Ảnh hƯỞng cỦa viỆc luyỆn tẬp thỂ dỤc thỂ thao ĐỐi vỚi sỰ phÁt triỂn...

61
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HỒ CHÍ MINH ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN TP.HỒ CHÍ MINH, NGÀY 26 THÁNG 10 NĂM 2011 Sinh viên làm bài: Nguyễn Thị Thu Thảo Lớp: K10402B MSSV: K104020304

Upload: allen-walker

Post on 28-Jul-2015

6.010 views

Category:

Documents


18 download

TRANSCRIPT

Page 1: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

đẠI HỌC QUỐC GIA TP.HỒ CHÍ MINH

ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT

ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

TP.HỒ CHÍ MINH, NGÀY 26 THÁNG 10 NĂM 2011

Sinh viên làm bài:

Nguyễn Thị Thu Thảo

Lớp: K10402B

MSSV: K104020304

Page 2: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỂ DỤC THỂ THAO:1. Lịch sử thể dục thể thao:

Thể dục thể thao ngay từ khi xuất hiện và phát triển trong xã hội loài người đến khi hình thành một hệ thống như ngày nay, đã trải qua hàng ngàn năm.Lịch sử phát triển của Thể dục thể thao luôn phù hợp với các thời kỳ phát triển của xã hội loài người.

Thời kỳ nguyên thủy: Cuộc sống tự nhiên đòi hỏi các thành viên những yêu cầu nhất định về sự chuẩn bị thể lực, sự khéo léo, sức mạnh, sức bền, khả năng hoàn thành nhiệm vụ trong săn bắn, chiến tranh và chống chọi với sự khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên. Chính vì vậy đã hình thành và phát triển hệ thống giáo dục thể chất đa dạng. Thời kỳ này càng chứng minh sự tồn tại và phát triển của con người phụ thuộc trực tiếp vào trình độ chuẩn bị và phát triển các tố chất thể lực. Nhiều Bộ tộc thời cổ đại đã biết sử dụng các bài tập phát triển thể lực và trò chơi vận động như một phương tiện đặc biệt nhăm chuẩn bị cho con người vào các lao động tự nhiên. Ở một số bộ tộc có quy định nghiêm ngặt không cho phép thanh niên được cưới vợ nếu chưa trải qua những thử thách nhất định về sự chuẩn bị thể lực....

Dù trình độ phát triển lực lượng sản xuất xã hội đến mức độ nào thì vai trò quyết định giá trị phát triển để có tư chất thể lực vẫn có trong đời sống xã hội và tự nhiên. Sự phát triển của chúng luôn là bộ phận quan trọng của nền giáo dục con người.

Trong xã hội nô lệ, điển hình là thời cổ Hy lạp, để tiến hành chiến tranh xâm lược và đàn áp nô lệ; giai cấp chủ nô đã rất chú trọng đến việc giáo dục cho các chiến binh có những kiến thức phong phú và có thể lực tốt; từ đó họ có những đội quân hùng mạnh.

Thời cổ hy lạp, nếu ai không biết đọc, viết và bơi lội thì bị coi là mù chữ. Giáo dục trong các quốc gia cổ Hy lạp: Spart và Afin là một loại hình cổ của sự phát triển Thể dục thể thao. Nội dung, mục đích của Giáo dục thể chất thời kỳ này nhằm đảm bảo tính phù hợp với điều kiện và yêu cầu của chế độ nông nô. Người học các môn khoa học tự nhiên, xã hội phải học Thể dục- Đấu kiếm- Cưỡi ngựa- Bơi lội và Chạy; từ 15 tuổi trở lên phải học cả Vật và Vật chiến đấu. Nhờ đó con người được giáo dục sức mạnh, sự khéo léo và các tố chất cần

2

Page 3: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

thiết. Tiêu biểu nhất về sự phát triển Thể dục thể thao của thời kỳ này là các Đại hội Olympic; đây là hoạt động có giá trị lịch sử, văn hóa cao trong đời sống của thời kỳ hy lạp.

Những người chiến thắng trong Olympic được xã hội tôn vinh như vị anh hùng, được xã hội ca ngợi- làm thơ- tạc tượng. Nhiều nhà khoa học vĩ đại thời cổ đại nổi tiếng thế giới cũng từng là những vận động viên xuất sắc. Ví dụ: Nhà toán học Pitagor là nhà vô địch Olympic về vật chiến đấu; Nhà triết học Platon cũng nổi danh về vật. Các nhà triết học: Socrate và Aristote, diễn giả Démosthène, nhà văn Lukian và các vĩ nhân khác đã đánh giá ý nghĩa lớn lao của Giáo dục thể chất và khâm phục sự biểu hiện sức mạnh, lòng dũng cảm và hào hiệp. Aristote đã từng khẳng định: “ Không có cái gì làm tiêu hao và phá hủy con người hơn là sự ngưng trệ vận động”. Trong chế độ nông nô, các bài tập thể dục khác nhau (Vật, nhào lộn, cưỡi ngựa, đấu kiếm) đã được sử dụng rộng dãi ở Ai cập, Babilon, Ba tư, Trung quốc, Ấn độ và đặc biệt ở thành cổ Rôma. Bắt đầu từ chế độ nông nô, Thể dục thể thao được coi là phương tiện phục vụ cho giai cấp thống trị.

Trong chế độ phong kiến, Giáo dục thể chất mang tính chất phục vụ chiến tranh. Giáo dục thể chất trong hệ thống quân đội của tầng lớp phong kiến với mục tiêu nắm vững 7 yêu cầu của người hiệp sỹ: cưỡi ngựa, đấu kiếm, bắn cung, bơi lội, săn bắn, chơi cờ và đọc thơ. Những hiệp sỹ đó làm nên đội quân hùng mạnh để giai cấp phong kiến tiến hành chiến tranh xâm lược và đàn áp phong trào nồi dậy của nông dân.

Trong xã hội tư bản, Thể dục thể thao phát triển ở trình độ cao. Sự xuất hiện và phát triển sâu rộng của Thể dục thể thao như là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa xã hội (Thể thao nghiệp dư và nhà nghề). Đồng thời trong giai đoạn này đã xuất hiện cơ sở về nền lý luận giáo dục thể chất tư sản. Thể dục thể thao trong xã hội tư bản biểu hiện rõ rệt tính chất giai cấp; Giai cấp tư sản sử dụng Thể dục thể thao với mục đích đặc quyền của tầng lớp bóc lột, đánh lạc hường quần chúng lao động và đặc biệt là lôi kéo tầng lớp thanh niên ra khỏi đời sồng chính trị xã hội và phong trào cách mạng; kích động và đào tạo thanh niên để chuẩn bị cho chiến tranh.

3

Page 4: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

2. Khái niệm chung về thể dục thể thao:

Con người trong quá trình tiến hoá, để sinh tồn trong sự đấu tranh với tự nhiên đã hình thành và phát triển những kỹ năng như chạy, nhảy, bơi leo trèo... Trải qua quá trình sống, con người đã nhận biết rằng sự thành thục các kỹ năng trên sẽ giúp ích nhiều trong việc tìm kiếm thức ăn, để có thể hình thành những kỹ năng đó chỉ có thông qua tập luyện thường xuyên, từ đó các bài tập thể chất ra đời. Có thể nói thể dục thể thao hình thành cùng với sự tiến hoá của loài người thông qua con đường lao động và đấu tranh sinh tồn với thiên nhiên.

Thế kỷ XIX, ở chân Âu đã xuất hiện một thuật ngữ “Thể dục” (Physical education - Giáo dục thể chất), hàm nghĩa của nó là một loại hình giáo dục nhằm duy trì và phát triển cơ thể. Cùng với sự tiến bộ không ngừng của tiến bộ loài người và thực tiễn thể dục thể thao ngày càng phong phú thì khái niệm thể dục thể thao với hàm nghĩa bên trong và bên ngoài của nó cũng không ngừng thay đổi.

Ngày nay hàm nghĩa thể dục với nghĩa rộng lớn là một quá trình giáo dục đồng thời cũng là một hoạt động văn hoá xã hội, lấy sự phát triển cơ thể, tăng cường thể chất, nâng cao sức khoẻ làm đặc trưng cơ bản. Nó là hiện tượng xã hội đặc thù bao hàm giáo dục thể chất, thể dục thể thao thành tích cao và rèn luyện thân thể. Thể dục thể thao là những hoạt động phục vụ cho một nền chính trị, xã hội, kinh tế nhất định, đồng thời cũng chịu sự ảnh hưởng và hạn chế của nền kinh tế, chính trị, xã hội đó.

Giáo dục Thể chất: Là quá trình sư phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm việc và kéo dài tuổi thọ của con người.

Hệ thống Giáo dục thể chất: là sự tổng hợp các cơ sở khoa học về quan điểm và phương pháp luận của Giáo dục thể chất cúng với các cơ quan tổ chức thực hiện và kiểm tra công tác Giáo dục thể chất quốc dân.

Văn hóa Thể chất: là một bộ phận của nền văn hóa chung, là một loại hình hoạt động đặc biệt nhăm hình thành các tố chất thể lực, tăng cường sức khỏe và khả năng làm việc của dân chúng. Các yếu tố cơ bản của hoạt động này

4

Page 5: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

là các bài tập thể lực có liên quan chặt chẽ với quá trình hình thành, phát triển của nền văn hóa, giáo dục chung của con người. Giáo dục Thể chất là bộ phận cấu trúc nên nền văn hóa thể chất.

Phong trào Thể thao: là một hình thức đặc biệt của các hoạt động xã hội, có nhiệm vụ phối hợp nâng cao trình độ văn hóa thể chất và phát triển thể thao trong nhân dân. Phong trào thể thao là hoạt động có tính mục đích của các tổ chức nhà nước, xã hội nhằm phát triển Thể dục thể thao. Phong trào thể thao là một bộ phận hoạt động văn hóa, giáo dục; nó có vị trí và chức năng quan trọng trong giáo dục sự hài hòa về nhân cách và thể chất con người.

Phát triển thể chất: là quá trình biến đổi và hình thành các tính chất tự nhiên về hình thái, chức năng cơ thể trong đời sống tự nhiên và xã hội. Phát triển thể chất của mỗi người phụ thuộc vào những đặc điểm sinh học, điều kiện sống và quá trình giáo dục của xã hội. Các chỉ số để đánh giá trình độ phát triền thể lực là: chiều cao- cân nặng- lồng ngực- dung tích sống.

Chuẩn bị thể lực: Là nội dung của quá trình giáo dục thể chất, đây là hoạt động chuyên môn hóa nhằm chuẩn bị cho con người học tập, lao động và bảo vệ tổ quốc.

Trình độ thể lực: Là kết quả của quá trình chuẩn bị thể lực, kỹ năng vận động cho một loại hình hoạt động nào đó.

Học vấn thể chất: Là sự xác định các tri thức chung, các hê thống kỹ năng- kỹ xảo đề điều khiển các hoạt động của cơ thể trong những điều kiện sống và hoạt động khác nhau của con người.

II. CƠ SỞ KHOA HỌC SINH HỌC TRONG VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO:

Việc rèn luyện thể dục thể thao đúng cách được xây dựng dựa trên những thành tựu của các khoa học Y sinh học về cơ thể con người như: Sinh lý, Sinh hóa, Sinh cơ, Giải phẫu, Vệ sinh, Y học.... Không có những kiến thức về cấu tạo của cơ thể, vè quy luật hoạt đọng của từng cơ quan của các hệ cơ quan chức

5

Page 6: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

năng của cơ thể cũng như đặc điểm của các quá trình sống phức tạp thỉ không thể tổ chức và tiến hành công tác giáo dục thể chất đạt hiệu quả.

1. Cơ thể con người là hệ sinh học thống nhất. Trao đổi chất và năng lượng:

1.1. Cơ thể con người là hệ sinh học thống nhất:

Y sinh học hiện đại khi nghiên cứu cơ thể sống thường tách nó ra thành các cơ quan, hệ cơ quan và các chức năng riêng biệt. Tuy nhiên, cơ thể con người luôn là một hệ sinh học hoàn chỉnh và thông nhất, có khả năng tự điều chỉnh và tự phát triển. Sự thông nhất đó thể hiện ở cả hai mặt: Giữa các cơ quan, hệ cơ quan hoặc các chức năng của cơ thể luôn có sự tác động qua lại với nhau; sự biến đổi của một cơ quan nhất thiết sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan khác và nói chung đến toàn bộ cơ thể. Hoạt động của cơ thể bao gồm sự phối hợp của hoạt động tâm lý, hoạt động dinh dưỡng và vận động trong mối liên hệ chặt chẽ với môi trường xung quanh và chịu sự tác động của môi trường. Sự thay đổi của môi trường bao gồm cả sự thay đổi của môi trường tự nhiên và xã hội sẽ dẫn đến những thay đổi trạng thái của cơ thể.

- Trao đổi chất và năng lượng:

Sự thống nhất của cơ thể với môi trường bên ngoài thể hiện ở sự trao đổi chất và năng lượng. Không một tế bào nào của cơ thể có thể tồn tại nếu không liên tục nhận được các chất dinh dưỡng, ô xy và đào thải các sản phẩm phân giải. Sự trao đổi chất và năng lượng liên tục của cơ thể được phân chia ra làm hai quá trình. Quá trình Đồng hóa là quá trình hấp thụ các chất dinh dưỡng và ô xy để tích lũy tiềm năng vật chất của cơ thể; Quá trình di hóa là quá trình liên tục phân giải các chất hóa học phức tạp đã hấp thụ được đào tạo thành năng lượng cho cơ thể sống và hoạt động.

Quá trình trao đổi chất của cơ thể được chia làm Ba giai đoạn:

- Giai đoạn 1: Đưa các chất dinh dưỡng và ôxy vào cơ thể

- Giai đoạn 2: Các cơ quan- tổ chức hấp thụ các chất dinh dưỡng và ô xy để tích lũy và giải phóng năng lượng

- Giai đoạn 3: Đào thải các sản phẩm phân giải

6

Page 7: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

Ô xy được đưa vào cơ thể bằng hệ hô hấp và hệ tim mạch; còn các chất dinh dưỡng (đường- đạm- mỡ- muối khoáng- vitamin) vào cơ thể cùng thức ăn.

Quá trình trao đổi chất xảy ra mạnh và liên tục trong suốt cuộc đời con người; Các tế bào luôn phân hủy và được sản sinh; trong 3 tháng cơ thể đã thay đổi gần ½ lường Prôtêin.

Ví dụ : sau 5 năm học, niêm mạc dạ dày của sinh viên đã thay đổi tới 500 lần. Sự trao đổi chất của cơ thể luôn xảy ra song song với sự trao đổi năng lượng; sự cân bằng giữa năng lượng hấp thụ và năng lượng tiêu hao là chỉ số quan trọng để đánh giá sự trao đổi năng lượng. Cân bằng dưỡng khi hấp thụ lớn hơn tiêu hao, lúc này cơ thể éo lên, ưa vận động, nếu để cân bằng dương kéo dài sẽ bị bệnh béo phì, sức khỏe giảm sút; cân bằng amaam sẽ làm sút cân, người mệt mỏi, giảm khả năng vận động; nếu để kéo dài sẽ dẫn đến bệnh suy dinh dưỡng.

Quá trình tạo năng lượng cho cơ thể hoạt động được diễn ra theo 2 cách:

- Đốt chấy đường & mỡ: Khi cơ thể được cung cấp đủ Ôxy thì quá trình tạo ra nguồn năng lượng lớn; máu đảm nhiệm việc vận chuyển chất dinh dưỡng và các sản phẩm phân giải; cơ chế đốt cháy là nguồn năng lường chiếm ưu thế lúc yên tĩnh khi vận động nhẹ, thời gian dài.

- Phân hủy các chất giàu năng lượng (khi cơ thể hoạt động trong điều kiện nguồn cung cấp Ôxy không đáp ứng đủ) : Cơ chế này tạo ra năng lượng nhanh, không cần phải có Ôxy song lại tạo ra Axit lactic là chất tích tụ trong cơ làm ảnh hưởng đến hoạt động của cơ (gây chuột rút).

Đường (Gluxit) là chất cung cấp năng lượng chính của cơ thể (1g đường cung cấp 4,1Kcal). Đường được sử dụng mạnh ở não và cơ. Cơ thể luôn được bão hòa đường dưới dạng Glucoza chứa trong tất cả các mô của cơ thể; nguồn cung cấp đường chủ yếu là các thức ăn có nguồn gốc thực vật. Trong máu, hàm lượng đường glucoger luôn ổn định ở khoảng 80 – 120 mg %. Ngoài ra cơ thể còn dự trữ đường dưới dạng Glucogen ở gan và cơ. Hàm lượng Glucogen dự trữ này khoảng300g. Ở những vận động viên trình độ cao lượng Glucogen này lên tới 500g. Trong các hoạt động thể lực và trí óc căng thẳng, lượng Glucoza tăng lên theo phản xạ giúp cho cơ thể hoạt động tốt hơn và thích nghi nhanh hơn với hoạt động. Khi hoạt động căng thẳng- kéo dài thì hàm lượng đường trong máu giảm xuống. Với người bình thường nếu lượng đường

7

Page 8: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

giảm xuống tới 70 mg % thì hoạt động của não sẽ bị rối loạn và nếu xuống tới 60 mg % thì não không hoạt động được nữa; nhưng với các VĐV có trình độ cao thì vẫn tiếp tục thi đấu được thậm chí cả khi hàm lượng đường trong máu xuống tới 40 mg %. Điều đó cho thấy rằng tập luyện thường xuyên, đúng phương pháp đã nâng cao khả năng chịu đựng của cơ thể.

Mỡ (lipit) là chất dinh dưỡng cung cấp năng lượng rất cao (1g mỡ khi phân giải cung cấp 9,3 Kcal); mỡ có nhiều trong cả thức ăn động vật và thực vật. Trong cơ thể, mỡ còn có chức năng bảo vệ cơ thể khỏi bị mất nhiệt, bảo vệ các cơ quan nội tạng khi có va chạm cơ học. Mỡ còn tham gia cấu tạo màng tế bào. Khi cung cấp năng lượng mỡ được sử dụng dưới dạng các Axit béo, và chủ yếu cho cơ trơn; con cơ vân chỉ sử dụng mở để tạo năng lượng trong các hoạt động nặng – kéo dài và khi lượng dự trữ đường đã cạn; 80 % năng lượng của cơ thể được cung cấp bằng cách phân giải mỡ. Vì vậy việc tập luyện TDTT có tác dụng kích thích việc sử dụng mỡ, chống được bệnH béo phì.

Đạm (Prôtêin) là chất cấu tạo cơ bản của cơ thể. Song nếu bị đói kéo dài, đường và mỡ dự trữ đã cạn thì đạm cũng có thể sử dụng để cung cấp năng lượng (1g đạm khi phân giải cung cho 4,1 Kcal); Đạm không được dự trữ trong cơ thể, vì vậy khi bị đói- đạm của cơ quan này sẽ được sử dụng để duy trì sự sống của cơ quan khác quan trọng hơn.

Muối khoáng, vi tamin, nước: là những chất không sinh năng lượng. Nước và muối khoáng chủ yếu để duy trì áp suất thể dịch của cơ thể và ổn định môi trường bên trong cơ thể. Vitamin có tác dụng xúc tác các quá trình chuyển hóa các chất và nâng cao khả năng hoạt động của cơ thể, đặc biệt là các hoạt động thể lực.

1.2. Cơ thể con người là bộ máy vận động:

Vận động; à điều kiện để cơ thể tồn tại và phát triển. Cơ thể con người được cấu tạo và hoạt động giống như một bộ máy vận động. Bộ máy vận động của cơ thể gồm có xương- cơ- dây chằng (là những bộ phận trực tiếp đảm nhiệm chức năng vận động); các hệ cơ quan (hô hấp- tuần hoàn& máu) đảm bảo cung cấp Ôxy và vận chuyển các chất dinh dưỡng cho cơ tồn tại, phát triển và cung cấp năng lượng cho cơ quan vận động hoạt động. Tất cả các hoạt động đều chịu sự điều khiển của hệ thần kinh trung ương.

8

Page 9: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

1.2.1 Bộ máy vận động: (Gồm xương, cơ, dây chằng & thần kinh điều khiển hoạt động của cơ) trong đó xương, cơ, dây chằng là bộ phận trực tiếp thực hiện các động tác.

- Bộ xương: (Gồm hơn 200 chiếc) Là giá đỡ thân thể và bảo vệ các cơ quan nội tạng. Các xương liên kết với nhau tạo nên các khớp xương; trong khớp có sụn và dịch nhầy; xung quanh khớp có dây chằng giữ cho khớp ổn định – vững chắc. Mỗi khớp chỉ có khả năng hoạt động theo một hướng và mức độ nhất định nhưng nếu được tập luyện thì mức độ linh hoạt của khớp sẽ tăng lên đáng kể song cấu trúc giải phẫu mới là yếu tố quyết định đến việc lựa chọn động tác trong tập luyện.

- Cơ bắp: (có 3 loại là cơ trơn, cơ vân, cơ tim). Cơ trơn cấu tạo ở mạch máu, các cơ quan nội tạng và ở da; cơ tim cấu tạo ở tim hai loại cơ này hoạt động không theo ý muốn, chúng hoạt động rất bên bỉ. Cơ vân có đặc điểm là co nhanh nhưng chóng mệt mỏi và hoạt động theo ý muốn.

- Thần kinh cơ: Để cơ có thể hoạt động thì phải có các xung thần kinh đi đến cơ theo các sợi thần kinh. Các sợi TK đi đến cơ là các sợi nhành của tế bào thần kinh vận động; thân của té bào nằm ở tủy sống hoặc não; một tế bào TK có thể có rất nhiều nhánh đi đến nhiều sợi cơ. Tế bào TK và những sợi cơ mà nó điều khiển tạo thành một đơn vị vận động. Đơn vị vận động có thể rất nhỏ, chỉ chứa vài sợi cơ, nhưng cúng có thể rất lớn, chứa đến 2000 sợi cơ.

Sơ đồ cấu tạo đơn vị vận động

9

Page 10: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

1.2.2 Máu và tuần hoàn máu:

a . Máu : là chất lỏng màu đỏ, lưu thông trong hệ thống tuần hoàn khép kín. Máu là một mô liên kết đặc biệt gồm chất lỏng đặc biệt (huyết tương) và các tể bào máu (huyết cầu). Có ba loại huyết cầu: Hồng cầu- bạch cầu và tiểu cầu.

- Hồng cầu: Là những tế bào không nhân hình đĩa lõm ở giữa, cấu tạo từ một chất đạm đặc biệt gọi là huyết cầu tố (hemoglobin). Huyết cầu tố có khả năng kết hợp với Ôxy thành một hợp chất và nhờ đó Ôxy được vận chuyển tới các tổ chức cơ quan và khí cacbonic lại được chuyển từ các tổ chức cơ quan ra phổi,

- Bạch cầu: Chủ yếu thực hiện chức năng bảo vệ; chúng tiêu diệt các chất lạ xâm nhập vào cơ thể.

- Tiểu cầu: nhỏ hơn hồng cầu và có vai trò qua trọng trong việc làm đông máu.

Các tế bào máu năm trong huyết tương, trong huyết tương còn có các chất dinh dưỡng, muối khoáng, các sản phẩm phân giải của quá trình trao đổi chất, các nội tiết tố, các loại vi khuẩn và các kháng thể đối với các chất độc hại...

- Máu được tuần hoàn trong hệ mạch máu để đảm nhiệm các chức năng rất quan trọng:

+ Chức năng dinh dưỡng: cung cấp các chất dinh dưỡng đến các mô cho hoạt động sống của các tế bào

+ Chức năng điều khiển: các nội tiết tố và các chất khác có trong máu có tác dụng điều hòa hoạt động của các cơ quan - tổ chức.

+ Chức năng bảo vệ: Nhở quả trình thực bào và quá trình miễn dịch của bạch cầu.

+ Chức năng điều nhiệt: Màu làm nhiệm vụ vận chuyển nhiệt, làm cho cơ thể không bị quá nóng và sưởi ấm cho các bộ phận bị lạnh.

10

Page 11: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

b. Hệ tuần hoàn : (Gồm có Tim và hệ thống các mạch máu) Máu được di chuyển trong hệ tuần hoàn nhờ lực bóp của tim và sự nhu động của thành mạch máu; máu được đảy từ tim vào các động mạch, sau đó chia nhánh nhiều lần, cuối cùng ở các cơ quan và tổ chức là mao mạch (các mạch máu rất nhỏ có cấu tạo các màng bán thấm).

Tim là bộ phận quan trọng nhất của hệ tuần hoàn; cấu tạo như một cái bơm để đảy máu đi và hút máu về; nhờ tim mà máu tuần hoàn trong cơ thể. Tim hoạt động tự động song cũng chịu sự tác động gián tiếp của các cơ quan tổ chức khác đặc biệt là hệ thần kinh. Tim được chia làm 4 ngăn, hai buồng phía dưới là tâm thất phải và trái, hai buồng phía trên là tâm nhĩ phải và trái.

Sự tuần hoàn diễn ra theo hai vòng:

Vòng lớn bắt đầu từ Tâm thất trái theo động mạch mang các chất dinh dưỡng và Ôxy tới các tổ chức cơ quan sau đó theo tĩnh mạch trở về tâm nhĩ phải.

Vòng tuần hoàn nhỏ từ Tâm nhĩ phải đổ xuống tâm thất phải rồi từ đó theo theo động mạch đem khí cácbonic lên phổi đổi lấy Ôxy và trơ về tâm nhĩ trái; từ tâm nhĩ trái màu lại đổ xuống tâm thất trái để chuẩn bị một vóng tuần hoàn mới.

Sơ đồ vòng tuần hoàn

11

Page 12: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

1. Động mạch chủ 2. Động mạch gan 3. Động mạch ruột 4. Lưới mao mạch 5. Tĩnh mạch cửa 6. Tĩnh mạch gan 7. Tĩnh mạch chủ dưới 8. Tĩnh mạch chủ trên 9. Tâm nhĩ phải 10. Tâm thất phải 11. Động mạch phổi 12. Lưới mao mạch 13. Tĩnh mạch phổi 14. Tâm nhĩ trái 15. Tâm thất phải

Các chỉ số sinh lý đặc trưng của hệ tim mạch là: huyết áp- mạch đập- thể tích tâm thu- thể tích phút.

- Mạch (tần số co bóp của tim) : người bình thường khoảng 60- 80 lần/ phút; người tập luyện thường xuyên có thể xuống 50 lần/ phút thậm chí các VĐV bơi, chạy dài mạch xuống dưới 50 lần / phút (khi yên tĩnh)

- Huyết áp là áp lực của máu lên thành mạch. Khi tim co bóp, áp suất lên đến 120mmHg và được gọi là h/a tối đa hay h/a tâm thu; khi tim giãn ra, áp lực ở động mạch khoảng 70-80mmHg gọi là h/a tối thiểu hay là h/s tâm trương.

Khi tập luyện TDTT thì mạng lưới mạch máu dày đặc hơn, độ đàn hồi của thành mạch lớn hơn nên sự tuần hoàn của máu tốt hơn.

- Thể tích tâm thu:là lượng màu tâm thất trái đẩy ra trong mỗi lần co bóp.

- Thể tích phút l: là lượng máu tâm thất trái đảy đi trong một phút. Khoảng 5 – 6 lit khi yên tĩnh và khi vận động thì cả thể tích tâm thu và mạch đập đều tăng lên theo cường độ vận động; ở VĐV thể tích tâm thu khi vận động có thể từ 30- 40 lít

c . Hệ hô hấp :

Hô hấp là tổ hợp các quá trình sinh lý đảm bảo việc cung cấp Ôxy cho cơ thể và đào thải khí Cacbonic do bộ máy hô hấp và hệ tuần hoàn đảm nhiệm.

Bộ máy hô hấp gồm có : Mũi, Phế quản và quan trọng nhất là Phổi; phổi được cấu tạo từ các phế nang, (diện tích trải ra của phế nang khoảng 100 m2); thành các phế nang mỏng, phía ngoài là mạng lưới các mao mạch dày đặc nên sự trao đổi khí giữa phổi và máu rất thuận lợi.

Quá trình hô hấp được chia thành hô hấp ngoài và hô hấp trong. Hô hấp ngoài là quá trình trao đổi khí giữa không khí ở phế nang và máu- sự vận chuyển các chất khí trong máu (ở phế nang ÔXY thấm qua thành phế nang vào máu, Cacbonic thấm từ máu thải ra không khí ở phế nang). Hô hấp trong còn gọi là hô hấp tế bào xảy ra giữa máu và tổ chức cơ quan của cơ thể; ôxy sẽ đi từ

12

Page 13: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

máu qua dịch kẽ rồi váo tế bào còn khí Cacbonic thì ngược lại. Quá trình hô hấp thường được đánh giá bằng các chỉ số sinh lý: Tần số hô hấp- Thể tích hô hấp- Thông khí phổi- Dung tích sống- nhu cấu Ôxy- Hấp thụ Ôxy.

Tần số hô hấp: là số lần thở trong một phút; bình thường khoảng 16-20 lần/phút; khi vận động có thể tăng lên đến 30- 40 lần/phút.

Thể tích hô hấp: Là lượng không khí đi qua phổi trong một lần thở; bình thường khoảng 250- 700 ml; khi hoạt động nặng có thể lên tới 2- 2.5 lít.

Thông khí phổi: là lượng không khí đi qua phổi trong một phút (= Thể tích hô hấp X tần số hô hấp)

Dung tích sống: Là lượng không khí tối đa mà người ta có thể thở ra sau khi hít vào hết sức; dung tích sống phụ thuộc vào tuổi- giới tính- tình trạng sức khỏe- trình độ tập luyện và nhiều yếu tố khác...; Bình thường khoảng 2.5- 3.5 lít còn VĐV có trình độ cao có thể tới 6- 7 lít.

Nhu cầu Ôxy: Là lượng Ôxy mà cơ thể cần trong một phút để đảm bảo sự trao đổi chất; nó tương ứng với mức năng lượng tiêu hao của cơ thể.

Hấp thụ Ôxy là lượng Ôxy thực tế cơ thể đã sử dụng trong một phút; Vo2 max là khả năng hấp thụ Ôxy tối đa; ở người bình thường khoảng 2- 3.5 lít, ở các VĐV các môn thể thao sức bền có thể lên tới 6 lít.

d. Điều hòa sự hoạt động của cơ thể : Mọi sự hoạt động của cơ thể đều chịu sự điều khiển của hệ thần kinh trung ương và cơ chế điều hòa thể dịch.

- Hệ thần kinh trung ương điều khiển sự hoạt động của các cơ quan bằng các xung động thần kinh và việc tiếp nhận các tín hiệu từ bên ngoài và bên trong cơ thể; hệ thần kinh hoạt động theo cơ chế phản xạ; mỗi một phản xạ của cơ thể xảy ra theo một đường lan truyền hưng phấn cố định (cung phản xạ)

- Cơ chế điều hòa thể dịch điều hòa hoạt động của các cơ quan thông qua các chất chứa trong máu. Các chất hóa học đó có thể là nội tiết tố do các tuyến dịch tiết ra- các chất khí- các sản phẩm trao đổi chất…

13

Page 14: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

2. Cơ sở sinh lý của năng lực vận động:

Khái niệm năng lực vận động được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học, đặc biệt là văn hóa thể chất. Năng lực vận động hay khả năng hoạt động thể lực là khả năng thực hiện một cơ bắp nhất định nào đó với thành tích cao. Về bản chất đó chính là quá trình tạo ra sự thích nghi của cơ thể con người với các hoạt động cơ bắp nhờ hoàn thiện sự điều khiển và phối hợp giữa các hệ chức năng trên cơ sở biến đổi sâu sắc về cấu trúc, chức phận sinh lí và sinh hóa bên trong của cơ thể.

2.1 Kỹ năng vận động:

Là một hình thức hành động được hình thành theo cơ chế phản xạ có điều kiện nhờ quá trình tập luyện thường xuyên; hay nói cách khác kỹ năng vận động là các động tác được thực hiện một cách tự động hóa do đã trở thành thói quen như : đi, đứng, ngồi, chạy, nhảy là các kỹ năng vận động cơ bản của mọi người. Tất cả các kỹ thuật Thể thao đều là những kỹ năng vận động.

Kỹ năng vận động được hình thành dần dần theo ba giai đoạn: Lan toả; Tập trung; Tự động hóa.

- Giai đoạn lan toả: hưng phấn lan rộng trên vỏ đại não vì chưa hình thành được một tổ hợp các phản xạ tối ưu; nhiều nhóm cơ không cần thiết cũng tham gia vào vận động, động tác vì thế không chính xác, thiếu kinh tế, nhiều cử động thừa. (ví dụ về người tập đi xe đạp)

- Sau một thời gian tập luyện, động tác được hoàn thiện dần tức là giai đoạn lan toả đã chuyển dần sang giai đoạn tập trung; ở giai đoạn này, hưng phấn được tập trung ở những vùng nhất định trên vở não cần thiết cho vận động, các động tác thừa mất đi, cơ co duỗi hợp lý, động tác trở nên nhịp nhàng chính xác và thoải mái; kỹ năng vận động đã được hình thành tương đối ổn định nhưng khi thực hiện động tác người tập vẫn cần có sự tập trung nhất định nếu không rất có thể động tác sẽ lại bị phá vỡ.

- Khi kỹ năng được thực hiện lặp lại nhiều, được củng cố đến mức khi thực hiện bài tập, củ động của người tập hầu như tự động không cần có sự chú ý của ý thức. Kỹ năng vận động ở giai đoạn này rất ổn định, sự tự động hóa kỹ năng vận động cho phép có thể thực hiện chính xấc nhiều động tác khác nhau cùng một lúc (vừa đi xe đạp vừa nói chuyện.....). Đỉnh cao của các kỹ năng vận động là các kỹ xảo; ở một số động tác nhất định động tác kỹ thuật phát triển tới

14

Page 15: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

mức ngoại suy, người ta có thể thực hiện động tác trong các tình huống rất phức tạp mà vẫn đạt kết quả tốt: đi xe đạp bắt chéo tay, bỏ hai tay, nhấc bánh trước....

2.2. Các tố chất vận động (Sức nhanh- sức mạnh- sức bền- khéo léo)

- Sức nhanh: Là khả năng thực hiện động tác với thời gian ngắn nhất; sức nhanh có thể được biểu hiện bằng hình thức đơn giản (1 là thời gian tiềm tàng của phản ứng, đó là khoảng thời gian từ khi kích thích cho tới khi có phản ứng trả lời; 2 là thời gian của động tác đơn lẻ; 3 là tần số động tác) hoặc hình thức phức tạp là kết quả của các thử nghiệm vận động và bài tập thể thao như chạy ngắn, tần số đánh bóng, tốc độ đập bóng....Để thực hiện các hình thức sức nhanh thì các quá trình hưng phấn và các quá trình sinh hóa trong thần kinh và cơ phai xảy ra thật nhanh, các trung tâm thần kinh phải có tính linh hoạt cao; trong hoạt động thể thao thì sức mạnh và tốc độ có liên quan mật thiết với nhau; sự phát triển sức mạnh ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ. Trong quá trình tập luyện thì sức nhanh phát triện chậm và khó khăn hơn nhiều so với sức mạnh và sức bền; sức nhanh phát triển tốt nhất là ở độ tuổi thanh thiếu niên.

- Sức mạnh: Là khả năng khắc phục lực cản bên ngoài của cơ bắp; Sức mạnh cơ bắp phụ thuộc vào đặc tính của các quá trình thần kinh điều khiển sự co cơ và số lượng các đơn vị vận động chứa trong cơ. Để có thể thực hiện sức mạnh tối đa, cơ phải được huy động với số lượng tối đa đồng thời sự hưng phấn cũng phải rất tập trung để tránh các nhóm cơ đối kháng cùng tham gia vào một cử động. Sự cung cấp dinh dưỡng cho cơ cũng có vai trò hết sức quan trọng để cơ phát húy sức mạnh. Cơ sở sinh lý cơ bản để phát huy sức mạnh là cần phải có số lượng lớn cơ tham gia co cùng một lúc đồng thời các cơ đối kháng thì lại thả lỏng (tăng cường sự phối hợp giữa các nhóm cơ, muốn làm được điều đó phải có quá trình tập luyện). Ngoài ra luyện tập còn làm sợi cơ phát triển (tăng tiết diện ngang do tích lũy dĩnh dưỡng chuẩn bị cho việc chuyển hóa thành năng lượng).

- Sức bền: Là khả năng thực hiện hoạt động trong một thời gian dài; đó là sự thể hiện khả năng chống đỡ của cơ thể đối với những biến đổi bên trong xảy ra khi hoạt động cơ bắp kéo dài. Sự phát triển của sức bền phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện của sự phối hợp chức năng vận động và chức năng dinh dưỡng; vào sự bền vững chức năng của các cơ quan nội tạng, đặc biệt là cơ quan hô hấp và tim mạch; sự phát triển sức bền phụ thuộc vào mức độ phát triển chức năng

15

Page 16: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

của hệ tuần hoàn và hệ hô hấp; khả năng dự trữ năng lượng của cơ thể... Trong các hoạt động thể thao, có các loại: Sức bền, Sức bền chuyên môn, Sức bền tốc độ, Sức bền mạnh.

- Khéo léo: Là khả năng thực hiện các động tác phức tạp về phối hợp vận động trong điều kiện môi trường thay đổi. Cơ sở sinh lý của tố chất này là các phản xạ phối hợp phức tạp, trạng thái của hệ thần kinh trung ương, tốc độ xử lý thông tin và các chương trình hành động; ngoài ra tố chất khéo léo còn phụ thuộc vào mức độ phát triển của các tố chất khác.

Sự tập luyện thể dục thể thao có hệ thống sẽ phát triển các tố chất vận động, cơ chế phát triển của các tố chất có nhiều điểm tương đồng vì vậy khí tập để hoàn thiện một tố chất thì các tố chất khác ở một mức độ nào đó cũng sẽ biến đổi. Tuy nhiên sẽ có một số bài tập phát triển tố chất này sẽ ảnh hưởng xấu tới tố chất khác (bài tập tạ để phát triển sức mạnh tuyệt đối sẽ ảnh hưởng tới sức bền trong chày cự ly dài....); khi ngừng tập thì các tố chất cũng sẽ ngừng phát triển và dần thoái hóa trở về trạng thái ban đầu, sức nhanh là tố chất giảm nhanh nhất, sau đó đến sức mạnh, sức bền; trong một ngày các tố chất vận động ở mức thấp nhất lúc mới ngủ dậy và trước khi đi ngủ.

2.3 Chức năng vận động và sự thích nghi của cơ thể với môi trường:

Sự thích nghi của cơ thể có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc sống của con người; sự vận động trong quá trình GDTC là nhăm làm cho cơ thể thích nghi với các hoạt động cơ bắp, tăng cường sự phối hợp hoạt động của tất cả các bộ phận chức năng của cơ thể; tất cả các biến đổi thích nghi trong quá trình tập luyện TDTT đã tác động mạnh mẽ tới quá trình thích nghi của cơ thể với những biến đổi của môi trường xung quanh.

III. ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI HỆ CƠ QUAN:

1. Sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục thể thao đối với hệ vận động.

16

Page 17: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

Các hoạt động thông thường của con người đều là dựa vào hệ vận động. Thường xuyên tập luyện thể dục thể có thể tăng cường được các chất của xương, tăng cường sức mạnh cơ bắp, tăng cường tính ổn định và biên độ hoạt động của các khớp, từ đó mà năng lực hoạt động của cơ thể đã được nâng lên, xương và khớp được cấu tạo thành. Xương trong cơ thể là một kết cấu kiên cố, nó bao gồm hơn 200 chiếc xương, những chiếc xương đó đã cấu tạo thành một chiếc khung giá có tác dụng bảo vệ cho các cơ quan bộ phận bên trong của cơ thể như não, tim, phổi…Xương còn có một chức năng khác nữa đó là tạo máu cho cơ thể. Do vậy, sự sinh trưởng và trưởng thành của xương không chỉ có tác dụng quan trọng đối với hình thái cơ thể mà còn có sự ảnh hưởng quan trọng đối với năng lực vận động và lao động của con người.

Rèn luyện thân thể có thể cải biến kết cấu của xương, thường xuyên tập luyện thể dục thể thao có thể tăng cường các chất trong xương. Tập luyện thể dục thể thao làm cho cơ bắp có tác dụng lôi kéo và áp lực đối với xương làm cho xương không chỉ biến hoá về phương diện hình thức mà còn làm cho tính cơ giới của xương được nâng lên. Sự biến đổi thể hiện rõ rệt nhất trên phương diện hình thái của xương đó là: Cơ bắp bám ngoài xương tăng lên nhiều, chất liên kết ở các lớp ngoài của xương cũng từ đó được tăng lên, sự sắp xếp của các chất mềm (xốp) bên lớp trong của xương cũng căn cứ vào áp lực và lực kéo của cơ mà thích nghi. Đây chính là sự tăng lên về sự kiên cố của xương, từ đó có thể chịu đựng được phụ tải lớn, nâng cao năng lực chống chịu áp lực, trọng lượng lớn, sự kéo dài và xoay chuyển…của xương.

Ví dụ: Vận động viên thể dục thực hiện động tác kéo tay xà đơn. Khi thực hiện động tác này, hai tay của vận động viên luôn phải chịu trọng lực của cơ thể và lực kéo tay của cơ bắp. Nếu thường xuyên tập luyện động tác này sẽ làm cho xương của hai tay có sự thích nghi với việc chịu đựng 2 lực kể trên và từ đó năng lực chịu tải của xương 2 tay đã được nâng lên. Cũng như thế, đối với các động viên cầu lông, bắn súng thì tay thuận sẽ to và khoẻ hơn, các vận động viên nhảy cao, nhảy xa, xương ở chân sẽ khoẻ hơn ở người thường…

Điều này đã nói rõ một vấn đề: Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao thì sự phát triển của xương được nâng lên rõ rệt.

Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao sẽ đẩy mạnh sự phát triển chiều cao của các em thiếu niên nhi đồng. Chiều cao hoặc tốc độ trưởng thành được quyết

17

Page 18: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

định bởi tốc độ tăng trưởng của thời kỳ dài xương của các em thiếu niên nhi đồng. Đối với sự phát triển của xương thì đầu mút xương là hết sức quan trọng. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao sẽ tăng nhanh tốc độ tuần hoàn máu, từ đó mà tăng được lượng vật chất dinh dưỡng mà sự phát triển mà đầu mút xương đòi hỏi. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao còn có thể ảnh hưởng đến hệ thống nội phân tiết là kích thích sự sinh trưởng của đầu mút xương, do vậy mà thúc đẩy sự chuyển hoá vitamin D, tăng cường sự cung cấp các nguyên liệu tạo ra xương, điều này có lợi cho phát triển và trưởng thành của xương.

Căn cứ vào điều tra, khi so sánh những người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao và những người không thường xuyên tập luyện cho thấy chiều cao chênh lệch từ 4- 8 cm.. Trước khi cơ thể trưởng thành, thông qua tập luyện thể dục thể thao có thể cải thiện sự cung cấp máu của xương, tăng cường sự trao đổi chất, kích thích sự phát triển của xương, làm cho sự cốt hóa được diễn ra liên tục. Đồng thời rèn luyện thân thể với các loại động tác cũng có tác dụng kích thích rất tốt đối với sự phát triển của xương, có thể thúc đẩy phân tiết kích thích tố cũng có tác dụng thúc đẩy việc phát triển chiều cao của các em học sinh lứa tuổi 10-14 giữa trường TDTT chuyên nghiệp và trường không chuyên (xem bảng 1).

Bảng 1: Bảng so sánh chiều cao nam, nữ học sinh trường chuyên và không chuyên TDTT

Tuổi

Chiều cao

Nam Nữ

Trường chuyên TDTT

Trường không chuyên

Trường chuyên TDTT

Trường không chuyên

10 138.57 135.46 140.39 134.26

11 144.6 140.58 149.57 140.8

12 148.2 145.6 155.53 147.33

13 158.13 152.38 158.0 151.64

14 162.9 153.4 158.0 151.64

Nơi các xương trong cơ thể kết nối với nhau và cũng dựa vào đó để hoạt động gọi là khớp, bao gồm có dây chằng và cơ. Dây chằng có tác dụng gia tăng sự kiên cố cho khớp, còn cơ thì không những có thể gia tăng sự kiên cố cho khớp mà còn

18

Page 19: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

có tác dụng lôi kéo làm cho khớp vận động. Khớp là đầu mối quan trọng cho sự liên kết các xương với nhau. Tập luyện thể dục thể thao một cách khoa học, hệ thống vừa có tác dụng làm tăng tính ổn định của khớp, vừa có thể tăng cường sự linh hoạt và biên độ của khớp. Tập luyện thể dục thể thao có thể gia tăng mật độ và độ dày của mặt khớp, đồng thời cùng làm phát triển các cơ bao quanh khớp, tăng cường sức mạnh cho ổ khớp và dây chằng bao quanh khớp. Do vậy, có thể làm tăng thêm tính ổn định và kiên cố của khớp, tăng cường cho khớp lực chống đỡ lại các phụ tải tác động lên khớp.

Ví dụ:Trong khi biểu diễn xiếc, có một diễn viên cao lớn ở phía dưới còn một số diễn viên khác thì đứng lên trên anh ta để thực hiện một số tiết mục, như vậy các khớp của vị diễn viên cao lớn này đã phải gánh chịu một áp lực lớn tương đương với tổng trọng lượng của số diễn viên kia.

Khi tăng cường tính ổn định và kiên cố của khớp, do vì ổ khớp, dây chằng và cơ bao quanh khớp được tăng cường về tính đàn hồi và tính co duỗi thì biên độ và tính linh hoạt của khớp cũng không ngừng được tăng cường. Trong biểu diễn môn thể dục tự do, các khớp của VĐV đã hoạt động với biên độ rất lớn ví như làm động tác uốn cầu vồng hay xoạc ngang, nếu như không thường xuyên tập luyện sẽ không thể thực hiện được.

Bất kể vận động nào của con người đều biểu hiện bởi hoạt động của cơ bắp, do vậy sự phát triển của cơ bắp là hết sức quan trọng đối với việc nâng cao năng lực lao động và vận động.

Trong hoạt động vận động của con người, sức mạnh đặc trưng bởi mức

độ căng được triển khai bởi các cơ. Nhờ sự điều hòa thần kinh mà cùng

một nhóm cơ, nhưng lại có thể triển khai một lực căng thay đổi từ vài gam

đến hàng chục kylôgam. Sự sử dụng sức mạnh có thể rất chính xác, nhất

là trong những động tác phối hợp đòi hỏi độ chuẩn xác cao như ném rổ,

đánh bóng...

•Những yếu tố ảnh hưởng đến sức mạnh cơ:

- Những đặc điểm về cấu tạo của cơ có ảnh hưởng lớn đến sức mạnh. Tập luyện làm cho cơ phì đại, tạo điều kiện tăng cường sức mạnh và gây những biến đổi trong tổ chức xương, khớp và dây chằng.

19

Page 20: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

- Những đặc điểm về hóa học của cơ có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát triển sức mạnh

•Cơ chế sinh lý của việc phát triển sức mạnh:

Có rất nhiều cơ chế sinh lý tạo điều kiện cho sự phát triển sức mạnhnbằng cách cải thiện sự phối hợp hoạt động giữa các chức năng vận động và chức năng thực vật. Trong đó, những cơ chế sinh lý quan trọng nhất gồm có:

- Tăng số lượng đơn vị vận động được động viên trong các cơ chủ

vận.

- Ức chế hoạt động của các cơ đối kháng.

- Truyền đến cơ những xung đột thông qua hệ thần kinh giao cảm.

- Lực căng cơ tối đa phụ thuộc vào số lượng sợi cơ co. Những nghiên cứu thực nghiệm của nhiều tác giả đã chứng minh rằng trong những phản ứng không điều kiện, chỉ có một số sợi cơ chứ không phải tất cả các sợi của cơ. Huấn luyện để phát triển sức mạnh làm hình thành ở người những phản ứng có điều kiện cho phép động viên một số lượng đơn vị vận động lớn hơn.

- Sức mạnh tối đa không chỉ liên quan với hoạt động của các trung tâm thần kinh chỉ huy các cơ chủ vận mà còn liên quan đến hoạt động của các cơ đối kháng. Trong các động tác có tốc độ đều và không mang vật nặng, sức mạnh là kết quả của sự căng cơ chủ vận và cơ đối kháng, nhưng sự căng cơ chủ vận mạnh hơn. Trong các động tác có mang vác vật nặng hoặc giật cục, sự căng cơ đối kháng giảm và có thể giảm tới không. Vì vậy, để phát triển sức mạnh tối đa, trong huấn luyện cần phải hình thành những phản xạ có điều kiện phối hợp hoạt động của các trung tâm thần kinh để các cơ chủ vận có thể co trong khi hoạt động của các cơ đối kháng bị ức chế.

- Ngoài ra, hệ thần kinh trung ương bằng những phản xạ có điều kiện và không điều kiện, còn có ảnh hưởng đến dinh dưỡng của các cơ thông qua các dây thần kinh thực vật đặc biệt là dây thần kinh giao cảm. Những dây thần kinh này làm tăng hoạt động cơ tim (Paplốp) và của cơ vân (Oócbêli).

- Khi vận động, nhất là khi thi đấu, hệ thần kinh giao cảm hưng phấn và làm tăng khả năng hưng phấn, tính linh hoạt của cơ năng, khả năng hoạt động của các cơ và các trung tâm thần kinh. Sự cung cấp máu cho các cơ quan hoạt động được

20

Page 21: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

điều hòa bởi hệ thần kinh thực vật. Các hormon được tiết ra nhiều khi hệ thần kinh giao cảm hưng phấn, đặc biệt là Adrenalin làm tăng khả năng hoạt động của các cơ và sức mạnh cũng tăng. Huấn luyện về sức mạnh với tạ còn đòi hỏi hệ tim mạch phải hoạt động rất cao vì trong một buổi tập VĐV có khi phải nâng tới 15 – 20 tấn.

Rèn luyện thân thể sẽ cải biến cơ bắp một cách rõ rệt, làm cho số lượng sợi cơ tăng lên từ đó mà thể tích bắp cơ tăng lên. Ở người bình thường thì trọng lượng cơ bắp chiếm 35- 45% trọng lượng cơ thể, nhưng thông qua tập luyện thể dục thể thao có thể tăng lên đến 50%. Sau 15 – 20 buổi huấn luyện bằng những bài tập với hoạt động, sức khoẻ mạnh của một số nhóm cơ có thể tăng từ 35 – 80%.

Ở trung học và tiểu học có rất nhiều em chân tay ngực không thấy cơ bắp, chỉ cần thường xuyên tập luyện thể dục thể thao thì hiện tượng này sẽ giảm đi, thay vào đó là một cơ thể khoẻ mạnh và đẹp. Khi tập luyện, cơ bắp và xương được tăng cường hoạt động, sự cung cấp máu được tăng lên, Prôtêin và dinh dưỡng được tăng cường, năng lực dự trữ của cơ cũng tăng lên, số lượng sợi cơ tăng lên, vì vậy mà bắp cơ to dần lên, sức mạnh của cơ bắp cũng theo đó mà tăng lên. Do các tế bào cơ được tăng cường, năng lực kết hợp với Ôxy tăng lên, khả năng dự trữ các chất dinh dưỡng và đường tăng lên, số lượng mao mạch trong cơ bắp tăng lên nhiều…điều này thích ứng với các yêu cầu của lao động và hoạt động.

● Có thể sử dụng cả hoạt động động và hoạt động tĩnh để phát triển sức mạnh của các nhóm cơ:

Theo một số tác giả, cho các cơ tập luyện theo chế độ đẳng trường với lực căng cơ tối đa cũng làm cho sức mạnh của cơ tăng cao. Vì vậy, để phát triển sức mạnh, có thể cho các cơ tập luyện phối hợp theo cả chế độ đẳng trương và đẳng trường.

Những bài tập với chế độ hoạt động đẳng trường của cơ có mặt tốt là thời gian tập luyện ngắn và hình ảnh được những đường liện hệ tạm thời động viên được một số lượng đơn vị vận động cao nhất nếu tập “gắng sức tĩnh lực” với lực căng cơ tối đa.

Một bài tập gồm 5 – 6 động tác tĩnh chỉ kéo dài từ 2 – 3 phút.

Mỗi động tác chỉ kéo dài 5 – 6 giây. Nhưng những bài tập này lại có

những mặt không tốt như sau:

21

Page 22: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

- Làm giảm khả năng thả lỏng của cơ.

- Làm giảm tốc độ triển khai độ căng cơ.

- Làm giảm khả năng phân biệt tinh vi cường độ, thời gian và tốc độ

căng cơ.

Trong đại đa số các môn thể thao, lại rất cần có sự thả lỏng được các cơ quan và phân biệt một cách tinh vi lực căng cơ. Chính vì thế mà trong những bài tập phát triển sức mạnh, hoạt động của các cơ vẫn chiếm một phần chủ yếu. Về trọng lượng tạ thích hợp nhất để phát triển sức mạnh, ý kiến của các tác giả cũng không thống nhất. Có người (Hellinger 1961 – 1966) cho rằng trọng lượng tạ có hiệu quả nhất là 2/3 lực căng cơ tối đa (chế độ hoạt động đẳng trương), có tác giả (Menvêep 1960) lại chủ trương sử dụng trọng lượng tạ bằng 50% trọng lượng tối đa. Nhưng lại có những tác giả (Zimkin 1956, Mônôgarốp 1958, Berger 1960, Nagle 1960) cho rằng trọng lượng tạ thích hợp nhất không phải là tiêu chuẩn cố định. Trọng lượng này thay đổi tuỳ theo trình độ tập luyện của các đối tượng, nhịp độ động tác, thời gian nghỉ giữa các buổi tập....

Thông qua tập luyện thể dục thể thao còn có thể nâng cao năng lực khống chế cả hệ thống thần kinh đối với hệ thống cơ bắp, điều này thể hiện bởi tốc độ phản ứng, độ chuẩn xác và tính nhịp điệu đều được nâng lên. Khi cơ bắp làm việc, sự tiêu hao năng lượng được giảm xuống nhưng hiệu quả vẫn được nâng lên. Những điều này làm cho sức mạnh, tốc độ, sức bền và tính linh hoạt…đều tốt hơn nhiều so với người bình thường. Ngoài ra vẫn còn giúp cho cơ thể phòng tránh được các loại chấn thương do sự hoạt động kịch liệt của cơ bắp trong quá trình tập luyện hay trong hoạt động đời sống hàng ngày.

2. Sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục thể thao đối với hệ thống hô hấp

Chức năng của hệ thống hô hấp mạnh hay yếu phụ thuộc bởi năng lực CO2 của cơ thể, khi tập luyện thể dục thể thao cơ thể đòi hỏi nhiều hơn về Oxy, chính vì vậy mà tần số hô hấp tăng lên. Để đáp ứng nhu cầu trên, các cơ quan của hệ thống hô hấp bắt buộc phải cải thiện năng lực làm việc của bản thân. Do vậy, tiến hành tập luyện thể dục thể thao trong thời gian dài có thể nâng cao năng lực hấp thụ Oxy, từ đó nâng cao được chức năng của các cơ quan trong hệ thống hô hấp, cải thiện cơ năng hệ thống hô hấp.

22

Page 23: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

Quá trình hoạt động sống của con người là một quá trình tiêu hao năng lượng, năng lượng đó được lấy từ nguồn dự trữ các chất trong cơ thể. Những vật chất dự trữ này khi được đem ra để biến đổi thành năng lượng đòi hỏi phải có một qúa trình Oxy hoá, do vậy, cơ thể bắt buộc phải không ngừng sử dụng Oxy từ môi trường bên ngoài và thở ra CO2. Quá trình trao đổi này gọi là quá trình hô hấp.

Hệ thống hô hấp bao gồm phổi, khí quản, mũi.. trong đó phổi là nơi trao đổi khí, còn lại đều là đường hô hấp. Cơ thể khi trong trạng thái yên tĩnh mỗi phút đòi hỏi 0,25- 0,3 ml khí, như vậy chỉ cần 1/20 số phế nang trong phổi hoạt động là có thể đáp ứng. Nếu cứ như vậy trong thời gian dài thì những phế nang không được sử dụng sẽ bị thoái hoá đi, từ đó chức năng của hệ thống hô hấp sẽ giảm đi mạnh mẽ và rất dễ mắc bệnh.

Bảng: Sự khác biệt về chức năng hô hấp giữa người thường và người thường xuyên lập luyện thể dục thể thao

Nội dung Người thườngNgười thường xuyên

Tập luyện TDTT

Hệ thống hô hấpCơ năng hô hấp không phát triển, công năng hô hấp giảm

Cơ năng hô hấp phát triển, công năng hô hấp nâng lên rõ rệt

Tần số hô hấp 12-18 lần/ phút 8-12 lần/ phút

Dung tích sốngNữ 2000-2500 ml; nam 3000- 36000 ml

Nữ 3000-4000 ml; nam 4000- 5000 ml

Lượng hấp thụ Oxy

Khi vận động 2,5-3 lít/ phút (lớn gấp 10 lần khi yên tĩnh)

Khi vận động 4,5-5,5 lít/ phút (lớn gấp 20 lần khi yên tĩnh)

Lượng thông khí phổi

Khi vận động: 70-75 lần/ phút Khi vận động 80-120 lần/ phút

Chức năng hô hấp được cải thiện ở một số mặt sau:

1. Cơ hô hấp được phát triển dần, có lực, có sức bền, có thể chịu đựng với lượng vận động lớn.

Cơ hô hấp chủ yếu là cơ hoành cách, cơ gian sườn, ngoài ra còn có thêm cơ bụng, khi hít thở sâu các nhóm cơ ở ngực lưng cũng có tác dụng phụ trợ. Tập luyện thể dục thể thao thường xuyên sẽ tăng cường cơ hô hấp do vậy mà chu vi lồng ngực tăng lên nhiều.

23

Page 24: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

Sự trưởng thành của cơ hô hấp làm cho biên độ của động tác hô hấp lớn lên, hô hấp ở người bình thường khi hít vào hết sức và thở ra hết sức sự chênh lệch về chu vi lồng ngực không nhiều (gọi là hô hấp kém) chỉ có 5-8 cm, ở người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao sự khác biệt này là có thể lên tới 9-16 cm. Vì vậy tiến hành tập luyện thể dục thể thao thường xuyên là có lợi cho việc nâng cao chức năng của hệ thống hô hấp.

2. Dung tích sống tăng lên, tăng cường hấp thụ Oxy và thải CO2.

Dung tích sống là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá trình độ sức khoẻ và sự sinh trưởng phát dục của thiếu niên nhi đồng. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao đặc biệt là làm các động tác gập duỗi ngực có thể làm cho sức mạnh của cơ hô hấp được tăng cường, lồng ngực to lên điều này có lợi cho sự sinh trưởng phát dục của tổ chức phổi, cũng như sự khuyếch trương của phổi từ đó làm cho dung tích sống tăng lên. Ngoài ra khi tập luyện thể dục thể thao với các vận động hít thở mang tính thường xuyên cũng có thể thúc đẩy sự tăng trưởng của dung tích sống. Ở người bình thường dung tích sống chỉ khoảng 3500 ml, ở những người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao tính đàn hồi của phổi tăng lên rõ rệt, sức mạnh của cơ hô hấp tăng nhiều, dung tích sống lớn hơn người bình thường khoảng 1000 ml.

3. Tăng cường độ sâu hô hấp.

Ở người bình thường hô hấp nông và nhanh, khi yên tĩnh tần số yên tĩnh khoảng 12-18 lần/ phút, ở người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao hô hấp sâu và chậm lúc yên tĩnh tần số hô hấp khoảng 8-12 lần/ phút. Như vậy có nghĩa là các cơ hô hấp có nhiều thời gian để nghỉ ngơi. Sự khác biệt này còn biểu hiện rõ nét hơn trong khi vận động.

Ví dụ: Trong cùng một điều kiện, cùng một lượng vận động (vận động nhẹ nhàng) ở người bình thường tần số hô hấp lên tới khoảng 32 lần/phút, mỗi lần hô hấp dung lượng chỉ khoảng 300 ml, trong một phút tổng dung lượng hô hấp là 300 ml 32= 9600 ml. Nhưng ở vận động viên tần số hô hấp lại là 16 lần/phút, mỗi lần hô hấp dung lượng đạt 600 ml, tổng dung lượng trong 1 phút thu được là 600 ml 16= 9600 ml.

Từ thống kê trên có thể thấy, ở người bình thường và vận động viên trong cùng 1 phút thì dung lượng hô hấp là tương đồng. Nhưng trên thực tế, thì sự giao

24

Page 25: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

đổi Oxy và CO2 lại khác nhau bởi lẽ mỗi lần hô hấp thì có khoảng 150 ml không khí được lưu lại trong đường hô hấp mà không thể vào trong phế bào để tiến hành giao đổi. Do đó lượng khí giao đổi sẽ là:

Ở người bình thường: (300 ml - 150 ml) 32 = 4800 ml.

Ở vận động viên là: (600 ml - 150 ml) 16 = 7200 ml.

Điều này cho thấy khi cơ bắp làm việc thì nhu cầu về Oxy tăng lên, ở người bình thường sẽ phải tăng tần số hô hấp để đáp ứng nhu cầu đó do vậy khi vận động thường thở gấp. Nhưng ở vận động viên do vì cơ năng hô hấp được nâng lên, hô hấp sâu. Trong cùng một điều kiện như nhau, tần số hô hấp chưa cần tăng cao thì đã đáp ứng đủ nhu cầu không khí để giao đổi do đó có thể làm việc được trong thời gian dài mà không dễ mắc bệnh.

Ngoài ra, do kết quả của tập luyện thể dục thể thao lâu dài đã cải thiện được chức năng của hệ thống hô hấp và các hệ thống khác (hệ thống thần kinh, hệ thống tuần hoàn…) nâng cao năng lực nhả CO2 và hấp thụ Oxy khi trao đổi khí, làm cho vận động viên khi hoạt động kịch liệt vẫn có thể phát huy chức năng của hệ hô hấp (ở người bình thường khó có thể đạt được). Do vậy mà làm cho quá trình Oxy hoá các vật chất năng lượng càng thêm hoàn thiện. Điều này đảm bảo cho việc cung cấp đầy đủ năng lượng khi vận động. Người bình thường khi thực hiện các bài tập thể dục thể thao việc trao đổi Oxy có thể đạt được 60% tổng số khí khi hô hấp. Nhưng sau khi trải qua tập luyện thể dục thể thao thì năng lượng trao đổi này đã được nâng lên rõ rệt khi hoạt động vận động nhu cầu Oxy tăng lên vẫn có thể đáp ứng được nhu cầu đó của cơ thể mà không làm cho cơ thể thiếu khí quá mức. Tập luyện thể dục thể thao còn có thể rèn luyện con người nâng cao được năng lực chịu đựng nợ dưỡng khí (khả năng chịu đựng thiếu Oxy). Trong điều kiện thiếu Oxy vẫn có thể kiên trì thực hiện các hoạt động cơ bắp phức tạp.

Ví dụ như: VĐV leo núi trong điều kiện núi cao thiếu Oxy, không chỉ phải duy trì các hoạt động duy trì tính mạng mà còn phải không ngừng hoàn thành nhiệm vụ leo lên đỉnh núi đầy khó khăn.

a. Ảnh hưởng của luyện tập thể dục thể thao đối với hệ thống năng lượng ưa khí của vận động viên (VĐV).

Khi luyện tập vùng CĐ dưới tối đa và có khả năng duy trì trong thời gian dài, VĐV tăng khả năng hô hấp ngoài và khả năng hưng phấn cao ở trung tâm hô hấp. Ví dụ:

25

Page 26: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

Dung tích sống của người không HL thì trị số dung tích sống vào khoảng 3 - 3,5 lít, và thông khí phổi tối đa vào khoảng 80 - 100 lít, tần số hô hấp khoảng 10 - 12 lần /phút, tần số hô hấp tối đa 40 - 60 lần, tốc độ hít vào khoảng 0,6 - 0,7 lít/phút, hô hấp sâu tối đa đạt 2 - 2,5 lít. Đối với VĐV cấp cao yêu cầu khả năng hệ trao đổi năng lượng ưa khí cao.

Dung tích sống đạt tối đa từ 7 - 8lít oxy, thông khí phổi tối đa đạt 180 – 200 lít, lúc yên tĩnh tần số hô hấp đạt 5 - 8 chu kỳ, tốc độ hít vào cực đại là 1,5 - 1,8lít, độ sâu hô hấp 3,4 - 3,5lít. Ở nam giớí (20 - 23 tuổi) tham gia tập luyện dung tích sống (3.300 ± 200ml); VO2max tương đối của nam có tập luyện khoảng 40 - 50 ml/phút/kg. Những VĐV nam xuất sắc VO2max tuyệt đối 6 - 7 lít/phút; VO2max tương đối 85 - 92 ml/phút/kg.

Khả năng hoạt động ưa khí còn phụ thuộc đặc điểm môn TT. Những VĐV sức bền khả năng này cao hơn, môn thể dục dụng cụ khả năng này thấp hơn. Đặc điểm hệ thống trao đổi năng lượng ưa khí có quan hệ với hoạt động thi đấu của một số môn TT cụ thể. Đối với môn đua thuyền, bơi lội, xe đạp không cần vai trò của trọng lượng cơ thể để tranh chấp đối kháng lúc thi đấu.

Cho nên trọng lượng VĐV xuất sắc chỉ dao động khoảng 90 - 100kg, VĐV xe đạp vào khoảng 70 - 75kg, VĐV cự ly dài vào khoảng 72 - 78kg, VĐV maratông khoảng 50 - 60kg. Nhưng nhu cầu VO2max rất cao so với các VĐV khác. VĐV đua thuyền VO2max tương đối: 64 -70ml/phút/kg, VO2max tuyệt đối 6 - 7lít/phút.VĐV maratông, VO2max tương đối : 80 - 90ml/phút/kg. Các nhà nghiên cứu phát hiện trong cùng loại chạy (18km/giờ), VĐV có trọng lượng 60kg, nhu cầu oxy là 3,7lít; trọng lượng 70kg, oxy là 4,3 lít, trọng lượng 80kg nhu cầu oxy là 4,6lít.

Như vậy trong điều kiện năng lực ưa khí VO2max tuyệt đối bằng nhau thì

vai trò trọng lượng cơ thể chiếm ưu thế.

Đối với VĐV ở tuổi 15 - 20, có thành tích TT cao, thì VO2max tuyệt đối

và VO2max tương đối cao. Qua các công trình nghiên cứu, VĐV bơi lội

cấp cao Thụy Sĩ VO2max tuyệt đối là 5,16lít/phút (4,46 - 5,81lít/phút), có

12 VĐV đẳng cấp khác nhau VO2max tuyệt đối trung bình là 5,05lít/phút.

Năm 1983 - 1984 VĐV Liên Xô cũng có chỉ tiêu VO2max tương tự.

26

Page 27: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

Qua thực tiễn chứng minh : dùng CĐ hoạt động ưa khí nâng cao được khả năng thích ứng của hệ thống trao đổi năng lượng ưa khí. Những VĐV có dung

lượng hệ thống ưa khí thì năng lực thích ứng LVĐ tốt. Người ít tập luyện

khi hoạt động cường độ VO2max = 70% (70%VO2max) thì thời gian hoạt

động kéo dài 30phút (3,2lít/phút), VĐV có tố chất bền cao, khi hoạt động

70% VO2max thì duy trì hoạt động trong 2 giờ, VĐV cự li dài, hoạt động

cường độ 70% VO2max thì thời gian duy trì hoạt động 3 - 4 giờ. Những

VĐV thế giới trình độ cao khả năng ưa khí sử dụng 100% VO2max hoạt

động duy trì trong 10 phút, dùng 95% VO2max có thể duy trì hoạt động

vượt trên 60 phút, nếu dùng cường độ 80% VO2max thì có thể duy trì hoạt

động trong 2 giờ.

Qua nghiên cứu chứng minh rằng, nếu dùng cường độ 90- 95% VO2max thì hàm lượng AL không tăng theo thời gian hoạt động. Khi tiến hành tập các bài tập chuyên sâu với cường độ ưa - yếm khí (một ngày 2 giờ), tập trong 6 - 8 tuần thì nâng cao dung lượng của hệ thống trao đổi ưa khí, VĐV cấp cao nâng cao nhiều tiềm năng cơ thể, sau đó nâng cao VO2max trong 2 - 3 tháng đầu nâng cao 15 - 30%, khi HL từ 9 - 24 tháng nâng cao 40 - 50% và HL nhiều năm chăng nữa thì VO2max cũng không vượt tỉ lệ % đó, nhưng do tác dụng HL, hoạt tính men ưa khí

nâng cao rất nhanh. Dưới tác động HL có hệ thống, các nhân tố cấu thành hệ thống ưa khí được cải thiện. Khi dùng CĐ trên ngưỡng yếm khí thì khả năng ưa khí của VĐV tăng, theo nhiều tác giả tập luyện cường độ có ngưỡng yếm khí: AL trong máu = 3 - 4mmol/L đối với người bình thường có mạch đập 150 lần/phutù, VĐV mạch đập đạt 160-175 lần/phút, VĐV xuất sắc, mạch đập 180 lần/phút.

● Ảnh hưởng luyện tập thể dục thể thao đối với hệ thống năng lượng yếm khí của vận động viên (VĐV)

Công suất yếm khí phụ thuộc vào cơ chế photphogen và tốc độ hoạt động của chúng. Những VĐV đặc trưng sức mạnh - tốc độ hoạt động ở cường độ yếm khí không axit lactic, nhu cầu oxi đạt 200 - 250 ml/phút/kg, dưới ảnh hưởng HL cường độ yếm khí không axit lactic, hàm lượng CP trong cơ tăng nhiều và có liên quan đến sự tăng thể tích ti lạp thể, tăng hoạt tính men. Men quyết định sự phân giải và

27

Page 28: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

hợp thành CP, trong đó có men hoạt động yếm khí là: photphofrutokinaza, photphofelaza, isomeraza.v.v..

Nhu cầu phát huy cường độ tối đa của quá trình yếm khí không axit lactic cần thời gian 0,5 - 0,7giây sau khi bắt đầu hoạt động. Ở người bình thường, quá trình này duy trì 7 - 15 giây,VĐV cấp cao trong thời gian thi đấu duy trì 20 - 25 giây và có thể đạt 25 - 30 giây.

Do ảnh hưởng LVĐ, cơ chất của quá trình trao đổi năng lượng yếm khí tăng nhiều, vì sử dụng năng lượng chuyển hoá CP, người bình thường, dung lượng cơ chất là 1,5 - 2 lít ôxy, khi tập bài tập sức mạnh tốc độ dung lượng của quá trình yếm khí không AL tăng 1,5 - 2 lần.

Khi nghiên cứu về năng lượng đường phân yếm khí nhiều tác giả chứng minh rằng : Người bình thường khi tập luyện sức mạnh tốc độ, AL máu có thể đạt 13mmol/lít, VĐV cấp cao hàm lượng AL/máu có thể đạt đến 20 - 30mmol/lít. Các tác giả người Mỹ Lohman and Fiske cho rằng : Khả năng thích ứng của quá trình tập luyện các bài tập yếm khí không AL chủ yếu là sự thay đổi thành phần cơ nhanh, biểu hiện sự tăng trưởng khả năng đường phân.

Qua nghiên cứu chứng minh rằng : Khi tập luyện CĐ cao từ 1- 7 phút thì hàm lượng AL/máu đạt tối đa. Nếu thời gian hoạt động kéo dài thì hàm lượng axit lactic - máu giảm xuống, bởi vì CĐ tối đa của quá trình hoạt động yếm khí chỉ tăng nhanh đến tối đa đạt khoảng từ 15 - 45 giây sau khi bắt đầu hoạt động. CĐ tối đa xuất hiện đối với trình độ HL khác nhau có sự khác nhau (Asmusson, Saltind).

Ví dụ: Đối với người bình thường, CĐ tối đa xuất hiện khoảng 2 phút, đối với VĐV cấp cao xuất hiện trong thi đấu 2 - 5 phút, còn đối với VĐV xuất sắc là 3 - 4 phút. Nhằm nâng cao dung lượng của quá trình trao đổi năng lượng yếm khí thì thời gian tập luyện 2 - 4 phút có hiệu quả tốt nhất (Ai- Vĩ Dân – TQ, 1996). Phương pháp tối ưu nâng cao khả năng yếm khí phải chú ý đặc điểm tích lũy axit lactic khoảng cách nghỉ giữa quãng khi tập các nhóm bài tập có CĐ tối đa.

Ví dụ: Khi tập luyện CĐ tối đa 1 phút, nghỉ giữa quãng 4 phút AL trong

máu tăng dần dần.

28

Page 29: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

3. Sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục thể thao đối với chức năng của hệ tuần hoàn:

Một hệ thống tuần hoàn tốt là điều kiện bắt buộc phải có cho một cơ thể cường tráng khoẻ mạnh. Tập luyện thể dục thể thao có thể nâng cao chức năng của tim, tăng nhanh tốc độ tuần hoàn máu, nâng cao được chức năng của hệ thống huyết quản.

Hệ thống tuần hoàn là do tim, máu và hệ thống huyết quản tạo thành vì vậy mà gọi là hệ thống tuần hoàn máu. Tim là nơi phát ra động lực làm cho máu lưu động, huyết quản là con kênh dẫn máu đi khắp nơi trong cơ thể, máu thì phụ trách việc vận chuyển dinh dưỡng, Oxy, các sản phẩm thải của quá trình trao đổi chất và CO2. Tim có tác dụng làm cho máu luôn lưu động trong huyết quản mang Oxy và các chất dinh dưỡng để cho các tổ chức, tế bào, đồng thời đem các chất thải của quá trình trao đổi chất sản sinh ra cũng như CO2 ra ngoài phổi, thận và da…

Tập luyện thể dục thể thao có tác dụng rất tốt đối với các cơ quan, hệ thống trong cơ thể, đối với hệ thống huyết quản cũng như vậy. Khi tiến hành tập luyện thể dục thể thao sự tiêu hao năng lượng và các sản phẩm thừa của quá trình trao đổi chất tăng lên trong cơ thể. Lúc này đòi hỏi phải nâng cao chức năng của tim, tăng nhanh tốt độ lưu truyền máu, đồng thời nâng cao chức năng của hệ tuần hoàn.

Ví dụ: Trong hoạt động ở các môn chạy dài, bóng đá, bóng rổ hay bơi lội…đều có thể làm cho chức năng của hệ thống tuần hoàn đạt được sự tăng cường rõ rệt, làm cho cơ tim dầy lên, tần số mạch và huyết áp giảm, làm cho hệ tuần hoàn được tập luyện, kết cấu, chức năng có được sự cải thiện chủ yếu biểu hiện ở các phương diện sau:

a.Tăng cường tính vận động của tim.

Tập luyện thể dục thể thao làm tăng cường máu của cơ tim, làm cho cơ tim có nhiều vật chất dinh dưỡng hơn. Do tập luyện thể dục thể thao cơ tim dần dần được tăng cường, thành tim dầy lên, thể tích khoang tim tăng lên (người bình thường khoảng 700ml, VĐV là 1000ml). Giãn buồng tim làm cho lượng máu chứa trong các buồng tim tăng lên, đó là yếu tố quan trọng để tăng thể tích tâm thu khi cần thiết. Phì đại cơ tim làm tăng lực bóp của tim, tức là làm tăng thể tích tâm thu.

Do vậy thể tích khoang tim của VĐV lớn hơn một chút so với người bình thường. Hiện tượng này được gọi là “phì đại tim mang tính vận động” Người

29

Page 30: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

thường xuyên tập luyện thể dục thể thao do tập luyện thường kỳ, cơ ở khoang tim sẽ to và khoẻ dần lên, dùng máy chuyên môn để xem xét có thể thấy khoang tim của họ to hơn một chút so với người thường, ngoại hình đầy đặn, cơ tim phát triển, lực co bóp tim tăng lên, dung lượng tim cũng tăng lên nhiều, do vậy mà mỗi lần co bóp tim lượng máu được đẩy ra khỏi tim (lưu lượng tâm thu) cũng tăng lên.

b.Tần số mạch giảm và chậm khi yên tĩnh.

Ở người bình thường tần số mạch vào khoảng 70-80 lần/phút, thường xuyên tập luyện thể dục thể thao tần số mạch đập chỉ khoảng 50-60lần/phút, các vận động viên ưu tú có khi giảm xuống tới 40lần/phút. Điều này là do ở VĐV lưu lượng tâm thu tăng lên do đó tần số mạch giảm xuống nhưng vẫn cung cấp đủ cho nhu cầu trao đổi chất của toàn bộ cơ thể. Trong trạng thái yêu tĩnh, lưu lượng phút mà cơ thể đòi hỏi khoảng 75lần. Trong khi đó lưu lượng tâm thu ở VĐV khoảng 90ml, tim chỉ cần co bóp khoảng 50 lần là đủ cung cấp máu cho cơ thể. Tần số mạch giảm xuống do đó mà tim có nhiều thời gian nghỉ ngơi.

c.“Tiết kiệm hoá” trong làm việc của tim:

Tiến hành vận động nhẹ nhàng, ở cùng một lượng vận động, tần số mạch đập và biên độ biến đổi huyết áp ở người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao nhỏ hơn người bình thường và không dễ bị mệt mỏi, hồi phục nhanh. Người không thường xuyên tập luyện sẽ đòi hỏi tần số mạch cao hơn, do đó thời gian nghỉ ngơi của tim ngắn đi, rất dễ mệt mỏi, sau khi vận động thời gian hồi phục cũng cần dài hơn. Nguyên nhân chủ yếu là người thường xuyên tập luyện có lực co bóp tim lớn hơn, lưu lượng tâm thu lớn hơn, do đó chỉ cần tăng một chút tần số mạch là đã có thể đáp ứng đủ yêu cầu, đồng thời do việc tập luyện thể dục thể thao làm cho huyết quản bảo vệ và duy trì tốt sự lưu truyền của máu nên ở các VĐV nhẹ nhàng, biên độ biến hoá về tần số mạch và huyết áp đều nhỏ hơn so với ở người bình thường. Hiện tượng này được gọi là hiện tượng “tiết kiệm hoá” (xem bảng 2).

Bảng 2: Bảng đối chiếu chức năng tim

Nội dung đối chiếu

Người thườngNgười thường xuyên tập thể dục thể thao

Khi yên tĩnhKhi vận động Khi yên tĩnh Khi vận động

Tần số mạch đập 61 lần 150 lần 56 lần 86 lần

30

Page 31: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

trong 1 phút

Lưu lượng tâm thu

69 ml 71ml 87ml 127,5ml

Lưu lượng phút 4,2lít 10,7lít 4,9lít 11lít

d. Khi hoạt động kịch liệt, chức năng của tim có thể đạt tới trình độ cao.

Người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao thì chức năng của tim rất tốt, đó là cơ tim khoẻ, dung lượng tim lớn, lực co bóp tim khoẻ. Khi hoạt động kịch liệt có thể nhanh chóng phát huy chức năng tim, có thể đạt đến mức độ mà ở người thường không thể đạt tới.

Ví dụ như tần số mạch đập của VĐV ưu tú có thể đạt tới 200-220 lần/phút, lưu lượng phút có thể đạt tới trên 40lít.

Do vậy có thể đảm nhiệm được những công việc hoặc lao động với lượng vận động huấn luyện hoặc phụ tải rất lớn, trong khi đó ở người thường tần số mạch đập tối đa chỉ đạt tới 180 lần/phút, lúc này lượng máu trở về tim sẽ giảm xuống do vậy lưu lượng tâm thu giảm xuống, tuần hoàn máu vì thế cũng giảm hiệu quả. Cũng với sự tích luỹ các sản phẩm của trao đổi chất (axit lactic) làm cho khó có thể duy trì được công việc thậm chí còn xuất hiện hiện tượng tức ngực, khó thở, loạn nhịp tim, đau đầu…sự hồi phục sau vận động giảm.

Theo Letunốp (1940), không phải tất cả các môn thể thao đều làm thay

đổi về mặt cấu trúc của tim, làm cơ tim phì đại và tăng thể tích buồng tim.

Sự tăng độ dày của thành tim chủ yếu là tâm thất trái, đó là do tim của

các vận động viên co bóp nhiều đẩy máu đi theo nhu cầu của vận động cơ

bắp. Qua nghiên cứu ông đưa ra kết luạân sau: Đối với vận động viên sức

bền thì tim giãn to, đối với vận động viên sức mạnh thì cơ tim dày lên.

Nhà khoa học Kox đã nghiên cứu ở các vận động viên, kết quả cho

thấy các vận động viên tập luyện sức bền ưa khí tối đa có trọng lượng tim

trên một kg thể trọng (tim / “Kg” trọng lượng cơ thể) cao hơn ở vận động

viên các môn hoạt động sức mạnh và tốc độ. Quá trình vận động có ảnh

hưởng rất lớn đến cấu trúc của tim, có thể dẫn đến phì đại cơ tim và cũng

31

Page 32: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

có thể làm tăng thể tích buồng tim. Hai chỉ số trên tăng đều dẫn đến sự

tăng trọng lượng của tim.

e.Tăng tính dẫn truyền của huyết quản.

Tập luyện thể dục thể thao có thể tăng cường được tính dẫn truyền máu của thành mạch, điều này là rất có lợi đối với người già. Ở người già, cùng với sự gia tăng của tuổi tác, tính dẫn truyền của máu thành mạch cũng giảm xuống, chính vì vậy mà ở người già thường hay mắc các bệnh tuổi già đặc biệt là bệnh cao huyết áp. Người già thông qua tập luyện thể dục thể thao có thể tăng cường tính dẫn truyền máu của thành mạch, từ đó có thể phòng ngừa được các bệnh tuổi già và bệnh cao huyết áp.

Ngoài ra, y học đã chứng minh, thường xuyên tập luyện thể dục thể thao sẽ làm tăng hàm lượng hồng cầu, bạch cầu, có thể cung cấp kịp thời dinh dưỡng và Oxy cho cơ thể, mang các chất thải của quá trình trao đổi chất cũng như CO 2 ra ngoài.

Cùng với mức sống ngày càng cao, nếu như không thường xuyên tham gia tập luyện thể dục thể thao thì “bệnh văn minh” tất nhiên sẽ gia tăng. Hiện nay đã không có ít người chết vì mắc các bệnh về tim mạch, ở Liên bang Đức 20 trở lại đây, số lượng người chết vì bệnh tim chiếm 52%-53% tổng số ngưới chết. Theo tài liệu thống kê của tổ chức y tế thế giới công bố năm 1984 số người chết do mắc các bệnh về tim là một trong những nguyên nhân dẫn đến tử vong chiếm tỷ lệ cao nhất. Do vậy việc thường xuyên tập luyện thể dục thể thao đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc giảm tỷ lệ người mắc các bệnh liên quan đến tim và hệ tuần hoàn.

4. Sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục thể thao đối với hệ tiêu hoá:

Dạ dày và ruột là những cơ quan chủ yếu của hệ thống tiêu hoá trong cơ thể. Năng lực tiêu hoá của dạ dày và ruột tốt sẽ có những ảnh hưởng tốt đối với sức khoẻ con người. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao sẽ nâng cao được công năng tiêu hoá của dạ dày và ruột, tăng cường sự khoẻ mạnh cho gan, đồng thời còn có tác dụng trị liệu và phòng ngừa một số bệnh về hệ thống tiêu hóa.

32

Page 33: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

Thường xuyên tập luyện, do nhu cầu hoạt động của cơ bắp nên dạ dày và ruột phải tăng cường chức năng tiêu hoá, lúc này dịch và men tiêu hoá tăng lên nhiều, sự co bóp ở đường dẫn truyền tiêu hoá càng được tăng lên mạnh mẽ, tuần hoàn máu ở dạ dày và ở ruột cũng được cải thiện.

Do phát sinh các thay đổi nêu trên mà việc tiêu hoá thức ăn và hấp thụ các chất dinh dưỡng được diễn ra thuận lợi, mặt khác do khi vận động phải hô hấp sâu, cơ hoành cách hoạt động với biên độ lớn nên đã di chuyển nhiều xuống phía dưới, cơ bụng cũng hoạt động mạnh, điều này đã có tác dụng mát xa cho dạ dày và ruột. Do tập luyện thể dục thể thao có tác dụng nâng cao năng lực tiêu hoá của dạ dày và ruột như vậy nên đã có không ít người sử dụng tập luyện thể dục thể thao như một phương pháp trị liệu đối với một số bệnh dạ dày và họ đã thu được hiệu quả nhất định.

Gan là một tạng lớn trong cơ thể con người, nó đóng vai trò hết sức quan trọng đối với hệ tiêu hoá, thường xuyên tập luyện thể dục thể thao chức năng của gan được tăng cường điều này rất có lợi cho việc tiêu hoá thức ăn.

Khi vận động sự tiêu hao nguồn năng lượng dự trữ tăng lên, khiến cho gan phải hoạt động tích cực hơn từ đó mà chức năng gan được tập luyện thường xuyên và phát triển. Lượng đường đơn trong gan của vận động viên và người thường và tốc độ đẩy đường đơn ra ngoài của gan ở vận động viên cũng nhanh hơn người thường.

Đường đơn ở gan là hết sức quan trọng đối với sự khoẻ mạnh của gan, nó có thể bảo vệ cho gan, vì nguyên nhân này mà các bác sĩ thường yêu cầu những bệnh nhân gan ăn nhiều hoa quả có đường. Chức năng gan ở vận động viên là rất tốt, khả năng đề kháng với bệnh gan cũng rất cao. Ở người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao thì việc sử dụng đường đơn trong gan cũng kinh tế hơn ở người thường. Từ những yếu tố trên có thể thấy tập luyện thể dục thể thao có thể làm tăng thêm sức khoẻ cho gan, mà gan có khoẻ thì mới có thể nâng cao được năng lực lao động và vận động.

33

Page 34: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

5. Ảnh hưởng của thể dục thể thao đối với hệ thống thần kinh:

Hệ thống thần kinh khống chế các loại hành vi của con người, thường xuyên tập luyện thể dục thể thao sẽ làm nâng cao năng lực làm việc của các tế bào thần kinh ở đại não, nâng cao tính linh hoạt và sự hưng phấn của hệ thống thần kinh, phản ứng nhanh, tăng thêm tốc độ linh hoạt và sự chuẩn xác nhịp nhàng của động tác. Hệ thống thần kinh là do hệ thống trung khu và hệ thống thần kinh ngoại biên tạo thành.

Hình thức hoạt động của chúng như sau: Sau khi cơ thể tiếp nhận được tín hiệu kích thích thông qua các nơ ron thần kinh để dẫn truyền đến hệ thống trung khu thần kinh, sau khi hệ thống trung khu thần kinh phân tích, tổng hợp thì các xung động hưng phấn sẽ được dẫn truyền tới các cơ quan từ đó tạo ra các phản ứng tương ứng.

Ví dụ: Khi tham gia thi đấu bóng rổ, trong tình huống thiên biến vạn hoá của thi đấu trên sân đòi hỏi hoàn thành động tác kịp thời và chuẩn xác. Ở người bình thường tốc độ phản ứng là 0,4 giây trở lên, ở vận động viên là 0,332 giây, đối với các vận động viên bóng bàn tốc độ phản ứng đạt tới 0,1 giây.

Những vấn đề này đều đem lại những lợi ích cho công việc hay những hoạt động sinh hoạt đời thường.

Ngoài ra thường xuyên tập luyện thể dục thể thao còn có thể phòng ngừa được bệnh suy nhược thần kinh. Vận động còn đảm bảo cho việc giữ cân bằng giữa hưng phấn và ức chế của đại não, từ đó phòng ngừa được sự phát sinh suy nhược thần kinh. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao có thể làm cho sự hưng phấn được tăng cường, ức chế càng thêm sâu sắc hoặc làm cho hưng phấn và ức chế được tập trung, như vậy đã nâng cao được tính linh hoạt của quá trình thần kinh.

Khi tập luyện thể dục thể thao do trung khu vận động hưng phấn cao độ làm cho ngoại vi sản sinh sự ức chế sâu sắc, điều đó khiến cho các tế bào thần kinh được nghỉ ngơi tốt. Tập luyện thể dục thể thao thường yêu cầu phải hoàn thành những động tác phức tạp, có độ khó cao hơn so với các hoạt động thường ngày, vì vậy mà cơ thể bắt buộc phải động viên chức năng của bản thân đến mức cao độ mới có thể thích nghi được với các yêu cầu của nhiệm vụ.

Thông qua tập luyện thời gian dài, không chỉ cơ bắp phát triển, do động tác có lực, mà tốc độ, tính mềm dẻo, sự linh hoạt…của động tác cũng được tăng cường,

34

Page 35: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

đối với thể lực lao động thì sức bền bỉ cũng được nâng lên, khả năng phòng bệnh và khả năng thích nghi với các loại kích thích bên ngoài môi trường cũng được nâng lên. Bởi lẽ vận động có tác dụng rất tốt đối với hệ thống thần kinh nên phần lớn các bác sĩ thường lấy tập luyện thể dục thể thao để làm thành một phương pháp trị liệu, đặc biệt là điều trị các trở ngại về chức năng của hệ thống thần kinh- nguyên nhân dẫn đến các bệnh thần kinh. Ở Mỹ một số chuyên gia về bệnh thần kinh đã mở một lớp gọi là “vận động dự phòng” cho một số người bị suy nhược thần kinh nhẹ, trong lớp này họ đã lấy chạy bộ thay cho việc dùng thuốc. Trải qua một tuần tập luyện thì đã có 60%- 85% bệnh nhân xuất hiện dấu hiệu hồi phục.

● Ngoài những ảnh hưởng tốt với các hệ cơ quan, luyện tập thể dục thể thao còn giúp ta thúc tiến phát triển năng lực của não, nâng cao hiệu suất học tập, công tác:

Tập luyện thể dục thể thao ngoài việc phát triển thể lực và thể chất ra, nó còn phát triển năng lực của não, nâng cao hiệu suất công tác. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao có thể nâng cao năng lực làm việc của đại não, cải thiện quá trình thần kinh, từ đó tăng cường trí lực và khả năng ghi nhớ của cơ thể, đồng thời thông qua tập luyện thể dục thể thao cũng có thể điều tiết một cách có hiệu quả công tác và học tập, từ đó làm tăng hiệu suất công việc và học tập.

Con người khi phát triển chịu sự ảnh hưởng của 3 yếu tố di truyền, hoàn cảnh sống và giáo dục. Các yếu tố di truyền của cơ thể như kết cấu, hình thái, cảm quan, hệ thống thần kinh… là những điều kiện tiền đề của sự phát triển tự nhiên hay sinh lý của con người. Trong khi đó tri thức, tài năng, tính cách, sự yêu thích… của con người được hình thành bởi sự ảnh hưởng của giáo dục và hoàn cảnh sống. Giáo dục ở đây đương nhiên trong đó bao gồm cả nội dung giáo dục thể chất. Thực tiễn đã chứng minh tập luyện thể dục thể thao đã có tác dụng thúc đẩy sự phát triển về mặt trí lực, nhận thức, tài năng của con người, đồng thời cũng có tác dụng nâng cao hiệu suất học tập.

• Rèn luyện thân thể có thể nâng cao năng lực hoạt động trí lực:

Trí lực hiểu theo nghĩa thông thường là lấy năng lực tư duy làm hạt nhân, nó là sự tổng hoà của năng lực nhận thức, nó bao gồm năng lực quan sát, năng lực ghi

35

Page 36: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

nhớ, năng lực tưởng tượng…Trí lực là sản vật của sự kết hợp giữa di truyền, sự ảnh hưởng của giáo dục, điều kiện sống và sự nỗ lực cá nhân. Thực tế đã chứng minh trình độ trí lực của con người có mối tương quan với di truyền (có người cho rằng có thể đạt tới 65%, thậm chí tới 80%), có mối tương quan mật thiết với hoàn cảnh xã hội, giáo dục, điều kiện gia đình, mặt bằng kinh tế…Không thể xem nhẹ tác dụng của tập luyện thể dục thể thao đối với sự phát triển trí lực, đã có ngày càng nhiều các nhà nghiên cứu báo cáo về vấn đề này. Các kết quả nghiên cứu đã chứng minh, năng lực ghi nhớ và trí lực là một loại mang đặc tính vật chất hoá học, do một loại phân tử Prôtêin đa vật chất cấu thành, sự vận động của những vật chất này có liên quan đến trạng thái làm việc của đại não, càng thích nghi với điều kiện làm việc thì càng tốt, đại não bảo lưu các tin tức bên ngoài càng kiên cố, sự liên hệ giữa các tin tức đó càng rõ nét đối với sự phân biệt các tin tức càng rõ ràng mạch lạc. Những hiện tượng này bình thường chúng ta hay gọi là “mẫn cảm”.

Sự thích nghi giữa một đại não tốt với điều kiện công tác được thể hiện ở hai mặt sau:

- Cung cấp đầy đủ máu trong não.

- Thích nghi với trạng thái hưng phấn.

• Tập luyện thể dục thể thao có thể nâng cao hiệu quả công tác và học tập.

Học tập các tri thức văn hoá khoa học là những hoạt động thần kinh cao cấp của đại não. Trong quá trình học tập đòi hỏi đại não phải hoạt động tư duy căng thẳng cao độ và liên tục, những hoạt động dựa vào sự chuyển hoá tương hỗ không ngừng và sự cân bằng giữa hai chức năng hưng phấn và ức chế của tế bào thần kinh.

Nếu làm việc trong thời gian quá dài các tổ chức não sẽ sản sinh ra tác dụng ức chế để bảo vệ, lúc này hiệu suất làm việc của não sẽ giảm xuống, biểu hiện ra ngoài đó là năng lực chú ý và tư duy kém, nặng hơn là chóng mặt, đau đầu…khi này đòi hỏi phải nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi có hai kiểu, đó là nghỉ ngơi tiêu cực (đi ngủ) và nghỉ ngơi tích cực (tập luyện thể dục thể thao). Khi tập luyện thể dục thể thao các tế bào thần kinh vận động sẽ được hưng phấn cao, mặt khác làm gia tăng thêm sự ức chế các tế bào ghi nhớ và tư duy từ đó làm cho sự mệt mỏi mất đi. Do vận động làm cho hệ tuần hoàn hoạt động tích cực dẫn đến các tế bào được cung cấp dinh dưỡng và Oxy đầy đủ hơn, làm thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc đào thải sản phẩm

36

Page 37: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

thừa của quá trình trao đổi chất, điều này rất có lợi cho chức năng hồi phục của cơ thể.

Tóm lại, tiến hành tập luyện thể dục thể thao một cách khoa học không những có tác dụng rèn luyện thể chất và thể lực cho cơ thể mà còn có tác dụng rất lớn đối với việc thúc tiến và nâng cao các hoạt động của não. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao có thể nâng cao chức năng của các cơ quan trong cơ thể, thức đẩy quá trình sinh trưởng và phát dục ở thanh thiếu niên, phát triển các tố chất cơ thể, nâng cao năng lực hoạt động cơ bản của con người…

Trích dẫn và sưu tầm từ:

- Giáo trình môn GDTC trường đại học Thăng Long- Giáo trình y sinh học TDTT của TS. Nguyễn Đăng Chiêu- Một số tư liệu vô danh sưu tầm trên internet

37

Page 38: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

Mục lục:

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỂ DỤC THỂ THAO:....................................2

1. Lịch sử thể dục thể thao:...............................................................................2

2. Khái niệm chung về thể dục thể thao:..........................................................4

II. CƠ SỞ KHOA HỌC SINH HỌC TRONG VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO:...................................................................................................5

1. Cơ thể con người là hệ sinh học thống nhất. Trao đổi chất và năng lượng:.....6

1.1. Cơ thể con người là hệ sinh học thống nhất:...............................................6

1.2. Cơ thể con người là bộ máy vận động:........................................................8

2. Cơ sở sinh lý của năng lực vận động:..........................................................14

2.1 Kỹ năng vận động:......................................................................................14

2.2. Các tố chất vận động (Sức nhanh- sức mạnh- sức bền- khéo léo).............15

2.3 Chức năng vận động và sự thích nghi của cơ thể với môi trường:......16

III. ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI HỆ CƠ QUAN:..............................................................................................16

1. Sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục thể thao đối với hệ vận động..............16

Chiều cao.................................................................................................................18

Nam......................................................................................................................18

2. Sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục thể thao đối với hệ thống hô hấp.....22

Người thường..........................................................................................................23

Hệ thống hô hấp.......................................................................................................23

Dung tích sống.........................................................................................................23

Khi vận động: 70-75 lần/ phút.................................................................................23

3. Sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục thể thao đối với chức năng của hệ tuần hoàn:.....................................................................................................................29

38

Page 39: ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN

Bảng 2: Bảng đối chiếu chức năng tim.............................................................30

Người thường..........................................................................................................30

4. Sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục thể thao đối với hệ tiêu hoá:...............32

5. Ảnh hưởng của thể dục thể thao đối với hệ thống thần kinh:..........................34

39