ths., giảng viên chính khoa văn học và ngôn ngữ – trường...

15
Phan Xuân Viện. Tìm hiểu truyện cổ tộc người Xtiêng ở Bình Phước TÌM HIỂU TRUYỆN CỔ TỘC NGƯỜI XTIÊNG Ở BÌNH PHƯỚC Phan Xuân Viện* * ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ĐHKHXH&NV ĐHQG TPHCM. 1. Tộc người Xtiêng là cư dân bản địa cư trú lâu đời tại các tỉnh Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh. Trên địa bàn tỉnh Bình Phước, với số dân đông sau người Việt gồm 72.851 người cộng đồng Xtiêng sống xen kẽ với người Việt, Khmer, Chăm, Mơ Nông… Địa bàn cư trú của họ giáp với người Mơ Nông ở phía Bắc (Đắc Nông), người Mạ ở phía Đông (Lâm Đồng), người Việt ở phía Nam (Bình Dương), và người Khmer ở phía Tây (Tây Ninh). Cộng đồng tộc người Xtiêng ở tỉnh Bình Phước định cư lâu đời và phân bố rải rác ở hầu khắp các huyện, thị trấn và thị xã Đồng Xoài của tỉnh. Địa bàn cư trú chủ yếu của họ tập trung ở các xã thuộc vùng sâu vùng xa của bảy huyện Bình Long, Chơn Thành, Đồng Phú, Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước Long và Bù Đăng. Theo số liệu thống kê dân số năm 2005 của Ban Dân tộc tỉnh Bình Phước, có 11 dân tộc thiểu số đang sinh sống tại địa bàn tỉnh, cụ thể là các dân tộc Chăm, Dao, Hmông, Hoa, Khmer, Mơ Nông, Mường, Nùng, Tày, Thái và Xtiêng, trong đó, người Xtiêng có số dân đông nhất (72.851/153.881 người) phân bố ở thị xã Đồng Xoài và 7 huyện như sau: thị xã Đồng Xoài có 386 người, huyện Bù Đăng 12.055 người, huyện Phước Long 22.640 người, huyện Đồng Phú 3.175 người, huyện Bù Đốp 2.600 người, huyện Lộc Ninh 9.227 người, huyện Bình Long 19.496 người, và huyện Chơn Thành 3.272 người. Kho tàng văn học dân gian Xtiêng ở Bình Phước rất phong phú với đủ thể loại như thần thoại, truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, thơ ca, hát nói dân gian. Người Xtiêng thường kể về nguồn gốc ra đời dân tộc mình, về sự tích các vị thần, về những lễ hội, kiêng kỵ và sinh hoạt thường ngày, về tình yêu nam nữ. Những già làng và các cụ bà người Xtiêng là những người còn nhớ và thuộc nhiều vốn văn học quý giá này. Thêm một điểm đáng quan tâm nữa là cộng đồng người Xtiêng rất phổ biến lối hát nói, hát ru, hát kể (Tâm – pớt) do một người hoặc hai người cùng thể hiện. Đây là một hình thức truyền tải lịch sử tộc người cùng những tâm tư, tình cảm của người Xtiêng với những người trong cộng đồng của mình. 2. Tiếp sau bài giới thiệu sơ bộ về truyện cổ Xtiêng có nhan đề “ Bước đầu tìm hiểu truyện cổ Xtiêng” viết ngày 20.9.2008, đến nay xét thấy đã có thể nêu một vài nhận định về đặc điểm cơ bản của kho tàng truyện cổ Xtiêng – sau khi bổ sung thêm non 100 tác phẩm mới sưu tầm được ở các huyện Bù Đốp, Phước Long và Bù Đăng, chúng tôi viết tiếp bài này nhằm giới thiệu bổ sung vài nét về diện mạo kho tàng truyện kể dân gian tộc người Xtiêng ở Bình Phước. Qua hai đợt khảo sát điền dã văn học dân gian, tổng số truyện kể dân gian sưu tầm tại gần 40 xã điểm có đồng bào Xtiêng sinh sống thuộc 6 huyện như Bình Long, Đồng Phú, Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước Long và Bù Đăng gồm có 233 truyện [1]. Vì lý do khách quan nên chúng tôi còn chưa có dịp đi sưu tầm điền dã văn học dân gian tại các xã có người Xtiêng sinh sống ở huyện Chơn Thành. Con số 233 truyện này được tuyển chọn từ trên 500 bản kể thô sau khi đã được chỉnh lý, biên soạn và biên tập. Số lượng truyện tinh tuyển tương đối phong phú này được thấy phân bổ cụ thể ở sáu huyện như sau: huyện Đồng Phú có 17 truyện, huyện Bình Long có 93 truyện, huyện Lộc Ninh có 33 truyện, huyện Bù Đốp có 24 truyện, huyện Phước Long có 22 truyện và

Upload: others

Post on 16-Sep-2019

6 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ...qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOC VA NGON NGU... · Địa bàn cư trú của

Phan Xuân Viện. Tìm hiểu truyện cổ tộc người Xtiêng ở Bình Phước

TÌM HIỂU TRUYỆN CỔ TỘC NGƯỜI XTIÊNG Ở BÌNH PHƯỚC

Phan Xuân Viện*

* ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ĐHKHXH&NV – ĐHQG TPHCM.

1. Tộc người Xtiêng là cư dân bản địa cư trú lâu đời tại các tỉnh Bình Phước, Bình Dương,

Đồng Nai, Tây Ninh. Trên địa bàn tỉnh Bình Phước, với số dân đông sau người Việt gồm 72.851 người

cộng đồng Xtiêng sống xen kẽ với người Việt, Khmer, Chăm, Mơ Nông… Địa bàn cư trú của họ giáp với

người Mơ Nông ở phía Bắc (Đắc Nông), người Mạ ở phía Đông (Lâm Đồng), người Việt ở phía Nam

(Bình Dương), và người Khmer ở phía Tây (Tây Ninh). Cộng đồng tộc người Xtiêng ở tỉnh Bình Phước

định cư lâu đời và phân bố rải rác ở hầu khắp các huyện, thị trấn và thị xã Đồng Xoài của tỉnh. Địa bàn

cư trú chủ yếu của họ tập trung ở các xã thuộc vùng sâu vùng xa của bảy huyện Bình Long, Chơn

Thành, Đồng Phú, Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước Long và Bù Đăng. Theo số liệu thống kê dân số năm 2005

của Ban Dân tộc tỉnh Bình Phước, có 11 dân tộc thiểu số đang sinh sống tại địa bàn tỉnh, cụ thể là các

dân tộc Chăm, Dao, Hmông, Hoa, Khmer, Mơ Nông, Mường, Nùng, Tày, Thái và Xtiêng, trong đó, người

Xtiêng có số dân đông nhất (72.851/153.881 người) phân bố ở thị xã Đồng Xoài và 7 huyện như sau: thị

xã Đồng Xoài có 386 người, huyện Bù Đăng 12.055 người, huyện Phước Long 22.640 người, huyện

Đồng Phú 3.175 người, huyện Bù Đốp 2.600 người, huyện Lộc Ninh 9.227 người, huyện Bình Long

19.496 người, và huyện Chơn Thành 3.272 người.

Kho tàng văn học dân gian Xtiêng ở Bình Phước rất phong phú với đủ thể loại như thần thoại,

truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, thơ ca, hát nói dân gian. Người Xtiêng

thường kể về nguồn gốc ra đời dân tộc mình, về sự tích các vị thần, về những lễ hội, kiêng kỵ và sinh

hoạt thường ngày, về tình yêu nam nữ. Những già làng và các cụ bà người Xtiêng là những người còn

nhớ và thuộc nhiều vốn văn học quý giá này. Thêm một điểm đáng quan tâm nữa là cộng đồng người

Xtiêng rất phổ biến lối hát nói, hát ru, hát kể (Tâm – pớt) do một người hoặc hai người cùng thể hiện. Đây

là một hình thức truyền tải lịch sử tộc người cùng những tâm tư, tình cảm của người Xtiêng với những

người trong cộng đồng của mình.

2. Tiếp sau bài giới thiệu sơ bộ về truyện cổ Xtiêng có nhan đề “Bước đầu tìm hiểu truyện cổ

Xtiêng” viết ngày 20.9.2008, đến nay xét thấy đã có thể nêu một vài nhận định về đặc điểm cơ bản của

kho tàng truyện cổ Xtiêng – sau khi bổ sung thêm non 100 tác phẩm mới sưu tầm được ở các huyện Bù

Đốp, Phước Long và Bù Đăng, chúng tôi viết tiếp bài này nhằm giới thiệu bổ sung vài nét về diện mạo

kho tàng truyện kể dân gian tộc người Xtiêng ở Bình Phước. Qua hai đợt khảo sát điền dã văn học dân

gian, tổng số truyện kể dân gian sưu tầm tại gần 40 xã điểm có đồng bào Xtiêng sinh sống thuộc 6 huyện

như Bình Long, Đồng Phú, Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước Long và Bù Đăng gồm có 233 truyện [1]. Vì lý do

khách quan nên chúng tôi còn chưa có dịp đi sưu tầm điền dã văn học dân gian tại các xã có người

Xtiêng sinh sống ở huyện Chơn Thành. Con số 233 truyện này được tuyển chọn từ trên 500 bản kể thô

sau khi đã được chỉnh lý, biên soạn và biên tập. Số lượng truyện tinh tuyển tương đối phong phú này

được thấy phân bổ cụ thể ở sáu huyện như sau: huyện Đồng Phú có 17 truyện, huyện Bình Long có 93

truyện, huyện Lộc Ninh có 33 truyện, huyện Bù Đốp có 24 truyện, huyện Phước Long có 22 truyện và

Page 2: ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ...qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOC VA NGON NGU... · Địa bàn cư trú của

huyện Bù Đăng có 44 truyện. Qua đó, có thể cho rằng trữ lượng truyện kể dân gian Xtiêng được lưu

truyền tập trung ở các xã thuộc vùng sâu vùng xa của các huyện – theo thứ tự từ nhiều đến ít, Bình

Long, Bù Đăng, Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước Long, Đồng Phú. Về nguồn gốc, mỗi truyện kể được sưu tầm

và tuyển chọn để khảo sát đều có ghi ở bên dưới lai lịch của người kể chuyện để tiện việc tra cứu phần

xuất xứ của tác phẩm gồm các mục như: họ và tên, năm sinh, địa chỉ hiện nay (ví dụ: Người kể: Điểu Bry,

1935, ấp 5, xã Đồng Tiến, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước). Về việc phân loại truyện kể dân gian theo

tiêu chí thể loại, số lượng 233 truyện Xtiêng ở Bình Phước được chúng tôi phân loại như sau:

- Thần thoại (30 truyện, chiếm 12,87%), gồm các nhóm thần thoại cụ thể sau: thần thoại suy

nguyên về vũ trụ và muôn loài (5 truyện, chiếm 2,14%), thần thoại suy nguyên về nhân loại, tộc người (12

truyện, chiếm 5,15%), thần thoại về sáng tạo văn hóa(13 truyện, chiếm 5,57%).

- Truyền thuyết (29 truyện, chiếm 12,44%), gồm các nhóm truyền thuyết cụ thể sau: truyền

thuyết địa danh (8 truyện, chiếm 3,43%), truyền thuyết về phong – vật [2] (21truyện, chiếm 9,01%).

- Truyện cổ tích (160 truyện, chiếm 68,66%), gồm đầy đủ ba tiểu loại và các kiểu và nhóm

truyện cổ tích sau: tiểu loại truyện cổ tích loài vật (35 truyện, chiếm 15,02%), gồm hai nhóm truyện:

truyện cổ tích về loài vật sống gần gũi với con người (7 truyện, chiếm 3,00%) và truyện cổ tích về loài vật

sống nơi hoang dã (28 truyện, chiếm 12,01%); tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ(86 truyện, chiếm 36,90%)

gồm các kiểu và nhóm truyện: kiểu truyện về nhân vật chàng trai khoẻ, dũng sĩ (8 truyện, chiếm 3,43%),

kiểu truyện về nhân vật người mồ côi (21 truyện, chiếm 9,01%), kiểu truyện về nhân vật người con riêng

(9 truyện, chiếm 3,86%), kiểu truyện về nhân vật xấu xí mà tài ba (27 truyện, chiếm 1158%), đề tài-cốt

truyện ngoại tình hay tình yêu chung thủy (7 truyện, chiếm 3%) và nhóm truyện về thế giới ma quỉ (14

truyện, chiếm 6,00%); và tiểu loại truyện cổ tích sinh hoạt (39 truyện, chiếm 16,73%) gồm các nhóm

truyện: về các mối quan hệ trong gia đình (16 truyện, chiếm 6,86%), về các mối quan hệ ngoài xã hội

(10 truyện, chiếm 4,29%), về nhân vật ngốc (9 truyện, chiếm 3,86%) và về nhân vật thông minh (4 truyện,

chiếm 1,71%) .

- Truyện cười (13 truyện, chiếm 5,57%) gồm đủ loại truyện cười có nội dung khôi hài, châm

biếm và đả kích.

- Truyện ngụ ngôn (1 truyện, chiếm 0.42%) có chủ đề thể hiện ý chí đấu tranh, chống áp bức

bóc lột, đòi quyền sống, quyền bình đẳng.

3. Khảo sát nội dung và nghệ thuật của truyện kể dân gian của tộc người Xtiêng ở tỉnh Bình

Phước, chúng tôi xin nêu vài đặc điểm cơ bản của từng thể loại tự sự dân gian như sau:

3.1 Ở thể loại thần thoại, trong 30 truyện có đủ các đề tài vốn có của kho thần thoại của một

tộc người như đề tài suy nguyên về vũ trụ, đề tài suy nguyên về nhân loại, tộc người, và thần thoại về

sáng tạo văn hóa.

Page 3: ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ...qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOC VA NGON NGU... · Địa bàn cư trú của

3.1.1 Qua 5 truyện thần thoại suy nguyên về vũ trụ và thiên nhiên (Nguồn gốc của vũ trụ và

muôn loài, Nguồn gốc muôn loài, Nguồn gốc của sông suối, Vì sao có lũ lụt như bây giờ?, Nguồn gốc các

bàu nước), tác giả dân gian Xtiêng khi xưa giải thích nguồn gốc của vũ trụ và thiên nhiên, muôn loài từ

con người, mặt trăng, mặt trời, sông suối, núi đồi cùng nhiều mỏ than đá, mỏ dầu, các thiên tai như hạn

hán, mưa gió, lũ lụt, hay từ cây cỏ hoa lá cho đến hạt lúa lớn trở thành nhỏ bé cùng sự tích vì sao trâu bò

lại ăn cỏ còn heo thì ăn cháo như người đều do sự sáng tạo của ông Trời. Tác giả dân gian Xtiêng khi

xưa đã giải thích nguồn gốc của thiên nhiên bằng quan niệm vạn vật nhất thể-trực tiếp, có tính duy vật

thô sơ hồn nhiên vào buổi đầu nhận thức ấu trĩ của loài người. Theo quan niệm này, mọi vật trong cõi

thiên nhiên đều do một vị thần khổng lồ sáng tạo nên, đó là ông Trời (Nguồn gốc của vũ trụ và muôn

loài). Bên cạnh đó, còn có quan niệm về vạn vật nhất thể-gián tiếp như ông bà người Xtiêng kể rằng:

Xưa, thế gian và muôn loài có được là nhờ ông Krong Dong sinh ra ông Krang Dang, rồi ông

Krang Dang làm ra cột đá mẹ đẻ ra loài bướm sinh ra các loài vật khác, loài rùa sinh ra con người như

các ông Xiêng, Tiêng, Têy; các ông lấy đất trộn với bảy con giun làm cho đất nở ra; đất đai còn chật chội

ông Khẻn, ông Nung từ dưới lòng đất lên làm cho cao rộng thêm; chưa có đêm nhờ ông Nú che mặt trời

nên có mặt trăng, ngày và đêm; nhờ có đêm ông Nú tìm hiểu và lấy cô Pông sinh con đẻ cái; con người

bắt chước hai ông bà nên loài người mới sinh sôi nảy nở từ đấy.(truyện Nguồn gốc muôn loài).

3.1.2 Với 12 truyện thần thoại suy nguyên về nhân loại, tộc người, người Xtiêng có nhiều quan

niệm thô phác hồn nhiên như: về nguồn gốc loài người sinh ra từ hòn đá hình người do ông Trời ném

xuống trần gian tác hợp với loài bướm sinh ra người con trai rồi người con gái đều không có tay chân,

thế rồi cho đến thế hệ con cháu của họ mới có tay có chân và loài người sinh sôi đông đúc từ đấy

(Nguồn gốc loài người (1)). Về nguồn gốc tộc người Xtiêng, có nhiều truyện kể sự tích như: do ông Diêng

– con của Trời, lấy bà Blơm người trần sinh ra tổ tiên người Xtiêng, trong khi em gái ông bà Liêng Ma lấy

chồng mà không có con. (Nguồn gốc tộc người Xtiêng); do ba anh em một trai hai gái đều là con của vị

thần nọ lấy vợ người trần có mang xong ông bay về trời, ông Diêng là anh trai sinh ra từ nách còn hai em

gái Bông Diêng và Liêng Ma sinh ra bình thường (Tổ tiên tộc người Xtiêng); và tổ tiên của người Xtiêng

còn gồm từ ông bà thủy tổ là ông Day-chang-eng lấy bà Đen-ke-det sinh ra bốn con trai và năm con gái,

sau đó bà Lơm con gái đầu lấy ông Diêng sinh được bảy người con gái mà không có con trai, các cặp vợ

chồng con cháu ông bà lần hồi phân tán ra sinh sống ở khắp nơi lập nên nhiều làng sóc và dòng họ

chính như Chang-sa-rai, Chang-gia-rinh, Ta-mun, Vơ-klây, Nara… với luật tục cấm trai

gái không được lấy nhau trong cùng dòng họ (Nguồn gốc các dòng họ Xtiêng). Về dáng vóc nhỏ người

của tổ tiên họ: ông Trời thấy người Xtiêng khi xưa to lớn và đông đúc phải chen chúc nơi đất đai chật hẹp

nên đã biến người Xtiêng thành vóc dáng nhỏ lại để có đủ đất sinh sống như ngày nay (Vì sao người

Xtiêng có dáng vóc như bây giờ?). Về nguồn gốc của việc buộc phân chia các dòng họ Xtiêng là do việc

vi phạm tội loạn luân của tổ tiên người Xtiêng qua câu chuyện kể rằng người Xtiêng vốn là con cháu của

hai vợ chồng Diêng và Blơm; vì Diêng và Blơm là anh em ruột mà lại lấy nhau nên Trời trừng phạt, không

cho họ thành vợ thành chồng nữa; tuân theo ý Trời, hai vợ chồng chia các con sinh ra thành hai nhóm,

một nhóm theo cha mang họ B’yung Đrên còn nhóm kia theo mẹ mang họ B’yung Ro; về sau, trai gái hai

họ này vẫn được phép cưới nhau vì khác họ (Nguồn gốc họ B’yung Đrên và họ B’yung Ro). Về chủ đề

phát triển giống nòi: với môtíp “khỉ dạy người biết đẻ” / “người học khỉ đỡ đẻ” tác giả dân gian Xtiêng có

ba truyện kể về việc khi xưa nhờ học được cách đỡ đẻ của loài khỉ mà người chồng không mổ bụng vợ,

giữ được mạng sống vợ con, rồi bày cho mọi người làm theo, về sau dân làng kiêng không ăn thịt khỉ.

Trên thực tế, từ buổi đầu khi tạo dựng và phát triển giống nòi, trong sự tương quan giữa con người và tự

nhiên - nói riêng ở đây là giữa người và khỉ / một loài vật có hình dáng giống con người [3]- còn chưa

nghiêng hẳn về bên nào, những cá thể người nguyên thủy một mặt nhờ sống gần gũi với tự nhiên nên có

quan hệ chặt chẽ và thân thiết với loài vật, mặt khác nhờ bản năng tò mò đã giúp họ luôn học hỏi tự

Page 4: ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ...qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOC VA NGON NGU... · Địa bàn cư trú của

nhiên nhằm đúc rút kinh nghiệm cho cuộc sống của mình từ quan sát trải nghiệm đời sống sinh hoạt của

loài vật (Người học khỉ đỡ đẻ (1), (2) và (3)) [4]. Và với quan niệm vạn vật hữu linh người xưa chưa nhận

thức được giữa con người và thiên nhiên có những sự khác biệt nhất định khiến cho trong một thời gian

khá dài, bởi nhiều lý do khách quan và chủ quan, tự thân con người không sinh sản được nhiều đứa con

như cây chuối-“có thể đẻ được hàng trăm cây”, khiến họ đã “năn nỉ cây chuối xin hoán đổi chức năng” để

rồi từ đó về sau con người sinh được nhiều con còn cây chuối chỉ ra được một buồng và phải bị chặt bỏ

đi (Người học khỉ đỡ đẻ (3)). Lý giải về ước muốn mang tính nhân bản này của loài người, có thể viện

dẫn ý kiến của giáo sư Nguyễn Tấn Đắc khi nghiên cứu về môtíp cây hóa thành người trong truyện kể

dân gian ông cho rằng: “con người là một sinh vật sống trên mặt đất. Cây cối cũng sống trên mặt đất, nó

cũng sinh ra, lớn lên, chết đi rồi lại sinh ra, mãi mãi… Cây cối lại rất gần gũi với người nguyên thuỷ.

Trong khi những bầy người nguyên thuỷ còn thưa thớt thì cây cối dày đặc xung quanh họ. Cây cối là gợi

ý, là hình ảnh thường xuyên về sự sống đối với họ. Người xưa đã nhìn thấy ở cây cối hình ảnh của sự

sống bất diệt trên mặt đất… Khi người xưa tạo ra mối liên hệ thần kỳ, huyền thoại giữa cây với người,

chắc họ cũng gởi gắm vào đấy một mong muốn: con người cũng sinh sôi xanh tươi mãi mãi như cây cối

xung quanh họ” [5].

3.1.3 Còn qua nội dung của 13 truyện thần thoại về sáng tạo văn hóa, chủ đề sáng tạo văn

hóa được kể với nhiều chuyện tích phong phú như sau: người Xtiêng có được hạt lúa sinh sống là nhờ

nai thần trả ơn (Thần lúa (1)), nhờ chim cú mèo mang giống lúa đến cho và dạy người trồng lúa (Thần

lúa (2)), là do người xưa nhặt được hạt giống màu vàng từ trong cổ chim lạ / chim cú bị bắn / bị giăng

bẫy (Sự tích cây lúa (1)và (2)), hay vì thương loài người bé nhỏ kiếm ăn cực nhọc nên vị thần khổng lồ

Dick-ăn toàn hạt lúa lớn, ban cho người Xtiêng hạt lúa nhỏ để dễ dàng trồng trọt và thu hoạch (Sự tích

hạt lúa), cũng vì thương con người phải làm việc vất vả nuôi sống bản thân và gia súc nên ông Dick

trừng phạt loài vật không biết nói nữa và phải giúp đỡ con người (Vì sao loài vật không biết nói và phải

giúp việc cho con người?). Vì thương và nghe lời con chó cái mang bụng chửa sắp đẻ nên người Xtiêng

ở lại sinh sống nơi vùng cao và không có chữ viết mà không theo kịp vua Trời (Sự tích người Xtiêng ở

vùng cào và không có chữ viết). Về lý do người Xtiêng không có chữ viết, tác giả dân gian khi xưa cho

rằng do con chó tha mất miếng da trâu trên đó có chữ viết Xtiêng (Vì sao người Xtiêng không có chữ viết

(1)), và vì thế họ không chứng minh được làng sóc đang sinh sống là thuộc của riêng tộc người mình (Vì

sao người Xtiêng không có chữ viết (2)), hoặc vì lười biếng nên làm mất sách vỡ rồi đến miếng da trâu

được thầy cho bị chó tha mất “chữ viết” Xtiêng (Vì sao người Xtiêng không có chữ viết (3)). Thổ thần Yô

Yốt bày giúp người Xtiêng cách nuôi trâu bò lợn gà lấy thịt, làm nhà sàn tre nứa cách mặt đất một cánh

tay để tránh thú dữ, dựng nhà cách thưa nhau để tránh lửa cháy lây lan vào mùa khô (Nguồn gốc nhà

sàn của người Xtiêng), chiếc đồng la từ loại lớn đến loại nhỏ đều do ông Dick khổng lồ dùng những mảnh

đồng rèn giũa đánh lên nghe tiếng rất vui tai, ông chết đi để lại cho người Xtiêng nhạc cụ truyền đời mãi

đến ngày nay (Sự tích chiếc đồng la).

3.2. Về thể loại truyền thuyết, chúng tôi chưa sưu tầm được hai nhóm truyền thuyết nhân vật

lịch sử và nhân vật anh hùng mà chỉ mới có được 8 truyện thuộc nhóm truyền thuyết địa danh và phong

phú hơn cả là 21 truyện thuộc nhóm truyền thuyết phong-vật.

3.2.1. Về nhóm truyền thuyết địa danh gắn liền với đặc điểm, điều kiện tự nhiên như núi đèo,

hang động, sông suối, thác ghềnh… còn gọi là truyền thuyết địa danh tự nhiên phải kể đến những câu

chuyện được hư cấu hoang đường như sau: hai thác em gái Tok và Prai không ầm ào hùng vĩ bằng thác

người anh Liêng Hur vì đánh thua trong trận đấu mà người anh bắt bồi thường đứa con bị cá sấu nơi

Page 5: ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ...qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOC VA NGON NGU... · Địa bàn cư trú của

thác Tok cắn chết (Sự tích thác Liêng Hur); câu chuyện thắm đẫm chất nhân văn mang tính chất cổ tích

thần kỳ về chiếc quan tài của chàng trai mồ côi bị bán đi xa hóa thành khối đá dựng đứng rồi hóa thành

dòng thác đứng được xây dựng bằng môtíp “tiếng thác quê hương” (Sự tích thác Đứng); truyện về núi

Ông thấp hơn núi Bà được kết cấu bằng môtíp “thi tài đắp núi” phổ biến ở vùng Đông Nam Á (Sự tích núi

Ông núi Bà)…

3.2.2. Còn về nhóm truyền thuyết địa danh gắn liền với đời sống xã hội – đời sống con người

như đơn vị hành chánh, đền, tháp, đập, cầu… còn gọi là truyền thuyết địa danh xã hội, có thể kể đến

những truyện như: chàng dũng sĩ Đâmbri nhờ tắm nơi dòng thác thần kỳ - môtíp “tắm / nhúng nước

thần”, mà có được mình đồng da sắt nên đánh tan được giặc cướp cứu nguy cho cộng đồng (Sự tích

thác Đâmbri); vì ở ác hay dùng chất độc thuốc chết nhiều người nên vợ chồng bị dân làng xa lánh và khi

chết Điểu Tế còn bị mọi người xua đuổi linh hồn bằng cách “đi chôn một đường và về một đường khác”

(Sự tích ngã Tư Tế)…

3.2.3. Ở nhóm truyền thuyết về phong-vật chiếm số lượng hơn phân nửa (11/21) là loại truyền

thuyết về tục kiêng cữ của các họ tộc người Xtiêng như: họ Changsarai kiêng ăn các loài chim cu vì sợ

trong nhà có người chết bất đắc kỳ tử (Tục kiêng cữ con chim cu của họ Changsarai), cá sấu vì sợ cá

sấu gây hại cho mình (Tục kiêng ăn thịt cá sấu của họ Changsarai), trăn vì tin rằng trăn giữ được bồ lúa

cho mình (Tục kiêng cữ con trăn của dòng họ Changsarai); họ Changgiarinh cữ mền dệt bằng bông vì sợ

vợ chết và phạt những ai mang đến lễ vật hỏi cưới có mền bông (Tục lệ cữ cái mền dệt bằng bông của

họChanggiarinh) và con vật màu trắng vì sợ cả hai vợ chồng đều bị chết (Tục kiêng cữ con vật màu trắng

của họ Changgiarinh); họ Vơkhuml kiêng cữ cây môn vì sợ sinh tật trộm cắp (Tục kiêng cữ cây môn của

họ Vơkhuml) và con trút vì sợ trút quấn chết trẻ (Tục kiêng cữ con trút của họ Vơkhuml (1)) hay vì sợ mẹ

con cùng chết khi sinh nở, trai làng đi rừng bị tử nạn (Tục kiêng cữ con trút của họ Vơkhuml (2)); họ

Tamun kiêng đọt mây vì sợ bị bệnh hủi (Tục kiêng cữ đọt mây của họ Tamun) và lá la-la-mắc vì sợ bị

bệnh điên (Tục kiêng cữ lá la-la-mắc của họ Tamun), họ Vơklây kiêng cây tơmvêt gội đầu vì sợ bị ngã

chết khi leo trèo và cây môn nấu canh thụt với mít non và cà rừng vì sợ bị ngứa sưng phù cả miệng (Tục

kiêng cây tơmvêt, cây môn của họ Vơklây)… Những truyện kể về sự tích các phong-vật địa phương

như lá nhiếp: một loại rau rừng ăn mát từng cứu đói dân làng mang tên cô gái hiếu thảo-Điểu Nhiếp, trên

đường đi hứng sương và tìm rau rừng cứu đói mẹ đã kiệt sức và chết đi hóa thành (Sự tích lá nhiếp); trái

bầu đựng nước: nhờ loài khỉ mách bảo – môtíp “khỉ dạy người”, mà người xưa biết trồng cây bầu

rồi dùng quả bầu khô đựng nước để dùng trong sinh hoạt (Sự tích trái bầu đựng nước); cái khố: nhờ loài

chim vàng anh mách bảo mà người xưa biết trồng cây bông, tách quả lấy bông se thành sợi, đan và dệt

thành váy cho người nữ mặc và khố cho người nam dùng (Sự tích cái khố); việc nấu rượu cần: với

môtíp bắt chước không thành công, sự tích nấu rượu cần được xây dựng theo chủ đề về mối quan hệ

gia đình giữa người chị đối xử tệ bạc với em trai khiến cho thần linh ra tay bày cho người em biết làm

rượu cần và có nhiều của cải còn vợ chồng người chị bị cọp vồ ăn thịt (Sự tích nấu rượu cần); ché rượu

cần: tích truyện bắt đầu từ việc người lớn bắt chước trò chơi của trẻ con đâm lá cây cho vào ống tre, đổ

nước vào rồi cắm ống để hút, về sau họ thay ống tre bằng ché sành, làm cơm ủ nhiều ngày cho lên men,

chế nước nóng ấm và dùng cần để hút rượu (Sự tích ché rượu cần); về tình trạng tộc người Xtiêng

không có vua: xưa người Xtiêng cũng có vua nhưng vì vua Xtiêng chịu chết thế mạng cho vua

Campuchia nên phải được phong vua lại nhưng vì mải lo bắt cá, bẫy thú trong rừng cùng lúc cây thần

thời gian bị các dân tộc khác chặt đi nên người Xtiêng không được phong vua nữa mà chỉ có chức già

làng ở khắp các làng sóc của mình (Sự tích người Xtiêng không có vua) ... Về quan hệ hôn nhân, có hai

truyện: truyện “Chín anh em và một người vợ” kể về lời cảnh báo của ngườiAtruyện “Vì sao có tục con

Page 6: ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ...qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOC VA NGON NGU... · Địa bàn cư trú của

trai Xtiêng phải ở rể?” kể về sự tích sau: do không muốn xa em gái mình nên người anh trai nọ buộc em

rể tương lai phải chịu ở lại nhà vợ làm việc mà không rước vợ đi xa về nhà mình.

3.3 Ở thể loại truyện cổ tích, kho tàng truyện kể dân gian Xtiêng ở tỉnh Bình Phước hội đủ cả

ba tiểu loại: tiểu loại truyện cổ tích loài vật, tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ và tiểu loại truyện cổ tích sinh

hoạt.

3.3.1. Trước hết cần đề cập đến tiểu loại truyện cổ tích loài vật. Truyện cổ tích loài cũng hội đủ

hai nhóm:

3.3.1.1. Về truyện cổ tích loài vật sống gần gũi với con người có 7 truyện kể các sự tích hồn

nhiên, ngây thơ và hóm hỉnh của người xưa có nội dung suy nguyên về thói quen hay đặc tính sinh học

của loài vật: vịt mái phải chở gà trống từ ngoài đảo vào đất liền ăn giỗ nhà mình khiến vịt trống ghen

tuông, để chuộc lỗi gà trống bảo vợ mình là gà mái ấp trứng vịt thay cho chị vịt tốt bụng bị hàm oan (Gà

ấp trứng vịt); vì ban đêm sủa không đúng cữ như loài gà khiến lỡ việc đi chim chuột của nhà vua nọ nên

loài chó bị vua rủa con nó đẻ ra thời gian sau mới mở mắt được (Vì sao chó con sinh ra thời gian sau

mới mở mắt?); kiếm được miếng cơm cháy ngon ở nhà người nên mèo quyết ở lại với loài người mà

không về rừng với họ hàng nhà hổ (Mèo ở với người); với hai cách nhìn vừa trái ngược nhau vừa bổ

sung cho nhau, tác giả dân gian Xtiêng khi xưa dẫn ra hai câu chuyện về sự thuận thảo và đố kỵ nhau

vốn có ở loài chó và loài mèo sống chung trong nhà với con người: chó nói xúc xiểm về việc mèo làm

mất vật quý của chủ khiến mèo bị đòn roi phải thở khò khè, nhưng khi biết được sự thật chủ nhà đánh

đuổi chó không cho đến gần mèo, buộc ở ngoài hè trông nhà, chỉ có mèo được ở trong nhà (Chuyện

mèo và chó); mèo và chó luôn đùn đẩy việc nhà cho nhau nhưng cuối cùng chúng cũng sống hòa hợp

được với nhau để phục vụ con người (Con mèo và con chó); về thói quen của trâu, bò thích nằm nơi

vũng sình cho mát vào mùa nắng nóng và chịu được lạnh hơn chó và heo vào mùa rét, dân gian Xtiêng

kể rằng vì trâu và chó cứ tị nạnh nhau mãi về việc nhóm lửa khiến trâu nhóm được lửa xong nuốt luôn

cục lửa vào bụng không để chó dùng nên bụng trâu luôn nóng phải tắm mát nơi vũng sình, chó cười sặc

sụa đến toác miệng khi thấy trâu kêu rống vì nuốt hòn lửa, chó và heo lười không nhóm lửa và nuốt lửa

nên chịu lạnh không bằng trâu và bò (Trâu và chó và Vì sao trâu và bò chịu được lạnh hơn chó và heo?).

3.3.1.2. Về truyện cổ tích loài vật sống nơi hoang dã, bên cạnh nội dung suy nguyên luận về thói

quen và đặc tính sinh học của loài vật còn có nhóm truyện về nhân vật tinh khôn như thỏ, rùa… sử dụng

chủ yếu môtíp “mẹo lừa”. Người Xtiêng xưa kia cho rằng tê giác là loài vật hung dữ quấy phá làng sóc do

thần linh phái xuống trần gian nên họ không dám giết mà xua đuổi nó vào rừng làm thú hoang (Sự tích

con tê giác). Vì tội phá phách mà loài trăn vốn là gia súc bị chủ nuôi lấy chăn trùm lại rồi đốt khiến da trăn

có những đốm vằn, về sau nó bỏ đi và nguyền rằng cứ người nào gặp nó gật đầu chào là phải chết khiến

từ đó loài người luôn phải tránh xa loài trăn (Sự tích con trăn).

Đặc sắc nhất là hai nhóm truyện về hai nhân vật tinh khôn thỏ và rùa. Dung lượng truyện khá

lớn, hành động nhân vật lặp đi lặp lại theo các môtíp khôn - dại, môtíp mẹo lừa, môtíp bắt chước được

triển khai với những tình tiết hấp dẫn và phong phú giữa hai nhân vật con thỏ nhỏ yếu nhưng thông minh

láu lĩnh và con cọp to xác, hung tợn nhưng ngu dốt, mau quên và cả tin (10 truyện), hay giữa con rùa –

bản sao đồng loại hình của nhân vật thỏ thông minh, nhỏ bé và chậm chạp nhưng khôn ngoan với con

Page 7: ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ...qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOC VA NGON NGU... · Địa bàn cư trú của

khỉ to khỏe, nhanh nhẹn nhưng ngu ngốc, có nhiều tật xấu, cả tin và mau quên (10 truyện). Trong khi thỏ

luôn bị cọp đe dọa đến tính mạng buộc phải đối phó hầu thoát khỏi nanh vuốt của kẻ ác hiểm bằng sức

mạnh trí tuệ của mình là dùng những đòn lừa sâu cay, nặng nề thậm chí khiến cọp phải thiệt mạng, thì

rùa và khỉ là đôi bạn thân sống chung trong một khu rừng nhưng lại luôn tìm cách lừa đảo nhau – rùa chỉ

phải lừa khỉ những khi buộc phải tự vệ, trả đòn đối phó, thậm chí trừng phạt thích đáng đối với những trò

lật lộng, xảo trá, nuốt lời của “bạn khỉ” tráo trở và lừa đảo. Nếu so sánh đối chiếu thì 10 truyện về “Rùa và

Khỉ” của tộc người Xtiêng (Rùa và Khỉ (1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10)) được xem là những dị

bản rất gần gũi với loạt truyện cùng tên “Rùa và Khỉ” của tộc người Ê Đê sinh sống chủ yếu ở hai tỉnh

Đắc Lắc và Đắc Nông – trước đây khi chưa tách tỉnh thì Đắc Lắc là tỉnh giáp với tỉnh Bình Phước-Sông

Bé ở phía bắc. Qua đây, có thể phác họa ra con đường giao lưu tiếp biến văn hóa giữa tộc người Ê Đê

và tộc người Xtiêng trong quá khứ gần. Trong 10 truyện ấy của người Xtiêng, nội dung cốt truyện đều

nhằm phản ánh đúng hiện thực về không gian cư trú canh tác nương rẫy, hái lượm, tín ngưỡng và quan

hệ với tự nhiên nơi vùng rừng núi của dân làng sóc Xtiêng: phát rừng làm rẫy, đốn củi, bẫy thú, hái rau

rừng, hái măng, hái quả rừng, hái xoài, nhặt trứng gà rừng, chặt mây, chặt đọt mây, chặt lá, cắt cỏ

tranh,… Về đề tài xử kiện, có hai truyện hấp dẫn kể về nhân vật thỏ thông minh đã giúp rùa thắng kiện

khỉ, và lại giúp con khỉ khác thắng kiện con rùa khác bằng việc “lập luận lấy việc vô lý tương tự để bác bỏ

điều vô lý được chấp nhận” – một môtíp phổ biến thường thấy xuất hiện trong đề tài xử kiện bên cạnh

môtíp khác “lừa cho vào tròng bằng cách bảo diễn lại việc đã xảy ra”. Đó là thỏ lấy việc “cá rô leo lên cây

ăn lá me” đối lại với việc “con nai bị dính bẫy ở trên cây” (Thỏ xử kiện (1)), và lấy việc “bò đực đẻ ra bê”

đối lại với việc “rùa leo lên cây để chặt mây” (Thỏ xử kiện (2)).

3.3.2. Trong tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ gồm đủ các kiểu truyện về nhân vật chàng trai

khỏe-dũng sĩ tài ba và nhân vật bất hạnh.

3.3.2.1. Kiểu truyện về nhân vật chàng trai khoẻ, dũng sĩ có 8 truyện: Năm chàng trai khỏe,

Cậu bé Đá, Chuyện kể về Ka Meng Đăng tài giỏi, Hai chàng trai tài giỏi, Chàng trai tài giỏi, Anh chàng tài

giỏi, Pơking-lơ-vuông, Con thằn lằn khổng lồcó môtíp cơ bản là: dũng sĩ diệt yêu quái cứu ng đẹp, cứu

cộng đồng. Trình tự cốt truyện của kiểu truyện này thường tuân theo ba bước: Ra đời thần kỳ, ăn khoẻ,

có sức mạnh vô địch; Lần lượt trải qua thử thách một mình hay liên minh để trừ ác diệt tà làm

việc nghĩa; cứu được cộng đồng, đem lại sự bình yêu, hạnh phúc cho cộng đồng và được đền ơn

bằng cưới vợ đẹp, giàu có, làm vua quan. Ra đời thần kỳ: cậu bé nằm trong khe đá được nhặt về đặt

tên cậu Đá không cười không khóc, chỉ nằm một chỗ rồi bỗng vụt lớn nhanh đòi đi đánh rồng lửa (Cậu bé

Đá) - nhân vật có chức năng giải cứu mang tính đồng loại hình với nhân vật Dóng hội đủ các môtíp: sinh

đẻ thần kỳ, lớn nhanh như thổi, đánh giặc, thiêng hóa / trở về cõi vĩnh hằng sau khi lập công / kỳ tích; hai

chàng trai vốn là bê con và cọp con được một bà lão tốt bụng làm phép để trở thành người (Hai chàng

trai tài giỏi); ăn khoẻ: người anh ăn bảy đống và người em ăn tám đống ói của trăn lớn nên từ đó họ ăn

khỏe và có sức mạnh hơn mọi người (Năm chàng trai khỏe); có sức mạnh: người em có sức mạnh vô

song, khỏe hơn bốn anh Kéo dây mây, anh Gánh gà, anh Thở mạnh và anh Phá núi (Năm chàng trai

khỏe), ông Ka Meng Đăng chặt cây ông chặt đầu, chặt đuôi bằng phẳng, khiêng cây nhẹ nhàng không

cần xe trâu kéo (Chuyện kể về Ka Meng Đăng tài giỏi); có tài: đến lượt thi tài chàng Young đưa gươm

một phát thì bảy bụi chuối đứt rời, rồi chặt luôn bảy lớp tre (Anh chàng tài giỏi); Chàng trai làm phép cho

cả làng ngủ. Rồi chàng hóa phép ra thợ xây nhà. Trong bảy ngày bảy đêm, căn nhà đã được xây xong

(Chàng trai tài giỏi).Thử thách gian nan để trưởng thành: nhiều lần hai anh em bị cha nghe theo lời xúi

giục của mẹ kế mang con bỏ vào rừng nhưng hai chàng vẫn sống sót trở về nhà (Năm chàng trai

khỏe); tập hợp lực lượng để làm việc nghĩa: bốn anh Kéo dây mây, anh Gánh gà, anh Thở mạnh và

anh Phá núi thi đấu vật và thì tài sức đều thua và phải đi theo người em (Năm chàng trai khỏe), ông Ka

Page 8: ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ...qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOC VA NGON NGU... · Địa bàn cư trú của

Meng Đăng gặp và thi tài đều thắng hai ông khỏe: ông Ka Heng Ba Nấp có thể dùng đầu đóng cọc ngăn

suối, đắp đập không cần dùng búa, và ông Ba Ka có thể dùng miệng hút nước để tát cá thay cho dùng

gàu (Chuyện kể về Ka Meng Đăng tài giỏi). Chiến đấu ác liệt, dũng cảm để trừ ác thú, yêu quái:

người em cùng bốn anh chàng tài giỏi đi tìm diệt vợ chồng nhà ma, cá sấu (Năm chàng trai khỏe); không

chỉ dựa vào sức khỏe phi thường mà còn biết vận dụng trí thông minh để đánh lừa con quái vật ngu

ngốc, chàng trai dũng mãnh từ xứ khác đến tìm diệt con thằn lằn khổng lổ Hai La Nhắc tàn phá làng mạc,

bắt những cô gái xinh đẹp làm thức ăn (Con thằn lằn khổng lồ), cậu bé Đá chiến đấu ác liệt khuất phục

được rồng lửa và cưỡi rồng bay đi (Cậu bé Đá), chàng trai đánh thắng vua đòi lại được vợ (Chàng trai tài

giỏi). Cứu được nhân dân, đồng đội, đem lại cuộc đời bình yên hạnh phúc: người em diệt vợ chồng

nhà ma cứu bốn người bạn,… năm chàng trai tiếp tục lên đường chinh phục muôn loài và khám phá sức

mạnh của mình (Năm chàng trai khỏe), từ đó dân làng không còn phải chuyển chỗ ở nữa, tránh được

họa bị rồng lửa thiêu đốt bản làng (Cậu bé Đá), dân làng theo các ông, ba ông lên làm vua cai trị ba

vùng, từ đó các làng khác không dám đến gây chiến nữa (Chuyện kể về Ka Meng Đăng tài giỏi). Môtíp

cơ bản của kiểu truyện: dũng sĩ diệt yêu quái, diệt đại bàng cứu người đẹp, cứu cộng đồng. Ngoài ra còn

có các môtíp phụ như: hiến tế người cho thú dữ, gieo cầu kén chồng, xuống hang cứu người rồi bị lấp lại

không có lối lên, tiếng đàn thần kỳ… Những năng lực diệu kỳ của các chàng trai tài giỏi, dũng sĩ tài ba

chính là ước mơ của người Xtiêng xưa kia muốn kéo dài đôi bàn tay của mình ra để đấu tranh có hiệu

lực nhất với thiên nhiên. Biệt tài của tập thể hay cá nhân họ là sự phóng đại năng suất lao động trong

những việc làm quen thuộc như: phá núi, tát nước, chặt vác cây, đóng cọc, đắp đập chống lũ… Tất cả

những công sức trong lao động và thành quả trong chiến đấu của họ đều nhằm mang lại hạnh phúc, ấm

no, yên vui cho dân làng.

3.3.2.2. Kiểu truyện về nhân vật người mồ côi có 21 truyện: Chàng Ngo, Chàng mồ côi (1),

(2) , (3) , (4), Hai anh em mồ côi , Chư– rương làm vua, Chuỗi vòng ốc, Câu chuyện trái chanh, Câu

chuyện trái cà, Chàng lười, Cô gái trong trứng công, Cô gái trong ngà voi (1), (2), (3), (4), Hai anh em (1),

Chàng chăn trâu (1), (2), (3), Hai anh em (2). Từ gia đình thị tộc mẫu hệ sang gia đình phụ quyền tức là

từ xã hội nguyên thủy sang xã hội có giai cấp, con người ngỡ ngàng và khó hiểu trước biết bao nhiêu

hiện tượng xã hội mới lạ và phức tạp mà trước đó họ chưa từng thấy. Đứa trẻ mồ côi thuộc lớp người

bất hạnh trở thành hình tượng nhân vật tiêu biểu, độc đáo trong hệ thống nhân vật người bị trị. Nó được

hình thành một cách có qui luật trong truyện kể dân gian ở các xã hội đã diễn ra quá trình tan rã của thị

tộc mẫu hệ, dòng họ mẹ không dẫn tới “gia đình lớn” mà là hình thành gia đình nhỏ phụ quyền. Lúc này

những đứa trẻ mồ côi lâm vào tình trạng bi đát vì dòng họ đã tan vỡ, bởi chúng không còn có được cơ

hội hàng loạt đàn ông nhận làm bố đồng thời với hàng loạt đàn bà nhận làm mẹ với tình cảm chân thực

như trước nữa. Trẻ mồ côi thành bơ vơ, thiếu người săn sóc, nhưng đạo đức và tập tục của xã hội

nguyên thủy buộc dòng họ-cộng đồng phải săn sóc mồ côi. Mồ côi gồm mồ côi cha, mồ côi mẹ và mồ côi

cả cha lẫn mẹ thường sống với bà, hiếm khi sống được với gia đình các ông chú, ông cậu bởi lẽ trong

thực tế mỗi người đều có gia đình cùng với con cái của mình, do mình phải trực tiếp lo lắng, và người họ

hàng bây giờ thấy xa lạ, không thích (và có khi thiếu cả khả năng thực tế) chăm sóc mồ côi nữa [6]. Từ

đây, có thể phân loại kiểu truyện về nhân vật mồ côi theo hai dạng xung đột: Mồ côi - anh chị em ruột,

mẹ ghẻ, bố dượng, cô dì, chú bác phản ánh xung đột trong nội bộ gia đình nhỏ, dòng tộc; gồm 2 nhóm

nhỏ: mồ côi - anh chị em ruột, mẹ ghẻ, bố dượng (gia đình): Chàng mồ côi (4), Hai anh em mồ côi, Hai

anh em (2) ; và mồ côi - chú bác, cô dì, trưởng tộc (dòng họ): Chàng mồ côi (2), Cô gái trong trứng công,

Hai anh em (1), Chàng chăn trâu (1), Chàng chăn trâu (2). Mồ côi - trai làng, địa chủ, chủ làng, vua

quan (phìa, tạo, ptao, mtao, chậu mường, phanha…), phản ánh xung đột ngoài xã hội từ cộng đồng

buôn làng đến quốc gia, dân tộc; cũng gồm 2 nhóm nhỏ: mồ côi - trai làng, địa chủ, chủ làng, tù trưởng,

mtao, ptao (làng, xã-đơn vị hạt nhân của quốc gia): Chàng Ngo, Chàng mồ côi (3), Chuỗi vòng ốc, Cô gái

trong ngà voi (1), (2), (3), (4), Chàng chăn trâu (3); và mồ côi - vua quan (quốc gia): Chư– rương làm vua,

Page 9: ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ...qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOC VA NGON NGU... · Địa bàn cư trú của

Câu chuyện trái chanh, Câu chuyện trái cà, Chàng lười. Kết cấu phổ biến của kiểu truyện là: nhân vật

phải trải qua một chặng đường thử thách đầy gian khổ, đương đầu với những vấn đề cơ bản như: bảo vệ

của cải, vợ con và bản thân khỏi bị tước đoạt hoặc uy hiếp để chiến thắng, đạt tới sự sung sướng và

hạnh phúc, khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Môtíp chính là môtíp thử thách về tài năng, sức khoẻ,

ý chí, nghị lực, trí thông minh, lòng nhân ái, tính kiên trì của nhân vật chính. Các môtíp phụ thần kỳ, kỳ ảo

được sử dụng như một phương tiện quan trọng thúc đẩy cốt truyện phát triển đến nút cần thiết như:

môtíp lấy vợ tiên, môtíp bay về trời, môtíp vi phạm điều cấm (vợ tiên ngửi thấy mùi măng lồ ồ, khổ qua

rừng sẽ bay về trời), môtíp vật nhận biết (chiếc nhẫn), môtíp thách đố (tìm đúng vật), môtíp vật chỉ dẫn /

mách bảo (con ruồi, con chuột, con đom đóm), môtíp tha thứ…

3.3.2.3. Kiểu truyện về nhân vật người con riêng có 9 truyện : Chuyện dì ghẻ con chồng (1),

(2), (3), (4), (5), (6), Đenpruc và Pasanhao, Người biến thành voi, Hai chị em (1). Chủ đề chính của kiểu

truyện này là sự xung đột giữa dì ghẻ và con chồng, tức là loại xung đột gia đình, vốn chiếm vị trí quan

trọng trong tiểu loại truyên cổ tích thần kỳ. Nhân vật người cón riêng là một dạng biến thể của loại hình

nhân vật người mồ côi. Trong số 9 truyện này, có thể thực hiện hai phép so sánh giữa truyệnChuyện dì

ghẻ con chồng (1) với truyện Tấm Cám [7] của tộc người Việt, và giữa hai truyện khá tương đồng với

nhau là truyệnChuyện dì ghẻ con chồng (3) và truyện Dì ghẻ con chồng (4) để rút ra vài đặc điểm về bản

sắc văn hóa tộc người Xtiêng ở kiểu truyện này. Trong loạt truyện này, truyện Dì ghẻ con chồng (1) [8] có

cốt truyện gần giống với truyện Tấm Cám nhất. So sánh hai truyện này với nhau, ta thấy có những nét

tương đồng và dị biệt sau: Về nhân vật, trong khi truyện Việt chỉ có ba nhân vật (Tấm, Cám và dì ghẻ-mẹ

của Cám, thì truyện Xtiêng có bốn nhân vật (cha, mẹ, cô gái con riêng của người chồng và người vợ

nhỏ) mà không có người con riêng của người vợ nhỏ. Về kẻ bị hại chết và hóa kiếp: ở truyện Việt là

Tấm bị hại chết rồi hóa kiếp 3 lần (chim vàng anh, cây xoan, cây thị), còn ở truyện Stiêng là người vợ lớn

bị vợ nhỏ xô xuống hố củ chụp chết – báo mộng, rồi cũng hóa kiếp 3 lần (chim cu, ba ba, cây táo). Về

môtíp trả thù hay trừng phạt ở đoạn kết của truyện: ở truyện Việt là cái chết trước sau của mẹ con con

Cám, còn ở truyện Xtiêng mụ dì ghẻ bị vua xử tội chết. Qua so sánh, ta thấy mặc dù ở truyện Xtiêng có

nhiều nhân vật hơn truyện Việt và nhân vật gây hại trực tiếp cho nhân vật chính là mụ dì ghẻ nhưng dung

lượng cốt truyện cùng diễn biến của các sự kiện, các tình tiết cùng sự tham gia của các môtíp nhằm tạo

nên cốt truyện không phong phú và phức tạp bằng truyện Tấm Cám của người Việt. Bởi lẽ nhân vật kẻ

gây hại trong truyện Xtiêng chỉ có một mình mụ dì ghẻ, còn trong truyện Việt Tấm Cám có đến hai mẹ

con con Cám cùng nham hiểm và độc ác không ai thua ai. Khảo sát hai truyện Chuyện dì ghẻ con chồng

(3) và Chuyện dì ghẻ con chồng (4), ta thấy chúng có cốt truyện giống nhau với các nhân vật, các tình

tiết, các chi tiết và các môtíp tương đồng. Thâm nhập và móc xích vào hai truyện này là dạng truyện về

nhân vật chàng dũng sĩ. Qua so sánh, ta thấy nội dung cốt truyện của bản kể (4) có dung lượng dài hơn,

kết cấu hoàn chỉnh và chặt chẽ hơn bản kể (3) với việc miêu tả thêm ít nhiều về tâm lý của nhân vật. Cụ

thể là: sau khi giết chết người vợ lớn “Vợ nhỏ còn lừa hai đứa trẻ là mẹ chúng không còn thương hai đứa

nữa nên qua xứ khác lấy chồng rồi”; sau khi cướp đoạt những củ chụp lớn của hai trẻ đào được và để

dành ăn dần “người vợ nhỏ nói dối và cho rằng củ chụp lớn đó là do mình để dành vài hôm nữa mới đào

lên chứ ai chết mà hóa ra củ chụp. Người chồng vừa tin con vừa tin vợ nên chẳng biết làm thế nào” ;

“Ông chồng phải nghe theo và nghĩ cứ như vậy cũng không được. Có những lúc vợ nhỏ vắng nhà, ông

ngồi khóc với hai con. Ông dẫn hai đứa đi đến một khu rừng thật xa, hoang vắng chưa ai từng đến bao

giờ. Ông cất một cái chòi và đào nhiều củ chụp cho chúng. Sau đó, ông nói với chúng là mình đi đào củ

chụp một lát sẽ quay lại, hai đứa cứ ở đây chờ ông. Rồi ông trốn đi”; đứa anh rất khôn ngoan không chịu

nhận bùa phép của ông Chằn cho sau khi bị sập bẫy mà còn đòi hỏi “Vì đau quá, ông Chằn bèn cho

thằng anh bùa phép và nhà cửa đồ đạc. Nhưng thằng anh không chịu. Nó đòi thêm phép lạ chém người

không đứt, đốt không cháy, đánh không ai đánh lại”… Qua câu chuyện, ta thấy chàng trai có được phép

thuật là do chàng giành lấy được chứ không nhờ cậy vào sự giúp đỡ của đấng thần linh nào. Mong ước

Page 10: ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ...qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOC VA NGON NGU... · Địa bàn cư trú của

của tác giả dân gian Xtiêng được thể hiện trọn vẹn qua hình tượng chàng trai mồ côi, dũng sĩ tài giỏi,

mưu trí chủ động tìm diệt lực lượng yêu ma để trừ hại cho dân lành. Thông qua môtíp tha thứ ở đoạn kết

của truyện, ta không bắt gặp sự trả thù đối với người di ghẻ độc ác mà là hình ảnh một người con hiếu

thảo luôn đối xử tốt với cha và ngay cả với người mẹ ghẻ cho dù trước kia bà giết mẹ mình và luôn đánh

đập, hành hạ hai anh em. Câu chuyện phản ánh quan niệm đầy tính nhân văn của tác giả dân gian

Xtiêng.

3.3.2.4. Kiểu truyện về nhân vật xấu xí mà tài ba hay người lấy người đội lốt vật có 27

truyện: Sọ dừa, Thần dừa, Phò mã gầy, Chàng gà (1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), Chàng trai và con trăn,

Lấy chồng trăn (1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), Người lấy rắn (1), (2), Lấy chồng rắn, Lấy chồng chồn, Bà

hổ, Bà vượn (jau cuôn), Người con của khỉ, Chàng cùi. Kết cấu chung của kiểu truyện này gồm các bước

đoạn sau: “Nguồn gốc nhân vật > Hình thức nhân vật > Sự thử thách đối với nhân vật > Tài năng của

nhân vật > Nhân vật kết hôn > Tai họa và kẻ gây tai họa > Sự trợ giúp > Kết quả nhân vật đạt được…

Ứng với các bước đoạn đó là xâu chuỗi các môtíp đóng vai trò đậm nhạt khác nhau, tạo nên sự phát

triển của hình tượng nhân vật xấu xí mà tài ba. Đó là các môtíp: sinh đẻ thần kỳ, người mang lốt, thử

thách, tài năng thần kỳ, kết hôn, tai họa và tài năng kép, vật phù trợ, đoàn viên” [9]. Không phải tất cả các

truyện Xtiêng thuộc loại này đều có đầy đủ các bước đoạn và môtíp của khung mẫu mà có thể ở truyện

này thiếu môtíp này, ở truyện kia thiếu môtíp khác… Khảo sát 27 truyện, ta thấy 8 môtíp cơ bản trên

được tác giả dân gian Xtiêng thể hiện rất linh hoạt và đa dạng khi sáng tác loại truyện này. Môtíp sinh đẻ

thần kỳ chỉ thấy xuất hiện ở truyệnNgười con của khỉ: người vợ uống nước giải của loài khỉ nên về nhà

có mang và sinh được hai con khỉ con; môtíp này là nhằm đề cao và lý tưởng hóa nhân vật, nó đem đến

cho nhân vật một nguồn gốc thần linh, biến số phận bế tắc của nhân vật thành một sự báo hiệu khác

thường thần thánh, tàng ẩn những tính chất kỳ lạ. Môtíp người mang lốt hay cái lốt – lốt các con vật

phổ biến hơn lốt dị dạng, là vỏ bọc ngồi, là hình thức tạm thời để nhân vật ẩn mình nhưng đồng thời nó

cũng chính là nhân vật khi nó chưa tách rời khỏi nhân vật; nó cũng có ý nghĩa là sự thử thách để nhân

vật muốn tự khẳng định mình là con người trong hình thức còn là con vật. Các nhân vật thường đội lốt

các con vật như: gà, trăn, rắn, chồn, hổ, vượn, khỉ... những con vật rất gần gũi với người Xtiêng trong đời

sống săn bắt, chăn nuôi lúc bấy giờ. Thông thường cái lốt xấu xí, dị dạng của nhân vật khiến cộng đồng

xa lánh, hắt hủi. Chàng Gà tiên (Chàng Ga) bị người em gái ghen tị, oán hận, coi chàng là nguyên nhân

gây ra nỗi bất hòa giữa hai chị em cô ta. Chàng Trăn (Người lấy trăn), chàng Rắn (Người lấy rắn), chàng

Chồn (Người lấy chồn) bị những người chị của cô út khinh bỉ, hành hạ. Cả cộng đồng làng bản đuổi ba

mẹ con khỉ con ra khỏi làng vì cho rằng họ đem đến tai họa cho dân làng (Người con của khỉ). Và cái lốt

chỉ được tác giả dân gian Xtiêng cởi bỏ một khi nhân vật chiến thắng đạt được mục đích hạnh

phúc. Môtíp thử thách được thể hiện ở nhiều hình thức và nhiều cấp độ khác nhau và trong nhiều mối

quan hệ khác nhau; để vượt qua thử thách phải gánh chịu là sự ruồng bỏ coi khinh của mọi người, có lúc

lại là cha mẹ mình vì có hình dạng xấu xí bên ngoài, để khẳng định mình vốn là “con người” đang sống

trong lốt của con vật hay với hình hài dị dạng để tồn tại trên đời này, nhân vật xấu xí đã phải cất lên tiếng

nói của con người (Sọ Dừa). Mặt khác, họ luôn chủ động bộc lộ khả năng của mình giống như người

bình thường, nhất là trong lao động; họ không ăn bám mọi người mà tự lao động giúp đỡ mọi người.

Chàng Rắn (Lấy chồng rắn) ban ngày đi theo nàng út giã gạo, lấy nước, đêm về thì biến thành người

chặt củi, làm việc nhà giúp vợ. Tuy mang hình dạng vượn, bà Vượn (Bà Vượn), bà Hổ (Bà Hổ) ngày

ngày vẫn đi làm và kiếm thức ăn về cho các cháu. Môtíp tài năng thần kỳ: tài năng phi thường của

chàng Chồn (Người lấy chồn) thể hiện rõ qua việc vượt qua mọi thử thách của nhà vua đưa ra: xây một

ngôi nhà to đẹp trong bảy ngày, đi săn thú rừng về làm tiệc,… Chính việc này làm thay đổi cách đối xử

của nhà vua đối với con rể. Từ chỗ chán ghét, coi thường, nhà vua chuyển sang khâm phục tài năng của

chàng Chồn. Môtíp kết hôn: xuất hiện trong hầu hết các truyện như một phần thưởng tác giả dân gian

Xtiêng dành cho những nỗ lực, cố gắng vươn lên khẳng định mình của nhân vật. Môtíp tai họa và tài

năng kép: Những người chị của các cô út (Lấy chồng trăn, Lấy chồng rắn, Lấy chồng chồn) ban đầu luôn

Page 11: ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ...qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOC VA NGON NGU... · Địa bàn cư trú của

coi thường, chế giễu nhân vật xấu xí mà tài ba. Sau này, khi thấy em mình được hạnh phúc cùng chàng

trai tài giỏi, họ trở thành đối tượng gây tai họa cho nhân vật, tìm cách hãm hại em mình. Tài năng kép

của chàng Trăn (Lấy chồng trăn): cảm nhận được sắp có tai họa, trước khi đi xa chàng đã chuẩn bị mọi

thứ đầy đủ trong nhà để vợ không phải ra ngoài và một con dao phòng thân. Môtíp vật phụ trợ xuất hiện

ở tất cả các truyện từ lực lượng hỗ trợ là các nhân vật thần linh như các vật dụng phòng thân: lông nhím,

con dao và các con vật như gà, chim, voi… (Lấy chồng trăn (1), (2), (3), (4), (5), (6)). Môtíp đoàn

viên được tác giả dân gian Xtiêng thể hiện bằng hình ảnh nhân vật xấu xí mà tài ba trút bỏ hình hài xấu

xí bên ngoài, trở thành người đẹp đẽ, tài giỏi, lấy được người vợ đẹp, hiền dịu và sống cuộc sống giàu

có, hạnh phúc.

3.3.2.5. Đề tài-cốt truyện ngoại tình hay tình yêu chung thủy có 7 truyện: Cô gái tóc dài (1),

(2), (3), (4), (5), (6), Chàng Crông và nàng Tăng Hin. Ở đề tài-cốt truyện này, nhóm truyện Cô gái tóc

dài với 6 dị bản đều nhằm phản ánh những xung đột, mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng đồng thời là bài

học đạo đức về cách ứng xử của vợ chồng trong gia đình và ngoài xã hội. Dân gian Xtiêng luôn đề cao,

ca ngợi những người phụ nữ hiền dịu, chung thủy, hết mực yêu thương chồng. Những người vợ phản

bội, độc ác phải bị lên án, trừng phạt. Nhờ sự trợ giúp của bạn bè và lực lượng thần kỳ chàng trai nghèo

đã thoát khỏi âm mưu hãm hại của người vợ ngoại tình phản bội, sau đó qua cuộc phiêu lưu ra đi tìm

người vợ chung thủy chàng trai đã phải trải qua những thử thách gian nan, khắc nghiệt, vợ bị cướp thân

bị hại, chết đi sống lại để rồi cuối cùng được đoàn viên sum họp với người vợ thủy chung. Kết thúc có

hậu của cả sáu dị bản này mang tính công thức và là qui luật phổ biến của tiểu loại truyện cổ tích thần

kỳ. Diễn biến cốt truyện của 6 truyện này đạt đến hồi kết đoàn viên sum họp là nhờ tác giả dân gian

Xtiêng đã biết khai thác tối đa những môtíp chính và phụ của dạng truyện này: phản bội, ngoại tình, trừng

phạt, hôn nhân tiền định, tranh cướp vợ người, tái sinh, lừa cướp vợ người, tranh cướp lại vợ, lực lượng

phù trợ thần kỳ gồm: rắn, lá cây thần, Giàng, vua trời, chồn, mèo, chó, trâu, bò biết nói, cò tiên, chồn tiên,

lá thuốc thần, cây thần, rễ cây thần, chiếc chiếu nổi,…

3.3.2.6. Nhóm truyện về thế giới ma quỉ có 13 truyện: Hai chị em, Ji Băch và Ji Bay, Chuyện ăn

thịt người, Con ma lai, Chuyện ó ma lai, Chuyện ma lai, Chuyện ma bò, Sự tích bàu soi ếch, Chuyện ma

quỷ bắt dơi, Bảy chị em (1), (2), Chàng trai giết quỷ, Soi ếch (1), (2), Câu chuyện về dòng họ Bratit. Nhóm

truyện ma quỷ này có nội dung nhằm cụ thể hóa những tưởng tượng và quan niệm của người Xtiêng xưa

kia về các loài yêu ma, quỷ quái. Chúng là đại diện của sự độc ác, của thế giới đen tối luôn chầu chực đe

dọa tính mạng con người. Khảo sát hai truyện Bảy chị em (1), (2) và truyện Chàng trai giết quỷ vốn có

cùng cốt kể của loại truyện ma quỷ song ta lại thấy có sự thâm nhập và móc xích vào đây hình tượng

nhân vật chàng trai khoẻ – dũng sĩ tài ba ngày càng được đề cao trong các tác phẩm này. Có thể xem

đây là nét độc đáo của tác giả dân gian Xtiêng trong việc kết hợp, đan xen các loại nhân vật khác nhau

trong một dạng truyện nhất định. Ở một khía cạnh khác, hình ảnh những chàng trai trong hai truyện Soi

ếch (1), (2) đã biết dùng mưu trí để lừa gạt rồi diệt được loài ma trong những tình huống hiểm nguy rình

rập là bước phát triển mới ca ngợi chiến thắng vẻ vang của trí tuệ dân gian Xtiêng trước thế lực ma quỷ

trong xã hội xưa. Ngoài ra, có thể xem truyện Ji Băch và Ji Bay là một dị bản của truyện cùng tên của tộc

người Mơ Nông cùng chung sống với đồng bào Xtiêng từ lâu đời ở tỉnh Bình Phước ngày nay và tỉnh

Sông Bé trước đây.

3.3.3. Nội dung đề tài-cốt truyện trong tiểu loại truyện cổ tích sinh hoạt gồm hai mảng đề tài lớn

là các mối quan hệ trong gia đình và các mối quan hệ ngoài xã hội, ngoài ra còn có chủ đề về nhân vật

ngốc và nhân vật thông minh.

Page 12: ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ...qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOC VA NGON NGU... · Địa bàn cư trú của

3.3.3.1. Về các mối quan hệ trong gia đình có 15 truyện: Chàng trai kén vợ, Hai chị em (2), (3),

(4), (5), (6), Hai nàng công chúa, Mẹ ghẻ con chồng, Hai anh em (3), Hai anh em N’tơi và N’tai, Đào củ

trục, Người vợ khôn ngoan, Người vợ thông minh, Người cậu tốt bụng, Ơng cọp, Dạy con chọn

vợ. Những mối quan hệ giữa những ruột thịt thân thích trong gia đình và dong họ được tác giả dân gian

Xtiêng phản ánh rất trung thực và sâu sắc nhằm mang đến những bài học rèn luyện về đạo đức và nhân

cách tốt đẹp cho người đọc, người nghe truyện cổ Xtiêng. Đó là những bài học kinh nghiệm về lòng hiếu

thảo của người con đối với cả cha mẹ ruột lẫn cha mẹ nuôi (Ông cọp); sự ăn năn hối cải của người anh

sai trái và lòng vị tha của người em tốt bụng (Hai anh em N’tơi và N’tai); sự thương yêu con cháu ruột thịt

của ông cậu tốt bụng biết san sẻ, gánh vác hoạn nạn của cháu mình mà qua đó người cháu tỉnh ngộ

nhận ra không đâu bằng tình ruột già máu mủ (Người cậu tốt bụng); vợ chồng chung thủy hay người vợ

thủy chung vì tình nghĩa dám quyên sinh theo chồng (Hai chị em (2)); bài học của ông bà xưa dạy về việc

chọn vợ mới lớn và vợ góa chớ nên chọn vợ già và vợ bỏ chồng vì tính phản trắc của họ (Dạy con chọn

vợ); bài học chọn vợ chọn chồng theo quan niệm cần có sự cảm thông và chia sẻ lẫn nhau mới bảo đảm

hạnh phúc được trọn vẹn và bền chặt (Người vợ thông minh); chọn vợ vừa biết thương yêu chồng con

vừa thông minh biết ứng xử không ngoan với người ngoài (Người vợ khôn ngoan – một dị bản rất giống

với truyện Chồng khôn vợ đặng đi hài, vợ khôn chồng đặng có ngày làm quan của người Việt),…

3.3.3.2. Về các mối quan hệ ngoài xã hội có 10 truyện: Ở rể thay, Cậu bé mồ côi và con chó,

Nhớ ơn người già, Anh mù và anh què, Chàng trai hay ghen, Chàng trai kén vợ, Yoong Roong, Cham và

Proh, Phú ông gả con, Ông già tốt bụng, Chuyện ông Tông Vu. Do những mối quan hệ ngoài xã hội thật

phong phú và muôn màu muôn vẻ cho nên chủ đề về những mâu thuẫn cần lý giải cùng những bài học

kinh nghiệm về thuật ứng xử ở đời hay đối nhân xử thế cũng thật đa dạng và nhiều hơn cả. Với nghị lực

phi thường vượt qua được những thách đố đầy nguy hiểm mà chàng trai đã thắng cuộc người bạn khiến

anh ta phải ở rể thay mình để trả tiếp món nợ cho nhà vợ (Ở rể thay); lòng thương người của cô gái út

con trưởng bản được đền đáp xứng đáng (Cậu bé mồ côi và con cho); lời răn dạy của người già luôn

mang lại điều tốt lành cho những ai biết nghe theo (Nhớ ơn người già); luật tục hay cán cân công lý nơi

làng xã luôn bênh vực cho những người nghèo khó bị áp bức bóc lột (Phú ông gả con); những kẻ gian

phu dâm phụ hay phản trắc luôn bị luật trời trừng phạt (Yoong Roong, Cham và Proh); tấm gương của

ông nhà giàu tốt bụng, hào hiệp, rộng lượng và không toan tính có ý nghĩa tố cáo và vạch trần bộ mặt

tráo trở của những kẻ nghèo khó nhưng lại giả nhân giả nghĩa, bội bạc, ăn cháo đá bát, đáng bị trừng

phạt thích đáng theo triết lý dân gian toàn nhân loại “ác giả ác báo” (Ong già tốt bụng); phàm là con

người, sống trên đời phải thật thà, chăm chỉ làm ăn và biết giúp đỡ người khác; sống phải có trước có

sau thì mới đáng sống (Chuyện ông Tông Vu).

3.3.3.3. Nhóm truyện về nhân vật ngốc có 9 truyện: Chàng ngốc đi buôn, Ngốc đi ăn trộm,

Chuyện chàng ngốc (1), (2), (3), (4), (5), (6), Hoàng tử lười. Trong đó ba truyện Chuyện chàng Ngốc (4),

(5), (6) có thể xem là những dị bản khác nhau của cùng một dạng truyện về nhân vật Ngốc, các tình tiết

trong ba truyện có đôi chỗ khác nhau nhưng đều thuộc cùng một cốt kể về một chàng vốn “khờ lắm, ai

sai gì thì làm nấy”, vậy mà “anh ta cũng lấy được vợ ở một làng nọ” song cho dù Ngốc vốn có ý tốt muốn

làm việc giúp đỡ gia đình thì sự ngốc nghếch của anh ta vẫn đem lại hết tai hại này đến mất mát khác

cho gia đình nhà vợ và cho chính bản thân anh ta; kết cục là Ngốc vẫn mãi là anh chàng ăn bám gia đình

không hơn không kém. Trên thực tế, ở loại truyện chàng ngốc này tác giả dân gian Xtiêng không nhằm

lên án những hành động ngờ nghệch, thiếu khôn ngoan của các anh khờ dại hay ngốc nghếch mà muốn

gửi một thông điệp đến công chúng đọc giả, thính giả rằng trước khi làm việc gì ta cần phải suy tính

Page 13: ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ...qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOC VA NGON NGU... · Địa bàn cư trú của

trước sau cho cẩn thận, nhất là với những trường hợp nói chệch, nói lái trong nội bộ tộc người Xtiêng,

nếu không sẽ chuốc lấy thất bại, gây hậu quả xấu cho chính mình, người thân và những người xung

quanh mình.

3.3.3.4. Nhóm truyện về nhân vật thông minh có 4 truyện: Chàng thợ săn mưu trí, Anh hầu

trạng (1), (2), Cậu bé nói dối. Đó là những câu chuyện thật đặc sắc về cuộc đời của những người con ưu

tú, thông minh xuất chúng của dân gian Xtiêng xứng đáng được các thế hệ con cháu trước kia, ngày nay

và sau này noi gương theo. Chàng trai tìm thuốc chữa bệnh ăn không ngon cho vua bằng công việc lao

động vất vả: hạnh phúc có được đều từ lao động mà ra, chỉ có lao động mới đem lại cuộc sống tốt đẹp

cho con người (Anh hầu trạng); trí thông minh luôn giúp con người thoát khỏi hiểm nguy luôn ẩn giấu

trong thiên nhiên hoang da (Chàng thợ săn mưu trí);

3.4 Thể loại truyện cười có 13 truyện được phân thành ba nhóm khôi hài, châm biếm và đả

kích: Cây to hai người ôm, Cò chiên, Câu chuyện hẹn hò, Chàng trai và ông già chăn của, Chuyện trái

bầu, Đi bắt cá, Chàng Prooc, Anh chàng thông minh, Chuyện ông Yô Yốt, Thầy hít, Chàng trai mưu trí,

Chuyện trạng Achơi, Anh hầu thông minh. Tìm hiểu 13 truyện này, có thể cho rằng Câu chuyện hẹn hò là

một truyện cười khôi hài tiêu biểu nhất: Chàng trai đến nhà người yêu để tâm sự, bất ngờ bị đau bụng

chạy không kịp phải xón ra quần; đi tìm nước rửa loay hoay thế nào lại bị kẹt cái đầu trong khạp nước;

tìm cách đập bể khạp nhưng anh lại lần rờ trúng đầu mẹ cô gái nhẵn thín tưởng là hòn đá nên đập cái

khạp vào đầu bà; hậu quả là chàng trai vụng về bị cô gái từ bỏ. Tác giả dân gian Xtiêng thật khéo léo khi

chọn tình huống dở khóc dở cười để xây dựng cốt truyện. Tiếng cười bật ra thật vô tư nhưng đầy ý

nghĩa. Có 7 truyện cười châm biếm mang nội dung phê phán những thói hư tật xấu trong cộng đồng

như: nói khoác (Chàng Prooc, Anh chàng thông minh, Thầy hít), học đòi (Chuyện ông Yô Yôt), tham lam

(Chàng trai và ông già chăn của, Chuyện trái bầu, Đi bắt cá)… Ba truyện Chàng trai và ông già chăn của,

Chuyện trái bầu và Đi bắt cá là một chuỗi hành động ăn miếng trả miếng giữa chàng trai và ông già láng

giềng về việc sở hữu những vật mà hai người cùng nhìn thấy như tổ chim trên rẫy, trái bầu, cá dưới suối;

kết quả là ông già tham lam bị chàng trai lừa qua hết truyện này đến truyện khác. Nhân vật Prooc là bản

sao của loại hình nhân vật Cuội ở truyện Xtiêng: vì để bụng chuyện ông cậu không giữ lời hứa nên Prooc

tìm kế lừa hai vợ chồng cậu hết lần này đến lần khác (Chàng Prooc). Tiếng cười đả kích hả hê trong dân

gian Xtiêng được bật lên khi họ nghe qua câu chuyện về Anh hầu thông minh bằng sự lanh trí, khôn

ngoan bẩm sinh đã không cho ông vua độc ác bất kỳ cơ hội nhỏ nhoi nào để giết hại mình; hình ảnh tiêu

biểu là anh ta càng thông minh bao nhiêu thì tên vua lại càng ngu ngốc, nhỏ nhen và độc ác bấy nhiêu.

Cùng thuộc loại hình nhân vật Trạng Quỳnh của người Việt, Thmênh Chêy của người Khmer, Achơi

trong Chuyện trạng Achơi là hiện thân mơ ước của dân gian Xtiêng về một nhân vật thông minh, giỏi

giang dùng tài trí của mình chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của tầng lớp vua chúa thống trị, sống

xa hoa hưởng lạc trên sức lao động của nhân dân.

3.5. Thể loại truyện ngụ ngôn Xtiêng mới sưu tầm được một truyện duy nhất là truyện Chú

thỏ thông minh có chủ đề thể hiện ý chí đấu tranh, chống áp bức bóc lột, đòi quyền sống, quyền bình

đẳng; truyện kể về việc chú thỏ thông minh nọ đã dùng mưu kế giả làm sứ thần nhà trời đem quân

xuống trần đe dọa trừng phạt tội trọng của rái cá ngang nhiên chặn dòng nước đầu nguồn giúp cho các

loài vật khác có được cuộc sống thanh bình như xưa.

4. Trở lên, qua khảo sát 233 truyện cổ có thể nêu vài nhận xét về kho tàng truyện kể dân

gian Xtiêng ở tỉnh Bình Phước như sau:

Page 14: ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ...qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOC VA NGON NGU... · Địa bàn cư trú của

4.1. Trữ lượng và mật độ lưu truyền tác phẩm truyện kể dân gian Stiêng ở các huyện trong

tỉnh Bình Phườc, tính số lượng từ nhiều đến ít, là theo thứ tự sau: Bình Long, Bù Đăng, Lộc Ninh, Bù

Đốp, Phước Long, Đồng Phú và Chơn Thành – địa phương chúng tôi chưa đến sưu tầm điền dã.

4.2. Với non 30 mẩu kể, thần thoại Xtiêng phản ánh khá đầy đủ nhận thức của cộng đồng

Xtiêng thời nguyên thủy suy nguyên về vũ trụ, muôn loài, nhân loại, tộc người cùng những thành tựu

sáng tạo văn hóa của tổ tiên người Stiêng trong buổi bình minh lịch sử của tộc người. Tư duy thần thoại

ở đây chịu ảnh hưởng rõ nét bởi những quan niệm về tín ngưỡng dân gian thời nguyên thủy như vật linh

giáo, bái vật giáo và tôtem giáo.

4.3. Trong số 29 truyền thuyết Xtiêng chưa thấy có nhóm truyền thuyết về nhân vật. Trong khi

đó, nhóm truyền thuyết địa danh chỉ vỏn vẹn với 8 truyện hãy còn ít chưa giải thích được bao nhiêu về

nguồn gốc của các địa danh tự nhiên và địa danh xã hội gắn với nhiều danh thắng cùng di tích lịch sử và

di tích văn hóa ở các địa phương có người Xtiêng sinh sống xưa nay. Còn nhóm truyền thuyết phong-vật

với 21 truyện đã lý giải khá toàn diện và hấp dẫn nguồn gốc của những tín ngưỡng, tập tục cùng những

sản vật địa phương theo quan niệm của dân gian Xtiêng khi xưa. Đặc biệt có đến 11 truyền thuyết giải

thích nguồn gốc nhiều tập tục kiêng cữ ở những dòng họ chính của người Xtiêng.

4.4. Thể loại truyện cổ tích Xtiêng vừa phong phú về số lượng - 160 truyện, vừa đa dạng về

tiểu loại, nhóm, dạng truyện cùng đề tài, chủ đề, nhân vật và môtíp cấu tạo nên cốt truyện. Truyện cổ tích

loài vật có đủ các nhóm, dạng truyện cùng những nội dung suy nguyên luận, môtíp mẹo lừa và đề tài xử

kiện vốn có ở tiểu loại truyện này. Tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ cũng có đủ các kiểu truyện phổ biến

như: về nhân vật chàng trai khỏe-dũng sĩ tài ba, người mồ côi, người con riêng, người em út và nhân vật

xấu xí mà tài ba hay người lấy người đội lốt vật, đề tài-cốt truyện ngoại tình hay tình yêu chung thủy và

nhóm truyện về thế giới ma quỉ. Nội dung đề tài và chủ đề của truyện cổ tích sinh hoạt Xtiêng vừa thật

dồi dào vừa mang nhiều yếu tố thế tục rõ nét của giai đoạn phát triển của xã hội tiền phong kiến với

những mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội ngày càng diễn biến phức tạp với nhiều sắc thái biểu

hiện khác nhau.

4.5. Truyện cười Xtiêng- 13 truyện, mang sắc thái khôi hài, châm biếm hay đả kích vừa mang

chức năng mua vui giải trí vừa nhằm đưa ra những bài học đạo đức nhằm hoàn thiện cuộc sống con

người. Đáng lưu ý là đối tượng của tiếng cười đả kích trong dân gian Stiêng đã là những tầng lớp vua

chúa thống trị chuyên quyền, độc đoán, sống xa hoa hưởng lạc trên sức lao động của nhân dân.

4.6. Truyện ngụ ngôn Xtiêng chỉ mới tìm thấy có một truyện phát triển từ cổ tích loài vật mang

chủ đề thể hiện ý chí đấu tranh, chống áp bức bóc lột, đòi quyền sống, quyền bình đẳng. Nhân vật chính

là chú thỏ tinh khôn thường xuất hiện trong dạng truyện cổ tích loài vật có môtíp mẹo lừa hay đề tài xử

kiện ra đời trước đó.

4.7. Sự xuất hiện những truyện cổ Xtiêng như Rùa và Khỉ, Ji Băch Ji Bay, Người vợ khôn

ngoan, Chuyện trạng Achơi mang tính dị bản tương đồng với một số truyện cổ của các tộc người láng

giềng cộng cư và xen cư như Ê Đê, Mơ Nông, Khmer, Việt… đã chứng thực cho những quá trình giao

lưu tiếp biến văn hóa giữa các tộc người này với tộc người Xtiêng ở tỉnh Sông Bé-Bình Phước từng xảy

ra trong quá khứ xa và gần.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 15.09.2011

PXV

Chú thích

Page 15: ThS., Giảng viên chính Khoa Văn học và Ngôn ngữ – Trường ...qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOC VA NGON NGU... · Địa bàn cư trú của

[1] Con số 233 truyện này được tuyển chọn từ hai đợt thực tập thực tế của hai khóa sinh viên Khoa

Văn học và Ngôn ngữ, Trường ĐHKHXH&NV-ĐHQGTPHCM, trong hai năm 2008 và 2009 tại 6

huyện của tỉnh Bình Phước.

[2] Thuật ngữ được tác giả Nguyễn Định sử dụng trong luận án tiến sĩ Yếu tố thần kỳ trong truyền

thuyết và truyện cổ tích người Việt ở Nam Trung Bộ - công trình thuộc Dự án công bố, phổ biến tài

sản văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam của Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, Nxb KHXH, 2010,

trang 69.

[3] Con người tách từ nhánh khỉ mà ra, thuộc giống khỉ hình người. Những kết quả nghiên cứu về “bộ

gen “của các loài khỉ như khỉ không đuôi có dạng giống người (ape), khỉ đột (gorilla), đười ươi

(orangutan), vượn (chimpanzee), và “bộ gen” của người cho thấy giữa người và vượn, 99% của “bộ

gen” y hệt nhau (identical).

[4] Trong truyện kể dân gian các dân tộc Trường Sơn-Tây Nguyên, người chỉ là một trong muôn loài và

có quan hệ rất chặt chẽ và thân thiết với tự nhiên thông qua quan hệ người và vật. Vật có thể là bạn

của người, là thầy của người, cũng có thể lấy người; ngược lại, người có thể lấy vật, sinh ra vật

hoặc hóa thành vật. Thông thường, đó là những dấu ấn tôtem của quan hệ giữa người và vật xưa

kia.

[5] Nguyễn Tấn Đắc, Đọc truyện kể dân gian bằng type và motif, nxb KHXH, 2001, trang 68-69.

[6] Lê Trung Vũ, Khảo sát nhân vật mồ côi trong truyện cổ H’Mông - công trình thuộc Dự án công bố tài

sản văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam của Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, Nxb. Dân Trí,

2010, trang 56, 58, 59.

[7] Chu Xuân Diên, Lê Chí Quế, Tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam, Phần truyện cổ tích người Việt, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, trang 73-82.

[8] “Chàng trai nọ lấy vợ rồi sinh ra một đứa con gái. Sau đó, anh ta lấy tiếp một người vợ nữa. Người

vợ nhỏ vốn là người tham lam, độc ác luôn ghen tị với người vợ lớn. Một lần đi đào củ chụp, bà ta

lừa xô người vợ lớn xuống hố chết. Cô bé đợi mãi không thấy mẹ về thì ngồi khóc mãi. Trong giấc

mơ, mẹ cô hiện về dặn cô hãy nuôi con chim cu non trên rẫy. Người mẹ kế biết chuyện bắt chim cu

làm thịt. Cô bé không biết làm sao, chỉ ngồi khóc. Mẹ cô lại hiện về và bày cô cách nuôi con ba ba

dưới giếng nước. Bà mẹ kế lại bắt ba ba làm thịt. Lần thứ ba cô bé ngồi khóc, người mẹ hiện lên

bày cô cách trồng xương ba ba xuống đất. Từ chỗ chôn xương ba ba mọc lên một cây táo, nó lớn

nhanh như thổi. Cây táo dùng để phơi đồ đã mang về cho cô bé nhiều quần áo đẹp. Bà mẹ kế độc

ác lại giành cây táo của cô bé. Cô bé tủi thân ngồi khóc mãi, đến nỗi việc này truyền đến tai vua.

Nhờ vị vua tốt bụng và công bằng, cô bé lấy lại được cây táo còn mụ dì ghẻ tham lam thì bị xử tội

chết.”

[9] Nguyễn Thị Huế, Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích Việt Nam, Nxb KHXH, 1999, trang

58.

Nguồn: Tạp chí đại học Sài Gòn - Bình luận văn học, niên giám 2011