linktailieu.com · web view-> luôn quan tâm đúng lợi ích quốc gia dân tộc. theo hồ...

31
1 MỞ ĐẦU Quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo là một bộ phận trong hệ thống quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Là cơ sở để tạo nên sự thống nhất trong giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo, xây dựng mối quan hệ đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc và các tôn giáo với nhau. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Do dòng chảy của văn hoá Việt Nam đã tạo nên sự hòa quyện của các dân tộc, các tôn giáo tạo nên mối đoàn kết trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Những năm qua, với quan điểm đúng đắn, chính sách phù hợp của Đảng và Nhà nước đã đem lại cho quần chúng nhân dân cuộc sống ấm no với nhiều khởi sắc. Tuy nhiên, ở một số nơi, một số lĩnh vực cũng còn những hạn chế, yếu kém trong thực hiện đường lối, chính sách dân tộc, tôn giáo. Đây là một trong những vấn đề nhạy cảm mà các thế lực thù định lợi dụng để chống phá cách mạng nước ta. Chính vì vậy, việc nghiên cứu nắm chắc quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng.

Upload: others

Post on 28-Dec-2019

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

1

MỞ ĐẦU

Quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo là một bộ phận trong hệ thống quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Là cơ sở để tạo nên sự thống nhất trong giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo, xây dựng mối quan hệ đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc và các tôn giáo với nhau.

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Do dòng chảy của văn hoá Việt Nam đã tạo nên sự hòa quyện của các dân tộc, các tôn giáo tạo nên mối đoàn kết trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Những năm qua, với quan điểm đúng đắn, chính sách phù hợp của Đảng và Nhà nước đã đem lại cho quần chúng nhân dân cuộc sống ấm no với nhiều khởi sắc. Tuy nhiên, ở một số nơi, một số lĩnh vực cũng còn những hạn chế, yếu kém trong thực hiện đường lối, chính sách dân tộc, tôn giáo. Đây là một trong những vấn đề nhạy cảm mà các thế lực thù định lợi dụng để chống phá cách mạng nước ta.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu nắm chắc quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng.

NỘI DUNG

I. QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

1. Cơ sở hoạch định quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam

- Cơ sở lý luận:

+ Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc.

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: Trong chủ nghĩa xã hội, vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược nhằm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, tạo lực lượng cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc phụ thuộc và phục vụ cho vấn đề giai cấp của giai cấp công nhân, phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và của dân tộc. Đây vừa là mục đích trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài; vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu giải quyết vấn đề dân tộc trong chủ nghĩa xã hội là xác lập và thực hiện các quyền dân tộc cơ bản, tạo nên những quan hệ công bằng, bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng nhau giữa các tộc người trong quốc gia dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc trong quan hệ quốc tế trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội nhằm thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen:

-> Một dân tộc đi áp bức dân tộc khác sẽ không có tự do, hay áp bức dân tộc là nguồn gốc của áp bức giai cấp;

-> Vấn đề giai cấp, dân tộc, nhân loại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác đã chỉ rõ “ Hãy xoá bỏ nạn người bóc lột người, thì nạn dân tộc này áp bức dân tộc khác cũng bị xoá bỏ”.

-> Do đó, phải đấu tranh giải phóng giai cấp, dân tộc khỏi áp bức bóc lột.

Quan điểm của V.I.Lênin:

-> Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết và liên hiệp công nhân các dân tộc lại.

Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin: Trong tác phẩm “Quyền dân tộc tự quyết” V.I.Lênin đã chỉ ra: Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; quyền liên hiệp giai cấp công nhân các dân tộc. Đây chính là các nguyên tắc cơ bản để các Đảng Cộng sản nói chung, Đảng và Nhà nước ta nói riêng vận dụng giải quyết vấn đề dân tộc trong chủ nghĩa xã hội.

Tư tưởng Hồ Chí Minh:

Tư tưởng giải quyết vấn đề dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nội dung toàn diện, phong phú, sâu sắc, khoa học và cách mạng. Những nội dung cơ bản của tư tưởng giải quyết vấn đề dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

-> Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam:

Thực hiện tốt nguyên tắc “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các tộc người”.

Hồ Chí Minh chỉ ra: “Đồng bào tất cả các dân tộc, không phân biệt lớn nhỏ, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà, để cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung, xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho tất cả các dân tộc được hạnh phúc, ấm no”.

Phát huy được khả năng vươn lên của các dân tộc, phù hợp đặc thù từng dân tộc, từng vùng miền.

Người nói: “Một tỉnh có đồng bào Thái, đồng bào Mèo, thì tuyên truyền huấn luyện đối với đồng bào Thái khác, đồng bào Mèo khác, phải có sự thay đổi cho thích hợp”. Nội dung, phương pháp thực hiện chính sách dân tộc phải phù hợp: “Miền núi, đất rộng người thưa, tình hình vùng này không giống tình hình vùng khác. Vì vậy, áp dụng chủ trương với chính sách phải thật sát với tình hình thực tế mỗi nơi, tuyệt đối chớ rập khuôn, chớ máy móc, chớ nóng vội”. Chính sách dân tộc phải toàn diện, phát huy thế mạnh của từng vùng miền, từng tộc người.

Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ các tộc người thiểu số.

Hồ Chí Minh khẳng định: Với vùng tộc người thiểu số, cán bộ nhất là cán bộ sở tại cả nam và nữ càng quan trọng. Cho nên, phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ miền núi, cán bộ người Kinh phải giúp đỡ anh em cán bộ địa phương tiến bộ, để anh em tự quản lý công việc địa phương chứ không phải là bao biện làm thay.

-> Đấu tranh giải phóng các dân tộc khỏi áp bức, bóc lột và sự nô dịch của thực dân phong kiến;

-> Luôn quan tâm đúng lợi ích quốc gia dân tộc.

Theo Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc chỉ có thể được thực hiện gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn cứu nước giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Để thực hiện được sự nghiệp cách mạng vẻ vang đó, phải giáo dục nâng cao ý thức dân tộc, xóa bỏ hiềm khích giữa các dân tộc, xây dựng khối đoàn kết dân tộc để “lấy sức ta giải phóng cho ta”.

+ Từ mục đích, yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

-> Mục đích là vì con người, vì sự phát triển phồn thịnh của các dân tộc.

-> Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra yêu cầu cần phải có lực lượng tiến hành, lực lượng ấy, sức mạnh ấy chính là khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

- Cơ sở thực tiễn:

+ Từ kinh nghiệm trong giải quyết vấn đề dân tộc ở các nước xã hội chủ nghĩa và ở Việt Nam thời gian qua.

Có nước thất bại, có nước thành công, có nước từ những xung đột sắc tộc, dân tộc dẫn tới chiến tranh...

Ví dụ: Châu Âu: Phong trào ly khai ở Grudia, Nam Tư... Châu Á: Dân tộc Mông ở Trung Quốc... Liên Xô (cũ): Vấn đề đòi ly khai của người Trécnhia...

Ngay sau Cách mạng Tháng 10 Nga (1917), V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích Nga đã khéo léo giải quyết mối quan hệ giai cấp dân tộc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc đấu tranh giữ vững thành quả cách mạng, bảo vệ Tổ quốc Nga - Xô viết trước sự chống phá của 14 nước đế quốc...

Ở Việt Nam: Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc tạo nên sức mạnh đoàn kết cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã đạt được nhiều thành tựu, song cũng còn nhiều hạn chế, bất cập.

Ví dụ: Thành tựu trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội...; chính sách ưu tiên phát triển vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa...; vấn đề kẻ thù lợi dụng lôi kéo đồng bào dân tộc chống phá cách mạng...

+ Từ thực trạng tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội vùng đồng bào các dân tộc.

-> Có sự thay đổi căn bản về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội vùng đồng bào các dân tộc.

Kinh tế:

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân ở vùng đồng bào dân tộc được cải thiện rõ rệt.

Công tác xoá đói giảm nghèo đạt được những kết quả to lớn.

Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm từ 47% năm 2006 xuống còn 28,8% năm 2010. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 2,17 triệu đồng/người năm 2005 lên 4,2 triệu đồng/người năm 2010.

Chính trị:

Quyền bình đẳng giữa các dân tộc đã được thực hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố.

Hệ thống chính trị ở các vùng dân tộc và miền núi bước đầu được tăng cường và củng cố. Tình hình chính trị, trật tự xã hội cơ bản ổn định; an ninh, quốc phòng được giữ vững.

Trong Quốc hội khoá XIII có 78 đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số thuộc 29 dân tộc khác nhau (chiếm tỷ lệ 15,6%).

Văn hóa xã hội:

Mặt bằng dân trí được nâng lên; đời sống văn hoá của đồng bào được nâng cao một bước; văn hoá truyền thống của các dân tộc được tôn trọng, giữ gìn và phát huy.

Tính đến nay, trên 90% địa bàn đã được phủ sóng phát thanh, 100% số xã có trường tiểu học, trạm y tế; 90% số trẻ em trong độ tuổi được đến trường...

-> Vẫn còn nhiều nơi, đời sống kinh tế báo con còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, giáo dục, chăm sóc y tế... còn hạn chế. Vùng dân tộc thiểu số, miền núi vẫn là vùng nghèo nhất cả nước.

+ Từ vị trí chiến lược của miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít người về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại.

Trên các lĩnh vực thì đây là một bộ phận cấu thành không tách rời của quốc gia dân tộc Việt Nam.

Vị trí chiến lược, là căn cứ địa, phên giậu của quốc gia.

Như vậy, quan hệ dân tộc ở nước ta vừa có yếu tố thuận lợi, vừa có yếu tố khó khăn không thể coi nhẹ. Những hạn chế, thiếu sót trong thực hiện quan điểm, chính sách dân tộc xét đến cùng là do nguyên nhân chủ quan. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay đòi hỏi tiếp tục phát huy sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc và thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Vấn đề gợi mở cho học viên nghiên cứu:

Liên hệ thực tiễn việc giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta?

Vấn đề con em dân tộc thiểu số đang học tập công tác tại Nhà trường?

2. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam

VẤN ĐỀ LÀM VIỆC NHÓM

1. Vì sao thực hiện ĐLDT phải gắn liền với CNXH?

2. Quyền và nghĩa vụ của các dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc?

3. Từ lợi ích, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của các dân tộc... đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta vấn đề gì?

4. Vì sao giải quyết vấn đề dân tộc phải đồng bộ và toàn diện?

5. Làm rõ thực trạng chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta (về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh)?

6. Trách nhiệm của quân đội?

Kết luận:

a) Quan điểm

- Thực hiện độc lập dân tộc, bình đẳng dân tộc phải gắn liền với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam; giải quyết vấn đề dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng Việt Nam.

Độc lập dân tộc, bình đẳng dân tộc thuộc bản chất của CNXH.

Giá trị của độc lập dân tộc, bình đẳng dân tộc chưa thể hoàn thiện ngay từ đầu mà hoàn thiện gắn với quá trình xây dựng CNXH, là kết quả của quá trình xây dựng CNXH.

Độc lập dân tộc, bình đẳng dân tộc là khát vọng, là thành quả đấu tranh gian khổ của dân tộc ta. Tuy nhiên, để có độc lập dân tộc, bình đẳng dân tộc thực phải gắn liền với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại độc lập dân tộc, bình đẳng dân tộc thực sự.

- Các dân tộc đều có quyền bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ như nhau đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hiến pháp, pháp luật xác định rõ các dân tộc có quyền được hưởng những thành tựu mà sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN mang lại.

Hiến pháp, pháp luật xác định rõ nghĩa vụ các dân tộc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

- Tôn trọng lợi ích chính đáng, truyền thống, tập quán tốt đẹp, bản sắc văn hoá của các dân tộc.

Lợi ích cá nhân chính đáng phải được tôn trọng bên cạnh lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, không nhấn mạnh lợi ích chung chung.

Những giá trị truyền thống, phong tục tập quán, bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc cần được tôn trọng, giữ gìn và phát huy.

- Sự phát triển phồn thịnh của các dân tộc thiểu số là trách nhiệm và sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn dân trước hết là sự nghiệp của chính đồng bào các dân tộc định cư ở đó.

-> Xác định rõ trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân chăm lo sự phát triển cho các dân tộc:

Đảng và Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội; các tổ chức kinh tế cần có chủ trương, kế hoạch, chính sách kinh tế, văn hoá, xã hội phù hợp, hướng dẫn và giúp đỡ đồng bào các dân tộc ổn định, ngày càng phát triển và tiến bộ về mọi mặt. Đồng bào các dân tộc, thương yêu, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng cuộc sống mới và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đồng đều về mọi mặt giữa các dân tộc.

-> Đồng bào dân tộc là lực lượng chính, trực tiếp quyết định đến sự phát triển phồn thịnh của mình:

Phải phát huy nội lực, tinh thần tự lực tự cường của đồng bào các dân tộc trong thực hiện chính sách dân tộc và coi đó sự nghiệp của chính đồng bào các dân tộc định cư ở đó.

- Giải quyết vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc phải đồng bộ, toàn diện.

Nhằm hạn chế những bất cập về sự phát triển của các dân tộc.

Tạo sự phát triển nhanh, bền vững.

Quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số trong sự phát triển chung các cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất. Khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự tương trợ, giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.

- Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường đi đôi với mở rộng quan hệ với các tộc người, các dân tộc khác.

Giải quyết được nguồn lực tại chỗ, phát huy nội lực trong sự phát triển của các dân tộc. (Vấn đề đất đai, nhân lực, kinh nghiệm...)

Tạo không gian cho sự phát triển, tăng cường trao đổi, học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm...

Tuy nhiên, phát huy nội lực, tinh thần tự lực tự cường của đồng bào các dân tộc trong thực hiện chính sách dân tộc và coi đó sự nghiệp của chính đồng bào các dân tộc định cư ở đó.

Định hướng phê phán:

Chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, kỳ thị dân tộc và các biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc.

b) Chính sách

Nhà nước ta xác định chính sách dân tộc hiện nay tập trung vào việc khắc phục sự cách biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc; nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc; thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm cho tất cả các dân tộc ở Việt Nam đều phát triển, ấm no, hạnh phúc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, kỳ thị, chia rẽ dân tộc, lợi dụng vấn đề dân tộc để gây mất ổn định chính trị - xã hội.

- Kinh tế: quan tâm phát triển kinh tế hàng hoá, phát huy nguồn lực, tiềm năng kinh tế của miền núi.

Chính sách dân tộc trên lĩnh vực kinh tế bao gồm nhóm các chính sách về sở hữu, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, thay đổi cơ cấu kinh tế, phát triển khoa học công nghệ và phát triển kinh tế hàng hoá…

Trong đó tập trung:

Hạch toán, trao đổi thông thương, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, xóa bỏ tự cung tự cấp.

Sử dụng nguồn lực tại chỗ: đất đai, con người, kinh nghiệm... như: Làm tốt công tác định canh, định cư và di dân xây dựng vùng kinh tế mới; công tác quy hoạch, sắp xếp, phân bổ lại dân cư, nguồn nhân lực…

Tôn trọng và phát huy tiềm năng, lợi thế cho phát triển. Tăng cường nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số; điện, đường, trường trạm, nước sạch, xây dựng nông thôn mới.

- Chính trị - xã hội: phát huy quyền làm chủ của đồng bào các dân tộc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Quyền làm chủ của đồng bào trên các lĩnh vực của đời sống xã hội: Tạo mọi điều kiện để nhân dân tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng ở cơ sở.

Trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: Bảo đảm quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của nhân dân, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Quan tâm xây dựng hệ thống chính trị ở vừng đồng bào dân tộc, coi đó là nhân tố quan trọng bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của đồng bào và giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự phát triển vững chắc về mọi mặt vùng dân tộc.

Kết hợp hài hòa quyền và nghĩa vụ.

- Văn hoá - xã hội: quan tâm đặc biệt đến giải quyết các vấn đề văn hoá - xã hội ở vùng dân tộc ít người.

Tôn trọng, giải quyết vấn đề văn hóa xã hội chính là tạo động lực cho sự phát triển.

Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Đầu tư đúng mức cho việc bảo vệ, phát triển những giá trị truyền thống;

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình;

Tăng cường các hoạt động văn hóa, thông tin, tuyên truyền hướng về cơ sở;

Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở và các chương trình giáo dục miền núi, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo;

Tăng cường cơ sở khám, chữa bệnh, cán bộ y tế cho các xã, bản, thôn, ấp, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số.

- Quốc phòng - an ninh: thường xuyên củng cố tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh ở miền núi.

Tạo lá chắn vững chắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Thực hiện phòng thủ tại chỗ (xây dựng khu vực phòng thủ huyện, tỉnh).

Các vùng dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội; đối ngoại và quốc phòng, an ninh. Vì vậy, củng cố và tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh ở miền núi là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa góp phần trực tiếp bảo vệ cuộc sống hoà bình, ổn định của đồng bào các tộc người nước ta.

Bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ an ninh biên giới, ngăn chặn mọi hành động chống phá của các lực lượng phản động; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ở vùng miền núi; Tập trung xây dựng tiềm lực quốc phòng tại chỗ, phát huy sức mạnh tại chỗ, kết hợp với thế chiến lược quốc phòng, an ninh chung của cả nước; Quan tâm xây dựng lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, dự bị động viên; Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân; Tăng cường công tác đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra những “điểm nóng” về an ninh, trật tự xã hội ở vùng dân tộc và miền núi.

Tóm lại, vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc là vấn đề rất hệ trọng của bất cứ quốc gia dân tộc nào. Nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Việt Nam có ý nghĩa quyết định đến sự tồn vong của đất nước, sự thành bại của công cuộc đổi mới đất nước. Đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của toàn hệ thống chính trị và ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc đoàn kết, thống nhất trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.

Định hướng phê phán:

Thực hiện các quyền không gắn với lợi ích quốc gia dân tộc.

Không có ý thức giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.

Không thấy được trách nhiệm của các cấp ủy đảng, nhà nước, không phát huy được nội lực trong sự phát triển của các dân tộc.

Chính sách không đồng bộ, toàn diện, không đến được với nhân dân nhất là đồng bào vùng sâu, vùng xa...

3. Quân đội tham gia thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước

Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội cách mạng, quân đội của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cán bộ, chiến sĩ của quân đội ta là con em của đồng bào các dân tộc Việt Nam, có quan hệ máu thịt, gắn bó thường xuyên với đồng bào, được Đảng tin, dân yêu quý.

Thực hiện quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước là một trong những điều kiện cơ bản để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.

Trong tình hình hiện nay, để thực hiện có hiệu quả quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, Quân đội nhân dân Việt Nam cần tập trung làm tốt những vấn đề cơ bản sau:

- Quán triệt sâu sắc nhiệm vụ, ý thức trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.

- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận ở vùng miền núi, tuyên truyền vận động nhân dân hiểu và thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.

- Tích cực tham gia xây dựng miền núi, cơ sở địa phương vùng dân tộc tiến bộ và vững mạnh về mọi mặt.

- Xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh vững chắc ở miền núi, vùng dân tộc ít người.

- Thường xuyên giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ về phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá của các dân tộc, thực hiện phương châm “kiên nhẫn, thận trọng, gương mẫu, công khai, dân chủ, bình đẳng” trong quan hệ với nhân dân.

Tóm lại, phần I đã tập trung làm rõ:

Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạch định quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.

6 quan điểm và 5 chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.

Trách nhiệm của Quân đội trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.

II. QUAN ĐIỂM CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

1. Cơ sở hoạch định quan điểm chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam

a) Cơ sở lý luận

Câu hỏi: Qua nghiên cứu giáo trình, đồng chí cho biết quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh về tôn giáo?

Kết luận:

- Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội, nó chỉ xuất hiện và tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định, gắn với những điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ nhận thức và tâm lý nhất định, tôn giáo chỉ mất đi khi các điều kiện đó không còn. Từ quan điểm duy vật về lịch sử, C.Mác đã khẳng định: “...Con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người”. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra một cách đúng đắn về nguồn gốc, bản chất, chức năng và vai trò của tôn giáo trong lịch sử, sự tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội.

V.I.Lênin: Chúng ta phải tán thành và thực hiện cho bằng được chủ trương giáo hội hoàn toàn tách khỏi nhà nước và dứt khoát tuyên bố tôn giáo là một việc tư nhân đối với nhà nước. Tuy nhiên, V.I.Lênin cũng chỉ ra: Bên cạnh coi tôn giáo là một việc tư nhân đối với nhà nước, nhưng đối với đảng của chúng ta (Đảng Cộng sản) không thể coi tôn giáo là việc tư nhân được.

Trong chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn tồn tại nhưng có những chuyển biến quan trọng.

Do đó:

+ Tôn trọng, bảo vệ tự do tín ngưỡng của nhân dân.

+ Giải quyết vấn đề tôn giáo phải nằm trong tổng thể các chính sách xã hội, xây dựng đại đoàn kết dân tộc.

- Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh về tôn giáo.

Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo phù hợp với điều kiện của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng nên hệ thống quan điểm về tôn giáo rất độc đáo và sáng tạo góp phần thắng lợi của công tác tôn giáo nói riêng và cách mạng Việt Nam nói chung. Theo Hồ Chí Minh:

+ Tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân và nhìn vấn đề tôn giáo như một lực lượng xã hội đặc biệt trong khối quần chúng nhân dân phải quan tâm đoàn kết.

Hồ Chí Minh cho rằng: vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo.

Người vẫn khẳng định tôn giáo đã và đang tồn tại tất yếu trong chủ nghĩa xã hội.

Ví dụ: Khi trả lời câu hỏi của cử tri Hà Nội: Tiến lên chủ nghĩa xã hội thì tôn giáo có bị hạn chế không? Hồ Chí Minh cho rằng: “Không. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, tín ngưỡng hoàn toàn tự do, lương giáo đoàn kết”.

Trong bài “Nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” ngày 03/9/1945, Hồ Chí Minh chỉ rõ “Thực dân và Phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo dân và đồng bào để dễ trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”.

+ Thực hiện đoàn kết lương - giáo, đoàn kết tôn giáo và dân tộc.

Một trong những tư tưởng đặc sắc và đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh vào phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo là xác định: Mục đích cao nhất, nội dung xuyên suốt của công tác tôn giáo là giữ vững tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết lương giáo, đoàn kết giữa đồng bào các tôn giáo khác nhau, làm cho “nước vinh, đạo sáng”, “tốt đời, đẹp đạo” góp phần ngày càng to lớn vào kháng chiến, kiến quốc.

+ Xem xét và giải quyết vấn đề tôn giáo luôn phải đặt trong và dưới vấn đề quốc gia dân tộc, vì lợi ích của quốc gia dân tộc.

Theo Hồ Chí Minh: Nước độc lập mà dân không được ấm no hạnh phúc thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì. Đồng bào các tôn giáo theo cách mạng mà Đảng, Nhà nước không quan tâm đến lợi ích thiết thân của đồng bào để phần xác ấm no, phần hồn thong dong thì không thể đoàn kết được. Nếu giáo dục tốt thì giáo dân có thể đấu tranh... sống theo Đảng, chết theo Chúa. Cho nên Đảng, Nhà nước phải quan tâm phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của giáo dân... để giáo dân giác ngộ, đoàn kết tham gia kháng chiến, kiến quốc.

Hồ Chí Minh luôn tôn trọng đức tin của đồng bào, thấy được mẫu số chung giữa các hệ ý thức và tôn giáo (tư tưởng gốc), lấy đó làm điểm tương đồng, đồng thuận xã hội để tập hợp, đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc.

Người đã từng nói: “Đức Giêsu có lòng vị tha; Đức Phật có lòng từ bi; chủ nghĩa Mác có phép biện chứng duy vật; Tôn Dật tiên có chủ nghĩa tam dân. Bốn vị đó đều có chung mục đích là mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. vì điểm tương đồng đó, nếu cùng thời họ có thể trở thành những người bạn thân thiết...”

Người chỉ ra sự đồng thuận giữa mục tiêu của cách mạng với mục đích của những người sáng lập tôn giáo. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đức Giêsu hy sinh vì muốn loài người được tự do hạnh phúc, đồng bào ta cả lương và giáo cũng vì tự do và hạnh phúc cho toàn dân mà hy sinh phấn đấu.

Theo Hồ Chí Minh: thực dân phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và lương để dế thống trị... đồng bào cả nước giáo và lương đoàn kết chặt chẽ, nhất tâm nhất trí như con một nhà, cương quyết giữ vững nền tự do độc lập.

Có thể thấy Hồ Chí Minh là biểu tượng của sự tôn trọng đức tin của đồng bào có đạo. Một Chánh sứ người Pháp đã viết: “Trong mọi chước tác, mọi phát biểu và trong suốt cuộc đời của Hồ Chí Minh, tuyệt nhiên không thấy Hồ Chí Minh động chạm, phê phán đức tin của các tôn giáo”.

- Sự tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội

Định hướng học viên nghiên cứu làm rõ:

+ Trong chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn tồn tại nhưng đã có những chuyển biến quan trọng.

+ Trong thực tế đã có những nhận thức và hành động sai lầm với tôn giáo, coi tôn giáo là một hiện tượng xa lạ với chủ nghĩa xã hội.

+ Ngày nay phát huy mặt tích cực của đạo đức tôn giáo để góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

b) Cơ sở thực tiễn

- Từ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam

Câu hỏi: Bằng kiến thức thực tiễn, đồng chí cho biết âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam?

Kết luận:

+ Âm mưu: chia rẽ giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, giữa đồng bào theo tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo, đặc biệt giữa đồng bào các tôn giáo với Đảng và Nhà nước.

Phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động đồng bào tôn giáo chống lại chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.

Làm mất hiệu lực và tính hiệu quả trong hoạt động quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

+ Thủ đoạn: các thế lực thù địch dùng mọi thủ đoạn khác nhau để lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam.

Các thế lực thù địch từ bên ngoài tăng cường tài trợ vật chất và chỉ đạo bọn đội lốt tôn giáo, phần tử cực đoan bất mãn của các tổ chức tôn giáo trong nước, thực hiện “diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Ví dụ: Tìm mọi cách đưa vấn đề tôn giáo ở Việt Nam ra Liên Hiệp quốc; lợi dụng các tổ chức phi chính phủ (NGO), các hoạt động xã hội từ thiện của các tổ chức tôn giáo để nắm bắt tình hình tôn giáo ở Việt Nam; tiến hành hội thảo, nghiên cứu để thăm dò chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo; tạo dựng hành lang pháp lý để gây sức ép thông qua một số dự luật như: “Chống đàn áp tôn giáo”, “HR.2431 - Quyền tự do tôn giáo quốc tế”, “Tự do tôn giáo” tại Việt Nam...

Xuyên tạc chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo của Đảng và Nhà nước dưới các hình thức khác nhau. Đẩy mạnh tuyên truyền vu cáo Việt Nam không có tự do tôn giáo, vi phạm nhân quyền.

Lợi dụng chính sách đổi mới đất nước và chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo của Đảng, kích động một số tổ chức hoạt động trái với hiến pháp và pháp luật của nhà nước, từng bước tách khỏi sự quản lý của Nhà nước.

Lợi dụng tôn giáo để tiến hành các hoạt động chính trị, móc nối với bọn phản động trong nước đòi thành lập “Nhà nước Đề Ga tự trị ở Tây Nguyên”.

Tiến hành các hoạt động truyền đạo trái phép ở các địa phương khác nhau, các phần tử cực đoan trong các tôn giáo đẩy mạnh các hoạt động ngầm, móc nối với các tổ chức tôn giáo hợp sức chống phá cách mạng.

Ví dụ: Điển hình, nhóm “Giáo hội phật giáo Việt Nam thống nhất” do Thích Quảng Độ cầm đầu thường xuyên móc nối với nhân viên Tổng lãnh sự quán Mỹ tại Thành phố Hồ Chí Minh...

- Thực trạng công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước

+ Ưu điểm:

-> Công tác tôn giáo đã động viên được đồng bào tôn giáo chấp hành nghiêm chỉnh hiến pháp và pháp luật, sống tốt đời đẹp đạo.

-> Công tác tuyên truyền giải thích chính sách, pháp luật về tôn giáo được đẩy mạnh với nhiều hình thức đa dạng và phong phú hơn trước.

-> Công tác vận động quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành được tăng cường.

-> Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở vùng đồng bào tôn giáo được quan tâm hơn trước, việc thực hiện chính sách tôn giáo đã giúp các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng pháp luật.

Ví dụ: Nếu tính từ năm 2006 trở về trước, Việt Nam chỉ có 6 tôn giáo và 15 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân và cấp giấy chứng nhận hoạt động. Thì đến nay là 13 tôn giáo và 33 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp giấy chứng nhận hoạt động.

Vấn đề bảo đảm các phương tiện cho hoạt động tôn giáo như mạng Internet, tạp chí, sách, báo cũng công tác tôn giáo phối hợp với cơ quan chức năng thường xuyên quan tâm.

Ví dụ: Đảng, Nhà nước ta còn tạo điều kiện về đất đai để các tôn giáo xây dựng cơ sở đào tạo và thờ tự lớn như: Giáo sứ La Vang - Quảng Trị được cấp thêm 15 ha đất, Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội được cấp thêm 10 ha đất, Học viện Phật giáo Nam tông Khơmer tại Cần thơ được cấp 11,3 ha đất... hiện nay cả nước có gần 300 ngàn cơ sở thờ tự và 50 học viện, trường cao đẳng, trường trung cấp hoặc các cơ sở đào tạo của các tôn giáo và tổ chức tôn giáo.

-> Đấu tranh xử lý các vi phạm qui định pháp luật trong hoạt động tôn giáo được quan tâm hơn.

-> Đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại, vận động và đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo, dân tộc, nhân quyền để chống phá cách mạng Việt Nam.

+ Nhược điểm:

-> Một số người chưa tuân thủ pháp luật, tổ chức truyền đạo trái phép, lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để hành nghề mê tín, dị đoan.

Điều 3 Pháp lệnh tôn giáo qui định: “Mọi tổ chức truyền đạo, người truyền đạo, cách thức nội dung truyền đạo trái với các qui định trong Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Việt Nam XHCN đều bị coi là truyền đạo trái phép.”

-> Việc khiếu kiện và tranh chấp liên quan đến đất đai và cơ sở vật chất của tôn giáo ở một số nơi tăng lên, có nơi gay gắt, phức tạp.

Ví dụ: Vụ tranh chấp đất đai Nhà thờ lớn Hà Nội (42 Nhà Chung) và Giáo xứ Thái Hà (số 178 Nguyễn Lương Bằng).

-> Ở vùng dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để tiến hành những hoạt động chống đối, kích động tín đồ phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị.

Một số hoạt động tôn giáo bị coi là trái pháp luật:

Xâm phạm đến an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng, môi trường; Tác động xấu đến đoàn kết, đến truyên thồng văn hóa tốt đẹp của dân tộc; Xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác; Có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

2. Quan điểm chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam

VẤN ĐỀ ĐÀM THOẠI

1. Vì sao tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân?

2. Đồng chí hiểu thực chất công tác tôn giáo là gì?

3. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của tổ chức, cá nhân nào?

4. Pháp luật nước ta qui định việc tự do hành đạo như thế nào?

Kết luận:

Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng và nhà nước ta luôn xác định công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng và luôn có quan điểm, chính sách giải quyết hiệu quả như:

Năm 1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 24 về công tác tôn giáo; Hiến pháp năm 1992 quy định về Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo (2004). Đặc biệt Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (năm 2003) đã ban hành Nghị quyết số 25 về Công tác tôn giáo; Nghị quyết đã khẳng định: Công tác tôn giáo không chỉ là vấn đề chiến lược, mà còn rất nhạy cảm, hệ trọng và cấp bách, không thể trì hoãn. Đây là sự phát triển, nâng cao và hoàn chỉnh Nghị quyết số 24 (năm 1990), trở thành quan điểm chính thức về công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.

Nội dung cụ thể như sau:

- Một là, tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Một bộ phận quần chúng nhân dân đòi hỏi, mong muốn đến với tín ngưỡng tôn giáo. Trong đó:

Có bộ phận quần chúng nhân dân tin và theo tôn giáo (thế giới khoảng ½ dân số, Việt Nam khoảng 24 triệu người);

Có đối tượng bộ phận quần chúng nhân dân tin nhưng không theo tôn giáo;

Có đối tượng bộ phận quần chúng nhân dân theo tôn giáo nhưng không có niềm tin tôn giáo;

+ Tín ngưỡng tôn giáo sẽ tiếp tục tồn tại và đồng hành cùng quá trình xây dựng CNXH.

- Hai là, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.

+ Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo với nhau, tuyệt đối không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng tôn giáo khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân.

“Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”.

Nghiêm cấm việc đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh - quốc gia.

+ Đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương - giáo trên cơ sở vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

- Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là một bộ phận của công tác vận động quần chúng của Đảng.

Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung.

Đại đa số tín đồ, chức sắc là nhân dân lao động, công tác tôn giáo không phải là hạn chế hay xoá bỏ tôn giáo mà thực chất là tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng có đạo nhận rõ nghĩa vụ và quyền lợi của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Mục tiêu đó vừa là nghĩa vụ, quyền lợi của công dân vừa là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc.

Công tác vận động quần chúng có đạo phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc; thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo.

+ Công tác tôn giáo là một bộ phận của công tác vận động quần chúng của Đảng, do đó phải tuân thủ những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác vận động quần chúng của Đảng trong giáo dân; đồng thời thấy được sự tác động tích cực trở lại công tác vận động quần chúng của Đảng.

+ Những vấn đề có tính nguyên tắc đó là:

Phải xuất phát từ thực tiễn khách quan để xác định nội dung, biện pháp cho phù hợp.

Coi trọng công tác giáo dục thuyết phục là chính.

Khi giải quyết những vấn đề nảy sinh, phải giữ vững nguyên tắc, kiên trì, khéo léo, linh hoạt, mềm dẻo; lấy công tác hòa giải làm chính, coi trọng sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; tuyệt đối không để kẻ thù lợi dụng.

Nghĩa là tiến hành công tác vận đông quần chúng ở vùng đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo phải có lý, có tình; đảm bảo đúng pháp luật; được đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ; thống nhất giữa ba bộ phận (Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, các tổ chức quần chúng vận động) và ba biện pháp (Hành chính, kinh tế, giáo dục).

Đảng ta xác định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước; tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hoá tốt đẹp của các tôn giáo; động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

- Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.

+ Tiến hành công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo; trong đó cơ quan chuyên trách, giáo hội, chức sác tôn giáo đóng vai trò nòng cốt.

+ Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị phải coi công tác tôn giáo là một mặt hoạt động của mình.

Giải quyết vấn đề tôn giáo là vấn đề chiến lược liên quan đến mọi mặt đời sống chính trị - xã hội, an ninh - quốc phòng của đất nước. Cho nên công tác tôn giáo đòi hỏi phải có sự tham gia và thực hiện của toàn xã hội, trọng tâm là hệ thống chính trị. Khi giải quyết các vấn đề về tôn giáo phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, tuân theo luật pháp Nhà nước, là trách nhiệm của các ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế, xã hội; tổ chức và cán bộ trực tiếp làm công tác tôn giáo có vai trò quyết định sự thành công trong công tác quản lý Nhà nước đối với tôn giáo và đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.

- Năm là, mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Quan điểm đó của Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ tín đồ các tôn giáo có quyền tiến hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức, phục vụ lễ nghi tôn giáo tại cơ sở thờ tự nếu như các hoạt động đó không trái với chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Mặt khác, không được lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm trái pháp luật, không được hoạt động mê tín dị đoan.

Ví dụ:

Điều 1, Pháp lệnh tôn giáo năm 2004 qui định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào”.

Khoản 1 Điều 11 qui định: “Chức sắc, nhà tu hành được thực hiện nghi lễ tôn giáo trong phạm vi mình phụ trách, được giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở tôn giáo”.

Cơ sở thờ tự của các tổ chức tôn giáo: là sở hữu chung của cộng đồng tín đồ, việc dựng bia, dựng tượng, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự phải được phép của cấp có thẩm quyền và chỉ được tiến hành trong khuôn viên nơi thờ tự, bằng nguồn tài chính hợp pháp.

Định hướng phê phán:

Không thấy được nhu cầu chính đáng của một bộ phận nhân dân để có chủ trương giải pháp đáp ứng phù hợp;

Không thấy được những đóng góp của tôn giáo trong quá trình xây dựng CNXH;

Phân biệt đối xử trong thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân;

Không thấy được mối quan hệ tương tác trong vận động quần chúng và quần chúng có tín ngưỡng tôn giáo;

Không xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng...

3. Quân đội nhân dân Việt Nam với việc thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước

Thực hiện tốt quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng và người chỉ huy, của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội. Do đó, cần tập trung làm tốt những nội dung sau đây:

- Cùng với toàn Đảng, toàn dân, tuyên truyền quan điểm chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.

Trước hết, phải tăng cường giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, nâng cao trách nhiệm trong thực hiện chính sách tôn giáo.

- Thực hiện tốt chính sách tôn giáo trong phạm vi quân đội đối với những quân nhân có đạo.

- Thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước thông qua công tác dân vận ở vùng có đạo.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, nhất là vùng có đạo, tuyên truyền vận động nhân dân nắm và thực hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, động viên đồng bào thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.

Tôn trọng tín ngưỡng, phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa của các dân tộc, cảnh giác và làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ xấu và các thế lự thù địch.

Quán triệt phương châm công tác dân vận: tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc; phong cách công tác tôn giáo: trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân.

- Tích cực tham gia đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước để chống phá cách mạng.

KẾT LUẬN

Quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tập trung làm rõ: những căn cứ của việc hoạch định chính sách dân tộc và tôn giáo; quan điểm chính sách dân tộc và tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Nghiên cứu nắm vững nội dung cơ bản trên thấy được trách nhiệm của Quân đội nhân dân Việt Nam với việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, đấu tranh làm thất bại âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng ở nước ta.

CÂU HỎI ÔN TẬP, KIỂM TRA

1. Cơ sở hoạch định quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, ý nghĩa thực tiễn?

2. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, ý nghĩa thực tiễn?

3. Cơ sở hoạch định quan điểm chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, ý nghĩa thực tiễn?

4. Quan điểm chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, ý nghĩa thực tiễn?

5. Phổ biến chủ đề thảo luận.

PHỔ BIẾN CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN

1. Tên chủ đề: Quan điểm chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam

2. Tài liệu:

Dân tộc học (giáo trình đào tạo bậc đại học), Nxb QĐND, H.2002, tr.154-185.

Một số hiểu biết về tôn giáo, tôn giáo ở Việt Nam, Nxb QĐND, H.1993, tr.205-254.

3. Nội dung cần tập trung:

- Cơ sở hoạch định quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay

- Quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam

� Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 282.

� Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 128.

� Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 611.

� Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác dân tộc.

�. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.1994, tập.1, tr. 465.

�. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2011, tập 11, tr. 405.

� Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.81.

� Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.51.