bÀi 1 kinh doanh quỐc tẾ trong kỶ nguyÊn toÀn …eldata2.neu.topica.vn/txtmkd01/giao...

24
Bài 1: Kinh doanh quc tế trong knguyên toàn cu hóa IBS101_Bai1_v1.0013110214 1 BÀI 1 KINH DOANH QUC TTRONG KNGUYÊN TOÀN CU HÓA Hướng dn hc Để hc tt bài này, sinh viên cn tham kho các phương pháp hc sau: Hc đúng lch trình ca môn hc theo tun, làm các bài luyn tp đầy đủ và tham gia tho lun trên din đàn. Đọc tài liu: 1. Nguyn ThHường (Chbiên) (2001), Giáo trình Kinh doanh quc tế, Tp 1, Nhà xut bn Thng kê, Hà Ni. 2. Nguyn ThHường (Chbiên) (2003), Giáo trình Kinh doanh quc tế, Tp 2, Nhà xut bn Lao động – Xã hi, Hà Ni. 3. Ball D. A, Geringer J. M, Minor M. S, McNett J. M, (2010), International Business – The Challenge Of Global Competition, McGraw – Hill/Irwin. 4. Hill, Charles W. T. (2001), Kinh doanh toàn cu ngày nay, Sách biên dch, Nhà xut bn Thng kê, Hà Ni. 5. Wild, J. J, Kenneth L. Wild, J. C. Y. Han (2000), International Business: An Integrated Approach, Prentice Hall, New Jersey 07458. Sinh viên làm vic theo nhóm và trao đổi vi ging viên trc tiếp ti lp hc hoc qua email. Trang Web môn hc. Ni dung Bài 1 trong Hc phn Kinh doanh quc tế nghiên cu nhng vn đề tng quan kinh doanh quc tế liên quan đến các yếu tthuc môi trường kinh doanh quc gia như lut pháp, chính tr, văn hóa, kinh tế và môi trường tnhiên; Môi trường kinh doanh quc tế như Thương mi và đầu tư quc tế, tài chính quc tế; Liên kết kinh tế khu vc tác động đến hot động ca các doanh nghip kinh doanh quc tế; nhng công vic qun trhot động kinh doanh quc tế các doanh nghip cn thc hin như la chn thtrường, chiến lược, phương thc thâm nhp thtrường nước ngoài và qun trcác chc năng kinh doanh cơ bn vvn, tài chính, nhân s, sn xut… trong kinh doanh quc tế. Mc tiêu Mô tKDQT và quá trình toàn cu hoá. Gii thích ti sao các công ty theo đui KDQT. Xác định được các loi hình công ty tham gia vào KDQT. Gii thích vin cnh toàn cu vKDQT và xác định được ba yếu tchính ca KDQT.

Upload: dinhdang

Post on 01-Feb-2018

220 views

Category:

Documents


2 download

TRANSCRIPT

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

IBS101_Bai1_v1.0013110214 1

BÀI 1 KINH DOANH QUỐC TẾ TRONG KỶ NGUYÊN TOÀN CẦU HÓA

Hướng dẫn học

Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:

Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia thảo luận trên diễn đàn.

Đọc tài liệu:

1. Nguyễn Thị Hường (Chủ biên) (2001), Giáo trình Kinh doanh quốc tế, Tập 1, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

2. Nguyễn Thị Hường (Chủ biên) (2003), Giáo trình Kinh doanh quốc tế, Tập 2, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội.

3. Ball D. A, Geringer J. M, Minor M. S, McNett J. M, (2010), International Business – The Challenge Of Global Competition, McGraw – Hill/Irwin.

4. Hill, Charles W. T. (2001), Kinh doanh toàn cầu ngày nay, Sách biên dịch, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

5. Wild, J. J, Kenneth L. Wild, J. C. Y. Han (2000), International Business: An Integrated Approach, Prentice Hall, New Jersey 07458.

Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email.

Trang Web môn học.

Nội dung

Bài 1 trong Học phần Kinh doanh quốc tế nghiên cứu những vấn đề tổng quan kinh doanh quốc tế liên quan đến các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh quốc gia như luật pháp, chính trị, văn hóa, kinh tế và môi trường tự nhiên; Môi trường kinh doanh quốc tế như Thương mại và đầu tư quốc tế, tài chính quốc tế; Liên kết kinh tế khu vực tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế; những công việc quản trị hoạt động kinh doanh quốc tế các doanh nghiệp cần thực hiện như lựa chọn thị trường, chiến lược, phương thức thâm nhập thị trường nước ngoài và quản trị các chức năng kinh doanh cơ bản về vốn, tài chính, nhân sự, sản xuất… trong kinh doanh quốc tế.

Mục tiêu

Mô tả KDQT và quá trình toàn cầu hoá.

Giải thích tại sao các công ty theo đuổi KDQT.

Xác định được các loại hình công ty tham gia vào KDQT.

Giải thích viễn cảnh toàn cầu về KDQT và xác định được ba yếu tố chính của KDQT.

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

2 IBS101_Bai1_v1.0013110214

Tình huống dẫn nhập

Gillette kinh doanh quốc tế

Gillette là người bang Wilscosin nước Mỹ. Lúc nhỏ nhà nghèo, khi đi học lúc học lúc bỏ. Năm 14 tuổi, Gillette đi học cách làm ăn, bước chân của Gillette có tại gần khắp nước Mỹ để tìm tòi các phương thức kinh doanh khác nhau. Cuối cùng, Gillette đã lựa chọn được cho mình một loại hàng hoá nhỏ mà “khách hàng luôn luôn dùng và cũng luôn luôn vứt đi”. Đó là lưỡi dao cạo rất ưu tiên cho khâu tuyển một nhân tài cho các vị trí quản lý, chuyên gia tài chính cho tới các nhân viên bình thường bằng một chế độ lương bổng hợp lý. Mỹ ngân hàng cho vay 3,0%/nămmức tăng trưởng lợi nhuận ngành khoảng 20%/năm, Chi Lê huy động với mức lãi suất là 8%/năm và cho vay với lãi suất 10%/năm/ P= 50%, Đất tăng 300%. Gillette vay hạn mức 500 triệu $ trong 5 năm đầu tư sang Chi Lê. Công ty khẳng định lợi nhuận của công ty đã tăng lên 300% và đầu tư cả bất động sản và dao cạo.

1. Theo bạn quyết định kinh doanh quốc tế của Gillete bằng phương thức đầu tư quốc tế của Gillette là đúng hay sai?

2. Phân tích về tài chính của Gillette sau 1 năm hoạt động nếu vốn đầu tư dài hạn (3 triệu USD) được vận hành theo cách “đầu tư nhân tiền” với mức lợi nhuận ngành 50%, ngân hàng cho vay 90% giá trị tài sản thế chấp và bất động sản tăng trưởng 300% thì vốn hoạt động công ty có thể là bao nhiêu ở Chi Lê?

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

IBS101_Bai1_v1.0013110214 3

1.1. Tổng quan về kinh doanh quốc tế

1.1.1. Kinh doanh quốc tế là gì?

Kinh doanh quốc tế là tổng hợp toàn bộ các giao dịch kinh doanh vượt qua các biên giới của 2 hay nhiều quốc gia. Những người tiêu dùng, các công ty, các tổ chức tài chính và chính phủ đều có vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh quốc tế. Người tiêu dùng có nhu cầu về các sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao của các công ty quốc tế. Các tổ chức tài chính giúp đỡ các công ty tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế thông qua đầu tư tài chính, trao đổi tiền tệ, và chuyển tiếp khắp toàn cầu. Các chính phủ điều tiết dòng hàng hoá, dịch vụ, nhân lực và vốn qua các đường biên giới quốc gia. Sau đây là một số giao dịch kinh doanh quốc tế có tính chất điển hình:

Hãng truyền thông AGB của Italia tiến hành nghiên cứu thị trường ở Hungari nhằm tìm hiểu các chương trình tivi mà dân chúng thường xem.

Để tài trợ cho các công ty thâm nhập vào thị trường Balan, Tập đoàn chứng khoán Daiwa của Nhật đã mở văn phòng ở Warsan (Ba lan).

Công ty Honda Motor Mỹ chuyển ô tô con từ Mỹ cho Honda Motor ở Nhật.

Ba doanh nghiệp trẻ nhập khẩu cà phê chính hiệu vào Trung Quốc để phục vụ người tiêu dùng ở thành phố Bắc Kinh và Thiên Tân.

Các số liệu về tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ, bao gồm cả xuất nhập khẩu được lưu chuyển qua biên giới của mỗi quốc gia. Thật đáng ngạc nhiên là tổng giá trị hàng năm đạt hơn 13,6 ngàn tỷ USD – nhiều hơn 2 ngàn tỷ USD so với tổng doanh thu hàng năm của 500 công ty hàng đầu thế giới gộp lại. Giá trị thương mại này lơn hơn 76 lần doanh thu của công ty lớn nhất thế giới, công ty General Motor.

Đơn vị: Triệu USD

1. Nertherlands 432,849 8. Mỹ 1.777,826

2. Bỉ 396,006 9. Đức 1167,470

3. Trung Quốc 333,088 10. Nhật 955.663

4. Hàn Quốc 330,647 11. Pháp 718,38

5. Singapore 304,647 12. Anh 690,263

6. Tây Ban Nha 292,975 13. Canada 433,620

Hình 1.2: Khối lượng TMQT của 14 quốc gia hàng đầu

Tại sao phải nghiên cứu kinh doanh quốc tế?

Mỗi người trong số chúng ta đang sử dụng những kết quả của hàng chục các giao dịch quốc tế diễn ra hàng ngày. Đồng hồ báo thức kèm radio của bạn có thể được sản xuất ở Trung Quốc. Những bản tin mà bạn đang nghe được phát từ đài BBC của Anh. Bạn mặc áo phông GAP sản xuất tai Ai Cập, quần bò Levis sản xuất ở Băng-la-đét và đi giày Nike được gia công ở Việt Nam với các phụ kiện được sản xuất ở một vài nước khác. Bạn bước vào chiếc xe Toyota của mình được sản xuất ở Kentucky, Mỹ và nghe nhạc pop từ đĩa CD phát hành tại Hà Lan do một ban nhạc Thụy Điển trình bày. Tại một quán cafe địa phương, bạn có thể thưởng thức cafe được chế biến từ hạt cafe trồng ở Colombia hay Kenia. Tất cả những hiện tượng đó có được là do có hoạt động

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

4 IBS101_Bai1_v1.0013110214

kinh doanh quốc tế dưới rất nhiều hình thức. Hình thức dễ nhận thấy nhất là các hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa gồm có:

Hàng hóa nhập khẩu: Toàn bộ hàng hóa và dịch vụ được một nước mua từ các tổ chức ở các nước khác.

Hàng hóa xuất khẩu: Toàn bộ hàng hóa và dịch vụ mà một nước bán cho nước khác.

Thậm chí không cần phải bước chân ra khỏi quốc gia mình nhưng bạn vẫn chịu sự tác động của kinh doanh quốc tế. Bất kể sống ở đâu đi nữa thì bạn cũng sẽ luôn bị bao quanh bởi các hàng hóa nhập khẩu – tất cả hàng hóa và dịch vụ được một nước mua từ các tổ chức ở các nước khác. Các đối tác của bạn trên toàn thế giới cũng sẽ tiêu dùng các hàng hóa xuất khẩu của nước bạn – tất cả hàng hóa và dịch vụ được một nước bán sang các nước khác.

Tại sao các công ty lại tham gia kinh doanh quốc tế?

Các công ty tham gia vào kinh doanh quốc tế vì họ xuất phát từ những nguyên nhân giống như khi họ quyết định mở rộng hoạt động trên thị trường nội địa: Đó là tăng doanh số bán hàng và tiếp cận các nguồn lực.

Tăng doanh số bán hàng: Mục tiêu tăng doanh số bán tỏ ra hấp dẫn khi một công ty phải đối mặt với 2 vấn đề: Cơ hội tăng doanh số bán hàng và năng lực sản xuất dư thừa.

o Cơ hội tăng doanh số bán quốc tế:

Các công ty thường tham gia kinh doanh quốc tế nhằm tăng doanh số bán hàng do các yếu tố như thị trường trong nước bão hòa hoặc nền kinh tế đang suy thoái buộc các công ty phải khai thác cơ hội bán hàng quốc tế.

Một lý do khác thúc đẩy các công ty tăng doanh số bán hàng quốc tế là do mức thu nhập bấp bênh. Các công ty có thể ổn định nguồn thu nhập của mình bằng cách bổ sung doanh số bán hàng quốc tế vào doanh số bán hàng trong nước. Nhờ đó mà có thể tránh được những dao động thất thường (quá tải hoặc không hết công suất) của quá trình sản xuất. Đặc biệt, các công ty sẽ nhảy vào thị trường quốc tế khi họ tin rằng khách hàng ở các nền kinh tế khác có thái độ tiếp nhận sản phẩm của mình và có thể mua chúng. Chiến lược kinh doanh của Mc Donald là một ví dụ điển hình. Ở Mỹ, trung bình 29.000 người dân Mỹ mới có một cửa hàng Mc Donald, nhưng ở Trung Quốc thì con số tương ứng là 40 triệu người/một cửa hàng. Do vậy, không có gì ngạc nhiên khi hãng Mc Donald đang mở rộng hoạt động ở thị trường Trung Quốc và khắp châu Á, nơi có tiềm năng tăng trưởng dài hạn rất lớn.

Một ví dụ khác cho thấy hãng Duncan Mac Grillivray muốn tăng doanh số bán quốc tế của mình. Mặc dù có diện tích gần như tương đương với nước Mỹ, nhưng Australia chỉ có 17,7 triệu dân so với 260 triệu ở Mỹ. Vì vậy, Hội đồng thương mại Australia đã giúp các công ty vừa và nhỏ phát huy tiềm năng của mình bằng cách hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu của họ. Một số doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ đã thu được những thành công đáng kể. Hãng Duncan Mac

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

IBS101_Bai1_v1.0013110214 5

Grillivray ở Adelaids đã tung ra sản phẩm nước chanh có ga hiệu Two Doggs bằng cách sử dụng lượng chanh dư thừa của một trang trại bên cạnh, cho thêm đường và làm thêm men hỗn hợp cùng với men bia. Sau khi nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường Australia, Two Dogs đã vươn sang Hong Kong, New Zealand, Singapore, Nam Phi, Anh và Mỹ. Người tiêu dùng châu Á đón nhận đồ uống này một cách nhiệt tình vì chanh là nguồn cung cấp vitamin C để chống lại khí hậu ở đây. Two Dogs hiện được sản xuất ở 4 châu lục và được tiêu thụ ở 44 nước. Doanh số hàng năm vượt quá 39 triệu USD, chủ yếu là doanh thu từ nước ngoài.

o Tận dụng công suất sản xuất dư thừa

Đôi khi các công ty sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn mức thị trường có thể tiêu thụ. Điều đó xảy ra khi các nguồn lực bị dư thừa. Nhưng nếu các công ty khai thác được nhu cầu tiêu thụ quốc tế mới thì chi phí sản xuất có được phân bổ cho số lượng nhiều hơn các sản phẩm làm ra, vì thế mà giảm bớt chi phí cho mỗi sản phẩm và tăng được lợi nhuận. Nếu lợi ích này được chuyển sang người tiêu dùng dưới hình thức hạ giá bán thì các công ty vẫn có thể chiếm được thị phẩn của các đối thủ cạnh tranh. Một vị trí thống trị trên thị trường có nghĩa là sức mạnh thị trường lớn hơn, do đó mang lại cho công ty vị thế mạnh hơn trong quá trình thương thảo cả với người bán lẫn người mua.

Tiếp cận nguồn lực nước ngoài

Các công ty tham gia kinh doanh quốc tế còn nhằm tiếp cận các nguồn lực mà trong nước không có sẵn hoặc đắt đỏ hơn. Thúc đẩy các công ty gia nhập thị trường quốc tế là nhu cầu về tài nguyên thiên nhiên – những sản phẩm do thiên nhiên tạo ra và hữu ích về mặt kinh tế hoặc công nghệ.

Chẳng hạn, Nhật Bản là một quốc đảo có mật độ dân số cao, nhưng lại có rất ít tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là rừng. Vì vậy, hoạt động của công ty sản xuất giấy lớn nhất của Nhật Bản là Nippon Seishi không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào việc nhập khẩu bột gỗ. Công ty này nắm quyền sở hữu các khu rừng rộng lớn và các cơ sở chế biến gỗ ở Australia, Canada và Mỹ. Bằng cách kiểm soát các giai đoạn đầu của quá trình sản xuất giấy, công ty đảm bảo cho mình một nguồn cung ứng đầu vào (bột gỗ) ổn định và ít gặp phải những bất trắc như trong trường hợp phải mua bột gỗ trên thị trường tự do. Tương tự, để tiếp cận được các nguồn năng lượng rẻ hơn dùng trong các ngành sản xuất công nghiệp khác, một loạt các công ty của Nhật Bản đang đặt cơ sở sản xuất tại Trung Quốc, Mexico, Đài Loan và Việt Nam – những nơi có mức chi phí năng lượng thấp hơn.

Các thị trường lao động cũng là các nhân tố thúc đẩy các công ty tham gia vào kinh doanh quốc tế. Có một phương pháp được các công ty sử dụng để duy trì mức giá có tính cạnh tranh quốc tế là tổ chức sản xuất ở những nước có chi phí lao động thấp. Nhưng nếu chi phí lao động thấp là lý do duy nhất để một quốc gia cuốn hút các công ty quốc tế thì khi đó các nhà kinh doanh có lẽ sẽ chỉ đổ xô vào những nơi như Afghanistan hay Somalia. Để có sức hấp dẫn, một quốc gia phải có

Nhà máy Nippon Seiki Việt Nam

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

6 IBS101_Bai1_v1.0013110214

mức chi phí thấp, có đội ngũ công nhân lành nghề và một môi trường với mức độ ổn đinh về kinh tế, chính trị, và xã hội có thể chấp nhận được. Khi các điều kiện nói trên được thỏa mãn thì một quốc gia sẽ thu hút được dòng đầu tư dài hạn cần thiết cho công cuộc phát triển kinh tế của mình.

1.1.2. Các chủ thể tham gia vào kinh doanh quốc tế

Các công ty thuộc tất cả các loại hình, các loại quy mô và ở tất cả các ngành đều tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế. Tất cả các công ty sản xuất, công ty dịch vụ và công ty bán lẻ đều tìm kiếm khách hàng ngoài biên giới quốc gia mình.

Một công ty quốc tế là công ty tham gia trực tiếp vào bất kỳ hình thức nào của hoạt động kinh doanh quốc tế như xuất khẩu, nhập khẩu, hay sản xuất quốc tế. Vì vậy, sự khác nhau giữa các công ty là ở phạm vi và mức độ tham gia vào kinh doanh quốc tế. Chẳng hạn, một công ty nhập khẩu chỉ có hoạt động mua hàng từ các nhà cung cấp nước ngoài vẫn được coi là một công ty quốc tế vì công ty này đã tham gia chuỗi giá trị quốc tế.

Tương tự, một công ty lớn có các nhà mày phân bổ trên khắp thế giới cũng là một công ty quốc tế, nhưng cũng được gọi là công ty đa quốc gia (MNC) – một công ty tiến hành đầu tư trực tiếp (dưới hình thức các chi nhánh sản xuất hoặc marketing) ra nước ngoài ở một vài hay nhiều quốc gia. Như vậy, mặc dầu tất cả các công ty có liên quan đến một khía cạnh nào đó của thương mại hoặc đầu tư quốc tế đều được coi là công ty quốc tế, nhưng chỉ có các công ty có đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mới được gọi là các công ty đa quốc gia.

Các công ty đa quốc gia này đôi lúc còn được gọi là các công ty toàn cầu nếu chúng hoạt động ở hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên, các chiến lược được các công ty sử dụng trong các hoạt động kinh doanh quốc tế lại là một vấn đề thú vị và sẽ xem xét kỹ ở các phần sau. Cụ thể hơn các loại hình công ty quốc tế khác nhau bao gồm:

Các doanh nhân và doanh nghiệp nhỏ

Các công ty nhỏ đang ngày càng càng tham gia tích cực vào hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế. Một nghiên cứu gần đây đã cho thấy các công ty nhỏ tham gia vào hoạt động xuất khẩu nhiều hơn và tăng trưởng một cách nhanh hơn. Dưới tác động của đổi mới công nghệ đã gỡ bỏ nhiều trở ngại thực tế đối với hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ.

Trong khi các kênh phân phối truyền thống thường chỉ cho phép các công ty lớn thâm nhập vào các thị trường nước ngoài, thì phân phối qua mạng điện tử là giải pháp ít tốn kém và có hiệu quả đối với nhiều doanh nghiệp nhỏ. Một vài công ty nhỏ gần như “cư trú” thường xuyên trong không gian mạng, và tiếp cận tới các khách hàng trên thế giới qua hệ thống World Wide Web (WWW). Ví dụ, công ty Weekend a Firenze của Alessandro Naldi, có trang Web mời chào các khách hàng trên khắp thế giới những sản phẩm được coi là đích thực cuả vùng Florence, chứ không phải là những mặt hàng mà khách du lịch có thể tìm thấy tại các cửa hàng bán đồ lưu niệm với giá cắt cổ ở thành phố Florence. Bản thân Naldi là người xứ Florence và ông đã thiết lập trang web của mình để bán những mặt hàng Italia

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

IBS101_Bai1_v1.0013110214 7

chính hiệu với chất lượng cao được sản xuất tại các nhà máy nhỏ ở Tuscany. Hiện tại, trung bình hàng tháng Weekend a Firenze thu hút được 20.000 du khách, trong đó 40% đến từ Nhật Bản, 30% đến từ Mỹ và các số còn lại đến từ Hy Lạp, Australia, Canada, Mexico, Ả rập, Xêut và Italia.

Tuy nhiên, không phải tất cả các công ty nhỏ đều quan tâm đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và bán hàng quốc tế. Chẳng hạn trong một năm gần đây chỉ có 10% các công ty Mỹ có số công nhân dưới 100 người đã tiến hành xuất khẩu, trong khi tất cả các công ty còn lại chiếm 18%. Mặc dù, trên thực tế còn có những trở ngại nhất định đối với các doanh nghiệp nhỏ như thiếu vốn đầu tư, kinh nghiệm quốc tế...

Các công ty đa quốc gia

Các công ty đa quốc gia rất khác nhau về quy mô, có thể nhỏ như công ty chứng khoán Pinkerton với doanh số hàng năm khoảng 900 triệu USD, có thể lớn như Mitsubishi với doanh số hơn 128 tỷ USD. Các công ty đa quốc gia nổi tiếng khác là Boeing (Mỹ), Sony (Nhật), Volvo (Thụy Điển), Coca-Cola (Mỹ), và Samsung Electronics (Hàn Quốc)…

Các đơn vị kinh doanh của những công ty quốc tế lớn có thể hoạt động một cách độc lập hoặc như là những bộ phận của một mạng toàn cầu liên kết chặt chẽ. Hoạt động độc lập được lựa chọn khi công ty có sự am hiểu về văn hóa địa phương và có khả năng nhanh chóng đối với những biến động trên thị trường địa phương. Mặt khác, các công ty hoạt động với tư cách là một hệ thống toàn cầu thường cảm thấy dễ dàng hơn trong việc phản ứng lại những biến động bằng cách di chuyển sản xuất, tiến hành marketing và các hoạt động khác giữa các đơn vị kinh doanh ở các nước. Việc xác định cơ cấu tổ chức nào được coi là phù hợp sẽ tùy thuộc vào hình thức kinh doanh.

Vai trò quan trọng về mặt kinh tế của các công ty đa quốc gia

Như chúng ta đã thấy, nếu các công ty vừa và nhỏ có vai trò đặc biệt quan trong đối với nền kinh tế một nước thì tại sao các bản tin về kinh tế và kinh doanh lại chủ yếu tập trung đưa tin về các công ty quốc tế lớn? Ở đây có 2 nguyên nhân chính:

(1) Ưu thế về kinh tế và chính trị khiến cho vai trò của các công ty này càng nổi bật hơn. Các công ty lớn tạo ra nhiều việc làm, bỏ vốn đầu tư lớn và mang lại nguồn thu nhập quan trọng cho nước sở tại từ thuế. Tương tự, những thông báo về việc đóng cửa các nhà máy của nhưng công ty quốc tế lớn được phát đi như là những bản tin chính bởi vì điều đó dẫn đến hàng trăm, thậm chí hàng ngàn người bị mất việc làm.

(2) Các giao dịch của các công ty này thường liên quan tới lượng tiền tệ rất lớn. Thông thường mức thu nhập và các giao dich của các công ty lớn, chẳng hạn các công ty được sát nhập và thôn tính, có thể đạt đạt tới con số hàng trăm triệu, có khi tới hàng trăm tỉ USD. Năm 1998, công ty Daimler – Benz của Đức đã tuyên bố sát nhập với Chrysler Corporation thành một công ty mới với số vốn 40 tỷ USD, vào tháng 12 cùng năm đó, 2 công ty dầu khí toàn cầu

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

8 IBS101_Bai1_v1.0013110214

là Exxon và Mobil cùng đã đạt thỏa thuận tạo lập một công ty sát nhập đối với số vốn lên tới 86 tỷ USD.

Các công ty đa quốc gia và GDP của các quốc gia:

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): Toàn bộ giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong giai đoạn một năm trên cơ sở sử dụng các nguồn lực sẵn trong phạm vi một quốc gia.

Chúng ta có thể nhận thấy ảnh hưởng kinh tế to lớn của các công ty đa quốc gia khi so sánh doanh số của các công ty trong số 500 công ty lớn nhất thế giới với giá trị hàng hóa và dịch vụ sản xuất ra ở những nước khác nhau. Bảng 1.2 xếp 9 công ty đa quốc gia có doanh số hàng năm cao nhất vào danh sách các quốc gia xếp thứ tự từ vị trí 24 đến 34 xét theo giá trị sản lượng quốc gia. Chỉ tiêu đo sản lượng quốc gia là sản phẩm quốc nội (GDP) – toàn bộ giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong gia đoạn một năm trên cơ sở sử dụng các nguồn lực sẵn có trong phạm vi một quốc gia. Điều này có nghĩa là nếu General Motors là một nước thì nó sẽ là một nước giàu và đứng trước cả Đan Mạch và Na Uy. Thậm chí, công ty lớn thứ 500 trên thế giới với tên gọi là Mặt trời của nước Mỹ (Sun của the United States) có doanh thu lớn hơn cả GDP của nhiều nước. Công ty Dịch vụ bưu điện quốc gia Mỹ có 898.384 nhân viên, General Motors đướng thứ ba với 608.000 nhân viên. Tất cả các nghành công nghiệp đều có mặt trong danh sách 500 công ty toàn cầu, từ ngành thực phẩm và đồ uống cho đến khai khoáng và sản xuất dầu thô. Mở rộng danh sách các công ty đa quốc gia có doanh số hàng năm lớn nhất (từ 10 đến 29) và giới thiệu sự phân bố quôc tế của 500 công ty lớn nhất toàn cầu.

Bảng 1.2: So sánh doanh thu của 500 công ty toàn cầu với GDP một số quốc gia

Nước/Công ty GDP/Doanh số (Triệu USD)

24. Thổ Nhĩ Kỳ 181.464

Genral Motor 178.174

25. Đan Mạch 174.247

26. Na Uy 157.802

27. Hong Kong (Trung Quốc) 154.767

Ford motor 153.627

Misui 142.688

28. Ba Lan 134.477

Mitsubishi 128.922

Tập đoàn Royal Dutch/Shell 128.142

Itochu 126.632

29. Nam Phi 126.301

30. Ả Rập Xê út 126.266

31. Phần Lan 123.966

32. Hy Lạp 123.946

Wall – Mart Stores 123.479

Maruibeni 111.121

33. Bồ Đào Nha 104.000

Sumitomo 102.395

34. Maylasysia 99.213

Nguốn: năm 2006

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

IBS101_Bai1_v1.0013110214 9

Bảng 1.3: Doanh thu của các công ty trong 500 công ty lớn nhất toàn cầu

Công ty Doanh số (triệu USD)

10. Toyota Motor 95.137

11. General Electric 90.840

12. Nissho Electric 81.894

13. International business machines (IBM) 78.508

14. Nippon telegraph & telephone 76.984

15. AXA 76.874

16. Daimler – Benz 71.561

17. Daewoo 71.526

18. Nippon Life Insurance 71.538

19. British Petroleum 71.194

20. Hitachi 68.567

21. Volkswagen 65.328

22. Matsushita electric Industrial 64.281

23. Siemens 63.755

24. Chryler 61.147

25. Mobil 59.978

26. U.S Postal Service 58.216

27. Allianz 56.785

28. Philip Morris 56.114

29. Sony 55.033

Nguồn: năm 2006

Nguồn: năm 2006

1.1.3. Các hình thức kinh doanh quốc tế

Nhóm hình thức kinh doanh thuộc lĩnh vực ngoại thương:

o Nhập khẩu là hoạt động đưa các hàng hóa và dịch vụ vào một nước do các chính phủ, tổ chức hoặc cá nhân đặt mua từ các nước khác nhau.

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

10 IBS101_Bai1_v1.0013110214

o Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hóa và dịch vụ ra khỏi một nước sang các quốc gia khác để bán.

o Gia công quốc tế: là hoạt động Bên đặt gia công giao hoặc bán đứt nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công. Sau một thời gian thỏa thuận, Bên nhận gia công nộp hoặc bán lại thành phẩm cho bên đặt gia công. Bên đặt gia công phải trả cho bên nhận gia công một khoản gọi là phí gia công.

o Tái xuất khẩu là xuất khẩu trở lại ra nước ngoài những hàng hóa trước đây đã nhập khẩu nhưng không qua gia công chế biến. Tuy nhiên, trong thực tế có một số cách thức tái xuất, tái nhập khác nhau mà các công ty có thể lựa chọn tùy theo điều kiện cụ thể của mình.

o Chuyển khẩu là hàng hóa được chuyển từ một nước sang nước thứ ba thông qua một nước khác, thực chất danh nghĩa nước chuyển khẩu sẽ chỉ đóng dấu chuyển cho nước nhập khẩu kiểm tra hàng hóa.

o Xuất khẩu tại chỗ là hành vi bán hàng hóa cho người nước ngoài trên lãnh thổ của mình.

Nhóm hình thức kinh doanh thông qua các hợp đồng:

o Hợp đồng cấp giấy phép (Hợp đồng li-xăng) là hợp đồng thông qua đó một công ty (doanh nghiệp) người cấp giấy phép trao quyền sử dụng những tài sản vô hình của mình cho một doanh nghiệp khác trong một thời gian nhất định, người được cấp giấy phép (li-xăng) phải trả cho người cấp giấy phép một số tiền nhất định.

o Hợp đồng đại lý đặc quyền: là một hợp đồng hợp tác kinh doanh thông qua đó là người đưa ra đặc quyền trao và cho phép người nhận đặc quyền sử dụng tên công ty rồi trao cho họ nhãn hiệu, mẫu mã, và tiếp tục thực hiện sự giúp đỡ hoạt động kinh doanh của đối tác đó. Ngược lại, công ty nhận được một khoản tiền mà đối tác trả cho công ty.

o Hợp đồng quản lý là hợp đồng qua đó một vài doanh nghiệp thực hiện sự giúp đỡ của mình đối với một doanh nghiệp khác quốc tịch bằng việc đưa ra những nhân viên quản lý của mình để hỗ trợ cho doanh nghiệp kia thực hiện các chức năng quản lý.

o Hợp đồng theo đơn đặt hàng là loại hợp đồng thường diễn ra với các dự án lớn, đa dạng, chi tiết với những bộ phận rất phức tạp cho nên các vấn đề về vốn, công nghệ quản lý, họ không tự đảm nhận được mà phải ký hợp đồng theo đơn đặt hàng từng khâu, từng giai đoạn của dự án đó.

o Hơp đồng xây dựng và chuyển giao là những hợp đồng được áp dụng chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng trong đó chủ đầu tư nước ngoài bỏ vốn ra xây dựng công trình, kinh doanh trong một khoảng thời gian nhất định sau đó chuyển giao lại cho nước sở tại trong tình trạng công trình còn đang hoạt động tốt mà nước sở tại không phải bồi hoàn tài sản cho bên nước ngoài.

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

IBS101_Bai1_v1.0013110214 11

o Hợp đồng phân chia sản phẩm là loại hợp đồng mà hai bên hoặc nhiều bên ký kết với nhau cùng nhau góp vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh và sản phẩm được sẽ được chia cho các bên theo tỷ lệ góp vốn hoặc thỏa thuận.

Nhóm hình thức kinh doanh thông qua đầu tư nước ngoài:

o Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức chủ đầu tư mang vốn hoặc tài sản sang nước khác để đầu tư kinh doanh và trực tiếp quản lý và điều hành đối tượng mà họ vốn đồng thời chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả kinh doanh của dự án.

o Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức chủ đầu tư nước ngoài mang vốn sang nước khác để đầu tư nhưng không tham gia trực tiếp và điều hành đối tượng bỏ vốn đầu tư hoặc thông qua việc mua cổ phiếu ở nước ngoài hoặc cho vay.

o Thực tiễn kinh doanh quốc tế sẽ còn xuất hiện nhiều hình thức mới để các công ty lựa chọn như kinh doanh tổng hợp và các dịch vụ quốc tế. Trên đây, là các hình thức phổ biến nhất và cơ bản nhất mà các chủ thể kinh doanh quốc tế có thể lựa chọn cho phù hợp với điều kiện của mình.

1.2. Toàn cầu hóa

1.2.1. Các loại toàn cầu hóa

Toàn cầu hóa là quá trình hội nhập của các nền kinh tế quốc gia. Mặc dù, Chính phủ các nước đều đang duy trì sự kiểm soát chặt chẽ đối với hàng hóa, nhân công và luồng vốn lưu chuyển trên thị trường của mình, nhưng nền kinh tế toàn cầu đang ngày càng trở thành một chính thể thống nhất. Quá trình hội nhập của các nền kinh tế quốc gia gọi là toàn cầu hoá.

Toàn cầu hóa thị trường

Quá trình toàn cầu hóa các thị trường (nơi người mua và người bán gặp gỡ để trao đổi hàng hóa và dịch vụ). Ví dụ, sở thích của người tiêu dùng đối với một số thực phẩm đang có xu hướng đồng hóa với nhau trên toàn thế giới. Sony, LL Bean, Nike, the Gap, Calvin Kelin, Coca Cola, Mcdonald’s chỉ là số ít công ty đang ra những sản phẩm toàn cầu – những sản phẩm được đưa ra thị trường ở tất cả các nước mà hầu như không cần sự thay đổi nào. Đôi khi các công ty thực hiện một số thay đổi nhỏ để đáp ứng sở thích của dân chúng địa phương. Ở vùng phía Nam Nhật bản, hãng Coca Cola đã tăng độ ngọt trong công thức truyền thống của mình để cạnh tranh với mặt hàng Pepsi ngọt hơn. Ở Ấn Độ, nơi bò được coi là con vật linh thiêng, việc ăn thịt bò bị cấm, hãng Mcdonald đưa ra thị trường món “Malaraja Mac” – loại bánh bao gồm chả bằng thịt cừu có rắc vừng.

Toàn cầu hóa hoạt động sản xuất

Ngày nay, nhiều hoạt động sản xuất được biến thành những hoạt động mang tính toàn cầu. Công nghệ cho phép một sản phẩm bất kỳ có thể được sản xuất ở nơi nào mà việc sản xuất được coi là rẻ nhất. Chính phủ và chính quyền các địa phương đều đưa ra rất nhiều quy định nhằm khuyến khích các công ty xây dựng các nhà

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

12 IBS101_Bai1_v1.0013110214

máy ở đất nước hoặc địa phương của mình. Chiến lược này sẽ mang lại việc làm cho quốc gia nơi được lựa chọn để xây dựng nhà máy, nhưng có thể tạo ra tình trạng thất nghiệp đối với quốc gia nơi được lựa chọn để xây dựng nhà máy, nhưng có thể tạo ra tình trạng ở quốc gia đó sẽ bị đóng cửa.

Chẳng hạn, các trung tâm kinh doanh ở châu Á như Kuala Lumpur (Malaysia), Singapore, thượng Hải (Trung Quốc) và Vịnh Xubich của Philippines, đang lôi cuốn các công ty toàn cầu bằng các mức thuế và trợ cấp ưu đãi và công nhân được đào tạo tốt. Chính phủ Philippines, từng nổi tiếng về việc trói buộc các nhà đầu tư nước ngoài với lề thói làm việc quan liêu, hiện đang mở đường cho Federal Express và ba công ty chuyển phát khác chuyển đổi căn cứ hải quân của Mỹ trước đây tại Vịnh Xubich thành nột trung tâm kinh doanh ở Châu Á. Một quan chức của Fedex nói rằng: “Chính quyền địa phương này mong muốn biến chúng tôi thành người chủ tại Vịnh Xubich thành một trung tâm kinh doanh ở châu Á. Điều này có ảnh hưởng lớn tới quyết định của chúng tôi”.

Vai trò của các quốc gia có chi phí thấp ngày càng tăng, các nhà quản trị sẽ cần phải hiểu biết nhiều hơn về trường kinh doanh ở các nước đó. Để có được thông tin chi tiết hơn về những nước mà các nhà quản trị được cử sang nghiên cứu với nội dung “Mười lăm nước đứng đầu thế giới thu hút các nhà đầu tư Mỹ”.

Bảng 1.5: 15 nước hàng đầu thế giới thu hút các nhà đầu tư Mỹ

1. Anh 6. Mexico 11. Singapore

2. Đức 7. Brazil 12. Thái

3. Úc 8. A rập xê út 13. Thuỵ Sỹ

4. Nhật 9. Puertro Rico 14. Trung Quốc

5. Pháp 10. Hà Lan 15. Peru

1.2.2. Các động lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa

Có 2 yếu tố chính đang thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa các thị trường và hoạt động sản xuất là: Giảm bớt các trở ngại đối với thương mại và đầu tư và sự đổi mới công nghệ tăng lên.

Sau đây là từng yếu tố như sau:

Giảm bớt các trở ngại đối với thương mại và đầu tư

Hiệp định GATT: Vào năm 1947, 23 quốc gia đã làm nên sự kiện lịch sử khi được sáng lập. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). GATT là một hiệp định quốc tế có chức năng thiết lập những quy tắc cụ thể đối với thương mại quốc tế nhằm mở cửa các thị trường quốc gia thông qua việc cắt giảm thuế quan và các trở ngại phi thuế quan như hạn ngạch (những hạn chế đối với khối lượng hàng hóa được phép đưa vào một nước). Ngày nay, GATT có 133 thành viên tham gia và là hiệp định điều tiết khối lượng thương mại toàn cầu lớn nhất.

Vai trò của các khối thương mại khu vực

Các quốc gia đang liên kết các nền kinh tế của mình thành các khối thương mại khu vực ngày càng có ảnh hưởng lớn tới thương mại toàn cầu. Chẳng hạn, Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA) liên kết quốc gia (Canada, Mexico và Mỹ) thành một khối thương mại tự do. Một khối có kỳ vọng lớn hơn là Liên minh

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

IBS101_Bai1_v1.0013110214 13

châu Âu (EU) bao gồm 15 nước ban đầu. Ngoài ra, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) tập hợp 18 quốc gia đã cam kết thành lập một khu vực mậu dịch tự do dọc theo vòng cung biển Thái Bình Dương. Tất cả các hiệp định trên đều đặt mục tiêu giảm bớt các trở ngại đối với thương mại quốc tế. Nhờ có những sáng kiến như vậy nên thương mại quốc tế ngày nay có tốc độ tăng trưởng cao và tác động đến tăng trưởng của sản xuất trên toàn thế giới.

Sự phát triển của công nghệ thông tin:

Việc giảm bớt các trở ngại đối với thương mại và đầu tư kích thích quá trình toàn cầu hóa, thì sự gia tăng đổi mới công nghệ đang thúc đẩy mạnh hơn quá trình đó. Những tiến bộ đạt được trong công nghệ thị trường và vận tải đang làm cho quá trình chuyển tải số liệu hàng hoá, thiết bị, và con người trên toàn thế giới diễn ra dễ dàng hơn, nhanh hơn và với chi phí thấp hơn.

Hoạt động kinh doanh như quản lý lao động và lập kế hoạch sản xuất ở một vài địa điểm trở nên khó khăn và tốn kém hơn, khi chúng được tổ chức ở ngoài phạm vi biên giới quốc gia và những vùng có múi giờ khác nhau. Nhưng các công nghệ máy tính mới có thể đẩy nhanh dòng thông tin, từ đó làm làm cho qua trình phối hợp và kiểm soát trở nên dễ dàng và ít tốn kém hơn. Chẳng hạn, bằng thư điện tử (email) các nhà quản trị có thể tiếp cận tới các giao dịch quôc tế và phản ứng nhanh chóng đối với các vấn đề quan trọng nảy sinh. Kỹ thuật hội thảo qua màn hình cho phép các nhà quản lý gặp gỡ nhau trong khi họ vẫn ngồi tại các văn phòng của các chi nhánh khác nhau và cho phép các kĩ sư cộng tác với nhau trong việc thiết kế sản phẩm từ nhiều địa điểm xa xôi. Kết quả là doanh số bán của toàn thế giới về thiết bị hội nghị qua màn hình đã tăng từ 1,6 tỷ USD năm 1996 lên khoảng 7 tỷ USD năm 1998.

o Mạng toàn cầu, mạng nội bộ và mạng mở rộng: Các công ty còn sử dụng mạng toàn cầu Internet và WWW (world wide web) để tiếp cận với các hoạt động sản xuất và phân phối quốc tế. Một công trình nghiên cứu gần đây cho thấy 61% các nhà quản trị cảm thấy rằng kiến thức về internet sẽ giúp họ trở thành những nhà quản trị theo sát thị trường hơn, 76% tin rằng sự hiểu biết về mạng (net – savvy) sẽ có lợi cho nghề nghiệp của họ trong vòng 5 năm tới.

Nhiều mạng riêng của các trang web nội bộ công ty và những nguồn thông tin khác (gọi là intranet) cho phép các nhân viên truy cập thông tin của công ty mình từ những địa điểm xa xôi thông qua máy tính để bàn và Modem. Hãng Microsoft thông báo rằng các dữ liệu phân tích bán hàng được truy cập nhiều hơn 5 lần bình thường khi chúng được đưa vào mạng intranet của công ty. Ngày nay cái gọi là các mạng mở rộng (extranet) đang được phát triển để giúp các nhà phân phối và những người cung cấp có thể truy cập vào cơ sở dữ liệu của một công ty, do vậy họ có thể đặt hàng hoặc nhập lại hàng tồn kho theo hệ thống cơ sở và tự động. Tất cả các công nghệ mới đó cho phép các nhà quản trị

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

14 IBS101_Bai1_v1.0013110214

có thể phản ứng một cách nhanh chóng hơn bao giờ hết với các điều kiện bên trong lẫn bên ngoài.

o Công nghệ thông tin và kinh doanh nhỏ. Công nghệ máy tính có thể làm tăng khả năng cạnh tranh của các công ty nhỏ thông qua việc giảm chi phí tiếp cận thị trường quốc tế. Trên thực tế các công ty nhỏ thuộc diện những người đầu tiên sử dụng trang Web như là một công cụ Marketing toàn cầu và nhiều công ty còn thể có thể phản ứng nhanh hơn các công ty lớn trước những điều kiện thị trường luôn bị biến động.

Những doanh nghiệp kinh doanh trên mạng đang nhanh chóng vượt lên các đối thủ cạnh tranh khi các đối thủ không nhanh nhạy và hiểu biết về mạng. Một nhà thiết kế trang Web ở Caracas, Venezuela, là Jim chủ hãng TIR Shop nói rằng: “Tôi cho rằng trường hợp của chúng tôi là khá điển hình. Hãng của chúng tôi đã ở tình trạng báo động cho đến khi chúng tôi bắt đầu bán hàng vào thị trường Mỹ thông qua bán hàng qua mạng.” Đối với Jonathan Strum, một khách hàng của TJ ở Los Angeles, thì trang Web dường như làm cho Caracas nằm ngay bên cạnh. Ông nói thêm “Cách đây không lâu, tôi đã từng có ý nghĩ rằng việc phụ thuộc vào một công ty ở Caracas để có được những dịch vụ cần thiết cho hoạt động kinh doanh của chúng tôi nhưng cứ nghĩ đó là điều xa vời. Nhưng giờ đây tôi đang nhập khẩu toàn bộ thiết kế đồ họa và phần lớn chương trình của chúng tôi từ nước ngoài”.

o Một số thuận lợi và bất lợi của công nghệ thông tin. Một số nhà kinh doanh cảm thấy rất khó tồn tại được trên Internet. Phần lớn các thuê bao internet đều phải chịu lỗ ít nhất 3 năm trước khi bắt đầu có được lợi nhuận – và thời gian đó là quá lâu đối với đa số các công ty nhỏ. Những công ty tồn tại được lại có xu hướng chỉ bán các loại hàng hóa giá thấp và có nhu cầu lớn. Nhưng ngay cả những mặt hàng bán chạy nhất cũng khó có thể bán được trên Internet, đặc biệt khi người mua vẫn còn do dự khi chuyển những thông tin của thẻ tín dụng qua không gian mạng (cyberspace). Một cuộc điều tra gần đây cho thấy chỉ có 15% số người sử dụng Internet đã từng mua một thứ gì đó qua mạng. “Mua bán qua cửa sổ mạng” và thu nhập thông tin là những hoạt động ngày càng trở nên phổ biến.

o Công nghệ thông tin với lĩnh vực phân phối. Một vài công ty dựa vào internet có thể tạo ra mối đe dọa đối với các đối thủ cạnh tranh nếu họ chỉ đơn thuần dựa vào phương pháp phân phối truyền thống. Chẳng hạn, 62% chi phí sản xuất cho một sản phẩm phát sinh từ các hoạt động diễn ra sau quá trình sản xuẩt. Bằng cách sử dụng các thuê bao trên trang Web để bỏ qua các trung gian như các nhà bán buôn và các nhà bán lẻ, các công ty có thể tham gia vào thị trường toàn cầu, giảm bớt chi phí hậu sản xuất và giúp khách hàng tiết kiệm được tiền khi mua hàng.

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

IBS101_Bai1_v1.0013110214 15

Chiến lược này là phù hợp nhất với các hãng chào bán các sản phẩm như âm nhạc, phần mềm vi tính và dịch vụ du lịch. Trên thực tế, dịch vụ du lịch được dự đoán là sẽ có bước nhảy vọt lớn nhất về doanh thu qua mạng. Amazon.com là một nhà phát hành sách với các cửa hàng tồn tại chỉ trên internet, cùng tồn tại với những nhà phát hành sách lâu đời như Borders Books và Barnes & Noble, Amazon.com tự xưng là cửa hàng sách lớn nhất thế giới trên trái đất. Hoạt động bán hàng phát đạt của Amazon.com đã buộc Barnes & Noble cũng phải mở một cửa hàng sách riêng của mình trên trang Web riêng với tên gọi là Barnesandnoble.com.

Sự phát triển của giao thông vận tải

Cũng giống như trong công nghệ thị trường, những tiến bộ về phương thức vận tải đang giúp cho quá trình toàn cầu hóa thị trường và hoạt động sản xuất. Tiến bộ trong vận tải máy bay cho phép các nhà quản trị đi lại nhanh chóng và rẻ hơn tới các địa điểm ở các nước khác. Khi thu nhập tăng và việc đi lại thuận lợi, ngày càng có nhiều người thực hiện các chuyến đi nghỉ quốc tế. Kết quả là sở thích của người tiêu dùng trở nên mang tính toàn cầu cao hơn một khi các khách có cơ hội tiêu dùng hàng hóa ở các nước khác và vẫn có nhu cầu đối với chúng sau khi quay về tổ quốc.

Các tiến bộ trong lĩnh vực vận tải cũng góp phần thúc đẩy toàn cầu hóa. Sự ra đời của nhiều tàu chở hàng khổng lồ có thể chuyên chở một khối lượng hàng hóa cực lớn đã giảm chi phí vận tải đường biển. Phương thức chuyên chở bằng con – ten – nơ có thể xếp được trên xe tải, tàu hỏa, tàu thủy, cho nên việc chuyên chở hàng hóa được thực hiện nhanh hơn và chi phí sử dụng hai hoặc nhiều phương tiện chuyên chở hơn sẽ giảm xuống.

1.3. Kinh doanh: Viễn cảnh toàn cầu

Một số người coi kinh doanh quốc tế là một vấn đề “ta hay nước ngoài”. Tâm lý phòng thủ này khiến nhiều quốc gia tạo ra các trở ngại đối với thị trường của họ. Thông thường, phản ứng cắt đứt mối liên hệ giữa các thị trường, từ những thị trường tiềm năng đến các cơ hội đầu tư. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các quốc gia đã tìm mọi cách ngăn cản sự thất thoát của cải của mình bằng cách hạn chế nhập khẩu và bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước. Đến đầu những năm 30, tư tưởng này đã trở thành một yếu tố góp phần dẫn đến cuộc đại suy thoái trên toàn thế giới. Quan điểm toàn cầu sẽ giúp cho việc giảm nguy cơ tiềm ẩn về khủng hoảng kinh tế.

Các nhà kinh doanh phải cố gắng phá bỏ ranh giới nơi họ sống và làm việc với nơi được coi là nền văn hóa xuất thân. Họ phải nhìn nhận thị trường toàn cầu qua con mắt của những người khác với nền tảng văn hóa khác nhau. Ngày nay, ngày càng có nhiều công ty muốn các nhà quản trị của họ phải tư duy trên giác độ toàn cầu và không bị cản trở bởi chủ nghĩa dân tộc.

Công ty Sony đang trong quá trình tạo lập một tổ chức với hai trụ sở. Các hoạt động toàn cầu trên các lĩnh vực tài chính, luật pháp và chiến lược kinh doanh trước đây chỉ

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

16 IBS101_Bai1_v1.0013110214

được thực hiện ở Tokyo thì giờ đây sẽ được chia sẻ với văn phòng của Sony ở New York. Một nhà quản trị cao cấp Sony giải thích “Nếu những trụ sở của chúng ta chỉ nằm ở Nhật Bản thì tư duy của các nhà quản trị của chúng ta sẽ thiên theo hướng hạn chế việc xây dựng những chiến lược trên giác độ toàn cầu”. Tuy nhiên, tất cả những nhà quản trị hàng đầu của công ty vẫn là người Nhật. Các nhà quan sát cho rằng đối với Sony, để hình thành một công ty và một nền văn hóa mang tính “toàn cầu thực sự” thì bộ phận quản lý hàng đầu phải bao gồm các nhà quản trị có hiểu biết về các nền văn hóa khác nhau. Thể hiện 3 yếu tố cấu thành của viễn cảnh toàn cầu:

Một là: Các môi trường kinh doanh quốc gia

Hai là: Môi trường kinh doanh quốc tế

Ba là: Quản trị kinh doanh quốc tế

Hàm ý rằng cả môi trường kinh doanh quốc gia lẫn quốc tế đều ảnh hưởng đến quá trình quản trị hoạt động kinh doanh quốc tế.

1.3.1. Môi trường kinh doanh quốc gia

Mặc dù toàn cầu hóa đang làm cho các nền kinh tế trên thế giới xích lại gần nhau hơn, nhưng giữa các quốc gia còn tồn tại nhiều sự khác biệt. Mỗi một môi trường kinh doanh quốc gia bao gồm tất cả các yếu tố bên ngoài công ty nhưng có thể tác động tới hoạt động của công ty đó. Mỗi một yếu tố này lại phụ thuộc vào một trong bốn nhóm yếu tố thuộc môi trường bên ngoài: văn hóa, chính trị và luật pháp, kinh tế và cạnh tranh. Sau đây là những đặc trưng cơ bản của bốn nhóm này:

Bốn nhóm yếu tố môi trường:

o Những nhân tố văn hóa phản ánh thẩm mỹ, giá trị và thái độ, phong tục và tập quán, cấu trúc xã hội, tôn giáo, giao tiếp cá nhân, giáo dục và các môi trường vật chất và các môi trường quốc gia sẽ giúp các nhà quản trị điều hành có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất và bán hàng của họ.

o Những nhân tố chính trị và luật pháp là những vấn đề liên quan đến vai trò quan trọng của chính phủ và luật pháp đối với quản trị kinh doanh. Các yếu tố chính trị bao gồm sự ổn định của chính phủ, mức độ tham nhũng trong hệ thống chính sách kinh tế. Các yếu tố luật pháp bao gồm các đạo luật điều chỉnh việc trả lương tối thiểu, an toàn lao động cho công nhân, bảo vệ môi trường và người tiêu dùng và những gì được quy định là hành vi cạnh tranh hợp pháp hoặc bất hợp pháp.

o Những yếu tố kinh tế bao gồm các biến số về kinh tế và tài chính như lãi suất và thuế suất, cơ cấu tiêu dùng, năng suất và mức sản lượng. Các yếu tố đó còn bao gồm những chỉ số về hạ tầng cơ sở như truyền thông, mạng lưới phân phối (đường cao tốc, sân bay...) và mức độ sẵn có và phí tổn thất về năng lượng.

o Những yếu tố cạnh tranh bao gồm các yếu tố như số lượng các đối thủ cạnh tranh của công ty và chiến lược kinh doanh của chúng, cơ cấu giá thành và chất lượng sản phẩm. Ngoài ra còn tính đến việc cạnh tranh có ảnh hưởng như thế

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

IBS101_Bai1_v1.0013110214 17

nào tới giá thành và mức độ sẵn có của các nguồn lực như lao động, vốn tài chính, nguyên liệu thô. Cuối cùng, các yếu tố cạnh tranh còn liên quan tới tính cách, hành vi cư xử và sở thích của người tiêu dùng đối với các sản phẩm của công ty và các đối thủ cạnh tranh của nó.

Bốn nhóm yếu tố bên ngoài trên đây ảnh hưởng tới cách thức hoạt động của tất cả các công ty trong bất kỳ môi trường kinh doanh nào. Các nhà sản xuất và các doanh nghiệp vừa và nhỏ không tham gia vào các hoạt động kinh doanh quốc tế cũng có thể bị ảnh hưởng. Họ buộc phải tuyển dụng lao động và tìm kiếm các nguồn vốn tài chính trên thị trường quốc gia hay thị trường khu vực, nơi nguồn cung thu hẹp có thể làm tăng chi phí hoạt động.

Hình : Viễn cảnh toàn cầu về kinh doanh

1.3.2. Môi trường kinh doanh quốc tế

Các nhà quản trị của các công ty nội địa quan tâm chủ yếu tới việc các yếu tố bên ngoài trong một môi trường quốc gia ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động của công ty. Ngược lại, các nhà quản trị của các công ty quốc tế phải quan tâm đến các yếu tố bên ngoài của tất cả các môi trường kinh doanh quốc gia có liên quan đến hoạt động của công ty. Các định chế quốc tế và quá trình quốc tế hóa đang giúp cho việc định hình hoạt động kinh doanh quốc tế. Trong môi trường kinh doanh quốc tế, hoạt động của người tiêu dùng, công nhân, tổ chức tài chính và chính phủ ở những nước khác nhau sẽ có xu hướng hội tụ lại. Do vậy, môi trường quốc tế liên kết các môi trường kinh doanh ở các quốc gia trên thế giới với nhau và trở thành đường dẫn theo đó các yếu tố bên ngoài ở một nước ảnh hưởng tới các công ty ở những nước khác.

Năm nhóm ảnh hưởng:

Thông tin, vốn, con người và sản phẩm là tất cả nhưng yếu tố vận động trong môi trường kinh doanh quốc tế. Có năm nhóm chủ thể tương ứng với sự vận động của các yếu tố đó, bao gồm:

MÔI TRƯỜNG KINH DOANH QUỐC TẾ

NHỮNG MÔI TRƯỜNG KINH DOANH

QUỐC GIA

QUẢN LÝ KINH

DOANH QUỐC TẾ

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

18 IBS101_Bai1_v1.0013110214

Người tiêu dùng trên khắp thế giới đang bắt đầu có xu hướng tạo ra những mong muốn và nhu cầu tương tự nhau, đặc biệt đối với những loại sản phẩm như máy tính cá nhân, máy nghe nhạc, âm nhạc và phim ảnh. Hơn nữa, họ ngày càng hiểu biết hơn về giá trị của các sản phẩm sẵn có trên thị trường toàn cầu. Hiện nay, những sản phẩm như vậy có thể mua được trực tiếp từ các nhà sản xuất hoặc những công ty bán lẻ thông qua hệ thống WWW và giao hàng bằng phương thức điện tử hoặc bằng các phương thức thông thường), bất kể các bên tham gia giao dịch nằm ở đâu trên thế giới.

Công nhân sẽ được phân bổ lại khi cơ hội về việc làm trong nước giảm sút. Việc thành lập các khu vực mậu dịch tự do (như EU) có thể thúc đẩy sự di chuyển của công nhân giữa các quốc gia thành viên.

Các công ty bán hàng hóa và dịch vụ trên khắp thế giới và tìm kiếm vốn đầu tư trên các thị trường tài chính quốc tế. Các công ty đa quốc gia di chuyển công nhân, thông tin và vốn giữa các chi nhánh của mình và cạnh tranh trực diện trên các thị trường.

Chính phủ mua sắm các sản phẩm từ các nhà cung cấp quốc tế để đạt được các mục tiêu xã hội, kinh tế và quân sự. Chính phủ còn điều tiết dòng vận động quốc tế của văn hóa, lao động, thông tin và vốn. Trong khi nền kinh tế toàn cầu có được lợi ích từ việc thực thi các đạo luật bảo vệ người tiêu dùng và môi trường, thì cũng chính lợi ích của nền kinh tế thế giới có thể bị tổn hại bởi các đạo luật gây trở ngại với các hoạt động thương mại đầu tư.

Các tổ chức tài chính đóng vai trò quan trọng trong môi trường kinh doanh quốc tế. Trước hết, các tổ chức đó cung cấp các công ty nguồn vốn bằng đồng tiền của các nước khác để thanh toán cho hàng hóa nhập khẩu cần thiết. Các tổ chức đó còn thay mặt các công ty để mua các đồng tiền của các quốc gia khác khi các nhà quản trị muốn giảm rủi ro trong giao dịch quốc tế. Cuối cùng, các tổ chức tài chính giúp cho các công ty tạo lập nguồn vốn và đầu tư lượng tiền nhàn rỗi vào các thị trường tài chính thế giới.

1.3.3. Quản trị kinh doanh quốc tế

Khi quyết định tham gia vào kinh doanh quốc tế thì một doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức. Khi đó, các yếu tố nội tại của công ty sẽ phải đương đầu với các yếu tố mới bên ngoài về văn hóa, chính trị và pháp luật, kinh tế, và cạnh tranh. Các yếu tố nội tại của các công ty là những nhân tố bên trong công ty và công ty có thể kiểm soát được, các yếu tố này bao gồm:

Chính sách phân bổ nguồn nhân lực, các chương trình đào tạo và phát triển nhân lực.

Văn hóa tổ chức và mức độ nhấn mạnh đến các giá trị chung.

Tìm kiếm và phân bổ các nguồn tài chính.

Phương pháp và kế hoạch sản xuất

Các quyết định marketing liên quan đến sản phẩm, định giá, xúc tiến và phân phối

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

IBS101_Bai1_v1.0013110214 19

Các chính sách đánh giá các nhà quản trị và hoạt động của công ty.

Các xu hướng quản trị các nguồn lực nội tại với sự biến động bên ngoài là tiêu chuẩn hóa và thích nghi hóa.

Tiêu chuẩn hóa và thích nghi hóa

Quản trị kinh doanh quốc tế thường là đối tượng của hai cách tiếp cận trái ngược nhau là tiêu chuẩn hóa và thích nghi hóa. Các cách tiếp cận này thường dẫn tới việc ra quyết định về tiến hành kinh doanh ở nước ngoài. Một mặt, các công ty có thể tiết kiệm chi phí bằng việc tiêu chuẩn hóa hàng loạt các yếu tố trong hoạt động của mình như phương pháp sản xuất, chiến lược marketing, và chính sách của công ty. Mặt khác, các công ty có thể đạt được thành công lớn hơn thông qua việc thích nghi hóa các hoạt động thỏa mãn nhu cầu của người mua trong phạm vi mỗi nền văn hóa sở tại, nhưng cách làm này thường dẫn tới làm tăng chi phí. Các công ty phải cân đối được giữa nhu cầu cắt giảm chi phí đối với việc đáp ứng các nhu cầu đặc biệt của người tiêu dùng địa phương.

Để đương đầu với những yếu tố trên và những thách thức khác, nhiều công ty đang thực hiện phân chia giữa các chức năng kinh doanh (marketing, sản xuất chính, nghiên cứu và phát triển...). Các công ty đó đang tổ chức lại cơ cấu xung quanh các quá trình có khả năng tạo ra giá trị đối với khách hàng, góp phần nâng cao chất lượng giá trị đối với khách hàng, góp phần nâng cao chất lượng hoặc mang lại lợi thế cạnh tranh, hoặc giúp công ty giành được những hợp đồng mới. Các công ty khác lại chuyển sang thành lập các nhóm liên kết chức năng để giải quyết những phát sinh hàng ngày. Các nhóm hoạt động trên nguyên tắc xóa bỏ các ranh giới về liên kết các chức năng và văn hóa thường đưa ra những giải pháp mới đối với những vấn đề mà công ty đang phải đối mặt trên những thị trường quốc gia khác nhau.

Đạo lý và trách nhiệm xã hội

Khi các công ty mạnh dạn tham gia và các hoạt động kinh doanh quốc tế thì các nhà quản trị sẽ phải đối mặt với các nền văn hóa khác nhau. Vì thế, sẽ có những ý tưởng khác nhau về cách đối xử đối với công nhân, các quan niệm khác nhau về các hành vi đạo lý và những nguyên tắc chỉ đạo khác nhau đối với hành vi trách nhiệm xã hội. Các công ty thường buộc thay đổi các sản phẩm, công việc quảng cáo, hoạt động quản trị nhân lực, chiến lược của toàn công ty và thậm chí cả cấu trúc tổ chức của mình. Việc đối mặt và thích ứng với các nhân tố xa lạ này sẽ mang lại cho các công ty cả những cơ hội to lớn lẫn các khó khăn tiềm ẩn.

Các vấn đề như đóng cửa nhà máy, sử dụng lao động trẻ em, vi phạm nhân quyền và bảo vệ môi trường ngày càng bị tranh cãi nhiều trong các cuộc thảo luận về thương mại quốc tế. Nếu như đạo lý gắn với hành vi của các cá nhân, thì trách nhiệm xã hội lại liên quan với hành vi của các tổ chức.

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

20 IBS101_Bai1_v1.0013110214

o Hành vi đạo lý

Hành vi cá nhân phù hợp với các nguyên tắc hoặc chuẩn mực của cách ứng xử đúng hoặc đạo đức được gọi là hành vi đạo lý. Tình trạng khó xử về đạo lý không phải là những vấn để có tính pháp lý. Khi một bộ luật tồn tại để dẫn dắt một nhà quản trị đi tới một hoạt động đúng luật, thì đường đi đúng luật nhất thiết phải được tuân thủ. Tuy nhiên, trong những tình huống khó xử về đạo lý thì không thể kết luận rằng các quyết định đưa ra là đúng hay sai, mà chỉ có các giải pháp khác nhau để lựa chọn. Có thể các giải pháp đó đều có giá trị như nhau tùy vào cách nhìn nhận của mỗi người.

Các vấn đề về đạo lý thường phát sinh khi các nhà quản trị tìm cách tuân theo lề lối quản lý sở tại, hoặc du nhập cách thức quản lý áp dụng ở chính quốc. Một số quan điểm thì viện dẫn câu châm ngôn “Khi ở Rome thì hãy cư xử như người Roman”. Tuy nhiên, triết lý này thường dẫn đến những rắc rối khi các công ty quốc tế lớn ở các quốc gia phát triển tiến hành kinh doanh ở các quốc gia đang phát triển. Một trường hợp do các nhóm nhân quyền lao động công bố sau khi điều tra những lời buộc tội về tình trạng ngược đãi cá nhân ở một trong số các nhà máy của hãng Nike ở Việt Nam. Theo báo cáo thì có 12 trong số 56 công nhân nữ bị ngất xỉu khi họ bị một giám sát viên bắt chạy quanh nhà máy để trừng phạt vì tội không đi giày theo quy định. Hãng Nike xác nhận điều này và đã đình chỉ công việc của giám sát viên đó, đồng thời đưa ra các biện pháp áp dụng những tập quán phù hợp hơn như phạt tiền….

Một quan điểm khác thì cho rằng các chính sách của nước chủ nhà cần được áp dụng bất kể công ty hoạt động ở đâu. Tuy nhiên, chính sách này cũng có thể làm phát sinh các vấn đề đạo lý. Giai đoạn đầu thì tập quán của nước đầu tư tỏ ra thắng thế, ví dụ, năm 1996 tại một nhà máy của hãng Mitsubishi Motors ở Normal, Illinois chấp hành các quy định theo kiểu Nhật Bản. Nhưng sau đó, 30 phụ nữ đã đệ đơn kiện lên toà án dân sự với lời buộc tội rằng các nhà quản trị nhà máy đã tạo ra môi trường thuận lợi đối với các hành vi quấy rối tình dục khi họ không trừng phạt các hành vi xâm phạm. Uỷ ban về cơ hội việc làm cũng đệ đơn kiện và hãng Mitsitubishi cuối cùng đã phải tổ chức điều tra về những lời buộc tội đối với chính sách quản trị nhân lực của hãng. Một số chuyên gia cho rằng những sự khác biệt về văn hoá và những tập quán du nhập từ Nhật Bản được Mitsubishi áp dụng ở Mỹ có thể đã góp phần tới tình trạng quấy rối tình dục tại nhà máy ở Normal.

o Trách nhiệm xã hội

Ngoài việc các nhà quản trị phải cư xử phù hợp với đạo lý, các công ty còn dự tính thực thi trách nhiệm xã hội – hành vi vượt quá phạm vi nghĩa vụ pháp lý của công ty nhằm dung hoà một cách chủ động những cam kết đối với các nhà đầu tư, các khách hàng, các công ty khác và với các cộng đồng dân chúng sở tại. Trong những năm gần đây, chính phủ, các tổ chức công đoàn, hiệp hội

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

IBS101_Bai1_v1.0013110214 21

người tiêu dùng và các nhà hoạt động nhân quyền đã liên kết với nhau để buộc các công ty từ những quốc gia phát triển phải thực thi các đạo luật về hành vi cư xử và các nguyên tắc giám sát trong hoạt động sản xuất quốc tế của mình. Những vấn để được đề cập một cách thích đáng bao gồm quan hệ thương mại với các nước đang phát triển (cấp chính phủ), việc chuyển các nhà máy trong nước ra nước ngoài (vấn đề lao động) và thái độ đối xử của các nhà thầu địa phương đối với công nhân tại nước ngoài (vấn để nhân quyền).

Ngày nay, các công ty thường không đợi cho đến khi chính phủ gây áp lực thì mới thay đổi các chính sách của mình. Phần lớn các nhà lãnh đạo doanh nghiệp nhận thức được rằng tương lai của công ty họ phụ thuộc vào tình trạng lành mạnh của lực lượng lao động và môi trường kinh doanh trên thế giới. Vì thế, một số công ty đã đưa các quy định về hành vi cư xử để thiết lập các tiêu chuẩn về điều kiện làm trong các cơ sở sản xuất ở nước ngoài.

Công ty Starbuck đã đưa ra khuôn khổ xây dựng luật về hành vi cư xử đối với các nước xuất khẩu cà phê trong nước mà từ đó công ty nhập khẩu cà phê hạt. Các quy định luật này phản ánh nỗ lực lớn nữa nhằm bắt đầu một cuộc đối thoại trên phạm vi toàn ngành giữa những người bán lẻ, những người xuất khẩu và những người trồng cà phê để khuyến khích việc thực thi trách nhiệm xã hội.

Hãng Levi – Strauss đã khởi xướng việc sử dụng các nguyên tắc ứng xử vào năm 1992. Các chính sách của công ty đã được xây dựng trên cơ sở một tập hợp các điều luật quy định Levis – Strauss đã dựa vào các điều luật này để kiểm soát điều kiện làm việc tại các cơ sở sản xuất của các nhà thầu, cũng như để đánh giá những nước được coi là có tiềm năng đối với hoạt động kinh doanh của mình. Một bộ phận toàn cầu bao gồm 50 người thực hiện việc giám sát các điều kiện làm việc tại các nhà máy của các nhà thầu ở nước ngoài.

Một khi toàn cầu hoá đang tiếp tục thì các công ty đang hoạt động một cách thiếu trách nhiệm xã hội ở bất cứ nơi nào trên thế giới sẽ phải chịu áp lực ngày càng tăng. Lý do đơn giản là các tổ chức công đoàn, hiệp hội người tiêu dùng, các tổ chức nhân quyền cũng đang chuyển đổi thành tổ chức toàn cầu. Các nhà hoạt động xã hội vì người lao động ở Mỹ đã có công trong việc giúp đỡ các tổ chức công đoàn ở Mexico thoát khỏi sự kiểm soát kéo dài hàng thập kỉ của tổ chức công đoàn do chính phủ nắm giữ – một tổ chức bị cáo buộc là đã không thực sự ủng hộ quyền lợi của công nhân. Mặc dù nhiều nhà lãnh đạo công đoàn ở Mỹ phản đối các chính sách khuyến khích các công ty trong nước chuyển hoạt động sang các nước khác như Mexico, nhưng giờ đây họ lại đang thắt chặt mối quan hệ mật thiết với các đối tác Mexico. Tại sao họ lại giúp các công đoàn Mexico theo cách này? Mức lương và điều kiện làm việc được cải thiện ở Mexico có lợi cho các công nhân ở Mỹ vì điều đó giảm bớt động cơ của các công ty Mỹ muốn chuyển sang hoạt động ở Mexico.

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

22 IBS101_Bai1_v1.0013110214

Chìa khoá dẫn tới thành công: Lời khuyên của các “Nhà quản trị toàn cầu”

Mặc dù, các công ty sản xuất đủ mọi thứ, từ những chiếc bánh kẹp thịt giá 99 xu (Mc Donald’s) cho đến những chiếc máy bay phản lực giá 150 triệu USD (Boing) các nhà quản trị toàn cầu đều nhận thấy có những điểm chung trong phong cách quản lý của họ. Những nhà quản trị toàn cầu thành công nhất đưa ra lời khuyên sau đây:

(1) Hiểu khách hàng: Nhà quản trị thành công phải có sự hiểu biết sâu sắc về những gì mà các khách hàng quốc tế mong muốn và phải đảm bảo rằng: công ty của mình có đủ sự năng động cần thiết để sản xuất ra những sản phẩm nhằm đáp ứng các nhu cầu đó.

(2) Khuyến khích các công nhân trong công ty. Các công ty toàn cầu thành công nhất thường áp dụng những biện pháp khuyến khích đặc biệt đối với những công nhân làm việc tốt.

(3) Biết cách phân tích vấn đề: Các nhà máy quản trị, thành công ít khi đưa ra các giải pháp một cách đột ngột. Ngược lại, họ giải quyết các vấn đề bằng cách thử nghiệm và chấp nhận rủi ro nếu cần thiết.

(4) Hiều biết công nghệ: Những nhà quản trị giỏi thường tìm cách làm cho công nghệ phù hợp với môi trường sử dụng và yêu cầu của khách hàng. Chẳng hạn, họ không từ bỏ công nghệ mà sẽ tìm cách sản xuất những chủng loại sản phẩm mới có sử dụng các nguyên liệu mới và rẻ hơn một khi chúng trở nên sẵn có.

(5) Đưa ra những sản phẩm tầm cỡ thế giới: Các nhà quản trị thành công phải chú tâm vào những sản phẩm chất lượng cao, họ hiểu rằng khách hàng ở mọi nơi đều đòi hỏi sự đáng tin cậy.

(6) Luôn theo sát tỷ giá hối đoái. Tính chất phổ biến này ngày càng tăng của việc sử dụng tỷ giá hối đoái để kiểm soát thương mại có nghĩa rằng các nhà quản trị toàn cầu thường xuyên xử lý những biến động về giá trị các đồng tiền. Nói một cách ngắn gọn, họ phải hiểu được tỷ giá hối đoái có chức năng như thế nào và cách kiểm soát rủi ro ngoại hối.

(7) Tập trung vào nhận thức toàn cầu: Những nhà quản trị toàn cầu giỏi phải đảm bảo rằng việc công ty thiết kế và sản xuất những sản phẩm và dịch vụ dành cho xuất khẩu được thực hiện ngay từ đầu chứ không phải chỉ sau khi đã chinh phục được thị trường nội địa.

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

IBS101_Bai1_v1.0013110214 23

Tóm lược cuối bài

Kinh doanh quốc tế và quá trinh toàn cầu hoá. Kinh doanh quốc tế là toàn bộ những giao dịch kinh doanh vượt qua biên giới của 2 hay nhiều quốc gia. Xuất phát từ tầm quan trọng của kinh doanh quốc tế, ngày càng nhiều quốc gia đang hội nhập nền kinh tế của họ vào nền kinh tế toàn cầu. Quá trình hội nhập này được gọi là toàn cầu hoá. Hai động lực chính thúc đẩy sự gia tăng của toàn cầu hoá trong kinh doanh quốc tế là:

Thứ nhất: Các hàng rào đầu tư và thương mại thấp hơn

Thứ hai: Sự cải tiến công nghệ tăng lên, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ thông tin và vận tải.

Giải thích tại sao các công ty tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế. Các công ty tham gia vào kinh doanh quốc tế vì những lý do chính sau:

Một là: Tăng doanh số bán hàng, tận dụng sản xuất dư thừa;

Hai là: Tiếp cận các nguồn lực nước ngoài, chia sẻ rủi ro, tăng kinh nghiệm quốc tế.

Tăng doanh số bán hàng là sự lựa chọn hấp dẫn khi một công ty thực hiện một trong 2 điều kiện sau:

Tăng cơ hội bán hàng quốc tế hoặc;

Tận dụng công suất sản xuất dư thừa.

Các hãng cố gắng giành các nguồn tài nguyên (Các sản phẩm cung cấp theo trạng thái tự nhiên) và thị trường lao động ở các nước – nơi có chi phí lao động thấp, giúp họ có khả năng cạnh tranh cao hơn.

Xác định các loại hình các công ty tham gia vào kinh doanh quốc tế. Hầu như bất cứ một công ty nào cũng có thể tham gia vào kinh doanh quốc tế nhờ vào công nhệ mạng toàn cầu – Internet.

Bài 1: Kinh doanh quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa

24 IBS101_Bai1_v1.0013110214

Câu hỏi ôn tập

1. Kinh doanh quốc tế là gì? Hãy đưa ra một số ví dụ về các giao dịch kinh doanh quốc tế.

2. Hai yếu tố chủ yếu nào dẫn đến gia tăng quá trình toàn cầu hoá thị trường và toàn cầu hóa sản xuất. Giải thích ngắn gọn từng yếu tố.

3. Vì những lý do chủ yếu nào mà các công ty tham gia vào kinh doanh quốc tế?

4. Có những loại hình công ty nào tham gia vào các hoạt động kinh doanh quốc tế? Giải thích vai trò của các công ty đa quốc gia trong kinh doanh quốc tế?

5. Toàn cầu hóa là gì? Giải thích sự tương tác giữa các nhân tố thúc đẩy toàn cầu hóa.

6. Môi trường kinh doanh quốc gia là gì? Xác định nhóm yếu tố bên ngoài cấu thành nên môi trường này.

7. Môi trường kinh doanh quốc tế là gì? Xác định 5 nhóm tương ứng với các dòng vận động quốc tế về thông tin, vốn, con người và hàng hoá.

8. Quản trị một doanh nghiệp kinh doanh quốc tế khác với quản trị một công ty nội địa như thế nào?

9. Tại sao những vấn đề về hành vi đạo lý và trách nhiệm xã hội lại nảy sinh ở trên thị trường quốc tế?

10. Phân tích lời khuyên của các nhà quản trị toàn cầu về yêu cầu hiểu biết khách hàng.