ths., giảng viên chính khoa văn học và ngôn ngữ – trường...
TRANSCRIPT
Phan Xuân Viện. Tìm hiểu truyện cổ tộc người Xtiêng ở Bình Phước
TÌM HIỂU TRUYỆN CỔ TỘC NGƯỜI XTIÊNG Ở BÌNH PHƯỚC
Phan Xuân Viện*
* ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ĐHKHXH&NV – ĐHQG TPHCM.
1. Tộc người Xtiêng là cư dân bản địa cư trú lâu đời tại các tỉnh Bình Phước, Bình Dương,
Đồng Nai, Tây Ninh. Trên địa bàn tỉnh Bình Phước, với số dân đông sau người Việt gồm 72.851 người
cộng đồng Xtiêng sống xen kẽ với người Việt, Khmer, Chăm, Mơ Nông… Địa bàn cư trú của họ giáp với
người Mơ Nông ở phía Bắc (Đắc Nông), người Mạ ở phía Đông (Lâm Đồng), người Việt ở phía Nam
(Bình Dương), và người Khmer ở phía Tây (Tây Ninh). Cộng đồng tộc người Xtiêng ở tỉnh Bình Phước
định cư lâu đời và phân bố rải rác ở hầu khắp các huyện, thị trấn và thị xã Đồng Xoài của tỉnh. Địa bàn
cư trú chủ yếu của họ tập trung ở các xã thuộc vùng sâu vùng xa của bảy huyện Bình Long, Chơn
Thành, Đồng Phú, Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước Long và Bù Đăng. Theo số liệu thống kê dân số năm 2005
của Ban Dân tộc tỉnh Bình Phước, có 11 dân tộc thiểu số đang sinh sống tại địa bàn tỉnh, cụ thể là các
dân tộc Chăm, Dao, Hmông, Hoa, Khmer, Mơ Nông, Mường, Nùng, Tày, Thái và Xtiêng, trong đó, người
Xtiêng có số dân đông nhất (72.851/153.881 người) phân bố ở thị xã Đồng Xoài và 7 huyện như sau: thị
xã Đồng Xoài có 386 người, huyện Bù Đăng 12.055 người, huyện Phước Long 22.640 người, huyện
Đồng Phú 3.175 người, huyện Bù Đốp 2.600 người, huyện Lộc Ninh 9.227 người, huyện Bình Long
19.496 người, và huyện Chơn Thành 3.272 người.
Kho tàng văn học dân gian Xtiêng ở Bình Phước rất phong phú với đủ thể loại như thần thoại,
truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, thơ ca, hát nói dân gian. Người Xtiêng
thường kể về nguồn gốc ra đời dân tộc mình, về sự tích các vị thần, về những lễ hội, kiêng kỵ và sinh
hoạt thường ngày, về tình yêu nam nữ. Những già làng và các cụ bà người Xtiêng là những người còn
nhớ và thuộc nhiều vốn văn học quý giá này. Thêm một điểm đáng quan tâm nữa là cộng đồng người
Xtiêng rất phổ biến lối hát nói, hát ru, hát kể (Tâm – pớt) do một người hoặc hai người cùng thể hiện. Đây
là một hình thức truyền tải lịch sử tộc người cùng những tâm tư, tình cảm của người Xtiêng với những
người trong cộng đồng của mình.
2. Tiếp sau bài giới thiệu sơ bộ về truyện cổ Xtiêng có nhan đề “Bước đầu tìm hiểu truyện cổ
Xtiêng” viết ngày 20.9.2008, đến nay xét thấy đã có thể nêu một vài nhận định về đặc điểm cơ bản của
kho tàng truyện cổ Xtiêng – sau khi bổ sung thêm non 100 tác phẩm mới sưu tầm được ở các huyện Bù
Đốp, Phước Long và Bù Đăng, chúng tôi viết tiếp bài này nhằm giới thiệu bổ sung vài nét về diện mạo
kho tàng truyện kể dân gian tộc người Xtiêng ở Bình Phước. Qua hai đợt khảo sát điền dã văn học dân
gian, tổng số truyện kể dân gian sưu tầm tại gần 40 xã điểm có đồng bào Xtiêng sinh sống thuộc 6 huyện
như Bình Long, Đồng Phú, Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước Long và Bù Đăng gồm có 233 truyện [1]. Vì lý do
khách quan nên chúng tôi còn chưa có dịp đi sưu tầm điền dã văn học dân gian tại các xã có người
Xtiêng sinh sống ở huyện Chơn Thành. Con số 233 truyện này được tuyển chọn từ trên 500 bản kể thô
sau khi đã được chỉnh lý, biên soạn và biên tập. Số lượng truyện tinh tuyển tương đối phong phú này
được thấy phân bổ cụ thể ở sáu huyện như sau: huyện Đồng Phú có 17 truyện, huyện Bình Long có 93
truyện, huyện Lộc Ninh có 33 truyện, huyện Bù Đốp có 24 truyện, huyện Phước Long có 22 truyện và
huyện Bù Đăng có 44 truyện. Qua đó, có thể cho rằng trữ lượng truyện kể dân gian Xtiêng được lưu
truyền tập trung ở các xã thuộc vùng sâu vùng xa của các huyện – theo thứ tự từ nhiều đến ít, Bình
Long, Bù Đăng, Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước Long, Đồng Phú. Về nguồn gốc, mỗi truyện kể được sưu tầm
và tuyển chọn để khảo sát đều có ghi ở bên dưới lai lịch của người kể chuyện để tiện việc tra cứu phần
xuất xứ của tác phẩm gồm các mục như: họ và tên, năm sinh, địa chỉ hiện nay (ví dụ: Người kể: Điểu Bry,
1935, ấp 5, xã Đồng Tiến, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước). Về việc phân loại truyện kể dân gian theo
tiêu chí thể loại, số lượng 233 truyện Xtiêng ở Bình Phước được chúng tôi phân loại như sau:
- Thần thoại (30 truyện, chiếm 12,87%), gồm các nhóm thần thoại cụ thể sau: thần thoại suy
nguyên về vũ trụ và muôn loài (5 truyện, chiếm 2,14%), thần thoại suy nguyên về nhân loại, tộc người (12
truyện, chiếm 5,15%), thần thoại về sáng tạo văn hóa(13 truyện, chiếm 5,57%).
- Truyền thuyết (29 truyện, chiếm 12,44%), gồm các nhóm truyền thuyết cụ thể sau: truyền
thuyết địa danh (8 truyện, chiếm 3,43%), truyền thuyết về phong – vật [2] (21truyện, chiếm 9,01%).
- Truyện cổ tích (160 truyện, chiếm 68,66%), gồm đầy đủ ba tiểu loại và các kiểu và nhóm
truyện cổ tích sau: tiểu loại truyện cổ tích loài vật (35 truyện, chiếm 15,02%), gồm hai nhóm truyện:
truyện cổ tích về loài vật sống gần gũi với con người (7 truyện, chiếm 3,00%) và truyện cổ tích về loài vật
sống nơi hoang dã (28 truyện, chiếm 12,01%); tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ(86 truyện, chiếm 36,90%)
gồm các kiểu và nhóm truyện: kiểu truyện về nhân vật chàng trai khoẻ, dũng sĩ (8 truyện, chiếm 3,43%),
kiểu truyện về nhân vật người mồ côi (21 truyện, chiếm 9,01%), kiểu truyện về nhân vật người con riêng
(9 truyện, chiếm 3,86%), kiểu truyện về nhân vật xấu xí mà tài ba (27 truyện, chiếm 1158%), đề tài-cốt
truyện ngoại tình hay tình yêu chung thủy (7 truyện, chiếm 3%) và nhóm truyện về thế giới ma quỉ (14
truyện, chiếm 6,00%); và tiểu loại truyện cổ tích sinh hoạt (39 truyện, chiếm 16,73%) gồm các nhóm
truyện: về các mối quan hệ trong gia đình (16 truyện, chiếm 6,86%), về các mối quan hệ ngoài xã hội
(10 truyện, chiếm 4,29%), về nhân vật ngốc (9 truyện, chiếm 3,86%) và về nhân vật thông minh (4 truyện,
chiếm 1,71%) .
- Truyện cười (13 truyện, chiếm 5,57%) gồm đủ loại truyện cười có nội dung khôi hài, châm
biếm và đả kích.
- Truyện ngụ ngôn (1 truyện, chiếm 0.42%) có chủ đề thể hiện ý chí đấu tranh, chống áp bức
bóc lột, đòi quyền sống, quyền bình đẳng.
3. Khảo sát nội dung và nghệ thuật của truyện kể dân gian của tộc người Xtiêng ở tỉnh Bình
Phước, chúng tôi xin nêu vài đặc điểm cơ bản của từng thể loại tự sự dân gian như sau:
3.1 Ở thể loại thần thoại, trong 30 truyện có đủ các đề tài vốn có của kho thần thoại của một
tộc người như đề tài suy nguyên về vũ trụ, đề tài suy nguyên về nhân loại, tộc người, và thần thoại về
sáng tạo văn hóa.
3.1.1 Qua 5 truyện thần thoại suy nguyên về vũ trụ và thiên nhiên (Nguồn gốc của vũ trụ và
muôn loài, Nguồn gốc muôn loài, Nguồn gốc của sông suối, Vì sao có lũ lụt như bây giờ?, Nguồn gốc các
bàu nước), tác giả dân gian Xtiêng khi xưa giải thích nguồn gốc của vũ trụ và thiên nhiên, muôn loài từ
con người, mặt trăng, mặt trời, sông suối, núi đồi cùng nhiều mỏ than đá, mỏ dầu, các thiên tai như hạn
hán, mưa gió, lũ lụt, hay từ cây cỏ hoa lá cho đến hạt lúa lớn trở thành nhỏ bé cùng sự tích vì sao trâu bò
lại ăn cỏ còn heo thì ăn cháo như người đều do sự sáng tạo của ông Trời. Tác giả dân gian Xtiêng khi
xưa đã giải thích nguồn gốc của thiên nhiên bằng quan niệm vạn vật nhất thể-trực tiếp, có tính duy vật
thô sơ hồn nhiên vào buổi đầu nhận thức ấu trĩ của loài người. Theo quan niệm này, mọi vật trong cõi
thiên nhiên đều do một vị thần khổng lồ sáng tạo nên, đó là ông Trời (Nguồn gốc của vũ trụ và muôn
loài). Bên cạnh đó, còn có quan niệm về vạn vật nhất thể-gián tiếp như ông bà người Xtiêng kể rằng:
Xưa, thế gian và muôn loài có được là nhờ ông Krong Dong sinh ra ông Krang Dang, rồi ông
Krang Dang làm ra cột đá mẹ đẻ ra loài bướm sinh ra các loài vật khác, loài rùa sinh ra con người như
các ông Xiêng, Tiêng, Têy; các ông lấy đất trộn với bảy con giun làm cho đất nở ra; đất đai còn chật chội
ông Khẻn, ông Nung từ dưới lòng đất lên làm cho cao rộng thêm; chưa có đêm nhờ ông Nú che mặt trời
nên có mặt trăng, ngày và đêm; nhờ có đêm ông Nú tìm hiểu và lấy cô Pông sinh con đẻ cái; con người
bắt chước hai ông bà nên loài người mới sinh sôi nảy nở từ đấy.(truyện Nguồn gốc muôn loài).
3.1.2 Với 12 truyện thần thoại suy nguyên về nhân loại, tộc người, người Xtiêng có nhiều quan
niệm thô phác hồn nhiên như: về nguồn gốc loài người sinh ra từ hòn đá hình người do ông Trời ném
xuống trần gian tác hợp với loài bướm sinh ra người con trai rồi người con gái đều không có tay chân,
thế rồi cho đến thế hệ con cháu của họ mới có tay có chân và loài người sinh sôi đông đúc từ đấy
(Nguồn gốc loài người (1)). Về nguồn gốc tộc người Xtiêng, có nhiều truyện kể sự tích như: do ông Diêng
– con của Trời, lấy bà Blơm người trần sinh ra tổ tiên người Xtiêng, trong khi em gái ông bà Liêng Ma lấy
chồng mà không có con. (Nguồn gốc tộc người Xtiêng); do ba anh em một trai hai gái đều là con của vị
thần nọ lấy vợ người trần có mang xong ông bay về trời, ông Diêng là anh trai sinh ra từ nách còn hai em
gái Bông Diêng và Liêng Ma sinh ra bình thường (Tổ tiên tộc người Xtiêng); và tổ tiên của người Xtiêng
còn gồm từ ông bà thủy tổ là ông Day-chang-eng lấy bà Đen-ke-det sinh ra bốn con trai và năm con gái,
sau đó bà Lơm con gái đầu lấy ông Diêng sinh được bảy người con gái mà không có con trai, các cặp vợ
chồng con cháu ông bà lần hồi phân tán ra sinh sống ở khắp nơi lập nên nhiều làng sóc và dòng họ
chính như Chang-sa-rai, Chang-gia-rinh, Ta-mun, Vơ-klây, Nara… với luật tục cấm trai
gái không được lấy nhau trong cùng dòng họ (Nguồn gốc các dòng họ Xtiêng). Về dáng vóc nhỏ người
của tổ tiên họ: ông Trời thấy người Xtiêng khi xưa to lớn và đông đúc phải chen chúc nơi đất đai chật hẹp
nên đã biến người Xtiêng thành vóc dáng nhỏ lại để có đủ đất sinh sống như ngày nay (Vì sao người
Xtiêng có dáng vóc như bây giờ?). Về nguồn gốc của việc buộc phân chia các dòng họ Xtiêng là do việc
vi phạm tội loạn luân của tổ tiên người Xtiêng qua câu chuyện kể rằng người Xtiêng vốn là con cháu của
hai vợ chồng Diêng và Blơm; vì Diêng và Blơm là anh em ruột mà lại lấy nhau nên Trời trừng phạt, không
cho họ thành vợ thành chồng nữa; tuân theo ý Trời, hai vợ chồng chia các con sinh ra thành hai nhóm,
một nhóm theo cha mang họ B’yung Đrên còn nhóm kia theo mẹ mang họ B’yung Ro; về sau, trai gái hai
họ này vẫn được phép cưới nhau vì khác họ (Nguồn gốc họ B’yung Đrên và họ B’yung Ro). Về chủ đề
phát triển giống nòi: với môtíp “khỉ dạy người biết đẻ” / “người học khỉ đỡ đẻ” tác giả dân gian Xtiêng có
ba truyện kể về việc khi xưa nhờ học được cách đỡ đẻ của loài khỉ mà người chồng không mổ bụng vợ,
giữ được mạng sống vợ con, rồi bày cho mọi người làm theo, về sau dân làng kiêng không ăn thịt khỉ.
Trên thực tế, từ buổi đầu khi tạo dựng và phát triển giống nòi, trong sự tương quan giữa con người và tự
nhiên - nói riêng ở đây là giữa người và khỉ / một loài vật có hình dáng giống con người [3]- còn chưa
nghiêng hẳn về bên nào, những cá thể người nguyên thủy một mặt nhờ sống gần gũi với tự nhiên nên có
quan hệ chặt chẽ và thân thiết với loài vật, mặt khác nhờ bản năng tò mò đã giúp họ luôn học hỏi tự
nhiên nhằm đúc rút kinh nghiệm cho cuộc sống của mình từ quan sát trải nghiệm đời sống sinh hoạt của
loài vật (Người học khỉ đỡ đẻ (1), (2) và (3)) [4]. Và với quan niệm vạn vật hữu linh người xưa chưa nhận
thức được giữa con người và thiên nhiên có những sự khác biệt nhất định khiến cho trong một thời gian
khá dài, bởi nhiều lý do khách quan và chủ quan, tự thân con người không sinh sản được nhiều đứa con
như cây chuối-“có thể đẻ được hàng trăm cây”, khiến họ đã “năn nỉ cây chuối xin hoán đổi chức năng” để
rồi từ đó về sau con người sinh được nhiều con còn cây chuối chỉ ra được một buồng và phải bị chặt bỏ
đi (Người học khỉ đỡ đẻ (3)). Lý giải về ước muốn mang tính nhân bản này của loài người, có thể viện
dẫn ý kiến của giáo sư Nguyễn Tấn Đắc khi nghiên cứu về môtíp cây hóa thành người trong truyện kể
dân gian ông cho rằng: “con người là một sinh vật sống trên mặt đất. Cây cối cũng sống trên mặt đất, nó
cũng sinh ra, lớn lên, chết đi rồi lại sinh ra, mãi mãi… Cây cối lại rất gần gũi với người nguyên thuỷ.
Trong khi những bầy người nguyên thuỷ còn thưa thớt thì cây cối dày đặc xung quanh họ. Cây cối là gợi
ý, là hình ảnh thường xuyên về sự sống đối với họ. Người xưa đã nhìn thấy ở cây cối hình ảnh của sự
sống bất diệt trên mặt đất… Khi người xưa tạo ra mối liên hệ thần kỳ, huyền thoại giữa cây với người,
chắc họ cũng gởi gắm vào đấy một mong muốn: con người cũng sinh sôi xanh tươi mãi mãi như cây cối
xung quanh họ” [5].
3.1.3 Còn qua nội dung của 13 truyện thần thoại về sáng tạo văn hóa, chủ đề sáng tạo văn
hóa được kể với nhiều chuyện tích phong phú như sau: người Xtiêng có được hạt lúa sinh sống là nhờ
nai thần trả ơn (Thần lúa (1)), nhờ chim cú mèo mang giống lúa đến cho và dạy người trồng lúa (Thần
lúa (2)), là do người xưa nhặt được hạt giống màu vàng từ trong cổ chim lạ / chim cú bị bắn / bị giăng
bẫy (Sự tích cây lúa (1)và (2)), hay vì thương loài người bé nhỏ kiếm ăn cực nhọc nên vị thần khổng lồ
Dick-ăn toàn hạt lúa lớn, ban cho người Xtiêng hạt lúa nhỏ để dễ dàng trồng trọt và thu hoạch (Sự tích
hạt lúa), cũng vì thương con người phải làm việc vất vả nuôi sống bản thân và gia súc nên ông Dick
trừng phạt loài vật không biết nói nữa và phải giúp đỡ con người (Vì sao loài vật không biết nói và phải
giúp việc cho con người?). Vì thương và nghe lời con chó cái mang bụng chửa sắp đẻ nên người Xtiêng
ở lại sinh sống nơi vùng cao và không có chữ viết mà không theo kịp vua Trời (Sự tích người Xtiêng ở
vùng cào và không có chữ viết). Về lý do người Xtiêng không có chữ viết, tác giả dân gian khi xưa cho
rằng do con chó tha mất miếng da trâu trên đó có chữ viết Xtiêng (Vì sao người Xtiêng không có chữ viết
(1)), và vì thế họ không chứng minh được làng sóc đang sinh sống là thuộc của riêng tộc người mình (Vì
sao người Xtiêng không có chữ viết (2)), hoặc vì lười biếng nên làm mất sách vỡ rồi đến miếng da trâu
được thầy cho bị chó tha mất “chữ viết” Xtiêng (Vì sao người Xtiêng không có chữ viết (3)). Thổ thần Yô
Yốt bày giúp người Xtiêng cách nuôi trâu bò lợn gà lấy thịt, làm nhà sàn tre nứa cách mặt đất một cánh
tay để tránh thú dữ, dựng nhà cách thưa nhau để tránh lửa cháy lây lan vào mùa khô (Nguồn gốc nhà
sàn của người Xtiêng), chiếc đồng la từ loại lớn đến loại nhỏ đều do ông Dick khổng lồ dùng những mảnh
đồng rèn giũa đánh lên nghe tiếng rất vui tai, ông chết đi để lại cho người Xtiêng nhạc cụ truyền đời mãi
đến ngày nay (Sự tích chiếc đồng la).
3.2. Về thể loại truyền thuyết, chúng tôi chưa sưu tầm được hai nhóm truyền thuyết nhân vật
lịch sử và nhân vật anh hùng mà chỉ mới có được 8 truyện thuộc nhóm truyền thuyết địa danh và phong
phú hơn cả là 21 truyện thuộc nhóm truyền thuyết phong-vật.
3.2.1. Về nhóm truyền thuyết địa danh gắn liền với đặc điểm, điều kiện tự nhiên như núi đèo,
hang động, sông suối, thác ghềnh… còn gọi là truyền thuyết địa danh tự nhiên phải kể đến những câu
chuyện được hư cấu hoang đường như sau: hai thác em gái Tok và Prai không ầm ào hùng vĩ bằng thác
người anh Liêng Hur vì đánh thua trong trận đấu mà người anh bắt bồi thường đứa con bị cá sấu nơi
thác Tok cắn chết (Sự tích thác Liêng Hur); câu chuyện thắm đẫm chất nhân văn mang tính chất cổ tích
thần kỳ về chiếc quan tài của chàng trai mồ côi bị bán đi xa hóa thành khối đá dựng đứng rồi hóa thành
dòng thác đứng được xây dựng bằng môtíp “tiếng thác quê hương” (Sự tích thác Đứng); truyện về núi
Ông thấp hơn núi Bà được kết cấu bằng môtíp “thi tài đắp núi” phổ biến ở vùng Đông Nam Á (Sự tích núi
Ông núi Bà)…
3.2.2. Còn về nhóm truyền thuyết địa danh gắn liền với đời sống xã hội – đời sống con người
như đơn vị hành chánh, đền, tháp, đập, cầu… còn gọi là truyền thuyết địa danh xã hội, có thể kể đến
những truyện như: chàng dũng sĩ Đâmbri nhờ tắm nơi dòng thác thần kỳ - môtíp “tắm / nhúng nước
thần”, mà có được mình đồng da sắt nên đánh tan được giặc cướp cứu nguy cho cộng đồng (Sự tích
thác Đâmbri); vì ở ác hay dùng chất độc thuốc chết nhiều người nên vợ chồng bị dân làng xa lánh và khi
chết Điểu Tế còn bị mọi người xua đuổi linh hồn bằng cách “đi chôn một đường và về một đường khác”
(Sự tích ngã Tư Tế)…
3.2.3. Ở nhóm truyền thuyết về phong-vật chiếm số lượng hơn phân nửa (11/21) là loại truyền
thuyết về tục kiêng cữ của các họ tộc người Xtiêng như: họ Changsarai kiêng ăn các loài chim cu vì sợ
trong nhà có người chết bất đắc kỳ tử (Tục kiêng cữ con chim cu của họ Changsarai), cá sấu vì sợ cá
sấu gây hại cho mình (Tục kiêng ăn thịt cá sấu của họ Changsarai), trăn vì tin rằng trăn giữ được bồ lúa
cho mình (Tục kiêng cữ con trăn của dòng họ Changsarai); họ Changgiarinh cữ mền dệt bằng bông vì sợ
vợ chết và phạt những ai mang đến lễ vật hỏi cưới có mền bông (Tục lệ cữ cái mền dệt bằng bông của
họChanggiarinh) và con vật màu trắng vì sợ cả hai vợ chồng đều bị chết (Tục kiêng cữ con vật màu trắng
của họ Changgiarinh); họ Vơkhuml kiêng cữ cây môn vì sợ sinh tật trộm cắp (Tục kiêng cữ cây môn của
họ Vơkhuml) và con trút vì sợ trút quấn chết trẻ (Tục kiêng cữ con trút của họ Vơkhuml (1)) hay vì sợ mẹ
con cùng chết khi sinh nở, trai làng đi rừng bị tử nạn (Tục kiêng cữ con trút của họ Vơkhuml (2)); họ
Tamun kiêng đọt mây vì sợ bị bệnh hủi (Tục kiêng cữ đọt mây của họ Tamun) và lá la-la-mắc vì sợ bị
bệnh điên (Tục kiêng cữ lá la-la-mắc của họ Tamun), họ Vơklây kiêng cây tơmvêt gội đầu vì sợ bị ngã
chết khi leo trèo và cây môn nấu canh thụt với mít non và cà rừng vì sợ bị ngứa sưng phù cả miệng (Tục
kiêng cây tơmvêt, cây môn của họ Vơklây)… Những truyện kể về sự tích các phong-vật địa phương
như lá nhiếp: một loại rau rừng ăn mát từng cứu đói dân làng mang tên cô gái hiếu thảo-Điểu Nhiếp, trên
đường đi hứng sương và tìm rau rừng cứu đói mẹ đã kiệt sức và chết đi hóa thành (Sự tích lá nhiếp); trái
bầu đựng nước: nhờ loài khỉ mách bảo – môtíp “khỉ dạy người”, mà người xưa biết trồng cây bầu
rồi dùng quả bầu khô đựng nước để dùng trong sinh hoạt (Sự tích trái bầu đựng nước); cái khố: nhờ loài
chim vàng anh mách bảo mà người xưa biết trồng cây bông, tách quả lấy bông se thành sợi, đan và dệt
thành váy cho người nữ mặc và khố cho người nam dùng (Sự tích cái khố); việc nấu rượu cần: với
môtíp bắt chước không thành công, sự tích nấu rượu cần được xây dựng theo chủ đề về mối quan hệ
gia đình giữa người chị đối xử tệ bạc với em trai khiến cho thần linh ra tay bày cho người em biết làm
rượu cần và có nhiều của cải còn vợ chồng người chị bị cọp vồ ăn thịt (Sự tích nấu rượu cần); ché rượu
cần: tích truyện bắt đầu từ việc người lớn bắt chước trò chơi của trẻ con đâm lá cây cho vào ống tre, đổ
nước vào rồi cắm ống để hút, về sau họ thay ống tre bằng ché sành, làm cơm ủ nhiều ngày cho lên men,
chế nước nóng ấm và dùng cần để hút rượu (Sự tích ché rượu cần); về tình trạng tộc người Xtiêng
không có vua: xưa người Xtiêng cũng có vua nhưng vì vua Xtiêng chịu chết thế mạng cho vua
Campuchia nên phải được phong vua lại nhưng vì mải lo bắt cá, bẫy thú trong rừng cùng lúc cây thần
thời gian bị các dân tộc khác chặt đi nên người Xtiêng không được phong vua nữa mà chỉ có chức già
làng ở khắp các làng sóc của mình (Sự tích người Xtiêng không có vua) ... Về quan hệ hôn nhân, có hai
truyện: truyện “Chín anh em và một người vợ” kể về lời cảnh báo của ngườiAtruyện “Vì sao có tục con
trai Xtiêng phải ở rể?” kể về sự tích sau: do không muốn xa em gái mình nên người anh trai nọ buộc em
rể tương lai phải chịu ở lại nhà vợ làm việc mà không rước vợ đi xa về nhà mình.
3.3 Ở thể loại truyện cổ tích, kho tàng truyện kể dân gian Xtiêng ở tỉnh Bình Phước hội đủ cả
ba tiểu loại: tiểu loại truyện cổ tích loài vật, tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ và tiểu loại truyện cổ tích sinh
hoạt.
3.3.1. Trước hết cần đề cập đến tiểu loại truyện cổ tích loài vật. Truyện cổ tích loài cũng hội đủ
hai nhóm:
3.3.1.1. Về truyện cổ tích loài vật sống gần gũi với con người có 7 truyện kể các sự tích hồn
nhiên, ngây thơ và hóm hỉnh của người xưa có nội dung suy nguyên về thói quen hay đặc tính sinh học
của loài vật: vịt mái phải chở gà trống từ ngoài đảo vào đất liền ăn giỗ nhà mình khiến vịt trống ghen
tuông, để chuộc lỗi gà trống bảo vợ mình là gà mái ấp trứng vịt thay cho chị vịt tốt bụng bị hàm oan (Gà
ấp trứng vịt); vì ban đêm sủa không đúng cữ như loài gà khiến lỡ việc đi chim chuột của nhà vua nọ nên
loài chó bị vua rủa con nó đẻ ra thời gian sau mới mở mắt được (Vì sao chó con sinh ra thời gian sau
mới mở mắt?); kiếm được miếng cơm cháy ngon ở nhà người nên mèo quyết ở lại với loài người mà
không về rừng với họ hàng nhà hổ (Mèo ở với người); với hai cách nhìn vừa trái ngược nhau vừa bổ
sung cho nhau, tác giả dân gian Xtiêng khi xưa dẫn ra hai câu chuyện về sự thuận thảo và đố kỵ nhau
vốn có ở loài chó và loài mèo sống chung trong nhà với con người: chó nói xúc xiểm về việc mèo làm
mất vật quý của chủ khiến mèo bị đòn roi phải thở khò khè, nhưng khi biết được sự thật chủ nhà đánh
đuổi chó không cho đến gần mèo, buộc ở ngoài hè trông nhà, chỉ có mèo được ở trong nhà (Chuyện
mèo và chó); mèo và chó luôn đùn đẩy việc nhà cho nhau nhưng cuối cùng chúng cũng sống hòa hợp
được với nhau để phục vụ con người (Con mèo và con chó); về thói quen của trâu, bò thích nằm nơi
vũng sình cho mát vào mùa nắng nóng và chịu được lạnh hơn chó và heo vào mùa rét, dân gian Xtiêng
kể rằng vì trâu và chó cứ tị nạnh nhau mãi về việc nhóm lửa khiến trâu nhóm được lửa xong nuốt luôn
cục lửa vào bụng không để chó dùng nên bụng trâu luôn nóng phải tắm mát nơi vũng sình, chó cười sặc
sụa đến toác miệng khi thấy trâu kêu rống vì nuốt hòn lửa, chó và heo lười không nhóm lửa và nuốt lửa
nên chịu lạnh không bằng trâu và bò (Trâu và chó và Vì sao trâu và bò chịu được lạnh hơn chó và heo?).
3.3.1.2. Về truyện cổ tích loài vật sống nơi hoang dã, bên cạnh nội dung suy nguyên luận về thói
quen và đặc tính sinh học của loài vật còn có nhóm truyện về nhân vật tinh khôn như thỏ, rùa… sử dụng
chủ yếu môtíp “mẹo lừa”. Người Xtiêng xưa kia cho rằng tê giác là loài vật hung dữ quấy phá làng sóc do
thần linh phái xuống trần gian nên họ không dám giết mà xua đuổi nó vào rừng làm thú hoang (Sự tích
con tê giác). Vì tội phá phách mà loài trăn vốn là gia súc bị chủ nuôi lấy chăn trùm lại rồi đốt khiến da trăn
có những đốm vằn, về sau nó bỏ đi và nguyền rằng cứ người nào gặp nó gật đầu chào là phải chết khiến
từ đó loài người luôn phải tránh xa loài trăn (Sự tích con trăn).
Đặc sắc nhất là hai nhóm truyện về hai nhân vật tinh khôn thỏ và rùa. Dung lượng truyện khá
lớn, hành động nhân vật lặp đi lặp lại theo các môtíp khôn - dại, môtíp mẹo lừa, môtíp bắt chước được
triển khai với những tình tiết hấp dẫn và phong phú giữa hai nhân vật con thỏ nhỏ yếu nhưng thông minh
láu lĩnh và con cọp to xác, hung tợn nhưng ngu dốt, mau quên và cả tin (10 truyện), hay giữa con rùa –
bản sao đồng loại hình của nhân vật thỏ thông minh, nhỏ bé và chậm chạp nhưng khôn ngoan với con
khỉ to khỏe, nhanh nhẹn nhưng ngu ngốc, có nhiều tật xấu, cả tin và mau quên (10 truyện). Trong khi thỏ
luôn bị cọp đe dọa đến tính mạng buộc phải đối phó hầu thoát khỏi nanh vuốt của kẻ ác hiểm bằng sức
mạnh trí tuệ của mình là dùng những đòn lừa sâu cay, nặng nề thậm chí khiến cọp phải thiệt mạng, thì
rùa và khỉ là đôi bạn thân sống chung trong một khu rừng nhưng lại luôn tìm cách lừa đảo nhau – rùa chỉ
phải lừa khỉ những khi buộc phải tự vệ, trả đòn đối phó, thậm chí trừng phạt thích đáng đối với những trò
lật lộng, xảo trá, nuốt lời của “bạn khỉ” tráo trở và lừa đảo. Nếu so sánh đối chiếu thì 10 truyện về “Rùa và
Khỉ” của tộc người Xtiêng (Rùa và Khỉ (1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10)) được xem là những dị
bản rất gần gũi với loạt truyện cùng tên “Rùa và Khỉ” của tộc người Ê Đê sinh sống chủ yếu ở hai tỉnh
Đắc Lắc và Đắc Nông – trước đây khi chưa tách tỉnh thì Đắc Lắc là tỉnh giáp với tỉnh Bình Phước-Sông
Bé ở phía bắc. Qua đây, có thể phác họa ra con đường giao lưu tiếp biến văn hóa giữa tộc người Ê Đê
và tộc người Xtiêng trong quá khứ gần. Trong 10 truyện ấy của người Xtiêng, nội dung cốt truyện đều
nhằm phản ánh đúng hiện thực về không gian cư trú canh tác nương rẫy, hái lượm, tín ngưỡng và quan
hệ với tự nhiên nơi vùng rừng núi của dân làng sóc Xtiêng: phát rừng làm rẫy, đốn củi, bẫy thú, hái rau
rừng, hái măng, hái quả rừng, hái xoài, nhặt trứng gà rừng, chặt mây, chặt đọt mây, chặt lá, cắt cỏ
tranh,… Về đề tài xử kiện, có hai truyện hấp dẫn kể về nhân vật thỏ thông minh đã giúp rùa thắng kiện
khỉ, và lại giúp con khỉ khác thắng kiện con rùa khác bằng việc “lập luận lấy việc vô lý tương tự để bác bỏ
điều vô lý được chấp nhận” – một môtíp phổ biến thường thấy xuất hiện trong đề tài xử kiện bên cạnh
môtíp khác “lừa cho vào tròng bằng cách bảo diễn lại việc đã xảy ra”. Đó là thỏ lấy việc “cá rô leo lên cây
ăn lá me” đối lại với việc “con nai bị dính bẫy ở trên cây” (Thỏ xử kiện (1)), và lấy việc “bò đực đẻ ra bê”
đối lại với việc “rùa leo lên cây để chặt mây” (Thỏ xử kiện (2)).
3.3.2. Trong tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ gồm đủ các kiểu truyện về nhân vật chàng trai
khỏe-dũng sĩ tài ba và nhân vật bất hạnh.
3.3.2.1. Kiểu truyện về nhân vật chàng trai khoẻ, dũng sĩ có 8 truyện: Năm chàng trai khỏe,
Cậu bé Đá, Chuyện kể về Ka Meng Đăng tài giỏi, Hai chàng trai tài giỏi, Chàng trai tài giỏi, Anh chàng tài
giỏi, Pơking-lơ-vuông, Con thằn lằn khổng lồcó môtíp cơ bản là: dũng sĩ diệt yêu quái cứu ng đẹp, cứu
cộng đồng. Trình tự cốt truyện của kiểu truyện này thường tuân theo ba bước: Ra đời thần kỳ, ăn khoẻ,
có sức mạnh vô địch; Lần lượt trải qua thử thách một mình hay liên minh để trừ ác diệt tà làm
việc nghĩa; cứu được cộng đồng, đem lại sự bình yêu, hạnh phúc cho cộng đồng và được đền ơn
bằng cưới vợ đẹp, giàu có, làm vua quan. Ra đời thần kỳ: cậu bé nằm trong khe đá được nhặt về đặt
tên cậu Đá không cười không khóc, chỉ nằm một chỗ rồi bỗng vụt lớn nhanh đòi đi đánh rồng lửa (Cậu bé
Đá) - nhân vật có chức năng giải cứu mang tính đồng loại hình với nhân vật Dóng hội đủ các môtíp: sinh
đẻ thần kỳ, lớn nhanh như thổi, đánh giặc, thiêng hóa / trở về cõi vĩnh hằng sau khi lập công / kỳ tích; hai
chàng trai vốn là bê con và cọp con được một bà lão tốt bụng làm phép để trở thành người (Hai chàng
trai tài giỏi); ăn khoẻ: người anh ăn bảy đống và người em ăn tám đống ói của trăn lớn nên từ đó họ ăn
khỏe và có sức mạnh hơn mọi người (Năm chàng trai khỏe); có sức mạnh: người em có sức mạnh vô
song, khỏe hơn bốn anh Kéo dây mây, anh Gánh gà, anh Thở mạnh và anh Phá núi (Năm chàng trai
khỏe), ông Ka Meng Đăng chặt cây ông chặt đầu, chặt đuôi bằng phẳng, khiêng cây nhẹ nhàng không
cần xe trâu kéo (Chuyện kể về Ka Meng Đăng tài giỏi); có tài: đến lượt thi tài chàng Young đưa gươm
một phát thì bảy bụi chuối đứt rời, rồi chặt luôn bảy lớp tre (Anh chàng tài giỏi); Chàng trai làm phép cho
cả làng ngủ. Rồi chàng hóa phép ra thợ xây nhà. Trong bảy ngày bảy đêm, căn nhà đã được xây xong
(Chàng trai tài giỏi).Thử thách gian nan để trưởng thành: nhiều lần hai anh em bị cha nghe theo lời xúi
giục của mẹ kế mang con bỏ vào rừng nhưng hai chàng vẫn sống sót trở về nhà (Năm chàng trai
khỏe); tập hợp lực lượng để làm việc nghĩa: bốn anh Kéo dây mây, anh Gánh gà, anh Thở mạnh và
anh Phá núi thi đấu vật và thì tài sức đều thua và phải đi theo người em (Năm chàng trai khỏe), ông Ka
Meng Đăng gặp và thi tài đều thắng hai ông khỏe: ông Ka Heng Ba Nấp có thể dùng đầu đóng cọc ngăn
suối, đắp đập không cần dùng búa, và ông Ba Ka có thể dùng miệng hút nước để tát cá thay cho dùng
gàu (Chuyện kể về Ka Meng Đăng tài giỏi). Chiến đấu ác liệt, dũng cảm để trừ ác thú, yêu quái:
người em cùng bốn anh chàng tài giỏi đi tìm diệt vợ chồng nhà ma, cá sấu (Năm chàng trai khỏe); không
chỉ dựa vào sức khỏe phi thường mà còn biết vận dụng trí thông minh để đánh lừa con quái vật ngu
ngốc, chàng trai dũng mãnh từ xứ khác đến tìm diệt con thằn lằn khổng lổ Hai La Nhắc tàn phá làng mạc,
bắt những cô gái xinh đẹp làm thức ăn (Con thằn lằn khổng lồ), cậu bé Đá chiến đấu ác liệt khuất phục
được rồng lửa và cưỡi rồng bay đi (Cậu bé Đá), chàng trai đánh thắng vua đòi lại được vợ (Chàng trai tài
giỏi). Cứu được nhân dân, đồng đội, đem lại cuộc đời bình yên hạnh phúc: người em diệt vợ chồng
nhà ma cứu bốn người bạn,… năm chàng trai tiếp tục lên đường chinh phục muôn loài và khám phá sức
mạnh của mình (Năm chàng trai khỏe), từ đó dân làng không còn phải chuyển chỗ ở nữa, tránh được
họa bị rồng lửa thiêu đốt bản làng (Cậu bé Đá), dân làng theo các ông, ba ông lên làm vua cai trị ba
vùng, từ đó các làng khác không dám đến gây chiến nữa (Chuyện kể về Ka Meng Đăng tài giỏi). Môtíp
cơ bản của kiểu truyện: dũng sĩ diệt yêu quái, diệt đại bàng cứu người đẹp, cứu cộng đồng. Ngoài ra còn
có các môtíp phụ như: hiến tế người cho thú dữ, gieo cầu kén chồng, xuống hang cứu người rồi bị lấp lại
không có lối lên, tiếng đàn thần kỳ… Những năng lực diệu kỳ của các chàng trai tài giỏi, dũng sĩ tài ba
chính là ước mơ của người Xtiêng xưa kia muốn kéo dài đôi bàn tay của mình ra để đấu tranh có hiệu
lực nhất với thiên nhiên. Biệt tài của tập thể hay cá nhân họ là sự phóng đại năng suất lao động trong
những việc làm quen thuộc như: phá núi, tát nước, chặt vác cây, đóng cọc, đắp đập chống lũ… Tất cả
những công sức trong lao động và thành quả trong chiến đấu của họ đều nhằm mang lại hạnh phúc, ấm
no, yên vui cho dân làng.
3.3.2.2. Kiểu truyện về nhân vật người mồ côi có 21 truyện: Chàng Ngo, Chàng mồ côi (1),
(2) , (3) , (4), Hai anh em mồ côi , Chư– rương làm vua, Chuỗi vòng ốc, Câu chuyện trái chanh, Câu
chuyện trái cà, Chàng lười, Cô gái trong trứng công, Cô gái trong ngà voi (1), (2), (3), (4), Hai anh em (1),
Chàng chăn trâu (1), (2), (3), Hai anh em (2). Từ gia đình thị tộc mẫu hệ sang gia đình phụ quyền tức là
từ xã hội nguyên thủy sang xã hội có giai cấp, con người ngỡ ngàng và khó hiểu trước biết bao nhiêu
hiện tượng xã hội mới lạ và phức tạp mà trước đó họ chưa từng thấy. Đứa trẻ mồ côi thuộc lớp người
bất hạnh trở thành hình tượng nhân vật tiêu biểu, độc đáo trong hệ thống nhân vật người bị trị. Nó được
hình thành một cách có qui luật trong truyện kể dân gian ở các xã hội đã diễn ra quá trình tan rã của thị
tộc mẫu hệ, dòng họ mẹ không dẫn tới “gia đình lớn” mà là hình thành gia đình nhỏ phụ quyền. Lúc này
những đứa trẻ mồ côi lâm vào tình trạng bi đát vì dòng họ đã tan vỡ, bởi chúng không còn có được cơ
hội hàng loạt đàn ông nhận làm bố đồng thời với hàng loạt đàn bà nhận làm mẹ với tình cảm chân thực
như trước nữa. Trẻ mồ côi thành bơ vơ, thiếu người săn sóc, nhưng đạo đức và tập tục của xã hội
nguyên thủy buộc dòng họ-cộng đồng phải săn sóc mồ côi. Mồ côi gồm mồ côi cha, mồ côi mẹ và mồ côi
cả cha lẫn mẹ thường sống với bà, hiếm khi sống được với gia đình các ông chú, ông cậu bởi lẽ trong
thực tế mỗi người đều có gia đình cùng với con cái của mình, do mình phải trực tiếp lo lắng, và người họ
hàng bây giờ thấy xa lạ, không thích (và có khi thiếu cả khả năng thực tế) chăm sóc mồ côi nữa [6]. Từ
đây, có thể phân loại kiểu truyện về nhân vật mồ côi theo hai dạng xung đột: Mồ côi - anh chị em ruột,
mẹ ghẻ, bố dượng, cô dì, chú bác phản ánh xung đột trong nội bộ gia đình nhỏ, dòng tộc; gồm 2 nhóm
nhỏ: mồ côi - anh chị em ruột, mẹ ghẻ, bố dượng (gia đình): Chàng mồ côi (4), Hai anh em mồ côi, Hai
anh em (2) ; và mồ côi - chú bác, cô dì, trưởng tộc (dòng họ): Chàng mồ côi (2), Cô gái trong trứng công,
Hai anh em (1), Chàng chăn trâu (1), Chàng chăn trâu (2). Mồ côi - trai làng, địa chủ, chủ làng, vua
quan (phìa, tạo, ptao, mtao, chậu mường, phanha…), phản ánh xung đột ngoài xã hội từ cộng đồng
buôn làng đến quốc gia, dân tộc; cũng gồm 2 nhóm nhỏ: mồ côi - trai làng, địa chủ, chủ làng, tù trưởng,
mtao, ptao (làng, xã-đơn vị hạt nhân của quốc gia): Chàng Ngo, Chàng mồ côi (3), Chuỗi vòng ốc, Cô gái
trong ngà voi (1), (2), (3), (4), Chàng chăn trâu (3); và mồ côi - vua quan (quốc gia): Chư– rương làm vua,
Câu chuyện trái chanh, Câu chuyện trái cà, Chàng lười. Kết cấu phổ biến của kiểu truyện là: nhân vật
phải trải qua một chặng đường thử thách đầy gian khổ, đương đầu với những vấn đề cơ bản như: bảo vệ
của cải, vợ con và bản thân khỏi bị tước đoạt hoặc uy hiếp để chiến thắng, đạt tới sự sung sướng và
hạnh phúc, khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Môtíp chính là môtíp thử thách về tài năng, sức khoẻ,
ý chí, nghị lực, trí thông minh, lòng nhân ái, tính kiên trì của nhân vật chính. Các môtíp phụ thần kỳ, kỳ ảo
được sử dụng như một phương tiện quan trọng thúc đẩy cốt truyện phát triển đến nút cần thiết như:
môtíp lấy vợ tiên, môtíp bay về trời, môtíp vi phạm điều cấm (vợ tiên ngửi thấy mùi măng lồ ồ, khổ qua
rừng sẽ bay về trời), môtíp vật nhận biết (chiếc nhẫn), môtíp thách đố (tìm đúng vật), môtíp vật chỉ dẫn /
mách bảo (con ruồi, con chuột, con đom đóm), môtíp tha thứ…
3.3.2.3. Kiểu truyện về nhân vật người con riêng có 9 truyện : Chuyện dì ghẻ con chồng (1),
(2), (3), (4), (5), (6), Đenpruc và Pasanhao, Người biến thành voi, Hai chị em (1). Chủ đề chính của kiểu
truyện này là sự xung đột giữa dì ghẻ và con chồng, tức là loại xung đột gia đình, vốn chiếm vị trí quan
trọng trong tiểu loại truyên cổ tích thần kỳ. Nhân vật người cón riêng là một dạng biến thể của loại hình
nhân vật người mồ côi. Trong số 9 truyện này, có thể thực hiện hai phép so sánh giữa truyệnChuyện dì
ghẻ con chồng (1) với truyện Tấm Cám [7] của tộc người Việt, và giữa hai truyện khá tương đồng với
nhau là truyệnChuyện dì ghẻ con chồng (3) và truyện Dì ghẻ con chồng (4) để rút ra vài đặc điểm về bản
sắc văn hóa tộc người Xtiêng ở kiểu truyện này. Trong loạt truyện này, truyện Dì ghẻ con chồng (1) [8] có
cốt truyện gần giống với truyện Tấm Cám nhất. So sánh hai truyện này với nhau, ta thấy có những nét
tương đồng và dị biệt sau: Về nhân vật, trong khi truyện Việt chỉ có ba nhân vật (Tấm, Cám và dì ghẻ-mẹ
của Cám, thì truyện Xtiêng có bốn nhân vật (cha, mẹ, cô gái con riêng của người chồng và người vợ
nhỏ) mà không có người con riêng của người vợ nhỏ. Về kẻ bị hại chết và hóa kiếp: ở truyện Việt là
Tấm bị hại chết rồi hóa kiếp 3 lần (chim vàng anh, cây xoan, cây thị), còn ở truyện Stiêng là người vợ lớn
bị vợ nhỏ xô xuống hố củ chụp chết – báo mộng, rồi cũng hóa kiếp 3 lần (chim cu, ba ba, cây táo). Về
môtíp trả thù hay trừng phạt ở đoạn kết của truyện: ở truyện Việt là cái chết trước sau của mẹ con con
Cám, còn ở truyện Xtiêng mụ dì ghẻ bị vua xử tội chết. Qua so sánh, ta thấy mặc dù ở truyện Xtiêng có
nhiều nhân vật hơn truyện Việt và nhân vật gây hại trực tiếp cho nhân vật chính là mụ dì ghẻ nhưng dung
lượng cốt truyện cùng diễn biến của các sự kiện, các tình tiết cùng sự tham gia của các môtíp nhằm tạo
nên cốt truyện không phong phú và phức tạp bằng truyện Tấm Cám của người Việt. Bởi lẽ nhân vật kẻ
gây hại trong truyện Xtiêng chỉ có một mình mụ dì ghẻ, còn trong truyện Việt Tấm Cám có đến hai mẹ
con con Cám cùng nham hiểm và độc ác không ai thua ai. Khảo sát hai truyện Chuyện dì ghẻ con chồng
(3) và Chuyện dì ghẻ con chồng (4), ta thấy chúng có cốt truyện giống nhau với các nhân vật, các tình
tiết, các chi tiết và các môtíp tương đồng. Thâm nhập và móc xích vào hai truyện này là dạng truyện về
nhân vật chàng dũng sĩ. Qua so sánh, ta thấy nội dung cốt truyện của bản kể (4) có dung lượng dài hơn,
kết cấu hoàn chỉnh và chặt chẽ hơn bản kể (3) với việc miêu tả thêm ít nhiều về tâm lý của nhân vật. Cụ
thể là: sau khi giết chết người vợ lớn “Vợ nhỏ còn lừa hai đứa trẻ là mẹ chúng không còn thương hai đứa
nữa nên qua xứ khác lấy chồng rồi”; sau khi cướp đoạt những củ chụp lớn của hai trẻ đào được và để
dành ăn dần “người vợ nhỏ nói dối và cho rằng củ chụp lớn đó là do mình để dành vài hôm nữa mới đào
lên chứ ai chết mà hóa ra củ chụp. Người chồng vừa tin con vừa tin vợ nên chẳng biết làm thế nào” ;
“Ông chồng phải nghe theo và nghĩ cứ như vậy cũng không được. Có những lúc vợ nhỏ vắng nhà, ông
ngồi khóc với hai con. Ông dẫn hai đứa đi đến một khu rừng thật xa, hoang vắng chưa ai từng đến bao
giờ. Ông cất một cái chòi và đào nhiều củ chụp cho chúng. Sau đó, ông nói với chúng là mình đi đào củ
chụp một lát sẽ quay lại, hai đứa cứ ở đây chờ ông. Rồi ông trốn đi”; đứa anh rất khôn ngoan không chịu
nhận bùa phép của ông Chằn cho sau khi bị sập bẫy mà còn đòi hỏi “Vì đau quá, ông Chằn bèn cho
thằng anh bùa phép và nhà cửa đồ đạc. Nhưng thằng anh không chịu. Nó đòi thêm phép lạ chém người
không đứt, đốt không cháy, đánh không ai đánh lại”… Qua câu chuyện, ta thấy chàng trai có được phép
thuật là do chàng giành lấy được chứ không nhờ cậy vào sự giúp đỡ của đấng thần linh nào. Mong ước
của tác giả dân gian Xtiêng được thể hiện trọn vẹn qua hình tượng chàng trai mồ côi, dũng sĩ tài giỏi,
mưu trí chủ động tìm diệt lực lượng yêu ma để trừ hại cho dân lành. Thông qua môtíp tha thứ ở đoạn kết
của truyện, ta không bắt gặp sự trả thù đối với người di ghẻ độc ác mà là hình ảnh một người con hiếu
thảo luôn đối xử tốt với cha và ngay cả với người mẹ ghẻ cho dù trước kia bà giết mẹ mình và luôn đánh
đập, hành hạ hai anh em. Câu chuyện phản ánh quan niệm đầy tính nhân văn của tác giả dân gian
Xtiêng.
3.3.2.4. Kiểu truyện về nhân vật xấu xí mà tài ba hay người lấy người đội lốt vật có 27
truyện: Sọ dừa, Thần dừa, Phò mã gầy, Chàng gà (1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), Chàng trai và con trăn,
Lấy chồng trăn (1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), Người lấy rắn (1), (2), Lấy chồng rắn, Lấy chồng chồn, Bà
hổ, Bà vượn (jau cuôn), Người con của khỉ, Chàng cùi. Kết cấu chung của kiểu truyện này gồm các bước
đoạn sau: “Nguồn gốc nhân vật > Hình thức nhân vật > Sự thử thách đối với nhân vật > Tài năng của
nhân vật > Nhân vật kết hôn > Tai họa và kẻ gây tai họa > Sự trợ giúp > Kết quả nhân vật đạt được…
Ứng với các bước đoạn đó là xâu chuỗi các môtíp đóng vai trò đậm nhạt khác nhau, tạo nên sự phát
triển của hình tượng nhân vật xấu xí mà tài ba. Đó là các môtíp: sinh đẻ thần kỳ, người mang lốt, thử
thách, tài năng thần kỳ, kết hôn, tai họa và tài năng kép, vật phù trợ, đoàn viên” [9]. Không phải tất cả các
truyện Xtiêng thuộc loại này đều có đầy đủ các bước đoạn và môtíp của khung mẫu mà có thể ở truyện
này thiếu môtíp này, ở truyện kia thiếu môtíp khác… Khảo sát 27 truyện, ta thấy 8 môtíp cơ bản trên
được tác giả dân gian Xtiêng thể hiện rất linh hoạt và đa dạng khi sáng tác loại truyện này. Môtíp sinh đẻ
thần kỳ chỉ thấy xuất hiện ở truyệnNgười con của khỉ: người vợ uống nước giải của loài khỉ nên về nhà
có mang và sinh được hai con khỉ con; môtíp này là nhằm đề cao và lý tưởng hóa nhân vật, nó đem đến
cho nhân vật một nguồn gốc thần linh, biến số phận bế tắc của nhân vật thành một sự báo hiệu khác
thường thần thánh, tàng ẩn những tính chất kỳ lạ. Môtíp người mang lốt hay cái lốt – lốt các con vật
phổ biến hơn lốt dị dạng, là vỏ bọc ngồi, là hình thức tạm thời để nhân vật ẩn mình nhưng đồng thời nó
cũng chính là nhân vật khi nó chưa tách rời khỏi nhân vật; nó cũng có ý nghĩa là sự thử thách để nhân
vật muốn tự khẳng định mình là con người trong hình thức còn là con vật. Các nhân vật thường đội lốt
các con vật như: gà, trăn, rắn, chồn, hổ, vượn, khỉ... những con vật rất gần gũi với người Xtiêng trong đời
sống săn bắt, chăn nuôi lúc bấy giờ. Thông thường cái lốt xấu xí, dị dạng của nhân vật khiến cộng đồng
xa lánh, hắt hủi. Chàng Gà tiên (Chàng Ga) bị người em gái ghen tị, oán hận, coi chàng là nguyên nhân
gây ra nỗi bất hòa giữa hai chị em cô ta. Chàng Trăn (Người lấy trăn), chàng Rắn (Người lấy rắn), chàng
Chồn (Người lấy chồn) bị những người chị của cô út khinh bỉ, hành hạ. Cả cộng đồng làng bản đuổi ba
mẹ con khỉ con ra khỏi làng vì cho rằng họ đem đến tai họa cho dân làng (Người con của khỉ). Và cái lốt
chỉ được tác giả dân gian Xtiêng cởi bỏ một khi nhân vật chiến thắng đạt được mục đích hạnh
phúc. Môtíp thử thách được thể hiện ở nhiều hình thức và nhiều cấp độ khác nhau và trong nhiều mối
quan hệ khác nhau; để vượt qua thử thách phải gánh chịu là sự ruồng bỏ coi khinh của mọi người, có lúc
lại là cha mẹ mình vì có hình dạng xấu xí bên ngoài, để khẳng định mình vốn là “con người” đang sống
trong lốt của con vật hay với hình hài dị dạng để tồn tại trên đời này, nhân vật xấu xí đã phải cất lên tiếng
nói của con người (Sọ Dừa). Mặt khác, họ luôn chủ động bộc lộ khả năng của mình giống như người
bình thường, nhất là trong lao động; họ không ăn bám mọi người mà tự lao động giúp đỡ mọi người.
Chàng Rắn (Lấy chồng rắn) ban ngày đi theo nàng út giã gạo, lấy nước, đêm về thì biến thành người
chặt củi, làm việc nhà giúp vợ. Tuy mang hình dạng vượn, bà Vượn (Bà Vượn), bà Hổ (Bà Hổ) ngày
ngày vẫn đi làm và kiếm thức ăn về cho các cháu. Môtíp tài năng thần kỳ: tài năng phi thường của
chàng Chồn (Người lấy chồn) thể hiện rõ qua việc vượt qua mọi thử thách của nhà vua đưa ra: xây một
ngôi nhà to đẹp trong bảy ngày, đi săn thú rừng về làm tiệc,… Chính việc này làm thay đổi cách đối xử
của nhà vua đối với con rể. Từ chỗ chán ghét, coi thường, nhà vua chuyển sang khâm phục tài năng của
chàng Chồn. Môtíp kết hôn: xuất hiện trong hầu hết các truyện như một phần thưởng tác giả dân gian
Xtiêng dành cho những nỗ lực, cố gắng vươn lên khẳng định mình của nhân vật. Môtíp tai họa và tài
năng kép: Những người chị của các cô út (Lấy chồng trăn, Lấy chồng rắn, Lấy chồng chồn) ban đầu luôn
coi thường, chế giễu nhân vật xấu xí mà tài ba. Sau này, khi thấy em mình được hạnh phúc cùng chàng
trai tài giỏi, họ trở thành đối tượng gây tai họa cho nhân vật, tìm cách hãm hại em mình. Tài năng kép
của chàng Trăn (Lấy chồng trăn): cảm nhận được sắp có tai họa, trước khi đi xa chàng đã chuẩn bị mọi
thứ đầy đủ trong nhà để vợ không phải ra ngoài và một con dao phòng thân. Môtíp vật phụ trợ xuất hiện
ở tất cả các truyện từ lực lượng hỗ trợ là các nhân vật thần linh như các vật dụng phòng thân: lông nhím,
con dao và các con vật như gà, chim, voi… (Lấy chồng trăn (1), (2), (3), (4), (5), (6)). Môtíp đoàn
viên được tác giả dân gian Xtiêng thể hiện bằng hình ảnh nhân vật xấu xí mà tài ba trút bỏ hình hài xấu
xí bên ngoài, trở thành người đẹp đẽ, tài giỏi, lấy được người vợ đẹp, hiền dịu và sống cuộc sống giàu
có, hạnh phúc.
3.3.2.5. Đề tài-cốt truyện ngoại tình hay tình yêu chung thủy có 7 truyện: Cô gái tóc dài (1),
(2), (3), (4), (5), (6), Chàng Crông và nàng Tăng Hin. Ở đề tài-cốt truyện này, nhóm truyện Cô gái tóc
dài với 6 dị bản đều nhằm phản ánh những xung đột, mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng đồng thời là bài
học đạo đức về cách ứng xử của vợ chồng trong gia đình và ngoài xã hội. Dân gian Xtiêng luôn đề cao,
ca ngợi những người phụ nữ hiền dịu, chung thủy, hết mực yêu thương chồng. Những người vợ phản
bội, độc ác phải bị lên án, trừng phạt. Nhờ sự trợ giúp của bạn bè và lực lượng thần kỳ chàng trai nghèo
đã thoát khỏi âm mưu hãm hại của người vợ ngoại tình phản bội, sau đó qua cuộc phiêu lưu ra đi tìm
người vợ chung thủy chàng trai đã phải trải qua những thử thách gian nan, khắc nghiệt, vợ bị cướp thân
bị hại, chết đi sống lại để rồi cuối cùng được đoàn viên sum họp với người vợ thủy chung. Kết thúc có
hậu của cả sáu dị bản này mang tính công thức và là qui luật phổ biến của tiểu loại truyện cổ tích thần
kỳ. Diễn biến cốt truyện của 6 truyện này đạt đến hồi kết đoàn viên sum họp là nhờ tác giả dân gian
Xtiêng đã biết khai thác tối đa những môtíp chính và phụ của dạng truyện này: phản bội, ngoại tình, trừng
phạt, hôn nhân tiền định, tranh cướp vợ người, tái sinh, lừa cướp vợ người, tranh cướp lại vợ, lực lượng
phù trợ thần kỳ gồm: rắn, lá cây thần, Giàng, vua trời, chồn, mèo, chó, trâu, bò biết nói, cò tiên, chồn tiên,
lá thuốc thần, cây thần, rễ cây thần, chiếc chiếu nổi,…
3.3.2.6. Nhóm truyện về thế giới ma quỉ có 13 truyện: Hai chị em, Ji Băch và Ji Bay, Chuyện ăn
thịt người, Con ma lai, Chuyện ó ma lai, Chuyện ma lai, Chuyện ma bò, Sự tích bàu soi ếch, Chuyện ma
quỷ bắt dơi, Bảy chị em (1), (2), Chàng trai giết quỷ, Soi ếch (1), (2), Câu chuyện về dòng họ Bratit. Nhóm
truyện ma quỷ này có nội dung nhằm cụ thể hóa những tưởng tượng và quan niệm của người Xtiêng xưa
kia về các loài yêu ma, quỷ quái. Chúng là đại diện của sự độc ác, của thế giới đen tối luôn chầu chực đe
dọa tính mạng con người. Khảo sát hai truyện Bảy chị em (1), (2) và truyện Chàng trai giết quỷ vốn có
cùng cốt kể của loại truyện ma quỷ song ta lại thấy có sự thâm nhập và móc xích vào đây hình tượng
nhân vật chàng trai khoẻ – dũng sĩ tài ba ngày càng được đề cao trong các tác phẩm này. Có thể xem
đây là nét độc đáo của tác giả dân gian Xtiêng trong việc kết hợp, đan xen các loại nhân vật khác nhau
trong một dạng truyện nhất định. Ở một khía cạnh khác, hình ảnh những chàng trai trong hai truyện Soi
ếch (1), (2) đã biết dùng mưu trí để lừa gạt rồi diệt được loài ma trong những tình huống hiểm nguy rình
rập là bước phát triển mới ca ngợi chiến thắng vẻ vang của trí tuệ dân gian Xtiêng trước thế lực ma quỷ
trong xã hội xưa. Ngoài ra, có thể xem truyện Ji Băch và Ji Bay là một dị bản của truyện cùng tên của tộc
người Mơ Nông cùng chung sống với đồng bào Xtiêng từ lâu đời ở tỉnh Bình Phước ngày nay và tỉnh
Sông Bé trước đây.
3.3.3. Nội dung đề tài-cốt truyện trong tiểu loại truyện cổ tích sinh hoạt gồm hai mảng đề tài lớn
là các mối quan hệ trong gia đình và các mối quan hệ ngoài xã hội, ngoài ra còn có chủ đề về nhân vật
ngốc và nhân vật thông minh.
3.3.3.1. Về các mối quan hệ trong gia đình có 15 truyện: Chàng trai kén vợ, Hai chị em (2), (3),
(4), (5), (6), Hai nàng công chúa, Mẹ ghẻ con chồng, Hai anh em (3), Hai anh em N’tơi và N’tai, Đào củ
trục, Người vợ khôn ngoan, Người vợ thông minh, Người cậu tốt bụng, Ơng cọp, Dạy con chọn
vợ. Những mối quan hệ giữa những ruột thịt thân thích trong gia đình và dong họ được tác giả dân gian
Xtiêng phản ánh rất trung thực và sâu sắc nhằm mang đến những bài học rèn luyện về đạo đức và nhân
cách tốt đẹp cho người đọc, người nghe truyện cổ Xtiêng. Đó là những bài học kinh nghiệm về lòng hiếu
thảo của người con đối với cả cha mẹ ruột lẫn cha mẹ nuôi (Ông cọp); sự ăn năn hối cải của người anh
sai trái và lòng vị tha của người em tốt bụng (Hai anh em N’tơi và N’tai); sự thương yêu con cháu ruột thịt
của ông cậu tốt bụng biết san sẻ, gánh vác hoạn nạn của cháu mình mà qua đó người cháu tỉnh ngộ
nhận ra không đâu bằng tình ruột già máu mủ (Người cậu tốt bụng); vợ chồng chung thủy hay người vợ
thủy chung vì tình nghĩa dám quyên sinh theo chồng (Hai chị em (2)); bài học của ông bà xưa dạy về việc
chọn vợ mới lớn và vợ góa chớ nên chọn vợ già và vợ bỏ chồng vì tính phản trắc của họ (Dạy con chọn
vợ); bài học chọn vợ chọn chồng theo quan niệm cần có sự cảm thông và chia sẻ lẫn nhau mới bảo đảm
hạnh phúc được trọn vẹn và bền chặt (Người vợ thông minh); chọn vợ vừa biết thương yêu chồng con
vừa thông minh biết ứng xử không ngoan với người ngoài (Người vợ khôn ngoan – một dị bản rất giống
với truyện Chồng khôn vợ đặng đi hài, vợ khôn chồng đặng có ngày làm quan của người Việt),…
3.3.3.2. Về các mối quan hệ ngoài xã hội có 10 truyện: Ở rể thay, Cậu bé mồ côi và con chó,
Nhớ ơn người già, Anh mù và anh què, Chàng trai hay ghen, Chàng trai kén vợ, Yoong Roong, Cham và
Proh, Phú ông gả con, Ông già tốt bụng, Chuyện ông Tông Vu. Do những mối quan hệ ngoài xã hội thật
phong phú và muôn màu muôn vẻ cho nên chủ đề về những mâu thuẫn cần lý giải cùng những bài học
kinh nghiệm về thuật ứng xử ở đời hay đối nhân xử thế cũng thật đa dạng và nhiều hơn cả. Với nghị lực
phi thường vượt qua được những thách đố đầy nguy hiểm mà chàng trai đã thắng cuộc người bạn khiến
anh ta phải ở rể thay mình để trả tiếp món nợ cho nhà vợ (Ở rể thay); lòng thương người của cô gái út
con trưởng bản được đền đáp xứng đáng (Cậu bé mồ côi và con cho); lời răn dạy của người già luôn
mang lại điều tốt lành cho những ai biết nghe theo (Nhớ ơn người già); luật tục hay cán cân công lý nơi
làng xã luôn bênh vực cho những người nghèo khó bị áp bức bóc lột (Phú ông gả con); những kẻ gian
phu dâm phụ hay phản trắc luôn bị luật trời trừng phạt (Yoong Roong, Cham và Proh); tấm gương của
ông nhà giàu tốt bụng, hào hiệp, rộng lượng và không toan tính có ý nghĩa tố cáo và vạch trần bộ mặt
tráo trở của những kẻ nghèo khó nhưng lại giả nhân giả nghĩa, bội bạc, ăn cháo đá bát, đáng bị trừng
phạt thích đáng theo triết lý dân gian toàn nhân loại “ác giả ác báo” (Ong già tốt bụng); phàm là con
người, sống trên đời phải thật thà, chăm chỉ làm ăn và biết giúp đỡ người khác; sống phải có trước có
sau thì mới đáng sống (Chuyện ông Tông Vu).
3.3.3.3. Nhóm truyện về nhân vật ngốc có 9 truyện: Chàng ngốc đi buôn, Ngốc đi ăn trộm,
Chuyện chàng ngốc (1), (2), (3), (4), (5), (6), Hoàng tử lười. Trong đó ba truyện Chuyện chàng Ngốc (4),
(5), (6) có thể xem là những dị bản khác nhau của cùng một dạng truyện về nhân vật Ngốc, các tình tiết
trong ba truyện có đôi chỗ khác nhau nhưng đều thuộc cùng một cốt kể về một chàng vốn “khờ lắm, ai
sai gì thì làm nấy”, vậy mà “anh ta cũng lấy được vợ ở một làng nọ” song cho dù Ngốc vốn có ý tốt muốn
làm việc giúp đỡ gia đình thì sự ngốc nghếch của anh ta vẫn đem lại hết tai hại này đến mất mát khác
cho gia đình nhà vợ và cho chính bản thân anh ta; kết cục là Ngốc vẫn mãi là anh chàng ăn bám gia đình
không hơn không kém. Trên thực tế, ở loại truyện chàng ngốc này tác giả dân gian Xtiêng không nhằm
lên án những hành động ngờ nghệch, thiếu khôn ngoan của các anh khờ dại hay ngốc nghếch mà muốn
gửi một thông điệp đến công chúng đọc giả, thính giả rằng trước khi làm việc gì ta cần phải suy tính
trước sau cho cẩn thận, nhất là với những trường hợp nói chệch, nói lái trong nội bộ tộc người Xtiêng,
nếu không sẽ chuốc lấy thất bại, gây hậu quả xấu cho chính mình, người thân và những người xung
quanh mình.
3.3.3.4. Nhóm truyện về nhân vật thông minh có 4 truyện: Chàng thợ săn mưu trí, Anh hầu
trạng (1), (2), Cậu bé nói dối. Đó là những câu chuyện thật đặc sắc về cuộc đời của những người con ưu
tú, thông minh xuất chúng của dân gian Xtiêng xứng đáng được các thế hệ con cháu trước kia, ngày nay
và sau này noi gương theo. Chàng trai tìm thuốc chữa bệnh ăn không ngon cho vua bằng công việc lao
động vất vả: hạnh phúc có được đều từ lao động mà ra, chỉ có lao động mới đem lại cuộc sống tốt đẹp
cho con người (Anh hầu trạng); trí thông minh luôn giúp con người thoát khỏi hiểm nguy luôn ẩn giấu
trong thiên nhiên hoang da (Chàng thợ săn mưu trí);
3.4 Thể loại truyện cười có 13 truyện được phân thành ba nhóm khôi hài, châm biếm và đả
kích: Cây to hai người ôm, Cò chiên, Câu chuyện hẹn hò, Chàng trai và ông già chăn của, Chuyện trái
bầu, Đi bắt cá, Chàng Prooc, Anh chàng thông minh, Chuyện ông Yô Yốt, Thầy hít, Chàng trai mưu trí,
Chuyện trạng Achơi, Anh hầu thông minh. Tìm hiểu 13 truyện này, có thể cho rằng Câu chuyện hẹn hò là
một truyện cười khôi hài tiêu biểu nhất: Chàng trai đến nhà người yêu để tâm sự, bất ngờ bị đau bụng
chạy không kịp phải xón ra quần; đi tìm nước rửa loay hoay thế nào lại bị kẹt cái đầu trong khạp nước;
tìm cách đập bể khạp nhưng anh lại lần rờ trúng đầu mẹ cô gái nhẵn thín tưởng là hòn đá nên đập cái
khạp vào đầu bà; hậu quả là chàng trai vụng về bị cô gái từ bỏ. Tác giả dân gian Xtiêng thật khéo léo khi
chọn tình huống dở khóc dở cười để xây dựng cốt truyện. Tiếng cười bật ra thật vô tư nhưng đầy ý
nghĩa. Có 7 truyện cười châm biếm mang nội dung phê phán những thói hư tật xấu trong cộng đồng
như: nói khoác (Chàng Prooc, Anh chàng thông minh, Thầy hít), học đòi (Chuyện ông Yô Yôt), tham lam
(Chàng trai và ông già chăn của, Chuyện trái bầu, Đi bắt cá)… Ba truyện Chàng trai và ông già chăn của,
Chuyện trái bầu và Đi bắt cá là một chuỗi hành động ăn miếng trả miếng giữa chàng trai và ông già láng
giềng về việc sở hữu những vật mà hai người cùng nhìn thấy như tổ chim trên rẫy, trái bầu, cá dưới suối;
kết quả là ông già tham lam bị chàng trai lừa qua hết truyện này đến truyện khác. Nhân vật Prooc là bản
sao của loại hình nhân vật Cuội ở truyện Xtiêng: vì để bụng chuyện ông cậu không giữ lời hứa nên Prooc
tìm kế lừa hai vợ chồng cậu hết lần này đến lần khác (Chàng Prooc). Tiếng cười đả kích hả hê trong dân
gian Xtiêng được bật lên khi họ nghe qua câu chuyện về Anh hầu thông minh bằng sự lanh trí, khôn
ngoan bẩm sinh đã không cho ông vua độc ác bất kỳ cơ hội nhỏ nhoi nào để giết hại mình; hình ảnh tiêu
biểu là anh ta càng thông minh bao nhiêu thì tên vua lại càng ngu ngốc, nhỏ nhen và độc ác bấy nhiêu.
Cùng thuộc loại hình nhân vật Trạng Quỳnh của người Việt, Thmênh Chêy của người Khmer, Achơi
trong Chuyện trạng Achơi là hiện thân mơ ước của dân gian Xtiêng về một nhân vật thông minh, giỏi
giang dùng tài trí của mình chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của tầng lớp vua chúa thống trị, sống
xa hoa hưởng lạc trên sức lao động của nhân dân.
3.5. Thể loại truyện ngụ ngôn Xtiêng mới sưu tầm được một truyện duy nhất là truyện Chú
thỏ thông minh có chủ đề thể hiện ý chí đấu tranh, chống áp bức bóc lột, đòi quyền sống, quyền bình
đẳng; truyện kể về việc chú thỏ thông minh nọ đã dùng mưu kế giả làm sứ thần nhà trời đem quân
xuống trần đe dọa trừng phạt tội trọng của rái cá ngang nhiên chặn dòng nước đầu nguồn giúp cho các
loài vật khác có được cuộc sống thanh bình như xưa.
4. Trở lên, qua khảo sát 233 truyện cổ có thể nêu vài nhận xét về kho tàng truyện kể dân
gian Xtiêng ở tỉnh Bình Phước như sau:
4.1. Trữ lượng và mật độ lưu truyền tác phẩm truyện kể dân gian Stiêng ở các huyện trong
tỉnh Bình Phườc, tính số lượng từ nhiều đến ít, là theo thứ tự sau: Bình Long, Bù Đăng, Lộc Ninh, Bù
Đốp, Phước Long, Đồng Phú và Chơn Thành – địa phương chúng tôi chưa đến sưu tầm điền dã.
4.2. Với non 30 mẩu kể, thần thoại Xtiêng phản ánh khá đầy đủ nhận thức của cộng đồng
Xtiêng thời nguyên thủy suy nguyên về vũ trụ, muôn loài, nhân loại, tộc người cùng những thành tựu
sáng tạo văn hóa của tổ tiên người Stiêng trong buổi bình minh lịch sử của tộc người. Tư duy thần thoại
ở đây chịu ảnh hưởng rõ nét bởi những quan niệm về tín ngưỡng dân gian thời nguyên thủy như vật linh
giáo, bái vật giáo và tôtem giáo.
4.3. Trong số 29 truyền thuyết Xtiêng chưa thấy có nhóm truyền thuyết về nhân vật. Trong khi
đó, nhóm truyền thuyết địa danh chỉ vỏn vẹn với 8 truyện hãy còn ít chưa giải thích được bao nhiêu về
nguồn gốc của các địa danh tự nhiên và địa danh xã hội gắn với nhiều danh thắng cùng di tích lịch sử và
di tích văn hóa ở các địa phương có người Xtiêng sinh sống xưa nay. Còn nhóm truyền thuyết phong-vật
với 21 truyện đã lý giải khá toàn diện và hấp dẫn nguồn gốc của những tín ngưỡng, tập tục cùng những
sản vật địa phương theo quan niệm của dân gian Xtiêng khi xưa. Đặc biệt có đến 11 truyền thuyết giải
thích nguồn gốc nhiều tập tục kiêng cữ ở những dòng họ chính của người Xtiêng.
4.4. Thể loại truyện cổ tích Xtiêng vừa phong phú về số lượng - 160 truyện, vừa đa dạng về
tiểu loại, nhóm, dạng truyện cùng đề tài, chủ đề, nhân vật và môtíp cấu tạo nên cốt truyện. Truyện cổ tích
loài vật có đủ các nhóm, dạng truyện cùng những nội dung suy nguyên luận, môtíp mẹo lừa và đề tài xử
kiện vốn có ở tiểu loại truyện này. Tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ cũng có đủ các kiểu truyện phổ biến
như: về nhân vật chàng trai khỏe-dũng sĩ tài ba, người mồ côi, người con riêng, người em út và nhân vật
xấu xí mà tài ba hay người lấy người đội lốt vật, đề tài-cốt truyện ngoại tình hay tình yêu chung thủy và
nhóm truyện về thế giới ma quỉ. Nội dung đề tài và chủ đề của truyện cổ tích sinh hoạt Xtiêng vừa thật
dồi dào vừa mang nhiều yếu tố thế tục rõ nét của giai đoạn phát triển của xã hội tiền phong kiến với
những mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội ngày càng diễn biến phức tạp với nhiều sắc thái biểu
hiện khác nhau.
4.5. Truyện cười Xtiêng- 13 truyện, mang sắc thái khôi hài, châm biếm hay đả kích vừa mang
chức năng mua vui giải trí vừa nhằm đưa ra những bài học đạo đức nhằm hoàn thiện cuộc sống con
người. Đáng lưu ý là đối tượng của tiếng cười đả kích trong dân gian Stiêng đã là những tầng lớp vua
chúa thống trị chuyên quyền, độc đoán, sống xa hoa hưởng lạc trên sức lao động của nhân dân.
4.6. Truyện ngụ ngôn Xtiêng chỉ mới tìm thấy có một truyện phát triển từ cổ tích loài vật mang
chủ đề thể hiện ý chí đấu tranh, chống áp bức bóc lột, đòi quyền sống, quyền bình đẳng. Nhân vật chính
là chú thỏ tinh khôn thường xuất hiện trong dạng truyện cổ tích loài vật có môtíp mẹo lừa hay đề tài xử
kiện ra đời trước đó.
4.7. Sự xuất hiện những truyện cổ Xtiêng như Rùa và Khỉ, Ji Băch Ji Bay, Người vợ khôn
ngoan, Chuyện trạng Achơi mang tính dị bản tương đồng với một số truyện cổ của các tộc người láng
giềng cộng cư và xen cư như Ê Đê, Mơ Nông, Khmer, Việt… đã chứng thực cho những quá trình giao
lưu tiếp biến văn hóa giữa các tộc người này với tộc người Xtiêng ở tỉnh Sông Bé-Bình Phước từng xảy
ra trong quá khứ xa và gần.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 15.09.2011
PXV
Chú thích
[1] Con số 233 truyện này được tuyển chọn từ hai đợt thực tập thực tế của hai khóa sinh viên Khoa
Văn học và Ngôn ngữ, Trường ĐHKHXH&NV-ĐHQGTPHCM, trong hai năm 2008 và 2009 tại 6
huyện của tỉnh Bình Phước.
[2] Thuật ngữ được tác giả Nguyễn Định sử dụng trong luận án tiến sĩ Yếu tố thần kỳ trong truyền
thuyết và truyện cổ tích người Việt ở Nam Trung Bộ - công trình thuộc Dự án công bố, phổ biến tài
sản văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam của Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, Nxb KHXH, 2010,
trang 69.
[3] Con người tách từ nhánh khỉ mà ra, thuộc giống khỉ hình người. Những kết quả nghiên cứu về “bộ
gen “của các loài khỉ như khỉ không đuôi có dạng giống người (ape), khỉ đột (gorilla), đười ươi
(orangutan), vượn (chimpanzee), và “bộ gen” của người cho thấy giữa người và vượn, 99% của “bộ
gen” y hệt nhau (identical).
[4] Trong truyện kể dân gian các dân tộc Trường Sơn-Tây Nguyên, người chỉ là một trong muôn loài và
có quan hệ rất chặt chẽ và thân thiết với tự nhiên thông qua quan hệ người và vật. Vật có thể là bạn
của người, là thầy của người, cũng có thể lấy người; ngược lại, người có thể lấy vật, sinh ra vật
hoặc hóa thành vật. Thông thường, đó là những dấu ấn tôtem của quan hệ giữa người và vật xưa
kia.
[5] Nguyễn Tấn Đắc, Đọc truyện kể dân gian bằng type và motif, nxb KHXH, 2001, trang 68-69.
[6] Lê Trung Vũ, Khảo sát nhân vật mồ côi trong truyện cổ H’Mông - công trình thuộc Dự án công bố tài
sản văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam của Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, Nxb. Dân Trí,
2010, trang 56, 58, 59.
[7] Chu Xuân Diên, Lê Chí Quế, Tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam, Phần truyện cổ tích người Việt, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, trang 73-82.
[8] “Chàng trai nọ lấy vợ rồi sinh ra một đứa con gái. Sau đó, anh ta lấy tiếp một người vợ nữa. Người
vợ nhỏ vốn là người tham lam, độc ác luôn ghen tị với người vợ lớn. Một lần đi đào củ chụp, bà ta
lừa xô người vợ lớn xuống hố chết. Cô bé đợi mãi không thấy mẹ về thì ngồi khóc mãi. Trong giấc
mơ, mẹ cô hiện về dặn cô hãy nuôi con chim cu non trên rẫy. Người mẹ kế biết chuyện bắt chim cu
làm thịt. Cô bé không biết làm sao, chỉ ngồi khóc. Mẹ cô lại hiện về và bày cô cách nuôi con ba ba
dưới giếng nước. Bà mẹ kế lại bắt ba ba làm thịt. Lần thứ ba cô bé ngồi khóc, người mẹ hiện lên
bày cô cách trồng xương ba ba xuống đất. Từ chỗ chôn xương ba ba mọc lên một cây táo, nó lớn
nhanh như thổi. Cây táo dùng để phơi đồ đã mang về cho cô bé nhiều quần áo đẹp. Bà mẹ kế độc
ác lại giành cây táo của cô bé. Cô bé tủi thân ngồi khóc mãi, đến nỗi việc này truyền đến tai vua.
Nhờ vị vua tốt bụng và công bằng, cô bé lấy lại được cây táo còn mụ dì ghẻ tham lam thì bị xử tội
chết.”
[9] Nguyễn Thị Huế, Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích Việt Nam, Nxb KHXH, 1999, trang
58.
Nguồn: Tạp chí đại học Sài Gòn - Bình luận văn học, niên giám 2011