viỆn sinh hỌc nÔng nghiỆp - hai mƯƠi nĂm nghiÊn cỨu … ·
TRANSCRIPT
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 3
VIỆN SINH HỌC NÔNG NGHIỆP - HAI MƯƠI NĂM
NGHIÊN CỨU VÀ CHUYỂN GIAO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TS. Nguyễn Xuân Trường
Viện trưởng Viện Sinh học nông nghiệp
Nghiên cứu khoa học là sức sống của một trường
đại học. Đây thực sự là khẩu hiệu mà bất kể một trường
đại học nào trên thế giới cũng lấy làm phương châm
hành động. Nghiên cứu khoa học là một trong hai tiêu
chí quan trọng hàng đầu trong xếp hạng đại học của
thế giới cũng như Việt Nam. Tuy nhiên trong hoàn
cảnh cụ thể của Giáo dục đại học Việt Nam có thể nói
hoạt động nghiên cứu khoa học của các trường đại học
không tương xứng với tiềm năng cũng như với vai trò
cần có của nó.
Trong tình hình đó, việc ra đời các Viện, Trung
tâm nghiên cứu trong trường đại học sẽ là một giải
pháp mới và quan trọng thúc đẩy phong trào nghiên
cứu khoa học gắn liền với đào tạo và chuyển giao công
nghệ của các trường đại học.
Viện Sinh học Nông nghiệp (SHNN) - Đại học Nông
nghiệp Hà Nội cùng với Viện CNSH và Công nghệ thực
phẩm, Đại học Bách khoa Hà Nội là hai Viện đầu tiên
trong khối các trường đại học được Bộ Giáo dục & Đào
tạo ra Quyết định thành lập ngày 13/03/1999. Quyết định
của Viện SHNN mang số 969/QĐ-BGD&ĐT do Thứ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Tấn Phát ký.
Rút kinh nghiệm từ những bài học trong nước và
quốc tế, Viện Sinh học Nông nghiệp - Học Viện Nông
nghiệp Việt Nam đã lựa chọn hướng đi riêng của mình,
một mặt hướng nghiên cứu phải cập nhật với khoa học
thế giới, nhưng mặt khác phải tập trung giải quyết
những vấn đề bức xúc của thực tiễn sản xuất, lấy đòi
hỏi của thực tiễn làm mục tiêu của nghiên cứu. Sản
phẩm của hoạt động nghiên cứu không chỉ là các công
bố khoa học, các bằng sáng chế phát minh mà còn là
các sản phẩm khoa học công nghệ trực tiếp phục vụ
sản xuất như: giống cây trồng mới, quy trình công nghệ
tiên tiến, ... những sản phẩm hàng hóa chuyển giao cho
thực tiễn sản xuất. Và ngược lại chính thực tiễn sản xuất
đó đã gúp phần nuôi dưỡng, phát triển Viện SHNN cả
về tinh thần cũng như vật chất. Có thể nói kể từ ngày ra
đời cho đến nay Viện SHNN đã được “tôi rèn” trong cái gọi là cơ chế tự chủ và cũng là “phép thử” khả năng tự
chủ trong nghiên cứu khoa học (theo Nghị định
115/2005/NĐ-CP) của cán bộ giảng dạy mà người ta
vẫn nghĩ họ là những thầy cô giáo chỉ giỏi “lý thuyết
suông”. Viện đã tự tìm nguồn kinh phí cho hoạt động,
cho xây dựng cơ sở vật chất, nguyên vật liệu, điện nước,
trả lương, bảo hiểm ... cho trên 30 cán bộ công nhân
viên suốt 20 năm nay, trong khi đó vẫn đóng góp cho
thương hiệu của Nhà trường với những công trình có
tên tuổi như lúa lai TH3-3, Công nghệ khí canh trong
sản xuất khoai tây sạch bệnh, công nghệ VSV hữu hiệu
EMINA và đặc biệt gần đây là hệ thống chiếu sáng
chuyên dụng trong nuôi cấy mô và trong điều khiển ra
hoa cúc và hoa thanh long được áp dụng rộng rãi trong
toàn quốc. Nhiều Tiến sỹ, Thạc sĩ đã được đào tạo
thành công trực tiếp tại Viện. Các sản phẩm nghiên cứu
của Viện luôn được các nhà khoa học trong và ngoài
nước, các địa phương, các cơ sở sản xuất, các doanh
nghiệp đón nhận và mong đợi. Trong bối cảnh nhiều
Viện nghiên cứu khoa học nông nghiệp đã và đang gặp
nhiều khó khăn trong hoạt động nghiên cứu và chuyển
giao khoa học công nghệ, song những kết quả đạt được
của Viện sinh học nông nghiệp thuộc Học viện nông
nghiệp Việt Nam trong thời gian qua thật đáng trân
trọng. Có thể nhấn mạnh một số thành tựu khoa học
nổi bật của Viện trong giai đoạn vừa qua:
1. Nghiên cứu chọn tạo và sản xuất giống lúa lai
Việt Nam
Phòng nghiên cứu công nghệ lúa lai là một trong
những phòng nghiên cứu quan trọng hàng đầu của
Viện Sinh học nông nghiệp trong giai đoạn xây dựng 10
năm đầu tiên. Nước ta luôn có chủ trương phát triển lúa
lai nhằm đảm bảo an ninh lương thực và phục vụ chăn
nuôi, trong khi đó chúng ta lại chưa có đủ công nghệ
để tự sản xuất ra các giống lúa lai có chất lượng. Chính
vì vậy, có giai đoạn, hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập
một số lượng lớn giống lúa lai từ Trung Quốc với giá rất
cao. Khó khăn cho sản xuất lúa lai trong nước đó là
chưa chọn tạo và sản xuất được các nguồn giống bố mẹ
làm vật liệu lai trong khi Trung Quốc lại rất thành công,
nhưng luôn giữ bí quyết công nghệ. Xuất phát từ thực
tiễn nóng bỏng đó, tập thể phòng nghiên cứu lúa lai
đứng đầu là PGS.TS. Nguyễn Thị Trâm đã phát triển
trường phái giống lúa lai hai dòng. Với 03 cán bộ nghiên
cứu đầu tiên, cùng với công cụ chính là đồng ruộng kết
hợp với nguồn vật liệu phong phú thu thập và chọn tạo
được, PGS.TS. Nguyễn Thị Trâm cùng với các đồng
nghiệp và học trò của mình đã dày công tập trung
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 4
nghiên cứu tạo và phát triển ra dòng mẹ bất dục đầu tiên
của Việt Nam. Dòng mẹ này có ưu thế hơn các dòng
nhập nội: ổn định ở điều kiện sinh thái Việt Nam, dễ
nhân, năng suất nhân dòng cao. Từ dòng mẹ này, các tác
giả đã cho ra đời hàng loạt tổ hợp lúa lai hai dòng của VN
“Made in Vietnam”, trong đó có các giống đã được công
nhận là giống Quốc gia, đáng chú ý là giống lai TH3-3 có
năng suất khá, đặc biệt gạo có chất lượng cao, dễ thích
ứng với các vùng đất, có năng suất sản xuất hạt giống
cao, chi phí thấp nên giá thành hạt lai đã hạ từ 20 - 50% so
với giống nhập nội. Giống đã được Công ty Cường Tân
mua bản quyền sản xuất với trị giá 10 tỷ đồng, 03 tổ hợp
lai được công nhận giống Quốc gia và được chuyển
nhượng (TH3-4; TH3-5; TH3-7). Nhóm nghiên cứu lúa lai
Viện Sinh học Nông nghiệp còn tiếp tục nghiên cứu và
chọn tạo thành công nhiều giống lúa thuần có chất lượng
cao: Hương Cốm có năng suất khá và đặc biệt là cơm có
mùi hương cốm. Cùng với sự ra đời của các giống lúa
mới, đội ngũ cán bộ nghiên cứu lúa lai cũng không
ngừng phát triển từ 03 cán bộ lên đến 14 cán bộ. Đội ngũ
này dưới sự dìu dắt của PGS.TS. Anh hùng Lao động
Nguyễn Thị Trâm đã dần dần làm chủ công nghệ chọn
tạo lúa lai. Cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu chọn tạo
lúa lai cũng ngày một hoàn thiện.
Có thể nói, việc đầu tư cho nghiên cứu chọn tạo lúa
lai của Nhà Nước đối với Viện sinh học Nông nghiệp đã
mang lại hiệu quả đáng ngạc nhiên. Với tổng kinh phí
đầu tư khá khiêm tốn (3 tỷ VNĐ), trong 10 năm cùng
làm việc tại VSHNN phòng nghiên cứu lúa lai đã cho ra
đời: 04 giống Quốc gia, 03 giống cho sản xuất thử
nghiệm. Tính đến thời điểm này, Phòng Nghiên cứu
ứng dụng ưu thế lai của Viện SHNN (1999-2010) và nay
là Phòng Công nghệ lúa lai của Viện NC&PTCT (2010-
2019) đã chuyển nhượng trên 50% số lượng các giống
mới tạo cho các công ty Giống để họ sản xuất hạt giống
bán cho nông dân, có thể nói đây là nơi chuyển nhượng
bản quyền lúa lai nhiều nhất và giá trị bản quyền cao
nhất Việt Nam.
2. Nghiên cứu phát triển công nghệ tế bào thực vật
gắn kết với công nghệ cao trong nông nghiệp phục vụ
nhân, tạo giống cây trồng có giá trị
Ứng dụng kỹ thuật nuôi cấy mô trong nhân giống:
Viện SHNN là một trong những cơ sở nghiên cứu về
công nghệ tế bào thực vật được hình thành sớm và đã
khẳng định được tên tuổi ở Việt Nam. Viện đã góp phần
đẩy mạnh hướng nghiên cứu nuôi cấy mô ứng dụng
cho nhân giống cây trồng tại Việt Nam. Đã tham gia
đào tạo hàng loạt cán bộ, chuyển giao, xây dựng nhiều
phòng thí nghiệm nuôi cấy mô cho nhiều địa phương:
Nam Định, Lạng Sơn, Hải Phòng, Nghệ An… Từ
những năm 2000 đến nay, nhiều đề tài nghiên cứu về
nhân giống bằng nuôi cấy mô đã được công nhận là Tiến
bộ kỹ thuật (TBKT) cho áp dụng rộng rãi trong cả nước,
tiêu biểu như: “Quy trình nhân giống và nuôi trồng lan Hồ điệp bắt nguồn từ nuôi cấy mô” (năm 2002). Những
kết quả nghiên cứu đầu tiên về hoa lan hồ điệp ở Việt
Nam này đã đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ
ngành hoa lan Hồ điệp ngày nay ở Việt Nam. Cũng
tương tự như vậy TBKT về “Quy trình nhân giống hoa
Đồng tiền bằng kỹ thuật nuôi cấy mô” (năm 2004) do
nhóm nghiên cứu của Viện đề xuất đã trở thành qui trình
chính hiện nay trong sản xuất. Đặc biệt, trong sản xuất
củ giống khoai tây sạch bệnh gắn với chế biến, các cán
bộ của Viện mà đứng đầu là GS.TS Nhà giáo nhân dân
Nguyễn Quang Thạch đã có nhiều cố gắng, liên tục
nghiên cứu xây dựng hệ thống sản xuất giống khoai tây
sạch bệnh cho Việt Nam. Hệ thống nhân giống khoai tây
sạch bệnh bắt nguồn từ nuôi cấy mô của Viện với: “Quy
trình sản xuất khoai tây giống sạch bệnh bắt nguồn từ
nuôi cấy mô” đoạt giải Nhì sáng tạo khoa học công nghệ
Việt Nam năm 2008 và quy trình đã được Bộ Nông
nghiệp & PTNT công nhận là TBKT và cho áp dụng
rộng rãi (năm 2009); cho đến nay, có thể nói Viện Sinh
học Nông nghiệp là một trong những cơ quan có vị thế
quan trọng hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu về khoai
tây sạch bệnh của Việt Nam. Thực sự, các kết quả
nghiên cứu đã trở thành sản phẩm hàng hoá có giá trị.
Viện SHNN đã liên kết chặt chẽ với Công ty Orion Hàn
Quốc trong sản xuất khoai tây giống sạch bệnh Atlantic
thay thế nhập nội và khoai tây nguyên liệu chế biến chip
chủ lực tại VN.
Kế thừa kết quả nghiên cứu đi trước Viện đang tập
trung chuyển hướng nghiên cứu CNSH từ nhân giống
sang tạo giống. Hàng loạt công trình theo hướng này đã
được triển khai và thu được những kết quả bước đầu rất
đáng khích lệ: chuyển gen tạo giống hoa đồng tiền, Lily
kháng sâu, xử lí đột biến in vitro bằng tia phóng xạ
trong tạo giống hoa đồng tiền, hoa cẩm chướng, chọn
tạo giống khoai tây kháng bệnh bằng dung hợp tế bào
trần, chọn tạo giống hoa Loa kèn ưu thế lai chịu
nhiệt…. Hai giống hoa cẩm chướng tạo bằng công
nghệ đột biến in vitro của PGS.TS Nguyễn thị Lý Anh
đã được Bộ Nông nghiệp & PTNT công nhận cho sản
xuất thử nghiệm. Đây cũng sẽ là những mũi nhọn mới
trong hướng phát triển tương lai của Viện.
3. Phát triển công nghệ khí canh
Viện SHNN có công đầu tiên đưa công nghệ khí
canh vào Việt Nam - một thành tựu mới trong lĩnh vực
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 5
khoa học nông nghiệp thế giới. Với công nghệ này,
chúng ta biết thêm 1 công nghệ trồng cây không cần đất
ngoài thủy canh và trồng cây trong giá thể. Viện đã
mạnh dạn đưa công nghệ khí canh vào ứng dụng trong
việc nhân giống cho nhiều loại cây trồng khác nhau đặc
biệt là nhân cây khoai tây sạch bệnh sau cấy mô ở quy
mô công nghiệp. Dựa trên kết quả của đề tài thuộc
chương trình CNSH cấp nhà nước: “Nghiên cứu làm chủ
công nghệ và xây dựng mô hình công nghiệp sinh học sản xuất giống khoai tây, rau và hoa sạch bệnh bằng
công nghệ thủy khí canh (2006-2010)” đã có những cải
tiến có ý nghĩa và GS.TS. NGND. Nguyễn Quang Thạch
đã được Bộ KHCN cấp Bằng độc quyền Giải pháp hữu
ích số 1122 năm 2013 về “Hệ thống thiết bị và quy trình
sản xuất giống khoai tây bằng phương pháp khí canh”.
Ngoài ra, công nghệ này cũng được áp dụng thành công
trong nhân giống hoa cẩm chướng, cúc, thược dược, ớt,
dâu tây; cây dược liệu: đinh lăng, thìa canh, giảo cổ lam.
Đặc biệt gần đây trong nhân giống rau thuốc và Trà Hoa
vàng. Công nghệ này đang được phát triển rất mạnh mẽ
tại Viện. Viện đã ký kết hợp tác với Hàn Quốc áp dụng
công nghệ này trong sản xuất sâm rau tại VN.
4. Phát triển công nghệ chiếu sáng mới trong điều
khiển ra hoa cây trồng
Đặc biệt, những nghiên cứu gần đây phục vụ phát
triển nông nghiệp công nghệ cao đã được Viện rất quan
tâm nghiên cứu. Dưới sự chỉ đạo của GS.TS. Nguyễn
Quang Thạch, chuyên gia về sinh lý thực vật đã phát
hiện thấy việc chiếu sáng trong nông nghiệp hiện nay
tiêu tốn rất nhiều điện năng, do vật rất cần được nghiên
cứu cải tiến. Thí dụ, trong sản xuất hoa cúc và quả
thanh long hiện nay, nông dân phải sử dụng biện pháp
chiếu sáng ban đêm để điều khiển sự ra hoa của cây
theo ý muốn. Cụ thể như cây hoa cúc khi trồng vào vụ
đông, cây giống vừa trồng xuống chưa kịp sinh trưởng
đủ chiều cao đã gặp điều kiện thích hợp (ngày ngắn)
cho ra hoa. Vì thế, cây sẽ cho cành hoa ngắn không đủ
tiêu chuẩn thương mại. Nên trong sản xuất hoa cúc
người dân thường phải chiếu đèn vào ban đêm để ngăn
cản sự ra hoa, để cây sinh trưởng đủ chiều cao, lúc đó
mới ngắt đèn cho cây ra hoa. Thời lượng chiếu đèn
khoảng 8 - 10 giờ mỗi đêm trong suốt khoảng 30 - 40
ngày kể từ lúc trồng, điện năng tiêu tốn rất lớn. Đối với
cây thanh long, thì ngược lại, để có quả vào vụ đông,
cây cũng cần được chiếu đèn vào đêm với thời lượng
khoảng 10 - 11 giờ mỗi đêm, trong suốt 16 - 18 ngày.
Chính vì vậy, Viện đã nghiên cứu đề xuất cần sản xuất
đèn chuyên dụng cho điều khiển ra hoa của cây cúc
và cây thanh long thay cho đèn thông thường đang sử
dụng, thời gian chiếu sáng giảm từ 8 - 10 giờ mỗi đêm
nay chỉ còn 4 giờ, tiết kiệm hàng chục tỷ đồng cho
mỗi vụ sản xuất, tăng hiệu quả sản xuất và thu nhập
cho nông dân. Bộ Nông nghiệp và PTNT đã công
nhận ba tiến bộ kỹ thuật thuộc lĩnh vực này cho
GS.TS. Nguyễn Quang Thạch là tác giả chính và các
cộng sự: 1) “Đèn huỳnh quang compact chuyên dụng
và quy trình lắp đặt sử dụng điều khiển ra hoa trong
sản xuất cúc nhân giống và cúc thương phẩm” (năm
2017), 2) “Đèn huỳnh quang compact chuyên dụng và
quy trình lắp đặt, sử dụng trong điển khiển ra hoa cho
cây thanh long” (năm 2017) “Đèn huỳnh quang
chuyên dụng và quy trình lắp đặt, sử dụng trong nuôi
cấy mô cho một số loại cây trồng” (từ 2017). Tổng
Liên Đoàn lao động VN đã cấp Bằng lao động sáng tạo
cho GS.TS Nguyễn Quang Thạch về sáng kiến cải
tiến hệ thống chiếu sáng trong điều khiển ra hoa cúc
và thanh long (2019). Theo nguyên lý này, Viện đang
tiếp tục nghiên cứu ứng dụng đèn LED thay thế cho
các đèn huỳnh quang compact nhằm tiếp tục giảm
tiêu thụ điện năng trong điều khiển ra hoa cúc và
thanh long trong thời gian không xa.
5. Phát triển công nghệ Vi sinh vật hữu hiệu EMINA
Sau khi nghiệm thu đề tài cấp nhà nước về tiếp thu
công nghệ VSV hữu hiệu EM của Nhật Bản (2001),
Viện nhận thức rõ tầm quan trọng và hiệu quả rõ rệt
của VSV hữu hiệu trong nông nghiệp và môi trường.
Tuy nhiên chế phẩm EM là chế phẩm nhập từ Nhật
Bản, vấn đề vi sinh vật lạ là việc rất cần được nghiên
cứu cải tiến. Với tư cách là chủ nhiệm đề tài trên, Viện
và các cộng sự trong nhóm nghiên cứu đã tiếp tục
nghiên cứu chế tạo chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu cho
Việt Nam. Kết quả đã sản xuất thành công chế phẩm vi
sinh vật hữu hiệu có tác dụng tương tự chế phẩm EM
của Nhật nhưng được chế tạo, phối trộn từ các nhóm vi
sinh vật phân lập tại Việt Nam. Chế phẩm có thương
hiệu Việt Nam là EMINA. Chế phẩm đã nhanh chóng
được nông dân trên toàn quốc sử dụng thành công, Bộ
Nông nghiệp & PTNT công nhận chế phẩm là tiến bộ
kỹ thuật từ năm 2010 và cho phép lưu hành rộng rãi. Có
địa phương đưa thành chủ trương: Sử dụng EMINA
trên toàn bộ diện tích trồng hành tỏi để sản xuất sạch
theo hướng hữu cơ (Kinh Môn 2018). Việc phát triển
qui mô và cải tiến tiếp tục các qui trình sử dụng EMINA
trong sản xuất rau, quả sạch theo hướng hữu cơ đang
được Viện tiếp tục thực hiện.
Bài học kinh nghiệm
Những kết quả trên là những thành công bước
đầu nhưng rất có ý nghĩa trong việc xây dựng và phát
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 6
triển sự nghiệp đào tạo gắn liền với nghiên cứu khoa
học trong một trường đại học. Để có được những
thành tựu ấy chúng tôi thấy:
1. Phải có người lãnh đạo là người có tâm huyết
không ngại gian khổ, có tầm chiến lược, liên tục có ý
tưởng mới, sáng tạo mới, có quan hệ tốt cả trong và
ngoài nước, là tấm gương toàn diện cho cán bộ công
nhân viên, có khả năng đoàn kết tập hợp. Bên cạnh đó
cần có một đội ngũ trẻ, say mê nghề nghiệp, vừa có
chuyên môn vừa có đạo đức, chấp nhận và khắc phục
được những khó khăn nhất thời của Viện, cùng các
Thầy Cô lãnh đạo tâm huyết, gắn bó trung thành với
sự nghiệp của Viện.
2. Trong bối cảnh nguồn kinh phí Nhà nước có
nhiều khó khăn, phức tạp trong thanh quyết toán thì
việc hợp tác với doanh nghiệp là rất có ý nghĩa. Thực
tế các vấn đề nghiên cứu lớn hiện nay của Viện đều
dựa chủ yếu vào sự hợp tác, liên kết với các doanh
nghiệp lớn có uy tín và năng lực tài chính: Liên kết
hợp tác toàn diện về khoai tây với Tập đoàn Orion Hàn
Quốc, liên kết với Tổng công ty Bóng đèn phích nước
Rạng Đông, Công ty PTP (Pacific Technologies
Product) Singapore trong các nghiên cứu về chiếu
sáng nông nghiệp công nghệ cao, Công Ty HNF Hàn
Quốc trong nghiên cứu phát triển Sâm và cây dược
liệu…. Tìm mọi cách kết hợp nhuần nhuyễn cơ sở lý
thuyết với các công nghệ mới tạo ra các sản phẩm có
hàm lượng chất xám cao, đủ sức cạnh tranh trên thị
trường, trên cơ sở đó mới thu hút được doanh nghiệp
và cơ sở sản xuất đến với mình.
3. Luôn lấy yêu cầu của thực tiễn sản xuất làm
mục tiêu nghiên cứu. Dám nhận những vấn đề “hóc
búa” của thực tiễn sản xuất làm nội dung nghiên cứu.
Trên cơ sở đó đề xuất được những sản phẩm nghiên
cứu: giống, quy trình công nghệ, những giải pháp
hoàn toàn được sản xuất chấp nhận.
4. Để nâng cao trình độ nghiên cứu khoa học, có
được các công bố có giá trị, việc phát triển Hợp tác
Quốc tế có vị trí quan trọng hàng đầu.
5. Ngoài việc nỗ lực tham gia đấu thầu để chủ trì các
đề tài, dự án cấp Nhà nước, cấp Bộ, luôn luôn phối hợp
tốt với các Viện nghiên cứu, các Trường đại học để nhận
chủ trì các đề tài, dự án nhánh. Rất chú trọng nguồn đề
tài hợp đồng với các địa phương và cơ sở sản xuất, đồng
thời tranh thủ khai thác sự giúp đỡ hợp tác Quốc tế…
6. Luôn gắn chặt công tác đào tạo với công tác
nghiên cứu khoa học, sử dụng tốt lực lượng sinh viên
thực tập tốt nghiệp, học viên cao học và nghiên cứu
sinh trong việc thực hiện các đề tài cấp Bộ, cấp Nhà
nước làm luận án của mình. Như vậy vừa có thêm
được lực lượng nghiên cứu vừa thiết thực nâng cao
được chất lượng đào tạo.
7. Luôn chú trọng tự đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất với phương châm “tất cả cho phòng thí nghiệm, vườn thực nghiệm” để đón đầu các đề tài, dự án lớn.
Ghi nhận những thành tựu đã đạt được trong
công tác nghiên cứu và chuyển giao khoa học của
Viện trong 20 năm qua, Viện Sinh học nông nghiệp đã
vinh dự nhận được nhiều phần thưởng cao quý của
Đảng và Chính phủ cùng các Bộ, ngành trao tặng:
Huân chương Lao động hạng ba ( Quyết định số
1694/QĐ-CTN ngày 14 tháng 10 năm 2019 của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Bằng
khen của Thủ tướng Chính phủ ngày 05/11/2009;
Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT,
ngày 05/10/2006; Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục – Đào tạo cho tập thể CBVC của Viện đạt thành
tích xuất sắc trong hoạt động khoa học và Công nghệ
giai đoạn 2006-2010 theo quyết định số 2307/QĐ-
BGD&ĐT ngày 2/6/2011; Đoạt giải “Cúp vàng nông
nghiệp” cho giống lúa lai TH3-3; Đoạt giải nhì “Sáng
tạo Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VIFOTEC)”
năm 2008; Giải thưởng Techmart Quốc tế Việt Nam
tháng 10/2015 theo quyết định số 2668/QĐ-BKHCN
của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ...
Có thể nói, hai mươi năm là cả một quá trình phấn
đấu để tồn tại và phát triển, mặc dù Viện SHNN còn là
một tổ chức non trẻ, các kết quả thu được còn khiêm
tốn, nhưng những thành tựu đã thu được là rất đáng tự
hào và trân trọng. Những thành tựu của Viện cũng đã
có những đóng góp xứng đáng cho vị thế của Nhà
trường trong sự nghiệp đào tạo, NCKH và phục vụ sản
xuất. Những thành công ấy đã khẳng định hướng đi
đúng đắn và sự nỗ lực không ngừng của tập thể cán bộ
khoa học Viện SHNN.
Những thành công thu được của Viện SHNN
không thể tách rời sự lãnh đạo, ủng hộ và tin tưởng của
Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện NNVN, các đơn vị
trong Học viện, của Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Nông
nghiệp & PTNT, Bộ Khoa học & Công nghệ, của các
tỉnh thành và các địa phương, của các Trường đại học,
các Viện nghiên cứu, các doanh nghiệp, cùng đông đảo
bà con nông dân, bạn bè Quốc tế và các thế hệ học trò
trong 20 năm qua.
Nhân kỷ niệm 20 năm thành lập Viện SHNN (1999
- 2019) xin trân trọng giới thiệu tới quý độc giả một số
kết quả nghiên cứu mới trong thời gian gần đây.
Xin chân thành cảm ơn!
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 7
NGHIÊN CỨU ỨC CHẾ RA HOA CỎ NGỌT (Stevia
rebaudiana Bertoni) TRONG ĐIỀU KIỆN NGÀY NGẮN
BẰNG BIỆN PHÁP NGẮT ĐÊM PHỤC VỤ NHÂN GIỐNG Vũ Thị Hằng1*, Nguyễn Thị Thủy1, Đoàn Thị Cẩm Vân1,
Phạm Anh Trà1, Nguyễn Quang Thạch1
TÓM TẮT Cây cỏ ngọt là cây ngày ngắn dễ dàng ra hoa khi gặp điều kiện ngày ngắn, khi ra hoa sự sinh trưởng thân lá
bị hạn chế gây khó khăn cho việc sản xuất sinh khối và tạo ngọn cắt cho giâm cành. Nghiên cứu đã xác
định được ảnh hưởng của các loại ánh sáng đèn LED đỏ và thời gian ngắt đêm (night break – NB) thích hợp
đến sự ức chế ra hoa cỏ ngọt. Thí nghiệm được bố trí với 3 lần nhắc lại trên hệ thống thủy canh trong nhà
(indoor hydroponic). Xử lý ngắt đêm với các ánh sáng đỏ có bước sóng khác nhau (630nm, 660nm, 730 nm).
Kết quả thí nghiệm cho thấy chiếu sáng bằng đèn LED ở ba bước sóng nghiên cứu với thời lượng 3h (0 am -
3 am) đều ức chế sự ra hoa của cây cỏ ngọt, trong khi ở công thức không ngắt đêm (ĐC) cây ra hoa 100%.
Trong đó, ánh sáng đỏ 660nm cho hiệu quả tối ưu vừa ức chế ra hoa vừa kích thích sự sinh trưởng thân lá,
tạo nhiều cành giâm phục vụ cho nhân giống. Đèn compact đỏ (CFL-20W NN R660) có tỷ lệ phổ Red 660
nm cao, có thể thay thế đèn LED trong xử lý chiếu sáng ngắt đêm cho cỏ ngọt trồng trong vườn ươm làm
cây mẹ dùng sản xuất ngọn giâm phục vụ nhân giống.
Từ khóa: Cỏ ngọt, ngày ngắn, ngắt đêm, ánh sáng đỏ, 630nm, 650nm, 660nm.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Cỏ ngọt (Stevia rebaudiana Bertoni) thuộc họ
Asteraceae, chi Stevia và là một loại cây bụi lâu năm,
thân lá có thể phát triển tới đến 1m (Ramesh et al.,
2006). Lá cỏ ngọt chứa nhiều dẫn xuất của diterpen
glycosid, như steviol glycosid và rebaudioside
glycoside, các dẫn xuất này được sử dụng như một
nguồn chất làm ngọt không năng lượng (đường cho
người ăn kiêng) với độ ngọt cao gấp 100-300 lần so
với đường mía (Tôn Nữ Liên Hương và cs, 2015).
Cây cỏ ngọt là cây có phản ứng ra hoa theo
quang chu kỳ ngày ngắn (Valio và Rocha, 1977), khi
gặp điều kiện ngày ngắn, đêm dài cây sẽ phân hóa
hoa và ra hoa. Hiện tượng này xảy ra ở hoàng loạt các
cây ngày ngắn khác như cây hoa cúc, rau muống, rau
lang, tía tô xanh, rau húng ... Khi cây ra hoa thì sự
sinh trưởng dinh dưỡng của cây sẽ bị ức chế, sự tăng
trưởng về chiều cao, thân lá, sinh khối chất xanh
giảm rõ rệt. Điều này ảnh hưởng lớn đến sản xuất
thương phẩm (năng suất rau, chiều dài cành hoa,...)
cũng như sản xuất cây giống (số ngọn giâm) bị giảm
rất mạnh. Vì thế trong sản xuất một số loại rau, hoa,
việc điều khiển ức chế ra hoa của cây trong điều kiện
ngày ngắn là rất quan trọng. Để khống chế hiện
tượng ra hoa, biện pháp xử lý ngắt đêm (night break
1 Viện Sinh học Nông nghiệp – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam *Email: [email protected]
–NB) hay quang gián đoạn (night interuption – NI)
đã được nghiên cứu và áp dụng rất thành công cho
nhiều cây trồng đặc biệt trên cây cúc
(Chrysanthemum sp.) (Higuchi et al., 2012; Higuchi
et al., 2013; Ochiai et al., 2015; Nguyễn Thị Hân và
cs, 2016). Cây cỏ ngọt là cây ngày ngắn hiện tượng ra
hoa khi cây gặp điều kiện ngày ngắn là phổ biến,
điều này gây khó khăn cho việc sản xuất sinh khối
cũng như tạo ngọn cắt cho giâm cành. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu khống chế sự ra hoa của cây cỏ ngọt
hầu như không được nghiên cứu đầy đủ và chưa có
công bố.
Nghiên cứu dựa vào bản chất của biện pháp điều
khiển ra hoa bằng kỹ thuật ngắt đêm là do hoạt động
của phức hợp protein - sắc tố của cây gọi là
phytochrome. Phytochrome có hai dạng chủ yếu: Pr
(hấp thụ ánh sáng bước sóng 660nm) và Pfr (hấp thụ
ánh sáng bước sóng 730nm). Sự ra hoa hay ức chế ra
hoa của cây theo phản ứng quang chu kỳ sẽ xảy ra ở
một tỷ lệ nhất định của Pr/Pfr (Park, 2014; Song et al.,
2015). Nghiên cứu này nhằm xác định ảnh hưởng
của các loại ánh sáng đèn LED đỏ bước sóng khác
nhau và thời gian xử lý ngắt đêm (night break – NB)
thích hợp đến sự ức chế ra hoa cỏ ngọt. Ngoài ra,
nghiên cứu cũng tiến hành đánh giá việc sản xuất
ngọn giâm từ các cây mẹ được trồng trong nhà màn
có chiếu sáng theo các kết quả nghiên cứu về ức chế
ra hoa đã thu được.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 8
2. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng
Cây cỏ ngọt giống M77 do Công ty cổ phần Đầu
tư & Phát triển Tân Hoàng Việt cung cấp. Cây mẹ
sinh trưởng phát triển khỏe không sâu bệnh và được
trồng cách ly trong nhà màn nhà lưới.
2.2. Vật liệu
Hệ thống thủy canh, khí canh do Viện Sinh học
nông nghiệp thiết kế
Dung dịch dinh dưỡng SH1 do Viện Sinh học
nông nghiệp-Học viện Nông nghiệp Việt Nam pha
chế.
Bảng 1. Thành phần dinh dưỡng trong dung dịch SH1
Thành phần Hàm lượng (ppm) Thành phần Hàm lượng (ppm)
N (NO3-) 210 Zn 0,073
N (NH4+) 0,044 B 0,5
P 31 Mn 0,5
K 235 Cu 0,02
Mg 48 Mo 0,01
Ca 200 Na 0,005
S 63,672 Si 0
Fe 5 Cl 0
Các loại đèn sử dụng trong thí nghiệm: LED có
bước sóng khác nhau (630 nm, 660 nm, 730 nm), đèn
compact (CFL-20WNN R660) do Công ty Cổ phần
Bóng đèn và Phích nước Rạng Đông sản xuất.
Máy đo EC/pH cầm tay (HI 98129, Hanna
Instruments, Inc.,Woonsocket, RI, USA)
Phổ phát xạ của các loại đèn được đo bằng máy
chuyên dùng UPRtek PG100N Handheld Spectral
PAR meter (Lightcraft int’l limited).
2.3. Thiết thế thí nghiệm
Cây cỏ ngọt 10 ngày tuổi sau khi cắt ngọn và
giâm trên khí canh, khi cây đạt chiều cao 7 cm và 5
cặp lá được sử dụng trong các thí nghiệm chiếu sáng
trong thủy canh tuần hoàn và khí canh. Khoảng cách
giữa các cây là 12cm. Thí nghiệm bố trí trồng trên
dàn thủy canh trong nhà được chiếu sáng bằng ánh
sáng trắng có cường độ ánh sáng 190 µmol/m2/s
theo quang chu kỳ ngày ngắn 10h sáng/14h tối.
Các thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối ngẫu
nhiên hoàn chỉnh (- RCBD), mỗi công thức được
nhắc lại 3 lần, mỗi lần 10 cây.
Thí nghiệm 1: Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại ánh sáng đỏ có bước sóng khác nhau đến sự ra
hoa của cỏ ngọt.
Các loại đèn đỏ dùng để thực hiện thí nghiệm
quang gián đoạn có bước sóng khác nhau sẽ được
chiếu sáng vào 12h đêm trong thời gian 180 phút (từ
12h -3h).
Thí nghiệm bố trí với các công thức sau:
CT1: Không chiếu sáng ngắt đêm (ĐC); CT2:
Ngắt đêm (Night break -NB) bằng ánh sáng đỏ 630
nm; CT3: Ngắt đêm (Night break -NB) bằng ánh
sáng đỏ 660 nm; CT4: Ngắt đêm (Night break -NB)
bằng ánh sáng đỏ 730 nm.
Hình 1. Hình ảnh quang phổ của các loại đèn LED đỏ có các bước sóng khác nhau (630nm, 660nm, 730nm)
được đo bằng máy đo quang phổ UPRtek
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 9
Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của thời
gian chiếu ánh sáng đỏ thích hợp đến sự ra hoa của
cây cỏ ngọt trồng thủy canh trong nhà.
Loại đèn đỏ bước sóng tốt nhất xác định được ở
thí nghiệm 1 được chiếu vào 12h đêm với thời lượng
chiếu sáng khác nhau.
CT1: Không ngắt đêm (ĐC).
CT2: Chiếu ngắt đêm với đèn đỏ bước sóng tốt
nhất xác định được ở thí nghiệm 1 thời gian chiếu 1 h.
CT3: Chiếu ngắt đêm với đèn đỏ bước sóng tốt
nhất xác định được ở thí nghiệm 1 thời gian chiếu 2 h.
CT4: Chiếu ngắt đêm với đèn đỏ bước sóng tốt
nhất xác định được ở thí nghiệm 1 thời gian chiếu 3 h.
Thí nghiệm 3: Nghiên cứu ảnh hưởng thời gian chiếu sáng ngắt đêm đến sự ra hoa của cây cỏ ngọt
trên hệ thống khí canh.
Thí nghiệm được bố trí trên dàn đèn compact
(CFL-20WNN R660) cho ánh sáng đỏ chuyên dụng
trong nông nghiệp do Công ty cổ phần Bóng đèn và
Phích nước Rạng Đông sản xuất gồm 5 công thức, bố
trí trên hệ thống khí canh trong nhà lưới theo kiểu
khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh (RCBD). Đèn compact
được bố trí với mật độ 8m2/đèn, khoảng cách từ đèn
đến bề mặt khí canh là 1,6m, cường độ ánh sáng đỏ
(600-730nm) 180 µmol/m2/s.
CT1: Không chiếu ngắt đêm (NB)- Đối chứng;
CT2: Ngắt đêm (NB) 1 giờ; CT3: Ngắt đêm (NB) 2
giờ; CT4: Ngắt đêm (NB) 3 giờ; CT5: Ngắt đêm (NB)
4 giờ.
Hình 2. Phổ ánh sáng của đèn compact CFL-20WNN R660
Nguồn do Công ty cổ phần Bóng đèn và phích nước Rạng Đông cung cấp Kết quả thí nghiệm thu được ở thí nghiệm 3 sẽ
được áp dụng trong đánh giá sự sinh trưởng phát
triển, ra hoa và hệ số nhân của cây mẹ trồng trong
nhà. Đèn được bố trí đèn 8 m2/đèn và khoảng cách
từ đèn đến bề mặt luống là 1,6m.
2.4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành trong khu thực
nghiệm tại Viện sinh học Nông nghiệp, Học viện
Nông nghiệp Việt Nam từ tháng 8/2018 đến tháng 5
năm 2019
2.5. Các chỉ tiêu theo dõi
Các chỉ tiêu theo dõi được theo dõi định kỳ 7
ngày/lần.
Chiều cao cây (cm), số lá/cây, hàm lượng diệp
lục (chỉ số SPAD): đo bằng máy SPAD (502Plus,
Konica Minolta, Japan)
Hiệu suất quang hợp thuần (HSQHT –
g/dm2/ngày) tính bằng công thức:
KLK2 – KLK1
HSQHT = ──────────
(Slá2 - Slá1)T/2
Trong đó: KLK1: Khối lượng khô (g/cây) tại thời
điểm T1; KLK2: Khối lượng khô (g/cây) tại thời
điểm T2; Slá1: Diện tích lá (cm2 /cây) tại thời điểm T1;
Slá2: Diện tích lá (cm2 /cây) tại thời điểm T2; T: Thời
gian theo dõi (ngày).
Tỷ lệ cây ra hoa (%) = Số cây ra hoa *100/số cây
theo dõi.
Hệ số nhân (HSN- lần) = Tổng số ngọn thu
được/Tổng số cây ban đầu.
Tiêu chuẩn ngọn cắt: chuẩn dài ≥ 5cm, 4 cặp lá.
Khối lượng tươi (g/cây)= khối lượng trung bình
thân lá/cây.
Sinh khối tươi (kg/m2)= Tổng khối lượng trung
bình thân lá/m2.
2.6. Phương pháp xử lý số liệu
Kết quả số liệu được xử lý theo phương pháp
thống kê sinh học trên phần mềm IRRSTAT 5.0 và T-
test trong Excel (đối với thí nghiệm hai công thức)
với độ tin cậy 95%.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 10
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Ảnh hưởng của bước sóng ánh sáng đỏ thích
hợp đến cây cỏ ngọt trồng thủy canh trong nhà.
Bảng 2. Ảnh hưởng của bước sóng ánh sáng đỏ đến sinh trưởng và tỷ lệ ra hoa của cỏ ngọt sau 30 ngày trồng
Chỉ tiêu
CT
Chiều
cao (cm)
Số lá
(lá/cây) SPAD
HSQHT
(g/dm2/ngày)
Tỷ lệ ra
hoa (%)
Không ngắt đêm - NB (ĐC) 15,37a 7,76a 35,72a 0,12a 100,00
NB 630 nm 21,85b 13,27b 42,18b 0,17a 0,00
NB 660 nm 25,13c 15,88c 45,18c 0,17a 0,00
NB 730 nm 18,36d 11,45d 39,60d 0,17a 0,00
CV% 1,60 2,70 1,00 1,90
LSD0,05 0,64 0,64 0,81 0,29
Chú thích: NB- Night Break (ngắt đêm)bằng chiếu sáng vào giữa đêm; HSQHT: hệ số quang hợp thuần;
HSN: hệ số nhân; các chữ cái a, b, c, d khác nhau trong cùng một chỉ tiêu theo dõi thể hiện sự khác nhau có ý
nghĩa thống kê ở mức 5%. Cỏ ngọt là cây ngày ngắn, cây sẽ ra hoa trong
điều kiện ngày ngắn. Theo các nghiên cứu của Valio
và Rocha (1977) cho thấy cây cỏ ngọt sẽ ra hoa khi
thời gian chiếu sáng trong ngày (day length- DL)
dưới 13h, trong khi đó ở điều kiện ngày ngắn (SD;
khoảng 8-12 h) cây sẽ ra hoa chuyển nhanh sang
phát triển sinh sản. Khi ra hoa cây sẽ giảm sinh
trưởng về thân lá, giảm số ngọn cắt thu được. Trong
nhân giống vô tính bằng cắt ngọn, cây mẹ rất cần có
chế độ chiếu sáng ngày dài để không ra hoa, phát
triển thân lá mạnh mẽ cung cấp nhiều ngọn dùng
cho giâm cành.
Với các công thức được chiếu sáng ngắt đêm
(NB) bằng đèn đỏ có các bước sóng khác nhau từ
630-730 nm cây cỏ ngọt đều không ra hoa, trong khi
công thức không ngắt đêm (ĐC) cây ra hoa 100%.
Điều này chứng tỏ có thể điều khiển việc ra hoa cây
cỏ ngọt bằng chiếu sáng ngắt đêm sử dụng ánh sáng
đỏ (630-730 nm). Kết quả của chúng tôi cũng phù
hợp với công bố về điều khiển ra hoa cây cỏ ngọt
bằng xử lý ngắt đêm của Ceunen et al., (2012). Theo
nhóm tác giả này, ánh sáng đỏ ở bước sóng 630 nm
và 660 nm đều có tác động như nhau lên sắc tố cảm
nhận quang chu kỳ phytocrome, sắc tố đóng vai trò
chính trong điều khiển ra hoa của cây. Chiếu sáng
quang gián đoạn vào ban đêm bằng ánh sáng đỏ là
một phương pháp hiệu quả ngăn cản sự ra hoa cũng
như tăng sinh khối trên đối tượng cây cỏ ngọt.
Hình 3. Sự sinh trưởng phát triển của cây cỏ ngọt dưới tác động của các bước sóng khác nhau sau 14 ngày
CT1 (ĐC): Không chiếu bổ sung ban đêm; CT2: Chiếu bổ sung đèn đỏ bước sóng 630 nm; CT3: Chiếu bổ sung đèn đỏ bước sóng 650 nm; CT4: Chiếu bổ sung đèn đỏ bước sóng 730 nm.
Công thức 1 (ĐC) không xử lý ngắt đêm cây đều
ra hoa, các chỉ tiêu về sinh trưởng như chiều cao cây,
số lá, chỉ số SPAD, HSQHT cây đều thấp hơn hẳn so
với cây không ra hoa ở các công thức được xử lý ngắt
đêm bằng chiếu đèn đỏ.
Như vậy việc khống chế sự ra hoa của cây cỏ
ngọt bằng chiếu sáng ngắt đêm (NB) trong điều
kiện ngày ngắn có ý nghĩa rất lớn trong việc phát
triển chồi trên cây mẹ phục vụ nhân giống. Thời
gian giâm cành tốt nhất của cỏ ngọt thường diễn ra
từ mùa thu sang mùa xuân, đây chính là thời gian có
độ dài chiếu sáng trong ngày ngắn. Việc khống chế
ra hoa của cây là rất cần thiết và hoàn toàn có thể
thực hiện được bằng biện pháp xử lý ngắt đêm. Cả
CT1 CT4 CT2 CT3
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 11
ba loại ánh sáng đỏ sử dụng trong thí nghiệm (630
nm, 660 nm, 730 nm) đều có khả năng ức chế sự ra
hoa. Tuy nhiên, xét về chỉ tiêu sinh trưởng số
lá/thân, chiều cao cây, và hàm lượng diệp lục
(SPAD) ở ánh sáng có bước sóng 660 nm đều cao
hơn các ánh sáng đỏ còn lại. Như vậy, ánh sáng đỏ
có bước sóng 660 nm là ánh sáng thích hợp để ức
chế sự ra hoa cũng như kích thích sinh trưởng thân
lá của cây cỏ ngọt
3.2. Ảnh hưởng của thời gian chiếu sáng ánh
sáng đỏ thích hợp đến cây cỏ ngọt trồng thủy canh
trong nhà
Nghiên cứu tiếp theo nhằm xác định thời gian
tối ưu của ngắt đêm đến sự khống chế ra hoa và
sinh trưởng của cây. Đèn đỏ 660 nm được chiếu
sáng ngắt quãng vào lúc nửa đêm (24 h) với các thời
lượng chiếu sáng khác nhau, kết quả được trình bày
ở bảng 3.
Bảng 3. Ảnh hưởng của thời gian chiếu ánh sáng đỏ đến sinh trưởng, phát triển và ra hoa của cỏ ngọt
sau 20 ngày trồng
Chỉ tiêu
CT
Chiều cao
(cm)
Số lá
(lá/cây) SPAD
HSQHT
(g/dm2/ngày) Tỷ lệ ra hoa (%)
Không ngắt đêm- NB (ĐC) 15,98a 8,54a 35,81a 0,14a 100,00a
1 h 20,49b 12,12b 39,93b 0,17a 9,09b
2 h 23,51c 13,63c 43,10c 0,18a 4,23c
3 h 25,75d 16,61d 45,62d 0,21a 0,00d
CV% 1,90 1,00 1,40 1,80 16,20
LSD 0,05 0,82 0,25 1,12 0,26 9,07
Chú thích: NB- Night Break (ngắt đêm) bằng chiếu sáng vào giữa đêm; HSQHT: hệ số quang hợp thuần;
HSN: hệ số nhân; các chữ cái a, b, c, d khác nhau trong cùng một chỉ tiêu theo dõi thể hiện sự khác nhau có ý
nghĩa thống kê ở mức 5%.
Thời lượng ngắt đêm có ảnh hưởng rõ rệt đến
khả năng ức chế ra hoa của cây. Công thức không sử
dụng ngắt đêm (NB) cây ra hoa 100%. Các công thức
có tỷ lệ ra hoa tỷ lệ nghịch với thời gian ngắt đêm. Ở
3h, cây hoàn toàn không ra hoa trong khi ở công
thức 1h cây ra hoa 9% và 2h là 4,23%.
Diễn biến về các chỉ tiêu sinh trưởng (chiều cao
cây, số lá) cũng như các chỉ tiêu sinh lý (SPAD, hiệu
số quang hợp thuần – HSQHT) đều theo quy luật
tăng dần khi tỷ lệ ra hoa giảm. Ở thời gian chiếu
sáng dài nhất (3h) cây có chiều cao cây, số lá cao
nhất lần lượt là 25,75 cm/cây, 16,61 lá/cây. Trong khi
ở công thức đối chứng 100% cây ra hoa, chiều cao cây
chỉ đạt 15,98 cm/cây và số lá là 8,54 lá/cây.
Hình 4. Sự sinh trưởng phát triển, ra hoa của cây cỏ ngọt với các thời lượng ngắt đêm khác nhau
sau 14 ngày trồng
Chú thích: CT1: Không ngắt đêm- NB (Đối chứng); CT2: NB- 1h; CT3: NB-2h; CT4: NB-3h
Kết quả của thí nghiệm 1 và 2 có thể khẳng định:
sử dụng ngắt đêm (NB) bằng ánh sáng đỏ có bước
sóng 660nm với thời gian 3h là tối ưu để khống chế
hiện tượng ra hoa.
3.3. Ảnh hưởng của chiếu sáng đỏ ngắt đêm đến
sự ra hoa của cây cỏ ngọt bằng đèn compact (CFL-
20WNN R660)
Tiếp nối các nghiên cứu được thực hiện trong hệ
thống thủy canh trong nhà, thử nghiệm được tiến
hành trong vườn cây mẹ trồng trên hệ thống khí
canh và trên đất trong nhà màn với quy mô lớn hơn.
Trong các nghiên cứu này đã thử nghiệm chiếu sáng
ngắt đêm bằng đèn compact (CFL-20WNN R660) có
phổ đỏ 660 nm (Red 660) chiếm ưu thế thay cho đèn
LED chưa có điều kiện cung cấp ở số lượng lớn.
CT1 CT2 CT3 CT4
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 12
Bảng 4. Ảnh hưởng của chiếu sáng ngắt đêm đến sự ra hoa của cỏ ngọt trên hệ thống khí canh
sau 30 ngày trồng
Chỉ tiêu
Công thức
Tỷ lệ cây ra
hoa (%)
Chiều cao
cây (cm)
Khối lượng tươi
(g/cây)
Hệ số nhân
(lần)
Không ngắt đêm-NB (ĐC) 96,00 25,43a 24,45a 2,66a
1 giờ 12,00 31,21b 32,72b 3,88b
2 giờ 4,00 33,43c 39,83c 7,29c
3 giờ 0,00 34,53d 52,56d 9,22d
4 giờ 0,00 35,56e 57,01e 14,06e
CV% 6,27 4,07 2,00
LSD 0,05 0,92 2,45 0,28
Chú thích NB- night break- ngắt đêm; các chữ cái a, b, c, d khác nhau trong cùng một chỉ tiêu theo dõi
thể hiện sự khác nhau có ý nghĩa thống kê ở mức 5%.
Kết quả trình bày trong bảng 4 cho thấy sử dụng
chiếu sáng ngắt đêm bằng đèn compact CFL-20WNN
R660 thay thế cho đèn LED 660 nm cũng có tác dụng
kìm hãm sự ra hoa của cây cỏ ngọt tương tự. Thời
gian chiếu sáng ngắt đêm thích hợp khi sử dụng đèn
compact cũng từ 3h trở lên. Cũng giống như đèn
LED việc tăng thêm thời gian chiếu sáng ngắt đêm
lớn hơn 3h, tuy không ảnh hưởng đến tỷ lệ ra hoa
nhưng cũng có tác dụng tích cực đến sinh trưởng
phát triển và phát sinh chồi. Việc chiếu sáng ngắt
đêm cho cây cỏ ngọt trồng làm cây mẹ trên hệ thống
khí canh trong điều kiện ngày ngắn có thể xem là
biện pháp làm tăng hệ số nhân quan trọng không thể
thiếu.
Bảng 5. Ảnh hưởng của chiếu sáng ngắt đêm đến sự ra hoa, sinh trưởng của cỏ ngọt trồng trên đất
trong nhà màn vụ đông xuân 2018-2019 (sau 3 tháng trồng)
Chỉ tiêu
Công thức
Tỷ lệ cây
ra hoa (%)
Chiều cao
cây (cm)
Khối lượng tươi
(g/cây)
Sinh khối tươi
(kg/m2)
Hệ số nhân
(lần/tháng)
Không ngắt đêm- NB (ĐC) 97,5 30,71a 62,15a 1,24a 4,23a
Ngắt đêm- NB * 0,0 71,68b 171,33b 2,48b 56,87b
Sự khác nhau giữa hai công thức: ngắt đêm bằng đèn compact (CFL-20WNN R660) và không ngắt đêm được đánh giá bằng T-test trong exel. Thời gian chiếu sáng ngắt đêm 3h. Mật độ 20 cây/m2.
Hình 5. Sự ra hoa của cây cỏ ngọt khi được chiếu sáng ngắt đêm và không chiếu sáng ngắt đêm
sau 3 tháng trồng
A: Cây cỏ ngọt không chiếu sáng ngắt đêm, B: Cây cỏ ngọt được chiếu sáng ngắt đêm
Kết quả cho thấy, sự khác biệt rõ rệt về tỷ lệ ra
hoa, sự sinh trưởng phát triển (chiều cao, khối lượng
tươi), hệ số nhân giữa cây cỏ ngọt được ngắt đêm và
không được ngắt đêm. Khi không ngắt đêm gần như
100 % cây ra hoa, khối lượng tươi/cây đạt 62,15g/cây,
sinh khối tươi thu được 1,24 kg/m2, hệ số nhân chỉ
đạt 4,23 lần/tháng. Trong khi ở công thức ngắt đêm
3 h thì tỷ lệ lệ ra hoa là 0%, khối lượng tươi/cây đạt
171,33g/cây, sinh khối tươi thu được 2,48 kg/m2 hệ
số nhân 56,87 lần/tháng.
Kết quả này đã khẳng định vai trò tích cực của
biện pháp ức chế ra hoa cây cỏ ngọt trồng trong điều
kiện ngày ngắn bằng biện pháp ngắt đêm với ánh
sáng đỏ của đèn LED hoặc compact.
A B
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 13
4. KẾT LUẬN
Phương pháp ngắt đêm bằng đèn LED có phổ
ánh sáng đỏ 660nm, với thời lượng 3h từ 0h-3h sáng
hoàn toàn có thể khống chế hiện tượng ra hoa của cây
cỏ ngọt trồng trong điều kiện ngày ngắn. Cây cỏ ngọt
không ra hoa có độ sinh trưởng và số ngọn giâm cao
vượt trội so với cây trồng ra hoa bình thường.
Trong trường hợp chưa sản xuất được đèn LED
có phổ Red 660 nm, hoàn toàn có thể sử dụng đèn
huỳnh quang compact (đa phổ) có tỷ lệ phổ Red 660
nm cao để thay thế.
Trong điều kiện ngày ngắn, việc áp dụng biện pháp
ức chế ra hoa cho vườn cây “mẹ” phục vụ sản xuất ngọn
giâm cỏ ngọt là rất cần thiết mang lại hiệu quả cao. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ceunen, S., Werbrouck, S., Geuns, J.M.C.
(2012). Stimulation of steviol glycoside
accumulation in Stevia rebaudiana by red LED light.
J. Plant Physiol. 169:749–752
2. Nguyễn Thị Hân, Trần Thế Mai, Nguyễn Thị
Lý Anh, Nguyễn Đoàn Thăng, Nguyễn Quang Thạch
(2016). Xác định đèn compact chiếu sáng chuyên
dụng điều khiển ra hoa cho cây hoa cúc trồng tại Tây
Tựu – Hà Nội. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn 17 (296): 46-52.
3. Higuchi Y., Sumitomo K., Oda A., Shimizu H.,
Hisamatsu T. (2012) Day light quality affects the night-
break response in the short-day plant chrysanthemum,
suggesting differential phytochrome-mediated
regulation of flowering. J Plant Physiol 169:1789–1796.
4. Higuchi Y., Narumi T., Oda A., Nakano Y.,
Sumitomo K., Fukai S. (2013) The gated induction system
of a systemic floral inhibitor, antiflorigen, determines
obligate short-day flowering in chrysanthemums. Proc
Natl Acad Sci USA 110:17137–17142.
5. Tôn Nữ Liên Hương, Võ Hoàng Duy, Dương
Mộng Hòa, Đỗ Duy Phúc và Nguyễn Duy Thanh
(2013). Chiết xuất Stevoside từ cỏ ngọt (Stevia
rebaudiana Bertoni). Khoa học Tự nhiên, Công nghệ
và Môi trường 36: 73-76.
6. Ochiai, M., Liao, Y., Shimazu, T., Takai, Y.,
Suzuki, K., Yano, S. and Fukui, H. (2015). Varietal
differences in flowering and plant growth under night-
break treatment with LEDs in 12 chrysanthemum
cultivars. Env. Control Bio., 53 (1): 17-22.
7. Ramesh K., Virendra Singh, Nima W. Megeji
(2006). Cultivation of Stevia (Stevia rebaudiana
(Bert.) Bertoni): A Comprehensive Review.
Advances in Agronomy. Vol 89, 137–177.
8. Song Y. H., Shim J. S., Kinmonth-Schultz H.
A., and Imaizumi T. (2015). Photoperiodic Flowering:
Time Measurement Mechanisms in Leaves. Annu
Rev Plant Biol. 2015 April 29; 66: 441–464.
9. Park Y. G. (2014) Morphogenesis and flowering
of photoperiodic floricultural plants in response to
quality, quality shifting, and positioning of night
interruption light. Ph. D. Thesis. Gyeongsang National.
10. Valio, I. F. M.; Rocha, R. F. (1997). Effect of
photoperiod and growth regulators on growth and
flowering of Stevia rebaudiana Bertoni. Jpn. J. Crop
Sci. 46, 243-248.
STUDY ON FLOWERING INHIBITION OF STEVIA (Stevia rebaudiana Bertoni) BY NIGHT BREAK (NB)
METHOD AND IT’S APPLICATION IN VEGETATIVE PROPAGATION
Vu Thi Hang, Nguyen Thi Thuy, Doan Thi Cam Van, Pham Anh Tra, Nguyen Quang Thach
Summary Stevia is a short-day plant, that flowers in short-day conditions, which prevents producing biomass as well as
shoots for stem cuttings. The study aimed to identify effects of different types of red LED light and the suitable
duration of night break time (NB) on inhibition of stevia flowering. The experiment was arranged with three
replicates on a indoor hydroponic system (indoor hydroponic). Night break treatment was conducted with
three different red lights (630 nm, 660nm, 730 nm). Experimental results showed that NB treatment with 630-,
660-, 730nm LEDs and duration of 3 hours (0 am-3 am) inhibited flowering of stevia, whereas the plant
produced 100% flowering at the night without night break (no NB). In adition, red light 660nm was optimal
efficiency, both inhibiting flowering and stimulating leaf growth, creating many cuttings for vegetative
propagation. The red compact light (CFL-20W NN R660) with high 660 nm red ratio can replace LED in night
break treatment for stevia planted in nursery garden as “mother” plant for cuttings production.
Keywords: Stevia, short day, night break, red light, 630 nm, 660 nm, 730 nm.
Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Khiêm
Ngày nhận bài: 25/7/2018
Ngày thông qua phản biện: 26/8/2019
Ngày duyệt đăng: 4/9/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 14
ẢNH HƯỞNG CỦA PHỔ CHIẾU SÁNG ĐẾN
SINH TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN VÀ ĐIỀU KHIỂN RA HOA
GIỐNG CÚC VÀNG ĐÔNG Nguyễn Thị Thanh Phương1*, Nguyễn Thị Lý Anh2,
Nguyễn Quang Thạch2, Nguyễn Văn Trinh3
TÓM TẮT Sử dụng đèn LED W+R7W chiếu sáng bổ sung cho giống cúc Vàng đông có tác dụng kìm hãm sự hình
thành nụ, kích thích sự sinh trưởng và cho chất lượng cành hoa tốt hơn đèn đối chứng và các đèn LED
khác. Khoảng cách treo đèn LED W+R7W để xử lí kìm hãm ra hoa ở cúc Vàng đông là 1,5m. Với khoảng
cách này cây cúc có sự sinh trưởng tốt, thời điểm ra hoa chậm hơn các công thức còn lại. Thời gian chiếu
sáng bổ sung bằng đèn LED W+R7W 4h, 6h, 8h đều có tác dụng kìm hãm sự hình thành nụ, kích thích sự
sinh trưởng và cho chất lượng cành hoa tốt. Trong đó thời gian chiếu 4h đã có tác động đến sinh trưởng,
phát triển cành hoa cúc tương đương với tác động của đèn đối chứng Compact CFL 20W chiếu trong 8h. Sử
dụng đèn LED W+R7W 4h, 6h, 8h chiếu sáng bổ sung điều khiển ra hoa cho cây hoa cúc cho khả năng tiết
kiệm điện 65 – 97,5% điện năng tiêu thụ so với sử dụng đèn đối chứng Compact CFL 20W chiếu trong 8h.
Từ khóa: Hoa cúc, chiếu sáng bổ sung, đèn LED.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Sự phát triển của công nghệ chiếu sáng LED đã
đem lại tác dụng to lớn trên nhiều lĩnh vực, trong đó
có công nghệ chiếu sáng chủ động cho cây trồng
đang là xu hướng phát triển và có khả năng ứng
dụng rất cao trong nông nghiệp.
Dựa vào đặc tính của cây trồng là chỉ hấp thụ
một dải phổ ánh sáng nhất định, người ta thiết kế
được các loại đèn LED có khả năng phát ra dải
sáng hẹp, thích hợp với khả năng hấp thụ của cây
trồng, giảm chi phí tiêu thụ năng lượng, tăng hiệu
suất canh tác tránh lãng phí, thích hợp cho việc
canh tác trong nhà kính và các sản phẩm nông
nghiệp chất lượng cao. Chiếu sáng cây trồng bằng
đèn LED còn có nhiều ưu điểm khác như: thân thiện
với môi trường, không chứa thủy ngân và các chất
độc khác; dễ điều khiển bằng kỹ thuật số với khả
năng thay đổi độ sáng 100%; chi phí bảo hành và thay
thế hệ thống thấp; dễ dàng thay đổi nhiệt độ màu khi
cần thiết. Do vậy mà công nghệ đèn LED sử dụng
trong thiết bị chiếu sáng nuôi trồng thực vật đang là
xu hướng của thời đại.
Ở nước ta, các nghiên cứu sử dụng đèn LED
trong nông nghiệp cũng đã được triển khai trên một
1 Ban Khoa học và Công nghệ, Học viện Nông nghiệp Việt
Nam 2Viện Sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt
Nam 3Công ty Cổ phần Bóng đèn Phích nước Rạng Đông
Email: [email protected]
số cây trồng như hoa cúc, khoai tây... Kết quả cho
thấy, khi sử dụng các bóng đèn LED cây phát triển
nhanh hơn, chiều cao và số lá của cây tăng nhanh so
với sử dụng các loại bóng đèn truyền thống.
Cây hoa cúc là cây ngày ngắn, dễ dàng ra hoa
khi trồng trong điều kiện ngày ngắn, đêm dài (như
vụ Đông tại miền Bắc Việt Nam). Cây giống vừa
trồng, chưa kịp sinh trưởng đủ chiều cao đã gặp điều
kiện thích hợp cho ra hoa, cành hoa không đủ tiêu
chuẩn thương mại. Để ngăn cản hiện tượng cúc ra
hoa trong vụ đông, người dân thường chiếu sáng bổ
sung nhằm kéo dài thời gian chiếu sáng, ức chế quá
trình ra hoa thông qua đó điều khiển được thời gian
ra hoa. Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về
tác động của ánh sáng tới sự sinh trưởng, phát triển
cây cúc như Yi liao và cs (2014), Anita Schroeter
Zakrzewska và cs (2017), Ada Nissim Levi và cs
(2019), … Chính vì vậy, công trình này được tiến
hành nhằm tìm được loại bóng đèn LED phù hợp cho
mục tiêu ức chế sự hình thành hoa sớm, nâng cao chất
lượng hoa, đồng thời giảm chi phí sản xuất.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Giống cúc Vàng đông.
- Các loại đèn LED (LED R5W, LED R5W lai,
LED W+R7W) và đèn compact CFL - 20W vàng do
Công ty Cổ phần Bóng đèn, phích nước Rạng Đông
sản xuất.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Xác định loại đèn LED phù hợp cho sinh
trưởng, phát triển của giống cúc Vàng đông.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 15
Nghiên cứu được tiến hành trong vụ đông xuân
với 4 công thức đèn: Đèn LED R5W (CT1), đèn LED
R5W lai (CT2), đèn LED W+R7W (CT3), đối chứng
đèn compact CFL - 20W vàng (CT4).
2.2.2. Xác định độ cao treo bóng phù hợp cho sinh trưởng, phát triển của giống cúc Vàng đông
Thí nghiệm sử dụng đèn LED W+R7W và tiến
hành với 3 công thức độ cao treo bóng: treo cách mặt
luống 1,5m, 1,8m và 2,0m.
2.2.3. Xác định thời gian chiếu sáng bổ sung với
đèn LED phù hợp cho sinh trưởng phát triển của cây
cúc thương phẩm ngoài đồng ruộng
Thí nghiệm sử dụng đèn LED W+R7W và tiến
hành với 4 công thức thời gian chiếu sáng: Đèn LED
W+R7W thắp sáng trong 4h, 6h, 8h và đèn đối chứng
compact CFL 20W thắp sáng trong 8h.
Ở tất cả các thí nghiệm, thời gian thắp đèn bắt
đầu từ 20h tối hôm trước; độ cao treo bóng tính đến
mặt luống: 1,8m; số ngày thắp đèn: 20 ngày.
Các thí nghiệm được tiến hành theo khối ngẫu
nhiên đầy đủ RCB. Diện tích ô thí nghiệm 250m2 với
tổng cộng 12 bóng đèn, 8m2/1 bóng. Mỗi công thức
nghiên cứu theo dõi 60 cây, chia làm 3 lần lặp lại mỗi
lần lặp lại 20 cây, theo dõi từ khi bắt đầu thắp đèn
đến khi ra hoa rộ. Các thí nghiệm tiến hành trong
vườn sản xuất hộ gia đình ở Tây Tựu.
Thời vụ trồng: Nội dung 1 được tiến hành trong
vụ đông xuân từ 12/2017 – 3/2018. Các thí nghiệm 2,
3 được bố trí trong vụ xuân từ tháng 1 – 4/2018.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu nông sinh học
thông dụng trong đánh giá sinh trưởng phát triển của
cây hoa cúc Vàng đông. Số liệu được xử lý trên máy
tính theo chương trình Microsoft Excel và chương
trình IRRISTAT 5.0. Các công thức so sánh được tiến
hành theo phương pháp kiểm tra sự sai khác giữa các
giá trị trung bình bằng phép ước lượng và sử dụng
tiêu chuẩn LSD (độ tin cậy 95%). Kiểm tra độ biến
động của thí nghiệm được biểu hiện qua chỉ số tiêu
chuẩn CV%. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Xác định loại đèn LED phù hợp cho sinh
trưởng, phát triển của giống cúc Vàng đông
Bảng 1. Ảnh hưởng của loại đèn LED chiếu sáng tới sinh trưởng phát triển của cúc Vàng đông
(Vụ đông xuân 12/2017 – 2/2018 tại Tây Tựu – Từ Liêm – Hà Nội)
Sau 35 ngày trồng Sau 43 ngày
trồng
Sau 95 ngày trồng
(xuất hiện nụ ≥
10%)
113 ngày trồng
(xuất hiện nụ >
80%)
Sau 135 ngày
trồng (bắt đầu
thu hoa) Công thức
Chiều
cao cây
(cm)
Số lá
(lá/
cây)
Chiều
cao cây
(cm)
Số lá
(lá/
cây)
Chiều
cao cây
(cm)
Số lá
(lá/cây)
Chiều
cao cây
(cm)
Số lá (lá/
cây)
Chiều
cao cây
(cm)
Số lá
(lá/
cây)
CT1: Đèn R
5W 18,70 13,13 23,70 15,00 57,82 30,13 75,49 44,93 81,03 48,95
CT2: Đèn
W+R 7W 20,43 13,67 24,68 15,45 56,99 29,79 73,55 45,07 80,83 48,35
CT3: Đèn Lai
R 5W 20,96 13,00 24,68 14,68 56,83 30,48 71,75 44,53 80,18 47,50
CT4: Đèn ĐC
compact CFL-
20W
16,31 14,40 21,27 14,48 56,39 30,18 71,99 45,88 78,19 49,22
CV (%) 5,67 6,3 3,5 6,2 7,3 6,2 3,7 5,4 4,2 3,3
LSD0.05 6,04 1,69 7,53 1,86 8,56 3,82 5,68 4,93 6,96 3,16
Kết quả ở bảng 1 cho thấy:
Sự tăng trưởng chiều cao cây ở các công thức
diễn ra mạnh nhất từ giai đoạn 43 ngày trồng đến 95
ngày trồng (đây là giai đoạn từ ngắt đèn đến bắt đầu
hình thành nụ), trong khoảng thời gian 50 ngày,
chiều cao cây tăng gấp hơn 2 lần. Động thái tăng
trưởng chiều cao cây của các công thức đèn LED qua
các giai đoạn nhìn chung là khá đồng đều và đều cao
hơn so với công thức đối chứng (đèn compact CFL-
20W). Trong đó, CT1 và CT2 cho chiều cao cây ở
giai đoạn thu hoa tương đương nhau (không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê) và đạt cao nhất (lần
lượt là 81,03cm và 80,83cm), tiếp đến là CT3
(80,18cm) và thấp nhất là công thức đèn đối chứng
(78,19cm).
Số lá của cây từ khi trồng đến khi kết thúc quá
trình hình thành nụ cũng có động thái tăng tương tự
với chiều cao cây. Mặc dù, dưới tác động của các loại
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 16
đèn khác nhau, ở giai đoạn thu hoa số lá ở các công
thức đèn LED thấp hơn một chút so với đèn đối
chứng. Công thức chiếu đèn đối chứng (CT4) cho số
lá/cây đạt cao nhất (49,22 lá), tiếp đến là CT1, CT2
(lần lượt là 48,95 lá và 48,35 lá), thấp nhất là CT3
(47,50 lá). Tuy nhiên, sự chênh lệch ít về số lá không
ảnh hưởng đến chất lượng cành hoa.
Như vậy, xét cả về chiều cao cây và số lá, kết quả
phân tích cho thấy CT1 (đèn LED R 5W) và CT2
(đèn LED W+R 7W) cho chất lượng cành hoa là tốt
nhất.
Tiếp tục theo dõi sự hình thành nụ và ra hoa
của cây cúc Vàng đông, kết quả được thể hiện trên
bảng 2.
Bảng 2. Ảnh hưởng của loại đèn LED chiếu sáng đến khả năng hình thành nụ và ra hoa của giống
cúc Vàng đông (Vụ đông xuân 2017 - 2018 tại Tây Tựu – Từ Liêm- Hà Nội)
Tỷ lệ hình thành nụ
(%)
Sau 125 ngày trồng
(sau 77 ngày ngắt đèn)
Sau 135 ngày trồng
(sau 87 ngày ngắt đèn)
Sự phát triển của nụ (%) Sự phát triển của nụ (%) Côngthức
Sau 44
ngày
ngắt
đèn
Sau 52
ngày
ngắt
đèn
Sau 65
ngày
ngắt
đèn
Tỷ lệ %
hình
thành
nụ Nụ
Nụ xé
màng
Nụ hé
nở
Nụ
nở
hoa
Tỷ lệ
hình
thành
nụ (%) Nụ
Nụ xé
màng
Nụ
hé
nở
Nụ
nở
hoa
CT1: Đèn R
5W 11,00 51,67 80,00 95,00 55,00 21,67 10,00 8,33 100 16,42 13,87 18,61 51,09
CT2: Đèn W+R
7W 11,67 53,33 85,00 95,00 45,00 28,33 11,67 10,00 100 19,36 14,77 16,37 49,50
CT3: Đèn Lai R
5W 13,33 55,00 86,67 96,67 41,67 23,33 11,67 20,00 100 20,12 5,41 19,22 55,26
CT4: Đèn ĐC
compact CFL-
20W
15,00 56,67 93,33 98,33 38,33 36,67 16,67 6,67 100 21,33 7,73 12,27 58,67
Kết quả cho thấy, sau khoảng 40 ngày ngắt đèn,
dừng chiếu sáng bổ sung, ở các công thức mới bắt
đầu có sự xuất hiện nụ. Sự hình thành nụ muộn sau
ngắt đèn này chịu tác động một phần của điều kiện
thời tiết (giai đoạn ngắt đèn gặp đúng thời điểm lạnh
và mưa trước và sau Tết Nguyên đán 2018) nên cây bị
trẻ hóa kéo dài thời gian hình thành nụ so với các vụ
cùng thời điểm trồng trước. Trong đó, công thức
chiếu đèn đối chứng Compact CFL- 20W cho hình
thành nụ sớm hơn so với các công thức chiếu đèn
LED. Sau ngắt đèn 44 ngày (95 ngày sau trồng), công
thức đèn đối chứng cho tỷ lệ cây ra nụ là cao nhất
(15%), tiếp đến là CT3 (đèn R 5W lai) 13,33%, đèn W+R
7W là 11,67% và thấp nhất là đèn R 5W (11%).
Sau ngắt đèn 52 ngày (105 ngày sau trồng), tỷ lệ
hình thành nụ ở các công thức đạt trên 50% (51,67 –
56,67%). Ở các thời điểm theo dõi, công thức chiếu
đèn đối chứng Conpact CFL 20W luôn cho tỷ lệ cây
hình thành nụ cao nhất, tiếp đến là đèn R 5W lai, đèn
W+R 7W và thấp nhất là đèn R 5W. Quá trình hình
thành nụ tiếp tục kéo dài và đạt 100% cây hình thành
nụ tại thời điểm sau 87 ngày ngắt đèn (135 ngày sau
trồng).
Đồng thời với quá trình hình thành nụ, sự sinh
trưởng, phân hóa dạng nụ cũng diễn ra. Sau 77 ngày
ngắt đèn, (sau trồng 125 ngày), tỷ lệ hình thành nụ
đạt trên 95% với các dạng nụ phân hóa là: nụ, nụ xé
màng, nụ hé nở và nở hoa. Số liệu trong bảng 2 cho
thấy: tại thời điểm này, CT1 cho tỷ lệ cây ra nụ cao
nhất (55%), tiếp đến là CT2 (45%), CT3 (41,67) và
thấp nhất là CT4 (38,33%). Nụ bắt đầu hé nở và nở
hoa. Tỷ lệ nụ hé nở + nở hoa đạt cao nhất ở CT3
(31,67%), CT4 (23,34%), CT2 (21,67%), thấp nhất là 1
(18,33%). Sau 87 ngày ngắt đèn (135 ngày sau trồng),
tỷ lệ cây dạng nụ và nụ xé màng còn rất thấp, hoa bắt
đầu nở rộ (từ 49,5 – 58,67%). Tổng tỷ lệ hoa hé nở +
nở hoa ở CT3 là cao nhất 74,48%, CT4 (70,94%), CT1
(69,7%) và thấp nhất là CT2 (65,87%).
Từ đó, cho thấy các công thức đèn LED R5W và
W+R 7W có tác động làm chậm quá trình ra nụ và
hình thành hoa tốt hơn đèn LED R5W lai và đèn đối
chứng Conpact CFL 20W.
Tiếp tục đánh giá chất lượng của hoa thu được
kết quả trình bày trên bảng 3.
Qua theo dõi cho thấy, các chỉ tiêu về đường
kính gốc, đường kính thân, đường kính cổ bông ở
các công thức đèn LED sự chênh lệch nhau là không
đáng kể và đều đạt tương đương đèn đối chứng. Dao
động ở các công thức về đường kính gốc là 5,63 –
5,79mm, đường kính thân là 6,67 – 6,88mm, đường
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 17
kính cổ bông là 3,82 – 4,40mm. Các công thức chiếu
đèn LED có tác dụng kéo dài cổ bông hơn so với đèn
đối chứng, CT2 đạt cao nhất (30,04mm), CT3
(29,53mm), CT1 (29,15mm) và thấp nhất là CT4 đối
chứng (24,44mm).
Bảng 3. Ảnh hưởng của loại đèn LED chiếu sáng đến chất lượng hoa và cành hoa của giống cúc Vàng đông
(Vụ đông xuân 2017 - 2018 tại Tây Tựu – Từ Liêm- Hà Nội)
Ở cùng một thời điểm theo dõi, đường kính hoa
khi thu ở CT2 đạt cao nhất (91,21mm), tiếp đến là
CT1 (90,49mm), CT4 (88,56mm), CT3 thấp nhất
(82,96mm). Đường kính hoa nở to nhất khi cắm ở
CT2 cũng đạt cao nhất (101,34mm), thấp nhất là CT3
(92,66mm). Điều đặc biệt là số cánh hoa trung bình ở
CT2 cũng cho kết quả là cao nhất (302 cánh/bông),
CT4 (277 cánh/bông), CT1 và CT3 tương đương
nhau (lần lượt là 268 và 268,17 cánh/bông). Độ bền
hoa cắt trung bình trên CT2 đạt cao nhất (11,33
ngày) và thấp nhất là đèn R5W lai (10,67 ngày).
Từ các kết quả trên có thể rút ra kết luận như
sau: Các loại đèn LED được dùng cho chiếu sáng bổ
sung cho cúc Vàng đông đều có tác dụng kích thích
sự sinh trưởng, phát triển của cây ở mức tốt hơn hoặc
tương đương với đèn Compact CFL- 20W. Sử dụng
đèn LED W+R 7W có tác dụng kìm hãm sự hình
thành phát triển nụ tốt nhất, đồng thời cho chất
lượng cành hoa, chất lượng hoa, độ bền hoa cắt là tốt
nhất.
3.2. Xác định độ cao treo bóng phù hợp cho sinh
trưởng, phát triển của giống cúc Vàng đông
Bảng 4. Ảnh hưởng của độ cao treo bóng đến khả năng sinh trưởng, hình thành nụ và nở hoa
giống cúc Vàng đông sau khi ngừng chiếu sáng bổ sung (Vụ xuân 2018 tại Tây Tựu – Từ Liêm- Hà Nội)
Từ bảng số liệu 4 cho thấy:
Xét về chỉ tiêu chiều cao, số lá và đường kính
thân, CT1 đạt giá trị cao nhất (lần lượt là 86,21 cm;
32,72 lá/cây; và 6,71mm). Công thức CT2 có các chỉ
tiêu: chiều cao cây, số lá/cây, đường kính gốc, đường
kính thân có xu hướng thấp hơn so với các công thức
khác, tuy nhiên, sự khác biệt trên hầu hết các chỉ
tiêu là không có ý nghĩa thống kê. Quan sát hình thái
Công thức
Đường
kính
gốc
(mm)
Đường
kính
thân
(mm)
Đường
kính cổ
bông
(mm)
Chiều
dài cổ
bông
(mm)
Đường
kính hoa
khi thu
(mm)
Đường
kính hoa
nở cực
đại
(mm)
Số cánh
hoa/
bông
Độ bền
hoa cắt
(ngày)
CT1: Đèn R 5W 5,73 6,85 3,82 29,15 90,49 97,19 268,00 10,83
CT2: Đèn W+R 7W 5,79 6,86 3,91 30,04 91,21 101,34 302,00 11,33
CT3: Đèn Lai R 5W 5,63 6,67 4,04 29,53 82,96 92,66 268,17 10,67
CT4: Đèn ĐC compact
CFL- 20W 5,64 6,88 4,40 24,44 88,56 99,14 277,00 11,17
CV (%) 5,00 4,3 6,59 5,80 1,64 5,55 3,90 4,23
LSD0.05 0,73 0,63 0,7 0,63 0,7 0,9 0,45 0,72
Sau ngắt đèn 56
ngày
CT
Chiều
cao
(cm)
Số lá
(lá/cây)
Đường
kính
gốc
(mm)
Đường
kính
thân
(mm)
Ngày
ra nụ
10%
(ngày)
Ngày
ra nụ
50%
(ngày)
Ngày
ra nụ
70%
(ngày)
Ngày
ra nụ
100%
(ngày)
Tỷ lệ nụ
xé màng
(%)
Tỷ lệ
nở hoa
(%)
CT1: Đèn W+R
7W, 1,5m 86,21 32,72 6,47 6,71 21 26 31 36 42,22 8,89
CT2: Đèn W+R
7W, 1,8m 73,18 30,52 6,28 6,49 19 25 29 35 33,33 13,33
CT3: Đèn W+R
7W, 2,0m 82,48 32,05 6,51 6,51 17 23 26 33 37,78 24,44
CV (%) 5,30 9,00 5,00 4,30
LSD0.05 9,73 6,44 0,73 0,63
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 18
cho thấy: cây ở CT1 khá mập, chắc và khỏe hơn CT2
và CT3.
Thời điểm ra nụ 10%, CT3 cho thời gian ra nụ
sớm nhất (sau 17 ngày ngắt đèn), CT2 là 19 ngày.
CT1 cây cho thời gian ra nụ chậm nhất (sau 21
ngày). Kết quả này cũng tương tự ở thời điểm ra nụ
100%, CT1 cho thời gian lâu nhất kể từ ngày ngừng
chiếu sáng bổ sung (36 ngày). CT3 cho thời gian ra
nụ 100% ngắn nhất (sau 33 ngày kể từ ngày ngắt
đèn).
Sau 56 ngày ngắt đèn, tỷ lệ nở hoa ở CT3 thấp
nhất (8,89%). Tỷ lệ này tăng dần khi tăng độ cao treo
bóng từ 1,5m đến 2m. Cụ thể, ở CT2 là 13,33% và CT3
là 24,44%.
Như vậy, đèn W+R 7W cách mặt luống 1,5m có
tác dụng tốt nhất trong việc kích thích sinh trưởng
cây, tăng chất lượng cành hoa thương phẩm và làm
chậm quá trình ra hoa giống cúc Vàng đông tại Hà
Nội.
3.3. Xác định thời gian chiếu sáng LED phù hợp
cho sinh trưởng phát triển của cây cúc thương phẩm
ngoài đồng ruộng
Bảng 5. Ảnh hưởng của thời gian chiếu sáng đến chiều cao và số lá của cây cúc Vàng đông ngoài điều kiện
tự nhiên (Vụ xuân 2018 tại Tây Tựu – Từ Liêm- Hà Nội)
Sau trồng 33
ngày
Sau trồng 61
ngày
Sau trồng 104
ngày
Sau trồng 123
ngày
Công thức Chiều
cao cây
(cm)
Số lá
(lá/
cây)
Chiều
cao cây
(cm)
Số lá
(lá/
cây)
Chiều
cao cây
(cm)
Số lá
(lá/
cây)
Chiều
cao cây
(cm)
Số lá
(lá/
cây)
CT1: Đèn W+R7W (4h) 13,51 11,18 31,39 19,75 62,11 33,10 74,32 39,84
CT2: Đèn W+R7W (6h) 12,50 11,60 36,84 22,01 62,53 31,80 80,46 40,81
CT3: Đèn W+R7W (8h) 13,30 11,40 34,78 22,19 61,93 30,50 78,26 39,52
CT4: Đèn ĐC compact
CFL- 20W (8h) 12,55 11,10 34,23 22,28 60,88 32,40 76,53 38,63
CV (%) 8,8 9,5 3,1 5,2 4,7 5,3 7,4 8,0
LSD0,05 2,24 2,24 2,18 2,24 5,66 3,41 2,25 2,17
Qua bảng số liệu 5 cho thấy sự tăng trưởng
chiều cao và số lá của các công thức thí nghiệm với
các thời gian chiếu sáng khác nhau là có sự biến
động nhẹ nhưng sự khác biệt là không có ý nghĩa
thống kê. Với công thức chiếu sáng bổ sung là 4h,
chiều cao cây ở các giai đoạn theo dõi sau 61 ngày
trở đi đều thấp nhất. Thời gian chiếu sáng bổ sung
6h, 8h cho cây sinh trưởng chiều cao đạt cao hơn đèn
đối chứng, trong đó, chiếu 6h cho chiều cao cây đạt
cao nhất. Vào thời điểm thu hoa, công thức 2 chiếu
6h cho chiều cao cây đạt cao nhất (80,46cm), tiếp
đến là CT3 chiếu 8h (78,26cm), CT4 đèn ĐC
compact CFL- 20W (8h) đạt 76,53cm và thấp nhất là
CT1 chiếu 4h (74,32cm). Như vậy, so với tiêu chuẩn
xuất khẩu cành cúc sang Nhật Bản mà Trung tâm
Ứng dụng Khoa học và Công nghệ Đà Lạt, Lâm
Đồng áp dụng năm 2010 (cành cúc loại A phải cao
75cm) thì chiều cao cây ở các công thức đều đạt.
Sự tăng số lá trong quá trình sinh trưởng của cây
ở các công thức có sự biến động phụ thuộc giai đoạn,
nhưng số lá trung bình cuối cùng cho thấy: công
thức 2 đạt cao nhất (40,81 lá/cây), CT1 (39,84 lá),
CT3 (39,52 lá) và thấp nhất là CT4 đối chứng 38,63
lá/cây.
Như vậy, sử dụng đèn LED W+R7W với thời gian
chiếu sáng bổ sung 6h cho giống cúc Vàng đông
sinh trưởng chiều cao số lá đạt cao nhất, nhưng khi
so sánh với đèn đối chứng và các tiêu chuẩn cành cúc
xuất khẩu đã công bố thì các công thức chiếu đèn
LED W+R7W với thời gian 4h hoặc 8h đều đạt yêu
cầu.
Tiếp tục theo dõi sự hình thành nụ và ra hoa của
cây cúc Vàng đông, kết quả theo dõi được trình bày
trên bảng 6.
Tại thời điểm 25 ngày sau khi ngắt đèn (70 ngày
sau trồng), tất cả các công thức đều bắt đầu có sự
hình thành nụ, tỷ lệ hình thành nụ thấp nhất là ở
công thức 3 (8h) với 1,91%, CT1 (4h) có tỷ lệ tạo nụ
cao nhất (9,47%) tương đương với CT4 đèn đối chứng
Compact CFL- 20W (8h) là 9,39%. Chiều hướng hình
thành nụ ở các công thức ở các giai đoạn 77 ngày, 90
ngày diễn ra theo đúng thứ tự giống với 70 ngày (tỷ
lệ hình thành nụ CT1 > CT4 > CT2 > CT3). Đến thời
điểm 96 ngày, sự hình thành nụ ở công thức 4 là cao
nhất nhất (98,33%), tiếp đến là CT1 (96,67%) và thấp
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 19
nhất vẫn là CT3 (81,67%). Quá trình hình thành nụ
kết thúc ở thời điểm sau ngắt đèn 58 ngày (sau trồng
103 ngày) khi 100% cây đều ra nụ.
Bảng 6. Ảnh hưởng của thời gian chiếu sáng đến khả năng hình thành nụ và ra hoa của giống cúc Vàng đông
(Vụ xuân 2018 tại Tây Tựu – Từ Liêm- Hà Nội)
Tỷ lệ hình thành nụ (%) Sự phát triển của nụ sau
111 ngày trồng (64 ngày
ngắt đèn)
Sự phát triển của nụ sau
120 ngày trồng (73 ngày
ngắt đèn) Côngthức
25
ngày
sau
ngắt
đèn
32
ngày
sau
ngắt
đèn
45
ngày
sau
ngắt
đèn
51
ngày
sau
ngắt
đèn
58
ngày
sau
ngắt
đèn
Nụ
(%)
Nụ xé
màng
(%)
Nụ
hé nở
(%)
Nụ nở
hoa
(%)
Nụ
(%)
Nụ xé
màng
(%)
Nụ hé
nở (%)
Nụ nở
hoa
(%)
CT1: Đèn W+R7W
(4h) 9,47 60,26 89,02 96,67 100 20,00 31,67 30,00 18,33 10,00 10,00 5,00 75,00
CT2: Đèn W+R7W
(6h) 3,20 44,43 82,91 93,33 100 33,33 21,67 20,00 25,00 13,33 10,00 20,00 56,67
CT3: Đèn
W+R7W(8h) 1,91 21,39 78,71 81,67 100 53,33 25,00 18,33 3,33 16,67 18,33 28,33 36,67
CT4: Đèn ĐC
compact CFL- 20W
(8h)
9,39 31,73 86,27 98,33 100 23,33 26,67 38,33 11,67 6,67 3,33 10,00 80,00
Sự phân hóa của nụ được đánh giá tại thời điểm
111 ngày sau trồng, khi các công thức đều cho tỷ lệ
nụ nở 100%, lúc này sự phân hóa của nụ với các dạng
như sau: nụ, nụ xé màng, hé nở và nở hoa đã biểu
hiện rõ. Công thức 3 W+R 7W (8h) cho thấy ức chế
sự hình thành hoa hơn các công thức khác, tỷ lệ nụ
nở hoa lúc này là 3,33% trong khi ở các công thức
khác tỷ lệ nở hoa là khá cao CT2 W+R7W (6h) là 25%
và CT1 W+R7W (4h) là 18,33%, CT4 là 11,67%. Sau
120 ngày trồng CT3 W+R7W (8h) thể hiện sự ức chế
ra hoa tốt nhất với 36,67%. Tỷ lệ nụ nở hoa cao nhất là
ở đèn ĐC Compact CFL 20W (8h) với tỷ lệ 80%, tiếp
theo là CT1 W+R 7W (4h) với tỷ lệ 75%, CT2 (6h) là
56,67%.
Từ các kết quả trên trên cho thấy, sử dụng đèn
LED W+R 7W với thời gian chiếu sáng bổ sung 6h,
hoặc 8h có tác động làm chậm quá trình ra nụ và
hình thành hoa tốt hơn đèn đối chứng.
Bảng 7. Ảnh hưởng của thời gian chiếu sáng đến chất lượng cành hoa và hoa của
giống cúc Vàng đông (Vụ xuân 2018 tại Tây Tựu – Từ Liêm - Hà Nội)
Công thức
Đường
kính
gốc
(mm)
Đường
kính thân
(mm)
Đường
kính cổ
bông
(mm)
Chiều dài
cổ bông
(mm)
Đường
kính hoa
khi thu
(mm)
Đường
kính hoa
nở cực
đại (mm)
Độ bền
hoa cắt
(ngày)
Số cánh
hoa
/bông
(cánh)
CT1: Đèn W+R7W (4h) 5,61 5,83 4,68 25,39 91,42 100,83 10,60 389,40
CT2: Đèn W+R7W (6h) 5,40 5,43 4,81 26,76 91,17 99,27 14,20 379,20
CT3: Đèn W+R7W(8h) 5,29 5,21 5,59 30,83 87,87 98,31 12,40 413,40
CT4: Đèn ĐC compact
CFL- 20W (8h) 5,54 5,63 4,65 37,14 81,79 89,44 8,00 482,20
CV (%) 5,00 4,30 4,30 8,4 6,6 5,3 4,3 5,30
LSD0.05 0,73 0,63 0,63 13,03 4,13 0,65 0,55 9,73
Kết quả bảng 7 cho thấy, hầu hết các chỉ tiêu
theo dõi như đường kính gốc, thân, cổ bông, đường
kính hoa, độ bền hoa cắt ở các công thức chiếu đèn
LED W+R 7W đều đạt cao hơn hoặc tương đương với
đèn đối chứng.
Với cùng một loại đèn LED W+R7W, đường kính
gốc và đường kính thân giảm dần khi tăng thời gian
chiếu sáng (lần lượt dao động từ 5,61 -> 5,29mm và
5,83 -> 5,21mm), nhưng đường kính cổ bông và chiều
dài cổ bông lại tăng dần (lần lượt là 4,68 – 5,59mm và
25,39 – 30,83mm). Tương tự, đường kính hoa khi thu
giảm dần ở các công thức như sau: CT1 4h
(91,42mm) > CT2 6h (91,17mm) > CT3 8h
(87,87mm) và đường kính hoa nở cực đại CT1 4h
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 20
(100,83mm) > CT2 6h (99,27mm) > CT3 8h
(98,31mm). Điều đó chứng tỏ thời gian chiếu sáng có
tác động rõ rệt đến kích thước cành hoa cũng như độ
nở của bông hoa.
Mặc dù số cánh hoa/bông ở các công thức chiếu
đèn LED là thấp hơn so với đèn đối chứng (compact)
từ 68,8 – 104 cánh/bông nhưng không ảnh hưởng
thẩm mỹ của bông hoa (do ở công thức đèn đối
chứng nhiều cánh nhưng cánh hoa phía trong rất
nhỏ và mỏng), độ bền hoa cắt khi cắm lọ lại cao hơn
từ 2,6 – 6,2 ngày.
Như vậy, chất lượng cành hoa ở các công thức
chiếu đèn LED W+R7W với thời gian chiếu 4h, 6h, 8h
là tốt hơn so với đèn đối chứng và trong phạm vi
nghiên cứu thì thời gian chiếu sáng bổ sung càng
ngắn cho cành hoa càng mập và đường kính hoa
càng to.
Từ các nghiên cứu trên, có thể rút ra kết luận
như sau: Sử dụng đèn LED W+R7W chiếu sáng bổ
sung cho giống cúc Vàng đông có tác dụng kìm hãm
sự hình thành nụ, kích thích sự sinh trưởng và cho
chất lượng cành hoa tốt hơn đèn đối chứng và các
đèn LED khác.
Thời gian chiếu sáng bổ sung bằng đèn LED
W+R7W 4h, 6h, 8h đều có tác dụng kìm hãm sự hình
thành nụ, kích thích sự sinh trưởng và cho chất
lượng cành hoa tốt. Trong đó thời gian chiếu 4h đã
có tác động đến sinh trưởng, phát triển cành hoa cúc
tương đương với tác động của đèn đối chứng
Compact CFL 20W chiếu trong 8h.
Có thể sử dụng đèn LED W+R7W chiếu sáng bổ
sung với thời lượng 4h, 6h, 8h để điều khiển ra hoa
cho cây hoa cúc, tiết kiệm 65 – 97,5% điện năng tiêu
thụ so với sử dụng đèn đối chứng Compact CFL 20W
chiếu trong 8h.
LED W+R7W 4h LED W+R7W 6h LED W+R7W 8h Compact CFL 20W 8h
Hình 1. Ảnh hưởng của thời gian chiếu sáng đến sự hình thành hoa
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Sử dụng đèn LED W+R7W chiếu sáng bổ sung
cho giống cúc Vàng đông có tác dụng kìm hãm sự
hình thành nụ, kích thích sự sinh trưởng và cho chất
lượng cành hoa tốt hơn đèn đối chứng và các đèn
LED khác.
Khoảng cách treo đèn LED W+R7W để kìm
hãm ra hoa ở cúc Vàng đông là 1,5m. Với khoảng
cách này cây cúc có sự sinh trưởng tốt, thời điểm ra
hoa chậm hơn các công thức còn lại.
Thời gian chiếu sáng bổ sung bằng đèn LED
W+R7W 4h, 6h, 8h đều có tác dụng kìm hãm sự
hình thành nụ, kích thích sự sinh trưởng và cho chất
lượng cành hoa tốt và theo tính toán lý thuyết cho
khả năng tiết kiệm 65 – 97,5% điện năng tiêu thụ so
với sử dụng đèn đối chứng Compact CFL 20W chiếu
trong 8h.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ada Nissim-Levi, Maayan Kitron, Yair Nishri,
Rinat Ovadia, Izhak Forer, Michal Oren-Shamir
(2019). Effects of blue and red LED lights on growth and flowering of Chrysanthemum morifolium.
Scientia Horticulturae, Volume 254, 25 August 2019,
Pages 77-83.
2. Anita Schroeter-Zakrzewska, Tomasz Kleiber,
Piotr Zakrzewski (2017). The response of
Chrysantheum (Chrysantheum x Grandiflorum
Ramat. Kitam) CV.Covington to a different range of
Fluorescent and Led light. Journal ò Elementology,
22(3):1015-1026.
3. Yi liao, Kenta suzuki, Wenjin Yu, Defeng
Zhuang, Yasuhiro Takai, Rie Ogasawara, Teruaki
Shmazu and Hirokazu Fukui (2014). Night Break
Effect of LED Light with Different Wavelengths on
Floral Bud Differentiation of Chrysanthemum
morifolium Ramat ‘Jimba’ and ‘Iwa no hakusen’.
Environ. Control Biol., 52 (1), 45-50, 2014.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 21
EFFECTS OF LIGHT SPECTRUM ON GROWTH, DEVELOPMENT AND FLOWERING CONTROL OF
CHRYSANTHENMUM
Nguyen Thi Thanh Phuong, Nguyen Thi Ly Anh
Nguyen Quang Thach, Nguyen Van Trinh
Summary Using W + R7W LED light can efficiently inhibite bud formation, improve the growth and quality of flower
of Vang dong chrysanthemum variety when compare with other light sources such as LED R5W, LED R5W
hybrid and compact CFL - 20W. The W + R7W LED light should be hanged 1.5m above the plants in order
to suppress flowering in Vang Dong daisy. With this high, the daisy plants showed good growth, the
flowering time was later when compared to other light regimes. Additional lighting with LED W + R7W
light for 4h, 6h, 8h were all effective in inhibiting bud formation, stimulating growth and giving good flower
quality, saving 65 – 97.5% of power consumption compared to Compact CFL 20W lighting additionally for 8
hours.
Keywords: Chrysanthemum, additional light, LED light.
Người phản biện: GS.TS. Nguyễn Xuân Linh
Ngày nhận bài: 5/8/2019
Ngày thông qua phản biện: 5/9/2019
Ngày duyệt đăng: 12/9/2018
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 22
ẢNH HƯỞNG CỦA ÁNH SÁNG ĐÈN LED ĐẾN
SINH TRƯỞNG, NĂNG SUẤT CỦA RAU XÀ LÁCH
(LACTUCA SATIVA) VÀ RAU CẢI BẸ (BRASSICA
JUNCEA) TRỒNG THỦY CANH Nguyễn Thị Thủy1, Vũ Thị Hằng1, Doãn Văn Huy1,
Bùi Mạnh Thường1, Nguyễn Quang Thạch1
TÓM TẮT Thí nghiệm được tiến hành trên hai đối tượng rau xà lách (Lactuca sativa) và rau cải bẹ (Brassica juncea)
dưới tác động của ba loại ánh sáng đèn LED do Công ty Cổ phần Bóng đèn, phích nước Rạng Đông sản
xuất. Nghiên cứu được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCB) với 3 lần nhắc lại trên hệ thống
thủy canh hồi lưu trồng trong nhà có nhiệt độ (25-260C) và độ ẩm (70%) ổn định. Nghiên cứu đã đánh giá
được trong 3 loại ánh sáng thử nghiệm: LED trắng (W) (mật độ thông lượng photon - PFD tỷ lệ
Blue/Green/Red=45,47/70,61/34,76; LED vàng (Y) có tỷ lệ (theo PFD) Blue/Green/Red
=22,44/68,86/66,81; LED tím (P) có tỷ lệ (theo PFD) Blue/Green/Red=38,65/4,52/192,7. Ánh sáng tím có
ảnh hưởng tốt nhất đến sinh trưởng, phát triển cây rau xà lách, rau cải bẹ trồng thủy canh trong nhà. Ánh
sáng tím với cường độ 190 µmol/m2/s có tác động tốt đến sinh trưởng, năng suất cây rau xà lách (tăng 33%
so với ánh sáng trắng) và rau cải bẹ (tăng 35% so với ánh sáng trắng) trồng thủy canh.
Từ khóa: Đèn LED tím thủy canh, xà lách, rau cải, cường độ chiếu sáng.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Nghiên cứu phát triển hệ thống trồng cây trong
nhà bằng công nghệ thủy canh kết hợp với công
nghệ đèn LED đang được quan tâm ở Việt Nam và
nhiều quốc gia. Công nghệ chiếu sáng LED được
xem như là một nguồn ánh sáng mới cho kỹ thuật
trồng cây trong nhà (Shimizu et al., 2011) với nhiều
ưu điểm như kích thước nhỏ, tuổi thọ dài, tiêu thụ ít
điện năng và có nhiều bước sóng khác nhau thích
hợp cho cây trồng (Gupta và Jatothu, 2013).
Tại Việt Nam, đã có một số cơ quan nghiên cứu
như Đại học Cần Thơ, Viện Sinh học Nông nghiệp –
Học viện Nông nghiệp Việt Nam bắt đầu nghiên cứu
ảnh hưởng của các phổ ánh sáng và cường độ đèn
LED khác nhau đến sự sinh trưởng, phát triển, năng
suất của một số loại rau. Phan Ngọc Nhí và cs, 2016
đã nghiên cứu ảnh hưởng của các tổ hợp đèn LED
khác nhau và thời gian chiếu sáng đến sinh trưởng
phát triển của rau xà lách thủy canh và kết luận rằng
ánh sáng tím (70% đỏ/20% xanh dương) với cường độ
80 µmol/m2/s thời gian chiếu sáng 20/4 cho năng
suất cao hơn so với các công thức khác (0,9 kg/m2).
Trên cây tía tô xanh Hàn Quốc ánh sáng Red/Blue
(R660/B450 với tỷ lệ 80/20) cường độ
214µmol/m2/s, thời gian chiếu sáng 14/10 là thích
hợp nhất (Nguyễn Quang Thạch và cs, 2018). Trên
1 Viện Sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
rau cải bó xôi, Nguyen Thi Phuong Dung và cs, 2019
đã nghiên cứu ảnh hưởng của đèn LED Red/Blue
đến các chỉ tiêu sinh lý và hình thái. Để thiết lập
được các hệ thống trồng rau thủy canh trong nhà cần
tiếp tục nghiên cứu, chọn lựa ra các hệ thống đèn
LED thích hợp cho năng suất, chất lượng rau cao
cũng như mức đầu tư thấp là điều rất cần thiết.
Bài báo này trình bày kết quả, nghiên cứu “Ảnh hưởng của ánh sáng đèn LED đến sinh trưởng, năng
suất của rau xà lách (Lactuca sativa) và rau cải bẹ
(Brassica juncea) trồng thủy canh”. 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
- Giống Xà lách Green Oakleaf – chịu nhiệt do
Công ty MVS của Mỹ cung cấp, thời gian sinh
trưởng: 45-60 ngày sau trồng. Rau cải bẹ do Công ty
TNHH Thương mại và sản xuất Phú Điền cung cấp,
thời gian sinh trưởng: 31-34 ngày sau trồng.
- Dung dịch dinh dưỡng SH1 do Viện Sinh học
nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
nghiên cứu và cải biến (trên cơ sở của dung dịch
dinh dưỡng Hoagland và Arnon (1950).
- Hệ thống đèn LED gồm: đèn LED trắng (W);
LED vàng (Y); LED tím (P) do Công ty Cổ phần
Bóng đèn và Phích nước Rạng Đông cung cấp (sau
đây gọi là Công ty Rạng Đông).
- Nghiên cứu được thực hiện trên hệ thống thủy
canh hồi lưu.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 23
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Nghiên cứu gồm 2 thí nghiệm. Mỗi thí nghiệm
được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCB)
với 3 lần nhắc lại, mỗi lần nhắc lại 15 cây trên hệ
thống giàn thủy canh hồi lưu trên 2 đối tượng rau xà
lách và rau cải bẹ. Chu kì chiếu sáng (14/10)
(sáng/tối).
Thí nghiệm 1: Nghiên cứu xác định loại ánh sáng đèn LED thích hợp cho rau xà lách, rau cải bẹ
trồng thủy canh hồi lưu.
Các công thức thí nghiệm: 1) CT1: LED trắng
(W) (mật độ thông lượng photon - PFD tỷ lệ
Blue/Green/Red=45,47/70,61/34,76; 2) CT2: LED
vàng (Y) có tỷ lệ (theo PFD) Blue/Green/Red
=22,44/68,86/66,81; 3) CT3: LED tím (P) có tỷ lệ
(theo PFD) Blue/Green/Red=38,65/4,52/192,7. Các
công thức được chiếu sáng với cùng cường độ 190
µmol/m2/s.
Thí nghiệm 2: Nghiên cứu xác định cường độ
ánh sáng LED tím có tỷ lệ PFD
Blue/Green/Red=38,65/4,52/192,7 thích hợp cho
rau xà lách, cải bẹ trồng thủy canh hồi lưu. 1) CT1: 90 µmol/m2/s; 2) CT 2: 140 µmol/m2/s;
3) CT3: 190 µmol/m2/s; 4) CT4: 240 µmol/m2/s.
Thay đổi cường độ ánh sáng bằng cách điều
chỉnh khoảng cách đèn tới bề mặt luống trồng theo
thiết bị điều khiển của dàn trồng cây.
2.2.2. Các chỉ tiêu theo dõi
- Đánh giá phổ đèn, mật độ thông lượng photon
PFD bằng máy đo quang phổ UPRtek
- Chỉ tiêu sinh trưởng:
+ Chiều cao cây (cm); số lá/cây (lá/cây); đo độ
dày lá theo phương pháp trắc vi vật kính và sử dụng
phần mềm imageJ để tính kích thước; sắc tố quang
hợp theo phương pháp chiết tách bằng dung môi và
do OD ở các bước sóng 470nm, 663nm, 645nm; chỉ
số SPAD: dùng máy đo chỉ số SPAD-502 Plus
(Chlorophyll meter, Minolta-Japan); chỉ số diện tích
lá (Leaf Area Index – LAI) (m2 lá/m2 diện tích trồng):
bằng máy đo diện tích lá CI- 202 (ID Bio-Science,
Inc.); khối lượng tươi (g lá/cây); năng suất lý thuyết
(NSLT) (kg/m2); năng suất thực thu (NSTT)
(kg/m2).
- Chỉ tiêu đánh giá độ an toàn:
+ Hàm lượng NO3- được xác định bằng phương
pháp so màu theo TCVN 8742:2011, tại Phòng Thí
nghiệm trọng điểm về An toàn thực phẩm và Môi
trường (Vilas 809) thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam.
+ Hàm lượng một số kim loại nặng được xác
định bằng phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên
tử gồm: As: xác định theo TCVN 7770: 2007; Hg: xác
định theo TCVN 7604: 2007; Cd và Pb: xác định theo
TCVN 7929: 2008. Các chỉ tiêu này được phân tích tại
Bộ môn Kiểm nghiệm Chất lượng rau quả - Viện
Nghiên cứu Rau quả.
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu được phân tích thống kê bằng phần mềm
Excel và phần mềm SAS 9.1.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại Viện Sinh học
Nông nghiệp - Học viện Nông nghiệp Việt Nam từ
tháng 7/2018 đến tháng 5/2019.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả đánh giá phổ đèn bằng máy đo
quang phổ UPRtek
Để chuẩn xác hóa phổ phát xạ của bóng đưa vào
nghiên cứu, các bóng đèn trong nghiên cứu được đo
lại phổ phát xạ bằng máy chuyên dùng UPRtek của
Công ty PTP (Pacific Technology Products)
Singapor. Hướng sensor của máy vào đèn đang sáng,
cách 30cm, bóng đèn được đo trong buồng tối, để
ánh sáng phát ra là đúng phổ phát xạ của đèn, không
lẫn tạp với ánh sáng xung quanh. Kết nối với máy vi
tính và hiển thị phổ phát xạ của đèn trên màn hình.
Hình 1. Quang phổ ánh sáng của các loại đèn nghiên cứu
Kết quả đo đã khẳng định chính xác phổ phát xạ
của đèn LED sử dụng trong thí nghiệm của nhà sản
xuất (Công ty Rạng Đông) ghi được theo hình 1. Kết
quả đo cũng cho tỷ lệ mật độ quang thông (mật độ
dòng photon PFD) của từng tia sáng đơn sắc có
trong ánh sáng đèn phát ra. Ánh sáng trắng (W) có
Ánh sáng tím (Red/Blue)
Ánh sáng vàng Ánh sáng trắng
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 24
tỷ lệ và cường độ của các ánh sáng đơn sắc (theo
PFD) đo được là
Blue/Green/Red=45,47/70,61/34,76; ánh sáng vàng
(Y) có tỷ lệ (theo PFD) Blue/Green/Red
=22,44/68,86/66,81; ánh sáng tím (P) có tỷ lệ (theo
PFD) Blue/Green/Red=38,65/4,52/192,7. Như vậy,
ánh sáng vàng có tỷ lệ Red cao hơn so với ánh sáng
trắng nhưng thấp hơn ánh sáng tím. Theo như
khuyến cáo của nhà sản xuất đèn (Công ty Rạng
Đông) ánh sáng tím chỉ gồm hai tia đơn sắc Red và
Blue, tuy nhiên theo kết quả đo được nhờ thiết bị
UPRtek thì vẫn có một tỷ lệ nhỏ của ánh sáng Green
PFD = 4,52.
3.2. Ảnh hưởng của loại ánh sáng đèn LED đến
sinh trưởng, phát triển, năng suất rau xà lách, cải bẹ
trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu trong nhà
Bảng 1. Ảnh hưởng của các loại ánh sáng đèn LED đến sinh trưởng, năng suất rau xà lách trồng trên
hệ thống thủy canh hồi lưu trong nhà (28 NST)
Chỉ tiêu
Công thức
CCC
(cm)
Số lá
(lá/cây)
SPAD
Slá
(dm2/cây)
Độ dày
lá
(µm)
KLTC
(g/cây)
NSLT
(kg/m2)
NSTT
(kg/m2)
Tỷ lệ %
NSTT
CT1. LED trắng
Blue/Green/Red =
45,47/70,61/34,76
30,04c 20,97c 19,03c 3,92c 350,73c 28,70c 1,30 1,21c 100,00
CT2. LED vàng
Blue/Green/Red =
22,44/68,86/66,81
32,42b 22,00b 20,74b 4,34b 358,04b 33,41b 1,45 1,40b 115,70
CT3. LED tím
Blue/Green/Red
= 38,65/4,52/192,7
35,15a 24,67a 22,35a 4,57a 365,60a 44,45a 1,92 1,87a 133,57
LSD0,05 0,88 0,13 0,61 0,19 1,77 0,58 0,03
CV% 0,72 0,15 0,79 1,91 0,13 0,44 0,46
Ghi chú: Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý nghĩa P <5%.
NST: Ngày sau trồng; CCC: Chiều cao cây; SL: Số lá; Slá: Diện tích lá; KLTC: Khối lượng tươi của toàn cây;
NSLT: Năng suất lý thuyết; NSTT: Năng suất thực thu. Tương tự cho các bảng còn lại. Kết quả bảng 1 cho thấy các chỉ tiêu sinh trưởng
của rau xà lách giữa 3 công thức có sự khác nhau rõ
rệt và có ý nghĩa ở mức sai khác 5%. Ở tất cả các chỉ
tiêu về chiều cao cây, số lá, diện tích lá, chỉ số SPAD,
độ dày lá, năng suất thực thu ở công thức đèn tím
đều cho kết quả cao hơn các công thức còn lại. Chiều
cao cây đạt 35,15cm gấp 1,17 lần so với CT1 ánh sáng
trắng và gấp 1,08 lần so với CT2 ánh sáng vàng. Số lá
đạt 24,67 lá/cây, gấp 1,18 lần so với CT1 (20,97
lá/cây) và gấp 1,12 lần so với CT2 (22 lá/cây) ánh
sáng vàng.
Rau xà lách trồng ở ánh sáng tím có các chỉ tiêu
tăng trưởng cao nhất. Diện tích lá của cây trồng ở
ánh sáng này là 4,57 dm2/cây, cao hơn CT1 (3,92 dm2
cây) 1,17 lần và cao hơn CT2 (4,34 dm2/cây) 1,05 lần.
Độ dày lá ở CT3 ánh sáng tím là lớn nhất (365,6
µm), dày hơn lá ở CT1 ánh sáng trắng (350,37 µm)
khoảng 14,87µm, và dày hơn lá của CT2 ánh sáng
vàng (358,04 µm) khoảng 7,56 µm. Như vậy, có thể
thấy rau xà lách trồng dưới ánh sáng tím có các chỉ
tiêu về quang hợp là lớn nhất so với 2 ánh sáng còn
lại. Năng suất thực thu đạt 1,87 kg/m2 cao gấp 1,34
lần ánh sáng vàng và 1,54 lần ánh sáng trắng.
Các kết quả thu được cũng phù hợp với các
nghiên cứu trước về ảnh hưởng vượt trội của ánh
sáng tím đối với sự sinh trưởng, phát triển của cây
rau xà lách. Kết quả này hoàn toàn đúng về sinh lý
học vì sắc tố quang hợp chính (diệp lục) hấp thụ ánh
sáng chủ yếu ở vùng ánh sáng Blue và Red. Đã phát
hiện thấy độ tăng năng suất của rau có liên quan khá
rõ với tỷ lệ bước sóng đỏ có trong ánh sáng đèn. Tỷ
lệ ánh sáng đỏ cao nhất ở LED tím rồi đến LED vàng.
Kết quả ở bảng 2 cho thấy, trong cùng một
cường độ chiếu sáng 190 µmol/m2/s thì đèn LED
ánh sáng vàng và đèn LED ánh sáng trắng hoàn toàn
sai khác nhau không có ý nghĩa thống kê ở mức ý
nghĩa 5% trên tất cả các chỉ tiêu theo dõi. Cây trồng
được chiếu sáng bằng đèn LED ánh sáng tím (RB)
sinh trưởng nhanh hơn và cho năng suất cao hơn cây
trồng được chiếu sáng bằng đèn LED ánh sáng vàng
và đèn LED ánh sáng trắng. Cụ thể, cây rau cải bẹ
được chiếu sáng bằng đèn LED tím đạt chiều cao cây
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 25
cuối cùng cao nhất (32,84 cm/cây), cao hơn chiều
cao cây ở công thức đèn LED ánh sáng vàng 2,84cm
và ánh sáng trắng 3,34cm; số lá trung bình cuối cùng
ở thời điểm thu hoạch của cây trồng ở công thức đèn
LED ánh sáng tím đạt 12,78 lá/cây, cao hơn số lá của
cây trồng ở công thức đèn LED ánh sáng vàng (12,27
lá/cây) và đèn LED ánh sáng trắng (12,2 lá/cây).
Các chỉ tiêu về diện tích lá và độ dày lá của ánh sáng
đèn tím trên cây cải bẹ cũng cho kết quả tương tự
trên cây rau xà lách. Diện tích lá đạt 19,53dm2/cây
gấp 1,25 lần so với hai ánh sáng đèn còn lại.
Bảng 2. Ảnh hưởng của các loại ánh sáng đèn LED đến sinh trưởng, năng suất rau cải bẹ trồng trên hệ thống
thủy canh hồi lưu trong nhà
Chỉ tiêu
Công thức
CCC
(cm)
Số lá
(lá/cây) SPAD
Slá
(dm2/cây)
Độ dày
lá
(µm)
KLTC
g/cây
NSLT
(kg/
m2)
NSTT
(kg/
m2)
Tỷ lệ %
NSTT
CT1. LED trắng
Blue/Green/Red=
45,47/70,61/34,76
29,50b 12,20b 32,02b 15,71b 385,83c 58,97b 2,48 2,37b 100,00
CT2. LED vàng
Blue/Green/Red
=22,44/68,86/66,81)
30,10b 12,27b 31,55b 15,62b 388,14b 57,53b 2,42 2,29b 96,62
CT3. LED tím
Blue/Green/Red
=38,65/4,52/192,7
32,84a 12,78a 37,12a 19,53a 395,50a 78,08a 3,28 3,21a 135,44
LSD0.05 1,16 0,42 1,57 1,76 1,77 2,41 - 0,12
CV% 1,90 1,70 2,30 5,20 0,13 1,90 - 2,30
Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý nghĩa P < 5%. NST: Ngày sau trồng; CCC: Chiều cao cây; SL: Số lá; Slá: Diện tích lá; KLTC: Khối lượng tươi của toàn cây; NSLT: Năng
suất lý thuyết; NSTT: Năng suất thực thu. Tương tự cho các bảng còn lại.
Chỉ số SPAD và cường độ quang hợp của cây
trồng ở công thức đèn LED ánh sáng tím cao hơn và
sai khác có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5% với
cây trồng ở công thức đèn LED ánh sáng vàng, đèn
LED ánh sáng trắng.
Khối lượng tươi (g/cây) của cây rau cải bẹ ở
công thức đèn LED ánh sáng tím cao gấp khoảng 1,3
lần ở công thức đèn LED ánh sáng vàng và ánh sáng
trắng còn năng suất thực thu cao gấp khoảng 1,4 lần.
Theo kết quả nghiên cứu của Kent Kobayashi
(2013) thì chiếu sáng bằng đèn huỳnh quang (đa
phổ) cây sinh trưởng tốt hơn so với khi chỉ được
chiếu ánh sáng đơn sắc Blue hoặc Red. Khối lượng
khô của rễ và khối lượng khô của cây khi chiếu sáng
bằng đèn huỳnh quang cao hơn hai loại ánh sáng
đơn sắc Red hoặc Blue. Ánh sáng Red có tác dụng tốt
đến sự phát triển thân lá, ánh sáng Blue có tác động
tốt đến sự phát triển vùng rễ. Theo nghiên cứu này
sự kết hợp của 23% Blue và 77% Red cho tác động tốt
nhất đến sự tăng trưởng tối ưu của rau xà lách. Trong
một nghiên cứu khác khi xem xét ảnh hưởng của ba
loại ánh sáng Red-Blue, Reb-Blue-White, đèn huỳnh
quang đến sự sinh trưởng, phát triển của cây xà lách
đã kết luận cây trồng dưới ánh sáng Red-Blue-White
và huỳnh quang cho sinh trưởng tốt hơn khi trồng
dưới ánh sáng Red-Blue cả về khối lượng tươi và sự
tích lũy chất khô. Hàm lượng đường và nitrat hòa tan
trong thực vật được trồng bằng đèn Red-Blue-White
cao hơn hẳn so với trồng bằng đèn RB (Kuan-Hung
Lin và cs.,2013). Theo kết quả xác định phổ đèn bằng
thiết bị đo máy chuyên dùng UPRtek, đã làm rõ ánh
sáng trắng khác ánh sáng Red/Blue ở chỗ có thêm
thành phần ánh sáng Green vì thế để giải thích riêng
về kết quả nghiên cứu trên của tác giả Kuan-Hung
Lin và cs., (2013) nên bố trí thí nghiệm với ánh sáng
Green thay cho ánh sáng trắng.
3.3. Kết quả xác định cường độ chiếu sáng đèn
LED ánh sáng tím thích hợp cho cây rau xà lách, cải
bẹ trồng thủy canh trong nhà
Kết quả ở bảng 3 cho ta thấy chiều cao và số lá ở
cường độ 190 µmol/m2/s là lớn nhất. Cụ thể là chiều
cao sau 28 ngày trồng đạt 35,15 cm, cao gấp 1,2 lần so với
cường độ 90 µmol/m2/s (29,22 cm), cao gấp 1,15 lần so
với cường độ 140 µmol/m2/s (30,44 cm) và cao gấp 1,04
lần so với cường độ 240 µmol/m2/s (33,78 cm). Số lá
cuối cùng ở cường độ 190 µmol/m2/s đạt 24,67 lá/cây
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 26
cao gấp 1,43 lần so với cường độ 90 µmol/m2/s (17,27
lá/cây). Chỉ số SPAD ở cường độ 190 µmol/m2/sđạt
giá trị lớn nhất (22,35) và có sự sai khác có ý nghĩa so
với các công thức còn lại với độ tin cậy 95%. Chỉ số
diện tích lá ở cường độ 190 µmol/m2/s cao gấp 1,46
lần so với cường độ ở cường độ 90 µmol/m2/s, gấp
1,32 lần so với cường độ ở cường độ 140µmol/m2/s và
cao gấp 1,09 lần so với ở cường độ 240 µmol/m2/s.
Bảng 3. Kết quả của cường độ chiếu sáng của ánh sáng tím ảnh hưởng đến quang hợp của rau xà lách sau 28
ngày trồng
Chỉ tiêu
Công thức
Chiều
cao
(cm)
Số lá
(lá/cây) SPAD
S lá
(dm2/cây)
Độ dày
lá (µm)
KLC
(g/cây)
NSLT
(kg/m2)
NSTT
(kg/m2)
90 µmol/m2/s 29,22d 17,27d 17,96d 3,13d 323,27d 23,21d 1,01 0,96d
140 µmol/ m2/s 30,44c 21,33c 19,00c 3,47c 337,22c 35,03c 1,51 1,48c
190 µmol/ m2/s 35,15a 24,67a 22,35a 4,57a 365,60a 44,45a 1,92 1,87a
240 µmol/ m2/s 33,78b 22,27b 20,45b 4,21b 359,31b 40,37b 1,73 1,69b
LSD0,05 0,84 0,81 0,83 0,27 1,06 0,80 0,05
CV% 0,87 1,24 1,38 2,33 0,10 0,74 1,13
Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức sai khác nhỏ nhất có ý
nghĩa 5%.
Chỉ tiêu độ dày lá và khối lượng trung bình cây cũng
giảm dần theo thứ tự cường độ 190 µmol/m2/s > ở
cường độ 240 µmol/m2/s > ở cường độ 140
µmol/m2/s > ở cường độ 90 µmol/m2/s
Do đó ta thấy với cường độ 190µmol/m2/s thì cho
năng suất cao nhất so với các công thức khác 1,87
kg/m2, gấp 1,95 lần CT1 (0,96 kg/m2), gấp 1,26 lần CT2
(1,48kg/m2) và gấp 1,11 lần CT4 (1,11kg/m2 ).
Từ các bảng trên thấy rằng CT3 (190 µmol/m2/s)
là công thức có cường độ ánh sáng tốt nhất đối với
sinh trưởng và năng suất cho rau xà lách trồng thủy
canh trong nhà bằng ánh sáng đèn LED tím.
Theo Jeong Hwa Kang và cs (2013) khi nghiên
cứu đèn LED (Red:Blue:WWhite = 8:1:1) ở các cường
độ 200, 230, 260, or 290 µmol/m2/s kết hợp với ba
chu kì chiếu sáng 18/6 (1 chu kỳ), 9/3 (2 chu kỳ),
6/2(3 chu kỳ) (sáng/tối) đã cho kết quả rất khác
nhau về sinh trưởng và chất lượng cây rau xà lách
trồng thủy canh trong hệ thống Plant factory. Những
kết quả cho thấy cường độ ánh sáng cao và chu kì
chiếu sáng dài chẳng hạn như 18/6 có tác động đáng
kể hơn đến sự tăng trưởng của rau xà lách, cây đạt
trọng lượng tươi và khô cao nhất. Sự tăng trưởng của
cây tốt nhất khi được chiếu sáng cường độ 290
µmol/m2/s và chu kì sáng 6/2 (sáng/tối). Khi kết
hợp cường độ ánh sáng thấp hơn của 230 µmol/m2/s
và chu kì sáng dài của 18/6 và 9/3 (tối sáng) cũng
cho sinh trưởng thấp hơn khi kết hợp với cường độ
ánh sáng cao. Kết quả cho thấy khi tăng cường độ
ánh sáng kết hợp chu kì sáng ngắn đã làm tăng sự
tăng trưởng và phát triển của rau xà lách được trồng
trong Plant factory.
0.224 0.232 0.237 0.2330.317
0.377 0.424 0.401
0.5410.609
0.661 0.634
0.129 0.139 0.172 0.147
0
0.2
0.4
0.6
0.8
CT1 CT2 CT3 CT4
Chla Chlb Chlab Carote noid
Hình 2. Hàm lượng các sắc tố trong lá của rau xà lách trồng thủy canh trong nhà được chiếu sáng bằng đèn
LED ánh sáng tím
Hàm lượng các sắc tố trong dịch chiết lá xà lách
trồng thủy canh trong nhà chiếu sáng bằng đèn LED
ánh sáng tím với 4 mức cường độ khác nhau đã cho
kết quả theo hình 2. Hàm lượng sắc tố của cây trồng
ở CT1< CT2 < CT4 < CT3. Hàm lượng sắc tố
Carotenoid ở các công thức thấp nhất so với các hàm
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 27
lượng các sắc tố khác đạt từ 0,13-0,17 mg/g. Hàm
lượng Chla ở cả 4 CT đạt từ 0,22-0,24 mg/g. Sự
chênh lệch hàm lượng của sắc tố Chlb ở CT1 và 3 CT
còn lại tương đối lớn, CT1 có hàm lượng Chlb 0,32
mg/g thấp hơn CT2 0,06 mg/g, thấp hơn CT4 0,08
mg/g, thấp hơn CT3 0,11 mg/g. Hàm lượng Chlab ở
CT3 (0,66 mg/g) là cao nhất, cao hơn so với CT4 0,03
mg/g, cao hơn 0,05 mg/g so với CT2 và so với CT1
thì cao hơn 0,12 mg/g.
Cũng theo Jeong Hwa Kang và cs, (2013) tổng
hàm lượng anthocyanin được tìm thấy cao nhất ở
cường độ 290 µmol/m2/s và quang chu kì 6/2 và
thấp nhất ở cường độ 200 µmol/m2/s và quang chu
kì 6/2. Hàm lượng anthocyanin trong tất cả các công
thức khi kết hợp cường độ 290 µmol/m2/s với các
chu kì chiếu sáng đều cao hơn các công thức khác
với cường độ dưới 260 µmol/m2/s. Cây trồng dưới
một thời gian ngắn của chu kì chiếu sáng của 6/2 (3
chu kỳ) (sáng/tối) thì anthocyanin tăng lên để đáp
ứng với cường độ ánh sáng cao 260 và 290
µmol/m2/s, giảm với cường độ ánh sáng thấp 200 và
230 µmol/m2/s.
Bảng 4. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng đèn LED tím khác nhau tới quang hợp và năng suất của cải bẹ
trồng thủy canh trong nhà
Chỉ tiêu
Công thức
CCC
(cm)
Số lá
(lá/cây) SPAD
Slá
(dm2/cây)
KLT
g/cây
NSLT
(kg/m2)
NSTT
(kg/m2)
90 µmol/ m2/s 28,85b 11,17c 30,37c 12,21d 39,37d 1,65 1,55d
140 µmol/ m2/s 33,57a 11,67b 35,53b 17,94c 71,24c 2,99 2,86c
190 µmol/ m2/s 33,30a 12,50a 36,92b 19,29b 78,34b 3,29 3,20b
240 µmol/ m2/s 33,57a 12,83a 39,04a 22,89a 89,16a 3,75 3,63a
LSD0.05 0,84 0,81 1,88 1,09 2,31 - 0,08
CV% 0,87 1,24 3,20 2,80 1,80 - 1,6
Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức sai khác nhỏ nhất có ý
nghĩa 5% theo phần mềm irristat 5.0.
Qua bảng 4 thấy rằng diện tích lá tăng dần từ
CT1 (90 µmol/m2/s) < CT2 (140 µmol/m2/s) < CT3
(190 µmol/m2/s) < CT4 (240 µmol/m2/s). Cụ thể,
diện tích lá (Slá) của cây rau cải bẹ trồng thủy canh ở
cả 4 CT đều sai khác nhau có ý nghĩa thống kê ở độ
tin cậy 95%, cây ở CT4 có diện tích lá lớn nhất (22,89
dm2/cây) gấp gần 1,9 lần Slá của của cây ở CT1
(12,21 dm2/cây), Slá của cây ở CT3 đạt 19,29 dm2/cây
và Slá ở CT2 đạt 17,94 dm2/cây.
Nhìn chung chỉ số SPAD của cây cải bẹ trồng
thủy canh trong nhà được chiếu sáng bằng đèn LED
ánh sáng tím ở mức cao. Cây ở CT1 có SPAD nhỏ
nhất (30,37), chỉ số SPAD của cây ở CT2 (35,53) và
CT3 (36,92) sai khác nhau không có ý nghĩa ở mức ý
nghĩa 5%. Cây ở CT4 có chỉ số SPAD cao nhất 39,04.
Khối lượng tươi (g/cây) của cả 4 CT hoàn toàn
sai khác nhau có ý nghĩa ở mức ý nghĩa 5%. Cây ở
CT4 có KLT cao nhất 89,16 g/cây cao gấp 2,2 lần
KLT của cây ở CT1 (39,37 g/cây), cao gấp gần 1,3
lần KLT của cây ở CT2, cây ở CT3 có KLT đạt 78,34
g/cây.
Cây cải bẹ trồng thủy canh trong nhà được chiếu
sáng bằng đèn LED ánh sáng tím ở 4 cường độ khác
nhau đã cho năng suất thực thu khác nhau, CT4 đạt
năng suất cao nhất 3,63 kg/m2 cao gấp 2,3 lần CT1,
gấp gần 1,3 lần CT2, CT3 đạt 3,2 kg/m2. Năng suất
thực thu ở cả 4 công thức đều đạt trên 90% so với
năng suất lý thuyết.
Vậy CT4- cường độ 240 µmol/m2/s của đèn LED
ánh sáng tím là thích hợp nhất cho sự sinh trưởng
của cây cải bẹ trồng thủy canh.
Hàm lượng các sắc tố trong dịch chiết lá cải bẹ
trồng thủy canh trong nhà chiếu sáng bằng đèn LED
ánh sáng tím với 4 mức cường độ khác nhau đã cho
kết quả theo hình 3. Hàm lượng sắc tố của cây trồng
ở CT1< CT2 < CT3 < CT4. Hàm lượng sắc tố
Carotenoid ở CT1 = CT2 = CT3 = 0,16 mg/g < CT4
đạt 0,17 mg/g. Hàm lượng Chla ở cả 4 CT đạt 0,21
mg/g. Sự chênh lệch hàm lượng của sắc tố Chlb ở
CT1 và 3 CT còn lại tương đối lớn, CT1 có hàm lượng
Chlb 0,39 mg/g thấp hơn CT2 0,03 mg/g, thấp hơn
CT3 0,05 mg/g, thấp hơn CT4 0,07 mg/g. Hàm lượng
Chlab ở CT1 đạt 0,60 mg/g thấp hơn CT2 0,02 mg/g,
thấp hơn CT3 0,04 mg/g và thấp hơn CT4 0,06 mg/g.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 28
Hình 3. Hàm lượng các sắc tố trong lá của cải bẹ trồng thủy canh trong nhà được chiếu sáng bằng đèn LED
ánh sáng tím
3.4. Đánh giá độ an toàn của rau xà lách, rau cải
bẹ trồng thủy canh
Độ an toàn của các loại rau trồng thủy canh là
yếu tố được quan tâm hàng đầu. Bảng 5 dưới đây thể
hiện hàm lượng một số chất trong rau so sánh với
tiêu chuẩn cho phép để đánh giá mức độ an toàn của
rau.
Bảng 5. Hàm lượng NO3-, một số kim loại nặng và vi sinh vật gây hại trong rau xà lách,
rau cải bẹ trồng thủy canh
STT Chỉ tiêu Xà lách Cải bẹ Mức giới hạn tối
đa cho phép* Phương pháp thử
I Vi sinh vật gây hại
(quy định cho rau, quả) CFU/g
1 Salmonella 0 0 0 TCVN 4829:2005
2 Coliforms 1.82 1.82 200 TCVN 4883:1993;
TCVN 6848:2007
3 Escherichia coli 0 0 10 TCVN 6846:2007
II Hàm lượng kim loại nặng
(quy định cho rau, quả, chè) mg/kg
1 Arsen (As) 0,0213 0,0308 1,00 TCVN 7601:2007;
TCVN 5367:1991
2 Thủy ngân (Hg) 0,0016 0,0022 0,05 TCVN 7604:2007
3 Cadimi (Cd) 0,0101 0,0069 0,10 TCVN 7603:2007
Chú thích: *Tiêu chuẩn Quốc gia, TCVN 11892-1:2017.
Bảng 5 cho thấy, xà lách và rau cải bẹ trồng thủy
canh không bị nhiễm các vi sinh vật gây hại cũng
như các kim loại nặng thấp hơn ngưỡng cho phép.
Như vậy, bằng các phương pháp kiểm tra tiên tiến đã
kiểm chứng độ sạch và an toàn của sản phẩm rau
trồng thủy canh trên hệ thống hồi lưu.
4. KẾT LUẬN
Ánh sáng tím với cường độ chiếu sáng 190
µmol/m2/s có tác động tốt nhất đến sinh trưởng,
năng suất cây rau xà lách, cải bẹ trồng thủy canh hồi
lưu trong nhà. Rau xà lách và cây cải bẹ trồng thủy
canh không bị nhiễm các vi sinh vật gây hại và hàm
lượng kim loại nặng trong rau thấp hơn ngưỡng cho
phép.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiêu chuẩn Quốc gia, 2017. TCVN 11892-
1:2017. Thực hành nông nghiệp tốt tại Việt Nam
(VietGAP)
2. TCVN 7929:2008 (EN 14083:2003). Tiêu chuẩn
Quốc gia về Thực phẩm - Xác định các nguyên tố vết
- Xác định chì, cadimi, crom, molypden bằng đo phổ
hấp thụ nguyên tử dùng lò graphit (GFAAS) sau khi
phân huỷ bằng áp lực.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 29
3. TCVN 8742:2011. Tiêu chuẩn Quốc gia. Cây
trồng - Xác định nitrat và nitrit bằng phương pháp so
màu.
4. TCVN 7604:2007. Tiêu chuẩn Quốc gia về
thực phẩm - xác định hàm lượng thủy ngân bằng
phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử không
ngọn lửa.
5. TCVN 7770:2007. Tiêu chuẩn Quốc gia về rau,
quả và sản phẩm rau, quả - Xác định hàm lượng asen
- Phương pháp đo phổ hấp thụ nguyên tử giải phóng
hydrua.
6. Jeong Hwa Kang, Sugumaran KrishnaKumar,
Sarah Louise Sua Atulba, Byoung Ryong Jeong and
Seung Jae Hwang, 2013. Light Intensity and
Photoperiod Influence the Growth and Development
of Hydroponically Grown Leaf Lettuce in a Closed-
type Plant Factory System. Horticultural Science and
Springer. 54(6):501-509
7. Gupta, S.D. and Jatothu, B., 2013.
Fundamentals and application of light – emitting
diodes (LEDs) in invitro plant growth and
morphogenesis. Plant Biotechnol Rep.7: 211-220
8. Kent Kobayashi, Teresita Amore, Michelle
Lazaro., 2013. Light-Emitting Diodes (LEDs) for
Miniature Hydroponic Lettuce.Optics and Photonics
Journal, 2013, 3, 74-77.
9. Kuan-Hung Lina, Meng-Yuan Huang, Wen-
Dar Huang, Ming-Huang Hsuc, Zhi-Wei Yang, Chi-
Ming Yang, 2013. The effects of red, blue, and white
light-emitting diodes on the growth, development,
and edible quality of hydroponically grown lettuce
(Lactuca sativa L. var. capitata). Scientia
Horticulturae 150. 86–91
10. Nguyen, T. P. D, Tran, T. T. H, Nguyen, Q.
T. Effects of light intensity on the growth,
photosynthesis and leaf microstructure of
hydroponic cultivated spinach(Spinaciaoleracea L.)
under a combination of red and blue LEDs in house
(2019). International Journal of Agricultural
Technology 2019 Vol. 15(1): 75-90.
11. Nguyễn Quang Thạch, Nguyễn Thị Quỳnh,
Nguyễn Thị Phương Dung, Nguyễn Thị Thanh
Hương (2017). Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ
chiếu sáng bằng đèn LED đến sinh trưởng, phát
triển, năng suất và ra hoa của cây tía tô xanh Hàn
Quốc (Perilla frutescens (L.) Britton) trồng thủy
canh trong nhà. Tr 38-46 số 24/2017 Tạp chí
NN&PTNT
12. Shimizu, H., Saito, Y., Nakashima, H.,
Miyasaka, J. and Ohdoi, K., 2011. Light environment
optimization for lettuce growth in plant factory. IFAC
World Congress. Milano (Italy). 605-609.
STUDY ON EFFECT OF LED LIGHTING ON THE GROWTH AND YIELD OF HYDROPONIC
VEGETABLES
Nguyen Thi Thuy, Vu Thi Hang, Doan Van Huy,
Bui Manh Thuong, Nguyen Quang Thach
Summary Indoor hydropononic with LED lighting to grow vegetable, which is a new farming model, offers may
benefits such as less space consumption, shorter maturity time, improved and uniform quality vegetables,
producing year-round and market demand satiability, coping with sequences of climate change. The study
evaluated in three types of light, namely white light (Photon Flux Density (PFD) ratio
Blue/Green/Red=45.47/70.61/34.76, yellow light (PFD ratio Blue/Green/Red =22.44/68.86/66.81) and
purple light (PFD ratio Blue/Green/Red =38.65/4.52/192.7). The obtained results showed that the purple
light has the best effect on the growth, development of lettuce and mustard green (Brassica juncea) grown
in indoor hydroponic. Purple light with intensity of 190 µmol/m2/s had positive impacts on growth, yield of
studied vegetables.
Keywords: Purple LED lighting, hydroponic, lecttuce, Mustard green, light intensity.
Người phản biện: GS.TS. Trần Khắc Thi
Ngày nhận bài: 16/7/2019
Ngày thông qua phản biện: 16/8/2019
Ngày duyệt đăng: 23/8/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 30
NGHIÊN CỨU TRỒNG CÂY CẢI CỦ ĐỎ (Raphanus
sativus L.) BẰNG KỸ THUẬT THỦY CANH Phạm Huy Hiệp1, Nguyễn Thị Tố Uyên1, Nguyễn Thị Thủy1,
Vũ Thị Hằng1, Nguyễn Quang Thạch1
TÓM TẮT Cải củ đỏ là một loại thực phẩm tốt cho sức khỏe được dùng chủ yếu trong các món rau ăn tươi. Nghiên cứu
này đã xác định được các thông số chủ yếu để thiết lập quy trình trồng cải củ đỏ bằng kỹ thuật thủy canh.
Trong 3 giống thí nghiệm Sparkler white tip, Crimson giant, Watermelon đã xác định được giống cải củ
Watermelon thích hợp cho trồng vụ đông ở đồng bằng sông Hồng. Cây cải củ đỏ Watermelon thích hợp
trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu với dung dịch SH1 và CC3 với các thông số trồng thích hợp là độ dẫn
điện của dung dịch EC1600 - 1800 µS/cm và mật độ 30 cây/m2 với khoảng cách trồng 20 cm x15 cm. Năng
suất cải củ đỏ trồng trên thủy canh hồi lưu có thể đạt 1422,40 g/m2. Cải củ đỏ trồng trên thủy canh đạt tiêu
chuẩn rau an toàn của Bộ Y tế (867/1998/QĐ-BYT).
Từ khóa: Cải củ đỏ Watermelon, thủy canh hồi lưu, SH1, CC3.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Gần đây, trong sự phát triển nông nghiệp công
nghệ cao, kỹ thuật trồng rau thủy canh được phát
triển khá mạnh mẽ ở Việt Nam. Đây là một kỹ thuật
có nhiều ưu việt: không cần đất, tiết kiệm nguồn
nhân lực, trồng được nhiều vụ, sản phẩm tạo ra sạch
và an toàn, có năng suất cao và chất lượng tốt. Tuy
nhiên, ở Việt Nam các nghiên cứu về kỹ thuật trồng
rau thủy canh mới chỉ tập trung trên các loại rau ăn
lá, các loại rau cải (Nguyễn Minh Chung và cs, 2010),
rau mồng tơi (Nguyễn Thị Huyền và cs, 2017), rau tía
tô xanh Hàn Quốc (Nguyễn Quang Thạch và cs,
2017), rau mùi tàu (Nguyễn Thị Quỳnh và cs, 2018),
rau xà lách (Đặng Trần Trung và cs, 2018), rau cải bó
xôi (Nguyễn Thị Phương Dung, 2019). Các nghiên
cứu về kỹ thuật trồng thủy canh cho các loại cây rau
ăn củ như su hào, cải củ,... hầu như chưa được quan
tâm nghiên cứu.
Trong số các loại cây lấy củ, thì cải củ đỏ có kích
thước nhỏ, hàm lượng dinh dưỡng cao và thời gian
sinh trưởng ngắn được dùng nhiều trong chế biến
các món rau tươi (salad). Nhu cầu sản xuất cải củ đỏ
sạch là rất cao nhưng chưa được đáp ứng. Theo
nghiên cứu của Takahashi và Iijima (1956), cho thấy
cây cải củ để đạt kích thước thương mại và có khối
lượng khô đạt 2,35 g thì lượng nitrogen cần là 153
mg/cây, tương ứng với lượng NO3- mà cây cần hấp
thụ từ môi trường dinh dưỡng là 677,6 mg. Việc sản
xuất cải củ đỏ có năng suất cao, chất lượng tốt, hàm
lượng NO3- thấp là một vấn đề rất cần được nghiên
cứu.
1 Viện sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Bài báo này trình bày kết quả“Nghiên cứu xây
dựng quy trình trồng cây cải củ đỏ bằng kỹ thuật
thủy canh” nhằm tìm ra các thông số kỹ thuật cơ bản
như hệ thống trồng, dinh dưỡng, nồng độ dinh
dưỡng, và mật độ trồng thích hợp để thu được cải củ
đỏ có năng suất cao chất lượng tốt, đặc biệt đảm bảo
về độ an toàn thực phẩm.
2. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng
Hạt giống của ba giống cải củ đỏ sử dụng trong
nghiên cứu: Sparkler white tip, Crimson giant và
Watermelon do Công ty Todd’s seeds của Mỹ cung
cấp. Các giống cải củ này có thời gian sinh trưởng
khác nhau và có thể trồng quanh năm, trong đó thời
gian sinh trưởng của giống Sparkler white tip là 40 -
45 ngày, giống Crimson giant: 45-50 ngày và giống
Watermelon: 55-65 ngày
Hạt giống được ngâm nước ấm pha với tỷ lệ 3
sôi: 2 lạnh (~ 540C). Gieo hạt vào khay nhựa có xơ
dừa ẩm, đánh dấu từng giống, tưới ẩm hàng ngày.
Sau 7 ngày nảy mầm, các cây đã nảy mầm có lá thật
được đưa lên rọ và đặt trong các bàn ươm với mức
EC là 800 μS/cm, sau 8 ngày các cây đồng đều về
kích thước được sử dụng làm vật liệu nghiên cứu.
Các thí nghiệm được tiến hành trong nhà màng, duy
trì đều đặn mức pH: 5,5 – 6,5.
2.2. Vật liệu, thiết bị
Thí nghiệm được thực hiện trên hệ thống khí
canh, thủy canh hồi lưu dạng màng mỏng, thủy canh
tưới nhỏ giọt.
Dung dịch dinh dưỡng SH1, CC2, CC3 do Viện
Sinh học Nông nghiệp pha chế.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 31
Bảng 1 Thành phần dinh dưỡng trong
các dung dịch
Hàm lượng (ppm) Thành phần
Nguyên tố SH1 CC2 CC3
N (NO3-) 210 130 180
N (NH4+) 0,044 0 0
P 31 55 65
K 235 300 400
Mg 48 33 45
Ca 200 150 400
S 63,672 109 144
Fe 5 3 3
Zn 0,073 0,1 0,1
B 0,5 0,3 0,3
Mn 0,5 0,8 0,8
Cu 0,02 0,07 0,07
Mo 0,01 0,03 0,03
Na 0,005 0 0
Si 0 0 0
Cl 0 0 0
Nguồn: Viện Sinh học Nông nghiệp.
Các hệ thống sử dụng trong nghiên cứu là hệ
thống thủy canh hồi lưu dạng màng mỏng, hệ thống
thủy canh tưới nhỏ giọt và hệ thống khí canh. Các hệ
thống đều được Viện Sinh học Nông nghiệp- Học
Viện Nông nghiệp Việt Nam thiết kế và lắp đặt.
Thiết bị: EC và pH của dung dịch dinh dưỡng
được đo bằng máy đo EC/ pH/ TDS (HI 98129,
Hanna Instruments, Inc., Woonsocket, RI, USA), chỉ
số diệp lục được đo bằng máy đo SPAD (SPAD 502
Plus Chlorophyll Meter- Hangzhou Mindfull
Technology Co., Ltd), cân phân tích kỹ thuật.
2.3. Phương pháp nghiên cứu và bố trí thí
nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối ngẫu
nhiên đầy đủ (RCBD), các công thức được nhắc lại 3
lần, mỗi lần nhắc lại 10 cây.
Các thí nghiệm được tiến hành tại khu thực
nghiệm Viện sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông
nghiệp Việt Nam từ tháng 8/2018 đến tháng 4/2019
Thí nghiệm xác định hệ thống thủy canh phù
hợp cho cải củ đỏ được bố trí với khoảng cách trồng
20x15cm, sử dụng dung dịch dinh dưỡng SH1, mức
EC 1400 μS/cm. Dung dịch dinh dưỡng được bổ
sung định kỳ 1 tuần/lần để duy trì EC thí nghiệm.
Các kết quả về giống, hệ thống thủy canh sẽ
được sử dụng cho các thí nghiệm tiếp theo về dung
dịch dinh dưỡng, EC dung dịch, mật độ.
Các thí nghiệm được theo dõi định kỳ 7
ngày/lần.
Các chỉ tiêu theo dõi:
Chỉ tiêu về sinh trưởng:
- Chiều cao cây (cm).
- Số lá/cây (lá/cây).
- Chỉ số SPAD: dùng máy đo chỉ số SPAD-502
Plus, đo khi thu hoạch.
- Diện tích lá (cm2/cây): đo bằng thiết bị đo diện
tích lá cầm tay CI-202(CID Bio-Science, Inc.), đo diện
tích lá thu được khi thu hoạch.
- Khối lượng củ tươi (g/cây).
- Năng suất thực thu (NSTT) (g/m2): Cân khối
lượng thực tế thu được/số cây trên một diện tích m2.
- Năng suất lý thuyết (NSLT) (g/m2) = khối
lượng trung bình x số cây/ m2.
Chỉ tiêu chất lượng
- Hàm lượng vitamin C (Phương pháp chuẩn độ
bằng iod)
- Đường tổng số (Phương pháp iod-Ixekutz)
- Hàm lượng chất khô (Tiêu chuẩn ngành 10TCN
842:2006 về tiêu chuẩn rau quả - Phương pháp xác
định hàm lượng nước và tính hàm lượng chất khô)
Chỉ tiêu an toàn
Hàm lượng nitrat (NO3-)được xác định bằng
phương pháp so màu theo TCVN 8742:2011
Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu thu thập được
xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel và phần mềm
SAS 9.1. Sự sai khác giữa các giá trị trung bình của
các thông số được đánh giá theo phân tích ANOVA ở
mức P < 5%.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khảo sát sự sinh trưởng, phát triển của một
số giống cải củ đỏ trên hệ thống thủy canh hồi lưu
Các giống nghiên cứu được trồng cùng ngày
trên hệ thống thủy canh hồi lưu và tiến hành thu
hoạch đúng với thời gian sinh trưởng của từng giống.
Kết quả được trình bày ở bảng 2.
Theo kết quả bảng 2 khi khảo sát sự sinh trưởng,
phát triển năng suất của 3 giống cải củ trên hệ thống
thủy canh hồi lưu nhận thấy rằng cả 2 giống Crimson
gian và Watermelon đều cho các chỉ tiêu về sinh
trưởng như chiều cao cây, số lá, diện tích lá tương
đương nhau. Tuy nhiên giống Watermelon lại cho
năng suất cao hơn giống Crimson gian, hạt giống
Watermelon lại có tỷ lệ nảy mầm và khả năng chống
chịu với sâu bệnh tốt hơn. Vì vậy giống Wattermelon
được lựa chọn cho các thí nghiệm tiếp theo.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 32
Bảng 2. Sự sinh trưởng, năng suất của 3 giống cải củ đỏ trên hệ thống thủy canh hồi lưu
Chỉ tiêu
CT
Chiều cao
TB (cm)
Số lá
TB
Chỉ số
SPAD
Diện tích lá TB
(cm2/cây)
ĐK củ TB
(mm)
KL củ TB
(g/củ)
NSTT
(g/m2)
NSLT
(g/m2)
CT1 32,97b 8,63a 29,58b 253,76b 37,83b 31,63b 948,90b 1066,65
CT2 37,75a 8,57a 29,54b 326,94a 40,00a 41,03a 1231,00a 1350,41
CT3 26,78c 8,40a 37,35a 222,85c 38,53ab 42,89a 1286,60a 1416,55
CV(%) 4,16 1,87 1,85 4,39 2,58 5.93 5,93
LSD0,05 2,70 0,32 1,19 23,47 2,00 4,57 137
Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa 5%. CT1–Giống Sparkler white tip, CT2–Giống Crimson gian, CT3– Giống Watermelon. Cả 3 giống được trồng trên
hệ thống thủy canh hồi lưu dạng màng mỏng, với nồng độ EC=1400 μS/cm, mật độ trồng 30 cây/m2.
3.2. Nghiên cứu xác định hệ thống thủy canh phù hợp cho cây cải củ đỏ Watermelon
Bảng 3. Kết quả một số chỉ tiêu sinh trưởng và năng suất của giống Watermelon trên 3 hệ thống thủy canh
sau 50 ngày trồng
Chỉ tiêu
CT
DTL
(cm2/cây)
CCC
(cm) Lá/cây SPAD
ĐKC
(mm)
KLC
(g/củ)
NSTT
(g/m2)
NSLT
(g/m2)
CT1 203,58a 28,90b 8,70ab 37,12a 37,27a 31,31a 939,4a 1037,10
CT2 206,46a 32,23a 8,77a 37,83a 29,03c 25,32c 759,6c 854,55
CT3 186,11b 28,42b 8,53b 37,13a 35,10b 28,32b 849,5b 944,64
CV(%) 3,76 2,92 1,28 2,59 3,03 5,16 5,16
LSD0,05 14,93 1,74 0,22 1,94 2,05 2,92 87,60
Ghi chú: CT1: Thủy canh hồi lưu; CT2: Khí canh; CT3: Thủy canh tưới nhỏ giọt; DTL: Diện tích lá; CCC: Chiều cao cây; ĐKC: Đường kính củ; KLC: Khối lượng củ; NSTT: Năng suất thực thu; NSLT: Năng suất lý
thuyết; những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức sai khác nhỏ nhất có ý
nghĩa 5%.
Từ bảng 3, có thể thấy về các chỉ tiêu diện tích
lá, chiều cao cây, số lá, chỉ số SPAD ở 3 hệ thống
không có sự khác biệt đáng kể, cải củ trên tưới nhỏ
giọt phát triển thân lá kém hơn so với cải củ trồng
trên khí canh và thủy canh hồi lưu. Tuy nhiên, khi
xét đến các chỉ tiêu năng suất cho thấy thủy canh,
tưới nhỏ giọt lại cho năng suất cải củ đỏ (849,5 g/m2)
cao hơn so với khí canh (759,6 g/m2) với sự sai khác
có ý nghĩa. Khối lượng củ ở hệ thống thủy canh hồi
lưu cải củ đỏ đạt cao nhất 31,31 g/củ dẫn tới năng
suất thực thu đạt 939,4g/m2 gấp 1,2 lần so với khí
canh, 1,1 lần so với hệ thống tưới nhỏ giọt.
3.3. Nghiên cứu xác định nồng độ dinh dưỡng
thích hợp cho giống cải củ đỏ
Bảng 4. Kết quả một số chỉ tiêu sinh trưởng và năng suất của giống Watermelon với các mức EC
khác nhau sau 50 ngày trồng
Chỉ tiêu
CT
DTL
(cm2/cây) CCC (cm) Lá/cây SPAD
ĐKC
(mm)
KLC
(g/củ)
NSTT
(g/m2)
NSLT
(g/m2)
1200 µS/cm 214,91b 24,47c 8,4c 36,45b 33,7b 35,13c 1054,0c 1155,18
1400 µS/cm 225,25ab 26,9b 8,7b 37,25ab 39,33a 41,76b 1252,8b 1403,14
1600 µS/cm 242,37a 30,13a 8,87b 38,29ab 40,23a 46,99a 1409,7a 1556,31
1800 µS/cm 245,89a 31,03a 9,13a 38,88a 40,53a 47,41a 1422,4a 1594,51
CV(%) 5,35 3,11 1,23 3,06 3,06 4,02 4,02
LSD0,05 23,39 1,65 0,2 2,17 2,22 3,24 97,32
Ghi chú: DTL: Diện tích lá; CCC: Chiều cao cây; ĐKC: Đường kính củ; KLC: Khối lượng củ; NSTT: Năng
suất thực thu; NSLT: Năng suất lý thuyết; những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai
khác ở mức sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa 5%. Giá trị EC cho biết độ dẫn điện của dung dịch,
độ dẫn điện lại do tổng nồng độ ion hoà tan trong
dung dịch quyết định. Vì thế, giá trị EC có thể được
xem xét như một thông số về nồng độ dung dịch và
là cơ sở giúp điều chỉnh và bổ sung lượng dinh
dưỡng thích hợp cho cây trồng thủy canh.
Kết quả từ bảng 4 cho thấy ảnh hưởng rõ nét của
nồng độ dinh dưỡng tới cây cải củ đỏ. Ở công thức
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 33
EC=1600 µS/cm và EC=1800 µS/cm không có sự
khác nhau về diện tích lá, chiều cao cây, đường kính
củ, khối lượng củ trung bình, năng suất thực thu
nhưng lại có sự sai khác có ý nghĩa thống kê với công
thức EC=1400 µS/cm và EC=1200 µS/cm. Các công
thức EC=1600 µS/cm và EC=1800 µS/cm cây sinh
trưởng có diện tích lá, chiều cao cây, đường kính củ,
năng suất thực thu đều cao hơn so với các mức EC
còn lại (1200 µS/cm và 1400 µS/cm). Tuy nhiên
trong sản xuất rau để sử dụng nguồn vật liệu có hiệu
quả, an toàn và tiết kiệm, nồng độ dinh dưỡng
EC=1600 µS/cm được đề xuất để trồng cây cải củ đỏ
trên hệ thống thủy canh hồi lưu.
Các nghiên cứu trên các đối tượng trồng bằng kỹ
thuật thủy canh như cà chua (Min Wu và Chieri
Kubota, 2008), rau diếp (Gent, 2003),... đều cho thấy
vai trò quang trọng của nồng độ dinh dưỡng đến sinh
trưởng phát triển cũng như năng suất và chất lượng
của cây. Cây cà chua được trồng trên thủy canh với
EC cao (EC= 2,3 và 4,5 dS/m) sẽ cho hàm lượng
lycopene, fructose và glucose cao hơn so với cà chua
thu hoạch ở các mức EC thấp. Trên dung dịch dinh
dưỡng EC cao, quả cà chua cho hàm lượng Lycopene
tăng 30-40% (1,29-1,39mg/g chất khô) so với trồng
trong EC thấp (0,99 mg/g chất khô) (Min Wu và
Chieri Kubota, 2008). Từ kết quả thu được của
nghiên cứu cho thấy, EC ảnh hưởng một cách rõ rệt
đến sự sinh trưởng phát triển và hình thành năng
suất của cây cải củ đỏ. Ở mức EC cao (1600-1800
µS/cm), cây cải củ sinh trưởng tốt hơn và cho năng
suất cao hơn một cách có ý nghĩa so với cải củ được
trồng ở EC thấp (1200-1400 µS/cm), các chỉ tiêu này
không có sự khác biệt ở mức thống kê khi trồng cải
củ ở EC 1600 µS/cm và 1800 µS/cm vì vậy cần có
những nghiên cứu các mức EC cao hơn để làm rõ
hơn ảnh hưởng của EC đến sinh trưởng, năng suất
trên cây cải củ đỏ. Sonneveld và Van den Bos (1995)
cũng đã nghiên cứu ảnh hưởng của EC khác nhau
(1000-6000 µS/cm) với sự sinh trưởng của cải củ trên
các nền giá thể khác nhau cho thấy các giống xuân
hè sinh trưởng tốt trên nền giá thể có EC dinh dưỡng
là 2000 µS/cm, trong khi các giống mùa đông lại
thích hợp với EC từ 2000-4000 µS/cm.
3.4. Nghiên cứu xác định dinh dưỡng phù hợp
cho giống cải củ đỏ
Bảng 5. Kết quả một số chỉ tiêu sinh trưởng và năng suất của giống Watermelon với các dung dịch trồng khác
nhau sau 50 ngày trồng
Chỉ tiêu
CT
DTL
(cm2/cây)
CCC
(cm) Lá/cây SPAD
ĐKC
(mm)
KLC
(g/củ)
NSTT
(g/m2)
NSLT
(g/m2)
DD SH1 221,54a 27,12a 8,83a 37,28a 38,53a 42,11ab 1263,2a 1407,20
DDCC2 207,01a 25,9a 8,8a 35,88b 36,63b 39,57b 1187,0b 1333,00
DDCC3 222,56a 27,35a 9,0a 37,38a 38,33ab 42,25a 1267,5a 1401,86
LSD 28,56 1,61 0,44 1,19 1,75 2,39 71,65
CV(%) 6,95 3,18 2,63 1,71 2,45 3,06 3,06
Ghi chú: DTL: Diện tích lá; CCC: Chiều cao cây; ĐKC: Đường kính củ; KLC: Khối lượng củ; NSTT: Năng
suất thực thu; NSLT: Năng suất lý thuyết; những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai
khác ở mức sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa 5%.
Kết quả bảng 5 cho thấy ở cả 3 dung dịch sử
dụng các chỉ tiêu về diện tích lá, chiều cao cây, số lá
đều tương đương nhau về mặt thống kê. Hai dung
dịch SH1 và CC3 không có sự khác biệt về năng suất
thực thu nhưng lại có sự sai khác biệt với dung dịch
CC2. Cây cải củ trồng trong dung dịch CC2 có các
chỉ tiêu sinh trưởng tương đương về mặt thống kê với
cải củ trồng trong dung dịch SH1 và CC3. Tuy nhiên
đường kính (36,63 mm), khối lượng củ (39,57 g/củ)
và năng suất thực thu (1187 g/m2) thu được ở dung
dịch CC2 này thấp hơn so với các chỉ tiêu này ở dung
dịch ở dung dịch SH1 và CC3 (dao động xung quanh
38mm, 42 g/củ, 1263 g/m2). Như vậy có thể sử dụng
cả dung dịch SH1 và CC3 để trồng cây cải củ đỏ.
Hàm lượng NO3- trong dung dịch dinh dưỡng là
một yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất của
cây cải củ. Để đạt kích thước thương mại tiêu chuẩn
và hàm lượng chất khô trong củ là 2,35 g thì lượng
nitrogen từ lượng NO3- cung cấp từ dinh dưỡng trong
suốt quá trình sinh trưởng phát triển là 677,6 mg/cây
(Takahashi và Iijima, 1956). Li et al. (2014) tiến hành
thí nghiệm với dung dịch dinh dưỡng có các lượng
NO3- khác nhau (900, 800, và 700 mg/cây) cho thấy ở
nồng độ thấp (700mg/cây) cây cải củ sinh trưởng
yếu hơn, thân lá mỏng, khối lượng tươi thấp hơn so
với ở các nồng độ NO3- cao. So sánh về hàm lượng
NO3- của ba loại dung dịch nghiên cứu (SH1, CC2,
CC3), cho thấy dung dịch SH1 (210 ppm) và CC3
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 34
(180 ppm) có nồng độ NO3- cao hơn so với CC2 (130
ppm), điều này có thể dẫn đến sự sinh trưởng phát
triển khác nhau của cải củ trong ba loại dung dịch
này. Vấn đề quan trọng là kết quả phân tích dư lượng
nitrate có trong sản phẩm thu hoạch.
3.5. Nghiên cứu xác định mật độ, khoảng cách
trồng thích hợp cho cây cải củ đỏ
Khoảng cách trồng là yếu tố có ảnh hưởng trực
tiếp đến khả năng hấp thu năng lượng ánh sáng, do
đó ảnh hưởng đến quang hợp và năng suất cây trồng.
Việc lựa chọn khoảng cách phù hợp là yếu tố cơ bản
trong xây dựng một quy trình sản xuất.
Bảng 6. Một số chỉ tiêu sinh trưởng và năng suất của giống Watermelon trên 4 khoảng cách trồng
sau 50 ngày trồng
Chỉ tiêu
CT
DTL
(cm2/cây)
CCC
(cm) Lá/cây
SPAD
ĐKC
(mm)
KLC
(g/củ)
NSTT
(g/m2)
NSLT
(g/m2)
CT1 207,42b 26,05b 7,93b 37,44a 34,27c 28,45b 1109,68b 1231,74
CT2 222,85ab 26,78b 8,4a 37,35a 38,53b 42,89a 1286,6a 1395,96
CT3 234,34a 28,68a 8,53a 37,61a 39,83ab 43,46a 869,13c 965,61
CT4 233,98a 28,45a 8,67a 37,5a 41,4a 45,11a 676,7d 759,26
CV(%) 4,26 1,52 1,19 1,06 3,41 4,72 5,19
LSD0,05 18 1,15 0,27 0,75 2,47 3,55 96,27
Ghi chú: CT1: mật độ 39 cây/m2 (15 cm x15 cm), CT2: mật độ 30 cây/m2(20 cm x15 cm); CT3: mật độ 20
cây/m2(30 cm x15 cm), CT4: mật độ 15 cây/m2(40 cm x15 cm); DTL: Diện tích lá; CCC: Chiều cao cây; ĐKC:
Đường kính củ; KLC: Khối lượng củ; NSTT: Năng suất thực thu; NSLT: Năng suất lý thuyết; những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa 5%.
Với mật độ 39 cây/m2 (15 cm x 15 cm) các chỉ
tiêu diện tích lá, số lá TB thấp hơn hẳn so với 3 công
thức còn lại dẫn tới năng suất thực thu đạt 1109,68
g/m2. Ở các mật độ thưa hơn 20 cây/m2 (30 cm x 15
cm) và 15 cây/m2 (40 cm x 15 cm) cây có diện tích lá,
số lá lớn hơn, tuy nhiên cây không sử dụng hết diện
tích trồng nên năng suất thực thu chỉ đạt 676,70-
869,13 g/m2. Từ kết quả trên có thể kết luận mật độ
30 cây/m2 (20 cm x 15 cm) là thích hợp nhất cho cây
cải củ đỏ trồng thủy canh hồi lưu đạt năng suất
1286,6g/m2 sau 50 ngày trồng.
3.6. Đánh giá về chất lượng của giống cải củ đỏ
Kết quả phân tích về một số chỉ tiêu chất lượng
cải củ đỏ trồng thủy canh được trình bày trong bảng 6.
Bảng 7 Một số chỉ tiêu chất lượng của cải củ đỏ trồng thủy canh
Tên giống Hàm lượng chất khô (%) Đường tổng số (%) Vitamin C (mg/100g chất tươi)
Watermelon 6,07 5,83 76,4
Hàm lượng vitamin C và hàm lượng đường tổng
số của giống cải củ đỏ Watermelon thu được trong
nghiên cứu là cao hơn so với hàm lượng đã công bố
của Nguyễn Công Khẩn và cs (2007) (hàm lượng
vitamin C 20-30 mg/ 100g chất tươi, hàm lượng
đường tổng số thấp hơn 2 lần).
Bảng 8. Dư lượng nitrate trong 3 giống cải củ đỏ trồng thủy canh
Tên giống Dư lượng nitrate (mg/kg) Mức giới hạn cho phép*
Watermelon 312 500
*Mức giới hạn tối đa cho phép theo Quy định số 867/1998/QĐ- BYT của Bộ Y tế.
Từ kết quả bảng 8 có thể thấy xét theo mức giới
hạn về dư lượng nitrat của Bộ Y tế ban hành cải củ
Watermelon trồng thủy canh theo các thông số đã
được nghiên cứu xác định hoàn toàn đáp ứng được
tiêu chuẩn.
4. KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy cây cải củ đỏ Watermelon
thích hợp trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu với
dung dịch SH1 hoặc CC3. Nồng độ dung dịch là 1600
µS/cm và mật độ trồng 30 cây/m2 với khoảng cách
trồng 20 cm x15 cmlà phù hợp cho sự sinh trưởng và
phát triển của cây cải củ đỏ. Giống cải củ
Watermelon trồng thủy canh có hàm lượng đường
tổng số và hàm lượng vitamin C khá cao và đạt tiêu
chuẩn an toàn theo quy định Bộ Y tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Huy Bích, Đặng Quang Trung, Bùi Xuân
Chương, Nguyễn Thượng Dong, Đỗ Trung Đàm,
Phạm Văn Hiển, Vũ Ngọc Lộ, Phạm Duy Mai, Phạm
Kim Mãn, Đoàn Thị Nhu, Nguyễn Tập, Trần Toàn.
(2006). Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam,
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 35
tập 1. Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật Hà Nội. tr.
311-314.
2. Nguyễn Minh Chung (2007-2010). Luận án
Tiến sĩ “Nghiên cứu giải pháp công nghệ sản xuất
một số loại rau ăn lá trái vụ bằng phương pháp thuỷ
canh”. Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
3. Nguyễn Thị Phương Dung, Trần Thị Thanh
Huyền, Nguyễn Thị Thủy, Lê Thị Thủy, Nguyễn
Quang Thạch (2019). Xác định các thông số kỹ thuật
tối ưu trồng cải bó xôi (Spinacia oleracea L.) bằng
phương pháp thủy canh hồi lưu. Tạp chí Khoa học
công nghệ Nông nghiệp Việt Nam, số 1/2019, tr.69-77.
4. Gent M. P. (2003). Solution Electrical
Conductivity and Ratio of Nitrate to Other Nutrients
Affect Accumulation of Nitrate in Hydroponic
Lettuce. HortScience, 38(2). pp. 222-227.
5. Nguyễn Thị Huyền, Đoàn Văn Tú, Nguyễn
Thị Thủy, Nguyễn Quang Thạch (2017). Hiện tượng
mất màu xanh của lá rau mùng tơi trồng thủy canh
và biện pháp khắc phục bằng bổ sung EDTA. Tạp chí
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tr.26-32 tháng
12/2017.
6. Nguyễn Công Khẩn, Hà Thị Anh Đào, Lê
Hồng Dũng, Nguyễn Thị Lâm, Lê Hồng Dũng, Lê
Bạch Mai, Nguyễn Văn Sĩ, Hà Huy Khôi, Bùi Minh
Đức. (2007). Bảng thành phần thực phẩm Việt Nam.
Nhà xuất bản Y học. tr. 102-103.
7. Li H., Inokuchi T., Nagaoka T., Tamura M.,
Hamada S., Suzuki S. (2014) NO3- Requirement and the
Quantitative Management Method of Nutrient Solution
Based on NO3- Supply in Hydroponic Culture of Radish
Plants. J. Japan. Soc. Hort. Sci. 83 (1): 44–51.
8. Min Wu, Chieri Kubota (2008). Effects of
high electrical conductivity of nutrient solution and
its application timing on lycopene, chlorophyll and
sugar concentrations of hydroponic tomatoes during
ripening. Scientia Horticulturae, 116(2). pp. 122–129.
9. Takahashi, T. and N. Iijima. 1956. Studies on
the occurrence of pithy tissue in root crops. 1. On the
time of the occurrence of pithy tissue of Rapid Red
and Tokinashi radishes, and their ecological
differences. Bull. Fac. Agric., Shinshu Univ. 5:
20–26 (In Japanese with English summary).
10. Nguyễn Quang Thạch, Nguyễn Thị Quỳnh,
Nguyễn Thị Phương Dung, Nguyễn Thị Thanh
Hương (2017). Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ
chiếu sáng bằng đèn LED đến sinh trưởng, phát
triển, năng suất và ra hoa của cây tía tô xanh Hàn
Quốc (Perilla frutescens (L.) Britton) trồng thủy
canh trong nhà.Tạp chí NN&PTNT 24: 38-46.
11. Đặng Trần Trung, Nguyễn Thị Thủy, Hồ Thị
Thu Thanh, Nguyễn Quang Thạch, (2017). Nghiên
cứu kỹ thuật trồng rau lách bằng phương pháp thủy
canh. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
số 13: Tr.45-49.
12. Sonneveld C. và van den Bos A. L. (1995)
Effects of nutrient levels on growth and quality of
radish (Raphanus sativus L.) grown on different
substrates, Journal of Plant Nutrition, 18:3, 501-513.
13. Nguyễn Thị Quỳnh, Đặng Trần Trung, Hồ
Thị Thu Thanh, Nguyễn Quang Thạch (2018).
Nghiên cứu kỹ thuật trồng rau mùi Tàu (Eryngium foetidum L.) an toàn bằng phương pháp thủy canh.
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, số
11/2018. tr.36-40.
STUDY ON TECHNIQUE OF PLANTING RED RADISH (Raphanus sativus L.) ON HYDROPONIC SYSTEMS
Pham Huy Hiep, Nguyen Thi To Uyen, Nguyen Thi Thuy,
Vu Thi Hang, Nguyen Quang Thach
Summary Red radish (Raphanus sativus L.) is a healthy vegetable, that is mainly used in fresh vegetables. This research
determinated a number of technical factors affecting the growth, development, yield of red radish planted in the
hydroponic systems. The cyle hydroponic promoted plant growth and improved yields of Watermalon radish. The SH1,
CC3 solution, which is based on the modified Hoagland solution, were desmontrated suitable nutrient solutions for
growing red radish in hydydroponic. In addition, the solution concentration which has EC level in range of 1600-
1800µs/cm and the density of planting at 30 plants/m2 (20 cm x15 cm) were the most suitable for the growth plant and
high yield. According to the standard of safe vegatables of the Ministry of Agriculture and Rural Development,
watermelon radish cultivar produced viahydroponic system was estimated that it is a safe vegetable.
Keywords: Red radish, Watermelon, cyle hydroponic, SH1, CC3.
Người phản biện: GS.TS. Trần Khắc Thi
Ngày nhận bài: 15/7/2019
Ngày thông qua phản biện: 15/8/2019
Ngày duyệt đăng: 22/8/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 36
NHIÊN CỨU NHÂN GIỐNG CÂY LAN GIẢ HẠC PHÁP
(Dendrobium adastra) BẰNG CÔNG NGHỆ
NUÔI CẤY MÔ TẾ BÀO Hoàng Thị Nga1, Nguyễn Thị Lý Anh1, Nguyễn Xuân Hùng1, Nguyễn Thị Hà1
TÓM TẮT Giả hạc Pháp là loài lan có giá trị kinh tế rất cao, bởi lẽ hoa có kiểu dáng đẹp và hương thơm độc đáo được
mọi người hết sức ưa chuộng và săn lùng rất nhiều. Một số thông số cơ bản trong quy trình nhân giống lan
Giả hạc Pháp mang lại hiệu quả cao đã được thực hiện: chế độ khử trùng mẫu sử dụng HgCl2 0,1% trong 5
phút kết hợp với sodium dichloroisocyanurate (NaDCC) trong 3 phút cho tỷ lệ mẫu sống và sạch đạt 44,67%.
Môi trường 2g Hyponex (6:6,5:19) + 15g/l saccarose + 4g/l agar + 1,5mg/lBA (hoặc 0,8mg/lTDZ) là môi
trường tái sinh mẫu tốt nhất, đạt 2,38 - 2,52 lần sau 8 tuần nuôi cấy. Môi trường nhân nhanh chồi tốt nhất là
2g Hyponex (6:6,5:19) + 15g/l saccarose + 4g/l agar + 1,0mg/l BA + 0,5mg/l Kinetin (hoặc 50g/l dịch
nghiền chuối + 50g/l dịch nghiền khoai tây), pH 5,5 cho hệ số nhân đạt 2,48- 2,84 lần và sau 8 tuần nuôi cấy.
Đồng thời trên môi trường có bổ sung dịch nghiền chuối và khoai tây các chồi hình thành sinh trưởng, phát
triển và ra rễ rất tốt cho cây lan Giả hạc Pháp. Dớn hay dương xỉ vụn là thích hợp nhất để ra cây ngoài vườn
ươm sử dụng giá thể này có thể cho tỷ lệ sống của cây đạt từ 95,09 đến 96,80% cây sinh trưởng phát triển tốt.
Thời gian ra cây tốt nhất là từ tháng 4 – tháng 9 cho tỷ lệ cây sống đạt > 90% cây sinh trưởng, phát triển rất
tốt vì vậy khi qua các tháng mùa đông khả năng chống chịu của cây với điều kiện lạnh rất tốt và khi sang
xuân cây bật sinh trưởng rất mạnh.
Từ khóa: Giả hạc Pháp (Dendrobium adastra), nuôi cấy mô, Hyponex, TDZ, BA, Kinetin.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Giả hạc Pháp (Dendrobium adastra) là loài lan
có giá trị kinh tế rất cao, bởi lẽ hoa có kiểu dáng đẹp
và hương thơm độc đáo được mọi người hết sức ưa
chuộng và săn lùng rất nhiều
Ở Việt Nam, Dendrobium có đến 100 loài, xếp
trong 14 tông, được phân biệt bằng thân (giả hành),
lá và hoa. Nhiều loài lan rừng Việt Nam đặc biệt là
các loài thuộc chi Dendrobium hoa có màu sắc rất
phong phú; có hương thơm, lâu tàn, chùm hoa nở
kéo dài từ 1 – 2 tháng mới hết hoa nên rất được
khách hàng ưa chuộng và với tình trạng thu hái,
buôn bán lan rừng trái phép phổ biến như hiện nay
sẽ dẫn đến nguy cơ làm mất nguồn gen trong một
tương lai gần. Ngoài giá trị làm cảnh chi lan này còn
có giá trị làm thuốc. Hiện nay một số loài lan quý bị
đe dọa tuyệt chủng trong tự nhiên đã được bảo tồn
nhờ phương pháp nảy mầm từ hạt (Kauth, 2005)
hoặc nhân nhanh in vitro với nguồn nguyên liệu từ
hạt. Theo Lê Văn Hoàng (2008) nuôi cấy mô là
phương pháp duy nhất có thể nhân giống lan cho hệ
số nhân cao giá thành hợp lý. Đã có nhiều tác giả
trong và ngoài nước nghiên cứu nhân giống lan
Dendrobium như Nguyễn Thị Sơn và cộng sự (2011)
1 Viện Sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt
Nam
*Email: [email protected]
đã xây dựng được quy trình nhân giống in vitro lan
Hoàng thảo long nhãn (Dendrobium firmbriatum
Hook); Nguyễn Thị Quỳnh Trang và cộng sự (2013)
nghiên cứu nhân giống cây lan Phi Điệp Tím
(Dendrobium anosmum); Nguyễn Thị Lâm Hải và
cộng sự (2016) nghiên cứu hệ thống tái sinh in vitro
cây hoa lan hoàng thảo Ý Thảo (Dendrobium gratiosissimum)… Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có
nghiên cứu cụ thể về việc nhân giống in vitro loài lan
Giả hạc Pháp. Việc nghiên cứu nhân giống cây lan
hoàng thảo Giả hạc Pháp (Dendrobium adastra) sẽ
góp phần vào công việc bảo tồn, phát triển nguồn
gen cây lan của Việt Nam cũng như hướng tới việc
nhân nhanh cây con phục vụ thương mại hóa loài hoa
đẹp, có giá trị thẩm mĩ cao này là việc làm cấp thiết
và có ý nghĩa. 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
Nghiên cứu được tiến hành trên đối tượng lan
Giả hạc Pháp (Dendrobium adastra), sử dụng các
chồi có kích thước 4- 6 cm.
Chất khử trùng: HgCl2 (0,1%), Precept (0,1%) với
thời gian khử trùng: 5, 6, 7, 8 phút.
Nền môi trường sử dụng trong nghiên cứu là
Hyponex (6; 6,5; 19) và một số chất điều tiết sinh
trưởng như BA, Kinetin, TDZ α-NAA, dịch nghiền
chất hữu cơ: chuối, khoai tây.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 37
+ BA (6-benzyl-amino purine) có nồng độ lần
lượt là: 0,0; 0,5; 1,0; 1,5 và 2,0 mg/l
+ Kinetin: có nồng độ lần lượt là: 0,0; 0,5; 1,0; 1,5
và 2,0 mg/l
+ TDZ (1-phenyl-3-(1,2,3-thiadiazol-5-yl)-urea) có
nồng độ lần lượt là 0,0, 0,2; 0,4; 0,6; 0,8 và 1,0 mg/l
Các chất điều tiết sinh trưởng của hãng sản xuất:
MAERSK- Đức
+ Dịch nghiền chuối, khoai tây có hàm lượng lần
lượt là 0; 30; 50; 70 và 100 g/l được bổ sung vào môi
trường khoáng:
2gHyponex (6; 6,5; 19) + 15g/l sucrose + 4,0g /l
agar + 0,5g/l.
Giá thể trồng cây: dớn, dương xỉ băm nhỏ,
dương xỉ nguyên miếng, bột dừa.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên
(CRD), 3 lần nhắc lại, mỗi lần nhắc lại 15 mẫu. Các
chỉ tiêu đo đếm được tiến hành định kỳ 2 -4 tuần/ lần
tùy từng thí nghiệm và giai đoạn phát triển của cây.
Các chỉ tiêu theo dõi bao gồm tỷ lệ mẫu nhiễm, tỉ lệ
mẫu sống và sạch, chiều cao cây, số lá, hệ số nhân
chồi, số rễ…Mật độ cây trong bình nuôi cấy 5
mẫu/bình trụ Ø 50.
- Các thí nghiệm được tiến hành tại phòng nuôi
cấy mô của Viện Sinh học nông nghiệp, Học viện
Nông nghiệp Việt Nam.
- Điều kiện ra cây vườn ươm: Giá thể được rửa
sạch, xử lý bằng thuốc diệt nấm khuẩn. Cây in vitro
hoàn chỉnh, khỏe mạnh sau khi trồng được đặt trong
nhà lưới, che phủ bằng nylon và lưới cắt nắng 50 -70%
ánh sáng. Cây in vitro trồng trên giá thể với mật độ
350 – 380 cây/m2.
- Số liệu thực nghiệm được xử lý theo phương
pháp thống kê sinh học trên phần mềm Microsoft
Excel và IRRISTAT 5.0
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Giai đoạn tạo vật liệu khởi đầu
3.1.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian khử trùng Johnson-presept (0,1%) đến khả năng sống và
sạch của mẫu cấy cây lan Giả hạc Pháp
Các đoạn chồi của cây lan Giả hạc Pháp (4 – 6
cm) lau sạch bằng cồn 700, ngâm vào dung dịch
sodium dichloroisocyanurate (NaDCC)(Johnson-presept) 0,1% trong thời gian từ 5 – 8 phút rồi rửa 3 –
4 lần bằng nước cất vô trùng, lột bỏ lớp lá bao rồi cắt
thành từng đoạn có các đốt thân mang mắt ngủ trước
khi cấy vào môi trường Hyponex. Sau 6 tuần nuôi cấy
thu được kết quả ở bảng 1.
Bảng 1. Ảnh hưởng của thời gian khử trùng Presept (0,1%) đến khả năng sống và sạch của mẫu cấy lan Giả
hạc Pháp (sau 6 tuần nuôi cấy)
Các chỉ tiêu đánh giá CTTD
CTTN
Thời gian
(phút)
Tổng số mẫu
(mẫu) Tỷ lệ mẫu
sống sạch (%)
Tỷ lệ mẫu nhiễm
(%)
Tỷ lệ
mẫu chết (%)
CT1 5 45 11,11 79,35 9,54
CT2 6 45 28,18 58,15 13,67
CT3 7 45 35,33 35,33 29,34
CT4 8 45 25,46 33,16 41,38
Từ kết quả bảng 1 cho thấy, thời gian khử trùng
càng lâu, tỷ lệ mẫu nhiễm giảm rõ rệt tỷ lệ mẫu
nhiễm giảm từ 79,35% xuống còn 33,16% khi thời gian
khử trùng tăng từ 5 phút lên 8 phút tuy nhiên đồng
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 38
thời với tỷ lệ mẫu nhiễm giảm khi thời gian khử
trùng tăng lên thì tỷ lệ mẫu chết cũng tăng lên rất
cao từ 9,54% ở công thức khử trùng trong 5 phút lên
41,38% ở công thức khử trùng mẫu trong 8 phút. Với
thời gian khử trùng trong 7 phút thì tỷ lệ mẫu sống
và sạch đạt cao nhất (35,33%) sau 6 tuần nuôi cấy.
3.1.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian khử
trùng HgCl2 (0,1%) đến khả năng sống và sạch của
mẫu cấy cây lan Giả hạc Pháp Bảng 2. Ảnh hưởng của thời gian khử trùng HgCl2 (0,1%) đến khả năng sống và sạch của
mẫu cấy lan Giả hạc Pháp (sau 6 tuần nuôi cấy)
Các chỉ tiêu đánh giá CTTD
CTTN
Thời gian
(phút)
Tổng số mẫu
(mẫu) Tỷ lệ mẫu
sống sạch (%)
Tỷ lệ mẫu nhiễm
(%)
Tỷ lệ
mẫu chết (%)
CT1 5 45 25,83 60,50 13,67
CT2 6 45 36,44 42,02 21,54
CT3 7 45 31,73 30,72 37,55
CT4 8 45 20,89 30,48 48,63
Từ kết quả bảng 2 cho thấy cũng tương tự như
khi sử dụng dung dịch khử trùng Presept, việc sử
dụng HgCl2 (0,1%) để khử trùng mẫu cấy cây lan Giả
hạc Pháp với thời gian càng dài thì tỷ lệ nhiễm càng
giảm tuy nhiên tỷ lệ chết mẫu cũng tăng lên. Tỷ lệ
mẫu sống, sạch đạt từ 20,89 – 36,44% đạt cao nhất
(36,44%) ở công thức khử trùng mẫu trong 6 phút.
3.1.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của phương pháp
khử trùng mẫu kép bằng dung dịch HgCl2 (0,1%) và
dung dịch Precept (0,1%) đến khả năng sống và sạch của mẫu cấy cây lan Giả hạc Pháp
Trong thí nghiệm các mẫu nuôi cấy sau khi
ngâm trong dung dịch HgCl2 (0,1%) 5 phút được rửa
lại bằng nước vô trùng 3 – 4 lần rồi bóc bỏ các lớp lá
bao phía ngoài rồi mới tiếp tục khử trùng lần 2 trong
dung dịch Precept (0,1%) trong thời gian từ 1 – 4
phút.
Bảng 3. Ảnh hưởng của phương pháp khử trùng mẫu kép bằng dung dịch HgCl2 (0,1%) và dung dịch Precept
(0,1%) đến khả năng sống và sạch của mẫu cấy lan Giả hạc Pháp (sau 6 tuần nuôi cấy)
Các chỉ tiêu đánh giá CTTD
CTTN
Thời gian
(phút)
HgCl2 (0,1%)
Thời gian
(phút)
(Precept 0,1%)
Tỷ lệ mẫu
sống sạch (%)
Tỷ lệ mẫu
nhiễm (%)
Tỷ lệ
mẫu chết (%)
CT1 5 1 29,75 55,83 14,42
CT2 5 2 38,68 40,97 20,35
CT3 5 3 44,67 28,34 26,99
CT4 5 4 32,11 22,48 45,41
Kết quả bảng 3 cho thấy việc sử dụng kết hợp cả
hai loại dung dịch HgCl2 (0,1%) và dung dịch Precept
(0,1%) để khử trùng mẫu cho cây lan Giả hạc Pháp tỏ
ra có hiệu quả cao hơn hẳn so với việc sử dụng riêng
rẽ từng chất. Tỷ lệ mẫu cấy sạch và sống đạt cao nhất
(44,67%) khi sử dụng công thức khử trùng là 5 phút
HgCl2 (0,1%) + 3 phút Precept (0,1%).
3.2. Nghiên cứu nuôi cấy tái sinh chồi mẫu cấy
lan Giả hạc Pháp
Từ nguồn mẫu sống và sạch của các thí nghiệm
giai đoạn tạo nguồn vật liệu khởi đầu, tiến hành các
thí nghiệm tái sinh chồi trên nền môi trường
Hyponex có bổ sung các chất điều tiết sinh trưởng
với nồng độ khác nhau nhằm xác định được chất
điều tiết sinh trưởng, nồng độ thích hợp nhất bổ
sung vào môi trường nuôi cấy tái sinh nhằm làm
tăng số lượng mẫu cấy để phục vụ cho quá trình
nhân nhanh tiếp theo. 3.2.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của BA
(benzyl adenine) đến khả năng phát sinh chồi mẫu
cấy lan Giả hạc Pháp
BA là một trong những cytokinin được sử dụng
khá phổ biến trong nuôi cấy mô rất nhiều loại cây
trồng nó có tác động rất hiệu quả đến khả năng phát
sinh chồi của mẫu nuôi cấy. Trên môi trường nuôi
cấy ở giai đoạn này đã sử dụng BA ở các nồng độ từ 0
- 2,0 mg/l. Sau 6 tuần nuôi cấy, kết quả được thể hiện
qua bảng 4.
Kết quả bảng 4 cho thấy BA đã có tác động rất
mạnh đến sự bật chồi cũng như sự hình thành chồi
của lan Giả hạc Pháp. Tỷ lệ mẫu bật chồi, số
chồi/mẫu cấy tăng cùng với sự tăng của nồng độ BA
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 39
bổ sung vào môi trường nuôi cấy. Tỷ lệ mẫu bật chồi
tăng từ 54% lên 100% khi nồng độ BA tăng từ 0 lên
2mg/l cùng với đó là hệ số nhân cũng tăng từ 1,17
lần lên 2,38 lần. Các công thức có bổ sung BA đều có
tỷ lệ mẫu bật chồi cũng như số lượng chồi/mẫu cao
hơn hẳn so với đối chứng sau 8 tuần nuôi cấy. Tỷ lệ
mẫu bật chồi cũng như số lượng chồi/mẫu cấy tăng
cùng với sự tăng của nồng độ BA ở dải nồng độ từ 0,5
– 1,5 mgBA/l môi trường. Tuy nhiên, số lượng
chồi/mẫu cấy lại giảm (từ 2,38 chồi/mẫu cấy xuống
còn 2,13 chồi/mẫu cấy) khi nồng độ BA tăng từ
1,5mg/l lên 2mg/l. Như vậy, việc bổ sung BA vào
môi trường nuôi cấy 1,5 mg/l là thích hợp nhất cho
quá trình tái sinh mẫu cấy cây lan Giả hạc Pháp. Ở
nồng độ này thì 100% mẫu cấy ban đầu xuất hiện chồi
và số chồi/mẫu cấy đạt cao nhất là 2,38 chồi/mẫu.
Bảng 4. Ảnh hưởng của BA đến khả năng phát sinh chồi mẫu cấy lan Giả hạc Pháp (sau 8 tuần nuôi cấy)
CTTD
CTTN Nồng độ BA (mg/l) Tỷ lệ mẫu bật chồi (%)
Số lượng
chồi/mẫu
CT1: ĐC 0 54,00 1,17
CT2 0,5 85,00 1,75
CT3 1,0 94,00 1,92
CT4 1,5 100,00 2,38
CT5 2,0 100,00 2,13
LSD0,05 0,10
CV% 3,00
Ghi chú: ĐC = 2gHyponex + 15g/l sucrose + 4,0g /lagar.
3.2.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của Kinetin (K) đến khả năng phát sinh chồi mẫu cấy cây lan Giả hạc Pháp Bảng 5. Ảnh hưởng của của Kinetin đến khả năng phát sinh chồi mẫu cấy lan Giả hạc Pháp (sau 8 tuần nuôi cấy)
CTTD
CTTN Nồng độ K (mg/l) Tỷ lệ mẫu bật chồi (%)
Số lượng
chồi/mẫu
CT1: ĐC 0 54,00 1,17
CT2 0,5 72,00 1,47
CT3 1,0 90,00 1,63
CT4 1,5 96,00 1,74
CT5 2,0 100,00 1,92
LSD0,05 0,15
CV% 4,20
Ghi chú: ĐC = 2gHyponex + 15g/l sucrose + 4,0g/lagar.
Từ kết quả bảng 5 cho thấy cũng tưng tự như BA
việc bổ sung Kinetin vào môi trường nuôi cấy cũng
có kích thích sự phát sinh chồi cũng như sự hình
thành chồi của các mẫu cấy cây lan Giả hạc Pháp.
Tuy nhiên, các kết quả thu được từ việc bổ sung
Kinetin vào môi trường nuôi cấy đều thấp hơn so với
với việc bổ sung BA. Số lượng chồi/mẫu cấy (hệ số
nhân) tăng từ 1,17 lần lên 1,92 lần khi nồng độ
Kinetin tăng từ 0 lên 2mg/l và đồng thời tỷ lệ mẫu
cấy bật chồi cũng tăng từ 54 lên 100% và ở nồng độ
Kinetin là 2 mg/l môi trường cho tỷ lệ mẫu bật chồi
cũng như số lượng chồi/mẫu cấy đạt cao nhất (lần
lượt là 100% và 1,92 chồi/mẫu cấy).
3.2.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của TDZ (Thidiazuron) đến khả năng phát sinh chồi mẫu cấy
lan Giả hạc Pháp
TDZ là một chất điều hòa sinh trưởng mạnh
được xếp vào nhóm cytokinin, nhưng được nhận thấy
là có khả năng thay thế đồng thời cytokinin và auxin
để kích thích quá trình phát sinh hình thái trong nuôi
cấy mô (Te-Chato và Lim, 1999; Murthy và Saxena,
1998). Trong thời gian gần đây, TDZ được sử dụng
rộng rãi trong nuôi cấy mô do hoạt tính auxin và
cytokinin cao hơn hẳn so với các auxin và cytokinin
thông thường. Để tìm hiểu ảnh hưởng của TDZ đến
sự phát sinh hình thái của mẫu cấy cây lan Giả hạc
Pháp đã tiến hành bổ sung vào môi trường nuôi cấy
TDZ ở các nồng độ khác nhau kết quả được thể hiện
ở bảng 6.
Kết quả bảng 6 đã cho thấy ở dải nồng độ từ 0 –
0,8 mg/lít môi trường không những làm tăng tỷ lệ
bật chồi của mẫu cấy (từ 54% lên 100%) mà số lượng
chồi/mẫu cấy cũng tăng lên rõ rệt (tăng từ 1,17
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 40
chồi/mẫu cấy lên 2,52 chồi/mẫu cấy) đạt cao nhất ở
CT5 (bổ sung 0,8 mg TDZ/lít môi trường). Tuy
nhiên khi nồng độ TDZ tăng từ 0,8 mg lên 1,0 mg/lít
thì số chồi/mẫu cấy lại giảm (còn 2,39 chồi).
Bảng 6. Ảnh hưởng của của TDZ đến khả năng phát sinh chồi mẫu cấy lan Giả hạc Pháp (sau 8 tuần nuôi cấy)
CTTD
CTTN Nồng độ TDZ (mg/l) Tỷ lệ mẫu bật chồi (%)
Số lượng
chồi/mẫu
CT1: ĐC 0 54,00 1,17
CT2 0,2 82,00 1,53
CT3 0,4 100,00 1,81
CT4 0,6 100,00 2,24
CT5 0,8 100,00 2,52
CT6 1,0 100,00 2,39
LSD0,05 0,18
CV% 5,20
Ghi chú: ĐC = 2gHyponex + 15g/l sucrose + 4,0g /lagar.
Như vậy TDZ có tác dụng kích thích đến sự phát
sinh chồi của mẫu cấy ban đầu. Nồng độ TDZ thích
hợp để bổ sung vào môi trường nuôi cấy là 0,8 mg/lít
môi trường.
3.3. Nghiên cứu nhân nhanh chồi mẫu cấy cây
lan Giả hạc Pháp
3.3.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của BA kết hợp với
Kinetin (K) đến khả năng nhân nhanh chồi lan Giả hạc Pháp
Bảng 7. Ảnh hưởng của BA kết hợp với Kinetin đến khả năng nhân nhanh chồi lan Giả hạc Pháp
(sau 8 tuần nuôi cấy)
CTTD
CTTN
Nồng độ BA
(mg/l)
Nồng độ
K (mg/l)
Hệ số nhân
(lần)
Chiều cao TB
chồi (cm)
Số lá TB
(Lá/chồi)
CT1: ĐC 1,0 0,0 2,32 2,45 3,27
CT2 1,0 0,3 2,46 2,54 3,47
CT3 1,0 0,5 2,84 2,62 3,53
CT4 1,0 0,7 2,89 2,83 3,66
CT5 1,0 1,0 2,91 2,94 3,64
LSD0,05 0,15 0,34 0,20
CV% 4,00 2,10 2,70
Kết quả bảng 7 cho thấy việc bổ sung BA kết hợp
với Kinetin vào môi trường nuôi cấy đã làm đã làm
thay đổi hệ số nhân chồi, chiều cao, số lá/chồi theo
chiều hướng tăng cao hơn so với việc chỉ bổ sung chỉ
có BA. Ở các công thức có bổ sung thêm Kinetin thì
hệ số nhân chồi, chiều cao, số lá đều tăng theo chiều
tăng của nồng độ Kinetin. Tuy nhiên ở các công thức
có bổ sung từ 0,5 đến 1 mgK/lít môi trường thì sự tăng
không có sai khác có ý nghĩa thống kê.
Như vậy sau 8 tuần nuôi cấy thì ở công thức môi
trường có bổ sung 1 mgBA kết hợp với 0,5 mgK/lít
môi trường cho hệ số nhân, chiều cao, số lá lần lượt
đạt 2,84 lần, 2,62 cm và 3,53 lá là công thức tốt nhất
cho quá trình nhân nhanh cây lan Giả hạc Pháp.
3.3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của BA kết hợp với αNAA đến khả năng nhân nhanh chồi lan Giả hạc
Pháp
Tỷ lệ cytokinin/auxin rất quan trọng đối với sự
phát sinh hình thái trong quá trình nuôi cấy của rất
nhiều đối tượng cây trồng. Sự kết hợp giữa cytokinin
với auxin ở một tỷ lệ nhất định có thể cải thiện được
khả năng phát sinh cũng như làm tăng sự sinh
trưởng của chồi. Do vậy, nghiên cứu này tiến hành
thử nghiệm các công thức nhân nhanh chồi với các
tổ hợp của BA và NAA ở các nồng độ khác nhau.
Các kết quả chỉ ra ở bảng 8 cho thấy việc bổ
sung kết hợp giữa BA và αNAA vào môi trường nhân
nhanh cây lan Giả hạc Pháp hầu như không làm thay
đổi các chỉ số như hệ số nhân chồi, chiều cao, số
lá/chồi. Giữa các công thức có bổ sung NAA cũng
như công thức không bổ sung NAA không có sự sai
khác có ý nghĩa thống kê.
Như vậy việc kết hợp NAA với BA trong môi trường
nhân nhanh cây lan Giả hạc Pháp là không có ý nghĩa.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 41
Bảng 8. Ảnh hưởng của BA kết hợp với αNAA đến khả năng nhân nhanh chồi lan Giả hạc Pháp
(sau 8 tuần nuôi cấy)
CTTD
CTTN
Nồng độ BA
(mg/l)
Nồng độ
αNAA (mg/l)
Hệ số nhân
(lần)
Chiều cao
TB chồi
(cm)
Số lá TB
(Lá/chồi)
CT1: ĐC 1,0 0,0 2,32 2,45 3,27
CT2 1,0 0,3 2,36 2,43 3,17
CT3 1,0 0,5 2,41 2,32 3,13
CT4 1,0 0,7 2,39 2,48 3,26
CT5 1,0 1,0 2,33 2,54 2,11
LSD0,05 0,17 0,13 0,16
CV% 2,5 2,1 3,3
3.3.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của dịch nghiền chuối
đến khả năng nhân nhanh chồi lan Giả hạc Pháp.
Theo Van Staden và cs (1975), dịch chuối chứa
nhiều thành phần dinh dưỡng quan trọng về mặt sinh
lý là serotonin, norepinephrine cùng với dopamine và
một số catechomaline chưa xác định. Việc bổ sung
dịch nghiền chuối vào môi trường nuôi cấy hoa lan
thường kích thích sự sinh trưởng bởi nó có tác dụng
ổn định pH môi trường và chứa hợp chất có hoạt tính
cytokinin tự nhiên.
Việc bổ sung dịch chiết dinh dưỡng vào môi
trường nuôi cấy đa số loài lan đều đem lại các hiệu
quả khác nhau. Việc bổ sung dịch chiết chuối có tác
dụng kích thích đối với khả năng tạo protocorm và
sinh trưởng chồi cây lan Hài (Hoàng Thị Giang và cs,
2010).
Bảng 9. Ảnh hưởng của dịch nghiền chuối đến khả năng nhân nhanh chồi lan
Giả hạc Pháp (sau 8 tuần nuôi cấy)
CTTD
CTTN
Hàm lượng chuối
(g/l)
Hệ số nhân
(lần)
Chiều cao TB
chồi (cm)
Số lá TB
(Lá/chồi)
CT1: ĐC 0,0 1,13 2,21 3,12
CT2 30,0 1,80 2,71 3,39
CT3 50,0 2,06 2,87 3,43
CT4 70,0 2,17 2,93 3,46
CT5 100,0 2,21 2,88 3,40
LSD0,05 0,21 0,18 0,10
CV% 3,6 2,7 2,1
Kết quả bảng 9 cho thấy bổ sung dịch nghiền
chuối vào môi trường nuôi cấy cho hệ số nhân chồi
cũng như sinh trưởng của chồi đều cao hơn so với
không bổ sung dịch nghiền chuối (hệ số nhân tăng
từ 1,13 lần lên 2,21 lần, chiều cao tăng từ 2,21 cm lên
2,93cm, số lá tăng từ 3,12 lên 3,46 lá/chồi). Tuy
nhiên các công thức bổ sung dịch nghiền chuối từ 50
– 100 gam/lít môi trường thì không có sự sai khác có
ý nghĩa thống kê của các kết quả thu được.
Như vậy việc bổ sung dịch nghiền chuối vào môi
trường nuôi cấy đã có tác dụng tích cực thúc đẩy quá
trình đẻ chồi của cây lan Giả hạc Pháp. Bổ sung 50
gam dịch nghiền chuối là hàm lượng tốt nhất.
3.3.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của dịch nghiền
khoai tây đến khả năng nhân nhanh chồi lan Giả hạc
Pháp
Khoai tây là nguồn nguyên liệu rất giàu
cacbohydrat, protein, acid amin, vitamin và các
nguyên tố khác. Ngoài ra trong khoai tây có chứa
cytokinine có tác dụng phân bào kích thích khả năng
tạo chồi. Dịch khoai tây là một loại dịch chiết hữu cơ
tự nhiên thường được sử dụng trong môi trường
nhân nhanh một số loài Lan (lan Hồ Điệp, lan Đai
Trâu…).
Cũng tương tự như việc bổ sung dịch nghiền
chuối, dịch nghiền khoai tây bổ sung vào môi trường
nuôi cấy cũng có tác dụng nhất định trong việc kích
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 42
thích sự đẻ chồi của cây lan Giả hạc Pháp với hàm
lượng bổ sung là 50 g/lít môi trường là thích hợp
nhất. Ở công thức này cho hệ số nhân đạt 1,86 lần
chiều cao trung bình chồi: 2,68 cm và số lá là 3,3 lá
sau 8 tuần nuôi cấy.
Bảng 10. Ảnh hưởng của dịch nghiền khoai tây đến khả năng nhân nhanh chồi lan Giả hạc Pháp
(sau 8 tuần nuôi cấy)
CTTD
CTTN
Hàm lượng khoai
tây (g/l)
Hệ số nhân
(lần)
Chiều cao
TB chồi (cm)
Số lá TB
(Lá/chồi)
CT1: ĐC 0,0 1,13 2,21 3,12
CT2 30,0 1,58 2,57 3,28
CT3 50,0 1,86 2,91 3,30
CT4 70,0 1,97 2,94 3,36
CT5 100,0 2,11 2,86 3,40
LSD0,05 0,17 0,21 0,23
CV% 3,4 2,9 3,6
3.3.5. Nghiên cứu ảnh hưởng của dịch nghiền chuối, khoai tây đến khả năng nhân nhanh chồi lan Giả hạc Pháp
Bảng 11. Ảnh hưởng của dịch nghiền chuối, khoai tây đến khả năng nhân nhanh chồi lan Giả hạc Pháp
(sau 8 tuần nuôi cấy)
CTTD
CTTN
Hàm lượng
chuối (g/l)
Hàm lượng khoai
tây (g/l)
Hệ số nhân
(lần)
Chiều cao TB
chồi (cm)
Số lá TB
(Lá/chồi)
CT1: ĐC 0 0 1,13 2,21 3,12
CT2 30,0 30,0 2,15 2,98 3,48
CT3 50,0 50,0 2,48 3,25 3,51
CT4 70,0 70,0 2,57 3,43 3,50
CT5 100,0 100,0 2,63 3,39 3,47
LSD0,05 0,19 0,23 0,19
CV% 4,3 3,6 2,1
Các kết quả ở bảng 11 đã chỉ ra rằng bổ sung kết
hợp cả hai loại chuối và khoai tây vào môi trường
nuôi cấy đã cho hệ số nhân cũng như sinh trưởng
của chồi (chiều cao, số lá) tăng cao hơn hẳn so với
việc bổ sung riêng rẽ từng loại. Hệ số nhân chồi tăng
từ 1,13 lần lên 2,63 lần sau 8 tuần nuôi cấy cùng với
đó là sinh trưởng của chồi cũng tăng từ 2,21cm và
3,12 lá lên 3,43cm và 3,50 lá/chồi. Trên môi trường
có bổ sung dịch nghiền chuối và khoai tây khi các
chồi >2cm thì bắt đầu xuất hiện rễ và khi chồi 3cm
thì có thể đạt 3 – 4 rễ/cây. Ở các công thức kết hợp
giữa chuối và khoai tây từ 50 – 100 gam cho từng loại
thì kết quả thu được đều cao hơn việc bổ sung 30 gam
mỗi loại và cao hơn đối chứng. Tuy nhiên sự sai khác
của các công thức có bổ sung 50 gam, 70 gam hay 100
gam mỗi loại là không có ý nghĩa thống kê.
Như vậy việc bổ sung vào môi trường dịch
nghiền của chuối và khoai tây với hàm lượng là
50gam mỗi loại là thích hợp nhất cho môi trường
nhân nhanh cũng như nuôi cây lan Giả hạc Pháp. Vì
trên môi trường này đã cho hệ số nhân chồi đạt 2,48
lần sau 8 tuần nuôi cấy và các chồi hình thành sinh
trưởng phát triển rất tốt và tất cả các chồi đều xuất
hiện rễ trên chính môi trường này mà không cầm trải
qua quá trình tạo rễ cho chồi như hầu hết các loại
cây khác.
3.4. Các nghiên cứu ngoài vườn ươm
Đây là giai đoạn có ý nghĩa quyết định đến khả
năng sống, số lượng cây sẽ có được sau quá trình
nhân giống trong phòng. Quá trình chuyển từ môi
trường nhân tạo sang môi trường tự nhiên có nhiều
tác động của môi trường. Để tạo cho cây ra vườn có
tỷ lệ sống cao, đã tiến hành nghiên cứu: thời vụ ra
cây, giá thể cho cây lan Giả hạc Pháp ngoài vườn
ươm.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 43
Các yếu tố thời vụ, giá thể, dinh dưỡng, … là các
yếu tố rất quan trọng liên quan đến sự sống, sinh
trưởng, phát triển của tất cả các cây sau cấy mô nói
chung cũng như cây lan Giả hạc nói riêng.
3.4.1. Ảnh hưởng của giá thể đến sự sống, sinh
trưởng và phát triển của lan Giả hạc Pháp ngoài vườn
ươm.
Bảng 12. Ảnh hưởng của giá thể đến sự sống, sinh trưởng và phát triển của lan Giả hạc Pháp ngoài vườn ươm
(8 tuần sau trồng).
CTTD
Giá thể Tỷ lệ cây sống (%) Chiều cao cây (cm) Số lá/cây
CT1: Dớn 96,80 7,46 5,52
CT2: Xơ dừa 81,55 6,17 5,08
CT3: Dương xỉ 1 95,09 7,34 5,32
CT4: Dương xỉ 2 85,34 6,92 5,28
LSD0,05 0,29 0,19
CV% 5,40 4,2
Dương xỉ 1: Rễ cây dương xỉ được băm nhỏ rồi
nhồi vào chậu trồng.
Dương xỉ 2: Cây được gá trực tiếp vào một miếng
dương xỉ lớn.
Kết quả bảng 12 cho thấy ở giai đoạn vườn ươm
loại giá thể xốp mềm có khả năng giữ ẩm cao tỏ ra
rất thích hợp cho sự sống cũng như sinh trưởng của
cây lan Giả hạc. Tỷ lệ cây sống đạt cao nhất trên nền
giá thể dớn và dương xỉ vụn (96,8%, và 95,09) đây là
loại giá thể mềm và xốp, khả năng giữ ẩm rất cao.
Còn đối với chỉ xơ dừa và dương xỉ để nguyên tỷ lệ
này chỉ đạt lần lượt là 81,55% và 85,34% vì đây là loại
giá thể khá trơ khả năng giữ nước rất kém vì vậy mà
sự hình thành phát triển rễ mới rất kém dẫn đến sinh
trưởng, phát triển của cây cũng giảm rõ rệt so với giá
thể dớn hay dương xỉ vụn.
Như vậy giai đoạn vườn ươm của cây lan giả hạc
Pháp có thể sử dụng giá thể dớn hay dương xỉ vụn là
thích hợp nhất cho sự sống, sinh trưởng, phát triển
của cây con.
3.4.2. Ảnh hưởng của thời vụ ra cây đến sự sống,
sinh trưởng và phát triển của lan Giả hạc Pháp ngoài
vườn ươm Thời vụ ra cây có ảnh hưởng khá lớn đến sự sinh
trưởng và phát triển của cây lan. Cây lan sinh trưởng
và phát triển tốt ở điều kiện có nhiệt độ 25 - 300C và
độ ẩm đầy đủ khoảng 65 - 80%. Việc bố trí thời vụ ra
cây thích hợp, tạo điều kiện cho các yếu tố khí hậu
thời tiết bên ngoài phù hợp với yêu cầu sinh trưởng
phát triển của cây lan.
Trong điều kiện ngoại cảnh thuận lợi thì khả
năng ra lá, sinh trưởng và phát triển thân của cây lan
phát triển rất mạnh. Chính vì vậy, thời vụ ra cây hợp
lí đảm bảo cho cây được sinh trưởng, phát triển tốt
nhất, giảm khả năng chết của cây lan ngoài vườn
ươm. Do đó, đã tiến hành nghiên cứu trên bốn thời
vụ ra cây ngoài vườn ươm cho cây lan Giả hạc Pháp:
Ra cây vào các thời vụ khác nhau: Vụ xuân (từ tháng
1- tháng 3), vụ hè (từ tháng 4 -tháng 6), vụ thu (từ
tháng 7 -tháng 9), vụ đông (từ tháng 10 - tháng 12).
Kết quả nghiên cứu và theo dõi chỉ tiêu chiều
cao và số lá của cây được trình bày trong bảng 13.
Bảng 13. Ảnh hưởng của thời vụ ra cây đến sự sống, sinh trưởng và phát triển của lan Giả hạc Pháp
ngoài vườn ươm (Sau trồng 8 tuần)
CTTD
Thời vụ Tỷ lệ cây sống (%) Chiều cao cây TB (cm) Số lá/cây
Vụ xuân (t1 – t3) 83,85 5,82 4,86
Vụ hè (t4 - t6) 91,83 7,29 5,84
Vụ thu (t7 - t9) 95,35 7,75 5,93
Vụ đông (t10 – t12) 85,74 6,21 4,16
Từ kết quả bảng 13 cho thấy có thể ra cây lan
Giả hạc Pháp vào tất cả các thời vụ trong năm đều
cho tỷ lệ sống của cấy đạt > 80% đặc biệt vào các vụ
hè và thu thì tỷ lệ này còn lên đến > 90%. Có thể nói
cây lan Giả hạc Pháp khá thích nghi với sự thay đổi
về điều kiện nhiệt độ trong năm ở điều kiện miền
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 44
Bắc nước ta. Tuy nhiên vào các thời điểm nhiệt độ
xuống thấp (từ tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm
sau thì sinh trưởng của cây giảm khá rõ rệt. Tỷ lệ
sống cũng như sinh trưởng, phát triển của cây đạt
được cao nhất tại các thời vụ ra cây là từ tháng 4 đến
tháng 9 trong năm.
4. KẾT LUẬN
Sử dụng kết hợp cả hai loại dung dịch HgCl2
(0,1%) và dung dịch Precept (0,1%) để khử trùng mẫu
cho cây lan Giả hạc Pháp có hiệu quả cao hơn hẳn so
với việc sử dụng riêng rẽ từng chất. Tỷ lệ mẫu cấy
sạch và sống đạt cao nhất (44,67%) khi sử dụng công
thức khử trùng là 5 phút HgCl2 (0,1%) + 3 phút
Precept (0,1%)
Bổ sung 1,5mg/lBA hay 0,8mg/lTDZ vào nền
môi trường: 2g Hyponex+15g/l saccarose + 4g/l agar
ở pH 5,5 đều có tác dụng tốt nhất cho quá trình tái
sinh chồi của cây lan Giả hạc Pháp. Trên các nền
môi trường có bổ sung BA hay TDZ thì hệ số nhân
chồi đạt lần lượt là 2,38 lần và 2,52 lần sau 8 tuần nuôi
cấy.
Môi trường 2g/l Hyponex + 15g/l saccarose +
4g/l agar ở pH 5,5 có bổ sung 1mg/lBA kết hợp với
0,5mg/l K hay 50g/l dịch nghiền chuối+ 50g/l dịch
nghiền khoai tây là những môi trường tốt nhất cho
quá trình nhân nhanh. Trên các môi trường này hệ
số nhân đạt lần lượt 2,84 lần và 2,41 lần sau 8 tuần
nuôi cấy.
Sử dụng môi trường 2g/l Hyponex + 15g/l
saccarose + 4g/l agar + 50g/l dịch nghiền chuối+
50g/l dịch nghiền khoai tây là môi trường rất thích
hợp cho sinh trưởng, phát triển cũng như ra rễ của
các chồi cây lan Giả hạc pháp.
Sử dụng giá thể dớn hay dương xỉ vụn là thích
hợp nhất để ra cây ngoài vườn ươm. Bằng việc sử
dụng giá thể này có thể cho tỷ lệ sống của cây đạt từ
95,09 đến 96,80%, cây sinh trưởng phát triển tốt trên
các nền giá thể này.
Có thể ra cây lan Giả hạc Pháp tất cả các tháng
trong năm đều cho tỷ lệ cây sống đạt > 80%. Tuy
nhiên thời gian ra cây tốt nhất là từ tháng 4 – tháng 9
cho tỷ lệ cây sống đạt > 90% cây sinh trưởng, phát
triển rất tốt vì vậy khi qua các tháng mùa đông khả
năng chống chịu của cây với điều kiện lạnh rất tốt và
khi sang xuân cây bật sinh trưởng rất mạnh,
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tiến Bân và nhiều tác giả (2010),
Sách Đỏ Việt Nam, phần thực vật, NXB Khoa học Tự
nhiên và Xã hội, tr 329.
2. Võ Hà Giang, Ngô Xuân Bình (2010). Nghiên
cứu nhân giống phong lan đuôi chồn (Rhynchotylis
rotunda (L.) Blume) bằng phương pháp nuôi cấy mô
tế bào, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
số 5/2010, tr. 25-30.
3. Hoàng Thị Giang, Nguyễn Quang Thạch, Mạch
Hồng Thắm, Đỗ Thị Thu Hà (2010) Nghiên cứu in vitro
và nuôi trồng giống lan Hài quý P. hangianum perner
Gurss (Hài Hằng) thu thập ở Việt Nam, Tạp chí Khoa
học và Phát triển 2010, tập 8, số 2, tr.194 – 201
4. Vũ Ngọc Lan, Nguyễn Thị Lý Anh (2013).
Nhân giống in vitro loài lan bản địa Dendrobium
nobile Lindl. Tạp chí Khoa học và phát triển 2013, tập
11, số 7: 917-925.
5. Nguyễn Văn Song (2011). Nhân nhanh in vitro
lan Kim Điệp (Dendrobium chrysotosum). Tạp chí
Khoa học ĐH Huế số 64, tr 127-136.
6. A Niknejad, M. A. Kadir and S. B. Kadzimin.
In vitro plant regeneration from protocorms-like
bodies (PLBs) and callus of Phalaenopsis gigantea
(Epidendroideae: Orchidaceae). African Journal of
Biotechnology Vol. 10(56), pp. 11808-11816, 26
September, 2011.
7. Shreeti Pradhan, Yagya P. Paudel and Bijaya
Pant (2013). Efficient regeneration of plants from
shoot tip explants of Dendrobium densiflorum Lindl,
Medicinal orchid. African Journal of Biotechnology
Vol.12(12),pp.1378-1383,20 March,2013.
8. Udomdee W., Wen P. J., Lee C. Y., Chin S. W.,
Chen F. Y., 2014. Effect of sucrose concentration and
seed maturity on in vitro germination of
Dendrobiumnobile hybrids. Plant Growth Regul. 72:
249-255.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 45
STUDY ON MICROPROPAGATION OF DENDROBIUM ADASTRA BY TISSUE CULTURE
Hoang Thi Nga, Nguyen Thi Ly Anh, Nguyen Xuan Hung, Nguyen Thi Ha
Institute of Agrobiology, Vietnam National University of Agriculture
Summary Dendrobium adastra orchid has very high economic value, because flowers have beautiful designs and
unique scents are very popular and hunted very much. Some basic parameters in the process of propagating
fake French crane with high efficiency have been implemented by us: the samples were sterilized by using
HgCl2 0.1% combined in 5 minutes with sodium dichloroisocyanurate (NaDCC) in 3 minutes. The living and
clean rate is 44,67%. The medium 2g Hyponex (6:6.5:19) + 15g/l saccarose + 4g/l agar + 1,5mg/lBA (or
0.8mg/lTDZ) at pH 5.5 was the best medium for bud induction, have got 2.38 – 2.52 timesafter 8 weeks. The
best medium for rapid micropropagation was 2g Hyponex (6:6.5:19) + 15g/l saccarose + 4g/l agar +
1,0mgBA + 0,5mg/lK (or 50g/l bananaextract + 50g/l potatoextract. The multiplication rate is from 2.48 –
2.84 times after 8 weeks. The rooting medium was 2g Hyponex (6:6.5:19) + 15g/l saccarose + 4g/l agar +
50g/l bananaextract + 50g/l potato extract + 0.5g/l active charcoal. Seaweed or fern chips are most suitable
for out-of-nursery plants using this substrate that can result in a survival rate of 95.09 to 96.80%. The best
time to plant is from April to September with the rate of live trees reaching over 90% of the plants growing
and developing very well so when the winter months are over, the plants' ability to resist with cold
conditions is very good. and when spring comes, the plants turn up very strong.
Keywords: Dendrobium adastra, in vitro, Hyponex, TDZ, BA, Kinetin.
Người phản biện : PGS.TS. Nguyễn Văn Đồng
Ngày nhận bài : 16/7/2019
Ngày thông qua phản biện : 16/8/2019
Ngày duyệt đăng : 23/8/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 46
ẢNH HƯỞNG CỦA NANO BẠC ĐẾN SINH TRƯỞNG,
PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG SUẤT CỦ SIÊU NGUYÊN CHỦNG
(MINI TUBER) KHOAI TÂY TRONG NHÀ CÁCH LY Nguyễn Xuân Trường1, Bùi Thị Thu Hương2,
Phạm Thị Thùy2, Vi Quốc Hiền1, Đồng Huy Giới2*
TÓM TẮT Nghiên cứu này được tiến hành nhằm mục đích đánh giá ảnh hưởng của nano bạc đến sinh trưởng, phát
triển và năng suất của khoai tây trồng trong nhà màn cách ly. Thí nghiệm được thực hiện trên hai giống
khoai tây Atlantic và Bliss với nồng độ nano bạc khác nhau (0,0; 2,0; 4,0; 6,0; 8,0; 10,0 ppm). Kết quả
nghiên cứu cho thấy, nano bạc đã thúc đẩy sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của hai giống khoai tây
thí nghiệm. Xử lý nano bạc ở nồng độ 8,0 ppm cho kết quả tốt nhất ở tất cả các chỉ tiêu theo dõi. Khối
lượng trung bình củ đạt 25,6 g (Atlantic) và 20,4 g (Bliss). Năng suất thực thu đạt 1587,2 g/m2 (Atlantic)
và 2040,0 g/m2 (Bliss). Kết quả nghiên cứu này là cơ sở khoa học để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao
năng suất và chất lượng trong sản xuất khoai tây giống ở Việt Nam.
Từ khóa: Nano bạc, khoai tây, năng suất, sinh trưởng.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Cây khoai tây được trồng phổ biến trong vụ
đông ở đồng bằng sông Hồng, do nó không đòi hỏi
quá khắt khe về khung thời vụ như các loại cây khác
(Trương Văn Hộ, 2010). Tuy nhiên, năng suất khoai
tây ở Việt Nam hiện còn khá thấp, chỉ đạt khoảng
13,6 tấn/ha thấp hơn nhiều so với năng suất trung
bình thế giới (18,9 tấn/ha, FAOSAT, 2017). Hiện nay,
trong nước đã và đang hình thành hệ thống sản xuất
giống liên hoàn từ nuôi cấy mô, đến sản xuất củ siêu
nguyên chủng trong nhà màn cách ly, sản xuất củ
nguyên chủng và củ xác nhận ở vùng cách ly. Hệ
thống này đã chủ động cung cấp nguồn củ giống
sạch bệnh cho sản xuất đại trà với giá thành hạ
(Nguyễn Quang Thạch và cs, 2006). Tuy nhiên, khâu
sản xuất củ giống gốc trong nhà màn vẫn còn tồn tại
một số yếu điểm cần phải giải quyết, như cây sinh
trưởng yếu, tỷ lệ củ nhỏ cao (Nguyễn Quang Thạch
và cs, 2005).
Vật liệu nano (Nano materials) là một trong
những lĩnh vực nghiên cứu đang rất được quan tâm
trong thời gian gần đây. Với kích thước rất nhỏ bé,
vật liệu nano xuất hiện nhiều tính chất mới như tính
chất quang xúc tác, tính siêu thấm nước, hoạt tính
xúc tác cao… Đặc biệt, nhằm đảm bảo sự phát triển
một nền nông nghiệp sạch, an toàn, hiệu quả và thân
thiện với môi trường, chế phẩm nano đang được chú
1 Viện Sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2 Khoa Công nghệ sinh học, Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam * Email: [email protected]
ý sử dụng ngày càng nhiều trong trồng trọt giúp làm
tăng năng suất, chất lượng nông sản (Yu và Xie,
2012).
Trong các loại nano, nano bạc đã và đang được
ứng dụng rộng rãi và mang lại hiệu quả cao trong
nông nghiệp nói chung và trồng trọt nói riêng.
Savithramma và cs (2012) đã bổ sung nano bạc ở
nồng độ 30 ppm vào môi trường nuôi cấy để cải thiện
sự nảy mầm của hạt giống và sự phát triển cây con
của cây Nhũ hương Ấn Độ (Boswellia ovaliofoliolata).
Bên cạnh đó, Salama (2012) cũng cho biết nano
bạc thúc đẩy khả năng sinh trưởng, phát triển của
cây đậu côve và cây ngô khi xử lý nano bạc với nồng
độ từ 60 ppm. Những nghiên cứu của Gruyer và cs
(2013) chỉ ra rằng nano bạc làm tăng chiều dài rễ ở
cây lúa mạch, nhưng lại ức chế sự tăng trưởng chiều
dài rễ ở cây rau diếp.
Nano bạc còn làm giảm hàm lượng enzyme
malondialdehyd và hydro peroxide trong cây. Yin và
cs (2012) đã nghiên cứu và cho thấy, nano bạc đã
tăng cường tỷ lệ nảy mầm của một loài thực vật ngập
mặn. Nano bạc cũng được xác định là gây ra sự tăng
trưởng của rễ bằng cách chặn tín hiệu ethylene trong
cây nghệ tây (Crocus sativus) (Rezvani và cs, 2012).
Syu và cs (2014) đã nghiên cứu ảnh hưởng của hình
thái nano bạc đến phản ứng sinh lý và phân tử của
cây Arabidopsis. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nano
bạc hình đa diện có khả năng thúc đẩy sự tăng
trưởng rễ tốt nhất, trong khi đó nano bạc hình cầu lại
kích hoạt mức tích lũy anthocyanin cao nhất trong
cây Arabidopsis.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 47
Trong nuôi cấy mô, cây khoai tây thường rất
mẫn cảm với khí ethylene sản sinh ra trong quá trình
nuôi cấy. Kết quả làm cho lá bị nhỏ, thân yếu, rễ mọc
ở trên thân (Ehsanpor và Jones, 2001). Để khắc phục
hiện tượng này, các nghiên cứu của Nguyễn Thị Sơn
và cs (2010) cho thấy khi bổ sung nitrat bạc (AgNO3)
vào môi trường nuôi cấy đã hạn chế sự sản sinh khí
ethylene và thúc đẩy cây sinh trưởng. Gần đây,
Aliakbar và Zeynab (2013) đã sử dụng nano bạc với
nồng độ 1 ppm để thúc đẩy sinh trưởng phát triển
của cây khoai tây trong nuôi cấy.
Từ những thực trạng đã nêu, nghiên cứu này
được thực hiện với mục đích đánh giá hiệu quả tác
động của nano bạc đến sinh trưởng, phát triển và
năng suất của cây khoai tây ở ngoài sản xuất, đặc biệt
là giai đoạn sản xuất củ giống gốc trong nhà màn
cách ly.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Hai giống khoai tây: giống Atlantic của Mỹ, được
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận
chính thức từ năm 2007; Giống Bliss của Úc, được Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận sản
xuất thử từ năm 2019. Đây là 2 giống phù hợp cho
chế biến Chip hiện nay và được cung cấp bởi Viện
Sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt
Nam.
Nano bạc có kích thước hạt dao động 20 - 30 nm
được điều chế tại bộ môn Sinh học, khoa Công nghệ
sinh học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
2.2. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên
hoàn chỉnh, 3 lần lặp lại. Diện tích mỗi ô thí nghiệm
15m2, mật độ trồng 20 cây/m2, mỗi lần theo dõi cố
định 20 cây.
Nano bạc được xử lý với 5 nồng độ khác nhau (2,
4, 6, 8 và 10 ppm), phun trực tiếp lên lá, phun lần đầu
ngay sau khi trồng và sau đó cách 10 ngày phun lặp
lại cho đến 50 ngày sau trồng.
Quy trình trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh theo
phương pháp của Nguyễn Quang Thạch và cs (2004).
Địa điểm thực hiện: tại khu thí nghiệm của Viện
Sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt
Nam.
Thời gian thực hiện: vụ đông xuân 2018 - 2019
2.3. Các chỉ tiêu theo dõi
* Các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển:
- Chiều cao cây (cm) = tổng chiều cao cây/tổng
số mẫu đo (đo trực tiếp từ gốc đến đầu mút lá)
- Số lá/cây (lá) = tổng số lá/tổng số cây đếm
- Đường kính thân (mm) = tổng đường kính
thân/tổng số mẫu đo (đo trực tiếp trên cây tại vị trí
cách mặt đất 2cm)
- Hàm lượng diệp lục: Đo bằng máy đo chỉ số
SPAD
* Các chỉ tiêu năng suất:
- Số củ/cây = Tổng số củ/tổng số cây
- Khối lượng củ (g) = Tổng khối lượng củ/tổng
số củ
- Năng suất thực thu (g/m2): Cân tất cả củ thu
được rồi quy đổi ra g/m2
2.4. Xử lý số liệu.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm thống kê sinh
học IRRISTAT 4.0. Kiểm tra sự sai khác giữa các giá
trị trung bình bằng phép ước lượng và sử dụng tiêu
chuẩn LSD (Least Significant Different) ở độ tin cậy
95%. Kiểm tra độ biến động của thí nghiệm được biểu
hiện qua chỉ số CV% (coefficient of variation).
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của nano bạc đến chiều cao cây
của các giống khoai tây thí nghiệm
Hình 1: Ảnh hưởng của nano bạc đến chiều cao cây
của giống khoai tây Atlantic và Bliss
(6 tuần sau trồng)
Ghi chú: Các giá trị có chữ cái giống nhau biểu
thị sự sai không có ý nghĩa ở độ tin cậy 95%. Kết quả thu được ở hình 1 cho thấy, nano bạc có
ảnh hưởng tích cực đến động thái tăng trưởng chiều
cao cây của 2 giống khoai tây thí nghiệm. Ở hầu hết
các công thức xử lý nano bạc đều cho chiều cao cây
tốt hơn so với công thức đối chứng (không xử lý
nano bạc), trong đó xử lý nano bạc với nồng độ 8
ppm cho hiệu quả tốt nhất, chiều cao cây của giống
Atlantic đạt 43,9 cm và của giống Bliss đạt 42,3 cm
sau 6 tuần trồng, kết quả này cao hơn có ý nghĩa
thống kê so với các công thức còn lại. Khi xử lý nano
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 48
bạc với nồng độ 10 ppm, chiều cao cây của cả 2 giống
khoai tây thí nghiệm đều giảm đi đáng kể, điều này
có thể là do khi nồng độ nano bạc tăng cao đã làm ức
chế sự tăng trưởng chiều cao cây của khoai tây. Kết
quả này cũng tương tự như các nghiên cứu trước đây
của Salama (2012).
3.2. Ảnh hưởng của nano bạc đến số lá của các
giống khoai tây thí nghiệm
Nano bạc cũng có ảnh hưởng đến tăng trưởng số
lá của 2 giống khoai tây thí nghiệm (hình 2). Đối với
giống Atlantic, sự sai khác giữa các công thức là
không có ý nghĩa thống kê ở thời điểm 2 tuần sau
trồng, tuy nhiên đến thời điểm 4 tuần và 6 tuần sau
trồng thì đã có sự sai khác đáng kể giữa các công
thức. Trong các công thức thí nghiệm, công thức xử
lý 8 ppm nano bạc vẫn là công thức cho hiệu quả cao
nhất với 24,2 lá/cây ở giống Atlantic và 21,67 lá/cây
ở giống Bliss. Kết quả thu được cũng cho thấy rằng,
hiệu quả xử lý của nano bạc không chỉ phụ thuộc vào
nồng độ nano mà còn phụ thuộc vào giống cây trồng,
các giống cây trồng khác nhau có thể cho hiệu quả
xử lý khác nhau. Nghiên cứu của Salama (2012) đã
chỉ ra rằng, nano bạc có khả năng làm tăng số lá ở
cây đậu côve và cây ngô.
Hình 2: Ảnh hưởng của nano bạc đến số lá của giống
khoai tây Atlantic và Bliss (6 tuần sau trồng)
Ghi chú: Các giá trị có chữ cái giống nhau biểu thị sự sai không có ý nghĩa ở độ tin cậy 95%.
3.3. Ảnh hưởng của nano bạc đến đường kính
thân cây của các giống khoai tây thí nghiệm
Kết quả theo dõi sự tăng trưởng đường kính thân
2 giống khoai tây được thể hiện ở hình 3 cho thấy, ở
thời điểm 6 tuần sau trồng đã có sự sai khác đáng kể
giữa các công thức thí nghiệm. Công thức xử lý 8
ppm nano bạc vẫn là công thức cho kết quả tốt nhất
với đường kính thân tương ứng là 6,25 mm ở giống
Atlantic và 6,00 mm ở giống Bliss. Từ kết quả trên
cho thấy, nano bạc cũng có ảnh hưởng tích cực đến
động thái tăng trưởng đường kính thân của 2 giống
khoai tây thí nghiệm, tuy nhiên hiệu quả chậm hơn
so với chỉ tiêu chiều cao cây.
Hình 3: Ảnh hưởng của nano bạc đến đường kính
thân của giống khoai tây Atlantic và Bliss
(6 tuần sau trồng)
Ghi chú: Các giá trị có chữ cái giống nhau biểu
thị sự sai không có ý nghĩa ở độ tin cậy 95%. 3.4. Ảnh hưởng của nano bạc đến hàm lượng
diệp lục trên lá của các giống khoai tây thí nghiệm
Hình 4: Ảnh hưởng của nano bạc đến chỉ số SAPD
của giống khoai tây Atltantic và Bliss
(6 tuần sau trồng)
Ghi chú: Các giá trị có chữ cái giống nhau biểu thị sự
sai không có ý nghĩa ở độ tin cậy 95%. Chỉ số diệp lục (SPAD) phản ánh gián tiếp hàm
lượng diệp lục trong lá. Kết quả theo dõi sự thay đổi
chỉ số SPAD được thể hiện rõ (hình 4) ở 6 tuần sau
trồng. Chỉ số SPAD ở tất cả các công thức xử lý nano
đều cao hơn đáng kể so với công thức đối chứng,
điều này chứng tỏ nano bạc cũng có ảnh hưởng tích
cực đến chỉ số SPAD của 2 giống khoai tây thí
nghiệm. Trong tất cả các công thức thí nghiệm, công
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 49
thức xử lý 8 ppm nano bạc cho hiệu quả cao nhất với
chỉ số SPAD đạt 99,77 ở giống Atlantic và 82,5 ở
giống Bliss, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với tất cả
các công thức còn lại.
3.5. Ảnh hưởng của nano bạc đến năng suất của
2 giống khoai tây thí nghiệm
Từ kết quả thu được ở bảng 1a và 1b cho thấy,
nano bạc có ảnh hưởng tích cực đến năng suất và các
yếu tố cấu thành năng suất của 2 giống khoai tây thí
nghiệm. Đối với chỉ tiêu số lượng củ, sự sai khác giữa
các công thức là không quá lớn dao động từ 3,1
củ/cây (0,0 ppm) đến 3,2 củ/cây (4 và 6 ppm) ở
giống Atlantic và 4,8 củ/cây (0,0 và 2 ppm) đến 5,1
củ/cây (6 ppm) ở giống Bliss. Tuy nhiên, chỉ số khối
lượng trung bình củ lại có sự tăng lên đáng kể ở các
công thức xử lý nano, dao động từ 15,3 g/củ (0,0
ppm) đến 25,6 g/củ (8 ppm) ở giống Atlantic và 13,3
g/củ (0,0 ppm) đến 20,4 g/củ (8 ppm) ở giống Bliss.
Năng suất lý thuyết và năng suất thực thu ở tất cả các
công thức xử lý nano đều cao hơn so với đối chứng,
trong đó công thức xử lý 8ppm cho kết quả tốt nhất
với năng suất thực thu đạt 1587,2 g/m2 ở giống
Atlantic (cao hơn 1,6 lần so với đối chứng 948,6
g/m2) và đạt 2040,0 g/m2 ở giống Bliss (cao hơn 1,6
lần so với đối chứng 1276,9 g/m2). Cũng từ kết quả
này cho thấy, nano bạc không làm tăng số lượng
củ/cây mà làm tăng khối lượng trung bình của củ.
Kết quả này cũng tương tự với các nghiên cứu của
Tahmasbi và cs (2011). Điều này rất có ý nghĩa khi
đưa các củ giống này ra trồng ở vùng sản xuất lớn sẽ
cho sinh trưởng phát triển mạnh và năng suất cao
hơn. Các nghiên cứu trước đây cho thấy sản xuất củ
nhỏ trong nhà màn thường thu được tỷ lệ củ có khối
lượng trung bình củ < 10 g trên 60% (Nguyễn Thị
Hương và cs, 2010; Nguyễn Quang Thạch và cs,
2005).
Bảng 1a: Ảnh hưởng của nano bạc đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất thực thu
của giống khoai tây Atlantic (90 ngày sau trồng)
Chỉ tiêu theo dõi Nồng độ nano bạc
(ppm) Số củ/cây Khối lượng TB/củ (g) Số củ/m2 NSTT (g/m2)
0,0 (Đ/C) 3,1a 15,3d 62,0a 948,6c
2,0 3,1a 16,4c 62,0a 1.016,8c
4,0 3,2a 16,5c 64,0a 1.056,0bc
6,0 3,2a 18,5b 64,0a 1.184,0b
8,0 3,1a 25,6a 62,0a 1.587,2a
10,0 3,1a 17,1bc 62,0a 1.060,2bc
Bảng 1b: Ảnh hưởng của nano bạc đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất thực thu
của giống khoai tây Bliss (90 ngày sau trồng)
Chỉ tiêu theo dõi Nồng độ nano bạc
(ppm) Số củ/cây Khối lượng TB/củ (g) Số củ/m2 NSTT (g/m2)
0,0 (Đ/C) 4,8a 13,3d 96,2a 1.276,8c
2,0 4,8a 14,1c 96,5a 1.353,6c
4,0 4,9a 14,6bc 98,1a 1.430,8bc
6,0 5,1a 15,6b 99,1a 1.591,2b
8,0 5,0a 20,4a 100,0a 2.040,0a
10,0 4,9a 14,8bc 98,3a 1.450,4bc
Ghi chú: Các giá trị có chữ cái giống nhau biểu thị sự sai không có ý nghĩa ở độ tin cậy 95%.
4. KẾT LUẬN
Từ kết quả thu được cho thấy, nano bạc có ảnh
hưởng tích cực đến sinh trưởng, phát triển và năng
suất của 2 giống khoai tây trong thí nghiệm. Xử lý
nano bạc ở nồng độ 8 ppm cho hiệu quả xử lý tốt
nhất ở tất cả các chỉ tiêu theo dõi, cụ thể là:
Giống Atlantic, chiều cao cây đạt 43,9cm, đường
kính thân 0,62cm, số lá đạt 24,2 lá/cây và chỉ số
SPAD là 99,7 ở thời điểm 6 tuần sau trồng; năng suất
thực thu đạt 1587,2 g/m2, cao hơn 1,6 lần so với đối
chứng (948,6 g/m2).
Giống Blis, chiều cao cây đạt 42,3cm, đường
kính thân là 0,6cm, số lá đạt 21,6 lá/cây và chỉ số
SPAD là 82,5 ở thời điểm sau 6 tuần sau trồng; năng
suất thực thu đạt 2040,0 g/m2, cao hơn 1,6 lần so với
đối chứng (1276,9 g/m2).
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ali A. E and Zeynab. N (2013). Effect of
nanosilver on potato plant growth and protoplast
viability. Biological Lett 50 (1): 35 - 43. DOI:
10.248/biolet-2013-0004.
2. Ehsanpour. A. A, and Jones. M.G.K (2001).
Plant regeneration from mesophyll protoplants of
potato (Solanum tuberosum L.) cutivar Delaware
using silver thiosulfate (STS). J. Sci. I. Rep. Iran. 12:
103 - 110.
3. Gruyer N, Dorais M, Bastien C, Dassylva N,
and Triffault-Bouchet G (2013). Interaction between
sliver nanoparticles and plant growth. In:
International symposium on new technologies for
environment control, energy-saving and crop
production in greenhouse and plant factory -
greensys, Jeju, Korea, 6 - 11 Oct 2013.
4. Trương Văn Hộ (2010), Cây khoai tây ở Việt
Nam. NXB Nông Nghiệp.
5. Nguyễn Thị Hương, Nguyễn Xuân Trường,
Phạm Văn Tuân, Đinh Thị Thu Lê, Đào Văn Nam,
Nguyễn Quang Thạch (2010): Ảnh hưởng một số
biện pháp kỹ thuật trồng cây nhân giống từ khí canh
trong sản xuất giống khoai tây sạch bệnh tại Gia Lâm
- Hà Nội và Sapa - Lào Cai. Tạp chí Khoa học và Phát
triển tập 7 số 5, trang: 577 - 584.
6. http://www.fao.org/faostat/en/#data/QC/
Crop production/Potato (2017)
7. Rezvani N, Sorooshzadeh A, and Farhadi N
(2012). Effect of nano-silver on growth of saffron in
floding stress. World Acad Sci Eng Technol 1: 517 -
522.
8. Salama H. M. H (2012) Effects of silver
nanoparticles in some crop plants, common bean
(Phaseolus vulgaris L.) and corn (Zea mays L.). Int
Res J Biotech 3 (10): 190 - 197
9. Sharma P, Bhatt D, Zaidi M.G, Saradhi P.P,
Khanna P. K, and Arora S (2012). Silver
nanoparticlemediated enhancement in growth and
antioxidant status of Brassica juncea. Appl Biochem
Biotechnol 167: 2225 - 2233.
10. Savithramma N, Ankanna S, and Bhumi G
(2012). Effect of nanoparticles on seed germination
and seedling growth of Boswellia ovalifoliolata an
endemic and endangered medicinal tree taxon. Nano
Vision 2: 61 - 68.
11. Nguyễn Thị Sơn, Nguyễn Thị Hương, Trần
Thị Thanh Minh (2005). Ảnh hưởng của bình nuôi,
thế hệ cây và thiosulfat bạc đến sinh trưởng, hệ số
nhân và chất lượng cây khoai tây in vitro. Tạp chí
Khoa học và Phát triển, số 3, trang: 171 - 174.
12. Strader L. C, Beisner E. R, and Bartel B
(2009). Sivel ions increase auxi efflux independently
of effect on ethylene response. Plant Cell. 21: 3585 -
3590.
13. Syu Y.Y, Hung J. H, Chen J. C, and Chuang
H.W (2014). Impacts of size and shape of silver
nanoparticles on Arabidopsis plant growth and gene
expression. Plant Physiol Biochem 83: 57 - 64.
14. Tahmasbi D, Zarghami R, Vatanpour A.A and
Chaichi M (2011). Effects of Nanosilver and Nitroxin
Biofertilizer on Yield and Yield Components of
Potato Minitubers. International journal of
agriculture & biology 13 (6): 986 – 990.
15. Nguyễn Quang Thạch, Nguyễn Xuân
Trường, Nguyễn Thị Lý Anh (2004). Ứng dụng công
nghệ cao trong sản xuất khoai tây giống sạch bệnh.
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Trung tâm
Thông tin, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
trang: 1 - 45
16. Nguyễn Quang Thạch, Nguyễn Xuân
Trường, Nguyễn Thị Lý Anh, Phạm Văn Tuân, Lại
Đức Lưu Sản (2005). Sản xuất củ giống gốc khoai tây
minituber từ cây in vitro. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật
Nông nghiệp, tập III, trang: 46 - 49
17. Nguyễn Quang Thạch, Nguyễn Xuân
Trường, Nguyễn Thị Lý Anh, Đỗ Thị Ngân (2005).
Một số biện pháp làm tăng số lượng củ giống trong
hệ thống sản xuất giống khoai tây. Tạp chí Khoa học
Kỹ thuật Nông nghiệp, tập III, trang: 41 - 42
18. Nguyễn Quang Thạch, Nguyễn Xuân Trường
(2006). Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống sản xuất
khoai tây giống sạch bệnh. Tạp chí Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn ISSN 0866-7020, số 6 kỳ 1 tháng
11, trang: 94 – 95
19. Yin L, Colman B. P, McGill B. M, Wright J. P,
and Bernhardt E.S (2012). Effects of silver
nanoparticle exposure on germination and early
growth of eleven wetland plants. PLoS ONE 7: 1 - 7.
20. Yu W, and Xie H.Q. (2012). A review on
nanofluids: Preparation, stability mechanisms, and
applications. Journal of Nanomaterials, 2012: 1 - 17.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 51
EFFECT OF NANO-SILVER ON GROWTH, DEVELOPMENT, AND YIELD OF SEED POTATO
(MINI TUBER) IN ISOLATED HOUSE
Nguyen Xuan Truong, Bui Thi Thu Huong,
Pham Thi Thuy, Vi Quoc Hien, Dong Huy Gioi*
*Email: [email protected] Summary
The study was conducted with the purpose to investigate the effect of nano-silver on growth, development,
and yield of seed potato in isolated house. The experiment was designed in two varieties “Atlantic, Bliss”
with different nano-silver concentrations (0.0; 2.0; 4.0; 6.0; 8.0; and 10.0 ppm). The results show that the
nano silver has significantly promoted the the growth, development and yield of the two potato varieties.
Using 8.0 ppm nano silver gave the best results in both varieties. The average weight of tuber was 25,6 g for
Atlantic and 20.4 g for Bliss, respectively. The yield per square meter were 1587.2 g for Atlantic and 2040.0 g
for Bliss, respectively. The result of this study is the scientific basis to propose solutions for improving the
yield and quality of seed potato production in Vietnam.
Keywords: Nano silver, potato, growth, yield.
Người phản biện : PGS.TS. Nguyễn Văn Viết
Ngày nhận bài : 15/8/2019
Ngày thông qua phản biện : 16/9/2019
Ngày duyệt đăng : 23/9/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 52
ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ PHẨM VI SINH VẬT HỮU HIỆU
EMINA ĐẾN SINH TRƯỞNG, NĂNG SUẤT HÀNH CỦ TÍM
(ALLIUM ASCALONICUM L.) VÀ HÀNH HOA (ALLIUM
FISTULOSUM L.) TRỒNG TẠI GIA LÂM - HÀ NỘI VÀ
KINH MÔN - HẢI DƯƠNG Phạm Thị Hải1, Nguyễn Thị Sơn1, Nguyễn Thị Sen1, Nguyễn Quang Thạch1
TÓM TẮT Nghiên cứu ảnh hưởng của chế phẩm vi sinh vật EMINA đến sinh trưởng và năng suất của cây hành được
thực hiện tại Viện Sinh học Nông nghiệp Gia Lâm - Hà Nội và Kinh Môn - Hải Dương. Các thí nghiệm được
bố trí trong chậu và ngoài đồng ruộng trên hai đối tượng hành hoa (Allium fistulosum L.) và hành củ tím
(Allium ascalonicum L.) trong hai năm 2017-2018. Đã xác định được EMINA dạng 3 (EMINA + 50% vi khuẩn
tía Rhodobacter spp.), ở nồng độ 1% có hiệu quả cao nhất trong ba dạng EMINA thí nghiệm. Sử dụng
EMINA dạng 3 ở nồng độ 1% phun cho hành hoa có thể làm tăng năng suất lên 14,25%. Cũng tương tự như
hành hoa, sử dụng EMINA cho hành củ tím làm tăng năng suất (18,23%) và chất lượng củ. Sử dụng EMINA
có thể làm giảm lượng phân bón vô cơ mà không làm giảm năng suất hành hoa cũng như hành củ tím. Công
thức giảm lượng phân vô cơ 25% với hành hoa, 40% với hành củ tím, nhưng có xử lý chế phẩm EMINA cho
năng suất tương tự đối chứng có sử dụng 100% lượng bón vô cơ.
Từ khóa: Chế phẩm EMINA, hành hoa (Allium fistulosum L.), hành củ tím (Allium ascalonicum L.).
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Công nghệ vi sinh vật hữu hiệu “Effective
microorganism” (EM) do GS. TS. Teruo Higa nghiên
cứu đề xuất từ những năm 1980, đã được ứng dụng
rất thành công trong sản xuất nông nghiệp sạch và
tạo môi trường nông nghiệp lành mạnh trên phạm vi
toàn cầu. Các nghiên cứu đều cho thấy có sự thay đổi
tích cực về đặc tính của đất, năng suất và chất lượng
nông sản khi được áp dụng chế phẩm EM (Karthick
Raja Namasivayam, 2010 và Kwizera Chantal et al.,
2013). Chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu của Việt Nam
do Viện Sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông
nghiệp Việt Nam chế tạo theo nguyên lý của chế
phẩm EM được đặt tên là EMINA. EMINA thể hiện
tác dụng tương tự như EM đã được ứng dụng thành
công trên nhiều loại cây trồng và xử lý môi trường
nông nghiệp. Một trong những tác dụng khá rõ rệt
của chế phẩm EM cũng như EMINA là tác động tích
cực đến năng suất và hiệu quả sản xuất hành sạch.
Có thể nêu một số nghiên cứu theo hướng này tại
Indonesia (Wididana và Higa,1993), New zealand
(Daly và Stewart, 1999), Ninh Thuận (Phạm Xuân
Hưng, 2013).
Kinh môn - Hải Dương, là vùng chuyên canh cây
1 Viện Sinh học Nông nghiệp – Học viện Nông nghiệp Việt Nam Email: [email protected]
hành (Allium spp.) lớn nhất miền Bắc Việt Nam (diện
tích 3000 ha), nhưng quy trình canh tác hành còn
nhiều khâu cần được cải tiến. Đặc biệt trong sản xuất
hành còn sử dụng lượng phân bón vô cơ rất lớn.
Lượng bón cho một ha: 1620kg super lân + 324 kg
đạm ure + 378 kg NPK 16-16-13+TE + 216 kg kali
clorua (Theo quy trình của phòng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn huyện Kinh Môn, 2017). Vấn đề
này rất cần được nghiên cứu khắc phục. Bài báo này
trình bày kết quả nghiên cứu đánh giá tác dụng của
EMINA trong sản xuất hành củ tím và hành hoa và
khả năng giảm lượng phân bón vô cơ khi sử dụng chế
phẩm EMINA qua 2 năm 2017-2018 tại Viện Sinh học
nông nghiệp, Gia Lâm - Hà Nội và Kinh Môn - Hải
Dương.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
Giống hành củ tím (Allium ascalonicum L.) là
giống hành địa phương, thời gian sinh trưởng 120 ngày.
Giống hành hoa (Allium fistulosum L.) là giống hành
địa phương, thời gian sinh trưởng 45-50 ngày.
Chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu EMINA được sản
xuất tại Viện Sinh học Nông nghiệp có thành phần:
Nấm men Saccharomyces crevisiae spp. 108
CFU/g.
Vi khuẩn Lactobacillus spp. 108CFU/g.
Vi khuẩn Bacillus sp 108CFU/g.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 53
Vi khuẩn quang hợp tía Rhodobacter
spp107CFU/g
Phân vô cơ: ure (46,3%N), Kali Clorua (60%
K2O), supe lân (15% P2O5), NPK tổng hợp (16-16-
13+TE)
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí các thí nghiệm trên cây hành hoa
Các thí nghiệm trên hành hoa được bố trí trong
chậu (có kích thước: 30x20x30cm), bố trí theo kiểu
khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCB) với 3 lần nhắc lại, mỗi
lần nhắc lại 3 chậu.
Lượng đất một chậu: 10kg; lượng phân bón cho 1
chậu đất: 50g phân hữu cơ (phân gà ủ) + 6,75g super
lân + 2,025g đạm ure + 1,62g kali clorua. Lượng bón
tính theo quy trình cho 1ha hành hoa: 810kg super
lân + 405kg đạm ure + 270kg kali clorua tương đương
121,5kg P2O5 + 187, 515kg N + 162kg K2O và quy
định 1ha có 2 triệu kg lớp đất mặt chịu tác động của
phân bón. Đất có thành phần dinh dưỡng như sau: pH
KCl 5,69; OC% 1,54; N % 0,16; P2O5 % 0,17; K2O % 0,76;
P2O5 dễ tiêu (mg/100g) 35,0; K2O dễ tiêu (mg/100g)
8,2.
Mật độ trồng: mỗi chậu 3 khóm, mỗi khóm 4 cây
giống, cây giống được cắt bằng nhau cao 15 cm rồi đem
trồng.
Liều lượng và cách phun EMINA: trước khi
trồng 5 ngày phun EMINA, nồng độ phun: 0,5%,
lượng phun 100ml/chậu. Sau khi trồng được 10 ngày,
phun định kỳ 10 ngày/lần nồng độ 1%, lượng phun
100ml/chậu. Tổng số lần phun 5 lần. Công thức đối
chứng thay EMINA bằng nước lã với liều lượng
tương tự.
Các thí nghiệm:
Thí nghiệm 1: Nghiên cứu tác dụng của 3 loại
chế phẩm EMINA trên cây hành hoa.
CT1: đối chứng (phun nước lã), CT2: Xử lý
EMINA dạng 1 (EMINA+5% vi khuẩn tía
Rhodobacter spp), CT3: Xử lý EMINA dạng 2
(EMINA+25% vi khuẩn tía Rhodobacter spp.), CT4:
Xử lý EMINA dạng 3 (EMINA+50% vi khuẩn tía
Rhodobacter spp.).
Thí nghiệm 2: Nghiên cứu xác định nồng độ
phun hợp lý của các dạng EMINA đến sinh trưởng,
phát triển và năng suất của cây hành hoa.
Thí nghiệm 2.1: Nghiên cứu ảnh hưởng nồng độ
phun 0,5% của các dạng EMINA đến sinh trưởng,
phát triển và năng suất của cây hành hoa.
CT1: Đối chứng (phun nước lã); CT2: EMINA
dạng 1; CT3: EMINA dạng 2; CT4: EMINA dạng 3.
Thí nghiệm 2.2: Nghiên cứu ảnh hưởng nồng độ
phun 1% của các dạng EMINA đến sinh trưởng, phát
triển và năng suất của cây hành hoa.
CT1: Đối chứng (phun nước lã); CT2: EMINA
dạng 1; CT3: EMINA dạng 2; CT4: EMINA dạng 3.
Thí nghiệm 2.3: Nghiên cứu ảnh hưởng nồng độ
phun 1,5% của các dạng EMINA đến sinh trưởng,
phát triển và năng suất của cây hành hoa.
CT1: Đối chứng (phun nước lã); CT2: EMINA
dạng 1; CT3: EMINA dạng 2; CT4: EMINA dạng 3.
Kết quả tốt nhất của nội dung 1 và 2 sẽ được sử
dụng cho thí nghiệm 3, 4
Thí nghiệm 3: Nghiên cứu ảnh hưởng của
EMINA dạng 3 với nồng độ 1% đến sinh trưởng phát triển và năng suất của hành hoa trên nền phân bón
lót khác nhau.
Thí nghiệm gồm 10 công thức :
CT1: Phân lót 100% phun nước lã (ĐC); CT2:
Phân lót 100% phun EMINA; CT3: Phân lót 75% phun
nước lã; CT4: Phân lót 75% phun EMINA; CT5: Phân
lót 50% phun nước lã; CT6: Phân lót 50% phun
EMINA; CT7: Phân lót 25% phun nước lã; CT8: Phân
lót 25% EMINA; CT9: Phân lót 0% phun nước lã;
CT10: Phân lót 0% EMINA.
2.2.2. Bố trí các thí nghiệm trên cây hành củ tím
Nghiên cứu được tiến hành trên đất xám Feralit
(Feralic Acrisols-Acf) có tính chất lý hóa học như
sau: tầng đất 0-30cm pHKCl: 5,2; OC 0,4%; P2O5 0,04%;
CEC 3,9 Lđl/100g đất.
Thí nghiệm 4: Nghiên cứu ảnh hưởng của EMINA lên sinh trưởng phát triển, năng suất, phẩm
chất của hành củ tím trồng trên các nền phân bón khác nhau.
Các thí nghiệm trên hành củ được bố trí trên
đồng ruộng vào 20/10/2018 , bố trí theo kiểu khối
ngẫu nhiên đầy đủ (RCB) với 3 lần nhắc lại, mỗi lần
nhắc lại 10m2. Mật độ trồng 20 khóm/m2.
Lượng phân vô cơ bón cho 1 ha hành theo quy
trình của Phòng Nông nghiệp huyện: 1620kg super
lân + 324 kg đạm ure + 378 kg NPK 16-16-13+TE +
216 kg kali clorua, tương đương 303,48kg P2O5 +
210,492kg N + 178,74kg K2O.
Thí nghiệm gồm 12 công thức trên các nền phân
bón hóa học giảm dần từ 100%, 80%, 60%, 40%, 20%, có
phun EMINA dạng 3 và không phun EMINA (theo
bảng công thức thí nghiệm bên dưới)
Liều lượng và cách phun EMINA: trước khi
trồng 5 ngày phun EMINA, nồng độ phun: 0,5%,
lượng phun 1l/10m2. Sau khi trồng 10 ngày phun
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 54
EMINA nồng độ phun 1%, lượng phun 1lít/10 m2.
Phun định kỳ 2 tuần 1 lần. Tổng số lần phun 5 lần.
Phun ướt toàn cây.
Công thức thí nghiệm:
Công thức 1 (CT1) ĐC Bón theo qui trình hiện hành (100% NPK), phun nước lã với liều lượng và
số lần theo EMINA
Công thức 2 (CT2) Bón theo qui trình hiện hành (100% NPK) + phun EMINA
Công thức 3 (CT3) Giảm 20% lượng phân khoáng (NPK) + phun nước lã với liều lượng và số lần
theo EMINA
Công thức 4 (CT4) Giảm 20% lượng phân khoáng (NPK) + phun EMINA
Công thức 5 (CT5) Giảm 40% lượng phân khoáng (NPK) + phun nước lã với liều lượng và số lần
theo EMINA
Công thức 6 (CT6) Giảm 40% lượng phân khoáng (NPK) + phun EMINA
Công thức 7 (CT7) Giảm 40% lượng phân khoáng (NPK) + phun nước lã với liều lượng và số lần
theo EMINA
Công thức 8 (CT8) Giảm 60% lượng phân khoáng (NPK) + phun EMINA
Công thức 9 (CT9) Giảm 80% lượng phân khoáng (NPK) + phun nước lã với liều lượng và số lần
theo EMINA
Công thức 10 (CT10) Giảm 80% lượng phân khoáng (NPK) + phun EMINA
Công thức 11 (CT11) Giảm 100% lượng phân khoáng (NPK) + phun nước lã với liều lượng và số lần
theo EMINA
Công thức 12 (CT12) Giảm 100% lượng phân khoáng (NPK) + phun EMINA
2.2.3. Các chỉ tiêu và phương pháp đánh giá
- Theo dõi về sinh trưởng và năng suất: số
nhánh, chiều cao theo dõi định kỳ 10 ngày/lần, năng
suất lý thuyết, thực thu (g/chậu, kg/ha).
- Tình hình sâu bệnh: đánh giá theo quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia về phương pháp điều tra phát hiện
dịch hại cây trồng (QCVN 01-38: 2010/BNNPTNT).
Các loại bệnh chính: Bệnh lươn (bệnh thán thư):
Colletotrichum cirimans Vogt, bệnh giả sương mai:
Pseudo peronospora, bệnh sương mai: Peronospora
destructor, theo dõi định kỳ 10 ngày/1 lần.
Tỷ lệ bệnh: tỷ lệ phần trăm mẫu bị bệnh trên
tổng số mẫu điều tra.
- Chỉ tiêu hóa sinh: Hàm lượng chất khô (%) theo
phương pháp sấy, hàm lượng chất xơ (%); hàm lượng
nitơ tổng số (%) xác định theo phương pháp
Microkjeldahl; hàm lượng đường khử (%) xác định
theo phương pháp Bectrand; hàm lượng vitamin C
xác định theo phương pháp chuẩn độ bằng iôt.
Các chỉ tiêu được phân tích tại Bộ môn Kiểm
nghiệm chất lượng rau quả - Viện Nghiên cứu Rau
Quả.
2.2.4. Phân tích thống kê
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Microsolf
Excel và phần mền SAS 9.1.
Nghiên cứu được thực hiện tại Viện Sinh học
Nông nghiệp Gia Lâm - Hà Nội và Kinh Môn - Hải
Dương trong thời gian 2017-2018.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của các dạng EMINA đến sinh
trưởng phát triển và năng suất của cây hành hoa
(Allium fistulosum L.)
Bảng 1. Ảnh hưởng của các dạng EMINA đến sinh trưởng phát triển và
năng suất của hành hoa tại Gia Lâm-Hà Nội
CTTD
CTTN
Chiều cao
cây (cm)
Số nhánh
(nhánh/khóm)
KL tươi
(g/khóm)
NSTT
(g/chậu)
% so ĐC
của NSTT
CT1: ĐC (phun nước lã) 24,30a 4,33a 17,60a 52,80a 100,00
CT2: EMINA dạng 1 26,00b 5,33b 20,03b 60,10b 113,83
CT3: EMINA dạng 2 27,47c 6,00c 21,24c 63,73c 120,70
CT4: EMINA dạng 3 29,43d 6,67d 22,46d 67,38d 127,61
CV(%) 0,70 5,00 2,90 2,80 _
LSD0,05 0,39 0,55 1,21 3,62 _
Kết quả bảng 1 cho thấy sinh trưởng và năng
suất của hành hoa có sự khác nhau rõ rệt khi được
xử lý chế phẩm EMINA. Công thức có xử lý EMINA
cho năng suất tăng từ 13,83% đến 27,61% so với đối
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 55
chứng (phun nước lã). Dạng EMINA 3 (EMINA+50%
vi khuẩn tía Rhodobacter spp.) cho kết quả cao nhất .
3.2. Ảnh hưởng của các nồng độ phun của các
dạng EMINA đến sinh trưởng phát triển và năng suất
của hành hoa (Allium fistulosum L.).
Bảng 2. Ảnh hưởng nồng độ phun 0,5% của các dạng EMINA đến sinh trưởng phát triển và năng suất
của hành hoa tại Gia Lâm-Hà Nội
CTTD
CTTD
Chiều cao
cây (cm)
Số nhánh
(nhánh/khóm)
KL tươi
(g/khóm)
NSTT
(g/chậu)
% so ĐC của
NSTT
CT1: ĐC (phun nước lã) 26,57a 4,33a 16,47a 49,70a 100,00
CT2: EMINA dạng 1 27,37b 5,33b 18,13b 54,50b 109,66
CT3: EMINA dạng 2 28,53c 5,07b 19,67c 59,00c 118,71
CT4: EMINA dạng 3 29,67d 5,83c 20,63d 61,97d 124,69
CV(%) 0,80 4,80 2,30 2,30 _
LSD0,05 0,45 0,45 0,88 2,60 _
Bảng 3. Ảnh hưởng nồng độ phun 1% của các dạng EMINA đến sinh trưởng phát triển và năng suất
của hành hoa tại Gia Lâm-Hà Nội
CTTD
CTTD
Chiều cao
cây (cm)
Số nhánh
(nhánh/khóm)
KL tươi
(g/khóm)
NSTT
(g/chậu)
% so ĐC của
NSTT
CT1: ĐC (phun nước lã) 26,57a 3,67a 16,47a 49,70a 100,00
CT2: EMINA dạng 1 28,93b 5,30b 18,37b 56,30b 113,27
CT3: EMINA dạng 2 30,53c 6,30c 20,11c 60,35c 121,42
CT4: EMINA dạng 3 31,87d 7,10d 21,30c 63,73c 128,22
CV(%) 1,40 6,90 2,30 2,20 _
LSD0,05 0,82 0,77 0,92 2,66 _
Bảng 4. Ảnh hưởng nồng độ phun 1,5% của các dạng EMINA đến sinh trưởng phát triển và năng suất
của hành hoa tại Gia Lâm-Hà Nội
CTTD
CTTD
Chiều cao
cây (cm)
Số nhánh
(nhánh/khóm)
KL tươi
(g/khóm)
NSTT
(g/chậu)
% so ĐC của
NSTT
CT1: ĐC (phun nước lã) 26,57a 3,67a 16,47a 49,70a 100,00
CT2: EMINA dạng 1 26,90a 4,73b 17,92b 53,76b 108,17
CT3: EMINA dạng 2 28,37b 5,53c 19,39b 58,17bc 117,04
CT4: EMINA dạng 3 29,13b 6,20d 20,87c 62,40c 125,56
CV(%) 1,90 5,00 3,80 3,70 _
LSD0,05 1,07 0,50 1,45 4,23 _
Qua kết quả các bảng 2, 3, 4 cho thấy các công
thức có phun EMINA ở các dạng và nồng độ khác
nhau đều làm tăng năng suất hành hoa so với đối
chứng không phun từ 8,17-28,22%. Trong đó EMINA
dạng 3 với nồng độ phun 1% cho kết quả cao nhất,
tăng năng suất hành hoa lên 28,22% so với đối chứng.
3.3. Ảnh hưởng của EMINA dạng 3 với nồng độ
1% đến sinh trưởng phát triển và năng suất của hành
hoa (Allium fistulosum L.) trên nền phân bón lót
khác nhau
Bảng 5. Ảnh hưởng của EMINA dạng 3 với nồng độ 1% đến sinh trưởng phát triển và năng suất của hành hoa trên
nền phân bón lót khác nhau, tại Gia Lâm-Hà Nội
CTTD
CTTD
Chiều cao
cây (cm)
Số nhánh
(nhánh/khóm)
KL tươi
(g/chậu)
NSTT
(g/chậu)
% so ĐC
của NSTT
CT1: ĐC phân lót 100% không phun
EMINA
29,70bc 5,60c 21,43c 64,07c 100,00
CT2: Phân lót 100% có phun EMINA 32,70a 7,13a 24,43a 73,20a 114,25
CT3: Phân lót 75% không phun EMINA 28,40c 5,10d 20,00d 60,13c 93,85
CT4: Phân lót 75% có phun EMINA 30,50b 6,30b 22,57b 67,77b 105,77
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 56
CTTD
CTTD
Chiều cao
cây (cm)
Số nhánh
(nhánh/khóm)
KL tươi
(g/chậu)
NSTT
(g/chậu)
% so ĐC
của NSTT
CT5: Phân lót 50% không phun EMINA 26,47d 4,50e 18,50e 52,67e 82,21
CT6: Phân lót 50% có phun EMINA 30,03b 5,60c 21,30c 55,01d 85,86
CT7: Phân lót 25% không phun EMINA 24,47e 4,00g 16,43f 45,37f 70,81
CT8: Phân lót 25% có phun EMINA 27,50cd 5,00de 18,47e 50,50e 78,82
CT9: Phân lót 0% không phun EMINA 22,53f 3,50h 14,90g 40,90g 63,83
CT10: Phân lót 0% có phun EMINA 25,53de 4,30f 16,10f 43,43f 67,78
CV(%) 2,20 2,50 2,20 2,30 _
LSD0,05 1,05 0,22 0,74 2,28 _
Các công thức sử dụng EMINA có các chỉ tiêu
chiều cao, số nhánh và năng suất cao hơn công thức
không sử dụng EMINA. Công thức cho kết quả sinh
trưởng và năng suất hành cao nhất là công thức bón
lót 100% phân bón và có phun EMINA dạng 3, nồng
độ 1%. Đáng chú ý là, công thức giảm lượng phân
bón lót xuống 25% nhưng được xử lý EMINA vẫn cho
năng suất tương tự như đối chứng có bón lót 100%
không xử lý EMINA. Như vậy có thể đề xuất qui
trình bón giảm lượng phân vô cơ cho hành hoa
nhưng cần phun bổ sung chế phẩm EMINA dạng 3
nồng độ 1%. Kết quả này tương đồng kết quả nghiên
cứu của Nguyễn Văn Lẹ và Cao Ngọc Điệp (2012)
cho thấy một số loại rau ăn quả như cà sọc lem lai
TN 106, đậu bắp, ớt sừng vàng khi sử dụng chế phẩm
vi sinh vật hữu hiệu đều giảm lượng phân bón hóa
học từ 25-50%. Theo Ahmad R. T, et al., (1993), sử
dụng EM cho các cây trồng như lúa, lúa mì, bông, ngô
và rau ở Pakistan làm tăng năng suất từ 9,5% - 27,7% so
với đối chứng.
3.4. Ảnh hưởng của chế phẩm EMINA đến sinh
trưởng, năng suất, chất lượng của cây hành củ tím (Allium ascalonicum L.)
Bảng 6. Ảnh hưởng của chế phẩm EMINA đến chiều cao, số củ/khóm và khối lượng toàn cây
của cây hành củ tím trồng tại Kinh Môn - Hải Dương
CTTD
CTTN
Chiều cao
cây (cm)
Số
củ/khóm
Khối
lượng
khóm (g)
Năng suất
thực thu 100
m2 (kg)
% so với
đối
chứng
% so
từng
cặp
CT1: ĐC Bón theo qui trình
hiện hành (100% NPK), phun
nước lã
30,50cd 10,17c 258,33bc 433,33 bcd 100,00 100,00
CT2: Bón theo qui trình hiện
hành (100% NPK) + phun
EMINA
35,07a 11,80a 294,66a 512,33a 118,23 118,23
CT3: Giảm 20% lượng phân
khoáng (NPK) + phun nước lã 28,27e 9,50d 242,33cde 421,00cdef 97,15 100,00
CT4: Giảm 20% lượng phân
khoáng (NPK) + phun EMINA 32,98b 11,07b 282,23a 491,33ab 113,38 116,71
CT5: Giảm 40% lượng phân
khoáng (NPK) + phun nước lã 27,33ef 9,00ef 236,03def 399,00defg 92,08 100,00
CT6: Giảm 40% lượng phân
khoáng (NPK) + phun EMINA 31,42c 10,30c 274,53ab 457,33abc 105,53 114,61
CT7: Giảm 60% lượng phân
khoáng (NPK) + phun nước lã 26,83gh 8,40gh 226,90ef 363,67fgh 83,92 100,00
CT8: Giảm 60% lượng phân
khoáng (NPK) + phun EMINA 30,33d 9,53d 258,00bc 385,33bcde 88,92 106,04
CT9: Giảm 80% lượng phân
khoáng (NPK) + phun nước lã 25,90gh 8,10ih 220,67f 331,67gh 76,54 100,00
CT10: Giảm 80% lượng phân 29,60d 9,23de 252,68bc 360,05cdef 83,09 108,56
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 57
khoáng (NPK) + phun EMINA
CT11: Giảm 100% lượng phân
khoáng (NPK) + phun nước lã 25,03h 7,83i 215,43f 301,33h 69,54 100,00
CT12: Giảm 100% lượng phân
khoáng (NPK) + phun EMINA 28,07e 8,70gf 242,15cd 322,31efg 74,37 106,96
CV(%) 2,10 2,58 4,89 7,78 - -
LSD0,05 1,04 0,41 20,82 5,54 - -
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Năng suất hành
toàn cây phụ thuộc rõ rệt vào lượng phân bón. Khi
giảm lượng phân bón vô cơ từ 100% xuống 0%, năng
suất hành giảm từ 433,33kg/100 m2 xuống
301,33kg/ 100 m2 (giảm 30%). Trên cùng một nền
phân bón vô cơ, cây hành được xử lý EMINA luôn
cho năng suất cao hơn cây hành ở công thức không
được xử lý EMINA từ 6,04%-18,23%. Đã xác định
được công thức giảm 40% lượng phân bón vô cơ và
có xử lý EMINA dạng 3 cho năng suất tương tự đối
chứng (bón 100% phân vô cơ và không xử lý
EMINA). Việc đề xuất giảm lượng phân bón vô cơ
cho qui trình trồng hành củ tại Kinh Môn là hoàn
toàn có tính khả thi. Có thể lặp lại thí nghiệm trên
nhiều vùng để khẳng định kết quả này làm cơ sở
đưa vào qui trình sản xuất chính quy của địa
phương. Kết quả này tương đồng với một số kết quả
nghiên cứu ứng dụng EMINA trong nước và trên
thế giới như kết quả nghiên cứu của Phạm Xuân
Hưng (2013) về việc xử lý chế phẩm sinh học
EMINA và phun phân bón lá RQ trên cây hành cho
thấy năng suất hành có phun EMINA cao hơn đối
chứng là 26,67%. Tại Sóc Trăng công bố của Phan
Thanh Kiếm và cộng sự (2013) cũng cho thấy: năng
suất hành vượt đối chứng không sử dụng EMINA
31,3%; lợi nhuận tăng 51,58% so với sản xuất hành
truyền thống, theo Daly M. J. & Stewart D. P. C
(1999) khi sử dụng EM + rỉ mật làm tăng năng suất
hành tây 29%, đậu Hà Lan 31%, ngô ngọt 23%.
Bảng 7. Một số thành phần hóa sinh của củ hành ở một số công thức có xử lý EMINA trồng tại Kinh Môn -
Hải Dương
CTTD
CTTN
Hàm
lượng
chất khô
(%)
Hàm
lượng
chất xơ
(%)
Hàm
lượng
đường
khử (%)
Hàm lượng
VTM C
(mg/100g)
Hàm
lượng N
tổng số
(%)
Hàm
lượng
nước tổng
số (%)
CT1: ĐC 100% phân bón vô
cơ + phun nước lã
19,02 3,88 0,037 10,00 0,422 80,98
CT2: 100% phân bón vô cơ
+ phun EMINA
18,89 3,72 0,046 11,12 0,426 81,11
CT3: Giảm 20% phân bón
vô cơ + phun nước lã
18,93 3,57 0,043 12,20 0,410 81,07
CT4: Giảm 40% phân bón
vô cơ + phun EMINA
19,54 3,91 0,037 13,30 0,367 80,46
CT5: Giảm 40% phân bón vô cơ
+ phun nước lã
18,67 3,69 0,037 12,86 0,384 81,33
Chưa phát hiện được các quy luật có liên quan rõ
rệt giữa ảnh hưởng của xử lý EMINA với chất lượng
dinh dưỡng hóa sinh của củ hành. Tuy nhiên, đã phát
hiện thấy ở công thức giảm 40% phân bón vô cơ +
phun chế phẩm EMINA có ảnh hưởng tích cực đến
chất lượng dinh dưỡng của hành củ. Hành ở công
thức này có sự tích lũy chất xơ, chất khô, vitamin C
cao hơn hành ở các công thức khác. Kết quả nghiên
cứu của Đặng Trần Trung và cộng sự (2018) cho
thấy khi phun chế phẩm EMINA 2 lần/vụ và bón
20kg N/ha trên cây hành hoa cho hàm lượng chất
khô cao nhất đạt 10,27%.
Nhìn chung có ba loại bệnh xuất hiện phổ biến
trên cây hành củ tím trồng tại Kinh Môn là: bệnh
lươn (bệnh thán thư) (Colletotrichum cirimans Vogt), bệnh tóp đầu lá (bệnh giả sương mai) (Pseudo
peronospora) và bệnh sương mai (Peronospora
destructor). Các giai đoạn xuất hiện các bệnh khác
nhau: giai đoạn 30 ngày sau trồng bệnh lươn phát
triển mạnh, 90 ngày là bệnh tóp đầu lá còn bệnh
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 58
sương mai xuất hiện ở giai đoạn cuối lúc thu hoạch.
Nhìn chung ở các công thức có phun EMINA cả ba
bệnh đều có xu hướng giảm. Bệnh tóp đầu lá (giả
sương mai) là bệnh rất phổ biến, ở các công thức
phun EMINA có tỷ lệ bệnh 77,78%-84,38%, trong khi
các công thức không phun EMINA có tỷ lệ bệnh rất
cao 91,49%-93,33%. Bệnh lươn ở các công thức phun
EMINA có tỷ lệ bệnh từ 4,29%-6,19% còn ở các công
thức không phun EMINA có tỷ lệ bệnh 6,19%-7,62%. Tương tự như vậy, ở các công thức phun EMINA,
bệnh sương mai có tỷ lệ bệnh 17,77%-26,4%, trong khi
các công thức không phun EMINA tỷ lệ bệnh là
20,51%-29,38%. Phạm Xuân Hưng (2013) sử dụng chế
phẩm EMINA kết hợp với phân bón lá RQ làm giảm
rõ rệt tỉ lệ nhiễm bệnh, bệnh thối củ giảm 10,6%,
bệnh khô đầu lá, vàng lá giảm 10%. Kết quả nghiên
cứu Vũ Văn Thành (2011) cho thấy sử dụng chế
phẩm EMINA thảo dược đã làm giảm rõ rệt tỷ lệ sâu
hại còn 10,54% trên cây đậu đũa trong khi đối chứng
là 28,1%.
Bảng 8. Ảnh hưởng của chế phẩm EMINA đến tình hình bệnh hại trên cây hành củ tím trồng tại Kinh Môn -
Hải Dương vụ đông 2018 (đơn vị tính tỷ lệ bệnh: %)
CTTD
CTTN
Bệnh lươn (giai
đoạn 30 ngày)
Bệnh tóp đầu lá (giai
đoạn 90 ngày)
Bệnh sương mai
(lúc thu hoạch)
CT1(ĐC): Bón theo qui trình hiện
hành (100% NPK), phun nước lã 7,62 91,49 29,38
CT2: Bón theo qui trình hiện hành
(100% NPK) + phun EMINA 6,19 77,78 26,40
CT3: Giảm 20% lượng phân khoáng
(NPK) + phun nước lã 7,14 93,02 26,77
CT4: Giảm 20% lượng phân khoáng
(NPK) + phun EMINA 5,71 82,61 24,88
CT5: Giảm 40% lượng phân khoáng
(NPK) + phun nước lã 7,14 92,86 24,87
CT6: Giảm 40% lượng phân khoáng
(NPK) + phun EMINA 4,76 87,23 23,38
CT7: Giảm 60% lượng phân khoáng
(NPK) + phun nước lã 6,19 86,49 23,59
CT8: Giảm 60% lượng phân khoáng
(NPK) + phun EMINA 4,29 84,62 20,50
CT9: Giảm 80% lượng phân khoáng
(NPK) + phun nước lã 6,19 91,67 21,43
CT10: Giảm 80% lượng phân khoáng
(NPK) + phun EMINA 4,29 81,58 19,19
CT11: Giảm 100% lượng phân khoáng
(NPK) + phun nước lã 6,32 93,33 20,51
CT12: Giảm 100% lượng phân khoáng
(NPK) + phun EMINA 4,39 84,38 17,77
4. KẾT LUẬN
Đã xác định được EMINA dạng 3 (EMINA + 50%
vi khuẩn tía Rhodobacter spp.), ở nồng độ 1% là dạng
có hiệu quả cao nhất trong ba dạng EMINA thí
nghiệm. Sử dụng EMINA dạng 3 ở nồng độ 1% phun
cho hành hoa có thể làm tăng năng suất lên 14,25%
so với đối chứng không phun.
Sử dụng EMINA cho hành củ tím làm tăng năng
suất (18,23%) và chất lượng củ. Sử dụng EMINA có
thể giảm lượng phân bón vô cơ mà không làm giảm
năng suất hành hoa cũng như hành củ tím. Công
thức giảm lượng phân vô cơ 25% (lượng bón 1ha:
91,125kg P2O5 + 140,64kg N + 121,5kg K2O) với hành
hoa, 40% (lượng bón 1ha: 182,088kg P2O5 + 126,29kg
N + 107,244kg K2O) với hành củ tím, nhưng có xử lý
chế phẩm EMINA cho năng suất tương tự đối chứng
có sử dụng 100% lượng bón vô cơ. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ahmad R. T Hussian G, Jilani S. A, Shahid S,
Naheed Akhtar and M. A. Abbas (1993), Use of
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 59
effective microorganisms for sustainable crop
production in Pakistan, Proc, 2nd Conf. On effective
Microorganisms (EM), Nov.17-19, 1993, Saraburi,
Thailand, pp 15-27.
2. Daly M. J and Stewart D. P. C. (1999).
Influence of “Effective Microorganisms” (EM) on
Vegetable Production and Carbon Mineralization–A
Preliminary Investigation, Journal of Sustainable
Agriculture, 14:2-3, 15-25, 22 Oct 2008.
3. Phạm Xuân Hưng (2013),“Sử dụng chế phẩm
EMINA để quản lý bệnh hại, kết hợp tăng cường
dinh dưỡng bằng phân bón lá RQ cho cây
hành, tỏi tại Ninh Thuận”, Dự án cạnh tranh nông
nghiệp, 2013.
4. Karthick Raja Namasivayam (2010). Effect of
formulation of effective microorganism (EM) on post
treatment persistence, microbial density and soil
macronutrients. Recent Research in Science and
Technology, 2(5): 102-106.
5. Kwizera Chantal, Xiaohou Shao, Binbin Jing,
Youbo Yuan, Maomao Hou, Linxian Liao (2013).
Effects of effective microoganimsm (EM) and bio-
organic fertilizers on growth parameters and yield quality of flue-cured tobacco (Nicotiana tabacum).
Journal of Food, Agriculture & Environment, 11(2):
1212-1215.
6. Phan Thanh Kiếm, Nguyễn Quang Thạch.
Ảnh hưởng của chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu
EMINA đến sinh trưởng, năng suất và chất lượng
hành tím tại Vĩnh Châu, Sóc Trăng năm 2013. Tuyển
tập báo cáo khoa học hội thảo khoa học tại Phú
Quốc-Kiên Giang, 2016
7. Nguyễn Văn Lẹ, Cao Ngọc Diệp (2012). Hiệu
quả của phân bón vi sinh đến năng suất rau xanh
(rau ăn quả) trồng trên đất phù sa quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ. Tạp chí Khoa học – Trường học
Cần Thơ, 23(a): 213-22.
8. Phòng Nông nghiệp huyện Kinh Môn
(2017). Báo cáo tổng kết cây vụ đông 2017.
9. Vũ Văn Thành (2011). Nghiên cứu khả năng ứng dụng chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu EMINA
trong sản xuất rau an toàn. Luận văn Thạc sĩ nông
nghiệp. Học viện Nông nghiệp Việt Nam, tr.98.
10. Đặng Trần Trung, Hoàng Hải Hà, Trần Tuấn
Anh, Nguyễn Quang Thạch (2018). Ảnh hưởng của
EMINA trên các nền đạm bón khác nhau đến năng
suất, chất lượng và tồn dư nitrat trong một số loại rau
ăn tươi trồng tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 24: 26-
33.
11. Wididana, G. N and T, Higa, T. 1993. Effect of
EM on the product of vegetables crops in Indonesia.
INFLUENCE OF EFFECTIVE MICROORGANISM EMINA ON THE GROWTH, YIELD AND
QUALITY OF TWO ONION SPECIES ALLIUM ASCALONICUM L. AND ALLIUM FISTULOSUM L.
PLANTING IN GIA LAM, HA NOI AND KINH MON, HAI DUONG
Pham Thi Hai, Nguyen Thi Son, Nguyen Thi Sen, Nguyen Quang Thach
Summary The study was conducted at the Institute of AgroBiology of Vietnam National University of Agriculture Gia
Lam, Ha Noi and Kinh Mon, Hai Duong. With the experiments in pots and fields on two species of onion
(Allium fistulosum L.) and onion (Allium ascalonicum L.) in the two years 2017-2018. Determinated EMINA
type 3 (EMINA + 50% purple Rhodobacter spp), at 1% concentration was EMINA form with the highest
efficiency in the three tested EMINA forms. Using EMINA form 3 at the concentration of 1% for Allium
fistulosum L can increase productivity to 14.25%. Similar to Allium fistulosum L, use EMINA for Allium
ascalonicum L yield (18.23%) and quality of onion were increased. Using EMINA can reduce mineral
fertilizer amounts without reducing the yield of Allium fistulosum L and Allium ascalonicum L. The yields of
the variants, which reduced the amounts of mineral fertilizers 40% for Allium ascalonicum L and 25% for
Allium fistulosum L, were similar yield of the control variant, that used 100% mineral fertilizer.
Keywords: EMINA, Allium fistulosum L, Allium ascalonicum L.
Người phản biện: PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Huệ
Ngày nhận bài: 23/7/2019
Ngày thông qua phản biện: 23/8/2019
Ngày duyệt đăng: 30/8/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 60
ẢNH HƯỞNG CỦA LIỀU LƯỢNG ĐẠM VÀ CÁC VẬT LIỆU
CHE PHỦ KHÁC NHAU ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ
NĂNG SUẤT CỦA GIỐNG ĐẬU XANH ĐXVN7 TRONG
VỤ XUÂN TẠI HƯNG YÊN Nguyễn Thị Xiêm1, Vũ Ngọc Thắng2*, Trần Anh Tuấn2,
Vũ Đình Chính2, Nguyễn Xuân Trường3, Lương Văn Hưng3
TÓM TẮT Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá ảnh hưởng của lượng đạm bón đến sinh trưởng và năng suất của
giống đậu xanh ĐXVN7 trên các điều kiện che phủ khác nhau (không che phủ, che phủ bằng trấu, che phủ
bằng nilon) trong điều kiện vụ xuân tại Văn Lâm, Hưng Yên. Kết quả nghiên cứu cho thấy giống đậu xanh
ĐXVN7 được trồng trong điều kiện có che phủ có thời gian sinh trưởng (83 - 84 ngày) dài hơn so với trồng
trong điều kiện không che phủ (81 - 82 ngày), đồng thời các chỉ tiêu sinh trưởng và năng suất cũng cao hơn
so với trồng trong điều kiện không được che phủ. Ngoài ra, trên cùng một điều kiện che phủ khi tăng hàm
lượng đạm bón từ 20 lên 30 kg N/ha thì các chỉ tiêu này cũng có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên tiếp tục tăng
lượng đạm bón lên 40 kg N/ha thì một số chỉ tiêu như số lượng nốt sần, chỉ số SPAD, diện tích lá và chỉ số
diện tích lá, các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của giống đậu xanh ĐXVN7 có xu hướng giảm
xuống. So sánh giữa các công thức thí nghiệm cho thấy hiệu quả kinh tế đạt giá trị cao nhất khi trồng có
che phủ trấu và bón 30 kg N/ha đạt năng suất 2,12 tấn/ha so với không che phủ 1,57 tấn/ha, lãi thuần đạt
48.053.000 VNĐ/ha.
Từ khóa: Đậu xanh, năng suất, phân đạm, sinh trưởng, vật liệu che phủ.
1. MỞ ĐẦU1
Che phủ là một trong những biện pháp kỹ thuật
mang lại nhiều ưu việt trong sản xuất. Che phủ giúp
giữ độ ẩm, kiểm soát việc bốc hơi nước từ đất
(Kumar et al., 2012). Bên cạnh đó che phủ đất có tác
dụng hạn chế xói mòn rửa trôi đất, khống chế cỏ dại,
cải thiện độ phì của đất, tăng cường hoạt tính sinh
học đất, tăng năng suất cây trồng dẫn đến tăng hiệu
quả kinh tế (Hà Đình Tuấn và cs., 2011). Hướng tới
nền sản xuất nông nghiệp bền vững, trong những
năm gần đây có rất nhiều công trình nghiên cứu áp
dụng các vật liệu khác nhau như trấu, rơm rạ, thân lá
ngô... cũng mang lại hiệu quả kinh tế không thua
kém so với che phủ bằng nilon (Vũ Ngọc Thắng và
Vũ Đình Chính, 2007; Vũ Văn Liết và cs., 2010;
Kamal et al., 2010; Vũ Ngọc Thắng và cs., 2018). Tuy
nhiên các nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật che phủ chủ
yếu áp dụng trên cây lạc, cây ăn quả, cây công
nghiệp dài ngày... mà chưa có công trình nghiên cứu
nào áp dụng trên cây đậu xanh. Do đó nghiên cứu
được tiến hành nhằm đánh giá ảnh hưởng của các
1 Trường THPT Mỹ Hào, Hưng Yên 2 Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 3 Viện Sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam *Email: [email protected]
mức đạm bón đến sinh trưởng và năng suất của
giống đậu xanh ĐXVN7 trên các điều kiện che phủ
khác nhau trong vụ xuân tại Văn Lâm- Hưng Yên
nhằm tìm ra mức đạm bón tối ưu cho từng điều kiện
che phủ.
2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Giống đậu xanh ĐXVN7 được Viện Nghiên cứu
Ngô và Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Đậu đỗ
lai tạo và chọn lọc từ tổ hợp lai ĐX102 Vĩnh Bảo 4.
2.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm được thực hiện trên nền đất thịt, tại
xã Quang Trung, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Thời gian triển khai thí nghiệm từ tháng 3 đến tháng
6 năm 2019.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của các mức đạm bón
đến sinh trưởng và năng suất của giống đậu xanh
ĐXVN7 trên các điều kiện che phủ khác nhau trong
vụ xuân tại Văn Lâm- Hưng Yên.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Bố trí thí nghiệm Thí nghiệm 2 nhân tố được bố trí theo phương
pháp ô lớn ô nhỏ (Split - plot) với 3 lần nhắc lại. Nhân
tố chính là 3 mức đạm bón (20; 30; 40 kg N/ha).
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 61
Nhân tố phụ là các vật liệu che phủ khác nhau
(không che phủ; che phủ bằng trấu; che phủ bằng
nilon đen). Nền là: 90 kg P2O5 + 60 kg K2O + 1000 kg
phân vi sinh Sông Gianh cho 1 ha. Diện tích mỗi ô thí
nghiệm là 10 m2. Các loại phân bón sử dụng trong thí
nghiệm bao gồm: đạm urê; phân lân Văn Điển, kali
clorua.
2.3.2. Các chỉ tiêu theo dõi
Các chỉ tiêu theo dõi theo quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về khảo nghiệm giá trị canh tác và sử dụng
giống đậu xanh QCVN 01-62: 2011/BNNPTNN của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng và tỷ lệ
mọc mầm: Thời gian gieo đến mọc mầm (ngày); tỉ lệ
mọc mầm (%); thời gian từ gieo đến ra hoa (ngày);
tổng thời gian sinh trưởng (ngày).
Các chỉ tiêu sinh trưởng phát triển bao gồm:
chiều cao thân chính (cm); số lá/thân chính; diện
tích lá; chỉ số diện tích lá (LAI); khả năng tích lũy
chất khô; khả năng hình thành nốt sần; chỉ số SPAD;
chỉ số hiệu suất huỳnh quang diệp lục.
Các chỉ tiêu về năng suất và các yếu tố cấu thành
năng suất bao gồm: tổng số hoa/cây (hoa); tổng số
quả/cây (quả); khối lượng 1000 hạt (g); năng suất cá
thể (g/cây); năng suất lý thuyết (tạ/ha); năng suất
thực thu (tạ/ha).
Hiệu quả kinh tế = tổng thu – tổng chi
Trong đó (Tổng thu = năng suất thực thu x giá
đậu xanh hiện tại (50.000VNĐ/kg); tổng chi = Chi
phí giống + chi phí phân bón + chi phí làm đất + chi
phí bảo vệ thực vật + chi phí công lao động + chi phí
điện bơm nước + chi phí vật liệu che phủ).
Số liệu được xử lý theo phương pháp phân tích
phương sai (ANOVA) bằng phần mềm IRRISTAT 5.0
và Excel.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến một
số chỉ tiêu sinh trưởng của giống đậu xanh ĐXVN7
trên các vật liệu che phủ khác nhau
Bảng 1. Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng của giống đậu xanh
ĐXVN7 trên các vật liệu che phủ khác nhau
Vật liệu che phủ Mức đạm bón
(kg N/ha)
Gieo đến
mọc (ngày)
Tỷ lệ mọc
mầm (%)
Mọc đến ra
hoa (ngày)
TGST
(ngày)
20 5 92,91 45 81
30 5 95,33 45 82 Không che phủ
40 5 93,66 45 82
20 4 95,30 46 83
30 4 97,82 46 84 Che phủ trấu
40 4 96,20 46 84
20 4 96,61 46 83
30 4 97,28 46 84 Che phủ nilon
40 4 96,28 46 84
Không che phủ 5 95,30 45 81,67
Che phủ trấu 4 96,44 46 83,67 TB vật liệu che phủ
Che phủ nilon 4 96,72 46 83,67
20 4,33 94,94 45,67 82,33
30 4,33 96,81 45,67 83,33 TB mức đạm bón
40 4,33 95,38 45,67 83,33
TB: trung bình.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ mọc của giống
đậu xanh ĐXVN7 khá cao (93 - 97%). Thời gian từ
gieo đến mọc dao động từ 4-5 ngày. Sử dụng vật liệu
che phủ giúp rút ngắn thời gian mọc mầm 1 ngày và
nâng cao tỉ lệ nảy mầm so với không che phủ. Kết
quả nghiên cứu này cũng tương đồng với các kết quả
nghiên cứu trên cây lạc của các tác giả Vũ Ngọc
Thắng và Vũ Đình Chính (2007). Có sự sai khác về
tổng thời gian sinh trưởng của giống đậu xanh
ĐXVN7 giữa điều kiện che phủ và không che phủ.
Trong điều kiện được che phủ thì thời gian sinh
trưởng của giống đậu xanh ĐXVN7 dài hơn so với
không che phủ bên cạnh đó tăng lượng đạm bón từ
20 kg N/ha lên 30 hoặc 40 kg N/ha thời gian sinh
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 62
trưởng cũng kéo dài hơn. Kết quả nghiên cứu này
cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu của Abdul
et al. (2012), nhóm tác giả đã cho thấy khi tăng lượng
đạm bón làm kéo dài thời gian sinh trưởng của cây
đậu xanh. Ngoài ra kết quả trong thí nghiệm này cho
thấy không có sự sai khác về thời gian từ mọc đến ra
hoa giữa các mức đạm bón nhưng lại có sự sai khác
giữa điều kiện che phủ và không che phủ.
3.2. Ảnh hưởng của các mức đạm bón đến chiều
cao cây và số lá trên thân chính của giống đậu xanh
ĐXVN7 trên các vật liệu che phủ khác nhau
Kết quả nghiên cứu cho thấy trên cùng một điều
kiện che phủ có sự sai khác có ý nghĩa về chiều cao
thân chính giữa các mức đạm bón, khi tăng lượng
đạm bón các chỉ tiêu trên cũng có xu hướng tăng lên.
Tuy không có sự sai khác có ý nghĩa về số lá trên
thân chính giữa mức đạm bón 20 và 30 kg N/ha cũng
như 30 và 40 kg N/ha, nhưng có sự sai khác có ý
nghĩa giữa mức N bón 20 và 40 kg N/ha. Trong điều
kiện được che phủ số lá trên thân chính và chiều cao
thân chính cao hơn so với điều kiện không được che
phủ, nhưng không có sự sai khác có ý nghĩa giữa
công thức che phủ trấu và công thức không che phủ.
Bảng 2. Ảnh hưởng của các mức đạm bón đến chiều cao cây cuối cùng và số lá/thân chính của
giống đậu xanh ĐXVN7 trên các vật liệu che phủ khác nhau
Vật liệu che phủ Mức đạm bón
(kg N/ha)
Chiều cao cây cuối
cùng (cm)
Số lá/thân chính
(lá)
20 64,70 7,33
30 67,77 7,73 Không che phủ
40 72,37 7,93
20 63,31 7,53
30 66,21 7,90 Che phủ trấu
40 72,37 8,00
20 65,29 7,73
30 70,61 8,00 Che phủ nilon
40 74,81 8,13
CV% 2,6 2,7
LSDVLxMB 0,05 3,21 0,38
Không che phủ 67,17 7,67
Che phủ trấu 67,30 7,81 TB vật liệu che phủ
Che phủ nilon 70,23 7,96
LSDVL 0,05 1,85 0,22
20 64,43 7,53
30 68,20 7,88 TB mức đạm bón
40 72,07 8,02
LSDMB 0,05 1,74 0,46
Ghi chú VL: Vật liệu; MB: Mức bón.
3.3. Ảnh hưởng của các mức đạm bón đến diện
tích lá và chỉ số diện tích lá của giống đậu xanh
ĐXVN7 trên các vật liệu che phủ khác nhau
Diện tích lá và chỉ số diện tích lá của giống đậu
xanh ĐXVN7 có xu hướng tăng dần từ thời kỳ cây
con và đạt giá trị cao nhất vào thời kỳ ra hoa. Khi
tăng hàm lượng đạm bón thì diện tích lá và chỉ số
diện tích lá đều có xu hướng tăng lên và đạt cao nhất
ở mức bón 40 kg N/ha. So sánh giữa các công thức
che phủ kết quả cho thấy có sự sai khác có ý nghĩa
giữa công thức che phủ và không che phủ. Trong
điều kiện che phủ diện tích lá và chỉ số diện tích lá
của giống đậu xanh ĐXVN7 ở cả 3 giai đoạn theo dõi
cao hơn so với không che phủ. Kết quả nghiên cứu
này cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu trên cây
đậu xanh của Khalilzadeh et al. (2012) và trên cây lạc
của Vũ Ngọc Thắng và Vũ Đình Chính (2007). Tuy
nhiên không có sự sai khác có ý nghĩa về diện tích lá
và chỉ số diện tích lá giữa che phủ trấu và che phủ
nilon.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 63
Bảng 3. Ảnh hưởng của các mức đạm bón đến diện tích lá và chỉ số diện tích lá của giống đậu xanh ĐXVN7
trên các vật liệu che phủ khác nhau
Thời kỳ cây con Thời kỳ ra hoa Thời kỳ thu quả lần 1
Vật liệu
che phủ
Mức đạm bón
(kg N/ha)
Diện tích
lá
(dm2/cây)
LAI (m2
lá/m2
đất)
Diện tích
lá
(dm2/cây)
LAI (m2
lá/m2 đất)
Diện tích
lá
(dm2/cây)
LAI (m2
lá/m2 đất)
20 1,24 0,31 10,87 2,72 9,90 2,47
30 1,48 0,37 15,90 3,97 13,66 3,42 Không
che phủ 40 1,61 0,40 17,83 4,46 15,57 3,89
20 1,42 0,36 16,26 4,06 14,98 3,75
30 1,62 0,41 19,85 4,96 19,36 4,84
Che
phủ
trấu 40 2,33 0,58 21,97 5,49 20,56 5,14
20 1,41 0,35 16,50 4,13 12,33 3,08
30 1,76 0,49 20,95 5,24 18,49 4,62
Che
phủ
nilon 40 2,10 0,47 23,08 5,77 20,90 5,22
CV% 9,3 9,1 5,7 5,7 7,8 7,9
LSDVLxMB 0,05 0,28 0,07 1,84 0,46 2,26 0,57
Không che phủ 1,45 0,36 14,87 3,72 13,04 3,26
Che phủ trấu 1,79 0,45 19,36 4,84 18,30 4,74
TB vật
liệu che
phủ Che phủ nilon 1,76 0,44 20,17 5,04 17,24 4,31
LSDVL 0,05 0,16 0,04 1,06 0,27 1,30 0,33
20 1,36 0,34 14,64 3,64 12,40 3,10
30 1,62 0,41 18,90 4,72 17,17 4,29
TB mức
đạm
bón 40 2,01 0,50 20,96 5,24 19,01 4,75
LSDMB 0,05 0,28 0,07 1,27 0,32 0,97 0,24
Ghi chú VL: Vật liệu; MB: Mức bón.
3.4. Ảnh hưởng của các mức đạm bón đến khả
năng tích lũy chất khô của giống đậu xanh ĐXVN7
trên các vật liệu che phủ khác nhau
Khả năng tích lũy chất khô của giống đậu xanh
ĐXVN7 có xu hướng tăng dần từ giai đoạn cây con và
đạt giá trị cao vào thời kỳ thu quả lần 1. Có sự sai
khác có ý nghĩa giữa các mức đạm bón về khả năng
tích lũy chất khô của rễ và thân lá của giống đậu
xanh ĐXVN7 trên cùng một điều kiện che phủ. Khi
tăng hàm lượng đạm bón thì khả năng tích lũy chất
khô của rễ và thân lá cũng có xu hướng tăng lên. Tuy
nhiên không có sự sai khác có ý nghĩa về khối lượng
thân lá ở thời kỳ thu quả lần 1 giữa mức đạm 20 và 30
kg N/ha. So sánh giữa các công thức che phủ kết
quả cho thấy có sự sai khác có ý nghĩa giữa các công
thức che phủ và công thức không che phủ. Kết quả
nghiên cứu này cũng tương đồng với kết quả nghiên
cứu trên cây đậu xanh của Khalilzadeh et al. (2012)
và trên cây lạc của Vũ Ngọc Thắng và Vũ Đình Chính
(2007). So sánh giữa các điều kiện che phủ kết quả
cho thấy khả năng tích lũy chất khô của rễ và thân lá
đạt giá trị thấp nhất ở công thức không che phủ.
Công thức che phủ bằng nilon cho khả năng tích lũy
chất khô đạt giá trị cao nhất tiếp đến là công thức
che phủ bằng trấu.
Bảng 4. Ảnh hưởng của các mức đạm bón đến khả năng tích lũy chất khô của giống đậu xanh ĐXVN7 trên
các vật liệu che phủ khác nhau
Thời kỳ cây con
(g/cây)
Thời kỳ ra hoa
(g/cây)
Thời kỳ thu quả
(g/cây) Vật liệu
che phủ
Mức đạm bón
(kg N/ha) Khối
lượng rễ
khô
Khối lượng
thân lá khô
Khối
lượng rễ
khô
Khối lượng
thân lá khô
Khối
lượng rễ
khô
Khối
lượng thân
lá khô
Không 20 0,14 0,63 1,14 4,90 1,21 10,54
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 64
30 0,16 1,24 1,36 6,71 1,47 10,70 che phủ
40 0,19 1,27 2,00 7,23 1,81 14,03
20 0,16 0,93 1,25 6,97 1,52 14,12
30 0,21 1,56 1,64 7,93 2,10 15,85 Che phủ
trấu 40 0,23 1,83 2,07 12,56 2,27 19,42
20 0,17 1,83 1,76 9,92 1,87 17,20
30 0,20 1,16 1,76 9,92 1,98 15,96 Che phủ
nilon 40 0,24 1,97 2,26 13,22 2,19 19,41
CV% 10,3 11,0 5,6 6,8 3,0 10,8
LSDVLxMB 0,05 0,04 0,27 0,17 1,07 0,1 3,07
Không che
phủ 0,16 1,05 1,50 6,28 1,50 11,76
Che phủ trấu 0,20 1,44 1,65 9,16 1,96 18,53
TB vật
liệu che
phủ Che phủ nilon 0,21 1,66 1,93 11,02 2,01 17,53
LSDVL 0,05 0,02 0,16 0,1 0,62 0,06 1,77
20 0,16 1,13 1,38 7,27 1,53 13,95
30 0,19 1,31 1,59 8,19 1,85 14,17 TB mức
đạm bón 40 0,22 1,69 2,11 11,00 2,09 19,69
LSDMB 0,05 0,03 0,17 0,12 0,84 0,05 1,91
Ghi chú VL: Vật liệu; MB: Mức bón.
3.5. Ảnh hưởng của các mức đạm bón đến số
lượng nốt sần của giống đậu xanh ĐXVN7 trên các
vật liệu che phủ khác nhau
Số lượng nốt sần của giống đậu xanh ĐXVN7 có
xu hướng tăng dần từ thời kỳ cây con và đạt giá trị
cao vào thời kỳ ra hoa. Đến thời kỳ thu quả lần 1 số
lượng nốt sần của giống đậu xanh ĐXVN7 có xu
hướng giảm xuống. Kết quả nghiên cứu cho thấy có
sự sai khác có ý nghĩa giữa các mức đạm bón cũng
như có sự sai khác có ý nghĩa giữa điều kiện che phủ
và không che phủ về số lượng nốt sần. Tuy nhiên
không có sự sai khác có ý nghĩa về số lượng nốt sần
giữa che phủ trấu và che phủ nilon. Ở thời kỳ cây
con, khi tăng lượng đạm bón từ 20 lên 40 kg N/ha số
lượng nốt sần cũng có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên
bước sang thời kỳ ra hoa thì số lượng nốt sần của
giống đậu xanh ĐXVN7 trong điều kiện che phủ trấu
và che phủ nilon đạt giá trị cao nhất ở mức bón 30 kg
N/ha. Bước sang thời kỳ thu quả lần 1 trong tất cả
các điều kiện che phủ và không che phủ thì số lượng
nốt sần đều đạt giá trị cao nhất ở mức bón 30 kg
N/ha. So sánh giữa các điều kiện che phủ kết quả
cho thấy có sự sai khác có ý nghĩa giữa các điều kiện
che phủ và điều kiện không che phủ, trong điều kiện
có che phủ số lượng nốt sần cao hơn điều kiện không
được che phủ. Kết quả nghiên cứu này cũng tương
đồng với kết quả nghiên cứu của Vũ Ngọc Thắng và
cs. (2018) thu được khi nghiên cứu trên cây lạc.
Bảng 5. Ảnh hưởng của mức đạm bón đến khả năng hình thành nốt sần của giống đậu xanh ĐXVN7
trên các vật liệu che phủ khác nhau
Thời kỳ ra cây con Thời kỳ ra hoa Thời kỳ thu quả Vật liệu che
phủ
Mức đạm bón
(kg N/ha) Tổng số nốt sần
(nốt/cây)
Tổng số nốt sần
(nốt/cây)
Tổng số nốt sần
(nốt/cây)
20 16,55 93,00 42,22
30 24,00 98,67 66,44 Không che
phủ 40 25,56 105,00 57,89
20 19,95 126,89 81,67
30 28,45 137,22 122,11 Che phủ trấu
40 33,22 134,00 118,44
20 20,66 129,33 87,11
30 27,11 135,45 119,45 Che phủ nilon
40 29,00 122,22 115,67
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 65
CV% 8,5 3,2 2,6
LSDVLxMB 0,05 3,76 6,81 4,24
Không che phủ 22,04 98,89 55,52
Che phủ trấu 27,20 132,70 107,41 TB vật liệu
che phủ Che phủ nilon 25,59 129,00 107,41
LSDVL 0,05 2,18 3,93 2,44
20 19,06 116,41 70,33
30 26,51 123,78 102,67 TB mức đạm bón
40 29,26 120,40 97,33
LSDMB 0,05 3,38 4,10 2,82
Ghi chú VL: Vật liệu; MB: Mức bón. 3.6. Ảnh hưởng của các mức đạm bón đến một
số chỉ tiêu sinh lý của giống đậu xanh ĐXVN7 trên
các vật liệu che phủ khác nhau
Chỉ số SPAD của giống đậu xanh ĐXVN7 có xu
hướng tăng dần từ thời kỳ cây con và và đạt giá trị
cao vào thời kỳ thu quả lần 1. Có sự sai khác giữa các
mức đạm bón đến chỉ số SPAD ở cả 3 thời kì theo dõi
trên cùng điều kiện che phủ. Ở thời kỳ cây con, khi
tăng lượng đạm bón từ 20 lên 40 kg N/ha chỉ số
SPAD cũng có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên bước
sang thời kỳ ra hoa thì chỉ số SPAD của giống đậu
xanh ĐXVN7 trong điều kiện che phủ trấu và che
phủ nilon đạt giá trị cao nhất lại ở mức bón 30 kg
N/ha. Bước sang thời kỳ thu quả lần 1 trong tất cả
các điều kiện che phủ và không che phủ thì chỉ số
SPAD đều đạt giá trị cao nhất ở mức bón 30 kg N/ha.
Có sự sai khác có ý nghĩa về chỉ số SPAD giữa điều
kiện được che phủ và điều kiện không được che phủ.
Tuy nhiên không có sự sai khác có ý nghĩa về chỉ số
SPAD trên 2 điều kiện che phủ bằng trấu và che phủ
bằng nilon. Giá trị cao nhất về chỉ số SPAD được
quan sát ở công thức được che phủ bằng trấu tiếp
đến là điều kiện che phủ nilon.
Bảng 6. Ảnh hưởng của mức đạm bón đến chỉ số SPAD của giống đậu xanh ĐXVN7 trong các vật liệu
che phủ khác nhau
Vật liệu che phủ Mức đạm bón
(kg N/ha)
Thời kỳ
cây con
Thời kỳ ra
hoa
Thời kỳ thu quả
lần 1
20 26,81 43,16 42,98
30 31,41 48,62 46,94 Không che phủ
40 38,81 45,50 45,25
20 29,04 44,99 50,64
30 33,42 52,52 51,52 Che phủ trấu
40 41,22 49,24 49,88
20 30,55 46,68 47,56
30 34,10 50,41 51,52 Che phủ nilon
40 40,21 49,77 47,91
CV% 2,7 4,4 5,4
LSDVLxMB 0,05 1,65 3,77 4,64
Không che phủ 32,35 45,76 45,06
Che phủ trấu 34,56 48,92 50,68 TB vật liệu che
phủ Che phủ nilon 34,95 48,62 48,99
LSDVL 0,05 0,95 2,18 2,68
20 28,80 44,94 47,06
30 32,98 51,99 49,99 TB mức đạm bón
40 40,08 48,12 47,68
LSDMB 0,05 1,39 3,02 2,60
Ghi chú VL: Vật liệu; MB: Mức bón.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 66
3.7. Ảnh hưởng của các mức đạm bón đến các yếu
tố cấu thành năng suất và năng suất của giống đậu
xanh ĐXVN7 trên các vật liệu che phủ khác nhau
Kết quả nghiên cứu cho thấy, có sự sai khác giữa
các mức đạm bón đến tổng số quả trên cây, khối
lượng 1000 hạt của giống đậu xanh ĐXVN7 trên
cùng điều kiện che phủ. Khi tăng lượng đạm bón
tổng số quả/cây và khối lượng 1000 hạt cũng có xu
hướng tăng lên ngoại trừ công thức bón 40 kg N/ha
trong điều kiện che phủ bằng nilon. Kết quả nghiên
cứu này cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu
trên đậu xanh Md. Asaduzzaman et al. (2008). So
sánh giữa các điều kiện được che phủ và không được
che phủ kết quả cho thấy, trong điều kiện được che
phủ tổng số quả/cây và khối lượng 1000 hạt luôn đạt
cao hơn so với điều kiện không được che phủ. Kết
quả nghiên cứu này tương đồng với kết quả nghiên
cứu trước đây của Kamal et al. (2010) trên cây đậu;
Thayalaseelan et al. (2017) và Bunkar et al. (2013)
trên cây đậu xanh; Vũ Ngọc Thắng và Vũ Đình
Chính (2007) trên cây lạc.
Có sự sai khác có ý nghĩa giữa các mức đạm bón
đến năng suất cá thể, năng suất lí thuyết và năng suất
thực thu của giống đậu xanh ĐXVN7. Khi tăng mức
đạm bón từ 20 lên 30 kg N/ha các chỉ tiêu năng suất
cũng có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên tiếp tục tăng
lượng đạm bón lên 40 kg N/ha năng suất cá thể,
năng suất lí thuyết và năng suất thực thu của giống
đậu xanh ĐXVN7 bắt đầu có xu hướng giảm xuống.
So sánh giữa điều kiện che phủ và không che phủ,
kết quả cũng cho thấy có sự sai khác có ý nghĩa giữa
điều kiện được che phủ và không được che phủ về
năng suất cá thể, năng suất lí thuyết và năng suất
thực thu của giống đậu xanh ĐXVN7. Trong điều
kiện được che phủ, các chỉ tiêu năng suất luôn cao
hơn so với các công thức trong điều kiện không được
che phủ. Kết quả nghiên cứu này cũng tương đồng
với các kết quả nghiên cứu của Kamal et al. (2010)
trên cây đậu; Thayalaseelan et al. (2017) và Bunkar
et al. (2013) trên cây đậu xanh. Tuy nhiên trong
nghiên cứu này không có sự sai khác có ý nghĩa về
năng suất cá thể, năng suất lí thuyết và năng suất
thực thu của giống đậu xanh ĐXVN7 giữa điều kiện
che phủ trấu và điều kiện che phủ nilon.
Bảng 7. Ảnh hưởng của các mức đạm bón đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của
giống đậu xanh ĐXVN7 trên các vật liệu che phủ khác nhau
Vật liệu che
phủ
Mức đạm bón
(kg N/ha)
Tổng số
quả/cây
(quả)
P1000 hạt
(g)
Năng suất cá
thể (g/cây)
Năng suất
lí thuyết
(tấn/ha)
Năng suất
thực thu
(tấn/ha)
20 16,20 46,94 8,17 1,79 1,34
30 23,13 48,45 10,18 2,51 1,57 Không che
phủ 40 23,80 50,97 10,05 2,54 1,56
20 22,67 49,95 9,32 2,46 1,63
30 26,67 51,11 13,46 3,36 2,12 Che phủ trấu
40 27,47 51,15 13,34 3,34 2,08
20 22,47 48,79 9,93 2,48 1,67
30 28,80 51,94 12,45 3,11 2,10 Che phủ
nilon 40 27,53 51,29 12,02 3,01 2,00
CV% 5,2 5,3 9,60 5,10 5,00
LSDVLxMB5% 0,95 1,86 1,89 0,10 0,16
Không che phủ 21,04 48,79 9,47 2,28 1,49
Che phủ trấu 25,60 50,74 12,15 3,05 1,94 TB vật liệu
che phủ Che phủ nilon 26,27 50,61 11,47 2,87 1,92
LSDVL5% 0,55 1,07 1,09 0,06 0,09
20 20,45 48,56 9,25 2,24 1,54
30 26,20 50,50 12,03 3,00 1,93 TB mức đạm
bón 40 26,27 51,07 11,80 2,96 1,88
LSDMB5% 0,98 1,07 0,82 0,08 0,05
Ghi chú VL: Vật liệu; MB: Mức bón.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 67
3.8. Đánh giá hiệu quả kinh tế của các mức đạm
bón trên các điều kiện che phủ khác nhau của giống
đậu xanh ĐXVN7
Với mức chi phí vật tư, giá nhân công, giá bán thì
đậu xanh trồng trên điều kiện che phủ luôn có lãi
thuần cao hơn trồng trên điều kiện không che phủ.
So sánh giữa các công thức trong thí nghiệm kết quả
cho thấy hiệu quả kinh tế đạt giá trị cao nhất là công
thức trồng trên điều kiện che phủ trấu với mức đạm
bón là 30 kg N/ha đạt lãi thuần là 48.053.000 VNĐ và
tiếp đến là công thức che phủ nilon ở mức đạm bón
30 kg N/ha đạt lãi thuần là 44.593.000VNĐ.
Bảng 8. Đánh giá hiệu quả kinh tế của giống đậu xanh ĐXVN7 ở các mức đạm bón trên các vật liệu che phủ
khác nhau
Đơn vị tính: nghìn đồng/ha
Vật liệu che phủ Mức đạm bón
(kg N/ha)
Năng suất
(tấn/ha) Tổng thu Tổng chi Lãi thuần
20 1,34 66.750 54.930 11.820
30 1,57 78.350 55.030 23.320 Không che phủ
40 1,56 78.200 51.130 27.070
20 1,63 81.650 57.797 23.853
30 2,12 105.950 57.897 48.053 Che phủ trấu
40 2,08 103.950 57.997 45.953
20 1,67 83.300 60.507 22.793
30 2,10 105.200 60.607 44.593 Che phủ nilon
40 2,00 99.750 60.707 39.043
4. KẾT LUẬN
Trong điều kiện được che phủ các chỉ tiêu sinh
trưởng như thời gian sinh trưởng, thời gian ra hoa,
chiều cao cây, số lá/thân chính, khả năng tích lũy
chất khô, số lượng nốt sần, chỉ số SPAD, diện tích lá
và chỉ số diện tích lá, các yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất của giống đậu xanh ĐXVN7 đều cao
hơn hơn so với điều kiện không được che phủ. Ngoài
ra, trên cùng một điều kiện che phủ khi tăng hàm
lượng đạm bón từ 20 lên 30 kg N/ha thì các chỉ tiêu
này cũng có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên tiếp tục
tăng lượng đạm bón lên 40 kg N/ha thì một số chỉ
tiêu như số lượng nốt sần, chỉ số SPAD, diện tích lá
và chỉ số diện tích lá, các yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất của giống đậu xanh ĐXVN7 có xu
hướng giảm xuống. So sánh giữa các công thức trong
thí nghiệm kết quả cho thấy hiệu quả kinh tế đạt giá
trị cao nhất được ghi nhận tại công thức trồng trong
điều kiện che phủ trấu ở mức đạm bón là 30 kgN/ha
đạt năng suất 2,12 tấn/ha so với không che phủ 1,57
tấn/ha, lãi thuần là 48.053.000 VNĐ và tiếp đến là
công thức che phủ nilon ở mức đạm bón 30 kg/ha
đạt lãi thuần là 44.593.000 VNĐ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Achakzai A. K. K., Shah B. H and Wahi M. A.
(2012). Effect of nitrogen fertilizer on the growth of
mungbean [Vigna radiata (L.) Wilczek] grown in
Quetta. Pak. J. Bot. 44(3): 981-987.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(2011). QCVN 01-62:2011/BNNPTNT. Quy chuẩn kỹ
thuật Quốc gia về khảo nghiệm giá trị canh tác và sử
dụng của giống đậu xanh.
3. Bunkar D., R. K. Singh. H.R. Choudhary. A. L.
Jat. Kanchan Singh (2013). Efect of row spacing and
mulching on growth and productivity of mungbean
(Vigna radiata L. Wilczek) in guava (Psidium guajava
L.) based agri – horti system. Environment and
Ecology. 31(1): 160-163.
5. Hà Đình Tuấn, Lê Quốc Doanh, Nguyễn
Quang Tin và Đàm Quang Minh (2011). Các biện
pháp kỹ thuật canh tác bền vững đất dốc vùng Tây
Bắc. Kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ 2006 -
2010 của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp
miền núi phía Bắc. tr. 837 - 841.
6. Eman A. R. Masoud and N. Hadis (2013). The
effect of different nitrogen levels on seed yield and
morphological characteristic of mungbean in the
climate condition of Khorramabad. Annals of
Biological Research. 4(2): 51-55.
7. Kamal S. M. A. H. M., Islam M. K., Kawochar
M. A., Mahfuz M. S., Sayem M. A. (2010). Effect of
mulching on growth and yield of French bean.
Bangladesh J. Environ. Sci.19: 63-66.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 68
8. Kumar. S. D and Lal B. R. (2012). Effect of
mulching on crop production under rainfed
condition: a review. International Journal of Research
in Chemistry and Environment. 2(2):8-20.
9. Khalilzadeh R.H., Tajbakhsh M.J and Jalilian
J. (2012). Growth characteristics of mung bean
(Vigna radiata L.) affected by foliar application of
urea and bio-organic fertilizers. Intl.J. Agri. Crop Sci.
4(10): 637-642.
10. Md. Asaduzzaman. Md. Fazlul Karim. Md.
Jafar Ullah and Mirza Hasanuzzaman (2008).
Response of mungbean (Vigna radiata L.) to nitrogen
and irrigation management. American-Eurasian
Journal of Scientific Research. 3(1): 40-43.
11. Razzaque M. A., Haque M. M., Karim M. A
and Solaiman A. R. M. (2016). Nitrogen fixating
ability of mungbean genotypes under different levels
of nitrogen application. Bangladesh Journal of
Agricultural Research. 41(1): 163-171.
12. Thayalaseelan S., Pradheeban L., Nishanthan
K and Sivachandiran S. (2017). Effect of growth and
yield performances of mungbean (Vigna Radiata L.)
under different mulching practices. World Journal of
Pharmaceutical and Life Sciences. 3(6): 42-50.
13. Vũ Ngọc Thắng, Nguyễn Thị Yến, Nông
Thảo Diễm, Nguyễn Ngọc Quất và Trần Anh Tuấn
(2018). Ảnh hưởng của liều lượng phân lân và che
phủ đến sinh trưởng và năng suất giống lạc L14
trong vụ xuân tại Gia Lâm. Hà Nội. Tạp chí Khoa học
Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam. 11(96): 83-90.
14. Vũ Ngọc Thắng và Vũ Đình Chính (2007).
Ảnh hưởng của một số vật liệu che phủ đến sinh
trưởng, phát triển và năng suất của giống lạc L14
trong điều kiện vụ thu trên đất Gia Lâm – Hà Nội.
Tạp chí KHKT Nông nghiệp. 5(3): 23-31.
15. Vũ Văn Liết, Nguyễn Mai Thơm, Ninh Thị
Phíp, Lê Thị Minh Thảo (2010). Nghiên cứu tuyển
chọn giống và vật liệu che phủ thích hợp cho lạc
xuân tại xã Lệ Viễn- huyện Sơn Động – Tỉnh Bắc
Giang. Tạp chí Khoa học và Phát triển. 8(1): 33-39.
EFFECT OF NITROGEN ON GROWTH AND YIELD OF MUNGBEAN VARIETY DXVN7 UNDER
DIFERENT MULCHING MATERIALS DURING SPRING SEASON IN HUNG YEN
Nguyen Thi Xiem, Vu Ngoc Thang, Tran Anh Tuan,
Vu Dinh Chinh, Nguyen Xuan Truong, Luong Van Hung
Summary This study was carried out to evaluate the effect of nitrogen on growth and yield of mungbean variety
DXVN7 under different mulching materials (non-mulching, rice husk mulching, nilon mulching) during
spring season in Van Lam, Hung Yen. The result indicated that the total growth duration of DXVN7
mungbean variety planting under mulching condition was longer than that of non-mulching condition. In
addition, the growth characteristics and yield of DXVN7 mungbean variety under mulching condition were
higher than that in the non-mulching condition. In the other hand, the growth and yield of DXVN7
mungbean variety on the same mulching condition were increased when nitrogen level increased from 20
to 30 kg N/ha. However, continuing to increase the amount of nitrogen level to 40 kg N/ha, some
characteristics such as number of nodules, SPAD value, leaf area and leaf area index, components of yield
and yield of DXVN7 mungbean variety were tends to decrease. Compared with treatments results showed
that the the highest economic value (48,053,000 VND per ha) was recorded at the rice husk mulching
treatment at 30 kg N/ha.
Keywords: Mulching material, mungbean, growth, nitrogen, yield.
Người phản biện: GS. VS. TSKH. Trần Đình Long
Ngày nhận bài: 23/7/2019
Ngày thông qua phản biện: 23/8/2019
Ngày duyệt đăng: 30/8/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 69
ẢNH HƯỞNG CỦA KALI ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ SINH
LÝ CỦA CÂY CÀ PHÊ CHÈ TRONG ĐIỀU KIỆN HẠN Vũ Ngọc Thắng1*, Nguyễn Xuân Trường2,
Trần Anh Tuấn1, Lê Mạnh Tú3
TÓM TẮT Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá ảnh hưởng của 5 mức kali bón (100; 150; 200; 250, 300 kg
K2O/ha) đến sinh trưởng và sinh lý của cây cà phê chè trong điều kiện gây hạn và không gây hạn. Kết quả
nghiên cứu cho thấy trong điều kiện gây hạn và không gây hạn khi tăng mức bón kali từ 0 kg đến 200 kg
K2O/ha các chỉ tiêu sinh trưởng như: chiều dài lá, chiều rộng lá, chiều dài đoạn cành non có xu hướng tăng
dần. Tuy nhiên khi tăng mức bón lên 250 kg và 300 kg K2O/ha các chỉ tiêu sinh trưởng bắt đầu có xu hướng
suy giảm. So sánh giữa điều kiện gây hạn và không gây hạn kết quả cho thấy chiều dài lá, chiều rộng lá,
chiều dài đoạn cành non, chỉ số SPAD, hiệu suất huỳnh quang diệp lục, hàm lượng nước tương đối ở công
thức gây hạn thấp hơn công thức không gây hạn. Tuy nhiên tỷ lệ héo và mức độ rò rỉ ion ở công thức gây
hạn lại cao hơn công thức không gây hạn. Bón kali cho cây cà phê trong điều kiện hạn sẽ giúp cây tăng khả
năng chống chịu và có khả năng phục hồi cao hơn sau khi tưới nước trở lại. Tuy nhiên, so sánh giữa các
mức bón kali, kết quả cho thấy ở mức bón 200 kg K2O/ha cây cà phê có khả năng hồi phục cao nhất sau khi
tưới nước trở lại.
Từ khóa: Cà phê chè, hạn, kali, sinh trưởng, sinh lý.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Biến đổi khí hậu là một trong các nhân tố gây
biến động sản lượng cà phê trên toàn thế giới. Cà phê
là một trong những cây trồng chịu tác động lớn của
điều kiện môi trường bất thuận. Năng suất và chất
lượng cà phê giảm đáng kể khi gặp điều kiện môi
trường bất thuận chỉ trong một khoảng thời gian
ngắn đặc biệt là hạn hán (DaMatta và Ramalho,
2006). Hạn hán chủ yếu do giảm lượng mưa và nhiệt
độ cao đã ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển và
năng suất của cây cà phê (Melke and Fetene, 2014).
Bên cạnh đó hạn hán còn làm giảm tuổi thọ của cây,
đồng thời hạn nghiêm trọng có thể làm khô hoàn
toàn lá cây cà phê (Gole, 2003).
Kali có vai trò quan trọng góp phần duy trì sự
sống của cây trồng đặc biệt trong điều kiện bất
thuận. Kali đóng vai trò vô cùng cần thiết đối với các
quá trình sinh lý của cây như quá trình quang hợp,
vận chuyển vật chất trong cây, duy trì sức đề kháng,
kích hoạt các enzyme và giảm sự hấp thu các ion dư
thừa như Na và Fe (Marschner, 1995). Chế độ dinh
1Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2Viện sinh học nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 3Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền múi phía Bắc Email: [email protected]
dưỡng kali phù hợp sẽ kích thích sự phát triển của rễ
nên giúp tăng cường khả năng chống chịu của cây
trồng (Saxena, 1985). Kali giúp tăng sức chống chịu
hạn hán thông qua việc thúc đẩy bộ rễ phát triển, sự
hấp thu chất dinh dưỡng và nước của cây trồng
(Rama Rao, 1986) và thông qua việc giảm tổn thất
nước thường xuyên (Beringer and Trolldenier, 1978).
Kali giữ vai trò quan trọng không thể thiếu trong quá
trình quang hợp, giúp tối ưu các cấu trúc cơ quan liên
quan đến quá trình quang hợp (Hartt, 1969). Kali
điều chỉnh tốc độ CO2 cũng như nồng độ Chlorophyll
(Pier and Berkowitz, 1987). Ngoài ra, kali còn kiểm
soát màng của các chất lục lạp giúp duy trì pH tối ưu
để chuyển hóa năng lượng ánh sáng thành năng
lượng hóa học một cách hiệu quả (Berkowitz và
Peters, 1993).
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Cây cà phê chè giống catimor 4 năm tuổi.
Đất thí nghiệm được lấy từ tầng 0 cm đến 40 cm
theo quy tắc đường dích dắc tại lô trồng cà phê đại
diện của xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn
La. Đặc điểm lý hóa tính của đất được trình bày tại
bảng 1.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 70
Bảng1: Một số chỉ tiêu lý hóa tính của đất trồng trong thí nghiệm
Các chỉ tiêu đánh giá Cấp hạt (mm) Hàm lượng
0,02 - 2,0 28,60
0,02 - 0,002 42,70
Thành phần cấp hạt (%)
< 0,002 28,70
pH KCl 5,10
Độ chua trao đổi (C mol (+)/kg) 1,77
Độ xốp % 54,83
OC (%) 0,97
Humic (%) 0,43
N dt (mg/100g) 0,97
P2O5 dt (mg/100g) 0,43
K2O trao đổi (mg/100g) 10,90
Ca2+ (mg/100g) 0,70
Mg2+(mg/100g) 2,33
Fe3+ (mg/100g) 34,60
Cl- (mg/100g) 8,16
Mg2+ ts (mg/100g) 80,30
Zn2+ (mg/100g) 3,20
Cu2+ (mg/100g) 61,10
Số liệu được phân tích từ Viện Thổ nhưỡng nông hóa năm 2017
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thí nghiệm gồm 2 nhân tố: nhân tố chính là
lượng K2O bón, nhân tố phụ là mức gây hạn và được
bố trí theo khối Split-pot như sau.
Bảng 2: Công thức thí nghiệm
Công thức thí nghiệm Lượng K2O bón (kg/ha) Mức gây hạn
Tưới nước Công thức 1 Đối chứng (không bón)
Không tưới nước
Tưới nước Công thức 2 100
Không tưới nước
Tưới nước Công thức 3 150
Không tưới nước
Tưới nước Công thức 4 200
Không tưới nước
Tưới nước Công thức 5 250
Không tưới nước
Tưới nước Công thức 6 300
Không tưới nước
Mỗi công thức nhắc lại 3 lần, mỗi lần nhắc lại 10
chậu, mỗi chậu trồng 1 cây cà phê chè 4 năm tuổi.
Thí nghiệm được tiến hành tại khu nhà lưới của Khoa
Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Nền phân bón (cho 1 ha): 10 tấn PC + 300 kg N +
100 kg P2O5.
Phương pháp gây hạn: 1 tháng sau khi bón kali,
ngừng tưới nước và theo dõi cho đến khi xuất hiện ≥
75% lá héo, tiến hành tưới trở lại.
Thời gian nghiên cứu từ tháng 1 - 9 năm 2018.
2.3. Các chỉ tiêu theo dõi
2.3.1. Các chỉ tiêu sinh trưởng
Chiều dài và chiều rộng lá (cm); chiều dài đoạn
cành non (cm).
2.3.2. Các chỉ tiêu sinh lý - Hàm lượng nước tương đối trong lá (RWC): Lấy
mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên, mỗi lần nhắc lại
10 mẫu trước thời gian kết thúc gây hạn. Lấy vào
khoảng 11 - 13 giờ. Cân khối lượng lá tươi (FW). Sau
đó cho ngâm trong nước cất 24 giờ, bỏ mẫu ra, thấm
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 71
khô bề mặt lá rồi cân khối lượng lá bão hòa (TW).
Sau đó đem sấy khô ở nhiệt độ 80oC trong 48 giờ cho
đến khi thu được khối lượng không đổi (DW). Công
thức tính hàm lượng nước tương đối trong lá như sau:
bRWC (%) =
- Tỉ lệ héo úa và khả năng phục hồi: Sau khi để
hạn, cần thường xuyên theo dõi để đánh giá tỷ lệ héo
của các chậu thí nghiệm vào 8 h sáng. Khi cây xuất
hiện 70% lá héo thì tiến hành tưới đẫm lại. Theo dõi
khả năng phục hồi của cây vào 6 h sáng và 6 h tối
(cây héo là cây có 70% số lá bị mất sức trương và rũ
xuống; cây hồi phục là cây có dưới 20% lá héo sau khi
tưới nước trở lại). Tỉ lệ héo (%) = Số cây héo/Tổng số
cây theo dõi 100%. Tỉ lệ phục hồi (%) = Số cây
không héo/Tổng số cây theo dõi 100%
- Chỉ số SPAD: Đo bằng máy đo chỉ số SPAD
(Minolta, SPAD-502, Japan);
- Hiệu suất huỳnh quang diệp lục: Đo bằng máy
đo hiệu suất huỳnh quang diệp lục (Chlorophyll
fluorescence metter);
- Xác định mức độ rò rỉ ion: Thu lá cà phê trưởng
thành (lá thứ 3 tính từ trên ngọn xuống) ở các công
thức thí nghiệm, sau đó lấy mẫu lá có diện tích 1 cm2,
mỗi lần nhắc lại lấy 10 mẫu. Mẫu lá được rửa sạch
nhiều lần qua nước cất, sau đó được ngâm vào ống
nhựa thí nghiệm với dung tích 20 ml nước khử ion.
Độ rò rỉ ion được xác định bằng máy đo độ dẫn điện
(Electrical Conductivity = EC) (Mettle Toledo AG)
theo công thức: Mức độ rò rỉ ion (%) = C1/C2 × 100
+ C1 là chỉ số đo dung dịch thí nghiệm sau 2
giờ ngâm lá ở điều kiện nhiệt độ phòng, có che tối và
lắc liên tục.
+ C2 là chỉ số đo dung dịch thí nghiệm sau khi
đã ngâm ống nghiệm có chứa mẫu lá ở bể ổn nhiệt
80oC trong 2 giờ.
Số liệu được đo, đếm, thu thập sau đó được xử lý
bằng phần mềm GraphPad Prism 5.0.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của các mức kali bón đến một số
chỉ tiêu sinh trưởng của cây cà phê chè trong điều kiện
hạn
3.1.1. Ảnh hưởng của các mức kali bón đến động
thái tăng trưởng chiều dài lá của cây cà phê chè
trong điều kiện hạn
Kết quả theo dõi ảnh hưởng của các mức kali
bón đến động thái tăng trưởng chiều dài lá của cây cà
phê chè (hình 1) trong điều kiện hạn cho thấy chiều
dài lá trước khi xử lý hạn không có sự sai khác nhau
giữa các công thức gây hạn và không gây hạn.
Tuy nhiên có sự sai khác giữa các công thức bón
kali và không bón kali. Cụ thể tại tuần thứ 5, chiều
dài lá tăng dần khi tăng mức bón kali lần lượt là:
10,47 cm; 10,90 cm; 11,07 cm; 11,56 cm; 11,53 cm;
11,33 cm tương ứng khi tăng mức bón kali 0; 100;
150; 200; 250 và 300 kg K2O/ha.
Sau khi gây hạn đã có sự sai khác giữa các công
thức và các mức bón kali khác nhau. Cụ thể tại tuần
thứ 7, chiều dài lá vẫn tăng khi tăng mức bón kali.
Nhưng điều kiện khô hạn đã làm giảm chiều dài lá cà
phê. Công thức không bón kali trong điều kiện hạn
có chiều dài lá đạt 10,96 cm suy giảm 1,0 cm so với
cây tưới nước bình thường không được bón kali.
Tương tự ở các mức bón kali 100; 150; 200; 250 và 300
kg K2O/ha có chiều dài lá lần lượt là: 11,40 cm; 12,23
cm; 12,36 cm; 12,26 cm; 12,10 cm.
So sánh giữa các công thức bón kali trong điều
kiện hạn kết quả cho thấy mức bón 200 kg K2O/ha
cho chiều dài lá cao hơn so với các mức bón còn lại.
Kết quả nghiên cứu này cũng tương đồng với các kết
quả nghiên cứu trên nhiều cây trồng của nhiều tác
giả. Các tác giả đều đưa ra các nhận định mức dinh
dưỡng kali thích hợp giúp cải thiện tăng trưởng thực
vật trong điều kiện hạn hán (Eakes et al., 1991). Sự
thiếu hụt kali làm giảm khả năng chịu hạn, giảm sinh
khối điển hình như giảm chiều cao cây, diện tích lá,
chiều dài lóng, hiệu quả sử dụng đạm và sản lượng
cây trồng (Oosterhuis et al., 2014). Khi cung cấp đủ
kali giúp tăng diện tích lá và sản lượng cây trồng
(Cao và Tibbits, 1991).
Sau khi tưới trở lại chiều dài lá phục hồi và có xu
hướng tăng nhanh trở lại. Cụ thể tại tuần theo dõi thứ
10 chiều dài lá ở cây gây hạn được tưới trở lại theo
thứ tự mức bón kali 0; 100; 150; 200; 250; 300 kg
K2O/ha đạt 13,10 cm; 14,03 cm; 14,50 cm; 15,56 cm;
15,43 cm; 15,03 cm và gần bằng với cây không gây
hạn tưới nước bình thường ở cùng mức bón kali.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 72
Hình 1. Ảnh hưởng của các mức kali bón đến động thái tăng trưởng chiều dài lá của cây cà phê chè
trong điều kiện hạn
3.1.2. Ảnh hưởng của các mức kali bón đến động
thái tăng trưởng chiều rộng lá của cây cà phê chè trong điều kiện hạn
Số liệu ở hình 2 cho thấy chiều rộng của cây cà
phê chè trước khi xử lý hạn cũng không có sự sai
khác giữa các công thức gây hạn và không gây hạn
tuy nhiên có sự sai khác giữa công thức bón kali và
không bón kali. Tại tuần theo dõi thứ 5 chiều rộng lá
tăng dần khi tăng mức bón kali. Chiều rộng lá cà phê
lần lượt đạt: 3,30 cm; 3,33 cm; 3,46 cm; 3,56 cm; 3,50
cm; 3,40 cm tương ứng với các mức bón kali 0; 100;
150; 200; 250 và 300 kg K2O/ha.
Sau khi gây hạn thì chiều rộng lá của cây cà phê
chè có sự sai khác giữa các công thức và các mức
bón kali khác nhau. Kết quả theo dõi tại tuần 7 cho
thấy, ở công thức không bón kali chiều rộng lá cà
phê chịu ảnh hưởng rõ rệt nhất. Ở điều kiện gây hạn
thì chiều rộng lá vẫn tăng nhưng tăng kém hơn so với
tưới nước bình thường trong cùng mức bón. Ở công
thức không bón kali thì chiều rộng lá trong điều kiện
hạn chỉ đạt 3,60 cm suy giảm 13,46% so với tưới nước
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 73
bình thường. Các công thức được bón các mức bón
kali lần lượt 100; 150; 200; 250; 300 kg K2O/ha có
chiều rộng lá tương ứng lần lượt: 3,63 cm; 3,93 cm;
4,13 cm; 4,00 cm; 3,96 cm và suy giảm so với cây
cùng mức bón được tưới nước bình thường lần lượt
là: 17,50%; 12,66%; 11,30%; 13,04% và 13,15%. So sánh
giữa các công thức bón kali kết quả cho thấy mức
bón 200 kg K2O/ha có chiều rộng cao hơn và mức
suy giảm thấp hơn so với các mức còn lại.
Sau tưới trở lại chiều rộng lá của cây ở công thức
gây hạn có xu hướng phục hồi tăng trưởng trở lại. Tại
thời điểm tuần theo dõi thứ 10 chiều rộng lá ở cây
gây hạn tưới trở lại tương ứng với các mức bón Kali 0;
100; 150; 200; 250; 300 kg K2O/ha lần lượt đạt giá trị:
4,56 cm; 4,73 cm; 5,40 cm; 5,76 cm; 5,60 cm và 5,30 cm
trong khi các cây ở mức bón kali tương tự được tưới
nước bình thường có chiều rộng là lần lượt là: 5,53 cm;
5,73 cm; 6,13 cm 6,23 cm; 6,20 cm và 5,90 cm.
Hình 2. Ảnh hưởng của các mức kali bón đến động thái tăng trưởng chiều rộng lá của cây cà phê chè trong
điều kiện hạn
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 74
3.1.3. Ảnh hưởng của các mức kali bón đến động
thái tăng trưởng đoạn cành mới của cây cà phê chè
trong điều kiện hạn
Cùng với chiều dài và chiều rộng lá, chiều dài
đoạn cành mới cũng là chỉ tiêu để đánh giá tác động
của mức bón kali và điều kiện hạn đến sinh trưởng
của cây cà phê chè. Kết quả ở hình 3 cho thấy: không
có sự sai khác về chiều dài đoạn cành mới giữa các
công thức gây hạn và không gây hạn trên cây cà phê
trong một mức bón, tuy nhiên có sự sai khác ở các
mức bón kali và không bón kali. Theo dõi chiều dài
đoạn cành mới tại tuần thứ 5 kết quả cho thấy: chiều
dài đoạn cành mới tăng lên khi mức bón kali tăng,
chiều dài đoạn cành mới đạt 10,16 cm; 10,30 cm;
10,73 cm; 11,33 cm; 11,40 cm và 11,53 cm tương ứng
với các mức bón kali 0; 100; 150; 200; 250; 300 kg
K2O/ha.
Ở các công thức gây hạn đã có sự sai khác giữa
các công thức và các mức bón kali khác nhau. Tại
thời điểm hạn nặng (tuần thứ 7 theo dõi) chiều dài
đoạn cành mới vẫn tăng khi tăng mức bón kali, tuy
nhiên tốc độ sinh trưởng vẫn thấp hơn so với công
thức tưới bình thường trong cùng mức bón. Cụ thể là
ở mức bón kali 0; 100; 150; 200; 250; 300 kg K2O/ha
lần lượt đạt giá trị 10,86 cm; 11,90 cm; 12,43 cm;
12,86 cm; 13,40 cm và 13,73 cm. Cũng như chiều dài
và chiều rộng lá thì đoạn cành mới ở mức bón 200 kg
K2O/ha so với các mức còn lại cao hơn.
Quá trình tưới nước trở lại giúp đoạn cành mới
phát triển và tăng nhanh trở lại. Cụ thể chiều dài
đoạn cành mới của cây của công thức gây hạn ở các
mức bón kali 0; 100; 150; 200; 250; 300 kg K2O/ha
được theo dõi đạt giá trị lần lượt là 16,53 cm; 17,53
cm; 18,76 cm; 19,03 cm; 19,60 cm và 19,86 cm tương
đương với cây không gây hạn tưới nước bình thường
ở cùng mức kali.
Hình 3. Ảnh hưởng của các mức kali bón đến động thái tăng trưởng đoạn cành mới của cây cà phê chè trong
điều kiện hạn
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 75
3.2. Ảnh hưởng của các mức kali bón đến một số
chỉ tiêu sinh lý của cây cà phê chè trong điều kiện hạn
3.2.1. Ảnh hưởng của các mức kali bón đến chỉ
số SPAD của cây cà phê chè trong điều kiện hạn
Hạn hán ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng và sinh
lý trong cây, trong đó hàm lượng chlorophyll có xu
hướng bị ảnh hưởng lớn nhất. Việc cung cấp thêm
dinh dưỡng kali có thể giúp giảm bớt ảnh hưởng đến
việc giảm hàm lượng chlorophyll (Cakmak, 2005).
Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng kali bón đến
chỉ số SPAD của cây cà phê chè trong điều kiện hạn
kết quả cho thấy trong điều kiện tưới nước bình
thường chỉ số SPAD không có sự sai khác nhiều giữa
các ngày theo dõi ở các mức bón kali khác nhau.
Sau khi xử lý hạn chỉ số SPAD có xu hướng giảm
ở các mức bón kali qua các ngày theo dõi và giảm
xuống thấp nhất ở ngày gây hạn thứ 10. Cụ thể như
sau: sau 10 ngày gây hạn cho thấy chỉ số SPAD giảm
mạnh nhất ở mức bón 0 kg K2O/ha với chỉ số 44,97
tiếp đến là các mức bón 100; 150; 200; 250; 300 kg
K2O/ha lần lượt có chỉ số SPAD là 44,97; 45,50; 45,70;
46,73; 46,53; 45,73 và ở mức bón 200 kg K2O/ha cho
thấy chỉ số SPAD cao nhất so với các mức bón ở
trên.
Sau khi tưới trở lại, chỉ số SPAD có xu hướng
tăng trở lại ở tất cả các mức bón 0 kg K2O/ha; 100 kg
K2O/ha; 150 kg K2O/ha; 200 kg K2O/ha; 250 kg
K2O/ha; 300 kg K2O/ha tương ứng các giá trị tăng
dần là: 48,73; 48,80; 48,80; 48.90; 48,30; 49,00.
Hình 4. Ảnh hưởng của các mức kali bón đến chỉ số SPAD của cây cà phê chè trong điều kiện tưới nước bình
thường (A) và trong điều kiện gây hạn(B)
3.2.2. Ảnh hưởng của các mức kali bón đến đến hiệu suất huỳnh quang diệp lục lá (Fv/Fm) của cây cà
phê chè trong điều kiện hạn
Hình 5. Ảnh hưởng của các mức kali bón đến hiệu suất huỳnh quang diệp lục lá của cà phê chè
trong điều kiện tưới nước (A) và trong điều kiện gây hạn (B)
Ở điều kiện tưới nước bình thường (Hình 5A) không có sự sai khác nhiều về hiệu suất huỳnh quang diệp lục
lá (Fv/Fm) của cây cà phê giữa các ngày theo dõi nhưng có sự tăng lên khi tăng mức bón kali. Ở điều kiện
gây hạn (Hình 5B), có sự sai khác rõ rệt về Fv/Fm của cây cà phê giữa các mức bón phân kali qua các ngày
theo dõi. Khi xử lý hạn 10 ngày Fv/Fm có xu hướng giảm dần, và xuống thấp nhất ở ngày gây hạn thứ 10.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 76
Giảm mạnh nhất ở mức bón 0 kg K2O/ha tiếp
đến 100 kg K2O/ha; 150 kg K2O/ha; 200 kg K2O/ha;
250 kg K2O/ha; 300 kg K2O/ha khi đạt giá trị tương
ứng lần lượt 0,698; 0,711; 0,712; 0,748; 0,740; 0,720.
Tuy nhiên sau 7 ngày tưới trở lại, Fv/Fm có sự
thay đổi, và có xu hướng tăng trở lại ở tất cả các mức
bón 0 kg K2O/ha; 100 kg K2O/ha; 150 kg K2O/ha;
200 kg K2O/ha; 250 kg K2O/ha; 300 kg K2O/ha lần
lượt là 0,763; 0,776; 0,785; 0,789; 0,787; 0,780. Như
vậy kết quả trên cho thấy các mức kali bón khác
nhau thì có hiệu suất huỳnh quang diệp lục (Fv/Fm)
thay đổi khác nhau.
3.2.3. Ảnh hưởng của các mức Kali bón đến mức
độ rò rỉ ion của cây cà phê chè trong điều kiện hạn Sau 10 ngày gây hạn giữa tưới nước bình thường
(Hình 6B) và gây hạn (Hình 6D) có sự khác biệt rõ
ràng về mức độ rò rỉ ion, độ rò rỉ ion ở mức bón 0 kg
K2O/ha; 100 kg K2O/ha; 150 kg K2O/ha; 200 kg
K2O/ha; 250 kg K2O/ha; 300 kg K2O/ha ở điều kiện
tưới bình thường lần lượt là: 17,46%; 15,82%; 13,85%;
11,89%; 12,03%; 13,3% còn ở điều kiện gây hạn lần lượt
là: 26,96%; 22,62%; 21,12%; 17,89%; 18,23%; 20,50%.
Sau 7 ngày tưới trở lại (Hình 6D) thì sự chênh
lệnh của độ rò rỉ ion không quá nhiều giữa tưới bình
thường và gây hạn, nhưng vẫn có sự khác biệt. Cụ
thể ở các mức bón 0 kg K2O/ha; 100 kg K2O/ha; 150
kg K2O/ha; 200 kg K2O/ha; 250 kg K2O/ha; 300 kg
K2O/ha ở điều kiện tưới bình thường là: 15,67%;
14,77%; 14,12%; 11,89%; 12,15%; 14,98% và ở điều kiện
gây hạn lần lượt là: 16, 75%; 15,26%; 14,78%; 13,75%;
13,25%; 15,87%.
Kết quả đánh giá cho thấy mức độ rò rỉ ion trong
lá của cây cà phê chè ở mức bón 200 kg K2O/ha và
250 kg K2O/ha chịu ảnh hưởng ít nhất và ở mức bón
phân bón 0 kg K2O/ha bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Hình 6. Ảnh hưởng của liều lượng kali bón đến mức độ rò rỉ ion của cà phê chè trong điều kiện hạn
Ghi chú: “*” và “**” sự sai khác có ý nghĩa ở mức 95% và 99%. 3.2.4. Ảnh hưởng của các mức bón kali đến hàm lượng nước tương đối (RWC) trong lá của cà phê chè trong
điều kiện hạn
Bón kali cho cây trồng có khả năng cải thiện
hàm lượng nước tương đối trong điều kiện bình
thường cũng như trong điều kiện hạn hán qua khả
năng sử dụng hiệu quả nước và giảm thoát hơi nước
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 77
(Umar và Moinuddin, 2002). Kali có vai trò quan
trọng trong quá trình thủy phân hóa và tổ chức tế
bào nguyên sinh duy trì sự tăng trưởng và phát triển
của cây trồng trong điều kiện khô hạn (Khanna-
Chopra et al., 1994). Hàm lượng nước tương đối trong
lá lúa mì giảm 30% trong điều kiện khô hạn 9 ngày
(Sen Gupta và Berkowitz,1989). Khi sử dụng kali đã
làm tăng hàm lượng nước tương đối trong cây lúa
miến, mù tạt, lạc trong điều kiện khô hạn (Umar,
2006). Kết quả đánh giá ảnh hưởng của các mức bón
Kali đến hàm lượng nước tương đối (RWC) trong lá
của cây cà phê chè trong điều kiện hạn cho thấy:
trong điều kiện tưới nước bình thường hàm lượng
nước tương đối dao động trong khoảng 81,72% -
90,99%. Trong cùng điều kiện, sau 10 ngày gây hạn
(hình 7B) cho thấy ở mức bón 200 và 250 kg K2O/ha
chịu ảnh hưởng ít nhất tương ứng 63,65% và 62,98%.
Trong khi đó hàm lượng nước tương đối ở mức bón 0
kg K2O/ha chỉ đạt 50,56%, ở các mức bón 100 kg
K2O/ha; 150 kg K2O/ha; 300 kg K2O/ha lần lượt là:
52,61%; 57,76%; 56,56%.
Hình 7. Ảnh hưởng của các mức kali bón đến hàm lượng nước tương đối của cây cà phê chè
trong điều kiện hạn
Ghi chú: “*”, “**” và “***” sự sai khác có ý nghĩa ở mức 95%, 99% và 99,9%, “ns”: không sai khác.
Sau 7 ngày tưới lại (hình 7D), cho thấy hàm
lượng nước tương đối giữa điều kiện tưới nước bình
thường và gây hạn không có sự chênh lệch nhiều. Ở
mức bón 200 kg K2O/ha; 250 kg K2O/ha cây có hàm
lượng nước cao hơn so với các mức còn lại lần lượt là:
88,47%; 87,67%. Ở các mức bón còn lại 0; 100; 150 và
300 kg K2O/ha cũng cho thấy hàm lượng nước nằm
trong khoảng 84,60% - 85,92%.
3.2.5. Ảnh hưởng của các mức kali bón đến tỷ lệ héo và khả năng phục hồi của cây cà phê chè trong
điều kiện hạn
Khi gặp điều kiện hạn, sự thay đổi hình thái của
lá so với các bộ phận khác trên cây có sự biểu hiện
rõ ràng hơn. Trong điều kiện hạn, quá trình sinh
trưởng và phát triển của lá giảm, quá trình già hóa
được đẩy nhanh hơn sơn so với điều kiện bình
thường khi đó xuất hiện hiện tượng héo rũ và rụng lá
đây là một trong những cơ chế thích nghi của cây
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 78
làm giảm sự thoát hơi nước trong cây (Athar and
Ashraf, 2005). Theo dõi ảnh hưởng của kali đến tỷ lệ
héo của cây cà phê trong điều kiện hạn kết quả
(bảng 3) cho thấy: tỷ lệ héo của các mức bón kali có
sự sai khác rõ rệt so với không bón. Cụ thể, ở các
công thức xử lý kali đã kéo dài thời gian chịu hạn của
cây cà phê và làm giảm tỷ lệ héo so với công thức
không xử lý (0 kg K2O/ha). Đặc biệt, công thức xử lý
200 và 250 kg K2O/ha có thời gian chịu hạn lâu nhất
so với các công thức khác, bên cạnh đó khả năng
phục hồi của cây cà phê chè tốt hơn so với các mức
bón khác. Sau 2 ngày tưới trở lại hầu như tất cả các
cây đều trở lại bình thường (Bảng 3).
Bảng 3: Ảnh hưởng của kali đến tỷ lệ héo và khả năng phục hồi của cà phê chè trong điều kiện hạn
Thời gian gây hạn Thời gian tưới trở lại Lượng
kali bón
(kg
K2O/ha)
Chỉ
tiêu Sau 5
ngày
Sau 6
ngày
Sau 7
ngày
Sau 8
ngày
Sau 9
ngày
Sau 10
ngày
Sau
12h
Sau
24h
Sau
36h
TLH 55 65 100 100 100 100 - - -
TLPH - - - - - - 45 65 100 0
ĐAĐ 67,5 64,5 61,4 59,3 53,7 41,4 86,8 87,3 88,2
TLH 40 50 70 100 100 100 - - -
TLPH - - - - - - 50 70 100 100
ĐAĐ 70,5 68 64,5 59 55,5 49,5 88,7 87,9 89,3
TLH 35 45 60 75 100 100 - - -
TLPH - - - - - - 75 90 100 150
ĐAĐ 75,3 70 68,4 63,5 54 50,5 89 86.7 87.5
TLH - - 35 50 60 70 - - -
TLPH - - - - - - 100 100 100 200
ĐAĐ 88,5 85,6 75,3 67,4 60,8 56,6 90,1 89,9 88,9
TLH - - 40 60 70 85 - - -
TLPH - - - - - - 90 100 100 250
ĐAĐ 85,2 80,7 71,9 65,5 59,3 53,1 88,8 88,7 89,8
TLH 40 45 55 70 80 100 - - -
TLPH - - - - - - 80 100 100 300
ĐAĐ 81,6 78,8 73,3 67,9 63,4 59,7 87,6 88,6 89,0
Ghi chú: TLH: Tỉ lệ héo (%) TLPH: Tỉ lệ phục hồi (%) ĐAĐ: Độ ẩm đất (%). Độ ẩm đất ảnh hưởng đến tỉ lệ héo của cây cà
phê. Với mức bón 0 kg K2O/ha cho thấy ở ngưỡng
độ ẩm đất đạt 61% cây cà phê bị héo hoàn toàn.
Trong khi đó cây cà phê được cung cấp thêm kali
giúp chịu hạn tốt hơn, mức bón 200 kg K2O/ha có
khả năng chống chịu tốt nhất so với các mức còn lại.
Ở mức bón 200 kg K2O/ha, khi độ ẩm giảm xuống
ngưỡng 56% tỉ lệ héo của cây cà phê chỉ ở mức 70%.
Tiếp sau đó đến mức bón 250 kg K2O/ha cây có tỉ lệ
héo 85% khi độ ẩm giảm xuống ngưỡng 53%. Với mức
bón 300 kg K2O/ha cho thấy ở ngưỡng độ ẩm
khoảng 59% làm cây đã héo hoàn toàn. Ở các mức
bón 100 kg K2O/ha; 150 kg K2O/ha khi độ ẩm giảm
xuống mức khoảng 55% cũng làm cho cây héo hoàn
toàn.
4. KẾT LUẬN
Trong điều kiện gây hạn và không gây hạn khi
tăng mức bón kali từ 0 kg đến 200 kg K2O/ha cho
thấy các chỉ tiêu sinh trưởng như: chiều dài, chiều
rộng lá, chiều dài đoạn cành non có xu hướng tăng
dần, tuy nhiên khi tăng mức bón lên 250 kg và 300 kg
K2O/ha dẫn đến các chỉ tiêu sinh trưởng trên có xu
hướng suy giảm.
Trong điều kiện gây hạn và không gây hạn kết
quả cho thấy chiều dài, chiều rộng lá, chiều dài đoạn
cành non, chỉ số SPAD, hiệu suất huỳnh quang diệp
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 79
lục, hàm lượng nước tương đối ở công thức gây hạn
thấp hơn công thức không gây hạn.
Bón Kali trong điều kiện hạn sẽ giúp cây cà phê
chè tăng khả năng chống chịu và có khả năng phục
hồi sau hạn cao hơn, khi bón 200 kg K2O/ha, cây cà
phê chè có khả năng hồi phục cao nhất sau hạn khi
tưới nước trở lại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Athar H. and Ashraf M. (2005).
Photosynthesis under drought stress. In: Hand Book
Photosynthesis, 2nd (ed.) by M. Pessarakli. C R C.
Press, New York, USA, Pp. 795 - 810.
2. Berkowitz G. A. and Peters J. S. (1993).
Chloroplast inner-envelope ATPase acts as a primary
H+ pump.Plant Physiol. 102: 261 - 267.
3. Beringer H. and Trolldenier G. (1978).
Influence of K nutrition on the response to
environmental stresses. In: Potassium research –
Reviews and trends. International Potash Institute,
Basel, Switzerland, pp.189 - 222.
4. Cao W. and Tibbits T. W. (1991). Potassium
concentration effect on growth, gas exchange and
mineral accumulation in potatoes. J. Plant Nutr. 14:
525 - 537.
5. Cakmak Ismail (2005). The role of potassium
in alleviating detrimental effects of abiotic stresses in
plants. J. Plant Nutr. Soil Sci. 168: 521 - 530.
6. DaMatta F. M. and Ramalho J. D. C. (2006).
Impacts of drought and temperature stress on coffee
physiology and production: a review. Brazilian
Journal of Plant Physiology. 18(1): 55 - 81.
7. Eakes D. J., Wright R. D. and Seiler J. R.
(1991). Water relations of Salvia splendens ‘Bonfire’
as influenced by potassium nutrition and moisture
stress conditioning. J. Am. Soc. Hort. Sci. 116: 712 -
715.
8. Gole T. W. (2003). Vegetation of Yayu forest in
SW Ethiopia: Impacts of human use and implications
for in situ conservation of wild coffea Arabica L.
populations. Ph.D. Thesis, Cuvillier Verlag,
Gottingen.
9. Hartt C. E. (1969). Effect of potassium
deficiency upon translocation of 14C in attached
blades and entire plants of sugarcane.Plant Physiol.
45: 183 - 187.
10. Khanna-Chopra R., Moinuddin V. Sujata and
D. Bahukhandi. (1994). K+ osmotic adjustment and
drought tolerance: an overview. Proc. Indian Nat. Sci.
Acad., 61: 51 - 56.
11. Marschner H. (1995). Mineral nutrition of
higher plants. 2nd edn. Academic Press, New
York.Melke Abayneh and Masresha Fetene (2014).
Eco-physiological basis of drought stress in coffee
(Coffea arabica L.) in Ethiopia. Brazilian Society of
Plant Physiology. 26: 225 - 239.
12. Melke Abayneh and Masresha Fetene
(2014). Eco-physiological basis of drought stress in
coffee (Coffea arabica L.) in Ethiopia. Brazilian
Society of Plant Physiology. 26: 225 - 239.
13. Oesterhuis, D. M., D. A, Loka, and T. B.
Raper. 2014. Potassium and Stress Alleviation:
Physiological Functions and Management in Cotton.
International Potash Institute, Switzerland. e-ifc 38:
19 - 27.
14. Pier P. A., Berkowitz G. A. (1987).
Modulation of water stress effects on photosynthesis
by altered leaf K+. Plant Physiol. 85: 655 - 661.
15. Rama Rao N. (1986). Potassium nutrition of
pearl millet subjected to moisture stress. J.
Potassium Res. 2: 1 - 12.
16. Saxena N. P. (1985). The role of potassium in
drought tolerance, Potash review. International
Potash Institute, Bern. 5(16): 1 - 15.
17. Sen Gupta A., Berkowitz G. A., Pier P. A.
(1989). Maintenance of photosynthesis at low leaf
water potential in wheat. Role of potassium status
and irrigation history. Plant Physiol. 89: 1358 - 1365.
18. Umar S. and Moinuddin (2002). Genotypic
differences in yield and quality of groundnut as
affected by potassium nutrition under erratic rainfall
conditions. J. Plant Nutr. 25: 1549 - 1562.
19. Umar Shahid (2006). Alleviating adverse
effects of water stress on yield of sorghum, mustard
and groundnut by potassium application. Pak. J. Bot.
38(5): 1373 - 1380.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 80
EFFECT OF POTASSIUM ON GROWTH AND PHYSIOLOGY OF ARABICA COFFEE
UNDER WATER DIFICIT CONDITION
Vu Ngoc Thang, Nguyen Xuan Truong,
Tran Anh Tuan, Le Manh Tu
Summary This study was conducted to evaluate effects of five potassium level (100; 150; 200; 250, 300 kg K2O/ha) on
growth and physiology of arabica coffee under water dificit and non-dificit conditions. The result showed
that growth characteristics such as leaf length, leaf width, length of new branch increased with increasing
the potassium from 100 to 200 kg K2O/ha. However, growth characteristics such as leaf length, leaf width,
length of new branch of coffee plant decreased with increasing the potassium to 250 and 300 kg K2O/ha.
Compared to water dificit and condition, leaf length, leaf width, length of new branch, SPAD index, Fv/m,
relative water content of cofee plant in water dificit treatment were lower than that of control treatment.
However, witting point and ion leak level in water dificit treatment were higher than that in control
treatment. Potassium enhanced drought tolerance and recovery ability after rewatering of arabica coffee.
Compared to diferent potassium, the highest percentage of recovery ability after rewatering was observed
in coffee plant treated 200 kg K2O/ha.
Keywords: Arabica coffee, growth, potassium, physiology, water dificit.
Người phản biện: TS. Lê Văn Đức
Ngày nhận bài: 3/9/2019
Ngày thông qua phản biện: 1/10/2019
Ngày duyệt đăng: 8/10/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 81
SINH TRƯỞNG CỦA DƯA CHUỘT (Cucumis sativus L.)
TRONG ĐIỀU KIỆN NƯỚC BẤT THUẬN Ở GIAI ĐOẠN
NẢY MẦM VÀ CÂY CON Nguyễn Thị Phương Dung 1*, Trần Anh Tuấn1,
Nguyễn Xuân Trường2, Vũ Tiến Dũng2
TÓM TẮT
Dưa chuột là loại cây trồng chịu hạn rất kém nên việc nghiên cứu cơ chế chống chịu trong điều kiện thiếu
nước làm cơ sở cho chọn giống chịu hạn hoặc đề ra biện pháp canh tác phù hợp là rất cần thiết. Nghiên cứu
này đề cập đến phản ứng của một số giống dưa chuột trong điều kiện thiếu nước được khống chế bằng
dung dịch Hoagland bổ sung PEG6000. Kết quả cho thấy, PEG6000 đã ức chế sự nảy mầm của hạt, sinh
trưởng của cây và các bộ phận thực vật trong giai đoạn đầu. Ở giai đoạn nảy mầm, tỷ lệ nảy mầm của hạt là
chỉ tiêu tốt để đánh giá khả năng chịu hạn của giống. Ở giai đoạn cây con mức độ suy giảm phiến lá, chiều
cao thân, số lượng khí khổng và khả năng tích lũy chất hữu cơ cao hơn ở các giống có độ nhạy cảm hạn
(SSI) cao và chỉ số chịu hạn hạn (DRI) thấp; ngược lại mức độ suy giảm các chỉ tiêu sinh trưởng thấp hơn ở
các giống có SSI thấp và DRI cao. Phản ứng chống chịu với điều kiện nước hạn chế ở giai đoạn cây con có
thể liên quan đến 2 cơ chế: i) giảm diện tích lá để giảm thoát hơi nước và ii) sự ổn định hàm lượng diệp lục
và tăng tổng hợp carotenoid. Trong các giống nghiên cứu, giống Pariski có khả năng chống chịu với stress
xử lý bằng PEG6000 tốt nhất, có thể sử dụng để chọn tạo giống chịu hạn.
Từ khóa: Cây con, dưa chuột, nảy mầm, hạn, PEG-6000.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Ở Việt Nam, cây dưa chuột (Cucumis sativus L.)
là một trong những loại rau ăn quả họ bầu bí
(Cucurbitaceae) được trồng phổ biến nhất với nhiều
giống địa phương và giống nhập nội. Mặc dù vậy,
dưa chuột rất khó thích ứng với các điều kiện thời
tiết bất thuận, đặc biệt là úng và hạn (Trần Khắc Thi
(1985); Tạ Thu Cúc và CS (2000). Trong điều kiện
khí hậu những năm gần đây luôn diễn biến phức tạp,
tình trạng khô hạn kéo dài, lụt lội xảy ra ở nhiều nơi,
ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất rau nói chung và
dưa chuột nói riêng, công tác nghiên cứu chọn tạo
các giống chống chịu với điều kiện bất thuận bao
gồm cả việc sử dụng ngồn giống bản địa có ý nghĩa
rất quan trọng (Ngô Thị Hạnh & cs. (2011); Trần Thị
Minh Hằng & cs. (2012).
Dưa chuột chịu hạn rất yếu do có bộ rễ phát
triển kém nhưng bộ lá lại lớn. Khi bị hạn, sự thoát
nước nhanh chóng qua lá thúc đẩy quá trình tổng
hợp các chất ô-xy hóa-khử có hại, phá hủy các cơ
quan thực vật và kìm hãm sinh trưởng (Xia, Wang et
al. 2009, Wang, Yang et al. 2012) đồng thời tạo nên
những đặc điểm khác biệt về hình thái và sinh lý Các
1 Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2Viện Sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam *Email: [email protected]
nghiên cứu trước đây cho thấy có thể sử dụng các chỉ
số sinh lý và hình thái như là các chỉ thị khá chính
xác để đánh giá mức độ ảnh hưởng của hạn hoặc
đánh giá khả năng chịu hạn của giống cây trồng
(Trần Anh Tuấn và cs, 2007). Trong nghiên cứu này,
đã đánh giá phản ứng về sinh trưởng và sinh lý của
cây dưa chuột khi bị hạn ở giai đoạn nảy mầm và cây
con, làm cơ sở cho việc chọn lọc nhanh các giống
dưa chuột có khả năng chịu hạn.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Vật liệu
Năm giống dưa chuột: F1TV-03 (Việt Nam),
NH815, Angenlina013 (Thái Lan), Salatni và Pariski
(Bulgaria) được sử dụng cho nghiên cứu.
2.2. Phương pháp
2.2.1. Gây hạn nhân tạo giai đoạn nảy mầm Hạt giống được khử trùng 5 phút trong 5%
Ca(OCl)2 và rửa lại 5 lần bằng nước cất, sau đó được
gieo trên giấy Whatman 3 lớp lót trên đĩa petri (25
hạt/đĩa). Hạt được ủ ở 30°C để nảy mầm trong 1
tuần. Mỗi ngày tưới ẩm đĩa hạt với 10 mL nước cất
(công thức đối chứng) hoặc dung dịch polyethylene
glycol 6000 (PEG6000) ở 4 nồng độ: 138; 189; 222 và
251 g L-1 (thế thẩm thấu (Ѱs) tương ứng là 0, -3, -6, -9
và -12 bars (tính theo Michel và Kaufmann (1973).
2.2.2. Gây hạn nhân tạo giai đoạn cây con
Hạt giống, sau khi được khử trùng như trên cho
nảy mầm thành cây con trong 3 ngày ở 30°C trên
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 82
giấy Whatman tưới nước cất. Mỗi cây con được trồng
trong một chậu (ϕ 15cm, đục lỗ ở dưới đáy và
thành bên) có chứa 200g hỗn hợp xơ dừa/trấu hun
(tỷ lệ 2:1). Các chậu cây con (hai chậu cho mỗi giống)
được đặt trong cùng một thùng xốp có kích thước
50×36×18cm chứa 10L dung dịch dinh dưỡng
Hoagland-Arnon (Hoagland). Vị trí của các giống
là ngẫu nhiên hoàn toàn, số thùng lặp lại là 5. Các
cây được để trong nhà kính, chu kỳ chiếu sáng
16h/8h (ngày/đêm); cường độ chiếu sáng 15-17
Klux; nhiệt độ trung bình ngày/đêm: 22/18°C. Khi
cây có 3 lá thật, gây hạn bằng dung dịch Hoagland
bổ sung 138g/L PEG6000 (Ѱs= -3 bars). Ở công thức
đối chứng, dung dịch dinh dưỡng Hoagland không
chứa PEG6000. Thay mới dung dịch dinh dưỡng
hoặc dung dịch gây hạn 5 ngày/lần.
2.2.3. Chỉ tiêu nghiên cứu và phương pháp xác
định
Khả năng mọc mầm của các giống được xác
định qua tỷ lệ mọc mầm, chiều dài rễ, chiều dài chồi
(hạt được coi là mọc mầm khi mầm rễ xuất hiện dài
khoảng 2mm).
Chiều cao cây, số lá và diện tích lá được xác định
mỗi tuần một lần. Diện tích lá đo bằng cách chụp ảnh
kỹ thuật số và sử dụng phần mềm ImageJ (National
Institutes of Health, USA).
Biểu bì lá của cây 14 ngày gây hạn được bóc
bằng kim mũi mác và ngâm trong 90% ethanol đến
khi hết màu xanh, sau đó ngâm 5h trong 70% aceton.
Tiếp theo, rửa mẫu 5 lần bằng nước cất và gắn lên
lam kính bằng 100% lactic acid. Sử dụng phần mềm
ImageJ (National Institutes of Health, USA) để xác
định mật độ khí khổng, kích thước tế bào biểu bì
trên ảnh chụp tiêu bản hiển vi.
Hàm lượng diệp lục của lá được tính theo Arnon
(1949). Hàm lượng nước tương đối (Relative water
content - RWC) của mô xác định khi thu mẫu và
được tính theo công thức (1) của Barrs (trích theo
Smart and Bingham (1974):
RWC (%) = (khối lượng tươi – khối lượng
khô)/(khối lượng bão hòa – khối lượng khô)×100 (1)
Độ nhạy cảm với hạn (Stress susceptibility
index-SSI) được tính theo công thức của Fischer và
Maurer (1978):
(2)
Chỉ số chịu hạn (Drought Resistance Index –
DRI) của giống được xác định theo công thức (3)
như mô tả của Fischer và Maurer (Fischer và Maurer
1978, Blum 2011):
(3)
Trong đó: Ws và Wn là khối lượng khô (g) của
giống khi bị hạn và không hạn (đối chứng); Ms và Mn
là khối lượng khô trung bình của tất cả các giống khi
bị hạn và không hạn (đối chứng).
2.2.4. Xử lý số liệu
Số liệu được phân tích ANOVA theo phương
pháp Duncan’s Multiple Range Test. Các kết quả
trình bày ở bảng là giá trị trung bình ± SE (standar
error).
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm nảy mầm của dưa chuột khi bị hạn
Hạt của các giống được theo dõi sự nảy mầm
trong 9 ngày. Kết quả trình bày trong bảng 1 cho thấy,
các giống đều có tỷ lệ nảy mầm tốt hoặc khá khi được
tưới nước cất, trong đó giống Pariski có khả năng nảy
mầm tốt nhất (93,33%); hai giống có tỷ lệ nảy mầm
thấp nhất là NH815 và Salatni (31,11% và 43,33%). Tuy
nhiên, khi dung dịch tưới có áp suất thẩm thấu cao, tỷ
lệ hạt nảy mầm giảm thấp và sự khác biệt giữa các
giống tương đối rõ rệt. Giống Angenlina013 hoàn toàn
không nảy mầm khi tưới dung dịch có áp suất thẩm
thẩu -3, -6 và -9 bars mặc dù có tỷ lệ nảy mầm khi tưới
nước cất khá cao (70%). Đáng chú ý khi giống NH815
có thể này mầm ở dung dịch có Ѱs = -6 bars (đạt
21,11%) mặc dù có tỷ lệ nảy mầm khi tưới nước
không cao (31,11%). Ở dung dịch PEG nồng độ cao
(Ѱs = -9 và -12 bars) chỉ có giống Pariski có thể nảy
mầm, thậm chí tỷ lệ khá cao (75,56%) khi dung dịch
có thế thẩm thấu Ѱs = -9.
Các nghiên cứu trước đây cho thấy nhiều loại
thực vật có đặc điểm cây con phát triển rễ nhanh và
mạnh ở giai đoạn đầu của quá trình sinh trưởng khi
chưa bị hạn hoặc hạn nhẹ, nhờ đó đến giai đoạn
trưởng thành cây có rễ ăn sâu, rộng và có thể tăng
khả năng hấp thu nước khi bị hạn. Theo Ghanifathi et
al. (2011), ở giai đoạn đầu của cây lúa mỳ, các chỉ tiêu
chiều dài rễ, chiều dài chồi của cây con có thể là
những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng chịu
hạn của giống. Tuy nhiên ở dưa chuột, cây có đặc
điểm bộ rễ ăn nông và chiếm tỷ lệ nhỏ so với toàn
cây nên cơ chế chịu hạn có thể khác so với một số
đối tượng cây trồng khác. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: giống Angenlina013 thậm chí có chiều dài rễ
rất cao (đạt 3,44 cm/rễ) khi được tưới nước cất
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 83
nhưng lại không nảy mầm ở các dung dịch chứa
PEG6000. Giống Pariski, mặc dù có chiều dài rễ chỉ
đạt 0,81 cm/rễ, thấp hơn 2 giống NH815 và Slatni
trong dung dịch PEG6000 có Ѱs = -6 bars (đạt lần
lượt là 0,97 cm/rễ và 0,82 cm/rễ), nhưng vẫn có thể
nảy mầm ở dung dịch PEG6000 có Ѱs = -9 và -12 bars.
Như vậy ở dưa chuột, tỷ lệ nảy mầm khi bị hạn có thể
là chỉ tiêu chính xác hơn để đánh giá khả năng chịu
hạn của các giống so với các chỉ tiêu về chiều dài rễ
mầm và mầm chồi.
Bảng 1. Ảnh hưởng của PEG6000 đến khả năng nảy mầm của dưa chuột
Giống Ѱs Tỷ lệ nảy mầm (%) Chiều dài rễ (cm) Chiều dài chồi (cm)
0 bar 84,44 3,44 0,54 -3 16,67 0,88 0,08 -6 NA NA NA -9 NA NA NA
TV03
12 NA NA NA 0 bar 31,11 3,48 1,02
-3 25,56 1,09 0,63 -6 21,11 0,97 0,26 -9 NA NA NA
NH815
12 NA NA NA 0 bars 70,00 2,96 0,82
-3 NA NA NA -6 NA NA NA
Angenlina013
12 NA NA NA 0 bar 43,33 2,70 0,46
-3 16,67 1,604 0,09 -6 2,22 0,82 ns -9 NA NA NA
Salatni
12 NA NA NA 0 bar 93,33 3,18 0,99
-3 82,22 1,108 0,56 -6 82,22 0,81 0,46 -9 75,56 0,58 0,15
Pariski
-12 22,22 0,02 NA Ghi chú: NA = non available (không có số liệu).
3.2. Đặc điểm phát triển của lá dưa chuột trong
điều kiện stress nước ở giai đoạn cây con
Kết quả trình bày ở bảng 2 cho thấy, xử lý
PEG6000 đã làm giảm số lượng lá ở tất cả các giống.
Các giống TV03, NH815 và Angenlina013 có mức độ
suy giảm số lá tương đương nhau khi bị hạn, chỉ đạt
từ 50,75 - 56,72% so với đối chứng không hạn. Hai
giống Salatni và Pariski có sự suy giảm số lá thấp
hơn khi bị hạn, đạt 73,91 – 74,6% so với đối chứng
không hạn. Tuy nhiên, các giống có số lá thấp (TV03,
NH815 và Angenlina013) lại có xu hướng có diện tích
lá lớn khi bị hạn, với tổng diện tích lá đạt 82,86 –
95,65% so với đối chứng; trong khi đó hai giống
Salatni và Pariski có tổng diện tích lá thấp hơn khi bị
hạn, chỉ đạt tương ứng là 77,27 và 64,29 % so với đối
chứng. Diện tích của các tế bào biểu bì lá cũng giảm
so với đối chứng không hạn ở cả mặt trên và dưới lá,
tuy nhiên mức độ suy giảm không có sự sai khác có ý
nghĩa giữa các giống (α = 0,05). Mật độ khí khổng
cũng bị giảm khi bị hạn và khác nhau đáng kể giữa
các giống. Tuy nhiên sự suy giảm mật độ khí khổng
ở mặt trên và mặt dưới lá không có sự tương đồng.
Hai giống TV03 và NH815 có mức độ suy giảm mật
độ khí khổng ở mặt dưới lá tương đương nhau (đạt
54,81% và 54,15% so với đối chứng không hạn), trong
lúc giống NH815 có mức độ suy giảm mật độ khí
khổng ở mặt trên lá lớn hơn (chỉ đạt 41,24% so với đối
chứng không hạn). Trong các giống nghiên cứu,
giống Pariski có mức độ suy giảm mật độ khí khổng
thấp nhất (chỉ giảm dưới 30% so với đối chứng không
hạn). Như vậy, xử lý PEG6000 đã ức chế sự hấp thu
nước, cây thiếu nước làm giảm sức trương của mô
nên ức chế sự phân chia và giãn ra của tế bào, kìm
hãm sự mở rộng phiến lá, giảm kích thước (diện
tích) của các tế bào biểu bì. Đồng thời sự thiếu nước
cũng ức chế sự hình thành các tế bào bảo vệ và dẫn
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 84
đến giảm số lượng khí khổng trên lá. Trong các
giống được nghiên cứu, giống Pariski có sự suy giảm
các chỉ số thấp nhất, có thể ở giống này có cơ chế
tăng cường hấp thu nước trong điều kiện stress.
Bảng 2. Ảnh hưởng của hạn đến sự phát triển của lá và sự hình thành sắc tố lá (% so với đối chứng)
Giống Tổng số lá DT lá DT tế bào
b. bì dưới
DT tế bào
b. bì trên
MĐ K.
khổng mặt
dưới
MĐ K.
khổng
mặt trên
Chl tổng Car tổng
TV03 50,75b±8,89 95,65a±3,19 89,96a±4,91 91,52a±2,21 54,81c±9,21 52,15b±3,45 96,57b±2,10 106,45b±5,81
NH815 56,72b±7,68 82,86c±2,51 88,45a±6,34 90,96a±1,01 54,15c±6,12 41,24e±3,11 95,21b±1,02 100,00bc±7,12
Angenlina013 53,25b±4,56 87,88b±1,52 92,73a±5,76 92,79a±1,91 62,30bc±8,23 59,28b±2,78 99,84a±0,08 106,45b±3,33
Salatni 73,91a±2,11 77,27d±3,21 87,50a±6,34 88,30b±1,89 66,00b±5,16 47,91d±3,82 95,09b±1,03 100,00c±5,11
Pariski 74,60a±2,13 64,29e±3,11 89,14±2,23 91,78a±1,05 77,52a±5,31 71,25a±5,12 99,67a±0,13 143,48a±3,23
Chú thích các chữ viết tắt: DT = diện tích; MĐ k. khổng= mật độ khí khổng; Chl = chlorophyll; Car = carotene. Các số có số mũ khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa với độ tin cậy α=0,05 theo Duncan’s Multiple
Range Test.
Hạn cũng làm giảm hàm lượng diệp lục ở lá (mặc
dù mức giảm ở cây bị hạn thấp so với các cây đối
chứng không hạn), ngược lại, sự tổng hợp carotenoids
lại tăng lên (bảng 2). Ở các giống có sự suy giảm
chlorophyll thấp (giống TV03, Angenlina013 và
Pariski), hàm lượng carotene tổng số cao hơn so với
đối chứng không hạn, trong đó, giống Pariski có hàm
lượng carotene tổng số cao nhất (143,48%). Các
nghiên cứu trước đây của các tác giả khác cho thấy,
carotenoids giúp bảo vệ các cấu trúc của bộ máy
quang hợp do có trong màng quang hợp, giúp bảo vệ
chống các tác nhân oxy hóa sinh ra khi cây bị stress.
Chu trình xanthophyll (sự biến đổi qua lại-
interconversion- giữa hai carotenoid là violaxanthin và
zeaxanthin) có vai trò bảo vệ rất quan trọng trong
chống chịu stress ở thực vật (Havaux và Niyogi 1999).
Nghiên cứu trên cây Arabidopsis thaliana cho thấy, sự
biểu hiện mạnh mẽ của gen chyB (mã hóa cho β-
carotene hydroxylase, một enzyme của chu trình sinh
tổng hợp zeaxanthin) đã làm tăng gấp đôi hoạt động
biến đổi xanthophyll, qua đó làm tăng khả năng chống
chịu với stress của cây trồng, biểu hiện bằng giảm sự
hoại tử lá, giảm sản sinh anthocyanin, đồng thời tăng
tổng hợp zeaxanthin nên ngăn chặn sự phá hủy màng
do bị peroxide hóa (Davison, Hunter et al. 2002). Như
vậy, trong thí nghiệm của chúng tôi, tăng tổng hợp
carotenoids có thể là phản ứng chống chịu của cây để
chống lại stress.
Trong các giống dưa chuột nghiên cứu, đã nhận
thấy giống Pariski có các chỉ số thay đổi về số lá, hàm
lượng chlorophyll, mật độ khí khổng thấp nhất so với
đối chứng trong lúc diện tích tế bào biểu bì không có
sự khác biệt. Thêm vào đó, giống này có hàm lượng
carotenoids (biểu hiện khả năng chịu hạn) cao nhất và
diện tích lá giảm nhiều nhất (giảm trên 45% so với đối
chứng). Như vậy, giảm diện tích lá nhằm hạn chế
thoát hơi nước khi bị hạn có thể là phản ứng thích
nghi ở dưa chuột đối với hạn.
3.3. Đặc điểm phát triển của của thân, khả năng
tích lũy và chỉ số chịu hạn của cây
Khi bị hạn, chiều dài thân của các cây ở tất cả
các giống đều bị giảm (chỉ đạt 46,94% - 78,81% so với
đối chứng không hạn) và có sự sai khác khá rõ giữa
các giống. Giống có chiều dài thân thấp nhất là
Angenlina013, thấp hơn các giống Salatni và Pariski
Trong khi đó, sự suy giảm hàm lượng nước trong cây
(RWC) không khác biệt đáng kể so với đối chứng
cũng như giữa các giống với nhau. Khả năng tích lũy
chất khô của các giống lại có sự khác nhau khá rõ,
thấp nhất là giống Angenlina013 và cao nhất là giống
Pariski (đạt tương ứng 44,94% và 93,48% so với đối
chứng không hạn). Sự tích lũy vật chất thể hiện mối
liên quan giữa quang hợp và hô hấp. Khi bị stress,
những giống vẫn duy trì được hoạt động quang hợp
tốt và giảm được hô hấp vô hiệu sẽ có khả năng tích
lũy cao. Các cây bị hạn ở giống Pariski có sự tổng
hợp mạnh mẽ carotenoid, rất có thể đã làm tăng khả
năng bảo vệ màng, gồm cả hệ thống màng thylakoid
và màng ty thể, giúp cho quá trình quang hợp và hô
hấp ổn định, qua đó cây có sự tích lũy chất khô tốt
hơn.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 85
Bảng 3. Chiều cao cây, hàm lượng nước tương đối (RWC), sự tích lũy chất khô, chỉ số nhạy cảm hạn và
chỉ số chịu hạn của các giống
Giống Chiều cao cây
(% so ĐC)
RWC
(% so ĐC)
Khối lượng khô
(% so ĐC)
Độ nhạy cảm
hạn (SSI)
Chỉ số chịu
hạn (DRI)
TV03 51,35ba±3,54 92,69c±1,43 52,03c±2,11 2,53a±0,01 0,53d±0,04
NH815 56,10b±2,78 97,12b±1,23 49,70c±4,12 1,36b±0,21 0,71c±0,01
Angenlina013 46,94c±4,11 98,84ab±0,15 44,94c±3,41 1,31b±0,03 0,88b±0,01
Salatni 78,81a±3,91 98,48ab±0,27 90,96b±1,72 1,99b±0,23 0,75c±0,03
Pariski 72,56a±2,63 99,77a±0,13 93,48a±1,04 1,01c±0,01 0,99a±0,03
Các số trong cùng cột có số mũ bằng chữ khác nhau thể hiện sự khác nhau có ý nghĩa với độ tin cậy α=0,05 theo Duncan’s Multiple Range Test.
Các nghiên cứu trước chỉ ra rằng: đánh giá khả
năng chịu hạn của cây thông qua chỉ số DRI cho kết
quả chính xác (Fischer và Maurer 1978; Poorter và
Remkes 1990; Anwar, Subhani et al, 2011; Blum
2011). Theo đó, DRI có tương quan chặt với năng
suất (hoặc khối lượng chất khô) trong điều kiện hạn
hoặc không hạn. Trong nghiên cứu này, giống
Pariski có các chỉ số sinh trưởng thân, lá và tích lũy
khá nên giả định có xu hướng chịu hạn tốt hơn các
giống khác; giống TV03 có các chỉ số sinh trưởng
thân, lá và tích lũy thấp nên giả định có xu hướng
chịu hạn kém các giống khác. Ở hai giống này có sự
khác biệt rõ rệt về độ nhạy cảm với hạn (SSI) và chỉ
số chịu hạn (DRI): giống Pariski có sự nhạy cảm hạn
thấp nhất (SSI = 1,01) và chỉ số chịu hạn cao nhất
(DRI = 0,99); giống TV03 có sự nhạy cảm hạn cao
nhất (SSI = 2,53) và chỉ số chịu hạn thấp nhất (DRI =
0,53). Tuy nhiên ở các giống còn lại, giá trị về độ
nhạy cảm hạn và chỉ số chịu hạn lại không cho thấy
sự tương đồng với khả năng sinh trưởng của thân, lá
và khả năng tích lũy. Chẳng hạn như giống Salatni có
các chỉ số sinh trưởng của lá, thân khá tốt (bảng 2 và
3), nhưng lại có sự nhạy cảm cao với hạn (SSI = 1,99)
và có chỉ số chịu hạn thấp (DRI = 0,75). Điều này cho
thấy cơ chế chịu hạn của dưa chuột tương đối phức
tạp, cần có thêm các nghiên cứu khác về mối liên
quan giữa SSI và DRI với khả năng chịu hạn của dưa
chuột ở giai đoạn cây con.
4. KẾT LUẬN
- Xử lý PEG6000 đã ức chế sự nảy mầm của hạt,
sự sinh trưởng của cây và các cơ quan thực vật trong
giai đoạn cây con ở dưa chuột.
- Ở giai đoạn nảy mầm, tỷ lệ nảy mầm của hạt là
chỉ tiêu tốt để đánh giá khả năng chịu hạn của giống.
- Ở giai đoạn cây con mức độ suy giảm phiến lá,
chiều cao thân, số lượng khí khổng và tích lũy chất
hữu cơ cao hơn ở các giống có độ nhạy cảm hạn
(SSI) cao và chỉ số chịu hạn hạn (DRI) thấp; ngược
lại mức độ suy giảm các chỉ tiêu sinh trưởng thấp
hơn ở các giống có SSI thấp và DRI cao.
- Phản ứng chống chịu với điều kiện nước hạn
chế ở giai đoạn cây con có thể liên quan đến 2 cơ
chế: i) giảm diện tích lá để giảm thoát hơi nước và ii)
sự ổn định hàm lượng diệp lục và tăng tổng hợp
carotenoid.
- Trong các giống nghiên cứu, giống Pariski có
khả năng chống chịu với stress bằng PEG6000 tốt
nhất, có thể sử dụng để chọn tạo giống chịu hạn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạ Thu Cúc, Hồ Hữu An, Nguyễn Thị Bích Hà
(2000). Giáo trình cây rau. NXB Nông nghiệp Hà
Nội.
2. Ngô Thị Hạnh, Phạm Thị Thu Hằng, Vũ Đình
Hòa, Nông Thị Huệ, Nguyễn Thị Phương Thảo,
Nguyễn Thị Thủy (2011). Quan hệ di truyền giữa các
giống dưa chuột, các dòng tự phối được phân lập và
ưu thế lai. Tạp chí Khoa học và Phát triển, 9(6): 875 –
883.
3. Trần Thị Minh Hằng, Nguyễn Quốc Việt,
Phạm Quang Thắng (2012). Ảnh hưởng của tỉa
nhánh với khoảng cách trồng khác nhau đến sinh
trưởng, phát triển và năng suất dưa chuột bản địa
H’Mông trồng tại Mộc Châu, Sơn La. Tạp chí Khoa
học và Phát triển. 10(6): 836-843.
4. Trần Khắc Thi (1985). Nghiên cứu đặc điểm
một số giống dưa chuột và ứng dụng chúng trong
công tác giống tại đồng bằng sông Hồng. Luận án
tiến sĩ nông nghiệp.
5. Trần Anh Tuấn, Vũ Ngọc Thắng, Vũ Đình Hòa
(2007). Ảnh hưởng của điều kiện hạn đến một số chỉ
tiêu sinh lý và năng suất của một số giống đậu tương
trong điều kiện nhà lưới. Tạp chí KHKT Nông nghiệp
2007: Tập V, Số 3: 17-22
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 86
6. Arnon, D. I. (1949). Copper enzymes in
isolated chloroplasts, polyphenoloxidase in Beta
vulgaris. Plant Physiology. 24(1): 1-15.
7. Blum, A. (2011). Phenotyping and Selection.
Plant Breeding for Water-Limited Environments.
Springer New York: 153-216.
8. Davison, P.A, C.N. Hunter and P. Horton
(2002). Overexpression of β-carotene hydroxylase
enhances stress tolerance in Arabidopsis. Nature
418(6894): 203-206.
9. Taregh Ghanifathi, Mostafa Valizadeh, Reza
Shahryari, Hossein Shahbazi (2011). Effect of
Drought Stress on Germination Indices and Seedling
Growth of 12 Bread Wheat Genotypes. Advances in
Environmental Biology, 5(6): 1034-1039.
10. Fischer, R. and R. Maurer (1978). Drought
resistance in spring wheat cultivars, I, Grain yield
responses. Australian Journal of Agricultural
Research 29(5): 897-912.
11. Havaux, M. and K. Niyogi (1999). The
violaxanthin cycle protects plants from
photooxidative damage by more than one
mechanism. Proc. Natl Acad. Sci. USA96: 8762-8767.
12. Michel, B. E. and M. R. Kaufmann (1973).
The Osmotic Potential of Polyethylene Glycol 60001.
Plant Physiol51: 914-916.
13. Smart, R. E. and G. E. Bingham (1974). Rapid
Estimates of Relative Water Content. Plant
Physiology53 (2): 258-260.
14. Wang, C. J W. Yang, C. Wang, C. Gu, D. D.
Niu, H. X. Liu, Y. P. Wang and J. H. Guo (2012).
Induction of drought tolerance in cucumber plants
by a consortium of three plant growth-promoting
rhizobacterium strains. PloS one7 (12): e52565.
15. Xia, X. J, Y. J. Wang, Y. H Zhou, Y. Tao, W.
H Mao, K. Shi, T. Asami, Z. Chen and J.Q Yu (2009).
Reactive oxygen species are involved in
brassinosteroid-induced stress tolerance in
cucumber. Plant Physiology150 (2): 801-814.
16. Jiaojun Zhu, Hongzhang Kang, Hui Tan,
Meiling Xu (2006). Effects of drought stresses
induced by polyethylene glycol on germination of
Pinus sylvestris var. mongolica seeds from natural
and plantation forests on sandy land.Journal of
Forest Research, 11(5):319-328.
A STUDY ON THE GROWTH OF CUCUMBER (CUCUMIS SATIVUS L.) IN WATER STRESS AT
GERMINATION AND SEEDLING STAGES Nguyen Thi Phuong Dung1*, Tran Anh Tuan1, Nguyen Xuan Truong2, Vu Tien Dung2
1 Faculty of Agronomy, Vietnam National University of Agriculture 2Institute of Agrobiology, Vietnam National University of Agriculture
*Email: [email protected] Summary
Since cucumber is very weak in drought tolerance, the study on its tolerant mechanism to water deficit is,
therefore considered to be prioritized option from which the screening drought-tolerant varieties and
recommending appropriate techniques in water deficit condition should be accordingly established. In this
study, the responses of cucumbers in water stress condition treated with PEG6000 were investigated. The
results showed that PEG6000 inhibited seed germination, growth of seedlings. At the germination stage,
seed germination rate was used as a good indicator to evaluate the drought tolerance. At the seedling stage,
the highly decreased values of leaf blade surface, stem height, number of stomata and dry matter content
were observed in varieties with highly stress susceptibility index (high SSI) and low drought tolerance
index (low DRI); whereas, the slightly decreased growth was recorded in low SSI and high DRI. It can be
proposed that the response of seedling to water deficit may be involved in two mechanisms: i) reducing leaf
area for limitation of water transpiration and ii) stabilizing chlorophyll and increasing carotenoid synthesis.
Of five investigated varieties, Pariski was the best resistant one in term of water stress using PEG6000. This
could be used as drought tolerant variety for future breeding program.
Keywords: Cucumber, germination, drought, PEG 6000, seedling.
Người phản biện: GS.TS. Vũ Mạnh Hải
Ngày nhận bài: 1/8/2019
Ngày thông qua phản biện: 4/9/2019
Ngày duyệt đăng: 11/9/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 87
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠM VÔ CƠ VÀ PHÂN HỮU CƠ
ĐẾN DƯ LƯỢNG NITRAT TRONG RAU ĂN TƯƠI TẠI
TỈNH BẮC NINH Đặng Trần Trung1, Trần Anh Tuấn2, Nguyễn Quang Thạch3
TÓM TẮT Nghiên cứu này nhằm phân tích mối liên quan giữa bón phân đạm vô cơ và phân hữu cơ với dư lượng NO3
-
trong rau ăn tươi trồng tại Bắc Ninh giai đoạn 2015-2016. Rau được thu theo TCVN 9016:2011 và phân tích
hàm lượng nitrat theo TCVN 8742:2011. Kết quả cho thấy có nhiều mẫu rau có dư lượng NO3- vượt ngưỡng
theo Quy định số 99/2008/QĐ-BNN từ 2 – 4 lần với tỷ lệ vượt ngưỡng ở các loại rau là: hành hoa: 73,3%, mùi
ta: 56,7%, xà lách: 40% và mùi tàu: 36,7%. Đã phát hiện mối tương quan thuận giữa lượng phân urê với dư
lượng NO3- trong rau với hệ số tương quan ở xà lách, hành lá, mùi tàu và mùi ta lần lượt là r = 0,785, r =
0,690, r = 0,621 và r = 0,724. Ngược lại có mối tương quan nghịch giữa thời gian cách ly bón urê trước thu
hoạch với hàm lượng NO3- trong rau với hệ số tương quan ở xà lách, hành lá, mùi tàu và mùi ta lần lượt là r =
-0,525, r = -0,569, r = -0,699 và r = -0,291. Đề nghị cần hạn chế bón phân N liều lượng cao và áp dụng số ngày
cách ly thích hợp để kiểm soát dư lượng NO3- trong rau ăn tươi. Ngoài ra, bón phân hữu cơ có thể làm giảm
lượng nitrat tích lũy trong rau.
Từ khóa: Dư lượng nitrat, rau an toàn, rau Bắc Ninh, rau ăn tươi.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Hàm lượng nitrat (NO3-) là một đặc tính chất
lượng quan trọng của rau. Con người có thể hấp thu
quá mức NO3- từ rau và có thể bị nhiều triệu chứng
nguy hiểm như methaemoglobin, ung thư…(Pietro
Santamaria, 2006). Vì vậy, việc kiểm soát dư lượng
nitrat trong rau là vấn đề luôn được quan tâm.
Bắc Ninh là tỉnh có diện tích trồng rau khá lớn
(Cục Trồng trọt – Bộ NN&PTNN, 2017) nhưng toàn
tỉnh mới có 5 cơ sở được cấp chứng nhận đủ điều
kiện sản xuất rau an toàn và 8 cơ sở được chứng
nhận rau VietGAP (Sở NN&PTNT Bắc Ninh, 2017).
Điều này cho thấy công tác kiểm soát độ an toàn của
rau tại Bắc Ninh vẫn chưa được thực hiện đầy đủ.
Công bố trước đây đã chỉ ra dư lượng nitrat vượt
ngưỡng trên nhiều loại rau ăn lá tại Bắc Ninh (Đặng
Trần Trung et al., 2018), nhưng nghiên cứu xác định
nguyên nhân vẫn chưa được thực hiện. Các nghiên
cứu của nước ngoài cho thấy có nhiều nguyên nhân
ảnh hưởng đến sự hấp thu NO3- và sự tích lũy trong
các mô rau ( Maynard D. N. et al., 1976; Wim J.
Corré và Tibbe Breimer, 1979; P. Santamaria et al.,
2001), trong đó kỹ thuật bón phân nitơ được coi là
một trong những yếu tố chính (Cantliffe D. J., 1973).
Như vậy, các mẫu rau sản xuất tại Bắc Ninh có dư
1 Nghiên cứu sinh tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2 Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 3 Viện Sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam Email: [email protected]
lượng NO3- vượt ngưỡng rất có thể xuất phát từ các
cơ sở sản xuất rau không áp dụng các quy trình sản
xuất an toàn. Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện
nhằm xác định mối tương quan giữa kỹ thuật bón
phân đến sự tích lũy NO3- trong xà lách, hành hoa,
mùi tàu và mùi ta là các loại rau ăn tươi không qua
chế biến trồng tại Bắc Ninh. Kết quả này có thể được
sử dụng làm cơ sở khoa học để đề ra biện pháp kiểm
soát dư lượng nitrat trong rau ăn tươi trồng tại Bắc
Ninh.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Các loại rau ăn tươi gồm xà lách cuộn (Lactuca
sativa L.), hành lá (Allium fistulosum L.), mùi tàu
(Eryngium foetidum L.), mùi ta (Coriandrum
sativum L.) được thu thập tại các hộ trồng rau tại các
huyện: Yên Phong, Gia Bình, Từ Sơn, Tiên Du, Quế
Võ, Thuận Thành, Lương Tài và TP. Bắc Ninh.
2.2. Phương pháp lấy mẫu rau
Mẫu rau tại mỗi hộ (30 hộ) được lấy ngẫu nhiên
theo đường chéo 5 điểm. Mỗi điểm thu 200 gram lá
và thân (TCVN 9016:2011) và bọc trong túi nilon, ướp
trong thùng đá lạnh và đưa ngay về phòng phân tích.
2.3. Phương pháp điều tra
Dữ liệu về kỹ thuật chăm sóc, thu hoạch và
lượng phân bón được ghi chép trực tiếp từ 30 hộ sản
xuất rau thông qua cán bộ khuyến nông tại địa
phương.
2.4. Phân tích dư lượng nitrat
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 88
Hàm lượng nitrat được phân tích tại Phòng thí
nghiệm Trung tâm của Khoa Công nghệ thực phẩm,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam theo phương pháp
TCVN 8742:2011 (đã được mô tả trong nghiên cứu
trước đây (Đặng Trần Trung et al.,, 2018)).
2.5. Xử lý thống kê
Phương pháp hồi quy tuyến tính được sử dụng
để tính hệ số tương quan (Pearson’s r) giữa hàm
lượng nitrat trong từng loại rau với lượng urê, lượng
phân chuồng, số ngày cách ly và lượng phân đạm (N)
tổng số.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thực trạng sử dụng phân bón và dư lượng
nitrat trong xà lách, hành lá, mùi tàu, mùi ta
Phân tích mẫu đất tại các hộ trồng rau cho thấy
hàm lượng N tổng số thấp và không có sự chênh
lệnh lớn giữa các hộ, chỉ dao động từ 0,099%-0,120%.
Lượng phân đạm bón cho 4 loại rau ăn tươi được
trình bày ở bảng 1.
Bảng 1. Lượng urê bón cho rau ăn tươi
Lượng urê
(kg/ha)
Số hộ bón cho
xà lách (hộ)
Số hộ bón cho
hành hoa (hộ)
Số hộ bón cho
mùi tàu (hộ)
Số hộ bón cho
mùi ta (hộ)
83 1 0 0 8
111 13 10 1 15
125 0 0 10 1
139 6 10 4 1
167 5 3 0 3
181 1 3 0 2
194 3 4 0 0
222 1 0 0 0
Không rõ 0 1 15 0
Bảng 1 cho thấy có nhiều hộ bón đạm vô cơ cho
xà lách ở mức cao (16 hộ bón từ 139-222 kg urê/ha).
Lượng urê được bón cho hành hoa chủ yếu là ở 2
mức 111 kg/ha (33% số hộ) và 139 kg/ha (33% số
hộ). Mức đạm urê bón cho mùi tàu ở mức 125 kg/ha
chiếm chủ yếu (33% số hộ). Trong khi đó, lượng urê
bón cho mùi ta chủ yếu ở mức 111 kg/ha (50% số
hộ).
Ở rau mùi tàu, số liệu từ các hộ bón các loại
phân vô cơ tổng hợp không rõ nguồn gốc và hàm
lượng dinh dưỡng hoặc trồng mùi tàu xen lẫn các loại
rau khác đã được loại bỏ. Hệ số tương quan
Pearson’s r chỉ được tính từ số liệu thu được ở các hộ
bón phân rõ nguồn gốc và hàm lượng dinh dưỡng.
Bảng 2. Lượng phân chuồng bón cho rau ăn tươi
Lượng phân chuồng
(tấn/ha)
Số hộ bón cho xà
lách (hộ)
Số hộ bón cho
hành hoa (hộ)
Số hộ bón cho
mùi tàu (hộ)
Số hộ bón cho
mùi ta (hộ)
0 2 2 0 2
2 0 6 0 0
3 7 0 0 8
4 2 3 1 2
5 0 0 0 0
6 2 0 2 13
7 9 7 4 4
8 0 5 9 1
9 4 0 0 0
10 4 5 4 0
Không rõ 0 0 10 0
Kết quả điều tra cho thấy lượng phân chuồng
bón cho xà lách, hành lá, mùi ta và mùi tàu rất biến
động giữa các hộ (bảng 2). Đối với xà lách, lượng
phân chuồng bón dao động từ 0 - 10 tấn/ha, trong đó
lượng bón 3 tấn/ha và 7 tấn/ha chiếm nhiều nhất ở
các hộ (7/30 hộ và 9/30 hộ khảo sát). Đối với hành
hoa, số hộ bón nhiều nhất ở lượng phân chuồng 2, 7,
8 và 10 tấn/ha. Trong khi đó, đối với mùi tàu, có đến
33,3% hộ không chỉ rõ lượng phân chuồng hoặc phân
hữu cơ bón do đã bón loại phân vi sinh/hữu cơ khác
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 89
không rõ nguồn gốc hoặc trồng lẫn với loại rau khác.
Lượng phân chuồng bón cho mùi ta chỉ ở 5 mức từ 3-
8 tấn/ha, nhưng tập trung ở mức 3 tấn/ha (26,7% số
hộ) và 6 tấn/ha (43,3% số hộ). Ở các mức khác cũng
được người trồng bón cho hành hoa, nhưng lượng
phân chuồng được bón không theo quy luật và đúng
quy trình kỹ thuật.
Theo hướng dẫn của Cục Quản lý Chất lượng
Nông lâm sản và Thủy sản về sản xuất rau an toàn
theo tiêu chuẩn VietGAP, cần tránh bón đạm quá
mức và dừng bón trước khi thu hoạch ít nhất 10 ngày
(Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2013). Vì
vậy đã xem xét về thời gian bón đạm lần cuối đến lúc
thu hoạch để xác định mối liên quan giữa thời gian
cách ly với dư lượng nitrat. Kết quả được trình bày ở
bảng 3 cho thấy thời gian cách ly rất đa dạng. Đối với
xà lách, số hộ có thời gian cách ly trên 10 ngày chiếm
đa số (chiếm 60%). Đối với hành hoa, số hộ có thời
gian cách ly trên 10 ngày chỉ chiếm 46,7%. Trong khi
đó, đối với rau mùi tàu chỉ có khoảng 33,3% số hộ có
thời gian cách ly trên 10 ngày (có 15 hộ không biết
chính xác thời gian cách ly trùng với các hộ không rõ
về chủng loại và lượng phân bón đã nói ở trên). Đối
với rau mùi ta, số hộ có thời gian cách ly trên 10 ngày
là 40%. Điều này cho thấy có đến trên 50% số hộ nông
dân vẫn chưa tuân thủ quy định về thời gian cách ly
đối với phân đạm bón cho rau.
Bảng 3. Thời gian cách ly sau khi bón đạm lần cuối
Số ngày cách ly
(ngày)
Số hộ bón cho
xà lách (hộ)
Số hộ bón cho
hành hoa (hộ)
Số hộ bón cho
mùi tàu (hộ)
Số hộ bón cho
mùi ta (hộ)
3-9 12 16 5 18
10-25 18 14 10 12
Không rõ 0 0 15 0
Ghi chú: Quy định về thời gian cách ly đối với phân bón gốc trong rau an toàn là 10 ngày (Theo Quyết
định số 04/ 2007/QĐ-BNN ngày 19/01/2007 và Hướng dẫn về sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP
của Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản, 2013).
Kết quả về dư lượng nitrat trong các mẫu rau ăn
tươi ở bảng 4, cho thấy nhiều mẫu xà lách, hành lá,
mùi ta và mùi tàu có dư lượng nitrat ở mức rất cao và
vượt ngưỡng an toàn. Trong đó, mẫu xà lách có dư
lượng cao nhất đến 2984,1 mg/kg, với số lượng mẫu
có hàm lượng nitrat vượt quy định là 12/30 mẫu. Đối
với hành lá, số lượng mẫu có hàm lượng nitrat vượt
ngưỡng cao nhất trong số 4 loại rau ăn tươi là 22/30
mẫu. Đối với rau mùi ta cũng có đến 17/22 mẫu khảo
sát có hàm lượng nitrat vượt ngưỡng quy định. Đối
với rau mùi tàu, lượng mẫu vượt ngưỡng quy định là
11/30 mẫu. Đặc biệt, đối tượng hành hoa có dư lượng
nitrat vượt ngưỡng cao nhất, chiếm tới 73,3%, sau đó
là mùi ta 56,7%. Rau mùi tàu và xà lách có dư lượng
nitrat vượt ngưỡng thấp hơn, chiếm 36,7 – 40%.
Bảng 4. Dư lượng nitrat trong rau ăn tươi
Loại rau NO3- (mg/kg)
Giới hạn theo Quy định
99/2008/QĐ-BNN (mg/kg)
Số mẫu có NO3-
vượt ngưỡng
Xà lách 94,2 – 2984,1 1500,0 12
Hành lá 221,5 – 1237,3 400,0 22
Mùi ta 448,1 – 2128,1 600,0 17
Mùi tàu 224,4 – 1157,1 600,0 11
3.2. Tương quan giữa các yếu tố kỹ thuật canh
tác với hàm lượng nitrate trong rau
Để xác định mối liên quan giữa liều lượng phân
đạm urê, phân chuồng ủ hoai, số lần cách ly và lượng
phân đạm tổng số đến dư lượng nitrat chúng tôi đã
tiến hành phân tích hệ số tương quan của các yếu tố
này đến dư lượng nitrat trong rau. Trong đó, hàm
lượng phân N tổng số được tính theo lượng N nguyên
chất được phân tích trong urê (N: 46,3%) và phân
chuồng (N: 0,75%). Ngoài ra, ở những hộ không rõ về
chủng loại phân bón và lượng bón (rau mùi tàu) đã
được loại ra, không đưa vào phân tích tương quan.
Hình 1A, B cho thấy hàm lượng nitrat trong rau
xà lách có tương quan thuận với tổng lượng phân N
và lượng phân urê. Xu hướng cho thấy, tăng lượng
phân urê và lượng phân N nguyên chất (bón đồng
thời phân urê và phân chuồng) đã làm tăng dư lượng
nitrat trong xà lách.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 90
Hình 1. Tương quan giữa liều lượng N tổng số (A), liều lượng phân urê (B), liều lượng phân chuồng (C)
và số ngày cách ly (D) với hàm lượng nitrat trong rau xà lách (p<0,05)
Hình 2. Tương quan giữa liều lượng N tổng số (A), liều lượng phân urê (B), liều lượng phân chuồng (C)
và số ngày cách ly (D) với hàm lượng nitrat trong hành lá (p<0,05).
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 91
Mặc dù hệ số tương quan giữa hàm lượng nitrat
trong xà lách và tổng lượng N nguyên chất bón cho
rau không cao (r = 0,393) nhưng có thể thấy xu
hướng tăng hàm lượng nitrat trong xà lách khi tăng
tổng lượng phân N. Hình 1B chỉ ra tương quan khá
chặt giữa lượng urê và hàm lượng nitrat (r = 0,785).
Trong khi đó, có mối tương quan nghịch giữa lượng
phân bón hữu cơ, số ngày cách ly với dư lượng nitrat
trong xà lách với hệ số tương quan lần lượt là r= -
0,177 và r = -0,525 (hình 1C và 1D). Như vậy, tăng
lượng phân bón hữu cơ và tăng số ngày cách ly có
thể làm giảm dư lượng nitrat trong xà lách.
Kết quả ở hình 2A và 2B cho thấy, hàm lượng
nitrat trong hành lá có tương quan đồng biến với tổng
lượng N và liều lượng phân urê. Tuy nhiên, hệ số
tương quan giữa hàm lượng nitrat với tổng lượng N
nguyên chất bón thấp (r = 0,3), trong khi hệ số tương
quan giữa nitrat trong hành lá với liều lượng urê khá
cao (r = 0,690). Như vậy, ở hành lá cũng có thể thấy xu
hướng tăng dư lượng nitrat khi tăng tổng lượng N
nguyên chất và liều lượng urê bón cho rau. Kết quả ở
hình 2C và 2D cũng cho thấy hàm lượng nitrat trong
hành lá có tương quan nghịch biến với lượng phân
hữu cơ (phân chuồng) và số ngày cách ly. Tuy nhiên,
hệ số tương quan giữa chỉ tiêu này với lượng phân hữu
cơ bón là thấp (r = - 0,135, p<0,05), trong khi hệ số
tương quan giữa chỉ tiêu này với số ngày cách ly cao
hơn (r = - 0,569, p<0,05). Có thể thấy trong nghiên cứu
này, bón đạm urê cao là nguyên nhân chính làm tăng
hàm lượng nitrat trong hành hoa.
Hình 3. Tương quan giữa liều lượng N tổng số (A), liều lượng phân urê (B), liều lượng phân chuồng (C)
và số ngày cách ly (D) với hàm lượng nitrat trong mùi tàu (p<0,05).
Kết quả ở hình 3A, 3B và 3C cho thấy, hàm
lượng nitrat trong mùi tàu có tương quan đồng biến
với tổng lượng bón N, liều lượng phân urê và lượng
phân chuồng. Hệ số tương quan giữa hàm lượng
nitrat với tổng lượng N nguyên chất bón ở mức trung
bình (r = 0,367), trong khi đó hệ số tương quan giữa
nitrat trong mùi tàu với liều lượng urê bón khá cao (r
= 0,621). Ngoài ra, ở rau mùi tàu có sự khác biệt với
rau xà lách và hành lá; hàm lượng nitrat ở mùi tàu
tăng khi tăng lượng phân chuồng, mặc dù hệ số
tương quan thấp (r = 0,155). Kết quả ở hình 3D cho
thấy hàm lượng nitrat trong mùi tàu có tương quan
nghịch biến với số ngày cách ly với hệ số tương quan
khá chặt (r = - 0,699, p<0,05). Như vậy, có thể thấy
trong nghiên cứu này việc bón đạm urê cao là
nguyên nhân chính làm tăng hàm lượng nitrat trong
mùi tàu. Để làm giảm hàm lượng nitrat có thể áp
dụng thời gian cách ly hợp lý. Ngoài ra, cần nghiên
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 92
cứu thêm về mối liên quan giữa lượng phân chuồng (phân hữu cơ) với dư lượng nitrat trong mùi tàu.
Hình 4. Tương quan giữa liều lượng N tổng số (A), liều lượng phân urê (B), liều lượng phân chuồng (C)
và số ngày cách ly (D) với hàm lượng nitrat trong mùi ta (p<0,05).
Hình 4A cho thấy, xu hướng tăng hàm lượng
nitrat trong mùi ta khi tăng tổng lượng phân N
nguyên chất, mặc dù hệ số tương quan này không
cao (r = 0,345). Trong khi đó, tương quan giữa lượng
phân bón urê và hàm lượng nitrat trong rau khá chặt
(r = 0,724). Hình 4C và 4D cũng chỉ ra mối tương
quan nghịch giữa lượng phân bón hữu cơ, số ngày
cách ly với dư lượng nitrat trong mùi ta với hệ số
tương quan lần lượt là r= -0,312 và r = -0,291. Điều này
cho thấy xu hướng giảm dư lượng nitrat trong mùi ta
khi tăng lượng phân bón hữu cơ và tăng số ngày cách
ly. Như vậy, có thể thấy lượng phân đạm vô cơ cao là
nguyên nhân chính làm tăng dư lượng nitrat trong
rau mùi ta trong nghiên cứu này. Ngoài ra, sử dụng
phân hữu cơ và tăng số ngày cách ly hợp lý có thể
làm giảm dư lượng nitrat trong mùi ta.
Đã có nhiều báo cáo về mối liên quan giữa các
yếu tố đến dư lượng nitrat trong rau. Trong đó, kỹ
thuật bón phân đóng vai trò rất quan trọng đến dư
lượng nitrat. Ngoài kết cấu của đất, chế độ phân bón
quyết định năng suất và chất lượng cũng như độ an
toàn của nông sản. Bón phân nitơ (N) ở liều lượng
cao thường có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng.
Các nghiên cứu của Thomsen et al. (2017) trên cà rốt
cho thấy liều lượng thấp đến mức vừa phải của N cho
năng suất cao nhất, hàm lượng vitamin C cao nhất và
hàm lượng nitrat thấp nhất. Các nghiên cứu của
Santamaria et al. (2008) trên các loại rau ăn lá cho
thấy, hàm lượng nitrat trong rau có liên quan chặt
đến kỹ thuật bón phân, bao gồm dạng phân N, thời
điểm bón và lượng phân bón. Kết quả nghiên cứu của
các tác giả này cho thấy sự thay thế ¾ lượng N trong
dạng phân nitrat bằng phân bón dạng amôn không
ảnh hưởng ở mức có ý nghĩa đến sinh trưởng của rau
diếp và xà lách, nhưng đã làm giảm đáng kể lượng
nitrat tồn dư trong các loại rau này. Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi cũng tương tự như công bố của Liu
et al. (2014) là hàm lượng nitrat trong lá xà lách ở
công thức bón phân đạm vô cơ hoặc hữu cơ có thể
tăng từ 65%-100% (p<0,05) so với không bón. Nghiên
cứu khác ở Việt Nam cũng cho thấy, lượng N bón vào
đất có liên quan chặt chẽ đến dư lượng nitrat trong
rau xà lách. Hoàng Thị Thái Hòa và cộng sự (2011)
đã công bố lượng N bón vào đất có liên quan rất chặt
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 93
đến hàm lượng nitrat trong đất với hệ số tương quan
ở 2 khu vực khảo sát tại Hương Trà, Huế là r = 0,959
và r = 0,958. Các tác giả cũng công bố tăng lượng
phân đạm sẽ làm tăng hàm lượng nitrat trong rau.
Ngoài ra, Nguyễn Thị Lan Hương (2013) cũng báo
cáo rằng có mối liên quan khá chặt giữa lượng nitơ
bón vào đất với hàm lượng nitrat tồn dư trong rau.
Theo Nguyễn Thị Lan Hương, trước khi bón phân
đạm, hàm lượng nitơ tổng số trong đất ở mức khá,
hàm lượng nitrat trong các loài rau rất thấp so với
tiêu chuẩn cho phép đối với rau an toàn của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn. Sau khi bón phân
đạm, hàm lượng nitơ tổng số trong đất đã tăng nhiều
và ở mức rất giàu so với thang đánh giá về dinh
dưỡng đất quy định trong TCVN 7373:2004. Sau ngày
thứ 3 bón phân đạm, hàm lượng nitrat tích lũy trong
các loài rau đã tăng rất cao, hầu hết các loài rau đều
có hàm lượng nitrat cao nhất sau 7 đến 9 ngày bón
phân và giảm dần từ ngày thứ 11. Hàm lượng nitơ
trong đất và nitrat trong rau có mối tương quan ở
mức khá, hàm lượng nitrat trong các loài rau khác
nhau có hệ số tương quan với hàm lượng nitơ trong
đất khác nhau. Hàm lượng nitơ trong đất và nitrat
trong rau cải mào gà có hệ số tương quan lớn nhất,
chứng tỏ cải mào gà có khả năng hấp thụ dinh dưỡng
và chuyển hóa thành dạng nitrat ở mức cao nhất so
với các loại rau khác. Nghiên cứu của chúng tôi trên
bốn loại rau ăn tươi cũng cho kết quả tương tự về mối
liên quan giữa liều lượng đạm vô cơ với dư lượng nitrat
trong rau. Điều này gợi ý rằng tùy thuộc vào từng loại
rau, cần hạn chế bón phân đạm ở liều lượng cao để đảm
bảo hàm lượng nitrat trong rau dưới tiêu chuẩn cho
phép đối với rau an toàn.
4. KẾT LUẬN
Có nhiều mẫu rau ăn tươi (xà lách, hành hoa,
mùi tàu, mùi ta) được thu thập tại Bắc Ninh có dư
lượng NO3- vượt ngưỡng khá cao từ 2 – 4 lần. Trong
đó, tỷ lệ vượt ngưỡng theo Quy định số 99/2008/QĐ-
BNN ở các loại rau lần lượt là: hành hoa (73,3%), mùi
ta (56,7%), xà lách (40%) và mùi tàu (36,7%).
Đã phát hiện mối tương quan thuận giữa lượng
phân bón N (urê) với hàm lượng nitrat tích lũy trong
rau ăn tươi, với hệ số tương quan ở xà lách, hành lá,
mùi tàu và mùi ta lần lượt là r = 0,785, r = 0,690, r =
0,621 và r = 0,724. Ngược lại có mối tương quan
nghịch giữa thời gian cách ly từ khi bón đến lúc thu
hoạch và hàm lượng nitrat tích lũy trong rau ăn tươi
với hệ số tương quan ở xà lách, hành lá, mùi tàu và
mùi ta lần lượt là r = - 0,525, r = - 0,569, r = - 0,699 và r
= - 0,291. Ngoài ra, bón phân hữu cơ hợp lý có thể
làm giảm lượng nitrat tích lũy trong rau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Thị Thái Hòa, Nguyễn Thị Thanh, Đỗ
Đình Thục (2011). Khảo sát tình hình sản xuất rau và
hàm lượng NO3- trong đất trồng rau tại huyện Hương
Trà, tỉnh Thừa Thiên- Huế. Hue University Journal of
Science (HU JOS), 67(4).
2. Nguyễn Thị Lan Hương (2013). Xác định mối
tương quan giữa hàm lượng nitơ trong đất với hàm
lượng nitrat tích lũy trong một số loại rau xanh.
Vietnam Journal Of Earth Sciences, 35(4): 418-423.
3. Sở NN&PTNT Bắc Ninh (2017). Báo cáo tình
hình sản xuất và tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2012 – 2017.
4. Cục Trồng trọt – Bộ NN&PTNN (2017). Số
liệu thống kê, 2017.
5. Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và
Thủy sản (2013). Sổ tay hướng dẫn áp dụng
VietGAP/GMPs Chuỗi sản xuất kinh doanh rau, quả
tươi.
6. Đặng Trần Trung, Nguyễn Quang Thạch, Đỗ
Tấn Dũng (2018). Thực trạng dư lượng nitrat (NO3-)
trong một số loại rau tại tỉnh Bắc Ninh. Tạp chí Khoa
học Nông nghiệp Việt Nam, 16(1): 1-8.
7. TCVN 9016:2011 (2011). Tiêu chuẩn Quốc gia
TCVN 9016:2011: Rau tươi – Phương pháp lấy mẫu
trên ruộng sản xuất. Hà Nội.
8. Santamaria P., A. Elia, A. Parente, F. Serio
(2008). Fertilization strategies for lowering nitrate
content in leafy vegetables: chicory and rocket salad
cases. Journal of Plant Nutrition, 21(9): 1791-1803.
9. Pietro Santamaria (2006). Nitrate in
vegetables: toxicity, content, intake and EC
regulation. Journal of the Science of Food and
Agriculture, 86(1): 10-17.
10. Cục Trồng trọt – Bộ NN&PTNN (2017). Số
liệu thống kê.
11. Sở NN&PTNT Bắc Ninh (2017). Báo cáo tình
hình sản xuất và tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2012 – 2017.
12. Maynard D. N., Barker A. V., Minotti P. L.,
Peck N. H. (1976). Nitrate accumulation in
vegetables. Advances in Agronomy, Elsevier. 28: 71-
118.
13. Wim J. Corré, Tibbe Breimer (1979). Nitrate
and nitrite in vegetables. Pudoc.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 94
14. Santamaria P., Gonnella M., Elia A., Parente
A., Serio F. (2001). Ways of reducing rocket salad
nitrate content. Acta Horticulturae, 548: 529-536.
15. Cantliffe D. J. (1973). Nitrate Accumulation
in Table Beets and Spinach as Affected by Nitrogen,
Phosphorus, and Potassium Nutrition and Light
Intensity 1. Agronomy Journal, 65(4): 563-565.
16. Mette Thomsen, H. Riley, Grethe Iren
Andersen Borge, Per Lea, Marit Rødbotten, Gunnar
Bengtsson (2017). Effects of soil type and fertilization
on yield, chemical parameters, sensory quality and
consumer preference of swede (Brassica napus L.
ssp. rapifera).
17. Cheng-Wei Liu, Yu Sung, Bo-Ching Chen,
Hung-Yu Lai (2014). Effects of nitrogen fertilizers on
the growth and nitrate content of lettuce (Lactuca
sativa L.). International journal of environmental
research and public health, 11(4): 4427-4440.
EFFECTS OF CHEMICAL NITROGEN AND ORGANIC FERTILIZERS ON NITRATE RESIDUE IN RAW
VEGETABLES IN BAC NINH
Dang Tran Trung, Tran Anh Tuan, Nguyen Quang Thach
Summary This research aimed determination of relationship between applying urea and organic fertilizers with NO3
-
residue in some raw vegetables: lettuce (Lactuca sativa), scallions (Allium sativum), culantro (Eryngium
foetidum) and coriander (Coriandrum sativum) cultivated in Bac Ninh in period 2015 -2016. The vegetable
samples were collected in the fields according to TCVN 9016:2011 and the nitrate contents were determined
according to TCVN 8742:2011. The results showed that many vegetable samples had NO3- residues
exceeding at 2 - 4 times according to Regulation 99/2008/QĐ-BNN with the exceeded rates of each
vegetable were: scallions: 73.3%, coriander: 56.7%, lettuce: 40% and culantro: 36.7%. There were positive
correlations between the doses of urea fertilizer and NO3- residues in vegetables, with the correlation
coefficients in lettuce, scallions, culantro and coriander were r = 0.785, r = 0.690, r = 0.621 and r = 0.724,
respectively. Whereas, there were negative correlations between preharvest intervals (PHI) of urea
fertilizing and NO3- residue in vegetables, with correlation coefficients in lettuce, scallions, culantro and
coriander were r = -0.525, r = -0.569, r = -0.699 and r = -0.291, respectively. These suggest that it is necessary
to limit application of high N doses and should apply the apropriate PHIs of urea fertilizing for control of
NO3- residue in raw vegetables. In addition, application of compost might reduce accumulation of nitrate in
vegetables.
Keywords: Bac Ninh vegetable, nitrate residue, raw vegetables, safe vegetables.
Người phản biện: TS. Bùi Huy Hiền
Ngày nhận bài: 9/7/2019
Ngày thông qua phản biện: 9/8/2019
Ngày duyệt đăng: 16/8/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 95
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘ MẶN ĐẾN TỶ LỆ NẢY MẦM,
SINH TRƯỞNG, MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH LÝ VÀ NĂNG
SUẤT CỦA HAI GIỐNG ĐẬU XANH ĐXVN7 VÀ ĐXHL10 Vũ Ngọc Thắng1*, Lê Thị Tuyết Châm1, Trần Anh Tuấn1,
Nguyễn Trọng Trường Sơn2, Phạm Tuấn Anh1, Vũ Ngọc Lan1,
Nguyễn Xuân Trường3, Nguyễn Ngọc Quất4
TÓM TẮT Khả năng nảy mầm, sinh trưởng, một số chỉ tiêu sinh lý và năng suất của 2 giống đậu xanh ĐXVN7 và
ĐXHL10 trong điều kiện mặn được đánh giá trong thí nghiệm này. Trong đó dung dịch NaCl với 4 nồng độ
(0, 50, 100 và 150 mM) được xử lý cho hạt ở thí nghiệm nảy mầm; ở thí nghiệm trồng chậu, dung dịch NaCl
với 3 nồng độ (0, 50 và 100 mM) được xử lý cho cây bằng cách tưới 100 mL dung dịch NaCl 1 tuần/lần từ
khi cây bắt đầu ra hoa. Trong điều kiện mặn khả năng nảy mầm của 2 giống ĐXVN7 và ĐXHL10 bị ảnh
hưởng đáng kể, biểu hiện là tỷ lệ nẩy mầm, chiều dài rễ mầm, chiều dài thân mầm đều giảm rõ rệt khi tăng
nồng độ gây mặn. Bên cạnh đó khi tăng nồng độ gây mặn chiều cao thân chính, khối lượng chất khô, diện
tích lá, khả năng hình thành nốt sần, chỉ số SPAD, hiệu suất huỳnh quang diệp lục cũng bị suy giảm. Đồng
thời trong điều kiện mặn năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của 2 giống đậu xanh cũng bị suy
giảm rõ rệt. So sánh kết quả nghiên cứu giữa 2 giống đậu xanh trong cả điều kiện gây mặn và không gây
mặn cho thấy giống ĐXHL10 có khả năng nảy mầm, sinh trưởng và cho năng suất cá thể cao hơn so với
giống đậu xanh ĐXVN7.
Từ khóa: Đậu xanh, mặn, sinh trưởng, sinh lý, năng suất.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Mặn là một trong những yếu tố phi sinh học
quan trọng ảnh hưởng tới sinh trưởng và phát triển
của cây trồng. Mặn gây ra những tác hại toàn diện từ
giai đoạn nảy mầm, sinh trưởng và dẫn đến làm giảm
năng suất của cây trồng (Nayer và Reza, 2008; Taufiq
et al., 2016; Vu Ngoc Thang et al., 2018). Đồng thời
mặn còn làm thay đổi hình thái và cấu trúc của cây
(Nawaz et al., 2010; Dolatabadian et al., 2011).
Cây đậu xanh (Vigna radiata (L.) Wilczek) là cây
đậu thực phẩm ngắn ngày có giá trị kinh tế cao với
nhiều ưu điểm trong hệ thống sản xuất nông nghiệp.
Đậu xanh là cây trồng mẫn cảm với mặn, mặn làm
suy giảm quá trình nảy mầm, ức chế sự phát triển
của rễ và thân, giảm sức sống của cây và cuối cùng là
suy giảm về năng suất cá thể (Abd-Alla et al.,
1998; Saha et al., 2010; Promila and Kumar,
2000; Misra và Dwivedi, 2004). Bên cạnh đó mặn
cũng làm ảnh hưởng tới quá trình hình thành nốt sần
và cố định đạm trên cây đậu xanh (Balasubramanian
và Sinha, 1976).
1 Khoa Nông Học - Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2Khoa quản lý đất đai - Đại học Tài nguyên môi trường 3Viện sinh học nông nghiệp - Học viện Nông nghiệp Việt Nam 4Viện Cây lương thực và thực phẩm *Email: [email protected]
Nước biển dâng cao là một trong những nguyên
nhân chính làm tăng nhanh diện tích đất nhiễm mặn
và là một thách thức lớn đối với sản xuất nông nghiệp
bền vững (Hossain et al., 2012). Tại Việt Nam, diễn
biến quá trình xâm nhập mặn vào đất liền ngày càng
diễn biến phức tạp đặc biệt tại đồng bằng sông Cửu
Long và duyên hải miền Trung. Đây cũng là những
vùng có diện tích trồng đậu xanh khá lớn của Việt
Nam.
Để hạn chế ảnh hưởng của mặn tới sinh trưởng,
phát triển và năng suất cây trồng ngoài các biện pháp
canh tác hợp lý thì nghiên cứu tuyển chọn và phát
triển các giống có khả năng chịu mặn cũng là một
trong những mục tiêu của các nhà chọn giống. Vì
vậy, nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá
khả năng chịu mặn của hai giống đậu xanh ĐXVN7
và ĐXHL10 đang được trồng phổ biến thông qua một
số chỉ tiêu về nảy mầm, sinh trưởng, sinh lý và năng
suất.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành trên 2 giống đậu
xanh triển vọng ĐXVN7 và ĐXHL10. Giống ĐXHL10
do Trung tâm NC&TN Hưng Lộc, Viện KHKTNN
miền Nam chọn tạo được công nhận giống năm 2014.
Giống ĐXVN7 được chọn tạo từ tổ hợp lai Vĩnh Bảo 1
047, do Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Đậu
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 96
đỗ, Viện Cây lương thực - Cây thực phẩm và Viện
nghiên cứu Ngô chọn lọc và được công nhận giống
năm 2017.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thí nghiệm nảy mầm: Ảnh hưởng của mặn đến
khả năng nảy mầm của 2 giống đậu xanh ĐXVN7 và
ĐXHL10. Thí nghiệm gồm 2 nhân tố được bố trí theo
khối ngẫu nhiên. Nhân tố 1 là 2 giống đậu xanh
ĐXVN7 và ĐXHL10, nhân tố 2 là 4 mức gây mặn (0
mM, 50 mM, 100 mM, 150 mM NaCl). Hạt giống
được gieo trên đĩa petri với 20 hạt/đĩa. Hạt giống
được rửa sạch bề mặt bằng dung dịch HgCl2 0,01%
trong vòng 1 phút để loại bỏ hết nấm mốc gây thối
hạt. Trước khi đưa vào đánh giá khả năng chịu mặn,
hạt được rửa lại bằng nước cất 3 lần để rửa sạch dung
dịch HgCl2. Thí nghiệm được đánh giá trong phòng
thí nghiệm tại Khoa Nông học, Học viện Nông
nghiệp Việt Nam.
Thí nghiệm đánh giá trong chậu: Ảnh hưởng của
mặn đến sinh trưởng, sinh lý và năng suất của 2
giống đậu xanh ĐXVN7 và ĐXHL10. Thí nghiệm
gồm 2 nhân tố được bố trí theo khối ngẫu nhiên.
Nhân tố 1 là 2 giống đậu xanh ĐXVN7 và ĐXHL10,
nhân tố 2 là 3 công thức xử lý mặn bao gồm: CT1
(tưới bình thường): Tưới nước đầy đủ trong suốt quá
trình sinh trưởng của cây đậu xanh. CT2 và CT3:
Tưới nước đầy đủ, sau khi cây bắt đầu ra hoa tiến
hành gây mặn, mỗi tuần tưới 1 lần, mỗi lần tưới 100
ml dung dịch NaCl nồng độ 50 và 100 mM. Cây được
trồng trong chậu (cao 25 cm; đường kính 30 cm) mỗi
chậu chứa 7 kg đất phù sa sông Hồng không được
bồi hàng năm. Đất được phơi khô sàng kĩ, trộn phân
bón lót: 0,18 g đạm urê: 1,36 g lân supe: 0,27 g kali
clorua/chậu. Mỗi chậu gieo 7 hạt, duy trì độ ẩm 75 -
85% và khi hạt nảy mầm nhô cao khỏi mặt đất (7-10
ngày sau gieo) thì tỉa chỉ để lại 2 cây/chậu. Thí
nghiệm được tiến hành trong nhà lưới có mái che
bằng nilon trắng trong điều kiện vụ xuân năm 2017
tại Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Các chỉ tiêu nảy mầm gồm: Tỷ lệ nảy mầm (%)
(được tính khi rễ mầm dài 2 mm); chiều dài rễ mầm
(cm), chiều dài thân mầm (cm) và khối lượng tươi
(g/cây) được đo ở ngày thứ 7 sau gieo.
Các chỉ tiêu sinh trưởng: Chiều cao thân chính
(cm), số cành cấp 1 (cành), khả năng tích lũy chất
khô của rễ và thân lá (g/cây), diện tích lá (dm²), khả
năng hình thành nốt sần.
Các chỉ tiêu sinh lý: Chỉ số SPAD (đo bằng máy
SPAD-502, Japan), hiệu suất huỳnh quang diệp lục
(đo bằng máy (Opti-Sciences Chlorophyll
Fluorometer, Hudson, USA - model OS- 30p).
Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất:
Tổng số hoa (hoa); đếm tổng số quả/cây (quả), khối
lượng 100 hạt (g), năng suất cá thể (g/cây) và mức
suy giảm năng suất cá thể (%).
Chỉ số mẫn cảm với mặn (SSI) trên tính trạng
tổng quả/cây, tổng hạt/chắc/cây, khối lượng 100 hạt
và năng suất cá thể được tính theo công thức
(Fischer and Maurer, 1978).
SIYYSSI ps //1 ; ps YYSI /1
Trong đó: sY và pY là tổng quả/cây, tổng
hạt/chắc/cây; sY và pY là giá trị trung bình của tổng
quả/cây, tổng hạt/chắc/cây.
Để phân tích và xử lý thống kê toàn bộ số hạt
trong thí nghiệm nảy mầm được thu thập để đo đếm.
Thí nghiệm trồng trong chậu 5 cây cho 1 công thức
được ngẫu nhiên lựa chọn cho mỗi lần thu mẫu. Số
liệu thu thập được phân tích và xử lý theo chương
trình Excel và IRRISTAT 5.0.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của mặn đến khả năng nảy mầm
của 2 giống đậu xanh ĐXVN7 và ĐXHL10
3.1.1. Ảnh hưởng của mặn đến tỷ lệ nảy mầm
Bảng 1: Ảnh hưởng của mặn đến tỷ lệ (%) nảy mầm
của 2 giống đậu xanh ĐXVN7 và ĐXHL10
Giống đậu xanh Nồng độ gây mặn
(mM) ĐXVN7 ĐXHL10
0,0 (đối chứng) 100,00 100,00
50,0 90,00 100,00
100,0 87,00 100,00
150,0 75,00 86,00
Mặn là một trong những yếu tố làm ảnh hưởng
tới thời gian và tỷ lệ nảy mẩm của hạt. Theo dõi khả
năng nảy mầm của hạt trong điều kiện mặn là một
trong những chỉ tiêu để đánh giá và tuyển chọn
giống có khả năng chống chịu với điều kiện mặn.
Những giống có khả năng nảy mầm tốt trong điều
kiện mặn là những giống có khả năng chịu mặn tốt
(Mensah et al., 2006; Nawel et al., 2015). Theo dõi
khả năng nảy mầm của 2 giống đậu xanh kết quả cho
thấy mặn ảnh hưởng rõ rệt tới tỷ lệ nảy mầm của 2
giống đậu xanh. Khi tăng nồng độ gây mặn thì tỷ
mọc mầm có xu hướng giảm dần. Kết quả nghiên
cứu này cũng tương đồng với những kết quả nghiên
cứu trên cây đậu xanh của các tác giả Promila và
Kumar, 2000; Misra và Dwivedi, 2004, Vũ Ngọc
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 97
Thắng và cs., 2017, Vu Ngoc Thang et al., 2018. So
sánh giữa 2 giống đậu xanh kết quả cho thấy giống
ĐXHL10 có tỷ lệ mọc mầm khá cao 86% trong điều
kiện mặn 150 mM NaCl trong khi đó giống ĐXVN7
chỉ đạt tỷ lệ nảy mầm là 75% (Bảng 1).
3.1.2. Ảnh hưởng của mặn đến chiều dài thân
mầm, rễ mầm của 2 giống đậu xanh ĐXVN7,
ĐXHL10
Mặn ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng của cây
mầm đặc biệt mặn làm giảm chiều dài rễ, chiều dài
thân mầm (Khajeh et al., 2003; Nayer và Reza, 2008;
Vu Ngoc Thang et al., 2018). Kết quả thí nghiệm
cũng cho thấy, khi tăng mức độ gây mặn chiều dài rễ
mầm và chiều dài thân mầm của 2 giống đậu xanh
ĐXVN7 và ĐXHL10 có xu hướng giảm dần. Đặc biệt
ở độ mặn cao 200 mM NaCl rễ mầm của 2 giống đậu
xanh ĐXVN7 và ĐXHL10 chỉ nhú ra khoảng 2 mm
rồi ngừng phát triển. Kết quả nghiên cứu này cũng
tương đồng như kết quả nghiên cứu trước đây của
nhóm tác giả Vu Ngoc Thang et al. (2018). So sánh
giữa 2 giống kết quả cho thấy chiều dài rễ mầm
không có sự khác giữa 2 giống đậu xanh ở công thức
50 mM và 100 mM NaCl. Tuy nhiên, giống ĐXVN7
có chiều rễ mầm cao hơn có ý nghĩa so với giống đậu
xanh ĐXHL10 ở công thức 0 mM (Đ/C). Bên cạnh
đó chiều dài thân mầm không có sự khác nhau có ý
nghĩa thống kê giữa 2 giống đậu xanh ở công thức 0
mM (Đ/C) và 100 mM NaCl, trong khi đó có sự sai
khác có ý nghĩa giữa 2 giống ở công thức xử lý mặn
50 mM NaCl. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy
giống ĐXVN7 có chiều dài thân mầm ngắn hơn
nhưng chiều dài rễ mầm lại dài hơn so với giống
ĐXHL10 ở tất cả các mức gây mặn (Hình 1).
Hình 1: Ảnh hưởng của mặn đến chiều dài thân mầm, chiều dài rễ mầm của 2 giống đậu xanh
ĐXVN7 và ĐXHL10
3.2 Ảnh hưởng của mặn đến sinh trưởng, sinh lý và năng suất của 2 giống đậu xanh ĐXVN7 và ĐXHL10
3.2.1. Ảnh hưởng của mặn đến tăng trưởng chiều cao thân chính của 2 giống đậu xanh ĐXVN7 và ĐXHL10
Hình 2: Ảnh hưởng của mặn đến động thái tăng trưởng chiều cao thân chính của 2 giống đậu xanh
ĐXVN7 (A), ĐXHL10 (B)
Theo dõi ảnh hưởng của mặn đến động thái tăng
trưởng chiều cao thân chính của 2 giống đậu xanh
ĐXVN7 và ĐXHL10 kết quả cho thấy. Chiều cao thân
chính của 2 giống đậu xanh có xu hướng giảm khi
tăng nồng độ gây mặn. Kết quả nghiên cứu này cũng
tương đồng với các kết quả nghiên cứu trên cây đậu
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 98
xanh (Sehrawat et al., 2015), trên lúa mỳ (Abdul et
al., 1988; Singh và Jain, 1989); trên cây lạc (Vũ Ngọc
Thắng và cs., 2017). Trong nghiên cứu này trước khi
xử lý mặn chiều cao thân chính không có sai khác
giữa các công thức. Tuy nhiên, khi gây mặn chiều
cao thân thân chính của 2 giống có xu hướng giảm.
Đặc biệt sau 17 ngày gây mặn, khi nồng độ mặn tăng
lên chiều cao thân chính giảm dần và sai khác có ý
nghĩa so với công thức đối chứng ở cả 2 giống
ĐXVN7 và ĐXHL10. So sánh giữa 2 giống trong cùng
một mức xử lý kết quả cho thấy giống ĐXVN7 có
chiều cao cây ở công thức gây mặn đều thấp hơn so
với chiều cao cây của giống ĐXHL10 (hình 2).
3.2.2. Ảnh hưởng của mặn đến diện tích lá của 2
giống đậu xanh ĐXVN7 và ĐXHL10
Bảng 2: Ảnh hưởng của mặn đến diện tích lá của 2 giống đậu xanh ĐXVN7 và ĐXHL10
Diện tích lá (dm2/cây)
Giống Nồng độ
(mM NaCl) Sau gây mặn
15 ngày
Sau gây mặn
30 ngày
Sau gây mặn
45 ngày
0 2,68 4,01 4,75
50 2,48 3,44 3,93 ĐXVN7
100 2,42 3,25 3,41
0 2,71 4,08 4,88
50 2,54 3,58 4,17 ĐXHL10
100 2,47 3,39 3,69
CV% 5,7 5,3 5,3
LSDNDxG5% 0,15 0,23 0,28
ĐXVN7 2,53 3,57 4,03 TB giống
ĐXHL10 2,57 3,68 4,25
LSDG5% 0,08 0,13 0,16
0 2,70 4,05 4,82
50 2,51 3,51 4,05 TB nồng độ
gây mặn 100 2,45 3,32 3,55
LSDND5% 0,10 0,25 0,29
Diện tích lá của 2 giống ĐXVN7 và ĐXHL10 có
xu hướng tăng dần qua các giai đoạn và đạt giá trị
cao vào giai đoạn sau gây mặn 45 ngày. So sánh giữa
các công thức xử lý kết quả cho thấy có sự sai khác
có ý nghĩa giữa các công thức gây mặn ở giai đoạn
sau xử lý 15 ngày. Kết quả nghiên cứu này cũng
tương đồng với kết quả nghiên cứu trên đậu xanh
(Sehrawat et al., 2015), cây lạc của tác giả Vũ Ngọc
Thắng và cs. (2017). Tuy nhiên, sau khi gây mặn 30
và 45 ngày không có sự sai khác có ý nghĩa ở công
thức xử lý 50 mM và 100 mM NaCl nhưng lại có ý
nghĩa ở công thức xử lý 0 mM và công thức 50 mM
hoặc 100 mM NaCl. So sánh giữa 2 giống kết quả
cho thấy không có sự sai khác có ý nghĩa giữa 2
giống ở giai đoạn sau xử lý 15 và 30 ngày nhưng lại
có sự sai khác có ý nghĩa giữa 2 giống ở giai đoạn sau
xử lý 45 ngày (Bảng 2).
3.2.3. Ảnh hưởng của mặn đến khối lượng chất
khô của 2 giống đậu xanh ĐXVN7 và ĐXHL10
Khả năng tích lũy sinh khối của 2 giống đậu
xanh tăng dần qua qua các giai đoạn theo dõi và đạt
giá trị cao vào ngày thứ 45 sau gây mặn. So sánh giữa
các công thức xử lý kết quả cho thấy trong điều kiện
mặn khối lượng chất khô của rễ và thân lá giảm đáng
kể so với công thức không xử lý mặn. Bên cạnh đó
tại mỗi giai đoạn theo dõi, khi tăng nồng độ gây mặn
thì khối lượng chất khô của rễ và thân lá cũng có xu
hướng giảm đáng kể. Kết quả nghiên cứu trên cũng
tương đồng với nghiên cứu của Shabina Syeed và
Mehar Fatma (2011), nhóm tác giả cho rằng nồng độ
NaCl tăng cao trong đất đã làm giảm khối lượng khô
của cây trồng. So sánh giữa 2 giống đậu xanh kết quả
cho thấy khối lượng rễ và thân lá của giống ĐXHL10
luôn cao hơn có ý nghĩa so với giống ĐXVN7 ở cả
công thức đối chứng và xử lý mặn, ngoại trừ khối
lượng khô thân lá sau 30 ngày xử lý mặn.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 99
Bảng 3: Ảnh hưởng của mặn đến khối lượng chất khô rễ, thân lá của 2 giống đậu xanh
ĐXVN7 và ĐXHL10
Khối lượng khô (g/cây)
Sau gây mặn 15 ngày Sau gây mặn 30 ngày Sau gây mặn 45 ngày Giống Nồng độ
(mM NaCl) Rễ Thân lá Rễ Thân lá Rễ Thân lá
0 0,30 1,66 0,47 2,54 0,56 3,01
50 0,28 1,44 0,38 2,38 0,46 2,64 ĐXVN7
100 0,24 1,28 0,36 2,08 0,40 2,34
0 0,33 2,21 0,50 2,63 0,60 3,13
50 0,31 2,08 0,46 2,34 0,53 2,89 ĐXHL10
100 0,27 1,91 0,42 2,27 0,50 2,57
CV% 9,3 5,5 7,7 5,9 5,5 5,3
LSDNDxG5% 0,044 0,16 0,056 0,23 0,047 0,25
ĐXVN7 0,27 1,46 0,40 2,33 0,47 2,66 TB giống
ĐXHL10 0,30 2,07 0,46 2,41 0,54 2,86
LSDG5% 0,025 0,092 0,032 0,13 0,027 0,14
0 0,32 1,94 0,49 2,59 0,58 3,07
50 0,30 1,76 0,42 2,36 0,50 2,77
TB nồng
độ gây
mặn 100 0,26 1,60 0,39 2,18 0,45 2,46
LSDND5% 0,014 0,033 0,029 0,15 0,029 0,15
3.2.4. Ảnh hưởng của mặn đến hiệu suất huỳnh quang diệp lục của 2 giống đậu xanh ĐXVN7 và
ĐXHL10
Hiệu suất huỳnh quang diệp lục là chỉ tiêu sinh
lý quan trọng để đánh giá khả năng chống chịu của
cây trồng khi gặp điều kiện bất thuận. Cụ thể, hiệu
suất huỳnh quang diệp lục đặc biệt hữu ích trong các
chương trình sàng lọc độ mặn (Jimenez et al., 1997)
bởi vì ảnh hưởng của sự hư hại do muối gây ra có thể
được phát hiện trước những dấu hiệu xấu đi và sự
suy giảm của huỳnh quang diệp lục (West, 1986).
Kết quả thí nghiệm cũng tương đồng với kết quả
nghiên cứu của các tác giả trên. Hiệu suất huỳnh
quang diệp lục có xu hướng giảm dần khi thời gian
và nồng độ mặn tăng lên. Cụ thể, sau 10 ngày gây
mặn hiệu suất huỳnh quang diệp lục giảm so với
công thức đối chứng và sự giảm đáng kể có ý nghĩa
thống kê về hiệu suất huỳnh quang diệp lục được ghi
nhận ở các thời điểm theo dõi tiếp theo trên cả 2
giống đậu xanh. Sau 38 ngày gây mặn hiệu suất
huỳnh quang diệp lục có giá trị thấp nhất ở nồng độ
100 mM NaCl trên cả 2 giống và có sự sai khác có ý
nghĩa so với công thức đối chứng. So sánh giữa 2
giống kết quả cho thấy giống ĐXVN7 có mức suy
giảm hiệu suất huỳnh quang diệp lục ở các công thức
xử lý mặn lớn hơn so với giống ĐXHL10 (hình 3).
Hình 3: Ảnh hưởng của mặn đến hiệu suất huỳnh quang diệp lục của 2 giống đậu xanh
ĐXVN7 (A), ĐXHL10 (B)
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 100
3.2.5. Ảnh hưởng của mặn đến sự thay đổi chỉ số SPAD của 2 giống đậu xanh ĐXVN7 và ĐXHL10
Hình 4: Ảnh hưởng của mặn đến sự thay đổi chỉ số SPAD của 2 giống đậu xanh ĐXVN7 (A), ĐXHL10 (B)
Chỉ số SPAD có xu hướng giảm dần khi thời
gian và nồng độ mặn tăng lên. Kết quả nghiên cứu
này cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu của
Wahid và Ejaz (2004); Arulbalachandran et al. (2009);
Vũ Ngọc Thắng và cs. (2017). Bên cạnh đó tác giả
Dogar et al. (2012); Wahid et al. (2004);
Arulbalachandran et al (2009) cũng cho rằng hàm
lượng Cholorophyll giảm có thể được giải thích là do
nồng độ Na+ và Cl- ở thân lá tăng cao gây ra mất chất
diệp lục. Đồng thời khi độ mặn tăng lên dẫn đến khả
năng hấp thụ các ion K+, NO3-, và H2PO4
- lại giảm đi
(White và Broadley, 2001; Tester và Davenport,
2003). Trong kết quả nghiên cứu này sau 10 ngày gây
mặn chỉ số SPAD có xu hướng giảm xuống ở cả 2
giống so với công thức đối chứng. Tuy nhiên mức độ
suy giảm sau 10 ngày là không đáng kể và sự suy
giảm có ý nghĩa được ghi nhận ở các thời điểm 24, 31
và 88 ngày sau khi xử lý mặn trên cả 2 giống. So sánh
giữa 2 giống kết quả cho thấy giống ĐXVN7 có mức
suy giảm chỉ số SPAD ở các công thức xử lý mặn lớn
hơn so với giống ĐXHL10 (hình 4).
3.2.6. Ảnh hưởng của mặn đến khả năng hình
thành nốt sần của 2 giống đậu xanh ĐXVN7 và
ĐXHL10
Bảng 4: Ảnh hưởng của mặn đến khả năng hình thành nốt sần của 2 giống đậu xanh ĐXVN7 và ĐXHL10
Sau gây
mặn 15 ngày
Sau gây
mặn 30 ngày
Sau gây
mặn 45 ngày Giống
Nồng độ
(mM NaCl) SLNS
(nốt/cây)
KLNS
(g)
SLNS
(nốt/cây)
KLNS
(g)
SLNS
(nốt/cây)
KLNS
(g)
0 25,33 0,13 43,67 0,53 24,33 0,16
ĐXVN7 50 21,67 0,09 31,33 0,31 19,33 0,15
100 16,00 0,06 24,33 0,20 12,67 0,12
0 27,00 0,19 52,67 0,75 30,00 0,34
ĐXHL10 50 23,00 0,12 44,67 0,49 24,67 0,29
100 19,00 0,10 39,00 0,36 23,67 0,28
CV% 5,4 4,3 6,6 7,8 8,8 7,4
LSDNDxG5% 1,94 0,008 4,04 0,05 3,05 0,002
ĐXVN7 21,00 0,09 33,11 0,35 18,78 0,14 TB giống
ĐXHL10 23,00 0,14 45,45 0,53 26,11 0,30
LSDG5% 1,12 0,004 2,33 0,03 1,76 0,001
0 26,17 0,16 48,17 0,64 27,17 0,25
50 22,34 0,11 38,00 0,40 22,00 0,22
TB nồng
độ gây
mặn 100 17,50 0,08 31,67 0,28 18,17 0,20
LSDND5% 1,95 0,007 4,14 0,03 1,38 0,001
SLNS: số lượng nốt sần; KLNS: khối lượng nốt sần. Số lượng và khối lượng nốt sần tăng dần qua các
giai đoạn theo dõi và đạt giá trị cao vào ngày thứ 30
sau gây mặn sau đó số lượng và khối lượng nốt sần
có xu hướng giảm dần và đạt giá trị thấp và ngày thứ
45 sau gây mặn. So sánh giữa các công thức xử lý kết
quả cho thấy trong điều kiện mặn số lượng và khối
lượng nốt sần giảm so với công thức không xử lý
mặn. Bên cạnh đó tại mỗi giai đoạn theo dõi khi tăng
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 101
nồng độ gây mặn thì số lượng và khối lượng nốt sần
cũng có xu hướng giảm đáng kể. Kết quả nghiên cứu
này cũng tương đồng với nghiên cứu của
Balasubramanian và Sinha (1976), nhóm tác giả đã
chỉ ra rằng độ mặn làm giảm số lượng, khối lượng và
hiệu quả cố định đạm của nốt sần ở đậu xanh. Đồng
thời Soussi et al. (1998) cũng cho rằng trong điều
kiện mặn hoạt tính khử nitrate giảm và khả năng cố
định đạm bị ức chế do giảm số lượng nốt sần. So
sánh giữa 2 giống đậu xanh trong thí nghiệm kết quả
cho thấy giống đậu xanh ĐXHL10 có số lượng nốt
sần, khối lượng nốt sần cao hơn có ý nghĩa so với
giống đậu xanh ĐXVN7.
3.2.7. Ảnh hưởng của mặn đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của 2 giống đậu xanh
ĐXVN7 và ĐXHL10
Theo dõi ảnh hưởng của mặn đến các yếu tố cấu
thành năng suất và năng suất của 2 giống đậu xanh
ĐXVN7 và ĐXHL10 kết quả cho thấy mặn làm giảm
các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của 2
giống đậu xanh. Kết quả nghiên cứu này cũng
tương đồng với kết quả nghiên cứu trên cây lạc
của tác giả Vũ Ngọc Thắng và cs. (2017). Đặc
biệt trong thí nghiệm này số quả/cây, tổng số hạt
chắc/cây, khối lượng 100 hạt và năng suất cá thể của
2 giống đậu xanh trong điều kiện mặn thấp hơn có ý
nghĩa thống kê so với trong điều kiện không gây
mặn. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất có
xu hướng giảm xuống khi nồng độ gây mặn tăng lên.
So sánh giữa 2 giống kết quả cho thấy giống
ĐXHL10 có số quả/cây, tổng số hạt chắc/cây, khối
lượng 100 hạt và năng suất cá thể cao hơn có ý nghĩa
so với giống ĐXVN7. Kết quả nghiên cứu trên cũng
tương tự như những nghiên cứu trên cây đậu xanh
của Sehrawat et al., 2015. Đồng Ahmed (2009) cũng
cho rằng giảm năng suất đậu xanh trong điều kiện
mặn có thể là do giảm số hạt/quả hoặc tổng số
hạt/cây, khối lượng 100 hạt và năng suất khô của
từng hạt. Bên cạnh đó, rất nhiều nghiên cứu cũng chỉ
ra rằng sự giảm năng suất là kết quả tổng hợp của
việc suy giảm các chỉ tiêu sinh trưởng và sinh lý như
chiều cao cây, số lá trên thân, kích thước lá, khối
lượng chất khô và độ thiếu hụt bão hòa nước gây ra
bởi điều kiện mặn (Abdul et al., 1988; Singh và Jain,
1989; Vũ Ngọc Thắng và cs., 2017). Để đánh giá độ
mẫn cảm đối với điều kiện mặn của hai giống đã
dùng chỉ số mẫn cảm với mặn (SSI). Kết quả trình
bày trong bảng 5 cho thấy giống ĐXHL10 ít mẫn cảm
với mặn hơn giống ĐXVN7 ở cả hai nồng độ 50 mM
và 100 mM NaCl ở các chỉ tiêu như tổng số quả/cây,
tổng số hạt chắc/cây, năng suất cá thể. Riêng chỉ
tiêu khối lượng 100 hạt, ĐXHL10 và ĐXVN7 có độ
mẫn cảm tương đương nhau ở nồng độ xử lý là 100
mM, còn ở nồng độ xử lý 50 mM thì ĐXVN7 mẫn
cảm hơn ĐXHL10.
Bảng 5: Ảnh hưởng của mặn đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của 2 giống đậu xanh
ĐXVN7 và ĐXHL10
Giống
Nồng độ
(mM
NaCl)
Tổng số
quả/cây
(quả)
Tổng số hạt
chắc/cây
(hạt)
Khối lượng
100 hạt (g)
Năng suất
cá thể
(g/cây)
Chỉ số mẫn
cảm mặn
(SSI)
0 9,42 68,08 4,21 2,86
50 7,92 44,17 4,13 1,82 1,56 ĐXVN7
100 7,08 35,92 4,08 1,47 1,43
0 9,33 67,33 6,87 4,62
50 8,92 57,92 6,77 3,92 0,43 ĐXHL0
100 8,41 51,58 6,63 3,42 0,56
CV% 6,6 5,9 2,9 5,4
LSDNDxG5% 0,99 5,34 0,26 0,25
ĐXVN7 8,14 49,39 4,14 2,05 TB giống
ĐXHL0 8,89 58,94 6,76 3,99
LSDG5% 0,57 3,09 0,15 0,15
0 9,38 67,71 5,54 3,74
50 8,42 51,05 5,45 2,87
TB nồng
độ gây
mặn 100 7,75 43,75 5,36 2,45
LSDND5% 0,77 4,91 0,06 0,04
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 102
Bảng 6: Chỉ số mẫn cảm mặn của các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của 2 giống đậu xanh
ĐXVN7 và ĐXHL10
Chỉ số mẫn cảm mặn (SSI) của …
Giống
Nồng độ
(mM
NaCl)
Tổng số
quả/cây
(quả)
Tổng số hạt
chắc/cây (hạt)
Khối lượng 100
hạt (g)
Năng suất cá
thể (g/cây)
0 - - - -
50 1,56 1,43 1,17 1,56 ĐXVN7
100 1,43 1,34 0,92 3,28
0 - - - -
50 0,43 0,57 0,89 0,65 ĐXHL10
100 0,56 0,66 1,05 1,75
4. KẾT LUẬN
Trong điều kiện mặn khả năng nảy mầm của 2
giống đậu xanh ĐXVN7 và ĐXHL10 bị ảnh hưởng
đáng kể, biểu hiện là tỷ lệ mọc mầm, chiều dài rễ
mầm, chiều dài thân mầm đều giảm rõ rệt khi tăng
nồng độ gây mặn. Bên cạnh đó các chỉ tiêu sinh
trưởng, các chỉ tiêu sinh lý của 2 giống trong điều
kiện gây mặn như chiều cao thân chính, khối lượng
chất khô, diện tích lá, khả năng hình thành nốt sần,
chỉ số SPAD, hiệu suất huỳnh quang diệp lục đều
suy giảm khi tăng nồng độ gây mặn. Đồng thời trong
điều kiện mặn năng suất và các yếu tố cấu thành
năng suất của 2 giống đậu xanh cũng bị suy giảm rõ
rệt. So sánh giữa 2 giống kết quả cho thấy giống
ĐXHL10 có khả năng nảy mầm, sinh trưởng và cho
năng suất cá thể cao hơn so với giống đậu xanh
ĐXVN7 trong cả điều kiện gây mặn và không gây
mặn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abd-Alla M. H., Vuong T. D., Harper J. E.
(1998). Genotypic differences in nitrogen fixation
response to NaCl stress in intact and grafted
soybean. Crop Sci. 38:72
2. Abdul-Halim, R. K., Salih H. M., Ahmed A. A.
and Abdulrahem A. M. (1988). Growth and
development of maxipax wheat as affected by soil
salinity and moisture levels. Plant and Soil.
112(2):255-259.
3. Ahmed, S. (2009). Effect of soil salinity on the
yield and yield components of mungbean. Pak. J.
Bot. 41:263-268.
4. Arulbalachandran D., Sankar G.K., Subramani
A. (2009). Changes in metabolites and antioxidant
enzyme activity of three Vigna species induced by
NaCl stress. Am. Eur. J. Agron. 2:109–116.
5. Balasubramanian V. and Sinha S. K.
(1976). Effects of salt stress on growth, nodulation
and nitrogen fixation in cowpea and
mungbean. Physiol. Plant. 36:197–200.
6. Dogar, U. F., Naila N., Maira A., Iqra A.,
Maryam I., Khalid H., Khalid N., Ejaz H. S. and Khizar
H. B. (2012). Noxious effects of NaCl salinity on
plants. Botany Research International. 5(1):20-23.
7. Dolatabadian, A., Modarres Sanavy S. A. M.,
Gahanti F. (2011). Effect of salinity on growth, xylem
structure and anatomical characteristics of soybean.
Not. Sci. Biol. 3(1):41-45.
8. Farshid Aref. (2013). Effect of saline irrigation
water on yield and yield components of rice (Oryza
sativa L.). Afr. J. Biotechnol. 12(2):3503-3513.
9. HanumanthaRao, B., Nair, R.M. and Nayyar,
H. (2016). Salinity and high temperature tolerance in
mungbean [Vigna radiata (L.) Wilczek] from a
physiological perspective. Front Plant Sci. 7(957):1-
20.
10. Jimenez M. S., A. M. Gonzalez-Rodriguez, D.
Morales, M. C. Cid, A. R. Socorro, M. Caballero
(1977). Evaluation of chlorophyll fluorescence as a
tool for salt stress detection in roses. 33(2): 291-301.
11. Khajeh-Hosseini, M., Powell A. A. and
Bingham I. J. (2003). The interaction between salinity
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 103
stress and seed vigor during germination of soyabean
seeds. Seed Science and. Technology. 31(3): 715-725.
12. Khan, M. S. A., Karim M. A., Haque M. M.,
Islam M. M., Karim A. J. M. S. and Mian M. A. K.
(2016). Influence of salt and water stress on growth
and yield of soybean genotypes. Pertanika J. Trop.
Agric. Sci. 39 (2):167-180.
13. Mensah, J. K., Akomeah A., Ikhajagbe. and
Ekpekurede E. O. (2006). Effects of salinity on
germination, growth and yield of five groundnut
genotypes. African Journal of Biotechnology.
5(20):1973-1979.
14. Misra N., Murmu B., Singh P., Misra M.
(1996). Growth and Proline accumulation in
mungbean seedlings as affected by sodium
chloride. Biol. Plant. 38 531–536.
15. Misra N., Dwivedi U. N. (2004). Genotypic
difference in salinity tolerance of green gram
cultivars. Plant Sci. 166 1135–1142.
16. Nayer, M and Reza H. (2008). Water stress
induced by polyethylene glycol 6000 and sodium
chloride in two maize cultivars. Pakistan Journal of
Biological Sciences. 11(1):92-97.
17. Nawaz, K., Khalid H., Abdul M., Farah K.,
Shahid A. and Kazim A. (2010). Fatality of salt stress
to plants: Morphological, physiological and
biochemical aspects. review. African Journal of
Biotechnology. 9(34):5475-5480.
18. Nawel, N., Issam S., Rym K. and Mokhtar L.
(2015). Effect of salinity on germination, seedling
growth and acid phosphatase activity in lettuce.
American Journal of Plant Sciences. 6:57-63.
19. Promila K., Kumar S. (2000). Vigna
radiata seed germination under salinity. Biol.
Plant. 43 423–426.
20. Saha P., Chatterjee P., Biswas A. K.
(2010). NaCl pretreatment alleviates salt stress by
enhancement of antioxidant defense and osmolyte
accumulation in mungbean (Vigna radiata L.
Wilczek). Indian J. Exp. Biol. 48593–600.
21. Sehrawat, N., Yadav M., Kangila V. Bhat., Raj
K. Sairam and Pawan K. Jaiwal. (2015). Effect of
salinity stress on mungbean [Vigna radiate (L)
Wilczek] during consecutive summer and spring
seasons. Journal of Agricultural Sciences. 60(1):23-32
22. Shabina Syeed1 and Mehar Fatma (2011).
Salt tolerance in mungbean Vigna radiata [L.]
Genotypes: Role of proline and glycinebetaine.
Journal of Functional and Environmental Botany.
1(2): 139-147.
23. Soussi, M., Ocana A. and Wuch C. (1998).
Effect of salt stress on growth, photosynthesis and
nitrogen fixation in Chickpea (Cicerarietinum L.).
Journal of Experimental Botany, 49(325):1329–1337.
24. Singh, M. and Jain R. (1989). Factors
affecting goatweed (Scoparia dulcis) seed
germination. Weed Science. 37(6):766-770.
25. Taufiq, A., Wijanarko A. and Kristiono A.
(2016). Effect of amelioration on growth and yield of
two groundnut varieties on saline soil. Journal of
Degraded and Mining Lands Management. 3(4):639-
647.
26. Tester, M. and Davenport R. (2003). Na+
tolerance and Na+ transport in higher plants. Annals
of Botany. 91(5):503-527.
27. Vũ Ngọc Thắng, Nguyễn Ngọc Lãm, Trần
Anh Tuấn, Nguyễn Ngọc Quất và Lê Thị Tuyết Châm
(2017). Ảnh hưởng của mặn đến khả năng nảy mầm,
sinh trưởng và năng suất của hai giống lạc L14 và
L25. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ.
53(B):123-133.
28. Vu Ngoc Thang, Bui The Khuynh, Dong Huy
Gioi, Tran Anh Tuan, Le Thị Tuyet Cham and Vu
Dinh Chinh (2018). Effects of osmotic stress induced
by PEG and NaCl on the germination and early
growth of mungbean. Vietnam Journal of
Agricultural Sciences. 1(2):134-141.
29. Wahid A., Hameed M. and Rasul E.
(2004). Salt injury symptom, changes in nutrient and
pigment composition and yield characteristics of
mungbean. Int. J. Agric. Biol. 6:1143–1152.
30. West, D. W. (1986). Stress physiology in
trees – salinity. Acta Hort. 175: 322-329.
31. White, P. J. and Broadley M. R. (2001).
Chloride in soils and its uptake and movement within
the plant: a review. Annals of Botany. 88:967-988.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 104
INFLUENCE OF SALINITY ON GERMINATION, GROWTH, PHYSIOLOGY AND YIELD OF TWO
MUNGBEAN VARIETIES DXVN7 AND DXHL10
Vu Ngoc Thang, Le Thi Tuyet Cham, Tran Anh Tuan,
Nguyen Trong Truong Son, Pham Tuan Anh, Vu Ngoc Lan,
Nguyen Xuan Truong, Nguyen Ngoc Quat Summary
Germination, growth, physiology and yield response of two mungbean varieties (DXVN7 and DXHL10) in
salinity condition were determined in this research. In the germination experiment, mungbean seeds were
soaked with different concentration of NaCl solution (0, 50, 100 and 150 mM). In potted experiment,
mungbean seedlings were grown in soil and 100mM NaCl is added one per week when plants are at the R1
growth stage. Seeds exposed to higher NaCl concentration significantly decreased in germination rate, root
length and shoot length of seedlings. In parallel, seedlings exposed to higher NaCl concentration also
decresead in plant height, leaf area, dry weight, and number of nodules, SPAD values and chlorophyll
fluorescence efficiency. These caused a remarkable decrease in yield components and yield. DXVN7 had
significantly lower germination rate, growth and yield than DXHL10.
Keywords: Mungbean, salinity, growth, physiology, yield.
Người phản biện: GS.VS.TSKH. Trần Đình Long
Ngày nhận bài: 9/7/2019
Ngày thông qua phản biện: 9/8/2019
Ngày duyệt đăng: 16/8/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 105
ĐÁNH GIÁ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC DÒNG BỐ MẸ TRONG
SẢN XUẤT HẠT LAI F1, NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG
CỦA CON LAI PHỤC VỤ CHO VIỆC CHỌN TẠO TỔ HỢP
LÚA LAI MỚI Nguyễn Thị Ngọc Thúy1, Nguyễn Văn Mười1, Phạm Thị Ngọc Yến1,
Vũ Văn Quang1, Lê Văn Sơn1, Vũ Thị Thu Hiền2 và Nguyễn Thị Trâm1
TÓM TẮT Đánh giá đặc điểm của các dòng bố mẹ lúa lai làm cơ sở cho việc xây dựng qui trình sản xuất hạt lai F1.
Phương pháp bố trí thí nghiệm theo kiểu sản xuất hạt lai F1, tỷ lệ hàng bố mẹ là 2 bố: 14 mẹ. Trong 12 tổ hợp
lúa lai mới được đánh giá có 6 tổ hợp lúa lai ba dòng, 6 tổ hợp lúa lai hai dòng. Các tổ hợp lúa lai ba dòng được
lai tạo từ dòng mẹ 14A, là dòng bất dục đực tế bào chất (CMS), có gen kiểm soát tính trạng trỗ thoát (eui),
nhạy cảm với GA3. Trong 6 tổ hợp lúa lai hai dòng có 3 tổ hợp có mẹ là dòng TGMS mới (T6S). Dòng T6S có
gen qui định mùi thơm. Khoảng cách gieo cấy bố/mẹ từ 1 đến 20 ngày, các dòng mẹ có khả năng nhận phấn
ngoài tốt, tỷ lệ đậu hạt từ 51,2 đến 64,2%, số lượng hạt trên bông nhiều. Các dòng bố có khả năng phục hồi bất
dục và cho ưu thế lai cao. Năng suất sản xuất hạt lai F1 đạt từ 3,3 đến 3,6 tấn/ha. So sánh 12 tổ hợp lai mới với
2 giống đối chứng nhằm tuyển chọn tổ hợp lai mới có triển vọng. Kết quả đã tuyển chọn được 4 tổ hợp lai có
triển vọng, các tổ hợp lai đó là: 14A/R20 (lúa lai ba dòng), T1S-96/R6BB3, T6S/R6BB2 và T6S/R6 (lúa lai hai
dòng). Các tổ hợp lai này có thời gian sinh trưởng ngắn, phù hợp với trà lúa xuân muộn ở các tỉnh phía Bắc,
chiều cao cây thuộc dạng bán lùn, năng suất cao hơn đối chứng CT16 và TH3-3 từ 6,9 đến 12,2%. Các tổ hợp
lai này có chất lượng gạo tốt, chất lượng cơm xếp loại trung bình đến khá, trong đó có 2 tổ hợp có mẹ là T6S
cho chất lượng cơm khá, cơm có mùi thơm. Đánh giá ưu thế lai chuẩn trên tính trạng số hạt trên bông, năng
suất thực thu của con lai có ưu thế lai vượt trội so với giống đối chứng.
Từ khóa: Khoảng cách bố mẹ, lúa lai, sản xuất hạt lai, ưu thế lai.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Việt Nam bắt đầu nghiên cứu lúa lai từ năm 1986
với nguồn vật liệu chủ yếu nhập từ Viện Nghiên cứu
lúa Quốc tế. Từ năm 2004 đến tháng 10/2018, Bộ
Nông nghiệp và PTNT đã công nhận chính thức 94
giống lúa lai để phát triển sản xuất, trong đó có 31
giống được chọn tạo trong nước chiếm 32,98% trong
tổng số lúa lai được công nhận (Cục Trồng trọt,
2018). Đặc điểm nổi bật của các giống lúa lai chọn tạo
trong nước là có thời gian sinh trưởng ngắn, năng
suất cao, phù hợp cho trà lúa mùa sớm hoặc hè thu,
xuân muộn như TH3-3, VL20, VL24, TH3-4, TH3-5,
CT16, HYT100, LC212, LC270 (Nguyễn Thị Trâm,
2016). Tuy nhiên, việc nghiên cứu chọn tạo các dòng
bất dục trong chọn tạo giống lúa lai ở Việt Nam còn
hạn chế. Các dòng bất dục có nguồn gốc nhập nội
khó sản xuất F1 ở Việt Nam, khả năng nhận phấn
ngoài thấp, năng suất sản xuất hạt lai F1 không cao.
Nhóm nghiên cứu lúa lai của Viện Nghiên cứu và
Phát triển cây trồng đã chọn tạo thành công các dòng
1 Viện Nghiên cứu và Phát triển cây trồng-Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2 Khoa Nông học-Học viện Nông nghiệp Việt Nam Email: [email protected]
bất dục đực như T1S-96 (mẹ của các tổ hợp TH3-3,
TH3-4, TH3-5, TH3-7), T7S (mẹ của TH7-2, TH8-3),
103S (mẹ của Việt lai 20, Việt lai 24), E15S (mẹ của
HQ19, HQ20) và T6S (mẹ của TH6-6). Các dòng mẹ
trên là dòng bất dục chức năng di truyền nhân mẫn
cảm nhiệt độ-TGMS. Dòng 14A là mẹ của tổ hợp
MV2. Dòng mẹ 14A là dòng bất dục đực tế bào chất-
CMS (Nguyễn Thị Trâm, 2016; Trần Văn Quang và
cs., 2018; Nguyễn Văn Mười và cs., 2015; Nguyễn
Trọng Tú và cs., 2018). Trong các dòng TGMS có
dòng T6S mang gen qui định mùi thơm (frg). Dòng
14A mang gen kiểm soát tính trạng trỗ thoát (eui),
nhậy cảm với GA3 và có khả năng nhận phấn ngoài
tốt. Song song với việc chọn tạo các dòng mẹ lúa lai,
nhóm nghiên cứu cũng chọn tạo các dòng phục hồi
cho ưu thế lai cao, mang gen kháng bệnh bạc lá như
R6BB2, R6BB3, R15BB5 và HCBB3. Để xác định thời
vụ gieo trồng, năng suất sản xuất hạt lai F1, năng
suất và chất lượng các tổ hợp lai mới, đã tiến hành
nghiên cứu và đánh giá đặc điểm của các dòng bố mẹ
trong sản xuất hạt lai F1 ở vụ mùa 2018, so sánh các
tổ hợp lai mới trong vụ xuân 2019.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 106
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- 3 dòng bất dục đực: + Dòng 14A bất dục đực tế
bào chất mang gen lặn kiểm soát tính trỗ thoát
(elongated uppermost internode(eui)), sử dụng tiết
kiệm GA3; + T6S dòng bất dục đực gen nhân mẫn
cảm nhiệt độ mang gen kiểm soát mùi thơm (fgr);+
T1S-96 dòng bất dục đực gen nhân mẫn cảm nhiệt độ.
- 8 dòng phục hồi phấn. Các dòng bố mẹ đều do
Viện Nghiên cứu và PTCT chọn tạo.
- 12 tổ hợp lai từ các dòng bố mẹ trên và 2 đối
chứng: CT16 (ba dòng), TH3-3 (hai dòng).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thí nghiệm 1: Đánh giá đặc điểm nông sinh
học, khả năng nhận phấn ngoài, năng suất hạt lai F1
của các dòng bố mẹ trong vụ mùa 2018. Thí nghiệm
bố trí theo kiểu sản xuất hạt lai, không nhắc lại.
Chiều rộng băng mẹ 195cm (cấy 14 hàng, hàng cách
hàng 15cm, cây cách cây 15cm), chiều rộng băng bố
80cm (cấy 2 hàng bố, hàng cách hàng 20cm, cây
cách cây 20cm, hàng bố cách hàng mẹ 30cm, đường
công tác 40cm).
- Thí nghiệm 2: Đánh giá đặc điểm nông sinh
học, năng suất, chất lượng, ưu thế lai thực, ưu thế lai
chuẩncủa con lai F1 thương phẩm trong vụ xuân
2019. Thí nghiệm bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn
toàn, 3 lần nhắc lại (Virmani et al., 2003). Diện tích ô
10m2, mật độ cấy 35 khóm/m2, cấy 1 dảnh/khóm.
Dòng bố, mẹ bố trí tuần tự theo phương pháp tập
đoàn, không nhắc lại, diện tích ô 5m2/dòng, cấy 1
dảnh, mật độ cấy là 45 khóm/m2.
- Địa điểm bố trí các thí nghiệm tại Viện Nghiên
cứu và Phát triển cây trồng - Thị trấn Trâu Quỳ,
huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội.
- Đánh giá tính trạng nông học, các yếu tố cấu
thành năng suất, năng suất theo Standard Evaluation
System for rice-SES (IRRI, 2002).
- Phân tích chất lượng xay xát (gạo lật, gạo xát,
gạo nguyên, kích thước hạt gạo) theo TCVN 1643-
1992, Ủy ban Khoa học Nhà nước ban hành 1992.
- Phân tích tỷ lệ trắng trong, trắng bạc và độ bạc
bụng theo TCVN 8372: 2010, theo Bộ Khoa học và
Công nghệ công bố 2010.
- Đánh giá chất lượng cảm quan cơm theo:
TCVN 8373-2010 do Bộ Khoa học và Công nghệ
công bố năm 2010.
- Đánh giá ưu thế chuẩn theo Yuan L. P. et al., (2003)
+ Công thức tính ưu thế lai chuẩn:
Hs%=
Trong đó: F1 là giá trị tính trạng của con lai F1
S là giá trị của tính trạng tương ứng của giống
đối chứng.
- Phương pháp xử lý số liệu theo chương trình
IRISTAR 5.0 và Excel.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đánh giá đặc điểm nông sinh học, đặc điểm
tính dục và năng suất hạt lai F1 của các dòng bố mẹ
Bảng 1. Một số đặc điểm nông sinh học, đặc điểm hạt phấn và mùi thơm của các dòng bố mẹ ở vụ mùa 2018
Bố,
mẹ Tên dòng
TG từ
gieo
đến
trỗ
(ngày)
Số
lá/thân
chính
Chiều
dài lá
đòng
(cm)
Chiều
rộng lá
đòng
(cm)
Chiều
dài cổ
bông
(cm)
Chiều
dài
bông
(cm)
Đặc điểm
hạt phấn
Điểm
thơm
nội
nhũ
14A 70 14 30,4 1,8 -2,1 22,4 BD ít phấn 0
T1S-96 84 15 34,2 2,2 -3,4 25,6 BD không phấn 0 Mẹ
T6S 67 14 31,6 2,3 -5,7 25,9 BD ít phấn 2
R26 69 14 35,7 2,0 4,6 27,2 Hữu dục > 92% 0
R8 69 15 30,6 2,1 3,7 24,6 Hữu dục > 95% 0
R20 70 15 39,8 2,4 5,2 26,8 Hữu dục > 96% 0
R15BB5 70 14 34,2 1,9 3,5 25,3 Hữu dục > 90% 0
R6 82 16 37,3 2,3 5,3 27,2 Hữu dục > 94% 2
R6BB2 87 16 32,1 1,8 2,6 26,9 Hữu dục > 93% 2
R6BB3 87 16 34,3 1,7 3,2 27,5 Hữu dục > 95% 2
Bố
HCBB3 70 16 33,8 1,8 2,9 25,8 Hữu dục > 94% 2
Ghi chú: TGST: Thời gian sinh trưởng; mùi thơm nội nhũ được đánh giá trên mẫu hạt trước khi gieo.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 107
Thời gian từ gieo đến trỗ của các dòng mẹ từ 67
đến 84 ngày, dòng bố từ 69 đến 87 ngày. Các dòng
14A, T6S có kiểu bất dục ít hạt phấn, dòng T1S-96 có
kiểu bất dục không hạt phấn trong điều kiện vụ mùa.
Các dòng phục hồi phấn có hạt phấn hữu dục, to,
tròn, mẩy, chuyển màu xanh đen khi nhuộm trong I-
KI1%. Tỷ lệ hạt phấn hữu dục của các dòng bố đạt
trên 90%. Dòng mẹ T6S, dòng bố R6, R6BB2, R6BB3
và HCBB3 có mùi thơm nội nhũ điểm 2, các dòng bố
mẹ còn lại không thơm (bảng 1).
Bảng 2. Thời gian chênh lệch từ gieo đến trỗ giữa bố và mẹ, tỷ lệ hoa mẹ/bố và năng suất hạt lai F1
vụ mùa 2018
Tổ hợp Dòng
bố/mẹ
Chênh lệch
TG. từ gieo
đến trỗ
(bố-mẹ;
ngày)
Số
bông/
mét dài
băng bố
và mẹ(1)
Số
hoa/
bông
Tỉ lệ
hoa
mẹ/
hoa bố
(lần)
Tỷ lệ
đậu
hạt
(%)
KL.
1000
hạt
(g)
NSTT
hạt F1
(tấn/ha)
14A/R 26 14A -1 565,5 169,6 16,1 62,7 18,8 3,4
R 26 158,0 183,6 26,4
14A/R8 14A -1 556,8 164,7 15,1 62,7 18,8 3,3
R8 162,0 182,7 26,9
14A/R20 14A +2 574,2 167,2 16,5 63,2 18,8 3,6
R20 168,0 169,3 25,3
14A/R15BB5 14A -1 548,1 165,8 14,6 63,7 18,8 3,4
R15BB5 148,0 205,6 22,6
14A/R6BB3 14A +12 556,8 169,3 15,4 61,2 18,8 3,5
R6BB3 163,0 183,5 25,4
14A/HCBB3 14A +12 582,9 170,7 17,0 62,8 18,8 3,4
HCBB3 159,0 179,6 25,9
T1S-96/R6BB2 T1S-96 +3 504,6 172,8 13,4 60,1 25,1 3,5
R6BB2 172,0 184,1 25,2
T1S-96/ R6BB3 T1S-96 +3 513,3 169,3 14,5 64,2 25,1 3,4
R6BB3 168,0 174,2 25,4
T1S-96/ HCBB3 T1S-96 +3 530,7 171,5 14,7 62,3 25,1 3,6
HCBB3 166,0 181,6 25,9
T6S/R6 T6S +15 548,1 172,3 15,2 53,6 24,3 3,5
R6 172,0 175,7 25,3
T6S/R6BB2 T6S +20 539,4 169,8 14,6 51,2 24,3 3,4
R6BB2 169,0 180,9 25,2
T6S/R6BB3 T6S +20 565,5 169,7 15,0 52,9 24,3 3,5
R6BB3 171,0 182,4 25,4
Ghi chú: - TG. Thời gian; KL: Khối lượng; NSTT: Năng suất thực thu; (1) Chiều rộng băng bố là 0,8m,
tương ứng diện tích 1 mét dài băng bố là 0,8m2; chiều rộng băng mẹ là 1,95m, tương ứng diện tích 1 mét dài
băng mẹ là 1,95m2.
Xác định khoảng cách gieo cấy để bố mẹ trỗ
bông trùng khớp là khâu kỹ thuật quan trọng trong
sản xuất hạt lai. Thực tế cho thấy tổ hợp nào mà bố
mẹ có thời gian từ gieo đến trỗ càng gần nhau thì
càng dễ bố trí cho bố mẹ trỗ bông, nở hoa trùng
khớp. Số liệu bảng 2 cho thấy: 4 tổ hợp mẹ là 14A và
3 tổ hợp mẹ là T1S-96 có bố mẹ chênh lệch nhau 1-3
ngày nên dễ bố trí sản xuất hạt lai; 5 tổ hợp, trong đó
2 tổ hợp mẹ 14A và 3 tổ hợp mẹ là T6S có bố mẹ
chênh lệch nhau dài từ 12-20 ngày thì bố trí gieo cấy
để bố mẹ trỗ trùng khớp khó khăn hơn, có thể tìm
phương thức gieo mạ bố mẹ khác nhau để khắc phục
phần nào nhược điểm này. Hai dòng bất dục đực mới
chọn tạo (14A và T6S) có khả năng nhận phấn ngoài
cao, đạt từ 51,2 đến 64,2%. Năng suất sản xuất hạt lai
F1 đạt từ 3,3 đến 3,6 tấn/ha, tương đương với các tổ
hợp lai có dòng mẹ là T1S-96 (dòng mẹ có khả năng
nhận phấn ngoài rất tốt, sản xuất hạt lai dễ và cho
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 108
năng suất ổn định). Đánh giá đặc điểm sinh trưởng,
phát triển, đặc điểm hạt phấn đã xác định được
khoảng cách gieo bố mẹ và năng suất sản xuất hạt
lai, làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo phục
vụ cho hoàn thiện qui trình sản xuất hạt lai F1 các tổ
hợp lai có triển vọng. Ngoài ra, đã tiến hành thu hạt
lai F1, gieo cấy các tổ hợp mới để đánh giá đặc điểm
nông sinh học, năng suất, chất lượng của chúng,
đồng thời cũng đánh giá ưu thế lai chuẩn các tổ hợp
lai so với đối chứng. Thí nghiệm được bố trí trong vụ
xuân 2019.
3.2. Đánh giá đặc điểm nông sinh học, năng
suất, chất lượng và ưu thế lai của các tổ hợp lúa lai
mới.
Vụ xuân 2019, thời tiết có những diễn biến bất
thường, nền nhiệt độ ở đầu vụ cao hơn 1-20C so với
cùng thời kỳ năm 2018. Trong tháng ba có 3 đợt
không khí lạnh kết hợp với mưa phùn. Cuối tháng tư
có mưa lớn, đầu tháng năm có gió mùa Đông Bắc, ở
giai đoạn này lúa đang trỗ bông, phơi màu. Đánh giá
chung, vụ xuân 2019 thời gian sinh trưởng của các
giống lúa rút ngắn từ 5-10 ngày so với vụ xuân 2018
(Sở Nông nghiệp và PTNT Hà Nội, 2019). Các tổ hợp
lai trong thí nghiệm có thời gian sinh trưởng từ 120
đến 127 ngày. Các tổ hợp lúa lai ba dòng có thời gian
sinh trưởng ngắn hơn hoặc tương đương với giống
đối chứng CT16. Các tổ hợp lúa lai hai dòng có thời
gian sinh trưởng tương đương với giống đối chứng
TH3-3, chỉ có tổ hợp T6S/R6BB2 có thời gian sinh
trưởng dài hơn TH3-3 là 6 ngày. Nhìn chung các tổ
hợp lai mới có thời gian sinh trưởng thuộc nhóm lúa
ngắn ngày, phù hợp với vụ lúa xuân muộn ở các tỉnh
phía Bắc. Chiều cao cây của các tổ hợp lai thuộc loại
bán lùn, từ 97,1 đến 106,4cm. Chiều dài lá đòng trung
bình, bản lá hẹp hơn hoặc tương đương với giống đối
chứng TH3-3, hẹp hơn so với giống đối chứng CT16.
Bông dài, trỗ thoát, số lá trên thân chính đạt 14-15 lá
(bảng 3).
Bảng 3. Một số đặc điểm nông sinh học của các tổ hợp lai vụ xuân 2019
Chiều cao cây
(cm)
Chiều dài lá đòng
(cm)
Chiều rộng lá đòng (cm)
Chiều dài bông (cm)
Chiều dài cổ bông (cm)
Tổ hợp
Thời gian sinh trưởng (ngày)
Xtb±Sx Xtb±Sx Xtb±Sx Xtb±Sx Xtb±Sx
Số lá/thân chính
14A/R26 124 99,2±4,6 31,7±2,8 1,8±0,2 22,9±4,6 3,2±1,1 15,0 14A/R8 126 100,9±3,2 31,8±3,2 1,8±0,1 22,6±3,2 3,6±1,3 15,0 14A/R20 121 103,7±5,1 32,6±2,5 2,0±0,3 25,5±3,8 5,4±1,2 15,0 14A/R15BB5 127 102,3±4,9 36,3±2,7 1,9±0,2 23,3±4,5 4,6±1,5 15,0 14A/R6BB3 122 98,5±3,8 32,6±3,1 1,9±0,2 22,4±3,9 4,8±1,1 15,0 14A/HCBB3 127 98,6±4,2 31,3±2,6 1,6±0,1 24,0±4,1 3,3±1,5 15,0 CT16 (đ/c 1) 126 100,5±5,6 35,2±2,9 2,2±0,2 28,2±3,2 4,4±1,5 15,0 T1S-96/R6BB2 121 97,8±4,7 27,7±3,0 1,5±0,1 21,4±3,7 2,8±1,2 14,0 T1S-96/R6BB3 121 98,6±4,0 29,5±2,5 1,6±0,1 23,0±3,4 2,0±1,1 14,0 T1S-96/HCBB3 119 97,1±5,2 27,8±2,7 1,8±0,2 21,3±4,5 2,2±1,3 14,0 T6S/R6BB2 126 103,2±4,9 31,9±2,2 1,6±0,1 23,7±3,6 2,4±1,2 15,0 T6S/R6BB3 123 101,8±5,1 30,2±2,6 1,5±0,2 22,8±3,8 2,4±1,5 15,0 T6S/R6 124 100,2±4,6 29,5±3,2 1,9±0,1 24,6±4,2 4,2±1,6 15,0 TH3-3 (đ/c2) 120 106,4±4,2 37,1±2,4 1,8±0,1 24,3±3,9 3,1±1,4 15,0
Bảng 4. Các yếu tố cấu thành năng suất, năng suất của các tổ hợp lai trong vụ xuân 2019
Tổ hợp Số
bông/m2
Số
hạt/bông
Tỷ lệ lép
(%)
Khối lượng
1000 hạt
(gram)
Năng suất
lý thuyết
(tấn/ha)
Năng suất
thực thu
(tấn/ha)
14A/R 26 252,6 170,6 9,1 24,3 9,5 7,4
14A/R8 249,3 183,5 10,5 22,7 9,3 7,2
14A/R20 265,9 163,7 12,6 27,3 10,4 8,3
14A/R15BB5 258,2 178,7 13,8 23,8 9,5 7,2
14A/R6BB3 251,9 165,8 12,4 24,7 9,0 7,1
14A/HCBB3 260,7 164,3 15,1 26,4 9,6 7,3
CT16 (đ/c 1) 255,5 164,4 9,1 24,6 9,4 7,4
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 109
CV (%) 6,5
LSD0,05 (tấn/ha) 0,85
T1S-96/R6BB2 265,8 160,6 12,1 23,5 8,8 6,7
T1S-96/R6BB3 269,5 161,1 7,8 24,8 9,9 7,7*
T1S-96/HCBB3 276,5 162,3 15,9 24,2 9,1 7,2
T6S/R6BB2 259,7 179,1 12,9 23,4 9,5 7,9*
T6S/R6BB3 256,2 173,7 13,1 24,4 9,4 7,5
T6S/R6 277,6 178,6 14,8 24,1 10,2 7,8*
TH3-3 (đ/c2) 248,5 158,4 6,9 25,3 9,3 7,2
LSD0,05(tấn/ha) 0,41
CV(%) 4,5
Các tổ hợp lai có khả năng đẻ nhánh khỏe, với
mật độ cấy là 35 khóm/m2, số nhánh hữu hiệu đạt từ
7,1 đến 7,9 bông/khóm, cho mật độ bông đạt 248,5
đến 277,5 bông/m2. Số hạt trên bông đạt từ 158,4 đến
183,5 hạt. Năng suất thực thu của các tổ hợp lai đạt
từ 6,7 đến 8,3 tấn/ha. Tổ hợp lúa lai ba dòng
14A/R20 cho năng suất thực thu cao hơn đối chứng
CT16 là 0,9 tấn/ha ở mức tin cậy là 95%, năng suất
vượt so với đối chứng là 12,2%. Có 3/6 tổ hợp lúa lai
hai dòng cho năng suất thực thu cao hơn so với đối
chứng TH3-3 ở mức sai khác có ý nghĩa là 0,95, năng
suất vượt từ 6,9 đến 9,7%. Các tổ hợp lai đó là T1S-
96/R6BB3, T6S/R6BB2 và T6S/R6.
Bảng 5. Một số chỉ tiêu chất lượng gạo của các tổ hợp lai trong vụ xuân 2019
Tỷ số dài/rộng
Tổ hợp
Tỷ lệ gạo
xát
(% thóc)
Tỷ lệ gạo
nguyên
(% gạo)
Tỷ lệ trắng
trong
(% gạo)
Chiều dài
hạt gạo lật
(mm)
Chiều rộng
hạt gạo lật
(mm) Lần Xếp loại
14A/R26 67,5 67,1 46,3 6,7 2,3 2,9 Trung bình
14A/R8 69,1 69,8 53,7 6,8 2,2 3,1 Thon dài
14A/R20 70,1 69,1 64,8 6,9 2,4 2,9 Trung bình
14A/R15BB5 68,2 72,9 54,3 6,2 2,1 3,0 Trung bình
14A/R6BB3 71,8 68,5 61,9 7,0 2,2 3,2 Thon dài
14A/HCBB3 69,5 75,8 65,9 7,1 2,3 3,1 Thon dài
CT16 (đ/c 1) 70,9 83,3 47,3 6,4 2,3 2,8 Trung bình
T1S-96/R6BB2 70,8 73,2 71,4 7,1 2,1 3,4 Thon dài
T1S-96/R6BB3 63,9 74,7 73,2 7,1 2,1 3,4 Thon dài
T1S-96/HCBB3 70,8 73,3 70,9 6,9 2,3 3,0 Trung bình
T6S/R6BB2 69,6 72,9 84,2 7,1 2,2 3,2 Thon dài
T6S/R6BB3 68,8 71,1 83,9 7,0 2,2 3,2 Thon dài
T6S/R6 68,6 77,8 85,4 7,1 2,2 3,2 Thon dài
TH3-3 (đ/c2) 69,5 79,4 79,6 7,0 2,2 3,2 Thon dài
Đánh giá một số chỉ tiêu chất lượng gạo của các
tổ hợp lai trong vụ xuân 2019 cho thấy: tỷ lệ gạo xát
của các tổ hợp lai đạt từ 63,9 đến 71,8% thóc, tỷ lệ gạo
nguyên cao, đạt trên 65% gạo, cao nhất là giống đối
chứng CT16, đạt 83,3%. Có 8/12 tổ hợp có tỷ lệ gạo
nguyên đạt trên 70% gạo. Các giống lúa lai hai dòng
có tỷ lệ trắng trong cao hơn các giống lúa lai ba
dòng. Chiều dài hạt gạo lật của các tổ hợp lai thuộc
loại hạt dài. Có 4/12 tổ hợp lai có tỷ số dài trên rộng
thuộc dạng trung bình, còn lại thuộc loại hạt thon.
Bảng 6. Tổng hợp kết quả đánh giá cảm quan cơm bằng phương pháp cho điểm
Đơn vị tính: điểm
Tổ hợp Mùi thơm Độ mềm Độ trắng Độ ngon Tổng điểm Xếp loại
14A/R 26 2,0 2,1 3,5 2,3 9,9 Kém
14A/R8 2,0 2,6 4,0 2,5 11,1 Kém
14A/R20 2,0 2,9 3,9 2,8 11,6 Trung bình
14A/R15BB5 2,0 2,5 3,3 2,3 10,1 Kém
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 110
14A/R6BB3 2,0 3,1 3,5 2,5 11,1 Kém
14A/HCBB3 2,1 3,0 3,9 2,6 11,6 Trung bình
CT16 (đ/c 1) 2,0 2,9 4,0 2,8 11,7 Trung bình
T1S-96/R6BB2 2,0 2,5 3,6 2,1 10,2 Kém
T1S-96/R6BB3 2,0 2,8 3,6 3,4 11,8 Trung bình
T1S-96/HCBB3 2,1 2,9 3,5 2,5 11,0 Kém
T6S/R6BB2 3,3 4,1 4,5 3,5 15,4 Khá
T6S/R6BB3 3,4 4,0 4,4 3,6 15,4 Khá
T6S/R6 3,4 4,1 4,3 3,6 15,4 Khá
TH3-3 (đ/c2) 2,0 2,9 3,5 3,5 11,9 Trung bình
Đánh giá chất lượng cơm của các tổ hợp lai cho
thấy: Các tổ hợp lai có cả bố và mẹ đều mang gen
thơm sẽ cho con lai cơm có mùi thơm. Dòng mẹ 14A
và T1S-96 không mang gen qui định tính thơm, khi
lai với các dòng bố có gen qui định tính thơm
(R6BB2; R6BB3 và HCBB3) cho con lai cơm không
có mùi thơm. Điều này trùng hợp với giả thuyết của
Nguyễn Văn Mười (2017). Độ mềm cơm của con lai
phụ thuộc vào bố mẹ của chúng. Khi lai giữa các
dòng bố mẹ có độ mềm cơm tốt sẽ cho con lai cơm
mềm. Điều này chứng minh ở các tổ hợp lai có dòng
mẹ là T6S lai với các dòng bố R6BB2, R6BB3 và
HCBB3. Con lai được lai giữa dòng bố cơm cứng,
hoặc dòng mẹ cơm cứng cho con lai cơm cứng, thể
hiện ở các con lai có mẹ là 14A, T1S-96. Tổng hợp
điểm đánh giá cơm của các tổ hợp lai có 6/12 tổ hợp
cơm xếp loại kém, 3/12 tổ hợp cơm xếp loại trung
bình, tương đương với cả 2 đối chứng, 3/12 tổ hợp có
cơm xếp loại khá, đều đạt 15,4 điểm. Cao hơn đối
chứng từ 3,5 đến 3,7 điểm.
Tóm lại: Qua kết quả nghiên cứu các dòng bố,
mẹ và con lai thương phẩm đã tuyển chọn được 4 tổ
hợp lúa lai mới có triển vọng. Các tổ hợp lúa lai đó là
14A/R20; T1S-96/R6BB3; T6S/R6BB2 và T6S/R6.
Hai tổ hợp (14A/R20, T1S-96) có khoảng cách gieo
cấy dòng bố mẹ ngắn, từ 1-3 ngày. Hai tổ hợp
(T6S/R6, T6S/R6BB2) có khoảng cách gieo cấy bố
mẹ dài, từ 15 đến 20 ngày. Dòng mẹ 14A, T1S-96 và
T6S có khả năng nhận phấn ngoài tốt, tỷ lệ đậu hạt
đạt từ 51,2 đến 64,2%, bất dục tốt trong điều kiện vụ
mùa tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Các tổ hợp lúa
lai này có thời gian sinh trưởng ngắn, phù hợp gieo
cấy ở vụ xuân muộn của các tỉnh phía Bắc. Chiều cao
cây thuộc dạng bán lùn, đẻ khỏe, lá đòng thuộc loại
trung bình, hẹp. Năng suất cao (từ 7,7 đến 8,3
tấn/ha), cao hơn đối chứng CT16 và TH3-3 từ 6,9-
12,2%. Chất lượng gạo tốt, cơm thuộc loại mềm,
ngon, xếp loại cơm từ trung bình đến khá.
Bảng 7. Đánh giá ưu thế lai chuẩn giữa các tổ hợp lai mới và giống đối chứng trong vụ xuân 2019
TGST Số bông/m2 Số hạt/bông NSTT
Tổ hợp Giá trị
(ngày) Hs(%) Giá trị Hs(%) Giá trị Hs(%)
Giá trị
(tấn/ha) Hs(%)
14A/R 26 124 -1,6 252,6 -1,1 170,6 3,8 7,4 0
14A/R8 126 0,0 249,3 -2,4 183,5 11,6 7,2 -2,7
14A/R20 121 -4,0 265,9 4,1 163,7 -0,4 8,3 12,2
14A/R15BB5 127 0,8 258,2 1,1 178,7 8,7 7,2 -2,7
14A/R6BB3 122 -3,2 251,9 -1,4 165,8 0,9 7,1 -4,1
14A/HCBB3 127 0,8 260,7 2,0 164,3 -0,1 7,3 -1,4
CT16 (đ/c 1) 126 0 255,5 0 164,4 0 7,4 0
T1S-96/R6BB2 121 0,8 265,8 7,0 160,6 1,4 6,7 -6,9
T1S-96/R6BB3 121 0,8 269,5 8,5 161,1 1,7 7,7 6,9
T1S-96/HCBB3 119 -0,8 276,5 11,3 162,3 2,5 7,2 0,0
T6S/R6BB2 126 5,0 259,7 4,5 179,1 13,1 7,9 9,7
T6S/R6BB3 123 2,5 256,2 3,1 173,7 9,7 7,5 4,2
T6S/R6 124 3,3 277,6 11,7 178,6 12,8 7,8 8,3
TH3-3 (đ/c2) 120 0 248,5 0 158,4 0 7,2 0
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 111
Đánh giá ưu thế lai chuẩn của các tổ hợp lai mới
so với giống đối chứng cho thấy: Có 4/12 tổ hợp có
ưu thế lai chuẩn về thời gian sinh trưởng ngắn hơn so
với đối chứng, chỉ số Hs mang giá trị âm. 3/12 tổ hợp
lúa lai ba dòng có ưu thế lai chuẩn về số bông trên
mét vuông thấp hơn so với giống đối chứng CT16,
giá trị Hs từ âm 4,0 đến âm 0,8%. Có 2/12 tổ hợp lúa
lai ba dòng có ưu thế lai chuẩn về số hạt trên bông
thấp hơn so với đối chứng CT16. Về năng suất thực
thu có 5/12 tổ hợp cho ưu thế lai chuẩn cao hơn
giống đối chứng từ 4,2 đến 12,2%. Tuy nhiên, khi
đánh giá đặc điểm nông sinh học, năng suất, chất
lượng của các tổ hợp lai đã xác định được 4 tổ hợp lai
cho năng suất cao hơn giống đối chứng ở mức có ý
nghĩa 0,95, chất lượng gạo tốt, chất lượng cơm xếp
loại từ trung bình đến khá. Các tổ hợp đó là 14A/R20
(lúa lai ba dòng), T1S-96/R6BB3, T6S/R6BB2 và
T6S/R6 (lúa lai hai dòng). Các tổ hợp này cần tiếp
tục nghiên cứu hoàn thiện qui trình sản xuất hạt lai
F1, so sánh năng suất, chất lượng và khả năng chống
chịu sâu bệnh hại, điều kiện ngoại cảnh trong điều
kiện vụ mùa 2019 để mở rộng diện tích khảo nghiệm
sản xuất ở các vùng sinh thái phía Bắc.
4. KẾT LUẬN
Trong sản xuất hạt lai F1, đã xác định được
khoảng cách gieo cấy bố mẹ để trỗ bông trùng khớp,
các dòng mẹ có khả năng nhận phấn ngoài tốt, kiểu
bất dục từ không hạt phấn đến ít hạt phấn. Năng suất
sản xuất hạt lai cao, đạt từ 3,3 đến 3,6 tấn/ha. Dòng
mẹ 14A là dòng bất dục đực tế bào chất (CMS) có
khả năng nhận phấn ngoài tốt, dễ sản xuất hạt lai,
nhậy cảm GA3 tương đương với dòng mẹ T1S-96.
Các tổ hợp lai mới có thời gian sinh trưởng ngắn,
phù hợp với trà lúa xuân muộn ở các tỉnh phía Bắc.
Chiều cao cây của các tổ hợp lai thuộc loại bán lùn,
đẻ khỏe, lá đòng dài trung bình, bản lá hẹp, bông to
dài và nhiều hạt.
Đã tuyển chọn được 4 tổ hợp lai mới có triển
vọng, năng suất cao hơn so với đối chứng từ 6,9 đến
12,2%, chất lượng gạo tốt, chất lượng cơm xếp loại
trung bình đến khá. Hai tổ hợp có chất lượng cơm
xếp loại khá, điểm đạt 15,4 điểm, cơm có mùi thơm.
Đánh giá ưu thế lai thực, con lai có ưu thế lai
thực từ các dòng bố trên tính trạng số hạt/bông và
năng suất thực thu, khối lượng 1000 hạt không có ưu
thế lai thực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Cục Trồng trọt (2018). Danh mục các giống được công nhận tại Việt Nam. Báo cáo của Cục
Trồng trọt - Bộ Nông nghiệp và PTNT, tháng
10/2018.
2. Internation Rice Research Institute (2002).
Standard Evaluation System for rice. IRRI,
November, 2002.
3. Nguyễn Văn Mười, Phạm Thị Ngọc Yến, Trần
Văn Quang và Nguyễn Thị Trâm (2015). Kết quả
chọn dòng bất dục đực di truyền nhân mẫn cảm
nhiệt độ (TGMS) và có mùi thơm. Tạp chí Khoa học
và Phát triển, tập 13, số 8-2015, trang 1360-1371.
4. Nguyễn Văn Mười, Phạm Thị Ngọc Yến, Trần
Văn Quang và Nguyễn Thị Trâm (2017). Nghiên cứu
gây tạo các dòng bố mẹ thơm ứng dụng cho chọn tạo
giống lúa lai hai dòng chất lượng cao. Nhà xuất bản
Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
5. Nguyễn Thị Trâm (2016). Hiện trạng công
nghệ trong chọn tạo và sản xuất lúa lai tại miền Bắc
và Nam Trung bộ. Báo cáo tham luận tại Hội thảo
tham vấn phương pháp đánh giá năng lực công nghệ
lĩnh vực lúa gạo tại miền Bắc và duyên hải miền
Trung, tháng 3/2016 tại Tây Nguyên.
6. Nguyễn Trọng Tú, Lê Văn Thành B. Phạm
Thị Ngọc Yến, Nguyễn Văn Mười và Nguyễn Thị
Trâm (2018). Chọn tạo dòng bất dục đực tế bào chất
(CMS) mang gen eui để sản xuất giống lúa lai ba
dòng sử dụng tiết kiệm GA3. Kỷ yếu Hội thảo khoa
học lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2013-2018, tháng
9/2018.
7. Sở Nông nghiệp và PTNT TP. Hà Nội (2019).
Báo cáo sơ kết vụ xuân và kế hoạch sản xuất vụ mùa
năm 2019. Tháng 5/2019. Trần Văn Quang (2018).
Báo cáo kết quả sản xuất thử giống lúa lai hai dòng
HQ19. Cục Trồng trọt-Bộ Nông nghiệp và PTNT.
8. Virmani S. S. (2003). Advances in hybrid rice
research and development in the tropics. In: Virmani
S. S., CX Mao., B Hardy., editors. Hybrid rice for
food security, poverty alleviation and environmental
protection. Proceedings of the 4th International
Symposium on hybrid rice, 14-17 May 2002, Hanoi,
Vietnam Los Banos (Philippines): International Rice
Research Institute. pp. 2-20.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 112
EVALUATION ON CHARACTERISTICS OF MALE AND FEMALE LINE IN F1 HYBRID RICE SEED
PRODUCTION WHICH HAVE THE HIGH YIELDS AND QUALITY FOR CREATING NEW VARIETIES
Nguyen Thi Ngoc Thuy, Nguyen Van Muoi, Pham Thi Ngoc Yen,
Vu Van Quang, Le Van Son, Vu Thi Thu Hien, Nguyen Thi Tram
Summary Evaluation of parental lines is the fundamental for construction F1 seed hybrid production. The
experiments were designed similar to F1 seed production, 2 male rows along with 14 female rows. A total of
12 new combinations (6 three-line and 6 two-line) were used. All three-line hybrids used the same female
line, 14A. The 14A is a cytoplasmic male sterility (CMS) line which possesses elongated uppermost
internode (eui) gene that is sensitive to Gibberellic acid (GA3). Three of six two-line combinations used T6S,
a fragrant female line. The distance of sowing date among male and female lines varied from 1-20 days, the
female lines showed good outcrossing rate, grain filling rate varied from 51.2%-64.2% and it possess big
panicle. The male lines show good fertility restoration ability and heterosis. The yield of F1 hybrid seed
production varied from 3.3 to 3.6 tons/hectare. Four combinations were selected: 14A/R20 (three-line),
T1S-96/R6BB3, T6S/R6BB2 and T6S/R6 (two-line) through comparison experiment of 12 hybrids together
with 2 control varieties. These four combinations showed higher yield (over two control varieties CT16 and
TH3-3 6.9% to 12.2%), short growth duration, semi-dwarf that suitable for late spring season of northern
Vietnam. These combinations have good grain quality, cooking quality varies from fair to fair-good. Among
these, two combinations using T6S as female showed fair good cooking quality with aroma. Evaluation of
standard heterosis for grain number per panicle and actual yield of F1 generations exhibited exceed
performance of control varieties.
Keywords: F1 hybrid rice, F1 hybrid rice seed production,head flower time of male and female line,
heterosis.
Người phản biện: TS. Nguyễn Như Hải
Ngày nhận bài: 15/7/2019
Ngày thông qua phản biện: 15/8/2019
Ngày duyệt đăng: 22/8/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 113
KẾT QUẢ CHỌN TẠO VÀ KHẢO NGHIỆM GIỐNG
LÚA LAI BA DÒNG MỚI MV2, CÓ DÒNG MẸ 14A
MANG GEN EUI Lê Văn Thành1, Nguyễn Trọng Tú1, Lê Văn Thành1, Phạm Thị Ngọc Yến1,
Nguyễn Văn Mười1, Vũ Văn Quang1, Vũ Thị Bích Ngọc1 và Nguyễn Thị Trâm1
TÓM TẮT MV2 là giống lúa lai ba dòng do Phòng Công nghệ lúa lai, Viện Nghiên cứu và Phát triển cây trồng, Học viện
Nông nghiệp Việt Nam chọn tạo (sử dụng dòng mẹ 14A mang gen eui), cho năng suất cao, chất lượng khá và
đặc biệt có năng suất hạt lai F1 cao, sử dụng tiết kiệm GA3. Giống MV2 đã khảo nghiệm thành công và được
công nhận sản xuất thử theo Quyết định số 07/QĐ-TT-CLT ngày 09 tháng 01 năm 2019. MV2 là giống cảm
ôn, TGST ngắn (vụ mùa 103 ngày, vụ xuân 129-134 ngày), kiểu hình đẹp, thân cứng, lá đòng đứng, xanh
đậm, nhiều bông, bông to, nhiều hạt, tỷ lệ lép thấp, khối lượng 1000 hạt cao (trên 28g), năng suất thực thu ở
vụ mùa 5,7 tấn/ha, vụ xuân 7,3-7,6 tấn/ha, cao nhất 9,27 tấn/ha (tại Yên Bái, xuân 2018), tương đương và
cao hơn Nhị ưu 838 từ 3-5%. MV2 nhiễm nhẹ bạc lá, khô vằn, rầy nâu trên đồng ruộng, khi lây bệnh bạc lá
nhân tạo, MV2 kháng trung bình (điểm 5) với vi khuẩn Xanthomonas oryzae pv. oryzae. Chất lượng xay xát,
thương trường và dinh dưỡng trung bình, cơm trắng bóng, ngon tương đương với Nhị ưu 838 (đối chứng).
Qui trình kỹ thuật sản xuất hạt giống lúa lai MV2 đã được nghiên cứu, thiết lập và thử nghiệm sản xuất
trong vụ xuân tại Hà Nội và Nam Định, đạt năng suất cao > 3,0 tấn/ha, dòng mẹ 14A mang gen eui nên
lượng GA3 cần phun thấp (90-120g/ha), phun 1 lần, giảm chi phí sản xuất hạt lai nên có thể giảm giá bán hạt
F1 so với Nhị ưu 838.
Từ khóa: Giống cảm ôn, gen eui - kéo dài lóng trên cùng, lúa lai ba dòng, sản xuất hạt lai F1.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Trong sản xuất lúa hiện nay, các giống lúa lai “ba
dòng” luôn chiếm tỷ lệ diện tích lớn hơn lúa lai “hai
dòng” không chỉ ở nước ta mà ở nhiều nước trên thế
giới, kể cả Trung Quốc vì năng suất lúa lai “ba dòng”
nói chung vẫn cao hơn lúa lai “ hai dòng”. Trái lại, năng
suất hạt lai F1 hệ “hai dòng” sản xuất ở nước ta luôn cao
hơn lúa lai hệ “ba dòng”. Nguyên nhân chính làm cho
sản xuất hạt F1 “ba dòng” có năng suất thấp vì các dòng
CMS nhận phấn ngoài kém, thường trỗ nghẹn do liên
kết di truyền giữa gen kiểm soát tính bất dục với gen
kéo dài lóng giáp cổ bông. Liên kết này gây thiếu hụt
giberrelin làm lóng trên cùng không vươn dài khiến
bông lúa bị nghẹn, hoa bất dục không có cơ hội tiếp
xúc với hạt phấn bố để đậu hạt (Yin C., et al., 2007). Để
hỗ trợ trỗ thoát, phải phun GA3 nhưng việc này làm
tăng chi phí sản xuất, giảm chất lượng và thời gian bảo
quản hạt giống, hơn nữa hiệu quả phun GA3 phụ thuộc
vào thời tiết, trình độ kỹ thuật của người sản xuất. Tạo
dòng bất dục theo cách tiếp cận di truyền thay cho sử
dụng GA3 là hướng đi bền vững được nhiều nhà chọn
giống quan tâm. Tại Trung Quốc, gen eui được phát
hiện và đưa vào một số dòng mẹ nhờ lai hữu tính và
1 Viện Nghiên cứu và Phát triển cây trồng, Học viện Nông nghiệp Việt Nam Email: [email protected]
chọn lọc kiểu hình, những dòng CMS mang gen eui
cần rất ít hoặc không cần GA3 thúc đẩy trỗ thoát (Shen
Z. và He Z., 1989; He Z. và Shen Z., 1991). Ở nước ta,
Nông Thị Huệ và cs., (2017) đã sử dụng 2 chỉ thị STS
(SAG011051, sMRF19) và 3 chỉ thị SSR (RM3870,
RM7446, RM3476) để phát hiện gen eui trong một số
dòng A, đã xác định được 6 cặp A/B mang gen eui,
điển hình là cặp 12A/B. Phát triển kết quả này, Nguyễn
Trọng Tú và cs, (2018) đã lai chuyển gen eui từ dòng
12B vào dòng II-32B, sau khi chọn cá thể phân ly qua
nhiều vụ đã xác định được dòng thuần 14B mang gen
eui để lai trở lại với dòng A, tạo ra cặp 14A/B mang gen
eui. Khi lai 14A với các dòng R và đánh giá khả năng
kết hợp (KNKH) nhận thấy dòng 14A có KNKH chung
và KNKH riêng cao với nhiều dòng R (Lê Văn Thành và
cs., 2019). Khảo sát các tổ hợp lai thử, đã xác định tổ
hợp 14A/R20 (đặt tên là MV2) có năng suất lúa lai
thương phẩm và năng suất hạt lai F1 đều cao. Bài báo
này trình bày kết quả chọn tạo và khảo nghiệm giống
lúa lai ba dòng mới MV2 (14A/R20). 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Vật liệu
Dòng bất dục đực 14A và các dòng phục hồi (R)
như R13, R16, R17, R18, R20, R253, R998 và R838.
Giống MV2 được lai giữa dòng mẹ 14A với dòng bố
R20; giống đối chứng (Đ/C) là Nhị ưu 838 (II-
32A/R838).
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 114
2.2 Phương pháp
Bố trí thí nghiệm: (i) Thí nghiệm khảo nghiệm
tác giả, khảo nghiệm Quốc gia, mật độ, phân bón bố
trí theo qui chuẩn khảo nghiệm VCU (QCVN 01 - 55:
2011/BNNPTNT); (ii) Đánh giá đặc điểm nông sinh
học, hình thái, sâu bệnh, tính dục, các yếu tố cấu
thành năng suất và năng suất...theo IRRI, (2002); (iii)
Lai thử, đánh giá F1, tuyển chọn tổ hợp lai theo Yuan
L. P., et al., (2003); (iv) Đánh giá phản ứng của MV2
thương phẩm với bệnh bạc lá do Viện BVTV thực
hiện theo phương pháp lây bệnh nhân tạo và cho
điểm theo thang điểm IRRI, (2014); (v) Khảo nghiệm
DUS, VCU theo Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia
(QCVN 01-65:2011 BNNPTNT và QCVN 01-55:
2011/BNNPTNT), tại Trạm Khảo nghiệm Văn Lâm,
vụ xuân 2017 và xuân 2018; (vi) Đánh giá cảm quan
cơm theo tiêu chuẩn: TCVN 8373-2010;
Xử lý số liệu: Số liệu năng suất được xử lý thống
kê bằng chương trình IRRISTAT 5.0 và Excel trên
máy tính.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Lai tạo, chọn lọc giống MV2
3.1.1 Sơ đồ quá trình lai và chọn lọc giống MV2
Mùa 2014 Lai thử 14A /8 dòng R trong tập đoàn lúa thuần
Xuân 2015 Khảo sát con lai F1, chọn tổ hợp triển vọng (năng suất > Nhị ưu 838)
Mùa 2015 Lai thử lại 3 tổ hợp triển vọng: mẹ là 14A, bố là R13, R20, PK838
Xuân 2016 Thí ngthiệm so sánh 3 tổ hợp lai thử lại, đối chứng là Nhị ưu 838
đặt tên tổ hợp: 14A/R13 là MV1, 14A/R20 là MV2, 14A/R838 là MV3
Mùa 2016 Khảo nghiệm tác giả: So sánh giống, đánh giá sâu bệnh, lây nhiễm nhân tạo
bệnh bạc lá, sản xuất thử hạt F1 để lấy hạt gửi khảo nghiệm quốc gia
Xuân 2017 Gửi khảo nghiệm quốc gia DUS, VCU, chọn lọc duy trì A, B, R
Mùa 2017 Khảo nghiệm VCU, nghiên cứu lập qui trình SX hạt F1
Xuân 2018 Tiếp tục khảo nghiệm DUS, VCU, KN sản xuất, sản xuất thử hạt F1
Mùa 2018 Tiếp tục khảo nghiệm sản xuất, trình diễn
Hình 1. Sơ đồ quá trình lai chọn tạo và khảo nghiệm MV2
3.1.2. Đánh giá đặc điểm của các tổ hợp lai thử
trong vụ xuân 2015
a/ Đặc điểm nông sinh học của các tổ hợp lai ba
dòng mới lai thử
Các tổ hợp lai có TGST ngắn (119-132 ngày), có
14-15 lá/thân chính, lá đòng ngắn, bông dài 19-24cm,
trỗ thoát, chiều cao cây 100-110cm, tương đương với
Nhị ưu 838 (bảng 1).
Bảng 1. Đặc điểm nông sinh học của các tổ hợp lai ba dòng mới, xuân 2015
Tên tổ hợp
TGST (ngày)
Số lá/thân chính
Chiều cao cây (cm)
Chiều dài bông (cm)
Chiều dài cổ bông
(cm)
Chiều dài lá đòng
(cm)
Chiều rộng lá đòng
(cm) 14A/R13 125 14,2 101,5±2,5 20,6±1,8 1,5±1,1 41,0±4,4 2,2±0,1 14A/R16 127 14,5 107,2±3,4 21,8±1,5 2,5±1,3 39,7±6,6 2,0±0,1 14A/R17 130 15,1 110,3±3,3 19,5±1,0 2,5±1,4 38,0±5,8 2,1±0,1 14A/R18 132 14,7 104,0±3,6 22,5±2,1 3,5±1,0 42,5±3,0 2,1±0,2 14A/R20 127 14,6 103,0±2,1 23,7±2,6 1,7±0,9 38,1±6,5 2,1±0,1 14A/R253 130 15,2 107,0±3,4 21,2±2,0 2,5±0,9 37,0±5,0 2,0±0,2 14A/R998 119 14,4 104,2±2,5 22,3±1,8 2,9±1,1 38,1±4,3 2,4±0,1 14A/R838 123 15,1 101,1±3,2 21,5±1,5 6,0±2,2 33,0±4,0 2,0±0,2 Nhị ưu 838
(Đ/C) 128 14,1 97,1±4,2 24,5±2,2 2,6±2,0 36,3±5,2 2,1±0,1
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 115
b/ Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các tổ hợp lai ba dòng mới lai thử
Bảng 2. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các tổ hợp lai mới, xuân 2015
Tên tổ hợp
Số
bông/
khóm
Số hạt/
bông
Tỷ lệ lép
(%)
KL 1000
hạt (g)
NSLT
(tấn/ha)
NSTT
(tấn/ha)
14A/R13 6,7 185,7 23,1 28,6 10,94 8,75
14A/R16 6,6 161,8 17,8 29,7 9,15 7,32
14A/R17 6,3 163,6 24,7 28,3 8,78 7,02
14A/R18 6,0 185,2 23,0 28,4 8,45 6,76
14A/R20 7,1 171,1 20,3 28,2 10,78 8,62
14A/R253 6,2 162,1 20,0 26,3 8,45 6,76
14A/R998 6,7 184,2 26,1 26,5 9,66 7,73
14A/R838 7,3 159,5 20,7 29,9 9,78 7,82
Nhị ưu 838 (Đ/C) 5,7 166,2 16,5 29,7 9,41 7,53
CV (%) 2,1%
LSD0,05 (tấn/ha) 0,25
LSD0,01 (tấn/ha) 0,34
Năng suất thực thu của các tổ hợp lai dao động
từ 6,76-8,75 tấn/ha, có 2 tổ hợp cho năng suất cao
hơn đối chứng ở mức ý nghĩa P=99%, là: 14A/R13
(8,75 tấn/ha) và 14A/R20 (8,62 tấn/ha) và 1 tổ hợp
có năng suất cao hơn Nhị ưu 838 ở mức ý nghĩa
P=95% là 14A/R838 (7,82 tấn/ha). Từ kết quả đánh
giá này, đã lai thử lại 3 tổ hợp cho năng suất cao hơn
Nhị ưu 838 và đặt tên như sau: 14A/R13 là MV1,
14A/R20 là MV2, 14A/R838 là MV3 để tiến hành khảo
nghiệm tác giả.
3.2. Kết quả khảo nghiệm tác giả
Đặc điểm nông sinh học, sâu bệnh, năng suất
của các giống lúa lai ba dòng mới
a) Đặc điểm nông sinh học của các giống lúa lai
ba dòng mới
Bảng 3. Đặc điểm nông sinh học của các giống lúa lai ba dòng mới lai thử lại
Tên giống
TGST (ngày)
Số lá/ thân chính
Chiều cao cây (cm)
Chiều dài lá đòng
(cm)
Chiều rộng lá đòng
(cm)
Chiều dài bông (cm)
Chiều dài cổ bông
(cm) Vụ xuân 2016
MV1 126 14,5 100,5±2,1 41,0±4,4 1,5±1,1 22,6±1,8 2,2±0,1 MV2 129 14,5 102,0±2,0 38,1±6,5 1,7±0,9 23,7±2,6 2,1±0,1 MV3 125 14,7 98,2±2,3 39,7±6,6 2,5±1,3 21,8±1,5 3,2±0,1
Nhị ưu 838 (Đ/C)
130 15,3 99,1±1,2 38,0±5,8 2,5±1,4 22,5±1,0 2,1±0,1
Vụ mùa 2016 MV1 113 14,1 100,4±2,4 39,0±4,3 2,1±0,1 19,7±1,9 1,6±1,1 MV2 115 14,4 102,0±2,3 36,1±6,4 2,0±0,1 22,9±2,4 1,8±0,9 MV3 111 15,0 100,3±3,1 31,0±4,1 1,9±0,2 20,6±1,6 5,8±2,2
Nhị ưu 838 (Đ/C)
116 14,3 100,6±4,4 33,2±5,2 2,1±0,2 23,3±1,8 2,4±1,3
Ba giống lúa lai mới có TGST ngắn hơn Nhị ưu
838 ở vụ xuân và vụ mùa từ 1-5 ngày, MV2 bằng nhị
ưu 838, có 14 - 15 lá/thân chính, bông dài từ 21-
23cm, tương đương với đối chứng, trong đó MV2 có
bông dài nhất (23,7 ± 2,6cm), cổ bông thoát tốt,
chiều cao cây thuộc loại bán lùn (98,2 - 102cm),
tương đương với Nhị ưu 838 (99-100cm) (bảng 3).
b) Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất
của các giống lúa lai mới
Kết quả đánh giá các giống lúa lai mới cho thấy
ở vụ xuân, 3 giống MV1, MV2, MV3 đều cho năng
suất thực thu cao hơn đối chứng Nhị ưu 838 có ý
nghĩa thống kê; ở vụ mùa MV3 có năng suất cùng
loại với đối chứng, MV1 và MV2 năng suất hơn đối
chứng có ý nghĩa thống kê. Như vậy MV1 và MV2
cho năng suất vượt đối chứng trong cả 2 vụ (bảng 4).
Kết quả của thí nghiệm khảo sát các tổ hợp lai
F1 ở vụ xuân 2015 và thí nghiệm so sánh trong năm
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 116
2016 đều xác nhận 3 giống lúa lai trên có kiểu cây
cứng, thân mập, đẻ nhánh khá, bản lá đứng xanh
đậm, năng suất cao trong cả vụ xuân và vụ mùa, chưa
xuất hiện sâu bệnh gây hại đáng kể trong điều kiện
tự nhiên, do đó đã chọn giống MV2 sản xuất thử hạt
lai F1 để khảo nghiệm Quốc gia.
Bảng 4. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống lúa lai mới ở thí nghiệm so sánh giống
Tên giống Số bông/
khóm
Số hạt/
bông
Tỷ lệ lép
(%)
KL 1000 hạt
(gram)
NSLT
(tấn/ha)
NSTT
(tấn/ha)
Vụ xuân 2016
MV1 6,5 185,7 14,7 28,2 9,85 8,45
MV2 6,6 171,1 14,6 28,5 10,87 8,64
MV3 6,7 159,5 12,5 26,5 9,91 8,38
Nhị ưu 838 (Đ/C) 5,8 167,0 9,0 29,1 10,14 8,02
CV (%) 2,2
LSD0,05 (tấn/ha) 0,25
Vụ mùa 2016
MV1 5,6 168,5 18,5 28,2 8,67 6,91
MV2 5,5 160,4 15,3 28,6 8,54 6,83
MV3 5,4 153,8 13,5 26,2 8,10 6,35
Nhị ưu 838 (Đ/C) 5,0 166,0 12,1 28,9 8,43 6,32
CV (%) 2,6
LSD0,05 (tấn/ha) 0,3
3.3. Kết quả khảo nghiệm DUS
Kết quả khảo nghiệm DUS xác nhận giống MV2
khác biệt với tương tự HYT124 và các giống được biết
đến rộng rãi. Số cây khác dạng trên tổng số cây quan
sát trong 2 vụ khảo nghiệm đều không vượt quá số cây
khác dạng tối đa cho phép nên giống đăng ký có tính
đồng nhất. Qua hai vụ khảo nghiệm giống đăng ký
(MV2) có tính đồng nhất nên được xem là có tính
ổn định.
3.4. Kết quả khảo nghiệm VCU trong mạng lưới
khảo nghiệm Quốc gia
3.4.1. Chiều cao cây, TGST và yếu tố cấu thành năng suất của các giống khảo nghiệm
Giống MV2 được khảo nghiệm VCU ba vụ
(xuân 2017, mùa 2017 và xuân 2018) tại TT KKN
G & SPCT Quốc gia. Kết quả khảo nghiệm cho
thấy MV2 có kiểu hình đẹp, cây cao 105-113cm,
TGST từ 129-134 ngày vụ xuân (tương đương với
Nhị ưu 838), 103 ngày ở vụ mùa, ngắn hơn đối
chứng 3 ngày. Số bông hữu hiệu 5-5,6
bông/khóm, nhiều hơn đối chứng ở các vụ trong
năm 2017 và tương đương ở vụ xuân 2018; số hạt từ
157-174 hạt/bông, tỷ lệ lép thấp 7,3-7,6% ở vụ xuân
và 14,4% ở vụ mùa, tương đương và thấp hơn đối
chứng; khối lượng 1000 hạt tương đương Nhị ưu 838
(29-30g) (bảng 5).
Bảng 5. Chiều cao, TGST và yếu tố cấu thành năng suất của các giống khảo nghiệm
Tên giống Chiều cao
cây (cm)
TGST
(ngày)
Số bông
/khóm
Số hạt
/bông
Tỷ lệ lép
(%)
KL 1000
hạt (g)
Xuân 2017
MV2 105 129 5,6 162 7,6 30,2
Nhị ưu 838 (Đ/C) 107 129 5,3 162 5,3 30,4
Mùa 2017
MV2 113 103 5,0 157 14,4 28,7
Nhị ưu 838 (Đ/C) 117 106 5,0 151 16,5 29,4
Xuân 2018
MV2 112 134 5,4 174 7,3 29,4
Nhị ưu 838 (Đ/C) 111 132 5,6 160 6,9 29,5
Nguồn: Báo cáo kết quả Khảo nghiệm vụ xuân 2017, mùa 2017 và vụ xuân 2018 của Trung tâm
KKNG&SPCT Quốc gia.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 117
3.4.2. Đánh giá tình hình sâu bệnh trong các vụ
Trong 2 vụ xuân 2017 và xuân 2018, giống
MV2 và đối chứng hầu như không nhiễm đến nhiễm
rất nhẹ các loại sâu bệnh gây hại (điểm 0-1). Trong
vụ mùa, giống MV2 không nhiễm đến nhiễm nhẹ
bệnh đạo ôn, sâu đục thân (điểm 0-1), nhiễm bệnh
bạc lá trung bình (điểm 3-5), sâu cuốn lá và rầy nâu
điểm 3-5, tương đương với Nhị ưu 838 (bảng 6).
Bảng 6. Mức độ nhiễm sâu bệnh của các giống khảo nghiệm (Điểm)
Tên giống Bệnh
đạo ôn
Bệnh bạc
lá
Bệnh
khô vằn
Sâu đục
thân Sâu cuốn lá
Rầy
nâu
Xuân 2017
MV2 0 1-3 0-1 0-1 0-1 0-1
Nhị ưu 838 (Đ/C) 0 3-5 1-3 0-1 0-1 1-3
Mùa 2017
MV2 0 3-5 1-3 0-1 3-5 3-5
Nhị ưu 838 (Đ/C) 0 3-5 1-3 0-1 3-5 1-3
Xuân 2018
MV2 0-1 0-1 1-3 0-1 0-1 0-1
Nhị ưu 838 (Đ/C) 0-1 0-1 1-3 0-1 0-1 0-1
Nguồn: Trích báo cáo kết quả Khảo nghiệm vụ xuân 2017, mùa 2017 và vụ xuân 2018 của Trung tâm
KKNG, SPCT QG; cho điểm theo thang điểm của IRRI, (2002).
3.4.3. Năng suất thực thu tại các điểm khảo nghiệm
Bảng 7. Năng suất thực thu của MV2 và giống đối chứng ở các điểm khảo nghiệm
Đơn vị tính: tấn/ha
Tên giống Điểm khảo nghiệm
Hòa Bình Yên Bái Hưng
Yên
Thái
Bình Thanh Hoá
Nghệ
An
Trung
bình
Xuân 2017
MV2 6,28 8,03 7,63 7,18 7,55 - 7,33
Nhị ưu 838 (Đ/C) 6,10 7,80 6,94 6,85 7,25 - 7,00
CV% 5,9 4,7 6,5 6,1 5,2 -
LSD 0,05 (tấn/ha) 0,5 0,46 0,75 0,68 0,49 -
Mùa 2017
MV2 5,81 6,03 5,82 4,66 6,39 - 5,74
Nhị ưu 838 (Đ/C) 5,48 5,86 5,49 4,42 6,25 - 5,50
CV% 5,7 4,8 6,8 7,6 6,0 -
LSD 0,05 (tấn/ha) 0,45 0,39 0,52 0,49 0,51 -
Xuân 2018
MV2 7,48 9,27 7,57 6,48 7,73 7,26 7,63
Nhị ưu 838 (Đ/C) 7,17 8,50 6,97 7,30 7,61 7,05 7,435
CV% 6,0 3,5 6,1 7,5 3,7 3,9
LSD 0,05 (tấn/ha) 0,71 0,49 0,68 0,92 0,47 0,52
Nguồn: Trích báo cáo kết quả Khảo nghiệm vụ xuân 2017, mùa 2017 và vụ xuân 2018 của Trung tâm
KKNG, SPCT QG; số liệu được qui đổi tạ/ha sang tấn/ha và có làm tròn sau dấu phảy (,) hai số.
Trong vụ xuân 2017 tại 5 điểm khác nhau, giống
MV2 đạt năng suất trung bình 7,33 tấn/ha, cao hơn
Nhị ưu 838 là 0,33 tấn/ha (vượt 5%). Vụ mùa 2017,
năng suất trung bình của MV2 đạt 5,74 tấn/ha tương
đương Nhị ưu 838 (5,50 tấn/ha) ở tất cả các điểm.
Vụ xuân 2018, năng suất trung bình của MV2 đạt
7,63 tấn/ha cao hơn đối chứng Nhị ưu 838 (7,43
tấn/ha) (vượt 3%), trong đó có điểm Yên Bái cho
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 118
năng suất cao hơn Nhị ưu 838 ở mức có ý nghĩa, 1
điểm (Thái Bình) năng suất thấp hơn Nhị ưu 838 ở
mức có ý nghĩa, còn 4 điểm khác năng suất MV2 cao
tương đương với đối chứng (bảng 7).
3.4.4. Đánh giá chất lượng xay xát và chất lượng cơm
Phân tích chất lượng gạo tại Phòng Kiểm
nghiệm sản phẩm cây trồng, Trung tâm KKNG,
SPCT Quốc gia cho thấy: MV2 có tỷ lệ gạo xay 81-
83%, tỷ lệ gạo xát 61,9-66,35%, tương đương với đối
chứng; tỷ lệ gạo nguyên trung bình 54,16% (xuân
2017) thấp hơn đối chứng; hạt gạo thon dài (6,8mm),
nhiệt hóa hồ trung bình đến cao, tỷ lệ trắng trong
thấp, hàm lượng amylose trung bình: 23,46% (xuân
2017) và 20,6% (xuân 2018) tương đương với Nhị ưu
838 (bảng 8).
Bảng 8. Chất lượng xay xát của của MV2 và giống đối chứng
% so với thóc % so với gạo xát Chất lượng thương phẩm và dinh dưỡng
của hạt gạo
Tên giống Gạo
lật
Gạo
xát
Gạo
nguyên
Trắng
trong
Dài
(mm)
D/R
(lần)
Nhiệt
hóa
hồ
Độ
bền
gel
Độ
trắng
bạc
Hàm
lượng
amylose
(%)
Xuân 2017
MV2 82,91 61,90 54,16 15,20 6,80 2,66 Cao TB Bạc 23,46
Nhị ưu 838
(Đ/C) 81,90 62,82 69,73 21,60 6,13 2,19 TB TB Bạc 22,62
Xuân 2018
MV2 80,68 66,35 17,22 16,34 6,66 2,67 TB Mềm Bạc TB 20,60
Nhị ưu 838
(Đ/C) 79,96 61,17 24,28 26,02 6,03 2,25 TB TB Bạc 21,52
Ghi chú: - Phân tích chất lượng gạo tại Phòng Kiểm nghiệm sản phẩm cây trồng, Trung tâm Khảo kiểm
nghiệm giống, SPCT Quốc gia. - Mẫu gạo vụ xuân 2017 và xuân 2018 thu tại Trạm
khảo nghiệm Văn Lâm, Hưng Yên.
Kết quả đánh giá chất lượng cơm (bảng 9) tại
Phòng Kiểm nghiệm sản phẩm cây trồng, Trung tâm
KKNG, SPCT Quốc gia trong vụ xuân 2017 và xuân
2018 cho thấy cả 4/4 chỉ tiêu chất lượng cơm của
MV2 đều tương đương với đối chứng Nhị ưu 838. Xếp
hạng chất lượng cơm của MV2 và giống đối chứng
đều ở mức trung bình.
Bảng 9. Đánh giá chất lượng cơm của MV2 so với đối chứng (điểm)
Tên giống Mùi Độ
mềm dẻo
Độ
trắng
Vị
ngon
Điểm tổng
hợp
Xếp hạng chất
lượng
Xuân 2017
MV2 2,0 2,7 5,0 2,1 11,8 Trung bình
Nhị ưu 838 (Đ/C) 2,0 2,7 5,0 2,0 11,7 Trung bình
Xuân 2018
MV2 2,0 3,0 5,0 2,0 12,0 Trung bình
Nhị ưu 838 (Đ/C) 2,0 2,9 5,0 2,0 11,9 Trung bình
Ghi chú: Mẫu thóc thu tại Trạm Khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng Văn Lâm; phương pháp
đánh giá cảm quan cơm theo tiêu chuẩn: TCVN 8373-2010.
3.5. Kết quả đánh giá tính kháng bệnh bạc lá bằng
lây nhiễm nhân tạo tại Viện BVTV
Trong vụ mùa 2018, giống MV2 được gửi đến
Viện BVTV để đánh giá bệnh bạc lá do vi khuẩn
(Xanthomonas oryzae pv. oryzae) gây hại bằng lây
nhiễm nhân tạo. Kết quả đánh giá thấy MV2 kháng
trung bình bệnh bạc lá (điểm 5) nguồn bệnh tại Nam
Định (bảng 10).
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 119
Bảng 10. Đánh giá tính kháng bệnh bạc lá nhân tạo tại Viện Bảo vệ Thực vật (vụ mùa 2018)
STT Ký hiệu
dòng/giống Tên dòng/giống
Cấp kháng/nhiễm
(điểm)
Mức độ
kháng/nhiễm
1 VNC10 MV2 5 Kháng TB
2 Đ/C nhiễm IR24 9 Nhiễm cao
3 Đ/C kháng IRBB7 3 Kháng
Ghi chú: Nguồn: Báo cáo kết quả đánh giá lây bệnh bạc lá nhân tạo - Viện Bảo vệ Thực vật, vụ mùa 2018.
3.6 . Nghiên cứu thiết lập qui trình sản xuất hạt lai F1
3.6.1. Nghiên cứu thời vụ gieo dòng bố mẹ MV2
Bảng 11. Ảnh hưởng của ngày gieo đến sinh trưởng phát triển và đặc điểm tính dục của các dòng bố mẹ
(xuân 2016)
Dòng mẹ 14A Dòng bố R20 Gieo
(ngày/
tháng)
Gieo-trỗ
10%
(ngày)
Số lá/
thân
chính
Cao
cây
(cm)
Tỷ lệ
phấn bất
dục (%)
Gieo-trỗ 10%
(ngày)
Số lá/
thân
chính
Cao
cây
(cm)
10/01/2016 102 14,0 75,2 100 115 15,0 90,5
20/01/2016 97 14,0 75,5 100 110 15,2 91,5
30/01/2016 90 14,0 76,1 100 103 15,3 92,8
09/02/2016 85 14,0 76,7 99,8 97 15,5 93,5
19/02/2016 82 14,0 76,9 99,6 94 15,4 94,6
Tại Hà Nội, các dòng bố mẹ gieo ngày 10/1 có
thời gian từ gieo đến trỗ dài nhất (14A là 102 ngày,
R20 là 115 ngày) các thời vụ gieo sau có xu hướng
ngắn dần, ngắn nhất ở thời vụ gieo 19/2 (14A là 82
ngày và R20 là 94 ngày). Sự chênh lệch thời gian từ
gieo đến trỗ của 2 dòng bố mẹ là 12-13 ngày. Chiều
cao cây dòng 14A từ 75,2-76,9cm, của R20 từ 90,5-94,6
cm, dòng R cao hơn A từ 15,3-17,5cm. Ở các thời vụ
muộn 14A xuất hiện một số hạt phấn hữu dục (tỷ lệ
0,2 - 0,4%). Căn cứ vào kết quả này, đề xuất lịch gieo
bố mẹ cho sản xuất hạt lai F1 trong vụ xuân như sau:
Gieo dòng R lần 1 ngày 10/1, sau 5 ngày (15/1) gieo
R lần 2; Khi R1 được 13 ngày thì gieo dòng mẹ 14A,
dự đoán các dòng bố mẹ trỗ từ ngày 2-5 tháng 5 khi
đó thời tiết thuận lợi cho lúa trỗ, phun GA3, thụ phấn
bổ sung, ruộng sản xuất F1 có thể đạt năng suất cao,
chất lượng tốt (bảng 11).
3.6.2. Nghiên cứu liều lượng phun GA3 Bảng 12. Ảnh hưởng của liều lượng GA3 đến đặc điểm nông sinh học của dòng mẹ và năng suất hạt lai F1
(xuân 2016)
Lượng GA3(g/ha), (hòa trong 400 lít nước phun1 lần cho 14A) Chỉ tiêu theo dõi
dòng mẹ 0 30 60 90 120 150
Chiều cao cây (cm) 76,0 82,1 88,5 94,1 108,2 125,3
Dài cổ bông (cm) -3,1 -1,5 2,2 3,4 8,2 12,8
Số bông/khóm 6,0 6,1 6,0 6,2 6,0 5,9
Số hoa/bông 175 183 179 178 175 174
Số hạt chắc/bông 25 120 142 148 102 70
Tỷ lệ đậu hạt (%) 14,2 65,5 79,3 83,1 58,2 40,2
KL. 1000hạt (g) 22,8 22,5 23,0 23,2 23,0 22,2
NSCT (g/cây) 8,4 16,4 19,8 20,1 14,0 9,1
NSTT (tấn/ha) 1,02 2,53 3,25 3,31 2,48 1,85
CV% = 4,5 %; LSD0,05 = 0,52 tấn/ha
Ghi chú: Cấy 2R:16A, khoảng cách mẹ 15cm x 15cm, khoảng cách bố 30cm x 15cm; CV% và LSD0,05 được xử lý trên số liệu năng suất thực thu.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 120
Dòng 14A mang gen eui nên đoạn bông nghẹn
trong bẹ lá đòng ngắn (-3,2cm), khi phun 60 gam
GA3/ha các bông trỗ thoát hoàn toàn, cổ bông dài
2,2cm. Chiều cao cây, chiều dài cổ bông tăng tỷ lệ
thuận với lượng GA3 sử dụng, ở 2 công thức phun
120g/ha và 150g/ha, cây cao vống, cổ bông quá dài
nên bị gẫy khi gạt phấn, làm giảm tỷ lệ đậu hạt và
năng suất. Số hạt chắc/bông và tỷ lệ đậu hạt tăng dần
đến lượng phun 90g/ha rồi giảm nhanh ở các liều
lượng cao. Năng suất thực thu cao nhất khi phun 60-
90g/ha (3,25 và 3,31 tấn/ha). Kết quả này khẳng định
dòng 14A mang gen eui, có hàm lượng GA3 nội sinh
cao, chỉ bổ sung 60-90g GA3 /ha cho dòng mẹ và
30g/ha cho dòng bố đã thúc đẩy dòng A trỗ thoát,
dòng R cao thêm 25-30cm tạo tư thế truyền phấn thuận
lợi nên tỷ lệ đậu hạt cao, năng suất cao (bảng 12).
3.6.3. Kết quả sản xuất thử hạt F1 MV2 trong vụ
xuân Bảng 13. Diện tích, năng suất sản xuất hạt lai F1 giống MV2
Xuân 2017 Xuân 2018 Xuân 2019
Địa phương Diện tích
(ha)
NSTT
(tấn/ha)
Diện tích
(ha)
NSTT
(tấn/ha)
Diện tích
(ha)
NSTT
(tấn/ha)
Trung bình
(tấn/ha)
Hà Nội 0,5 3,31 0,5 3,38 - - 3,35
Nam Định 2,0 0 * 2,0 3,14 3 3,4 3,29
Cộng 2,5 2,5 3,0
Ghi chú(*) Gặp bão khi mới phun xong GA3 nên lúa bị đổ gẫy không cho thu hoạch.
Trong 3 vụ sản xuất thử hạt lai F1 tổ hợp MV2
tại 2 điểm (Viện NC & PTCT, Hà Nội và Công ty
TNHH Cường Tân, Nam Định) với tổng diện tích
triển khai là 8 ha (trong đó 2 ha bị mất trắng tại Công
ty Cường Tân, Nam Định do gặp bão sớm ở vụ xuân
2017), năng suất sản xuất thử tại Viện NC&PTCT đạt
3,35 tấn/ha và tại Công ty Cường Tân đạt 3,29 tấn/ha
(bảng 13). Kết quả này một lần nữa khẳng định
giống lúa lai ba dòng mới MV2 có tiềm năng cho
năng suất hạt lai F1 cao. Vì vậy giống MV2 đã được
Bộ Nông nghiệp & PTNT công nhận sản xuất thử tại
các tỉnh phía Bắc Việt Nam theo Quyết định số
07/QĐ-TT-CLT, ngày 09 tháng 01 năm 2019.
4. KẾT LUẬN
Giống lúa lai ba dòng MV2 có bố mẹ và con lai
do Phòng Công nghệ lúa lai, Viện Nghiên cứu và
Phát triển cây trồng chọn tạo. Giống đã qua các khảo
nghiệm và được công nhận sản xuất thử ngày 09
tháng 01 năm 2019 theo Quyết định số 07/QĐ-TT-
CLT của Cục Trồng trọt - Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn. MV2 có các ưu điểm chính sau: là
giống cảm ôn, TGST ngắn (vụ mùa 103 ngày; vụ
xuân 129-134 ngày), tương đương với Nhị ưu 838,
kiểu hình đẹp, thân cứng, lá đòng đứng, xanh đậm,
có nhiều bông, bông to, nhiều hạt, tỷ lệ lép thấp, khối
lượng 1000 hạt cao (trên 28 gram), năng suất thực
thu ở vụ mùa 5,7 tấn/ha, ở vụ xuân 7,33-7,63 tấn/ha,
cao nhất 9,27 tấn/ha (tại Yên Bái, xuân 2018), tương
đương và cao hơn Nhị ưu 838 từ 3-5%. Nhiễm nhẹ các
loại sâu bệnh hại trên đồng ruộng (bạc lá, khô vằn,
rầy nâu). Khi lây bệnh bạc lá nhân tạo, MV2 kháng
trung bình (điểm 5) với vi khuẩn gây bệnh bạc lá
(Xanthomonas oryzae pv. oryzae). Chất lượng xay
xát, thương trường và dinh dưỡng trung bình, cơm
trắng bóng, ngon tương đương với Nhị ưu 838.
Qui trình kỹ thuật sản xuất hạt giống lúa lai MV2
đã được nghiên cứu, thiết lập và thử nghiệm sản xuất
trong vụ xuân tại Hà Nội và Nam Định, đạt năng suất
cao > 3,0 tấn/ha, dòng mẹ 14A mang gen eui nên
lượng GA3 cần phun thấp (60-90g/ha), phun 1 lần,
giảm chi phí sản xuất nên có thể giảm giá bán hạt lai
F1 so với Nhị ưu 838.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp &PTNT (2011). Qui chuẩn
kỹ thuật khảo nghiệm quốc gia DUS (QCVN 01-
65:2011/BNNPTNT) và VCU (QCVN 01-
55:2011/BNNPTNT).
2. He, Z. and Shen, Z., (1991). Inheritance of
panicle exsertion and improvement of male sterile
line in rice (In Chinese with English summary).Chin.
J. Rice Sci.,5, 1-6.
3. IRRI (2002). Standard Evaluation System for
Rice. P.O. Box 933,1099 Manila Philippines.
4. Nông Thị Huệ, Nguyễn Trọng Tú, Bùi Thị
Thu Hương, Hoàng Thị Ngân, Đinh Trường Sơn,
Nguyễn Thị Trâm (2017). Nghiên cứu sử dụng gien kéo dài lóng cổ bông eui trong chọn dòng bất dục
đực tế bào chất ở lúa. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp
Việt Nam tập 15, số 1: 7-19.
5. Shen, Z. and He, Z., (1989). Interaction between eui gene and WAMS cytoplasm of rice and
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 121
improvement of panicle exsertion of CMS line. In
Proc. SABRAO Congr. Tsukuba, Japan, 21–25 August
1989, pp. 753-756.
6. Lê Văn Thành, Nguyễn Thị Trâm, Nguyễn
Văn Mười, Vũ Văn Quang, Phạm Thị Ngọc Yến,
Nguyễn Trọng Tú (2019). Đánh giá khả năng kết
hợp của một số dòng CMS và một số dòng R phục vụ
chọn giống lúa lai ba dòng. Tạp chí Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn. Số 2/2019, tr 20-27.
7. Nguyễn Trọng Tú, Lê Văn Thành, Phạm Thị
Ngọc Yến, Nguyễn Văn Mười, Nguyễn Thị Trâm
(2018). Chọn tạo dòng CMS mới mang gen eui để
sản xuất giống lúa lai ba dòng sử dụng tiết kiệm GA3.
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học và Công nghệ chuyên
ngành Trồng trọt, Bảo vệ thực vật giai đoạn 2013-
2018. NXB Thanh niên, trang 29-37.
8. Trung tâm KKNG&SPCT Quốc gia (2017,
2018). Báo cáo kết quả khảo nghiệm giống lúa lai ba
dòng vụ xuân, vụ mùa.
9. Viện Bảo vệ Thực vật (2018). Báo cáo kết quả
đánh giá lây bệnh bạc lá nhân tạo vụ mùa.
10. Yin, C., Gan, L., Ng, D., Zhou, X. and Xia, K.
(2007). Decreased panicle-derived indole-3-acetic acid reduces gibberellin A1 level in the uppermost
internode, causing panicle enclosure in male sterile
rice Zhenshan 97A. J. Exp. Bot., 58, 2441-2449.
11. Yuan, L. P., Wu xiaojin, Liao Fuming, Ma
Guohui, Xu Qiusheng (2003). Hybrid Rice Technology. China Agriculture Press, 131p.
RESULTS OF CREATING AND TESTING THE NEW THREE-LINE HYBRID RICE VARIETY (MV2) WITH
A CMS LINE (14A) CARRYING EUI GEN
Le Van Thanh, Nguyen Trong Tu, Le Van Thanh, Pham Thi Ngoc Yen,
Nguyen Van Muoi, Vu Van Quang, Vu Thi Bich Ngoc, Nguyen Thi Tram
Summary MV2 is a three-line hybrid rice variety created by Hybrid Rice Technology Department - Research and
Development Institute (CRD) - Vietnam National University of Agricultutre, using female line (14A) carrying
eui gene. MV2 has a high grain yield, good quality and especially F1 hybrid seed yield is high, use save GA3.
MV2 has been successfully tested and recognized for trial production with Decision No. 07/QĐ-TT-CLT dated
January 9, 2019. MV2 reacts with environmental temperature, short-growing time (103 days in Summer
season, 129 -134 days Spring season). The variety has a good phenotype, hard plant, vertical leaves; lots of
panicle and big panicle, many spikes, low empty grain rate, high 1000 grain weight (over 28 gram). The grain
yield of MV2 is 5.7 tons per hectare in Summer crop, is from 7.3 to 7.6 tons per hectare in Spring crop, the
highest is 9.27 tons per hectare (in Yen Bai provine, Spring crop 2018), approximate to and higher than Nhi uu
838 (control variety) from 3 to 5%. In the field, MV2 is mildly infected with leaf blight, sheath blight and brown
plant hopper, when infection with artificial leaf blight is medium resistance (point 5) with Xanthomonas
Oryzae pv. Oryzae. The quality of milling, commercial and nutritional is medium, white and delicious boiled
rice is equivalent to Nhiuu 838. The technical process of producing F1 hybrid seed (14A/R20 combination)
has been studied and tested in Spring and Summer crops in Hanoi and Nam Dinh provinces with high grain
yield (over 3.0 tons per hectare). The female line (14A) carry eui gene, so GA3 content requires low spraying
(from 90 to 120 gram per hectare), only spraying one time, reducing costs production of F1 hybrid seed and
the price of F1 hybrid seed compared with Nhi uu 838.
Keywords: Sensitive with temperature varieties, eui gen - extending the top slang, Three-line hybrid rice, F1
hybrid seed production.
Người phản biện: GS.TSKH. Trần Duy Quý
Ngày nhận bài: 12/7/2109
Ngày thông qua phản biện: 12/8/2019
Ngày duyệt đăng: 19/8/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 122
XÁC ĐỊNH ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ CẤY VÀ
MỨC PHÂN BÓN ĐẾN SINH TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN
VÀ NĂNG SUẤT GIỐNG LÚA LAI BA DÒNG MV2
TẠI GIA LÂM - HÀ NỘI Vũ Văn Quang1(*), Phạm Thị Ngọc Yến2, Lê Văn Thành1, Nguyễn Văn Mười1 ,
Phan Nhật Thứ2, Đinh Ngọc Duy2, Nguyễn Thị Trâm1
TÓM TẮT Giống MV2 là giống lúa lai ba dòng do Viện Nghiên cứu và Phát triển cây trồng, Học viện NNVN chọn tạo và
được công nhận sản xuất thử theo Quyết định số 07/QĐ-TT-CLT ngày 09 tháng 01 năm 2019. MV2 là giống
cảm ôn, có 15 lá/thân chính, chiều cao cây trung bình (102 - 103 cm). Giống có thời gian sinh trưởng 124 - 129
ngày ở vụ xuân và 114 -116 ngày ở vụ mùa. Năng suất thực thu ở vụ xuân và vụ mùa tương ứng lần lượt là 73-75
tạ/ha và 68-71 tạ/ha. Để hoàn thiện qui trình thâm canh thương phẩm giống lúa MV2 tại Gia Lâm-Hà Nội, đã tiến
hành nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ cấy và mức phân bón đến sinh trưởng, phát triển và năng suất giống
MV2 tại khu thí nghiệm Viện Nghiên cứu và Phát triển cây trồng. Kết quả nghiên cứu đã xác định: tại Gia Lâm -
Hà Nội ở vụ xuân nên cấy mật độ 35 khóm/m2 và bón phân với lượng 120 kg N/ha trên nền 1 tấn phân chuồng
hoặc phân hữu cơ vi sinh + 120 kg P2O5 + 90 K2O; trong vụ mùa nên cấy mật độ 35 khóm/m2 và bón phân với
lượng 120 kg N/ha trên nền 1 tấn phân chuồng hoặc phân hữu cơ vi sinh + 120 kg P2O5 + 90 K2O hoặc cấy với mật
độ 40 khóm/m2 và bón phân với lượng 100 kg N/ha trên nền 1 tấn phân chuồng hoặc phân hữu cơ vi sinh + 100
kg P2O5 + 75 K2O là tốt nhất.
Từ khóa: Lúa lai ba dòng, mật độ, năng suất, phân bón.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Lúa gạo là nguồn lương thực chủ yếu của hơn
nửa số dân trên thế giới. Lúa là cây trồng quan trọng
nhất cung cấp trên 20% nhu cầu calo cho con người
(Kusano et al., 2015). Dân số thế giới đạt 7,3 tỷ người
năm 2015 và sẽ đạt 8,5 tỷ người vào năm 2030 (World
population prospects: 2015 Revision). Với áp lực tăng
dân số, diện tích đất canh tác đang dần thu hẹp,
nguồn tài nguyên bị cạn kiệt và biến đổi khí hậu ngày
càng khốc liệt thì đến năm 2030 năng suất lúa cần
phải tăng 40% mới đủ đáp ứng nhu cầu (Khush,
2005). Ở châu Á lúa gạo cung cấp từ 50-70% năng
lượng hấp thụ hàng ngày và giữ vai trò quan trọng
trong việc cung cấp dinh dưỡng cho con người.
Các giống lúa lai đang trồng ở nước ta khá đa
dạng (gồm lúa lai 2 dòng và lúa lai 3 dòng). Tuy
nhiên, các giống này chủ yếu được nhập nội từ Trung
Quốc (chiếm 80%), chỉ có một số lượng nhỏ do Việt
Nam lai chọn tạo. MV2 là giống lúa lai ba dòng, do
Phòng Công nghệ lúa lai - Viện Nghiên cứu và Phát
triển cây trồng, Học viện Nông nghiệp Việt Nam lai
tạo và chọn lọc. Giống MV2 có năng suất cao và
1 Phòng Công nghệ lúa lai - Viện Nghiên cứu và phát triển
cây trồng; 2 Khoa nông học - Học viện nông nghiệp Việt Nam * E-mail: [email protected]
chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh. Giống đã
được gửi khảo nghiệm từ vụ xuân 2017 và được công
nhận sản xuất thử theo Quyết định số 07/QĐ-TT-
CLT ngày 09 tháng 01 năm 2019. MV2 có năng suất
cao, chất lượng khá, có hàm lượng amyloza trung
bình (23-24%) (Trung tâm KKN giống, sản phẩm cây
trồng Quốc gia, 2017 và 2018), phù hợp nhu cầu ăn
và chế biến (làm bún, bánh, nấu rượu...). Sản xuất
hạt lai F1 giống MV2 dễ và có năng suất cao (trên 3,0
tấn/ha), giá thành hạt lai rẻ, chủ động được sản xuất
ở trong nước. Do vậy, MV2 có nhiều triển vọng để
phục vụ cho sản xuất lúa trong nước, hạn chế nhập
nội từ nước ngoài. Để mở rộng diện tích sản xuất
giống lúa MV2 tiến tới công nhận chính thức và phục
vụ nhu cầu canh tác giống trong nước, đã bố trí thí
nghiệm xác định ảnh hưởng của mật độ cấy và mức
phân bón đến sinh trưởng, phát triển và năng suất
giống MV2 nhằm hoàn thiện qui trình thâm canh
thương phẩm giống MV2 đạt năng suất cao tại Gia
Lâm, Hà Nội.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Vật liệu, thời gian và địa điểm
Hạt giống lúa F1 MV2 được lai thử từ vụ trước và
giống Nhị ưu 838 được gieo cấy phổ biến ở các tỉnh
phía Bắc làm giống đối chứng.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 123
Thí nghiệm được bố trí trong vụ mùa 2018 và vụ
xuân 2019 tại khu thí nghiệm Viện Nghiên cứu và
Phát triển cây trồng.
2.2. Phương pháp
Gieo mạ ruộng, ở vụ mùa 2018 gieo 15/06, sau
18 ngày thì nhổ mạ cấy khi cây mạ được 5,0 - 5,5 lá; ở
vụ xuân 2019 gieo ngày 20/01, sau 25 ngày thì nhổ
mạ cấy khi cây mạ được 5,5 - 6,0 lá và cấy 1-2
dảnh/khóm.
Bố trí 4 công thức mật độ (M): M1 = 25 khóm/m2
(20 cm x 20 cm), M2 = 30 khóm/m2 (20 cm x 16,7 cm),
M3 = 35 khóm/m2 (20 cm x 14,3 cm), M4 = 40
khóm/m2 (20 cm x 12,5 cm) và 4 công thức phân bón
(P, kg/ha): 80 N, 100 N, 120 N và 140 N với tỷ lệ N:P:K
= 1:1:0,75 và 1 tấn phân chuồng hoặc hữu cơ vi sinh cho
1 ha (P1=80 N : 80 P2O5 : 60 K2O; P2 = 100 N : 100 P2O5 :
75 K2O; P3 = 120 N : 120 P2O5 : 90 K2O và P4 = 140 N :
140 P2O5 : 105 K2O).
Cách bón: Bón lót 100% phân chuồng hoặc hữu
cơ vi sinh và lân + 40% đạm +50% kali; thúc lần 1 (đẻ
nhánh) sau cấy 5-7 ngày trong vụ mùa và 10-12 ngày
trong vụ xuân, bón 50% đạm; thúc lần 2 bón trước trỗ
18-20 ngày, bón 50% kali + 10% đạm còn lại.
Bố trí thí nghiệm theo phương pháp ô chính, ô phụ
(Split-Plot Design) theo Gomez (1984), 3 lần nhắc lại.
Yếu tố chính là phân bón, yếu tố phụ là mật độ cấy.
Diện tích ô chính là 20 m2, diện tích ô phụ là 5 m2.
Chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh theo qui trình
Viện Nghiên cứu và Phát triển cây trồng.
Tiến hành theo dõi các chỉ tiêu:
Đánh giá các đặc điểm nông sinh học: Tiến hành
theo dõi 10 cây/công thức thí nghiệm (cây theo dõi
chỉ cấy 1 dảnh/khóm), 2 tuần theo dõi 1 lần. Đánh
giá và cho điểm theo thang điểm của IRRI, 2002 các
chỉ tiêu: số lá/ thân chính (lá), số nhánh tối đa
(nhánh/khóm), chiều cao cây cuối cùng (cm), chiều
dài bông (cm), thời gian sinh trưởng (từ gieo-chín
85%) (ngày).
Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất:
số bông/m2, số hạt/bông (hạt), số hạt chắc/bông
(hạt), tỷ lệ hạt lép (%) và khối lượng 1000 hạt (g)
trước khi thu hoạch; tiến hành lấy mẫu ngẫu nhiên
10 cá thể/ô đo đếm lấy giá trị trung bình; đối với
năng suất thực thu (tạ/ha) gặt cả ô thí nghiệm, cân
tươi, qui đổi về độ ẩm 14% và qui đổi năng suất
(tạ/ha).
2.3. Xử lý số liệu
Xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê sinh học
IRRISTAT 5.0 và chương trình Microsoft Excel.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Một số đặc điểm nông sinh học của giống
MV2 ở thí nghiệm vụ xuân và vụ mùa
Vụ mùa 2018, theo dõi một số đặc điểm nông
sinh học của MV2 ở các công thức thí nghiệm cho
thấy: ở các mật độ cấy và các mức phân bón khác
nhau, giống MV2 có số lá, khả năng đẻ nhánh, chiều
cao cây, chiều dài bông và thời gian sinh trưởng ổn
định và tương đương giống đối chứng Nhị ưu 838.
Giống MV2 có trung bình số lá/thân chính 14,5 lá,
khả năng đẻ nhánh khỏe (12-13 nhánh); MV2 có
chiều cao cây trung bình (102-103 cm), bông dài (22-
23 cm) và thời gian sinh trưởng trong vụ mùa trung
bình đạt 115 đến 116 ngày (giống đối chứng đạt 115-
117 ngày (bảng 1).
Theo dõi các chỉ tiêu trên ở trong vụ xuân 2019
(bảng 2) cho nhận xét: giống như trong vụ mùa, ở
các công thức thí nghiệm, MV2 cũng có số lá, khả
năng đẻ nhánh, chiều cao cây, chiều dài bông và thời
gian sinh trưởng ổn định trong vụ xuân. MV2 có số
lá/thân chính biến động 14,5 đến 14,7 lá. Giống có
khả năng đẻ nhánh khỏe và đẻ nhánh tốt hơn giống
đối chứng, đạt 13-14 nhánh/khóm; chiều cao cây
cuối cùng đạt 102-103 cm, cao hơn đối chứng Nhị ưu
838 (đạt 100-101 cm) và có bông dài trung bình (22,7
cm). MV2 có thời gian sinh trưởng trong vụ xuân
biến động 124 đến 129 ngày, ngắn hơn giống đối
chứng 2-3 ngày.
3.2. Theo dõi sâu bệnh gây hại tự nhiên của
giống MV2 và đối chứng ở thí nghiệm vụ xuân và vụ
mùa
Theo dõi sâu bệnh gây hại tự nhiên ở các công
thức thí nghiệm trong vụ xuân và vụ mùa của giống
MV2 thu được kết quả ở bảng 3 và 4 cho thấy: Giống
MV2 không bị nhiễm hoặc nhiễm rất nhẹ rầy nâu,
sâu cuốn lá và sâu đục thân trong cả hai vụ (điểm 0-
1) ở tất cả các công thức thí nghiệm, trong khi đó,
giống đối chứng bị nhiễm nhẹ (điểm 3) sâu cuốn lá ở
công thức có mức phân bón cao (P3 và P4 trong vụ
mùa và P2, P3 và P4 trong vụ xuân). Trong cả 2 vụ
MV2 không bị nhiễm bệnh khô vằn ở các công thức
có mức phân bón thấp (P1), nhiễm rất nhẹ (điểm 1)
ở vụ xuân và nhiễm nhẹ (điểm 3) ở các công thức có
mức phân bón cao (P2, P3, P4) ở vụ mùa. Trong khi
đó, Nhị ưu 838 bị nhiễm nhẹ bệnh này ở tất cả các
công thức ở cả 2 vụ. MV2 không bị nhiễm bệnh đạo
ôn trong vụ mùa và bệnh bạc lá trong vụ xuân ở các
công thức nghiên cứu; giống chỉ nhiễm rất nhẹ
(điểm 1) ở các công thức có mức phân bón thấp (P1,
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 124
P2) và nhiễm nhẹ (điểm 3) ở các công thức có mức
phân bón cao (P3, P4) trong vụ mùa; MV2 không
nhiễm hoặc nhiễm rất nhẹ bệnh đạo ôn (điểm 1) ở
trong vụ xuân, còn giống đối chứng thì nhiễm nhẹ-
trung bình (điểm 3-5) ở các công thức có mức bón
phân cao (P3, P4).
Như vậy: MV2 có khả năng chống chịu một số
loại sâu, bệnh hại chính tốt và chống chịu tốt hơn
giống đối chứng Nhị ưu 838 ở các công thức thí
nghiệm vụ xuân và vụ mùa.
Bảng 1. Đặc điểm nông sinh học và thời gian sinh trưởng của giống MV2 ở các công thức thí nghiệm vụ mùa 2018
Số lá/thân
chính (lá)
Số nhánh đẻ tối
đa
(nhánh/khóm)
Chiều cao cây
cuối cùng (cm)
Chiều dài
bông
(cm)
Thời gian sinh
trưởng (ngày) Chỉ tiêu
Công thức
MV2 Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838
(ĐC)
P1M1 14,4 14,2 12,2 12,0 102,3 100,8 22,4 23,2 115 116
P1M2 14,5 14,2 12,3 12,1 102,3 100,7 22,3 23,1 115 116
P1M3 14,5 14,3 12,.3 12,1 102,2 100,7 22,3 23,2 114 116
P1M4 14,4 14,2 12,1 12,1 102,3 100,7 22,5 23,2 115 115
Trung bình 14,5 14,2 12,2 12,1 102,3 100,7 22,4 23,2 114,7 115,8
P2M1 14,4 14,3 12,4 12,1 102,1 100,8 22,5 23,2 115 116
P2M2 14,5 14,3 12,4 12,3 102,1 100,6 22,3 23,3 115 116
P2M3 14,5 14,2 12,3 12,1 102,3 100,7 22,3 23,2 115 116
P2M4 14,5 14,3 12,3 12,2 102,2 100,7 22,3 23,2 115 117
Trung bình 14,5 14,3 12,4 12,2 102,3 100,7 22,3 23,2 115,0 116,3
P3M1 14,5 14,3 12,8 12,4 102,5 100,5 22,2 23,2 115 116
P3M2 14,5 14,3 13,0 12,5 102,4 100,6 22,4 23,3 116 116
P3M3 14,5 14,3 12,6 12,2 102,4 100,6 22,4 23,3 115 117
P3M4 14,6 14,2 12,6 12,1 102,4 100,5 22,3 23,3 115 117
Trung bình 14,5 14,3 12,5 12,3 102,4 100,6 22,3 23,3 115,3 116,5
P4M1 14,6 14,3 13,4 13,0 102,7 100,7 22,6 23,4 116 116
P4M2 14,5 14,3 13,5 13,0 102,5 100,5 22,5 23,2 115 117
P4M3 14,5 14,3 13,1 12,7 102,5 100,6 22,5 23,4 116 117
P4M4 14,5 14,3 13,0 12,5 102,6 100,6 22,5 23,4 116 117
Trung bình 14,5 14,3 13,3 12,8 102,6 100,6 22,5 23,4 115,8 117,8
Bảng 2. Đặc điểm nông sinh học và thời gian sinh trưởng của giống MV2 ở các công thức thí nghiệm vụ xuân 2019
Số lá/thân
chính (lá)
Số nhánh đẻ
tối đa
(nhánh/khóm)
Chiều cao cây
cuối cùng (cm)
Chiều dài bông
(cm)
Thời gian sinh
trưởng (ngày) Chỉ tiêu
Công thức
MV2 Nhị ưu
838
(ĐC)
MV
2
Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838
(ĐC)
P1M1 14,5 14,3 13,3 12,5 102,8 100,9 22,7 23,5 125 127
P1M2 14,6 14,2 13,3 12,7 102,8 100,8 22,6 23,4 125 127
P1M3 14,6 14,2 13,3 12,7 102,6 100,8 22,7 23,3 124 127
P1M4 14,5 14,2 13,2 12,6 102,7 100,9 22,6 23,3 125 128
Trung bình 14,6 14,2 13,3 12,6 102,7 100,9 22,7 23,4 124,8 127,3
P2M1 14,5 14,3 13,2 12,8 102,8 100,8 22,7 23,4 126 127
P2M2 14,5 14,3 13,3 12,7 102,8 100,9 22,5 23,5 126 127
P2M3 14,6 14,3 13,2 12,7 102,9 100,9 22,7 23,5 125 128
P2M4 14,6 14,3 13,2 12,6 102,8 100,9 22,6 23,5 126 128
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 125
Trung bình 14,6 14,3 13,2 12,7 102,8 100,9 22,7 23,5 125,8 127,5
P3M1 14,6 14,3 13,3 12,8 102,7 101,2 22,6 23,4 127 129
P3M2 14,6 14,3 13,2 12,8 102,8 101,3 22,6 23,5 127 128
P3M3 14,6 14,4 13,0 12,5 102,8 101,2 22,7 23,5 128 128
P3M4 14,6 14,4 12,9 12,3 102,8 101,2 22,7 23,4 127 128
Trung bình 14,6 14,4 13,1 12,6 102,8 101,2 22,7 23,5 127,3 128,3
P4M1 14,6 14,4 14,4 13,0 102,7 101,3 22,6 23,4 128 129
P4M2 14,7 14,4 14,2 13,1 102,9 101,2 22,7 23,5 129 129
P4M3 14,7 14,3 14,0 12,6 102,9 101,4 22,5 23,5 129 128
P4M4 14,6 14,4 14,1 12,5 102,8 101,2 22,7 23,4 128 129
Trung bình 14,7 14,4 14,2 12,8 102,8 101,3 22,6 23,5 128,5 128,8
Bảng 3. Ảnh hưởng của sâu bệnh gây hại tự nhiên của giống MV2 ở các công thức thí nghiệm vụ mùa 2018
Rầy nâu Đục thân Cuốn lá Khô vằn Đạo ôn Bạc lá Chỉ
tiêu
Công
thức
MV2 Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị
ưu 838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838
(ĐC)
P1M1 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 1 1
P1M2 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 3
P1M3 0 0 0 1 1 1 0 1 0 0 1 3
P1M4 0 0 0 1 1 3 0 1 0 0 1 3
P2M1 1 0 0 1 0 1 1 1 0 0 1 1-3
P2M2 0 1 0 1 0 1 1 3 0 0 1 3
P2M3 0 1 1 1 1 1 1-3 3 0 0 1 3
P2M4 0 1 1 1 1 1 1-3 3 0 0 1 3
P3M1 0 0 1 0 1 1 1 3 0 0 1 3
P3M2 0 0 1 0 1 1-3 1 3 0 0 1 3
P3M3 1 1 1 1 1 1-3 3 3-5 0 0 1-3 3
P3M4 1 1 1 1 0 3 3 5 0 0 1-3 3-5
P4M1 0 0 1 0 1 1-3 1-3 3 0 0 3 3
P4M2 0 0 1 0 1 1-3 1-3 3 0 0 1-3 3
P4M3 0 0 1 1 1 1-3 3 5 0 0 3 3-5
P4M4 0 0 1 1 1 3 3 5 0 0 3 3-5
Bảng 4. Ảnh hưởng của sâu bệnh gây hại tự nhiên của giống MV2 ở các công thức thí nghiệm vụ xuân 2019
Rầy nâu Đục thân Cuốn lá Khô vằn Đạo ôn Bạc lá Chỉ
tiêu
Công
thức
MV
2
Nhị
ưu
838
(ĐC)
MV
2
Nhị
ưu
838
(ĐC)
M
V2
Nhị
ưu
838
(ĐC)
MV
2
Nhị
ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị
ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838
(ĐC)
P1M1 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0
P1M2 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
P1M3 0 0 0 1 1 1 0 1 0 0 0 0
P1M4 0 0 0 1 1 1 0 1 0 0 0 0
P2M1 0 0 0 1 1 1 1 1 0 1 0 0
P2M2 0 0 0 1 1 1-3 1 1-3 0 1 0 0
P2M3 0 0 1 1 1 1-3 1 1-3 1 1 0 0
P2M4 0 1 1 1 1 3 1 1-3 1 1 0 0
P3M1 0 0 1 0 1 1 1 1-3 0 1-3 0 1
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 126
P3M2 0 0 0 0 1 3 1 3 1 1-3 0 1
P3M3 0 1 0 1 1 3 1 3 1 3 0 1
P3M4 0 1 1 1 0 3 1 5 1 3 0 1
P4M1 0 0 0 0 0 3 1 5 0 1-3 0 1
P4M2 0 0 1 0 1 3 1 5 1 3 0 1
P4M3 0 0 1 1 1 3 1 5 1 3 0 1
P4M4 0 0 1 1 1 3 1 5 1 3 0 1
3.3. Các yếu tố cấu thành năng suất của giống
MV2 ở thí nghiệm vụ xuân và vụ mùa
Đánh giá một số yếu tố cấu thành năng suất của
giống MV2 và giống đối chứng ở các công thức thí
nghiệm trong các vụ (bảng 5 và 6) cho thấy: MV2 có
số hạt/ bông và khối lượng 1000 hạt khá cao và ổn
định ở tất cả các công thức thí nghiệm ở cả hai vụ,
tương ứng đạt 158-162 hạt/bông và 28,2-28,5 gam và
tương đương giống đối chứng. Các chỉ tiêu về số
bông/khóm và số hạt chắc/bông của MV2 ở các
công thức thí nghiệm ở trong vụ xuân trung bình 5,4-
5,8 bông/khóm và 137-138 hạt chắc/bông và có xu
hướng cao hơn về các chỉ tiêu này trong vụ mùa,
trung bình đạt 5,2-5,6 bông/khóm và 135-136 hạt
chắc/bông , còn tỷ lệ hạt lép thì ngược lại, ở vụ xuân
đạt 13,8-14,6% thấp hơn ở vụ mùa 14,8-15,7%.
Kết quả ở bảng 5 và 6 còn cho nhận xét, ở các
công thức thí nghiệm ở cả 2 vụ, chỉ tiêu về số
bông/khóm và số hạt chắc/bông của MV2 và đối
chứng có xu hướng giảm dần ở các công thức có mật
độ cấy tăng từ M1 đến M4; ngược lại có xu hướng
tăng dần về 2 chỉ tiêu này ở các công thức có mức
phân bón cao (từ P3 đến P4). Số bông/khóm đạt cao
nhất ở công thức P4M1 (5,8 bông) và thấp nhất ở
công thức P1M4 (5,1 bông). Trung bình số
bông/khóm của MV2 đạt cao nhất 5,6 bông ở mức
phân bón P4, thấp nhất là 5,2 bông ở mức phân bón
P1, đối với giống đối chứng ở 2 mức phân bón này số
liệu tương ứng là 5,2 bông/khóm và 4,9 bông/khóm.
Bảng 5. Các yếu tố cấu thành năng suất của giống MV2 ở các công thức thí nghiệm vụ mùa 2018
Số bông/khóm
(bông) Số hạt/bông (hạt)
Số hạt
chắc/bông (hạt)
Tỷ lệ hạt
lép/bông (%)
Khối lượng 1000 hạt
(gam)
Chỉ tiêu
Công thức
MV2 Nhị ưu
838 (ĐC)
MV2 Nhị ưu
838 (ĐC)
MV2 Nhị ưu
838 (ĐC)
MV2 Nhị ưu
838 (ĐC)
MV2 Nhị ưu 838
(ĐC)
P1M1 5,7 5,5 158,8 160,3 135,8 139,9 14,5 12,7 28,4 28,9
P1M2 5,3 5,2 160,1 158 136,6 137,9 14,7 12,7 28,2 28,8
P1M3 5,2 4,9 158,2 160,2 134,0 140,3 15,3 12,4 28,3 28,7
P1M4 5 4,8 158,3 159,5 133,3 139,1 15,8 12,8 28,2 28,7
Trung bình 5,3 5,1 158,9 159,5 134,9 139,3 15,1 12,7 28,3 28,8
P2M1 5,8 5,6 160,4 160,6 137,5 140,0 14,3 12,8 28,3 28,8
P2M2 5,5 5,3 160,5 161 137,5 140,7 14,3 12,6 28,2 28,7
P2M3 5,5 5,4 162,2 162 138,8 141,4 14,4 12,7 28,4 28,9
P2M4 5,2 4,8 159,1 160,1 133,2 139,6 16,3 12,8 28,3 28,8
Trung bình 5,5 5,3 160,6 160,9 136,8 140,4 14,8 12,7 28,3 28,8
P3M1 5,6 5,4 161,2 160,4 137,2 139,7 14,9 12,9 28,3 28,8
P3M2 5,5 5,4 163,3 162,3 139,3 141,7 14,7 12,7 28,2 28,7
P3M3 5,5 5,3 163.8 162.1 140.0 141.2 14,5 12,9 28,3 28,8
P3M4 5,1 4,8 159,4 162 131,2 141,3 17,7 12,8 28,2 28,8
Trung bình 5,4 5,2 161,9 161,7 136,9 141,0 15,5 12,8 28,3 28,8
P4M1 5,8 5,6 161,6 161,8 134,6 140,9 16,7 12,9 28,3 28,8
P4M2 5,6 5,4 161,2 163,3 134,6 142,6 16,5 12,7 28,4 28,9
P4M3 5,5 5,3 160,5 160,1 133,4 137,8 16,9 13,9 28,3 28,8
P4M4 5,1 4,9 158,2 159,7 130,4 137,2 17,6 14,1 28,3 28,8
Trung bình 5,5 5,3 160,4 161,2 133,2 139,6 16,9 13,4 28,3 28,8
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 127
So với giống Nhị ưu 838 ở cả 2 vụ, MV2 có số
bông/khóm (bông hữu hiệu) và tỷ lệ hạt lép cao
hơn giống đối chứng ở tất cả các công thức thí
nghiệm do có số hạt chắc/bông thấp hơn đối
chứng. Trung bình tỷ lệ hạt lép của MV2 ở các công
thức thí nghiệm ở cả 2 vụ biến động 13,8-14,6%
trong vụ xuân và 14,8-15,7% trong vụ mùa, còn của
giống đối chứng Nhị ưu 838 biến động 10,4-11,0%
trong vụ xuân và 12,4-13,2% trong vụ mùa. Như vậy,
giống MV2 có tiềm năng năng suất cao, số
hạt/bông lớn và khối lượng 1000 hạt cao, do vậy,
cần nghiên cứu bố trí thêm thí nghiệm thời vụ
trồng, loại phân bón để giảm tỷ lệ hạt lép nhằm tăng
năng suất thực thu của giống.
Bảng 6. Các yếu tố cấu thành năng suất của giống MV2 ở các công thức thí nghiệm vụ xuân 2019
Số bông/khóm
(bông)
Số hạt/bông
(hạt)
Số hạt chắc/bông
(hạt)
Tỷ lệ hạt
lép/bông (%)
Khối lượng 1000
hạt (gam) Chỉ tiêu
Công thức MV2
Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2
Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838 (ĐC) MV2
Nhị ưu
838 (ĐC) MV2
Nhị ưu
838 (ĐC)
P1M1 5,9 5,7 159,6 161,7 137,9 144,2 13,6 10,8 28,5 28,8
P1M2 5,7 5,5 161,2 160,2 139,6 142,7 13,4 10,9 28,4 28,8
P1M3 5,6 5,4 160,4 161,2 137,1 143,8 14,5 10,8 28,3 28,7
P1M4 5,2 5,0 158,3 160,0 134,7 143,0 14,9 10,6 28,4 28,8
Trung bình 5,6 5,4 159,9 160,8 137,3 143,5 14,1 10,8 28,4 28,8
P2M1 6,1 5,8 161,4 160,3 139,1 143,8 13,8 10,3 28,4 28,8
P2M2 5,7 5,6 161,5 162,1 138,1 144,4 14,5 10,9 28,4 28,7
P2M3 5,7 5,5 160,7 161,7 137,7 144,4 14,3 10,7 28,4 28,8
P2M4 5,2 4,9 158,6 159,5 135,0 142,3 14,9 10,8 28,3 28,7
Trung bình 5,7 5,5 160,6 160,9 137,5 143,7 14,4 10,7 28,4 28,8
P3M1 6,2 5,8 162,6 162,4 140,0 145,3 13,9 10,5 28,3 28,8
P3M2 5,9 5,7 160,3 160,6 137,5 143,1 14,2 10,9 28,4 28,7
P3M3 6,0 5,8 161,2 161,8 138,0 144,3 14,4 10,8 28,4 28,7
P3M4 5,3 4,9 160,0 161,3 136,3 144,0 14,8 10,7 28,3 28,7
Trung bình 6,1 5,6 161,0 161,5 138,0 144,2 14,3 10,7 28,4 28,7
P4M1 6,2 5,9 162,1 162,3 139,2 144,9 14,1 10,7 28,4 28,8
P4M2 6,0 5,7 162,0 161,5 138,5 142,9 14,5 11,5 28,4 28,7
P4M3 5,9 5,6 159,5 160,5 135,7 141,7 14,9 11,7 28,3 28,7
P4M4 5,3 4,8 157,7 160 132,8 141,0 15,8 11,9 28,3 28,8
Trung bình 5,9 5,5 160,3 161,1 136,6 142,6 14,8 11,5 28,4 28,8
3.4. Ảnh hưởng của phân bón và mật độ cấy đến
năng suất của giống MV2 ở các thí nghiệm vụ xuân
và vụ mùa
Năng suất thực thu của MV2 và giống đối chứng
ở các công thức thí nghiệm trong các vụ được trình
bày ở bảng 7 và 8 cho thấy:
Năng suất của giống MV2 ở các công thức thí
nghiệm trong vụ xuân đều cao hơn trong vụ mùa.
Năng suất thực thu của MV2 và Nhị ưu 838 ở các
công thức ở cả 2 vụ theo mật độ cấy (M) có xu
hướng tăng mạnh từ mật độ cấy M1 đến M3 (đạt cao
nhất) và sau đó giảm nhẹ ở mật độ cấy M4 ở các mức
phân bón khác nhau. Trung bình năng suất theo mật
độ cấy (M) của MV2 đạt cao nhất 61,7 tạ/ha trong vụ
mùa ở mức phân bón P2 và đạt 66,2 tạ/ha trong vụ
xuân ở mức phân bón P3 không ở mức có ý nghĩa
(P=99,5%); thấp nhất đạt 58,4 tạ/ha ở mức phân bón
P1 trong vụ mùa và 63,1 tạ/ha ở mức phân P1 trong
vụ xuân.
Theo mức phân bón (P) ở cả 2 vụ năng suất của
giống nghiên cứu và đối chứng có xu hướng tăng khi
bón phân từ mức P1 đến P4 với mật độ cấy M1 và M2
và có xu hướng tăng khi bón phân từ mức P1 đến P3 -
đạt cao nhất với mật độ cấy M3 và M4 ở vụ xuân và
xu hướng tăng khi bón phân từ mức P1 đến P3 - đạt
cao nhất với mật độ cấy M3 và P1 đến P2 - đạt cao
nhất với mật độ cấy M4 trong vụ mùa. Trung bình
năng suất theo mức phân bón (P) của MV2 đạt cao
nhất ở 2 mật độ cấy M3 và M4 ở cả 2 vụ ở mức có ý
nghĩa (P=99,5%), đạt 71,2 tạ/ha với mật độ cấy M3 và
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 128
71,4 tạ/ha với M4 trong vụ xuân và 66,2 tạ/ha với
mật độ cấy M3 và 67,4 tạ/ha với M4 trong vụ mùa.
Năng suất trung bình của MV2 theo mật độ cấy
và mức phân bón đạt 64,7 tạ/ha (vụ xuân) và 60,1
tạ/ha (vụ mùa) và tương đương đối chứng Nhị ưu
838 đạt 63,8 tạ/ha (vụ xuân) và 60,3 tạ/ha (vụ mùa).
Trong vụ mùa 2018, năng suất thực thu của MV2
đạt cao nhất ở công thức thí nghiệm M3P3 (68,7
tạ/ha) không ở mức có ý nghĩa và ở công thức thí
nghiệm M4P2 (70,5 tạ/ha) ở mức có nghĩa thống kê
(P=99,5%), giá trị năng suất này bằng và cao hơn
không đáng kể so với năng suất Nhị ưu 838 (đạt cao
nhất ở công thức M3P2 là 68,5 tạ/ha). Trong vụ xuân
2019, MV2 có năng suất thực thu cao nhất 74,8 tạ/ha
với mật độ cấy M3 và mức phân bón P3 ở mức thống
kê có ý nghĩa (P=99,5%) cao hơn năng suất của giống
đối chứng đạt cao nhất 73,7 tạ/ha ở cùng mật độ cấy
và mức phân bón (M3P3).
Bảng 7. Ảnh hưởng của phân bón và mật độ cấy đến năng suất thực thu của giống MV2 trong vụ mùa 2018
(Đơn vị: tạ/ha)
M1 M2 M3 M4 TB theo M Mật độ
cấy
Mức
phân bón MV2
Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2
Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2
Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2
Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838 (ĐC)
P1 49,5 50,0 55,1 55,8 62,1 62,2 66,7 67,0 58,4 58,8
P2 50,8 50,8 57,6 57,8 68,0 68,5 70,5 67,5 61,7 61,2
P3 48,9 48,9 58,3 59,3 68,7 67,9 66,6 68,3 60,6 61,2
P4 49,7 51,1 57,8 60,1 66,1 66,3 65,9 67,7 59,9 61,3
TB theo P 49,7 50,2 57,2 58,3 66,2 66,2 67,4 67,6 60,1 60,3
Ghi chú: - ĐC: Đối chứng, TB: trung bình; theo lượng phân: CV=6,3%; LSD0,05=2,18 tạ/ha; theo mật độ:
CV=7,2%; LSD0,05=2,16 tạ/ha; theo mật độ và phân bón: CV=6,5%; LSD0,05=2,12 tạ/ha.
Bảng 8. Ảnh hưởng của phân bón và mật độ cấy đến năng suất thực thu của giống MV2 trong vụ xuân 2019
(Đơn vị: tạ/ha)
M1 M2 M3 M4 TB theo M Mật độ
cấy
Mức
phân bón MV2
Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838 (ĐC) MV2
Nhị ưu
838
(ĐC)
MV2 Nhị ưu
838 (ĐC) MV2
Nhị ưu
838 (ĐC)
P1 52,2 43,3 61,0 61,0 68,5 70,2 70,6 70,2 63,1 61,1
P2 54,2 54,0 60,4 62,7 70,2 71,0 71,5 71,0 64,1 64,6
P3 55,3 54,6 62,2 63,2 74,8 73,7 72,6 70,9 66,2 65,6
P4 55,2 55,4 63,7 63,1 71,4 70,7 70,7 67,2 65,3 64,1
TB theo P 54,2 51,8 61,8 62,5 71,2 71,4 71,4 69,8 64,7 63,8
Ghi chú: -ĐC: Đối chứng, TB: trung bình; theo lượng phân: CV=6,1%; LSD0,05=2,21 tạ/ha; theo lượng phân:
CV=6,5%; LSD0,05=2,35 tạ/ha; theo mật độ: CV=6,2%; LSD0,05=2,25 tạ/ha; theo mật độ và phân bón: CV=6,6%; LSD0,05=2,15
tạ/ha. 4. KẾT LUẬN
Ở vụ xuân và vụ mùa, giống MV2 có 15 lá trên
thân chính, bản lá lòng mo, dài, đứng và có màu xanh
đậm; chiều cao cây biến động 102 - 103 cm. Giống có
thời gian sinh trưởng 124 - 129 ngày ở vụ xuân và 114
-116 ngày ở vụ mùa.
Tại Gia Lâm - Hà Nội để giống MV2 có năng suất
thương phẩm cao nhất, ở vụ xuân nên cấy mật độ 35
khóm/m2 và bón phân với lượng 120 kg N/ha trên
nền 1 tấn phân chuồng hoặc phân hữu cơ vi sinh + 120
kg P2O5 + 90 K2O (đạt năng suất 74,8 tạ/ha), vụ mùa
nên cấy mật độ 35 khóm/m2 và bón phân với lượng
120 kg N/ha trên nền 1 tấn phân chuồng hoặc phân
hữu cơ vi sinh + 120 kg P2O5 + 90 K2O (năng suất 68,7
tạ/ha) hoặc cấy với mật độ 40 khóm/m2 và bón phân
với lượng 100 kg N/ha trên nền 1 tấn phân chuồng
hoặc phân hữu cơ vi sinh + 100 kg P2O5 + 75 K2O (năng
suất 70,5 tạ/ha) là tốt nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(2011). Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng
hạt giống lúa (QCVN 01-54 :2011/TTBNNPTNT);
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khảo nghiệm giá trị
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 129
canh tác và sử dụng (VCU) của giống lúa (QCVN 01-
55: 2011/BNNPTNT). Nhà xuất bản Nông nghiệp.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(2004). Quy phạm khảo nghiệm giống lúa. Nxb.
Nông nghiệp, 39 trang.
3. IRRI (2002). Standard evaluation system for
rice. International rice research institute. P.O. Box
933.1099, Manila, Philippines.
4. Khush, G. S., 2005. What it will take to feed 5.0 billion rice consumer in 2030. Plant Mol. Biol. 59,1-6.
5. Kusano M., Yang Z., Okazaki Y., Nakabayashi R.,
Fukushima A., Sito K., 2015. Using metabolomic
approaches to explore chemical diversity in rice. Mol.
Plant. 8, 58-67.
6. Phạm Chí Thành (1986). Phương pháp thí
nghiệm đồng ruộng. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà
Nội, 215 trang.
7. Trung tâm KKNG&SPCT Quốc gia (2017,
2018). Báo cáo kết quả khảo nghiệm giống lúa lai ba
dòng vụ xuân, vụ mùa.
8.Website:https://esa.un.org/unpd/wpp/publica
tions/files/key_findings_wpp_2015.pdf. World
Population Prospects: The 2015 Revision, Key
Findings and Advance Tables.
DETERMINING THE EFFECTS OF TRANSPLANTING DENSITY AND FERTILIZER LEVEL ON
GROWTH, DEVELOPMENT AND YIELDS OF THREE - LINE HYBRID RICE VARIETIES - MV2 IN
GIALAM DISTRICT, HANOI CITY
Vu Van Quang, Pham Thi Ngoc Yen, Le Van Thanh, Nguyen Van Muoi,
Phan Nhat Thu, Dinh Ngoc Duy, Nguyen Thi Tram
Summary MV2 is a three-line hybrid rice variety that selected by the Crops Research and Development Institute -
Vietnam National University of Agriculture, and is recognized for trial production according to Decision
No.07/QD-TT-CLT, dated January 9, 2019. MV2 variety has 15 leaves on main stem, the height is medium
(from 102 to 103 cm). The growth time is from 124 to 129 days in the spring crop and from 114 to 116 days
in summer crop. The actual yields in both spring and summer crops is respectively from 73.0 to 75.0
quintals per hectare and from 68.0 to 71.0 quintals per hectare. To finishing the process of intensive
techlonogies of MV2 variety in Gialam district - Hanoi city, conducted research on the effect of
transplanting density and fertilizer level on the growth, development and productivity of MV2 variety in
Crops Research and Development Institute. The research results have identified: in spring crop, should be
planted at a density of 35 clumps per square meters and fertilizing with the amount of 120 kg N/ha on
foundation of 1 ton farm yard manure or microorganic fertilizer + 120 kg P2O5 + 90 kg K2O/ha; in the
summer crop, should be planted at a density of 35 clumps per square meters and fertilizing with the amount
of 120 kg N/ha on foundation of 1 ton farm yard manure or micro organic fertilizer + 120 kg P2O5 + 90 kg
K2O/ha or transplanted with a density of 40 clumps per square meters and fertilizing with a quantity of 100
kg N/ha on foundation of 1 ton farm yard manure or micro organic fertilizer + 100 kg P2O5 + 75 kg K2O/ha
is the best.
Keywords: Three - line hybrid rice, transplanting density, grain yields, fertilizer.
Người phản biện: TS. Bùi Huy Hiền
Ngày nhận bài: 15/7/2019
Ngày thông qua phản biện: 15/8/2019
Ngày duyệt đăng: 22/8/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 130
KẾT QUẢ TUYỂN CHỌN VÀ KHẢO NGHIỆM
GIỐNG KHOAI TÂY MỚI ‘BLISS’ CHO CHẾ BIẾN CHIP Nguyễn Xuân Trường1*, Lương Văn Hưng1, Vi Quốc Hiền1,
Phạm Văn Tuân1, Vũ Tiến Dũng1, Đỗ Thị Mai1
TÓM TẮT Giống khoai tây Bliss là giống phù hợp cho chế biến chip, được Úc chọn tạo từ năm 1999. Giống Bliss được
Viện Sinh học Nông nghiệp - Học viện Nông nghiệp Việt Nam nhập nội năm 2016 và đã tiến hành khảo
nghiệm tác giả, khảo nghiệm cơ bản và khảo nghiệm sản xuất ở các vùng sinh thái khác nhau (Trung du
miền núi phía Bắc, đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung bộ). Giống Bliss có một số đặc điểm chính: sinh
trưởng tốt, tính thích ứng rộng, thời gian sinh trưởng từ 95 – 100 ngày, thân nửa đứng, hoa trắng, củ tròn,
mắt củ nông, thịt củ trắng, thời gian ngủ nghỉ dài. Năng suất trung bình đạt 25,5 tấn/ha, cao hơn giống đối
chứng (Atlantic) 29,5%. Phân tích các chỉ tiêu chất lượng cho thấy giống Bliss đạt 89,8% củ thương phẩm,
21,1% chất khô. Hàm lượng đường khử và sự đổi mầu sau chế biến tương tự giống Atlantic. Giống khoai tây
Bliss được công nhận sản xuất thử theo Quyết định số 245/QĐ-TT-CLT ngày 31 tháng 07 năm 2019.
Từ khóa: Chất khô, chế biến chip, đường khử, khoai tây, tuyển chọn giống.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Xu hướng sản xuất khoai tây của thế giới đang
chuyển dần từ các nước phát triển sang các nước
đang phát triển. Diện tích trồng khoai tây của các
nước đang phát triển tăng từ 15,1% năm 1965 lên
51,0% năm 2017 (Nguồn: FAOSAT, 2017), sản lượng
đạt 121 triệu tấn chiếm 37 - 39% sản lượng khoai tây
toàn cầu. Có thể nói khoai tây là một trong những
cây trồng quan trọng của châu Á Thái Bình Dương,
nhưng do sự khác biệt về trình độ công nghệ nên
năng suất khoai tây ở vùng này rất khác biệt (Đông
Timor chỉ đạt 2,5 tấn/ha, trong khi ở Úc đạt 44,5
tấn/ha). Đáng chú ý, năng suất của lúa và lúa mỳ đã
xem như “chạm trần” trong khi năng suất của khoai
tây còn có thể tiếp tục nâng cao vì năng suất tiềm
năng theo lý thuyết tới 70 tấn/ha (Singh, 2008).
Khoai tây chiên lát (chip) là sản phẩm chế biến
rất phổ biến, mỗi năm đem lại doanh thu 16,4 tỷ đô la
Mỹ (2005), chiếm 35,5% tổng doanh thu của các loại
thực phẩm ăn nhanh (snacks) toàn cầu (Wikipedia,
2005). Ở Việt Nam, ngành chế biến khoai tây đang
phát triển rất mạnh mẽ và mở ra hướng đi mới cho
ngành sản xuất khoai tây. Khác với khoai tây ăn tươi,
khoai tây chế biến chip phải đạt được những chỉ tiêu
khắt khe về hình dáng củ, độ sâu mắt củ, hàm lượng
tinh bột, đường khử,.. nên bộ giống khoai tây dùng
cho chế biến ở nước ta còn rất hạn chế.
1 Viện Sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam *Email: [email protected]
Hiện nay, giống khoai tây duy nhất dùng cho
chế biến là Atlantic, bởi vì có hàm lượng chất khô
cao, hàm lượng đường khử thấp. Tuy nhiên, giống có
một số nhược điểm như thời gian sinh trưởng hơi dài
(>100 ngày), mẫn cảm với bệnh sương mai, đặc biệt
là tỉ lệ củ thương phẩm bị nứt và rỗng ruột cao, do đó
ảnh hưởng đến kinh tế của người sản xuất và chất
lượng sản phẩm sau khi chế biến. Chính vì vậy, việc
tiến hành khảo nghiệm giống khoai tây mới nhằm đa
dạng hóa cơ cấu giống trồng trong sản xuất phục vụ
công nghiệp chế biến là điều cần thiết.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Vật liệu
06 giống (Amanda; Bliss; Doobak; Opal;
Toscana; Ultra) được Viện Sinh học nông nghiệp
nhập khẩu từ năm 2016. Giống Atlantic (giống đối
chứng) có nguồn gốc từ Mỹ, là giống thích hợp cho
chế biến chip được Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn cho phép sản xuất rộng rãi trên cả nước
năm 2007. 04 Giống (Amanda, Opal, Toscana, Ultra)
có nguồn gốc từ Đức. Giống Bliss có nguồn gốc từ
Úc. Giống Doobak có nguồn gốc từ Hàn Quốc.
2.2. Phương pháp
Bố trí thí nghiệm: (i) Thí nghiệm khảo nghiệm
tác giả, khảo nghiệm cơ bản, mật độ, phân bón bố trí
theo quy chuẩn Quốc gia về khảo nghiệm giá trị
canh tác và sử dụng của giống khoai tây (QCVN 01-
59: 2011/BNNPTNT); (ii) Khảo nghiệm sản xuất,
giống Bliss được trồng không lặp lại với quy mô diện
tích từ 1000 m2 đến 5 ha, các biện pháp kỹ thuật canh
tác áp dụng theo quy trình sản xuất khoai tây thương
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 131
phẩm của Trương Văn Hộ (2010); (iii) Đánh giá đặc
điểm nông sinh học, hình thái, sâu bệnh, các yếu tố
cấu thành năng suất và năng suất theo quy chuẩn
Quốc gia (QCVN 01-59:2011/BNNPTNT); (iv) Các
chỉ tiêu chất lượng theo phương pháp của Tiemens-
Hulscher và cs, (2013).
Xử lý số liệu: số liệu được xử lý bằng phần mềm
thống kê SAS 9.3 (2013)
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khảo nghiệm tác giả
3.1.1. Một số đặc điểm sinh trưởng của các giống khảo nghiệm
Bảng 1: Đặc điểm sinh trưởng của các giống khảo nghiệm (sau trồng 60 ngày)
(*)Trong cùng một cột, chữ cái giống nhau không có sự sai khác có ý nghĩa ở mức 95%; chú ý: sinh trưởng
của cây: 3 - kém; 5 - trung bình; 7 - tốt. Ở thời điểm sau trồng 60 ngày đã có sự khác
nhau rõ rệt giữa các giống, giống Opal có số lá/thân
cao nhất (18,0 lá/thân), tiếp đó là các giống Atlantic,
Ultra, Doo-bak có số lá/thân trung bình và gần bằng
nhau (xấp xỉ 15 lá/thân), nhóm có số lá ít hơn gồm
Bliss, Amanda và Toscana. Giống Amanda và giống
Toscana có số lá/thân thấp nhất. Chiều cao cây của
các giống ở thời điểm này cũng có sự sai khác, giống
có chiều cao lớn nhất là Opal với 54,2 cm, thấp nhất
là giống Toscana với 40,5 cm. Số thân trên khóm của
các giống tham gia khảo nghiệm có sự khác biệt lớn,
dao động từ 3,7 thân đến 8,1 thân/khóm. Các giống
(Amanda; Opal; Ultra) có số thân/khóm thấp hơn
giống đối chứng, chỉ đạt từ 3,7 đến 4,7 thân/khóm.
Ngược lại, giống Bliss có số thân/khóm nhiều nhất
(đạt 8,1 thân). Các giống còn lại (Doo-bak và
Toscana) không có sự sai khác nhiều so với giống
đối chứng.
Tất cả các giống khảo nghiệm đều tốt (đạt 7
điểm), trừ giống Amanda (đạt 5 điểm). Giống
Atlantic có hoa mầu tím đặc trưng và ra hoa nhiều kể
từ 30 - 40 ngày sau trồng. Giống Bliss và giống Doo-
bak có hoa mầu trắng và ra hoa vào khoảng 40 ngày
sau trồng với số lượng ít. Giống Opal có hoa mầu tím
nhạt, ra hoa không tập trung (kéo dài từ 50 đến 70
ngày sau trồng). Các giống còn lại không thấy xuất
hiện hoa. Giống Bliss có độ dài tia củ tương tự giống
Atlantic và giống Amanda, 04 giống (Doo-bak, Opal,
Toscana, Ultra) đều cho tia củ ngắn. Giống Atlantic
và giống Bliss có thời gian sinh trưởng dài nhất (100
ngày), trong đó giống Opal có thời gian sinh trưởng
ngắn nhất (85 - 87 ngày), các giống còn lại đều có
thời gian sinh trưởng xung quanh 90 ngày. Các giống
Atlantic, Amanda, Toscana có dạng thân đứng, trong
khi chỉ có giống Doobak dạng thân nằm, các giống
còn lại có dạng thân nửa đứng.
Để có được hiệu suất quang hợp tối ưu, cũng
như các loại cây trồng, khoai tây cần có bộ tán lá phủ
kín mặt đất, chỉ số diện tích tán lá đạt từ 3 đến 5, tốt
nhất là 3,8 (Taguchi và cs, 1970; Struik và Wiersema,
1999). Taguchi và cs (1970) cũng chỉ ra rằng lá có
công năng cao nhất là lá thứ 14, sau đó thứ tự là các
lá 13, 12, 11 có hiệu suất quang hợp bằng 70 - 90% lá
thứ 14, còn lá thứ 1 đến lá thứ 10 quang hợp chỉ bằng
40 - 60% lá thứ 14. Trong thí nghiệm đã cho thấy
giống Amanda có số lá ít nhất (13,8 lá), các giống còn
lại đều có số lá lớn hơn 14 và các giống Bliss, Ultra,
Atlantic có độ che phủ tốt nhất.
Các nghiên cứu của Mariana và cs (2006), Đào
Mạnh Hùng (1996) chỉ ra rằng cây khoai tây có thời
gian sinh trưởng ngắn thì tốc độ sinh khối ít hơn, củ
hình thành và phát triển nhanh hơn, năng suất thấp
hơn. Ngược lại, khoai có thời gian sinh trưởng dài thì
tốc độ sinh khối lớn hơn, củ hình thành và phát triển
Tên giống Số lá
(lá)
Cao
cây
(cm)
Số
thân
/khóm
Đường
kính
thân
(mm)
Thời
gian
ST
(ngày)
Sinh
trưởng
của cây
(3-5-7)
Dạng
cây
Màu sắc
hoa
Độ dài
tia củ
Dạng
củ
Atlantic (đ/c) 15,9b* 51,3c 5,5cd 11,0a 100,0 7,0 Đứng Tím TB Tròn
Amanda 13,8e 43,0e 3,7e 9,8c 92,0 5,0 Đứng - TB Oval tròn
Bliss 14,9c 50,5c 8,1a 9,2d 100,0 7,0 Nửa đứng Trắng TB Tròn
Doo-bak 15,6b 46,2d 5,5cd 10,1c 90,0 7,0 Nằm Trắng Ngắn Tròn
Opal 18,0a 56,2a 4,7d 10,5b 87,0 7,0 Nửa đứng Tím nhạt Ngắn Oval
Toscana 13,5e 40,5g 6,1b 9,4d 90,0 7,0 Đứng - Ngắn Oval dài
Ultra 15,8b 54,6b 4,5d 10,2c 96,0 7,0 Nửa đứng - Ngắn Oval
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 132
chậm hơn, năng suất cao hơn. Thời gian sinh trưởng
của giống Bliss tương tự giống Atlantic và dài hơn
các giống khác từ 5 ngày đến 10 ngày, như vậy tiềm
năng năng suất giống này sẽ cao.
3.1.2. Mức độ nhiễm sâu bệnh và khả năng chống chịu của các giống
Tất cả các giống tham gia khảo nghiệm đều
(bảng 2) không bị nhiễm bệnh héo xanh vi khuẩn.
Đối với bệnh sương mai, giống Atlantic có mức độ
nhiễm trung bình và tỷ lệ nhiễm cao hơn các giống
khác. Các loại sâu hại khác đều gây hại ở mức nhẹ.
Các nghiên cứu của Nguyễn Tất Thắng và cs (2011)
cho rằng bệnh héo xanh vi khuẩn (Raltonia
solanacearum) xuất hiện và gây hại rất phổ biến trên
cây khoai tây ở vùng Hà Nội và phụ cận. Tỷ lệ bệnh
càng tăng khi duy trì củ giống qua các đời càng
nhiều (Dao Huy Chien và cs, 2016). Tương tự đối với
bệnh virus, củ mới nhập nội thì hầu như không bị
nhiễm virus và củ giống càng được nhân vô tính
nhiều đời tại Việt Nam thì tỷ lệ bệnh virus càng cao
(Trương Hồng Thị Minh, 2006; Nguyễn Quang
Thạch, 1993; Nguyễn Quang Thạch và cs, 2004;
Nguyễn Văn Viết, 1990). Các giống khảo nghiệm
trong thí nghiệm này cũng không bị nhiễm bệnh héo
xanh và bệnh virus (trừ giống Doobak).
Bảng 2. Mức độ nhiễm sâu bệnh hại chính của các giống khảo nghiệm (60 ngày sau trồng)
Tên giống
Sâu xám
(% số
cây/ô)
Bọ trĩ
(1-9)
Nhện
(1-9)
Rệp gốc
(1-9)
Virus
(% số
cây/ô)
Sương
mai
(1-9)
Héo xanh
(% số
cây/ô)
Atlantic (Đ/C 1) 1,2 1-3 1 1 0,0 3-5 0,0
Amanda 0,8 1-3 1 1 0,0 1-3 0,0
Bliss 0,8 1-3 1 1 0,0 1-3 0,0
Doo-bak 0,8 3-5 1 1 2,5 1-3 0,0
Opal 0,7 1-3 1 1 0,0 1-3 0,0
Toscana 0,9 1-3 1 1 0,0 1-3 0,0
Ultra 0,7 1-3 1 1 0,0 1-3 0,0
Ghi chú: - Rệp gốc, Bọ trĩ, Nhện: 0 - không bị bệnh; 1 - Nhẹ; 3 - Một số cây bị hại; 5 - Trung bình (tất cả
các cây có lá bị hại); 7 - Trên 50% số cây bị chết, số cây còn lại ngừng sinh trưởng; 9 - Chết hoàn toàn; - Sương
mai: 1 (không bị bệnh), 3 (nhẹ), 5 (trung bình), 7 (nặng), 9 (rất nặng).
3.1.3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng
suất của các giống khảo nghiệm
Số củ trung bình trên khóm của Amanda là cao
nhất (7,4 củ/ khóm) và thứ 2 là Toscana (7,0
củ/khóm), Atlantic là giống có số củ thấp nhất và có
sự sai khác ở mức 95%. Năng suất lý thuyết và năng
suất thực thu của giống Bliss và Ultra có năng suất
cao hơn giống đối chứng Atlantic từ 20,0% đến 55,0%
và có sai khác ở mức ý nghĩa 95%. Các giống còn lại
có sự chênh lệch không nhiều so với giống đối
chứng. Số liệu ở bảng 3 cho thấy, giống Atlantic và
giống Bliss có tỷ lệ củ thương phẩm cao nhất
(>80,0%), tiếp đến là giống Ultra và Doo-bak (>60,0%),
trong khi đó giống Opal và giống Toscana có tỷ lệ củ
thương phẩm thấp nhất (31,2%).
Bảng 3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống khảo nghiệm
Phân loại củ theo đường kính (cm) Tên giống
Số
củ/khóm
NSLT
(tấn/ha)
NSTT
(tấn/ha) > 5,0 (3,5 - 5,0 < 3,5
Atlantic (đ/c) 3,6b(*) 20,6bc 15,4c 83,3a 11,1e 5,5c
Amanda 7,4a 18,4cd 12,9cd 18,9cd 64,8c 21,6a
Bliss 6,0a 25,0a 17,5b 81,0a 15,0e 5,0c
Doo-bak 3,8b 18,4cd 12,9cd 63,1bc 26,3d 5,2c
Opal 5,6ab 19,2bc 13,4cd 32,1c 67,8ab 0,0e
Toscana 7,0a 20,7bc 14,5c 31,2bc 68,8ab 0,0e
Ultra 5,0ab 27,0a 18,9a 68,0b 28,0d 4,0d (*)Trong cùng một cột, chữ cái giống nhau không có sự sai khác có ý nghĩa ở mức 95%.
Các nghiên cứu trước đây của Lê Thị Trang
(2013); Nguyễn Văn Hồng và cs (2010a) cho thấy
giống Atlantic có năng suất tương đối cao (khoảng 20
tấn/ha), kết quả này hoàn toàn khác với nghiên cứu
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 133
của chúng tôi. Sự khác biệt này rất có thể do chúng
tôi trồng vào vụ xuân (ngày trồng 26 tháng 12), ở
thời điểm này nhiệt độ thấp nên cây mọc chậm,
nhưng giai đoạn phát triển củ, nhiệt độ lại cao nên
cây xuống dây sớm, dẫn đến năng suất không cao.
Ewing và Struik (1992) có nhận xét: sự phát triển tối
ưu của củ khoai tây khi nhiệt độ ban ngày 20oC, ban
đêm 14oC. Nếu nhiệt độ ban ngày ở mức 21oC - 24oC,
ban đêm 18oC hoặc thấp hơn một chút, khoai tây
cũng cho năng suất cao. Tuy nhiên, ở những nước
vùng nhiệt đới (như Việt Nam) trồng khoai tây trong
điều kiện ngày ngắn dưới 12 giờ/ngày nên hình
thành củ sớm ngay khi thân lá còn trong giai đoạn
đang phát triển dẫn đến năng suất không cao
(Trương Văn Hộ, 2010). Mặt khác nếu cường độ ánh
sáng quá cao cũng gây ra tạo củ sớm, ra hoa nhanh
dẫn đến thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất củ
thấp (Beukema và Van der Zaag, 1990).
3.1.4. Chất lượng của các giống khảo nghiệm sau
thu hoạch và chế biến
Số liệu ở bảng 4 cho thấy giống Atlantic và Doo-
bak có tỷ lệ nứt củ khá cao (từ 15,2 đến 15,5%), trong
khi đó các giống còn lại không bị nứt củ. Không có
giống nào bị ở tiêu chí củ rỗng ruột. Hàm lượng chất
khô của các giống dao động từ 18,6% đến 25,3%, thấp
nhất là giống Toscana và cao nhất là giống Atlantic.
Đánh giá về hàm lượng tinh bột của các giống cho
thấy giống Bliss có hàm lượng tinh bột tương đương
với giống Atlantic, các giống còn lại đều thấp hơn từ
0,9% đến 1,9%. Ở chỉ tiêu hàm lượng đường khử, các
giống Amanda, Bliss, Doo-bak có chỉ số tương đương
với giống Atlantic, các giống còn lại đều cao hơn
giống đối chứng. Mầu lát cắt củ sau khi chiên ở các
giống có sự khác biệt, giống Amanda, giống Bliss,
giống Doo-bak có mầu tương đương với giống đối
chứng (Atlantic). Các giống (Toscana, Ultra) có mầu
vàng tối (chỉ đạt điểm 5).
Bảng 4. Chất lượng củ của các giống khảo nghiệm (sau thu hoạch)
Tên giống Nứt củ
(%)
Củ rỗng
ruột
(%)
Hàm lượng
chất khô
(% chất tươi)
Hàm lượng
tinh bột
(% chất tươi)
Đường khử
(% chất tươi)
Mầu lát
cắt sau
chiên
Atlantic (đ/c) 15,5 0,0 25,38a(*) 17,1a 0,42a 9
Amanda 0,0 0,0 21,99c 15,7d 0,46b 7
Bliss 1,0 0,0 25,32a 16,9a 0,42a 9
Doo-bak 15,2 0,0 22,96c 15,7d 0,45b 9
Opal 0,0 0,0 23,52b 15,3e 0,50c 7
Toscana 0,0 0,0 18,63e 15,3e 0,54d 5
Ultra 0,0 0,0 19,49e 14,9f 0,54d 5 (*) Trong cùng một cột, chữ cái giống nhau không có sự sai khác có ý nghĩa ở mức 95%.
Cây khoai tây có hàm lượng chất khô dao động
từ 13,7% đến 34,8% tùy giống (Trương Văn Hộ, 2010),
trong thí nghiệm này giống Bliss có hàm lượng chất
khô tương đương với giống Atlantic (25,3%), tiếp đến
là giống Doo-bak (22,9%), giống Amanda (21,9%).
Giống Toscana và giống Ultra có hàm lượng thấp
nhất (< 20,0%). Củ khoai có lượng đường cao (nhất là
đường khử) khi đem chế biến thì sản phẩm như
"potato chip", "french fries" hoặc rán nấu thì miếng
khoai có màu vàng nâu thậm chí màu nâu đen, món
ăn kém hương vị (Murniece và cs, 2010). Smith
(1987) cho rằng trong công nghệ sản xuất chip khoai
tây cần duy trì được màu sắc của các lát cắt rán chip
là điều quan trọng. Trong các giống khảo nghiệm chỉ
có giống Bliss, giống Doo-bak và giống Amanda đạt
điểm 9, tương đương giống Atlantic, các giống còn lại
đều không đạt yêu cầu. Các nghiên cứu trước đây
cho thấy hàm lượng đường khử trong củ khoai tây
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống (Nguyễn Văn
Hồng và cs, 2010a; Đào Huy Chiên và cs, 2016), phụ
thuộc phân bón (Beukema và Van der Zaag, 1990),
phụ thuộc vào điều kiện canh tác (Burton và Wilson,
1970; Nguyễn Văn Hồng và cs, 2010b). Brandt (1979)
cho rằng, 3 yếu tố ảnh hưởng quan trọng nhất đến
màu sắc của chip là hàm lượng chất khô, hàm lượng
đường khử và nhiệt độ ruột củ. Trương Văn Hộ
(2010) cho rằng các giống khoai tây nếu có hàm
lượng đường khử nhỏ hơn 0,5% đều có khả năng làm
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến chip. Kết quả
nghiên cứu trong thí nghiệm này cho thấy có 03
giống (Bliss; Amanda; Doo-back) có hàm lượng
đường khử thấp hơn ngưỡng yêu cầu, tuy nhiên chỉ
có giống Bliss là không có sự sai khác so với giống
đối chứng Atlantic ở mức có ý nghĩa 95%.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 134
3.2. Khảo nghiệm cơ bản
Từ kết quả khảo nghiệm tác giả, đã chọn giống
Bliss để tiến hành khảo nghiệm cơ bản ở 03 vụ (vụ
đông 2017, vụ xuân 2018, và đông 2018) tại vùng
đồng bằng Sông Hồng, vùng trung du miền núi phía
Bắc và Bắc Trung bộ.
3.2.1. Đặc diểm sinh trưởng, khả năng thích ứng
và mức độ nhiễm sâu bệnh hại của giống Bliss và
giống Atlantic
Kết quả ở bảng 5 cho thấy qua 3 vụ khảo nghiệm
khả năng thích ứng của hai giống đều cao (đạt 1,0
điểm), sức sinh trưởng tốt (7,0 điểm) và thời gian từ
trồng đến mọc ngắn (12 - 13 ngày). Độ đồng đều
giữa các khóm của giống Bliss (7,0 điểm) cao hơn so
với giống Atlantic (6,3 điểm). Ngày mọc, ngày xuống
dây, cũng như độ dài tia củ của hai giống tương
đương nhau.
Bảng 5: Một số đặc điểm sinh trưởng và khả năng thích ứng của giống
Tên giống Ngày
mọc
Ngày
xuống
dây
Sinh trưởng
của cây
(3-5-7)
Độ đồng đều
giữa các khóm
(3-5-7)
Độ dài
tia củ
Khả năng
thích ứng
(1-5)
Vụ Đông 2017
Bliss 12 88 7,0 7,0 Ngắn 1,0
Atlantic (đ/c) 13 89 7,0 6,3 Trung bình 1,0
Vụ Xuân 2018
Bliss 19 79 7,0 7,0 Trung bình 1,0
Atlantic (đ/c) 19 78 7,0 7,0 Trung bình 1,6
Vụ Đông 2018
Bliss 12 81 7,0 7,0 Trung bình 1,0
Atlantic (đ/c) 13 81 7,0 7,0 Trung bình 1,0
Nguồn: Trích báo cáo kết quả Khảo nghiệm vụ Đông 2017, Xuân 2018 và vụ Đông 2018 của Trung tâm
KKNG&SPCT Quốc gia.
Chú ý: - Sinh trưởng của cây và độ đồng đều giữa các khóm: (3-kém; 5-trung bình; 7-tốt); - Khả năng thích ứng: (1-không bị hại; 2-hại nhẹ phục hồi nhanh; 3-hại trung bình, phục hồi chậm; 4-hại nặng, phục hồi kém; 5-
chết hoàn toàn).
Bảng 6: Mức độ nhiễm sâu bệnh hại chính của các giống khảo nghiệm
Tên giống Mốc sương
(1-9)
Đốm lá
(1-9)
Virus
(% số cây/ô)
Héo xanh
(% số cây/ô)
Rệp gốc
(0-9)
Nhện
(0-9)
Vụ Đông 2017
Bliss 1-3 1 0,0 0,0 0,0 1,0
Atlantic (đ/c) 1-5 1 1,3 0,0 0,0 1,0
Vụ Xuân 2018
Bliss 1-3 1-3 0,0 0,0 0,0 3-5
Atlantic (đ/c) 3 1-3 0,0 0,0 0,0 3-5
Vụ Đông 2018
Bliss 1 1 1,5 0,0 0,0 1,0
Atlantic (đ/c) 1 1 1,1 0,0 0,0 1,0
Nguồn: Trích báo cáo kết quả Khảo nghiệm vụ Đông 2017, Xuân 2018 và vụ Đông 2018 của Trung tâm KKNG&SPCT Quốc gia.
Chú ý: Mốc sương: 1-không bị bệnh; 3-Nhẹ; 5-Trung bình; 7-Nặng; 9-Rất nặng; Rệp gốc, Bọ trĩ: 0-không
bị; 1-Nhẹ; 3-một số cây bị hại; 5-Trung bình (tất cả các cây có lá bị hại); 7-trên 50% số cây bị chết, số còn lại
ngừng sinh trưởng; 9-chết hoàn toàn. Kết quả khảo nghiệm cho thấy trên cả ba vụ
khảo nghiệm, hai giống đều biểu hiện bệnh đốm lá,
mốc sương và rệp, nhện, bọ trĩ nhưng ở mức độ nhẹ.
Không có dấu hiệu nhiễm bệnh héo xanh và rệp gốc
ở hai giống (Bảng 6).
3.2.2. Năng suất, chất lượng của các giống tại các
điểm khảo nghiệm
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 135
Bảng 7: Năng suất thực thu (tấn/ha) của các giống tại các điểm khảo nghiệm
Điểm khảo nghiệm
Tên giống Hà Nội Thái Bình Bắc Giang Thanh Hóa Trung bình
Vụ đông 2017
Bliss 27,8 25,5 25,0 27,21 26,37
Atlantic (đ/c) 21,7 18,4 19,1 19,60 19,70
CV% 5,0 5,9 6,9 6,1
LSD 0,05 (tấn/ha) 2,2 2,5 2,9 4,68
Vụ xuân 2018
Bliss 27,14 26,96 29,44 21,18 26,18
Atlantic (đ/c) 24,48 22,1 22,59 17,05 21,55
CV% 6,3 7,9 7,9 7,6
LSD 0,05 (tấn/ha) 2,9 3,5 3,6 3,49
Vụ đông 2018
Bliss 26,92 22,45 21,47 26,83 24,41
Atlantic (đ/c) 28,96 17,17 23,21 21,27 22,65
CV% 3,7 7,8 8,2 7,5
LSD 0,05 (tấn/ha) 2,2 3,2 3,8 4,92
Nguồn: Trích báo cáo kết quả Khảo nghiệm vụ Đông 2017, Xuân 2018 và vụ Đông 2018 của Trung tâm
KKNG&SPCT Quốc gia.
Kết quả ở bảng 7 cho thấy năng suất thực thu
của hai giống khảo nghiệm có sự khác biệt rõ rệt, tại
Thái Bình Atlantic chỉ đạt được 18,4 tấn/ha, trong
khi đó Bliss đạt tới 25,5 tấn/ha. Tại Bắc Giang tương
tự, giống Bliss đạt tới 25,0 tấn/ha trong khi đó
Atlantic chỉ đạt 19,1 tấn/ha, cao nhất tại điểm khảo
nghiệm Hà Nội Bliss đạt tới 27,8 tấn/ha, còn Atlantic
chỉ đạt được 21,7 tấn/ha. Ở ba điểm khảo nghiệm
Bliss cho năng suất (trung bình 26,5 tấn/ha) cao và
có ý nghĩa hơn hẳn (tăng 16,79%) so với giống
Atlantic (trung bình đạt 21,3 tấn/ha).
3.2.3. Đánh giá chất lượng của các giống qua các
vụ khảo nghiệm
Bảng 8: Đánh giá chất lượng của các giống khảo nghiệm
Chỉ tiêu chất lượng
Tên giống Thử nếm (1-5) Độ bở khi luộc (1-5) Hàm lượng chất khô (%) Hàm lượng tinh bột (%)
Vụ Đông 2017
Bliss 2,9 1,4 20,15 13,48
Atlantic (đ/c) 3,0 1,7 18,25 11,87
Vụ Xuân 2018
Bliss 3,1 2,7 - -
Atlantic (đ/c) 2,6 2,2 - -
Vụ Đông 2018
Bliss 3,1 2,9 - -
Atlantic (đ/c) 2,4 2,6 - -
Nguồn: Trích báo cáo kết quả Khảo nghiệm vụ Đông 2017, Xuân 2018 và vụ Đông 2018 của Trung tâm KKNG&SPCT Quốc gia.
Chú ý: Chất lượng thử nếm sau luộc: 1-rất ngon; 2-ngon; 3-trung bình; 4-không ngon; 5-rất dở; độ bở sau luộc:
1-bở; 2-ít bở; 3-không bở.
Số liệu bảng 8 cho thấy độ ngon chất lượng thử
nếm sau luộc của hai giống Bliss (2,9 điểm) và giống
Atlantic (3,0 điểm) là tương đương nhau. Do hàm
lượng tinh bột của giống Bliss (13,48%) cao hơn
giống Atlantic (11,87%) nên giống Bliss (1,4 điểm) bở
hơn nhưng không đáng kể so với giống Atlantic (1,7
điểm). Hàm lượng chất khô của giống Bliss đạt tới
20,15% cao hơn nhiều và khác biệt so với giống
Atlantic chỉ đạt 18,25%.
3.3. Khảo nghiệm sản xuất
3.3.1. Năng suất và chất lượng của các giống ở
các vùng khảo nghiệm
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 136
Giống Bliss được khảo nghiệm sản xuất ở 3 vụ
liên tiếp trên 6 tỉnh thuộc ba vùng sinh thái của Bắc
Việt Nam, kết quả cho thấy giống khoai tây Bliss có
sức sinh trưởng khỏe, độ đồng đều cao, khả năng
thích ứng rộng. Năng suất trung bình của giống Bliss
đạt 26,0 tấn/ha, cao hơn giống Atlantic 26,3% (giống
Atlantic chỉ đạt 19,21 tấn/ha). Khi xem xét đến số
lượng khoai thương phẩm đạt tiêu chí làm nguyên liệu
(cỡ củ > 4,8 cm, củ không bị nứt, củ không xanh, củ
không bị rỗng ruột) cho thấy giống Bliss có củ thương
phẩm đạt yêu cầu từ 17,0 – 18,1 tấn/ha, trong khi đó
giống Atlantic đạt từ 12,3 – 13,2 tấn/ha (bảng 9).
Bảng 9: Năng suất và chất lượng của các giống khảo nghiệm
Trong đó Vụ khảo
nghiệm
Vùng khảo
nghiệm Tên giống
Năng suất
(tấn/ha) Khoai đạt
chuẩn Củ nứt
Củ xanh,
củ nhỏ
Bliss 25,8 17,3 3,5 5,0 Trung du
phía Bắc Atlantic 20,2 12,7 4,6 2,9
Bliss 25,2 18,4 3,1 3,8 Đồng bằng sông
Hồng Atlantic 20,2 14,7 4,2 1,4
Bliss 24,8 16,7 3,6 4,5 Thanh Hóa
Atlantic 20,9 13,4 4,4 3,1
Bliss 25,3 17,5 3,4 4,4
Đông
2017
Trung bình Atlantic 20,4 13,6 4,4 2,5
Bliss 26,3 16,7 3,7 5,8 Trung du
phía Bắc Atlantic 21,5 12,3 6,1 3,1
Bliss 26,0 17,5 3,4 5,1 Đồng bằng sông
Hồng Atlantic 22,1 15,0 4,0 3,1
Bliss 23,7 16,8 3,5 3,4 Thanh Hóa
Atlantic 19,8 13,1 4,2 2,5
Bliss 25,3 17,0 3,5 4,8
Xuân
2018
Trung bình Atlantic 21,1 13,5 4,8 2,9
Bliss 26,2 16,7 4,0 5,5 Trung du
phía Bắc Atlantic 21,4 12,7 6,5 2,2
Bliss 27,4 18,6 2,9 6,0 Đồng bằng sông
Hồng Atlantic 21,2 15,4 4,5 1,3
Bliss 26,8 18,1 3,1 5,5 Thanh Hóa
Atlantic 21,3 14,5 5,2 1,6
Bliss 26,8 17,8 3,3 5,7
Đông
2018
Trung bình Atlantic 21,3 14,2 5,4 1,7
3.3.2. Đánh giá hiệu quả sản xuất của các giống khảo nghiệm Bảng 10: Hiệu quả sản xuất giống Bliss với giống Atlantic vùng đồng bằng sông Hồng
Đơn vị tính: đồng
Giống TT Nội dung chi
Atlantic Bliss
I Tổng chi phí (đồng/ha) 74.520.000 79.800.000
1 Giống (đồng/ha) 29.400.000 29.400.000
2 Phân bón (hữu cơ, vô cơ) 14.000.000 14.000.000
3 Thuốc BVTV (đồng) 2.800.000 2.800.000
4 Tiền công (lao động phổ thông và máy móc) 33.600.000 33.600.000
II Sản lượng khoai đạt chuẩn (trung bình 3 vụ) 13,8 17,4
III Tổng thu 99.040.000 125.440.000
IV (III - I) Lợi nhuận (đồng/ha) 24.520.000 45.640.000
Ghi chú: - Giá giống: (Atlantic 20.100.000 đồng/tấn, Bliss 24.500.000 đồng/tấn); lượng giống cho 1 ha:
1.200 kg; Giá vật tư nông nghiệp tính theo giá thị trường; công lao động tính theo công vùng miền; thuốc BVTV cho 1 ha: 2.800.000 đồng; giá thu mua khoai tây thương phẩm đạt tiêu chuẩn: 7.200 đồng/kg.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 137
Số liệu ở bảng 10 cho thấy tuy giá giống khoai
Bliss cao hơn giống Atlantic, nhưng giống khoai tây
Bliss cho sản lượng trung bình trong 3 vụ cao hơn rõ
rệt so với giống đối chứng Alantic, vì vậy lợi nhuận
đạt 45,640 triệu đồng/vụ/ha trong khi đó giống
khoai tây Atlantic chỉ đạt 24,520 triệu đồng/vụ/ha.
4. KẾT LUẬN
Giống khoai tây Bliss có một số đặt điểm:
- Cây có sức sinh trưởng tốt, thời gian sinh
trưởng từ 95 - 100 ngày, lá màu xanh nhạt, lá mỏng và
nhiều lông, thân cao trung bình dạng nửa đứng, hoa
mầu trắng và ra hoa rộ từ 40 - 50 ngày sau trồng.
- Giống Bliss có tia củ trung bình, củ dạng tròn,
vỏ vàng nhạt, mắt củ nông, thịt củ trắng.
- Giống Bliss có tiềm năng năng suất cao (đạt từ
23,7 đến 27,4 tấn/ha) và có tỷ lệ củ thương phẩm đủ
tiêu chuẩn của nhà máy cao.
- Giống Bliss có hàm lượng chất khô (20,5%),
hàm lượng đường khử (0,42%) và mầu của lát cắt sau
chiên tương đương giống Atlantic. Chính vì vậy giống
Bliss là giống khoai tây phù hợp cho công nghiệp
chế biến chip.
LỜI CẢM ƠN:
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Vĩnh Phúc đã hỗ trợ một phần
kinh phí thực hiện nghiên cứu này (mã số 58/ĐTKHVP-2018).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brandt F. I. (1979). Computer programming
technique for selection of processing conditions for
optimum color development in potato chips. Diss.
Abstr. Int. B. 39: 3219- 3220.
2. Beukema H. P and D. E. van der Zaag. 1990.
Introduction to potato production. Pudoc,
Wageninger. The Netherlands, pp. 108.
3. Burton W. G and A. R. Wilson (1970). The
apparent effect of the latitude of the place of
cultivation upon the sugar content of potato grown in
Great Britain. Potato Rerearch 13: 269-283.
4. Dao H. C, Z. N. Ganga, D.K. Simongo, C. G.
Kiswa, I. C. Gonzales, J. Perez, X. T. Pham, T. H.
Nguyen, K. Artola, J. P. T. Valkonen, C. Li, and P.
VanderZaag (2016). The Adoption of Cv. Igorota in
the Philippines and Vietnam. American Journal of
Potato Research. DOI 10.1007/s12230-016-9503-y.
5. Đào Mạnh Hùng (1996). Đánh giá khả năng
sử dụng các giống khoai tây nhập nội từ Đức vào một
số tỉnh phía Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sỹ khoa học
Nông nghiệp, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp
Việt Nam, Hà Nội. Tr. 70-85.
6. Ewing E. E and P. C. Struik (1992). Tuber
formation in potato: introduction, initiation and
growth. Horticultural Reviews 14:89-198.
7. https://en.wikipedia.org/wiki/Potato_chip
(2005)
8. http://www.fao.org/faostat/en/#data/QC/
Crop production/Potato (2017)
9. Lê Thị Trang (2013). Đánh giá khả năng sinh
trưởng, phát triển, phẩm chất của một số giống khoai
tây mới nhập nội và nghiên cứu kỹ thuật trồng giống
Sinora tại Yên Phong, Bắc Ninh. Luận văn Thạc sỹ
Khoa học Nông nghiệp. Trường Đại học Nông
nghiệp I Hà Nội.
10. Mariana R. F, B. Jordi and S. Prat (2006).
Seasonal control tuberization in Potato: Conserved
elements with the flowering response. Annu. Rev.
Plant Biol. 57:151-180.
11. Murniece I, D. Karklina, R. Galoburda, and
M. Sabovics (2010). Reducing sugar content and
colour intensity of fried Latvian potato varieties.
Latvia University of Agriculture 24(319): 20-30
12. Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về khảo
nghiệm giá trị canh tác và giá trị sử dụng của giống
khoai tây (QCVN 01-59: 2011/BNN&PTNT) (2011)
13. Nguyễn Văn Hồng, Nguyễn Quang Thạch,
Trương Thị Vịnh (2010a). Nghiên cứu khả năng sinh
trưởng, năng suất và chất lượng phục vụ chế biến của
một số giống khoai tây nhập nội tại Yên Phong, Bắc
Ninh. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Kỳ II, số 14, Tr. 33-39.
14. Nguyễn Văn Hồng, Nguyễn Quang Thạch,
Trương Thị Vịnh, Đặng Trần Trung (2010b). Các giải
pháp kỹ thuật trồng khoai tây chế biến chip (giống
Atlantic) tại vùng đồng bằng sông Hồng. Tạp chí
Khoa học và phát triển (Đại học Nông nghiệp Hà
Nội), tập 8- số 6- 2010b, Tr. 923- 934.
15. Nguyễn Quang Thạch (1993). Một số biện
pháp khắc phục sự thoái hóa giống khoai tây
(Solanum tuberosum L) ở Việt Nam. Luận án Tiến sỹ
khoa học nông nghiệp. Trường Đại học Nông nghiệp
I Hà Nội. Tr. 50-70
16. Nguyễn Quang Thạch, Nguyễn Xuân
Trường, Nguyễn Thị Lý Anh (2004). Ứng dụng công
nghệ cao trong sản xuất khoai tây sạch bệnh. Trung
tâm Thông tin - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Tr.26-27.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 138
17. Nguyễn Tất Thắng, Đỗ Tấn Dũng và Nguyễn
Văn Tuất (2011). Nghiên cứu bệnh héo xanh vi
khuẩn (Raltonia solanacearum Smith) hại cây khoai
tây vùng Hà Nội - Phụ cận và biện pháp phòng trừ.
Tạp chí Khoa học và Phát triển. Tập 9, số 5, Tr. 725-
734.
18. Nguyễn Văn Viết (1990). Điều kiện khí hậu
và cây khoai tây vụ đông ở đồng bằng Bắc bộ. Một số
kết quả nghiên cứu khoa học cây khoai tây 1986-
1990. Nxb Nông nghiệp, tr. 90-92.
19. Smith O. (1987). Potato processing: Effect of
cultural and environmental conditions on potato for
processing. AVI Book. Van Nostrand Reinhold
Company. New York.73-134.
20. Struik P. C and S. G. Wiersema (1999). Seed
Potato Technology. Wageningen Pers. Page. 33-47.
21. Singh H. P (2008). Policies and strategies
conducive to potato development in asia and the
pacific region In “Workshop to commemorate the
international year of the potato”. Procceding,
Bangkok, Thailand, Jul-2008. ISBN: 978-92-106005-6
22. Tiemens-Hulscher. M, J. Delleman, J. Eising,
E.T. Lammerts van Bueren (2013). Potato Breeding –
A pratical manual for the potato chain. Wageningen
University Publisher. Tr. 1-168
23. Trương Văn Hộ (2010). Cây khoai tây ở Việt
Nam. NXB Nông nghiệp. Tr. 25-40.
24. Trương Thị Hồng Minh (2006). Nghiên cứu
giải pháp duy trì chất lượng củ giống khoai tây, phục
vụ xây dựng hệ thống sản xuất khoai tây tỉnh Bắc
Giang. Luận văn Thạc sỹ Nông nghiệp. Trường Đại
học Nông nghiệp I Hà Nội. Tr. 50-61.
25. Taguchi. K, M. Yoshida, K. Nakasedo, and K.
Yoshida (1970). Physio-ecological studies in
potatoes. On the dry matter production. Memoirs of
Faculty of Agriculture, Hokkaido University 7: 33-41
(abstract).
RESULT OF SELECTION AND EVALUATION THE NEW POTATO VARIETY ‘BLISS’ FOR CHIP
PROCEESING
Nguyen Xuan Truong, Luong Van Hung, Vi Quoc Hien,
Pham Van Tuan, Vu Tien Dung, Do Thi Mai
Summary Potato variety ‘Bliss’, a suitable variety for chip processing, created by Australia in 1999. The Bliss variety
was imported and has been tetsted (breeder test, basic test, and production trials) in different ecological
regions (Northern midlands and mountains, Red river delta, North central) by Institute of Agro-Biology -
Vietnam National University of Agriculture since 2016. The ‘Bliss’ variety has some characters: well growth,
wide adaptability, middile-growing duration (95 - 100 days), semi-erect plant, white flower, round tuber,
shallow tuber eye, white flesh tuber, long dormancy time. The average yield of this variety is 25.5 tons per
ha, higher than Atlantic variery (control variety) 29.5%. Analysis of quality parameters showed that Bliss has
89.8% commercial tubers, 21.1% dry matter content. The reduced sugar content and post-processing
discoloration are similar to Atlantic variety. The Bliss potato variety is recognized by Ministry of Agriculture
and Rural Development for trial production under Decision No. 245/QD-TT-CLT dated July 31, 2019.
Keywords: dry matter, chip processing, reduced sugar, potato, variety selection.
Người phản biện: PGS.TS. Nguyễn Văn Viết
Ngày nhận bài: 8/8/2019
Ngày thông qua phản biện: 9/9/2019
Ngày duyệt đăng: 16/9/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 139
TUYỂN CHỌN VÀ ĐÁNH GIÁ TÍNH KHÁC BIỆT CỦA
GIỐNG CÂY DƯỢC LIỆU MỚI, SACHA INCHI S18
(Plukenetia volubilis L.) Ở VIỆT NAM Phạm Thị Ngọc Yến1, Nguyễn Thị Bích Hồng2, Nguyễn Văn Mười1, Vũ Văn Quang1,
Lê Văn Thành1, Vũ Thị Bích Ngọc1, Yvan Larondelle3, Nguyễn Thị Trâm1
TÓM TẮT Hạt giống Sacha inchi (Plukenetia volubilis L.) nhập nội từ Pêru (S0), gieo tại Học viện NNVN năm 2012,
trong vườn nghiên cứu xuất hiện một số biến dị tự nhiên khác biệt, có giá trị chọn giống. Sau khi thu lứa quả
đầu đã chọn cá thể tốt, cắt cành giâm, trồng theo dòng vô tính, tuyển chọn được dòng ưu tú đặt tên là S18.
Giống S18, có thời gian từ gieo đến thu hoạch lứa đầu là 242 ngày, ngắn hơn S0 (260 ngày), năng suất lứa đầu
đạt 0,95 tấn/ha, trong khi S0 đạt 0,83 tấn/ha. Tổng cộng 6 lần thu trong 3 năm 2016-2019, giống S18 có năng
suất vượt trội so với S0 (đạt 6,57 tấn/ha, so với S0 đạt 5,93 tấn/ha). Hạt Sacha inchi S18 có 48,6-49,8% dầu,
28,5-28,9% protein. Dầu tươi Sacha inchi S18 là loại dầu ăn tươi cao cấp, có trên 90% axít béo không no, trong
đó quan trọng nhất là ω-3 (49-50%), ω-6 (36%) và ω-9. (7%). Trong 100g khô dầu có 56,6g protein; 12,6g chất
béo; 3,8g ω-3; 971mg phốtpho; 484mg canxi. Protein sacha inchi có 18 loại axit amin, trong đó có đủ 9 axit
amin thiết yếu cho cơ thể, đặc biệt hàm lượng tryptophan cao (2,25g/100g) là tiền chất của serotonin (chất
dẫn truyền thần kinh) giúp chống trầm cảm cho phụ nữ sau sinh, tăng cường sinh lực cho trẻ em, người cao
tuổi, người làm việc căng thẳng... Giống Sacha inchi S18 đã được Bộ Nông nghiệp &PTNT công nhận là
giống cây dược liệu mới theo Quyết định 204/QĐ-BNN-TT, ngày 14 tháng 1 năm 2019.
Từ khóa: Axit amin thiết yếu, cây dược liệu, dầu tươi, dòng vô tính, Omega-3-6-9, Sacha inchi.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Hiện nay, hiểu biết của người dân về quan hệ
giữa thực phẩm với sức khỏe ngày càng sâu sắc nên
nhu cầu sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc thực vật
ngày càng tăng. Các loại rau, hoa quả, đặc biệt là các
loại hạt có dầu, hạt giầu protein, hạt chứa dược chất
có lợi cho sức khỏe, ngăn ngừa bệnh tật ngày càng
được ưa chuộng. Ở Việt Nam, sản lượng các loại hạt
như đậu tương, đậu xanh, đậu đen, đậu đỏ, lạc,
vừng... không tăng do năng suất thấp, diện tích thu
hẹp do bị cạnh tranh gay gắt với các cây trồng khác.
Hàng năm chúng ta phải nhập một lượng lớn đậu
tương về ép dầu và chế biến thực phẩm, ngoài ra còn
nhập nhiều loại hạt thực phẩm cao cấp như hướng
dương, mắc ca, óc chó, hạnh nhân, hạt dẻ cười, hạt
chia...Tìm một loại cây trồng mới bổ sung vào cơ cấu
cây cho hạt lấy dầu và protein sẽ góp phần giảm bớt
gánh nặng nhập khẩu. Khoảng 20 năm trước, cây
Mắc ca, cây cho hạt lấy dầu cao cấp đã được nghiên
cứu trồng thử ở nhiều vùng, đến nay mới tạm xác
định được vùng Tây Nguyên có thể trồng Mắc ca
hàng hóa có giá trị kinh tế cao. Sacha inchi
(Plukenetia volubilis L.) xuất xứ từ rừng mưa nhiệt
đới Amazon, là cây nhiệt đới lâu năm cho năng suất
1 Viện Nghiên cứu &PTCT, Học viện NNVN 2 Khoa Nông học, Học viện NNVN 3 Khoa Kỹ thuật sinh học, Đại học Louvian, Vương quốc Bỉ
cao, hạt có hàm lượng dầu và protein cao (Hufstader
Chris 2009; Liu Q., et al., 2014; Maurer N. E., et al.,
2012) mới di thực đến nước ta là một đối tượng cây
trồng mới cần nghiên cứu để sử dụng. Năm 2012, tại
Học viện NNVN, bắt đầu gieo trồng, đánh giá, tuyển
chọn Sacha inchi và đã tìm ra một số cá thể phân ly
khác biệt trong quần thể nhập nội do ảnh hưởng của
thay đổi điều kiện môi trường. Các cá thể biến dị này
được theo dõi, chọn lọc, cắt cành nhân vô tính, so
sánh cẩn thận và đã chọn được dòng ưu tú Sacha
inchi S18 chín sớm, nhiều quả, hạt to mẩy, năng suất
cao, hàm lượng dầu và protein cao. Dòng S18 đã
được trồng thử ở nhiều vùng sinh thái đại diện trong
nước để đánh giá năng suất, chất lượng, tìm phương
pháp chế biến sản phẩm nhằm khai thác giá trị thực
phẩm và dược phẩm để phục vụ sức khỏe cộng đồng.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu: Hạt Sacha inchi nhập nội từ Pêru
năm 2012, gọi là S0 và hạt của các dòng vô tính mới
tuyển chọn.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp bố trí thí ngiệm
- Thí nghiệm chọn tạo giống mới: Hạt Sacha
inchi được trồng thành hàng (khoảng cách 3m
x1,5m), theo dõi, đánh dấu cây phân ly khác biệt về
hình thái, sinh trưởng, ra hoa, đậu quả...Khi thu lứa
quả chín đầu tiên chọn cây nhiều quả, nhiều hạt mẩy,
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 140
khối lượng hạt lớn..., cắt cành giâm, trồng theo dòng
vô tính, tiếp tục chọn dòng ưu tú nhất, đặt tên là S18.
- Thí nghiệm khảo nghiệm đánh giá tính khác
biệt: Bố trí theo phương pháp tập đoàn, không nhắc
lai (diện tích ô 96m2, mỗi ô trồng 1 hàng 20 cây trên 1
luống, cây cách cây 1,2m, các ô cách nhau 4m, theo
dõi 5 cây/ô). Khảo nghiệm sản xuất bố trí trên 3
vùng: Miền núi 2 điểm: Hòa Bình, Sơn La; đồng bằng
2 điểm: Thái Bình, Hà Nam; Bắc Trung bộ 1 điểm:
Thanh Hóa.
2.2.2. Chỉ tiêu theo dõi và phương pháp đánh giá
- Thời gian các giai đoạn sinh trưởng; đặc điểm
nông sinh học; sâu bệnh; yếu tố cấu thành năng suất,
năng suất, theo dõi hàng tuần, ghi nhận xét, thu thập
số liệu để tính toán.
- Đánh giá tính khác biệt: Do chưa có “Tiêu
chuẩn Quốc gia” đánh giá loài Sacha inchi, nên đã
dựa vào “Tiêu chuẩn cơ sở cho giống cây dược liệu
Sacha inchi” (Phụ lục 4B trong “Báo cáo kết quả
nghiên cứu tuyển chọn và khảo nghiệm giống Sacha
inchi S18 (Plukenetia volubilis L.) tại Việt Nam”,
2018) để đánh giá tính khác biệt của giống Sacha
inchi S18 mới so với quần thể nhập nội (Plukenetia
volubilis L.) khởi đầu S0 từ Pêru.
- Phân tích hàm lượng các chất trong hạt, dầu,
khô dầu tại Phòng thí nghiệm hóa thực phẩm, Viện
Dinh dưỡng, Bộ Y tế Việt Nam và Phòng thí nghiệm
Upscience, Bộ môn Hóa, Trường Đại học Louvain la
Neuve, Vương quốc Bỉ theo phương pháp của từng
chỉ tiêu được qui định.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả nghiên cứu tuyển chọn giống Sacha
inchi S18
Quá trình chọn lọc giống Sacha inchi S18 từ
2012-2016 được trình bày ở hình 1. Kết quả đánh giá
đặc điểm nông sinh học của các dòng triển vọng
được thể hiện tại bảng 1.
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Hình 1. Quá trình chọn lọc giống Sacha inchi S18 theo phương pháp vô tính
Sau khi thu hoạch lứa đầu của các dòng vô tính,
hạt của từng dòng được sử dụng vào thí nghiệm so
sánh cơ bản. Số liệu đánh giá các dòng trong thí
nghiệm cho thấy dòng số 1 và số 8 có những đặc
điểm ưu việt tương tự nhau: Chiều cao phân cành
thấp (12,5cm và 12,8 cm); đường kính gốc cây con 35
ngày tuổi 0,38cm và sau khi gieo 260 ngày 5,7-5,8cm,
to hơn hẳn đường kính gốc của quần thể khởi đầu S0
(4,5cm); thời gian từ gieo đến đậu quả sớm (110
ngày); thời gian từ gieo đến thu đợt quả đầu là 242
ngày; số quả chín thu ngày đầu cao (9,5 và 9,8
quả/cây); số hạt/quả 4,8 hạt, năng suất cá thể đạt
Gieo hạt nhập nội (S0)), đánh giá đặc điểm thực vật học, chọn cá thể sinh trưởng mạnh, ra hoa, đậu quả sớm, nhiều quả, khối lượng hạt cao. Cắt cành giâm, nhân thành dòng vô tính.
Dòng vô
tính 8
Dòng vô
tính 7
Dòng vô
tính 6
Dòng vô
tính 5
Dòng vô
tính 4
Dòng vô
tính 3
Dòng vô
tính 2
Dòng vô
tính 1
Cá thể tốt từ
dòng 3
Cá thể tốt từ
dòng 4
Cá thể tốt từ
dòng 6
Cá thể tốt từ
dòng 8
Cá thể tốt từ
dòng 1
Thu riêng quả lứa đầu của 5 dòng, gieo trồng, đánh giá, tuyển chọn 2 dòng ưu tú (số 1 và 8), hỗn hợp hạt đặt tên là S18 gieo 4 vụ xuân- hè - thu- đông, đánh giá đặc điểm nông sinh học, sâu bệnh, năng suất, chất lượng hạt và dầu.
Hạt giống thu đưa đi khảo nghiệm sản xuất tại Hòa Bình, Hà Nam, Thái Bình, Sơn La, Cao Bằng, Thanh Hóa, Vĩnh phúc, Đắk Lắk...
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 141
0,49-0,51 kg/cây trong khi S0 là 0,28kg/cây. Đặc điểm
hình thái lá, thân, độ dài chùm hoa, số lượng hoa
cái/chùm của 2 dòng giống nhau. Hai dòng này có
các tính trạng tương đồng nên đã hỗn hợp hạt và đặt
tên là dòng S18, do được nhân vô tính nên S18 có độ
thuần và độ ổn định tốt. Hạt được thu hỗn hợp,
chuyển đến các địa phương để bố trí khảo nghiệm
giá trị canh tác, giá trị sử dụng và khảo nghiệm sản
xuất tại Hòa Bình, Sơn La, Thái Bình, Hà Nam,
Thanh Hóa, đồng thời sử dụng để bố trí các thí
nghiệm kỹ thuật xây dựng quy trình canh tác.
Bảng 1. Đặc điểm 5 dòng vô tính mới chọn và quần thể khởi đầu (S0) tại thời điểm quả chín lần đầu
Chỉ tiêu đánh giá Dòng 1 Dòng 3 Dòng 4 Dòng 6 Dòng 8 S0
Chiều cao phân cành (cm) 12,5 15,8 16,3 14,8 12,8 17,2
Đường kính gốc cây con (cm) 0,38 0,27 0,29 0,26 0,38 0,25
Từ gieo đến đậu quả (ngày) 110 126 120 122 110 128
Từ đậu quả đến chín (ngày) 128 132 136 130 128 138
Từ gieo đến chín đợt 1 (ngày) 242 249 246 252 242 260
Số quả/cây chín ngày đầu 9,5 6,8 7,9 8,2 9,8 6,8
Số hạt/quả 4,8 4,5 4,3 4,8 4,8 4,2
Khối lượng 100 hạt (g) 110,8 98,7 98,8 105,3 111,2 95,7
Năng suất cá thể đợt 1 (kg/cây) 0,49 0,29 0,33 0,38 0,51 0,28
Nguồn: Nguyễn Thị Trâm và cs, (2018).
3.2. So sánh tính khác biệt của giống Sacha inchi
S18 và giống nhập nội khởi đầu S0
Kết quả đánh giá tính khác biệt của giống S18
được trình bày trong bảng 2.
Bảng 2. Những đặc điểm khác biệt của giống Sacha inchi S18 so với quần thể nhập nội
Plukenetia volubilis L. (S0)
S18 S0 Giai
đoạn
Chỉ tiêu
Số
lượng
Nhận
xét
Số
lượng
Nhận xét
Từ gieo đến mọc (ngày) 7-8 Đều 8-10 Trung bình
Sức sống (điểm) 1 Khỏe 3 Trung bình
Cây
con
Cây giống đạt tiêu chuẩn trồng:
+ Thời gian (ngày)
+ Chiều cao cây 35 ngày tuổi (cm)
+ Đường kính gốc thân 35 ngày tuổi (cm)
+ Đường kính gốc thân 260 ngày tuổi (cm)
+ Số lá cây con 35 ngày tuổi
35
30,5
0,38
5,8
8,5
Sớm
Mập
To
40
28,8
0,25
4,5
8,8
Trung bình
Trung bình
Nhỏ
Từ gieo đến phân cành cấp 1 (ngày) 55 Sớm 61 Trung bình
Thứ tự nách lá ra cành cấp 1 đầu tiên 4-7 7-12
Chiều cao phân cành (cm) 12,8 Thấp 17,2 Trung bình
Từ gieo đến ra nụ đực đầu tiên (ngày) 106 Sớm 115 Muộn
Từ gieo đến ra nụ cái đầu tiên (ngày) 112 Sớm 118 Muộn
Số chùm hoa ra đợt đầu/cây 26,5 Nhiều 22,8 Ít
Chiều dài trung bình 10 chùm đầu (cm) 23,5 Dài 18,7 Ngắn
Từ gieo đến đậu quả đầu tiên (ngày) 110 Sớm 128 Trung bình
Từ đậu quả đến chín (ngày) 128 Sớm 138 Trung bình
Từ gieo đến chín lứa 1 (ngày) 242 Sớm 260 Muộn
Thu lứa 1 đến lứa 2 (ngày) 180 TB 180 Trung bình
Thu lứa 2 đến lứa 3 (ngày) 150 Ngắn 160 Trung bình
Thu lứa 3 đến lứa 4 (ngày) 205 Dài 210 Dài
Thu lứa 4 đến lứa 5 (ngày) 150 Ngắn 150 Ngắn
Cây
sinh
trưởng
phát
triển
và biến
dị ở
vườn
sản
xuất
Tỷ lệ cây không ra hoa kết quả (% số cây) 0 Thuần 0,4 Chưa thuần
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 142
Tỷ lệ cây có 3-5 hoa cái/chùm (% số cây) 5,8 1,4
Bệnh lở cổ rễ ở cây con (% số cây) 2,2 TB 3,7 Cao
Bệnh héo xanh cây con (% số cây) 1,8 TB 2,8 Cao
Bệnh sùi gốc cây trưởng thành (% số cây) 1,0 Nhẹ 1,5 Nhẹ
Bệnh chùn ngọn vàng lá thối rễ do tuyến
trùng và nấm (%) 0-1
Nhẹ 0-1
Nhẹ
Sâu róm (Euproctispseudoconspersa) (điểm) 0-1 Nhẹ 0-1 Nhẹ
Sâu khoang (Spodoptera litura) (điểm) 0-1 Nhẹ 0-1 Nhẹ
Sâu đục thân (Conogethes
punctiferalis Guenee) (điểm) 0-1
Nhẹ 0-1
Nhẹ
Sâu đục quả (Archips sp.) (điểm) 0-1 Nhẹ 0-1 Nhẹ
Bệnh
và côn
trùng
gây
hại
Nhện đỏ (Tetranychus cinnabarinus Boisd)
(điểm) 0-1
Nhẹ 0-1
Nhẹ
Năm thứ nhất (tấn/ha) 0,95 0,83
Năm thứ 2 (tấn/ha) 2,16 Cao 1,87 Khá
Năng
suất
Năn thứ 3 (tấn/ha) 6,57 Cao 5,93 Khá
Dạng hạt Oval Oval
Màu vỏ hạt Nâu Nâu
Khối lượng 100 hạt (g/100hạt) 105-
120 To 90-110 Trung bình
Tỷ lệ hạt/quả (% khối lượng) 55-60 50-55
Tỷ lệ nhân/hạt mẩy (%) 53-57 50-55
Hàm lượng omega-3 trong dầu (%) 49-50 45-47
Hàm lượng omega-6 trong dầu (%) 36-38 36-38
Chất
lượng
hạt
Hàm lượng omega-9 trong dầu (%) 6-8 6-9
3.3. So sánh khác biệt về các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của giống S18 và S0
Bảng 3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất hạt của giống S18 so với S0 qua các lần thu (2016-2019)
Số quả/cây Số hạt/cây Khối lượng
100 hạt (g)
NS cá thể
(kg/cây)
NSTT
(tấn/ha)
Thời gian các
lần thu
(tháng/năm) S0 S18 S0 S18 S0 S18 S0 S18 S0 S18
Lần 1: 10/2016 120 125 540 562 100 110 0,54 0,61 0,83 0,95
Lần 2: 4/2017 143 150 572 654 96 109 0,55 0,70 0,89 1,02
Lần 3: 9/2017 152 158 608 679 93 105 0,57 0,71 0,95 1,09
Lần 4: 3/2018 158 162 632 664 96 106 0,60 0,70 1,05 1,11
Lần 5: 9/2018 165 170 660 680 95 110 0,64 0,74 1,03 1,10
Lần 6: 3/1019 160 170 658 677 102 115 0,67 0,78 1,18 1,30
Tổng cộng 898 935 3670 3916 97* 109* 3,56 4,26 5,93 6,57
TB năm 298,3 311,7 1223 1305 - - 1,18 1,42 1,98 2,19
Ghi chú: Ngày gieo: 1/3/2016; * Là giá trị trung bình.
Theo các tài liệu của Pêru và một số nước Nam
Mỹ, Sacha inchi là cây lâu năm, ra hoa kết quả, thu
hoạch quanh năm, nhưng khi trồng trong điều kiện
khí hậu tại Gia Lâm, Hà Nội và các tỉnh phía Bắc Việt
Nam, cây ra hoa kết quả tương đối tập trung, cho thu
hoạch 2 lần/năm, mỗi lần thu kéo dài 30-40 ngày, sau
mỗi lần thu cây nảy chồi mới, tiếp tục ra hoa đậu quả.
Lần thu đầu tiên, số quả chín ít hơn các lần sau vì khi
đó số cành/cây chưa nhiều, số chùm hoa ít, số quả
giữa 2 giống chênh lệch không nhiều, số hạt/cây
chênh lệch nhiều hơn. Khoảng cách thời gian thu
giữa các lần khác nhau do cây chịu ảnh hưởng của
điều kiện nhiệt độ trong thời kỳ từ ra hoa đến quả
chín. Sau 6 lần thu hoạch, số hạt của S18 là 3.916
hạt/cây, S0 là 3.670 hạt/cây. Khối lượng 100 hạt thay
đổi giữa các lần thu do chế độ dinh dưỡng hấp thu
được không ổn định, khối lượng trung bình của
giống S18 là 109g/100 hạt, cao hơn giống S0
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 143
(97g/100 hạt). Do các yếu tố cấu thành năng suất
của S18 cao hơn S0 nên năng suất cá thể của S18
cộng dồn 6 lần thu là 4,26 kg/cây, so với S0 là 3,56
kg/cây, năng suất thực thu của S18 trong 3 năm đạt
6,57 tấn/ha so với S0 là 5,93 tấn/ha, như vậy năng
suất trung bình 3 năm đầu là 2,19 tấn/ha/năm
(giống S18) và 1,98 tấn/ha/năm (giống S0) (bảng 3).
3.4. Đánh giá chất lượng sản phẩm Sacha
inchi S18
3.4.1. Thành phần dinh dưỡng trong hạt và dầu
Sacha inchi S18 mới ép và dầu bảo quản tự nhiên 1 năm so với hạt S0 trồng tại Việt Nam
Bảng 4. Thành phần dinh dưỡng trong hạt và dầu Sacha inchi S18 mới ép và bảo quản tự nhiên 1 năm
so với hạt S0 trồng tại Việt Nam
Chỉ tiêu đánh giá Hạt thu ở
S0 (1)
Hạt S18 thu
tại Hà Nội (2)
Hạt S18 thu
tại Sơn La (3)
Dầu S18 bảo
quản 1 năm (4)
Protein (% KL nhân) 27,5 28,9 28,5 -
Dầu (% KL nhân) 47,7 49,8 48,6 -
Axit béo bão hòa: (% KL dầu) 9,11 6,05 6,03 7,08
Palmitic acid (C16:0) 5,16 3,65 3,63 4,11
Stearic acid (C18:0) 3,95 2,40 2,40 2,97
Axit béo không bão hòa: (% KL dầu) 90,89 92,96 92,99 91,84
Oleic acid (ω-9) 9,0 7,01 7,00 8,63
Linoleic acid (ω-6) 36,19 36,02 35,92 39,00
α-Linolenicacid (ω-3) 45,70 49,93 50,07 44,21
Tỷ lệ ω-6/ω-3 0,79 0,72 0,71 0,88
Ghi chú:. (1) Hạt thu ở quần thể S0 trồng tại Hà Nội 2015, phân tích tại phòng Hóa thực phẩm, Viện Dinh
dưỡng, Bộ Y tế, 2016; (2)Hạt S18 thu tháng 2/2018 tại Gia Lâm, Hà Nội, ép dầu phân tích tháng 3/2018; (3) Hạt
S18 thu tháng 2/2018 tại Sơn La, ép dầu phân tích tháng 3/2018; (4) Hạt S18 thu tháng 2/2017, ép dầu bảo
quản 1 năm trong chai thủy tinh, nhiệt độ phòng thí nghiệm, phân tích tháng 3/2018; các mẫu phân tích
tháng 3/2018 thực hiện tại phòng thí nghiệm Upscience, Khoa kỹ thuật Sinh học, Trường Đại học Louvain la Neuve, Vương quốc Bỉ; số liệu do Yvan Larondelle cung cấp.
Phân tích thành phần dinh dưỡng trong hạt
Sacha inchi thu ở quần thể S0 trồng tại Gia Lâm, Hà
Nội cho kết quả: hàm lượng protein 27,5%, hàm lượng
dầu 47,7%, thấp hơn so với so với công bố của
Follegatti-Romero L.A., et al, (2009) tại Pêru (là 33%
và 54% tương ứng). Lượng axit béo không bão hòa
(90,89%), trong đó ω-3 (45,7%), ω-6 (36,19%), ω-9
(9,0%), thay đổi không nhiều so với công bố trên. Số
liệu phân tích của Giáo sư Yvan Larondelle, khoa Kỹ
thuật Sinh học, Đại học Louvain la Neuve, Vương
quốc Bỉ cho hàm lượng protein của S18 trồng tại Hà
Nội và Sơn La là 28,9% và 28,5%, cao hơn so với S0
(27,5%), đặc biệt hàm lượng ω-3 của S18 rất cao
(49,93% và 50,07% tương ứng) hơn hẳn quần thể S0
(45,7%), dầu Sacha inchi S18 bảo quản 1 năm ở nhiệt
độ phòng thí nghiệm (tại Gia Lâm, Hà Nội) thì lượng
ω-3 giảm còn 44,21%, thấp hơn 2 mẫu mới ép là
49,93% và 50,07%; hàm lượng ω-6 (39%) và ω-9 (8,63%)
cao hơn 2 mẫu mới ép. Do trong hạt Sacha inchi có
nhiều chất chống ôxy hóa nên dầu duy trì được chất
lượng dinh dưỡng sau 1 năm bảo quản (Yvan
Larondelle, 2018). Số liệu còn cho thấy dầu Sacha
inchi S18 tươi có chất lượng cao và ổn định khi trồng
và thu hoạch ở 2 vùng Hà Nội (đồng bằng sông
Hồng) và Sơn La (miền núi Tây Bắc). Rosana
Chirinos, et al., (2013) cho rằng tỷ lệ ω-6/ω-3 trong
dầu thực vật nếu thấp hơn 1 thì dầu có giá trị cao do
thành phần cân đối nên tốt cho sức khỏe của người
sử dụng. Kết quả phân tích cho thấy tỷ lệ ω-6/ω-3
dao động từ 0,71- 0,88 đều thấp dưới 1, trong đó dầu
bảo quản 1 năm tỷ lệ này tăng nhẹ (0,88) so với dầu
mới ép (bảng 4).
3.4.2. Thành phần các chất trong khô dầu Sacha
inchi S18
Kết quả phân tích khô dầu Sacha inchi tại Viện
Kiểm nghiệm Vệ sinh an toàn thực phẩm Quốc gia,
Bộ Y tế cho thấy trong 100g khô dầu có 56,6g
protein, 12,6g chất béo, 3,8g ω-3, ngoài ra còn một số
chất khác như phốtpho 971mg, canxi 484mg (bảng
5), các chất này đều vô cùng hữu ích cho cơ thể. Kết
quả phân tích này phù hợp với nhận xét của Guillén
et al., (2003) rằng khô dầu Sacha inchi có nhiều chất
dinh dưỡng, cần tìm cách tách chiết các thành phần
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 144
để làm “bột protein” bổ sung vào thực phẩm, bánh kẹo cho trẻ và người làm việc nặng nhọc.
Bảng 5. Thành phần các chất trong khô dầu Sacha inchi S18 thu tại Hà Nội, 2018
TT Tên chỉ tiêu Đơn vị Phương pháp thử Kết quả
1 Độ ẩm g/100g H.HD.QT.001 5,91
2 Protein g/100g H.HD.QT.003 56,6
3 Chất béo g/100g H.HD.QT.005 12,6
4 Photphor mg/100g H.HD.QT.176 (ICP-OES) 971
5 Canxi mg/100g H.HD.QT. 176 (ICP-OES) 484
6 Omega-3 g/100g H.HD.QT.044 (GC-MS) 3,8
Bảng 6. Thành phần axít amin trong khô dầu Sacha inchi S18 thu tại Hà Nội so với
khô dầu Sacha inchi của Thái Lan
Khô dầu Sacha inchi (g/100g khô dầu) TT Tên axít amin
S18 tại Hà Nội (1) Giống của Thái Lan (2)
Axít amin thiết yếu 20,21 48,33
1 Tryptophan 2,25±0,18 3,27±0,01
2 Histidine 1,12±0,09 9,33±0,52
3 Isoleucine 2,66±0,21 3,87±0,14
4 Leucine 3,85±0,31 7,22±0,17
5 Lysine 2,77±0,22 17,84±0,88
6 Methionine 0,63±0,05 < 0,005±0,00
7 Phenylalanine 1,31±0,11 0,26±0,01
8 Threonine 2,60±0,21 3,18±0,09
9 Valine 3,29±0,26 3,36±0,33
Axit amin không thiết yếu 38,65 37,32
10 Alanine 2,07±0,17 1,28±0,02
11 Arginine 5,91±0,47 < 0,005±0,00
12 Aspartique 6,71±0,54 5,58±0,11
13 Cysteine 1,54±0,12 5,52±0,11
14 Glutamique 7,63±0,61 7,98±0,01
15 Glycine 6,29±0,50 3,67±0,02
16 Hydropxylisine - < 0,005±0,00
17 Hydroxyproline - 0,26±0,01
18 Proline 2,04±0,16 1,34± 0,01
19 Serine 3,36±0,27 1,66 ±0,06
20 Tyrosine 2,83±0,23 10,03±0,08
Tổng lượng acid amine 58,86 85,65
Ghi chú: (1) Phân tích tại phòng thí nghiệm Upscience, Bộ môn Hóa học, Trường Đại học Louvain la
Neuve, Vương quốc Bỉ; Phương pháp: Theo CE 152/2009 ngày 27-01-2009-SN cho axit amin, số liệu do Yvan
Larondelle cung cấp ; (2)Công bố của Saroat Rawdkuen et al.,(2016).
Phân tích khô dầu Sacha inchi S18 thu được 18
loại axit amin với tổng lượng là 58,86g/100g khô dầu,
trong đó 20,21g là các axit amin thiết yếu và
38,65g/100g khô dầu là các axít amin không thiết
yếu, so với khô đầu Sacha inchi của Thái Lan do
Saroat Rawdkuen, et al., (2016) công bố là 48,33g/
100g và 37,32g/100g khô dầu tương ứng thì hàm
lượng axít amin của S18 thấp hơn. Protein Sacha
inchi S18 có đủ 9 loại axit amin thiết yếu, phân tích
100g khô dầu thu được 3,85g leucine; 3,29g valine;
2,77g lyzin; 2,66g izoleucine và 2,25g tryptophan.
Tryptophan là tiền chất sản sinh ra vitamin B3, B6,
serotonin, một chất dẫn truyền thần kinh để làm
dược phẩm giúp giảm căng thẳng thần kinh, chống
trầm cảm cho phụ nữ sau sinh, tăng cường sinh lực
cho người cao tuổi, người ốm yếu, trẻ em
(Nascimento A.K., et, al., 2013). Như vậy một lần nữa
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 145
khẳng định hạt sacha inchi là loại hạt “siêu thực
phẩm” có thể làm dược phẩm quí vì thành phần các
chất hữu ích cao vượt hơn tất cả các loại hạt đang
trồng phổ biến tại Việt Nam hiện nay.
4. KẾT LUẬN
Giống Sacha inchi S18 được chọn từ quần thể
nhập nội theo phương pháp chọn dòng vô tính, khác
biệt so với quần thể nhập nội từ Pêru, như: thời gian
từ gieo đến thu hoạch lứa đầu 242 ngày, ngắn hơn
đối chứng (260 ngày), quả to, hạt mẩy khối lượng lớn
(109g/100 hạt), năng suất hạt lần đầu 0,95 tấn/ha,
cao hơn S0 (0,83 tấn/ha), các lần thu sau năng suất
của giống S18 đều cao hơn S0, tổng cộng 3 năm đầu
(6 lần thu) giống S18 đạt 6,57 tấn/ha, S0 đạt 5,93
tấn/ha, trung bình là 2,19 tấn/ha (giống S18) và 1,64
tấn/ha (đối chứng).
Hạt Sacha inchi S18 có 48,6-49,8% dầu và 28,5-
29,8% protein, thành phần dầu gồm ω-3 (49-50%), ω-6
(36%), ω-9 (7%); protein tồn tại chủ yếu trong khô
dầu, trong 100g khô dầu có 56,6g protein; 12,6g chất
béo; 3,8g ω-3; 971mg photpho; 484mg canxi. Protein
Sacha inchi có đủ 9 loại axit amin thiết yếu, trong
100g khô dầu thì leucine chiếm 3,85g, valine 3,29g,
lyzin 2,77g, izoleucine 2,66g, tryptophan 2,25g.
Giống sacha inchi S18 khác biệt so với quần thể
S0 ở một số tính trạng hình thái, sinh trưởng, năng
suất và chất lượng hạt nên đã được Bộ Nông nghiệp
& PTNT công nhận đặc cách là giống cây dược liệu
mới của Việt Nam để phát triển sản xuất tại các tỉnh
phía Bắc theo Quyết định số 204/QĐ-BNN-TT, ngày
14 tháng 1 năm 2019.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công ty Cổ phần Sacha inchi Việt Nam và Học
viện Nông nghiệp Việt Nam (2018). Báo cáo kết quả
nghiên cứu tuyển chọn và khảo nghiệm giống Sacha
inchi S18 (Plukenetia volubilis L.), 64 trang.
2. Follegatti- Romero L. A., Piantino C. R.,
Grimaldi R. and Cabral F. A. (2009). Supercritical
CO2 extraction of omega-3 rich oil from Sacha inchi
(Plukenetia volubilis L.) seed. Journal of
Supercritical fluids. 49 (3): 323-329.
http://dx.doi.org/10.1016/j.supflu.2009.03.010.
3. Guillién Maria D., Ainhoa Ruiz, Nerea Cabo,
Rosana Chirinos and Gloria Pacual. (2003).
Characteriaition of sacha inchi (Plukenetia volubilis
L.) oil by FTIR spectroscopy and 1H NMR,
comperitio with Linseed oil. J. of Oil and Fat
industries vol.80, no 8: 755-762
4. Hufstader Chris (2009). Looking to Sacha
Inchi for their future. Oxfam Exchange 9 (1): 2–3.
5. Liu Q., Xu Y. K., Zhang P., Na Z., Tang T., and
Shi Y. X., (2014). Chemical composition and
oxidative evolution of Sacha inchi (Plukenetia
volubilis L.) oil from Xishuangbanna (China). Grasas
y aceites 65, January – March 2014.
6. Maurer NE., Hatta-Sakoda B., Pascual-
Chagman G. and Rodriguez-Saona L. E., (2012).
Characterization and authentication of a novel
vegetable source of omega-3 acids Shacha inchi
(Plukenetia volubilis L.) oil. Food chem. 134: 1173-
1180.
7. Nascimento A. K., R. F. Melo- Silveria, N.
Dantas- Santos, J.M. Femandes, S.M. Zucololto, H. A.
Rocha and K. C. Scortecci. (2013). Antioxidant and
Antiproliferative Activities of Leaf Extracts from
Plukenetia volubilis L.Evidence-Based
Complementary and Altenative Medicine 2013:
Acticle ID 950272, 10 pages.
8. Rosana Chirinos, Gledy Zuloeta, Romina
Pedreschi, Eric Mignolet, Yvan Larondelle, David
Camspos (2013). Sacha inchi (Plukenetia volubilis
L.): a seed source of polyunsaturated fatty acids,
tocopherols, phytosterols, phenolic compounds and
antoxidant cappacity. J. Food Chemistry 141,1732-
1739.
9. Saroat Rawdkuen, Dena Murdayani Sunatha
Ketnawa, Suphat Phongthai, (2016). Chemical
properties and nutritional factors of Presed-case from
Tea and Sacha inchi seeds. Juornal “Food
Bioscience” 15 (2016) 64-71, Thai Lan.
10. Trâm Nguyễn Thị, Nguyễn Thị Bích Hồng,
Nguyễn Thị Kim Oanh, Nguyễn Thị Thanh Thủy,
(2018). Đánh giá đặc điểm nông sinh học, sâu bệnh,
năng suất chất lượng và khả năng sử dụng cây đậu
núi Sacha inchi (Plukenentia volubilis L.) ở Việt
Nam. Trong “Kỷ yếu Hội nghị Khoa học và Công
nghệ chuyên ngành Trồng trọt và Bảo vệ thực vật
giai đoạn 2013-2018” của Bộ Nông nghiệp & PTNT,
tr.63-79.
11. Yvan Larondelle (2018), Rapport d’essai final:
Analyses Chimiques, 20/7/2018.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 146
SELECTION AND EVALUATION DISTINGNEES OF CHARACTERS OF THE NEW MEDICINAL PLANT
VARIETY SACHA INCHI S18 (PLUKENETIA VOLUBILIS L.) IN VIETNAM
Pham Thi Ngoc Yen, Nguyen Thi Bich Hong, Nguyen Van Muoi,
Vu Van Quang, Le Van Thanh, Vu Thi Bich Ngoc,
Yvan Larondelle, Nguyen Thi Tram
Summary Seeds of sacha inchi (Plukenetia volubilis L.), imported from Peru (S0), had been sowed at the Vietnam
National University of Agriculture from 2012. Some experiments had been arranged to select cloning plants
and had been selected a new variety, named S18. The S18 variety have the time from seeding to the first
havesting 242 days, the chek variety S0 is 260 days, the yield of the first havesting of S18 is 0.95 ton per
hectare and of S0 is 0.83 ton per hectare. The total yields of six havesting times (abouth 3 years) of S18 are:
6.57 ton per hectare and are over come to S0 (5.93 ton per hectare). Sacha inchi seed S18 contains 48.6-
49.8% oil; 28.5-28.9% protein. The sacha inchi fresh oil is a “supper oil” with more than 90% of unsaturated
fatty acids, especially the most inpotant once are: ω-3 (49-50% oil), ω-6 (36%) and ω-9 (7%). In 100g pressed-
kace of S18 seed there is 56.6g protein, 12.6g fatty acid, 3.8g omega-3; 971mg photphorus and 484mg
calcium. The sacha icnchi protein has 18 aminoacids, with 9 essentions once, especially Tryptophan is very
hight (2.25g/100g), this is a neuromodulator, so that is very good for the healthy. The sacha inchi S18
variety has been certificated is a new Medicinal plant by the Vietnam Ministry of Agriculture and Rural
Development. The Number of the Certification is: 204/Q Đ – BNN – TT, at January, 14th, 2019.
Keywords: Cloning line, Essental aminoacid, Fresh oil, Medicinal plant, Omega-3-6-9, Sacha inchi.
Người phản biện: PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Huệ
Ngày nhận bài: 9/7/2019
Ngày thông qua phản biện: 9/8/2019
Ngày duyệt đăng: 16/8/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 147
KẾT QUẢ TUYỂN CHỌN GIỐNG DƯA HẤU TRỒNG TẠI
HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH VỤ XUÂN HÈ
2017 - 2018 Đặng Tiến Dũng1, Nguyễn Thị Sơn2, Phạm Tiến Dũng3
TÓM TẮT Dưa hấu là cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao tại huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Hiện tại có nhiều
giống dưa hấu đang được trồng tại địa phương mà chưa có định hướng chọn lọc cụ thể nên độ rủi ro cao. Vì
lý do đó, đã tiến hành nghiên cứu so sánh một số giống chủ đạo nhằm lựa chọn giống dưa hấu phù hợp với
điều kiện huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Kết quả khảo nghiệm tiến hành trong vụ hè thu 2017 và 2018
cho thấy giống dưa hấ u Super Hoàn Châu có nhiều ưu điểm vượt trội: sinh trưởng khỏe, thời gian sinh
trưởng từ 72 - 77 ngày, thời gian thu hoạch quả sớm và tập trung, năng suất cao (36 - 40 tấn/ha), dạng quả
thon dài vỏ cứng ruột đặc màu đỏ sẫm có mẫu mã quả đẹp, hàm lượng chất khô cao, đặc biệt chống chịu
được nhiều loại bệnh, trên cả 3 chân đất vàn cao, vàn trung bình và vàn thấp.
Từ khóa: Lựa chọn giống dưa hấu , Super Hoàn Châu, dưa Quỳnh Phụ.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Thái Bình là tỉnh thuần nông, giá trị sản xuất
nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong thu nhập
người nông dân. Với cây trồng vụ hè thu, dưa hấu là
một trong những cây đem lại hiệu quả kinh tế cao
nhất (Báo cáo tổng kết Phòng Nông nghiệp và PTNT
huyện Quỳnh Phụ năm 2015 – 2017). Diện tích sản
xuất dưa hấu ở Thái Bình những năm gần đây đạt
trên 300 ha, tập trung chủ yếu ở xã An Ấp, Quỳnh
Minh, An Quý của huyện Quỳnh Phụ (dao động từ
50 - 80 ha, (Niên giám thống kê Phòng NN&PTNT
Quỳnh Phụ, 2015 -2017). Các giống dưa hấu trồng
trước đây thường có quả tròn, vỏ dày, năng suất thấp,
chống chịu sâu bệnh kém hay mất mùa, chất lượng
quả không ngon (Phòng Thống kê huyện Quỳnh
Phụ). Những năm gần đây do nhu cầu thị trường, địa
phương đã chuyển sang trồng giống dưa hấu quả
thon dài mẫu mã quả đẹp. Tuy nhiên, chưa có đánh
giá so sánh nào về các giống dưa được trồng tại địa
phương.
Nghiên cứu được tiến hành trong vụ hè thu
2017 và 2018 tại huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình,
tại 3 xã An Ấp, Quỳnh Minh, An Quý đại diện cho 3
vùng đất vàn, vàn cao và đất cao của huyện nhằm
đánh giá tính thích ứng của một số giống dưa hấu
đang được trồng tại địa phương, qua đó lựa chọn
giống phù hợp nhất.
1 Khoa Thủy sản – Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2 Viện Sinh học Nông nghiệp – Học viện Nông nghiệp Việt Nam 3 Khoa Nông học - Học viện Nông nghiệp Việt Nam Email: [email protected]
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
Các giống dưa hấu khảo nghiệm: Giống Super
Hoàn Châu, giống Phù Đổng, giống Đài Loan – Đài
Loan.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên
đầy đủ RCBD, bao gồm 3 công thức với 3 lần nhắc
lại, diện tích mỗi ô thí nghiệm 20 m2.
* Công thức thí nghiệm: - CT1: Giống dưa hấu Super Hoàn Châu (ký
hiệu: G1).
- CT2: Giống dưa hấu Phù Đổng (ký hiệu: G2).
- CT3: Giống dưa hấu Đài Loan - Đài Loan
(Giống đối chứng) (ký hiệu: G3).
- Thời vụ trồng: Hè thu 2017 và 2018.
- Địa điểm thực hiện tại: xã An Ấp, Quỳnh Minh,
An Quý - Quỳnh Phụ - Thái Bình.
* Kỹ thuật chăm sóc khác: Dưa hấu được trồng 2
hàng/luống rộng 3 m, mật độ trồng 13.885 cây/ha
(0,7 m2/cây) (Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia QCVN
01 - 64: 2011/BNNPTNT).
Lượng phân bón cho 1 ha: 10 tấn phân hưu cơ +
110 kg N + 60 kg P2O5 + 150 kg K2O
* Các chỉ tiêu theo dõi
Thời gian sinh trưởng phát triển, sâu bệnh hại,
năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất. Hiệu quả
kinh tế, giá trị ngày công lao động, hiệu quả đồng vốn.
2.2.2. Xử lý số liệu
Số liệu đươc tính toán và xử lý bằng phần mềm
Excel và IRRISTAT 5.0
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 148
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Một số đặc điểm hình thái của các giống dưa
hấu trồng vụ hè thu 2017 và 2018 tại huyện Quỳnh
Phụ, tỉnh Thái Bình
Kết quả đánh giá đặc điểm hình thái của các
giống dưa hấu trồng vụ hè thu 2017 và 2018 tại huyện
Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình tại xã 3 xã An Ấp, Quỳnh
Minh, An Quý được thể hiện ở bảng 1.
Bảng 1. Một số đặc điểm hình thái của các giống dưa hấu
TT Giống
Chỉ tiêu Super Hoàn Châu Phù Đổng Đài Loan - Đài Loan
1 Dạng cây Thân bò Thân bò Thân bò
2 Hình dạng quả Hình thon dài Hình thon dài Hình tròn
3 Độ cứng vỏ quả Cứng Cứng Cứng
4 Độ đặc ruột Ruột đặc Ruột đặc Bình thường
5 Màu sắc ruột quả Đỏ thắm Đỏ thắm Đỏ
6 Độ xốp thịt quả Xốp Xốp Bình thường
Kết quả ở bảng 1 cho thấy: Cả 3 giống tham gia
thử nghiệm đều có dạng thân bò, tán rộng.
Các chỉ tiêu chất lượng thương phẩm như: Hình
dạng quả, màu sắc, độ cứng, độ xốp…đều đáp ứng
yêu cầu thị hiếu của người tiêu dùng.
3.2. Tỷ lệ nảy mầm và sinh trưởng của các giống
dưa hấu trồng vụ hè thu 2017 và 2018 tại huyện
Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình
Bảng 2. Tỷ lệ nảy mầm và thời kỳ vật hậu của các giống dưa hấu trồng trồng vụ hè thu 2017 và 2018
tại huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình
Năm 2017 Năm 2018
Chỉ tiêu
Giống
Địa điểm G1 G2 G3 G1 G2 G3
Xã An Ấp 96 96 94 96 95 93
Xã Quỳnh Minh 96 95 93 95 95 94 Tỷ lệ nảy mầm (%)
Xã An Quý 95 95 93 96 95 93
Xã An Ấp 3 4 4 3 4 4
Xã Quỳnh Minh 3 4 4 4 4 4 Thời gian gieo đến
mọc (ngày) Xã An Quý 4 3 4 3 4 4
Xã An Ấp 18 20 22 19 20 23
Xã Quỳnh Minh 19 21 22 18 20 22 Thời gian lúc mọc -
trồng (ngày) Xã An Quý 21 20 23 22 19 22
Xã An Ấp 25 25 25 24 26 26
Xã Quỳnh Minh 25 26 26 25 26 25 Trồng đến ra hoa rộ
(ngày) Xã An Quý 24 25 26 25 25 25
Xã An Ấp 4 4 5 4 5 5
Xã Quỳnh Minh 4 5 5 4 4 5 Ra hoa đến đậu quả
(ngày) Xã An Quý 5 4 4 4 4 5
Xã An Ấp 25 27 28 25 27 28
Xã Quỳnh Minh 25 26 27 25 27 27 Đậu quả đến thu hoạch
(ngày) Xã An Quý 27 25 27 27 25 27
Xã An Ấp 72 76 80 72 78 81
Xã Quỳnh Minh 73 78 80 72 77 79 Tổng thời gian sinh
trưởng (ngày) Xã An Quý 77 74 80 78 73 80
Kết quả ở bảng 2 cho thấy, Các giống khảo
nghiệm đều có tỷ lệ nảy mầm tương đối cao (trên
93%), thời gian từ gieo đến ra hoa và thời gian ra hoa
của các giống tương đương nhau (25 – 26 ngày),
Thời gian từ lúc bắt đầu ra hoa đến kết thúc hoa rộ
cũng chênh lệch nhau không đáng kể.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 149
Thời gian sinh trưởng của các giống biến động
trong khoảng 72 đến 81 ngày trong đó giống G3 có
thời gian sinh trưởng dài nhất (81 ngày). Như vậy, cả
3 giống dưa tham gia thử nghiệm đều có thể trồng
trong vụ hè thu.
Tỷ lệ mọc mầm của giống G3 là thấp nhất (93%),
tiếp đến là giống G2 (95,3%) và cao nhất là giống G1
(96,0%).
3.3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất
của các giống dưa hấu trồng vụ hè thu 2017 và 2018
tại huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình
Bảng 3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống dưa hấu khảo nghiệm
vụ hè thu 2017 và 2018
Năng suất (tấn/ha) Địa điểm Giống
Số
quả/cây
Khối lượng
TB quả (kg) Lý thuyết Thực thu
Năm 2017
G1 1,2 2,60 43,3 38,2
G2 1,1 2,50 38,2 34,5 Xã An Ấp
G3 1,0 2,55 35,4 31,5
G1 1,2 2,75 45,8 39,7
G2 1,0 2,45 34,0 33,3 Xã Quỳnh
Minh G3 1,0 2.50 34,7 29,6
G1 1,2 2,58 43,0 38,2
G2 1,0 2,50 34,5 31,5 Xã An Quý
G3 1,0 2,42 33,6 30,6
Năm 2018
G1 1,0 2,89 40,1 36,6
G2 1,0 2,60 36,1 32,2 Xã An Ấp
G3 1,0 2,55 35,4 30,3
G1 1,2 2,65 44,2 40,2
G2 1,0 2.68 37,2 33,8 Xã Quỳnh
Minh G3 1,0 2,60 36,1 31,7
G1 1,0 2,78 38,6 34,5
G2 1,0 2,58 35,8 32,4 Xã An Quý
G3 1,0 2,52 35,0 32,1
Số liệu bảng 3 cho thấy: Các giống khảo nghiệm
có khối lượng quả dao động trong khoảng 2,45 - 2,89
kg trong đó giống G1 và G2 có khối lượng quả cao
hơn giống đối chứng G3 ở đa số các địa điểm.
Năng suất thực thu: Năng suất thực thu của các
giống chênh nhau khá nhiều, dao động từ 29,6- 40,2
tấn/ha trong đó giống Super Hoàn Châu cho năng
suất cao nhất (40,2 tấn/ha), tiếp đến là giống Phù
Đổng (33,8 tấn/ha) và thấp nhất là giống Đài Loan
(32,1 tấn/ha)
3.4. Hiệu quả kinh tế của các giống dưa hấu
trồng vụ hè thu 2017 và 2018 tại huyện Quỳnh Phụ,
tỉnh Thái Bình
Hiệu quả kinh tế là tiêu chí quan trọng, quyết
định đến việc chọn giống bố trí vào cơ cấu sản xuất,
kết quả được trình bày trong bảng 4.
Hiệu quả kinh tế của các giống dưa hấu khảo
nghiệm được phân tích qua 2 năm trồng như sau:
Năm 2017: Dưa hấu được giá (bình quân 11.000
đồng/kg) nên tổng thu nhập đem lại tương đối cao,
trong đó giống G1 cho lãi thuần cao nhất (292,45 -
304,55 triệu đồng/ha), cao hơn 12,61 -13,4% so với
đối chứng G3, tiếp đến là giống G2 (263,85 – 278,15
triệu đồng/ha), cao hơn 0,84- 1,70% so với đối chứng
G3 (chỉ đạt 259,45 - 270,45 triệu đồng/ha). Trong 3
xã tiến hành khảo nghiệm, xã An Ấp cho năng suất
và lãi thuần thu được từ việc trồng dưa hấu đạt cao
nhất.
Năm 2018: Chi phí sản xuất tăng hơn so với năm
2017 trong lúc giá bán dưa hấu giảm xuống (bình
quân 6.000 đồng/kg) nên lãi thuần thu được thấp
hơn (83,94 - 108,54 triệu đồng/ha). Trong 3 giống
khảo nghiệm, giống G1 vẫn là giống có lãi thuần cao
nhất (trồng tại An Ấp đạt 108,54 triệu đồng/ha tăng
24,84% so với đối chứng).
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 150
Bảng 4. Hiệu quả kinh tế của các giống dưa hấu trồng vụ hè thu 2017 và 2018
Đơn vị tính: Triệu đồng/ha
Địa điểm Giống
Năng suất
(tấn/ha)
Giá bán (1000
đồng/kg)
Tổng
thu
Chi phí sản
xuất
Lãi
thuần
TL so với ĐC
(%)
Năm 2017
G1 37,9 11 416,9 112,35 304,55 112,61
G2 35,5 11 390,5 112,35 278,15 102,85 Xã An Ấp
G3 34,8 11 382,8 112,35 270,45 100
G1 37,3 11 410,3 112,35 297,95 113,40
G2 34,3 11 377,3 112,35 264,95 100,84
Xã
Quỳnh
Minh G3 34,1 11 375,1 112,35 262,75 100
G1 36,8 11 404,8 112,35 292,45 112,72
G2 34,2 11 376,2 112,35 263,85 101,70 Xã An
Quý G3 33,8 11 371,8 112,35 259,45 100
Năm 2018
G1 37,2 6 223,2 114,66 108,54 124,84
G2 34,2 6 205,2 114,66 90,54 104,14 Xã An Ấp
G3 33,6 6 201,6 114,66 86,94 100
G1 36,8 6 220,8 114,66 106,14 121,25
G2 33,5 6 201 114,66 86,34 98,63
Xã
Quỳnh
Minh G3 33,7 6 202,2 114,66 87,54 100
G1 36,9 6 221,4 114,66 106,74 127,16
G2 33,4 6 200,4 114,66 85,74 102,14 Xã An
Quý G3 33,1 6 198,6 114,66 83,94 100
3.5. Giá trị ngày công lao động, hiệu quả vốn đầu
tư các giống dưa hấu trồng vụ hè thu 2017 và 2018 tại
huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình
Bảng 5. Giá trị ngày công lao động, hiệu quả vốn đầu tư các giống dưa hấu trồng vụ hè thu 2017 và 2018
Địa điểm Giống Tổng
chi
Chi phí
vật chất
Tổng
thu
Lãi
thuần
Giá trị ngày công
lao động (đồng)
Hiệu quả vốn
đầu tư (lần)
Năm 2017
G1 112,35 54,24 416,9 304,55 783.000 7,69
G2 112,35 54,24 390,5 278,15 715.000 7,2 Xã An Ấp
G3 112,35 54,24 382,8 270,45 695.000 7,06
G1 112,35 54,24 410,3 297,95 766.000 7,56
G2 112,35 54,24 377,3 264,95 681.000 6,96
Xã
Quỳnh
Minh G3 112,35 54,24 375,1 262,75 675.000 6,92
G1 112,35 54,24 404,8 292,45 752.000 7,46
G2 112,35 54,24 376,2 263,85 678.000 6,94 Xã An
Quý G3 112,35 54,24 371,8 259,45 667.000 6,85
Năm 2018
G1 114,66 54,36 223,2 108,54 279.000 4,11
G2 114,66 54,36 205,2 90,54 233.000 3,77 Xã An Ấp
G3 114,66 54,36 201,6 86,94 223.000 3,71
G1 114,66 54,36 220,8 106,14 273.000 4,06
G2 114,66 54,36 201 86,34 222.000 3,70
Xã
Quỳnh
Minh G3 114,66 54,36 202,2 87,54 225.000 3,72
G1 114,66 54,36 221,4 106,74 274.000 4,07
G2 114,66 54,36 200,4 85,74 220.000 3,69 Xã An
Quý G3 114,66 54,36 198,6 83,94 216.000 3,65
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 151
Trên nền tảng năng suất và lãi thuần thu được,
tiến hành phân tích sâu hơn về giá trị công lao động
và hiệu quả đồng vốn, kết quả thể hiện trong bảng 5.
Năm 2017: Do giá bán và lãi thuần thu được
cao nên giá trị ngày công lao động khá cao, đều
trên ngưỡng 600.000 đồng/ngày công, trong đó
giống G1 đem lại giá trị cao nhất (752.000 - 783.000
đồng/ngày công); tiếp đến là giống G2 (678.000-
715.000 đồng/ngày công) và đều cao hơn so với
giống đối chứng G3 (667.000 - 695.000 đồng/ngày
công). Hiệu quả đồng vốn đầu tư cũng có xu
hướng tương tự, cao nhất ở giống G1 (7,46 - 7,69
lần), tiếp đến là G2 (7,20 – 6,94 lần) và thấp nhất là
giống đối chứng G3 (6,85 - 6,85 lần).
Năm 2018: Theo sự xuống thấp của giá bán và sự
tăng cao của chi phí đầu tư, giá trị ngày công lao
động năm 2018 giảm thấp đáng kể, chỉ bằng khoảng
1/3 so với năm 2017 trong đó giống G1 vẫn ở vị trí
cao nhất (274.000 - 279.000 đồng/ngày công), tiếp
theo là giống G2 (220.000 - 233.000 đồng/ngày
công), giống đối chứng thấp nhất (216.000 - 223.000
đồng/ngày công). Hiệu quả đồng vốn của 3 giống
G1, G2, G3 lần lượt đạt: 4,07 - 4,11 lần; 3,69 - 3,77
lần; 3,65 - 3,71 lần.
Giống G1 được trồng ở chân đất vàn cao (xã An
Ấp) cho giá trị ngày công lao động và hiệu quả đồng
vốn cao nhất trong cả 2 năm 2017 và năm 2018.
4. KẾT LUẬN
Trong 3 giống dưa hấu đưa vào khảo nghiệm
tại huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình, giống Super Hoàn
Châu vượt trội hơn hẳn hai giống Phù Đổng và
giống Đài Loan – Đài Loan, thể hiện qua các tiêu chí:
tỷ lệ mọc mầm cao (96%), thời gian sinh trưởng ngắn
(72-77 ngày), khối lượng quả vừa phải (2,56 -2,89 kg);
năng suất cao (34,50 - 40,20 tấn/ha), chất lượng tốt
và đem lại hiệu quả kinh tế (lãi thuần và giá trị ngày
công) cao. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Tiến Dũng và Nguyễn Đình Hiền,
(2010). Thiết kế thí nghiệm và xử lý kết quả bằng
phần mềm thống kê IRRISTAT. Nhà xuất bản Tài
chính.
2. Nguyễn Thị Lan và Phạm Tiến Dũng (2016).
Giáo trình phương pháp thí nghiệm. Nhà xuất bản
Nông nghiệp.
3. Mai Thị Phương Anh, (1996); Rau và trồng rau Giáo trình cao học nông nghiệp Viện Khoa học Nông
nghiệp Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp tr.254.
4. Tạ Thu Cúc, (2005). Giáo trình kỹ thuật trồng
rau. Nhà xuất bản Hà Nội tr. 33.
5. Lê Thị Khánh, (2002); Nguyễn Danh Vàn,
(2009). Kỹ thuật canh tác cây ăn trái.
6. Phòng NN&PTNT Quỳnh Phụ, (2017). Niên
giám thống kê huyện quỳnh phụ 2017.
7. Báo cáo tổng kết kinh tế xã hội năm 2015 – 2017 huyện Quỳnh Phụ.
A STUDY ON THE SCREENING WATERMELON CULTIVATED IN QUYNH PHU DISTRICT,
THAI BINH PROVINCE IN 2017-2018 SPRING - SUMMER SEASONS
Dang Tien Dung, Nguyen Thi Son, Pham Tien Dung
Summary Watermelon has traditionally been considered as highly economic crop in Quynh Phu district, Thai Binh
province. Various watermelon varieties have been available and cultivated in this locality without evaluation
of its suitabilities resulted in unsustained production. Because of that, a study on the selection of suitable
cultivars of watermelon was implemented in Quynh Phu district, Thai Binh province during 2017-2018
Spring-Summer seasons. Results conducted from the study showed that of three watermelon cultivars
evaluated, Super Hoan Chau cultivar was regarded as the best one presented by healthy, short duration of
growth (72 to 77 days), early and concentratedly harvested, high yield (36 to 40 tons/ha), and high quality
(good shape fruit, hard peel, attractive color and high TSS content). In addition, Super Hoan Chau cultivar
could be cultivated well in different kinds of soil because of its high resistance to various pest diseases.
Keywords: Select watermelon varieties, Super Hoan Chau and Quynh Phu.
Người phản biện: GS.TS. Vũ Mạnh Hải
Ngày nhận bài: 25/7/2019
Ngày thông qua phản biện: 26/8/2019
Ngày duyệt đăng: 4/9/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 152
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI KHU VỰC PHÂN BỐ
TỰ NHIÊN CỦA SÂM LAI CHÂU (Panax vietnamensis
var. fuscidicus K. Komatsu, S. Zhu & S.Q. Cai)
TẠI HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU Trần Thị Kim Hương1, Phạm Tiến Dũng2, Trịnh Ngọc Bon2, Phùng Đình Trung2,
Bùi Thanh Tân2, Nguyễn Huy Hoàng2, Nguyễn Văn Tuấn2, Phạm Quang Tuyến2*
TÓM TẮT Sâm Lai Châu (Panax vietnamensis var. fuscidiscus K. Komatsu, S. Zhu & S.Q. Cai) là một thứ của loài sâm
Việt Nam (Panax vietnamensis Ha & Grushv), phân bố tại các huyện Mường Tè, Tam Đường, Sìn Hồ và một
số huyện khác thuộc tỉnh Lai Châu. Bằng phương pháp phỏng vấn về địa điểm phân bố, vùng phân bố, đặc
điểm sinh thái, hiện trạng khai thác và điều tra thực địa trên 2 đai cao: 1.800-2.200m và 1.400-1.800m đã xác
định được đặc điểm sinh thái của cây sâm Lai Châu phân bố tự nhiên tại huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu.
Hiện trạng rừng tại khu vực nơi có sâm Lai Châu phân bố biến động từ rừng nghèo kiệt đến rừng giàu với độ
tàn che của tầng cây cao từ 0,2- 0,7; mật độ từ 300 - 2.150 cây/ha; đường kính cây từ 11,9 - 43,2cm; chiều cao
cây từ 7,3 - 18,6m; trữ lượng của lâm phần từ 12,8 - 368,2 m3/ha. Chỉ số IV% của 5 loài có số lượng lớn nhất
trong công thức tổ thành tầng cây cao tại các ô tiêu chuẩn đều lớn hơn 50% với nhiều ưu hợp thực vật khác
nhau trong các trạng thái rừng khác nhau. Số cây tái sinh triển vọng (có chiều cao > 0,5m) tại các ô tiêu
chuẩn trung bình đạt 65,6% cho thấy cây tái sinh rất thuận lợi. Đất tại khu vực có sâm Lai Châu phân bố có
thành phần cơ giới thịt pha cát, tơi xốp, giàu chất hữu cơ và hàm lượng mùn, độ ẩm khô kiệt, dung trọng đất
ở mức thấp, hàm lượng mùn tổng số, Nts, P2O5ts, K2Ots ở mức trung bình đến giàu, độ che phủ trung bình là
85% và chiều cao trung bình của tầng cây bụi, thảm tươi là 1,4m.
Từ khóa: Mường Tè, sâm Lai Châu, sinh thái, tự nhiên, Panax vietnamensis var. fuscidicus.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Chi Nhân sâm (Panax L.) là một chi trong họ Ngũ
gia bì (Araliaceae) với khoảng 19 loài được tìm thấy,
trong đó có 2 loài phân bố ở Bắc Mỹ, những loài còn
lại được tìm thấy tại vùng Đông Á, dãy núi Himalaya,
Trung Quốc, Đông Dương (Pandey và Ali. 2012). Hầu
như tất cả các loài trong chi Nhân sâm đều được sử
dụng làm thuốc cổ truyền ở các nước Á - Âu, đặc biệt là
ở các nước Đông - Bắc Á. Tại Việt Nam đã ghi nhận 5
loài thuộc chi Nhân sâm là Tam thất hoang (P.
stipuleanatus H. T. Tsai et K. M.), Sâm vũ diệp
(P.bipinnatifidus Seem.), Sâm Việt Nam (Panax vietnamensis Ha & Grushv.), Giả nhân sâm (P.
pseudoginseng Wallich) và Nhân sâm (P. ginseng C. A.
Mey). Tuy nhiên, chỉ có 3 loài Tam thất hoang, Sâm vũ
diệp và sâm Việt Nam được tìm thấy trong tự nhiên, hai
loài còn lại nhập nội (Nguyễn Tập, 2005).
Sâm Lai Châu (P. vietnamensis var. fuscidiscus K. Komatsu, S. Zhu & S. Q. Cai) là một thứ của loài
sâm Việt Nam (Panax vietnamensis Ha & Grushv.)
còn được gọi là Tam thất hoang Mường Tè, Tam thất
1 Nghiên cứu sinh khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2 Viện Nghiên cứu Lâm sinh [email protected]
đen... Phạm Quang Tuyến và cộng sự (2018) trong
quá trình điều tra, nghiên cứu đã xác định sâm Lai
Châu phân phân bố ở độ cao 1.400 - 2.300m so với
mực nước biển. Phan Kế Long và cộng sự (2013) đã
phát hiện sâm Lai Châu phân bố tự nhiên tại các
huyện Tam Đường, Sìn Hồ, Mường Tè và Phong Thổ
của tỉnh Lai Châu. Sâm Lai Châu có giá trị kinh tế
khoảng 20-70 triệu đồng/kg (Phạm Quang Tuyến và
công sự, 2017). Thành phần saponin trong Sâm Lai
Châu rất phong phú với 52 loại hoạt chất quý hiếm
tương tự như sâm Ngọc Linh (Đỗ Thị Hà và cộng sự,
2015).
Huyện Mường Tè nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh
Lai Châu, có khu vực đường biên giới giáp với tỉnh
Vân Nam của Trung Quốc, là nơi ghi nhận có sự phân
bố tự nhiên của sâm Lai Châu (Phan Kế Long và cộng
sự, 2013). Mường Tè có độ cao trung bình từ 900-
1.500m so với mực nước biển, có các đỉnh núi như Pu
Tả Tông (cao 2.109 m), Pu Đen Đinh (1.886 m), Pu Si
Lung (3.076 m)... Chế độ khí hậu huyện Mường Tè
điển hình của vùng nhiệt đới núi cao Tây Bắc, ít chịu
ảnh hưởng của bão, mùa đông lạnh và mưa ít, mùa hạ
nóng mưa nhiều và ẩm ướt. Nhiệt độ trung bình trong
năm là 22,4º0C, nhiệt độ cao nhất là 39º0C, nhiệt độ thấp
nhất là 1º0C. Lượng mưa trung bình trong năm là 2.531
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 153
mm. Độ ẩm tương đối đạt 75 - 85%.
Là loài cây mới được công bố ở nước ta, các kết
quả nghiên cứu, đánh giá về đặc điểm hình thái, đặc
điểm di truyền và thành phần hoá học của sâm Lai
Châu đã góp phần nhận diện loài. Tuy nhiên, cho đến
nay với hiểu biết của chúng tôi vẫn chưa thấy có các
công bố về biện pháp kỹ thuật nhân giống và trồng
trọt. Nghiên cứu này công bố một số kết quả nghiên
cứu về đặc điểm sinh thái khu vực phân bố tự nhiên
của cây sâm Lai Châu tại huyện Mường Tè, tỉnh Lai
Châu làm cơ sở khoa học để thực hiện nhân giống và
trồng trọt, góp phần bảo tồn và phát triển loài sâm
này.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm sinh thái tự nhiên nơi phát hiện cây
sâm Lai Châu (P. vietnamensis var. fuscidiscus K.
Komatsu, S. Zhu & S. Q. Cai) đang sinh trưởng và
phát triển tại huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Phương pháp thu thập thông tin
Phỏng vấn cán bộ kiểm lâm địa bàn, thầy lang,
người dân tại một số xã thuộc huyện Mường Tè để
thu thập thông tin về địa điểm phân bố, vùng phân
bố, đặc điểm sinh thái, hiện trạng khai thác và sử
dụng để làm cơ sở xác định các tuyến điều tra thực
địa. 2.2.2. Phương pháp điều tra
Trên cơ sở thông tin thu thập được từ điều tra,
phỏng vấn, điều tra thực địa được xác định trên 2 đai
cao: 1800-2200m và 1400-1800m so với mực nước
biển. Trên đai cao 1800-2200m tiến hành điều tra 3
tuyến MT1, MT2, MT3 (xã Pa Vệ Sử); ở đai cao 1400
- 1800m tiến hành điều tra tuyến MT4 (xã Ka Lăng).
Chiều rộng quan sát mỗi tuyến 30m, chiều dài tuyến
phụ từ 2-2,5km. Trong quá trình điều tra theo tuyến, nếu bắt gặp
cây sâm Lai Châu thực hiện thiết lập ô tiêu chuẩn đo
đếm lấy cây đó làm tâm ô. Trong trường hợp gặp 2-3
cây cách nhau 5-10m thì chọn khoảng cách trung tâm
làm tâm ô. Ô tiêu chuẩn có diện tích 400m2 (20 x
20m) được thiết lập để điều tra cấu trúc rừng và
thành phần loài. Trong ô tiêu chuẩn xác định tên cây
và đo đếm các chỉ tiêu đường kính ngang ngực (D1.3,
cm), chiều cao vút ngọn (Hvn, m), đường kính tán (Dt,
m) của tất cả các cây có đường kính tại vị trí ngang
ngực ≥ 5 cm. Cây gỗ được qui định có chiều cao trên
7m và cây bụi có chiều cao trên 1m. Cây nào chưa
biết tên phải lấy tiêu bản và đánh số vào phiếu để
định loại. Độ tàn che được xác định thông qua phần
mềm GLAMA – Gap Light analysis mobile tại 8
điểm/OTC.
Trong ô tiêu chuẩn, thiết lập 04 ô phụ có diện
tích 4m2 (2m x 2m) ở 4 góc để đo đếm các chỉ tiêu tái
sinh (độ che phủ, loài cây, phân cấp chiều cao, nguồn
gốc tái sinh). Điều tra mô tả, cây bụi, thảm tươi trong
ô tiêu chuẩn (loài cây, mật độ, độ cao, độ che phủ
thực bì,…). Các cây tái sinh trong ô phụ được phân
loại ra 3 mức theo cấp chiều cao, gồm: ≤ 0,5m, từ 0,5 -
1m, ≥ 1m và xác định nguồn gốc tái sinh hạt/chồi. Vị
trí ô tiêu chuẩn điều tra sâm Lai Châu được thể hiện
trong hình 1.
Hình 1. Vị trí ô tiêu chuẩn điều tra sâm Lai Châu
Từ trái qua: (a) bản đồ vị trí ô tiêu chuẩn, (b) Hình dạng ô tiêu chuẩn, (c) cây sâm Lai Châu
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 154
2.2.3. Phương pháp thu mẫu và phân tích đất
Trên tuyến điều tra, trong OTC có cây sâm Lai
Châu đào 01 phẫu diện cách cây sâm Lai Châu 50 cm
(tránh ảnh hưởng đến cây) để mô tả. Xác định tại chỗ
các chỉ tiêu loại đất, độ dày tầng đất, độ dốc, độ ẩm.
Lấy mẫu đất ở trong tất cả các OTC có cây sâm phân
bố ở độ sâu 0-20cm để phân tích lý hóa tính. Mẫu đất
được lấy tại 5 điểm trong ô tiêu chuẩn (4 điểm góc ô
và 1 điểm tâm ô), sau đó trộn lẫn lấy 1 mẫu để phân
tích. Các chỉ tiêu lý, hóa tính được phân tích gồm: (1)
Độ ẩm: TCVN 4048:2011; (2) Thành phần cấp hạt:
TCVN 5257:1990; (3) pH: TCVN 5979:2007; (4) Chất
hữu cơ tổng số: TCVN 8941:2011; (5) Đạm tổng số:
TCVN 6498: 1999; (6) Lân dễ tiêu; (7) Kali dễ tiêu;
(8) Dung trọng. Mẫu đất được phân tích tại Phòng
Phân tích đất, Viện Nghiên cứu Sinh thái và Môi
trường rừng.
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu thập được tổng hợp và xử lý bằng
phần mềm Excel version 2010. Một số chỉ tiêu cơ bản
độ tàn che, mật độ, số loài, đường kính trung bình,
chiều cao trung bình, tổng diện tích tán, trữ lượng
được xác định theo giáo trình Sinh thái rừng (Phạm
Văn Điển, 2016).
Tổ thành loài tầng cây cao được xác định dựa
trên chỉ số quan trọng IV%, được tính cho tất cả các
loài cây gỗ có đường kính D1.3 ≥ 5 cm theo công thức:
IV% = (% Ni + %Gi)/2
Trong đó: IV% là chỉ số xác định tổ thành loài; Ni là
mật độ của loài i/OTC; Gi là tiết diện ngang của loài
i/OTC. Các loài có IV% ≥ 5% thì được viết vào công thức
tổ thành, các loài có IV% < 5% thì được viết gộp thành
loài khác.
Tổ thành loài tầng cây tái sinh được xác định dựa
trên chỉ số tổ thành theo loài cây (Ki) theo công
thức:
Trong đó: ki là hệ số tổ thành loài thứ i; ni là số
lượng cây tái sinh loài thứ i; N là tổng số cây tái sinh.
Công thức tổ thành được viết theo nguyên tắc: (i) loài
có hệ số ki lớn sẽ đứng trước; (ii) nếu ki ≥ 0,5 trước
đó sẽ được viết vào công thức tổ thành; (iii) các loài
có hệ số ki<0,5 sẽ được gộp lại gọi là loài khác, ký
hiệu LK.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm thảm thực vật nơi cây sâm Lai
Châu phân bố
3.1.1. Tầng cây cao
Đặc điểm tầng cây cao Kết quả xác định đặc điểm tầng cây cao của khu
vực nơi phân bố cây sâm Lai Châu được trình bày tại
bảng 1.
Bảng 1. Đặc điểm tầng cây cao
Tuyến OTC (m)
Độ cao (m)
Độ tàn che
Số cây (cây/ha)
D1.3 ±SD (cm)
Hvn±SD (m)
Tổng diện tích tán (m2/ha)
M (m3/ha)
MT 1-1 2192 0,5 1200 20,5±15,3 12,5±5,3 23.790 222,5 1
MT 1-2 2048 0,2 350 11,9±6,1 7,3±1,4 2.085 12,8
MT 2-1 2020 0,4 300 43,2±17,9 18,6±5,7 13.738 368,2
MT 2-2 2184 0,5 325 35,4±23,7 14,8±5,2 14.895 212,6 2
MT 2-3 2034 0,6 375 29,1±10,2 18,0±5,4 12.266 201,2
MT 3-1 1801 0,3 450 12,3±4,7 9,5±3,4 5.593 22,9 3
MT 3-2 2111 0,4 750 18,3±9,0 11,7±4,1 10.131 103,5
MT 4-1 1641 0,5 775 21,0±9,2 14,8±4,0 16.569 177,8 4
MT 4-2 1639 0,7 2150 15,1±17,2 11,2±2,7 22.675 193,1
So sánh giữa hai độ cao
1.800 – 2.200 2056 0,4 536 24,4±12,4 13,2±4,4 11.785 163,4
1.400 – 1.800 1640 0,6 1463 18,0±13,2 13,0±3,4 19.622 185,4
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 155
Trên các tuyến điều tra xác định được sâm Lai
Châu phân bố tự nhiên ở độ cao từ 1.600 - 2.200m so
với mực nước biển. Độ tàn che của tầng cây cao biến
động trong khoảng từ 0,2- 0,7 với mật độ biến động rất
lớn trong khoảng từ 300 - 2.150 cây/ha; đường kính
bình quân biến động trong khoảng từ 11,9- 43,2cm;
chiều cao bình quân biến động từ 7,3 - 18,6m. Trữ
lượng của lâm phần biến động rất lớn trong khoảng
từ 12,8 - 368,2 m3/ha. Nếu xét theo tiêu chí thành
rừng (Thông tư số 33/2018/TT-BNNPTNT) thì hiện
trạng rừng tại khu vực biến động từ rừng nghèo kiệt
đến rừng giàu. Đặc biệt khi xét tới sự biến động rất
lớn của đường kính bình quân và chiều cao bình quân
thì rừng tự nhiên tại khu vực có sâm Lai Châu phân
bố là rừng thứ sinh đã bị tác động mạnh do khai thác
hoặc đốt nương làm rẫy.
Tổng diện tích tán có sự khác biệt lớn giữa các
trạng thái rừng. Chỉ số này biến động trong khoản từ
2.085 -23.790 m2/ha, thấp nhất tại hai trạng thái rừng
nghèo kiệt (MT1-2, MT3-1) và cao nhất tại trạng thái
rừng giàu (MT1-1). Một số ô tiêu chuẩn như MT1-1,
MT2-1, MT2-2, MT4-1 có độ tàn che chỉ 0,3 - 0,4
nhưng tổng diện tích tán đạt từ 13.738–23.790 m2/ha
gấp từ 1,3 –2,3 lần diện tích. Chỉ hai ô tiêu chuẩn
MT1-2 và MT 3-1 có tổng diện tích tán < 10.000m2 và
độ tàn che chỉ đạt từ 0,2 - 0,3. Điều này cho thấy tầng
cây cao tại hai ô tiêu chuẩn này đã bị tác động rất
mạnh.
Kết quả so sánh giữa hai độ cao từ 1.800 - 2.200m
và 1.400 - 1.800m cho thấy có sự khác biệt đáng kể
giữa các chỉ tiêu của hai khu vực có phân bố sâm Lai
Châu. Khu vực có độ cao 1.400 - 1.800 m có các chỉ
tiêu về độ tàn che, mật độ, tổng diện tích tán và trữ
lượng bình quân lớn hơn khu vực có độ cao 1.800 -
2.200m. Trong đó, sự khác biệt lớn nhất về độ tàn che
và tổng diện tích tán.
Tổ thành tầng cây cao
Tổ thành tầng cây cao nơi phân bố cây sâm Lai
Châu được trình bày tại bảng 2.
Bảng 2. Tổ thành tầng cây cao
Tuyến OTC Số loài IV%
MT 1-1 20 24,7 Rơ đe + 13,9 Mỡ + 13,5 Dẻ vảy nhiều + 8,6 Kháo Trung
Quốc + 39,3 LK (16 loài) 1
MT 1-2 5 65,7 Mỡ + 15,0 Chân chim lá to + 9,9 Kháo + 9,4 LK (2 loài)
MT 2-1 9 18,2 Dẻ lá dài + 15,3 Sồi quang + 13,1 Bời lời + 12,9 Trâm + 11,4
Vải + 8,4 Rơ đe + 8,3 Da bò + 6,6 Dẻ Bắc bộ+ 5,6 trám
MT 2-2 8 28,6 Dẻ Bắc bộ + 25,1 Sồi quang + 17,5 Chè đuôi + 6,7 Dẻ gai +
5,9 Dẻ đầu nứt + 5,8 Dẻ + 5,3 Giổi lông + 5,0 Sồi ghè 2
MT 2-3 9 18,4 Mỡ + 16,9 Lá dương + 14,8 Đỗ quyên + 10,8 Chắp + 10,6
Giang núi + 8,6 Dẻ lá mác + 7,9 Kháo + 7,8 Trâm + 4,3 Trám
MT 3-1 5 27,1 Dẻ đấu nứt + 27,0 Liên đàn + 21,2 Lá dương + 20,2 Súm + 4,4
Vối thuốc
3
MT 3-2 17 15,2 Côm tầng + 12,9 Dẻ gai + 9,3 Dẻ Bắc bộ+ 9,2 Giổi lưng bạc +
9,1 Chân chim + 8,9 Chắp tay + 5,0 Liên đàn + 30,4 LK (10 loài)
MT 4-1 14
18,7 Dẻ đấu nứt + 11,4 Ràng ràng + 11,1 Dẻ lá mác + 8,8 Lá
dương + 8,5 Giổi lưng bạc + 7,8 Cáng lò + 7,2 Dẻ gai + 5,6 Mỡ+
20,8 LK (6 loài) 4
MT 4-2 10 35,8 Dẻ đấu nứt + 31,9 Rơ đe + 8,4 Cáng lò + 7,4 Thị rừng + 7,0
Nanh chuột + 6,9 Vối thuốc + 2,7 LK (4 loài)
Số loài thảm thực vật rừng xuất hiện tại khu vực
nơi có sâm Lai Châu phân bố biến động trong
khoảng từ 5 - 20 cây. Trong đó, trạng thái rừng nghèo
kiệt (MT1-2, MT3-1) có số loài thấp nhất (5 loài), các
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 156
trạng thái rừng còn lại số lượng loài biến động không
rõ rệt.
Chỉ số IV% giữa các ô tiêu chuẩn nơi có phân bố
sâm Lai Châu cũng có sự khác biệt đáng kể. Ô tiêu
chuẩn MT1-2 và MT3-1 ở trạng thái rừng nghèo kiệt
có số lượng loài thấp nhất và thành phần loài cây
chiếm ưu thế tương đối rõ ràng. Trong ô tiêu chuẩn
MT1-2 có ưu hợp Mỡ + Chân chim lá to + Kháo
chiếm 90,6% công thức tổ thành; ô tiêu chuẩn MT3-1
có ưu hợp Dẻ đấu nứt + Liên đàn + Lá dương + Súm
chiếm 95,6% công thức tổ thành. Tại trạng thái rừng
giàu (ô tiêu chuẩn MT3-2, MT4-1, MT4-2), số loài cây
chiếm ưu thế trong công thức tổ thành từ 6 - 8 loài với
tổng chỉ số IV% từ 69,6 - 97,3%. Đặc biệt tại 3 ô tiêu
chuẩn MT2-1, MT2-2, MT2-3 số lượng loài trong mỗi
ô chỉ từ 8 - 9 loài nhưng tất cả những loài này đều
xuất hiện trong công thức tổ thành.
3.1.2. Tầng cây tái sinh
Đặc điểm tầng cây tái sinh Kết quả xác định đặc điểm tầng cây tái sinh được
trình bày tại bảng 3.
Bảng 3. Đặc điểm tầng cây tái sinh
Số cây theo cấp chiều cao Nguồn gốc
cây tái sinh Tuyến OTC Số cây Số loài
< 0,5m 0,5 – 1,0m > 1m Chồi hạt
MT 1-1 1.250 2 0 625 625 625 625 1
MT 1-2 1.875 3 0 0 1.875 1.875 0
MT 2-1 1.875 3 625 625 625 1.875 0
MT 2-2 6.875 4 0 3.125 3.750 6.250 625 2
MT 2-3 625 1 625 0 0 0 625
MT 3-1 56.250 5 16.875 20.000 19.375 48.125 8.125 3
MT 3-2 12.500 14 1.250 7.500 3.750 10.000 2.500
MT 4-1 39.375 12 10.000 16.875 12.500 39.375 0 4
MT 4-2 53.750 9 30.625 13.750 9.375 47.500 6.250
So sánh giữa hai độ cao
1.800 – 2.200 11.607 5 2.768 4.554 4.286 9.821 1.786
1.400 – 1.800 46.563 11 20.313 15.313 10.938 43.438 3.125
Mật độ cây tái sinh biến động trong khoảng từ
625 - 56.250 cây/ha. Mật độ cây tái sinh tại tuyến 1 và
tuyến 2 (xã Pa Vệ sử) thấp hơn so với mật độ cây tái
sinh đo đếm tại tuyến 4 (xã Ka Lăng). Số cây tái sinh
triển vọng (chiều cao > 0,5m) chiếm đa số tại các ô
tiêu chuẩn (trung bình là 65,6% cho các ô tiêu chuẩn)
cho thấy tình hình tái sinh rất thuận lợi.
Số loài cây tái sinh biến động trong khoảng từ 1 -
14 loài/OTC. Một số ô tiêu chuẩn có số lượng loài tái
sinh rất thấp như MT2-3, MT1-1, MT1-2, MT2-1. Đặc
biệt tại ô tiêu chuẩn MT2-3 chỉ có 1 loài tái sinh.
Theo đai cao, kết quả ghi nhận sự khác biệt rõ
rệt giữa mật độ, số loài, số cây theo cấp chiều cao. Cụ
thể mật độ cây tái sinh tại đai 1.400 - 1.800m gấp 4 lần
so với mật độ cây tái sinh tại đai 1.800 - 2.200m.
Tương tự như vậy, tại đai cao 1.400 - 1.800m số loài
cao gấp 2 lần, số cây tái sinh có chiều cao < 0,5m gấp
9 lần, số cây tái sinh có chiều cao từ 0,5 - 1,0m gấp 4
lần, số cây tái sinh có chiều cao > 1m gấp 2,5 lần. Kết
quả này cho thấy tầng cây tái sinh tại đai cao 1.400 -
1.800m sinh trưởng và phát triển tốt hơn tại đai cao
1.800 - 2.200m.
Tổ thành tầng tái sinh
Kết quả xác định tổ thành tầng cây tái sinh được
trình bày tại bảng 4.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 157
Bảng 4. Tổ thành tầng cây tái sinh
Tuyến OTC Số loài Công thức tổ thành loài
MT 1-1 2 5,0 Dẻ nhiều vảy + 5,0 Kháo TQ 1
MT 1-2 3 5,0 Sung + 2,5 Chân chim + 2,5 Lòng trứng
MT 2-1 3 3,3 Chân chim + 3,3 Rơ đe + 3,3 Tú Cầu bắc
MT 2-2 4 4,5 Chân chim + 3,6 Chè đuôi + 0,9 Chân danh + 0,9 Dẻ gai Bắc bộ 2
MT 2-3 1 10 Đu đủ rừng
MT 3-1 5 4,7 Liên đàn + 2,4 Súm + 1,8 Dẻ đấu nứt +0,9 Vối thuốc+ 0,3 Lá dương
3
MT 3-2 14 1,5 Dẻ bắc bộ + 1,0 Lá dương + 1,0 Chè đuôi + 1,0 Côm tầng + 1,0 Liên đàn +
4,5 LK (9 loài)
MT 4-1 12 4,7 Dẻ đấu nứt + 1,3 Nanh chuột + 0,5 Vối thuốc + 0,5 Ba chạc + 0,5 Kháo + 0,5
Mỡ + 0,5 Trọng đũa + 1,3 LK (5 loài) 4
MT 4-2 9 5,6 Dẻ đấu nứt + 0,9 Liên đàn + 0,9 Nanh chuột + 0,9 Vối thuốc + 0,6 Ba chạc +
1,2 LK (4 loài)
Tại tuyến 01 và 02 công thức tổ thành loài cây tái
sinh rất đơn giản, các công thức tổ thành chỉ có 1 - 4
loài xuất hiện. Trong khi đó tại tuyến 3 và tuyến 4 có
công thức tổ thành phức tạp hơn với khoảng 5 - 7 loài
cây xuất hiện trong công thức. Một số loài cây tái
sinh phổ biến, chiếm đa số trong công thức tổ thành
bao gồm: Dẻ nhiều vảy, Sung, Chân chim, Đu đủ
rừng, Liên đàn, Dẻ đấu nứt. Những cây này đều
chiếm đa số trong công thức tổ thành tầng cây cao.
3.1.3. Tầng cây bụi Kết quả xác định đặc điểm tầng cây bụi nơi có
phân bố cây sâm Lai Châu được trình bày tại bảng 5.
Bảng 5. Đặc điểm tầng cây bụi
OTC Số loài % che phủ H (m) Loài chủ yếu
MT 1-1 7 100 1,3 Sâm Lai Châu, Sặt, Me nguồn, Thu hải đường, Cao hùng, Giềng núi,
Dương xỉ
MT 1-2 6 85 1,4 Sâm Lai Châu, Me nguồn, Dương xỉ, Lương Khương, Sặt, Cỏ lá tre
MT 2-1 9 100 0,9 Sâm Lai Châu, Cao hùng, Thảo quả, Dương xỉ, Me nguồn, Cỏ lá tre, Sa
nhân, sâm Vũ diệp, Tam thất hoang.
MT 2-2 4 90 1,1 Sâm Lai Châu, Sa nhân, Sâm cau lá to, Me nguồn
MT 2-3 6 90 1,1 Sâm Lai Châu, Thảo quả, dương xỉ, Thu hải đường, Cói, Song bào đá
MT 3-1 9 95 1,2 Sâm Lai Châu, sâm Vũ Diệp, Tam Thất Hoang, Dương xỉ, Me nguồn,
Cỏ lá tre, Thông đất, Guột, bảy lá một hoa.
MT 3-2 8 85 2,5 Sâm Lai Châu, Tam Thất Hoang, Bảy lá một hoa, Cao cẳng, Dứa dại,
Nứa, Quyển bá, Dương xỉ
MT 4-1 10 100 1,0 Sâm Lai Châu, Tam Thất Hoang, Bảy lá một hoa, Cói, Cỏ lá tre, Gừng,
Dương xỉ, Me nguồn, Sâm Vũ Diệp, Sâm cau lá to
MT 4-2 5 20 1,9 Sâm Lai Châu, Sậy, Ráng, Guột, Kim cang
TB 7 85 1,4
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 158
Số loài xuất hiện trong tầng cây bụi biến động từ
4 - 10 loài, trung bình khoảng 7 loài/OTC. Độ che
phủ trung bình ở mức cao khoảng 85% với chiều cao
trung bình 1,4 m. Các loài cây chủ yếu xuất hiện tại
tầng cây bụi gồm sâm Lai Châu, Sâm vũ diệp, Tam
thất hoang, Bảy lá một hoa, Sặt, Me nguồn, Sa nhân,
Sâm cau lá to, Dương xỉ… Không có sự khác biệt
đáng kể về số loài, độ che phủ, chiều cao trung bình
của tầng cây bụi giữa các ô tiêu chuẩn.
3.2. Đặc điểm đất tại địa điểm phân phân bố sâm
Lai Châu
Kết quả nghiên cứu đặc điểm đất tại các địa điểm
phân bố sâm Lai Châu được trình bày tại bảng 6.
Bảng 6. Đặc điểm đất tại địa điểm phân bố sâm Lai Châu
Thành phần
cơ giới 3 cấp (%)
OTC pHKCl
(1:5)
Mùnts
(%)
Nts
(%)
P2O5ts
(%)
K2Ots
(%)
Độ ẩm
khô
kiệt
(%)
Dung
trọng
(g/cm3) sét: <
0,002
mm
limon:
0,002 –
0,02 mm
cát: 0,02
- 2 mm
MT 1-2 3,54 6,01 0,33 0,29 0,61 5,71 0,91 8,46 21,14 70,40
MT 2-1 3,30 20,80 0,78 0,60 0,61 7,18 1,12 10,72 17,15 72,13
MT 2-2 3,04 29,37 0,94 0,52 0,66 8,93 1,13 8,71 15,25 76,04
MT 3-2 3,89 9,28 0,48 0,39 0,40 5,60 1,18 8,45 14,78 76,77
MT 4-1 3,37 7,30 0,45 0,37 1,71 5,82 0,97 10,58 31,74 57,68
Độ chua trao đổi ở các điểm nghiên cứu đều ở
mức rất chua, độ pHKCl đạt giá trị cao nhất 3,89 và
thấp nhất 3,04; hàm lượng mùn biến động trong
khoảng từ 6,01 - 29,37%, được xếp vào mức giàu đến
rất giàu; hàm lượng đạm biến động trong mức trung
bình đến giàu (từ 0,33 - 0,94%); hàm lượng lân tổng số
(P2O5ts) ở mức rất giàu, biến động trong khoảng từ
0,29 - 0,60%; hàm lượng kali tổng số ở mức trung bình
> 0,5% (trừ trường hợp ô tiêu chuẩn MT3 - 2 hàm
lượng kali tổng số ở ở mức nghèo).
Độ ẩm khô kiệt ở mức thấp, biến động trong
khoảng từ 5,60 - 8,93%; dung trọng đất ở các ô tiêu
chuẩn nghiên cứu biến động tương đối thấp từ 0,91 -
1,18 (g/cm3) cho thấy đất tại khu vực tơi xốp và giàu
chất hữu cơ.
Về thành phần cơ giới, cấp hạt cát (0,02 - 2 mm)
chiếm tỷ lệ cao nhất từ 57,68 - 76,77%, tiếp theo là tỷ
lệ cấp hạt limom (0,002 -0,02 mm) biến động từ 14,78
- 31,74%, thấp nhất là tỷ lệ cấp hạt sét (< 0,002%) biến
động từ 8,45 - 10,58%. Theo bảng phân loại xác định
thành phần cơ giới đất của FAO - UNESCO cho thấy
đất ở các khu vực có loài sâm Lai Châu phân bố là đất
thịt pha cát.
Kết quả nghiên cứu khu vực có phân bố sâm Lai
Châu cho thấy tại các ô tiêu chuẩn điều tra, sâm Lai
Châu mọc tự nhiên ở độ cao 1.600 - 2.200m so với
mực nước biển, phân bố trên nhiều trạng thái thảm
thực vật từ rừng nghèo kiệt đến rừng giàu, đất có pH
(3,04-3,89) ở mức rất chua, hàm lượng mùn cao, đất
tơi xốp và pha cát. Kết quả nghiên cứu này phù hợp
với các nghiên cứu đã được công bố của Phan Kế
Long và cộng sự (2013), Phạm Quang Tuyến và cộng
sự (2018). Mặt khác, các nghiên cứu trước đây đều
chỉ ra rằng sâm Lai Châu là cây thân thảo, chỉ có thể
tồn tại và phát triển tốt dưới bóng râm của các thảm
thực vật với độ tàn che 0,7. Tuy nhiên, trong nghiên
cứu này đã xác định được sâm Lai Châu mọc được
dưới tán rừng với độ tàn che tầng cây cao (0,2) nhưng
yêu cầu số cây tái sinh triển vọng (chiều cao > 0,5m)
nhiều và độ che phủ của tầng cây bụi thảm tươi ở
mức cao (bình quân 85%). Như vậy, cấu trúc rừng nơi
có cây sâm Lai Châu phân bố thì tầng cây tái sinh và
cây bụi thảm tươi là một chỉ số quan trọng cho sự tồn
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 159
tại của sâm Lai Châu.
4. KẾT LUẬN
Sâm Lai Châu phân bố tự nhiên ở độ cao từ 1.600 -
2.200m so với mực nước biển. Hiện trạng rừng tại khu
vực điều tra biến động từ rừng nghèo kiệt đến rừng
giàu, mật độ tầng cây cao từ 300-2150 cây/ha. Sâm
Lai Châu có thể mọc dưới tán rừng có độ tàn che tầng
cây cao 0,2- 0,7, mật độ cây tái sinh lớn, tầng cây bụi
thảm tươi có độ che phủ trung bình 85% và chiều cao
trung bình 1,4m. Mật độ cây tái sinh biến động từ 625
- 56.250 cây/ha với số loài từ 1 - 14 loài/OTC.
Sâm Lai Châu phân bố nơi đất có đặc điểm tơi
xốp, thành phần cơ giới là thịt pha cát, giàu dinh
dưỡng, hàm lượng mùn cao, độ pH chua, độ ẩm khô
kiệt và dung trọng đất ở mức thấp, hàm lượng Nts,
P2O5ts, K2Ots ở mức trung bình đến giàu.
LỜI CẢM ƠN!
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn đề tài mã
số KHCN-TB.16C/13-18: “Nghiên cứu xây dựng quy
trình nhân giống và trồng cây sâm Lai Châu (Panax
vietnamensis var. fuscidiscus K. Komatsu, S. Zhu &
S. Q. Cai)” thuộc Chương trình Khoa học và nghệ
phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc, Đại học
Quốc gia Hà Nội đã hỗ trợ nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Điển, Phạm Xuân Hoàn (2016).
Giáo trình Sinh thái rừng, Nhà xuất bản Nông nghiệp,
Hà Nội.
2. Komatsu K, Zhu S, Cai SQ (2003). A new
variety of the genus Panax from Southern Yunnan,
China and its nucleotide sequences of 18S ribosomal
RNA gene and matK gene. J Jap Bot 78(2): 86-94.
3. Lã Đình Mỡi, Châu Văn Minh, Trần Văn
Sung, Phạm Quốc Long, Phan Văn Kiệm, Trần Huy
Thái, Trần Minh Hợi, Ninh Khắc Bản, Lê Mai Hương
(2013). Họ Nhân Sâm (Araliaceae Juss.) – nguồn
hoạt chất sinh học đa dạng và đầy triển vọng ở Việt
Nam. Hội Nghị Khoa học Toàn quốc về sinh thái và
tài nguyên sinh vật lần thứ 5. Viện Hàn lâm Khoa học
và Công nghệ Việt Nam.
4. Phạm Thị Ngọc, Phạm Thanh Huyền,
Nguyễn Quỳnh Nga, Phan Văn Trưởng, Nguyễn
Minh Khởi (2017). Nghiên cứu đặc điểm hình thái
các loài thuộc chi Nhân sâm –Panax L. (Araliaceae) ở
Việt Nam, Tạp chí Dược Liệu, 22(3):315 - 322.
5. Phan Ke Long, Le Thanh Son, Phan Ke Loc,
Vu Dinh Duy and Pham Van The (2013). Lai Chau
ginseng Panax vietnamensis var. fuscidiscus K.
Komatsu, S. Zhu & S. Q. Cai. I. morphology, ecology,
distribution and conservation status”, Báo cáo khoa
học hội thảo VAST – KAST lần thứ II về đa dạng sinh
học và các chất có hoạt tính sinh học, tr. 65-73, NXB.
Khoa học tự nhiên và Công nghệ.
6. Phan Ke Long, Tran Thi Viet Thanh, Nguyen
Thien Tao, Phan Ke Loc, Nguyen Tu Lenh, Nguyen
Tien Lam, Dang Xuan Minh (2014). Morphological and
molecular characsteristics of Panax sp. (Araliaceae)
from Phu Xai Lai Leng mountain, Nghe An province,
Vietnam, Journal of Biology, 36(4): 494-499.
7. Pandey, A. K., Ali, M. A., (2012). Intraspecific
variation in Panax assamicus Ban. Populations based
on internal transcribed spacer (ITS) sequences of
nrDNA. In. J. Biotechnol. 11, 30–38.
8. Nguyễn Tập (2005). Các loài thuộc chi Panax
L. ở Việt Nam, Tạp chí Dược liệu, 10 (3): 71-76.
9. Phạm Quang Tuyến và cộng sự (2018). Báo
cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu bảo tồn và phát triển
các loài sâm Lai Châu (Panax vietnamensis var.
fuscidiscus), Tam thất hoang (Panax stipuleanatus) ở
các xã vùng cao huyện Mường Tè”, Viện Nghiên cứu
Lâm sinh.
10. Yamasaki, K., (2000). Bioactive saponins in
Vietnamese ginseng, Panax vietnamensis. Pharm
Biol. 38 Suppl 1:16-24.
11. Wen J. (2000). Species diversity,
Nomenclature, Phylogeny, Biogeography and
Classification of the Ginseng genus (Panax L.,
Araliaceae), Proceeding of the International Ginseng
Workshop "Utilization of Biotechnology, genetic and
cultural approaches for North American and Asian
Ginseng improvement, Zamir K. Punja, 67 - 88.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 160
STUDY ON ECOLOGICAL CHARACTERISTICS OF LAI CHAU GINSENG (Panax vietnamensis var.
fuscidicus K. Komatsu, S. Zhu & S. Q. Cai) DISTRIBUTED IN MUONG TE, LAI CHAU PROVINCE
Tran Thi Kim Huong, Pham Tien Dung, Trinh Ngoc Bon, Phung Dinh Trung,
Bui Thanh Tan, Nguyen Huy Hoang, Nguyen Van Tuan, Pham Quang Tuyen
Summary Lai Chau ginseng (P. vietnamensis var. Fuscidiscus K. Komatsu, S. Zhu & S. Q. Cai) is a subspecies of the
Vietnamese Ginseng species (P. vietnamensis Ha & Grushv), distributed in Muong Te, Tam Duong, Sin Ho
and a Other districts in Lai Chau province. The results of interview on the distribution location and Region,
ecological characteristics, exploitation status and investigation of survey routes on two high elevations:
1800-2200 m and 1400-1800m showed that Lai Chau ginseng is naturally distributed from poor to rich forest
with the canopy of tree layer was from 0.2 to 0.7; the density was from 300 to 2,150 tree/ha; The diameter
was from 11.9 to 43.2 cm/tree; The height was from 7.3 to 18.6 m/tree; the volume of stands was from 12.8
to 368.2 m3/ha. The IV% index of the 5 species with the largest number in the high tree formation formula
in the standard plots was 50%, larger with many different vegetative preferences in different forest states.
The number of prospective regenerated trees (height > 0.5m) in the standard plots reached 65.6%, showing
that the regeneration situation was very favorable. The soil in the area where Lai Chau ginseng was
distributed with mechanical composition of sandy, porous, rich organic matter and humus content, dry
moisture, low soil density, total humus content, Nts., P2O5ts, K2Ots were from average to rich, average
coverage (85%) and average height of shrub layer, fresh carpet (1.4 m).
Keywords: Muong Te, sam Lai Chau, ecology, nature, panax vietnamensis var. fuscidicus.
Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Khiêm
Ngày nhận bài: 30/7/2019
Ngày thông qua phản biện: 30/8/2019
Ngày duyệt đăng: 6/9/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 161
KHẢO SÁT KHẢ NĂNG TỔNG HỢP SIDEROPHORE CỦA
MỘT SỐ CHỦNG VI KHUẨN VÙNG RỄ ĐẬU TƯƠNG
(Glycine max L.) Nguyễn Văn Giang1*, Bùi Hương Quỳnh1, Nguyễn Xuân Trường2, Phạm Văn Tuân2
TÓM TẮT Siderophore là chất vận chuyển sắt có khối lượng phân tử thấp, được tổng hợp bởi vi sinh vật và thực vật.
Siderophore không chỉ giúp vi sinh vật và thực vật phát triển trong điều kiện thiếu sắt, mà còn được áp dụng
để xử lý các vùng đất ô nhiễm kim loại, dầu. Nghiên cứu này được tiến hành với mục đích phân lập, tuyển
chọn các chủng vi khuẩn tổng hợp siderophore từ vùng rễ cây đậu tương. Dựa trên kích thước vùng màu
vàng cam xung quanh khuẩn lạc trên môi trường Chrome Azurol S, ba chủng vi khuẩn ĐT9, ĐT10, ĐT12 đã
được chọn. Ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau trong môi trường nuôi cấy, như nguồn carbon; nguồn ni tơ;
ngưỡng pH; và nhiệt độ đến sự tổng hợp siderophores đã được nghiên cứu. Ba chủng này tổng hợp
siderophore mạnh nhất trên môi trường Succinate có bổ sung glycerol và ammonium sulphate ở 30oC, pH7.
Nghiên cứu này cho thấy ba chủng vi khuẩn ĐT9, ĐT10 và ĐT12 có tiềm năng sản xuất siderophore, chất
đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và xử lý ô nhiễm môi trường.
Từ khoá: Chất vận chuyển sắt, siderophore, vi khuẩn vùng rễ.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Sắt có nhiều trong đất nhưng thường ở trạng thái
không tan. Ion Fe2+ được oxy hoá nhanh chóng thành
ion Fe3+ trong điều kiện có oxy và pH trung tính, sau
đó lại chuyển thành dạng khó tan oxyhydroxide
[Fe(OH)2], dạng sắt này không được vi sinh vật sử
dụng (Pahari và Mishra, 2017). Sắt là nguyên tố dinh
dưỡng vi lượng cần thiết với sinh trưởng của tất cả
các vi sinh vật sống. Sắt tác động như cofactor của
nhiều enzyme, trao đổi oxy, vận chuyển điện tử và
tổng hợp DNA và RNA. Sắt có vai trò quan trọng
trong quá trình hình thành màng sinh học vì sắt
kiểm soát và điều khiển tính di động trên bề mặt và
ổn định lớp matrix polysaccharide. Sắt có vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển của chlorophyll
và hoạt động của một số enzyme tham gia quá trình
hô hấp của thực vật (Pahari et al., 2017). Khi sinh
trưởng trong điều kiện thiếu sắt, tính kỵ nước của bề
mặt tế bào vi sinh vật giảm, thành phần protein bề
mặt tế bào vi sinh vật thay đổi dẫn đến hạn chế hình
thành màng sinh học (Pahari và Mishra, 2017);
Yogita et al., 2017). Trong điều kiện thiếu sắt, vi sinh
vật phát triển cơ chế thu nhận sắt từ môi trường sống
bằng cách tổng hợp các hợp chất thu nhận, vận
chuyển sắt là siderophore. Siderophore có khối
1Khoa Công nghệ sinh học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2Viện Sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam *Email: [email protected]
lượng phân tử khoảng 200 – 2000 Da được tổng hợp
bởi vi sinh vật và thực vật trong điều kiện thiếu sắt.
Siderophore tạo nên các phức hợp với các ion sắt tự
do trong môi trường và vận chuyển chúng vào trong
tế bào nhờ các thụ thể vận chuyển trên màng tế bào.
Siderophores không chỉ cung cấp sắt cho vi sinh vật
và cây trồng mà còn được áp dụng trong lĩnh vực môi
trường và công nghệ sinh học như tuần hoàn sắt,
thúc đẩy sinh trưởng cây trồng, kiểm soát tác nhân
gây bệnh, phục hồi các vùng đất bị ô nhiễm dầu và
kim loại do siderophores có thể tạo phức với các kim
loại như Al, Cd, Cu, Pb và Zn (Kumar et al., 2017;
Yogita et al., 2017).
Vùng rễ cây rất giàu chất dinh dưỡng, là nơi cư
trú của nhiều loài vi sinh vật. Thực vật tiết vào vùng
đất xung quanh rễ nhiều hợp chất giàu carbon, là
nguồn dinh dưỡng cho vi sinh vật. Vi sinh vật vùng rễ
kích thích sinh trưởng cây trồng.
Các chủng vi sinh vật kích thích sinh trưởng cây
trồng thông qua các cơ chế như cố định nitơ, hoà tan
phosphate và kali khó tan trong đất, tổng hợp indole-
3-acetic acid (IAA), siderophore và ức chế các tác
nhân gây bệnh hại cây trồng (Pahari và Mishra,
2017). Sử dụng các loài vi sinh vật hữu ích này đang
là xu hướng mới trong phát triển nông nghiệp bền
vững, thay thế dần phân bón và thuốc bảo vệ thực vật
nguồn gốc hoá học. Nghiên cứu này được tiến hành
với mục đích phân lập, tuyển chọn và đánh giá một
số đặc điểm sinh học của chủng vi khuẩn tổng hợp
siderophore từ vùng rễ cây đậu tương. Các chủng vi
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 162
khuẩn này trong tương lai được sử dụng để sản xuất
phân bón sinh học nhằm cải thiện độ phì nhiêu của đất,
tăng cường sinh trưởng của thực vật.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Phân lập và tuyển chọn chủng vi sinh vật
tổng hợp siderophore.
Các mẫu đất được thu tại vùng rễ cây đậu tương
trồng tại các cánh đồng thuộc Học viện Nông nghiệp
Việt Nam và được làm khô tại nhiệt độ phòng. Sau
khi pha loãng mẫu tới nồng độ cần thiết (10-6 – 10-7),
mẫu ở mỗi nồng độ được trải đều trên đĩa petri môi
trường chứa Chrome Azural S (CAS), ủ trong tủ nuôi
30±2°C trong 48h, các chủng vi khuẩn có khả năng
tổng hợp siderophore sẽ làm màu môi trường CAS
đổi từ xanh sang màu cam quanh khuẩn lạc. Các
chủng vi khuẩn này được tách riêng và nuôi làm
thuần (Pahari et al., 2017). Môi trường Chrome
Asurol S được chuẩn bị theo phương pháp của Singh
và cộng sự (2018).
2.2. Khảo sát ảnh hưởng của điều kiện nuôi tới
khả năng tổng hợp siderophore của các chủng vi
khuẩn tuyển chọn
Các chủng vi khuẩn được nuôi trong môi trường
succinate lỏng, lắc 120 vòng/phút tại các ngưỡng
nhiệt độ khác nhau (300C, 350C, 400C), các ngưỡng
pH môi trường khác nhau (3,0; 5,0; 7,0; 9,0; 11,0);
các nguồn carbon khác nhau (glucose; fructose;
maltose; glyxerol; manitol; lactose); các nguồn nitơ
khác nhau (NH4Cl; (NH4)2SO4; NaNO3; KNO3;
NH4NO3). Sau 48h nuôi cấy, dung dịch nuôi vi khuẩn
được ly tâm và thu phần dịch nổi để xác định lượng
siderophore được tổng hợp theo phương pháp của
Yogita và cộng sự (2017).
2.3. Định lượng siderophore được tổng hợp
Các chủng vi khuẩn tuyển chọn được nuôi trong
môi trường succinate lỏng và lắc 120 vòng/phút
trong 48h, dịch nuôi vi khuẩn được ly tâm ở 10.000
vòng/phút, 10 phút tại 40C, thu phần dịch nổi để xác
định lượng siderophore sinh ra bằng công thức: %SE
= [(Ar - As)]/Ar x 100, trong đó: %SE – lượng
siderophore (%); Ar là giá trị hấp thụ của mẫu tại
λ=630 nm (Dung dịch CAS + môi trường không có vi
khuẩn); As là giá trị hấp thụ tại λ=630 nm của mẫu thí
nghiệm (dung dịch CAS + dịch nổi) (Yogita et al.,
2017).
2.4. Khảo sát khả năng tổng hợp IAA của các
chủng vi khuẩn thí nghiệm.
Các chủng vi khuẩn được nuôi trong các ống
nghiệm chứa môi trường NA lỏng (thành phần, g/l:
Pepton 5; NaCl 5; cao thịt 2; cao nấm men 3) có bổ
sung L-Tryptophan (100 mg/l), lắc 200 vòng/phút
trong điều kiện tối hoàn toàn để tránh IAA sinh ra bị
phân hủy bởi ánh sáng. Định lượng IAA do vi khuẩn
tổng hợp được bằng phương pháp so màu thuốc thử
Salkowski. Hút 1 ml phần dịch trong sau khi ly tâm
dịch nuôi vi khuẩn cho vào các ống nghiệm và bổ
sung 2 ml thuốc thử Salkowski (300 ml H2SO4 98%,
15 ml FeCl3 0,5M). Ủ hỗn hợp trên trong tối 30 phút
để phản ứng xảy ra hoàn toàn, sau đó đo OD ở bước
sóng λ = 530 nm. Nồng độ IAA do vi khuẩn tổng hợp
được xác định dựa trên các giá trị OD thu được theo
phương pháp của Nguyễn Văn Giang và cộng sự
(2018). 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Phân lập và tuyển chọn chủng vi sinh vật
tổng hợp siderophore
Để phân lập và tuyển chọn chủng vi sinh vật có
khả năng tổng hợp siderophore, đã tiến hành nuôi
cấy các vi khuẩn thu thập từ vùng rễ cây đậu tương.
Kết quả nghiên cứu được thể hiện ở hình 1
Hình 1. Các chủng vi khuẩn tổng hợp siderophore làm xuất hiện màu vàng quanh khuẩn lạc
Sau 2 ngày nuôi cấy xuất hiện 15 chủng vi khuẩn
đã làm chuyển màu môi trường CAS từ xanh sang
vàng cam, chứng tỏ những chủng này có khả năng
tổng hợp siderophore, trong đó 3 chủng ĐT9, ĐT10
và ĐT12 có kích thước vòng màu vàng cam xung
quanh khuẩn lạc lớn nhất được chọn (Hình 1). Nhiều
nhà nghiên cứu đã công bố kết quả phân lập được
các chủng vi khuẩn đất tổng hợp siderophore trên
môi trường CAS như Kumar và cộng sự (2017);
Pahari và Mishra (2017); Yogita và cộng sự (2017).
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 163
3.2. Khảo sát ảnh hưởng của điều kiện nuôi tới
khả năng tổng hợp siderophore của các chủng vi
khuẩn tuyển chọn
3.2.1. Ảnh hưởng của pH
pH môi trường đóng vai trò quan trọng trong
quá trình hoà tan sắt, do đó ảnh hưởng tới sinh
trưởng, phát triển của vi sinh vật trong môi trường.
Kết quả thí nghiệm được mô tả tại (Hình 2-trái). Ba
chủng vi khuẩn thí nghiệm đều tổng hợp
siderophore nhiều nhất khi pH môi trường là 7,
lượng siderophore được tổng hợp của ba chủng ĐT9,
ĐT10 và ĐT12 lần lượt là 53%; 39%; 44% và giảm dần
khi các chủng vi khuẩn này được nuôi trong môi
trường có giá trị pH 5,0 và 9,0. Lượng siderophore
được tổng hợp ít nhất khi pH môi trường nuôi là 3,0
và 11,0. Kết quả này cho thấy, pH 7 có thể là ngưỡng
pH thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của các
chủng vi khuẩn thí nghiệm. Kết quả này cũng giống
với các kết quả đã được công bố của nhiều nhà
nghiên cứu khác. Jenifer và cộng sự (2015) đã tuyển
chọn được các chủng vi khuẩn Escherichia coli,
Pseudomonas aeruginosa tổng hợp siderophore
nhiều nhất khi pH môi trường là 7 và giảm dần tại pH
5, 6, 8, 9, 10. Tailor và Bhavesh (2012) cho biết tại pH
7 chủng vi khuẩn Pseudomonas fluorescens S-11
tổng hợp siderophore nhiều nhất. Tuy nhiên theo
Kumar và cộng sự (2017) và Yogita và cộng sự (2017)
thì siderophore được các chủng vi khuẩn tổng hợp
nhiều nhất tại pH 8 – 9. Như vậy có thể thấy pH môi
trường nuôi cấy vi sinh vật không chỉ tác động tới độ
hoà tan của sắt mà còn ảnh hưởng tới sinh trưởng và
phát triển của chủng vi sinh vật cụ thể.
3.2.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ
Trong thí nghiệm của Yogita và cộng sự (2017),
các chủng vi khuẩn NT2 và NT3 tổng hợp
siderophore nhiều nhất tại 280C. Chủng vi khuẩn
Pseudomonas fluorescens S-11 được phân lập bởi
Tailor và cộng sự (2012) cho thấy siderophore được
tổng hợp nhiều nhất tại nhiệt độ 290C và 300C. Kết
quả nghiên cứu của Kumar và cộng sự (2017) cho
thấy hai chủng vi khuẩn VITVK5 và VITVK6 tổng
hợp siderophore nhiều nhất tại 250C, 370C và 450C.
Ba chủng vi khuẩn ĐT9, ĐT10 và ĐT12 đều biểu
hiện khả năng tổng hợp siderophore ở ba ngưỡng
nhiệt độ 300C, 350C và 400C. Tuy nhiên, ở ngưỡng
300C, các chủng ĐT9, ĐT10 và ĐT12 tổng hợp
siderophore nhiều nhất, hàm lượng siderophore
tương ứng là 36%, 38% và 39%. Tại 350C, lượng
siderophore được các chủng ĐT9, ĐT10 và ĐT12
tổng hợp giảm so với lượng siderophore được tổng
hợp tại 300C. Khả năng tổng hợp siderophore của 3
chủng vi khuẩn khi nuôi ở 400C là thấp nhất (Hình 2-
phải). Nhiệt độ phòng có thể là thích hợp để các
chủng vi khuẩn phát triển và 300C là nhiệt độ thích
hợp để 3 chủng ĐT9, ĐT10 và ĐT12 tổng hợp
siderophore.
Hình 2. Ảnh hưởng của pH (trái) và nhiệt độ (phải) môi trường nuôi cấy tới khả năng tổng hợp siderophore
3.2.3. Ảnh hưởng của nguồn carbon tới khả năng
tổng hợp siderophore Các chủng vi khuẩn tuyển chọn được trong ống
nghiệm chứa môi trường succinate lỏng, lắc ở 120
vòng/phút, với các nguồn carbon là glucose,
fructose, maltose, glyxerol, manitol, lactose. Sau 48h
nuôi, thu dịch nuôi cấy để xác định lượng
siderophore được tổng hợp. Các chủng vi khuẩn đều
sinh trưởng và tổng hợp siderophore khi nuôi trong
môi trường chứa tất cả các nguồn carbon. Ba chủng
vi khuẩn ĐT9, ĐT10 và ĐT12 tổng hợp siderophore
nhiều nhất khi nguồn carbon là glycerol (Hình 3-
trái), hàm lượng siderophore lần lượt đạt 39%, 36% và
30%. Hàm lượng siderophore được các chủng vi
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 164
khuẩn tổng hợp khi sử dụng glucose thấp hơn so với
nguồn glycerol, tuy nhiên cao hơn các nguồn carbon
khác. Kết quả này tương tự với kết quả của Yogita và
cộng sự (2017). Kumar và cộng sự (2017) chỉ ra rằng
glucose là nguồn carbon thích hợp để chủng vi
khuẩn VITVK5 và VITVK6 tổng hợp siderophore.
3.2.4. Ảnh hưởng của nguồn nitơ tới khả năng
tổng hợp siderophore
Thí nghiệm được tiến hành với các nguồn nitơ là
NH4Cl, (NH4)2SO4, NaNO3, KNO3, NH4NO3. Cả 3
chủng vi khuẩn đều tổng hợp siderophore khi được
nuôi trong môi trường có các nguồn nitơ khảo sát,
với lượng siderophore tổng hợp được từ 14% đến
26,7%. Khi nguồn nitơ trong môi trường nuôi 3 chủng
vi khuẩn ĐT9, ĐT10 và ĐT12 là (NH4)2SO4, lượng
siderophore được tổng hợp nhiều nhất, lần lượt đạt
24%, 26,7% và 21%, tiếp theo là NH4Cl và NaNO3
(Hình 3-phải). Yogita và cộng sự (2017) cũng đã kết
luận, chủng NT1 và NT3 sản xuất siderophore nhiều
nhất trong môi trường có ammonium sulphate và
urea, chủng NT2 tổng hợp siderophore nhiều nhất
khi nguồn nitơ trong môi trường là ammonium
chloride. Kumar và cộng sự (2017) đã cho biết 2
chủng vi khuẩn VITVK5 và VITVK6 tổng hợp
siderophore nhiều nhất khi nguồn nitơ là NaNO3 và
ammonium sulphate.
Hình 3. Ảnh hưởng của nguồn carbon (trái) và nitơ (phải) trong môi trường nuôi cấy tới khả năng tổng hợp
siderophore
3.3. Khảo sát khả năng tổng hợp IAA và hoà tan
phosphate của các chủng vi khuẩn thí nghiệm
Theo công bố của một số tác giả như Pahari và
Mishra (2017) các vi khuẩn tổng hợp siderophore có
thể tổng hợp IAA và hoà tan phosphate dạng khó tan
trong môi trường. Do đó 3 chủng vi khuẩn ĐT9,
ĐT10 và ĐT12 tổng hợp siderophore được đánh giá
khả năng tổng hợp IAA. Để xác định hàm lượng
Indole-3-acetic acid (IAA) được các chủng vi khuẩn
tổng hợp thì cần phải dựng đường chuẩn tương quan
giữa giá trị OD và hàm lượng IAA (µg/l) có trong
môi trường để đánh giá khả năng tổng hợp IAA của
các chủng vi khuẩn. Căn cứ vào đường chuẩn (Hình
4) thấy rằng hệ số tương quan R2 = 0,998 rất gần với
giá trị 1,0. Quan hệ giữa giá trị OD 530nm và nồng độ
IAA (µg/ml) trong dung dịch rất chặt, vì vậy có thể
sử dụng để xác định lượng IAA của các chủng vi
khuẩn thí nghiệm.
Hình 4. Đồ thị đường chuẩn tương quan giữa giá trị
OD và hàm lượng IAA
Kết quả thí nghiệm cho thấy cả 3 chủng vi
khuẩn ĐT9, ĐT10 và ĐT12 đều tổng hợp IAA, hợp
chất phytohormone giúp kích thích cây trồng phát
triển. Chủng ĐT10 và ĐT12 tổng hợp được 0,33 và
0,32 µg/l IAA (Hình 5), trong khi đó chủng ĐT9 chỉ
tổng hợp được 0,19 µg/l IAA. Nghiên cứu của
Nguyễn Thu Trang và cộng sự (2018) cho thấy các
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 165
chủng vi khuẩn LĐ15 và LĐ18 hiện có khả năng sinh
siderophore và tổng hợp IAA với hàm lượng 24 và 33
µg/l. Chủng vi khuẩn Pseudomonas aeruginosa HD3
trong nghiên cứu của Nguyễn Thu Hương và cộng sự
(2018) không chỉ tổng hợp siderophore mà còn tổng
hợp được IAA. Kết quả tương tự cũng đã được
Nguyễn Thị Thanh Mai và cộng sự (2018); Pahari và
cộng sự (2017) công bố.
Hình 5. Hàm lượng IAA được tổng hợp bởi chủng
ĐT9, ĐT10 và ĐT12
4. KẾT LUẬN
3 chủng vi khuẩn ĐT9, ĐT10 và ĐT12 đã được
phân lập và tuyển chọn từ các mẫu đất vùng rễ cây
đậu tương đều có khả năng tổng hợp siderophore
nhiều nhất khi được nuôi trong môi trường succinate
có bổ sung glycerol và ammonium sulphate tại 30oC,
pH 7 và có khả năng tổng hợp IAA. Ba chủng vi
khuẩn này có tiềm năng ứng dụng trong nông nghiệp
và xử lý ô nhiễm môi trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Jenifer C. A., Aruna S. S., Anbumalarmathi J.,
Umamaheswari K. and Shyamala K. (2015). Studies
on siderophore production by microbial isolates
obtained from aquatic environment. European
Journal of Experimental Biology, 5(10):41 - 45.
2. Kumar V.S., Soumya M., Happy A., Divya G.
(2017). Characterization and optimization of
bacterium isolated from soil samples for the
production of siderophores. Resource-Efficient
Technologies 3: 434 - 439.
3. Nguyễn Thị Thanh Mai, Chu Đức Hà, Phạm
Phương Thu, Nguyễn Văn Giang (2018). Phân lập,
tuyển chọn vi khuẩn phân giải lân, kali khó tan từ đất
trồng cà phê tại khu vực Tây Nguyên. Tạp chí
KH&CN Việt Nam, số 60 (5) 5. Tr. 34 - 38.
4. Nguyễn Thu Hương, Trần Thị Thúy Hà,
Nguyễn Văn Giang (2018). Phân lập, tuyển chọn vi
khuẩn có khả năng phân giải phosphate khó tan từ
đất vùng rễ lúa ở tỉnh Hải Dương. Tạp chí KH&CN
Việt Nam, số 60 (8) 8. Tr. 18 - 22.
5. Nguyễn Thu Trang, Trần Thị Thúy Hà,
Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Văn Giang (2018).
Phân lập và khảo sát một số đặc điểm sinh học của
các chủng vi khuẩn nội sinh từ rễ cây hồ tiêu. Tạp chí
Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam, Số
10(95), tr. 85 – 90.
6. Nguyễn Văn Giang, Trần Thị Đào, Trần Thị
Thúy Hà, Nguyễn Thu Trang (2018). Ảnh hưởng của
điều kiện nuôi cấy tới khả năng sinh tổng hợp indole-
3-acetic acid của vi khuẩn Bacillus sonorensis LĐ18.
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam
- Số 11(96), tr. 90 - 95.
7. Pahari A. and Mishra B. B. (2017).
Characterization of Siderophore Producing
Rhizobacteria and Its Effect on Growth Performance
of Different Vegetables. International Journal of
Current Microbiology and Applied Sciences. Volume
6 Number 5, pp. 1398-1405.
8. Pahari A., Pradhan A., Nayak S. K., and
Mishra B. B. (2017). Bacterial Siderophore as a Plant
Growth Promoter. In book: Microbial Biotechnology,
https://doi.org/10.1007/978-981-10-6847-8_7, J. K.
Patra et al. (eds.), pp. 167 - 180.
9. Patel T. M., Farida P. M (2018). Isolation and
Characterization of Several Siderophore Producing
Bacteria from Cotton Plant. International Journal of
Innovative Research in Science, Engineering and
Technology, Vol. 7, Issue 1, pp. 159 - 166.
10. Singh K., Rajesh G. and Rakesh K. (2018).
Isolation and characterization of siderophore
producing rhizobia from Sesbania sesban using
different types of Indian soils. International Journal of
Chemical Studies; 6(3): 797 - 800.
11. Tailor A. J. and Bhavesh H. J (2012).
Characterization and optimization of siderophore
production from Pseudomonas fluorescens strain
isolated from sugarcane rhizosphere aparna. Journal
of Environmental Research and Development Vol. 6
No. 3A, pp. 688 - 694.
12. Yogita C.D, Pratik G. and Annika D.G (2017).
Isolation and application of siderophore producing
bacteria. International Journal of Applied Research
2017; 3(4): 246 - 250.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 166
SIDEROPHORE SYNTHETIC EVALUATION OF SOME BACTERIAL STRAINS FROM SOYBEAN
(Glycine max L.) ROOT AREA
Nguyen Van Giang, Bui Huong Quynh,
Nguyen Xuan Truong, Pham Van Tuan
Summary Siderophores are small, low weight molecules that chelate iron from the environment, and synthesized by
microorganisms and plants. Siderophores not only help microorganisms, plant growth and development
in limited iron conditions but also apply to treat land where have been polluted oil and metal. This study
carried out with aims to isolate and characterize bacterial strains producing siderophore from soybean
root area. Based on the diameter of the orange zone around the microbial colony, three bacterial strains
ĐT9, ĐT10 and ĐT12 were selected. Influence of different factors of cultural medium, such as carbon
source, nitrogen source, pH, and the temperature on siderophores production were studied. These three
bacterial strains synthesized the most siderophore in Succinate medium supplemented with glycerol and
ammonium sulphate at 30oC, and pH 7. The study concludes that three strain ĐT9, ĐT10 and ĐT12 can be
potential candidates for siderophore production which can play an important role in agricultural aspects
and bioremediation of environmental pollution.
Keywords: The iron chelating agents, rhizobacteria, siderophores.
Người phản biện: PGS.TS. Lê Như Kiểu
Ngày nhận bài: 9/7/2019
Ngày thông qua phản biện: 9/8/2019
Ngày duyệt đăng: 16/8/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 167
XÁC ĐỊNH MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ
NĂNG CHUYỂN HÓA URÊ CỦA CÁC CHỦNG VI KHUẨN
PHÂN LẬP TỪ CHẤT THẢI CHĂN NUÔI LỢN Nguyễn Xuân Trường2, Trần Thị Đào1, Nguyễn Thị Kim Chi1,
Nguyễn Thành Trung3, Nguyễn Xuân Cảnh1*
TÓM TẮT Sự phát thải NH3 trong chăn nuôi lợn đang là vấn đề môi trường lớn và có tác động đến sức khỏe động vật và
môi trường làm việc bên trong các trang trại. NH3 được hình thành bởi sự có mặt của các vi sinh vật trong môi
trường có khả năng sinh urease thủy phân urê trong chất thải của lợn. Các loài vi sinh vật có khả năng sinh
urease rất đa dạng và chúng tồn tại trong các môi trường sống tự nhiên khác nhau như trong đất, trong nước
biển hay trong quá trình hình thành địa chất. Trong nghiên cứu này, các chủng khuẩn có khả năng sinh
urease được phân lập từ mẫu chất thải chăn nuôi lợn được thu thập ở Hà Nam, Hà Nội, Thanh Hóa trên môi
trường Urea Agar. Chín chủng vi khuẩn có đặc điểm hình thái khuẩn lạc khác nhau, có khả năng sinh urease
đã được phân lập. Trong đó, ba chủng vi khuẩn là H2, H4, H5 có khả năng sinh urease mạnh nhất đã được
xác định các đặc điểm hóa sinh, các điều kiện sinh trưởng và hoạt độ urease của chúng. Cả ba chủng vi
khuẩn được tuyển chọn đều là trực khuẩn gram dương. Chúng đều là vi khuẩn có khả năng chịu nhiệt, có khả
năng chuyển hóa urê đạt cao nhất khi nuôi ở 50oC, pH9 (đối với chủng H2 và H4) và pH7 (đối với chủng H5).
Từ khóa: Chất thải chăn nuôi lợn, NH3, Urease.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Urease là enzyme liên kết với ion kim loại Ni
được biết là loại enzyme đầu tiên được phân lập dưới
dạng protein tinh thể xúc tác cho quá trình chuyển
hóa urê thành amoniac và carbon dioxide (Sumner,
1926; Dixon và cs, 1980; Mobley và cs. 1988). Urease
từ vi sinh vật đã được nghiên cứu thành công từ một
quan điểm lâm sàng về vai trò của nó trong các yếu
tố độc lực ở vi sinh vật góp phần gây bệnh sỏi tiết
niệu, viêm bể thận và loét dạ dày (Rutherford, 2014).
Mặc dù vậy, urease từ vi sinh vật cũng đã được ứng
dụng rộng rãi trong công nghệ sinh học và nông
nghiệp (Qin và Cabral, 2002). Urease đã được chứng
minh lợi ích của nó trong các ứng dụng y khoa bao
gồm việc loại bỏ urê đối với bệnh suy thận và trong
việc chăm sóc răng miệng (Clancy và cs, 2000; Liu và
cs, 2012). Urease đã được cố định và được sử dụng
như một chất cảm biến sinh học đối với các dạng hợp
chất mục tiêu (Senillou và cs, 1999; Soldatkin và cs,
2000). Urease cũng đã được ứng dụng để sản xuất
phân bón chậm tan (Glibert và cs, 2006). Theo
phương pháp truyền thống, urease từ vi sinh vật đã
được sử dụng trong đồ uống lên men và đồ uống có
1 Khoa Công nghệ Sinh học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2 Viện Sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 3 Viện Nghiên cứu và Phát triển, Đại học Duy Tân *Email: [email protected]
cồn bao gồm rượu sake, rượu vang Trung Quốc, rượu
vang đỏ và rượu vang trắng để loại bỏ urê dư thừa
dẫn đến sự hình thành ethyl carbanate (EC)
(Kobashi và cs, 1988; Ough và Trioli, 1988).
Chăn nuôi lợn ở nước ta đã và đang phát triển
mạnh cả về số lượng và quy mô trang trại. Bên cạnh
những giá trị kinh tế mà ngành chăn nuôi mang lại
thì vấn đề ô nhiễm môi trường tại các cơ sở chăn
nuôi tập trung và các địa phương có chăn nuôi lợn
phát triển trầm trọng. Thực tế nhiều nơi các chất thải
rắn, chất thải lỏng và đặc biệt là nước thải từ bể khí
sinh học đều được người chăn nuôi cho chảy thẳng
ra cống rãnh, ao hồ. Đặc biệt, kết quả xác định nồng
độ khí độc tại chuồng trại chăn nuôi lợn công nghiệp
thì khí NH3 có hàm lượng cao nhất 0,94 mg/m3. So
với TCVN 5938-95; 5937-95 thì nồng độ này còn cao
hơn mức cho phép 2-3 lần (Trịnh Quang Tuyên và
cs., 2010).
Trong nước thải chăn nuôi lợn thường chứa hàm
lượng nitơ rất cao. Hàm lượng nitơ tổng số trong
nước thải của trại chăn nuôi đo được sau khi ra
biogas từ 571- 1026 mg/l. Đối với lợn trưởng thành
khi ăn vào 100g nitơ thì 30g được giữ lại cơ thể, 50g
bài tiết ra ngoài theo nước tiểu dưới dạng urê, vi sinh
vật trong môi trường sẽ sinh ra urease chuyển hóa
urê thành NH3 phát tán vào không khí gây mùi hôi
hoặc khuếch tán vào nước làm ô nhiễm nguồn nước.
Việc nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố thúc đẩy
quá trình chuyển hóa urê trong chất thải chăn nuôi
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 168
thành NH3, đồng thời nghiên cứu ứng dụng vi sinh
vật chuyển hóa NH3 thành dạng phân bón hữu ích
cho cây trồng được xem là hướng nghiên cứu có ý
nghĩa tích cực trong việc phát triển chế phẩm đệm
lót sinh học góp phần vào bảo vệ môi trường chăn
nuôi và phát triển nông nghiệp bền vững.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp phân lập vi khuẩn sinh urease
từ chất thải chăn nuôi lợn
Mẫu chất thải sau khi được thu thập theo
TCVN 4556:1988 được đưa về phòng thí nghiệm,
pha loãng theo dãy thập phân đến nồng độ 10-7 bằng
nước cất vô trùng. Dùng micropipette có đầu tuýp
vô trùng hút 0,1 ml dịch ở các độ pha loãng 10-5, 10-
6, 10-7 cấy trải trên các đĩa petri chứa sẵn môi trường
Urea Agar (Christensen, 1946) (Urea 20g, NaCl 5g,
KH2PO4 2g, Pepton 1g, Dextrose 1g, phenol đỏ
0,012g, agar 20g, 1000 ml nước), ủ ở 30°C, sau đó
theo dõi và quan sát qua các ngày. Các chủng vi
khuẩn có khả năng phân giải urê làm đổi màu môi
trường từ màu vàng cam sang màu hồng.
2.2. Phương pháp phân tích hàm lượng amoni
(NH4+) (FSSAI, 2016)
Hoạt độ urease của các chủng phân lập được
xác định thông qua hàm lượng NH4+ trong dung
dịch sau nuôi cấy. NH4+ trong dung dịch sau nuôi
cấy càng cao chứng tỏ hoạt độ urease càng mạnh.
Chủng vi sinh vật phân lập được nuôi trong bình
tam giác có thể tích 100ml chứa 25ml môi trường
ure agar ở nhiệt độ 30oC. Sau mỗi 24h nuôi cấy, dịch
nuôi được ly tâm 10000 vòng/phút trong 10 phút ở
4oC. Phần dịch nổi được thu và được xác định hàm
lượng NH4+ bằng phương pháp Nessler.
Nguyên tắc của phương pháp
Ammonia (NH4+) trong dung dịch phản ứng với
Mercury Potassium Iodide (K2HgI4) tạo thành phức
chất màu vàng nâu (NH2HgI3) có khả năng hấp thụ
ánh sáng ở bước sóng 410 nm. Cường độ phức chất
màu phụ thuộc vào hàm lượng NH4+ trong dung
dịch. Nồng độ NH4+ được xác định thông qua đường
chuẩn với chất chuẩn là NH4Cl có nồng độ 0,01
mg/ml.
NH4+ + OH- NH3 + H2O
2K2HgI4 + NH3 + KOH NH2HgI3 + 5KI + H2O
Phân tích mẫu
5 ml dịch nổi được bổ sung 0,2 ml dung dịch
xecnhet và 0,3 ml dung dịch thuốc thử Nessler, lắc
đều, để yên ở nhiệt độ phòng 10 phút, sau đó tiến
hành đo bằng máy đo quang phổ ở bước sóng
420nm. Tính hàm lượng NH4+ trong dung dịch dựa
vào đồ thị đường chuẩn NH4+ đã dựng ở trên.
2.3. Xác định một số đặc điểm sinh hóa của các
chủng vi khuẩn được phân lập
Các phản ứng thử nghiệm sinh hóa được tiến
hành theo mô tả của Bergey (Hotl, 1994). Môi trường
Clark lubs (g/l): peptone 7, glucose 5, KH2PO4 5, pH
6,7 và 7,1) với NaOH 40% và α - napthol 10% làm chất
chỉ thị được sử dụng để thử phản ứng VP (Voges -
Proskauer). Môi trường Clark lubs với chất chỉ thị
màu là methyl red được sử dụng để thực hiện phản
ứng MR (Methyl-Red). Hoạt tính catalase được thử
nghiệm với chất chỉ thị là H2O2 10%. Khả năng di
động của các chủng phân lập được thử nghiệm trên
môi trường LB bán lỏng (0,5% agar) ở 30oC. Kết quả
được quan sát sau 24h nuôi cấy. Các chủng vi khuẩn
được thử nghiệm hoạt tính enzyme ngoại bào bằng
phương pháp khuếch tán đĩa thạch trên môi trường
chứa cơ chất tương ứng. Hoạt tính amylase được thử
nghiệm trên môi trường tinh bột 1 g, agar 2 g pha
trong 100 ml đệm phosphate pH7; hoạt tính cellulase
được phát hiện trên môi trường CMC 1g, agar 2g pha
trong 100 ml đệm phosphate pH7. Hoạt tính của hai
loại enzym này đều được phát hiện nhờ dung dịch
nhuộm lugol 1x. Hoạt tính protease được xác định
trên môi trường chứa 0,1g casein, 2g agar pha trong
100 ml 100ml đệm phosphate pH7, được phát hiện
nhờ dung dịch nhuộm amido đen 10B 0,1%.
2.4. Khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ và pH môi
trường nuôi cấy đến khả năng sinh trưởng và sinh
tổng hợp urease của chủng vi khuẩn phân lập
Chủng vi khuẩn nghiên cứu được cấy vào môi
trường Urea Agar lỏng có độ pH khác nhau: 2, 3, 4, 5,
6, 7, 8, 9, lắc 200 vòng/phút ở 30°C. Sau 4 ngày nuôi
cấy, dịch nuôi được ly tâm 10000 vòng/phút trong
10 phút ở 4oC thu dịch nổi. Hàm lượng NH4+ trong
dịch nổi được xác định bằng phương pháp Nessler
đã mô tả ở trên. Thí nghiệm được tiến hành tương
tự ở các ngưỡng nhiệt độ 0°C, 10°C, 30°C, 40°C, 50°C
để xác định ảnh hưởng của nhiệt độ đến khả năng
chuyển hóa urê. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Phân lập vi khuẩn có khả năng sinh urease
từ chất thải chăn nuôi lợn
Từ các mẫu nước thải chăn nuôi lợn được thu
thập từ ba địa điểm là Hà Nội, Hà Nam, Thanh Hóa,
trên môi trường urea agar đã phân lập được 09
chủng vi khuẩn có đặc điểm hình thái khuẩn lạc
khác nhau có khả năng sinh urease dựa vào khả
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 169
năng làm đổi màu môi trường của chúng từ màu
vàng sang màu hồng đậm. Trong đó, có 02 chủng vi
khuẩn sinh urease được phân lập từ mẫu chất thải
chăn nuôi lợn được thu thập ở Hà Nội, 03 chủng vi
khuẩn sinh urease được phân lập từ mẫu chất thải
chăn nuôi lợn được thu thập ở Hà Nam và 04 chủng
vi khuẩn sinh urease được phân lập từ mẫu chất thải
chăn nuôi lợn được thu thập ở Thanh Hóa. Trong số
09 chủng vi khuẩn có khả năng sinh urease, chủng
H2, H4 và H5 (hình 1) có khả năng đổi màu môi
trường sang màu hồng đậm nhất được tuyển chọn
cho các nghiên cứu tiếp theo.
Cả ba chủng vi khuẩn có khả năng sinh urease
mạnh nhất đều là trực khuẩn gram dương, khuẩn lạc
có màu trắng đục hoặc trắng ngà, viền khuẩn lạc
hình răng cưa. Chủng H2 được phân lập từ mẫu chất
thải chăn nuôi heo được thu thập ở Hà Nam, trong
khi đó chủng H4 và H5 được phân lập từ mẫu chất
thải chăn nuôi heo được thu thập ở Thanh Hóa.
Hình 1. Hoạt tính urease trên môi trường urea agar lỏng của các chủng phân lập
Bên cạnh đó, ba chủng vi khuẩn được tuyển
chọn cũng được tiến hành xác định một số đặc điểm
hóa sinh như phản ứng catalase, phản ứng Voges -
Proskauger, phản ứng Methyl Red, khả năng sinh
một số enzym ngoại bào: amylase, protease và
cellulose (bảng 1). Ba chủng vi khuẩn được tuyển
chọn có hoạt tính cellulase ngoại bào mạnh (đạt
trung bình 23 mm), có hoạt tính protease và amylase
ngoại bào, có khả năng sinh catalase nhưng không
có khả năng sản xuất và duy trì acid bền vững trong
quá trình lên men glucose.
Bảng 1. Một số đặc điểm hóa sinh của ba chủng vi khuẩn được tuyển chọn
Chủng phân lập Tên phản ứng
H2 H4 H5
Phản ứng VP (Voges Proskauger) - - -
Phản ứng MR (Methyl - Red) - - -
Phản ứng catalase + + +
Amylase + + +
Protease + + +
Cellulase + + +
3.2. Hoạt độ urease của các chủng vi khuẩn được
tuyển chọn
Hoạt độ urease của các chủng vi khuẩn được
tuyển chọn được thể hiện thông qua khả năng
chuyển hóa urê trong môi trường nuôi cấy. Khả năng
chuyển hóa urê của các chủng phân lập được đánh
giá thông qua hàm lượng NH4+ (mg/l) tồn tại trong
môi trường nuôi cấy theo thời gian. Chủng vi sinh vật
nào có khả năng chuyển hóa urê thì hàm lượng NH4+
(mg/l) sẽ tăng lên trong quá trình nghiên cứu.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 170
Hình 2. Hoạt độ urease của các chủng vi khuẩn được tuyển chọn
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hoạt độ urease
được sinh bởi chủng H2 và H4 đạt cao nhất sau 24h
nuôi cấy, đạt lần lượt là 120 mg/ml và 107 mg/ml.
Tiếp tục nuôi cấy, hoạt độ urease của hai chủng này
giảm dần theo thời gian. Trong khi đó hoạt độ urease
được sinh bởi chủng H5 tăng dần theo thời gian nuôi
cấy và đạt cao nhất sau 72h nuôi cấy, đạt 120 mg/ml.
Hoạt độ urease của chủng H5 giảm sau 96h nuôi cấy.
3.3. Ảnh hưởng của một số điều kiện nuôi cấy
đến khả năng sinh trưởng và sinh urease của các
chủng vi khuẩn phân lập
3.3.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường nuôi
cấy Nhiệt độ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh
trưởng và phát triển cũng như hoạt độ enzym của các
chủng vi sinh vật. Mỗi chủng vi sinh vật khác nhau
có một khoảng nhiệt độ thích hợp khác nhau mà tại
đó chúng sinh trưởng phát triển và thể hiện hoạt lực
enzym tốt nhất. Do đó nghiên cứu ảnh hưởng điều
kiện nhiệt độ đến khả năng phân giải urê của các
chủng là rất cần thiết. Ba chủng vi khuẩn được tuyển
chọn được nuôi trên môi trường urea agar lỏng ở pH
7, lắc 200 vòng/phút ở các ngưỡng nhiệt độ là 10°C,
30°C, 40°C, 50°C. Cứ sau 24h giờ nuôi cấy, dịch nuôi
được ly tâm 10000 vòng/phút trong 10 phút ở 4oC thu
dịch nổi, xác định hàm lượng NH4+.
Hoạt độ urease được sinh bởi H2, H4 và H5 đều
đạt cao nhất khi được nuôi ở 50°C. Trong đó, hoạt độ
urease sinh bởi chủng H2 và chủng H5 đạt cao nhất
sau 3 ngày nuôi cấy, đạt lần lượt là 180 mg/ml và 160
mg/ml. Hoạt độ urease được sinh bởi chủng H4 đạt
cao nhất sau 2 ngày nuôi cấy ở 50°C, đạt 167 mg/ml.
Hình 3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến khả năng chuyển hóa urê của chủng H2
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 171
sau các khoảng thời gian nuôi cấy
Hình 4. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến khả năng chuyển hóa urê của chủng H4 sau các khoảng thời gian nuôi cấy
Hình 5. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến khả năng chuyển hóa urê của chủng H5 sau các khoảng thời gian nuôi cấy
3.3.2. Ảnh hưởng pH môi trường nuôi cấy khả năng sinh trưởng và hoạt độ urease của các chủng
phân lập pH là yếu tố môi trường rất quan trọng, nó ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng sinh trưởng, phát triển
và sinh tổng hợp enzyme của vi sinh vật. Trong quá
trình nuôi cấy, các sản phẩm của quá trình trao đổi
chất có thể làm thay đổi pH của môi trường, làm ảnh
hưởng đến hoạt động sống của vi sinh vật. Vì vậy,
việc xác định ảnh hưởng của pH môi trường đến khả
năng sinh trưởng và khả năng chuyển hóa urê của
các chủng vi khuẩn được tuyển chọn là cần thiết.
Hình 6. Khả năng sinh trưởng của các chủng vi khuẩn được tuyển chọn ở các ngưỡng pH khác nhau
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 172
Ba chủng vi khuẩn được tuyển chọn được nuôi
trong môi trường urea agar lỏng ở các ngưỡng pH
khác nhau: 2; 3; 4; 5; 6; 7; 8; 9, ở 30oC, lắc 200
vòng/phút. Cứ sau 24h giờ nuôi cấy, tiến hành đo
OD600 nm để xác định mật độ tế bào vi khuẩn trong
môi trường đồng thời dịch nuôi được ly tâm 10000
vòng/phút trong 10 phút ở 4oC thu dịch nổi, xác định
hàm lượng NH4+.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, cả ba chủng vi
khuẩn được tuyển chọn đều sinh trưởng kém ở điều
kiện pH môi trường từ 2 đến 5. Chủng H2 và H5 sinh
trưởng tối thích ở khoảng pH từ 6 đến 8 và sinh
trưởng tốt nhất tại pH7. Trong khi đó chủng H4 có
khả năng sinh trưởng tốt tại pH6.
Hình 7. Ảnh hưởng của pH đến khả năng chuyển hóa urê của chủng H2 và H4 sau 24h nuôi cấy
Hình 8. Ảnh hưởng của pH đến khả năng chuyển hóa urê của chủng H5 sau 72h nuôi cấy
Đồng thời hoạt độ urease được sinh bởi chủng
H5 đạt cao nhất khi nuôi ở môi trường có giá trị pH7.
Khả năng chuyển hóa urê của chủng H2 và H4 đạt
cao nhất khi nuôi ở môi trường có pH9, đạt 186
mg/ml và 204 mg/ml mặc dù khả năng sinh trưởng
của chúng ở ngưỡng pH này đạt thấp.
4. KẾT LUẬN
Đã phân lập được 09 chủng vi khuẩn có khả
năng chuyển hóa urê từ chất thải chăn nuôi lợn.
Tuyển chọn được 03 chủng vi khuẩn có khả năng
chuyển hóa urê tốt nhất được ký hiệu là H2, H4 và
H5. Cả ba chủng vi khuẩn này đều là vi khuẩn có khả
năng chịu nhiệt. Khả năng chuyển hóa urê của
chúng đạt cao nhất khi nuôi ở 50oC, pH 9 (đối với
chủng H2 và H4) và pH 7 (đối với chủng H5).
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu được thực hiện dưới sự hỗ trợ kinh
phí của đề tài cấp Học viện Nông nghiệp Việt Nam
mã số T2019-12-67. Nhóm tác giả xin chân thành cảm
ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Christensen W. B (1946) Urea decomposition
as a means of differentiating Proteus and paracolon
cultures from each other and from Salmonella and
Shigella types. Journal Bacteriol 52:461–466.
2. Clancy K. A, Pearson S, Bowen W. H, and
Burne R. A. (2000). Characterization of recombinant,
ureolytic Streptococcus mutans demonstrates an
inverse relationship between dental plaque ureolytic
capacity and cariogenicity. Infection and immunity,
68(5), 2621-2629.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 173
3. Dixon N. E, Riddles P. W, Gazzola C, Blakeley
R.L, and Zerner B. (1980). Jack bean urease (EC 3.5.
1.5). V. On the mechanism of action of urease on
urea, formamide, acetamide, N-methylurea, and
related compounds. Canadian journal of
biochemistry, 58(12), 1335-1344.
4. Food safety and standards authority of India -
FSSAI (2016). Manual of methods of analysis of
foods and water. Ministry of Health and Family
wellfare, government of india.
5. Glibert P. M, Harrison J., Heil C., and
Seitzinger S. (2006). Escalating worldwide use of
urea–a global change contributing to coastal
eutrophication. Biogeochemistry, 77(3), 441-463
6. Holt J. G, Krieg N. R, Sneath P. H. A, Staley J.
T, Williams S.T, editors (1994). Bergey's Manual of
Determinative Bacteriology. 9th ed ed. Baltimore:
Williams and Wilkins. p. 559.
7. Kobashi K., Takebe, S., and Sakai, T. (1988).
Removal of urea from alcoholic beverages with an acid
urease. Journal of Applied Toxicology, 8(1), 73-74.
8. Liu J., Xu Y., Nie Y., and Zhao G.A. (2012).
Optimization production of acid urease by
Enterobacter sp. in an approach to reduce urea in
Chinese rice wine. Bioprocess and biosystems
engineering, 35(4), 651-657.
9. Mobley H.L, and Hausinger R.P. (1989).
Microbial ureases: significance, regulation, and
molecular characterization. Microbiological reviews,
53(1), 85-108.
10. Ough C. S., and Trioli, G. (1988). Urea
removal from wine by an acid urease. American
journal of enology and viticulture, 39(4), 303-307.
11. Qin Y., and Cabral, J. M. (2002). Review
properties and applications of urease. Biocatalysis
and biotransformation, 20(1), 1-14
12. Rutherford J.C. (2014). The emerging role of
urease as a general microbial virulence factor. PLoS
pathogens, 10(5), e1004062.
13. Sumner J.B. (1926). The isolation and
crystallization of the enzyme urease preliminary
paper. Journal of Biological Chemistry, 69(2), 435-
441
14. Trịnh Tuyên Quang, Nguyễn Quế Côi,
Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Tiến Thông, Đàm Tuấn
Tú (2010). Thực trạng ô nhiễm môi trường và xử lý
chất thải trong chăn nuôi lợn trang trại tập trung. Tạp
chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, số 23-tháng 4.
DETERMINATION OF SOME FACTORS AFFECTING ON THE UREA CONVERSION CAPACITY OF
BACTERIAL ISOLATED FROM ANIMAL WASTE
Nguyen Xuan Truong, Tran Thi Dao, Nguyen Thi Kim Chi
Nguyen Thanh Trung, Nguyen Xuan Canh
Summary NH3 emissions from pig production is a major environmental problem and has impact on health of animal
and the environment inside the farm. NH3 is formed by the presence of microorganisms in the environment
capable of producing urease hydrolyzed in the urine of pigs. Bacterial ureases are diverse. They exist in
different natural habitats such as in soil, in seawater or in geological formation. In this study, bacterial
urease were isolated from the animal waste samples collected in Ha Nam, Hanoi and Thanh Hoa on Urea
Agar media. Nine strains of bacteria capable of producing urease with different morphology have been
isolated. In particular, H2, H4, H5 strains have the highest ureolytic activity were selected to be
characterized biochemical test, growth conditions and their urease acivity. All three selected strains are
gram-positive bacilli. They are all heat-resistant bacteria, have the highest urea conversion capacity at 50°C,
pH 9 (for H2 and H4 strains) and pH 7 (for H5 strain).
Keywords: NH3, pig slurry, urease.
Người phản biện: PGS.TS. Lê Đức
Ngày nhận bài: 5/8/2019
Ngày thông qua phản biện: 7/9/2019
Ngày duyệt đăng: 14/9/2019
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 174
PHÂN LẬP VÀ ĐỊNH TUÝP HUYẾT THANH CỦA
VI KHUẨN ACTINOBACILLUS PLEUROPNEUMONIAE
GÂY BỆNH Ở LỢN Trương Quang Lâm1, Nguyễn Thị Lan1, Nguyễn Thị Huyên1, Nguyễn Thị Ngọc1
TÓM TẮT Mục tiêu của nghiên cứu này là phân lập và xác định các tuýp huyết thanh (serotypes) của các chủng vi
khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae (A. pleuropneumoniae) phân lập từ lợn nghi mắc bệnh viêm phổi –
màng phổi. Các mẫu phổi được thu thập từ 70 lợn thuộc địa bàn tỉnh Bắc Giang, Hà Nội, Hưng Yên, Hải
Dương. Mẫu phổi được nuôi cấy trên môi trường thạch máu thỏ ở 37oC, 5% CO2 trong 48 giờ. Kết quả phân lập
thu được 22 chủng vi khuẩn A. pleuropneumoniae có kích thước nhỏ, trong, dung huyết hoặc không dung
huyết, bắt màu Gram âm, trực khuẩn đa hình thái, với đặc tính sinh hóa chính như phản ứng oxidase, urease
dương tính, catalase âm tính, indol âm tính, phụ thuộc vào yếu tố V, có khả năng lên men đường glucose,
xylose, sucrose và không có khả năng lên men đường lactose, mannitol. Cả 22 chủng phân lập vi khuẩn A.
pleuropneumoniae cho kết quả PCR dương tính với DNA của vi khuẩn A. pleuropneumoniae với sản phẩm
PCR có độ dài 346bp. Nghiên cứu xác định các tuýp huyết thanh bằng phương pháp multiplex PCR đã xác
định được 3 tuýp huyết thanh từ 22 chủng phân lập A. pleuropneumoniae. Đáng chú ý, tuýp huyết thanh 2 là
phổ biến nhất chiếm tỷ lệ 36,36% (8/22), tiếp theo là tuýp huyết thanh 5 với 22,73% (5/22), tuýp huyết thanh 1
với 13,64% (3/22) và các chủng chưa xác định được tuýp huyết thanh chiếm 27,27% (6/22).
Từ khóa: Actinobacillus pleuropneumoniae (APP), phân lập, PCR, multiplex PCR (mPCR), tuýp huyết thanh.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Bệnh viêm phổi – màng phổi hay còn gọi là viêm
phổi dính sườn ở lợn là bệnh hô hấp quan trọng, xảy
ra phổ biến trên lợn ở mọi lứa tuổi do vi khuẩn
Actinobacillus pleuropneumoniae gây ra (Cù Hữu
Phú và cs, 2004; Angen et al., 2008; Sassu et al.,
2017). Cho đến nay, vi khuẩn A. pleuropneumoniae
có 18 serotypes (tuýp huyết thanh) và mỗi tuýp huyết
thanh có độc lực khác nhau, ở mỗi châu lục, quốc gia
và vùng địa lý có sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm, mức
độ độc lực và sự lưu hành của các tuýp huyết thanh
(Turni et al., 2014; Sassu et al., 2017). Xuất hiện phổ
biến nhất là các tuýp huyết thanh 1, 2, 3 và 5 của vi
khuẩn A. pleuropneumoniae (Bongtae et al., 2001).
Các tuýp huyết thanh 1, 2, 5, 7 thường được tìm thấy
ở Bắc Mỹ. Trong khi các tuýp huyết thanh 1, 2, 3, 5,
7, 8 chiếm ưu thế ở nhiều nước châu Âu và châu Á
(Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia).
Trong đó, các tuýp huyết thanh 1, 2, 5 và 7 phổ biến
có độc lực cao và tuýp huyết thanh 3 và 8 có độc lực
thấp (Lee et al., 2015; Koyama et al., 2007; Xu et al.,
2008; Sassu et al., 2017; Turni et al., 2014).
Trong nghiên cứu phân lập và xác định các tuýp
huyết thanh của vi khuẩn A. pleuropneumoniae,
1 Phòng Thí nghiệm trọng điểm Công nghệ sinh học Thú y, Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam Email: [email protected]; [email protected]
phương pháp khuếch tán miễn dịch trên thạch
(AGID, agar gel-immuno-diffusion test) đã được sử
dụng rộng rãi trên thế giới trước đây nhằm xác định
các tuýp huyết thanh của các chủng phân lập vi
khuẩn A. pleuropneumoniae (Gottschalk et al.,,
2015), tuy nhiên do yêu cầu về kháng huyết thanh
tham chiếu đạt chất lượng cao nên có rất ít các
phòng thí nghiệm có thể chẩn đoán và vấn đề liên
quan đến phản ứng chéo giữa các tuýp huyết thanh.
Để nâng cao khả năng chẩn đoán phân biệt, trong
những năm gần đây, kỹ thuật sinh học phân tử
multiplex PCR (mPCR) với độ nhạy, đặc hiệu, chính
xác và tin cậy cao đã được sử dụng rộng rãi trên thế
giới trong nghiên cứu và chẩn đoán xác định các tuýp
huyết thanh của vi khuẩn A. pleuropneumoniae (Terry
et al., 1998; Angen et al.., 2008; Jessing et al., 2003;
Morioka et al., 2016). Kỹ thuật mPCR sử dụng các cặp
primers đặc hiệu được phát triển dựa trên các gen mã
hóa sinh tổng hợp các cấu trucpolysaccharide vùng vỏ
(vùng cps), gen mã hóa protein tiết polysaccharide
vùng vỏ (cpx) (Angen et al.., 2008; Jessing et al., 2003;
Terry et al., 1998). Phương pháp mPCR đã được công
nhận để xác định được hầu hết 18 tuýp huyết thanh
tham chiếu (ngoại trừ 4, 9, 13 và 14) của vi khuẩn A.
pleuropneumoniae nhằm phát hiện các tuýp huyết
thanh chiếm ưu thế, độc lực cao và gây bệnh chủ yếu
trong một khu vực địa lý nhất định (Terry et al., 1998; Jessing et al., 2003; Schuchert et al., 2004;
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 175
Angen et al., 2008; Turni et al., 2014; Bosse et al.,
2014, 2017; Ito et al., 2015). Đáng chú ý, các nghiên
cứu đã chỉ ra rằng các tuýp huyết thanh 1, 2, 5 của vi
khuẩn A. pleuropneumoniae thường chiếm ưu thế và
là tác nhân chính gây bệnh viêm phổi dính sườn trên
các đàn lợn ở Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á (Jessing et
al., 2003; Schuchert et al., 2004; Angen et al., 2008;
Turni et al., 2014; Bosse et al., 2014, 2017; Ito et al.,
2015).
Tại Việt Nam, vi khuẩn A. pleuropneumoniae đã
được phân lập và xác định là một tác nhân quan
trọng gây bệnh hô hấp cho lợn nuôi ở mọi lứa tuổi,
đặc biệt là 8 – 16 tuần tuổi. Khi tiến hành xác định
các tuýp huyết thanh của vi khuẩn A. pleuropneumoniae cho thấy tuýp huyết thanh 2 và 5
phổ biến ở Việt Nam, gây ra những tổn thương
nghiêm trọng ở phổi và gây tổn thất kinh tế rất lớn
cho người chăn nuôi (Cù Hữu Phú và cs, 2004; Trịnh
Quang Hiệp và cs, 2004; Đặng Xuân Bình và cs,
2007). Vi khuẩn A. pleuropneumoniae cùng với các
tác nhân bội nhiễm vi khuẩn khác như Haemophilus
parasuis, Streptococcus suis và virus như porcine
reproductive and respiratory syndrome (PRRSV),
porcine circo virus type 2 (PCV2) là những tác nhân
quan trọng gây bệnh bệnh hô hấp phức hợp trên lợn
với tỷ lệ mắc bệnh và chết cao (Cù Hữu Phú và cs,
2004; Đặng Xuân Bình và cs, 2007; Trương Quang
Lâm và cs, 2018). Trên thực tế hiện nay tại Việt Nam
ghi nhận rất nhiều dịch bệnh viêm phổi dính sườn
xảy ra hoặc kế phát cùng với các virus gây bệnh trên
đường hô hấp điển hình như virus PRRS làm nghiêm
trọng hơn tình trạng bệnh hô hấp trong đàn cũng
như gây khó khăn cho việc chẩn đoán, điều trị, tỷ lệ
chết tăng cao, gây ra tổn thất kinh tế rất lớn cho
người chăn nuôi.
Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu
nghiên cứu phân lập, xác định đặc tính sinh hóa học
và các tuýp huyết thanh 1, 2, 5 độc lực cao gây bệnh
chính của vi khuẩn A. pleuropneumoniae gây bệnh
trên lợn tại địa bàn 4 tỉnh Bắc Giang, Hà Nội, Hưng
Yên, Hải Dương. Kết quả nghiên cứu sẽ là tiền đề
cho việc triển khai các nghiên cứu chuyên sâu tiếp
theo liên quan đến các đặc tính sinh học, sinh học
phân tử, kháng kháng sinh, độc lực và đặc tính
kháng nguyên của các tuýp huyết thanh phân lập
được. Qua đó phục vụ cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy và đào tạo sinh viên cũng như phân lập
những tuýp huyết thanh mới nổi, phát triển các Kít
chẩn đoán bệnh, chế phẩm sinh học và vắc-xin nhằm
xây dựng biện pháp tổng thể trong phòng và điều trị
bệnh viêm phổi dính sườn do vi khuẩn A.
pleuropneumoniae tại Việt Nam.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Môi trường, hóa chất sử dụng bao gồm: thạch
blood agar base (BD - Pháp); Brain heart broth –
BHB (Merck – Đức); Thạch MacConkey (BD-
Pháp); TSB (tryptic soy broth, BD – Pháp); TSA
(tryptic soy agar, BD – Pháp) Catalase (Hydrogen
peroxide 3%, Merck – Đức); Oxidase (1% N, N-
dimethyl-p-phenylenediamine hydrochloride, Sigma
– Mỹ); Kovac’s/Indol (Merck – Đức); Urea base (BD
- Pháp); Bộ kit nhuộm Gram (Merck – Đức); Glucose
(Merck – Đức); Lactose (Merck – Đức); Xylose
(Merck – Đức); Sucrose (Sigma – Mỹ); Mannitol
(Merck – Đức); Nicotinamide adenine dinucleotide
sodium salt (NAD, Sigma – Mỹ); Huyết thanh thai bò
(FBS - Fetal bovine serum, Gibco – Mỹ); Kit chiết
tách DNA (QIAGEN – Đức).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thu thập mẫu dựa vào quan
sát triệu chứng lâm sàng Lợn có triệu chứng lâm sàng và bệnh tích đặc
trưng nghi mắc bệnh viêm phổi màng phổi như phổi
dính sườn, phổi sung huyết, sưng to, có màng nhầy ở
bề mặt phổi, mặt cắt phổi chứa đầy bọt máu, có điểm
hoại tử xanh đỏ được lựa chọn để tiến hành nghiên
cứu này. Mẫu bệnh phẩm bao gồm dịch xoang bao
tim, dịch xoang ngực, dịch khí quản, phổi được thu
tại địa bàn 4 tỉnh Bắc Giang, Hà Nội, Hưng Yên, Hải
Dương trong khoảng thời gian từ tháng 1/2017 đến
2/2018.
2.2.2. Phương phân lập vi khuẩn A.
pleuropneumoniae
Phương pháp phân lập và giám định sinh hóa
được thực hiện dựa trên công bố trước đây (Kim et
al., 2001; Koyama et al., 2007). Các mẫu bệnh phẩm
bao gồm xoang bao tim, dịch xoang ngực, dịch khí
quản, phổi được ria cấy trên môi trường thạch máu
sử dụng 5% máu thỏ (SBA, sheep blood agar) có kèm
đường cấy vi khuẩn Staphylococcus aureus (S.
aureus) ở điều kiện hiếu khí 37°C với 5% CO2 trong
thời gian 24-48 giờ. Các đĩa thạch được kiểm tra mỗi
24 giờ về sự phát triển của khuẩn lạc cho đến 48 giờ.
Các khuẩn lạc nghi ngờ được cấy chuyển sang môi
trường thạch tương tự hoặc môi trường tryptic soy
broth (TSB) có bổ sung 0,01% yếu tố V – NAD
(Nicotinamide Adenine Dinucleotide) để giám định
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 176
đặc tính sinh hóa bao gồm: nhuộm Gram, catalase,
indol, urease, oxidase, khả năng phụ thuộc NAD,
khả năng dung huyết, khả năng lên men đường
glucose, lactose, xylose, mannitol, sucrose và khả
năng mọc trên môi trường MacConkey.
2.2.3. Phương pháp tách chiết DNA
Phương pháp tách chiết DNA tổng số từ mẫu
bệnh phẩm theo bộ kít DNeasy Blood & Tissue của
QIAGENE (Đức). Các bước tách chiết DNA được
thực hiện theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
2.2.4. Phương pháp PCR
Phản ứng PCR được dùng để giám định kết
quả phân lập vi khuẩn A. pleuropneumoniae sử dụng
các cặp mồi đặc hiệu AP-IVF/AI-IVR ở bảng 1
(Hricinova et al., 2010). Thành phần phản ứng PCR
bao gồm: 15 µl go taq green master mix; 8 µl
nuclease-free water; 1 µl mỗi primer; 5 µl khuôn
mẫu DNA. Đối chứng dương sử dụng trong phản
ứng PCR là chủng VNUA-APP04 phân lập từ lợn
bệnh tại Hưng Yên. Chủng VNUA-APP04 có đầy đủ
các đặc tính đặc trưng về nhuộm Gram, hình thái,
đặc tính sinh hóa và trình tự gene ApxIV tương đồng
99,38-100% với các chủng vi khuẩn A.
pleuropneumoniae tham chiếu trên thế giới (phân
tích bằng phần mềm MEGA6 và dữ liệu Genbank
thông qua phân tích BLAST của NCBI). Chu trình
nhiệt được thực hiện gồm 3 bước bao gồm: Tiền
biến tính ở nhiệt độ 94°C trong 5 phút; chu kỳ lặp lại
30 lần: Biến tính ở nhiệt độ 94°C trong 30 giây, gắn
mồi ở 52°C trong 45 giây, tổng hợp kéo dài ở 72°C
trong 90 giây; hoàn thành ở 72°C trong 6 phút. Điện
di thạch và đọc kết quả: Sản phẩm PCR được điện di
trên gel 1% (TBE 1X) với thang DNA chuẩn 100bp
(marker). Sử dụng nguồn điện di ở hiệu điện thế
100V cường độ 100mA, thời gian chạy điện di trong
40 phút. Sản phẩm PCR cho sản phẩm có độ dài
346bp.
Bảng 1. Trình tự nucleotide của cặp mồi sử dụng trong định danh và định tuýp vi khuẩn
TT Mồi Gene Trình tự mồi (5’ 3’) Size
(bp)
Tài liệu tham
khảo
1 APP spp. Apx IV F: ATA CGG TTA ATG GCG GTA ATG G
R: AP-IVR: ACC TGA GTG CTC ACC AAC G 346bp
Hricinova et
al., 2010
2 APP-SR1 cps
region
F: GGGCAAGCCTCTGCTCGTAA
R: GAAAGAACCAAGCTCCTGCAAT 754bp
Angen et al.,
2008
3 APP-SR2 cps
region
F: ACTATGGCAATCAGTCGATTCAT
R: CCTAATCGGAAACGCCATTCTG 500bp
Jessing et al.,
2003
4 APP-SR5 cps region
F: TTTATCACTATCACCGTCCACACCT
R: CATTCGGGTCTTGTGGCTACTAAA 1114bp
Terry M. L et
al., 1998
2.2.5. Phương pháp định tuýp huyết thanh vi
khuẩn A. pleuropneumoniae bằng kỹ thuật multiplex
PCR
Phản ứng multiplex PCR (mPCR) được dùng
để định tuýp huyết thanh của các chủng vi khuẩn
APP phân lập sử dụng các cặp mồi đặc hiệu APP1-F/
APP1-R; APP2-F/ APP2-R; APP5-F/ APP5-R được
thiết kế dựa trên cps region gene của vi khuẩn A.
pleuropneumoniae ở bảng 1 (Angen et al., 2008;
Jessing et al., 2003; Terry et al., 1998). Thành phần
phản ứng PCR bao gồm: 15 µl go taq green master
mix; 7 µl nuclease-free water; 0,5 µl mỗi primer; 5 µl
khuôn mẫu DNA. Chủng vi khuẩn sử dụng làm đối
chứng VNUA-APP04 sử dụng trong mPCR đã được
xác định là tuýp huyết thanh 02 trước đó bằng
phương pháp sing le PCR (APP2-F/ APP2-R) và
mPCR (AP-IVF/ AP-IVR; APP1-F/ APP1-R; APP2-F/
APP2-R; APP5-F/ APP5-R), tinh khiết DNA từ gel,
giải trình tự gene và phân tích bằng phần mềm
MEGA6 và dữ liệu Genbank thông qua phân tích
BLAST của NCBI. Chu trình nhiệt được thực hiện
gồm 3 bước bao gồm: Tiền biến tính ở nhiệt độ 94°C
trong 5 phút; chu kỳ lặp lại 30 lần: Biến tính ở nhiệt
độ 94°C trong 30 giây, gắn mồi ở 60°C trong 30 giây,
tổng hợp kéo dài ở 72°C trong 90 giây; hoàn thành ở
72°C trong 6 phút. Điện di thạch và đọc kết quả: Sản
phẩm PCR được điện di trên gel 1% (TBE 1X) với
thang DNA chuẩn 100bp (marker). Sử dụng nguồn
điện di ở hiệu điện thế 100V cường độ 100mA, thời
gian chạy điện di trong 40 phút. Sản phẩm PCR cho
sản phẩm có độ dài như mô tả ở bảng 1.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả phân lập vi khuẩn A.
pleuropneumoniae
Nghiên cứu đã tiến hành thu thập 70 mẫu phổi
từ 70 lợn nghi nhiễm A. pleuropneumoniae tại địa
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 177
bàn 4 tỉnh: Bắc Giang, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương
có triệu chứng đặc trưng của bệnh viêm phổi – màng
phổi dựa vào triệu chứng lâm sàng ở đường hô hấp,
bệnh tích đại thể đặc trưng ở xoang ngực và phổi của
lợn được gửi tới phòng thí nghiệm mổ khám và xét
nghiệm (hình 1).
Hình 1. Bệnh tích mẫu phổi lợn nghi nhiễm vi khuẩn A. pleuropneumoniae.
A: Phổi sung huyết, cuống phổi chứa đầy bọt; B: Cuống phổi chứa đầy bọt và máu, phổi có những điểm hoại
tử xanh đỏ; C: Màng nhầy phủ kín cuống phổi; D: Phổi sung huyết, mặt cắt chứa đầy bọt và máu.
Với 24 khuẩn lạc có kích thước nhỏ nghi là vi
khuẩn A. pleuropneumoniae được phân lập từ 70 mẫu
phổi lợn nghi mắc bệnh viêm phổi màng phổi, đã được
xác định là vi khuẩn A. pleuropneumoniae dựa trên
các đặc tính sinh hóa chính bao gồm: nhuộm Gram, vi
khuẩn mọc xung quanh đường cấy S. aureus, oxidase
và urease dương tính, catalase âm tính, indol âm tính.
Kết quả giám định hình thái và các đặc tính sinh hóa
của 24 chủng phân lập nghi ngờ vi khuẩn A.
pleuropneumoniae được trình bày ở hình 2 và bảng 2.
Hình 2. Một số hình ảnh phân lập vi khuẩn A. pleuropneumoniae.
A: Khuẩn lạc vi khuẩn A. pleuropneumoniae ở thạch máu: nhỏ, trong, dung huyết hoặc không dung huyết; B:
Thử khả năng dung huyết của vi khuẩn A. pleuropneumoniae, tuýp huyết thanh 1, 2 và 5 trên thạch máu; C:
Vi khuẩn A. pleuropneumoniae tuýp huyết thanh 1 bắt màu Gram âm, trực khuẩn nhỏ, ngắn (VK 100); D: Vi
khuẩn A. pleuropneumoniae tuýp huyết thanh 5 bắt màu Gram âm, trực khuẩn dài (VK 100).
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 178
Hình thái của A. pleuropneumoniae quan sát
được là vi khuẩn bắt màu Gram âm, dạng trực khuẩn
nhỏ, dài ngắn khác nhau (hình 2C, 2D), vi khuẩn
không di động, không sinh nha bào và có hình thành
giáp mô, tuy nhiên một số chủng không có giáp mô.
Trên môi trường TSA khuẩn lạc nhỏ, tròn, màu trắng
xanh. Trên môi trường thạch máu có cấy kèm đường
cấy vi khuẩn S. aureus, vi khuẩn mọc thành những
khuẩn lạc tròn, mọc sát đường cấy tụ cầu và có hiện
tượng dung huyết hoặc không dung huyết, vi khuẩn
không mọc trên môi trường thạch MacConkey.
Kết quả bảng 2 cho thấy 100% số chủng vi khuẩn
A. pleuropneumoniae dương tính với phản ứng
oxidase, có khả năng lên men đường như glucose,
xylose, sucrose; 100% số chủng âm tính với phản ứng
sinh indol, không có khả năng lên men đường
lactose, mannitol; 4,17% số chủng mọc rất yếu trên
môi trường thạch MaConkey; 95,83% số chủng
dương tính với phản ứng urease, 4,17% số chủng cho
kết quả catalase dương tính nhẹ, 66,67% các chủng
cho kết quả dương tính cAMP và khả năng dung
huyết. Tất cả các chủng vi khuẩn A.
pleuropneumoniae đều cần yếu tố NAD cho quá
trình phát triển.
Bảng 2. Kết quả nghiên cứu đặc tính sinh hóa của vi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae phân lập được
TT Chỉ tiêu kiểm tra Số mẫu dương tính/Số mẫu
nghiên cứu (n=24) Tỷ lệ (%)
1 Gram âm 24/24 100
2 cAMP 16/24 66,67
3 Dung huyết 16/24 66,67
4 MacConkey 1/24 4,17
5 Indol 0/24 0
6 Oxidase 24/24 100
7 Catalase 1/24 4,17
8 Urease 23/24 95,83
9 Yếu tố V (NAD) 24/24 100
10 Glucose 24/24 100
11 Xylose 24/24 100
12 Sucrose 24/24 100
13 Lactose 0/24 0
14 Mannitol 0/24 0
Kết quả nghiên cứu đặc tính sinh hóa học của 24
khuẩn lạc nghi ngờ A. pleuropneumoniae phân lập
được cho thấy chúng đều có đặc tính sinh học như
đã được mô tả ở những nghiên cứu trước đây (Vicki
et al. 1985; Moller et al., 1996; Nguyễn Thị Thu
Hằng, 2013; Trịnh Quang Hiệp và cs, 2004). Ngoài ra
chủng phân lập urease âm tính trong nghiên cứu này
cũng được ghi nhận trong một số nghiên cứu tại
Nhật Bản vào năm 2007 (Ito et al, 2017). Trong
nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu đã lần đầu tiên
phân lập chủng vi khuẩn A. pleuropneumoniae tuýp
huyết thanh 2 cho kết quả urease âm tính và phát
hiện sự đột biến tự nhiên ở gene cbiM. Urease được
coi là một trong những yếu tố độc lực quan trọng của
vi khuẩn A. pleuropneumoniae (Ito et al., 2017), do
đó cần có những nghiên cứu tiếp theo phân tích trình
tự gene của chủng urease âm tính được phân lập
trong nghiên cứu này.
3.2. Kết quả giám định phân lập vi khuẩn A.
pleuropneumoniae bằng kỹ thuật PCR
Sau khi tiến hành đánh giá đặc tính nuôi cấy và
sinh hóa của các chủng phân lập nghi ngờ là vi
khuẩn A. pleuropneumoniae, tiến hành giám định kết
quả phân lập bằng phản ứng PCR sử dụng cặp mồi
đặc hiệu dựa trên gene ApxIV của vi khuẩn A.
pleuropneumoniae. Kết quả giám định bằng phản
ứng PCR cho thấy 22/24 chủng phân lập nghi ngờ là
vi khuẩn A. pleuropneumoniae cho kết quả PCR
dương tính với DNA của vi khuẩn A.
pleuropneumoniae (91,66%) cho sản phẩm PCR có độ
dài 346 bp như thiết kế (bảng 3 và hình 3).
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 179
Hình 3. Kết quả giám định các chủng phân lập vi khuẩn A. pleuropneumoniae bằng phản ứng PCR.
(M-Maker: Giếng thang DNA chuẩn 100bp; Giếng 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9: mẫu DNA của các chủng phân lập vi
khuẩn A. pleuropneumoniae; Giếng 11: Đối chứng dương; Giếng 12: Đối chứng âm).
Bảng 3. Kết quả chạy PCR giám định kết quả phân lập
Kết quả chạy PCR
STT Địa phương Số lượng mẫu Số mẫu dương tính
phân lập và PCR Tỷ lệ (%)
1 Bắc Giang 7 2 28,57
2 Hà Nội 13 3 23,08
3 Hưng Yên 29 10 34,48
4 Hải Dương 21 7 33,33
Tổng hợp 70 22 31,43
Qua kết quả bảng 3 cho thấy tỷ lệ nhiễm vi
khuẩn A. pleuropneumoniae trên lợn nghi mắc bệnh
viêm phổi – màng phổi tại địa bàn 4 tỉnh Bắc Giang,
Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương là 31,43% (22/70). Với
các mẫu thu nhận ở tỉnh Hưng Yên tỷ lệ dương tính
cao nhất với 34,48%, tiếp đến là tỉnh Hải Dương, tỉnh
Bắc Giang và Hà Nội với tỷ lệ lần lượt là 33,33%,
28,57% và 23,08%. Mặc dù trong nghiên cứu này
lượng mẫu được thu thập dùng để chẩn đoán phân
lập mầm bệnh chưa đủ lớn, tuy nhiên kết quả thực tế
cho thấy tỷ lệ nhiễm rất cao đối với vi khuẩn A.
pleuropneumoniae ở các địa phương thu thập mẫu
bệnh phẩm.
3.3. Kết quả xác định tuýp huyết thanh của các
chủng vi khuẩn A. pleuropneumoniae phân lập
22 chủng vi khuẩn A. pleuropneumoniae phân
lập đã được tiến hành xác định tuýp huyết thanh
bằng kỹ thuật mPCR sử dụng các cặp mồi đặc hiệu
cho từng tuýp huyết thanh (bảng 1). Kết quả xác
định tuýp huyết thanh 1, 2, 5 bằng phương pháp
mPCR được trình bày ở bảng 4.
Bảng 4. Kết quả xác định tuýp huyết thanh 1, 2 và 5 các chủng vi khuẩn A. pleuropneumoniae phân lập được
theo địa phương
Kết quả xác định tuýp huyết thanh (số chủng dương tính/số
chủng kiểm tra) Địa phương
Số chủng
kiểm tra Tuýp huyết
thanh 1 (%)
Tuýp huyết
thanh 2 (%)
Tuýp huyết
thanh 5 (%)
Khác
(%)
1 Bắc Giang 2 0 (0) 1 (50) 0 (0) 1 (50)
2 Hà Nội 3 0 (0) 2 (66,6) 0 (0) 1 (33,33)
3 Hưng Yên 10 2 (20) 3 (30) 3 (30) 2 (20)
4 Hải Dương 7 1 (14,29) 2 (28,5) 2 (28,57) 2 (28,57)
Tổng hợp 22 3 (13,64) 8 (36,36) 5 (22,73) 6 (27,27)
Từ bảng 4 cho thấy trong tổng số 22 chủng phân
lập thực địa của vi khuẩn A. pleuropneumoniae, tuýp
huyết thanh 2 và 5 là phổ biến nhất với tỷ lệ lần lượt
36,36% (8/22) và 22,73% (5/22). Chiếm tỷ lệ thấp hơn
là các chủng vi khuẩn thuộc tuýp huyết thanh 1 với
13,64% (3/22). Các chủng phân lập chưa xác định
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 180
được tuýp huyết thanh (non-typable tuýp huyết
thanh) chiếm 27,27% (6/22). Kết quả này phù hợp với
những kết quả nghiên cứu trước đây về sự lưu hành
của tuýp huyết thanh 2 và 5 của vi khuẩn A.
pleuropneumoniae tại Việt Nam (Nguyễn Thị Thu
Hằng, 2013).
Đáng chú ý, trong nghiên cứu này đã lần đầu
tiên phân lập thành công và phát hiện sự lưu hành
của tuýp huyết thanh 1 tại tỉnh Hải Dương và Hưng
Yên. Tuýp huyết thanh 1 của vi khuẩn A.
pleuropneumoniae được coi là một trong những tuýp
huyết thanh có độc lực cao nhất và gây bệnh phổ
biến trên nhiều quốc gia trên thế giới. Các chủng vi
khuẩn thuộc tuýp huyết thanh 1, 2, 5 phân lập từ thực
địa có đặc tính sinh hóa học cơ bản giống nhau. Sự
khác biệt được ghi nhận rõ rệt nhất là sự khác nhau ở
hình thái và khả năng gây dung huyết (hình 2B). Kết
quả nghiên cứu cho thấy tuýp huyết thanh 5 có hình
thái khác biệt, là dạng trực khuẩn dài, hình que (hình
2D) khác với trực khuẩn ngắn của tuýp huyết thanh
1, 2 (hình 2C). Mặc dù tuýp huyết thanh 2, 5 được
phát hiện và công bố trước đây ở Việt Nam, tuy nhiên
chưa xác định được sự khác nhau về hình thái giữa
các tuýp huyết thanh này. Ngoài ra, thông qua việc
đánh giá hình thái các tuýp huyết thanh của vi khuẩn
A. pleuropneumoniae có vai trò quan trọng trong
công tác chẩn đoán, phân lập mầm bệnh (Hình 2C và
2D). Tùy thuộc vào sự khác biệt trong phân bố các
vùng địa lý mà có sự khác nhau về sự hiện diện và
mức độ độc lực của các tuýp huyết thanh của vi
khuẩn APP (Klitgaard et al., 2010; Gottschalk, 2015;
Sassu et al., 2017; Phan Kim Thanh và cs, 2018).
Hình 4. Kết quả chạy PCR xác định tuýp huyết thanh của các chủng A. pleuropneumoniae phân lập
(Giếng 1: thang DNA chuẩn 100bp (M-Maker); Giếng 2: Đối chứng dương APP tuýp huyết thanh 2 (500bp);
Giếng 3, 8, 9: Chủng phân lập dương tính với tuýp huyết thanh 5 (1114bp); Giếng 4,5: Chủng phân lập dương
tính với APP tuýp huyết thanh 1; Giếng 6, 7: Chủng phân lập dương tính với APP tuýp huyết thanh 2; Giếng 10,
11: Chủng chưa xác định được tuýp huyết thanh; Giếng 12: Đối chứng âm). 4. KẾT LUẬN
Đã phân lập được 22 chủng vi khuẩn A.
pleuropneumoniae từ các mẫu bệnh phẩm của lợn
thu thập tại Bắc Giang, Hà Nội, Hưng Yên, Hải
Dương. Các chủng vi khuẩn A. pleuropneumoniae
phân lập được đều mang đầy đủ các đặc tính sinh
hóa đặc trưng của loài. Đồng thời, kết quả nghiên
cứu chỉ ra rằng tuýp huyết thanh 2 (36,36%) và tuýp
huyết thanh 5 (22,73%) là các tuýp huyết thanh lưu
hành phổ biến nhất tại địa bàn 4 tỉnh/thành nghiên
cứu, tiếp theo là tuýp huyết thanh 1 (13,64%) và chưa
xác định được tuýp huyết thanh (27,27%). Kết quả
nghiên cứu thu được sẽ làm tiền đề cho các nghiên
cứu về dịch tễ bệnh ở diện rộng tiếp theo nhằm xác
định tuýp huyết thanh khác mới nổi của vi khuẩn A.
pleuropneumoniae gây bệnh trên đàn lợn tại Việt
Nam. Qua đó xây dựng các hướng nghiên cứu mới
trong nghiên cứu đặc tính sinh hóa học, độc lực,
bệnh lý học, đánh giá tính mẫn cảm kháng sinh ứng
dụng trong điều trị và phát triển vắc-xin phù hợp
nâng cao khả năng phòng chống dịch bệnh và giảm
thiểu thiệt hại do vi khuẩn A. pleuropneumoniae gây
ra cho người chăn nuôi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Angen O., Ahrens P., Jessing S. G. (2008).
Development of a multiplex PCR test for identification
of Actinobacillus pleuropneumoniae serovars 1, 7, and
12. Vet Microbiol, 132(3-4): 312-318.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 181
2. Cù Hữu Phú, Nguyễn Ngọc Nhiên, Nguyễn
Thu Hằng, Âu Xuân Tuấn, Nguyễn Bích Thủy, Vũ
Ngọc Quý, Phạm Bảo Ngọc. (2004). Xác định
nguyên nhân gây bệnh đường hô hấp của lợn nuôi
tại một số tỉnh phía Bắc. Tạp chí Khoa học Kỹ
thuật thú y, 1: 12-18.
3. Đặng Xuân Bình, Nguyễn Thị Ngân, Phan
Hồng Phúc. (2007). Tình hình nhiễm Actinobacillus
pleuropneumoniae và bệnh viêm phổi màng phổi ở
lợn. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật thú y, 14: 56-59.
4. Hricinova M., Holoda E., Mudronova D.,
Ondrasovicova S.. (2010). Multiplex PCR assay for
Detection of Actinobacillus pleuropneumoniae,
Pasteurella multocida, Haemophilus parasuis in
Lungs of Pigs from a slaughterhouse, Folia
Microbiol, 55(6): 635-640. isolated from healthy
swine and evaluation of cross-reactivity of
complement-fixing antibodies to Haemophillus
pleuropneumoniae and Haemophilus Taxon. J Clini
Microbiol, 22: 945 – 950.
5. Kim B., Min K., Choi C., Cho W. S. (2001).
Antimicrobial Susceptibility of Actinobacillus
pleuropneumoniae isolated from pig in Korea using
new standardized procedures. J. Vet.Sci., 63:341-342.
6. Koyama T., To H., Nagai S. (2007). Isolation
of Actinobacillus pleuropneumoniae serovar 15-like
strain from a field case of porcine pleuropneumonia
in Japan. J Vet Med Sci., 69(9): 961-4.
7. Lee K. E., Choi H. W., Kim H. H., Song J. Y.,
Yang D. K. (2015). Prevalence and Charaterigation of
Actinobacillus pleuropneumoniae isolated from
Korean pigs, 45: 19-25.
8. Terry M. L., Ward C. K., Inzana T. J. (1998).
Detection and indentication of Actinobacillus pleuropneumoniae serotype 5 by Multiplex PCR.
Journal of clinical micro biology, 36(6): 1704–1710.
9. Moller K., Nielsen R., Andersen L. V., Killian
M. (1996), Clonal analysis of the Actinobacillus
pleupneumoniae population in a geographically -
restricted area bu multilocus enzyme elctrophoresis,
J. Clin Micro, 30: 623 - 627.
10. Morioka A., Shimazaki Y., Uchiyama M.,
Suzuki S. (2016). Serotyping reanalysis of
unserotypable Actinobacillus pleuropneumoniae
isolates by agar gel diffusion test. J Vet Med Sci.,
78(4): 723–725.
11. Nguyễn Thị Thu Hằng (2013). Nghiên cứu
một số đặc tính sinh học và tính sinh miễn dịch của
Actinobacillus pleuropneumoniae phân lập từ lợn làm
cơ sơ cho việc chế vacxin. Luận án Tiến sỹ Nông
nghiệp, Viện Thú y Quốc gia, Hà Nội.
12. Sassu E. L., Bossé J. T., Tobias T. J.,
Gottschalk M., Langford P. R., Hennig-Pauka I.
(2017). Update on Actinobacillus
pleuropneumoniae—knowledge, gaps and
challenges. Transbound Emerg Dis., 65:72-90.
13. Trịnh Quang Hiệp, Cù Hữu Phú, Nguyễn
Thu Hằng, Âu Xuân Tuấn (2004). Xác định đặc tính
sinh vật hóa học, đọc lực của vi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae, Pasteurella và Streptocococcus
gây viêm phổi ở lợn. Tạp chí Khoa học & Công
nghệ, Bộ Nông nghiệp và PTNT, 4: 476-477.
14. Turni C., Singh R., Schembri M. A., Blackall
P. J. (2014). Evaluation of a multiplex PCR to identify
and serotype Actinobacillus pleuropneumoniae
serovars 1, 5, 7, 12 and 15. Lett Appl Microbiol, 59(4):
362-369.
15. Xu Z., Zhou Y., Li L., Zhou R., Xiao S., Wan
Y., Zhang S., Wang K., Li W., Li L., Jin H., Kang M.,
Dalai B., Li T., Liu L., Cheng Y., Zhang L., Xu T.,
Zheng H., Pu S., Wang B., Gu W., Zhang X. L., Zhu
G. F., Wang S., Zhao G. P., Chen H.. (2008).
Genome biology of Actinobacillus pleuropneumoniae
JL03, an isolate of serotype 3 prevalent in China.
PLoS One, 3(1):e1450.
16. Gottschalk M. 2015. The challenge of
detecting herds sub-clinically infected with
Actinobacillus pleuropneumoniae. Vet. J., 206 (1):
30-38.
17. Bosse, J.T., Li, Y., Angen, Ø., Weinert, L.A.,
Chaudhuri, R.R., Holden, M.T., Williamson, S.M.,
Maskell, D.J., Tucker, A.W., Wren, B.W., Rycroft,
A.N., Langford, P.R., BRaDP1T consortium, 2014.
Multiplex PCR assay for unequivocal differentiation
of Actinobacillus pleuropneumoniae serovars 1 to 3,
5 to 8, 10, and 12. J. Clin. Microbiol. 52, 2380–2385.
18. Bosse, J.T., Li, Y., Sarkozi, R., Gottschalk,
M., Angen, Ø., Nedbalcova, K., Rycroft, A.N., Fodor,
L., Langford, P.R., 2017. A unique capsule locus in
the newly designated Actinobacillus
pleuropneumoniae serovar 16 and development of a
diagnostic PCR. J. Clin. Microbiol. 55, 902–907.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - TH¸NG 12/2019 182
19. Ito, H., Sueyoshi, M., 2014. The genetic
organization of the capsular polysaccharide
biosynthesis region of Actinobacillus
pleuropneumoniae serotype 15. J. Vet. Med. Sci. 77,
483–486.
20. Schuchert, J. A., Inzana, T. J., Angen, Ø.,
Jessing, S., 2004. Detection and identification of
Actinobacillus pleuropneumoniae serotypes 1, 2, and
8 by multiplex PCR. J. Clin. Microbiol. 42, 4344–4348.
21. Jessing S. G., Angen O., and Inzana T. J.
2003. Evaluation of a Multiplex PCR Test for
Simultaneous Identification and Serotyping of
Actinobacillus pleuropneumoniae Serotypes 2, 5, and
6. J Clin Microbiol.; 41(9): 4095–4100.
22. Trương Quang Lâm, Nguyễn Thị Lan,
Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Thị Huyên. 2018. Phân lập
và xác định serotype của các chủng vi khuẩn
Haemophilus parasuis phân lập từ lợn tại tỉnh Thanh
Hóa, Hưng Yên và Hà Nam. Tạp chí Khoa học Nông
nghiệp Việt Nam, 16 (12): 1068-1078
23. Phan Kim Thanh, Huỳnh Van Thẩm và Lý
Thị Liên Khai. 2018. Khảo sát bệnh viêm phổi, màng
phổi do vi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae
trên heo tại tỉnh Bến Tre. Tạp chí Khoa học Truờng
Ðại học Cần Thơ, 54(4B): 54-63.
ISOLATION AND SEROTYE INDENTIFICATION OF ACTINOBACILLUS PLEUROPNEUMONIAE
ISOLATES CAUSED PLEUROPNEUMONIAE IN PIGS
Truong Quang Lam, Nguyen Thi Lan,
Nguyen Thi Huyen, Nguyen Thi Ngoc
Summary The aims of this study is to isolate and identify the serotypes of Actinobacillus pleuropneumoniae (A.
pleuropneumoniae) from suspected pigs of infection. Samples of lungs, pleural fluids, and pericardial fluids
were collected from 70 suspected pigs in 4 different provinces: Bac Giang, Hanoi, Hung Yen and Hai
Duong. Samples were cultured on rabbit blood agar plates with a streak of Staphylococcus aureus,
incubated at 37oC in the presence of 5% CO2 for 24-48 hours. 22 isolates of A. pleuropneumoniae were
isolated as small, circular, smooth, transparent, convex, surrounded by a well-defined clear zone of
hemolysis or non-hemolysis, and Gram negative, pleomorphic rods under microscope, with major
biochemical characteristics as following oxidase and urease positive, catalase negative, indole negative,
cAMP variable, V factor dependent, not grown on MacConkey agar, and capable of fermentating glucose,
xylose and sucrose but not lactose and mannitol. 22 strains of A. pleuropneumoniae isolated from clinical
samples were PCR positive with DNA of A. pleuropneumoniae with the amplified product of 346 bp.
Serotype identification using multiplex PCR was determined 3 different serotypes of A. pleuropneumoniae.
Especially, serotype 2 was the most prevalent with 36.36% (8/22), followed by serotype 5 with 22.73%
(5/22), and serotype 1 with 13.64% (2/22), nontypable serotype with 27.27% (6/22), respectively.
Keywords: Actinobacillus pleuropneumoniae (APP), isolation, PCR, multiplex PCR (mPCR), serotype.
Người phản biện: PGS.TS. Cù Hữu Phú
Ngày nhận bài: 30/7/2019
Ngày thông qua phản biện: 30/8/2019
Ngày duyệt đăng: 6/9/2019