bi Ến ĐỔi khÍ h Ậu Ở khu v Ực mÊ...

34
CÁC QUC GIA VÙNG CHÂU THSÔNG MÊ KONG VÀ VN ĐỀ BIN ĐỔI KHÍ HU: RI RO CHO ĐA DNG SINH HC, DCH VHSINH THÁI VÀ PHÁT TRIN BIN ĐỔI KHÍ HU KHU VC MÊ KÔNG Nguy cơ đối vi đa dng sinh hc, các dch vca hsinh thái và phát trin

Upload: others

Post on 25-Jul-2020

0 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở KHU VỰC MÊ KÔNG

Nguy cơ đối với đa dạng sinh học,

các dịch vụ của hệ sinh thái và

phát triển

Page 2: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

TÓM TẮT

Châu thổ sông Mekong là vùng dễ bị tổn thương nhất nhất trên trái đất do sẽ phải hứng chịu những hậu quả nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Sự thay đổi đã xảy ra, tuy nhiên sự tồi tệ nhất vẫn còn ở phía trước.

Đối với vùng châu thổ sông Mekong, biến đổi khí hậu đã và sẽ gây ra nhiều đe dọa đối với con người, đa dạng sinh học và tài nguyên thiên nhiên. Dường như đây là một hệ quả mang tính dây truyền, ví dụ, khan hiếm nguồn nước sẽ dẫn tới giảm năng suất nông nghiệp, thiếu lương thực, việc làm và đói nghèo.

Trong số các quốc gia thuộc vùng hạ lưu châu thổ sông Mekong, Lào và Cam pu chia được xác định là hai nước dễ bị tổn thương nhất của vùng, một trong những nguyên nhân là năng lực ứng phó với rủi ro từ biến đổi khí hậu của hai nước này còn hạn chế (Yusuf and Francisco, 2009). Nhìn chung, biến đổi khí hậu sẽ làm cho các nước trong khu vực vốn đã khó khăn nay lại càng trở nên khó khăn hơn.

Thành phố Băng Kok đang bị chìm dần xuống biển với tốc độ 5-

10 mm hàng năm. Sự sụt lún do kiến tạo của địa tầng và khai

thác nước ngầm kết hợp với tăng mức nước biển sẽ làm cho

Bangkok bị ngập trong nước biển khoảng 50-100 cm vào năm

2025. (UNEP, 2009)

Trên toàn khu vực châu thổ sông Mekong, nhiệt độ đang tăng lên, trong 50 năm vừa qua nhiệt độ đã tăng từ 0.5 tới 1.50C. Trong khi mùa mưa ở một số nơi trong vùng có thể bị ngắn lại, thì tổng lượng mua được dự báo là sẽ tăng lên. Điêu này có nghĩa là sẽ có nhiều đợt mưa rất to xuất hiện trong một thời gian ngắn.

Tần suất hạn hán và lũ lụt sẽ tăng lên, thực tế đã xảy ra và đã gây nên những hậu quả nặng nề đối với tài sản và tính mạng con người. Mực nước biển dâng đang đe dọa các cộng đồng sinh sống trong vùng duyên hải của Châu thổ sông Mekong cũng như các hệ sinh thái trong vùng ven biển.

Băng tan từ đỉnh Himalayas có thể gây nên những tác động xấu đối với dòng chảy chính của khu vực, các vùng đất ngập nước sẽ trở nên khô hạn hoặc lụt lội hơn. Các tác động này đã xảy ra ở một trừng mực nào đó.

Biến đổi khí hậu đang có ảnh hưởng đáng kể lên ngành nông nghiệp. Nhiệt độ ấm lên đã làm giảm sản lượng. Lũ lụt, hạn hán và bão tố đang gây ảnh hưởng tiêu cực lên sản lượng của tất cả ngành trồng trọt.

Trong tương lai, hạn hán kéo dài và không dự báo được sẽ càng trầm trọng. Lượng nước ngọt trong mùa khô sẽ bị suy giảm, hạn hán kéo dài sẽ gây ra tình trạng khan hiếm nước. Khan hiếm nước sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sản lượng nông nghiệp và đe dọa an ninh lương thực.

Ảnh hưởng xấu của biến đổi khí hậu đối với con người là vô cùng trầm trọng; những cư dân nghèo nhât trong vùng châu thổ sông Mekong sẽ là những người hứng chịu nhiều nhất

(Oxfam, 2008). Có thể kể ra một số loại tác động do biến đổi khí hậu gây ra cho con người như gia tăng các trường hợp tử vong vì sóng nhiệt, dịch chuyển địa lý của các ổ dịch truyền nhiễm như sốt rét, sốt xuất huyết, tiêu chảy và viêm gan.

Biến đổi khí hậu còn gây mất nơi cư trú và di dân, quy mô và phạm vi của vấn nạn này có lẽ sẽ rất lớn và lớn hơn bất kì những nguyên nhân nào đã từng có trong lịch sử.

Page 3: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Các quốc gia trong vùng châu thổ sông Mekong phải chuẩn bị để đối phó với những hậu quả nghiêm trọng

Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức có vai trò sống còn để phòng ngừa những tác động tồi tệ nhất. Tuy nhiên có một số tác động của biến đổi khí hậu đã xảy ra và một số tác động không thể phòng tránh được.

Tổng lượng khí thải CO2 được đưa vào khí quyển trong 200 năm vừa qua sẽ góp phần làm cho nhiệt độ trái đất tăng lên ít nhất là 0.8˚C trong thế kỉ tới. Đây là lý do vì sao hành động về biến đổi khí hậu trở nên rất quan trọng trong thời điểm này.

“Con cháu chúng ta sẽ không bao giờ tha thứ cho chúng ta

trừ phi chúng ta phải hành động ngay. Thời gian không

còn nhiều, chúng ta chỉ con 2 tháng trước hội nghị khí hậu

quốc tế Copenhagen” Abhisit Vejjajiva, thủ tướng Thái Lan đã phát biểu tại cuộc họp của UNFCCC tại Băng Kok

Các quốc gia thuộc lưu vực sông Mekong phải có hành động quyết đoán và chuẩn bị đối phó với những tác động không tránh được của biến đổi khí hậu ngay từ hôm nay, nếu không hậu quả sẽ rất trầm trọng

Một cam kết khu vực để đối phó với đe dọa từ biến đổi khí hậu gây ra cho các hệ sinh thái ven biển, nước ngọt, lục địa là vô cùng quan trọng và rất cần thiết. Điều phối và hợp tác với nhau có tính chất nền tảng cho việc giảm ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lên tài nguyên thiên nhiên và con người. Trao đổi thông tin cũng vô cùng cần thiết để tăng cường năng lực và nâng cao hiểu biết.

Con người, văn hóa và các hệ sinh thái có quyền được tồn tại. Có hàng loạt các hành động chính sách, nếu được các quốc gia trong khu vực chấp nhận và thực hiện sẽ giúp giảm thiểu khủng hoảng cho các thế hệ hiện tại và tương lai.

“Với tư cách là quốc gia có lượng phát thải khí nhà kính thuộc hàng khiêm tốn nhất trên thế giới, tuy nhiên chúng tôi vẫn cam kết góp sức vào nỗ lực toàn cầu để giải quyết vấn đề biến đổi khí hâu.” Tiến sĩ Thongloun Sisoulith, phó thủ thướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Lào đã phát biểu, theo thời báo Vientiane Times ra ngày 24/9/09.

Thỏa thuận cấp vùng đầu tiên về ứng phó với biến đổi khí hậu của châu Á

Mục đích nhằm giúp các quốc gia châu Á chuẩn bị đối mặt với những tác động không thể tránh được của biến đổi khí hậu, thỏa thuận này cần:

• Nhấn mạnh đến cách tiếp cận dựa trên hệ sinh thái, để duy trì khả năng tự phục hồi của vùng

• Củng cố hệ thống quản lý hiện hành và đảm bảo sự tham gia của tất cả các bên liên quan vào ứng phó với biến đổi khí hậu

• Phải hành động ngay từ bây giờ và sử dụng những hiểu biết hiện có vào công tác phòng chống biến đổi khí hậu

• Lồng ghép các biện pháp giảm nhẹ vào trong chiến lược ứng phó biến đổi khí hậu; đảm bảo có đầy đủ cơ sở vật chất cần thiết cho các nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu.

Page 4: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Phải chăng sự gia tăng phát thải khí nhà kính không được kiểm soát hiện nay sẽ biến phần lớn châu thổ sông Mekong thành nơi không thể cư trú được vào cuối thế kỷ này?

Để phòng tránh thảm họa này xảy ra, WWF mạnh mẽ khuyến cáo chính phủ của các quốc gia trong vùng châu thổ sông Mekong phải nỗ lực tìm kiếm thỏa thuận quốc tế khả thi nhất để ngăn chặn biến đổi khí hậu.

Hạn chế gia tăng nhiệt độ toàn cầu tới mức dưới 20C so với nhiệt độ thời kỳ trước cách mạng công nghiệp sẽ góp phần phòng tránh được những tác động xấu nhất của biến đổi khí hậu. Để làm được việc này yêu cầu phải cắt giảm mạnh và ngay lập tức việc phát thải khí nhà kính.

Tới năm 2020, lượng phát thải khí nhà kính phải được cắt giảm tới mức bằng lượng phát thải của năm 1990. Tới năm 2050, lượng phát thải khí nhà kính trên toàn cầu phải giảm xuống bằng 80% lượng phát thải của năm 1990.

Góp phần đạt đến mục tiếp này, WWF và một hiệp đoàn lớn bao gồm những đối tác liên quan mạnh mẽ khuyến cáo các quốc gia giầu nhất và phát triển nhất cắt giảm lượng khí phát thải của họ tới mức thấp hơn 40% so với lượng phát thải của năm 1990 (tới thời điểm năm 2020) và các quốc gia đang phát triển giảm lượng phát thải xuống 30% vào thời điểm năm 2020.

Những mục tiêu này sẽ hoàn toàn có thể thực hiện được nếu có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ các nhà lãnh đạo chính trị, sự tham gia của tất cả các nước và sự cảm nhận tính cấp thiết của biến đổi khí hậu mà báo cáo này nêu ra.

Page 5: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

THÁCH THỨC: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Biến đổi khí hậu là một trong những vấn đề đã được xác định của thời đại chúng ta và nó có tác động thay đổi nhanh chóng trái đất, nơi chúng ta đang sinh sống.

Phát thải khí nhà kính từ nhiều nguồn khác nhau như đốt cháy nhiên liệu hóa thạch, phá hủy rừng và những hoạt động nông nghiệp không bền vững đang làm cho trái đất nóng lên và làm thay đổi toàn bộ khí hậu. Gia tăng nhiệt độ trung bình của không khí và đại dương trên quy mô toàn cầu, băng tan ở nhiều khu vực và nâng cao mực nước biển là những bằng chứng khẳng định sự biến đổi khí hậu của trái đất (IPCC, 2007). Khi lượng phát thải khi nhà kính tăng, kéo theo sự biển đổi khí hậu và những tác động của nó tới thiên nhiên và con người. Cắt giảm mạnh và ngay lập tức phải thải khí nhà kính trên quy mô toàn cầu là rất cần thiết để phòng tránh những tác động xấu nhất của biến đổi khí hậu

Vùng Đông Nam Á đóng góp 12% lượng khí thải nhà kính tại thời điểm năm 2000; so với năm 1990, lượng phát thải này đã tăng lên 27%, một tốc độ tăng nhanh hơn so với trung bình của toàn cầu (ADB, 2009). Trong những năm gần đây, khu vực tiểu vùng sông Mekong đóng góp vào khoảng 4,5% (xấp xỉ 2,2 Giga tấn) trong tổng lượng khí phát thải (ADB, 2008). Mặc dù các quốc gia vùng châu thổ sông Mekong đóng góp một phần nhỏ vào trong phát thải khí nhà kính toàn cầu, nhưng lại là một trong những vùng có lượng khí phát thải gia tăng nhanh nhất trên thế giới.

Việc chuyển đổi tới một nên kính tế ít phát thải carbon sẽ giúp giảm các tác động toàn cầu cũng như các tác động cấp vùng và địa phương của biên đổi khí hậu; các tác động như đã nêu ra trong báo cáo này sẽ trở nên ngày càng xấu. Vào thời điểm hiện này, cần thiết phải có chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu vì có nhiều tác động của nó là không thể tránh khỏi.

Vùng duyên hải dân cư đông đúc của các quốc gia thuộc lưu vực sông Mekong là vùng phải chịu nhiều rủi ro

nhất đối vấn đề xâm nhập mặn, ngập lụt do mực nước biển dâng, và ngập lụt trên diện rộng do đỉnh lũ của sông Mekong, sông Red, sông Chao Phraya và các con sông khác trở nên cao hơn.

Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong trong vùng sẽ tăng lên, đặc biệt là tiêu chảy chủ yếu có nguyên nhân từ lũ lụt. Hạn hán cũng được dự báo là tăng lên do sự xáo trộn của chế độ thủy văn.

Mặc dù lưu lượng dòng chảy hàng năm được dự báo là tăng lên do tăng tổng lượng mưa trong vùng, tuy nhiên mùa và lượng mưa theo từng khu vực có thay đổi theo chiều hướng bất lợi vào năm những 2050 (IPCC, 2007). Các hệ sinh thái của khu vực nơi mà con người sống phụ thuộc vào sẽ thay đổi một cách nhanh chóng bởi vì các loài khác nhau có các phản ứng khác nhau với tác động cộng gộp của biến đổi khí hậu

Page 6: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Sự biến đổi đã bắt đầu

Sự xuất hiện xu thế khí hậu chung trong vùng châu thổ sông Mekong đã được nghiên cứu; kết quả này đã giúp cho các nhà khoa học đưa ra dự báo sự thay đổi của nó trong thời gian 50 tới 100 năm nữa trong tương lai. (Eastham et al. 2008, ADB 2009, TKK and START 2009, WWF Australia 2009).

Có nhiều nhà khoa học lại cho rằng dự báo này là quá thấp và vùng châu thổ sông Mekong có lẽ phải hứng chịu một điều kiện khí hậu khắc nghiệt nhất tương đương với kịch bản khí hậu xấu nhất như đã được IPCC dự báo lần gần đây. Điều này sẽ gây nên những tác động mạnh hơn nhiều so với những tác động được IPCC dự báo vào năm 2007 (WWF Australia, 2009).

Những thay đổi nào đã xảy ra với các quốc gia trong vùng châu thổi sông Mekong?

Vùng châu thổ sông Mekong đang ấm dẫn lên

Nhiệt độ trung bình ngày trong toàn vùng Đông Nam châu Á đã tăng từ 0.5 tới 1,50C trong giai đoạn 1951 - 2000 (IPCC, 2007). Nhiệt độ ở Thái Lan đã tăng lên từ 1.0 đến 1,80C trong vòng 50 năm vừa qua; nhiệt độ trung bình ban ngày trong tháng 4 đã tăng rất cao, tới 400C (ABD, 2009). Nhiệt độ ở Việt Nam tăng 0.70C trong cùng thời điểm (ADB, 2009). Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất trong ngày cũng đã tăng lên (TKK & SEA START RC 2009).

Như một hệ quả tất yếu, tính từ năm 1950 trong cả vùng, số ngày và đêm nóng tăng lên trong khi số ngày và đêm mát mẻ lại giảm xuống (Manton et al 2001). Sự thay đổi về nhiệt độ cực điểm (và các sự kiện khí hậu khắc nghiệt) đã trở nên ngày càng phổ biến và có liên hệ với tác động của thay đổi khí hậu (Griffiths et al. 2005).

Vào cuối thế kỉ này, vùng châu thổ sông Mekong được dự báo là sẽ nóng lên từ 2 đến 40C (IPCC 2007, ADB 2009). Trong vòng 20 năm tới, nhiệt độ trung bình trong toàn vùng châu thổ sông Mekong rất có thể sẽ tăng khoảng 0.790C với nhiệt độ tăng mạnh trong vùng phía bắc của khu vực (Eastham 2008)

Hình 3. Nhiệt độ trung bình tối thiểu ngày so với đối chứng của thập kỷ 80

Nguồn: SEA START RC 2009

Page 7: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Châu thổ sông Mekong sẽ trở nên ẩm ướt hơn

Chế độ mưa trong vùng Đông Nam Á tương đối phức tạp do có nhiều dị biệt về địa hình và ảnh hưởng của khí hậu đại dương (Trenberth et al 2007). Trong vùng châu thổ sông Mekong, từ năm 1961 tới năm 1998, mặc dù số trận mưa rất to có giảm, nhưng lượng nước trong một lần mưa của các trận này lại tăng lên (Manton et al 2001)

Trong một vài thập kỉ tới, tổng lượng mưa hàng năm sẽ tăng lên từ 5 đến 25% trong phần phía bắc của châu thổ sông Mekong và sẽ tăng lên 50% vào cuối thể kỉ này (hình 4). Đồng bằng sông Mekong là một ngoại lệ quan trọng vì lượng mưa ở đây lại giảm đi 15% trong thế kỉ này (hình 4). Trong vùng này sẽ có nhiều bão lớn hơn và mùa khô được dự báo sẽ trở nên khô hơn (TKK & SEA START RC 2009). Mặc dù thời gian của mùa mưa được dự báo là không dài ra ở phần lớn vùng sông Mekong, tuy nhiên ở một số khu vực mùa mưa bị ngắn lại, ví dụ như vùng Krabi, Thái Lan sẽ bị ngắn lại khoảng 1 tháng (WWF & SEA START RC 2008)

Hình 4: Lương mưa trung bình hàng năm: lượng mưa (phía trên) và lượng mưa thay đổi trong tương lai được so sánh với số liệu gốc năm 1980 (phía dưới) theo kịch bản biến đổi khí hậu A2

Nguồn: SEA START RC 2009

Page 8: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Hình 5: Sự thay đổi số ngày mưaở Kabi, Thái Lan những năm 2030 so với những năm 1980

Nguồn: WWF và SEA START RC 2008

Hình 6: Sự thay đổi vè thời gian và độ dài của mùa mưa ở Kabi, Thái Lan những năm 2030 so với những năm 1990

Nguồn: WWF và SEA START RC 2008

Page 9: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Vùng châu thổ sông Mekong là vùng rất dễ bị tổn thương vì mực nước biển dâng

Thay đổi khí hậu đã làm cho mực nước biển dâng cao từ 1,7 tới 1,8 mm hàng năm trong suốt thế kỉ vừa qua; và tăng với tốc độ 3mm / năm trong suốt thập kỉ trước (ADB 2008). Rất nhiều vùng ven biển đã phải hứng chịu hậu quả của nước biển dâng.

Vùng châu thổ sông Mekong là vùng đặc biệt rủi ro bởi vì nó có đường bờ biển dài và đồng bằng châu thổ chỉ cao hơn mực nước biển trung bình một chút. Thậm chí mực nước biển tăng lên một một lượng nhỏ đã có thể gây nên một thảm họa trên diện rộng, khi gió mùa kết hợp với triều cường tạo nên sóng lớn (đặc biệt là trong mùa bão). Hậu quả này sẽ gây nên ngập lụt trên diện rộng và ở mức độ nghiêm trọng hơn, ví dụ như bão Linda và bão Nargis.

Mức gia tăng mực nước biển ở đồng bằng châu thổ sông Mekong là khá lớn khoảng 6 mm / năm và khoảng 13 tới 150 mm / năm ở đồng bằng châu thổ Chao Phraya (Ryvitski et al. 2009). Sụt đất do khai thác nước ngầm và do trầm tích bị các đập thủy điện giữ lại đã và đang làm vùng đồng bằng châu thổ sông Mekong chìm dần và mực nước biển dâng đang làm cho vấn đề trở nên trầm trọng hơn (Ryvitski et al. 2009, xem nghiên cứu điểm trong hộp số 1). Xâm nhập mặn và mất đất đã đang và sẽ làm ảnh hưởng tới con người và sinh kế của cộng đồng duyên hải tại Thái Lan và Việt Nam

Cho tới cuối thế kỉ này, mực nước biển dâng cao trong vùng đồng bằng châu thổ sông Mekong sẽ làm ngập lụt khoảng một nửa (xấp xỉ 1,4 triệu ha) đất canh tác của Việt Nam (Warner et al. 2009). Mực nước biển dâng khoảng 1 m sẽ làm ngập ¼ thành phố Hồ Chí Minh, thành phố lớn nhất của Việt Nam, nới có hơn 6 triệu người sinh sống.

Page 10: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Hộp số 1. Nghiên cứu điển hình: Mất đất ở Khok Kham, Vịnh Thái Lan.

Biến đổi khí hậu không diễn ra một cách riêng lẻ. Nó là một trong nhiều nhân tố gây áp lực lên các hệ sinh thái và sinh kế của người dân. Trong vòng mười năm trở lại đây, người dân ở Khok Kham thuộc tỉnh Samut Sakhon đã theo dõi và nhận thấy biển đã xâm nhập 1km vào phần đất liền của bờ biển.

Ông Vorapol, một trưởng thôn 48 tuổi đến từ huyện Khok Kham đã phải di chuyển tám lần trong mười năm qua do xói mòn bờ biển. Ngày nay, nơi gia đình ông sinh sống khi ông còn thơ bé đã bị ngập chìm lấp hoàn toàn. Cũng như nhiều người khác ở khu vực này, ông Vorapol kiếm sống từ nuôi tôm và nông nghiệp. Việc mất đất đai cũng đồng nghĩa với việc họ bị mất đi tài sản quý giá nhất và cả nguồn kiếm kế sinh nhai.

Có nhiều lý do vì sao bờ biển đang bị nước mặn xâm nhập ở Samut Sakhon, tỉnh có vị trí gần Bangkok, nơi khai thác nước ngầm quá mức đã dẫn tới việc mặt đất do bị lún xuống. Việc xây dựng các đập ở thượng nguồn các sông Chao Phraya và Tha Chin làm giảm dòng trầm tích chảy vào vịnh, làm suy yếu khả năng tự bổ sung của nó. Việc rừng ngập mặn bị xâm lấn bởi những người nông dân nuôi tôm đã làm mất đi lá chắn bảo vệ tự nhiên cho vùng bờ biển, giảm khả năng chắn sóng và lưu giữ trầm tích. Các nhân tố trên làm suy giảm các chức năng của hệ sinh thái dẫn tới xói mòn vùng bờ biển. Biến đổi khí hậu khiến cho tình trạng này trở nên tồi tệ hơn.

Gió mùa sẽ có cường độ mạnh hơn như là một kết quả của biến đổi khí hậu. Điều này có nghĩa là sẽ có các đợt sóng lớn hơn tác động vào bờ biển dọc theo Vịnh Thái Lan. Trong thời gian có gió mùa, nếu không có các khu rừng ngập mặn, một lượng trầm tích lớn sẽ bị rửa trôi ra ngoài biển, dẫn đến mất trầm tích. Mực nước biển tăng sẽ làm vấn đề này ngày càng trầm trọng hơn.

Trong nhiều năm qua, cộng đồng dân cư ở Khok Kham đã thử nhiều cách để giảm thiếu thiệt hại hoặc thích nghi với tình trạng trên. Thường thì các thử nghiệm này dẫn đến những giải pháp thiển cận, chúng chỉ mang đến những tác động suy giảm trước mắt nhưng làm tồi tệ hơn vấn đề về dài hạn hoặc làm cho những giải pháp xấu này lại được nhân rộng ra trong vùng ven biển .

Ở Khoh Kham, có một người đã đầu tư thời gian và sức lực để tìm kiếm một giải pháp lâu dài. Ông Vorapol thông thạo khu vực này và đã là nhân chứng chứng kiến sự leo thang của vấn đề. Ông nhận ra rằng mấu chốt trong việc bảo đảm tính ổn định của bờ biển là phục hồi rừng ngập mặn.

Mô hình Ông Vorapol thiết kế là xây dựng những hàng rào bằng tre hình dích dắc (zigzag) song song với bờ biển để lưu giữ trầm tích. Thiết kế này không phải để ngăn dòng nước, vì bê tông mới làm được việc đó, các hàng rào này làm cho nước biển được từ từ lọc qua. Vận tốc dòng chảy giảm cho phép trầm tích tích tụ, cung cấp lượng chất nền thích hợp cho việc trồng cây nhỏ ở rừng ngập mặn. Trong suốt thập kỷ qua, các rừng ngập mặn đã tự nó đủ sức lưu giữ trầm tích và tự duy trì hệ sinh thái của nó từ rất lâu sau khi hàng rào bằng tre biến mất theo các con sóng biển.

Những chiến lược như vậy cho thấy tri thức địa phương và các nguyên liệu tự nhiên có thể hỗ trợ các dịch vụ của hệ sinh thái, do đó mang đến những giải pháp tốt hơn cho hệ thống hạ tầng hay các tiếp cận mang tính kỹ thuật. Việc phục hồi rừng ngập mặn không những bảo vệ bờ biển mà còn tạo ra sinh cảnh cho vô số con cá nhỏ và các loài động vật không có xương sống-những yếu tố cơ bản trong lưới thức ăn ở địa phương, từ đó hỗ trợ hệ sinh thái biển và cả những ngư dân khu vực này

Page 11: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Tần suất và cường độ các đợt lũ lụt, khô hạn và bão đang ngày càng tăng (Hoặc các đợt lũ lụt, khô hạn và bão đang diễn ra ngày càng dài ngày và với cường độ mạnh hơn)

Tần suất xảy ra các sự kiện thời tiết khắc nghiệt cũng tăng lên. Sóng nhiệt cũng trở nên phổ biến hơn (IPCC 2007). Số lượng các đợt bão nhiệt đới cũng cao hơn trong giai đoạn 1990-2003 (IPCC 2007). Với bờ biển dài và vị trí dọc theo vành đai bão tây bắc của Thái Bình Dương, UNDP đã xếp Việt Nam vào một trong mười nước trên thế giới có nguy cơ chịu ảnh hưởng bão lũ nhiệt đới nặng nề nhất (Chaudhry and Ruyschaert 2007). Trong vòng 40 năm qua, Việt Nam đã gặp ít cơn bão hơn, nhưng mức độ khắc nghiệt của chúng lại tăng lên (Niemnil et al 2008).

Năm 2000, những trận lụt gió mùa trên diện rộng hiếm có đã làm ngập lụt gần 800.000 km2 của Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam bao gồm một khu vực rộng thuộc Đồng bằng sông Mekong (Hình 7). Trong vòng 20-30 năm tới, các trận lụt ở Đồng bằng sông Mekong sẽ có khả năng làm ngập diện

tích đất lớn hơn với độ sâu cũng tăng lên (Hình 8). Các trận lụt này cũng đến sớm hơn hoặc muộn hơn phụ thuộc vào những thay đổi về dòng chảy và lượng nước mưa của khu vực.

Hình 7. Diện tích bị ảnh hưởng lụt (màu xanh nước biển đậm) ở khu vực đồng bằng sông Mekong năm 2000

Nguồn: Warner et al. 2009, courtesy of CARE International and CIESIN at the Earth Institute of Columbia University

Hình 8. Thay đổi ước tính về các khu vực bị ngập lụt trong khu vực đồng bằng sông Mekong trong tương lai (bên phải), so sánh với hiện tại (bên trái)

Nguồn: TKK & SEA START RC 2009.

Page 12: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Hộp 2: Vấn đề về tương lai của các khu đất ngập nước thuộc lượng lưu sông Mê-Kông

Lưu vực thượng lưu sông Mê-Kông nằm tại vùng cao nguyên Tây Tạng cũng là khu vực nhạy cảm đối với biến dổi khí hậu. Trong vòng 40 năm từ năm 1955 đến 1996 nhiệt độ trung bình tại vùng cao nguyên Tây Tạng tăng 0.64ºC. Vào thời điểm những năm 2050, nhiệt độ tại khu vực sẽ tăng lên thêm 2-2.7ºC so với mức năm 1990 (Wilkes 2008). Các sông băng khu vực cao nguyên, băng và tuyết là những bể chứa nước đóng băng tự nhiên chính sẽ đổ nước vào các khu vực đất ngập nước tại các khu vực có cao độ cao và chín sông lớn tại Châu Á, kể cả sông Mê-Kông, sông Irrawaddy và sông Salween (Xu 2008). Những vùng đất ngập nước tại các khu vực cao độ tương đối cao này đóng vai trò là các khu vực đệm về mặt giao động khí hậu. Chúng có thể bù lượng nước thiếu do lượng mưa và mức độ tan băng thấp trong những năm khô hạn và lưu trữ nước vào những khi nhiều mây để làm giảm lượng băng tan trong những năm nhiều mưa. Các khu vực đất ngập nước cũng là các yếu tố quan trọng trong bảo tồn và quản lý tài nguyên nước trên phạm vi vùng, phạm vị quốc gia và quốc tế.

Các sông băng đầu nguồn sông Mê-Kông đang biến mất Các sông băng khắp thế giới, bao gồm cả ở khu vực cao nguyên Tây Tạng góp phần vào lưu lượng đầu nguồn cho sông Mê-Kông đang bị suy giảm do điều kiện gia tăng về nhiệt độ. Sự suy giảm này sẽ gây ra các tác động nghiêm trọng đối chế độ thủy văn và nguồn nước ngọt của nhiều lưu vực sông lớn ở Châu Á. Tuy nhiên, Tại lưu vực sông Mê-Kông, tác động vào dòng chảy tại các khu vực hạ lưu sẽ rất nhỏ do diện tích và thể tích của lượng băng là tương đối nhỏ (Eastham 2008) và bởi vì lưu lượng băng tan chỉ góp 6.6% tổng lưu lượng (Xu 2008). Hiểu biêt về tác động lên trầm tích và sinh thái của các khu vực đật ngập nước tại các vị trí có cao độ tương đối cao tại các vùng thượng lưu là hạn chế, nhưng lại là vấn đề quan trọng (Xem hộp 2).

Page 13: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Các tác động tích lũy tại các khu vực thuộc Greater Mê-Kông Biến đổi khí hậu đang gây ra các tác động về sinh thái và kinh tế xã hội tại khu vực sông Mê-Kông (Hình 9). Sự gia tăng về cường độ và tần suất các hiện tượng khí hậu thái quá như khô hạn, ngập lụt, và bão đang ảnh hưởng đến sản xuất lương thực, thủy sản, và lâm nghiệp. Lượng và chất của tài nguyên nước dang bị biến đổi. Các điều kiện phát tán các loài ngoại lai và các loại dịch bệnh như sốt rét, sốt dengue ngày càng rõ ràng hơn. Khu vực này đang phải đấu tranh với sự mất đất canh tác, và các vùng đất duyên hải do sự dâng cao của mực nước biển, bão lụt lớn, xói mòn bờ biển, sự xâm nhập mặn vào đất và nước ngầm. Người dân trong khu vực Mê-Kông sẽ phải đổi mặt với các vấn đề về an ninh lương thực nếu hệ thống gió mùa ở đây bị thay đổi đáng kể. Tất cả những yếu tố này buộc con người phải rời bỏ quê hương và cuộc sống để tìm kiếm các sinh kế khác. Tất cả các tác động này sẽ càng nặng thêm khi trái đất ấm lên. Khi khí hậu bắt đầu ấm lên hơn, hàng triệu tấn mê tan từ các khu vực đất đóng băng quanh năm tại cao nguyên Tây Tạng sẽ được giải phóng ra và CO2 từ các cánh rừng cũng sẽ bị giải phóng, côn trùng tấn công, tất cả các tác động này sẽ làm xấu thêm tình thế.

Hình 9: Các hậu quả về sinh thái và kinh tế xã hội của biến đổi khí hậu tại khu vực Greater Mê-Kông

Các thay đổi vật lý Tăng bức xạ

Các thay đổi trong các mùa

Thay đổi về độ mặn

Mực nước biển dâng

Tuyết/băng tan

Bão lớn bất thường

Thay đổi các về thủy văn

Hạn hán

Axit hóa đại dương

Các hậu quả đối với hệ sinh thái Tác động CaCO3

Giảm tốc độ sinh trưởng của san hô

Gia tăng tôc độ phát triển của thực

vật

Gia tăng sức cạnh tranh của các

loài ngoại lai

Làm nghèo thành phần loài

Làm nghèo rừng

Chuyển từ các loài thuộc rừng

thường xanh sang rụng lá sang chịu

cháy

Các hậu quả kinh tế xã hội Giảm sản lượng nuôi trồng thân mềm

Giảm sản lượng đánh bắt trong các khu

vực rạn san hô

Mất thu nhập từ các hoạt động du lịch dựa

vào rạn san hô

Giảm lượng nước cấp

Gia tăng các bệnh dịch có nguồn gốc từ

môi trường nước

Giảm sản lượng trồng trọt

Giảm các sản phẩm lâm sản ngoài gỗ

Tăng tần suất và cường độ cháy rừng

Gây hư hại đường sá, cầu cống

Làm giảm chất lượng nước

Nồng độ CO2

Nhiệt độ

Lượng mưa

Hệ thống khí hậu

Giải phóng

CO2

Hoạt động

của con

người

Page 14: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

CÁC TÁC ĐỘNG VỀ SINH THÁI

Greater Mê-Kông: cơ sở cho sự đa dạng sinh học Khu vực Greater Mê-Kông là một trong những vùng vùng có độ đa dạng sinh học cao vào bậc nhất thế giới. Nơi đây có mười sáu trong số 200 vùng sinh thái quan trọng mang tính toàn cầu, có các cảnh quan quan trọng cấp quốc tế, được WWF xác định. Áp lực có nguồn gốc từ việc sử dụng không bền vững hoặc phát triển không kiểm soát ngày càng gia tăng đang đe dọa đến các sinh cảnh quan trọng này. Các nguy cơ bao gồm sự chuyển đổi sử dụng đất, chuyển đất rừng thành đất canh tác nông nghiệp, khai thác gỗ không bền vững, buôn bán động vật hoang dã, đánh bắt hải sản quá mức, xây dựng đập nước, đường xá, khai thác koáng sản. Khu vực Greater Mê-Kông được xác định là một trong những khu vực nhạy cảm nhất đối với biển đổi khí hậu. Biến đổi hí hậu làm cho tác động của các nguy cơ hiện hữu lên các sinh cảnh trên đất liền và trong môi trường nước ngọt, vùng cửa sông, và các sinh cảnh biển càng trở nên nghiêm trọng hơn (WWF 2009). Khu vực Greater Mê-Kông là nơi tồn tại của nhiều cảnh quan quan trọng như là Greater Annamites, rừng khô hạ lưu Mê-Kông, và các vùng sinh thái Kayeh Karen Tenasserim (Kayeh Karen Tenasserim Ecoregions - KKTE). Tất cả ba vùng đều là những nơi có giá trị đa dạng sinh học cao về động thực vật và chúng đều là những khu vực quan trọng của nhiều loài sinh vật quí hiếm, đặc hữu, và đang bị đe dọa. Ví dụ, khu vực đồi và rừng montane nguyên sinh liên tục tại KKTE là sinh cảnh của hai loài đang bị đe đe dọa bậc nhất ở châu Á là hổ và voi châu Á.

Trong điều kiện về sự độc đáo và quan trọng về mặt đa dạng sinh học của khu vực Greater Annamites, với 256 loại thú và 910 loài chim, các chính phủ Việt Nam, Lào đã thành lập 50 khu bảo vệ với khoảng 93,700 km2, cũng là nơi sinh sống của 37 triệu người thuộc 30 nhóm chủng tộc thiểu số khác nhau. Sự bền vững của các khu rừng thuộc Greater Annamites và hệ thống sinh vật đối với các thay đổi về khí hậu trong suốt thời gian sinh thái đã tạo ra mức độ đặc hữu của các loài sinh vật tại khu vực (Baltzer và đồng sự 2001). Tuy nhiên, các trung tâm đa dạng sinh học bị biến đổi mở rộng do tác động bởi sự thay đổi của khí hậu này sẽ có thể không còn là nơi cư trú của sinh vật trong tương lai nữa bởi vì các sinh cảnh hiếm là nền tảng của sự đa dạng sẽ có thể bị thu nhỏ lại trước những dự báo biển đổi khí hậu (Ohlemuller và đồng sự 2008). Hơn nữa, các biển đổi khí hậu trong quá khứ, không đồng thời với các áp lực (ví dụ các thay đổi trong sử dụng đất, loài ngoại lai, khai thác không bền vững, và săn bắt), đã làm giảm khả năng chống chịu của các khu rừng này. Vì vậy, tốc độ phát triển nhanh của các hoạt động kinh tế trong các khu vực trong và lân cận rừng sẽ làm mất tính liên kết của chúng đến mức hệ sinh thái không còn có thể chống chịu khi điều kiện khí hậu thay đổi. Hơn nữa, các tác động đến rừng có thể làm cho từ 8.5 đến 20 triệu người sống tại các vùng duyên hải của Việt Nam sẽ phải di chuyển trong thể kỷ tới là vấn đề cần qua tâm (Dasgupta và đồng sự 2007, Carew-Reid 2008).

Page 15: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Sự biến đổi khí hậu có thể sẽ gây ra sự dịch chuyển về phân bố loài mà điều này có thể có những tác đông to lớn về cấu trúc các hệ sinh thái, thành phần loài và các tiến trình sinh thái (Williams và đồng sự 2007). Sự dịch chuyển phân bố loài có thể khác nhau tùy từng loài. Có thể có những loài thích nghi với sự thay đổi mà không cần phải dịch chuyển phân bố (Bradshaw và đồng sự 2006), tuy nhiên hầu hết các loài là phải dịch chuyển, và đây là nguy cơ tiềm năng dẫn đến sự diệt chủng hàng loạt các loài (Stork và đồng sự 2007). Tại khu vực điểm nóng về đa dạng sinh học Indo-Burma (gần như nằm trong khu vực Greater Mê-Kông Region), người ta dự báo rằng sẽ có từ 133 đến 2 835 loài thực vật và từ 10 đến 213 loài động vật có xương sống có thể bị diệt chủng (Malcolm và đồng sự 2006). Các tác động trực tiếp của biển đổi khí hậu phụ thuộc vào độ nhạy cảm của từng loài và các quá trình sinh thái (ví dụ như tốc độ quang hợp, giao phấn, phân tán hạt, di trú) đối với sự thay đổi về nhiệt độ và lượng mưa. Sự thay đổi trong cấu trúc rừng sẽ tác động lên các loài động vật trong rừng. Vì đây là nơi sinh sống của nhiều loài đăc hữu và hiếm (ví dụ voi châu Á, hổ, chà vá, bò tót, bò rừng, Nai cà tong, sếu, báo gấm, cu li, gà lôi lam mào đen và gà lôi lam mào trắng) nên chúng càng có nguy cơ bị tác động bởi biến đổi khí hậu. Thêm vào đó, Trisurat và đồng sự (2009) nhận thấy rằng cùng với tác động lên sự phân bố sinh vật ở vùng Bắc Thái Lan, cấu trúc của các hệ sinh thái cũng thay đổi. Họ cũng tìm thấy rằng 10 loài thực vật sẽ bị xếp vào loại gần tuyệt chủng và mất sinh cảnh sống.

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng vì các loài cây rụng lá theo mùa thường bền vững trước tác động của biến đổi khí hậu hơn các loài cây thường xanh, các loài cây thường xanh sẽ bị thay thế bởi các loài cây rụng lá theo mùa. Sở dĩ cây rụng lá theo mùa chống chịu tốt hơn các loài cây thường xanh đối với các điều kiện khí hậu khô hạn là vì khả năng sử dụng nước một cách có hiệu quả làm cho chúng có thể sống tốt hơn trong điều kiện khô hạn (Trisurat và đồng sự 2009). Tuy nhiên, không phải là cây rụng lá theo mùa sẽ không phải chịu tác động. Số ngày nắng tăng lên cùng với sự gia tăng về nhiệt độ sẽ làm thay đổi các khu rừng khô giàu, các diện tích khu vực cây thường xanh, các khu đất ngập nước theo mùa, các ao hồ độc lập, là những nguồn nước quan trọng và là nơi sinh sống của sinh vật trong mùa khô bị giảm xuống. Hơn nữa, trong điều kiện thời tiết khô hạn, số vụ cháy rừng sẽ tăng lên.

Tóm lại là động thực vật sẽ đối mặt với sự suy thoái, nhiều loài đối diện với nguy cơ tuyệt chủng nếu không thực hiện các biện pháp nào kịp thời. Tuy nhiên, nếu chúng ta có những biện pháp mạnh mẽ nhằm giữ gìn sự khoẻ mạnh cho các hệ sinh thái và làm giảm các nguy cơ phi khí hậu khác, các loài đăc hữu, quí hiếm và những hệ sinh thái rừng quan trọng sẽ được bảo tồn và phục hồi. Duy trì và phục hồi các hệ sinh thái rừng sẽ làm tối ưu hóa sức chịu đựng đối với sự tác động của khí hậu, giữ gìn tài nguyên thiên nhiên cho các thế hệ mai sau.

Page 16: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Sông Mê-Kông: Nguồn nước của khu vực Hệ thống sông Mê-Kông là một trong những hệ thống sông lớn thế giới và là hệ thống sông lớn nhất Đông Nam Á. Lưu vực sông Mê-Kông là nơi sinh sống của hơn 65 triệu người. Hộ sống phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên giàu có của sông Mê-Kông. Sông Mê-Kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng chảy qua các thung lũng hẹp của tỉnh Yunnan Trung Quốc. Dòng sông chảy qua và hình thành ranh giới tự nhiên của các nước Burma, Thái Lan, và Lào trước khi chảy vào Cam-pu-chia. Sông Mê-Kông chảy qua vùng đồng bằng rộng lớn của Cam-pu-chia và Nam Việt Nam trước khi chảy vào Biển Đông. Chế độ thuỷ văn của sông Mê-Kông khá đặc biệt. Trong suốt thời gian gió mùa Tây Nam, từ tháng Năm đến tháng Chín, sông Mê-Kông làm cho sông Tonle Sap của Lào chảy ngược dòng, làm cho diện tích mặt nước tăng lên gấp sáu lần và thể tích nước sông tăng lên 38 lần (Kummu và đồng sự 2008). Chế độ thủy văn này tạo ra sức sản xuất của hệ sinh thái thuộc sông Mê-Kông và sông Tonle Sap (Lamberts và Koponen 2008). Sông Mê-Kông là một trong những hệ thống sông có mức độ đa dạng sinh học

vào bậc nhất trên thế giới (Cruz và đồng sự 2007). Hệ thống sông Mê-Kông có là cơ sở cho hệ thống sản xuất thủy sản nội địa phát triển nhất thế giới với tổng trị giá thương mại khoảng 3 tỷ USD một năm (MRC 2009). Một nghiên cứu của IUCN, IWMI, RAMSAR và WRI (2003) cho thấy rằng lưu vực sông Mê-Kông có mật độ loài trên đơn vị diện tích (ít nhất là 1 300 loài) lớn hơn sông Amazon. Hệ thống sông Mê-Kông có nhiều loài cá lớn hơn bât kỳ một hệ thống sinh thái nước ngọt nào trên thế giới. Sự đa dạng sinh học này là cơ sở cho sinh kế phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên của người dân sống dọc theo hai bờ sông. Người dân sống dọc theo hai bờ sông Mê-Kông sống dựa vào thủy sản làm nguồn đạm thực phẩm, vi chất dinh dưỡng khác và là nguồn thu nhập chính cho gia đình.

Lưu vực sông Mê-Kông là một trong số 9 lưu vực sông lớn nhất thế giới và nhạy cảm đối với sự biến đổi của khí hậu. Các tác động về mặt thủy văn trong

thế kỷ tới sẽ lớn hơn những thay đổi mà hệ thống này đã từng trãi qua do những dao đông về thời tiết trong suốt 9000 năm qua (Aerts và đồng sự 2006).

Tác động tổng hợp của biến đổi khí hậu, các áp lực phi khí hậu, và các đáp ứng đối với sự biển đổi khí hậu tạo ra nguy cơ đối với chính lưu vực sông và người dân sống bên trong lưu vực này. Sự biến đổi khí hậu sẽ làm cho các nguy cơ phi khí hậu hiện tại càng nghiêm trọng hơn. Các nguy cơ này bao gồm việc phát triển các đập thủy điện, sự mở rộng của hệ thống thủy lợi, và sự thay đổi dòng chảy. Các đợt bão trong mùa mưa cộng với hiện tượng nước biển dâng và sóng do gió có thể là nguyên nhân của những đợt ngập lụt kéo dài tại các vùng hạ lưu của lưu vực (Keskinen 2008, Penny 2008). Đồng Bằng sông Mê-Kông được xem là khu vực đồng bằng có nguy cơ cao nhất trên thế giới đối với sự biến đổi khí hậu (Parry và đông sự 2007, Dasgupta 2007) bởi vì hàng triệu người dân sống ở đây sẽ chịu sự tác động và bởi vì khu vực này có tầm quan trọng to lớn trong sản xuất gạo. Các thay đổi trong nguồn dinh dưỡng và độ mặn của sông Mê-Kông do nước biển dâng sẽ là nguy cơ đối với các ngành công nghiệp sản xuất lúa gạo, thủy sản và cây ăn quả (Jacobs 1996, Kakonen 2008). Hơn nữa, nếu mực nước biển dâng lên 1m, sẽ nhấn chìm 9 khu vực đa dạng sinh học quan trọng của đồng bằng sông Mê-Kông (Hình 10, Carew-Reid 2008).

Page 17: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Hình 10: 1 mét mực nước biển dâng sẽ ảnh hưởng đến 9 khu vực quan trọng về đa dạng sinh học của đồng bằng sông Mê-Kông

Nguồn: Carew-Reid 2008

HỘP 3: VIỆT NAM SẼ CHỊU TÁC ĐỘNG NGHIÊM TRỌNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Việt Nam đạt được một tốc độ tăng trưởng lớn nhất thế giới trong những năm gần đây. Đây là một trong số ít những nước có thể đạt được các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ cho đến năm 2015. Tỷ lệ người đói đã được giảm từ 58% vào năm 1993 xuống còn 18% vào năm 2006. Thành tựu này cũng đang có nguy cơ bị tác động vì Việt Nam được xem như là một trong những quốc gia bị tác động bởi biển đổi khí hậu nhiều nhất. Sự gia tăng dần mực nước biển, nhiệt độ cao và các hiện tường thời tiết bất thường, ví dụ như hạn hạn, bão tố, là những nguy cơ thường xuyên sẽ tác động đến con người và nền kinh tế. Nguồn: Oxfam (2008)

Page 18: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Biến đổi khí hậu sẽ làm thay đổi các hệ sinh thái thủy sinh, và làm thay đổi sự phân bố của các loài các và ngành sản xuất thủy sản. Các đường đi của cá, các bãi đẻ và khu vực kiếm mồi cũng sẽ bị thay đổi và hoạt động của các cộng động dân cư làm nghề thủy sản sẽ không còn hiệu quả. Các hoạt động khai thac thủy sản nội địa rất dễ bị tác động bởi các thay đổi trong chế độ thủy văn và các thành phần hóa học của nước. Các yếu tố này ảnh hưởng đến các loài thủy sinh là cơ sở cho sự phát triển công nghiệp thủy sản, và thậm chí còn “phá vỡ các tiến trình hỗ trợ … [Tonle Sap] sự đa dạng sinh học của hồ” (Penny 2008, trang 164). Biến đổi khí hậu theo dự báo sẽ tác động đến các hệ sinh thái thủy sinh, và làm thay dổi sự phân bố các loài cá cũng như công nghệp thủy sản. Đường đi của cá, bãi đẻ, khu vực tìm kiếm thức ăn sẽ thay đổi và vì vậy năng suất sản xuất thủy sản của các cộng đồng dân sống bằng nghề thủy sản sẽ khó đảm bảo. Công nghiệp thủy sản nội địa sẽ bị ảnh hưởng lớn bởi sự thay đổi của chế độ thủy văn và các thành phần hóa học trong nước. Là các yếu tố làm thay đổi đáng kể các loài thủy sinh là cơ sở cho sự phát triển công nghiệp thủy sản. Hình 11: Nhu cầu thủy sản có nguồn gốc từ nuôi trồng sẽ gia tăng, đặc biệt là ở châu Á và châu Phi

Nguồn WB 2009 / De Silva và Soto 2009

Trong vùng và thậm chí còn “phá vỡ các tiến trình hỗ trợ … [Tonle Sap] sự đa dạng sinh học của hồ” (Penny 2008, trang 164). Sự dự báo gia tăng các hiện tượng thời tiết bất thường sẽ kéo theo sự gia tăng các nguy cơ đối cơi các cộng đồng dân cư khai thác thủy sản ở các vùng duyên hải và các hệ thống nuôi trồng thủy sản (Trung Tâm Nghề Cá Thế Giới 2008). Nhu cầu thủy sản đối với ngành nuôi trồng thủy sản sẽ tăng lên (Hình 11), tuy nhiên, theo dự báo, biến đổi khí hậu sẽ có tác động xấu đến các hoạt động nuôi trồng thủy sản trên toàn thế giới. Hiện tượng mực nước biển dâng cao, các cơn bão lớn, và sự xâm nhập mặn vào các vùng đồng bằng sẽ phá hoại ngành công nghiệp nuôi trồng thủy sản và ngành này dựa vào nguồn giống là các loài có khoảng chống chịu sự thay đổi độ mặn khá hẹp, ví dụ như loài catfish tại khu vực đồng bằng sông Mê-Kông. Một cuộc khảo sát gần đây tiến hành tại 130 quốc gia đã kết luận rằng Cam-Pu-Chia và Việt Nam là các nước chịu ảnh hưởng lớn nhất bởi vì các quốc giá này phục thuộc rất nhiều vào thủy sản, là nơi chịu tác động trực tiếp của biển đổi khí hậu, nhưng khả năng ứng phó lại kém (Allison và đồng sự 2009).

Page 19: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Vựa lúa của châu Á sẽ bị tác động nghiêm trọng Nông nghiệp là một trong những ngành quan trọng của khu vực Greater Mê-Kông đối với đời sống của cộng động dân cư trong khư vực, sự an ninh lương thực và nền kinh tế của các quốc gia (WWF 2008a). Nông nghiệp phụ thuộc phần lớn nguồn tưới vào nước sông Mê-Kông và các nguồn nước ngầm (ADB 2009). Gạo là sản pẩm nông nghiệp quan trọng nhất của vùng; đất sử dụng cho trồng lúa chiếm 88% ở Thái Lan và 94% ở Lào trong tổng diện tích đất sản xuất dùng cho cây lương thực có hạt (Chinvanno và đồng sự 2008). Đồng bằng sông Mê-Kông cung cấp một nữa sản lượng gạo hàng năm của Việt Nam. Nó cũng là nơi cung cấp 60% sản lượng tôm cá và 80% trái cây (Warner và đồng sự 2009). Thái Lan và Việt Nam là hai quốc gia xuất khẩu gạo nhất nhì thế giới. Năm nay, Việt Nam xuất khẩu 7 triệu tấn gạo (Reuters 2009). Hầu hết việc sản xuất lúa phụ thuộc vào lượng nước mưa (chứ không phải thủy lợi). Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sản xuất lúa gạo theo nhiều cách khác nhau và ngành này được xem là ngành rất nhạy cảm vì những ảnh hưởng đến sinh kế của người dân, an toàn thực phẩm, nền kinh tế, thương mại và sự ổn định (Sivakumar và đồng sự 2005). Theo dự báo sẽ có sự thay đổi dài hạn trong phân bố lượng mưa và sự gia tăng nhiệt độ cùng với các hiện thượng thời tiết bất thường, biến đổi khí hậu sẽ làm ảnh hưởng đáng kể đến việc sản xuất nông nghiệp ở khu vực Greater Mê-Kông

Mặc dù ngập lụt hàng năm vào các ruộng lúa vẫn được đảm bảo, lượng ngập lụt lớn bất thường và sự khô hạn nghiêm trọng sẽ làm cho người nông dân mất mùa và không thể tiếp cận với thị trường và khả năng ứng phó với biến đổi do sự mất mát về cơ sở vật chất (TKK & SEA START RC. 2009). Hình 12 thể hiện bản đồ của vùng chỉ ra các khả năng tác động của biến đổi thời tiết trong thế kỷ này. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm và phát triển kinh tế. Sự tăng trưởng sản xuất nông nghiệp một cách khiêm tốn (3.6%) là có thể, tuy nhiên sẽ có sự gia tăng khan hiếm về lương thực trong toàn khu vực (MRC 2009). Lúa mì nhạy cảm với sự gia tăng nhiệt độ tối đa trong khi lúa nước nhạy cảm với sự gia tăng của nhiệt độ tối thiểu (Sivakumar và đồng sự 2005).

Hình 12: bản đồ khu vực biểu thị các khả năng tác động của biến đổi khí hậu trong thế kỷ này

Page 20: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

NGUY CƠ ĐỐI VỚI CON NGƯỜI, CỘNG ĐỒNG VÀ CÁC NỀN KINH TẾ

Nền kinh tế khu vực Greater Mê-Kông có liên hệ mật thiết với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, và vì vậy bất kỳ thay đổi nào cũng sẽ có những tác động dài hạn đối với người dân trong khu vực. Sức chịu đựng của nhiều hệ sinh thái đã bị vượt qua trong thế kỷ này dưới tác động kết hợp của nhiều yếu tố bắt nguồn từ biến đổi khí hậu (thí dụ ngập lụt, hạn hán) và những thay đổi mang tính toàn cầu khác (thay đổi về sử dụng đất, ô nhiễm môi trường, phân mảng các hệ thống sinh thái tự nhiên, khai thác quá mức các nguồn tài nguyên), nhiều cộng đồng người dân và ngành kinh tế, thường nằm trong các khu vực duyên hải và các diện tích ngập của các sông lớn có nguy cơ dưới tác động của sự biến đổi (xem hình 13). Nông dân phụ thuộc hoàn toàn vào nông nghiệp có nguy cơ lớn nhất khi các hiện tượng bất thường hay trái với qui luật mùa về thời tiết ngập lụt hay hạn hán xảy ra, phá hoại hoàn toàn mùa màng của họ. Theo một gia đình lao động di cư Việt Nam, “Thiên tai xảy ra quá thường xuyên – Gia đình tôi mất mùa, chúng tôi phải mượn tiền để sinh sống. Bây giờ, gia đình tôi không thể trả được nợ vì vậy tôi phải đến đây làm việc để trả nợ” (Warner và đồng sự 2009)1

1 Đây là một ví dụ về một gia đình ở Việt Nam đi nơi khác để tìm sinh kế thay thế.

Hình 13. Mật độ dân số tại khu vực Greater Mê-Kông. Các cộng đồng dân cư lớn sống trong các khu vực duyên hải đất thấp và các diện tích ngập lụt làm cho vùng này có nguy cơ cao về ngập lụt, nhiễm mặn, và mực nước biển dâng

Nguồn: WWF

Page 21: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Các cộng đồng dân cư đô thị cũng không tránh khỏi các tác động của biển đổi khí hậu. Tốc độ đô thị hóa cao và sự lan rộng của các khu vực ngoại ô làm cho tính rủi ro của các đô thị đối với các tác động của biến đổi khí hậu càng tăng cao, ví dụ như thành phố Băng-Cốc và Hồ Chí Minh. Khi các thành phố lớn nới rộng khu vực ngoại ô sang các khu đồng ruộng và đất ngập nước, khả năng trữ nước của các cảnh quan lân cận bị mất làm cho ngập lụt trở nên nghiêm trọng hơn. Hơn nữa, các thành phố thí dụ như Băng Cốc đang trãi qua các nguy cơ có thể dẫn đến tác động đối với nền kinh tế. Vào năm 2005, Băng-Cốc thải vào bầu khí quyển lượng CO2 tương đương với Luân đôn và nhiều hơn Tô-ron-tô. Thành phố đang phải đối mặt với hiên tượng lũ lụt và và lún đất do việc khai thác quá mức nguồn nước ngầm. Mỗi năm Băng-Cốc lún 5-10 mm và 30 mm tại những vùng xa hơn (UNEP 2009). Sự di cư và dịch chuyển vị trí sinh sống của người dân đang xảy ra với động cơ chính là các nguyên nhân về kinh tế, tuy nhiên người ta cũng đã bắt đầu thấy dấu hiệu ảnh hưởng của các yếu tố biến đổi khí hậu (Warner và đồng sự 2009). Mặc dù số lượng người chính xác tham gia di cư vào giữa thế kỷ là chưa thể khẳng định chính xác, nhưng có thể nói là phạm vi và qui mô sẽ lớn hơn bất kỳ những gì đã từng xảy ra trước đây. Người dân sống trong các vùng đất thấp sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng và trước hết. Trong khu vực Greater Mê-Kông, nhiều người sống dựa vào các hệ sinh thái tự nhiên làm nguồn sống, các tác động của biến đổi khí hậu lên các hệ sinh thái tự nhiên sẽ trở thành động lực chính của sự di cư của người dân

Trong vòng hai, ba thập kỷ tới (Warner và đồng sự 2009). Trong tương lai, tại vùng đồng bằng sông Mê-Kông một trong số mười người tại vùng đồng bằng sông Mê-Kông của Việt Nam sẽ phải di cư do hiện tượng dâng cao của của mực nước biển. (Nguồn: Warner và đồng sự 2009 trên cơ

sở Dasgupta 2007) Bản đồ ở hình 14 cho thấy nhiều người dân sống ở khu vực đồng bằng sông Mê-Kông nằm trong khu vực rủi ro và một vài địa phương chắc chắn sẽ phải di dời. Họ sẽ phải đi đâu và khi nào thì vẫn còn chưa biết được. Chính điều này tạo ra các mâu thuẫn xã hội tiềm tàng và có lẽ đây cũng là mối quan tâm toàn cầu (Campbell và đồng sự 2007, Warner và đồng sự 2009). Các cuộc di dân qui mô lớn cũng sẽ là nguy cơ đối với các khu vực được dành riêng cho mục đích bảo tồn đa dạng sinh học.

Các cuộc di dân có nguyên nhân từ biến đổi môi trường có nguy cơ trở thành các cuộc di dân rất lớn cả về phạm vi lẫn qui mô. Tác

động của nó đối với nền kinh tế của thế giới, sự phát triển quốc tế, và ngân sách của các

quốc gia có thể gây ra những hậu quả đối với hầu hết các mặt của sự an toàn và thịnh vượng của con người, ngoài các vấn đè về

chính trị và an ninh quốc gia (Warner và đồng sự 2009).

Page 22: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Hình 14: Đồng bằng sông Mê-Kông khi mực nước biển dâng lên 1 mét (màu xanh đậm) trên bản đồ mật độ dân số (bên trái) và trên bản đồ phân

bố đất nông nghiệp (bên phải).

Nguồn: Warner và đồng sự 2009, courtesy of CARE International và CIESIN tại viện Trái đất Đại học Columbia

Page 23: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

KẾT LUẬN: HÀNH ĐỘNG KHẨN CẤP

Báo cáo này mô tả bức tranh của một khu vực điểm nóng về đa dạng sinh học với những biển đổi nghiêm trọng trong tương lai nếu như các tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu không được khắc phục theo một phương cách tích hợp. Các quyết định hôm nay sẽ có tác động vĩnh viễn đối với các hệ sinh thái và các tài nguyên phục vụ mục đích sinh kế của các cộng đồng người dân trong vùng. Nếu không kịp thời hành động để chuẩn bị cho sự biến đổi khí hậu ngay bây giờ thì những hậu quả đáng tiếc nghiêm trọng sẽ xảy ra .

“Các giải pháp đối với vấn đề về biến đổi khí hậu nên được thực hiện trong bối cảnh về phát triển bền vững theo

phương pháp tích hợp và củng cố của các bên.” Ts Thongloun Sisoulith, Phó thủ tướng CHND Lào, Bộ trưởng bộ ngoại giao, trích dẫn từ Vientiane Times

24/9/09. Các thách thức chính đối với các chính phủ khu vực Greater Mê-Kông là đã rõ ràng: làm sao để duy trì khả năng thích ứng của vùng khi đối mặt với các tác động thảm khốc của biển đổi khí hậu, để duy trì sự phát triển. Các chính phủ và người dân các quốc gia cần phải xác định được phương cách cho sự phát triển nền kinh tế của họ, xóa bỏ đói nghèo, và bảo tồn các loài sinh vật và các hệ sinh thái quan trọng. Thách thức này không phải là không giải quyết được, nhưng các giải pháp sớm và có hiệu quả phải được tiến hành để đảm bảo các hệ sinh thái, các sản phẩm, và các dịch vụ sinh thái làm cơ sở cho phát triển của vùng không bị suy giảm hay tránh được những mất mát không thể phục hồi lại được. Các biện pháp quản lý môi trường và công tác bảo tồn cần được nâng cao hiệu quả để tối ưu được năng lực của vùng nhằm thích ứng, giảm thiểu các tác động không tránh khỏi của biển đổi khí hậu.

Sự cam kết rộng rãi nhằm giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu cần đạt được ở qui mô vùng nhằm đảm bảo các hoạt động tại một quốc gia nào đó không được làm ảnh hưởng đến hoặc làm giảm đi hiệu quả các nổ lực của các nước láng giềng. Sự hợp tác và năng lực của tất cả mọi cấp là cần thiết để giải vấn đề biến đổi khí hậu một cách thân thiện cho phép thực hiện cả biện pháp thích ứng và giảm thiểu trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên và con người trong vùng. Chính phủ của các quốc gia cần tôn trọng các chiến lược chung của vùng, thí dụ như đầu tư cho phát triển các nguồn năng lượng tái tạo và công nghệ sử dụng năng lượng hiệu quả giúp các nước tránh được nguy cơ về kinh tế và sinh thái, trong khi vẫn đảm bảo được sự phát triển kinh tế một cách thân thiện với môi trường. Các giá trị về môi trường không nên được xem là các trở ngại đối với sự phát triển về kinh tế. Chúng cần được xem là các cơ hội để chuyển đổi sang một tương lại bền vững thật sự của vùng. Cuối cùng, vùng cần phải chuẩn bị cho các kịch bản trong đó tác động vượt quá sự thích nghi của vùng. Nếu sự phát thải tiếp tục như hiện tại, không tăng, không giảm trước năm 2020 và các biện pháp thích ứng với biển đổi khí hậu không được thực hiện, sự thích ứng sẽ không còn là một biện pháp có thể được lựa chọn đối với các quốc gia, cộng đồng, và các hệ sinh thái có nguy cơ cao. Các nhà thương thảo cần phải nghĩ xa hơn và cần xem xét đến sự chuẩn bị an toàn, có thể là các cơ chế về tài chính cho những người phải di cư, các nhóm người bị tác động nghiêm trọng, hoặc các hình thức

khác đối với những người bị tác động sâu sắc không khắc phục được” (WWF 2008b). Nếu không kịp thời hành động để giảm thiểu các nguy cơ, sự đối với một tương lai tồi tệ

về kinh tế và xã hội đối với khu vực Greater Mê-Kông và con người ở đây.

Page 24: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Báo cáo này kêu gọi các chính phủ và người dân trong khu vực Greater Mê-Kông nhanh chóng hành động để đẩy lùi các nguy cơ trong những năm tới. Tác động kết hợp của các nguy cơ bao gồm đói nghèo, không ổn định về tài chính, và biến đổi khí hậu cần được giải quyết bằng các chiến lược thích ứng một cách có hiệu quả đảm bảo được sự an toàn và tối ưu được sự khả năng chống chịu đối với các tác động không lường trước được trong tương lai. WWF tin tưởng rằng, các khuyến nghị dưới đây, nếu được thực hiện một cách có hiệu quả sẽ duy trì được hoặc cải thiện được khả năng thích ứng của vùng. THỐNG NHẤT VỀ THÍCH ỨNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÙNG Nhiệm vụ đầu tiên để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu đối với các chính phủ trong khu vực Greater Mê-Kông là đi đến một thống nhất chung về thích ứng. Thống nhất này có tác dụng là khung chung cho các khuyến nghị bên dưới được triển khai thực hiện. Sự phát triển của khu vực Greater Mê-Kông đã được trả giá bằng sự khai thác tài nguyên thiên nhiên phong phú của vùng. Các thành tựu đạt được về xóa đói và phát triển kinh tế trong vùng đang bị đe dọa bởi sự biến đổi khí hậu. Vì vậy, một cơ chế mang tính vùng làm cơ sở cho các hoạt động chung về thích ứng với biến đổi khí hậu là một ưu tiên đối với các chính phủ trong vùng. Một thỏa thuận như vậy cần tập trung vào các ưu tiên hiện tại về bảo tồn thiên nhiên và phát triển bằng cách tích hợp các yếu tố về thích ứng với biến đổi khí hậu vào các kế hoạch phát triển và quá trình thực thi các kế hoạch này. .

Thỏa thuận này sẽ là một cơ sở cho các giải pháp quản lý công bằng liên biên giới nơi các bên liên quan cùng chia sẽ các nguồn tài nguyên và các khu vực bảo tồn chung. Trong trường hợp xảy ra các mâu thuẩn xuyên biên giới, thỏa thuẩn này sẽ là cơ sở mang tính vùng để các bên cùng thảo luận và tìm giải pháp. Thêm vào đó, thỏa thuận này sẽ cho phép các biện pháp thích ứng có thể được nhân lên qui mô vùng, trong đó các biện pháp thích ứng của một quốc gia bổ sung, không mâu thuẫn, đối với các lựa chọn biện pháp thích ứng của các quốc gia lân cận khác. Sự hợp tác chính trị vùng này sẽ tăng cường thêm sự tự tin của các nhà đầu tư nhằm đảm bảo được sự an toàn về mặt tài chính cho hoạt động thích ứng với biển đổi khí hậu, đảm bảo các cơ chế phân bổ nguồn tài chính một cách chặt chẽ, có hiệu quả, và công bằng.

Page 25: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

TĂNG CƯỜNG CẤU TRÚC QUẢN LÝ VÀ ĐẢM BẢO SỰ THAM GIA CỦA CÁC BÊN LIÊN QUAN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Các cấu trúc quản lý hiện tại trong khu vực Greater Mê-Kông cần được tăng cường để đảm bảo các hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề biến đổi khí hậu sẽ được thiết kế và quản lý một cách hiệu quả với sự phối của các bên. Các kế hoạch thích ứng không thể thực hiện một cách độc lập theo từng ngành. Nhiệm vụ thích ứng với biến đổi khí hậu phải được tích hợp vào quá trình lập kế hoạch phát triển và bảo tồn. Nếu các công việc liên quan đến thích ứng biến đổi khí hậu không được giải quyết một cách hợp tác thì các biện pháp tạo ra có thể chỉ giải quyết được một vấn đề trong khi có thể làm cho vấn đề khác trở nên không thích ứng. Sự phối hợp là cần thiết. Cần thiết phải thiết kế các kế hoạch một cách hợp tác nhằm đảm bảo rằng các cấu trúc quản lý có thể hỗ trợ, thực thi và giám sát kế hoạch. Hơn nữa, việc lập kế hoạch giải quyết các vấn đề biển đổi khí hậu, cả thích ứng và giảm thiểu, cần đến sự hiểu biết của các nhà lãnh đạo và các nhà triển khai hiện tại và trong tương lai. Các cơ chế phải được tạo ra nhằm tạo điều kiện cho các đào tạo xây dựng năng lực về biến đổi khí hậu cùng với tiến trình quyết định làm sao có thể tích hợp các giải pháp về biến đổi khí hậu vào trong tất cả các bước và các cấp của quá trình lập kế hoạch. Sự phối hợp giữa các biên liên trong quản lý các hoạt động giải quyết vấn đề về biến đổi khí hậu là rất quan. Nhiều nhà hoạt động đã bắt đầu tham gia vào tiến trình tìm giải pháp giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu trong vùng. Các hoạt động của họ bao gồm các nghiên cứu, các hoạt động nhằm đến quá trình thích ứng hay giảm thiểu tác động của biển đổi khí hậu, các nghiên cứu thí điểm, xây dựng năng lực và nhiều hoạt động khác.

Sử dụng một tiến trình gồm nhiều bên tham gia, qua nhiều cấp quyết định với sự tham gia của cộng đồng người dân địa phương trong qua trình ra quyết định có thể đảm bảo được tính hiệu quả của các giải pháp cho các hệ thống xã hội và sinh thái trong khu vực Greater Mê-Kông. Kiến thức bản địa sẽ giúp tạo ra sự đổi mới và tính hiệu quả cho các chiến lược thích ứng và giảm được tác động của các yếu tố địa phương lên các hệ sinh thái duyên hải, nước ngọt và các hệ sinh thái trên đất làm cho chúng có đủ khả năng tồn tại trong điều kiện tác động của biến đổi khí hậu. Các chính phủ của các quốc gia trong vùng cùng với các nhà tài trợ, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức quốc tế khác cần phải cùng nhau xây dựng một tiến trình hợp tác các bên liên quan và chia sẽ thông tin. HÀNH ĐỘNG NGAY BÂY GIỜ ĐỂ TẬN DỤNG KIẾN THỨC BẢN ĐỊA ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Đã có nhiều báo cáo và tài liệu góp phần tăng thêm thêm sự hiểu biết về biến đổi khí hậu trong khu vực Greater Mê-Kông. Các tài liệu này dù không thể khẳng định là hoàn chỉnh, kiến thức về vấn đề biển đối khí hậu trong khu vực này đã khá nhiều. Các thông tin này sẽ là cơ sở cho các hoạt động giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu trong khu vực, cùng với việc cải thiện các cấu trúc quản lý nhằm xây dựng khung quản lý thích ứng với biến đổi khí hậu cho phép tích hợp các thay đổi khi kiến thức mới được cập nhật. Ngoài các cấu trúc quản lý, có rất nhiều các sáng kiến cấp quốc gia và vùng để thảo luận về các kiến thức hiện có và kiến thức mới như các nền kiến thức của UNEP/SENSA/SEI về biến đổi khí hậu,

Sáng kiến về biến đổi khí hậu ủy ban sông Mê-Kông, mạng lưới quản lý M-POWER, Trung tâm Đông Nam Á về phân tích, nghiên cứu và đào tạo về hệ thống biển đổi toàn cầu (SEA START RC), Viện DRAGON, và nhiều cơ quan khác. Các diễn đàn kiến thức này có thể giúp cho các nhà quản lý tài nguyên cải thiện các hệ thống giám sát của họ góp phần làm cho quá trình hiểu biết về biến đổi khí hậu tại vùng Greater Mê-Kông ngày một chính xác hơn.

Page 26: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

CÁC TIẾP CẬN CHÚ TRỌNG ĐẾN GIẢI PHÁP THÍCH ỨNG CỦA HỆ SINH THÁI CÓ THỂ DUY TRÌ ĐƯỢC SỰ CHỐNG CHỊU CỦA VÙNG ĐỐI VỚI SỰ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Các phương pháp thích ứng nên chú trọng đến việc duy trì hoặc khôi phục lại các hệ sinh thái đa dạng của khu vực Greater Mê-Kông. Sức khỏe của các hệ sinh thái này và những dịch vụ sinh thái mà các hệ sinh thái này cung cấp là chìa khóa cho một phương pháp tiếp cận hiệu quả và ít tốn kém, mang lại lợi ích cho đại bộ phận nhân dân sống trong khu vực. Các phương pháp tiếp cận thích ứng trên cơ sở hệ sinh thái có thể bảo tồn sự đa dạng sinh học có thể cô lập được Carbon đồng thời có thể giảm được nguy cơ của cộng động dân cư trong khu vực về sinh kế của họ trước tác động của biến đổi khí hậu đã được khởi động. Các phương pháp tiếp cận thích ứng hệ sinh thái như vậy cần được đưa vào một cách sâu sắc hơn trong các tiến trình lập kế hoạch của các quốc gia và các chiên lược kể cả NAPAs (Các chương trình hành động thích ứng quốc gia). Các phương pháp tiếp cận thích ứng hệ sinh thái đối với vấn đề biến đổi khí hậu có thể làm tăng khả năng chống chịu của các hệ sinh thái đối với các tác động trên cơ sở các phương pháp thực hành hiện có và kiến thức bản địa. Điều này có thể tạo ra các giải pháp dài hạn khả thi hơn các giải pháp công trình phụ thuộc rất nhiều vào năng lực công nghệ, bảo trì hệ thống và các hạ tầng cơ sở vĩ mô. Các phương pháp tiếp cận thích ứng hệ sinh thái cũng bảo vệ được các lựa chọn cho sự phát triển trong tương lai trong khi đó các giải pháp công trình có thể không bảo tồn được những lựa chọn cho sự phát trển trong tương lai nếu chúng làm suy giảm các hệ sinh thái hay chuyển hướng các tác động đến các khu vực địa lý khác.

KẾT HỢP GIẢM THIỂU TÁC ĐỘNG VÀO CÁC CHIẾN LƯỢC THÍCH ỨNG Giảm thiểu đề cập đến các nổ lực làm giảm phát thải các khí nhà kính và cải thiện các nơi lưu giữ khí nhà kính. Trồng rừng, phục hồi rừng hấp thu và lưu giữ carbon trong sản xuất năng lượng và các quá trình công nghiệp là những ví dụ về các chiến lược lưu giữ carbon. Bảo tồn năng lượng và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo là các ví dụ về giảm khí nhà kính. Mặc dù khu vực Greater Mê-Kông là khu vực phát triển khá nhanh, ta vẫn còn cơ hội để có thể thực hiện các biện pháp giảm thiểu này. Tuy nhiên, điều này không nên được xem xét một cách tách biệt khỏi các chiến lược thích ứng. Trên thực tế, quản lý và bảo vệ rừng là những chiến lược giảm thiểu và cũng là một cách tiếp cận thích ứng hệ sinh thái có thể duy trì được sức chịu đựng của vùng đối với sự biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu là một triệu chứng của phát triển không bền vững, giống như động cơ của sự thay đổi. Nếu giảm phát thải khí nhà kính do mất rừng (REDD) được chương trình khung về biến đổi khí hậu Liên hợp quốc (UNFCCC) chập nhận, sẽ có những cơ hội cho vùng thực hiện việc tích hợp các giải pháp thích ứng và giảm thiểu.

Page 27: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

ĐẢM BẢO NGUỒN LỰC CHO CÁC GIẢI PHÁP THÍCH ỨNG Khu vực Greater Mê-Kông cần được nâng cao năng lực về mặt thể chế để sử dụng tốt hơn các nguồn tài chính hiện có để đối ứng tốt với các tài trợ tiềm năng và các đầu tư bên ngoài. Các tài trợ hiện có cung cấp các hố trợ ban đầu và là chất xúc tác cho các tìm kiếm tài trợ phối hợp. Khu vực Mê-Kông chưa tận dụng được hết các nguồn tài trợ này, lấy thí dụ sự hiện diện của vùng trong thị trường carbon toàn cầu là vẫn còn hạn chế. Các cam kết mang tính địa phương và toàn cầu cần được thực hiện và đây là những ưu tiên hàng đầu tại Cô-pen ha-gen vào tháng 12 năm 2009 . “Là một quốc gia thải một lượng khá khiêm tốn khí nhà kính vào khí quyển, tuy nhiên chúng ta cam kết thể hiện vai trò của mình

trong nổ lực của toàn thế giới đối với vấn đề biến đổi khí hậu” Ts Thongloun Sisoulith, Phó

thủ tướng CHND Lào, Bộ trưởng bộ ngoại giao, trích dẫn từ Vientiane Times 24/9/09.

Ngoài các hoạt động nói trên nhằm tăng cường khả năng chống chịu của vùng, WWF kêu gọi các quốc gia trong khu vực Greater Mê-kông cùng nhau xây dựng thống nhất chung để làm chậm lại và giảm phạm vi ảnh hưởng của tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu. Giới hạn sự ấm lên toàn cầu trong khoảng 2˚C trên nhiệt độ tiền công nghiệp vào năm 2100 sẽ tránh được những tác động đáng tiếc nhất của biến đổi khí hậu.

Mục tiêu này đòi hỏi phải có những cắt bỏ triệt để các phát thải khí nhà kính trên qui mô toàn cầu. Vào năm 2020, lượng phát thải khí nhà kính phải thấp hơn 30-40% so với dữ liệu của năm 1990. Vào năm 2050 con số này phải thấp hơn đến 80% so với mức năm 1990. Để đạt được các mục tiêu này, WWF và cộng đồng các biên liên quan kêu gọi các quốc gia phát triển cắt giảm 40% lượng khí nhà kính so với mức năm 1990 và các nước đang phát triển cắt giảm 30% từ mức hiện đến năm 2020. Các mục tiêu này có thể đạt được bằng những phương cách lãnh đạo mạnh mẽ, sự tham gia của tất cả các nước, với nội dung khẩn cấp như được truyền tải trong báo cáo này.

Page 28: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

ADB. 2008. GMS: Climate Makers or Climate Takers? Understanding and Responding to the Challenges of Climate Change. Background Paper.

GMS Development Dialogue. 21 May.

ADB. 2009. The Economics of Climate Change in Southeast Asia: A Regional Review. Manila.

Aerts, J., H. Renssen, P. J. Ward, H. de Moel, E. Odada, L. M. Bouwer, and H. Goosse. 2006. Sensitivity of global river discharges under

Holocene and

future climate conditions. Geophysical Research Letters 33.

Allison, E.H., A.L. Perry, M-C. Badjeck, W.N. Adger, K. Brown, D. Conway, A.S. Halls, G.M. Pilling, J.D. Reynolds, N.L. Andrew and N.K. Dulvy.

2009.

Vulnerability of national economies to the impacts of climate change on fsheries. Fish and Fisheries. Blackwell Publishing Ltd. DOI: 10.1111/j.

1467-2979.2008.00310.x.

Baltzer, M.C., T.D. Nguyen, and R.G. Shore (eds). 2001. Towarads a vision for biodiversity conservation in the forests of the Lower Mekong

Ecoregion

Complex. WWF Indochina/WWF US, Hanoi and Washington, DC.

Bates, B.C., Z.W. Kundzewicz, S. Wu and J.P. Palutikof, Eds. 2008. Climate Change and Water. Technical Paper of the Intergovernmental Panel

on Climate

Change, IPCC Secretariat, Geneva, 210 pp.

Bradshaw, W.E. and C.M. Holzapfel. 2006. Evolutionary response to rapid climate change. Science 312: 1477 - 1478

Campbell, K.M., J. Gulledge, J.R. McNeill, J. Podesta, P. Ogden, l. Fuerth, R. J. Woolsey, A.T.J. lennon, J. Smith, R. Weitz, and D. Mix. 2007.

The Age of

Consequences. Center for Strategic International Studies and Center for a New American Security.

Carew-Reid, Jeremy, 2007, Rapid Assessment of the Extent and Impact of Sea Level Rise in Viet Nam, Climate Change Discussion Paper 1,

ICEM –

International Centre for Environmental Management, Brisbane, Australia

Chaudhry P. and Greet Ruysschaert. 2007. Climate Change and Human Development in Vietnam. Human Development Report 2007/2008:

Fighting climate

Page 29: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

change: Human solidarity in a divided world. 2007/46.

Chinvanno, S., S. Souvannalath, B. Lersupavithnapa, V. Kerdsuk, T. Nguyen. 2008. Strategies for managing climate risks in the Lower Mekong

River Basin:

a place-based approach. Pages 228-246 in N. Leary, J. Adejuwon, V. Barros, I. Burton, J. Kulkarni, and R. Lasco (Eds.) Climate Change and

Adaptation. Earthscan, London.

Cornford, J. and Matthews, N. 2007. Hidden Costs: The underside of economic transformation in the Greater Mekong Subregion. Australia:

Oxfam Australia.

Dasgupta, S., B. Laplante, C. Meisner, D. Wheeler, and J. Yan. 2007. The impact of sea level rise on developing countries: a comparative

analysis. World

Bank Policy Research Working Paper 4136.

De Silva, S., and D. Soto. 2009. Climate Change and Aquaculture: Potential Impacts, Adaptation and Mitigation. Technical Paper 530, Food and

Agriculture

Organization, Rome.

Eastham, J., F. Mpelasoka, M. Mainuddin, C. Ticehurst, P. Dyce, G. Hodgson, R. Ali and M. Kirby. 2008. Mekong River Basin Water Resources

Assessment:

Impacts of Climate Change. CSIRO: Water for a Healthy Country National Research Flagship.

Griffths, G. M., L. E. Chambers, M. R. Haylock, M. J. Manton, N. Nicholls, H. J. Baek, Y. Choi, P. M. Della-Marta, A. Gosai, N. Iga, R. Lata, V.

Laurent,

L. Maitrepierre, H. Nakamigawa, N. Ouprasitwong, D. Solofa, L. Tahani, D. T. Thuy, L. Tibig, B. Trewin, K. Vediapan, and P. Zhai. 2005. Change

in mean temperature as a predictor of extreme temperature change in the Asia-Pacifc region. International Journal of Climatology 25:1301-1330.

Hoanh, C.T., H. Guttman, P. Droogers and J. Aerts. 2004. Will we produce suffcient food under climate change? Mekong Basin (South-east Asia).

Climate

Change in Contrasting River Basins: Adaptation Strategies for Water, Food, and Environment, Aerts, J.C. J.H. Aerts and P. Droogers, Eds.,

CABI

Publishing, Wallingford, 157–180.

Page 30: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

IPCC. 2007. Climate Change 2007. Impacts, Adaptation and Vulnerability. M.L. Parry, O.F. Canziani, J. P. Palutikof, P.J. van der Linden and C.E.

Hanson, eds. Contribution of Working Group II to the Fourth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change. Cambridge:

Cambridge University Press.

ISET-International and ISET-Nepal. 2008. Climate Adaptation in Asia: Knowledge Gaps and Research Issues in China. The Full Report of the

China Team.

Joint DFID-IDRC regional consultation to assess regional priorities, capabilities and research gaps on climate change and poverty reduction in

Asia. Format Printing Press, Kathmandu, Nepal.

IUCN, IWMI, RAMSAR and WRI. 2003. Watersheds of the World: Global Maps; Freshwater Fish Species Richness by Basin.

Jacobs, J. W. 1996. Adjusting to climate change in the Lower Mekong. Global Environmental Change-Human and Policy Dimensions 6:7-22.

Keskinen, M. 2008. Water resources development and impact assessment in the Mekong Basin: Which way to go? Ambio 37:193-198.

Kummu, M., D. Penny, J. Sarkkula and J. Koponen. 2008 Sediment: curse or blessing for Tonle Sap Lake? Ambio 37: 158-163.

Lamberts, D. and J. Koponen. 2008. Flood pulse alterations and productivity of the Tonle Sap Ecosystem: a model for impact assessment.

Ambio 37: 178-184.

Malcolm, J.R. C. Liu, R.P. Neilson, L. Hansen, and L. Hannah 2006. Global warming and extinctions of endemic species from biodiversity

hotspots.

Conservation Biology 20: 538-548.

Manton, M. J., P. M. Della-Marta, M. R. Haylock, K. J. Hennessy, N. Nicholls, L. E. Chambers, D. A. Collins, G. Daw, A. Finet, D. Gunawan, K.

Inape,

H. Isobe, T. S. Kestin, P. Lefale, C. H. Leyu, T. Lwin, L. Maitrepierre, N. Ouprasitwong, C. M. Page, J. Pahalad, N. Plummer, M. J. Salinger,

R. Suppiah, V. L. Tran, B. Trewin, I. Tibig, and D. Yee. 2001. Trends in extreme daily rainfall and temperature in Southeast Asia and the South

Pacifc: 1961-1998. International Journal of Climatology 21:269-284.

Niemnil, S., Naeiji, M., Trisirisatayawong, I. 2008. Sea level trend in Gulf of Thailand using satellite altimetry data. Proceedings. Conference on

Climate Change impacts on oceans.

Page 31: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Ohlemuller, R., B.J. Anderson, M.B. Araujo, S.H.M. Butchart, O. Kudrna, R.S. Ridgely, and C.D. Thomas. 2008. The coincidence of climatic and

species

rarity: high risk to small-range species from climate change. Biology Letters, published online doi: 10.1098.

Oxfam International. 2008. Vietnam: Climate Change, Adaptation and Poor People. Oxfam Publishing. www.oxfam.org.uk/pulications.

Penny, D. 2008. The Mekong at climatic crossroads: Lessons from the geological past. Ambio 37:164-169.

Reuters. 2009. Mekong Delta may be inundated by rising sea-study. 20 August.

Rundell, P.W. 1999. Forest habitats and fora in Lao PDR, Cambodia, and Vietnam. WWF Indonchina Desk Study, Hanoi.

Ryvitski, J.P.M, A.J. Kettner, I. Overeem, E.W.H. Hutton, M.T.Hannon, G.R. Brakenridge, J. Day, C. Vörösmarty, Y. Saito, L. Giosan, and R.J.

Nicholls.

2009. Sinking deltas due to human activities. Nature Geosciences. Published online: 20 September 2009, doi: 10.1038/ngeo629.

Sivakumar, M. V. K., H. P. Das, and O. Brunini. 2005. Impacts of present and future climate variability and change on agriculture and forestry in

the arid and

semi-arid tropics. Climatic Change 70: 31–72

Stern, N. 2007. The Economics of Climate Change: The Stern Review. Cambridge: Cambridge University Press.

Stork, N.E., J. Balston, G.D. Farquhar, P.J. Franks, J.A.M. Holtum, and M.J. Liddell. 2007. Tropical rainforest canopies and climate change

Austral Ecology

32: 105–112.

TKK & SEA START RC. 2009. Water and Climate Change in the Lower Mekong Basin: Diagnosis and recommendations for adaptation. Water

and

Development Research Group, Helsinki University of Technology (TKK), and Southeast Asia START Regional Center (SEA START RC),

Chulalongkorn University. Water & Development Publications, Helsinki University of Technology, Espoo, Finland.

Trisurat, Y., Alkemade, R., and Arets, E. 2009. Projecting forest tree distributions and adaptation to climate change in northern Thailand. Journal

of Ecology

and Natural Environment. Vol 1 (3). Pp. 055-063.

UNEP. 2009. Ecofacts: Climate Change in Bangkok.

Page 32: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Warner, K., Ehrhart, C., de Sherbinin, A., Adamo, S.B., Onn, T.C. (2009) “In search of Shelter: Mapping the effects of climate change on human

migration

and displacement.” A policy paper prepared for the 2009 Climate Negotiations. Bonn, Germany: United Nations University, CARE, and CIESIN-

Columbia University and in close collaboration with the European Commission “Environmental Change and Forced Migration Scenarios Project”,

the UNHCR, and the World Bank.

Wassmann, R., N. X. Hien, C. T. Hoanh, and T. P. Tuong. 2004. “Sea Level Rise Affecting the Vietnamese Mekong Delta: Water Elevation in the

Flood

Season and Implications for Rice Production.” Climatic Change 66:89–107.

Wilkes, A. 2008. Towards Mainstreaming Climate Change in Grassland Management Policies and Practices on the Tibetan Plateau. WP number

67. Beijing,

China. World Agroforestry Centre-ICRAF China. 43pp.

Williams, J.W., S.T. Jackson, and J.E. Kutzbach, 2007: Projected distributions of novel and disappearing climates by 2100 AD. Proceedings of the

National

Academy of Sciences of the United States of America 104: 5738-5742.

World Bank. 2009. World Development Report 2010: Development in a Changing Climate. Washington, D.C.

WorldFish Center. 2008. Don’t let fsh slip through the climate change net. http://www.worldfshcenter.org.

World Water Assessment Programme 2009. The United Nations World Water Development Report 3: Water in a Changing World. Paris:

UNESCO, and

London: Earthscan.

WWF. 2008a. Prospects and drivers for agricultural change in the Mekong region: The case of sugar, rice and rubber. Vientiane, Lao PDR.

WWF. 2008b. Cracking the Climate Nut at COP 14: WWF Position Paper for the UNFCCC Climate Change Conference in Poznan, Poland.

December.

WWF. 2009. First Contact in the Greater Mekong: New Species Discoveries. Hanoi, Vietnam.

WWF and SEA START RC. 2008. Climate change impacts in Krabi province: A study of environmental, social, and economic challenges.

Bangkok,

Page 33: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Thailand.

WWF Australia and the University of Queensland. 2009. The Coral Triangle and Climate Change: Ecosystems, People and Societies at Risk.

Xu, J. 2008. The highlands: a shared water tower in a changing climate and changing Asia. WP number 64. Beijing, China, World Agroforestry

Centre – ICRAF China. 53p.

Yusuf, A.A. and Francisco, H.A. 2009. Climate Change Vulnerability Mapping for Southeast Asia. Economy and Environment Program for

Southeast Asia

(EEPSEA). Singapore.

Page 34: BI ẾN ĐỔI KHÍ H ẬU Ở KHU V ỰC MÊ KÔNGd2ouvy59p0dg6k.cloudfront.net/downloads/climate_change...Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN