. Chúng tôi thường nói “sanh Phật bình đẳng”. Sanh là chúng sanh, Phật là chư Phật Như Lai, Sanh Phật bình đẳng, Tánh Tướng nhất như, Sự Lý bất nhị. Đây là chân tướng sự thật mà các kinh Đại Thừa đều nói.

Vì sao trong đời có người thông minh, có người kém thông minh. Đó là phiền não che lấp, phiền não có nhiều có ít, có nặng có nhẹ, có dày có mỏng. Người phiền não nhẹ thì trí huệ cao hơn một chút, người phiền não nặng thì trí huệ thấp hơn một chút, người làm nhiều điều thiện thì tướng mạo đoan nghiêm, người tạo nhiều ác nghiệp thì tướng mạo xấu xí. Đây là cảnh giới không nhất định, thiên biến vạn hóa, cho nên người tu hành tinh tấn phải đoạn ác tu thiện, vài năm trôi qua quý vị thấy tướng mạo người ấy thay đổi đẹp hơn, hiền từ hơn, nói rõ hơn là người ấy tu hành có công phu. Tướng tùy tâm chuyển, cảnh giới cũng tùy tâm chuyển. Nếu cả cuộc đời mỗi người chúng ta đều bị ngoại cảnh chi phối, bị ảnh hưởng bởi ngoại cảnh, quý vị là phàm phu quý vị sẽ không làm chủ được chính mình. Quý vị có thể thay đổi cảnh giới, không bị ngoại cảnh chi phối mà quý vị còn làm cho ngoại cảnh (hay cảnh giới) chịu ảnh hưởng bởi quý vị, người này sẽ là Phật. Kinh Lăng Nghiêm nói “Nhược năng chuyển cảnh, tắc đồng Như Lai”. Cho nên vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, sau khi thấy Phật A Di Đà, bất luận đến nơi nào độ chúng sanh, dù là cõi người hay súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, nơi nào người ấy cũng đến được vì duy thứ không gian (tất cả thế giới hay cảnh giới) người ấy đều thấu triệt, không chướng ngại, không còn bị ảnh hưởng chi phối của hoàn cảnh, đây là có công phu. Công phu này, một mặt là tự mình tu tập, mặt khác là sự gia trì của Phật A Di Đà, khiến cho quý vị đạt được Niệm Phật Tam Muội, quý vị mới có công phu này.

Có cần phải đến thế giới Cực Lạc gặp Phật A Di Đà không? Rất cần. Vì thế chúng ta khẳng định có thế giới Tây Phương Cực Lạc, có Phật A Di Đà. Cuối đời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh có đại sư Ngẫu Ích, biệt hiệu là Tây Hữu Đạo Nhân, Ngài tin có thế giới Tây Phương, Ngài nói thế giới Tây Phương thật sự là có, Phật A Di Đà thật sự là có, cho nên Đức Phật A Di Đà còn được gọi là Tây Hữu Đạo Nhân. Điều này chúng ta phải khẳng định. Thế giới Tây Phương Cực Lạc và thế giới chúng ta là không gian duy thứ bất đồng. Phật Di Đà là thế giới cao, cực cao vô thượng, Ngài thấu rõ hết tất cả thế giới (thấu rõ hết tất cả duy thứ không gian khác nhau). Cho nên Đức Phật Thích Ca khen ngợi Phật Di Đà là “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”. “Quang trung cực tôn” là khen năng lực trí huệ của Phật Di Đà, Phật Di Đà đã đột phá tất cả thế giới (tất cả duy thứ không gian); “Phật trung chi vương” là khen đức hạnh của Ngài. Chúng ta phải tin điều này, Phật Thích Ca Mâu Ni nhất định không nói sai.

Chư Phật và Bồ Tát thị hiện ở thế gian, luôn có chung một nguyên tắc, là nhất định nhằm vào nhu cầu xã hội trước mắt, cung cấp phương pháp, giải quyết cứu giúp, điều này đối với chúng ta mới có lợi ích chân chánh. Những phương pháp, lý luận không thích hợp với điều kiện trước mắt thì Phật quyết không nói. Xã hội chúng ta ngày nay phát sinh nhiều nguy cơ nghiêm trọng, chúng ta phải biết những nguy cơ này chính là giáo dục thất bại hoàn toàn. Trước đây thế giới còn duy trì được yên ổn, nguyên nhân ở đâu? Cả thế giới lơ là với giáo dục đạo đức, người Trung Quốc thì rất xem trọng. Lời tựa kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo nói một phần mười số người tiếp nhận giáo dục tốt thì chín phần mười số người còn lại được thơm lây. Dân số Trung Quốc không phải chiếm một phần mười trên thế giới mà chiếm một phần năm. Trong số một phần năm có một nửa số người tiếp nhận giáo dục Nho gia và giáo dục Phật giáo, điều này thế giới có thể duy trì yên ổn. Nửa đầu của thế kỷ này còn tốt, tôi còn nhận được một chút giáo dục. Tôi sống trong thời chiến tranh, vì chiến tranh nên có giới hạn. Trước ngày kháng chiến thắng lợi, gia đình, cha mẹ, trường học, thầy cô còn nói cho chúng ta biết một ít về luân thường đạo đức, chúng ta còn được huân tập chút chút, sau kháng chiến thắng lợi, không có ai nói những điều đó.

Người thời nay không hiểu cách làm người. Chúng ta thử nhìn những đứa trẻ, quan sát kỹ chúng ta cảm thấy tư tưởng, hành vi của chúng rất đáng sợ. Đứa trẻ ba, bốn tuổi đã biết xem tivi, suốt ngày dán mắt vào tivi. Trong nhà, phòng khách có tivi lớn, phòng khác có tivi nhỏ. Những tiết mục cha mẹ chúng xem khác với những tiết mục của chúng xem. Cha mẹ chúng bảo chúng rằng: “Con hãy đến phòng của con, xem tivi của con”. Chúng đáp rằng: “Dạ không, người nhỏ xem tivi lớn, người lớn xem tivi nhỏ”. Những lời nói, những tư tưởng như vậy sau khi nghe được, chúng ta cảm thấy thấp thỏm lo âu. Chúng không tôn trọng bậc trưởng thượng, khi lớn lên thì như thế nào đây? Chúng ta nghĩ xem, lúc còn nhỏ chúng rất dễ thương, khi lớn lên thì hết dễ thương rồi. Đây là sự lơ là trong giáo dục. Hiện nay mọi người không coi trọng vấn đề này, không tìm ra biện pháp cứu lấy thì hai ba mươi năm sau thế giới này hết cứu nổi. Hiện nay giáo dục ở nhà trường không có nói xã hội ngày nay có những hiện tượng như vậy. Quý vị mở máy vi tính xem thư điện tử, nội dung là gì? Đều là sát đạo dâm vọng. Đầu óc, tư tưởng chúng sanh trên thế giới đều nghĩ những điều này, như vậy có được không? Do đó nghiệp chúng sanh cảm thọ đều là ác nghiệp, ác nghiệp ngày càng tăng trưởng, quả báo ngày càng chồng chất. Ngày tận thế quả thật sắp đến rồi. Cơ Đốc giáo nói tận thế, kinh Coran của Hồi giáo cũng nói tận thế. Phật giáo tuy không nói tận thế, Phật nói có thời kỳ Mạt Pháp, có thời kỳ Diệt Pháp. Nhà Phật nói quả báo thiện ác, trồng nhân lành hái quả lành, gieo nhân ác gặt lấy quả ác.

Người thông minh trí huệ phải biết tu phước trong cuộc đời ngắn ngủi này. Cái gì là thiện? Cái gì là ác? Người hiểu biết, người trí huệ đều phân biệt được. Phàm những gì làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, giúp xã hội ổn định, thế giới hòa bình đều là thiện. Ngược lại, những gì làm lợi ích cho cá nhân mình, lợi ích cho đoàn thể của mình mà làm tổn hại người, dối gạt người đều là ác, sẽ chiêu cảm quả báo ác ở ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Hà tất phải như vậy? Con người sống trên đời này được bao nhiêu ngày? Con người sống trăm tuổi cũng không quá ba vạn sáu ngàn ngày, thật quá ngắn ngủi. Thời gian ngắn ngủi này tạo tội rồi đọa vào ba đường, thời gian ở trong ba đường này rất dài. Thật không đáng! Vì vậy đọc sách thánh hiền, được giáo dục tốt, nhất định khắc phục được phiền não của mình, kềm chế được dục vọng của mình, phát Bồ Đề tâm làm lợi ích chúng sanh.

Chúng ta muốn trở lại độ chúng sanh, muốn độ chúng sanh trước hết phải độ chính mình. Chính mình không độ được làm sao độ chúng sanh? Độ mình như thế nào? Hãy vứt bỏ hết tập khí phiền não của mình, đó là độ chính mình. Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo là tiêu chuẩn làm thiện. Sát sinh là tập khí phiền não. Khi chưa hiểu điều này, chúng ta thấy những con vật nhỏ như muỗi, ruồi, kiến… cứ quấy rầy trong phòng. Cố ý hay vô tình giết chết chúng đều là sát sinh. Sau khi học Phật thì không giết nữa, vì chúng nó cũng có mạng sống. Con kiến đến đây cũng là tìm thức ăn để sống, nó không có phạm tử tội, vì sao chúng ta phải giết nó? Nhất định không thể được. Chúng ta làm thế nào để đối đãi với chúng? Dùng tâm từ bi để đối đãi với chúng. Nó đi tìm thức ăn, chúng ta bố thí cho nó một chút thức ăn. Chúng ta đem thức ăn để ngoài cửa, hay ngoài sân, chúng nó từ từ đến đó ăn, sau này nó không đến quấy rầy chúng ta nữa. Do đó không cần giết chúng, không cần phòng ngừa chúng, cũng không dùng thuốc sát trùng vì chúng cũng có tánh linh. Chúng có tánh linh, giết chúng rồi lẽ nào chúng không có lòng báo thù sao? Sau này chúng được thân người, chúng ta đọa thân kiến, chúng lại giết chúng ta. Oan oan tương báo, nối mãi không dừng! Vì vậy không nên sát sinh.

Trộm cắp là điều dễ phạm. Phàm làm những việc hại người lợi mình đều thuộc về trộm cắp. Có người nói rằng: Không hại người làm sao lợi mình được? Quan niệm này hoàn toàn sai, là mê hoặc. Họ không biết, không hiểu lợi cho người chính là lợi cho mình. Phật dạy chúng ta “quảng tu cúng dường”. Quảng là quảng đại rộng lớn không có giới hạn. Chúng ta tận tâm tận lực bố thí cúng dường chúng sanh, quả báo không thể nghĩ bàn. Chúng ta bố thí cho nhân dân nước mình, nếu không cầu vãng sanh về thế giới Cực Lạc, quả báo đời sau chắc chắn làm quốc vương của nước đó. Vì sao? Vì chúng ta có ân huệ với họ. Nếu ai bố thí cho toàn thế giới, người đó sẽ làm Luân vương, là minh chủ của thế giới, là người thống trị toàn thế giới như kinh Phật đã nói, có nhiều quốc gia phục tùng, nghe theo hiệu lệnh người đó. Đó đều do bố thí mà có. Đời này quý vị có tiền, kiếm được nhiều tiền là do đời trước tu bố thí Tài. Ngày nay chúng ta có trí huệ là do đời trước tu bố thí Pháp. Ngày nay có sức khỏe là do đời trước tu Vô Úy thí. Tu nhân nào được quả đó. Không tu nhân lành nào, ngày nay làm mọi cách để được quả lành, mãi không bao giờ được, không có việc như vậy.

Làm bất cứ việc gì cũng có tiền, chưa hẳn như vậy. Chúng ta có chánh mạng, bố thí nhiều rồi làm việc gì cũng có tiền. Chúng ta làm việc gì đó, đó là nhân, nhân kết thành duyên, quả báo sẽ hiện ra. Nếu chúng ta không có nhân, mặc dù duyên thù thắng, chúng ta cũng không đạt được gì cả. Đây là chân tướng sự thật, chỉ có Phật mới nói hết và nói một cách rõ ràng. Vì thế muốn độ chúng sanh trước tiên phải độ mình. Độ mình trước hết phải thay đổi những tập khí, phiền não của mình. Điều trước nhất là phải thay đổi, dẹp bỏ tâm ích kỷ, nên học theo hạnh của Phật và Bồ Tát. Phật và Bồ Tát không có tự tư, ích kỷ. Kinh Kim Cang nói: “Bồ Tát không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng sanh, không có tướng thọ giả”, tùy loài mà các Ngài hóa thân. Chúng ta đến thế gian này là để độ mình, độ mình tức là độ chúng sanh. Đó là hành Bồ Tát đạo. Vì độ mình thì mình phải là tấm gương tốt. Quý vị là bậc mô phạm cho mọi người, cho xã hội, đó là tấm gương cho mọi người và xã hội. Khi mọi người nhìn thấy, họ tôn trọng, họ noi theo, học tập theo, như vậy quý vị đã độ họ rồi. Không độ mình nhất định không độ được người khác. Chúng ta nói hay nói đúng, họ nhìn cuộc sống của chúng ta không giống như những gì ta nói, thì làm sao đây? Đức Phật Thích Ca, chư vị Bồ Tát, lịch đại Tổ sư đều là tấm gương cho chúng ta noi theo. Cả cuộc đời của quý Ngài chỉ có tu thiện, quyết không làm ác. Quý Ngài chỉ làm lợi ích cho chúng sanh, quyết không vì lợi ích của mình. Chúng sanh chính là mình, làm lợi ích chúng sanh chính là làm lợi ích cho mình. Do đó tấm lòng phải bao la, như ngạn ngữ nói rằng: lượng lớn phước lớn, lượng nhỏ phước nhỏ. Nếu tấm lòng rộng lớn, làm lành nhỏ như tơ hào, thì hạnh lành của người ấy cũng trở thành lớn. Nếu tấm lòng nhỏ hẹp mà làm việc lành thì quả cũng nhỏ, nó không vượt qua tấm lòng của quý vị. Vì thế trước hết là mở rộng tấm lòng mình ra, “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”.

Đức Phật Thích Ca thị hiện động đến cả tam thiên, nếu Phật A Di Đà thị hiện cũng có những điều như thế. Đây là hiện tượng giáo hóa chúng sanh. Báo cho chúng sanh biết nhân quả đáng sợ. Thành Phật rồi không thể nói không có quả báo; không thể nói những điều ác đã làm không có quả báo. Thành Phật rồi ác báo cũng hiện tiền, quả báo vẫn hiện tiền, nhưng đối với Phật không sao cả. Ngài biết đây là trả nợ, Ngài hoan hỷ tiếp nhận quả báo. Chúng sanh thì mê hoặc, họ không cam lòng tiếp nhận khổ báo, họ cứ oán trời trách người. Phật Bồ Tát đã thông liễu nghiệp nhân quả báo, “đại tu hành nhân, bất muội nhân quả”. Không phải không có nhân quả. Bất muội là rất thông hiểu, biết rõ về nhân quả.

Tập 3

Chào tất cả chư vị đồng học! Có nhiều vấn đề gởi đến trên mạng internet, tôi nghĩ chúng ta tìm thời gian khác trả lời. Có những vị, hai ngày nữa sẽ rời Singapore rồi, thời gian thật là quý phải không quý vị. Hôm nay chúng ta bắt đầu thảo luận về kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, trong bộ kinh này có nhiều vấn đề chúng ta cần giải thích. Giống như ở đây, có một vấn đề: Sự dung hợp của tôn giáo là một việc thù thắng. Nếu chúng ta đi nghe kinh điển của ngoại đạo, có phải là phản bội lại nhất môn thâm nhập không? Đối với giáo phái không phải chánh giáo như Thanh Hải, Lư Thắng Ngạn thì ứng xử đối phó như thế nào đây?

Vấn đề này hỏi rất hay. Giáo quả thật có tà chánh, nên phân biệt rõ ràng. Nhưng đối với những người có căn cơ cao, kiến giải của họ sẽ khác, vì họ đã đạt đến chỗ không còn bị ngoại cảnh quấy rối, cho nên tà chánh cũng không có. Chúng ta hiện nay là phàm phu, chịu ảnh hưởng bởi hoàn cảnh bên ngoài, do vậy cần phải phân biệt tà chánh, phải xa tà gần chánh, đây là tùy theo căn cơ mà nói.

Hôm nay mời mọi người xem kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, phía trước có Thượng Dụ của Hoàng Đế Ung Chính, chúng ta hãy xem bài này. Những vị vua đời nhà Thanh đều là đệ tử của Phật, triều vua Khang Hy, Ung Chính, Càn Long là thời kỳ cực thịnh của triều đại nhà Thanh. Những vị vua này thường mời pháp sư vào cung đình giảng kinh, dùng lý luận và lời dạy của kinh Vô Lượng Thọ để trị quốc, điều này rất đáng khen ngợi. Ở trong cung đình mà đọc kinh, giảng kinh, lập nên nghi thức chung trong cung, đây là cách làm rất có trí huệ, rất cao minh. Làm vua nhưng họ không dùng ý riêng của mình, không bắt mọi người nghe mình nói, mà nghe Phật nói. Hoàng đế phải nghe Phật nói. Thần tử cho đến thứ dân đều nghe Phật nói. Tâm con người bình được rồi thì thiên hạ đại trị. Chúng ta xem bài Thượng Dụ này, để hiểu đời nhà Thanh làm sao mà trị quốc tốt như thế. Thượng Dụ, dùng lời hiện nay để nói thì Thượng Dụ chính là lời huấn từ của hoàng đế.

“Trẫm duy tam giáo chi giác dân ư hải nội dã, lý đồng xuất ư nhất nguyên, đạo tịnh hành nhi bất”.

Đoạn này là tổng cương, là ý chính, vừa nói là nói hết. Tiếng “trẫm” là từ tự xưng của người thời xa xưa, cũng như bây giờ xưng là “tôi” vậy. Ngày xưa mọi người đều xưng là “trẫm”. Từ này trở thành từ chuyên dùng của vị hoàng đế đầu tiên là Tần Thủy Hoàng. Tần Thủy Hoàng bắt đầu xưng “trẫm” là tự xưng của hoàng đế. Về sau người dân không dùng từ này để tự xưng nữa. Đó là nguồn gốc của tiếng “trẫm”. “Trẫm duy”, dùng từ ngữ hiện nay để nói, nghĩa là: “Tôi cho là” hay “tôi cho rằng”, “tam giáo” nghĩa là ba nhà Nho, Thích, Đạo thời xưa ở Trung Quốc. Ba nhà này đều thuộc về giáo học. Quý vị phải hiểu từ “giáo” nghĩa là “dạy học”, không phải là tôn giáo. Danh từ “tôn giáo” có rất muộn ở Trung Quốc, cũng không phải bắt nguồn từ Trung Quốc, mà từ Nhật Bản truyền tới. Cho nên trước đó, Trung Quốc chưa có danh từ “Tôn giáo”, cũng chưa có khái niệm “Tôn giáo”. Đây là từ du nhập, từ bên ngoài truyền vào.

Trung Quốc nói “giáo” nghĩa là giáo hóa, nghĩa là giáo dục, làm thế nào để giáo hóa chúng sanh. Nghĩa là hai tiếng “giáo hóa” này rất hay. “Giáo” là hành vi, “hóa” là kết quả. Chúng ta tiếp nhận sự giáo dục, sự hướng dẫn của các bậc thánh hiền, thế là sinh ra biến hóa. Đây là phong cách biến hóa thường nói, hóa dữ làm lành, hóa mê thành ngộ, hóa phàm thành thánh. Đây là nói hiệu quả của dạy học. Vì thế từ vựng người Trung Quốc dùng “giáo” là nhân, “hóa” là quả. Ý nghĩa thật hoàn mỹ. Đây là nói hiệu quả của dạy học. Đây là nói ba loại giáo dục của Nho gia, Đạo gia và Phật gia.

“Giác dân ư hải nội” nghĩa là dạy nhân dân giác ngộ. “Hải nội” là chỉ Trung Quốc. Ở Trung Quốc thực hiện rộng rãi giáo dục nhân dân giác ngộ, điều này rất hay! Không có gì là mê tín, chỉ là dạy chúng sanh giác ngộ.

“Lý đồng xuất ư nhất nguyên”, nghĩa là về mặt lý luận thì giống nhau, nhìn trên phương diện hình thức đều y cứ ở Hiếu đạo, Sư đạo; Nho, Thích, Đạo đều nói về Hiếu đạo, đều nói tôn Sư. Tuy cách nói của họ không giống nhau, phương pháp cũng có sai khác, nhưng phương hướng, mục tiêu nhất định không khác. Cho nên nói “Đạo tịnh hành bất bội”, nghĩa là Đạo thì không trái ngược nhau (hay đạo đi song song với nhau). Trong lãnh thổ Trung Quốc lớn như vậy, dân số đông như vậy, trước đây Nhà nước không có xây nhiều trường, vậy ai đi giáo hóa chúng sanh? Cũng do ba nhà Thích, Đạo, Nho. Họ gánh vác trách nhiệm giáo hóa chúng sanh, giúp đỡ nước nhà, giúp đỡ đế vương, giúp đỡ xã hội, khiến cho cuộc sống quần chúng, xã hội được yên ổn, an lạc hạnh phúc. Đây là lợi ích thù thắng của họ về Tam giáo.

Nhưng con người có phân biệt, chấp trước, họ có tập khí phiền não, không dung hòa nhau. Tình hình này không khó lý giải. Vấn đề xã hội ngày nay càng nghiêm trọng hơn, những tệ nạn này do đâu xảy ra? Ung Chính cũng có một câu “Nhân duy bất năng hoát nhiên quán thông” (Con người không thông hiểu rộng mở), đây là khuyết điểm căn bản. Vì sao không dung hòa với nhau mà chỉ bài trừ, đố kỵ lẫn nhau? Chính là vì không rộng mở thông suốt. “Hoát nhiên” là đại ngộ, có thể nhập vào cảnh giới của bậc thánh hiền. Sự lý đều thông suốt thì vấn đề gì cũng giải quyết được.

“Ư thị nhân các dị tâm”. “Dị tâm” là nói vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Câu này nghĩa là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của mỗi người không giống nhau.

“Tâm các dị kiến” nghĩa là cách nhìn, cách nghĩ của mỗi người không giống nhau. Thế là tập khí phiền não hiện tiền.

“Mộ đạo giả vị Phật bất như đạo chi tôn” nghĩa là tín đồ của Đạo giáo cho rằng: Phật không có tôn quý như Đạo giáo. Đây chính là “tôn Đạo bài Phật”, có vấn đề rồi đây.

“Hướng Phật giả vị đạo bất như Phật chi đại” nghĩa là đệ tử của Phật thì cho rằng Đạo gia không lớn như Phật.

“Nhi Nho giả hựu kiêm tịch nhị thị dĩ vi dị đoan”, nghĩa là người theo đạo Nho, tức học trò của Khổng Tử bác bỏ cả Đạo gia và Phật gia, họ cho rằng Đạo và Phật đều là dị đoan. Dị đoan nghĩa là không phải Chánh Pháp, không phải Chánh Đạo. Thế là Tam giáo bắt đầu bài xích lẫn nhau.

“Hoài hiệp tư tâm tâm, phân tranh giác thắng nhi bất tương hạ” nghĩa là ôm lòng ích kỷ tranh giành phần hơn, quyết không nhường. Điều này từ xưa đến nay lúc nào cũng có, đặc biệt là giữa tín đồ với tín đồ, luôn tồn tại mâu thuẫn đối lập nhau, bên này bên kia tranh giành phần hơn, quyết không nhường nhau. Những người bề trên thì không có như vậy. Mấy ngày trước, cư sĩ Lý Mộc Nguyên có nói với tôi rằng: “Trước đây đệ tử của ngài Thái Hư và đệ tử của ngài Viên Anh bất hòa nhau, đôi bên công kích lẫn nhau, không nhường nhau”. Sau này hai vị pháp sư này gặp nhau, rất lịch sự tôn trọng nhau, tín đồ đệ tử nhìn thấy, không biết vì sao có việc như vậy, sao hai vị lão hòa thượng gặp nhau, khách sáo với nhau như vậy? Người bề trên không làm như thế thì người bên dưới không phục, luôn cho rằng sư phụ của mình là tuyệt vời, là đệ nhất, ai cũng không bằng. Hiện nay tập khí này càng nặng hơn, đến đâu cũng có thể thấy. Vì thế chúng ta đọc bài Thượng Dụ này, cảm xúc rất nặng. Nói khác đi là người bề trên không có lỗi. Lỗi đều là người bên dưới. Chúng ta hãy đọc tiếp Thượng Dụ này xem.

“Trẫm dĩ trì Tam giáo chi luận, diệc duy đắc kỳ bình nhi dĩ hỉ” nghĩa là Trẫm duy trì lý luận cả Tam giáo, để Tam giáo bình đẳng. Đó là lời nói của Hoàng đế Ung Chính. Cách nhìn của ông ấy đối với Tam giáo không giống như những người khác. Vì sao? Vì Tam giáo đều có công phu, đây chính là mở rộng, đây chính là mở rộng thông suốt mà trước đây đã nói. “Diệc duy đắc kỳ bình nhi dĩ hỉ”, bình là bình đẳng. Tam giáo quả thật bình đẳng. Bây giờ chúng ta thử xem ở Singapore, Singapore hiện nay có chín tôn giáo. Trước đây chín tôn giáo này không có qua lại với nhau. Mỗi tôn giáo cũng cho rằng tôn giáo mình là số một, tôn giáo khác không bằng. Trong Phật giáo gọi điều này là “Tự tán hủy tha” nghĩa là khen mình chê người, là trọng giới, trong Du Già Giới Bổn đều liệt vào giới điều trong Phạm Võng giới bổn. Tự khen mình chê người là tạo nghiệp. Quý vị không hiểu người khác, bèn khinh khi hủy báng là tội rất nặng. Tự khen mình là ngạo mạn, thuộc về một phần của tham, sân, si. Có người trí biết các pháp bình đẳng, trong kinh Kim Cang, Phật nói “Pháp môn bình đẳng, vô hữu cao hạ”. Có người nói: Phật nói “Pháp môn bình đẳng”, hình như trong tất cả các kinh Phật Thích Ca đều nói như vậy. Đây là cách nghĩ của chúng ta, ý của Phật có phải như vậy không? Không ai dám nói ý của Phật là như vậy sao? Ngày nay chúng ta đọc kinh Hoa Nghiêm thấy ý của Phật không phải như vậy. Pháp môn bình đẳng mà Phật nói là tất cả pháp thế gian, xuất thế gian, bao hàm tất cả các tôn giáo, còn bao hàm cả các tà pháp nữa. Vì sao? Có như vậy mới tương xứng với Đại Phương Quảng. Nếu không bao gồm cả tà pháp thì đâu phải là Đại Phương Quảng.

Tà pháp cũng bình đẳng với chánh pháp, quy luật này rất khó hiểu. Tại sao nói chúng bình đẳng. Đều xuất phát từ một nguồn. Chánh pháp là tâm hiện thức biến, tà pháp cũng là tâm hiện thức biến. Ly khai tâm thức; thế, xuất thế gian không có pháp nào có thể đắc. Tà chánh do đâu mà phân? Chúng ta đọc kinh Đại Thừa nhiều rồi, hiểu được những gì tương ứng với pháp tánh gọi là Chánh, trái ngược` với pháp tánh gọi là Tà. Tà Chánh được phân như vậy. Tương ứng hay không tương ứng chúng ta không bàn tới nó, chúng có cùng một gốc, sinh ra cùng một chỗ, chúng ta phải hiểu thật rõ vấn đề này. Sau đó quay lại quan sát mình. Tâm của chúng ta vừa khởi nghĩ thiện là Chánh, vừa khởi nghĩ tham, sân, si là Tà. Một niệm ác từ trong vọng tưởng, phân biệt biến hiện ra; một niệm thiện từ trong chánh trí biến hiện ra. Vọng tưởng và chánh trí là một không phải hai. Lúc mê gọi là vọng, lúc giác gọi là chánh. Do như vậy mà có thể biết Chánh Pháp, tà pháp chính là giác và mê mà thôi. Giác ngộ rồi thì tà pháp cũng biến thành Chánh Pháp; đã mê rồi thì Chánh Pháp cũng biến thành tà pháp, đây mới là hiểu biết đạo lý một cách đúng đắn. Vì thế Tam giáo dạy người đều gọi là Giác, Giác là Chánh Pháp, dạy người chuyển mê thành giác. Tướng của mê là tam đồ lục đạo, tướng của giác ngộ là Tứ Thánh nhất chân. Mê và giác hiện tướng không giống nhau, quả báo cũng khác nhau. Quả báo của mê là khổ. Quả báo của giác ngộ là vui.

“Năng đắc kỳ bình” nghĩa là dùng tâm thanh tịnh bình đẳng để đối xử.

“Tắc ngoại hình tích chi dị, nội chứng tánh lý chi đồng, nhi tri tam giáo sơ vô nhị chỉ, vô phi dục nhân đồng quy ư thiện” nghĩa là hình thức bên ngoài tuy khác nhưng chứng lý tánh bên trong giống nhau. Do đó mục đích tam giáo đều như nhau, đều muốn mọi người trở về với cái thiện.

Quý vị thực sự hiểu rõ, thật sự thông suốt, quý vị không để ý hình thức, chỉ chú trọng thực chất của chúng. Lần đầu khi tôi gặp tổng thống Napdan, ông ấy nói trong tất cả các tôn giáo, tôn giáo mà ông ấy tôn kính nhất là Phật giáo. Phật giáo trọng thực chất mà không trọng hình thức. Lời này là người thực làm bên trong nói ra, người làm trên hình thức bên ngoài không nói ra được. Vì vậy chúng ta kính trọng ông ấy. Không phải tôn giáo thế, xuất thế gian bình đẳng mà tất cả các pháp cũng bình đẳng. Sự bình đẳng từ Tánh trí mới có thể biểu hiện ra, chấp trước, phân biệt đều có thể buông xả. Trong pháp Đại Thừa nói rằng “Viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất viên”; hay “Pháp nào không phải là Phật pháp?” Tất cả các pháp đều là Phật pháp, không có pháp nào không phải là Phật pháp. Phật là cái gì? Nghĩa là Giác, quý vị chỉ cần thông hiểu giác ngộ thì pháp nào cũng là Phật pháp; nếu quý vị không thông hiểu, không giác ngộ sự mê muội thì ngay Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh cũng không phải là Phật pháp. Quý vị phải hiểu chân lý này. Pháp là tất cả pháp, đây là đạo lý mà chúng ta thường giải thích, vũ trụ nhân sinh, tất cả quá trình, hình tướng diễn biến, dùng một từ làm danh từ thay thế cho tất cả các từ gọi là Pháp. Phật nghĩa là gì? Thông hiểu tất cả các pháp gọi là Phật. Người thông hiểu triệt để tất cả các pháp thế, xuất thế gian, chúng ta gọi người này là Phật, vì người ấy không còn mê hoặc pháp nào cả.

Sau khi thông hiểu, chúng ta mới hiểu được chánh pháp. Chánh pháp là gì? Tương ứng với Thiện, tương ứng với Giác. Phật pháp dùng ba từ làm chuẩn, đó là: Giác, Chánh, Tịnh. Những gì tương ứng với Giác - Chánh - Tịnh gọi là Chánh Pháp, gọi là Phật pháp. Ngược lại, những gì trái ngược với Giác - Chánh - Tịnh, chúng ta gọi đó là tà pháp. Chư vị thử nghĩ xem, pháp có Tà Chánh, tà hay chánh là do mê và ngộ. Ngộ là Giác - Chánh - Tịnh, mê chính là Mê - Tà - Nhiễm. Giác đối với mê, chánh đối với tà, tịnh đối với nhiễm. Nếu pháp dạy chúng ta Mê - Tà - Nhiễm, đó không phải là Chánh Pháp, chúng ta gọi đó là tà giáo, tà pháp. Những điều Phật dạy chúng ta đều đi đến Chánh - Giác - Tịnh, đây là chánh pháp. Khi chúng ta chưa minh tâm, kiến tánh, thì nên xa rời tà pháp. Nói cách khác, chúng ta học chánh pháp ở trong mười pháp giới. Cần xa rời tà pháp. Khi nào vượt ra khỏi mười pháp giới, đạt đến nhất chân pháp giới, hay minh tâm kiến tánh rồi thì tà chánh cũng không còn. Chỉ có nhất chân pháp giới, không còn mười pháp giới. Nhất chân pháp giới là đại giác viên mãn, là giác ngộ hoàn toàn, chân lý này quý vị cần phải hiểu.

Tốt rồi, thời gian hôm nay đến rồi, Thượng Dụ này còn một đoạn nữa, ngày mai chúng tôi sẽ nói tiếp.

Tập 4

Chào tất cả các chư vị đồng học! Mời quý vị mở quyển kinh ra, chúng ta xem tiếp Thượng Dụ của Hoàng đế Ung Chính:

“Phù Phật thị chi ngũ giới thập thiện, đạo nhân ư thiện dã. Ngô Nho chi ngũ thường bách hạnh, dụ dịch thưởng khuyến, hữu nhất bất dẫn nhân vi thiện giả tai”.

Bắt đầu xem từ đây. Đoạn trước chúng ta đã nói tôn chỉ của Tam giáo, nguồn gốc của Tam giáo. Đây cũng là khế cơ, khế lý mà Phật đã nói. Lý, đều bắt nguồn từ một chỗ; cơ, thì không giống nhau. Vì vậy mới có ba phương pháp dạy học, tiếp dẫn căn tánh ba loại không giống nhau. Cái này hoàn toàn tương ứng với nguyên tắc, nguyên lý dạy học của pháp Đại Thừa đã nói, tương ứng với đức tánh, đây là nguyên tắc bất biến. Nhưng trình độ tương ứng với tâm tánh, quả thực có cạn có sâu, có rộng có hẹp. Chúng ta biết pháp thân là quan trọng nhất; Pháp Thân Đại Sĩ; pháp giới Tứ Thánh còn hơi xa hơn Pháp Thân Đại Sĩ, Thiên đạo lại xa hơn một chút, Nhân đạo càng xa hơn nữa, ba đường ác hoàn toàn trái với đức tánh (bản tính đạo đức). Một số quy luật Phật chế định cho chúng ta, nhà Phật thường gọi là giới luật, đều theo nguyên tắc này mà nói ra. Chúng ta nên hiểu rõ điều này, về sau mới có thể hiểu được trí huệ chân thật của Phật, Bồ Tát, từ bi vô tận, phương tiện khéo léo.

Đặc biệt là người có trí huệ thật sự, tuyệt đối không bận tâm hình thức bên ngoài mà trọng thực chất. Hình thức bên ngoài thuộc về khế cơ, thực chất là khế lý. Căn tánh của chúng sanh vô lượng vô biên, chúng ta không có cách nào hiểu hết. Kinh Hoa Nghiêm dùng tham, sân, si tiếp dẫn chúng sanh, chúng ta xem như trái với bản tính đạo đức, kỳ thật không trái. Chúng ta làm là trái nhưng Phật làm thì không trái. Vì sao? Vì tâm của Phật thanh tịnh, Phật không nhiễm trước. Tại sao chúng ta không thể làm? Chúng ta còn nhiễm trước. Nói cách khác, khi chúng ta tiếp xúc với ngoại cảnh sẽ khởi lên vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, còn Pháp Thân Đại Sĩ tiếp xúc với ngoại cảnh, các Ngài không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, cao là cao ở chỗ này. Xa lìa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì tương ứng với Pháp Tánh; nhiễm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là trái ngược với Pháp Tánh, là tạo nghiệp. Vì thế Phật chế giới hạnh cho chúng ta, chúng ta là kẻ sơ cơ, sơ cấp. Nên biết rõ và phân biệt, chúng ta là người sơ cơ. Phật dạy chúng ta những gì? Phật dạy mười điều thiện, mười điều thiện này Phật dạy cho người sơ cơ. Phật dạy cho vườn tuổi thơ. Chúng ta làm được mười điều này không? Nếu làm không được thì tư cách của vườn tuổi thơ không có, điều này thì chúng ta phải phản tỉnh, phải tự kiểm điểm. Chúng ta học Phật ở giai đoạn nào, ở đẳng cấp nào, tự mình phải hiểu, tự mình phải rõ. Nhân thừa trong ngũ thừa Phật pháp mà pháp sư Thái Hư nói, ngũ giới thập thiện thuộc về nhân thừa, thiên thừa còn phải thêm tứ vô lượng tâm, phải có chút định huệ mới có thể đi lên cao hơn nữa.

Hôm nay chúng ta xem tiếp “Phù Phật thị chi ngũ giới thập thiện”: chữ “phù” này không có nghĩa. Nó là trợ từ. Ngũ giới thập thiện là cơ sở của Phật pháp. “Đạo nhân ư thiện dã”, “đạo” là hướng dẫn, dẫn dắt, khuyên nhủ dạy bảo con người hướng thiện. Học đạo phải học từ chỗ này, người khác không thể làm, chúng ta nhất định phải làm, nhất định phải tuân thủ. Giới và Thiện tương đồng với nhau trên hình tướng, nhưng trên bình diện quả đức thì không giống nhau, vì vậy thọ giới và hành thiện không giống nhau. Ngũ giới là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Trong mười điều thiện cũng có không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ; xem ra giống nhau nhưng quả báo lại khác nhau. Giới, thì quý vị chính thức tiếp nhận sự dạy dỗ của Phật, tự quý vị phát nguyện. Phát nguyện cũng giống như lời thề của người thế gian. Quý vị phải phát thệ nguyện giữ gìn. Thập thiện, thì không có phát thệ nguyện như vậy. Quả báo của thập thiện là cầu phước báo, ngũ giới không phải phước báo. Giữ ngũ giới được cái gì? Được thanh tịnh tâm, nhân giới được định, nhân định khai huệ. Giới và thập thiện, về hình thức giống nhau, về mục đích, phương hướng lại khác nhau. Giữ giới được định huệ, hành thập thiện được phước báu. Đây là sự khác nhau của Giới và Thiện. Ngũ giới nhất định phải thọ ở trước Phật và Bồ Tát, Thập thiện thì không cần. Cho nên cần tu học những khoa mục này, dụng ý gì? Mục đích gì? Chính mình phải hiểu rõ. Phật pháp, tâm thanh tịnh là quan trọng hơn hết. Giới có thể đoạn trừ tham, sân, si, mạn, nghi, còn thiện thì không có những năng lực đó, dụng ý cũng không phải ở chỗ đó. Vì thế đây là căn bản dẫn dắt người hướng thiện.

“Ngô Nho chi ngũ thường bách hành”. Chư vị xem, hoàng đế Ung Chính xưng là Ngô Nho (nhà Nho của tôi). Ông ấy dùng hai chữ này vì ông ấy là người Trung Quốc, ông ấy là người dân tộc Mãn, người một nhà với Trung Quốc, Ngô Nho là nhà Nho chúng ta, Ngũ Thường của nhà Nho rất gần gũi với ngũ giới của nhà Phật. Ngũ thường là: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Nhân là không sát sanh. Vì sát sanh là bất nhân; nghĩa là không trộm cắp; lễ là không tà dâm; trí là không uống rượu; tín là không nói dối. Người giữ ngũ giới, kiếp sau nhất định được làm người. Chúng ta được thân người; nhưng tướng mạo của mỗi người không giống nhau, hoàn cảnh cuộc sống không giống nhau, giàu nghèo cũng khác nhau, đây là do mãn nghiệp. Mãn nghiệp là gì? Là nghiệp thiện ác. Trong đời trước mình tu thiện nghiệp nhiều thì đời này giàu có; tu thiện nghiệp ít thì đời này sẽ gặp nhiều khó khăn. Chúng ta phải hiểu hai điều này, để sau này khỏi phải oán trách ai cả, dù cho trong cuộc sống gặp nhiều nghịch cảnh cũng đừng oán trời trách người. Vì sao? Vì trong đời trước đã tạo nhân bất thiện thì đời này phải chịu quả báo, đương nhiên mình phải vui vẻ mà đón nhận, người như vậy mới là người biết tu, biết hành đạo. Nếu chỉ biết oán trời trách người chỉ tạo thêm nghiệp tội mà thôi.

Ngũ thường là lệ thường hay thói thường mà mấy ngàn năm tổ tông của người Trung Quốc dạy dỗ con cháu giải quyết công việc hay đối nhân xử thế. “Thường” là không thể gián đoạn. Người Trung Quốc tiếp nhận giáo dục này mấy nghìn năm. Tuy nhiên thời đại ngày nay không còn nữa, không ai nói nữa, nhưng gốc này mãi mãi tồn tại. Ngày nay chúng ta nói nhân nghĩa đạo đức, nói Phật pháp Đại Thừa, người Trung Quốc dễ tiếp nhận hơn. Vì sao? Vì nó còn có gốc. Chúng ta quan sát, xem xét giáo dục này từ ngũ giới, ngũ thường thấy người Trung Quốc nhìn mọi người, mọi vật đều là thiện, mọi người đều là người tốt “nhân giả vô địch”. Điều đầu tiên trong ngũ thường là nhân, người có lòng nhân từ thì không có thù địch. Bảo người khác đừng thù địch với mình, đây là điều khó! Đây cũng không phải là sự giáo dục của bậc thánh hiền. Bậc thánh hiền giáo dục ta không nên đối đầu với người khác, người khác đối đầu với mình là việc của người đó. Ông ấy khinh khi ta, chúng ta không khinh thường ông ấy, ông ấy hủy báng ta, chúng ta không nên hủy báng ông ấy; ông ấy lăng nhục ta, hãm hại ta, chúng ta quyết không dùng tâm báo thù ông ấy. Đây là học theo thánh hiền. Thánh hiền và phàm phu khác nhau ở chỗ này. Phàm phu thì tạo nghiệp, thánh hiền thì tu công tích đức. Nếu không thì chúng ta đọc sách thánh hiền, học theo thánh hiền, học đến đâu rồi? Mấy điều này ta phải nhớ cho chắc, từng giờ từng khắc không nên làm ngược lại, đây gọi là tu hành.

Nếu hành vi, kiến giải, tư tưởng của chúng ta trái với ngũ giới, ngũ thường là sai rồi. Biết sai thì mau mau sửa sai. Đây là tiêu chuẩn thiện ác của thánh hiền và cả thế xuất thế gian. Phù hợp với tiêu chuẩn này gọi là thiện, không phù hợp với tiêu chuẩn này đó là bất thiện. Người khác làm bất thiện, chúng ta không thể làm điều bất thiện như họ, chúng ta phải làm thiện để cảm hóa họ. Vì sao chúng sanh làm những điều bất thiện? Vì tập khí phiền não quá nặng, không có ai giáo dục họ. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật nói rất hay “người trước bất thiện, không biết đạo đức, không có người dạy bảo, thì không nên trách họ”. Có thể tha thứ ông ấy. Cha mẹ ông ấy không dạy ông ấy, thầy ông ấy không dạy ông ấy, các bậc trưởng bối cũng không dạy ông ấy, ông ấy làm sao mà biết được? Không ai dạy mà ông ấy biết, đó là Phật, Bồ Tát tái thế rồi, đó là thánh nhân, không phải là phàm nhân, phàm nhân không có người dạy, tập khí phiền não làm sao không hiện hành? Vì vậy chúng ta hiểu, ở đây tuy nói Tam giáo Nho - Thích - Đạo, trên thực tế chỉ nói đến Phật và Nho.

“Bách hành”, hành là hành vi, bách là chỉ cho số nhiều, chứ không phải chỉ số một trăm. “Ngũ” của “ngũ thường” đúng là chữ số “năm”. Bách hành không chỉ một trăm hành vi mà là hình dung từ chỉ số nhiều. Nhà Nho có ba nghìn oai nghi. Ba nghìn oai nghi này thuộc về nghi lễ. Bách hành là chỉ những oai nghi này đều là khuyên bảo, dạy dỗ (“Dụ lịch thưởng khuyên”), dẫn con người về với điều thiện (“Hữu nhất bất dẫn nhân vi thiện giả tai”).

Phần dưới, hoàng đế Ung Chính đưa ra đoạn công án, đoạn công án này là một câu chuyện vào đời Tống.

“Tích Tống Văn Đế, vấn thị trung Hà Thượng Chi viết, lục kinh bốn thị tế tục” (ngày xưa Tống Văn Đế hỏi cận thần của mình ngày nào còn Lục kinh là giúp đời). Lục kinh là của nhà Nho, điển tịch của nhà Nho toàn bộ có mười ba kinh, tổng cộng có mười ba bộ. Nói Lục kinh, trên thực tế chỉ là mười ba kinh (thập tam kinh). Tôn chỉ giáo dục của nó là “tế tục” nghĩa là giúp cho xã hội được phồn vinh.

“Nhược tánh linh chân yêu, tắc dĩ Phật kinh vi chỉ nam”, nghĩa là nếu tánh linh là quan trọng thì lấy kinh Phật làm kim chỉ nam.

Nói đến tâm tánh, tâm linh thì kinh Phật là trên hết, cũng là nói đến chân tướng của vũ trụ nhân sinh, kinh Phật nói rất triệt để, nội dung của kinh mà ngày nay giới khoa học nói là bao hàm tất cả. Quả thật kinh Phật nói rất đầy đủ. Tống Văn Đế hiểu điều đó.

“Như suất thổ chi dân, giai thuần thử hóa, tắt ngô tọa chí thái bình hỉ” nghĩa là nếu như nhân dân cả nước đều tiếp nhận sự giáo hóa của Phật thì ta ngồi ở đỉnh cao thái bình.

Tôn sùng Phật pháp “suất thổ chi dân” là nhân dân cả nước đều học Phật pháp, đều tiếp nhận sự giáo dục của Đức Phật. “Thuần” là tâm thành Phật, “thử” là chỉ cho Phật giáo, đều có thể dùng tâm thành tiếp nhận sự dạy bảo của Đức Phật. Tống Văn Đế nói: thế thì ta sẽ “tọa chí thái bình”, nghĩa là thiên hạ vô sự, làm thiên tử của đất nước thái bình không phải lo gì cả.

Đây là hiểu biết của cấp lãnh đạo trước kia. Đối với Tam giáo, Ung Chính cũng đưa ra những câu như vậy, đương nhiên ông ấy biết tán đồng, thưởng thức cách nói này. Chúng ta biết ông ấy học theo cách làm này, còn về ông ấy làm được bao nhiêu thì có liên quan đến sự lãnh ngộ của ông ấy; phần ông ấy không làm được có liên quan đến sự tập nhiễm của ông ấy. Tập nhiễm là tập khí phiền não. Công phu càng nhiều thì tập khí phiền não càng ít. Quả thực đi vào cảnh giới, hoàng đế không làm được, Phật Thích Ca biết điều này, nên Phật không cần ngôi vua, toàn tâm toàn ý làm công tác giáo dục, làm điều này an vui hơn làm hoàng đế, giàu sang hơn làm hoàng đế, người thực sự thông hiểu mới được, chưa thông hiểu vẫn chưa được. Ung Chính dự định rất hay, Ung Chính đặt nền móng cho con trai ông ấy, cho nên đời Càn Long là thời đại thịnh nhất nhà Thanh. Chúng ta biết ba đời Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, trong cung ngày nào cũng đọc kinh Vô Lượng Thọ, giảng kinh Vô Lượng Thọ. Đây là đọc để lấy lý, vì họ dùng kinh Vô Lượng Thọ để trị quốc. Họ có nghi thức chung như vậy.

Phần dưới là đoạn đối thoại với Hà Thượng Chi. Thời gian hôm nay đến rồi. Chúng tôi nói đến đây. Đoạn đối thoại của Hà Thượng Chi, gợi ra cho chúng ta ý nghĩa rất hay, nếu chư vị hiểu rõ rồi, dù thế giới ngày nay không được yên ổn, chúng ta tinh tấn nỗ lực tu học, quý vị sẽ có lòng giúp đỡ xã hội, giúp đỡ những chúng sanh khó khăn khốn khổ, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Đừng cho rằng chúng ta tu trì yếu ớt quá, như vậy chúng ta không hiểu chân tướng sự thật. Hiểu được chân tướng sự thật, quý vị sẽ không còn phân biệt, chấp trước. Mỗi người chúng ta phải chăm chỉ tu hành, một chút cũng không được lơ là, vô hình chung thay đổi lúc nào cũng không biết. Nội lực này thật bất khả tư nghì, sẽ ảnh hưởng đến mọi người xung quanh, sẽ ảnh hưởng đến thế giới, đến đời sau. Sự tu tập, hành trì của mỗi người công đức rất lớn. Nếu chúng ta không thâm nhập kinh tạng, thì chưa hiểu pháp Phật, cứ cho rằng người tu hành có gì đặc biệt, người tạo tội cũng có gì khác biệt đâu? Người tạo tội sẽ liên lụy đến xã hội, liên lụy đến đời sau. Cần phải hiểu rõ lý và sự, đoạn ác tu thiện, bỏ dữ làm lành, phá mê khai ngộ.

Tập 5

Chào tất cả các chư vị đồng học! Xin quý vị hãy xem phần cuối cùng Thượng Dụ của hoàng đế Ung Chính.

“Hà Thượng Chi đối viết. Bách gia chi lương. Thập nhân trì ngũ giới. Tắt thập nhân thuần cẩn. Thiên thất chi ấp. Bách nhân trì thập thiện. Tắc bách nhân hòa mục. Trì thử phong giáo. Dĩ cho hoàn khu. Tắc biên hộ ức thiên. Nhân dân bách vạn. Nhi năng hành nhất thiện. Tắc khứ vô ác. Khứ nhất ác. Tắc tức nhất hình. Nhất hình tắc ư gia. Vạn hình tắc ư quốc. Tuần hồ khả dĩ thùy cũng tọa trí thái bình hỉ”.

Đoạn này hoàng đế Ung Chính dẫn dụng đoạn đối thoại giữa Tống Văn Đế với Hà Thượng Chi trước kia, những người này hiểu rất rõ về thành quả dạy học của ba nhà Nho - Thích - Đạo thời đó. Ba nhà đó có cống hiến rất tích cực, làm cho xã hội yên ổn, chính quyền được củng cố, được hòa bình, nhân dân an lạc. Cho nên Tống Văn Đế nói “Lục kinh vốn là giúp đời” hay nói: nếu nói đến “tánh linh quan trọng” điều này thuộc về nhà Phật. Nhà Phật nói rất rõ. Văn Đế còn nói: nếu nhân dân cả nước tiếp nhận sự giáo dục của Phật và Nho thì ta có thể ngồi hưởng thái bình.

Tiếp theo đoạn đối thoại đó rất quan trọng, nó đem lại cho chúng ta lòng tin rất mạnh. “Bách gia chi hương” nghĩa là một trăm nhà. Lúc đó ta ước lượng mỗi nhà có bốn người, trăm nhà có bốn trăm, trong bốn trăm người này, ông ấy nói chỉ cần có mười người trì ngũ giới, mười người này thuần hậu chất phác, họ có thể cảm hóa được một trăm nhà này. Chúng ta thử nghĩ xem con số một phần trăm, hai phần trăm, trong một trăm người có một, hai người thực sự tiếp nhận giáo dục của Phật và Nho, có thể lý giải y theo giáo dục mà thực hành sẽ có hiệu quả rất lớn đối với xã hội. “Thiên thất chi ấp”, ấp là một đô thị hay thành thị. Thành phố này có một ngàn nhà, trong thành phố này có một trăm người trì thập thiện nghiệp đạo, một trăm người này hòa thuận với nhau, họ có thể cảm hóa được thành phố đó.

Vì thế tuyệt đối đừng cho rằng thế giới này mất yên ổn, lòng người xấu xa, cảm thấy thất vọng không cứu nổi. Quan niệm này là sai lầm. Chính chúng ta phải tinh tấn tu học. Người khác không làm thiện, chúng ta phải làm, phải kiên nhẫn, một thời gian nào đó nhất định sẽ cảm hóa được người đó. Chúng ta xem lại thời thượng cổ, lịch sử Trung Quốc có ghi: (cha) mẹ, anh em vua Thuấn đều là những người xấu, lúc nào cũng muốn đưa ông ấy vào chỗ chết. Nhưng ông ấy luôn giữ tròn chữ hiếu, thật đúng như Lục Tổ Huệ Năng đã nói “bất kiến thế gian quá”. Nên nhìn chỗ tốt của người khác để học theo, không nên nhìn khuyết điểm của người. Cha mẹ vua Thuấn đối xử với ông ấy không tốt, nhưng ông ấy luôn phản tỉnh “ta làm không đúng, ta làm không tốt mới làm cha mẹ giận”. Ngày ngày phản tỉnh, ngày ngày sửa đổi, cứ như thế bốn năm, năm năm trôi qua cả nhà đều cảm động. Sau khi cả nhà hòa thuận đã cảm động đến hàng xóm láng giềng của ông ấy, cuối cùng cảm động đến vua, đó là vua Nghiêu. Khi vua Nghiêu nghe được điều đó, đích thân đến thăm ông ấy. Vì thế Trung Quốc nói về hiếu thì vua Thuấn đứng đầu. Sau khi đến thăm, vua Nghiêu đem hai con gái gả cho ông ấy, đem cả ngôi vua nhường lại cho ông ấy. Ôi! Hiếu cảm đến trời đất! Một người có tấm lòng tích cực làm thiện có thể cảm động cả nhà, cảm động cả làng, cảm động cả nước. Điều này Phật pháp gọi là phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo. Vì vậy chúng ta không nên nhìn tập tục xã hội không tốt, chúng ta sẽ nản lòng bèn thoái chuyển, điều này là sai. Phải tích cực sống quên mình vì người, vì xã hội, làm tấm gương cho mọi người. Giáo dục Phật giáo và Nho gia căn bản gần giống nhau, như: “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát”. Ba câu này đều có trong thập thiện nghiệp đạo. Nếu không có thập thiện, ba câu này sẽ chỉ là khẩu hiệu, là trống rỗng. Dùng thập thiện để báo hiếu, để tôn kính sư trưởng. Ý này Phật giáo sâu hơn, rộng hơn: “Tất cả những người nam là cha tôi, những người nữ là mẹ tôi”. Hiếu thảo, hiếu thuận mà nhà Phật nói là hiếu thuận với tất cả chúng sanh. Ai làm được điều này? Vua Thuấn làm được. Đó là người chúng ta phải học theo, không phải không có người làm được. Phật Bồ Tát làm được, trong kinh điển có ghi lại nhưng toàn là người nước ngoài, chỉ có vua Thuấn là người Trung Quốc. Người như vậy thời nào cũng có. Hiện nay ở Singapore có cư sĩ Hứa Triết mà chúng ta thường nhắc đến. Quý vị xem, có một mình bà ấy, không những ảnh hưởng cả nước Singapore mà sau khi thông tin truyền đi, nó còn ảnh hưởng đến cả khu vực Đông Nam Á. Tiếc rằng người như vậy quá ít.

Ngày nay tuy chúng ta học Phật, ngũ giới thập thiện chưa làm được, phải thực sự làm được! Một người làm mà hiệu quả lớn như vậy, cho nên chúng ta tin lời của Hà Thượng Chi. Nếu nơi này có mười người như bà Hứa Triết, thì Singapore không phải như hiện nay. Chúng ta đã tận mắt thấy rồi, chúng ta phải phát tâm học tập, quên mình vì người, vì toàn xã hội, vì tất cả chúng sanh. Ngày nay chúng ta trì ngũ giới, học thập thiện, không phải vinh dự cho mình, vì rạng rỡ cho chính mình thì quá nhỏ nhoi. Hy vọng phước báu đời sau, mà đời này cải thiện hoàn cảnh cuộc sống của chính mình, ý niệm này thì quá nhỏ. Ta trì ngũ giới, ta tu thập thiện là vì tất cả chúng sanh. Cho nên tấm lòng của Phật, Bồ Tát rất lớn, các Ngài vì tất cả chúng sanh ở mười phương thế giới. Ngày nay chúng ta chỉ cần phát tâm trên thế giới này, chúng ta tu hành là vì mọi người, vì họ mà làm tấm gương tốt, hy vọng họ từ bỏ ích kỷ, tất cả vì nhân loại, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm đều vì phước báu của nhân loại, phước báu của chúng sanh.

Thân thể chúng ta, tôi đã nói nhiều rồi, thân thể chúng ta là công cụ phục vụ cho chúng sanh trên thế gian này, không phải vì “ngã”, tất cả vì ta là sai rồi, nếu như vậy thế giới không có tiền đồ, toàn là màu đen. Tất cả vì chúng sanh, nhất định không vì mình, thật sự đã có mình trong đó. Chỉ thay đổi suy nghĩ, tất cả chúng sanh là chủ, ta là tôi tớ, ta là người hầu chủ, đây là Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát ứng hóa trong đời là vì tất cả chúng sanh mà phục vụ, làm tấm gương tốt, đây chính là cứu độ tất cả chúng sanh. Hạng người này ở Trung Quốc rất nhiều, chúng ta thường nghe nói, chưa phát hiện, không có người đi tuyên dương, phải có tuyên dương mới có hiệu quả. Cho nên đối với cư sĩ Hứa Triết, tôi còn muốn tìm một nhà quay phim để quay bà ấy, để đưa ra cho cả thế giới biết. Bà ấy tuy không có đọc kinh Phật, chưa tiếp xúc với Phật pháp, nhưng những gì trong kinh Phật nói bà ấy đều làm được hết. Một trăm lẻ một tuổi bà ấy mới quy y. Khi ở đạo tràng quy y, tôi truyền hết năm giới cho bà ấy, bà ấy đều làm được hết. Nếu dùng điểm số để cho điểm thì bà ấy đạt số điểm cao nhất, 100 điểm. Đây là tấm gương tốt cho chúng ta.

“Trì thử phong giáo”, duy trì “phong giáo” này. Phong là phong khí, tức là tập tục, giáo là giáo hóa. Tập tục giáo hóa tốt như vậy nên duy trì.

“Dĩ chu hoàn khu”, hoàn khu là nói cả nước, nghĩa là duy trì tập tục giáo hóa cho cả nước.

“Tắc biên hộ ức thiên, nhân nhân bách vạn”, “nhân nhân” này là có thể trì ngũ giới, hành thập thiện. Chỉ cần một trăm vạn người làm được, thì tập tục của cả quốc gia có thể thay đổi. Sau đây đưa ra tỷ dụ để nói, mỗi người có thể làm một điều thiện bằng cách bỏ đi một điều ác. Tỷ dụ nói có thể giữ giới sát sanh, sát sanh là ác, ông ấy không làm; giữ giới trộm cắp, trộm cắp là hành vi xấu, ông ấy vứt bỏ hành vi ấy.

“Khứ nhất ác, tắc tức nhất hình”, trừ bỏ một điều xấu ác, thì dừng được một hình phạt, hình phạt của một nước đưa ra cho người phạm pháp. Người người đều sống theo luật pháp, thì những hình phạt cũng dừng vì không còn chỗ dùng nữa, đó là “nhất hình tức ư gia, vạn hình tức ư quốc” nghĩa là một hình phạt dừng lại ở mỗi nhà thì vạn hình phạt sẽ chấm dứt ở mỗi nước. Cho nên mỗi người, đặc biệt là đệ tự của Phật nhất định phải làm tấm gương tốt nhất cho xã hội. Làm thế nào giúp đỡ cho chúng sanh bỏ ác làm lành? Trước hết phải từ bản thân mình. Tiêu chuẩn của ác và thiện là ở trong quyển sách nhỏ này. Quyển sách này, theo kinh điển nhà Phật chia làm bốn loại: Giáo, Lý, Hành và Quả. Đây là những bước thứ tự mà bản thân cố gắng tu tập, chứng quả nơi cửa thánh đạo; đây không phải để nghiên cứu, bàn luận mà phải thực hành, thực tập một cách thiết thực.

Phật, Bồ Tát là tấm gương tốt của tất cả chúng sanh ở chín pháp giới. Tấm gương tốt mà hôm nay chúng ta nói là “học vi nhân sư, hành vi thế phạm” (học làm thầy của người, hạnh làm gương cho đời). Những hành vi của Phật, Bồ Tát là mô phạm, là tấm gương tốt cho tất cả chúng sanh. Chúng ta phải nghĩ rằng: mỗi khi khởi tâm động niệm, có nghĩ đến là có thể làm gương tốt cho chúng sanh hay không? Nếu không thể thì chúng ta không nên khởi nghĩ. Lời nói của chúng ta có ích cho xã hội hay không? Không lợi ích thì lời nói đó chúng ta không nói. Hành vi tạo tác của ta phải vì lợi ích xã hội, lợi ích của số đông. Nếu không được như vậy thì không những không làm mà ngay khởi nghĩ cũng không nên khởi. Có như vậy mới là đệ tử của Phật, đây mới là tiếp nhận sự giáo dục của các bậc cổ thánh tiên hiền. Nếu không như vậy, thì niệm nghĩ của chúng ta trú ở nơi đâu? Chúng ta học cái gì?

Hoàng đế Ung Chính đã hiểu, đã biết sự giáo dục của ba nhà Nho - Thích - Đạo của xã hội Trung Quốc ngày xưa. Phương pháp cách thức dạy học của ba nhà tuy khác nhau, nhưng về căn bản tương đồng. Ngày nay chúng ta triển khai thêm ý này. Chín tôn giáo ở Singapore về hình thức cũng không giống nhau, phương thức giáo hóa chúng sanh có sai biệt, nhưng về lý thì tương đồng, vì vậy chín tôn giáo có thể đoàn kết lại, có thể hợp tác với nhau. Cái không giống nhau là cành nh