vÀi nÉt vỀ phẬt giÁo tÂy tẠng tulku urgyen …...1 vÀi nÉt vỀ phẬt giÁo tÂy tẠng...

38
1 VÀI NÉT VỀ PHẬT GIÁO TÂY TẠNG Tulku Urgyen Rinpoche Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua. Người ta nói rằng các vị bán thần đến từ dòng dõi hoàng gia Punjabi, người đã xuống sống giữa loài người, chạy trốn theo phương bắc về vùng Hi Mã Lạp Sơn. Cuối cùng, ngài ra khỏi những rặng núi đến vùng Yarlung, Tây Tạng. Nhân dân trong vùng đã lầm tưởng rằng ngài là một bậc phi thường đến từ cõi trời, và mang ngài trên vai và chọn ngài làm vị quốc vương đầu tiên. Tên của ngài là Nyatri Tsenpo. Bản kinh Phật đầu tiên đến với xứ Tuyết sau 35 đời các vị vua này trong một dòng liên tục truyền từ cha sang con. Vào thời

Upload: others

Post on 22-Jan-2020

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

1

VÀI NÉT VỀ PHẬT GIÁO TÂY TẠNG Tulku Urgyen Rinpoche

Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên

Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây

Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền

thừa cổ xưa các vị vua. Người ta nói rằng

các vị bán thần đến từ dòng dõi hoàng gia

Punjabi, người đã xuống sống giữa loài

người, chạy trốn theo phương bắc về vùng

Hi Mã Lạp Sơn. Cuối cùng, ngài ra khỏi

những rặng núi đến vùng Yarlung, Tây

Tạng. Nhân dân trong vùng đã lầm tưởng

rằng ngài là một bậc phi thường đến từ cõi

trời, và mang ngài trên vai và chọn ngài

làm vị quốc vương đầu tiên. Tên của ngài

là Nyatri Tsenpo.

Bản kinh Phật đầu tiên đến với xứ Tuyết

sau 35 đời các vị vua này trong một dòng

liên tục truyền từ cha sang con. Vào thời

2

điểm đó, mọi người không biết chữ, và

điều này làm cho vị vua đang trị vì rất

buồn. Để xua tan sự ngu dốt của dân

chúng, ngài đã cầu nguyện chí thành. Nhờ

lực gia trì của chư Phật, ba bản kinh của

các bậc Đại giác đã từ trên trời rơi xuống

mái của cung điện ngài đang ngự. Tất

nhiên, không ai có thể đọc chúng, nhưng

chỉ với sự hiện diện của những bản văn

thần thánh này đã chuyển hóa môi trường

đến mức mà mùa màng bội thu và các thế

lực ma quỷ trên đất nước bằng cách nào

đó đã được làm xoa dịu. Nó như thể là

màn đêm dày đặc đã được xua tan một

chút bằng tia sáng le lói đầu tiên của bình

minh.

Năm thế hệ sau đó, vị vua vĩ đại Songtsen

Gampo [616 – 698 sau Công nguyên] đã

lên ngôi. Ngài mời các đạo sư Phật giáo

3

đầu tiên đến Tây Tạng. Nhờ có công đức

lớn lao của ngài, ngài đã nỗ lực để có

được hai trong ba bức tượng chính được

đặt ở Bồ Đề Đạo Tràng, nơi mà đức Phật

đạt giác ngộ ở Ấn Độ. Hai bức tượng này

được mang đến Tây Tạng như là của hồi

môn của hai vị công chúa ngoại quốc mà

ngài kết hôn. Một bức tượng theo công

chúa của hoàng đế Trung Quốc, trong khi

bức tượng thứ hai được mang đến bởi

công chúa Nepal. Có thể nói rằng, triều

đại ngài trị vì là lúc mà mặt trời mọc lên

đến chân trời: đó là hình ảnh mà Pháp bắt

đầu sự phổ biến

trên vùng đất này.

Ba hay bốn thế hệ

sau đó, Vua

Trisong Detsen

[790 – 844 sau

4

Công nguyên] đã hứa nguyện lớn lao rằng

sẽ đưa Phật giáo phát triển trên khắp Tây

Tạng; điều này giống như mặt trời lên cao

trên bầu trời. Trong thời đại của ngài, ngài

đã mời 108 vị đạo sư vĩ đại đến Tây Tạng.

Trong thời gian đó, các bậc hướng đạo

tâm linh, các vị thầy và đạo sư được gọi là

“pandita”. Những người mà nhận các giáo

lý và dịch chúng sang tiếng Tây Tạng

được gọi là “lotsawa”. Đạo sư quan trọng

nhất được mời đến Tây Tạng trong

giaiđoạn này là Bồ Tát Khenpo nổi tiếng,

ngài Shantarakshita.

Nhà vua đã có kế hoạch lớn lao về việc

xây dựng một quần thể các ngôi chùa ở

miền Trung Tây Tạng, quần thể ngày nay

được biết đến là Samye. Lúc đó, ngài

Shantarakshita là một đại Bồ Tát với lòng

từ bi lớn lao và một trái tim chân thành.

5

Bởi vì điều này, ngài không thể hàng phục

các tinh linh địa phương xung quanh vùng

Samye bằng các pháp phẫn nộ. Một tinh

linh rồng đầy sức mạnh nói xấu về vị Bồ

Tát, “Nếu những người Ấn Độ bắt đầu

mang Phật giáo đến đây, sẽ rất khó khăn

cho chúng ta. Hãy cùng nhau gây ra

những rắc rối.” Tất cả tám loài tinh linh

đồng ý hết sức ngăn cản Phật giáo phổ

biến trên đất Tây Tạng bằng cách ngăn

cản sự xây dựng chùa Samye. Bất cứ thứ

gì được xây dựng vào ban ngày, thì ban

đêm các vị thần và ma quỷ của vùng đất

lại phá hủy chúng. Dường như vị Bồ Tát

Khenpo không thể thành công trong

nhiệm vụ của ngài.

Nhà vua rất thất vọng với sự chậm trễ

tiếnđộ này, bởi vậy Khenpo nói với ngài

rằng, “Tôi chỉ là một Bồ Tát, tôi không

6

thểchế ngự những tinh linh mạnh mẽ

trong vùng đất của ngài, nhưng đừng nản

lòng, có một cách. Ở Ấn Độ, bây giờ, có

một bậc vô song trong mọi cách thức;

ngài không sinh ra từ tử cung. Tên của

ngài là Liên Hoa Sinh, Bậc sinh ra từ Hoa

sen. Nếu các vị thần và ma quỷ địa

phương phản đối giáo Pháp chân thật chỉ

đơn giản nghe đến tên ngài, họ sẽ vô cùng

kinh hoàng và trở nên bất lực. Hãy mời

ngài đến Tây Tạng, và vấn đề sẽ kết

thúc.” Nhà vua hỏi, “Làm sao chúng ta có

thểmời ngài?” và vị Khenpo đáp rằng,

“Trong các đời trước, chúng ta đã cùng

hứa nguyện, khi Nhà vua, đức Liên Hoa

Sinh và tôi là anh em, những người đã

giúp đỡthiết lập một đại bảo tháp ở

Boudhanath, Nepal, gọi là Jarung

Khashor. Bởi vì lúc đó, chúng ta đã hứa

nguyện sẽ đưa Phật giáo về phương Bắc,

7

Đức Liên Hoa Sinh chắc chắn sẽ chấp

nhận lời thỉnh mời của chúng ta; chúng ta

chỉ cần đề nghịngài đến đây thôi.”

Đức Liên Hoa Sinh, người không sinh ra

từmột bà mẹ con người, sở hữu một sức

mạnh lớn lao có thể chế ngự mọi thế lực

ma quỷ. Các đạo sư khác chủ yếu chịu

trách nhiệm đưa giáo Pháp đến Tây Tạng

là ngài Vimalamitra, một bậc đạo sư

chứng ngộ kỳ diệu, người đã đạt đến thân

kim cương của sự chuyển hóa lớn vượt ra

ngoài sanh tử, và đại dịch giả Tây Tạng

Vairochana, một hóa thân của đức Phật

Vairochana. Tựu chung lại, 108 vị

pandita đã đến Tây Tạng.

Rất nhiều người Tây Tạng đã được đào

tạo trở thành các dịch giả trong suốt thời

gian này, để mà toàn bộ giáo lý Phật Đà,

bao gồm các nghi quỹ và thực hành khác

8

nhau, được chuyển dịch sang tiếng Tây

Tạng và hệ thống hóa một cách chính xác.

Quần thể chùa Samye đã được thiết lập

với sựtrợ giúp của đức Liên Hoa Sinh, và

Pháp được phổ biến trên khắp đất nước.

Các giáo lý trong thời kỳ này được biết

đến là Nyingma, hay truyền thống Cựu

Dịch, để phân biệt với các giáo lý từ Ấn

Độ trong giai đoạn sau, gọi là Sarma hay

Tân Dịch.

Một thời gian sau khi vua Trisong Detsen

qua đời là giai đoạn khủng khiếp của tôn

giáo, trong đó vị vua ma quỷLangdarma,

gần như đã xóa sổ Phật giáo. Sự hồi sinh

tiếp theo với sự bắt đầu của truyền thống

Sarma. Các giáo lý trong giai đoạn sau

này chủ yếu được dịch bởi các đại dịch

giả Rinchen Sangpo và Marpa Lotsawa.

Hai vị đạo sư này cùng các vị thầy khác

9

đã đến Ấn Độ, nhận các chỉ dẫn từ các

đạo sư ở đây và mang chúng về Tây Tạng.

Tựu chung lại, có tám dòng truyền thừa

phát triển ở Tây Tạng và sau đó được biết

đến là Tám Cỗ xe của Truyền thừa thực

hành. Một là Nyingma, và bảy dòng còn

lại là Sarma, hay Tân Dịch.

Trong số các trường phái Tân Dịch có

Marpa Kagyu, Shangpa Kagyu và

Lamdrey, Lamdrey thuộc về truyền thống

Sakya. Bên cạnhđó có dòng Kadampa,

sau đó chuyển thành truyền thống Gelug,

và dòng Shijey và Cho, nghĩa tương ứng

là An dịu khổ đau và Cắt đứt. Giống như

vậy, Jordruk, hay Sáu sự hợp nhất và

Nyendrub hay Ba thực hành Kim Cương

về Tiến gần và Thành tựu cũng xuất hiện.

Tám trường phái này, tất cả đều là giáo lý

Phật Đà. Mỗi trường phái giảng dạy

10

không hề mâu thuẫn với hệ thống Kinh

điển, bao gồm Tiểu thừa, Đại thừa và hệ

thống Mật thừa, Kim cương thừa của

Chân ngôn Bí mật.

Một trong các vị vua của giai đoạn này,

một vị vua Pháp vĩ đại, Vua Ralpachen,

cháu trai của Trisong Detsen, cũng mời

các vị đạo sư đến Tây Tạng. Ngài có lòng

sùng kính lớn lao với các vị hành giả Phật

Pháp đến mức mà ngài đặt họ lên trên

đỉnh đầu theo một cách rất phàm tục. Vào

thời điểm đó có hai Tăng đoàn, bao gồm

các vị tu sĩ xuất gia, được nhận biết bằng

việc đầu cạo trọc và mặc y Pháp, và các vị

ngakpahay tantrika, những người được

nhận ra bằng tóc tết dài, áo trắng, khăn

choàng sọc. Như một dấu hiệu của sự

sùng mộchân thành của ngài, ngài để hai

búi tóc rất dài tết lại và mời các vị hành

11

giả đáng kính dẫm và ngồi lên tóc ngài.

Ngài thậm chí còn dùng đá cuội để dưới

chân các hành giả và để chúng lên đỉnh

đầu để tỏ lòng tôn kính. Những cách hành

xử của nhà vua như một vị bảo trợ lớn của

Phật Pháp, cũng với sự kính trọng lớn lao

của ngài với giáo pháp đã tác động tạo

nên một hoàn cảnh thuận lợi để giáo lý

PhậtĐà bám sâu và phát triển ở Tây Tạng.

Một hoàn cảnh khác mà ở đó hội đủ điều

kiện hoàn hảo ở Tây Tạng là trong triều

đại của vua Trisong Detsen trước đó.

Chính nhà vua cũng là một hóa thân của

Đại Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, và thậm chí

một vài trong số các vị bộ trưởng của ngài

cũng là những hóa thân. Chư vị đạo sư và

các vị pandita được mời đến Tây Tạng là

các hóa thân của Phật và Bồ Tát, và các

dịch giả trong thời gian đó cũng vậy.

12

Trong suốt thời gian thuận lợi này, nhà

vua đã hoàn thành hứa nguyện đưa Phật

giáo đến với xứ Tây Tạng như là mặt trời

mọc lên bầu trời cao.

Trong suốt hai thời kỳ này, các vị đạo

sưvà đệ tử cũng như các vị đệ tử của đệ tử

đạt được sự chứng ngộ khó tin. Một vài vị

đạo sư và đệ tử phô diễn những dấu hiệu

chứng ngộ bằng cách bay vút lên nhưmột

đàn chim trên bầu trời. Dù các ngài bay đi

đâu và dù các ngài đáp xuốngđâu, đều lưu

lại dấu chân trên đá. Đó không chỉ là

truyền thuyết trong quá khứ;những dấu

vết này vẫn được nhìn thấy cho đến ngày

hôm nay, và bạn có thể đi và tìm chúng.

Trên đây chỉ đơn giản là phác thảo khi

Pháp được truyền đến Tây Tạng. Tóm lại,

chúng ta có thể nói rằng Ấn Độ giống như

cha của Pháp, Nepal giống như mẹ, và

13

giáo lý đến với Tây Tạng là những đứa

con của họ.

***

Tiếp tục theo cách thức chung liên quan

đến các giáo lý Kim Cương thừa: chúng

chỉ phát triển một cách rộng rãi như hiện

nay trong ba đại kiếp đặc biệt. Giai đoạn

đầu tiên xảy ra trước thời đại của chúng ta

vô số đại kiếp, khi mà đức Phật tên là

Ngondzok Gyalpo, Đấng Toàn Giác, xuất

hiện. Trong thời đại của ngài, Kim Cương

thừa được truyền bá rất rộng. Sau đó cho

đến tận thời kỳ hiện tại của một đấng giác

ngộ tuyệt đối, Đức Thích Ca Mâu Ni, giáo

lý Kim Cương thừa không hoàn toàn có

thể tìm thấy. Trong tương lai rất xa có

một thời đại gọi là Đại Kiếp của Những

Bông Hoa Đẹp, khi mà đức Phật Văn Thù

Sư Lợi thị hiện và Kim Cương thừa lại

14

được phổ biến một lần nữa. Điều này

không có nghĩa là những giáo lý Kim

Cương thừa không được giảng dạy trong

các đại kiếp ở giữa hai giai đoạn này.

Nhưng chúng sẽ chỉ được phổ biến một

cách không hoàn chỉnh, không theo một

cách toàn diện và rộng lớn như chúng có

ở hiện tại.

Thời đại hiện nay của các giáo lý do đức

Thích Ca Mâu Ni truyền dạy được gọi là

Thời đại của Xung đột, hay thời đại mà

năm sự suy đồi trở nên lan tràn, có một sự

suy giảm lớn lao – về tuổi thọ, thờiđại,

chúng sinh, tri kiến và những cảm xúc gây

phiền hà[1]. Mặc dù mọi người tranh đấu

lẫn nhau trong suốt thời kỳ này, nhưng

các giáo lý Mật thừa vẫn bùng cháy như

ngọn lửa mãnh liệt. Giáo Pháp cũng bùng

lên như ngọn lửa cảm xúc tiêu cực. Có

15

một kiểu chơi chữ trong tên gọi của các

Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) và

Phật Di Lặc (Maitreya). “Muni” nghĩa là

tài giỏi, trong khi Maitreya nghĩa là Bậc

yêu thương. Có một câu tục ngữ rằng,

“Trong thời đại Muni, người ta cố gắng

tranh đấu với nhau, còn trong thời kỳ của

Maitreya, người ta yêu thương lẫn nhau.”

Trong suối Thời đại của Xung đột, dường

như mọi người hiếm khi tử tế; thay vào

đó, họ luôn cố gắng vượt qua người khác.

Sự cạnh tranh chủ yếu này là khởi nguồn

cho tên gọi “Thời đại của Xung

đột”.Nhưng đây chính xác là lý do mà

Kim Cương thừa có thể được thực hành

trong thời kỳ này. Các cảm xúc phiền hà

càng mạnh mẽ và uy lực, thì tiềm năng

tỉnh thức của chúng ta càng lớn lao. Trong

thời đại của đức Di Lặc, mọi người yêu

16

thương lẫn nhau, nhưng họ không thể

thậm chí không nghe đến từ “Kim Cương

thừa” – có nghĩa sẽ chẳng có chút giáo lý

Kim Cương thừa nào.

Có một sự thật là hiện tại, chúng ta đang

bị giam hãm trong những hình dạng được

nghĩ đến hay trong những cơn sóng cảm

xúc trào dâng, của sự sân hận chẳng hạn,

khi đó sẽ dễ dàng hơn để nhận ra trạng

thái trần trụi của sự tỉnh thức. Dĩ nhiên đó

là trường hợp khi mà người ta được rèn

luyện trong trạng thái yên tĩnh, thanh thản

của thiền định không có những suy nghĩ

và cảm xúc tiêu cực. Sau đó, vì cái được

gọi là “niềm vui thú dịu nhẹ”,thực sự sẽ

khó khăn hơn để nhận ra bản tánh chân

thực của tâm bất nhị. Bằng cách rèn luyện

hoàn toàn trong sự yên tĩnh, chúng ta có

thể kết thúc trong cõi Trời Vô Quan

17

Niệm, và ở đó trong nhiều đại kiếp trong

trạng thái bị thu hút không ngơi nghỉ.

Trạng thái này tương tự như khi say mê

với những thú vui tâm linh của sự an bình

và tĩnh lặng. Tuy nhiên, trên thực tế, sự

yên tĩnh như một vị trời vô quan niệm này

không giúp bạn một chút mảy may nào

trong việc đạt đến trạng thái tỉnh thức.

Trong tám trạng thái cơ bản mà ở đó

người ta chưa thể giải phóng để theo đuổi

con đường tâm linh, sinh ra làm một vị

trời Vô quan niệm là hoàn cảnh tồi tệ nhất

bởi vì đó là một sự xao lãng vô cùng.

Ngược lại, trải qua những sự nản lòng lớn

lao, sự sợ hãi vô cùng và lo lắng căng

thẳng có thể sẽ là sự hỗ trợ mạnh mẽ cho

thực hành. Ví dụ, nếu chúng ta bị một căn

bệnh chết người, và chúng ta đang trên bờ

vực của cái chết, nếu ta có thể nhớ mà

18

nhìn về bản tánh của tâm khi ta sắp chết,

kinh nghiệm đó sẽ không giống như sự

rèn luyện thông thường về sự an bình.

Chính sức mạnh của cảm xúc cho phép sự

thấu suốt hơn vào bản chất của tâm.

Nó cũng giống như khi chúng ta thực sự

nổi giận, rất tức giận như thể chúng ta

thấy có một ngọn lửa lớn đang bùng cháy,

một sự tức giận hội tụ: nếu chúng ta nhận

ra khuôn mặt tự nhiên của mình và buông

xả,thì tại thời điểm đó, trạng thái tỉnh thức

sẽ hoàn toàn trống rỗng, theo cách mà rõ

ràng và sinh động hơn thường lệ. Hay,

nếu chúng ta bỗng nhiên sợ hãi, nhưkhi

chúng ta bị đuổi theo bởi một đàn chó dữ

và tâm trở nên đau điếng, nếu chúng ta có

thể nhớ, mặc dù rất khó khăn, nhận ra bản

tánh của tâm lúc đó, sựthấu suốt sẽ vượt

qua trạng thái bình phàm của sự thấu suốt

19

trong thiền định. Vì thế, những xung đột

lớn lao trên thế giới này ngày nay giải

thích chính xác tại sao mà giáo lý Kim

Cương thừa lại phổ biến như đám lửa

cháy lớn.

Có ba cách tiếp cận khác nhau để thực sự

ứng dụng các giáo lý Kim Cương thừa

vào thực hành: lấy nền tảng làm con

đường, lấy con đường làm con đường, và

lấy kết quả làm con đường. Ba cách tiếp

cận này có thể được hiểu bằng cách sử

dụng phân tích của một người làm vườn

hay một nông dân. Lấy nền tảng hay

nguyên nhân làm con đường giống như là

bừa đất và gieo hạt. Lấy con đường làm

con đường giống như nhổ cỏ, tưới nước,

bón phân và chăm sóc mùa màng. Lấy kết

quả làm con đường là thái độ khi đơn giản

là nhặt quả chín hay hái những bông hoa

20

đã nở. Để làm được điều này, lấy kết quả

trọn vẹn, trạng thái giác ngộ, là cách tiếp

cận của Dzogchen(Đại toàn thiện). Điều

này tóm tắt nội dung chính của Đại toàn

thiện.

Các giáo lý chính của đức Phật nguyên

thủy, ngài Phổ Hiền là Dzogchen, Đại

toàn thiện. Giáo lý Dzogchen là điểm

trọng yếu trong chín thừa. Trước khi giáo

lý này đến với thế giới con người, chúng

được truyền bá thông qua Gyalwa Gong-

gyu, sự tâm truyền của các đấng chiến

thắng, trong ba cõi thần thánh: đầu tiên ở

Akanishtha, sau đó ở Tushita, và cuối

cùng ởCõi của 33 vị trời, thế giới của Đế

Thích (Indra) và 32 vị vua chư hầu của

ngài ngự trên đỉnh núi Sumeru (núi Tu

Di).

21

Akanishtha gồm có hai loại: Akanishtha

tuyệtđối, thường được gọi là cung điện

của Pháp giới, liên quan đến trạng thái

giác ngộ của chư Phật. Ngoài ra còn có

Akanishtha biểu tượng, là ngôi nhà thứ

năm trong số Năm Nơi chốn Thanh Tịnh

và vẫn nằm trong cõi trời Sắc giới, nằm ở

bầu trời bên trên dãy Tu Di. Akanishtha

biểu tượng là cao nhất trong số mười bảy

thếgiới trong cõi trời Sắc giới, chỉ dưới

ngay cõi trời Vô Sắc. Toàn bộ luân hồi

bao gồm ba cõi – Dục giới, Sắc giới và

Vô Sắc giới. Bên trên cõi Dục giới, mười

bảy thế giới tạo thành cõi Sắc giới. Bên

trên chúng là Bốn cõi Vô Sắc giới,

thườngđược gọi là khu vực của sự nhận

thức vô cùng. Câu nói “chư Phật tỉnh giác

với sựgiác ngộ chân thực hoàn hảo ở

trong cõi của Akanishtha” liên quan đến

22

Pháp giới, không phải cõi Akanishtha

biểu tượng.

Sau cõi Akanishtha, các giáo Pháp được

phổbiến ở cõi Tushita, một cõi trong Cõi

Sắc giới, nơi mà đức Di Lặc đang cư

ngụ.Sau đó, trong cõi Dục giới bên dưới,

các giáo Pháp được phổ biến trong cõi gọi

là “Ngôi nhà của 33 vị trời.” Đức Phổ

Hiền hóa thân thành đức Kim Cương Trì

giảng Pháp trong cung điện của Đế Thích,

gọi là “Cung điện của Chiến thắng trọn

vẹn”,trên đỉnh núi Tu Di. Đây là vài nét

về ba cõi thần thánh.

Nói chung, người ta nói rằng 6 400 000

giáo lý Dzogchen đến với thế giới này nhờ

có ngài Garab Dorje, bậc Trì Minh Vương

đầu tiên của loài người, ngài đã trực tiếp

nhận các trao truyền từ đức Phật dưới

hình tướng ngài Kim Cương Tát Đỏa. Các

23

giáo lý này lần đầu tiên đến vùng

Uddiyana, và sau đó được phổ biến ở Ấn

Độvà Tây Tạng. Trước thời kỳ của đức

Thích Ca Mâu Ni, các giáo lý Dzogchen

được truyền bá trong nơi chúng ta đang ở

trong vũ trụ bởi các vị Phật khác được

biết đến là 12 vị thầy Dzogchen. Đức

Thích Ca Mâu Ni thường được xếp là vị

hướng đạo thứ tư trong Đại Kiếp Xuất sắc

này, với một nghìn vị Phật toàn giác sẽ

đến với thế giới. Mặc dù trong ngữ cảnh

này, ngài được biết đến là vị thứ tư,

nhưng đức Thích Ca là vị thứ 12 trong các

vị thầy Dzogchen.

Không có giáo lý Dzogchen nào xuất hiện

mà không có sự hiện hữu của một vị Phật

trên thế giới này, bởi vậy chúng ta coi

ngài Thích Ca là một trong các vị thầy

chính mà nhờ đó giáo Pháp được trao

24

truyền. Thực sự, ngài đã trao các giáo lý

Dzogchen, mặc dù không theo cách thông

thường. Các bài giảng bình thường của

ngài đơn giản giành cho những người có

nghiệp lực phù hợp với giáo lý của Thanh

Văn, Duyên Giác và Bồ Tát. Không phải

là họ không được phép nhận các giáo lý

Dzogchen; nghiệp lực của họ làm cho họ

nhận được các giáo lý phù hợp. Đức Phật

đã trao truyền các giáo lý Dzogchen, cũng

nhưcác chỉ dẫn Kim Cương thừa khác,

bằng cách đầu tiên thị hiện một mạn đà la

của vị bổn tôn và sau đó phổ biến các giáo

lý Mật thừa cho đoàn tùy tùng trong sự

sắpđặt đó. Tuy nhiên, điều này không nằm

trong khả năng quan sát của một người

bình thường.

Các giáo lý Dzogchen được giấu kín bằng

ba loại bí mật: “bí mật nguyên sơ”nghĩa là

25

tự chúng là bí mật; “bí mật ẩn giấu” nghĩa

là các giáo lý không lộ ra cho mọi người;

và “bí mật che đậy” nghĩa là chúng được

giữ kín một cách có chủ đích. Mọi vị Phật

khác cũng dạy Dzogchen, nhưng không

rộng mở như dưới thời đại của đức Thích

Ca Mâu Ni. Trong suốt giaiđoạn này,

thậm chí từ “Dzogchen” cũng trở nên rất

nổi tiếng, và có thể được nghe thấy như

khi cơn gió bay đi khắp nơi. Mặc dù sự

phổ biến này, tự các giáo lý, chỉ dẫn cốt

tủy được gắn con tem của sự bí mật.

Thông qua trí tuệ hoàn hảo, Đức Thích Ca

Mâu Ni luôn giảng dạy sau khi đã cẩn

thận quán xét căn cơ của chúng sinh. Nói

cách khác, ngài không giảng dạy vượt quá

khả năng của họ. Ngài cũng làm cho

những giáo lý trở nên thích hợp với người

nghe. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng

26

những người nghe những giáo lý của ngài

chỉ hấp thụ được cái mà khả năng họ có

thể hiểu. Sau đó, khi mà họ lặp lại những

điều mà ngài đã giảng dạy, sự thuật lại

của họlà tương xứng với những điều họ

nhận thấy trong các kinh nghiệm cá nhân.

Nhưng các giáo lý không chỉ hạn chế

trong các kinh nghiệm cá nhận của họ,

người mà trong các bản văn lịch sử ghi lại

là các bậc Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ

Tát. Các giáo lý mà họ trải nghiệm nằm

trong các bản khác nhau của Tam Tạng

Kinh điển, bao gồm Kinh, Luật và Luận.

Lý do mà đức Phật không giảng dạy cho

các vị Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát

các giáo lý sâu hơn là bởi chúng sẽ không

phù hợp với khả năng lĩnh hội của các

ngài. Điều mà họ nhìn nhận được gọi là

hệ thống Kinhđiển phổ thông. Bên cạnh

việc trao truyền các kinh điển phổ thông

27

này, đức Thích Ca Mâu Ni cũng giảng

dạy dưới ở nhiều địa điểm khác nhau

trong khắp vũ trụ.Thị hiện dưới hình

tướng của một vị bổn tôn ở trung tâm

trong vô số các mạn đà la, ngài giảng dạy

các mật điển. Theo cách này, chúng ta nên

hiểu rằng chính đức Thích Ca, xuất hiện

dưới nhiều hình tướng khác nhau, đã đóng

vai trò quan trọng trong việc trao truyền

các giáo lý Kim Cương thừa. Điều này

không phải theo cách thông thường, mà

rất kỳ diệu. Bởi vậy, khi chúng ta nghe

rằng khía cạnh Dzogchen của Kim Cường

thừa được trao truyền thông qua đức

Garab Dorje, ta nên hiểu nó thực sự đến

từ đức Thích Ca trong hình tướng ngài

Kim Cương Tát Đỏa. Từ đó, nó tiếp tục

được trao truyền qua các vị đạo sư khác –

đầu tiên qua ngài Garab Dorje, sau đó qua

các vị đạo sư Ấn Độ khác nhau và cuối

28

cùng qua đức Liên Hoa Sinh và đức

Vimalamitra.

Vị thầy tổ của chúng ta, đức Thích Ca

Mâu Ni, đã chỉ định ngài Liên Hoa Sinh

làm vị đại diện chính yếu của ngài để

giảng dạy Kim Cương thừa. Ngài nói rằng

Liên Hoa Sinh là hóa thân về thân của đức

Vô Lượng Quang, hóa thân về Khẩu của

đức Quan Âm, và hóa thân về tâm của

chính ngài.

Đức Liên Hoa Sinh đến với thế giới mà

không cần cha hay mẹ, ngài xuất hiện

trong một đóa sen nở. Ngài sống ở Ấn

Độtrong hơn một ngàn năm và ở Tây

Tạng trong 55 năm trước khi ngài từ bỏ

thế giới này ở một ngọn đèo tên là

Gungtang, Đồng Bằng trên trời, ở biên

giới Nepal – Tây Tạng. Bốn vị Dakini đã

đến hỗ trợ cho con ngựa của ngài, và rước

29

ngài đến Núi Huy Hoàng màu đồng đỏ,

một cõi tịnh độ.

Kể từ khi ngài rời Tây Tạng, ngài liên tục

gửi đến các vị đại diện cho ngài. Họ được

gọi là các terton, hay những người phát lộ

kho báu, và là hóa thân của 25 vị đệtử

chính của ngài. Ngày nay, chúng ta nói về

các vị đạo sư này trong rất nhiều hóa thân

khác nhau là 108 vị đại terton. Trong

nhiều thế kỷ, các ngài xuất hiện và phát lộ

các kho báu terma mà đức Liên Hoa Sinh

đã chôn giấu trên khắp Tây Tạng vì lợi

ích của các thế hệ tương lai. Các terma

này được phát hiện trong rất nhiều hình

tướng khác nhau như là kinh văn, chỉ dẫn,

các chất linh thánh, các viên đá quý, các

vật linh thiêng và những thứ tương tự thế.

Rất nhiều trong các vị terton này phát lộ

kho báu mà đức Liên Hoa Sinh đã chôn

30

giấu theo cách cực kỳ ấn tượng mà thậm

chí những người luôn nghi ngờ cũng buộc

phải thừa nhận giá trị của các terma. Đôi

khi, một vị tertonsẽ đào đá cứng lên trước

sự chứng kiến của một đám đông 400 hay

500 năm người và phát lộ thứ được cất

giữ bên trong. Bằng cách phô diễn các

thần thông và cho phép mọi người chứng

kiến tận mắt sự phát lộ, các ngài đã hoàn

toàn xua tan những hoài nghi. Thông qua

các hoạt động không ngừng nghỉ của đức

Liên Hoa Sinh, các vị terton như thế đã

tiếp tục thị hiện cho đến tận ngày nay. Vì

thế, các giáo lý termanày đến trực tiếp từ

đức Liên Hoa Sinh, và được phát lộ theo

một cách trực tiếp không thể phủ nhận.

Đó không phải chỉ là những truyền thuyết

từ xa xưa: thậm chí cho đến gần đây, các

vị đại tertonvẫn thị hiện những thần thông

31

phi thường như là đi xuyên qua những thứ

rất cứng hay bay trên trời.

Các giáo lý Kim Cường thừa, đặc biệt là

giáo lý Dzogchen, bao gồm mười bảy

bộMật điển, được đem đến Tây Tạng và

truyền bá bởi đức Liên Hoa Sinh và đức

Vimalamitra. Trong khi các giáo lý nào

được phổ biến ở Ấn Độ bởi rất nhiều các

vị đạo sư khác, sự trao truyền của chúng ở

Tây Tạng chủ yếu bởi lòng từ bi củađức

Liên Hoa Sinh và đức Vimalamitra. Rất

nhiều thế kỷ trước, khi ngài Atisha đến

Tây Tạng, ngài đến thăm thư viện vĩ đại

của Samye và đã rất ngạc nhiên. Ngài nói

rằng, “Những kho báu này phải được

mang đến từ cõi của các vị Dakini! Ta

chưa từng nghe rằng có nhiều Mật điển

đến vậy xuất hiện ở bất cứ đâu trên đất Ấn

Độ.” Ngài công nhận rằng Kim Cương

32

thừa ở Tây Tạng phát triển mãnh mẽ hơn

so với ở Ấn Độ.

Kể từ khi các giáo lý Phật Đà được đưa

đến Tây Tạng cho đến tận ngày hôm nay,

sự phát lộ vẫn diễn ra không ngừng dưới

dạng các trao truyền terma mới. Trong

sốcác terma nổi tiếng phải kể đến:

Nyingtig Yabshi, Bốn nhánh của Cốt tủy

tinh túy của ngài Longchenpa; Tawa

Long-yang, Sự mở rộng của Tri kiến của

ngài Dorje Lingpa; Konchok Chidu, Hiện

thân của Tam Bảo phát lộ bởi ngài Jatson

Nyingpo; và Gongpa Sangtal, Sự chứng

ngộ vô chướng ngại của ngài Phổ Hiền

được tìm thấy bởi đức Rigdzin Godem.

Ngoài ra còn vô số terma khác nữa. Hơn

một trăm năm trước, ngài Jamyang

Khyentse Wangpo phát lộ Chetsun

Nyingtig, Cốt tủy tinh túy của Chetsun,

33

trong khi ngài Chokgyur Lingpa tìm thấy

Kunzang Nyingtig, Cốt tủy tinh túy của

đức Phổ Hiền. Vì thế, các dòng truyền

thừa Dzogchen liên tục được làm mới

bằng sự tìm thấy các terma mới.

Người ta có thể hỏi, vậy mục đích của

việc chồng chất các kinh văn Dzogchen là

gì? Có một điểm rất quan trọng liên quan

ở đây: đó là sự thanh tịnh của trao truyền.

Khi các giáo lý được trao truyền xuống từ

thầy sang trò, hoàn toàn có thể có một vài

sự ô nhiễm, hay hư hỏng của samayagiới

có thể dẫn đến sự suy giảm lực gia trì. Để

giải quyết vấn đề này, đức Liên Hoa Sinh

với trí tuệ thiện xảo và lòng từ bi vô bờ đã

cho chúng ta những kho báu tươi mới

được ẩn giấu. Không có gì uyên thâm hơn

Ba phần của Dzogchen: Phần về Tâm,

Phần về Hư Không và Phần về các Chỉ

34

Dẫn. Khoảng cách từ vị Phật đến hành giả

là rất ngắn bởi vì sự phát lộ là mới và trực

tiếp; không có sự hư hỏng nào trong dòng

trao truyền. Tuy nhiên sự thanh tịnh hay

không không nằm ở trong chính giáo lý,

mà nằm ở trong khoảng cách của dòng

trao truyền. Đó là lý do tại sao mà có một

sự làm mới liên tục các trao truyền

Dzogchen như vậy.

Các vị đệ tử chính của đức Liên Hoa Sinh

và đức Vimalamitra được biết đến là “Vua

và 25 đệ tử”. Tất cả đều đạt đến thân cầu

vồng, sự tan hòa của cơ thể lúc chết thành

ánh sáng cầu vồng. Những hành giảnhư

vậy chỉ còn để lại tóc và móng tay. Sau

đây, tôi sẽ kể một vài câu chuyện

vềnhững người đã chứng thân cầu vồng.

Kể từ những hành giả này trở đi, rất

nhiều, rất nhiều các thế hệ, như một dòng

35

sông không ngừng chảy, rát nhiều các đệ

tửcũng đã chứng thân cầu vồng. Trong

tam thân – Pháp thân, Báo thân và Hóa

thân –Báo thân thị hiện có thể nhìn thấy

được dưới dạng cầu vồng. Bởi vậy, đạt

được thân cầu vồng trong đời này nghĩa là

đã trực tiếp tỉnh thức trong trạng thái giác

ngộ của báo thân. Một đệ tử của đại dịch

giả Tây Tạng Vairochana tên là Pang

Mipham Gonpo đã chứng thân cầu vồng.

Đệ tử của ngài chứng thân cầu vồng, và

trong bảy thế hệ sau đó, các đệ tử đều

chứng thân cầu vồng. Ở tỉnh Kham của

Tây Tạng, có bốn tu viện lớn của dòng

Nyingma: Kathok, Palyul, Shechen và

Dzogchen. Ở tu viện Kathok, tám thế hệ

các hành giả đã chứng thân cầu vồng,

bắtđầu từ vị sáng lập và tiếp tục qua bảy

thế hệ tiếp theo. Có một sự xuất hiện liên

36

tục các hành giả từ bỏ thế giới này trong

thân cầu vồng cho đến tận ngày hôm nay.

Thêm một vài ví dụ nữa: khoảng 100 năm

trước, vào thời đại của ngài Jamyang

Khyentse Wangpo, có một vị đạo sư vĩ

đại tên là Nyag-la Pema Dudul đã đạt đến

giác ngộ với sự chứng thân cầu vồng.

Điều này được chứng kiến bởi 500 đệ tử

của ngài. Sau đó, ngay trước khi người

Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng, có một

vị ni sống ở tỉnh Tsang đã rời bỏ thế giới

trong thân cầu vồng. Cá nhân tôi nghe

được điều này từ một người có mặt lúc

đó, và tôi sẽ kể vềcâu chuyện này trong

các phần sau của cuốn sách. Thậm chí sau

khi Trung Quốc chiếm đóng, tôi vẫn nghe

rằng ở Golok có ba hay bốn người đã rời

bỏ thế giới trong thân cầu vồng. Bởi vậy,

điều này không phải chuyện cổ tích trong

37

quá khứ,mà là điều gì đó vẫn tiếp tục cho

đến ngày hôm nay.

Trích: BỨC TRANH CẦU VỒNG –

TULKU URGYEN RINPOCHE

Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên.

(CÙNG DỊCH GỈA)

[1] Năm sự suy đồi gồm có: (1) sự suy đồi

về tri kiến bởi sự giảm sút những phẩm

chất của sự từ bỏ,nghĩa là có tri kiến sai

lầm [tà kiến]; (2) sự suy đồi về các cảm

xúc gây phiền hà bởi sự suy giảm những

phẩm chất của một người chủ nhà, nghĩa

là tâm tầm thường mà trong đó sự tầm

thường liên quan đến các cảm xúc gây

phiền hà mạnh mẽ và dài lâu; (3) sự suy

38

đồi về thời gian bởi sự giảm những sự

thích thú, nghĩa là kỷnguyên suy giảm của

Xung Đột; (4) sự suy giảm về tuổi thọ bởi

sự giảm trong nhữngđiều duy trì sự sống,

nghĩa là tuổi thọ giảm, cuối cùng chỉ còn

độ dài là mười năm; (5) sự suy đồi của

chúng hữu tình, nghĩa là sự giảm số chúng

sinh do hình dạng xấu và kích thước kém

hơn, sự giảm về công đức bởi những năng

lực và suy hoàng kém hơn, sự giảm của

tâm do sự kém sắc bén của trí tuệ, khả

năng nhớ và chăm chỉ. Vì thế, sự suy đồi

của chúng hữu tình mà ở đó ba loại suy

giảm đến cùng nhau, nghĩa là tâm họ rất

khó để điều phục – trích trong cuốn “Ánh

sáng Trí tuệ” của ngài Jokyab Rinpoche