bài 5 mÔ hÌnh tỔng cẦu vÀ tỔng cung

51
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung ECO102_Bai5_v2.0018102208 145 Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG Nội dung Mục tiêu Phân tích được hệ thống kinh tế vĩ mô được đặc trưng bởi tổng cầu, tổng cung và hộp đen kinh tế vĩ mô. Trình bày được mô hình IS-LM, mô hình AD- AS và vận dụng các mô hình đó vào phân tích kinh tế vĩ mô. Phân tích và đánh giá được các cú sốc của tổng cung và tổng cẩu trong ngắn hạn và dài hạn; xem xét tác động của nó như thế nào đến sản lượng, giá cả, và việc làm của nền kinh tế. Hướng dẫn học Trong bài này, người học sẽ được tiếp cận các nội dung: Phân tích và xây dựng đường IS. Phân tích và xây dựng đường LM. Đánh giá cơ chế tác động của sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Để học tốt bài này sinh viên cần: Sinh viên nên đọc kỹ nguồn tài liệu tham khảo để chọn ra những tài liệu tham khảo hữu ích nhất cho mình. Xem các nguồn tài liệu và thứ tự tài liệu được cung cấp cho môn học này để biết được trình tự học tập. Trong bài này, chúng ta giả định rằng mô hình IS-LM được phân tích trong điều kiện tỷ giá hối đoái không tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô khác và luồng tư bản vận động hoàn toàn tự do.

Upload: others

Post on 15-Oct-2021

4 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

145

Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Nội dung Mục tiêu

Phân tích được hệ thống kinh tế vĩ mô được

đặc trưng bởi tổng cầu, tổng cung và hộp đen

kinh tế vĩ mô.

Trình bày được mô hình IS-LM, mô hình AD-

AS và vận dụng các mô hình đó vào phân tích

kinh tế vĩ mô.

Phân tích và đánh giá được các cú sốc của

tổng cung và tổng cẩu trong ngắn hạn và dài

hạn; xem xét tác động của nó như thế nào đến

sản lượng, giá cả, và việc làm của nền kinh tế.

Hướng dẫn học

Trong bài này, người học sẽ được tiếp cận

các nội dung:

Phân tích và xây dựng đường IS.

Phân tích và xây dựng đường LM.

Đánh giá cơ chế tác động của sự phối

hợp giữa chính sách tài khóa và chính

sách tiền tệ.

Để học tốt bài này sinh viên cần:

Sinh viên nên đọc kỹ nguồn tài liệu tham

khảo để chọn ra những tài liệu tham khảo hữu

ích nhất cho mình.

Xem các nguồn tài liệu và thứ tự tài liệu được

cung cấp cho môn học này để biết được trình

tự học tập.

Trong bài này, chúng ta giả định rằng mô

hình IS-LM được phân tích trong điều kiện tỷ

giá hối đoái không tác động đến các biến số

kinh tế vĩ mô khác và luồng tư bản vận động

hoàn toàn tự do.

Page 2: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

rong giai đoạn 2007-2008 lạm phát xảy ra với tỷ lệ cao, lạm phát 2 con số, Chính phủ Việt

Nam đã sử dụng chính sách tài khóa thắt chặt và chính sách tiền tệ thắt chặt đề kiềm chế

lạm phát bằng việc cắt giảm chi tiêu của Chính phủ, tăng lãi suất cơ bản,… Các chính

sách này đã đem lại hiệu quả tích cực cho nền kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng CPI giảm, giá cả của

nhiều loại mặt hàng ổn định, đời sống của các hộ gia đình bớt khó khăn hơn.

Như vậy, vai trò của Chính phủ trong việc sử dụng các công cụ thuế và chi tiêu của Chính phủ

trong chính sách kinh tế vĩ mô là gì? Chính sách tài khóa có thể sẽ làm giảm sự giao động của

chu kỳ kinh doanh không? Chính sách tài khóa có ảnh hưởng như thế nào đến tổng cung? Tại sao

nhiều người lại thích giữ tiền? Lượng cung tiền trong nền kinh tế ánh hưởng như thế nào đến cơ

hội tìm kiếm việc làm, khả năng chi trả một chiếc ô tô mới, lãi suất của các khoản vay? Chính

phủ sẽ sử dụng chính sách tiền tệ để điều tiết giá cả, công ăn việc làm, và sản lượng của nền kinh

tế như thế nào? Tất cả các câu hỏi nêu trên đều được giải đáp cụ thể trong bài này.

Mô hình IS-LM mà chúng ta phân tích trong bài này giả định mức giá không đổi và chỉ ra

nguyên nhân làm cho thu nhập thay đổi. Mô hình IS-LM cho biết nguyên nhân làm cho đường

tổng cầu dịch chuyển. Hai bộ phận của mô hình chính là đường IS và đường LM. Ký hiệu IS để

chỉ “đầu tư” và “tiết kiệm”. Đường IS biểu thị thị trường hàng hóa và dịch vụ mà chúng ta đã

phân tích ở bài 3. Ký hiệu LM để chỉ “tính thanh khoản” và “tiền”. Đường LM biểu thị cung cầu

về tiền mà chúng ta đã phân tích ở bài 4. Vì lãi suất tác động đến cả đầu tư và nhu cầu về tiền,

nên chính nó liên kết các bộ phận của mô hình IS-LM lại với nhau. Mô hình này chỉ rõ phương

thức xác định tổng cầu thông qua tác động qua lại giữa các thị trường. Để hiểu hết vai trò của mô

hình IS – LM trước hết chúng ta hãy xem xét thị trường hàng hóa, hay bộ phận IS của mô hình,

sau đó sẽ xem xét thị trường tiền tệ hay bộ phận LM và cuối cùng ghép hai bộ phận lại với nhau

để hoàn chỉnh mô hình. Mô hình IS – LM nắm bắt được nhiều tư tưởng của Keynes hơn mô hình

số nhân chi tiêu vì nó đưa thêm thị trường tiền tệ và thị trường hàng hóa vào và coi đầu tư là biến

nội sinh.

Khủng hoảng kinh tế thế giới đã, đang và sẽ ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trên thế giới. Có

nhiều quốc gia sẽ bị ảnh hưởng rất nặng nề, có thể mất thời gian rất dài mới khôi phục lại nền

kinh tế được. Hầu như, các nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế là do các “cú sốc cung” hoặc

“cú sốc cầu”. Vậy, cú sốc cung và cú sốc cầu là gì? Nguyên nhân xảy ra? Làm thế nào để hạn

chế đến mức thấp nhất các cú sốc cung và cầu? Sau khi nghiên cứu bài học này, chúng ta sẽ có

thể trả lời và giải thích được những câu hỏi này.

Hiện nay, phần lớn các nhà kinh tế đều dựa vào mô hình tổng cầu và tổng cung để phân tích các

tác động của các chính sách vĩ mô đến sản lượng, giá cả, công ăn việc làm,... của nền kinh tế.

Hiểu mô hình và biết cách vận dụng mô hình này để phân tích ảnh hưởng của các cú sốc và

chính sách của Chính phủ là rất quan trọng đối với các nhà kinh tế.

5.1. Mô hình IS-LM trong nền kinh tế đóng

Mô hình IS-LM nắm bắt được nhiều tư tưởng của Keynes hơn mô hình số nhân chi tiêu

vì nó đưa thêm thị trường tiền tệ và thị trường hàng hóa hay thị trường sản phẩm vào và

coi đầu tư là biến nội sinh. Thuật ngữ IS-LM được phổ thông hóa bởi Hansen (1949),

nhưng kỹ thuật mà chúng ta sử dụng hiện nay xuất phát từ một bài báo do Hicks (1937)

xuất bản vài tháng sau khi xuất bản cuốn Lý thuyết tổng quát và ngày nay đã trở thành

một bản tóm tắt chuẩn của nó. Dĩ nhiên, chính Keynes đã viết cho Hicks rằng ông “cảm

thấy nó rất thú vị và thực sự không có gì đáng phê phán cả”.

T

Page 3: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

147

Để hiểu hết vai trò của mô hình IS-LM trong nền kinh tế đòng, trước hết chúng ta hãy xem

xét thị trường hàng hóa, hay bộ phận IS của mô hình, sau đó sẽ xem xét thị trường tiền tệ

hay bộ phận LM và cuối cùng ghép hai bộ phận lại với nhau để hoàn chỉnh mô hình.

5.1.1. Đường IS và các yếu tố tác động đến đường IS

a. Thiết lập đường IS và độ dốc của đường IS

Xây dựng đường IS

Thị trường hàng hóa cân bằng khi tổng cầu bằng thu nhập tương ứng với một mức lãi

suất cho trước. Khi lãi suất thay đổi đường tổng cầu sẽ dịch chuyển và cho một mức

thu nhập cân bằng mới. Như vậy, nếu tập hợp những tổ hợp khác nhau giữa lãi suất

và thu nhập phù hợp với sự cân bằng của thị trường hàng hóa sẽ được một đường gọi

là đường IS. Trạng thái cân bằng trên thị trường hàng hóa có nghĩa là, nếu một mức

sản lượng nhất định, ví dụ Y1, được sản xuất ra, thì khi đó lãi suất cũng cần phải

được duy trì ở một mức nhất định, ví dụ mức lãi suất là r1. Như vậy, khái niệm cân

bằng của thị trường hàng hóa không hoàn toàn giống khái niệm thông thường của

kinh tế vi mô về giao điểm của đường cung và cầu.

Y2Y1

Y2Y1 Y

AE

r

Y

AE1 =C +I (r1 )+G

AE2 =C +I (r2 )+G

r1

r2

AE =Y

IS

I

E1’

E2’

E2

E1

Y2Y1

Y2Y1 Y

AE

r

Y

AE1 =C +I (r1 )+G

AE2 =C +I (r2 )+G

r1

r2

AE =Y

IS

II

E1’

E2’

E2

E1

Hình 5.1. Xây dựng đường IS

Trong điều kiện có giả định đơn giản hóa là chi tiêu của Chính phủ và các khoản thu

về thuế độc lập với mức thu nhập, chúng ta dễ dàng chỉ ra rằng, vị trí của đường IS

tùy thuộc vào mức chi tiêu của Chính phủ và thuế. Sự tăng lên (hay giảm xuống) của

G đẩy đường IS về phía phải so với đường gốc (hay phía trái, hướng tới điểm gốc),

vì nó làm tăng (hay giảm) các khoản chi tiêu dự kiến chuyển thành nhu cầu tại bất kỳ

mức lãi suất nào và do đó, đòi hỏi mức thu nhập cao hơn (hay thấp hơn) để duy trì sự

cân bằng giữa các khoản rút ra dự kiến chuyển thành nhu cầu.

Ở mức lãi suất r1 tổng chi tiêu là AE1 sản lượng cân bằng là Y1, điểm cân bằng trên thị

trường hàng hóa là E1. Từ đó ta xác định được điểm E1’ có tọa độ (r1,Y1). Giả sử lãi

suất giảm xuống mức r2 khi đó đầu tư tăng thêm một lượng là I, tổng chi tiêu của nền

Page 4: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

kinh tế tăng lên từ AE1 đến AE2, sản lượng cân bằng của nền kinh tế tăng từ Y1 đến

Y2. Từ đó ta xác định được E2’ có tọa độ (r2,Y2). Đường đi qua 2 điểm E0’ và E0’ chính

là đường IS.

Đường IS dốc xuống, có độ dốc âm

Đối với sự cân bằng của thị trường hàng hóa, lãi suất cao hơn sẽ kéo theo mức thu

nhập thấp hơn do đường cầu phải thấp hơn. Độ dốc của đường IS sẽ phụ thuộc vào

độ nhạy cảm của nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tự định đối với lãi suất. Nhu

cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tự định càng bị giảm xuống do lãi suất tăng, khi lãi

suất tăng sẽ càng làm giảm mức thu nhập cân bằng và độ dốc của đường IS càng

thoải. Ngược lại, nếu những thay đổi trong lãi suất chỉ đưa đến những dịch chuyển

nhỏ của đường tổng cầu, mức thu nhập cân bằng sẽ hầu như không bị ảnh hưởng gì,

và đường IS sẽ rất dốc.

Hàm số của đường IS: A 1

r Yd d m '

Trong đó: A C I G ; 1

m '1 MPC(1 t)

; hệ số d là hệ số phản ánh mức độ

nhạy cảm của đầu tư so với lãi suất thực tế r. Nếu d tăng thì đường IS thoải hơn.

Nhìn vào phương trình của đường IS chúng ta thấy rằng, 1

d m '

chính là độ dốc

của đường IS. Nếu giá trị của d hoặc m’ càng lớn thì đường IS càng thoải và nếu

chúng càng nhỏ thì đường IS càng dốc. Như vậy, nếu tỷ suất thuế tăng lên hoặc MPC

giảm xuống đều làm cho giá trị của m’ giảm xuống và đường IS trở nên dốc hơn và

ngược lại. Phân tích độ dốc của đường IS cho chúng ta biết được mức độ tác động

của chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập, lãi suất, thất nghiệp,

lạm phát trong nền kinh tế như thế nào.

Như vậy, đường IS là quỹ tích của các kết hợp giữa mức sản lượng Y và mức lãi suất

r, và bất kỳ điểm nào trên đó cũng làm cho thị trường hàng hóa cân bằng, nhưng nó

không chỉ ra điểm nào trong những kết hợp trên tạo ra trạng thái cân bằng chung của

nền kinh tế. Để tìm được mức sản lượng và lãi suất cho trạng thái cân bằng chung,

chúng ta còn phải xem xét thị trường tiền tệ. Khác với mô hình cổ điển thuần túy, ở

đây không có sự phân đôi giữa thị trường hàng hóa và thị trường tt. Trong mô hình

IS-LM của Keynes, giá trị của các biến số thực tế, ví dụ thu nhập, phụ thuộc vào

cung ứng tiền tệ.

b. Các điểm nằm ngoài đường IS

Chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được tại sao biện pháp cắt giảm (hay tăng) thuế đẩy đường IS

sang phải (hay sang trái) và rằng các điểm nằm ngoài đường IS về bên phải là điểm biểu

thị tình trạng dư cung về hàng hóa (các khoản rút ra dự kiến vượt quá các khoản dự kiến

chuyển thành nhu cầu), còn các điểm nằm ngoài đường IS về phía trái biểu thị tình trạng

dư cầu về hàng hóa (các khoản dự kiến chuyển thành nhu cầu vượt quá các khoản rút ra

dự kiến). Khi hiểu được điều này, chúng ta cũng dễ dàng hiểu được những ảnh hưởng

của thuế tới sự thay đổi của đường IS.

Page 5: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

149

AE

r

r1

r2

AE2

AE1

AE

r

r1

r2

AE2

AE1

Hình 5.2. Các điểm nằm ngoài đường IS

Dựa vào đồ thị chúng ta nhận thấy, điểm E3 trên thị trường hàng hóa biểu thị chi tiêu

vượt quá thu nhập. Đối với thị trường hàng hóa, đây là hiện tượng thiếu hàng. Như vậy,

các điểm nằm dưới đường IS biểu thị tình trạng thiếu hàng (dư cầu), các điểm nằm phía

trên (bên ngoài) đường IS biểu thị tình trạng thừa hàng (dư cung).

c. Sự trượt dọc và dịch chuyển đường IS

Đường IS là quỹ tích của tất cả các kết hợp giá trị thu nhập và lãi suất mà tại đó, tiết

kiệm dự kiến bằng đầu tư dự kiến. Chúng ta xuất phát từ trạng thái cân bằng ban đâu của

nền kinh tế, thị trường các khoản vay cân bằng (đầu tư bằng tiết kiệm), xác định mức lãi

suất cân bằng là r1 và mức thu nhập của nền kinh tế là Y1. Nếu tiết kiệm dự kiến giảm

xuống cùng với thu nhập, chắc chắn lãi suất sẽ tăng lên và làm mức đầu tư dự kiến nhỏ

hơn, nhằm duy trì trạng thái cân bằng, tại đó tiết kiệm dự kiến bằng đầu tư dự kiến. Mức

lãi suất cân bằng mới là r2 và mức thu nhập cân bằng mới là Y2, xảy ra hiện tượng di

chuyển từ điểm E1 đến điểm E2 trên đường IS. Ngược lại, nếu lãi suất là r2 và mức thu

nhập là Y2, thì khi đó đầu tư dự kiến sẽ bằng tiết kiệm dự kiến; lãi suất giảm xuống r1 thì

mức thu nhập sẽ tăng lên Y1, xảy ra hiện tượng di chuyển (hay còn gọi là trượt dọc theo

đường IS) các điểm trên đường IS từ E2 xuống E1.

Page 6: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

S, I

r

I (r )r1

r2

r

YY1

r1

r2

Y2

S1S2

IS

0 0

E2

E1

S, I

r

I (r )r1

r2

r

YY1

r1

r2

Y2

S1S2

IS

0 0

E2

E1

S, I

r

I (r )I (r )r1

r2

r

YY1

r1

r2

Y2Y2

S1S2

IS

0 0

E2

E1

Hình 5.3. Sự di chuyển các điểm trên đường IS

Sự dịch chuyển của đường IS: Với một mức lãi suất nhất định, sự gia tăng niềm lạc quan

của các hãng về những khoản lợi nhuận trong tương lai sẽ dịch chuyển đường nhu cầu

đầu tư đi lên, làm tăng nhu cầu đầu tư tự định; sự gia tăng trong ước tính của các hộ gia

đình về thu nhập trong tương lai sẽ dịch chuyển hàm tiêu dùng lên trên, làm tăng nhu

cầu tự định; hay sự gia tăng trong chi tiêu của Chính phủ có thể trực tiếp làm tăng cấu

phần của Chính phủ trong nhu cầu tự định. Bất kỳ sự gia tăng nào như thế này cũng sẽ

dịch chuyển đường tổng cầu lên trên tại một mức lãi suất nhất định. Do đó khoản thu

nhập cân bằng sẽ tăng thêm ở bất kỳ lãi suất nào.

Y2Y1

Y2Y1 Y

AE

r

Y

AE2=C +I (r1 )+G1

AE2 =C +I (r1 )+G2

r1

AE =Y

IS1IS2

Y

0

0

Y2Y1

Y2Y1 Y

AE

r

Y

AE2=C +I (r1 )+G1

AE2 =C +I (r1 )+G2

r1

AE =Y

IS1IS2

YY

0

0

Hình 5.3. Chi tiêu của Chính phủ tăng lên đường IS dịch chuyển sang phải

Hình 5.4 chỉ rõ sự gia tăng chi tiêu của Chính phủ G1 đến G2 trong điều kiện lãi suất

không đổi r1. Tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng lên từ AE1 đến AE2, thu nhập của nền

kinh tế tăng lên từ Y1 đến Y2, dẫn tới đường IS dịch chuyển từ IS1 đến IS2. Chúng ta có

thể phân tích sự dịch chuyển của đường IS qua phương trình đường IS:

A 1r Y

d d m '

Page 7: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

151

Khi giá trị các khoản chi tiêu tự định (không phụ thuộc vào thu nhập) A

d thay đổi sẽ làm

cho đường IS dịch chuyển sang vị trí mới.

5.1.2. Đường LM và các yếu tố tác động đến đường LM

a. Thiết lập đường LM và độ dốc của đường LM

Khái niệm: Đường LM là đường bao gồm tập hợp tất cả các điểm phản ánh mối quan hệ

giữa lãi suất và thu nhập khi thị trường tiền tệ cân bằng.

Cách xây dựng đường LM:

Giả sử rằng mức cung tiền cố định tại 11

MMS

P , với mức thu nhập ở Y1, đường cầu

tiền là MD(r,Y1) và điểm cân bằng của thị trường tiền tệ là E1 với lãi suất cân bằng là r1,

từ đó có thể xác định điểm E1’ của tổ hợp (r1, Y1).

M/P

r

1M

P

MD (r ,Y1)

r1

r2

r

YY1

r1

MD (r ,Y2)

r2

Y2

LM

(a) Thị trường tiền tệ cân bằng (b) Đường LM

E2

E1

0 0

E1’

E2’

MS

M/P

r

1M

P

MD (r ,Y1)

r1

r2

r

YY1

r1

MD (r ,Y2)

r2

Y2

LM

(a) Thị trường tiền tệ cân bằng (b) Đường LM

E2

E1

0 0

E1’

E2’

M/P

r

1M

P1M

P

MD (r ,Y1)MD (r ,Y1)

r1

r2

r

YY1Y1

r1

MD (r ,Y2)MD (r ,Y2)

r2

Y2Y2

LMLM

(a) Thị trường tiền tệ cân bằng (b) Đường LM

E2

E1

0 0

E1’

E2’

MS

Hình 5.4. Xây dựng đường LM

Khi thu nhập tăng đến Y2, đường cầu tiền dịch chuyển lên MD(r, Y2) với điểm cân bằng

E2 có lãi suất cân bằng r2. Từ đó có thể xác định điểm E2’ của tổ hợp (r2, Y2). Đường đi

qua hai điểm E1’, E2’ trên đồ thị là đường LM. Đường LM có độ dốc dương, điều đó

chứng tỏ khi thu nhập Y tăng thì lãi suất r tăng và ngược lại. Đường LM phản ánh mối

quan hệ tỷ lệ nghịch giữa thu nhập và lãi suất.

Hàm số của đường LM:

1 Mr (k Y )

h P

Trong đó: tại 1M

Plà cung tiền thực tế; h là độ nhạy cảm của cầu tiền với lãi suất; k là độ

nhạy cảm của cầu tiền và thu nhập.

Page 8: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

Giá trị độ dốc của đường LM là k

h. Do đó, khi

k

h tăng lên đường LM sẽ trở nên dốc

hơn và ngược lại. Điều này có nghĩa là, nếu độ nhạy cảm của cầu tiền với lãi suất (h)

càng lớn thì đường LM càng thoải và ngược lại; nếu độ nhạy cảm của cầu tiền và thu

nhập (k) càng lớn thì đường LM càng dốc và ngược lại. Phân tích độ dốc của đường LM

cho chúng ta biết được mức độ tác động của chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ

đến thu nhập, lãi suất, thất nghiệp, lạm phát trong nền kinh tế như thế nào.

b. Các điểm nằm ngoài đường LM

Thị trường tiền tệ ban đầu cân bằng tại điểm E1, khi thu nhập tăng, cầu tiền tăng, lãi suất

cân bằng trên thị trường tiền tệ tăng từ r1 đến r2, chúng ta xây dựng được đường LM.

Đường LM là một tập hợp các điểm biểu thị mối quan hệ giữa thu nhập và lãi suất khi

thị trường tiền tệ cân bằng. Các điểm nằm phía trên đường LM, ví dụ như điểm E3, biểu

thị trạng thái dư cung tiền. Các điểm nằm phía dưới đường LM, ví dụ như điểm E4, biểu

thị trạng thái dư cầu tiền tệ.

M/P

r

r2

r1

0 0

r

MDMD

MS

M/P

r

r2

r1

0 0

r

MDMD

M/P

r

r2

r1

0 0

r

MDMD

MS

Hình 5.5. Các điểm nằm ngoài đường LM

c. Sự trượt dọc và dịch chuyển đường LM

Khi thu nhập tăng lên đòi hỏi một lượng cầu tiền tăng thêm dẫn đến tăng lãi suất do cung

tiền không đổi. Như vậy, khi thu nhập thay đổi, xảy ra hiện tượng di chuyển (trượt dọc)

các điểm trên đường LM. Khi thu nhập tăng lên từ Y1 đến Y2, cầu tiền tăng, lãi suất cân

bằng trên thị trường tiền tệ tăng từ r1 đến r2, đường LM không thay đổi vị trí, xảy ra hiện

tượng di chuyển từ điểm E1 đến E2 trên đường LM.

Page 9: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

153

r

YY1

r1

r2

Y2

LM

0

E1

E2

r

YY1

r1

r2

Y2

LMLM

0

E1

E2

Hình 5.6. Sự di chuyển các điểm trên đường LM

Đường LM có độ dốc nghiêng đi lên bởi khi thu nhập tăng, lãi suất phải tăng theo để

giảm bớt cầu tiền nhằm duy trì sự cân bằng của thị trường tiền tệ khi cung tiền không

đổi. Khi cầu tiền nhạy cảm với thu nhập và kém nhạy cảm với lãi suất thì đường LM sẽ

rất dốc. Nếu mức cung tiền giảm xuống, đường LM sẽ dịch chuyển sang trái.

Hình 5.7. Sự dịch chuyển đường LM khi cung tiền thay đổi

Hình 5.8 minh họa trường hợp cung tiền giảm (Ví dụ: giả sử ngân hàng trung ương tăng

tỷ lệ dự trữ bắt buộc), đường cung tiền dịch chuyển từ MS1 đến MS2, ứng với mức thu

nhập không đổi Y1. Lãi suất cân bằng trên thị trường tiền tệ tăng lên từ r1 đến r2, đường

LM dịch chuyển sang trái từ LM1 đến LM2.

5.1.3. Phân tích chính sách dựa trên mô hình IS-LM

a. Cân bằng đồng thời hai thị trường hàng hoá và tiền tệ

Đường IS phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường hàng hóa với các tổ hợp khác

nhau giữa lãi suất và thu nhập. Đường LM phản ánh các trạng thái cân bằng của thị

trường tiền tệ cũng của những tổ hợp này. Tác động qua lại giữa hai thị trường ấn định

mức lãi suất và thu nhập cân bằng đồng thời cho cả hai thị trường tại (r0, Y0).

Page 10: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

Y

r

0

LM

IS

r0

E0

Y0 Hình 5.8. Trạng thái cân bằng đồng thời trên cả thị trường hàng hóa và tiền tệ

Nhìn vào hình 5.10, giả sử mức lãi suất tại r1, ta có mức thu nhập Y1 trên đường IS. Tổ

hợp (r1, Y1) đưa đến sự cân bằng của thị trường hàng hóa. Song, với mức lãi suất r1 thì

cần phải có mức thu nhập Y1’ cho sự cân bằng của thị trường tiền tệ. Với mức lãi suất r1,

mức thu nhập Y1 là quá thấp đối với sự cân bằng của thị trường tiền tệ. Nhu cầu về tiền

trở nên thấp hơn lượng cung ứng tiền sẵn có. Khi lượng cung ứng tiến quá cao, lãi suất

sẽ giảm. Quá trình này cứ tiếp diễn cho tới lúc lãi suất giảm xuống tới r0. Tại mức này,

tổng cầu và tổng thu nhập đã tăng lên đủ mức làm cho nhu cầu về tiền tăng đủ để dẫn tới

sự cân bằng trên cả hai thị trường.

Y

r

0

LM

IS

r0

E0

Y0

r1

r2

Y1 Y2 Y’1 Y’

2

A B

B D

Hình 5.9. Cân bằng đồng thời trên cả thị trường hàng hóa và tiền tệ

Ngược lại, với mức lãi suất r2, mức thu nhập Y2’ cần thiết cho thị trường hàng hóa cân

bằng là lớn hơn mức thu nhập Y2 cần thiết để thị trường tiền tệ cân bằng. Khi thu nhập

quá cao đối với sự cân bằng của thị trường tiền tệ, nhu cầu về tiền sẽ quá cao và đẩy lãi

suất lên. Tiến trình này tiếp diễn đến khi đạt mức lãi suất r0, thu nhập Y0 thì cả hai thị

trường đều cân bằng.

Page 11: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

155

b. Tác động của chính sách tài khóa

Trong nền kinh tế đóng, giả sử chính phủ sử dụng chính sách tài khóa mở rộng, bằng

việc tăng chi tiêu của Chính phủ thêm một lượng là G, khi đó tổng chi tiêu của nền

kinh tế tăng, tổng cầu tăng, đường IS dịch chuyển sang phải từ IS1 đến IS2 (xem hình

5.11). Nếu lãi suất không đổi là r1, sản lượng cân bằng sẽ tăng lên là Y3. Tuy nhiên, lãi

suất trong trường hợp này sẽ tăng lên từ r1 đến r2, lượng cầu đầu tư sẽ giảm, tổng cầu

tăng thêm một lượng là

1G

1 MPC(1 t)

Do lãi suất tăng sẽ làm giảm đầu tư (hiện tượng này gọi là hiện tượng thoái lui đầu tư).

Trạng thái cân bằng ban đầu của nền kinh tế là E1, bây giờ sẽ là E2. Đầu tư giảm kéo

theo sản lượng của nền kinh tế chỉ tăng từ Y1 đến Y2. Mức sản lượng tăng Y = Y2 - Y1

này nhỏ hơn mức tăng thêm của tổng cầu là: 1

G1 MPC(1 t)

.

Hình 5.10. Tác động của chính sách tài khóa mở rộng trong mô hình IS-LM

c. Tác động của chính sách tiền tệ

Trong nền kinh tế đóng, giả sử chính phủ sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng, bằng việc

hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hoặc giảm lãi suất chiết khấu, hoặc mua trái phiếu trên

thị trường mở, khi đó cung tiền trong nền kinh tế sẽ tăng lên. Cung tiền tăng, đường LM

dịch chuyển sang phải (xuống dưới), trạng thái cân bằng của nền kinh tế thay đổi từ E1

đến E2, lãi suất cân bằng giảm từ r1 xuống r2, đầu tư tăng lên làm cho thu nhập cân bằng

trong nền kinh tế tăng lên từ Y1 đến Y2 (xem hình 5.12).

Page 12: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

Hình 5.11. Chính sách tiền tệ mở rộng, đường LM dịch chuyển sang phải

Như vậy, chính sách tiền tệ mở rộng trong nền kinh tế đóng làm tăng đầu tư, tăng thu

nhập của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

d. Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ

Trong nền kinh tế đóng, sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tùy

thuộc vào các công cụ mà Chính phủ đưa ra, phụ thuộc vào độ dốc của đường IS và

đường LM, đồng thời phụ thuộc vào mức độ phản ứng, mức độ tác động của hai chính

sách này. Chúng ta có thể xem xét một số trường hợp sau:

Sự phối hợp chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ mở rộng

Khi Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa lỏng (tăng chi tiêu, giảm thuế) thì tổng

cầu sẽ tăng lên, đường IS sẽ dịch chuyển sang phải từ IS1 đến IS2 (xem hình 5.13),

nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng tại E1. Kết quả là lãi suất tăng từ r0 đến r1, sản

lượng cân bằng tăng từ Y0 đến Y1. Do lãi suất tăng, đầu tư giảm, xảy ra hiện tượng

tháo lui đầu tư.

IS1

Y

r LM1

r0

Y0

IS2

Y1

r1

LM2

Y2

E0

E1

E2

0

IS1

Y

r LM1

r0

Y0

IS2

Y1

r1

LM2

Y2

E0

E1

E2

0

Hình 5.12. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng

Để tránh được hiện tượng tháo lui đầu tư phải kết hợp chính sách tiền tệ lỏng. Chính

sách tiền tệ lỏng: đó là việc Chính phủ tăng mức cung tiền và duy trì mức lãi suất r0,

Page 13: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

157

đường LM dịch chuyển sang phải từ LM1 đến LM2 nền kinh tế đạt trạng thái cân

bằng mới tại E2, lúc này lãi suất giảm từ r1 về mức lãi suất ban đầu r0, sản lượng cân

bằng tăng từ Y1 đến Y2. Kết quả của việc phối hợp hai chính sách là: thu nhập tăng

nhanh từ Y0 đến Y2 và ổn định được lãi suất.

Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa chặt và chính sách tiền tệ chặt

Chính sách tài khóa chặt (chính sách tài khóa thắt chặt) là chính sách sử dụng nhằm

tăng thuế T, giảm chi tiêu G để giảm tổng cầu AD và thu hẹp phạm vi phát triển của

nền kinh tế.

IS2

Y

r

LM2

r0

Y2

IS1

Y1

r1

LM1

Y0

E2

E1

E0

0

IS2

Y

r

LM2

r0

Y2

IS1

Y1

r1

LM1

Y0

E2

E1

E0

0

Hình 5.13. Chính sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt

Chính sách tiền tệ chặt (chính sách tiền tệ thắt chặt) sử dụng nhằm giảm mức cung

tiền MS, tăng lãi suất r để giảm tổng cầu, giảm sản lượng cân bằng Y. Khi Nhà nước

sử dụng chính sách tài khóa chặt đường IS sẽ dịch chuyển sang trái, IS giảm từ IS1

đến IS2 nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng mới, sản lượng cân bằng giảm từ Y0 đến

Y1, lãi suất giảm từ r0 đến r1 (xem hình 5.14). Để kìm hãm bớt tốc độ tăng trưởng của

nền kinh tế tránh nền kinh tế rơi vào tình trạng quá nóng, Nhà nước có thể phối hợp

với chính sách tiền tệ thắt chặt. Nhà nước giảm mức cung tiền, tăng lãi suất thực tế r,

đường LM sẽ dịch chuyển sang trái LM giảm từ LM1 đến LM2. Nền kinh tế đạt trạng

thái cân bằng mới là E2, lãi suất tăng từ r1 đến r0, sản lượng giảm từ Y1 đến Y2. Kết

quả của việc phối hợp hai chính sách đã làm cho sản lượng giảm nhanh, lãi suất r

không thay đổi, tránh được nền kinh tế rơi vào trạng thái tăng trưởng quá nóng.

Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa lỏng và chính sách tiền tệ chặt

Để tăng tốc độ phát triển kinh tế, tăng sản lượng cân bằng Y của nền kinh tế, Chính

phủ phải sử dụng chính sách tài khóa lỏng (tăng G, giảm T), đường IS dịch chuyển từ

IS0 đến IS1, điểm cân bằng mới là E1, lãi suất tăng, sản lượng cân bằng tăng nhanh từ

Y0 đến Y1 (xem hình 5.15).

Page 14: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

IS0

Y

r

LM1

r1

Y0

IS1

Y2

r0

LM0

Y1

E2

E0

E1

0

r2

IS0

Y

r

LM1

r1

Y0

IS1

Y2

r0

LM0

Y1

E2

E0

E1

0

r2

Hình 5.14. Chính sách tài khóa lỏng và chính sách tiền tệ chặt

Nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh, lạm phát cao. Nhà nước cần sử dụng chính sách tiền tệ

chặt, để hỗ trợ cho chính sách tài khóa lỏng. Nền kinh tế đang đạt trạng thái cân bằng tại

điểm E1. Khi sử dụng chính sách tiền tệ chặt, mức cung tiền giảm, lãi suất tăng, đầu tư có

xu hướng giảm, nền kinh tế chuyển sang trạng thái cân bằng mới tại E2, lãi suất tăng từ r1

r2, sản lượng cân bằng giảm từ Y1 Y2. Kết quả của việc phối hợp hai chính sách là

làm cho sản lượng tăng lên ở mức độ hợp lý, đạt được tốc độ tăng trưởng dài hạn, không

gây lạm phát cao: sản lượng cân bằng tăng từ Y0 Y2, lãi suất tăng từ r0 r2.

5.2. Xây dựng đường tổng cầu

5.2.1. Xây dựng đường tổng cầu dựa trên mô hình IS-LM

Tổng cầu là tổng chi tiêu hàng hóa và dịch vụ của một nước. Trong một nền kinh tế

đóng, tổng cầu bao gồm ba bộ phận cấu thành: Tiêu dùng của các hộ gia đình (C), đầu tư

của các doanh nghiệp (I) và chi mua hàng của Chính phủ (G). Khi thu nhập thực tế bằng

chi tiêu dự kiến thì tổng cầu của nền kinh tế được xác định bằng:

AD AE C I G

Đường tổng cầu trong mô hình Cổ điển được thiết lập trên cơ sở lý thuyết số lượng

tiền tệ. Nó biểu thị mối quan hệ giữa mức cầu về sản lượng thực tế Y và mức giá P,

được xác định bởi phương trình:

M VY

P

Trong đó: M là khối lượng tiền tệ danh nghĩa; V là tốc độ lưu thông của tiền.

So với lý thuyết số lượng, mô hình IS – LM là một mô hình phức tạp hơn về tổng

cầu. Nhìn chung, mô hình IS – LM cho phép cả chính sách tài chính và tiền tệ đều có

một vai trò trong việc xác định tổng cầu, mặc dù những trường hợp đặc biệt của mô

hình IS – LM cũng tạo ra những trường hợp đặc biệt của đường tổng cầu, trong đó,

tùy từng trường hợp đặc biệt, mà chính sách tài chính hoặc chính sách tiền tệ không

có tác dụng làm thay đổi mức tổng cầu. Đường tổng cầu được rút ra từ mô hình IS –

LM cho thấy mối quan hệ giữa mức tổng cầu thực tế và mức giá.

Page 15: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

159

Chúng ta có thể thiết lập đường tổng cầu như sau:

Hình 5.15. Đường tổng cầu. (I) IS – LM. (II) AD

Khi mức giá thấp hơn, ví dụ bằng P1, khối lượng tiền tệ thực tế lớn hơn, làm cho lãi

suất giảm xuống (r1) và mức thu nhập cao hơn (Y1). Đồ thị 5.16 (II) ghi các điểm

phản ánh mức giá tương ứng với các mức thu nhập được tạo ra trong phần (I), nhờ

việc xác định các giao điểm của đường LM và IS.

Chúng ta đã chỉ ra rằng, đường LM dịch chuyển khi có những thay đổi trong cung

ứng tiền tệ thực tế. Cho đến nay, những thay đổi này là do sự thay đổi trong cung

ứng tiền tệ danh nghĩa gây ra, vì giá cả được cố định ở một mức giá nhất định. Tuy

nhiên, những thay đổi trong mức giá cũng làm thay đổi cung ứng tiền tệ thực tế và

làm dịch chuyển đường LM, cho dù khối lượng tiền tệ danh nghĩa vẫn như cũ. Khi

mức giá tăng lên, khối lượng tiền tệ thực tế giảm và đường LM dịch chuyển sang

trái. Hình 5.16 minh họa cho lập luận này. Ba đường LM trong phần (I) đều được vẽ

cho cùng một khối lượng tiền tệ danh nghĩa, nhưng với mức giá khác nhau là P0, P1

và P2. Vị trí của đường IS không phụ thuộc vào mức giá, bởi vì như chúng ta đã thấy,

các yếu tố quy định mối liên hệ IS đều là những biến số thực tế, không bị ảnh hưởng

bởi những thay đổi của giá cả.

Vị trí của đường LM trong phần (I) rõ ràng phụ thuộc vào mức giá. Mức giá càng

cao, đường LM càng dịch chuyển về phía trái, bởi vậy lãi suất càng cao và mức thu

nhập thực tế càng thấp. Chúng ta có thể khẳng định điều này khi quan sát giao điểm

của các đường LM với đường IS là r0 và Y0. Khi mức giá thấp hơn, ví dụ bằng P1,

khối lượng tiền tệ thực tế lớn hơn, làm cho lãi suất giảm xuống tới mức r1 và mức thu

nhập tăng lên mức Y1. Hình 5.16 (II) ghi các điểm phản ánh mức giá tương ứng với

các mức thu nhập được tạo ra trong phần (I), nhờ việc xác định các giao điểm của

Page 16: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

đường LM và IS. Đường tổng cầu AD cho thấy rằng, đối với một đường IS và khối

lượng tiền tệ danh nghĩa cho trước, khi có một mức giá nhất định, ví dụ P0, mức tổng

cầu do mô hình IS – LM tạo ra cũng là một giá trị nhất định, ví dụ như Y0.

Mô hình IS – LM còn được dùng để xác định lãi suất, ví dụ như lãi suất r0 trong

trường hợp P0 và Y0. Chú ý rằng, trong khi chúng ta diễn giải đường tổng cầu Cổ

điển bằng cách nói “nếu giá cả là P0 tổng cầu sẽ bằng Y0”, mà không cần nhắc đến

đường tổng cung, thì đường tổng cầu của Keynes hay đường tổng cầu được thiết lập

trên cơ sở mô hình IS – LM phải được diễn giải một cách chặt chẽ bằng cách nói

rằng, “nếu giá cả là P0 và tổng cung là Y0, tổng cầu sẽ bằng Y0”. Việc nhắc tới đường

tổng cung là rất cần thiết, bởi vì đường AD của Keynes phụ thuộc vào giao điểm của

IS và LM, trong đó, đường IS biểu thị trạng thái cân bằng của thị trường hàng hóa.

Đương nhiên, chúng ta không thể nói nếu giá cả là P0, tổng cung sẽ chỉ bằng Y0 mà

không cần biết tới đường tổng cung. Phần sau đây sẽ chỉ ra cách thức phát huy ảnh

hưởng đối với đường tổng cầu của chính sách tài chính và tiền tệ, trước khi hoàn

chỉnh mô hình theo cách này.

5.2.2. Chính sách tài khóa và đường tổng cầu

Hình dạng và vị trí của đường AD phụ thuộc vào những yếu tố làm cơ sở cho đường IS

và LM. Bởi vậy, bất cứ sự thay đổi nào trong các yếu tố tác động tới đường IS và LM

cũng ảnh hưởng tới đường AD. Ví dụ, bất kỳ sự gia tăng nào trong mức chi tiêu thực tế

của Chính phủ được tài trợ bằng trái phiếu mà làm dịch chuyển đường IS về phía phải,

thì cũng làm cho đường AD dịch chuyển về phía phải (hình 5.17).

Hình 5.16. Chính sách tài khóa và đường AD: (I) IS – LM. (II) AD

Page 17: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

161

Tác động của chính sách tài khóa mở rộng là làm tăng tổng cầu, khi đó đường IS

dịch chuyển từ IS IS’, đường tổng cầu dịch chuyển từ AD AD’.

Hình 5.17 miêu tả hai đường IS là IS và IS’, trong đó mức chi tiêu thực tế của Chính

phủ được tài trợ bằng trái phiếu cao hơn trong trường hợp của đường IS. Cách vẽ

đường AD cho thấy, đường AD’ tương ứng với IS nằm đâu đó ở phía phải của một

đường IS nào đó. Chúng ta có thể hiểu được điều này bằng trực giác: Mức chi tiêu

thực tế của Chính phủ được tài trợ bằng trái phiếu càng cao, mức tổng cầu thực tế

cũng càng cao tại mọi mức giá.

5.2.3. Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu

Tương tự như vậy, sự gia tăng trong khối lượng tiền tệ danh nghĩa – điều làm cho đường

LM dịch chuyển về phía phải đối với mọi mức giá – cũng làm cho đường AD dịch

chuyển về phía phải.

Hình 5.17. Chính sách tài khóa và đường AD: (I) IS – LM. (II) AD

Chính sách tiền tệ mở rộng (lỏng) làm tăng cung tiền thêm một lượng là M (hình

5.18). Với mức giá không đổi là P0, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển từ AD → AD’; làm

sản lượng cân bằng tăng từ Y0 →Y1.

Hình 6.4 vẽ hai đường LM cho mức giá P0, nhưng ở đây, khối lượng tiền tệ danh nghĩa

tăng thêm một lượng bằng ΔM trong trường hợp đường LM’. Chúng ta có thể thấy rằng,

khi mức giá bằng P0, tổng cầu sẽ bằng Y0 với điều kiện đường IS cho trước và khối

lượng tiền tệ danh nghĩa bằng M0, nhưng cao hơn (bằng Y1) khi khối lượng tiền tệ danh

nghĩa cao hơn (bằng 0M M ). Hình 5.18 (II) chỉ ra rằng, nếu khối lượng tiền tệ danh

nghĩa cao hơn, điểm nằm ngang trên đường AD’ tại mức giá P0 sẽ ở bên phải điểm nằm

trên đường AD tại mức giá đó. Tương tự như vậy, đối với tất cả các mức giá khác, các

điểm trên đường AD’ đều nằm bên phải của các điểm tương ứng trên đường AD, như

được chỉ ra trong hình vẽ.

Page 18: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

Bây giờ, chúng ta đã thấy rõ rằng mô hình IS – LM thực sự là mô hình về tổng cầu trong

điều kiện có giả định giá cả cố định và đường AD mở rộng phân tích của chúng ta để chỉ

ra cách thức biến đổi của tổng cầu thực tế, khi mức giá thay đổi. Để hoàn chỉnh mô hình,

chúng ta cần phải đưa thêm đường tổng cung vào mô hình. Đường tổng cung cổ điển

thuần túy được thiết lập trên cơ sở giả định về sự cân bằng thị trường và quá trình điều

chỉnh tiền lương thực tế. Đường AS được thiết lập trên cơ sở giả định về tính cứng nhắc

của tiền lương danh nghĩa. Vì phần lớn phân tích trong cuốn Lý thuyết tổng quát đều giả

định tiền lương danh nghĩa cứng nhắc và Keynes cho rằng, để mức tổng cung thực tế

tăng lên, nhất thiết giá cả phải tăng lên, cho nên, đường AS còn được gọi là đường tổng

cung của Keynes, vì nó kết hợp tiền lương cứng nhắc với giá cả linh họat.

5.3. Xây dựng đường tổng cung

5.3.1. Đường tổng cung trong ngắn hạn và dài hạn

Tổng cung cho biết mối quan hệ giữa mức giá chung và khối lượng hàng hóa được cung

ứng. Chúng ta cần xem xét hai trường hợp sau: Trong dài hạn – khi giá cả của tất cả

hàng hóa và dịch vụ hoàn toàn linh hoạt; và trong ngắn hạn – khi giá cả của một số hàng

hóa lại cứng nhắc.

a. Dài hạn: Đường tổng cung thẳng đứng

Chúng ta biết rằng cung về hàng hóa trong dài hạn phụ thuộc vào công nghệ, khối lượng

tư bản và lực lượng lao động sẵn có. Nói cách khác, cung hàng hóa trong dài hạn không

phụ thuộc vào mức giá trong nền kinh tế. Điều này có nghĩa là đường tổng cung về hàng

hóa trong dài hạn (LRAS) thẳng đứng tại mức sản lượng tự nhiên.

Hình 5.18. Đường tổng cung dài hạn

Đường tổng cung dài hạn LRAS là đường thẳng đứng, cắt trục hoành tại mức sản

lượng tiềm năng Y* (hình 5.19). Trong mô hình này, tăng trưởng kinh tế được biểu thị

bằng sự dịch chuyển của đường tổng cung dài hạn sang phải theo thời gian. Khi công

nghệ được cải thiện và nền kinh tế có nhiều lao động và tư bản hơn, nhiều hàng hóa và

dịch vụ được sản xuất hơn.

b. Ngắn hạn: Đường tổng cung dốc lên

Các nghiên cứu kinh tế vĩ mô hiện đại đặc biệt quan tâm giải thích hành vi của tổng cung

trong ngắn hạn. Mặc dù có nhiều mô hình tổng cung khác nhau, nhưng rất may giữa

chúng cũng có nhiều điểm chung và do vậy chúng ta có thể khái quát hóa và giới thiệu

Page 19: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

163

các kết luận chung rút ra từ các mô hình đó. Đường tổng cung trong ngắn hạn SRAS có

xu hướng dốc lên, biểu thị mối quan hệ ngược chiều giữa mức giá P và sản lượng thực tế

Y (hình 5.20). Khi mức giá là P1 thì sản lượng thực tế là Y1, mức giá tăng lên từ P1 đến

P2 thì sản lượng thực tế sẽ tăng lên từ Y1 đến Y2.

Hình 5.19. Đường tổng cung ngắn hạn

5.3.2. Phương trình của đường tổng cung

a. Phương trình đường tổng cung

Đường tổng cung trong ngắn hạn SRAS là đường dốc lên về phía phải biểu thị mối quan

hệ cùng chiều giữa mức giá chung và sản lượng cân bằng. Nhìn chung, các phân tích

hiện đại về tổng cung đều có chung kết luận là đường tổng cung ngắn hạn có độ dốc

dương. Phương trình cơ bản về đường tổng cung ngắn hạn của chúng ta là:

* eY Y (P P ) .

trong đó, là một số dương và Pe biểu diễn kỳ vọng về giá. Phương trình này chỉ ra

rằng sản lượng (Y) có thể khác mức tự nhiên dài hạn (Y*) nếu như mức giá trên thực tế

khác với mức giá mà mọi người dự kiến. Có ba kết luận có thể rút ra từ phương trình

đường tổng cung ở trên.

Thứ nhất, đường tổng cung có độ dốc dương.

Thứ hai, vị trí của đường tổng cung phụ thuộc vào Pe. Đường tổng cung ngắn hạn

cắt đường tổng cung dài hạn tại mức giá Pe, do đó khi Pe tăng thì đường tổng cung sẽ

dịch chuyển lên phía trên và sang bên trái.

Thứ ba, tham số đo lường phản ứng của sản lượng với chênh lệch giữa giá cả

thực tế và giá cả dự kiến. Nếu 0 thì đường tổng cung có dạng thẳng đứng; nếu

trở nên rất lớn, thì đường tổng cung ngắn hạn gần như nằm ngang.

b. Cơ sở xây dựng phương trình đường tổng cung ngắn hạn

Có bốn mô hình khác nhau giải thích về đường tổng cung ngắn hạn:

Mô hình tiền lương cứng nhắc;

Mô hình nhận thức sai lầm của công nhân;

Mô hình thông tin không hoàn hảo;

Page 20: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

Mô hình giá cả cứng nhắc.

Các mô hình này có một số đặc điểm chung, và mỗi mô hình chỉ giải thích được một số

khía cạnh nhất định của thực tế.

Mô hình tiền lương cứng nhắc

Mô hình tiền lương cứng nhắc nhấn mạnh đến quá trình thỏa thuận tiền lương giữa

doanh nghiệp và công nhân. Các quan sát thực tế cho thấy trong các ngành công

nghiệp có sự hoạt động của công đoàn, tiền lương thường được quy định trước trong

các hợp đồng. Hơn nữa, ngay cả trong các ngành không có công đoàn cũng có các

thỏa thuận ngầm hoàn toàn tương tự. Nhiều công nhân hiểu ngầm với các thân chủ

của họ về mức tiền lương được xem xét lại một lần nữa trong mỗi năm, ngay cả khi

họ không ký các hợp đồng chính thức. Tiền lương của công nhân không thay đổi

cùng với sự kiện tác động đến lợi nhuận của các doanh nghiệp nơi họ làm việc.

Mô hình tiền lương cứng nhắc giả thiết rằng khi mặc cả tiền lương, cả doanh nghiệp

và công nhân đều có trong đầu một mục tiêu nhất định về tiền lương thực tế mà họ sẽ

thỏa thuận. Mức tiền lương này phụ thuộc vào sức mạnh mặc cả tương đối giữa

doanh nghiệp với các công nhân trên cơ sở cân nhắc về tiền lương hiệu quả… Như

vậy, mức việc làm tại mức tiền lương thực tế này tương ứng với trạng thái đầy đủ

việc làm. Tuy nhiên, trong hợp đồng được ký kết các điều khoản được viết theo tiền

lương danh nghĩa chứ không theo tiền lương thực tế. Để xác định tiền lương danh

nghĩa, các doanh nghiệp và công nhân dựa trên kỳ vọng về mức giá chung. Cuối

cùng, họ quyết định tiền lương danh nghĩa trên cơ sở sử dụng công thức sau:

eW w P

Trong đó, w là mục tiêu về tiền lương thực tế.

Giả thiết cuối cùng của mô hình là cầu về lao động quyết định số việc làm. Nói cách

khác, quá trình thương lượng giữa công nhân và doanh nghiệp không quyết định

trước số lao động được thuê, mà trái lại công nhân đồng ý cung ứng số lao động mà

các doanh nghiệp muốn thuê tại mức lương đã quyết định từ trước. Theo lý thuyết

tân cổ điển, họ sẽ lựa chọn bằng cách cân bằng sản phẩm cận biên của lao động với

tiền lương thực tế thực hiện:

e

L

W PMP w ( )

P P

Chúng ta có thể viết hàm cầu về lao động như sau:

d d WL L ( )

P

Trước hết, cần lưu ý rằng nếu eP P , thì W / P w , do đó Ld (W/P) = L và

*Y Y . Bây giờ, giả thiết mức giá hiện hành cao hơn mức dự kiến. Khi đó, tiền

lương thực tế thực hiện thấp hơn mức dự kiến. Lao động trở nên rẻ hơn, do đó các

doanh nghiệp sẽ thuê nhiều công nhân hơn và sản lượng sẽ tăng. Hoàn toàn ngược lại

nếu mức giá hiện hành thấp hơn mức dự kiến. Các doanh nghiệp nhận ít thu nhập

hơn từ sản lượng của họ so với dự kiến, do đó họ sẽ cắt giảm mức sản xuất. Chúng ta

Page 21: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

165

có thể minh họa điều này bằng đồ thị thị trường lao động với tiền lương danh nghĩa

được biểu diễn trên trục tung. Trong trường hợp này, đường cầu lao động dịch

chuyển khi mức giá thay đổi:

d eL (P P )

d eL (P P )

d eL (P P )

eWP

W

L L0

Hình 5.20. Mô hình tiền lương cứng nhắc: Sự gia tăng bất ngờ của mức giá

Mức tiền công danh nghĩa là W = w×Pe được biểu diễn trên trục tung. Cầu lao động sẽ

dịch chuyển khi mức giá thay đổi. Mô hình này hàm ý rằng chúng ta có thể biểu diễn

đường tổng cung bằng phương trình sau:

* eY Y (P P )

Như vậy, tổng cung phụ thuộc vào sản lượng tiềm năng Y*, mức giá chung P, và kỳ

vọng về giá Pe.

Mô hình nhận thức sai lầm của công nhân

Mô hình thứ hai về tổng cung tương tự như mô hình tiền lương cứng nhắc. Mô hình

nhận thức sai lầm của công nhân một lần nữa nhấn mạnh đến thị trường lao động. Tuy

nhiên, nó khác mô hình tiền lương cứng nhắc ở hai điểm. Thứ nhất, trong mô hình này,

tiền lương được giả thiết hoàn toàn linh hoạt, và do đó điều chỉnh đủ mạnh để cân bằng

thị trường lao động. Thứ hai, mô hình này giả thiết công nhân không thể nhận thức đúng

về mức giá và do đó cung về lao động phụ thuộc vào tiền lương thực tế dự kiến. Vì công

nhân và các doanh nghiệp có thông tin khác nhau về mức giá (các doanh nghiệp được

giả thiết có thông tin chính xác về mức giá, trong khi công nhân chỉ có dự kiến về mức

giá), do đó cầu về lao động phụ thuộc vào tiền lương thực tế thực hiện, trong khi đó cung

về lao động lại phụ thuộc vào tiền lương thực tế dự kiến.

Nếu mức giá cao hơn mức công nhân dự kiến, thì họ sẽ sẵn sàng cung ứng nhiều lao

động hơn tại mọi mức tiền lương thực tế, bởi vì họ tin rằng tiền lương thực tế của họ

cao hơn mức thực hiện, và do đó sản lượng tạo ra nhiều hơn. Điều ngược lại sẽ đúng

nếu giá cả thấp hơn mức công nhân dự kiến. Giống như trước, lập luận này có thể

được biểu diễn trong một đồ thị với tiền lương danh nghĩa trên trục tung:

Page 22: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

d eL (P P )

d eL (P P )

d eL (P P )

eWP

W

L L0

sL

Hình 5.21. Mô hình nhận thức sai lầm của công nhân – Sự gia tăng của mức giá

Đường tổng cung trong mô hình này dốc hơn so với mô hình tiền lương cứng nhắc (α

nhỏ hơn), bởi vì tiền lương danh nghĩa thay đổi khi mức giá thay đổi. Một câu hỏi được

đưa ra là liệu có hợp lý không khi cho rằng công nhân có ít thông tin về mức giá hơn so

với doanh nghiệp. Công nhân quan tâm đến mức giá chung, một loại chỉ số giá của tất cả

các hàng hóa mà họ mua.

Kết luận rút ra từ mô hình này là đường tổng cung dốc lên. Đường tổng cung trong mô

hình này dốc hơn so với mô hình tiền lương cứng nhắc ( nhỏ hơn), bởi vì tiền lương

danh nghĩa thay đổi khi mức giá thay đổi. Một câu hỏi được đưa ra là liệu có hợp lý

không khi cho rằng công nhân có ít thông tin về mức giá hơn so với doanh nghiệp. Công

nhân quan tâm đến mức giá chung, một loại chỉ số giá của tất cả các hàng hóa mà họ

mua. Họ có thể không biết điều này một cách chắc chắn. Ngược lại, các doanh nghiệp

quan tâm trước hết đến giá bán đối với các sản phẩm của họ và nhìn chung họ có thể biết

chính xác. Trong phân tích kinh tế vĩ mô, chúng ta thường không cần phân biệt giá cả

mà các công ty cá biệt bán và mức trung bình trong nền kinh tế, nhưng trong trường hợp

này sự phân biệt là cần thiết .

Mô hình thông tin không hoàn hảo

Mô hình tổng cung thứ ba giống mô hình nhận thức sai lầm của công nhân, vì nó một lần

nữa dựa trên giả thiết có sự nhầm lẫn giữa mức giá thực tế và mức giá dự kiến. Tuy

nhiên, lý thuyết này không phân biệt công nhân và các doanh nghiệp và không dựa vào

giả thiết cho rằng một số người có được thông tin tốt hơn những người khác.

Trong mô hình thông tin không hoàn hảo, mọi người không có đủ thông tin. Mô hình này

do R. Lucas đưa ra, một phần nhằm chính thức hóa mô hình nhận thức sai lầm của công

nhân. M.Friedman đưa ra mô hình nhận thức sai lầm của công nhân năm 1968 và R. Lucas

đưa ra mô hình thông tin không hoàn hảo vào đầu những năm 1970. Vì lý do này, đường

tổng cung đưa ra dựa trên mô hình này đôi khi được gọi là đường tổng cung Lucas.

Xét một tình huống trong đó những người sản xuất không thể phân biệt một cách hoàn hảo

giữa một cú sốc về giá cả cho các sản phẩm của họ (làm thay đổi giá tương đối và do đó

họ phải thay đổi mức sản xuất) và cú sốc về mức giá chung (không làm thay đổi giá tương

đối và do đó phản ứng tốt nhất là không thay đổi mức sản xuất). Giả sử một cú sốc nào đó

Page 23: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

167

làm tăng giá, phản ứng tốt nhất của người sản xuất có lẽ nằm đâu đó giữa hai khả năng

trên. Quyết định chính xác khối lượng sản phẩm cần sản xuất thêm phụ thuộc vào đánh giá

của anh ta về cơ hội kiếm lợi nhuận từ mỗi cú sốc. Nói một cách chính xác hơn, mô hình

giả thiết rằng những người sản xuất có một dự kiến nhất định về mức giá chung (Pe). Sau

đó, họ sẽ quan sát giá cả mà họ có thể bán sản phẩm của mình. Nếu mức giá đó cao bất

thường, họ có thể kết luận rằng giá cả của mọi hàng hóa đã tăng (có thể do tăng cung tiền).

Trong trường hợp này, họ sẽ điều chỉnh dự đoán của họ về mức giá chung và không thay

đổi mức sản xuất của họ. Trái lại, họ có thể nghĩ rằng cầu về sản phẩm của họ đã tăng, và

họ sẽ sản xuất nhiều hơn. Bất cứ sự khác nhau nào giữa giá cả thực tế và dự kiến đều có

thể do một hoặc cả hai khả năng này. Trong những trường hợp đó, phản ứng tốt nhất của

các doanh nghiệp với sự gia tăng giá cả không được dự kiến trước là tăng sản lượng.

Tóm lại, mô hình thông tin không hoàn hảo khẳng định rằng khi giá cả cao hơn mức dự

kiến, các nhà cung cấp tăng sản lượng của họ. Do vậy, mô hình có đường tổng cung

dưới dạng mà chúng ta đã biết:

* eY Y (P P )

Sản lượng lệch khỏi mức tự nhiên khi mức giá lệch khỏi mức giá dự kiến.

Mô hình giá cả cứng nhắc

Cuối cùng, chúng ta trở lại với mô hình giá cả cứng nhắc. Đây là một lý thuyết tương đối

phức tạp hơn so với ba mô hình đã trình bày ở trên. Mô hình giá cả cứng nhắc đưa ra

một quan niệm rất khác về hành vi của các doanh nghiệp. Cho đến nay chúng ta luôn

nghĩ rằng các doanh nghiệp lựa chọn mức sản xuất mà họ có thể bán được tại mức giá

được coi là cho trước. Tuy nhiên, trong thực tế các doanh nghiệp thường định giá bán

cho các sản phẩm của mình. Để phân tích tình huống này một cách chính xác, chúng ta

cần sử dụng mô hình cạnh tranh không hoàn hảo, trong đó các doanh nghiệp có một sức

mạnh thị trường nhất định. Xét quyết định của một doanh nghiệp. Giá P mà doanh

nghiệp muốn quy định phụ thuộc vào hai biến số:

Mức giá chung P: Một sự gia tăng trong mức giá chung làm giá cả của các đối thủ

cạnh tranh và giá cả các yếu tố đầu vào tăng lên và do đó, doanh nghiệp cũng cần

tăng giá cho các sản phẩm của mình.

Tổng thu nhập Y: Mức thu nhập cao làm tăng cầu về sản phẩm của doanh nghiệp.

Vì chi phí cận biên tăng khi mức sản xuất cao hơn, nên cầu càng lớn, thì doanh nghiệp

càng muốn định giá cao hơn. Chúng ta có thể viết giá mà doanh nghiệp muốn quy định

như sau:

eP P (Y Y*)

trong đó, là tham số lớn hơn không. Phương trình này chỉ ra giá mong muốn P phụ

thuộc vào mức giá chung và chênh lệch giữa sản lượng thực tế và sản lượng tự nhiên.

Bây giờ, giả thiết rằng có hai loại doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tỷ trọng

(1 – s) có giá cả linh hoạt và điều chỉnh giá cả theo những điều kiện kinh tế hiện tại dựa

trên cơ sở phương trình này. Số còn lại, có tỷ trọng là s, được đặc trưng bởi giá cả cứng

nhắc. Họ ấn định giá cả trước và duy trì nó trong một khoảng thời gian nhất định có thể

do chi phí thực đơn hay vì một lý do nào khác. Họ định giá trên cơ sở kỳ vọng về những

Page 24: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

điều kiện kinh tế tương lai. Điều này liên quan đến dự đoán cả về cầu và mức giá chung.

Để đơn giản, chúng ta giả định các doanh nghiệp này dự kiến sản lượng ở mức tự nhiên,

nên biểu thức cuối cùng e *e(Y Y ) bằng không. Khi đó, giá mà các doanh nghiệp này

quy định sẽ là eP P . Mức giá thực tế trong nền kinh tế là số trung bình gia quyền của

hai tập hợp giá cả này:

eP sP (l s) P Y Y *

Chúng ta có thể giải phương trình này và thu được:

eP P (l s) / s (Y Y*)

Kết luận đầu tiên mà chúng ta có thể rút ra từ phương trình này là nếu sản lượng ở mức

tự nhiên, giá cả thực tế đúng bằng mức dự kiến. Điều này rất có ý nghĩa. Các doanh

nghiệp với giá cả cứng nhắc đơn giản định giá cho sản phẩm của họ bằng mức giá dự

kiến, trong khi nếu sản lượng ở mức tự nhiên, các doanh nghiệp với giá cả linh hoạt định

giá đúng bằng mức giá thực tế.

Phương trình này cũng chỉ ra rằng nếu tổng cầu cao, do đó Y cao hơn Y*, thì mức giá

thực tế sẽ cao hơn mức giá dự kiến. Cầu cao làm cho các doanh nghiệp có giá cả linh

hoạt tăng giá. Nếu mọi doanh nghiệp điều có giá cả linh hoạt, thì sản lượng sẽ không bao

giờ vượt quá mức tự nhiên. Hành vi của các doanh nghiệp với mức giá cả cứng nhắc có

vai trò hạn chế sự biến động của giá cả. Sự phản ứng của mức giá chung đối với các cú

sốc về sản lượng phụ thuộc vào hỗn hợp giữa hai loại doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Khi chúng ta biến đổi phương trình này, chúng ta nhận được phương trình quen thuộc

biểu diễn đường tổng cung:

* eY Y (P P )

Trong đó:

s

(1 s)

Giống như các mô hình khác, mô hình giá cả cứng nhắc cũng hàm ý rằng đường tổng

cung ngắn hạn dốc lên. Phương trình này chỉ ra đường tổng cung thoải hơn (sản lượng

phản ứng mạnh hơn với sự thay đổi giá cả) khi s lớn và nhỏ. Khi có nhiều doanh

nghiệp với giá cả cứng nhắc trong nền kinh tế, mức giá sẽ ở gần mức giá dự kiến của nó

ngay cả khi sản lượng ở rất xa mức tự nhiên. Trên một số phương diện mô hình này về

đường tổng cung rất khác so với ba mô hình trước đây. Trong khi hình dáng đường tổng

cung thực ra giống nhau, nhưng luận cứ không phải là giá cả cao bất thường dẫn đến

mức sản lượng cao mà trái lại là khi sản lượng cao, giá cả có xu hướng cao. Tuy nhiên,

hãy ghi nhớ là cả mức giá và sản lượng đều là các biến nội sinh.

5.4. Giới thiệu hệ thống kinh tế vĩ mô

5.4.1. Hệ thống kinh tế vĩ mô

Có nhiều cách mô tả họat động của nền kinh tế. Theo cách tiếp cận hệ thống, nền kinh tế

được xem là như một hệ thống - gọi là hệ thống kinh tế vĩ mô. Hệ thống này - như

Page 25: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

169

P.A.Samuelson mô tả - được đặc trưng bởi ba yếu tố: đầu vào, đầu ra và hộp đen kinh tế

vĩ mô. Các yếu tố đầu vào bao gồm:

Những tác động từ bên ngoài, bao gồm chủ yếu các biến số phi kinh tế: thời tiết, dân

số, chiến tranh,...

Những tác động của các biến số kinh tế như các chính sách, bao gồm các công cụ của

Nhà nước nhằm điều chỉnh hộp đen kinh tế vĩ mô, hướng tới các mục tiêu đã định trước.

Các yếu tố đầu ra bao gồm: sản lượng, việc làm, giá cả, xuất nhập khẩu. Đó là các biến

do họat động của hộp đen kinh tế vĩ mô tạo ra. Yếu tố trung tâm của hệ thống là hộp đen

kinh tế vĩ mô, còn gọi là nền kinh tế vĩ mô (Macroeconomy). Họat động của hộp đen

như thế nào sẽ quyết định chất lượng của các biến đầu ra. Hai lực lượng quyết định sự

họat động của hộp đen kinh tế vĩ mô là tổng cung và tổng cầu.

Tổng cung và tổng cầu là hai thuật ngữ được các nhà kinh tế sử dụng khá thường xuyên.

Chúng là những lực lượng làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động. Mô hình tổng cung

và tổng cầu chỉ ra sản lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra và mức giá chung của

nền kinh tế. Bây giờ, chúng ta sẽ lần lượt xem xét qua các khái niệm cơ bản và các yếu

tố tác động đến tổng cung và tổng cầu.

5.4.2. Giới thiệu về tổng cầu (AD)

Tổng cầu là tổng khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà các

tác nhân trong nền kinh tế muốn mua và có khả năng

mua ở mức giá cả, thu nhập và các biến số kinh tế khác

nhau đã cho. Tổng khối lượng hàng hóa và dịch vụ trong

nền kinh tế quốc dân là tổng giá trị nền kinh tế quốc dân.

Ví dụ: Năm 2017 tổng sản phẩm quốc dân (tổng giá trị)

hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam là 200 tỷ USD.

Đường tổng cầu AD là đường dốc xuống, có độ dốc âm;

trục tung biểu thị mức giá chung (chẳng hạn là chỉ số CPI) ký hiệu là P, còn được gọi là

mặt bằng giá; Y là sản lượng (hoặc thu nhập), ta thường dùng GNP thực tế để tính.

Page 26: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

Hình 5.22. Đường tổng cầu

Tại sao đường cầu dốc xuống? Trong trường hợp một sản phẩm cá biệt, dạng dốc xuống

của đường cầu sản phẩm là tương đối dễ giải thích. Nếu giá của một loại nước ngọt nào

đó tăng thì khối lượng cầu của loại nước ngọt đó giảm vì người tiêu dùng sẽ chuyển sang

sử dụng các loại nước ngọt khác. Cũng có thể giải thích tương tự đối với dạng dốc xuống

của đường cầu của tất cả các sản phẩm cùng một loại. Ví dụ: Nếu giá của tất cả các loại

nước ngọt đều tăng, thì khối lượng cầu của mặt hàng nước ngọt giảm vì người tiêu dùng

sẽ chuyển sang tiêu dùng các loại nước giải khát khác hoặc các loại sản phẩm khác. Nếu

giá của tất cả các loại sản phẩm và dịch vụ đều tăng (mức giá tăng) thì khối lượng chi

tiêu của toàn bộ nền kinh tế có xu hướng tăng lên, tổng cầu tăng lên? Nguyên nhân dẫn

đến điều đó là do khi giá cả giảm, thu nhập thực tế của công chúng tăng lên, tiêu dùng

thực tế sẽ cao hơn, tổng cầu cũng sẽ cao hơn.

Tổng cầu chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau, chúng ta có thể bắt đầu bằng việc

xác định hàm tổng chi tiêu trong nền kinh tế mở: AE = C + I + G + X – IM. Khi thu

nhập thực tế bằng chi tiêu dự kiến, thì tổng cầu chính là tổng chi tiêu của nền kinh tế.

Điều này cho thấy, tổng cầu được cấu thành bởi cầu về hàng hóa dịch vụ, cầu đầu tư của

các hãng tư nhân, cầu chi tiêu của Chính phủ và cầu về xuất khẩu ròng. Các yếu tố tác

động đến tổng cầu bao gồm:

Mức giá cả chung trong nền kinh tế quốc dân: Giá cả tăng thì tổng mức cầu giảm và

ngược lại, xảy ra hiện tượng trượt dọc các điểm trên đường tổng cầu.

Các nhân tố khác: Các nhân tố này thay đổi sẽ làm cho đường tổng cẩu dịch chuyển

sang vị trí mới.

o Nhân tố lãi suất: Nếu tất cả các yếu tố khác không đổi, lãi suất tăng sẽ làm giảm

tổng cầu.

o Lạm phát được dự đoán: Khi tỷ lệ lạm phát được dự đoán tăng, tổng cầu tăng, nếu

các yếu tố khác không đổi.

o Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến tổng cầu vì nó chi phối đồng

thời giá mà người nước ngoài phải trả để mua sản phẩm sản xuất ở trong nước và

giá mà người trong nước phải trả để mua sản phẩm của nước ngoài. Khi đồng nội

tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ, tổng cầu sẽ giảm.

o Lợi nhuận dự đoán: Khi xuất hiện những nhân tố làm tăng mức dự đoán về lợi

nhuận, tổng cầu tăng, vì một tình hình kinh doanh lạc quan hơn sẽ kích thích các

Page 27: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

171

doanh nghiệp tăng đầu tư, đổi mới thiết bị, công nghệ. Mặt khác triển vọng tăng

thu nhập khuyến khích người ta tăng chi tiêu.

o Khối lượng tiền (Mức cung tiền): Một sự thay đổi của mức cung tiền sẽ có sự thay

đổi của lãi suất và tác động tới tổng cầu.

o Thu nhập của người tiêu dùng tăng: Thu nhập của người tiêu dùng tăng, chi tiêu

về hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng, tổng cầu sẽ tăng.

o Cầu về hàng hóa và dịch vụ của Chính phủ: tác động trực tiếp tới tổng cầu. Giả

định thuế không đổi, khi Chính phủ tăng chi tiêu cho các công trình như xây dựng

cầu và đường thì tổng cầu sẽ tăng.

o Ngoài ra còn có các nhân tố: thuế và chi chuyển nhượng; xuất nhập khẩu; dân

số,... cũng có tác động rất lớn đến tổng cầu.

o Đầu tư của của các hãng tư nhân.

Đường tổng cầu cho biết tổng khối lượng hàng hóa và dịch vụ được mua tại những mức

giá khác nhau. Nói cách khác, đường tổng cầu biểu thị mối quan hệ giữa lượng tổng cầu

và mức giá. Để hiểu tại sao đường tổng cầu dốc xuống, chúng ta xem xét ảnh hưởng của

sự thay đổi mức giá đối với tiêu dùng, đầu tư, và xuất khẩu ròng. Việc cắt giảm mức giá

sẽ làm tăng tiêu dùng, đầu tư, và xuất khẩu ròng vì các lý do sau:

Mức giá và tiêu dùng: Hiệu ứng Pigou. Với mức giá thấp hơn, lượng tiền mà các hộ

gia đình đang nắm giữ trở nên có giá trị hơn. Các hộ gia đình cảm thấy giàu có hơn

và chi tiêu nhiều hơn, làm tăng tiêu dùng.

Mức giá và đầu tư: Hiệu ứng Keynes. Với mức giá thấp hơn, các hộ gia đình cần giữ

ít tiền hơn để mua lượng hàng hóa như cũ. Họ cho vay một phần số tiền thừa, làm

cho lãi suất giảm và có tác dụng kích thích đầu tư.

Mức giá và xuất khẩu ròng: Hiệu ứng tỷ giá hối đoái. Việc giảm giá trong nước làm

cho hàng hóa Việt Nam trở nên rẻ một cách tương đối so với hàng ngoại. Điều này

có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và làm tăng thành phần xuất

khẩu ròng trong tổng cầu.

Cả ba hiệu ứng này đều hàm ý rằng có mối quan hệ ngược chiều giữa mức giá và khối

lượng hàng hóa và dịch vụ được mua. Nói cách khác, đường tổng cầu dốc xuống. Sự

trượt dọc trên một đường tổng cầu được gọi là di chuyển. Khi một sự kiện làm thay đổi

lượng tổng cầu tại mỗi mức giá cho trước, thì đường tổng cầu sẽ dịch chuyển.

5.4.3. Giới thiệu về tổng cung (AS)

Tổng cung bao gồm tổng khối lượng sản phẩm quốc dân mà các doanh nghiệp sẽ sản

xuất và bán ra trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, khả năng sản xuất và chi phí sản

xuất đã cho. Tổng cung liên quan đến khái niệm sản lượng tiềm năng. Đó là sản lượng

tối đa mà nền kinh tế có thể sản xuất ra trong điều kiện toàn dụng nhân công, mà không

gây nên lạm phát. Sản lượng tiềm năng phụ thuộc vào việc sử dụng các yếu tố sản xuất,

đặc biệt là lao động.

Đường tổng cung dài hạn (LRAS) là đường song song với trục tung và cắt trục hoành

ở mức sản lượng tiềm năng.

Đường tổng cung ngắn hạn (SRAS): Đường tổng cung ban đầu tương đối nằm

ngang, khi vượt qua điểm sản lượng tiềm năng, đường tổng cung sẽ dốc lên.

Page 28: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

Điều này nói lên rằng, ở dưới mức sản lượng tiềm năng, một sự thay đổi nhỏ về giá cả

đầu ra sẽ khuyến khích các hãng tăng nhanh sản lượng để đáp ứng nhu cầu tăng lên. Sở

dĩ có các hành động như vậy vì trong khoảng thời gian ngắn, đứng trước giá đầu vào cố

định, họ có thể đồng thời tăng sản lượng và tăng giá nhẹ để thu lợi nhuận. Về mặt dài

hạn, chi phí đầu vào đã điều chỉnh thì các hãng không còn động lực để tăng sản lượng.

Giá cả sẽ tăng lên nhanh chóng để đáp ứng với sự thay đổi của tổng mức cầu. Đường

cung dài hạn do đó là đường thẳng đứng.

Hình 5.23. Đường tổng cung trong ngắn hạn và dài hạn

Tổng cung phụ thuộc vào chủ yếu vào giá cả và chi phí. Khi giá cả và chi phí sản xuất

thấp, các doanh nghiệp có thể sản xuất ít hơn sản lượng tiềm năng. Với mức giá cao hơn,

thì ngược lại. Tuy nhiên, các doanh nghiệp luôn muốn tăng sản lượng của mình để đạt

tới sản lượng tiềm năng. Do vậy, ngoài yếu tố giá cả và chi phí, tổng cung còn chịu ảnh

hưởng của các yếu tố làm tăng sản lượng tiềm năng. Cụ thể, tổng cung phụ thuộc vào

các yếu tố sau:

Các yếu tố làm thay đổi đồng thời tổng cung ngắn hạn và tổng cung dài hạn:

o Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực càng đông, khối lượng sản phẩm và dịch vụ sản

xuất càng lớn.

o Cơ sở vật chất kỹ thuật, tiến bộ công nghệ: Máy móc thiết bị, cơ sở vật chất càng

nhiều, càng hiện đại, năng suất lao động càng cao và khối lượng sản phẩm dịch vụ

sản xuất càng lớn. Trình độ công nghệ có ảnh hưởng quan trọng đối với tổng

cung. Việc phát minh các phương pháp sản xuất mới, hiệu quả hơn, cho phép các

xí nghiệp sản xuất nhiều hơn với cùng một khối lượng yếu tố sản xuất. Ngay cả

khi dân số và cơ sở vật chất không đổi, tiến bộ kỹ thuật có thể làm tăng sản lượng

và tổng cung.

o Vốn con người: Nguồn nhân lực có trình độ học vấn cao, thành thạo nghề nghiệp

thì năng suất lao động càng cao.

o Nguồn nguyên liệu: Sự dồi dào, phong phú của nguồn nguyên liệu có tác động rất

đáng kể đối với sản lượng. Việc phát hiện ra các nguồn nguyên liệu mới góp phần

làm giảm chi phí sản xuất và tăng sản lượng. Ngược lại, sự cạn kiệt các nguồn tài

nguyên sẽ có tác động làm giảm sản lượng.

Page 29: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

173

o Thời tiết, khí hậu: Thời tiết chắc chắn có ảnh hưởng đối với sản lượng, đặc biệt

trong nông nghiệp. Thời tiết thuận lợi làm tăng sản lượng, thời tiết bất lợi làm

giảm sản lượng.

o Những thay đổi trong thành phần của GDP thực: Khi các vùng và các thành phần

của nền kinh tế phát triển theo cùng một nhịp thì thành phần của GDP thực ổn

định. Ngược lại khi có một vài khu vực tăng trưởng nhanh trong khi một số khu

vực khác sa sút thì thành phần của GDP thực thay đổi nhanh chóng. Trong trường

hợp này, nguồn nhân lực sẽ chuyển dịch để thích ứng với sự thay đổi của cơ cấu

kinh tế, làm cho tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng, tổng cung giảm xuống.

o Những yếu tố kích thích: Đây là những yếu tố (thường là các chính sách) có tác

dụng khuyến khích hoặc ngăn cản người ta đi đến một hành động nào đó. Những

yếu tố này cũng có thể có ảnh hưởng đối với tổng cung. Một mức thuế quá cao có

thể không khuyến khích dân chúng làm việc, không khuyến khích tiết kiệm hoặc

tích lũy vốn. Do đó chính sách tăng thuế có tác dụng làm giảm tổng cung.

Những yếu tố chỉ làm thay đổi tổng cung ngắn hạn:

o Tiền lương: Có ảnh hưởng đối với tổng cung ngắn hạn vì tiền lương là một bộ

phận quan trọng của chi phí sản xuất. Tiền lương càng cao, phí tổn sản xuất của

các xí nghiệp càng lớn và do đó xí nghiệp sẽ giảm khối lượng sản phẩm cung ứng

đối với mọi mức giá.

o Giá của các yếu tố sản xuất khác: Giá của các yếu tố sản xuất khác cũng có tác

động tương tự như tác động của tiền lương đối với tổng cung ngắn hạn. Mọi mức

tăng giá của các yếu tố sản xuất đều làm tăng chi phí sản xuất của xí nghiệp và xí

nghiệp sẽ giảm sản lượng đối với mọi mức giá.

5.4.4. Cân bằng trên mô hình AD-AS

a. Trạng thái cân bằng của nền kinh tế

Nếu đưa hai đồ thị AD và AS vào cùng một hệ trục ta sẽ thấy hai đường đó cắt nhau tại

E0 (hình 5.25). Điểm E0 gọi là điểm cân bằng trong cả ngắn hạn và dài hạn của nền kinh

tế. Cân bằng tổng cung - tổng cầu còn gọi là cân bằng của thị trường hàng hóa và dịch

vụ của quốc gia.

Hình 5.24. Trạng thái cân bằng của nền kinh tế trong mô hình AS-AD

Page 30: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

Điểm E0 là điểm cân bằng dài hạn của nền kinh tế, tại đó AD = LRAS = SRAS. Mức giá

P0 gọi là giá cân bằng của nền kinh tế, tại điểm E0, nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng,

các hãng luôn luôn đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của nền kinh tế. Tại trạng thái cân bằng

dài hạn, mức sản lượng Y0 bằng mức sản lượng tiềm năng Y*, tại đó tỷ lệ lạm phát bằng

lạm phát dự kiến, giá cả bình ổn, tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Hầu hết

các quốc gia đều muốn đạt được trạng thái cân này.

b. Sự trượt dọc và dịch chuyển đường tổng cung và tổng cầu

Khi phân tích sự trượt dọc và dịch chuyển đường tổng cung và tổng cầu, chúng ta cần

phân biệt sự di chuyển tổng cung và tổng cầu và sự dịch chuyển toàn bộ hai đường đó

trong hệ trục:

Sự trượt dọc (di chuyển) theo đường AS và AD biểu thị những thay đổi trong tổng

mức cung hoặc tổng mức cầu tuỳ thuộc vào giá cả thay đổi.

Sự dịch chuyển toàn bộ đường AS và AD biểu thị những thay đổi của tổng cung hoặc

tổng cầu, phụ thuộc vào tác động của những biến số khác.

Đường tổng cầu dịch chuyển sang trái hoặc sang phải chủ yếu tuỳ thuộc vào tác động

của các biến chính sách như thuế, chi tiêu của Chính phủ, lãi suất,... Đường tổng cung

dịch chuyển sang trái hoặc sang phải phụ thuộc vào tác động của lao động, tài nguyên,

kỹ thuật và các chi phí đầu vào khác. Khi nghiên cứu tác động của một yếu tố nào đó

đến AD hoặc AS người ta thường cố định những nhân tố khác, làm cho việc phân tích

trở nên dễ dàng hơn.

Ví dụ: Sự tác động của tổng cung, tổng cầu đến sản lượng cân bằng của nền kinh tế

Trường hợp 1: Giả sử nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, các doanh nghiệp

lâm vào tình trạng làm ăn đình đốn trì trệ, họ không muốn đầu tư thêm, các hộ gia

đình không muốn chi tiêu thêm cho tiêu dùng do đó tổng cầu của nền kinh tế đạt ở

mức thấp so với sản lượng tiềm năng, người lao động bị đẩy vào tình trạng mất việc

làm bởi vậy thất nghiệp gia tăng. Mục tiêu đặt ra của Chính phủ trong trường hợp

này là phải giảm thất nghiệp và mở rộng tổng cầu bằng một số cách sau:

Hình 5.25. Sự dịch chuyển đường tổng cầu (a)

o Chính phủ tăng mức chi tiêu (G) do đó làm cho tổng cầu (AD) tăng từ AD1 đến

AD0. Sản lượng cân bằng của nền kinh tế tăng từ Y1 lên Y* (sản lượng tiềm

Page 31: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

175

năng), giá tăng từ P1 đến P* (giá cân bằng của thị trường). Do giá cả thị trường

tăng, các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn để phát triển sản xuất tìm kiếm lợi

nhuận, do đó đã tạo ra nhiều việc làm góp phần làm cho thất nghiệp giảm.

o Chính phủ giảm thuế (T), do đó để khuyến khích tiêu dùng của dân chúng và đầu

tư của các doanh nghiệp tăng lên làm cho tổng cầu (AD) cũng tăng từ AD1 đến

AD0, dẫn đến giá tăng từ P1 đến P*, sản lượng cân bằng sẽ tăng từ Y1 đến Y*,

thất nghiệp giảm.

Trường hợp 2: Khi nền kinh tế phát triển “quá nóng”, phát triển đạt quá mức sản

lượng tiềm năng (Y*), lạm phát tăng, gây ra những bất lợi cho nền kinh tế nói chung

và mọi họat động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng. Trong trường

hợp này, mục tiêu của Chính phủ là phải làm giảm lạm phát bằng cách cắt giảm chi

tiêu hoặc tăng thuế, nhờ đó mà mức chi tiêu chung (tổng cầu) giảm, sản lượng cũng

giảm và lạm phát chững lại.

Hình 5.26. Sự dịch chuyển đường tổng cầu (b)

Trên đồ thị cho thấy, do tổng cầu của nền kinh tế tăng từ AD0 đến AD1, sản lượng Y1

vượt quá mức sản lượng tiềm năng Y* (hình 5.27), do đó giá tăng từ P0 đến P1 và gây

ra lạm phát. Để chống lạm phát, Chính phủ đã sử dụng chính sách tài khóa để can

thiệp vào nền kinh tế bằng cách cắt giảm chi tiêu (G) hoặc tăng thuế (T). Do đó, tổng

cầu của nền kinh tế giảm, đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 xuống AD0, điểm cân

bằng dịch chuyển từ E1 xuống E0, sản lượng cân bằng giảm từ Y1 xuống Y*, giá

giảm từ P1 xuống P0, lạm phát cũng chững lại nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng dài

hạn tại E0.

5.5. Mối quan hệ giữa các mô hình AD-AS và IS-LM trong ngắn hạn và dài hạn

5.5.1. Trong ngắn hạn

Để giải thích những biến động kinh tế trong ngắn hạn, phần lớn các nhà kinh tế đều dựa

trên giả thiết là giá cả không hoàn toàn linh họat. Thực tế cho thấy giá một số hàng hóa

hoàn toàn cứng nhắc, chúng không hề phản ứng trước bất kỳ sự thay đổi nào của cung và

cầu. Có nhiều chứng cứ cho thấy giá cả không linh họat lắm trong ngắn hạn. Ví dụ: Các

nhà hàng không thay đổi giá các món ăn trong ngày: Không tăng giá vào buổi trưa khi

đông khách và giảm giá vào giữa chiều khi vắng khách. Các nhà hàng in sẵn các thực

đơn trong đó giá các món ăn được xác định trước. Hợp đồng lao động quy định trước

Page 32: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

tiền lương cho tháng hay năm. Do đó, mô hình về nền kinh tế trong ngắn hạn dựa trên

giả thiết giá cả cứng nhắc.

Trong ngắn hạn, nhiều loại giá cả chưa phản ứng kịp với những thay đổi trong chính

sách tiền tệ. Sự cắt giảm cung tiền không được thực hiện phản ứng ngay lập tức dẫn đến

việc tất cả các doanh nghiệp đều cắt giảm tiền công mà họ đang trả, các cửa hàng đều

muốn thay đổi giá cả ghi trên cataloge. Như vậy, giá cả thay đổi ít, nhiều loại giá cả có

tính cức nhắc. Tính cứng nhắc của giá cả trong ngắn hạn hàm ý ảnh hưởng ngắn hạn của

sự thay đổi trong cung tiền không giống như ảnh hưởng của nó trong dài hạn.

Hình 5.27. Cân bằng của nền kinh tế trong ngắn hạn

Giả định tất cả giả cả đều cố định trong ngắn hạn, tính cứng nhắc này của giá cả hàm ý

đường tổng cung trong ngắn hạn SRAS là đường nằm ngang. Khi có sự gia tăng cung

tiền, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang phải. Trạng thái cân bằng của nền kinh tế thay

đổi từ E1 đến E2. Do giá cả cứng nhắc, không đổi, nên chỉ có sự thay đổi sản lượng. Sản

lượng gia tăng từ Y1 đến Y2, được mô tả trên hình 5.28.

5.5.2. Trong dài hạn

Sự điều chỉnh từng bước của mức giá sẽ làm cho nền kinh tế di chuyển từ ngắn hạn sang

dài hạn. Điều này thể hiện như sau:

Bảng 5.1. Sự thay đổi mức giá

Cân bằng trong

ngắn hạn, nếu

Sau đó theo thời gian, mức

giá sẽ

Y > Y* Tăng

Y < Y* Giảm

Y = Y* Vẫn cố định

Giả sử có cú sốc ngược chiều của đường IS như: Chi tiêu của Chính phủ giảm, hoặc thuế

tăng, hoặc tiêu dùng của dân cư giảm, hoặc đầu tư giảm, khi đó đường IS sẽ dịch chuyển

sang trái (hình 5.29). Trong mô hình IS-LM, lãi suất và thu nhập của nền kinh tế đều

giảm. Theo mô hình AD-AS, theo thời gian, giá sẽ giảm đều đặn, đường tổng cung trong

ngắn hạn dịch chuyển xuống dưới (sang phải). Cung tiền thực tế (M/P) tăng lên, đường

LM dịch chuyển xuống dưới (sang phải). Nếu mức sản lượng thực tế vẫn nhỏ hơn sản

lượng tiềm năng (Y < Y*) thì mức giá sẽ càng giảm (M/P) sẽ càng tăng, đường LM sẽ

càng dịch chuyển sang phải. Quá trình này tiếp diễn xảy ra cho đến khi nền kinh tế đạt

được cân bằng dài hạn Y = Y*.

Page 33: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

177

Y*

Mức lãi suất

Sản lượng (Y)

Mức giá (P)

ASL

P1

0

0Sản lượng (Y)

ASL

P2

Y*

LM(P1)

LM(P2)

ASS1

ASS2

AD1

AD2

IS1

IS2

Hình 5.28. Ảnh hưởng của cú sốc đường IS trong ngắn hạn và dài hạn

5.5.3. Chu kỳ kinh tế và khoảng cách sản lượng

a. Khái niệm chu kỳ kinh tế

Nền kinh tế thị trường của các nước công nghiệp phát triển tiêu biểu thường phải chống

đối với vấn đề chu kỳ kinh tế. Liên quan đến chu kỳ kinh tế là sự đình trệ sản xuất, thất

nghiệp và lạm phát. Chu kỳ kinh tế là sự dao động của GNP thực tế xung quanh xu

hướng tăng lên của sản lượng tiềm năng. Độ lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng

thực tế gọi là sự thiếu hụt sản lượng.

Khoảng cách sản lượng = Sản lượng tiềm năng – Sản lượng thực tế.

Nghiên cứu sự thiếu hụt sản lượng giúp cho việc tìm ra những biện pháp chống lại chu

kỳ kinh tế - nhằm ổn định kinh tế. Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự

biến động của GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng

thịnh (bùng nổ). Cũng có quan điểm coi pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh

chỉ gồm hai pha chính là suy thoái và hưng thịnh (hay mở rộng).

Chu kỳ kinh tế

Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy

định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp

thì mới gọi là suy thoái.

Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái.

Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế.

Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền

kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh

Page 34: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới

gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.

Hình 5.29. Chu kỳ kinh tế

Thông thường, người ta chỉ nhận ra hai điểm đáy và đỉnh của chu kỳ kinh tế khi nền

kinh tế đã sang pha tiếp sau điểm ngoặt với dấu hiệu là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế

đổi chiều giữa mức âm và mức dương. Trong thực tế, các nhà kinh tế học cố tìm cách

nhận biết dấu hiệu của suy thoái vì nó tác động tiêu cực đến mọi mặt kinh tế, xã hội. Một

số đặc điểm thường gặp của suy thoái là:

Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh

nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo

theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế

giảm sút.

Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống

tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.

Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi

nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh

trong giai đoạn kinh tế suy thoái.

Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khóan thường giảm theo

khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về vốn

cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ suy thoái.

Còn khi nền kinh tế hưng thịnh thì các dấu hiệu trên biến thiên theo chiều ngược lại.

Trước đây, một chu kỳ kinh doanh thường được cho là có bốn pha lần lượt là suy thoái,

khủng hoảng, phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng

hoảng theo nghĩa kinh tế tiêu điều, thất nghiệp tràn lan, các nhà máy đóng cửa hàng

loạt,v.v không xảy ra nữa. Vì thế, toàn bộ giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn nền

kinh tế thu hẹp lại, được gọi duy nhất là suy thoái. Ở Việt Nam cho đến đầu thập niên

1990, trong một số sách về kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa, khi nói về chu kỳ kinh tế

thường gọi tên bốn pha này là khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Nay

không còn thấy cách gọi này nữa.

Page 35: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

179

b. Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế

Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai chu kỳ kinh

tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự báo

chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc

biệt là pha suy thoái sẽ khiến cho cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều

khó khăn. Khi có suy thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường

từ hàng hóa dịch vụ cho đến thị trường vốn,... thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực

về kinh tế, xã hội. Chu kỳ kinh tế khiến cho kế họach kinh doanh của khu vực tư nhân và

kế họach kinh tế của nhà nước gặp khó khăn. Việc làm và lạm phát cũng thường biến

động theo chu kỳ kinh tế. Đặc biệt là trong những pha suy thoái, nền kinh tế và xã hội

phải gánh chịu những tổn thất, chi phí khổng lồ. Vì thế, chống chu kỳ là nhiệm vụ được

nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, vì cách lý giải nguyên nhân gây ra chu kỳ giữa các trường

phái kinh tế học vĩ mô không giống nhau, nên biện pháp chống chu kỳ mà họ đề xuất

cũng khác nhau.

Chủ nghĩa Keynes cho rằng chu kỳ kinh tế hình thành do thị trường không hoàn hảo,

khiến cho tổng cầu biến động mà thành. Do đó, biện pháp chống chu kỳ là sử dụng

chính sách quản lý tổng cầu. Khi nền kinh tế thu hẹp, thì sử dụng các chính sách tài

chính và chính sách tiền tệ nới lỏng. Khi nền kinh tế khuếch trương thì lại chuyển

hướng các chính sách đó sang thắt chặt.

Các trường phái theo chủ nghĩa kinh tế tự do mới thì cho rằng sở dĩ có chu kỳ là do

sự can thiệp của Chính phủ hoặc do những cú sốc cung ngoài dự tính. Vì thế, để

không xảy ra chu kỳ hoặc để nền kinh tế nhanh chóng điều chỉnh sau các cú sốc

cung, Chính phủ không nên can thiệp gì cả.

Một số lý thuyết chính lý giải nguyên nhân của chu kỳ kinh tế là:

Lý thuyết tiền tệ: Cho rằng chu kỳ kinh tế là do sự mở rộng hay thắt chặt của chính

sách tiền tệ và tín dụng. Đại diện tiêu biểu của lý thuyết này là nhà kinh tế học đoạt

giải Nobel kinh tế năm 1976, người đứng đầu trường phái Chicago Milton Friedman.

Lý thuyết này tỏ ra phù hợp với cuộc suy thoái của kinh tế Mỹ 1981-1982 khi Cục

Dự trữ Liên bang tăng lãi suất danh nghĩa tới 18% để chống lạm phát.

Mô hình gia tốc - số nhân: Do Paul Samuelson đưa ra, mô hình này cho rằng các biến

động ngoại sinh được lan truyền theo cơ chế số nhân kết hợp với sự gia tốc trong đầu

tư tạo ra những dao động có tính chu kỳ của GDP.

Lý thuyết chính trị: Đại diện là các nhà kinh tế học William Nordhaus và Michał

Kalecki. Lý thuyết này quy cho các chính trị gia là nguyên nhân gây ra chu kỳ kinh

tế vì họ hướng các chính sách tài khóa và tiền tệ để có thể thắng cử.

Lý thuyết chu kỳ kinh doanh cân bằng: Với những đại diện như Robert Lucas, Jr.,

Robert Barro và Thomas Sargent phát biểu rằng những nhận thức sai lầm về sự vận

động của giá cả, tiền lương đã khiến cho cung về lao động quá nhiều hoặc quá ít dẫn

đến các chu kỳ của sản lượng và việc làm. Một trong những phiên bản của lý thuyết

này là tỷ lệ thất nghiệp cao trong suy thoái là do mức lương thực tế của công nhân

cao hơn mức cân bằng của thị trường lao động.

Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tế: Lập luận rằng những biến động tích cực hay

tiêu cực về năng suất lao động trong một khu vực có thể lan tỏa trong nền kinh tế và

Page 36: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

gây ra những dao động có tính chu kỳ. Những người ủng hộ lý thuyết này là nhà kinh

tế học đoạt giải Nobel trong năm 2004 gồm Edward Prescott, Charles Prosser.

Tuy vậy, cho dù mỗi lý thuyết trên đây đều có tính hiện thực, không có lý thuyết nào tỏ

ra đúng đắn ở mọi lúc, mọi nơi. Ngày nay, quan sát các chu kỳ kinh tế ở các nền kinh tế

công nghiệp phát triển, người ta phát hiện ra hiện tượng pha suy thoái càng ngày càng

ngắn về thời gian và nhẹ về mức độ thu hẹp của GDP thực tế. Một trong những nguyên

nhân quan trọng là Chính phủ các nước này đã hiểu biết và vận dụng tốt hơn những hiểu

biết về kinh tế vĩ mô. Bằng cách kết hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ,

nhà nước có thể ngăn chặn một cuộc suy thoái biến thành khủng hoảng. Chu kỳ kinh

doanh khốc liệt tàn phá chủ nghĩa tư bản trong những thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản

đã được chế ngự.

c. Dự báo chu kỳ kinh tế

Các chuyên gia kinh tế đã tìm cách xây dựng và phát triển công cụ dự báo những thay

đổi trong nền kinh tế. Những mô hình đơn giản nhất dựa trên số liệu dễ thu thập như sản

lượng một số tư liệu sản xuất quan trọng (thép,...), khối lượng hàng hóa vận chuyển... rồi

công thức hóa số liệu thống kê để đưa ra chỉ số có tính chất dự báo. Dần dần, với sự phát

triển của công nghệ thông tin, người ta đã xây dựng những mô hình kinh tế lượng phức

tạp với hàng chục nghìn biến số cùng những hệ phương trình phức tạp để dự báo. Đi tiên

phong trong sự phát triển công cụ dự báo là những nhà kinh tế học Jan Tinbergen (giải

Nobel năm 1969), Lawrence Klein (giải Nobel năm 1980). Nhờ đó, dự báo biến động

kinh tế vĩ mô đã có độ tin cậy lớn hơn mặc dù nó chưa đạt độ chính xác cao khi có

những thay đổi về những chính sách lớn.

5.6. Hai nguyên nhân gây ra biến động kinh tế

5.6.1. Cú sốc cầu

Khi đường tổng cung có độ dốc dương, các cú sốc ngoại sinh tác động đến tổng cầu sẽ

gây ra sự dao động của sản lượng và mức giá. Sự dao động của sản lượng xung quanh

mức tự nhiên được gọi là chu kỳ kinh doanh. Điều này thường được coi là tốn kém và

không mong muốn. Vì Chính phủ có thể tác động đến tổng cầu thông qua các chính sách

kinh tế vĩ mô, do đó Chính phủ có thể cân nhắc việc sử dụng các chính sách này để ổn

định nền kinh tế.

Ví dụ, giả sử nền kinh tế Việt Nam ban đầu ở trạng thái cân bằng tại mức sản lượng tiềm

năng. Nếu các nhà đầu tư và các hộ gia đình bi quan về triển vọng phát triển của nền

kinh tế và chi tiêu ít hơn, thì điều này sẽ làm giảm tổng cầu. Trên hình 5.31, đường tổng

cầu dịch chuyển sang trái từ AD1 đến AD2. Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc

từ A đến B theo đường tổng cung ngắn hạn ban đầu AS1. Khi nền kinh tế chuyển từ A

đến B, sản lượng giảm từ Y* xuống Y2 và mức giá giảm từ P1 xuống P2. Sự suy giảm

sản lượng cho thấy nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái. Các doanh nghiệp phản ứng

lại sự giảm sút doanh số bán ra và sản xuất bằng cách cắt giảm việc làm.

Page 37: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

181

P1

P2

P3

P

A

B

C

AS1

AS2

LRAS

AD1

AD2

Y2 Y* Y0

Hình 5.30. Ảnh hưởng của sự cắt giảm tổng cầu đến sản lượng và mức giá

Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc từ điểm A đến điểm B theo đường tổng cung

ngắn hạn ban đầu AS1. Khi nền kinh tế chuyển từ A đến B, sản lượng giảm từ Y* xuống

Y2 và mức giá giảm từ P1 xuống P2. Sự suy giảm sản lượng cho thấy nền kinh tế lâm vào

tình trạng suy thoái. Các nhà họach định chính sách nên làm gì khi đối mặt với một cuộc

suy thoái như vậy? Một khả năng là thực hiện các biện pháp để kích thích tổng cầu, làm

cho đường tổng cầu dịch chuyển sang phải. Nếu các nhà họach định chính sách hành

động kịp thời và chính xác, họ có thể triệt tiêu sự dịch chuyển ban đầu của đường tổng

cầu, đẩy nó trở về AD1 và đưa nền kinh tế về điểm A.

Ngay cả khi các nhà họach định chính sách không can thiệp gì cả thì cuộc suy thoái cũng

sẽ tự hồi phục sau một khoảng thời gian. Do tổng cầu giảm, mức giá giảm xuống. Có

thể, kỳ vọng bắt kịp thực tế và mức giá dự kiến cũng giảm. Do sự giảm sút của mức giá

dự kiến làm thay đổi nhận thức, tiền lương và giá cả, nên nó làm cho đường tổng cung

ngắn hạn dịch sang phải, từ AS1 sang AS2 như trong đồ thị trên. Theo thời gian, quá

trình hiệu chỉnh này của kỳ vọng cho phép nền kinh tế tiến dần đến điểm C, điểm mà

đường tổng cầu mới (AD2) cắt đường tổng cung dài hạn. Tại điểm cân bằng dài hạn C,

sản lượng trở lại mức tự nhiên. Mặc dù làn sóng bi quan làm giảm tổng cầu, nhưng sự

giảm sút của mức giá (đến P3) đủ để bù đắp sự thay đổi của tổng cầu. Như vậy, trong dài

hạn, sự dịch chuyển của đường tổng cầu được phản ánh hoàn toàn trong mức giá mà

không hề có một ảnh hưởng nào tới sản lượng. Nói cách khác, ảnh hưởng dài hạn của sự

dịch chuyển đường tổng cầu là làm thay đổi các biến danh nghĩa (mức giá thấp hơn) chứ

không phải làm thay đổi các biến thực tế (sản lượng như cũ).

5.6.2. Cú sốc cung

Các cú sốc cung xảy ra do sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào hay sự thay đổi các

nguồn lực trong nền kinh tế. Các cú sốc làm giảm tổng cung được gọi là cú sốc cung bất

lợi. Ngược lại, các cú sốc làm tăng tổng cung được gọi là cú sốc cung có lợi. Các ví dụ

về cú sốc cung bất lợi như: Thời tiết xấu làm giảm sản xuất lương thực; do sức ép của

công đoàn làm tăng tiền lương; Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) hạn chế sản

lượng khai thác làm tăng giá dầu trên thị trường thế giới.

Page 38: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

Đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang trái từ AS1 đến AS2. Trong ngắn hạn, nền

kinh tế di chuyển dọc theo đường tổng cầu từ điểm A đến điểm B. Sản lượng của nền

kinh tế giảm từ Y* xuống Y2 trong khi mức giá tăng từ P1 lên P2. Do nền kinh tế vừa rơi

vào suy thoái (sản lượng giảm), vừa trải qua lạm phát (mức giá tăng) nên hiện tượng này

được gọi là suy thoái đi kèm lạm phát. Các cú sốc cung bất lợi làm tăng chi phí sản xuất.

Ở mỗi mức giá cho trước, các hãng muốn bán ra ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Trên hình

5.32, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang trái từ AS1 đến AS2. Trong ngắn hạn,

nền kinh tế di chuyển dọc theo đường tổng cầu từ điểm A đến điểm B. Sản lượng của

nền kinh tế giảm từ Y* xuống Y2 trong khi mức giá tăng từ P1 lên P2. Do nền kinh tế vừa

rơi vào suy thoái (sản lượng giảm), vừa trải qua lạm phát (mức giá tăng) nên hiện tượng

này được gọi là suy thoái đi kèm lạm phát.

P3

P2

P1

P

C

B

A

AS2

AS1

ASL

AD2

AD1

Y2 Y* Y0

Hình 5.31. Cú sốc bất lợi và chính sách điều tiết phù hợp

Các nhà họach định chính sách nên làm gì khi đối mặt với hiện tượng suy thoái đi kèm

lạm phát? Quả là không có những lựa chọn dễ dàng trong trường hợp này. Một trong

những khả năng là các nhà họach định chính sách có thể muốn triệt tiêu tác động của sự

dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn đến sản lượng bằng cách tăng tổng cầu. Trong

trường hợp này, thay đổi trong chính sách làm đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến

AD2 vừa đủ để duy trì mức sản lượng ban đầu. Nền kinh tế chuyển đến điểm C. Sản

lượng trở về mức tiềm năng và mức giá tiếp tục tăng lên P3. Trong trường hợp này, các

nhà họach định chính sách đã thích ứng với sự dịch chuyển của tổng cung bởi họ cho

phép sự tăng lên trong chi phí ảnh hưởng đến giá cả một cách lâu dài.

Page 39: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

183

Nghiên cứu điển hình thắt chặt tiền tệ hợp lý khi dầu tăng giá

Giá dầu leo thang, chính sách tiền tệ phải "thắt chặt” vừa đủ để giúp kiềm chế lạm phát,

cũng phải "nới lỏng" vừa đủ nhằm tránh những tác động không cần thiết tới tăng trưởng

kinh tế.

Đợt tăng giá dầu lần thứ 4 (năm 2004), hoặc các đợt tăng giá xăng dầu năm 2007 – 2008,

gây nhiều lo ngại về ảnh hưởng tới kinh tế vĩ mô và những vấn đề mà chính sách tiền tệ

phải đối mặt. Nếu như 3 đợt khủng hoảng dầu trước (1973 – 74; 1979 – 80; 1990 – 91)

xảy ra đều thuần túy do nguồn cung giảm mạnh, xuất phát từ các cuộc chiến của các

nước thuộc khu vực dầu mỏ, thì nguyên nhân của đợt tăng giá dầu hiện tại chủ yếu do

cầu về xăng dầu tăng cao.

Trước tiên, hãy xem xét giá dầu gia tăng tác động đến lạm phát theo cơ chế nào. Sơ đồ

sau có thể được xem như một kiểu mô hình tiêu chuẩn cho việc xác định lạm phát, nơi

mà lạm phát được khống chế bởi 3 nhân tố: Kỳ vọng, chênh lệch cung cầu và các loại

cú sốc khác nhau, trong trường hợp này là sốc về giá dầu.

Tác động của giá dầu đến lạm phát

Thứ nhất, giá dầu tác động gia tăng lạm phát qua 2 cách: Trực tiếp và gián tiếp. Về tác

động trực tiếp, khi giá dầu tăng cũng có nghĩa là các nhóm hàng hóa nhất định trong

thành phần của CPI mà chủ yếu là nhóm xăng, dầu nhiên liệu gia tăng; về tác động gián

tiếp, giá dầu gia tăng làm tăng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp và do đó làm tăng

giá bán thành phẩm.

Thứ hai, giá dầu tác động tới lạm phát qua kênh chênh lệch cung cầu của nền kinh tế:

Về nguyên lý nếu tổng cầu gia tăng và tổng cung cũng gia tăng một lượng tương ứng,

có nghĩa là cung vẫn đáp ứng đủ cầu thì sẽ không gây nên lạm phát (chênh lệch tổng

cầu và tổng cung lúc này sẽ bằng không). Nhưng nếu sự gia tăng của tổng cầu lớn hơn

sự gia tăng của tổng cung có nghĩa là cung không đáp ứng đủ cầu sẽ tạo ra áp lực lạm

phát (chênh lệch tổng cầu lúc này sẽ lớn hơn 0) và trong trường hợp ngược lại sẽ là

giảm phát.

Do đó, hiểu một cách đơn giản nhất là khi giá dầu tăng dẫn đến chi phí sản xuất của

doanh nghiệp tăng làm lợi nhuận doanh nghiệp bị co lại, dẫn đến sản xuất suy giảm,

tổng cung của nền kinh tế vì vậy sẽ suy giảm. Mặt khác, khi giá dầu tăng cũng làm tăng

phần chi tiêu cho các sản phẩm về dầu và phần chi tiêu cho các sản phẩm ngoài dầu

Page 40: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

đương nhiên sẽ bị giảm xuống khiến tổng cầu nền kinh tế cũng giảm.

Như vậy, một sự tăng lên trong giá dầu sẽ đồng thời làm cả tổng cung và tổng cầu đều

suy giảm. Cả hai tác động này cùng làm sản xuất suy giảm dẫn đến tăng trưởng kinh tế

suy giảm nhưng lại tác động ngược chiều đến lạm phát: Trong khi tác động của tổng

cung suy giảm đẩy giá lên thì tác động của tổng cầu suy giảm lại đẩy giá xuống. Tuy

nhiên, thực nghiệm cho thấy sự tăng lên trong giá dầu có xu hướng trùng với sự gia

tăng lạm phát, đây là lý do hợp lý để giả định rằng tác động của bên cung sẽ mạnh hơn

tác động bên cầu.

Thứ ba, giá dầu tăng tác động gia tăng lạm phát qua lạm phát kỳ vọng: Một sự gia tăng

của giá dầu sẽ nhanh chóng lan tỏa tới các loại giá khác của nền kinh tế. Sự lan tỏa

càng cao thì lạm phát kỳ vọng càng lớn. Ngược lại, khi lạm phát kỳ vọng càng lớn thì

tác động lan tỏa sang các nhóm hàng hóa khác càng nhiều. Mức độ lan tỏa của sự thay

đổi giá dầu đến các giá khác và tác động lên lạm phát kỳ vọng phụ thuộc phần lớn vào

sự điều hành chính sách tiền tệ và lòng tin vào chính sách này.

Phân tích trên cho thấy, giá dầu tăng cùng lúc có xu

hướng đẩy lạm phát gia tăng và làm tăng trưởng kinh tế

suy giảm, nên thường gây khó khăn cho chính sách tiền

tệ. Ngân hàng Trung ương chỉ có một công cụ là lãi

suất chủ chốt và có thể sử dụng nó để tác động lên tổng

cầu (hay tăng trưởng kinh tế) và lạm phát theo cùng

một hướng (đối với Việt Nam, lãi suất đã được tự do

hóa, do đó lãi suất thị trường sẽ bị tác động thông qua việc các công cụ chính sách tiền

tệ tác động lên mức cung tiền). Khi lãi suất được cắt giảm, tổng cầu trong nền kinh tế

tăng lên tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời cũng làm lạm phát tăng lên, và

khi lãi suất tăng lên thì tăng trưởng kinh tế và lạm phát cùng giảm.

Như vậy, nếu có một cú sốc tác động vào tăng trưởng kinh tế và lạm phát theo hướng

ngược nhau như cú sốc về giá dầu thì Ngân hàng Trung ương sẽ gặp khó khăn trong

việc cùng lúc phải ổn định lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Nếu chính sách tiền tệ thắt

chặt nhằm hướng tới việc giảm mạnh lạm phát thì điều này sẽ khiến tăng trưởng kinh tế

cũng sẽ suy giảm hơn nữa. Nếu thay vào đó Ngân hàng Trung ương cân nhắc khuyến

khích tăng cầu thì trong một phạm vi nào đó nhằm trung hòa bớt sự suy giảm của tăng

trưởng kinh tế (do cả tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế đều đã suy giảm trước sự

gia tăng của giá dầu) bằng Chính sách tiền tệ nới lỏng thì kết quả sẽ là lạm phát tăng

lên, và một khi lạm phát gia tăng thì kỳ vọng cũng tăng lên theo do đó sẽ khó khăn hơn

nữa trong việc kiểm soát lạm phát.

Như vậy, khi giá dầu tăng cao thì một chính sách tiền tệ linh họat cần thiết phải được

thực hiện, đó là chính sách tiền tệ “thắt chặt” vừa đủ để tránh sự thúc đẩy lạm phát hơn

nữa từ việc giá dầu tăng cao nhằm kiềm chế việc lan tỏa tới tiền lương, giá các nhóm

hàng hóa khác và lạm phát kỳ vọng; và chính sách tiền tệ “nới lỏng” vừa đủ để tránh

những tác động tiêu cực không cần thiết tới tăng trưởng kinh tế. Đây là quy tắc họach

định chính sách linh họat, nhưng cũng khó để có thể nói cụ thể hơn. Câu hỏi về việc

Page 41: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

185

chính sách nào sẽ là thích hợp nhất phải được xác định trong từng trường hợp, phụ

thuộc vào môi trường kinh tế vĩ mô hiện tại, đặc biệt là những nhân tố khác tác động

vào lạm phát hiện tại và những dự báo về giá dầu trong tương lai.

Tuy nhiên, đối với các quốc gia theo đuổi lạm phát mục tiêu, thường thì khi giá dầu

tăng dẫn đến sức ép lạm phát trong dài hạn sẽ gia tăng hơn mức vốn có. Điều này có

nghĩa là chính sách tiền tệ thắt chặt hơn một cách vừa phải là cần thiết để đưa lạm phát

trở về với mức lạm phát mục tiêu.

Bài viết của Th.s Nguyễn Thu, Trưởng phòng Phân tích kinh tế (Ngân hàng Nhà nước).

Nghiên cứu trường hợp nền kinh tế Mỹ: Sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ năm 2001

Trong năm 2001, nền kinh tế Mỹ lâm vào tình trạng suy thoái ở mức báo động. Dự

kiến có khoảng 2,1 triệu người mất việc làm, tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 3,9% đến 5,8%.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá thấp, chỉ 0,8%, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế

giai đoạn 1994–2000 là 3,9%. Có 3 nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng suy thoái

kinh tế này:

Thị trường chứng khoán giảm dẫn đến tiêu dùng của các hộ gia đình giảm.

Vụ khủng bố ngày 11/9 làm tăng tính bất ổn định về chính trị và kinh tế, làm giảm

niềm tin trong kinh doanh và tiêu dùng.

Các vụ việc liên quan đến hợp nhất của các tập đoàn: Enron, WorldCom,v.v.

Từ các nguyên nhân đó đã gây ra sự sụt giảm của giá chứng khoán, không khuyến

khích đầu tư, chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư giảm, đường IS dịch chuyển sang trái.

Để đưa nền kinh tế thoát khỏi cuộc khủng hoảng đó, chính phủ Mỹ đã thực hiện hàng

loạt các biện pháp liên quan đến chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ như: Đối với

chính sách tài khóa: Chính phủ Mỹ đã cắt giảm thuế trong giai đoạn 2001–2003 và

tăng chi tiêu của Chính phủ như: Đầu tư vào lĩnh vực hàng không, xây dựng lại NYC,

và tăng chi tiêu cho chiến tranh ở Afghanistan war. Kết quả là đường IS dịch chuyển

sang phải. Đối với chính sách tiền tệ: Chính phủ hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mua

trái phiếu để tăng cung tiền, kết quả là đường LM dịch chuyển sang phải.

Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng đã làm tăng thu nhập của nền kinh tế

Mỹ, đưa nền kinh tế Mỹ dần thoát khỏi cuộc khủng hoảng trong các năm tiếp theo.

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Page 42: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

TÓM LƯỢC CUỐI BÀI

Thị trường hàng hóa cân bằng khi tổng cầu bằng thu nhập tương ứng với một mức lãi suất cho

trước. Khi lãi suất thay đổi đường tổng cầu sẽ dịch chuyển và cho một mức thu nhập mới. Như

vậy, nếu tập hợp những tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập phù hợp với sự cân bằng của

thị trường hàng hóa sẽ được một đường gọi là đường IS.

Đường IS có độ dốc âm. Độ dốc của đường IS sẽ phụ thuộc vào độ nhạy cảm của nhu cầu đầu tư

và nhu cầu tiêu dùng tự định đối với lãi suất. Nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tự định càng

bị giảm xuống do lãi suất tăng, khi lãi suất tăng sẽ càng làm giảm mức thu nhập cân bằng và độ

dốc của đường IS càng thoải. Phân tích độ dốc của đường IS cho chúng ta biết được mức độ tác

động của chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập, lãi suất, thất nghiệp, lạm phát

trong nền kinh tế như thế nào. Hiện tượng di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường IS xảy ra là

do lãi suất thay đổi. Bất kỳ các yếu tố tự định (các yếu tố của tổng cầu không phụ thuộc vào thu

nhập thay đổi) đều làm cho đường IS dịch chuyển song song sang vị trí mới.

Các điểm nằm dưới đường IS biểu thị tình trạng thiếu hàng (dư cầu), các điểm nằm bên ngoài

đường IS biểu thị tình trạng thừa hàng (dư cung).

Đường LM là đường bao gồm tập hợp tất cả các điểm phản ánh mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa lãi

suất và thu nhập khi thị trường tiền tệ cân bằng. Đường LM có độ dốc dương. Nếu độ nhạy cảm

của cầu tiền với lãi suất (h) càng lớn thì đường LM càng thoải; nếu độ nhạy cảm của cầu tiền và

thu nhập (k) càng lớn thì đường LM càng dốc và ngược lại. Phân tích độ dốc của đường LM cho

chúng ta biết được mức độ tác động của chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập,

lãi suất, thất nghiệp, lạm phát trong nền kinh tế như thế nào. Khi thu nhập tăng lên đòi hỏi một

lượng cầu tiền tăng thêm dẫn đến tăng lãi suất do cung tiền không đổi. Như vậy, khi thu nhập

thay đổi, xảy ra hiện tượng di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường LM. Khi cầu tiền nhạy

cảm với thu nhập và kém nhạy cảm với lãi suất thì đường LM sẽ rất dốc. Nếu mức cung tiền

giảm xuống, đường LM sẽ dịch chuyển sang trái.

Đường IS phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường hàng hóa với các tổ hợp khác nhau

giữa lãi suất và thu nhập. Đường LM phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường tiền tệ cũng

của những tổ hợp này. Tác động qua lại giữa hai thị trường ấn định mức lãi suất và thu nhập cân

bằng đồng thời cho cả hai thị trường tại một điểm (r0, Y0).

Trong nền kinh tế đóng, giả sử Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa mở rộng, bằng việc tăng

chi tiêu của Chính phủ thêm một lượng là G, khi đó tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng, tổng cầu

tăng, đường IS dịch chuyển sang phải, do tổng cầu tăng thêm một lượng là

1G

1 MPC(1 t)

, cầu tiền tăng, đẩy lãi suất tăng. Lãi suất tăng là nguyên nhân làm giảm

đầu tư (đây chính là hiện tượng tháo lui đầu tư).

Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tùy thuộc vào các công cụ mà Chính

phủ đưa ra, phụ thuộc vào độ dốc của đường IS và đường LM, đồng thời phụ thuộc vào mức độ

phản ứng, mức độ tác động của hai chính sách này.

Hiện nay, phần lớn các nhà kinh tế đều dựa vào mô hình tổng cầu và tổng cung để phân tích các

tác động của các chính sách vĩ mô đến sản lượng, giá cả, công ăn việc làm,… của nền kinh tế.

Page 43: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

187

Hiểu mô hình và biết cách vận dụng mô hình này để phân tích ảnh hưởng của các cú sốc và

chính sách của chính phủ là rất quan trọng đối với các nhà kinh tế.

Hiệu ứng Pigou: Với mức giá thấp hơn, lượng tiền mà các hộ gia đình đang nắm giữ trở nên có giá

trị hơn. Các hộ gia đình cảm thấy giàu có hơn và chi tiêu nhiều hơn, làm tăng tiêu dùng.

Hiệu ứng Keynes: Với mức giá thấp hơn, các hộ gia đình cần giữ ít tiền hơn để mua lượng hàng

hóa như cũ. Họ cho vay một phần số tiền thừa, làm cho lãi suất giảm đi và có tác dụng kích thích

đầu tư.

Hiệu ứng tỷ giá hối đoái: Việc giảm giá trong nước làm cho hàng hóa nội địa trở nên rẻ một cách

tương đối so với hàng ngoại. Điều này có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu

và làm tăng thành phần xuất khẩu ròng trong tổng cầu.

Đường tổng cầu được rút ra từ mô hình IS-LM cho thấy mối quan hệ giữa mức tổng cầu thực tế

và mức giá. Bất cứ sự thay đổi nào trong các yếu tố tác động tới đường IS và LM cũng ảnh

hưởng tới đường AD. Ví dụ, bất kỳ sự gia tăng nào trong mức chi tiêu thực tế của Chính phủ

được tài trợ bằng trái phiếu mà làm dịch chuyển đường IS về phía phải, thì cũng làm cho đường

AD dịch chuyển về phía phải. Sự gia tăng trong khối lượng tiền tệ danh nghĩa – điều làm cho

đường LM dịch chuyển về phía phải đối với mọi mức giá – cũng làm cho đường AD dịch chuyển

về phía phải.

Đường tổng cung cổ điển được thiết lập trên cơ sở giả định về sự cân bằng thị trường và quá

trình điều chỉnh tiền lương thực tế. Các phân tích hiện đại về tổng cung đều có chung kết luận là

đường tổng cung ngắn hạn có độ dốc dương. Phương trình cơ bản về đường tổng cung ngắn hạn

của chúng ta là: * eY Y (P P ) , trong đó, là một số dương và eP biểu diễn kỳ vọng về

mức giá.

Có bốn mô hình khác nhau giải thích về đường tổng cung ngắn hạn: (1) mô hình tiền lương cứng

nhắc, (2) mô hình nhận thức sai lầm của công nhân, (3) mô hình thông tin không hoàn hảo, và

(4) mô hình giá cả cứng nhắc. Các mô hình này có một số đặc điểm chung, và mỗi mô hình chỉ

giải thích được một số khía cạnh nhất định của thực tế.

Khi đường tổng cung có độ dốc dương, các cú sốc ngoại sinh tác động đến tổng cầu (cú sốc cầu)

sẽ gây ra sự dao động của sản lượng và mức giá. Điều này thường được coi là tốn kém và không

mong muốn.

Các cú sốc cung xảy ra do sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào hay sự thay đổi các nguồn lực

trong nền kinh tế. Các cú sốc làm giảm tổng cung được gọi là cú sốc cung bất lợi. Ngược lại, các

cú sốc làm tăng tổng cung được gọi là cú sốc cung có lợi. Các ví dụ về cú sốc cung bất lợi như:

Thời tiết xấu làm giảm sản xuất lương thực; do sức ép của công đoàn làm tăng tiền lương; OPEC

hạn chế sản lượng khai thác làm tăng giá dầu trên thị trường thế giới. Các cú sốc cung bất lợi làm

tăng chi phí sản xuất. Khi xảy ra cú sốc cung, mức giá tăng lên, sản lượng của nền kinh tế giảm

xuống, xảy ra hiện tượng này được gọi là suy thoái đi kèm lạm phát.

Page 44: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

BÀI TẬP THỰC HÀNH

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Tại sao đường tổng cầu dốc xuống?

2. Phân tích cách thức xây dựng đường tổng cầu dựa trên mô hình IS – LM.

3. Phân tích tác động chính sách tài khóa đến đường tổng cầu.

4. Phân tích tác động của chính sách tiền tệ mở rộng đến đường tổng cầu.

5. Hãy phân tích mô hình tiền lương cứng nhắc.

6. Phân tích nguyên nhân gây ra biến động kinh tế từ các cú sốc cầu và động thái của các nhà

họach định chính sách.

7. Phân tích nguyên nhân gây ra biến động kinh tế từ các cú sốc cung

CÂU HỎI ĐÚNG/SAI

1. Nếu MPC tăng lên thì đường IS sẽ dịch chuyển song song sang phải.

2. Nếu cầu tiền rất nhạy cảm với thu nhập thì đường LM sẽ dịch chuyển song song sang trái.

3. Nếu cầu tiền nhạy cảm với lãi suất thì đường LM sẽ dịch chuyển song song sang phải.

4. Khi chi tiêu tự định của Chính phủ tăng lên thì đường IS sẽ dịch chuyển song song sang phải.

5. Chính phủ tăng tỷ suất thuế ròng (t) là nguyên nhân làm cho đường IS sẽ dịch chuyển song

song sang trái.

6. Khi tiêu dùng tự định tăng lên thì đường IS sẽ thay đổi độ dốc.

7. Khi cung tiền thực tế thay đổi thì đường LM sẽ thay đổi độ dốc.

8. Khi đầu tư tự định thay đổi thì đường LM sẽ dịch chuyển song song so với vị trí ban đầu.

9. Khi thu nhập quốc dân tăng lên đường LM sẽ dịch chuyển song song so với vị trí ban đầu.

10. Độ dốc của đường IS và đường LM có thể chỉ ra được mức độ tác động của các chính sách

tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế.

11. Khi nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh thì chính phủ có thể điều chỉnh nền kinh tế bằng việc

sử dụng chính chính tài khóa nới lỏng phối hợp với chính sách tiền tệ nới lỏng.

12. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì chính phủ có thể điều chỉnh nền kinh tế bằng

việc áp dụng phối hợp chính sách tài khóa chặt với chính sách tiền tệ chặt.

CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM

1. Đường IS cho biết điều gì?

A. Thị trường hàng hóa cân bằng.

B. Thị trường tiền tệ cân bằng.

C. Sản lượng càng tăng, lãi suất càng giảm.

D. Sản lượng càng tăng, lãi suất giữ nguyên.

2. Đường LM cho biết điều gì?

Page 45: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

189

A. Lãi suất và sản lượng phụ thuộc lẫn nhau.

B. Thị trường tiền tệ cân bằng.

C. Thị trường hàng hóa cân bằng.

D. Thị trường lao động cân bằng.

3. Trong mô hình AS-AD, sự dịch chuyển sang trái của đường AD có thể là do nguyên nhân nào?

A. Giảm thuế.

B. Tăng niềm tin của người tiêu dùng và các doanh nghiệp vào triển vọng phát triển của nền

kinh tế trong tương lai.

C. Giảm chi tiêu chính phủ.

D. Tăng cung tiền danh nghĩa.

4. Theo mô hình IS-LM trong nền kinh tế đóng, chính sách tài khóa mở rộng được thể hiện

bằng sự dịch chuyển nào trên đồ thị đường IS – LM?

A. Sang phải của đường IS.

B. Sang trái của đường IS.

C. Sang phải của đường LM.

D. Sang trái của đường LM.

5. Khi Chính phủ tăng thuế đánh vào hàng tiêu dùng nhập khẩu, đường nào sẽ dịch chuyển?

A. Đường tổng cầu dịch chuyển sang trái.

B. Đường tổng cầu dịch chuyển sang phải.

C. Đường tổng cung dịch chuyển sang trái.

D. Đường tổng cung dịch chuyển sang phải.

BÀI TẬP VẬN DỤNG

Bài tập 1

Trong nền kinh tế mở, giả định tỷ giá hối đoái là cố định không tác động đến các biến số kinh tế

khác, có số liệu sau: (Đơn vị: tỷ USD)

C = 50 + 0,75YD T = 0,2Y MD = 0,2Y – 10r

I = 140 – 8r IM = 40 + 0,1Y MS = 137,5

G = 200 X = 200

a. Hãy viết phương trình của đường IS và đường LM

b. Xác định lãi suất cân bằng và mức thu nhập cân bằng đồng thời của nền kinh tế. Tình trạng

của NS chính phủ tại mức thu nhập cân bằng.

c. Để thực hiện tăng chi tiêu của Chính phủ về hàng hóa và dịch vụ thêm 100 tỷ, thì mức thu

nhập cân bằng và lãi suất cân bằng mới là bao nhiêu? Cho biết tác động của chính sách tài

khóa trong trường hợp này và minh họa bằng đồ thị.

Bài tập 2

Giả sử trong nền kinh tế đóng có số liệu như sau: Hàm tiêu dùng C = 200 + 0,75YD. Hàm đầu tư

I = 200 - 25r, với r là mức lãi suất danh nghĩa; chi tiêu của Chính phủ cho hàng hóa và dịch vụ G

= 100, thuế T = 100, hàm cầu tiền MD = Y - 100r. Cung tiền MS = 500.

Page 46: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

a. Xây dựng phương trình đường IS và phương trình đường LM.

b. Mức thu nhập và lãi suất cân bằng là bao nhiêu?

c. Giả sử chi tiêu của Chính phủ tăng từ 100 lên 150. Viết lại phương trình đường IS và tính lãi

suất và thu nhập cân bằng mới là bao nhiêu?

d. Giả sử cung ứng tiền tệ tăng từ 500 lên 600, hãy viết lại phương trình đường LM và tính thu

nhập và lãi suất cân bằng mới.

Bài tập 3

Trong mô hình giá cả cứng nhắc, hãy cho biết hình dáng của đường tổng cung trong các trường

hợp đặc biệt sau đây:

a. Không có doanh nghiệp nào có giá cả linh họat.

b. Giá cả mong muốn không phụ thuộc vào tổng cầu sản lượng.

Bài tập 4

Hãy xem xét những thay đổi sau trong mô hình tiền lương cứng nhắc:

a. Giả sử các hợp đồng lao động quy định tiền lương danh nghĩa áp dụng chỉ số trượt giá toàn

phần theo lạm phát. Nghĩa là tiền lương danh nghĩa được điều chỉnh để bù lại toàn bộ những

thay đổi trong chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Chỉ số trượt giá toàn phần này làm thay đổi đường

tổng cung trong mô hình như thế nào?

b. Giả sử bây giờ chỉ số trượt giá chỉ mang tính chất từng phần. Nghĩa là mỗi khi CPI tăng, tiền

lương danh nghĩa tăng theo nhưng với tỷ lệ phần trăm nhỏ hơn. Chỉ số trượt giá từng phần

làm thay đổi đường tổng cung trong mô hình như thế nào?

Bài tập 5

Giả sử rằng các công nhân và hãng đột nhiên tin rằng lạm phát có thể sẽ tăng cao trong năm tới.

Cũng giả sử rằng, nền kinh tế ban đầu ở trạng thái cân bằng dài hạn và đường tổng cầu không

dịch chuyển.

a. Điều gì sẽ xảy ra với tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế?

b. Sử dụng đồ thị tổng cầu và tổng cung, hãy chỉ ra tác động của sự thay đổi kỳ vọng đến mức

giá và sản lượng cả trong dài hạn và ngắn hạn.

c. Việc dự tính lạm phát cao có đúng không? Hãy giải thích.

Bài tập 6

Đối với mỗi trong bốn lý thuyết giải thích đường tổng cung ngắn hạn, dốc lên hãy giải thích

những điều sau:

a. Làm thế nào mà một nền kinh tế phục hồi từ suy thoái về trạng thái cân bằng dài hạn mà

không có bất kỳ sự can thiệp nào của Chính phủ?

b. Điều gì quyết định tốc độ phục hồi kinh tế?

Bài tập 7

Giả sử nền kinh tế Việt Nam ban đầu ở trạng thái cân bằng tại mức sản lượng tiềm năng. Trong

năm 2018, giá nhập khẩu các nguyên liệu chủ yếu (dầu, thép, phân bón, nhựa,…) tăng mạnh trên

thị trường thế giới.

a. Hãy giải thích và minh họa bằng đồ thị AS – AD tác động của sự kiện trên đến nền kinh tế

Việt Nam trong ngắn hạn trên ba phương diện: mức giá, sản lượng và việc làm.

Page 47: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

191

b. Nếu các nhà họach định chính sách quyết định can thiệp để đưa sản lượng trở lại mức tiềm

năng, họ sẽ cần sử dụng chính sách tài khóa và tiền tệ để điều tiết tổng cầu như thế nào? Hãy

cho biết ưu điểm và nhược điểm của giải pháp này.

c. Nếu các nhà họach định chính sách quyết định can thiệp để đưa mức giá trở về giá trị ban

đầu, thì họ sẽ cần sử dụng chính sách tài khóa và tiền tệ để điều tiết tổng cầu như thế nào?

Hãy cho biết ưu điểm và nhược điểm của giải pháp này.

d. Đối phó với cú sốc trên giải pháp mà Chính phủ Việt Nam có thể sử dụng để góp phần kiềm

chế lạm phát, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế?

Bài tập 8

Hãy giải thích xem mỗi biến cố sau đây làm dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn, đường tổng

cầu, cả hai, hay không đường nào. Trong mỗi trường hợp, hãy cho biết ảnh hưởng ngắn hạn đến

sản lượng và mức giá của nền kinh tế.

a. Các hộ gia đình quyết định sẽ tiết kiệm một tỷ lệ ít hơn trong thu nhập.

b. Các vườn cà phê ở Tây Nguyên trải qua một đợt hạn hán kéo dài.

c. Nhiều lao động trẻ có cơ hội ra nước ngoài làm việc.

d. Một đợt suy thoái ở nước ngoài làm người nước ngoài mua hàng hóa Việt Nam ít hơn.

Page 48: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

ĐÁP ÁN

CÂU HỎI ĐÚNG/SAI

1. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Đường IS sẽ thay đổi độ dốc, nó càng thoải hơn trước.

2. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Đường LM thay đổi độ dốc.

3. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Đường LM sẽ thay đổi độ dốc.

4. Đáp án đúng là: Đúng.

Vì: Tổng cầu tăng, đường IS dịch chuyển sang phải.

5. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Đường IS sẽ thay đổi độ dốc.

6. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Đường IS sẽ dịch chuyển song song sang phải.

7. Đáp án đúng là: Sai.

Đường LM sẽ dịch chuyển song song so với vị trí ban đầu.

8. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Đường IS dịch chuyển song song.

9. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Chỉ xảy ra sự di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường LM.

10. Đáp án đúng là: Đúng.

Vì: Đường IS càng dốc thì tác động của chính sách tiền tệ càng kém hiệu quả.

11. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Cần sử dụng sự phối hợp chính sách ngược lại.

12. Đáp án đúng là: Sai.

Vì: Cần sử dụng chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng.

CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM

1. Đáp án đúng là: A. Thị trường hàng hóa cân bằng.

Vì: Theo khái niệm về đường IS là đường gồm tập hợp tất cả các điểm biểu thị sự kết hợp

giữa lãi suất và thu nhập khi thị trường hàng hóa cân bằng.

2. Đáp án đúng là: B. Thị trường tiền tệ cân bằng.

Vì: Theo khái niệm về đường LM là đường gồm tập hợp tất cả các điểm biểu thị sự kết hợp

giữa lãi suất và thu nhập khi thị trường tiền tệ cân bằng.

3. Đáp án đúng là: C Giảm chi tiêu Chính phủ.

Page 49: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

193

Vì: Khi giảm G, tổng cầu giảm (do AD = C + I + G + NX), đường AD dịch chuyển sang trái.

4. Đáp án đúng là: A. Sang phải của đường IS.

Vì: Theo khái niệm về đường IS là đường gồm tập hợp tất cả các điểm biểu thị sự kết hợp

giữa lãi suất và thu nhập khi thị trường hàng hóa cân bằng. Nó thể hiện các sự thay đổi của

chính sách tài khóa. Do đó, chính sách tài khóa mở rộng sẽ làm cho đường IS dịch chuyển

sang phải.

5. Đáp án đúng là: B. Đường tổng cầu dịch chuyển sang phải.

Vì: Khi Chính phủ tăng thuế đánh vào hàng tiêu dùng nhập khẩu, hàng ngoại nhập trở nên

đắt hơn, hàng trong nước trở nên rẻ một cách tương đối so với hàng ngoại. Điều này có tác

dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và làm tăng thành phần xuất khẩu ròng

trong tổng cầu. Tổng cầu tăng lên, đường Tổng cầu dịch chuyển sang phải.

BÀI TẬP VẬN DỤNG

Bài tập 1

a. Phương trình của đường IS và LM:

rIS = 68,75 – 0,0625Y hay Y = 1000 – 16r

rLM = 0,02Y – 13,75 hay Y = 687,5 – 50r

b. Thu nhập cân bằng và lãi suất cân bằng đồng thời của nền kinh tế:

Y0 = 1000 tỷ, r0 = 6,25%

B = T – G = 0: Ngân sách chính phủ cân bằng.

c. Nếu tăng chi tiêu của Chính phủ thêm 100 tỷ:

r’IS = 81,25 – 0,0625Y

Y0’ = 1151,51 tỷ r0 = 9,28%

Khi Chính phủ tăng chi tiêu, tổng cầu tăng, đường IS dịch chuyển sang phải, đã làm cho sản

lượng cân bằng và lãi suất cân bằng đều tăng.

Bài 2

a. Đường IS là Y = 1700 – 100 và đường LM là r = 0,01Y – 5.

b. Y = 1100 và r = 6 (%).

c. Đường IS là Y = 1900 – 100r; Y = 1200 và r = 7 (%).

d. Đường LM là r = 0,01Y – 6; Y = 1150 và r = 5,5 (%).

Bài 3

Trong bài tập này, ta xét hai trường hợp đặc biệt về mô hình tiền lương cứng nhắc. Trong mô

hình tiền lương cứng nhắc, tất cả các doanh nghiệp có mức giá mong muốn p và p phụ thuộc vào

mức giá chung P và tổng cầu Y Y * , trong đó Y* là mức sản lượng tiềm năng. Công thức về sự

liên hệ này là:

p P (Y Y*)

Có hai loại doanh nghiệp. Tỷ lệ (l s) trong số các doanh nghiệp có giá cả linh họat và đặt giá

dựa theo công thức trên. Phần còn lại có giá cả cứng nhắc. Họ thông báo giá cả dựa vào tình hình

Page 50: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

146

kinh tế mà họ kỳ vọng trong tương lai. Ta giả sử các doanh nghiệp dự kiến sản lượng ở mức tự

nhiên nên eY Y* 0 . Vì vậy, các doanh nghiệp này đặt giá cả bằng với mức giá dự kiến: eP P

Mức giá chung được tính theo công thức:

eP sP (l s) P (Y Y*)

hay eP P (l s) / s (Y Y*)

a. Nếu không có doanh nghiệp nào có giá cả linh hoạt, thì s = l. Công thức trên cho ta biết eP P .

Tức là mức giá chung được cố định ở mức giá dự kiến và đường tổng cung sẽ nằm ngang

trong ngắn hạn.

b. Nếu giá cả mong muốn hoàn toàn không phụ thuộc vào mức sản lượng thì 0 . Một lần

nữa ta lại có eP P : Đường tổng cung là nằm ngang trong ngắn hạn.

Bài tập 4

Trong mô hình tiền lương cứng nhắc, ta giả thiết rằng tiền lương không thay đổi ngay tức khắc

khi có thay đổi trong thị trường lao động. Điều đó dẫn đến đường tổng cung dốc lên và có dạng: eY Y* (P P )

Trong bài tập này, ta xét tác động của việc cho phép các hợp đồng điều chỉnh theo lạm phát.

a. Trong mô hình đơn giản về tiền lương cứng nhắc, tiền lương danh nghĩa W bằng tiền lương

thực tế dự kiến ω nhân với mức giá dự kiến eP : eW P . Tuy nhiên, việc điều chỉnh

hoàn toàn làm cho tiền lương thực tế phụ thuộc vào mức giá thực tế. Có nghĩa là hợp đồng

xác định cụ thể tiền lương thực tế mong muốn và tiền lương danh nghĩa được điều chỉnh

hoàn toàn khi có thay đổi trong mức giá. Do đó: W P hay W/P . Điều đó có nghĩa

là những thay đổi đột ngột trong mức giá không ảnh hưởng đến tiền lương thực tế và số lao

động sử dụng hay sản lượng được sản xuất. Do đó, đường tổng cung là thẳng đứng

tại Y Y * .

b. Nếu chỉ điều chỉnh một phần thì đường tổng cung sẽ dốc hơn so với nếu không có điều

chỉnh, nhưng không phải là đường thẳng đứng. Trong mô hình tiền lương cứng nhắc, việc

mức gia tăng lên đột ngột làm giảm tiền lương thực tế do tiền lương danh nghĩa không bị tác

động. Với việc điều chỉnh một phần, mức giá tăng lên làm tăng tiền lương danh nghĩa. Do sự

điều chỉnh chỉ là một phần, tiền lương danh nghĩa tăng ít hơn mức giá, do đó, tiền lương thực

tế giảm. Điều đó làm cho các doanh nghiệp sử dụng lao động nhiều hơn và tăng sản xuất.

Tuy nhiên, tiền lương thực tế không giảm nhiều như trường hợp không có sự điều chỉnh, do

đó, sản lượng cũng sẽ tăng ít hơn.

Điều đó tương tự như việc làm cho hệ số trở nên nhỏ đi trong phương trình tổng cung. Có

nghĩa là những biến động trong sản lượng trở nên ít nhạy cảm hơn đối với những thay đổi bất

ngờ nào trong mức giá.

Bài tập 5

a. Công nhân sẽ yêu cầu tăng tiền lương danh nghĩa. Nếu mức giá không tăng nhiều như tiền

lương danh nghĩa thì tiền lương thực tế sẽ tăng.

Page 51: Bài 5 MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung

ECO102_Bai5_v2.0018102208

195

b. Với kỳ vọng về tiền lương danh nghĩa cao hơn, đường AS ngắn hạn sẽ dịch chuyển sang trái.

Trong ngắn hạn, nền kinh tế có sản lượng thấp hơn và mức giá cao hơn. Trong dài hạn,

đường AS ngắn hạn dịch chuyển về vị trí ban đầu.

c. Việc dự kiến lạm phát cao hơn chỉ phần nào đúng trong ngắn hạn nhưng sai trong dài hạn.

Bài tập 6

a. Theo lý thuyết nhận thức sai lầm của công nhân và thông tin không hoàn hảo thì nền kinh tế

lâm vào suy thoái khi giá cả thấp hơn mức dự kiến. Theo thời gian, người ta sẽ nhận thấy

điều này và điều chỉnh kỳ vọng về giá cả và nền kinh tế sẽ trở lại mức sản lượng tự nhiên.

Theo lý thuyết tiền lương cứng nhắc, suy thoái là do tiền lương danh nghĩa không đổi trong

khi mức giá giảm làm cho tiền lương thực tế quá cao và cầu lao động quá thấp. Theo thời

gian, khi tiền lương danh nghĩa giảm, làm tiền lương thực tế, cuối cùng nền kinh tế sẽ trở lại

mức sản lượng tự nhiên.

Theo lý thuyết giá cả cứng nhắc, nền kinh tế lâm vào suy thoái là do không phải giá cả mọi

hàng hóa đều giảm đủ mạnh. Theo thời gian, khi các doanh nghiệp điều chỉnh giá cả đủ mạnh

thì nền kinh tế sẽ trở lại trạng thái toàn dụng.

b. Tốc độ phục hồi kinh tế phụ thuộc vào tốc độ điều chỉnh kỳ vọng về giá cả (lý thuyết nhận

thức sai lầm và thông tin không hoàn hảo), tiền lương (lý thuyết tiền lương cứng nhắc), và

giá cả (lý thuyết giá cả cứng nhắc).

Bài tập 7

a. Đây là một cú sốc cung bất lợi, ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế là sản lượng và việc làm

giảm, trong khi mức giá tăng.

b. Kích cầu thông qua kênh tài khóa và tiền tệ sẽ giúp phục hồi kinh tế: Tăng sản lượng và việc

làm, nhưng đồng thời sẽ đẩy lạm phát dâng lên cao hơn.

c. Thắt chặt tài khóa và tiền tệ sẽ giúp ổn định mức giá, nhưng lại đẩy nền kinh tế lún sâu hơn

vào suy thoái.

d. Chính phủ nên giảm hoặc thậm chí miễn thuế nhập khẩu đánh vào các mặt hàng có giá quốc

tế tăng cao. Điều này sẽ làm dịu bớt tác động bất lợi của cú sốc cung ngoại sinh đến chi phí

sản xuất. Trên đồ thị đường tổng cung ngắn hạn sẽ dịch chuyển sang bên phải. Điều này sẽ

làm giảm áp lực lạm phát và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Bài tập 8

a. Đường AD dịch chuyển sang phải do C tăng. Kết quả là cả Y và P đều tăng.

b. Đường AS ngắn hạn dịch chuyển sang trái. Kết quả là Y giảm và P tăng.

c. Cả đường AS (do lao động giảm) và AD (do số người mua hàng giảm) đều dịch chuyển sang

trái. Kết quả là Y giảm, còn ảnh hưởng đến P thì chưa đủ thông tin để kết luận.

d. Đường AD dịch chuyển sang trái do xuất khẩu giảm. Kết quả là cả Y và P đều giảm.