tin mỪng nhƯ ĐÃ ĐƯỢc vÉn mỞ cho tÔi maria...
TRANSCRIPT
-
1
TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI
Maria Valtorta
Chuyển ngữ: Nữ tu Maria Phạm Thị Hùng CMR
Dịch từ bản tiếng Pháp:
“L’Evangile tel qu’il m’a été révélé”
Chuẩn bị
Quyển thứ nhất
Năm thứ nhất đời sống công khai
Quyển thứ hai
Năm thứ hai đời sống công khai
Quyển thứ ba và bốn
Năm thứ ba đời sống công khai
Quyển thứ năm, sáu và bảy
Chuẩn bị cuộc tử nạn
Quyển thứ tám
Cuộc tử nạn
Quyển thứ chín
Vinh quang
Quyển thứ mười
-
2
Tin Mừng như đã được vén mở cho tôi
Quyển thứ ba
Năm thứ hai đời sống công khai
(Phần thứ nhất)
La presente pubblicazione dell’opera di Maria Valtorta:
“L’Evangelo come mi è stato rivelato”, tradotta in lingua
vietnamita, è stata autorizzata dal Centro Editoriale
Valtortiano (Viale Piscicelli 91 - 03036 Isola del Liri (FR)
Italia - www.mariavaltorta.com ) che è titolare di tutti i
diritti sulle op- ere di Maria Valtorta.
Tác phẩm này của Maria Valtorta: “L’Evangile tel qu’il
m’a été révélé”, được phiên dịch và xuất bản bằng tiếng
Việt với sự cho phép của Trung Tâm Xuất Bản Valtorta
(Viale Piscicelli 91, 03036 Isola del Liri (FR) Italia,
www.mariavaltorta.com ), cơ quan giữ bản quyền về mọi
tác phẩm của Maria Valtorta.
-
3
MỤC LỤC
1. Giáo huấn các môn đệ trong khi đi về Arimathi
2. Giáo huấn các tông đồ trong khi đi về Samari
3. Người đàn bà Samari: Fotinai
4. Với những người ở Sychar
5. Giảng Tin Mừng ở Sychar
6. Từ biệt các người Sychar
7. Giáo huấn các tông đồ. Phép lạ cho người đàn bà Sychar ..
8. Giêsu tới thăm ông Tẩy Giả ở gần Enon
9. Chúa Giêsu huấn luyện các tông đồ
10. Giêsu tại Nazarét: “Con ơi, má sẽ đi với con”
11. Tại Cana, trong nhà của Suzane.Vị sĩ quan hoàng gia
12. Trong nhà của Zêbêđê. Salômê được nhận làm môn đệ ..
13. Giêsu nói với các người của Ngài về sứ mệnh truyền giáo của phụ nữ
14. Giêsu tại Cêsarê Maritime. Nói với các người tù khổ sai chèo thuyền
15. Chữa đứa trẻ Rôma tại Cêsarê
16. Annalia tuyên bố sự trinh khiết
17. Tại Nazarét. Giáo huấn các nữ môn đệ
18. Giêsu nói với Jeanne Chouza trên hồ
19. Giêsu tại Gerghesa. Các môn đệ của Gioan.
20. Từ Nephtali tới Giscala. Gặp rabbi Gamaliel
21. Chữa lành đứa cháu nội của pharisiêu Êli tại Caphanaum
22. Giêsu trong căn nhà tại Caphanaum sau phép lạ cho Êlisê
23. Bữa ăn trong nhà pharisiêu Êli tại Caphanaum
-
4
24. Đi về nơi tĩnh tâm trên núi trước khi chọn các tông đồ
25. Chọn mười hai tông đồ
26. Bài thuyết giáo đầu tiên của Simon Zêlôte và Gioan
27. Trong nhà Jeanne Chouza.Giêsu với các phụ nữ Rôma ..
28. Aglaé trong nhà mẹ Maria tại Nazarét
29. Bài giảng trên núi: “Các con là muối của trái đất”
30. Bài giảng trên núi. Các phúc thật (Phần thứ nhất)
31. Bài giảng trên núi. Các phúc thật (Phần thứ hai)
32. Bài giảng trên núi: Các phúc thật (Phần thứ ba)
33. Bài giảng trên núi: Các phúc thật (Phần thứ bốn)
34. Bài giảng trên núi: Các phúc thật (Phần thứ năm)
35. Người cùi được chữa lành ở chân núi
36. Tại chân núi vào ngày Sabat sau các bài giảng trên núi
37. Chữa người đầy tớ của viên bách binh đội trưởng
38. Hãy để kẻ chết chôn người chết của họ
39. Dụ ngôn người gieo giống
40. Trong nhà bếp của Phêrô. Giáo huấn và được tin vị Tiền Hô bị bắt
41. Dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng
42. Giêsu trên đường tới Magđala. Nói với các mục đồng
43. Giêsu tại Magđala. Gặp Maria Magđala lần thứ hai
44. Tại Magđala, trong nhà bà mẹ của Benjamin
45. Bão tố yên lặng
46. Những bất hạnh giúp các con thấy sự hư vô của các con
47. Các người Gêrasa bị qủi ám
-
5
48. Từ Tarichée tới Tabor. Khởi đầu cuộc hành trình lễ Vượt Qua năm
thứ hai
49. Tại Enđo. Trong hang đá của bà phù thủy Félix trở lại và được nhận
tên Gioan
50. Con trai bà góa thành Naim sống lại
51. Tới Esdrelon, nghỉ gần nhà Michée
52. Ngày Sabát tại Esdrelon. Thằng bé Jabê
53. Từ Esdrelon đi qua Mageddo tới Engannim
54. Từ Engannim tới Sichem trong hai ngày
55. Từ Sichem tới Bérot
56. Từ Bérot tới Jêrusalem
57. Ngày Sabat tại Gétsêmani
58. Tại Đền Thờ vào giờ dâng hương
59. Giêsu gặp Mẹ Người tại Bêtani
60. Sức mạnh lời nói của Maria
61. Aglaé tại nhà Thầy
62. Cuộc sát hạch Margziam
63. Ngày áp lễ Vượt Qua tại Đền Thờ
64. Giêsu dạy kinh “Lạy Cha”
65. Giêsu và dân ngoại tại Bêtani
66. Dụ ngôn người con phung phá
67. Dụ ngôn mười người trinh nữ
68. Dụ ngôn ông vua làm tiệc cưới cho hoàng tử
69. Đi về Bétlem với các tông đồ và các môn đệ
70. Khi đi tới nhà Êlise tại Bétsur
-
6
71. Trong nhà Êlise: “Hãy làm cho đau khổ của các con sinh hoa trái”
72. Đi về Hébron. Những lý lẽ của thế gian và của Thiên Chúa
73. Đón tiếp vui vẻ tại Hébron
74. Tại Jutta. Thuyết giáo trong nhà của Isaac
75. Trong giáo đường tại Kêriot
76. Trong nhà Judas tại Kêriot
77. Đứa bé gái mắc bệnh kỳ cục tại Betginna
78. Trong cánh đồng lúc đi về Ascalon
79. Bắt gặp các pharisiêu. Giêsu cũng là chủ ngày Sabat ...
80. Giêsu và các môn đệ Người đi Ascalon
81. Những bài thuyết giáo và các phép lạ tại Ascalon
82. Giêsu tại Magdalgad. Người biến thành tro một bức tượng thần dân
ngoại
83. Giáo huấn các tông đồ khi đi về Jabnia
84. Giêsu và các người của Ngài đi về Modin
85. Giêsu nói với các tên trộm cướp
86. Tới Béther
-
7
1* GIÁO HUẤN CÁC MÔN ĐỆ TRONG KHI ĐI VỀ ARIMATHI
- Thưa Chúa, chúng ta sẽ làm gì với người kia ? - Phêrô hỏi Chúa
Giêsu khi chỉ vào người có tên là Giuse, kẻ đã đi theo các đấng từ khi các
ngài rời Emmau, và bây giờ đang nghe hai con ông Alphê và Simon, những
người săn sóc ông ta cách đặc biệt.
-Thầy đã nói rồi. Ông ta sẽ đi với chúng ta cho tới Galilê.
-Rồi sau đó ?...
-Sau đó... ông sẽ ở lại với chúng ta. Con sẽ thấy là như vậy.
-Ông ta cũng là môn đệ nữa? Với cái chuyện đó của ông ta!
-Con cũng là pharisiêu à?
-Con, không! Nhưng... Con thấy các pharisiêu để mắt tới chúng ta
qúa nhiều...
-Và nếu họ thấy ông ta ở với chúng ta, họ sẽ làm phiền chúng ta. Đó
là điều con muốn nói. Vậy ra vì sợ bị phiền, ta phải để mặc cho một người
con cái Abraham ở trong sự phiền muộn? Không, Simon Phêrô. Một linh
hồn có thể bị mất hay được cứu rỗi, tùy cách người ta săn sóc các vết
thương nặng của nó.
-Nhưng chúng con, chúng con chưa là môn đệ của Thầy sao?
Giêsu nhìn Phêrô và hơi mỉm cười. Rồi Người nói: “Đã một hôm, qua
nhiều tháng nay rồi, Thầy đã nói với con: ‘Nhiều người khác nữa sẽ tới’.
Cánh đồng thì bao la, rất bao la. Các người làm việc sẽ luôn luôn không đủ
cho diện tích của nó... Bởi vì cũng sẽ có nhiều người làm như Jonas: Họ
chết vì khổ. Nhưng các con luôn luôn là những kẻ ưu ái của Thầy”. Giêsu
-
8
chấm dứt khi kéo Phêrô lại gần Người. Ông buồn, nhưng lời hứa này làm
ông an lòng.
-Vậy ông ấy ở với chúng ta ?
-Ừ, cho tới khi ông ổn định con tim của ông vào nơi vào chốn. Ông ta
bị đầu độc bởi biết bao oán ghét, tới nỗi ông ta bị ngấm. Ông bị trúng độc.
Giacôbê và Gioan cùng với Andrê cũng đến với Thầy, và họ nghe.
-Các con không thể ước lượng được sự bao la của điều ác mà con
người có thể làm cho con người bởi một sự hận thù ngoan cố. Thầy xin các
con nhớ rằng Thầy các con luôn luôn nhân hậu với các bệnh nhân tinh
thần. Các con tin rằng các phép lạ lớn nhất của Thầy, và nhân đức chính
yếu của Thầy, biểu lộ ra trong việc chữa lành cho thân xác? Không, các
bạn ơi... ờ, lại đây, các con ở đàng trước cũng như ở đàng sau Thầy. Con
đường này rộng, chúng ta có thể đi cả nhóm với nhau.
Mọi người đều xích lại gần bên Giêsu. Người tiếp tục:
-Những công trình chính của Thầy, những công việc minh chứng
nhiều hơn cho bản tính của Thầy và của sứ mạng Thầy; những việc mà
Chúa Cha nhìn cách thỏa lòng, là sự chữa lành các linh hồn, hoặc chữa
lành một hay nhiều tật xấu căn bản, hoặc cứu cho khỏi sự buồn khổ làm
cho người ta có ấn tượng là bị Thiên Chúa đánh phạt hay ruồng bỏ.
Một tâm hồn đã mất niềm xác tín vào sự trợ giúp của Thiên Chúa, nó
là một cây bìm bìm yếu đuối, bò lết trong bụi đất, vì nó không thể bám vào
cái tư tưởng là sức mạnh và niềm vui của nó. Sống không hy vọng là một
sự sợ hãi. Đời sống chỉ đẹp trong lúc gian truân khi nó nhận được những
làn sóng của mặt trời Thiên Chúa. Mặt trời này là mục đích của đời sống.
Những ngày của nhân loại tối tăm, thấm đầy nước mắt, ghi dấu bằng máu
-
9
ư ? Đúng, nhưng sau đó sẽ có mặt trời. Không còn đau đớn, không còn xa
lìa, không còn gian truân, không còn thù ghét, không còn khốn khó và cô
đơn dưới những làn mây đè nặng, nhưng là ánh sáng và tiếng hát, nhưng
là thanh quang và bình an, nhưng là Thiên Chúa. Thiên Chúa: Mặt Trời Đời
Đời! Hãy nhìn trái đất này, nó buồn chừng nào khi đột nhiên có nhật thực.
Nếu con người phải tự bảo mình: “mặt trời chết rồi”, thì sao nó không thấy
rằng nó phải sống mãi mãi trong tối tăm như trong mồ, giam hãm, chôn
vùi, phải chết trước khi chết ? Nhưng người ta biết rằng sau cái hành tinh
đang che lấp mặt trời, làm cho trái đất có bộ mặt tang tóc, vẫn luôn luôn
có mặt trời vui tươi của Thiên Chúa. Cũng vậy đối với tư tưởng về sự kết
hợp với Thiên Chúa ở đời này. Con người đả thương, trộm cướp, vu khống
ư ? Nhưng Thiên Chúa chữa lành, tái lập, minh oan một cách không đắn
đo. Người ta nói: “Thiên Chúa đã xua đuổi mày?” Nhưng tâm hồn bình tĩnh
nghĩ rằng, phải nghĩ rằng Thiên Chúa công minh và nhân từ, Người thấy
mọi nguyên nhân và Người khoan dung; Người nhân hậu hơn cả con người
có thể nhân hậu nhất: Người vô cùng nhân hậu. Bởi vậy, không, Người
không xua đuổi tôi nếu tôi cúi khuôn mặt đầy nước mắt của tôi trên lòng
Người và thưa Người: “Cha ơi, con chỉ còn lại có Cha. Con Cha khổ cực và
kiệt quệ. Hãy ban cho con sự bình an của Cha...”
Bây giờ Thầy, đấng Thiên Chúa sai, Thầy thu thập những kẻ bị con
người khuấy động, hay bị Satan quật ngã, và Thầy cứu chữa họ. Đó là
công việc của Thầy, công việc thực sự của Thầy. Các phép lạ trên thân
xác, đó là sức mạnh của Thiên Chúa; cứu chuộc các tâm hồn, đó là công
việc của Đức Giêsu Kitô, Vị Cứu Tinh và Đấng Cứu Chuộc. Thầy nghĩ và
Thầy không lầm rằng những người đó đã tìm thấy nơi Thầy sự hòa giải
-
10
trước mắt Thiên Chúa và trước mắt chính họ, họ sẽ là các môn đệ trung
thành của Thầy. Những người mà, với nhiều sức mạnh hơn, có thể lôi kéo
đám đông về với Thiên Chúa trong khi nói: “Các bạn tội lỗi ư ? Tôi cũng
vậy. Các bạn bị khinh dể ? Tôi cũng vậy. Các bạn thất vọng ? Tôi cũng vậy.
Nhưng các bạn thấy đó, Đấng Messia đã thương đến sự khốn nạn siêu
nhiên của tôi, và Người đã muốn tôi là linh mục của Người. Bởi vì Người là
Tình Thương, và Người muốn thế giới xác tín điều đó, và không ai có khả
năng để tin chắc hơn là kẻ đã có kinh nghiệm về điều đó”. Bây giờ Thầy,
cùng với các bạn Thầy và những người đã thờ kính Thầy từ ngày Thầy sinh
ra, tức là với các con và các người mục đồng, Thầy tụ họp những người
này nữa. Thầy tụ họp họ với các người mục đồng, với các người Thầy đã
chữa lành, với những kẻ không có sự lựa chọn đặc biệt như số mười hai
các con, những người đã đi con đường của Thầy, và sẽ theo Thầy tới chết.
Ở gần Arimathi có Isaac. Người bạn Giuse của chúng ta đã xin Thầy điều
đó. Thầy sẽ mang Isaac đi với Thầy để ông vào nhóm với Timon khi ông
ta đến với chúng ta. Nếu con tin rằng nơi Thầy có sự bình an và mục đích
cho toàn đời sống, con sẽ hợp nhất với họ. Họ sẽ là các anh em tốt của
con.
-Ôi! Đấng An Ủi của con! Đúng hệt như Thầy nói: các vết thương
nặng nề của con, một con người và một kẻ tin, được chữa lành từng giờ
qua giờ. Từ ba ngày nay con ở với Thầy, và con thấy như cái điều là sự xé
lòng của con mới trước đây ba ngày, nó lảng xa đi như cơn mơ. Con đã
mộng, và thời gian càng qua, cơn mộng càng tan với những chi tiết phũ
phàng của nó trước sự hiện diện thực tại của Thầy. Mấy đêm qua con đã
suy nghĩ rất nhiều. Ở Joppê con có một người bà con tốt. Chính ông ta đã
-
11
là... nguyên nhân vô tình cho nỗi bất hạnh của con, vì chính do ông mà
con biết người đàn bà này. Và điều đó sẽ chỉ cho Thầy biết xem chúng ta
có thể biết bà ta là con ai... của bà ấy: con của bà vợ thứ nhất của ba con,
phải, bà ta là thế, nhưng không phải con của ba con. Bà có một tên họ
khác, bà từ xa tới. Bà biết người bà con của con do việc trao đổi hàng hóa,
và con biết bà ta cũng vì vậy. Người bà con của con rất muốn việc thương
mại của con, nó sẽ lụn bại nếu con để cho nó vô chủ. Và chắc chắn ông ta
sẽ tậu những của ấy, để không phải cảm thấy tất cả sự ân hận vì đã là
nguyên nhân cho sự bất hạnh của con. Như vậy con có thể tự túc và đi
theo Thầy cách bình an. Con chỉ xin Thầy ban cho con ông Isaac mà Thầy
đã nói đến. Con sợ ở một mình với những tư tưởng của con, vẫn còn qúa
buồn...
-Thầy sẽ cho con Isaac. Ông ta có tâm hồn tốt. Sự đau khổ đã hoàn
thiện ông. Ông đã mang thập giá của ông trong ba mươi năm. Ông biết
thế nào là chịu đựng... Chúng ta, trong lúc này chúng ta tiếp tục con
đường, và các con sẽ đến với chúng ta ở Nazarét.
-Chúng ta sẽ không dừng lại ở trong nhà của Giuse sao?
-Có lẽ Giuse đang ở Jêrusalem... Đại Pháp Đình có nhiều việc để làm.
Nhưng chúng ta sẽ biết điều đó qua Isaac. Nếu ông đang ở nhà ông,
chúng ta sẽ mang cho ông sự bình an của chúng ta. Nếu không, chúng ta
chỉ dừng lại đó một đêm để nghỉ. Thầy vội vã để về Galilê. Ở đó có một bà
mẹ đang đau khổ. Bởi vì, các con hãy nhớ là có kẻ đang dấn thân để làm
khổ bà, Thầy muốn làm cho bà yên lòng.
-
12
2* GIÁO HUẤN CÁC TÔNG ĐỒ TRONG KHI ĐI VỀ SAMARI
Giêsu đang ở với nhóm mười hai. Vị trí luôn luôn là miền núi, nhưng
con đường có thể đi lại dễ dàng. Mọi người đều ở trong nhóm và nói
chuyện với nhau.
-Bây giờ chúng ta ở một mình, chúng ta có thể nói điều này: tại sao
có qúa nhiều ghen tị giữa hai nhóm ? - Philíp nói.
-Ghen tị à ? - Juđa Alphê đối đáp. “Không, đó chỉ là kiêu căng”.
-Không, đó chỉ là cớ viện ra để biện minh cho thái độ bất công của
họ đối với Thầy. Dưới tấm màn của sự nhiệt thành đối với vị Tiền Hô, họ có
thể đẩy Người đi khỏi đây mà không qúa làm phật ý đám đông - Simon
nói.
-Tôi sẽ lột mặt nạ chúng.
-Phêrô à, có lẽ chúng ta làm biết bao điều mà Thầy không làm.
-Tại sao Thầy không làm?
-Bởi vì Người biết rằng không làm là tốt. Chúng ta chỉ có việc theo
Người. Không phải chúng ta là kẻ hướng dẫn Người, và ta phải sung sướng
vì vậy. Thật là nhẹ nhõm dễ chịu khi chỉ có việc vâng lời.
-Con nói đúng, Simon - Giêsu nói. Người đang đi ở đàng trước, tựa
như đắm chìm trong tư tưởng của Người. “Con nói đúng. Vâng lời thì dễ
hơn ra lệnh. Có vẻ không phải vậy, nhưng là như vậy. Chắc chắn vâng lời
là dễ đối với một tâm hồn tốt. Nhưng thật khó để ra lệnh đối với người có
tâm hồn ngay thẳng. Vì nếu tâm hồn không ngay thẳng, người ta có thể ra
những lệnh điên và còn hơn là điên. Khi đó thì ra lệnh là việc dễ dàng.
-
13
Nhưng... vâng lời sẽ trở nên khó hơn biết bao! Khi một người có trách
nhiệm đứng đầu một nơi hay một tập thể, họ phải luôn luôn có hiện diện
trong trí khôn: đức bác ái và công bằng, khôn ngoan và khiêm tốn, điều độ
và nhẫn nại, cương quyết nhưng không cứng đầu. Ôi! Thật là khó!... Các
con, lúc này các con chỉ phải vâng lời, với Thiên Chúa và với Thầy các con.
Con, và không phải chỉ có mình con, con tự hỏi tại sao Thầy không làm
điều nọ điều kia; con tự hỏi tại sao Thiên Chúa cho phép hay không cho
phép điều nọ điều kia. Hãy coi đây, Phêrô, và tất cả các con, các bạn Thầy:
một trong những bí mật của người tín hữu hoàn toàn là không bao giờ tôn
mình lên làm kẻ tra vấn Thiên Chúa: ‘Tại sao Chúa làm điều này?’ Một kẻ
biết qúa ít về Thiên Chúa của nó có thể hỏi như vậy. Rồi nó lấy thái độ của
một người lớn ở trước mặt một đứa học trò và nói: ‘Không được làm vậy,
đó là ngu xuẩn, đó là lầm lẫn’. Ai có thể ở bên trên Thiên Chúa?
Bây giờ các con thấy rằng chúng viện lý do nhiệt thành với ông Tẩy
Giả để đuổi Thầy, và các con phẫn nộ. Các con muốn Thầy luận chiến để
chứng tỏ sự sai lầm cho những kẻ ủng hộ quan điểm như vậy được thấy.
Không, điều đó không bao giờ có. Các con đã nghe ông Tẩy Giả qua miệng
các môn đệ của ông: ‘Người phải lớn lên và tôi phải nhỏ lại’. Không hề hối
tiếc, ông không bám vào vị thế của ông. Vị thánh không dính bén vào các
điều như vậy. Ông làm việc, không phải cho nhóm các tín hữu riêng của
ông. Ông không có các tín hữu riêng. Nhưng ông làm việc để gia tăng số
những kẻ trung thành với Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa có quyền có
các tín hữu. Bởi vậy Thầy không ân hận khi, vì lòng tin đúng hay sai, mà
người nọ người kia vẫn là môn đệ của ông Tẩy Giả. Và cũng vậy, các con
đã nghe ông nói ông không buồn khi các môn đệ của ông đến với Thầy.
-
14
Ông rất xa lạ trước những tính toán nhỏ mọn có tính cách thống kê như
vậy. Ông nhìn lên Trời, và Thầy, Thầy cũng nhìn Trời. Vậy đừng tiếp tục
tranh luận giữa các con là đúng hay sai việc các người Do Thái kết tội Thầy
đã thâu nhận các môn đệ của vị Tẩy Giả. Đúng hay sai thì rồi điều đó nó
sẽ tự nói lên. Đó là những cãi cọ của các bà lắm mồm chung quanh phông-
ten nước. Các vị thánh luôn luôn sẵn sàng để trợ giúp, để hiến thân, để
trao đổi tinh thần không hề hối tiếc, vui vẻ với tư tưởng được làm việc cho
Chúa.
Thầy đã làm phép rửa, và Thầy cũng đã bảo các con làm, bởi vì bây
giờ các thần trí rất nặng nề, phải giới thiệu tình thương cho họ dưới những
hình thức vật chất, các phép lạ dưới các hình thức vật chất, các giáo huấn
dưới các hình thức vật chất. Vì sự nặng nề thiêng liêng này, Thầy phải cần
đến các chất liệu khi thầy sẽ muốn cho các con thành những người làm
phép lạ. Nhưng phải tin chắc rằng: không phải trong dầu, cũng không phải
trong nước hay trong các nghi thức mà có sức mạnh thánh hóa. Sẽ đến lúc
mà một điều không rờ thấy được, không nhìn thấy được, không quan niệm
được đối với kẻ duy vật, sẽ là Bà Hoàng, ‘Bà Hoàng Trở Lại’, là nguyên
nhân của tất cả sự thánh hóa, thực hiện trong mọi sự thánh hóa. Chính
bởi Bà Hoàng này mà con người lại trở nên con Thiên Chúa, và thực hiện
những điều Thiên Chúa thực hiện, vì nó có Thiên Chúa ở với nó. Ân Sủng:
đó là Bà Hoàng Trở Lại. Khi đó sự thanh tẩy sẽ là một bí tích. Khi đó con
người sẽ nói và sẽ hiểu ngôn ngữ của Thiên Chúa. Ân Sủng sẽ cho Sự
Sống, và Sự Sống sẽ cho khả năng để biết và hành động. Khi ấy... Ồ! Khi
ấy! Nhưng các con chưa đủ chín mùi để biết những điều Ân Sủng sẽ mang
tới cho các con. Thầy xin các con: Hãy giúp cho Ân Sủng tới bằng cách liên
-
15
tục đào luyện chính mình, và hãy loại trừ, cởi bỏ những bận tâm lo lắng vô
ích của những đầu óc bần tiện.
Đây, chúng ta đã tới ranh giới xứ Samari. Các con có nghĩ rằng tốt
nếu Thầy nói với họ không ?”
-Ôi! - Tất cả đều ít nhiều phẫn nộ.
-Thực sự, Thầy nói với các con rằng những người như người Samari
có ở khắp nơi. Và nếu Thầy không nên nói ở những nơi có người Samari thì
Thầy không nên nói ở đâu cả. Vậy hãy tới. Thầy sẽ không tìm cách nói,
nhưng Thầy sẽ không xem thường việc nói về Thiên Chúa nếu người ta
đến xin Thầy nói. Một năm đã qua đi, năm thứ hai đã bắt đầu. Một năm
trời chạy nhanh như ngựa giữa lúc bắt đầu và lúc chấm dứt. Lúc khởi đầu
thì là vị Thầy chế ngự, bây giờ thì đây, Vị Cứu Tinh tự mặc khải. Sau cùng
sẽ là bộ mặt của Đấng Cứu Thế. Nào đi. Con sông nở rộng ra khi nó tới
gần cửa sông. Thầy cũng vậy, Thầy trải rộng ra công việc của Tình
Thương, vì gần tới cửa sông rồi.
-Chúng ta sẽ đi tới một con sông lớn nào đó khi về tới Galilê sao? Có
lẽ tới sông Nil? Hay sông Euphrate? - Một số ông lẩm bẩm.
-Có lẽ chúng ta sẽ đến giữa các dân ngoại... - mấy ông khác trả lời.
-Đừng nói giữa các con với nhau. Chúng ta đang đi về cửa sông của
Thầy, tức là tới việc hoàn thành sứ mạng của Thầy. Hãy rất chú tâm, vì
sau đó Thầy sẽ từ biệt các con, và các con phải tiếp tục nhân danh Thầy.
3* NGƯỜI ĐÀN BÀ SAMARI: FOTINAI
-
16
-Thầy dừng lại đây. Các con hãy vào thành phố mua tất cả những
thứ cần cho bữa ăn. Chúng ta sẽ ăn ở đây.
-Chúng con đi tất cả sao?
-Ừ, Gioan. Các con đi cả nhóm với nhau thì hơn.
-Và Thầy, Thầy ở lại một mình?... Họ là những người Samari...
-Đây không phải là những người xấu nhất giữa các kẻ thù của Đức
Kitô. Đi đi, đi đi. Thầy cầu nguyện cho các con và cho họ trong khi chờ các
con.
Các môn đệ đi, ân hận. Ba bốn lần họ quay lại nhìn Giêsu. Người
ngồi trên một bức tường nhỏ, dưới mặt trời, gần chỗ bờ thấp và rộng của
một cái giếng. Một cái giếng lớn, gần giống như một cái bể, vì nó rất rộng.
Về mùa hè, chắc nó ở dưới bóng mát của các cây lớn mà bây giờ trơ trụi.
Người ta không nhìn thấy nước, nhưng đất ở gần giếng cho thấy rõ là
người ta đã kín nước, vì có những vũng nhỏ và những dấu tròn của những
cái bình ướt. Giêsu ngồi và chiêm niệm trong thái độ thông thường: khửu
tay tì trên đầu gối, hai tay nắm vào nhau, giơ ra phía trước, thân mình hơi
nghiêng, đầu cúi về phía mặt đất. Rồi Người thấy mặt trời sưởi nóng nên
Người tụt áo khoác ra khỏi đầu và vai, nhưng còn giữ xếp lại trước ngực.
Rồi Người ngẩng đầu lên mỉm cười với một đám chim sẻ đang cãi
nhau, tranh giành miếng bánh lớn mà ai đã để rơi gần bờ giếng. Nhưng
các con chim bay trốn khi một người đàn bà tiến lại bờ giếng với một cái
bình rỗng mà bà cầm cái quai bằng tay trái, trong khi tay mặt, bà lật chiếc
voan để nhìn một cách ngạc nhiên người đàn ông ngồi gần đó. Giêsu mỉm
cười với bà. Bà khoảng ba lăm hay bốn chục tuổi, cao lớn, các nét trang
điểm vẽ đậm nhưng đẹp. Bà, như chúng ta thường nói, có dáng người Tây
-
17
Ban Nha với nước da lục nhạt, đôi môi rất đỏ, khá dầy; đôi mắt to thái qúa,
đen, dưới đôi lông mày rất rậm. Tóc đen huyền, thắt đuôi xam mà ta nhìn
thấy dưới lớp voan mỏng. Tất cả khổ người đều có nét đậm đà, biểu thị rõ
ràng giống người phương đông nhẹ, hơi giống như đàn bà Ả Rập. Bà mặc
đồ vải sọc sặc sỡ, bó lại ở thắt lưng, căng ra ở mông và ở ngực tròn, rồi
thả rơi tới đất trong những cái xếp ly gợn sóng. Nhiều cà rá và lắc ở đôi
bàn tay mũm mĩm và ở cổ tay mà người ta nhìn thấy dưới tay áo lụa. Ở cổ
là một sợi giây chuyền nặng, trên đó có đeo nhiều mặt giây chuyền, nhưng
tôi nói đó là những cái bùa, vì chúng có đủ dạng đủ cỡ. Những bông tai
nặng toòng teeng cho tới cổ và sáng bóng dưới lớp voan.
-Bình an cho bà. Bà có cho tôi uống không? Tôi đã đi bộ lâu nên tôi
khát.
-Nhưng, ông là Do Thái mà? Và ông xin tôi cho uống? Tôi, người
Samari! Có chuyện gì vậy? Chúng tôi đã được phục quyền hay vì ông
nhún nhường? Đương nhiên một biến cố vĩ đại xảy ra nếu một một người
Do Thái nói cách lịch sự với một phụ nữ Samari. Nhưng tôi phải nói với ông
rằng tôi không cho ông cái gì cả, để phạt nơi ông vì tất cả những chửi rủa
mà từ bao thế kỷ, các người Do Thái tung về phía chúng tôi.
- Bà nói đúng lắm: một biến cố vĩ đại đã xảy ra, và vì vậy có rất
nhiều điều cũng đã thay đổi, và một số lớn nữa sẽ thay đổi. Thiên Chúa đã
ban cho nhân loại một ơn rất trọng, vì thế rất nhiều sự đã thay đổi. Nếu bà
biết ơn của Thiên Chúa, và biết người nói với bà: “Hãy cho ta uống” là ai,
có lẽ chính bà, bà sẽ xin Người cho bà uống, và Người sẽ cho bà thứ nước
hằng sống.
-Nước hằng sống thì ở trong mạch đất, và cái giếng này có nước ấy,
-
18
nhưng nó thuộc về chúng tôi - người đàn bà mỉa mai và tự đắc.
-Nước thuộc về Thiên Chúa, cũng như lòng tốt thuộc về Thiên Chúa,
cũng như đời sống thuộc về Thiên Chúa, tất cả đều thuộc về một Thiên
Chúa độc nhất, bà ạ, và mọi người đều từ Thiên Chúa mà đến: người
Samari cũng như người Do Thái. Cái giếng này không phải của Jacob sao?
Và Jacob không phải thủ lãnh của nòi giống chúng ta sao? Nếu sau đó, vì
một sai lầm mà chúng ta chia cắt, điều đó chẳng thay đổi gì về nguồn gốc
của chúng ta.
-Sai lầm của chúng tôi phải không? - người đàn bà hỏi, vẻ gây hấn.
-Chẳng phải của qúi vị, cũng chẳng phải của chúng tôi. Đó là sai lầm
của kẻ đã mất quan niệm về đức bác ái và công bằng. Tôi, tôi không công
kích bà, tôi cũng không công kích nòi giống của bà. Tại sao bà muốn gây
hấn?
-Ông là người Do Thái thứ nhất mà tôi nghe nói như vầy. Những
người khác... Nhưng, bây giờ trở lại với cái giếng: phải, đây là giếng của
Jacob, nó có một lượng nước rất dồi dào và rất trong, đến nỗi chúng tôi,
mãi ở Sychar, chúng tôi thích nó hơn là nước phông- ten. Nhưng nó rất
sâu. Ông không có bình, cũng không có túi da, làm sao ông có thể kín cho
tôi nước hằng sống. Ông lớn hơn Jacob tổ phụ chúng tôi sao? Người đã tìm
ra mạch nước dồi dào này cho Người, con cái Người, và các bầy súc vật
của Người, và Người để lại cho chúng tôi như một kỷ niệm của Người, như
một qùa tặng.
-Bà nói phải. Nhưng ai uống nước này hãy còn khát. Tôi, tôi có một
thứ nước mà hễ ai uống thì không còn cảm thấy khát nữa. Nhưng nó thuộc
về tôi, và tôi ban nó cho những ai xin tôi. Thật vậy, tôi nói với bà rằng, ai
-
19
uống thứ nước mà tôi cho, nó sẽ luôn luôn có ở trong nó sự tươi mát, và
nó không khát nữa, vì nước của tôi trở nên trong người nó một nguồn đời
đời không bao giờ cạn.
-Thế nào? Tôi không hiểu. Ông là nhà đạo sĩ à? Làm sao người ta có
thể trở nên một cái giếng? Con lạc đà uống và nó có chỗ dự trữ trong bụng
nó, nhưng rồi nó tiêu thụ đi, và nó không thể kéo dài suốt đời nó. Còn ông,
ông nói rằng nước của ông lưu trữ suốt đời sống?
-Còn hơn nữa, nó sẽ vọt ra cho tới sự sống đời đời. Trong lòng kẻ
uống nó, nó sẽ vọt ra cho tới sự sống đời đời, và sẽ cho những mầm của
sự sống đời đời, vì nó là cái nguồn hoan lạc.
-Xin ông cho tôi cái nước đó đi, nếu qủa thực ông có nó. Tôi mệt vì
phải tới đây. Nếu tôi có nó, tôi sẽ hết khát, và tôi sẽ không bao giờ trở nên
bệnh tật và già nua.
-Chỉ có điều đó làm cho bà mệt thôi sao? Không có chuyện gì nữa
sao? Bà không cảm thấy cái nhu cầu khác ngoài việc đến đây kín nước để
uống cho cái thân xác tội nghiệp của bà? Hãy nghĩ đến điều đó. Có một cái
gì hơn thân xác nhiều, đó là linh hồn. Jacob, không phải ông chỉ có cho
ông và những người thuộc về ông nước của mạch đất mà thôi. Ông còn lo
lắng tạo cho mình có, và phân phát sự thánh thiện, nước của Thiên Chúa.
-Các ông bảo chúng tôi là ngoại giáo, các ông... nếu qủa đúng điều
các ông nói, chúng tôi không thể làm thánh...
Người đàn bà đã mất cái giọng xấc xược và chỉ trích của bà. Bà có vẻ
bị thuyết phục và hơi bối rối.
-Cả người ngoại giáo cũng có thể trở nên nhân đức, và Thiên Chúa là
đấng công bình sẽ thưởng cho họ vì những điều tốt họ làm. Đó không phải
-
20
là một sự thưởng công hoàn toàn, nhưng tôi nói với bà: giữa một tín hữu ô
uế vì một tội nặng và một dân ngoại không phạm tội, Thiên Chúa nhìn
người dân ngoại ít nghiêm khắc hơn. Và tại sao, nếu qúi vị biết như vậy mà
qúi vị không trở về với Thiên Chúa thật? Bà tên gì?
-Fotinai.
-Phải, hãy trả lời Ta này Fotinai. Bà không khổ vì không thể khát
vọng sự thánh thiện, bởi vì bà là dân ngoại, như bà nói, bởi vì bà ở trong
đám mây của sự sai lầm xa xưa, như Ta nói sao?
-Có chứ, tôi khổ vì vậy.
-Vậy tại sao ít nhất, bà không sống như một người dân ngoại đạo
hạnh?
-Lạy Chúa!...
-Đúng, bà có thể từ chối điều đó không? Hãy về gọi chồng bà rồi trở
lại đây cùng với ông ta.
-Tôi không có chồng... - nỗi bối rối của người đàn bà gia tăng.
-Bà nói đúng. Bà không có chồng. Bà đã có năm ông, và bây giờ bà
đang ở với một ông không phải là chồng bà. Điều đó có cần thiết không?
Cả tôn giáo của bà cũng không dạy sự ô uế. Mười điều răn, qúi vị cũng có.
Vậy Fotinai, tại sao bà sống như vậy? Bà không cảm thấy chán làm thân
xác của biết bao người thay vì làm người vợ chân thành của chỉ một người
thôi sao? Bà không sợ ở tuổi già, bà sẽ cô đơn một mình với những kỷ
niệm của bà sao? Với sự hối tiếc, với nước mắt? Phải, cả những điều đó
nữa, cộng với sự sợ hãi Thiên Chúa và cả các yêu quái. Các con bà ở đâu?
Người đàn bà cúi đầu thật sâu và không nói.
-Bà đã không để cho chúng ở trên đời. Nhưng tâm hồn bé nhỏ của
-
21
chúng mà bà đã cấm chúng nhìn thấy ánh sáng ban ngày, sẽ than trách
bà. Luôn luôn nữ trang... quần áo sang trọng, nhà cửa giầu có, bàn ăn dư
thừa... Đúng, nhưng sự trống rỗng, nước mắt và những đau khổ nội tâm.
Bà là kẻ bị bỏ rơi, Fotinai. Và chỉ với sự thống hối chân thành là phương
tiện cho sự tha thứ của Thiên Chúa, và bởi đó có sự tha thứ của các con
bà, là bà có thể trở nên giầu có.
-Lạy Chúa, tôi thấy Ngài là một tiên tri, và tôi xấu hổ.
-Và đối với Chúa Cha, đấng ngự trên trời, bà không thấy xấu hổ khi
bà làm điều xấu sao? Đừng khóc vì thất vọng trước mặt loài người... Lại
đây, Fotinai, ở gần Ta, Ta sẽ nói cho bà về Thiên Chúa. Có lẽ bà không
biết Người rõ, vì thế, chắc chắn là vì thế nên bà đã lầm lạc chừng nào! Nếu
bà biết rõ Thiên Chúa thực, bà sẽ không đến nỗi tự làm nhục như thế, vì
Người sẽ nói với bà và nâng đỡ bà...
-Thiên Chúa, cha ông chúng tôi đã thờ phượng trên núi này, mà các
ông nói rằng chỉ có ở Jêrusalem là nơi người ta phải thờ Người. Nhưng
ông, ông nói rằng chỉ có một Thiên Chúa. Xin giúp tôi nhìn xem Người ở
đâu, và tôi phải thờ Người thế nào...
-Này bà, hãy tin Ta. Đã sắp đến lúc, không phải ở trên núi xứ
Samari, cũng không phải ở Jêrusalem mà người ta phải thờ Chúa Cha. Qúi
vị thờ đấng mà qúi vị không biết, chúng ta thờ đấng chúng ta biết, bởi vì
sự cứu rỗi đến từ người Do Thái. Ta nhắc lại cho bà các tiên tri. Sẽ đến
giờ, và giờ đó đã bắt đầu rồi, giờ mà những kẻ thờ Chúa Cha thật sự, phải
thờ Người trong tinh thần và chân lý, không phải theo nghi thức cũ, nhưng
theo nghi thức mới, trong đó không còn những hy sinh hay toàn thiêu của
súc vật, tiêu hủy đi bằng lửa, nhưng là sự hy sinh vĩnh viễn của Thánh Thể
-
22
vô nhiễm, thiêu đốt bởi ngọn lửa của đức ái. Sự thờ phượng tinh thần,
trong một vương quốc tinh thần. Điều đó sẽ hiểu được đối với những kẻ
biết thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Thiên Chúa là tinh thần, những
kẻ thờ Người phải thờ cách siêu nhiên.
-Ngài có những lời thánh. Tôi, tôi biết, bởi vì chúng tôi cũng biết chút
ít rằng Đấng Messia sắp tới rồi. Đấng Messia mà người ta cũng gọi là Đấng
Kitô. Khi Người đến, Người sẽ dạy chúng tôi mọi sự. Gần đây cũng có một
người mà người ta gọi là Tiền Hô của Người. Có nhiều người đã tới nghe
ông. Nhưng ông ta qúa nghiêm khắc... Ngài, Ngài nhân từ... và những tâm
hồn khốn nạn sẽ không phải sợ Ngài. Tôi nghĩ rằng Đức Kitô sẽ nhân từ.
Người ta gọi Người là Vua Bình An. Còn bao lâu nữa Người mới tới ?
-Tôi đã nói với bà rằng thời của Người đã bắt đầu rồi.
-Làm sao Ngài biết? Có lẽ Ngài là môn đệ của Người? Vị Tiền Hô có
rất nhiều môn đệ. Đức Kitô cũng sẽ có.
-Chính Ta, người đang nói với bà. Ta là Đức Kitô Giêsu.
-Ngài... Ôi!... - người đàn bà đang ngồi gần Giêsu liền đứng dậy và
chạy trốn.
-Tại sao bà chạy trốn?
-Bởi vì tôi sợ hãi ở gần Ngài. Ngài là đấng Thánh...
-Ta là Đấng Cứu Thế. Ta đến đây - nhưng điều đó không cần - bởi vì
Ta biết tâm hồn bà mệt mỏi vì lang thang phiêu bạt. Bà muốn nôn mửa vì
thứ đồ ăn của bà... Ta đến để ban cho bà thứ đồ ăn mới làm cho bà hết
buồn nôn và hết mệt mỏi... Kìa, các môn đệ của Ta đang về với bánh của
Ta, nhưng Ta đã được ăn do đã cho bà những mụn bánh đầu tiên của ơn
Cứu Chuộc.
-
23
Các môn đệ nhìn trộm người đàn bà, ít hay nhiều kín đáo, nhưng
không ai nói gì. Bà ta liền bỏ đi, không nghĩ gì tới nước cũng như bình.
Phêrô nói:
-Thưa Thầy đây ạ. Họ rất tử tế với chúng con. Có phó mát, bánh mới
ra lò, oliu và táo. Hãy dùng thứ nào Thầy muốn. Người đàn bà này đã làm
tốt khi để bình của bà lại đây. Chúng ta sẽ kín mau hơn là cái bầu nhỏ.
Chúng ta sẽ uống và ruôn vào đầy các bầu mà không phải xin gì nữa ở các
người Samari, cũng không phải chen lấn với họ ở phông-ten. Thầy không
ăn à ? Con muốn mua cá cho Thầy mà không có. Có lẽ cá làm Thầy thích
hơn. Thầy có vẻ mệt và xanh.
-Thầy có một thứ đồ ăn mà các con không biết. Đó là bữa ăn của
Thầy. Thầy đã ăn ngon.
Các môn đệ nhìn nhau, hỏi nhau bằng con mắt.
Giêsu trả lời cái phỏng vấn im lặng của các ông: “Đồ ăn của Thầy là
làm theo ý đấng đã sai Thầy, để hoàn thành công trình mà Người muốn
Thầy làm. Khi người gieo giống vãi hạt giống, họ có thể nói được rằng họ
đã làm tất cả để có vụ gặt không? Không, chắc chắn là không. Còn biết
bao việc phải làm để có thể nói được rằng: ‘Đây, công việc của tôi đã hoàn
tất’. Và trước giờ đó, họ không thể nghỉ ngơi. Hãy nhìn những cánh đồng
này dưới ánh sáng vui vẻ của mặt trời vào giờ thứ sáu. Chỉ có một tháng
trước đây, có lẽ không đến một tháng, mặt đất còn trơ trụi và tối, bởi vì
mưa đổ xuống. Bây giờ các con hãy nhìn: vô vàn cây lúa miến vừa nhú lên,
một mầu xanh mướt, dưới ánh sáng bao la bao phủ mặt đất này, chúng coi
như xanh lạt hơn, có thể nói giống như một bức màn hầu như trắng. Đó là
vụ gặt tương lai, mà khi nhìn nó, các con nói: còn bốn tháng nữa là mùa
-
24
gặt. Người gieo liên kết với kẻ gặt, bởi vì nếu chỉ cần một người để gieo
hạt, thì phải cần một số đông thợ để gặt. Người gieo kẻ gặt đều vui mừng.
Cái người chỉ gieo một túi nhỏ hạt giống, bây giờ phải sửa soạn các kho
lẫm cho vụ gặt, cũng như những người chỉ trong vài ngày, thu hái được đủ
để sống trong nhiều tháng. Trong cánh đồng thiêng liêng cũng vậy: Những
người gặt những cái mà Thầy đã gieo sẽ vui mừng với Thầy, bởi vì Thầy
cho họ tiền lương mà họ đáng. Thầy sẽ cho họ những thứ để sống trong
nước vĩnh cửu của Thầy. Các con, các con chỉ có việc gặt. Công việc nặng
nề nhất, chính Thầy đã làm. Nhưng Thầy nói với các con: ‘Hãy đến trong
cánh đồng của Thầy. Thầy vui mừng khi thấy các con mang nặng những
bông lúa do mùa gặt của Thầy. Khi Thầy đã gieo hết các hạt giống, không
biết mệt và ở khắp nơi, và các con đã gặt xong vụ gặt, lúc đó ý muốn
Thiên Chúa đã được hoàn thành, Thầy sẽ ngồi trong bàn tiệc tại Jêrusalem
trên trời’. Đây, các người Samari đang đến cùng với Fotinai. Hãy xử sự bác
ái với họ. Đây là những tâm hồn đến với Thiên Chúa”.
4* VỚI NHỮNG NGƯỜI Ở SYCHAR
Đây, một nhóm thân hào kỳ mục xứ Samari đến với Giêsu do Fotinai
dẫn đầu.
-Chúa ở cùng Ngài, rabbi. Người đàn bà này đã nói với chúng tôi
rằng Ngài là một tiên tri, và rằng Ngài không khinh chê nói chuyện với
-
25
chúng tôi. Chúng tôi xin Ngài ở lại với chúng tôi, và đừng từ chối chúng tôi
các lời của Ngài, bởi vì sự thật là chúng tôi đã đoạn giao với Juđa, nhưng
không thể nói rằng chỉ có Juđa mới là thánh, và tất cả các kẻ tội lỗi đều ở
Samari. Ngay ở giữa chúng tôi cũng có những người công chính.
-Tôi cũng đã giải thích tư tưởng đó với người đàn bà. Tôi không bó
buộc, nhưng tôi không từ chối nếu người ta muốn tìm tôi.
-Ngài công bình. Người đàn bà nói với chúng tôi rằng Ngài là Đức
Kitô. Có thật không? Nhân danh Thiên Chúa, xin Ngài trả lời cho chúng
tôi.
-Tôi là Đức Kitô. Thời gian của Đấng Messia đã tới. Israel sẽ được tụ
họp bởi vua của họ. Và không phải chỉ có Israel thôi.
-Nhưng Ngài sẽ là thế cho những người... những người không ở
trong lầm lạc như chúng tôi - nhận xét của một ông già oai vệ.
-Ông à, tôi biết ông là thủ lãnh của tất cả những người này, và tôi
cũng biết ông ngay thẳng tìm hiểu sự thật. Bây giờ hãy nghe đây. Ông đã
được giáo huấn bởi sách thánh: Chính về Ta, lời mà Thánh Linh đã nói với
Êzêkiel, khi Người báo cho ông ta một sứ mệnh tiên tri rằng: “Hỡi con
người, Ta sai ngươi đến với con cái Israel, với dân tộc khởi loạn. Chúng đã
xa lìa Ta... đây là những con cái cứng đầu, với qủa tim bất trị... Chúng có
thể nghe ngươi, nhưng chẳng đếm xỉa gì tới lời ngươi cũng là lời của Ta,
bởi vì đây là một nhà phản loạn. Nhưng ít nhất chúng sẽ biết rằng ở giữa
chúng có một tiên tri. Vậy ngươi đừng sợ chúng, đừng thất kinh về những
lời của chúng, bởi vì chúng cứng lòng tin và phản loạn... Hãy mang lời Ta
cho chúng, dù chúng lắng tai nghe hay từ chối. Ngươi hãy làm những gì Ta
nói với ngươi, hãy nghe những lời Ta nói với ngươi để đừng phản ngụy
-
26
như chúng. Do đó, hãy ăn tất cả những lương thực mà Ta cung cấp cho
ngươi”. Và tôi, tôi tới, không lầm tưởng, không đòi hỏi được tiếp nhận như
một kẻ chiến thắng. Nhưng vì ý muốn của Thiên Chúa là mật ong của tôi,
nên đây, tôi hoàn thành nó, và nếu qúi vị muốn, tôi sẽ nói với qúi vị những
lời mà Thánh Linh đã đặt trong tôi.
-Làm sao Đấng Vĩnh Cửu có thể nghĩ tới chúng tôi?
-Con ơi, bởi vì Người là Tình Yêu.
-Các vị rabbi của Juđa không nói như vậy.
-Nhưng Đấng Messia của Chúa nói với qúi vị như vậy.
-Có chép rằng Đấng Messia sinh ra bởi một Trinh Nữ nước Juđa.
Ngài, Ngài sinh ra bởi ai, và như thế nào?
-Ở Bétlem Ephrata, do bà Maria dòng dõi Đavít, do sự thực hiện thụ
thai thiêng liêng. Hãy tin điều đó - giọng nói của Giêsu trong trẻo vang lên
như tiếng chuông chiến thắng khi Người công bố sự trinh khiết của Mẹ
Người.
-Khuôn mặt Ngài rực rỡ một ánh sáng bao la. Không, Ngài không thể
nói dối. Con cái sự tối tăm có khuôn mặt u ám và con mắt băn khoăn. Ngài
tươi sáng, con mắt Ngài trong trẻo như buổi sáng tháng tư, và lời Ngài rất
hay. Chúng tôi xin Ngài vào thành Sychar và dạy dỗ con cái của dân này,
rồi sau đó Ngài sẽ đi... và chúng tôi sẽ nhớ rằng Ngôi Sao đã băng qua bầu
trời của chúng tôi...
-Vậy tại sao qúi vị không đi theo Ngôi Sao đó?
-Làm sao Ngài muốn là chúng tôi có thể? - Trong khi đàm thoại, họ
đi về phía thành phố. “Chúng tôi là những người xa lìa, ít nhất là như các
ông nói về chúng tôi như vậy. Nhưng từ nay, chúng tôi được sinh ra trong
-
27
niềm tin mới này, và chúng tôi không biết có chính đáng không nếu chúng
tôi buông lơi nó. Ngoài ra, phải... Với Ngài, chúng tôi có thể nói, tôi cảm
thấy điều đó. Và chúng tôi cũng vậy, chúng tôi cũng có mắt để xem và có
đầu óc để suy nghĩ. Những khi di chuyển vì làm ăn buôn bán, chúng tôi tạt
qua xứ của các ông, tất cả những điều chúng tôi thấy, không đủ thánh
thiện để làm cho chúng tôi tin rằng Thiên Chúa ở với các ông, những người
Juđa hoặc người Galilê”.
-Thật vậy, tôi nói với ông: sự kiện đã không thể thuyết phục các ông
và dẫn dắt các ông về với Thiên Chúa, không phải là sự lăng mạ hay
nguyền rủa, nhưng là thiếu gương sáng và lòng bác ái. Điều này sẽ là sự
kết án chính cho dân Israel.
-Ngài khôn ngoan chừng nào! Qúi vị hãy nghe!?
Tất cả đều bộc lộ sự bằng lòng với những lời thán phục. Trong khi
đó, họ đã tới thành phố. Nhiều người khác cũng tiến lại gần và cùng đi về
một căn nhà.
-Xin Ngài nghe. Ngài khôn ngoan và tốt, xin soi sáng sự nghi ngờ của
chúng tôi. Rất nhiều điều về tương lai của chúng tôi có thể tùy thuộc vào
đó. Ngài là Đấng Messia, vì vậy Ngài sẽ chỉnh đốn lại vương quốc của
Đavít, Ngài hẳn vui mừng tụ họp phần tử xa lìa này vào nước ấy phải
không?
-Không phải là qui tụ các phần tử phân rẽ của cái quốc gia suy sụp
này, nhưng là dẫn hết mọi tâm hồn về cho Thiên Chúa. Đó là điều lo lắng
của tôi, và tôi vui mừng tái lập lại chân lý trong các con tim. Nhưng hãy
bày tỏ sự nghi ngờ của ông.
-Cha ông chúng tôi đã phạm tội. Từ lúc đó, tâm hồn các người
-
28
Samari thành ghê tởm trước mặt Thiên Chúa. Chúng tôi sẽ được gì nếu
chúng tôi theo con đường tốt? Có phải mãi mãi chúng tôi là những người
cùi trước mắt Thiên Chúa không?
-Đó là sự ân hận của qúi vị. Sự ân hận muôn kiếp, sự bất mãn
trường tồn của tất cả những người ly giáo. Nhưng Ta cũng còn trả lời ông
theo tiên tri Êzêkiel. Chúa phán: “Hết mọi linh hồn đều thuộc về Ta”, linh
hồn người cha cũng như linh hồn người con. Chỉ có linh hồn nào
phạm tội mới phải chết. Một người, nếu nó không thờ ngẫu tượng, không
làm sự ô uế, không trộm cắp, không cho vay nặng lãi; nếu nó có tình
thương đối với thân xác và linh hồn người khác, nó sẽ là người công chính
trước mắt Ta, và sẽ được sự sống thật. Lại nữa, nếu một người công chính
có một người con phản ngụy, người con này có thể có sự sống thật
không, vì lẽ cha nó là người công chính? Không, nó sẽ không có. Và
nữa: nếu đứa con của một người tội lỗi là người công chính, nó có phải
chết như cha nó không? Không, nó sẽ sống đời sống đời đời, bởi vì nó là
người công chính. Sự kiện sẽ không công bằng nếu người nọ phải mang tội
của người kia. Linh hồn nào phạm tội sẽ phải chết. Linh hồn nào
không phạm tội sẽ không phải chết. Nhưng nếu kẻ phạm tội thống hối và
trở về với sự công chính, nó cũng sẽ được sự sống thật. Chúa là Thiên
Chúa duy nhất đã phán: “Ta không muốn kẻ có tội phải chết, nhưng muốn
nó hối cải và được sống”. Ôi! hỡi các con cái xa lạc, vì thế Người đã sai Ta
để qúi vị có sự sống thật. Ta là sự sống. Ai tin Ta và tin vào đấng đã sai
Ta, sẽ được sự sống đời đời, dù cho tới lúc này, nó là người tội lỗi.
-Đây, chúng ta đã tới nhà tôi. Thưa Thầy, Thầy có sợ vào đây không?
-Ta chỉ sợ tội mà thôi.
-
29
-Vậy xin mời vào và nghỉ ngơi. Chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ bánh.
Rồi nếu sự việc không làm nặng nề cho Thầy, Thầy sẽ chia sẻ cho chúng
tôi lời của Thiên Chúa. Những lời đến từ miệng Thầy nó có một vị khác... Ở
đây chúng tôi có nỗi băn khoăn của kẻ không cảm thấy mình chắc chắn ở
trên chính lộ...
-Tất cả sẽ yên ổn nếu qúi vị dám đường đường đi về với Chân Lý.
Hỡi các thị dân, Thiên Chúa nói ở trong qúi vị. Đêm sắp xuống rồi, nhưng
ngày mai, vào giờ thứ ba, Thầy sẽ nói với qúi vị lâu giờ, nếu qúi vị muốn.
Hãy giải tán đi trong Tình Thương.
5* GIẢNG TIN MỪNG Ở SYCHAR
Trong lúc này, con chú thích điều nhận xét đầu tiên này, nếu không
con sẽ quên mất. Trong đoạn tường thuật về “Ngôi mộ của Chúa Giêsu”
hồi năm ngoái, trong đề mục “Cuộc tử nạn”, chúng ta đã bỏ bớt vì nhận
thấy qúa nhiều lặp đi lặp lại. Nhưng thực sự nó hữu ích cho những ai muốn
biết (một cách ngay thật) những giải thích về một số việc, về những sự có
liên can tới Chúa cũng như về những người muốn từ chối thực tại cái chết
của Đức Kitô. Ở đoạn cuối con đã mô tả về thân xác Chúa đã được xức
dầu và đặt trong khăn liệm như thế nào, và việc này đã cắt nghĩa nhiều
điều khác nhau. Vậy từ nay, việc đó đã làm xong. Người ta phải biết rằng
con, khi con không được Chúa nâng đỡ, con hoàn toàn đần độn. Con
-
30
không thấy gì, không hiểu gì hết. Vì vậy sẽ hoàn toàn vô ích nếu tới hỏi
con điều gì sau khi công việc của con đã chấm dứt. Con không còn biết gì
nữa, con không hiểu nữa về ích lợi của một đoạn tường thuật. Không có gì,
số không tuyệt đối và tối tăm tuyệt đối. Lúc rạng đông sáng nay, người ta
đã chỉ cho con tại sao bài tường thuật này được đặt dưới đề mục được bàn
cãi. Con đã uống cái... phương thuốc của con để chống lại sự kiêu căng
trước những phán đoán của con người. Bây giờ con thêm vào một tí, trong
một tờ đính kèm, cắt nghĩa tại sao thân xác Người được sửa soạn. Con
chêm vào cho việc sử dụng và là ánh sáng cho những người có ý định hiểu
biết cũng như cho những người muốn phủ nhận.
Bây giờ hãy tiến bước.
Giêsu nói ở giữa một quảng trường với một đám đông người. Người
đứng trên một cái ghế đá nhỏ ở gần phông-ten, người ta bao quanh
Người. Chung quanh cũng là nhóm mười hai, với những khuôn mặt... kinh
ngạc hay phiền hà, hoặc cả đến bộc lộ thái độ ghê tởm đối với một vài
giao tiếp. Đặc biệt là Batôlômêo và Iscariot, bộc lộ cách rõ ràng họ đào
thải mọi chướng ngại để tránh hết sức có thể việc lân cận với người
Samari. Iscariot trèo lên một cành cây, tựa như ông muốn chế ngự hết mọi
màn, còn Batôlômêo tựa lưng vào một cái cổng ở góc quảng trường.
Thành kiến thật sống động và linh hoạt trong tất cả. Trái lại, Giêsu không
có gì khác thường, hơn nữa, tôi nói là Người còn cố gắng để người ta
không sợ vì sự oai phong của Người, đồng thời Người tìm cách tỏ mình ra
để người ta khỏi nghi ngờ. Người âu yếm hai ba đứa trẻ và hỏi tên chúng.
Người lưu ý đến một ông già mù mà Người cho tiền bố thí với tính cách cá
-
31
nhân. Người trả lời hai ba câu hỏi mà người ta đặt cho Người về những sự
không thuộc lệ thông thường, nhưng thuộc về đời tư. Một câu là của một
người cha có con gái bỏ nhà trốn đi theo tình nhân, bây giờ nó xin lỗi:
-Hãy tha cho nó, đừng chần chừ.
-Nhưng thưa Thầy, tôi đã khổ vì nó. Tôi rất khổ. Trong vòng một
năm, tôi già đi mười tuổi.
-Sự tha thứ sẽ cho ông nhẹ nhõm khuây khỏa.
-Không thể được. Vết thương của tôi tồn tại.
-Đúng vậy. Nhưng trong vết thương có hai điểm làm cho đau: một là
sự nhục nhã không thể chối cãi được mà ông phải chịu vì con gái ông, hai
là cái nỗ lực mà ông làm để từ chối tình yêu đối với con ông. Ít nhất là hãy
loại bỏ cái thứ hai. Sự tha thứ là hình thức cao nhất của tình yêu, nó làm
cho cái đau biến mất. Hỡi người cha đau khổ, hãy nghĩ rằng người con gái
này được sinh ra bởi ông, và nó luôn luôn có quyền đòi tình yêu của ông.
Nếu ông thấy nó bệnh, một bệnh của thân xác, và giá như ông biết rằng
nếu ông không săn sóc nó, nó sẽ chết, ông có để nó chết không? Chắc
chắn là không. Vậy hãy nghĩ rằng ông, một cách chính xác là ông, nhờ sự
tha thứ của ông, ông có thể làm ngưng điều xấu của nó, và kể cả dẫn nó
về với tình yêu ước định là ngay chính và lành mạnh. Ông thấy đó là phía
vật chất, ít giá trị, đã chiếm chỗ ưu tiên trong nó.
-Vậy Thầy nói rằng tôi phải tha ?
-Ông phải tha.
-Nhưng làm sao tôi có thể thấy nó ở trong nhà mà không nguyền rủa
nó, sau những điều nó đã làm ?
-Vậy ra ông sẽ không tha? Sự tha thứ không phải chỉ ở trong hành
-
32
động mở cửa nhà cho nó, nhưng ở trong việc mở qủa tim ra cho nó. Ông
ơi, hãy nhân từ. Tại sao cái điều chúng ta có đối với một con bê chướng,
chúng ta lại không có đối với con cái chúng ta?
Một người đàn bà hỏi Người xem bà có nên cưới ông anh rể của bà
để cho các đứa con mồ côi của bà có một người cha.
-Bà có chắc rằng ông sẽ là một người cha thực sự không?
-Thưa Thầy chắc. Tôi có ba đứa con trai. Phải có một người đàn ông
để hướng dẫn chúng nó.
-Hãy làm, và hãy trở nên một người vợ trung thành của ông như bà
đã là đối với người chồng thứ nhất của bà.
Một người thứ ba hỏi người là tốt hay xấu, nếu chấp nhận lời mời mà
anh ta đã nhận được để đi Antioche.
-Tại sao ông muốn đi nơi đó?
-Bởi vì ở đây tôi không có phương tiện để sống cho tôi và đàn con
tôi. Tôi biết một người ngoại muốn giữ tôi, vì ông thấy tôi có khả năng cho
công việc, và ông cũng sẽ cho các con trai tôi việc làm. Nhưng tôi không
muốn... Thầy thấy sự e ngại này có vẻ lạ đối với một người Samari, nhưng
tôi ngại thực. Tôi không muốn mất đức tin. Người này là một dân ngoại,
Thầy biết đó.
-Nhưng chẳng có gì ô uế nếu người ta không muốn ô uế. Vậy hãy đi
Antioche, và hãy trung thành với Thiên Chúa thực. Người sẽ hướng dẫn
ông, và ông sẽ là người làm ơn cho ông chủ của ông, vì qua sự ngay thật
của ông, ông ta sẽ nhận biết Thiên Chúa.
Rồi Người nói với mọi người:
-Tôi đã nghe nhiều người trong qúi vị, và trong tất cả, tôi khám phá
-
33
ra một sự đau đớn bí mật, một nỗi khổ mà chính qúi vị cũng không kể tới,
nhưng nó khóc ở trong lòng qúi vị. Điều này đã xảy ra từ bao thế kỷ, và nó
lớn lên, mà những lý do qúi vị đã giãi bày cũng như những lăng nhục mà
người ta quăng về phía qúi vị, không thể làm cho nó biến đi, trái lại, nó trở
thành cứng rắn hơn, và càng ngày nó càng đè nặng trên qúi vị, giống như
những lớp tuyết khi nó biến thành băng.
Tôi không theo qúi vị, cũng không theo những kẻ kết án qúi vị. Tôi là
sự công chính và sự khôn ngoan. Để giải quyết trường hợp của qúi vị, tôi
vẫn còn nhắc cho qúi vị về Êzêkiel. Với tư cách là tiên tri, ông đã nói về
Samari và về Jêrusalem: ông nói đó là hai con gái của cùng một dạ. Ông
gọi tên chúng là Ohola và Oholiba. Cô thứ nhất : Ohola, rơi vào vòng ngẫu
tượng, vì cô đã cắt đứt mối liên lạc thiêng liêng với Cha chúng ta ở trên
trời. Luôn luôn, sự kết hợp với Thiên Chúa là phần rỗi. Cô đã đổi sự giầu có
thực sự, sức mạnh thực sự, và sự khôn ngoan thực sự, để lấy sự giầu có,
sức mạnh và khôn ngoan khốn nạn của một kẻ còn ở bên dưới Thiên Chúa
hơn chính cô. Và cô bị nó lôi cuốn đến nỗi trở thành nô lệ, bằng cách sống
giống như kẻ lôi kéo cô. Thay vì mạnh, cô trở nên yếu, thay vì được hơn,
cô trở nên kém, thay vì khôn ngoan, cô trở thành điên. Khi một người bị ô
uế vì bất cẩn bởi một sự nhiễm độc, nó rất khó lòng được chữa lành.
Qúi vị sẽ nói rằng: “Phải chăng chúng tôi bị thu nhỏ lại? Không,
chúng tôi lớn”. Phải, lớn, nhưng thế nào? Với giá nào? Qúi vị biết. Kể cả
các bà, bao nhiêu người trong các bà đã chinh phục sự giầu có bằng cái
giá ghê sợ là danh dự của họ. Các bà chiếm được một của không lâu bền,
mà bị mất một của không bao giờ có cùng là danh thơm tiếng tốt của các
bà.
-
34
Oholiba thấy sự điên dại của Ohola là giá của tất cả giầu sang của
nàng, muốn bắt chước nàng và trở nên điên hơn Ohola với cái giá là tội lỗi
gấp đôi. Qủa vậy, nàng đã có Thiên Chúa thực ở với nàng, đáng lẽ không
bao giờ được dày xéo sức mạnh đến với nàng do sự kết hợp này. Vậy với
Oholiba điên dại và ô uế gấp đôi, hình phạt nặng nề và ghê sợ đã đến và
còn đến hơn nữa. Thiên Chúa sẽ quay lưng lại với nàng - Người đang làm
như vậy rồi - để đi đến với những người không phải là Juđa. Người ta
không thể kết án Thiên Chúa là bất công, vì Người không cưỡng bách.
Người mở rộng cánh tay cho hết mọi người, Người kêu gọi mọi người.
Nhưng nếu ai nói với Người: “Cút đi!”, Người sẽ ra đi. Người đi tìm tình yêu
và mời gọi những người khác cho tới khi Người tìm được kẻ nào nói với
Người: “Con tới”.
Chính vì thế tôi nói với qúi vị rằng qúi vị có thể được nhẹ nhõm nỗi
băn khoăn của qúi vị, và qúi vị phải có nó bằng cách nghĩ đến tư tưởng
này: “Ohola, hãy hồi tỉnh, Thiên Chúa gọi mày”.
Sự khôn ngoan của con người hệ tại sự sám hối. Sự khôn ngoan của
thần trí ở trong tình yêu của Thiên Chúa thật và trong chân lý của Người.
Đừng nhìn vào Oholiba, cũng đừng nhìn Phênici, Ai Cập, Hy Lạp. Hãy nhìn
Thiên Chúa. Quê hương của hết mọi tâm hồn ngay thẳng là Trời. Không có
nhiều luật, chỉ có một luật duy nhất: Luật của Thiên Chúa. Chính nhờ bộ
luật này mà người ta có sự sống. Đừng nói: “Chúng tôi đã phạm tội”, hãy
nói: “Chúng tôi không muốn phạm tội nữa”. Thiên Chúa vẫn còn yêu qúi vị,
bằng cớ là Người đã sai Ngôi Lời của Người để nói với qúi vị: “Hãy đến”.
Hãy đến, tôi nói điều đó với qúi vị. Qúi vị bị sỉ nhục và bị cấm cách? Bởi ai?
Bởi những kẻ giống như qúi vị. Nhưng Thiên Chúa còn hơn họ, và Người
-
35
nói với qúi vị: “Hãy đến”. Sẽ có một ngày qúi vị sẽ vui mừng vì đã không ở
trong Đền Thờ... Sự thông hiểu của qúi vị sẽ vui mừng vì điều đó. Nhưng
các tâm hồn sẽ được vui mừng hơn, vì sự tha thứ của Thiên Chúa đã đến
trên các con tim ngay thẳng rải rắc trong xứ Samari. Hãy chuẩn bị cho biến
cố này. Hãy đến với Vị Cứu Tinh của toàn thể, hỡi các con cái của Thiên
Chúa đã bị lạc đường.
-Nhưng ít nhất là mấy người trong chúng tôi sẽ đến. Chính là những
người thuộc phía bên kia không muốn chúng tôi.
-Và cùng với vị thầy cả và tiên tri, Ta còn nói với qúi vị: “Ta sẽ lấy
rừng của Giuse đang ở trong tay Ephraim với các chi tộc của Israel đang
qui tụ với nó, Ta sẽ kết hợp nó với rừng của Juđa, và ta sẽ làm cho tất cả
thành một khu rừng duy nhất”. Phải, không phải đến với Đền Thờ, hãy đến
với Ta, Ta không xua đuổi qúi vị. Ta là người mà người ta gọi là đấng ngự
trị toàn cầu. Ta là Vua các vua. Ta sẽ thanh tẩy tất cả qúi vị, ôi hỡi dân
muốn được thanh tẩy! Ta sẽ tụ họp các con, hỡi đoàn chiên không kẻ
chăn, hoặc có những kẻ chăn thờ tà thần! Vì Ta là Đấng Chăn Chiên tốt
lành. Ta sẽ cho các con một Nhà Tạm duy nhất, và Ta sẽ đặt nó ở giữa các
tín hữu của Ta. Nhà Tạm này sẽ là nguồn sống, là bánh sự sống. Nó sẽ là
ánh sáng, nó sẽ là phần rỗi, là sự bảo vệ, là sự khôn ngoan. Nó sẽ là tất
cả, bởi vì nó là Đấng Hằng Sống ban mình làm của nuôi cho người chết để
làm cho nó sống. Nó sẽ là Thiên Chúa lan tràn ra bởi sự thánh thiện của
Người để thánh hóa. Ta là và Ta sẽ là như vậy. Thời gian của giận ghét,
của không thông cảm, của sợ sệt đã qua. Hãy đến, hỡi Israel, dân tộc chia
rẽ, dân tộc đau khổ, dân tộc xa cách, dân tộc thân yêu, thân yêu chừng
nào! Vô cùng thân yêu, bởi vì bệnh hoạn, bởi vì yếu đuối, bởi vì bị mất
-
36
máu do mũi tên đã mở ra các mạch của linh hồn, và đã làm cho mất đi sự
liên lạc sinh tử với Thiên Chúa của ngươi. Hãy đến! Hãy đến trong cung
lòng mà ngươi được sinh ra. Hãy đến với lồng ngực đã thông sự sống cho
ngươi. Sự êm dịu và sự ấm áp hãy còn ở đó cho ngươi. Luôn luôn. Hãy
đến! Hãy đến với sự sống và phần rỗi.
6* TỪ BIỆT CÁC NGƯỜI SYCHAR
Chúa Giêsu nói với các người Samari ở Sychar :
-Trước khi từ giã các con, vì Thầy còn nhiều con cái khác phải được
rao giảng Tin Mừng, Thầy muốn mở ra cho các con những đường sáng của
hy vọng. Thầy nói: Hãy đi, hãy chắc chắn là các con sẽ tới đích. Hôm nay
Thầy không trích trong đại tiên tri Êzêkiel, Thầy trích trong người đồ đệ
biệt ái của đại tiên tri Jêrêmi.
Barúc đã nói cho các con. Ôi! Thực sự ông đã lấy tâm hồn các con
mà nói với Thiên Chúa cao cả ngự trên trời thay cho tất cả các con. Thầy
không chỉ nói về linh hồn các người Samari, nhưng tất cả mọi linh hồn, ôi!
hỡi dòng dõi của dân được tuyển chọn, đã bị sa ngã vào nhiều thứ tội. Ông
cũng lấy linh hồn các con nữa, ôi hỡi các dân ngoại! Các con cảm thấy sự
hiện hữu của một Thiên Chúa không được biết ở giữa vô số thần linh mà
các con thờ, một Thiên Chúa mà linh hồn các con linh cảm là độc nhất và
chân thật, mà sự nặng nề của các con đã ngăn cản các con tìm tòi để biết
Người như tâm hồn các con khao khát. Ít nhất là một luật về luân lý đã
được ban cho các con, ôi hỡi các dân ngoại, ôi hỡi các kẻ thờ tà thần, vì
-
37
các con là con người, và trong con người có một thứ tinh túy đến từ Thiên
Chúa, nó gọi là linh hồn. Nó luôn luôn nói với các con và khuyên các con
cất mình lên, và nó thúc đẩy các con thực hiện một đời sống thánh. Các
con đã hạ bệ nó để thành nô lệ cho một thể xác trụy lạc bằng cách các con
bẻ gẫy lề luật luân lý của con người, lề luật mà các con có, và trở nên tội
lỗi, kể cả trước mặt nhân loại. Các con hạ thấp tư tưởng về lòng tin, hạ
thấp chính các con xuống ngang hàng với súc vật. Nhưng hãy nghe đây,
tất cả hãy nghe đây, để các con hiểu hơn, và nhờ thế các con hành động
hơn như các con hiểu về lề luật của một nền luân lý siêu nhiên mà Thiên
Chúa đã ban cho các con.
Đây là lời cầu nguyện của Barúc. Chính lời cầu nguyện này phải ở
trong tim các con, những con tim khiêm tốn bằng một sự khiêm tốn qúi
phái, không làm cho giảm cấp và hèn hạ, nhưng là một sự hiểu biết chính
xác về những điều kiện khốn khổ của chính mình, và ước ao tìm được
những phương tiện để tự hoàn thiện một cách siêu nhiên. Vậy đây là lời
cầu nguyện của Barúc: “Lạy Chúa, xin nhìn xem chúng con. Từ thánh điện
của Ngài, xin lắng tai nghe chúng con. Xin mở mắt và suy nghĩ cho rằng:
không phải những kẻ chết mà linh hồn đã lìa khỏi xác và đang ở trong hỏa
ngục là những kẻ dâng lên Chúa sự công chính và danh dự, nhưng là
những linh hồn đau khổ bởi sự khốn nạn bao la; những kẻ bước đi, cúi gù,
yếu đuối, dáng vẻ bị đánh bại, đó là những linh hồn đói khát Ngài, lạy
Thiên Chúa, là những kẻ trả lại cho Ngài vinh quang và công bình”. Và
Barúc khóc một cách khiêm nhường, và tất cả những kẻ công chính phải
khóc với ông trong khi nhìn thấy và điểm danh những kẻ khốn nạn, đã từ
một dân hùng mạnh, trở thành một dân thê thảm, bị chia cắt và bị lệ
-
38
thuộc: “Chúng con đã không nghe tiếng Ngài, và Ngài đã làm tròn lời Ngài
đã nói qua các tôi tớ Ngài là các tiên tri... Đây, xương cốt của vua chúa và
cha ông chúng con đã bị lấy ra khỏi mồ, bị phơi bày ra dưới sức nóng của
mặt trời và sương giá ban đêm; các dân thành phố đã chết trong đau đớn
kinh khủng bởi đói khát, gươm giáo và dịch tễ. Và Đền Thờ, nơi danh Ngài
được kêu cầu, Ngài đã hạ nó xuống tới tình trạng như hiện nay vì những
hành vi bất công của Israel và của Juđa”.
Ôi! Hỡi các con cái của Chúa Cha, đừng nói: “Đền Thờ của chúng tôi
cũng như của các ông đã được tái thiết và đẹp đẽ”. Không, một cây bị sét
xé ra từ ngọn tới rễ sẽ không sống được. Nó có thể tăng trưởng một cách
vất vưởng, cố gắng sống với các chồi mọc ra từ các rễ không muốn chết.
Nhưng đó chỉ là những bụi cỏ không có trái, và cây sẽ không bao giờ dồi
dào phong phú những trái tốt và ngon nữa. Sự tan tác đã bắt đầu với sự
phân chia, và càng ngày càng tỏ rõ hơn, mặc dầu lâu đài vật chất có vẻ
không bị hư hỏng, vì nó vẫn mới, đẹp, và làm tán loạn những linh hồn
sống ở đó. Rồi sẽ đến giờ mà hết mọi ngọn lửa thiêng liêng sẽ tắt, lúc mà
Đền Thờ sẽ thiếu những thứ là sự sống của nó, tức là bàn thờ bằng kim
qúi, để có thể tồn tại, nó phải được giữ trong tình trạng liên tục hòa hợp
bởi đức Tin và đức Ái của những người thừa hành ở đó. Nhưng nó giá
lạnh, tắt lửa, ô uế, đầy chết chóc, trở nên hư thối, trên đó các chim qụa
ngoại bang và các trận cuồng phong hình phạt của Thiên Chúa sẽ đổ
xuống và biến nó thành hoang tàn.
Hỡi con cái Israel, hãy cầu nguyện, hãy khóc với Thầy, Vị Cứu Tinh
của các con. Chớ gì tiếng Thầy nâng đỡ tiếng các con và thấu tới ngai
Thiên Chúa, vì nó có thể. Ai cầu nguyện với Đức Kitô, con của Chúa Cha,
-
39
sẽ được Chúa Cha, Cha của Chúa Con nghe lời. Chúng ta hãy cầu nguyện
với người xưa, chính lời cầu nguyện của Barúc: “Và bây giờ, lạy Chúa toàn
năng, lạy Thiên Chúa Israel, với tất cả linh hồn lo lắng, tất cả thần trí đầy
ưu tư, chúng con kêu lên Ngài. Ôi lạy Chúa, xin nghe, xin thương xót. Ngài
là Thiên Chúa tình thương, xin thương xót chúng con, vì chúng con đã
phạm tội trước nhan Ngài. Chúa, Chúa ngự trị muôn đời mà chúng con
phải hư mất đời đời sao? Lạy Chúa toàn năng, lạy Thiên Chúa Israel, xin
hãy nghe lời cầu của các kẻ chết trong Israel, và của con cháu họ đã phạm
tội trước nhan Ngài. Chúng đã không lắng tai nghe tiếng Chúa là Thiên
Chúa của chúng, và sự ác của chúng ràng buộc vào chúng con. Xin đừng
nhớ đến những hành vi bất công của cha ông chúng con, nhưng xin nhớ
đến sự toàn năng của danh Ngài... để chúng con được cầu khẩn danh Ngài
và chúng con ăn năn trở lại từ sự bất công của cha ông chúng con. Xin
thương xót”.
Hãy cầu nguyện như vậy và hãy hoán cải thực sự bằng cách trở về
với sự khôn ngoan thật là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, mà các con tìm
thấy trong sách về giới răn của Thiên Chúa, và trong lề luật tồn tại đời đời,
mà bây giờ Thầy, Đấng Messia của Thiên Chúa, Thầy đã đến và Thầy
mang tới, trong hình thức đơn giản và bất biến của nó, cho cái thế giới
khốn nạn này, rao giảng cho nó Tin Mừng của kỷ nguyên cứu chuộc, của
sự tha thứ, của tình yêu, của hòa bình. Kẻ nào tin vào những lời này sẽ tới
được sự sống đời đời.
Thầy từ biệt các con, dân chúng thành Sychar, những người đã xử
tốt với Đấng Messia của Thiên Chúa. Thầy để lại cho các con sự bình an
của Thầy.
-
40
-Xin hãy ở lại thêm.
-Xin trở lại nữa.
-Không bao giờ có ai sẽ nói với chúng con như Thầy đã nói nữa.
-Xin chúc phúc, Thầy nhân từ.
-Chúc phúc cho con nhỏ của con.
-Xin cầu nguyện cho con, Thầy rất thánh.
-Xin cho phép con giữ một sợi tua áo của Thầy như một sự chúc
phúc.
-Xin Thầy nhớ tới Abel.
-Và tới con: Timotê.
-Và con: Jorai.
-Tất cả, tất cả. Xin bình an đến với các con.
Họ hộ tống Người ra cho tới ngoài thành khoảng vài trăm mét, rồi rất
từ từ, họ trở về...
7* GIÁO HUẤN CÁC TÔNG ĐỒ.
PHÉP LẠ CHO NGƯỜI ĐÀN BÀ SYCHAR
Giêsu đi một mình ở đàng trước, lướt qua cái hàng rào bằng cây
xương rồng, chúng như cười nhạo tất cả những cây khác bị trụi hết lá.
Chúng chói sáng dưới mặt trời với những cái bản đầy gai, trên đó còn lại
-
41
vài trái mà thời gian đã làm cho chín đỏ mầu gạch, hoặc đã có vài bông
hoa nở sớm, cười khoe mầu vàng pha với mầu đỏ thần sa.
Đàng sau, các tông đồ nói chuyện phiếm với nhau. Tôi thấy họ không
ca tụng Thầy điều gì cả. Rồi một lúc, thình lình Giêsu quay lại và nói: “Ai
nhìn để tìm xem gió từ đâu đến thì sẽ không gieo. Ai chỉ đứng nhìn mây thì
sẽ không bao giờ gặt”. Đó là câu tục ngữ xưa, nhưng Thầy lưu ý tới. Các
con thấy rằng ở nơi các con sợ có gió độc và không muốn ở lại, thì Thầy đã
tìm được một mảnh đất có thể gieo hạt. Mặc dầu các đám mây của các
con, Thầy tin là Thầy đã gặt hái. Hãy nói trong khi đi. Thật không tốt khi
các con để cho người ta thấy các đám mây ấy ở nơi mà lòng Thương Xót
muốn trình bày mặt trời của nó.
-Nhưng trong khi chờ đợi, không ai xin Thầy một phép lạ nào cả. Đó
là lòng tin rất kỳ lạ mà họ có nơi Thầy.
-Con tin vậy à Tôma ? Đâu phải chỉ có việc thỉnh cầu phép lạ mới
chứng tỏ người ta có đức tin? Con lầm rồi. Hoàn toàn trái lại: người muốn
một phép lạ để có thể tin, chứng tỏ rằng nếu không có phép lạ, một bằng
cớ hiển nhiên, thì họ không tin. Trái lại, người nói: “Tôi tin”, vì chỉ dựa vào
lời nói của người khác, biểu lộ một lòng tin lớn nhất.
-Như vậy thì ra các người Samari tốt hơn chúng con ?
-Thầy không nói như vậy. Nhưng trong những điều kiện yếu đuối về
tinh thần của họ, họ đã chứng tỏ có nhiều khả năng nghe lời Thiên Chúa
hơn các tín hữu ở Palestin. Điều đó các con sẽ gặp nhiều lần trong đời các
con. Vậy Thầy xin các con cũng hãy nhớ giai đoạn này để biết chỉnh đốn
thái độ của các con mà không có thành kiến đối với những linh hồn đến với
đức tin nơi Đức Kitô.
-
42
-Nhưng xin lỗi Giêsu, nếu con nói với Thầy: Con thấy với tất cả
những thù ghét đang theo đuổi Thầy, Thầy sẽ bị phiền phức hơn nếu Thầy
tạo ra những kết án mới. Nếu các phần tử của Đại Pháp Đình biết rằng
Thầy đã có...
-Nhưng hãy nói cách đơn giản là “Tình Yêu”, chính tình yêu là cái
Thầy có đó Giacôbê, và Thầy còn có nữa. Và con, người bà con của Thầy,
con có thể hiểu rằng Thầy không thể có điều gì khác ngoài tình yêu. Thầy
đã chứng tỏ với con rằng Thầy chỉ có tình yêu, ngay cả với những người
thù ghét Thầy trong đám họ hàng máu mủ và người đồng hương của
Thầy. Vậy đối với những người Samari này, không hiểu biết Thầy mà vẫn
kính trọng Thầy, chả lẽ Thầy không được có tình yêu ? Các phần tử của
Đại Pháp Đình có thể làm tất cả những điều xấu họ muốn, nhưng viễn ảnh
của các điều xấu sẽ xảy đến trong tương lai không thể đóng lại cái đập của
tình yêu ở khắp nơi và trong mọi cách thực hành của Thầy. Các điều còn
lại... cả đến nếu Thầy hành động cách khác, Thầy cũng không ngăn cản
được Đại Pháp Đình tìm ra lý do để kết án trong sự thù hận của họ.
-Nhưng thưa Thầy, Thầy mất thời giờ trong cái xứ của tà thần này,
trong khi Người ta chờ Thầy ở biết bao nơi trong Israel. Thầy nói rằng tất
cả thời giờ phải hiến dâng cho Chúa, ở đó không phải là những thời giờ
mất đi vô ích sao ?
-Nó không phải là bỏ mất, cái thời giờ đã được dùng để thu thập các
con chiên lạc. Nó không mất đi đâu Philíp. Có lời chép: “Những kẻ tôn
trọng lề luật dâng nhiều của lễ... nhưng kẻ thực hiện lòng thương xót dâng
hiến sự hy sinh”. Có lời chép: “Hãy dâng cho Đấng Tối Cao cân xứng với
những gì Người đã ban cho ngươi, và hãy dâng với niềm vui, tùy các
-
43
phương tiện của ngươi”. Đó là điều Thầy làm đó bạn. Và thời giờ của hy
sinh không phải là thời giờ bỏ mất. Thầy thực hiện lòng thương xót, và
Thầy dùng mọi phương tiện mà Thầy đã nhận được để hiến dâng công việc
của Thầy cho Thiên Chúa. Vậy hãy an lòng. Các thứ còn lại... Ai trong các
con đòi hỏi thực hiện phép lạ để thuyết phục người Sychar tin vào Thầy,
thì đây, Thầy có cái gì để làm vui lòng họ. Người kia, đang theo chúng ta,
chắc chắn có một lý do để thực hiện. Ta hãy dừng lại.
Qủa thực, có một người đàn ông đang tiến bước. Ông ta có vẻ gù
xuống dưới sức nặng của một vật gì mà ông vác trên vai. Ông ta thấy
nhóm thầy trò dừng lại, ông cũng dừng lại.
-Ông ta muốn làm hại chúng ta. Ông ta dừng lại vì ông thấy chúng ta
đã nhận ra. Ồ! Những người Samari này!
-Con chắc vậy không Phêrô?
-Ôi! Chắc tuyệt đối.
-Vậy hãy ở lại đây, Thầy lại gặp ông ta.
-Cái đó thì không được đâu Chúa ơi. Nếu Thầy lại đó, con cũng lại.