ĐẶc ĐiỂm ngỮ nghĨa cỦa phẦn phỤ chÚ trong...
TRANSCRIPT
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Đặng Thị Kim Phượng
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA PHẦN PHỤ CHÚ
TRONG CÂU TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CẢM ƠN
Em xin kính gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến
PGS.TS Dư Ngọc Ngân – người đã hết lòng động viên, dẫn dắt
trong quá trình thực hiện đề tài.
Em trân trọng cảm ơn quý thầy cô đã truyền đạt kiến thức
cùng những kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian qua.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội
đồng, gia đình, nhà trường và bạn bè đã ủng hộ và tạo mọi điều
kiện học tập, nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn và trân trọng kính chào.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09/12/2009
Tác giả
Đặng Thị Kim Phượng
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
1.1. Lí do chọn đề tài
Phần phụ chú là một vấn đề ngữ pháp thuộc thành phần câu. Về mặt
ngữ pháp, phần phụ chú là một thành phần biệt lập, nằm ngoài cấu trúc cú
pháp của câu. Tuy nhiên xét về mặt ý nghĩa trong câu, phần phụ chú lại có
quan hệ nội hướng, nó dùng để chú giải thêm một khía cạnh nào đó có liên
quan đến sự tình nêu trong câu, giúp người nghe, người đọc hiểu rõ hơn về
nội dung của câu hay dụng ý của người chú giải.
Vấn đề phân định thành phần câu nói chung là một vấn đề không đơn
giản, nhất là khi nó vượt ra ngoài hai thành phần chính của câu là chủ ngữ và
vị ngữ. Vì vậy phần phụ chú, với tư cách là một “thành phần phụ”,“thứ yếu”,
“biệt lập”, được nhìn nhận rất khác nhau ở nhiều nhà nghiên cứu. Nhìn chung
có hai cách hiểu về phần phụ chú:
Cách thứ nhất cho đó là thành phần phụ nằm trong câu được dùng để
giải thích hay bổ sung ý nghĩa cho thành phần câu đứng trước nó và có cùng
chức năng ngữ pháp với bộ phận được chú thích (Hoàng Trọng Phiến).
Cách thứ hai cho rằng đây là thành phần có thể cùng chức năng hoặc
không đồng chức năng với bộ phận ngữ pháp được nó chú giải bởi nó không
chỉ là thành phần phụ giải thích cho một thành phần hay một bộ phận nào đó
của câu mà nó còn được dùng để giải thích, bổ sung một điều cần chú thích
cho toàn câu.
Ngoài ra, phần phụ chú trong câu tiếng Việt, mặc dù là một vấn đề ngữ
pháp đã xuất hiện từ lâu nhưng ít được các nhà nghiên cứu quan tâm. Chính
vì vậy, khi bàn về vấn đề này, các tác giả cũng chỉ mới đưa ra khái niệm, nêu
quan hệ nghĩa chung của phần phụ chú với phần câu còn lại, chưa bao quát
được vấn đề. Có thể nói rằng, cho đến nay việc nghiên cứu về phần phụ chú
trong câu tiếng Việt vẫn chưa được quan tâm đúng mức, vẫn còn có rất ít
công trình nghiên cứu đi sâu vào vấn đề này (ngoài công trình nghiên cứu của
Đào Thị Vân). Trong khi đó, về nguyên tắc, có thể tìm hiểu phụ chú ở nhiều
phương diện nghĩa như: nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái,… để làm rõ vai trò,
tác dụng của phụ chú trong câu, văn bản.
Vì tính đa dạng, phức tạp trong cách nhìn nhận vấn đề và sự cần thiết
khai thác đề tài nên chúng tôi nhận thấy đây là một vấn đề lí thú, một mảng
nghiên cứu giàu tiềm năng. Trong luận văn này, chúng tôi muốn đi tìm hiểu
sâu hơn về Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt, hy
vọng sẽ có thêm những đóng góp cho loại thành phần câu này.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu của người đi trước, luận
văn sẽ khảo sát đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trên một số loại văn
bản như văn bản nghệ thuật, văn bản khoa học, văn bản chính luận và văn bản
báo chí.
Hướng đi của chúng tôi là tập hợp các câu có phần phụ chú trong một
số văn bản thuộc những phong cách ngôn ngữ khác nhau để khảo sát và khái
quát hoá các đặc trưng về chức năng ngữ nghĩa của phụ chú trong khung câu.
Từ đó có thể có được cách nhìn nhận đầy đủ hơn về vai trò, tác dụng của phần
phụ chú trong câu và trong văn bản tiếng Việt.
Về mặt lý luận, luận văn hy vọng góp phần làm rõ thêm về khái niệm,
cách nhận diện phần phụ chú và đặc biệt là làm rõ những đặc điểm về ngữ
nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng của phần phụ chú trong câu tiếng
Việt. Đó là những vấn đề đã được đề cập đến nhưng chưa được quan tâm
đúng mức và chưa được lí giải đầy đủ.
Về mặt thực tiễn, xuất phát từ thực tế viết câu của học sinh, có thể cung
cấp cho các em một số kĩ năng để phát hiện, sửa lỗi câu, cải biến câu… làm
cho nghĩa của câu không chỉ chính xác mà còn phong phú, đa dạng hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Phần phụ chú là một vấn đề đã được các nhà nghiên cứu ngữ pháp trên
thế giới cũng như ở Việt Nam quan tâm từ lâu.
2.1. Việc nghiên cứu phần phụ chú trên thế giới
Theo một số tài liệu mà chúng tôi có được, từ đầu thế kỉ XX, các nhà
ngôn ngữ học thế giới đã đề cập đến phần phụ chú với hai tên gọi là cú giải
thích (comment clause) và phần trong ngoặc (parenthesis). Cách gọi “trong
ngoặc” là cách gọi hình ảnh, không nhất thiết phải đặt trong ngoặc đơn.
Đến năm 1985, R.Quirk, S.Greenbaum, G.Leech, J.Svartvik trong công
trình “A Comprehensive Grammar of the English Language” đánh dấu bước
chuyển mới trong việc nghiên cứu phần phụ chú: cú giải thích được coi là
“phần biệt lập kiểu trong ngoặc” (Comment clause are parenthetical
disjuncts). Chúng có thể xuất hiện ở đầu hoặc ở cuối hoặc giữa câu, và bởi thế
nói chung mang một âm điệu tách rời [61: 106-107].
Năm 1995, Asher R.E trong “The Encyclopedia of language and
linguistics” cho rằng phần trong ngoặc “là một phần chêm có tính chất mở
rộng trong một văn bản, loại như I saw him – John that is – yesterday” (tôi đã
gặp hắn – cái anh chàng John ấy mà – hôm qua).
2.2. Việc nghiên cứu phần phụ chú ở Việt Nam
Ở nước ta, một trong những tài liệu đầu tiên bàn về vấn đề liên quan
đến phụ chú có lẽ là “Việt Nam văn phạm” của các tác giả Trần Trọng Kim,
Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm (in lần thứ tư, tủ sách giáo khoa Tân Việt, không đề
năm in). Trong quyển sách này, tuy không nhắc đến phụ chú nhưng khi bàn
về dấu câu, các tác giả viết như sau: “Dấu ngoặc đơn [( )]dùng để phân những
tiếng có nghĩa riêng ở giữa câu và để giải thích cái nghĩa cả câu” [31:36]
Từ những năm 60 của thế kỉ XX, giới nghiên cứu Việt ngữ học đã đề
cập đến phụ chú trong tiếng Việt.
Năm 1963, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê dùng khái niệm giải
từ (tức phụ chú) để chỉ hiện tượng ngữ pháp này. Các tác giả đã phân biệt giải
từ của bậc cụm từ (ông gọi là “từ kết”) với giải từ bậc câu.
Bàn về phần phụ chú, tác giả Nguyễn Kim Thản trong “Nghiên cứu về
ngữ pháp tiếng Việt”, tập II (1964) dùng hai tên gọi đồng vị ngữ và phụ chú
ngữ . Ở đây ông đã xem xét hai khái niệm này với tư cách là thành phần biệt
lập (hoặc còn gọi là thành phần thứ yếu biệt lập). Tuy nhiên đến 1997, trong
cuốn “Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt”, ông đã dùng một thuật ngữ khác để gọi tên
hiện tượng ngữ pháp này: gia ngữ, ông cho rằng gia ngữ là một thành phần
phụ bên cạnh những thành phần khác như trạng ngữ, khởi ngữ, hô ngữ.
Đến năm 1980, Hoàng Trọng Phiến, trong công trình nghiên cứu “Ngữ
pháp tiếng Việt, câu”, đã nhắc đến hiện tượng ngữ pháp này với thuật ngữ
đồng vị ngữ.
Cùng năm ấy, Hữu Quỳnh trong “Ngữ pháp tiếng Việt hiện đại” đã đề
cập đến phần phụ chú với tên gọi thành phần xen. Cách hiểu về thành phần
xen của tác giả Hữu Quỳnh có quan niệm rộng hơn so với tác giả Hoàng
Trọng Phiến về hiện tượng ngữ pháp này.
Theo quan niệm của các tác giả của cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt”- Uỷ
ban Khoa học xã hội Việt Nam (1983), thành phần phụ chú là “thành phần bổ
sung một điều chú thích kịp thời hoặc cho cả nòng cốt câu hoặc cho một yếu
tố thuộc bậc cấu tạo thành phần trước đó [49: 43,191].
Như vậy, cách hiểu của Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam có phần gần
gũi với các tác giả Trương Văn Chình – Nguyễn Hiến Lê, Hữu Quỳnh.
Cũng trong năm 1983, Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng
Văn Thung trong quyển “Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt”, tập II, đã nhắc đến
hiện tượng ngữ pháp này với tên gọi thành phần biệt lập (biệt lập ngữ). Theo
quan niệm của các tác giả này, thành phần biệt lập là một bộ phận “không cấu
tạo nên nòng cốt câu”, không bổ sung ý nghĩa cho câu, không có quan hệ về ý
nghĩa và về ngữ pháp với câu” [8: 204].
Tác giả Diệp Quang Ban trong “Câu đơn tiếng Việt” (1987) đã phân
biệt giải ngữ của câu với giải ngữ của từ. “Giải ngữ của câu thường đứng
giữa chủ ngữ và vị ngữ hoặc đứng sau nòng cốt câu, cũng có kiểu có thể đứng
trước nòng cốt câu. Còn giải ngữ của từ được coi là phần phụ của từ “được
dùng để thuyết minh thêm nội dung hay giải thích thêm một khía cạnh nào đó
của từ mà nó phụ thuộc về nghĩa. Theo ông điểm chung của hai thành phần
này là “tuy biệt lập về mặt ngữ pháp (không có quan hệ về mặt ngữ pháp) với
các yếu tố khác trong câu một cách hiển nhiên nhưng về mặt ý nghĩa lại giải
thích cho toàn câu, hoặc một yếu tố nào đó trong câu, tức là có quan hệ nội
hướng”.
Trong một công trình khác [5], Diệp Quang Ban cho rằng phần phụ chú
là một bộ phận có tính chất trung gian. Theo ông, có những trường hợp phần
phụ chú nằm trong cấu trúc cú pháp của câu một cách rõ rệt. Nhưng trong
không ít trường hợp khác, ông cũng thừa nhận rằng phần phụ chú nằm ngoài
cấu trúc cú pháp của câu chứa nó.
Sau đó, Hồ Lê trong “Cú pháp tiếng Việt” quyển II (1992) gọi thành
phần này là phụ chú ngữ. Quan điểm của ông gần với quan điểm của Nguyễn
Kim Thản. Ông đề nghị gọi đồng vị ngữ của Nguyễn Kim Thản là đồng danh
ngữ và phụ chú ngữ của Nguyễn Kim Thản là đoạn chú thích. Ngoài ra, tác
giả Hồ Lê cũng nêu những điều kiện khống chế để thiết lập hai kiểu nhỏ phụ
chú này.
Điểm chung giữa các tác giả Nguyễn Kim Thản, Diệp Quang Ban, Hồ
Lê, Lê Cận, Phan Thiều, Hoàng Văn Thung là đều coi phụ chú là thành phần
biệt lập, mặc dù cách diễn đạt có phần khác. Mặc dù vậy, quan niệm về phần
phụ chú vẫn còn có những điểm khác biệt, chưa thống nhất ở nhiều nhà
nghiên cứu, thậm chí chúng ta cũng có thể thấy những quan niệm khác nhau ở
cùng một nhà nghiên cứu.
Gần đây nhất, Đào Thị Vân trong công trình nghiên cứu về “phần phụ
chú trong câu tiếng Việt” (2003) đã xem xét phần phụ chú ở các phương diện:
phương diện cấu tạo hình thức, phương diện hành động nói, phương diện
quan hệ nghĩa với phần văn bản hữu quan . Tuy vậy, ở mảng đề tài này, chúng
tôi nhận thấy có thể khai thác sâu hơn nữa về mặt ngữ nghĩa biểu hiện và ngữ
nghĩa ngữ dụng để làm rõ hơn nữa vai trò, tác dụng của phần phụ chú trong
câu tiếng Việt.
3. Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn này có những nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Xem xét một số ý kiến tiêu biểu về phụ chú nói chung và phụ chú trong
tiếng Việt nói riêng, vận dụng chúng vào việc nhận diện phụ chú, đồng thời
xác lập một cách nhìn về phụ chú trong câu tiếng Việt.
- Xem xét vai trò của phần phụ chú trong khung câu ở hai bình diện: ngữ
nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng. Cụ thể, xem xét phần phụ chú trong
khung câu ở các phương diện: nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái và các hành
động nói.
- Đối chiếu tần số sử dụng của các kiểu phụ chú trên bốn loại văn bản:
văn bản nghệ thuật, văn bản khoa học, văn bản hành chính và văn bản báo
chí. Từ đó luận văn khái quát hóa đặc điểm và cách thức sử dụng của phần
phụ chú trong câu, văn bản tiếng Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, trong quá trình nghiên cứu, ngoài những
phương pháp, thủ pháp nghiên cứu khoa học chung như: thu thập ngữ liệu,
phân loại, khảo sát, nhận xét…, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp sau:
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng để miêu tả các
quan hệ giữa phần phụ chú và nội dung câu ở bình diện ngữ nghĩa (ngữ nghĩa
biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng).
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ học: Phương pháp này được sử dụng
thường xuyên để phân tích những đặc điểm ngữ nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa
ngữ dụng của phần phụ chú, làm rõ vai trò và tác dụng của chúng trong khung
câu.
- Phương pháp thống kê: Luận văn dùng phương pháp này để định lượng
đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong các loại văn bản tiếng Việt.
4.2. Nguồn ngữ liệu
Nguồn ngữ liệu chủ yếu được thu thập từ các văn bản thuộc các phong
cách ngôn ngữ như: phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách khoa học,
phong cách chính luận và phong cách báo chí.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Dẫn nhập và phần Kết luận, phần Nội dung chính của
luận văn được phân thành 3 chương.
Chương 1: Chương này trình bày những vấn đề lí luận cơ sở như khái
niệm phần phụ chú trong câu, những phương diện nghĩa của câu bao gồm
nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái và lí thuyết hành động ngôn từ. Đây là chương
làm tiền đề cho việc khảo sát và phân tích ngữ nghĩa biểu hiện, ngữ nghĩa ngữ
dụng của phụ chú trong các chương sau.
Chương 2: Chúng tôi tiến hành khảo sát mặt ngữ nghĩa biểu hiện của
phần phụ chú với những ngữ liệu được thu thập trong các văn bản thuộc nhiều
phong cách ngôn ngữ khác nhau. Thông qua kết quả khảo sát ngữ liệu, trong
chương này, luận văn nêu bật những ý nghĩa của phần phụ chú trong quan hệ
với cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu.
Chương 3: Chương này khảo sát phần phụ chú về mặt ngữ nghĩa ngữ
dụng. Từ đó luận văn phân tích và khái quát phần phụ chú trên cơ sở đích
ngôn trung và nghĩa tình thái.
Chương 1
NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT
VÀ TỔNG QUAN VỀ PHẦN PHỤ CHÚ
1.1. Khái quát về phần phụ chú
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1 Giới nghiên cứu ngôn ngữ học trên thế giới
Khái niệm về thành phần phụ chú phụ thuộc khá nhiều vào tên gọi của
nó. Trong tiếng Anh, phụ chú được gọi là cú giải thích (comment clause) và
phần trong ngoặc (parenthesis).
*Theo R. Qurik, Cú giải thích được coi là “phần biệt lập kiểu trong
ngoặc” (comment clause are parenthetical disjuncts), “một cú dùng để chú
thích cho một cú khác trong câu” (comment clause: a clause which comments
on another clause in a sentence); ở một chỗ khác, tác giả viết Cú giải thích là
“một lời chú thích thêm, thường theo kiểu đặt trong ngoặc đơn, cho một cú
khác” (A comment added, often parenthetically, to another clause). Chúng có
thể xuất hiện ở đầu hoặc ở cuối hoặc giữa câu, và bởi thế nói chung mang một
âm điệu tách rời. Cú giải thích cũng là phần biệt lập về mặt nội dung, dùng để
diễn đạt những lời giải thích của người nói đối với nội dung của câu chứa
chúng, hoặc là biệt lập về mặt phong cách, dùng để kèm thêm cách nhìn của
người nói đối với cách nói đang được dùng [61: 112].
Ví dụ:
- He is, I believe, an American.
(Anh ấy, tôi tin vậy, là người Mĩ).
-Coming from you, that sounds surprising.
(Theo anh nói, điều đó nghe có vẻ bất ngờ quá).
* Theo Asher, Phần trong ngoặc “là một phần chêm có tính chất mở
rộng trong một văn bản”.
Ví dụ:
I saw him – John that is – yesterday
(Tôi đã gặp hắn – cái anh chàng John ấy mà – hôm qua).
1.1.1.2 Giới nghiên cứu Việt ngữ học
Cách hiểu về phần phụ chú vẫn chưa có sự thống nhất. Dựa vào quan
điểm của các nhà nghiên cứu, có thể chia thành 2 khuynh hướng:
a. Khuynh hướng 1
Khuynh hướng này bao gồm những quan điểm cho rằng thành phần
phụ chú là một thành phần phụ nằm trong câu, được dùng để giải thích hay bổ
sung nghĩa cho thành phần câu đứng trước nó (tức nó chỉ có quan hệ với bộ
phận nào đó của câu) và có cùng chức năng ngữ pháp với bộ phận này.
Đại diện cho khuynh hướng này có thể kể đến Hoàng Trọng Phiến,
Hữu Quỳnh…. Hoàng Trọng Phiến gọi thành phần phụ chú là đồng vị ngữ,
ông định nghĩa: đồng vị ngữ là “những từ khác nhau cùng biểu hiện một biểu
vật, có cùng chức năng ngữ pháp của thành phần trước đó” [40: 148]. “Đó là
thành phần có tổ chức riêng, có cùng vị trí, chức năng của thành phần trước
đó. Chức năng của nó là chú thích thêm cho rõ nghĩa của thành phần trước
nó” [39: 146] và “có thể bỏ đi cũng không phương hại gì đến cấu trúc câu và
ý nghĩa cơ bản của câu” [40: 148].
Ví dụ: Hà Nội – thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là
nơi đại diện cho nền văn hóa của dân tộc ta
Còn Hữu Quỳnh [42] gọi đây là thành phần xen và xác định nội dung
của nó như sau: “thành phần có tác dụng nói rõ thêm nội dung của một từ hay
nhóm từ ở trong câu, về ý nghĩa, nó giống như lời chú thích, bổ sung đối với
một điều nào đó trong câu. Về mặt cấu tạo ngữ pháp, nó không phải là thành
phần trong nòng cốt câu; nó thường được đặt tiếp sau từ hay nhóm từ mà nó
có quan hệ về ý nghĩa” [42: 135].
b. Khuynh hướng 2
Khuynh hướng này được hầu hết các nhà nghiên cứu Việt ngữ học tán
đồng. Đây là quan điểm cho rằng phụ chú không chỉ là thành phần phụ giải
thích cho một thành phần hay một bộ phận nào đó của câu mà nó còn được
dùng để giải thích, bổ sung một điều cần chú thích cho toàn câu, hoặc những
đơn vị lớn hơn câu, nó không đồng chức năng ngữ pháp với bộ phận được nó
chú thích.
* Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê [12] dùng khái niệm giải từ (tức
phụ chú) và phân biệt giải từ của bậc cụm từ (ông gọi là “từ kết”) với giải từ
bậc câu.
- Giải từ ở bậc cụm từ được xác định “là tiếng dùng để giải thích một
tiếng khác, chứ không thêm nghĩa. Giải từ đứng sau tiếng chính” [12: 252].
Trong các ví dụ, tác giả có dẫn ra ví dụ lấy từ tác phẩm của Trần Tế Xương:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời,
Chúc cho khắp hết cả trên đời,
Vua quan sĩ thứ, người muôn nước,
Sao được cho ra cái giống người.
- Giải từ bậc câu “là tiếng dùng để giải thích một việc hay nhiều việc”
[12: 583]. Ví dụ:
Tối ba mươi nghe pháo nổ đùng: òa! tết!
Sáng mồng một đụng nêu kêu cộp: ủa! xuân!
* Nguyễn Kim Thản [44] dùng hai tên gọi đồng vị ngữ và phụ chú ngữ
theo hai cách hiểu: Đồng vị ngữ được định nghĩa là “khác ngữ đồng vị ở chỗ
nó đứng biệt lập, không nhập vào từ tổ với từ mà nó giải thích. Đồng vị ngữ
trong tiếng Việt bao giờ cũng là danh từ đứng sau từ mà nó giải thích, và có
thể xen vào sau bất kì thành phần nào [44: 222]. Để minh họa cho khái niệm
này, tác giả đã đưa ra ví dụ: Đích bèn chung vốn với Oanh, một bạn gái đồng
sự của y.
Còn phụ chú ngữ thì giải thích thêm một từ nào đó hoặc dùng để tỏ
thái độ chủ quan của người nói đối với sự vật, hoạt động hay trạng thái nêu ra
trong câu [44: 225].
Như vậy, theo cách giải thích của Nguyễn Kim Thản thì phụ chú vừa
hẹp hơn (loại trừ cái gọi là “đồng vị ngữ” ra khỏi phụ chú), vừa rộng hơn
(cộng thêm cái mà một số tác giả khác coi là “phần tình thái”) so với quan
niệm của nhiều tác giả khác.
Sau này, Nguyễn Kim Thản lại dùng thuật ngữ “gia ngữ” [45] và định
nghĩa: Gia ngữ là phần phụ có tác dụng giải thích thêm nội dung của một từ,
một cụm từ nào đó, hoặc chú thích thái độ tình cảm của người nói, người viết.
Gia ngữ bao giờ cũng đặt ở sau từ, cụm từ được giải thích thêm, hoặc được
chú thích thêm, và thường xen vào giữa lời nói. Gia ngữ thường đặt sau một
quãng ngắt nhỏ thể hiện trên chữ viết bằng một dấu phẩy hay một dấu gạch
ngang (-) và kết thúc bằng một quãng ngắt nhỏ [45: 53].
Ví dụ: Thưa ông – người lạ mặt hỏi – có phải ông là ông Hai không ạ?
Các tác giả của Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam [49] cho rằng thành
phần phụ chú là “thành phần bổ sung một điều chú thích kịp thời hoặc cho cả
nòng cốt câu hoặc cho một yếu tố thuộc bậc cấu tạo thành phần trước đó
[49:191].
Thành phần phụ chú còn được gọi bằng hai thuật ngữ: giải thích ngữ
và chú thích ngữ dựa vào vào ý nghĩa, cấu tạo và đặc trưng ngữ pháp. Theo
quan niệm của các nhóm tác giả Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban,
Hoàng Văn Thung [8]:
- Giải thích ngữ là thành phần biệt lập dùng để giải thích thêm cho nội
dung của từ hoặc cụm từ làm thành phần câu hay thành tố phụ trong cụm từ
[8: 204]; có vị trí ngay sau từ mà nó giải thích, được ngăn cách với từ này
bằng một quãng ngắt, được biểu thị bằng dấu phẩy, dấu ngang hoặc dấu
ngoặc đơn và có cấu tạo thường do danh từ hoặc cụm danh từ đảm nhiệm.
- Chú thích ngữ là “thành phần biệt lập dùng để chú thích thêm tình cảm,
thái độ, cảm tưởng, ý nghĩ của người nói về một ý nào đấy do một bộ phận
nào đấy trong câu biểu thị; có vị trí thường đứng liền sau bộ phận mà nó chú
thích, tách khỏi bộ phận này bằng một quãng ngắt được đánh dấu bằng vạch
ngang hoặc bằng một dấu ngoặc đơn”; có cấu tạo do cụm từ, câu, hoặc có khi
cả một đoạn văn gồm nhiều câu biểu thị [8: 207]. Như vậy, nội dung của
“thành phần biệt lập” cũng không có gì khác “thành phần xen” và “thành
phần phụ chú” đã nói ở trên.
Diệp Quang Ban [1] phân biệt giải ngữ của câu với giải ngữ của từ như
sau: “Giải ngữ của câu thường đứng giữa chủ ngữ và vị ngữ hoặc đứng sau
nòng cốt câu, cũng có kiểu có thể đứng trước nòng cốt câu. Giải ngữ của câu
được dùng làm sáng tỏ thêm về một phương diện nào đó có liên quan gián
tiếp đến câu làm cho người nghe hiểu câu nói đúng hơn, rõ hơn. Thông
thường nội dung của giải ngữ câu là sự bổ sung các chi tiết, là sự bình phẩm
về việc nói trong câu, làm rõ xuất xứ câu, làm rõ thái độ, cách thức đi kèm khi
câu được diễn đạt [1: 200].
Giải ngữ của từ được coi là phần phụ “được dùng để thuyết minh thêm
nội dung hay giải thích thêm một khía cạnh nào đó của từ mà nó phụ thuộc về
nghĩa (…). Giải ngữ thường đứng sau từ nó có quan hệ nghĩa, Tuy nhiên cũng
không hiếm trường hợp không có sự liên hệ trực tiếp về không gian tuyến tính
như vậy. Trên chữ viết, giải ngữ thường được tách biệt bằng hai dấu chấm,
dấu ngang, dấu phẩy, hoặc dấu ngoặc đơn. Khi đọc, giải ngữ thường được
phát âm nhỏ hơn và nhanh hơn [1: 239-240].
Gần đây, Diệp Quang Ban [5] lại cho rằng phần phụ chú là một bộ
phận có tính chất trung gian. Theo ông “phần phụ chú có thể nằm trong hoặc
không nằm trong hoặc không nằm trong cấu trúc cú pháp của câu chứa nó,
với chức năng nghĩa là làm sáng tỏ thêm phương diện nào đó có liên quan đến
nghĩa cả câu, giúp cho người đọc người nghe hiểu rõ hơn, hiểu đúng hơn nội
dung của câu hoặc ý định của người nói.
- Còn Hồ Lê [36] nói về phụ chú với cách gọi: phụ chú ngữ. Theo ông
phụ chú ngữ có hai dạng: Đồng danh ngữ (“từ tổ danh từ dùng để nói rõ hơn
về đối tượng do danh từ hoặc đại danh từ đứng trước nó biểu thị”[36: 405]) và
Đoạn chú thích (“một ý riêng” nào đó được “xen vào” “để giải thích hoặc lưu
ý thêm một điều gì đó. Ý riêng này được biểu đạt bằng một từ tổ động từ hoặc
bằng cú và không đồng thành phần, đồng chức năng với bất cứ thành phần
nào, bộ phận nào trong câu)
Ví dụ: Vội vàng (ấy, cũng cái kiểu vội vàng cố hữu đó mà), ông ba kéo tay
mấy ông bạn già vào giữa phòng.
Đoạn chú thích trên có tác dụng lưu ý thêm về cách thức vội vàng của
ông Ba. Theo tác giả, bỏ nó đi câu vẫn nguyên vẹn là câu cách thức – hành
động.
Điểm chung giữa các tác giả Nguyễn Kim Thản, Diệp Quang Ban
(trong quan niệm truyền thống), Hồ Lê, Lê Cận, Phan Thiều, Hoàng Văn
Thung… là đều coi phụ chú là thành phần biệt lập, mặc dù cách diễn đạt có
phần khác nhau.
Qua ý kiến của các tác giả đã được trình bày, có thể thấy rằng cách hiểu
về phụ chú vẫn còn có chỗ chưa thống nhất, thậm chí có những quan niệm
khác nhau ở cùng một nhà nghiên cứu ở những thời điểm khác nhau. Tuy
nhiên ở đây ta vẫn có thể thấy những điểm giống nhau cơ bản:
- Về thành phần câu, các tác giả đều cho đây là thành phần biệt lập, nằm
ngoài nòng cốt câu, có thể bỏ đi mà không ảnh hưởng gì đến cấu trúc cú pháp
của câu.
- Về chức năng, các tác giả cũng đã khẳng định phần phụ chú có tác
dụng làm rõ những yếu tố ngôn ngữ mà nó phụ thuộc về nghĩa hoặc bổ sung
thêm một điều gì đó (như nội dung, ý nghĩa, thái độ, tình cảm,…) cho phần
câu được nó giải thích.
- Về vị trí, nó thường đứng sau phần câu được nó chú thích.
- Về hình thức, nó thường được ngăn cách với phần câu còn lại bằng các
dấu câu như: dấu hai chấm, dấu phẩy, dấu ngoặc đơn, dấu ngang cách.
Đến đây, luận văn tạm tiếp thu quan điểm của Đào Thị Vân trong luận
án khoa học về “Phần phụ chú trong câu tiếng Việt” (2003) để xác định khái
niệm của phần phụ chú như sau:
Phần phụ chú không nằm trong cấu trúc cú pháp của câu. Nó chỉ là một
bộ phận chêm xen với chức năng thực hiện một số hành động nói nào đó,
như: giải thích, minh họa, quy ước, chuyển chú, biểu cảm…nhằm giúp người
nghe, người đọc hiểu rõ hơn, hiểu đúng hơn nội dung của câu hay một ý định
nào đó của người chú thích.
Về nội dung, phụ chú có quan hệ với văn bản hữu quan theo những
kiểu nghĩa nhất định.
Về hình thức, nó có thể được cấu tạo từ từ, câu, chữ số hoặc kí hiệu quy
ước…
Về vị trí, nó thường đứng liền sau phần câu được chú thích và ngăn
cách với bộ phận này bằng các dấu câu, như: dấu ngang cách, dấu phẩy, dấu
ngoặc đơn, dấu hai chấm, dấu móc vuông,…
1.1.2. Phân loại
Về cách phân loại phụ chú, ý kiến của các nhà nghiên cứu cũng có
những điểm không giống nhau.
*Hoàng Trọng Phiến (1980) với tên gọi “đồng vị ngữ” đã phân loại dựa
vào chức năng cú pháp của đối tượng mà phụ chú giải thích như sau:
- Thành phần đồng vị chủ ngữ: Đại đội trưởng, Huy, ra lệnh cho anh em
tiếp tục lên đường.
- Thành phần đồng vị vị ngữ: Chúng ta là thế hệ thanh niên Hồ Chí
Minh, thế hệ trẻ Việt Nam anh hùng.
- Thành phần đồng vị định ngữ: Măng mọc trên phù hiệu ở ngực thiếu
nhi Việt Nam, lứa măng non của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (TM)
- Thành phần đồng vị bổ ngữ
Nước non đau xót như lòng mẹ
Mất một người con: Nguyễn Chí Thanh. (HT)
Theo tác giả, “Thành phần đồng vị ngữ cũng có thể bao gồm hơn hai bộ
phận để làm chú giải cho thành phần nào đó trong câu”.
*Hữu Quỳnh (1980) đã chia thành phần xen (phụ chú) thành hai loại
lớn dựa vào nội dung chú thích của thành phần này.
Thành phần xen nói rõ thêm về nội dung của từ hay nhóm từ trong kết
cấu chủ ngữ, vị ngữ hoặc thành phần phụ của câu.
Thành phần xen chú thích ý nghĩ, cảm tưởng, thái độ của người nói,
người viết.
*Các tác giả cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” (1983) của Ủy ban Khoa học
xã hội Việt Nam đã phân biệt hai trường hợp:
- Thành phần chú thích thuộc bậc cấu tạo câu và không có quan hệ riêng
với thành phần nào hay yếu tố nào trong nòng cốt.
Ví dụ: Em học sinh ấy – thật là gan dạ - đã nổ mìn diệt cả tốp địch
- Thành phần chú thích có thể coi là thuộc bậc cấu tạo thành phần câu và
có tác dụng chú thích một yếu tố ở trước nó và yếu tố này thuộc cấu tạo của
một thành phần trong nòng cốt.
Ví dụ: Thành phố Huế, quê tôi, thật đẹp.
Như vậy, theo quan niệm của tác giả Hoàng Trọng Phiến, phần phụ chú
(cách gọi của tác giả luận văn) chỉ giải thích cho một số bộ phận của câu. Đến
tác giả Hữu Quỳnh việc phân loại chủ yếu dựa vào nội dung ý nghĩa của phụ
chú. Theo đó, phần phụ chú ngoài việc làm rõ nội dung ý nghĩa của một thành
phần câu, đôi khi nó còn chú thích cho ý nghĩ, cảm tưởng, thái độ của người
nói, viết. Với các tác giả của “Ngữ pháp tiếng Việt” (1983), thành phần phụ
chú không chỉ chú thích cho một thành phần nào đó của câu mà có khi nó chú
thích cho cả câu.
Ngoài ra, các tác giả khác như Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban,
Nguyễn Kim Thản… cũng đã có những cách phân loại tương tự.
Qua ý kiến phân loại của một số tác giả đã được trình bày và ý kiến của
nhiều tác giả khác, chúng tôi nhận thấy các tác giả đã phân loại phụ chú theo
nhiều hướng khác nhau. Tuy nhiên, ở đó các tác giả chưa đưa ra các tiêu chí
cụ thể để làm cơ sở cho việc phân loại.
Theo chúng tôi, việc phân loại phụ chú có thể dựa trên các tiêu chí sau
đây:
1. Dựa vào đặc điểm cấu tạo của đối tượng (thành tố) phụ chú
2. Dựa vào quan hệ ngữ nghĩa giữa phần phụ chú và đối tượng phụ chú
Dựa vào (1), ta thấy về chức năng phần phụ chú có thể giải thích cho
một yếu tố nào đó trong câu, một thành phần câu, cho cả câu, hoặc một chuỗi
câu. Vì vậy có thể phân loại như sau:
- Phụ chú cho từ hoặc cụm từ.
- Phụ chú cho câu.
- Phụ chú cho một chuỗi câu hay một đoạn văn.
Dựa vào (2), ta thấy giữa phần phụ chú và đối tượng được phụ chú có
thể có nhiều quan hệ nghĩa khác nhau. Tuy nhiên ở đây, chúng tôi thấy có thể
phân phụ chú thành hai loại như sau:
- Phụ chú giải thích cho nội dung câu hoặc nghĩa biểu hiện của câu
(nghĩa sự việc).
- Phụ chú giải thích hoặc bổ sung ý nghĩ, thái độ, tình cảm của người
nói, người viết (nghĩa tình thái).
1.2. Những phương diện nghĩa của câu
Xét về phương diện nghĩa của câu, có thể phân biệt hai loại nghĩa:
nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái. Như đã trình bày, phụ chú là phần “dùng để
chú giải thêm một khía cạnh nào đó có liên quan đến sự tình nêu trong câu,
giúp người nghe, người đọc hiểu rõ hơn về nội dung của câu hay dụng ý của
người chú giải”. Như vậy có thể thấy rằng phần phụ chú có liên quan chặt chẽ
với nghĩa biểu hiện của câu và bản thân nó cũng có lúc biểu hiện nghĩa tình
thái có liên quan đến nội dung câu. Vì vậy trong giới hạn nghiên cứu của đề
tài, chúng tôi sẽ đề cập đến nghĩa biểu hiện và nghĩa tình thái trong câu.
1.2.1. Nghĩa biểu hiện
1.2.1.1 Khái quát
Nghĩa biểu hiện (còn được gọi là nghĩa miêu tả, nghĩa mệnh đề, nghĩa
hạt nhân) là thành phần nghĩa phản ánh sự vật, hiện tượng khách quan vào
trong lời nói thông qua nhận thức của con người.
Về chức năng, nghĩa biểu hiện là thành phần cốt lõi làm nên nội dung
thông báo để thực hiện chức năng giao tiếp, chức năng tư duy.
Tóm lại, những sự tình được thông báo, các hiển ngôn, hàm ngôn đều
phải trực tiếp hay gián tiếp dựa vào câu mà biểu hiện. Mỗi từ ngữ, mỗi thành
phần chức năng trong câu đều có vai trò của nó, nhưng có thể nói hạt nhân
của câu là cái khung ngữ vị từ gồm có vị từ trung tâm và các tham thể quây
quần xung quanh, biểu thị một vai nghĩa nào đó. Có những vai nghĩa bắt
buộc, nhưng cũng có những vai nghĩa không bắt buộc. Theo lí thuyết diễn trị
của Tesnière, những vai nghĩa bắt buộc được hiện thực hóa thông qua những
ngữ đoạn được gọi là diễn tố (actant), còn những vai nghĩa không bắt buộc thì
được hiện thực hóa thông qua những ngữ đoạn được gọi là chu tố
(circonstant). Việc đánh giá một vai nghĩa bắt buộc hay không bắt buộc phải
đặt trong quan hệ với vị từ trung tâm. Một vai nghĩa có thể có tính không bắt
buộc đối với vị từ này nhưng lại bắt buộc đối với vị từ khác.
Ví dụ: - Anh ấy làm việc ở Sài Gòn (vai nghĩa nơi chốn không bắt
buộc).
- Anh ấy có ở Sài Gòn vào tháng trước. (vai nghĩa nơi chốn
mang tính bắt buộc).
1.2.1.2. Các tham tố của vị từ
Trong xu hướng chung đi tìm các phổ quát ngôn ngữ, ở những năm 60,
Fillmore đã đưa ra một số vai nghĩa mà ông cho là có tính phổ quát, có thể
tìm thấy trong mọi ngôn ngữ: Agentive (tác thể), Instrument (cách công cụ),
Dative (tặng cách), Factitive (tạo cách), Location (cách địa điểm), Object (đối
thể). Danh sách các vai nghĩa về sau đã được nhiều nhà ngôn ngữ học bổ sung
(Chafe, Dik, Dixon, Parson…). Cho đến nay số vai nghĩa vẫn chưa có sự
thống nhất. Trong trong luận văn này chúng tôi tiếp thu ý kiến của S.C. Dik
để phân biệt hai loại tham tố là diễn tố và chu tố.
a. Diễn tố (actants)
Diễn tố là loại tham tố cần và đủ, có số lượng nhất định cho từng vị từ
tham gia vào nội dung biểu hiện của khung ngữ vị từ. Đó là những vai nghĩa
được giả định một cách tất yếu trong nội dung nghĩa của vị từ mà nếu thiếu đi
thì cái sự tình hữu quan không thể thực hiện, không còn là nó nữa. Có thể nói,
diễn tố là tham tố quan trọng không thể thiếu của khung ngữ vị từ. chẳng hạn,
một sự tình bơi, chạy, nhảy, phải có diễn tố (người hoặc vật) thực hiện. Thiếu
đi diễn tố này, không thể tồn tại sự tình bơi, chạy, nhảy, Diễn tố có thể vắng
mặt trong câu nhưng vẫn được người đọc, người nghe hiểu ngầm.
Ví dụ : Trong cái sự tình được gọi là “Mất rồi”, diễn tố không có mặt
nhưng chúng ta vẫn ngầm hiểu là có một cái gì đó hay một người nào đó vừa
ở trạng thái mất.
Diễn tố thường do danh ngữ đảm nhận, cũng có khi diễn tố là đại từ
(nhân xưng).
b. Chu tố (circumstants)
Tham gia vào sự tình còn có những vai nghĩa khác. Chu tố là một loại
tham tố không bắt buộc, không nhất thiết phải có mặt để cho sự tình có thể
được gọi tên bằng vị từ trung tâm.
Ví dụ : Trong câu phản ánh sự tình “chạy”có thể có những tham tố chỉ
nơi chạy, hướng chạy, chỉ đích, chỉ điểm xuất phát…Những tham tố này
không cần phải có mặt mà sự tình “chạy” vẫn được thực hiện. Những tham tố
đó được gọi là chu tố [Dẫn theo 25].
Chu tố là tham tố có thể có (không bắt buộc) bên cạnh các diễn tố, chỉ
các tình huống như thời gian, nơi chốn, phương thức, phương tiện, nguyên
nhân, mục đích, kết quả… của sự tình.
Ví dụ: Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. (Nguyễn Du)
Khung ngữ vị từ, với vị từ trung tâm và các tham tố của nó là cơ sở để
nghiên cứu nghĩa của câu, xét ở góc độ cấu trúc nội tại: quan hệ giữa các yếu
tố nghĩa tạo câu, các loại câu xét theo nghĩa biểu hiện.
1.2.1.3. Phân loại câu theo nghĩa biểu hiện
Theo Cao Xuân Hạo, phân loại câu theo nghĩa biểu hiện (của khung
ngữ vị từ) thực chất là phân loại các sự tình. Các sự tình được phân loại như
sau [Dẫn theo 25]:
SỰ TÌNH
Biến cố Tồn tại Tình hình
(+ động ) (- động)
Hành động Quá trình Trạng thái Quan hệ
(+chủ ý) (- chủ ý) (+nội tại) (- nội tại)
a. Câu tồn tại
Là loại câu có nghĩa biểu hiện sự tồn tại của sự vật, hiện tượng (trong
không gian, thời gian hoặc một chiều kích nào đó được hình dung như không
gian/thời gian). Câu tồn tại nhận định rằng có một cái gì ở đâu đó (tức là sự
định vị) có trường hợp là bắt buộc [ví dụ (***), (****)], có trường hợp không
[ ví dụ(*), (**)].
Ví dụ: * Có muỗi.
** Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử.
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi. (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
*** Sao đầy trời.
**** Trên tường treo một bức tranh.
b. Câu hành động
- Câu hành động diễn tả một sự tình động có chủ ý. Chủ thể của hành
động gọi là hành thể. Nếu hành động trong câu có tác động đến một số đối
tượng, hành thể thường được gọi là tác thể. Hành thể là diễn tố thứ nhất, có
khi là duy nhất của vị từ hành động. Ngoài các diễn tố, trong câu hành động
cũng có thể có các chu tố.
+ Câu hành động vô tác
Hành động vô tác là hành động không tác động đến đối tượng nào ở
bên ngoài.
Ví dụ: Em bé bò trên sàn nhà.
(Diễn tố: hành thể) (hành động) (Chu tố: vị trí)
Thằng bé nhìn con hổ
(Diễn tố: hành thể) (hành động) (Diễn tố: mục tiêu)
Các hành động vô tác có thể chia làm hai loại: + di chuyển và – di
chuyển (như bò và nhìn trong hai ví dụ trên).
+ Câu hành động chuyển tác
Hành động chuyển tác là hành động có tác động đến đối tượng làm cho
đối tượng thay đổi trạng thái hay vị trí, hoặc bị hủy diệt, hoặc tạo ra một vật.
Về các hành động chuyển tác, có sự phân biệt giữa các hành động
chuyển thái, chuyển vị và các hành động tạo diệt (tạo tác và hủy diệt)
Ví dụ: Liên nấu cơm (chuyển thái)
Liên cho em cái bánh (chuyển vị - chuyển vị trí sở hữu).
Các bác thợ xây nhà (tạo tác).
c. Câu quá trình
Câu quá trình diễn tả một sự tình động (biến cố) không có chủ ý, bao
gồm 2 loại: câu quá trình vô tác và câu quá trình chuyển tác.
+ Câu quá trình vô tác
Câu quá trình vô tác là câu có nội dung biểu thị quá trình không
chuyển tới đối tượng bên ngoài. Quá trình được biểu thị có thể là một sự
chuyển biến, một sự nảy sinh hoặc một sự hủy diệt. Chủ thể của quá trình vô
tác có thể là người, động vật, hoặc vật vô tri.
Ví dụ: Mưa rơi.
Cây đổ.
Người chết.
Em bé ngã.
+ Câu quá trình chuyển tác
Câu quá trình chuyển tác biểu thị quá trình trong đó vật vô tri gây ra
một tác động thay đổi trạng thái hay vị trí của một đối tượng hoặc hủy diệt đối
tượng đó. Câu biểu thị quá trình chuyển tác có chủ đề giữ vai lực, vị từ trung
tâm là vị từ chỉ quá trình chuyển tác.
Ví dụ: Gió mở tung cửa sổ.
Sét đánh đổ cây.
d. Câu trạng thái
Câu trạng thái là câu diễn tả tình hình nội tại, tức tính chất hay tình
trạng của sự vật. Chủ thể của tính chất, tình trạng của sự vật hiện tượng có thể
là người, vật, hay động vật, giữ cương vị chủ đề.
Tính chất và tình trạng phân biệt nhau một cách tương đối và có phần
ước định ở chỗ nó thường tồn (tính chất) hay nhất thời (tình trạng).
Câu trạng thái thường có một diễn tố là đương thể của tính chất hay
nghiệm thể của tâm trạng.
Ví dụ: Con chó gầy giơ xương.
(Diễn tố: đương thể)
Chúng tôi rất thương cháu
(Diễn tố: nghiệm thể) (tâm trạng)
Những vị từ tình cảm như thích, yêu, ghét, giận, sợ, kính, nể,… có hai
diễn tố: một nghiệm thể và một là đối thể hoặc nguồn gây ra tình cảm ấy ở
nghiệm thể.
Ví dụ: Hắn rất nể anh ấy
(Diễn tố1 (Tình cảm) (Diễn tố 2
nghiệm thể) đối thể/nguồn
e. Câu quan hệ
Quan hệ là một tình hình mà nội dung là một cái gì đó ở giữa hai sự
vật, chẳng hạn một khoảng cách, một mối liên hệ nhân quả, một sự so sánh,
một sự tiếp xúc… Câu quan hệ nhất thiết phải có hai vế. Loại câu này được
đánh dấu bằng sự xuất hiện của những vị từ quan hệ như hơn, kém, bằng,như,
giống, khác…, và những danh từ quan hệ như: trên, dưới, trước, sau, trong,
ngoài, giữa…
Ví dụ: Cô ấy là cô giáo cũ của chúng tôi
Minh hơn Nam về khả năng giao tiếp.
1.2.2. Nghĩa tình thái
Bên cạnh nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái là một loại thành tố ngữ nghĩa
của câu, cung cấp cho người tiếp nhận những thông tin về tình thái trong câu.
Khởi nguồn cho việc nghiên cứu nghĩa tình thái (tính tình thái của câu) là việc
nghiên cứu của các nhà logic học với những khái niệm công cụ như tính hiện
thực, tính tất yếu, tính khả năng,…
“Tình thái” vốn là một khái niệm logic học. Trong logic học, nội dung
của một mệnh đề được chia làm hai phần: phần thứ nhất là phần ngôn liệu (vị
ngữ logic và các tham tố của nó được xem xét như một mối liên hệ tiềm năng)
và phần thứ hai là phần tình thái, tức là cách thực hiện mối liên hệ ấy với hiện
thực khách quan: Mối liên hệ ấy có tính hiện thực hay không (có xảy ra hay
không xảy ra), tất yếu hay không tất yếu (nghĩa là đối tượng được nói có
mang đặc trưng được gán cho trong mọi thế giới hay không), có khả năng hay
không có khả năng (nghĩa là đối tượng được nói mang đặc trưng được gán
cho ít nhất trong một thế giới nào đó hay không). Đi vào chi tiết hơn, các nhà
nghiên cứu còn xem xét tính hiện thực, tính tất yếu và tính khả năng được nêu
ra ở phương diện nhận thức (dựa trên bằng chứng hay suy luận), phương diện
đạo nghĩa (dựa trên những ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ).
Ví dụ: Lớp chúng tôi có lẽ phải học chuyên đề ngôn ngữ học tri nhận
vào tuần tới, tại phòng C705.
Phần ngôn liệu của mệnh đề gồm vị ngữ logic “học” và bốn tham tố
của nó: (1) Lớp chúng tôi (chủ thể của hành động), (2) chuyên đề ngôn ngữ
học tri nhận (đối thể của hành động), (3) vào tuần tới (thời gian diễn ra hành
động), (4) tại phòng C705 (nơi thực hiện hành động). Phần ngôn liệu này tiềm
tàng mối liên hệ giữa mệnh đề với thực tại khách quan mà nó phản ánh trên
cơ sở phần ngôn liệu và phần tình thái được xem xét. Chẳng hạn, việc Lớp
chúng tôi học chuyên đề ngôn ngữ học tri nhận vào tuần tới tại phòng C705 là
chưa xảy ra (phi hiện thực), có thể được (có khả năng), không tất yếu, bắt
buộc.
Ví dụ: Xét tình thái của các mệnh đề:
a) Trái đất xoay quanh mặt trời.
b) Nước sẽ sôi ở nhiệt độ 100 độ C.
Trong ví dụ trên, (a) là mệnh đề có tính [+khả năng], [+tất yếu],
[+hiện thực]. Còn (b) là mệnh đề có tính [+ khả năng], [- tất yếu] (không tất
yếu) vì nước có thể không sôi ở nhiệt độ 100 độ C), [- hiện thực] (phi hiện
thực), vì tình trạng nước sôi chưa xảy ra.
Trong logic học, tình thái của một mệnh đề được nghiên cứu qua ba
thông số:
- Tình thái có khả năng hay không có khả năng ( khả năng )
- Tình thái tất yếu hay không tất yếu ( tất yếu)
- Tình thái hiện thực hay phi hiện thực (hiện thực).
Trong ngôn ngữ học, tình thái của câu không chỉ dừng lại ở ba thông số
như logic học. Vì câu thuộc bình diện ngôn ngữ học, là đơn vị cơ bản của
hoạt động giao tiếp và tư duy, tình thái của câu còn được xem xét qua các
thông số: thái độ (người nói đồng tình hay không đồng tình với sự tình, tôn
trọng hay không tôn trọng người nghe), sự đánh giá của người nói (người nói
tin hay không tin vào điều mình nói ra). Sự đánh giá có thể coi như một trong
những kiểu tình thái trùm lên nội dung được miêu tả trong sự biểu hiện của
ngôn ngữ. Thông số này làm cho tình thái của câu phong phú và đa dạng hơn
so với tình thái logic. Tuy vậy, thái độ của người nói không chỉ làm thành một
thông số tình thái riêng trong câu mà còn thâm nhập vào ba thông số kia để
biến những thông số chỉ được xét ở hai với hai trị () (có, không) trong logic
trở nên thông số có nhiều giá trị khác nhau trong ngôn ngữ.
Ví dụ: a) Tất nhiên là anh ấy sẽ chiến thắng và trở về.
b) Dĩ nhiên là anh ấy ra Hà Nội chiều qua.
Ở ví dụ (a) có các tình thái phi hiện thực, tất yếu, có khả năng (những
tình thái khách quan) và những tình thái chủ quan như: sự tin tưởng, đồng
tình, mong muốn (những tình thái bổ sung), còn ở ví dụ (b) lại có tình thái:
hiện thực, tất yếu, có khả năng (những tình thái khách quan), tin tưởng, thân
mật,… (những tình thái chủ quan).
Tình thái còn được xem xét ở góc độ tình thái của hành động phát ngôn
và tình thái của lời phát ngôn…
Tình thái của hành động phát ngôn là loại tình thái phân biệt các lời nói
trên phương diện mục đích và tác dụng trong giao tiếp. Đó là sự phân biệt các
kiểu câu trần thuật, nghi vấn, cầu khiến, cảm thán.
Thuộc phạm vi tình thái của hành động phát ngôn, người ta còn phân
biệt giữa loại câu miêu tả mang tính chất thông báo thuần túy với loại câu xác
nhận, câu phản bác và nhất là câu ngôn hành.
Ví dụ:
a) Hôm nay trời mưa to. (câu miêu tả)
a’) Đúng là hôm nay trời mưa to. (câu xác nhận)
a’’) Hôm nay trời mưa không to (câu phản bác)
b) Nó đã xin lỗi cô giáo. (câu miêu tả)
b’) Em xin lỗi cô ạ. (câu ngôn hành)
Về vấn đề tình thái, Cao Xuân Hạo có nêu “Tình thái của lời phát ngôn
thuộc cái nội dung được truyền đạt (trong trần thuật hay trong câu hỏi), nó có
liên quan đến thái độ của người nói đối với điều mình nói ra hoặc đến quan hệ
giữa sở đề và sở thuyết của mệnh đề.
Ví dụ: Hình như nó đi từ lúc 12 giờ.
Thanh ngạc nhiên khi thấy cây hoàng lan trổ bông.
Có thể nói, tình thái của câu gồm ba nội dung sau:
Một là, tình thái biểu thị mối quan hệ giữa người nói và người nghe
(còn gọi là tình thái liên nhân). Tình thái liên nhân thường được đánh giá qua
các thông số [ tôn trọng], [ thân mật],…
Tình thái liên nhân có thể được đánh dấu bằng hô ngữ, phụ ngữ tình
thái hoặc bằng các đại từ nhân xưng, trợ từ ngữ khí,… được sử dụng trong
câu.
Ví dụ: Em thắp lên chị Liên nhé?
(Thạch Lam, Hai đứa trẻ)
Bẩm chỉ mới có hai ông ở Hải Phòng và ở Hà Nội về trình sổ sách.
(Vũ Trọng Phụng, Giông tố)
Hai là tình thái biểu thị thái độ, cách đánh giá của người nói đối với sự
việc được nêu trong câu (tình thái đánh giá). Tình thái đánh giá thường được
xem xét qua các thông số [ đồng tình], [ tin tưởng], [ mong đợi],…
Tình thái đánh giá thường được đánh dấu bằng các phụ ngữ tình thái
đánh giá hoặc những trợ từ biểu thị sự đánh giá.
Ví dụ: a) Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ.
(Nam Cao, Chí Phèo)
b) Nếu tôi nói thì chắc người ta cũng bằng lòng.
(Vũ Trọng Phụng, Số đỏ)
c) Thằng bé ăn những hai bát cơm.
d) Thằng bé chỉ ăn hai bát cơm.
Ở ví dụ (a), phần câu hình như cho thấy người nói chưa hoàn toàn tin
tưởng vào điều mình nói ra. Câu (b) thể hiện sự phỏng đoán có độ tin cậy cao
đối với sự việc. Ở ví dụ (c), trợ từ những cho người đọc hiểu là sự đánh giá về
lượng cơm mà thằng bé ăn được là nhiều. Nhưng ở ví dụ (d), trợ từ chỉ thể
hiện sự đánh giá ngược lại: theo người nói, lượng cơm mà thằng bé ăn được
là còn ít.
Ba là, tình thái biểu thị mối quan hệ của sự việc được nêu với hiện thực
khách quan như thời gian, cách thức diễn ra hành động, tính [ khả năng,
tất yếu, hiện thực] của sự tình được đề cập,… (tình thái khách quan).
Tình thái khách quan thường được đánh dấu bằng các phụ từ như đã, sẽ
đang, không, chưa, chẳng… hoặc bằng các vị từ tình thái, như có thể, bèn,
toan, cần, phải,…hoặc bằng các phương tiện từ vựng.
Ví dụ: - Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ
không phải từ tay Pháp.
(Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn Độc lập)
- Hắn nhặt một hòn gạch vỡ, toan đập đầu.
(Nam Cao, Chí Phèo)
- Việc từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người
An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng.
(Nguyễn An Ninh, Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức)
- Tao không thể là người lương thiện được nữa.
(Nam Cao, Chí phèo)
Ba nội dung tình thái của câu vừa trình bày trên có thể gộp thành hai
mảng như sau:
1) Tình thái chủ quan (tình thái thuộc về người nói) gồm tình thái đánh giá
và tình thái liên nhân. Nội dung tình thái này vừa có thể có những phương
tiện riêng để biểu thị vừa sử dụng ngay những phương tiện biểu thị tình thái
khách quan.
2) Tình thái khách quan là tình thái thuộc về mối liên hệ giữa nội dung
của câu với hiện thực được phản ánh. Nó cũng có những phương tiện biểu thị
đặc thù vừa có những phương tiện chung.
Như vậy, trong ngôn ngữ học, tình thái là phạm trù ngữ pháp – ngữ
nghĩa biểu thị quan hệ của người nói với phát ngôn và quan hệ của nội dung
phát ngôn với hiện thực khách quan. Tính tình thái là một phổ niệm ngôn ngữ,
nó thuộc phạm trù cơ bản của ngôn ngữ tự nhiên. Nghĩa tình thái cũng là một
phạm trù nghĩa của câu.
Tình thái của câu là một vấn đề rất phức tạp, hiện nay vẫn còn nhiều ý
kiến khác biệt về vấn đề này. Đi tìm hiểu vể biểu hiện tình thái trong phần
phụ chú, chúng tôi sẽ khai thác theo cách hiểu đã được nhiều người thừa
nhận.
1.3. Lý thuyết hành động ngôn từ
1.3.1. Khái niệm về hành động ngôn từ
Người đầu tiên nghiên cứu lý thuyết này là nhà triết học người Áo,
L.Wittgenstein. Ông đã đồng nhất hoạt động giao tiếp với hoạt động xã hội và
việc sử dụng ngôn từ (lời nói) như một hành động. Sau đó, J. L. Austin lại là
người đã đánh dấu mốc cho sự phát triển của lý thuyết hành động ngôn từ
bằng công trình nghiên cứu “How to do thing with words”, ông bày tỏ luận
điểm: “To say is to do something” (nói là làm). Ông cho rằng để biểu hiện,
diễn tả một hành động ngôn từ thì cần phải nói ra điều đó, còn làm là thực tế,
là việc đi vào thực tiễn. Từ luận điểm này mà người ta xây dựng nên lý thuyết
về hành động ngôn từ.
Như vậy, khi ta nói một câu nghĩa là ta đã thực hiện một hành động nào
đó. Chẳng hạn như: thông báo, khuyên, chúc mừng, tuyên bố, hứa hẹn…Đó là
những hành động được thực hiện bằng ngôn từ, được gọi là hành động ngôn
từ. Và J. L. Austin xem hành động ngôn từ là một thể thống nhất các hành
động:
- Hành động tạo lời (locutionary act).
- Hành động tại lời (illocutionary act).
- Hành động mượn lời (perlocutionary act).
1.3.2. Các hành động ngôn từ
Hành động tạo lời là “nói một điều gì đó”. Đây là hành động sử
dụng các yếu tố ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp để tạo nên một câu
nói.
Hành động tại lời là “nói một điều gì đó và thực hiện điều đó như
thế nào”. Đồng thời, hành động ấy phải thực hiện ngay khi phát ra câu nói.
Ví dụ: Lớp ồn quá! (Hành động tại lời là nhận xét “lớp ồn”)
Vì vậy hành động tại lời chính là lực ngôn trung, là đích phát ngôn. Nó
bị chi phối bởi các qui tắc hình thành tự nhiên theo cộng đồng với những điều
kiện sử dụng được thực hiện. Cốt lõi của hành động ngôn từ chính là hành
động tại lời.
Hành động mượn lời là hành động thông qua việc phát ngôn câu
nói, người nói tác động đến tư tưởng tình cảm… của người tiếp nhận. Với
một hành động mượn lời, người nghe có thể không nhận ra ngay mặc dù hiểu
được hành động tại lời. Một hành động tại lời có thể có nhiều hành động
mượn lời khác nhau.
Ví dụ: Một hành động tại lời là người nói không muốn tiếp chuyện với
người nghe và đưa ra một lời yêu cầu trực tiếp: Khuya rồi, anh về đi.
Hành động mượn lời có thể là một trong những trường hợp sau:
- Mấy giờ rồi nhỉ ?
- Ngày mai tôi có việc phải dậy sớm.
- Thức khuya có hại cho sức khỏe lắm đấy!
J. R. Searle trong công trình “Các hành động ngôn từ gián tiếp”
(1969), đã đưa ra khái niệm hành động ngôn từ gián tiếp. Một hành động
ngôn từ gián tiếp là hành động ngôn từ được thực hiện bằng hình thức của
một hành động ngôn từ khác. Nghĩa là một hành động tại lời được thực hiện
gián tiếp phải thông qua một hành động tại lời khác. Nó có đặc điểm sau:
- Một hành động ngôn từ gián tiếp được thực hiện thông qua những
hành động tại lời khác nhau.
- Cùng một hành động tại lời có thể tạo ra những hành động gián tiếp
khác nhau.
Ví dụ: Anh có thể chuyển dùm tôi đĩa ớt kia không?
Ở ví dụ trên hành động tại lời là hỏi (hình thức) nhưng mục đích là đề
nghị: Anh hãy chuyển dùm tôi đĩa ớt.
J. R. Searle phân loại các hành động ngôn từ có sự tiến bộ hơn so với
J.L. Austin. Ông đưa ra 12 tiêu chí để phân loại. Trong đó có 3 tiêu chí quan
trọng chi phối sự phân loại, đó là:
- Mục đích của hành động tại lời (Illocutionary point).
- Hướng thích nghi giữa lời lẽ và hiện thực (Direction of fit).
- Trạng thái tâm lí được biểu hiện.
Dựa vào những tiêu chí này mà J.R.Searle chia hành động ngôn từ ra
thành 5 loại:
(1) Biểu hiện (Representative)
(2) Cầu khiến (Directive)
(3) Ước kết (Commissive)
(4) Bày tỏ (Expressive)
(5) Tuyên bố (Declaratives)
1.3.3. Điều kiện sử dụng hành động ngôn từ
Trong hoạt động giao tiếp, lời nói được xem là một hành động. Việc sử
dụng lời nói chịu sự chi phối nhất định mà L. Wittgenstein gọi là “trò chơi
ngôn ngữ”, đồng thời J. Austin cũng đưa ra luận điểm “nói là làm”, nói là một
cách sử dụng âm thanh ngôn ngữ để bộc lộ một nội dung thông báo nào đó.
Và để đạt được hiệu quả trong giao tiếp, người nói cần quan tâm đến các điều
kiện sử dụng của các hành động ngôn từ. Bởi lẽ để hành động được thực hiện
thì mỗi hành động ngôn từ đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định. Muốn
cho người nghe thực hiện một hành động nào đó như yêu cầu, đề nghị, sai
bảo, khuyên răn,… mà người nói mong muốn thì từ phía người nói phải lựa
chọn cách nói làm sao để người nghe không chỉ hiểu điều mình nói ở bề mặt
ngôn từ mà còn tri nhận đích ngôn trung.
Các hành động tại lời cũng đòi hỏi những điều kiện nhất định. Các
hành động tại lời bị chi phối bởi các qui tắc hình thành tự nhiên theo cộng
đồng. Vì vậy mà mỗi loại hành động tại lời có những điều kiện sử dụng của
nó mà Austin gọi tên chúng là những điều kiện thuận lợi. Về vấn đề này,
Searle chia làm 3 loại chính như sau:
- Điều kiện ban đầu.
- Điều kiện chân thực.
- Điều kiện thiết yếu (điều kiện căn bản).
a. Điều kiện ban đầu
Ví dụ: Hành động ngôn từ ra lệnh.
- S ra lệnh cho H làm một việc gì đó có lợi cho S còn H bị thiệt (về thời
gian, công sức hay tiền của…)
- S có vị thế giao tiếp (biểu hiện vị thế xã hội) cao hơn hoặc là người bậc
trên so với H (trong trường hợp vị thế xã hội không bình đẳng). Hệ quả là tính
bắt buộc cao.
- Ra lệnh là làm một việc gì đó cho tôi, hoặc cho cả anh và tôi, hoặc
không liên quan gì đến anh nhưng anh vẫn phải làm.
- Khi S ra lệnh cho H làm một hành động C thì đương nhiên là hành
động chưa được thực hiện hoặc thực hiện rồi mà vẫn chưa đạt yêu cầu, nên S
mới ra lệnh cho H thực hiện hay thực hiện lại mà thôi.
- Đồng thời người ra lệnh cần biết được rằng người nhận lệnh có khả
năng hiểu được và thực hiện được mệnh lệnh của mình. Như vậy, điều kiện
ban đầu liên quan đến quan hệ giữa hai người: người nói và người nghe, tới
những ý nguyện, lợi ích và khả năng của người nghe.
b. Điều kiện chân thành
Ví dụ: Hành động ngôn từ mời mọc .
Khi S muốn mời H (ăn uống hay tham dự một cuộc vui chơi hoặc tham
gia vào một công việc kinh doanh …nào đó) thì S phải chân thành mời thực
chứ không phải mời lơi. Mời mọc thường mang lợi cho H gây thiệt cho S. Vì
vậy một lời mời chân thành không chỉ hiển ngôn điều lợi mà H nhận được ,và
còn cần phải gia tăng tính ép buộc mà vẫn không làm mất đi tính lịch sự của
lời mời. Chẳng hạn S dùng câu cầu khiến trực tiếp để mời mọc H “Thế nào tối
mai H cũng phải tới nhà tôi dùng bữa đấy nhé”! H tới nhà S dùng bữa, H
được lợi, còn S bị thiệt (S phải tốn tiền, mất thời gian chuẩn bị bữa ăn…) và
rõ ràng trong lời mời của S, S đã hiển ngôn điều lợi “ tới dùng bữa” và S thể
hiện tấm chân tình của mình bằng cách ép buộc “thế nào cũng phải tới”…Đây
chính là điều kiện chân thực của hành động mời mọc. Khác hẳn với lời mời
gián tiếp bằng hình thức một câu hỏi “Tối mai H có tới nhà tôi dùng bữa được
không?” S đã đặt H vào tình huống lựa chọn có/ không. Trong một hoàn cảnh
nào đó thì có thể coi đây là một lời mời lơi, mời cho có mời.
Như vậy điều kiện chân thành tập trung chủ yếu nói đến trạng thái tâm
lý của hành động mà người nói thực hiện. Thông báo một điều gì đó cho
người khác thì phải tâm niệm rằng thông tin đó là sự thật. Ra lệnh không chỉ
là ép buộc mà phải thực sự mong muốn người nhận lệnh chấp hành. Dùng câu
hỏi để tìm hiểu thông tin, người hỏi chân thành khi hoàn toàn chưa biết gì và
thực sự muốn biết về thông tin đó chứ không phải là hỏi xã giao, lấy lệ…hay
thực hiện hành động mời mọc thì phải mong muốn người nghe nhận lời của
mình…
TIỂU KẾT
Qua những nội dung đã trình bày ở trên, chúng tôi tóm lại một số điểm sau:
- Phần phụ chú không thuộc thành phần trong cấu trúc cú pháp của
câu. Nó chỉ là bộ phận chêm xen với chức năng như: giải thích, minh họa, quy
ước, bổ sung, biểu cảm,… nhằm giúp người nghe, người đọc hiểu rõ hơn,
đúng hơn nội dung của câu hay ý định nào đó của người nói.
- Trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu, có các vai nghĩa mang tính
bắt buộc (diễn tố) và các vai nghĩa không bắt buộc (chu tố). Theo đó, dựa vào
vị từ để phân loại câu theo nghĩa biểu hiện, ta có: câu tồn tại, câu hành động,
câu quá trình, câu trạng thái, câu quan hệ. Nghĩa tình thái trong câu có thể
chia thành theo 2 loại: tình thái chủ quan và tình thái khách quan.
- Dựa vào lí thuyết của hành động ngôn từ, có thể chia hành động
thành các lớp: biểu hiện, cầu khiến, hứa hẹn, bày tỏ, tuyên bố. Và hành động
này đòi hỏi phải có điều kiện nhất định để trở thành hiện thực.
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA BIỂU HIỆN
CỦA PHẦN PHỤ CHÚ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT
Nghĩa là bình diện của “sự tình” được biểu đạt và những “vai trò”
tham gia sự tình ấy gọi là tham tố (participants) của sự tình gồm diễn tố
(actants) và chu tố (circumstants - những yếu tố đứng xung quanh) [34: 20].
Cách hiểu trên dựa vào lí thuyết kết trị của động từ và cương vị diễn tố
của L.Tesnière (1959). L.Tesnière quan niệm cấu trúc nghĩa của câu xoay
quanh động từ (sự tình) và các diễn tố bổ nghĩa cho nó. Diễn tố là những vai
nghĩa tất yếu được giả định sẵn trong nghĩa của vị từ. Chẳng hạn vị từ “tặng”
có chủ thể của hành động “tặng” gọi là hành thể. Vị từ “tặng” cũng giả định
trước một đối thể là vật đem tặng và một tiếp thể là người nhận tặng phẩm.
Hành thể, đối thể và tiếp thể là diễn tố. Các chu tố làm thành cảnh trí xung
quanh các diễn tố. Chu tố không được giả định một cách tất yếu trong khung
vị ngữ: đó là những điều kiện, không gian, thời gian, cách thức, phương tiện
hoặc những nhân vật có liên quan. Ngoài ra, các chu tố cũng được phân biệt
theo chức năng nghĩa học thành: vị trí, địa điểm,… (theo quan niệm của S. C.
Dik).
Phần này, luận văn sẽ tìm hiểu thành phần phụ chú trên bình diện ngữ
nghĩa biểu hiện.
2.1. Phần phụ chú trong quan hệ với cấu trúc nghĩa biểu hiện
2.1.1. Quan hệ nghĩa của phần phụ chú với các tham tố bắt buộc
(diễn tố)
Như đã trình bày ở chương trước, phụ chú là một bộ phận không tham
gia vào cấu trúc nghĩa của câu với tư cách là thành phần câu mà nó chỉ đóng
vai trò phụ thêm cho một bộ phận nào đó của câu hoặc cả câu. Và bộ phận
nào cũng có thể đặt phụ chú. Do vậy, phụ chú có mối liên hệ với tất cả các
tham tố trong câu.
Tham tố bắt buộc là các diễn tố trong câu, bao gồm diễn tố 1, diễn tố 2
và diễn tố 3. Theo đó, phụ chú cho diễn tố có tác dụng làm rõ đối tượng hay
chủ thể được đề cập. Qua quá trình khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy có
thể khái quát một số chức năng ngữ nghĩa chủ yếu của phần phụ chú với các
diễn tố như sau:
- Mở rộng nghĩa cho các diễn tố
- Thu hẹp nghĩa cho các diễn tố
Để thể hiện chức năng ngữ nghĩa của diễn tố, phần phụ chú thường có
các dạng cấu tạo sau: phụ chú có cấu tạo danh ngữ, phụ chú có cấu tạo chủ -
vị.
* Phụ chú có cấu tạo danh ngữ
(1a) Khoảng 23 giờ ngày 26-1-2000, anh Lê Tâm Việt (chiến sĩ Phòng
Cảnh sát hình sự, CSHS) ngồi ở quán Cơm Phở Hà Nội … [ 75:80]
Với dạng phụ chú như ví dụ (1a) thì đa phần là mở rộng thêm thông tin
về nghề nghiệp, nơi làm việc của chủ thể được đề cập; cụ thể là “anh Lê Tâm
Việt” được tác giả văn bản nêu thêm chức danh là “chiến sĩ Phòng Cảnh sát
hình sự”.
(1b) Tây Bắc (…) là một vùng rộng lớn (một phần tư diện tích miền
Bắc) rất giàu và đẹp của nước ta... [65: 252]
Trong ví dụ (1b), diễn tố là “một vùng rộng lớn” được thu hẹp nghĩa
bằng phần phụ chú “một phần tư diện tích miền Bắc”.
* Phụ chú có cấu tạo chủ - vị
(2a) Lâm Xuân Phát khai đã giao hồ sơ vụ án này cho văn thư của
Phòng kiểm sát điều tra án trị an là chị Hải (chị Hải hiện nay đang định cư tại
Mỹ),… [75: 120]
Dạng phụ chú cấu tạo chủ - vị này có tác dụng bổ sung thêm, mở rộng
thông tin cho đối tượng chú thích. Trong ví dụ (2a), “chị Hải” là diễn tố được
phần phụ chú bổ sung thêm thông tin bằng kết cấu chủ vị: chị Hải hiện nay
đang định cư tại Mỹ.
(2b) Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội
(Quang Dũng thuộc vào số này). [69: 83]
Ở (2b), phần phụ chú “Quang Dũng thuộc vào số này” đã thu hẹp lại
đối tượng so với diễn tố “những thanh niên Hà Nội”.
Sau đây chúng tôi sẽ đi vào quan hệ của phần phụ chú với từng diễn tố
cụ thể.
a) Quan hệ của phần phụ chú với diễn tố 1
Diễn tố 1 là thành phần bắt buộc đối với vị từ trong câu và là chủ thể
của vị từ. Diễn tố 1 có thể là hành thể trong câu hành động vô tác, là tác thể
trong câu trong câu hành động chuyển tác, là động thể trong câu quá trình, là
đương thể, nghiệm thể trong câu tư thế và trạng thái.
Ví dụ: (3) Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật
lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, không cho nó làm một việc trái với
luân thường đạo lí. [70: 67]
Ở đây, diễn tố 1 là Chị thằng Phác, phần phụ chú bổ sung nghĩa cho
Chị thằng Phác. Nhờ phụ chú mà diễn tố 1 được bổ sung thêm ý nghĩa để làm
rõ hơn về chủ thể: cái cô bé phải thực hiện hành động đó rất yếu ớt về hình
thể nhưng lại can đảm về tinh thần.
Sau đây là những dạng cấu tạo thường thấy của diễn tố 1.
a1. Diễn tố 1 là một danh từ, danh ngữ
Trong hiện thực khách quan, có nhiều trường hợp người, sự vật, hiện
tượng, nơi chốn,… có tên gọi giống nhau hoặc ít được biết đến, do đó rất khó
xác định vật quy chiếu của những danh từ này một cách chính xác nếu không
kèm theo nó một định ngữ miêu tả hoặc một phụ chú để giải thích. Khi được
phụ chú giải thích, các danh từ này được coi là đối tượng chú thích của phụ
chú.
Ví dụ: (4) Nhưng dù thế nào thì cái chi tiết quan trọng mà chú bé nhớ
lại (bố nó từng vận chiếc bành tô bằng da) cũng hằn lên tâm trí chú như một
thắc mắc. [70: 107]
Trong (4), phụ chú “bố nó từng vận chiếc bành tô bằng da” đã được
dùng để giải thích cho danh ngữ làm diễn tố là “cái chi tiết quan trọng”
(5) Bà cụ Tứ (mẹ Tràng) ngạc nhiên. [70: 24]
(Bà cụ) Tứ là một danh từ riêng và là đối tượng chú thích của phụ chú
mẹ Tràng.
Mặt khác, bên cạnh những từ ngữ được dùng theo chức năng, ý nghĩa
của chúng còn có các từ ngữ được người viết sử dụng một cách bất thường
với một dụng ý nào đó. Lúc này, để người đọc hiểu, người viết thường dùng
phụ chú để giải thích. Ví dụ như:
(6) Ở đây, người ta chỉ trông chờ ở mỗi đương sự một cái gì riêng,
người khác không thay thế được. Món hàng độc ấy (độc đáo chứ không phải
độc hại) có thể hiểu theo nhiều nghĩa. [74: 15]
Trong trường hợp này, nếu không có phụ chú độc đáo chứ không phải
độc hại, người đọc sẽ không hiểu dụng ý dùng từ “độc” của tác giả.
a2. Diễn tố 1 là một đại từ
Nhìn chung, các đại từ đều có bản chất là chưa rõ nghĩa, vì chúng chỉ
hiện thực hóa ý nghĩa khi quy chiếu đối tượng nào trong hiện thực khách
quan. Khi hoàn cảnh giao tiếp không thuận tiện, để người đọc xác định nghĩa
của đại từ thì người viết có thể dùng phụ chú để xác định nghĩa cho chúng.
Ví dụ: (7) Đằng sau câu nói nhũn nhặn, “có lẽ nó (tức cuốn Tố Tâm –
VTN) ra đời vào lúc người mình đang chờ một tiểu thuyết như thế” là một
khẳng định kín đáo: tác phẩm của ông đã vượt ra khỏi phạm vi cá nhân để trở
thành một hiện tượng có tầm vóc xã hội. [74: 30]
Đối tượng chú thích của phụ chú là đại từ “nó”, một đại từ nhân xưng
ngôi thứ ba. Trong trường hợp này nếu không có phụ chú, đại từ “nó” có thể
hiểu theo 2 cách: hoặc quy chiếu đến “câu nói nhã nhặn” hoặc quy chiếu đến
“tiểu thuyết Tố Tâm”
(8) Cũng phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người
đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi. [68: 75]
Đối tượng chú thích của phụ chú là “những lời ấy”, một danh từ chưa
xác định rõ nghĩa qui chiếu. Trong trường hợp này cũng nhờ có phụ chú mà
đại từ “ấy” đã được xác định vật qui chiếu là “lời của người đàn bà khốn
khổ”.
Như vậy, với diễn tố 1 là đại từ, phụ chú có vai trò khá lớn trong việc
tường minh hóa chủ thể và giúp cho quá trình quy chiếu đối tượng được thuận
lợi.
Nhìn chung, trong trường hợp phần phụ chú bổ sung, giải thích ý nghĩa
cho diễn tố 1, đối tượng chú thích thường có cấu tạo là đại từ, danh từ riêng,
từ dùng có chủ ý của tác giả,… Theo ngữ liệu của chúng tôi, không tìm thấy
đối tượng chú thích là những kí hiệu, phiên âm hay tiếng nước ngoài.
b. Quan hệ của phần phụ chú với diễn tố 2
Diễn tố 2 là diễn tố chỉ đối thể. Loại diễn tố này có mặt khi vị từ hạt
nhân là vị từ chỉ hành động chuyển tác hoặc quá trình chuyển tác. Do đó, sự
xuất hiện của nó ít hơn diễn tố 1 và số lượng phần phụ chú cũng ít hơn.
Ví dụ: (9) Con vịt thì chạy xà quần rượt cắn đám con nít, ông uống chút
gì đó (hoặc trà, hoặc rượu) lai rai với láng giềng. [76: 56]
Trong ví dụ (9), diễn tố 2, “chút gì đó” là đại từ phiếm chỉ kết hợp với
đại từ chỉ định làm cho sự vật quy chiếu không rõ ràng nên phần phụ chú
hoặc trà, hoặc rượu làm rõ nghĩa cho diễn tố 2.
Cũng giống như diễn tố 1, diễn tố 2 có thể là đại từ, danh từ riêng hoặc
danh từ sự vật có nghĩa khái quát, chưa rõ sở chỉ. Như vậy, đối tượng chú
thích của phụ chú ở dạng này không khác biệt nhiều so với phụ chú của diễn
tố 1.
c. Quan hệ của phần phụ chú với diễn tố 3
Diễn tố 3 là diễn tố chỉ tiếp thể. Loại diễn tố này xuất hiện khi vị từ hạt
nhân là vị từ của hành động hoặc quá trình chuyển vị. Số lượng vị từ này khá
ít nên số lượng phụ chú cho diễn tố này cũng khá khiêm tốn. Qua khảo sát
ngữ liệu chúng tôi xác định có 6 đơn vị, chiếm tỉ lệ 1% tổng số ngữ liệu phụ
chú được xác định về mặt ngữ nghĩa.
Ví dụ: (Dẫn lại ví dụ 2) Lâm Xuân Phát khai đã giao hồ sơ vụ án này
cho văn thư của Phòng kiểm sát điều tra án trị an là chị Hải (chị Hải hiện nay
đang định cư tại Mỹ),… [75: 120]
Trong ví dụ trên, diễn tố 3 là chị Hải, là đối tượng chú thích của phần
phụ chú chị Hải hiện nay đang định cư tại Mỹ.
2.1.2. Quan hệ nghĩa của phần phụ chú với các tham tố không bắt
buộc (chu tố)
Tham tố không bắt buộc còn được gọi là chu tố (Cao Xuân Hạo, Đào
Thanh Lan) hay vai nghĩa cảnh huống (Diệp Quang Ban). Chu tố là những từ,
ngữ biểu thị ý nghĩa chu cảnh (thời gian, không gian, cảnh huống) làm thành
phần phụ cho nòng cốt và nêu ra phạm vi mà sự nhận định của nòng cốt có
hiệu lực. Những chu tố có tác dụng mở rộng và cụ thể hóa tính hiện thực của
phát ngôn và do đó làm tăng hiệu quả giao tiếp cho câu. [33: 156]
VD: (10) Phần đêm còn lại, trước khi chìm vào giấc ngủ không mấy
thanh thản, Thao khôi hài nghĩ, hổng biết đêm nay là cái đêm gì mà bị tới ba
con yêu nữ quấy phá. [73: 18]
Trong ví dụ (10), “Phần đêm còn lại” là chu tố chỉ thời gian, để xác
định rõ hơn khoảng thời gian còn lại của đêm, tác giả văn bản đã đưa vào phụ
chú trước khi chìm vào giấc ngủ không mấy thanh thản.
Từ thực tế khảo sát ngữ liệu, luận văn có thể khái quát hai chức năng
ngữ nghĩa cơ bản của phần phụ chú với các chu tố là:
- Mở rộng nghĩa cho chu tố
- Thu hẹp nghĩa cho chu tố
Để thực hiện hai chức năng ngữ nghĩa trên, phần phụ chú cho chu tố
thường có dạng: phụ chú có từ ngữ giải thích, phụ chú có từ ngữ chỉ phạm vi.
a. Phụ chú có từ ngữ giải thích
Dạng phụ chú này hầu hết là thu hẹp nghĩa cho chu tố; một số phụ chú
thường bắt đầu bằng các từ: tức (là), nghĩa là,… Nội dung giải thích cho chu
tố có thể là lời tác giả hoặc lời nhân vật.
Ví dụ: (11a) Nói theo ngôn ngữ thể thao, so với các nhà văn bây giờ,
lúc xuất phát, Hoàng Ngọc Phách tự đặt ra cho mình một mục đích lớn hơn,
ông đi xa hơn, mà lúc tiếp đất (tức trong công việc chia tay với nghề văn) ông
cũng tỏ ra dứt khoát và gọn ghẽ hơn. [74: 32]
Để làm cho người đọc hiểu dụng ý của tác giả khi dùng thuật ngữ thể
thao làm chu tố “lúc tiếp đất”, tác giả văn bản đã dùng thêm phụ chú “tức
trong công việc chia tay với nghề văn” để làm rõ nghĩa cho chu tố.
(11b) Và vào giữa năm 2000 (tức là khi chưa xảy ra vụ án Dung Hà),
đồng chí Phó giám đốc đã gọi điện cho Dương Minh Ngọc… [75: 44]
Trong ví dụ (11b), chu tố là thời gian được phần phụ chú thu hẹp lại
thời điểm “tức là khi chưa xảy ra vụ án Dung Hà”.
Trong loại này, có một bộ phận những phụ chú ẩn đi từ giải thích.
Ví dụ: (11c) Chỉ đến lần thứ hai, khi lại chứng kiến những cảnh ấy,
Phùng mới thể hiện được bản chất người lính là không thể làm ngơ trước sự
bạo hành của cái ác. [70: 65]
Khi dùng chu tố “chỉ đến lần thứ hai”, để nhấn mạnh tần suất của sự
việc là Phùng nhìn thấy những cảnh tượng bạo hành đó, tác giả văn bản đã
thêm vào phần phụ chú cho chu tố rõ nghĩa hơn.
(11d) Bây giờ, gió chướng non xập xòe trên cánh đồng Bất Tận (tên
này tôi tự dưng nghĩ ra). [76: 208]
Trong các ví dụ (11a), (11b), phụ chú giải thích cho chu tố là lời tác
giả, còn trong ví dụ (11d), phụ chú giải thích cho chu tố là phần phụ chú chỉ
nguồn gốc của tên gọi “cánh đồng Bất Tận”. Ví dụ (11c) và (11d) có điểm
chung là không dùng từ giải thích trực tiếp làm rõ nghĩa chúng.
b. Phụ chú có từ ngữ chỉ phạm vi
Dạng phụ chú này có vai trò là mở rộng hay thu hẹp nghĩa của chu tố.
Từ chỉ phạm vi có thể là như, chẳng hạn,…; và trong vài trường hợp tác giả
văn bản dùng cách liệt kê.
Ví dụ: (12) Học sinh lựa chọn các tác phẩm trong chương trình (chẳng
hạn: Vi hành, Chiều tối, Ngắm trăng,…) để minh họa. [70: 27]
Ở ví dụ (12) trên, với chu tố “trong chương trình”, người đọc sẽ chưa
hình dung hết, nhưng với thành phần phụ chú “chẳng hạn: Vi hành, Chiều tối,
Ngắm trăng,…” thì đối tượng đã được xác định phạm vi dễ dàng hơn.
Ví dụ: (13) Bước đi thông thường của một người viết văn ở lứa tuổi tôi,
là sau khi có bài đăng báo (thơ, truyện, phê bình văn học), phải dăm bảy năm
và già dặn ra là chục năm người ta mới có cơ may được in một quyển sách
đầu tiên. [74: 42]
Trong ngữ liệu trên, cụm “có bài đăng báo” được thu hẹp ý nghĩa bởi
phần phụ chú giải thích là “thơ, truyện, phê bình văn học”. Nếu không có
thành phần phụ chú, người đọc có thể nghĩ bao gồm cả những thể loại nghiên
cứu, xã luận hay tạp bút….
Theo kết quả khảo sát ngữ liệu của chúng tôi, bộ phận phụ chú có mối
quan hệ nghĩa với tất cả tham tố bắt buộc và không bắt buộc với tỉ lệ không
đồng đều. Dưới đây là bảng tóm tắt kết quả khảo sát:
Bảng 2.1: Bảng tổng hợp số lượng phần phụ chú có quan hệ nghĩa
với các tham tố
Diễn tố 1 Diễn tố 2 Diễn tố 3 Chu tố Tham tố
Phụ chú Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ %
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Phong cách nghệ thuật 28 17 30 16 0 0 20 17
Phong cách báo chí 63 38 113 60 6 86 58 49
Phong cách khoa học 48 29 44 23 1 14 32 27
Phong cách chính luận 26 16 2 1 0 0 8 7
Tổng số 165 100 189 100 7 100 118 100
Chúng tôi sơ đồ hóa bảng trên bằng biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ 2.1: Bảng biểu thị tỉ lệ phụ chú có quan hệ nghĩa với các tham tố
Bảng 2.1 và biểu đồ 2.1 cho thấy:
- Số lượng phụ chú cho diễn tố 1 trong các văn bản thuộc các phong
cách khác nhau có sự chênh lệch đáng kể. Cụ thể là phụ chú cho diễn tố 1
nhiều nhất là trong phong cách báo chí và ít nhất là trong phong cách chính
luận.
- Số lượng phụ chú cho diễn tố 2 nhiều nhất trong phong cách ngôn
ngữ báo chí và ít nhất trong phong cách chính luận.
- Số lượng phụ chú cho diễn tố 3 chiếm số lượng nhiều nhất trong
phong cách báo chí (86%) và số còn lại thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học.
- Phụ chú cho chu tố xuất hiện trong tất cả các phong cách ngôn ngữ và
nhiều nhất trong phong cách báo chí.
2.2. Phần phụ chú có quan hệ với một yếu tố trong câu
2.2.1. Phần phụ chú giải thích cho những đơn vị có ý nghĩa sự vật
Trong số các ngữ liệu khảo sát, luận văn nhận thấy phụ chú giải thích
cho những đơn vị có ý nghĩa sự vật có 300 đơn vị, chiếm 27% tổng số ngữ
liệu được khảo sát về ngữ nghĩa.
Loại đơn vị có ý nghĩa sự vật mà phụ chú giải thích có thể là danh từ
chung hoặc danh từ riêng.
Ví dụ:
(14) Một giọng văn riêng (như Hoàng Đạo Thúy với lối văn cộc lốc rơi
rớt từ thời Hoàng Tích Chu)… [74: 16]
(15) Thế các thi sĩ (không thuộc hai loại người trên) làm thế nào để có
thơ in? Vẫn có cách của họ. [74: 90]
Trong thực tế, tên riêng của những sự vật đôi khi lại trùng nhau. Trong
những trường hợp như thế, các danh từ riêng này cần có phụ chú để xác định
sự vật hoặc phạm vi của sự vật.
(16) Dung Hà sinh năm 1965 trong một gia đình đông anh em, mẹ mất
sớm và có hộ khẩu tại 2/23 phố Trạng Trình phường Phan Bội Châu quận
Hồng Bàng (Hải Phòng). [75: 15]
(17) Dung Hà đang ngồi uống nước với Nguyễn Thị Bích Thanh, Đoàn
Thị Tú Anh và Nguyễn Thị Nghiệp tại trước cửa số nhà 17 Bùi Thị Xuân
thuộc phường Bến Nghé (quận 1 – Thành phố Hồ Chí Minh). [75: 7]
(18) Băng Bò Lục, Lủng Cu Trắng chuyên bảo kê cho các sòng bạc của
Bảy Xí (anh rể Năm Cam)… [75: 21]
Trong các ví dụ (14 - 18), các đối tượng chú thích của phụ chú có thể là
danh từ chỉ người hoặc danh từ chỉ khái niệm trừu tượng, là danh từ riêng chỉ
người hoặc địa danh,… Như vậy, những sự vật được phụ chú có thể rất cụ thể
khi hoạt động trong ngữ cảnh khác nhưng trong ngữ cảnh cụ thể thì chưa xác
định nên cần có phụ chú. Với trường hợp của danh từ riêng, phụ chú có thể
dùng để xác định mối quan hệ, thân thế đối tượng như trong (18) hoặc dùng
để thêm quan hệ thượng danh và hạ danh của đối tượng như trong (16, 17):
Quận Hồng Bàng có quan hệ hạ danh với Hải Phòng (ví dụ 16); phường Bến
Nghé có quan hệ hạ danh với Quận 1- Thành phố Hồ Chí Minh (ví dụ 17).
2.2.2. Phần phụ chú giải thích cho những đơn vị chỉ hành động,
trạng thái, quá trình
Phụ chú giải thích cho vị từ rất đa dạng và chiếm số lượng nhiều bao
gồm các vị từ chỉ hành động, trạng thái và quá trình và có 198 trường hợp,
chiếm tỉ lệ 18% trong tổng số ngữ liệu được khảo sát về ngữ nghĩa.
Hành động là thực hiện một chức năng nhất định nào đó; trạng thái là
tình trạng của một sự vật hoặc con người xem như không có gì thay đổi trong
một thời gian nào đó; quá trình là trình tự phát triển, diễn biến của một sự
việc nào đó [39]. Như vậy, phụ chú giải thích cho hành động, trạng thái và
quá trình có vai trò làm rõ diễn biến, tình trạng hay hành động nào đó của đối tượng.
Ví dụ: (19) Nội tôi dứt khoát không chịu (nội có tỉ tỉ lý do, nhưng cái lý
do lớn nhất là người phụ nữ đó đã có một đời chồng), ba tôi mới dắt díu
người ta bỏ nhà đi sống kiếp thương hồ. [76: 126]
(20) Ông đi được vài bước, ông day lại nhìn Diễm Thương (cho chắc là
nó đang đứng đây, và có thiệt trên đời). [76: 10]
(21) Ông sẽ đưa nó đi dài xóm, khoe “Con Cải tui về đây nè, bà con
coi, nó lớn quá chừng hen”, trong lòng không giấu được hả hê (vậy mà mấy
người nói tui giết nó). [76: 10]
Ở ví dụ (19), phụ chú nội có tỉ tỉ lý do, nhưng cái lý do lớn nhất là
người phụ nữ đó đã có một đời chồng giải thích cho quá trình không đồng ý
(không chịu) được nhắc đến. Còn trong ví dụ (20), hành động “nhìn” được
phụ chú giải thích mở rộng thêm với mục đích là “cho chắc là nó đang đứng
đây, và có thiệt trên đời”, phân biệt đây không phải là hành động “nhìn” bình
thường. Đến ví dụ (21), trạng thái “hả hê” được giải thích lí do đã thanh minh
được với mọi người rằng “vậy mà mấy người nói tui giết nó”.
Qua số lượng của ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy dạng phụ chú này
chiếm số lượng tương đối nhiều. Những phụ chú giải thích cho vị từ chỉ hành
động, trạng thái, quá trình góp phần tăng mức độ nhấn mạnh, tăng hiệu quả
dụng ý riêng của tác giả văn bản.
2.2.3. Phần phụ chú giải thích cho những đơn vị chỉ tính chất, đặc
điểm
Phụ chú giải thích cho những đơn vị chỉ tính chất, đặc điểm có số
lượng 170 trường hợp, chiếm tỉ lệ 15% trong số 1097 tổng số ngữ liệu được
khảo sát về mặt ngữ nghĩa của luận văn.
Đặc điểm là những nét riêng biệt; còn tính chất là những đặc điểm
riêng của sự vật, hiện tượng, phân biệt nó với những sự vật, hiện tượng khác
loại [39]. Phụ chú giải thích cho những đơn vị chỉ tính chất, đặc điểm sẽ bổ
sung thêm nét riêng biệt và đặc trưng của đối tượng được đề cập.
Ví dụ:
(22) Vẻ đẹp kiêu hùng của con cá – đặc biệt khi nó chưa bị cầm tù – có
thể biểu tượng cho ước mơ. [70: 116]
(23) Với một khối lượng chữ nghĩa khiêm tốn – in ra chưa đầy 100
trang khổ sách 13x19, tiểu thuyết Tố Tâm xuất hiện như một cuốn sách kì lạ
trong đời sống văn chương những năm đầu thế kỉ. [74: 27]
(24) Mặt khác cái lối in ào ào, quý hồ đa bất quý hồ tinh rút cục khiến
cho người ta nghĩ rằng những chuẩn mực có thể hiểu thế nào cũng được.
[74:44]
Trong ví dụ (22), phần phụ chú đã bổ sung thêm yếu tố thời gian để
làm nổi bật vẻ đẹp kiêu hùng của con cá ở thời điểm nó chưa bị cầm tù.
Ở ví dụ (23), tính chất “khiêm tốn” của khối lượng chữ nghĩa được giải
thích rõ ràng, cụ thể nhờ phụ chú “in ra chưa đầy 100 trang khổ sách 13x19”;
tương tự, ví dụ (24), phụ chú “quý hồ đa bất quý hồ tinh” đã giải thích thêm
tính chất, quan niệm của việc “in ào ào”.
2.2.4. Phần phụ chú giải thích cho những đơn vị chỉ số lượng
Phụ chú giải thích cho những đơn vị chỉ số lượng có 121 đơn vị, chiếm
tỉ lệ 11% trong số 1097 tổng số phụ chú được khảo sát.
Số lượng mà phụ chú giải thích rất đa dạng, có thể đó là số lượng về
thời gian, số lượng về đối tượng, sự việc… Đối tượng của phụ chú số lượng
thường là những cách nói chung chung không xác định, phần phụ chú sẽ minh
họa chi tiết số lượng đó một cách rõ nét.
Ví dụ:
(25) Này tỉnh X. đang cần thêm mấy bài cho cuốn tác giả văn học của
nó đấy. Cậu viết cho nó một bài. Định đòi mấy trăm nào? (hồi ấy mấy trăm
còn quý). [74: 38]
(26) Và nếu đó trở thành xu thế chủ đạo thì tức là những từ vốn sống
dai dẳng, từ mấy trăm năm qua (bằng chứng là nó được ghi trong từ điển Việt
– Bồ - La của A.de Rhodes (1951) đến nay có nguy cơ trở thành tiếng Việt cổ,
một thứ tử ngữ. [74: 79-80]
(27) Mà quãng trước sau 1940, dân Việt Nam mới độ 25 – 30 triệu (thơ
Tản Đà: Dân hai lăm triệu ai người lớn – Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con).
[74: 95]
(28) Trong hơn chục năm, số lượng những tập thơ được in ra chỉ độ vài
ba chục gì đấy (Riêng NXB Đời nay của nhóm Tự Lực văn đoàn suốt trong
thời gian tồn tại của mình chỉ in có 8 tập). [75: 177]
Trong ví dụ (25), đối tượng của phụ chú là “mấy trăm” (tiền) là một số
lượng có giá trị trong thời điểm diễn ra của phát ngôn, nhưng khi tường thuật
lại, tác giả không muốn người đọc nhầm lẫn giá trị số lượng đó với hiện tại
nên đã thêm phần phụ chú hồi ấy mấy trăm còn quý giải thích cho số lượng
vừa mới đưa ra.
Ở ví dụ (26), đối tượng chú thích của phụ chú là “từ mấy trăm năm
qua”, số lượng ở đây là một khoảng thời gian; và để tạo ra sức thuyết phục
cho lập luận, tác giả đã đưa vào phụ chú để minh xác cho đối tượng của phụ
chú: “bằng chứng là nó được ghi trong từ điển Việt – Bồ - La của A.de
Rhodes (1951)”.
Tương tự, trong ví dụ (27), tác giả của văn bản đưa ra vấn đề là khoảng
thời gian trước sau năm 1940, “dân Việt Nam mới độ 25 – 30 triệu”; điều này
được tác giả khẳng định bằng cách dẫn ra nguồn của số liệu trên bằng phụ chú
“thơ Tản Đà: Dân hai lăm triệu ai người lớn – Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ
con”.
Ở ví dụ (28), đối tượng chú thích của phụ chú là “số lượng những tập
thơ được in ra chỉ độ vài ba chục”; phần phụ chú đưa thêm một số liệu để
chứng minh: “Riêng NXB Đời nay của nhóm Tự Lực văn đoàn suốt trong thời
gian tồn tại của mình chỉ in có 8 tập”.
Từ các ví dụ (25-28), đối tượng phụ chú đều chỉ số lượng, số lượng này
có thể là chính xác hoặc không; còn phần phụ chú có thể là số lượng hoặc
không phải số lượng.
Đôi khi có những trường hợp, phần phụ chú vẫn giải thích số lượng,
đưa ra những con số cụ thể nhưng đối tượng chú thích không phải là số lượng.
Trường hợp này chúng tôi xếp là 1 kiểu biến thể nhỏ.
* Phụ chú là số lượng
Ví dụ: (29) Từ đó về sau (2-10-2000 đến đầu tháng 12-2000), Năm
Cam và Hải “bánh” tạm thời không liên lạc nữa. [75: 67]
(30) Đến trước cửa quán, pha đèn Suzuki Sport của Kiệt chiếu thẳng
vào bàn ăn của các anh Phan Lê Sơn, Hồ Phước Hưng cùng các bạn gái (tất
cả gồm 9 người) cũng đang ngồi uống bia, ăn khuya tại quán. [75: 73]
(31) Căn cứ lời khai của bị can Trần Văn Minh, của Lê Văn Thơm và
lời khai của người bị thấy có đủ cơ sở xác định Minh và Thơm đã cưỡng đoạt
tài sản của chị Lê Thị Lắm (Năm “mọi” 7.200.000 đồng và của chị Đặng Thị
Kim Nho là 2.400.000 đồng) bằng hình thức nhận bảo kê. [75: 160]
Trong ví dụ (29), đối tượng chú thích là ngữ “Từ đó về sau”, người đọc
khó có thể quy chiếu rõ ràng mốc thời gian nếu không có thêm phần phụ chú
“2-10-2000 đến đầu tháng 12-2000”.
Trong ví dụ (30), phần phụ chú “tất cả gồm 9 người” đã xác định được
rõ số lượng của đối tượng chú thích là “các bạn gái”.
Ở ví dụ (31), đối tượng chú thích là “cưỡng đoạt tài sản của chị Lê Thị
Lắm” được minh họa rõ nét bằng các số lượng cụ thể trong phụ chú “Năm
“mọi” 7.200.000 đồng và của chị Đặng Thị Kim Nho là 2.400.000 đồng”
Các ví dụ (29 - 31), đều có chung một đặc điểm là đối tượng chú thích
không phải là số lượng mà có thể là hành động, những thời đoạn,…; nhiệm vụ
của phần phụ chú sẽ cung cấp số lượng chi tiết và cụ thể, nhằm minh xác cho
thông tin được nêu ra.
Nhìn chung, phần phụ chú giải thích cho những đơn vị chỉ số lượng có
vai trò bổ sung, giải thích số liệu đưa ra trong văn bản, minh xác số liệu ấy
hoặc dẫn nguồn của số liệu. Nhờ đó, nghĩa của văn bản thêm chi tiết, cụ thể.
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp về phần phụ chú có quan hệ với một yếu tố
trong câu
Ý nghĩa sự
vật
Ý nghĩa
hành động,
trạng thái,
quá trình
Ý nghĩa
tính chất,
đặc điểm
Ý nghĩa chỉ
số lượng
Yếu tố
Phong
cách Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Tổng
số
Khoa học 63 21 30 15 60 36 26 22 179
Nghệ thuật 30 10 90 45 34 20 15 12 169
Chính luận 57 19 22 11 48 28 28 23 155
Báo chí 150 50 56 29 28 16 52 43 286
Tổng số 300 100 198 100 170 100 121 100 789
21
15
36
22
10
45
20
12
19
11
28
23
50
29
16
43
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
Khoa học Nghệ thuật Chính luận Báo chí
Ý nghĩa sự vật
Ý nghĩa hành động, trạng thái, quá trình
Ý nghĩa tính chất, đặc điểm
Ý nghĩa chỉ số lượng
Biểu đồ 2.2: So sánh phần phụ chú có quan hệ với một yếu tố trong
câu trong những phong cách ngôn ngữ khác nhau
Bảng 2.2 và sơ đồ 2.2 đã tường minh hóa các ý nghĩa:
- Ý nghĩa sự vật chiếm số lượng nhiều nhất trong số các loại phụ chú
được tìm thấy trong ngữ liệu và tập trung nhiều nhất ở phong cách ngôn ngữ
báo chí.
- Ý nghĩa hành động, trạng thái, quá trình xếp thứ hai, sau ý nghĩa sự vật
và tập trung nhiều trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật .
- Ý nghĩa tính chất, đặc điểm chiếm số lượng nhiều nhất trong phong
cách ngôn ngữ khoa học.
- Ý nghĩa chỉ số lượng chiếm số lượng nhiều trong phong cách ngôn ngữ
báo chí.
2.3. Phần phụ chú có quan hệ với câu – phụ chú cho một sự tình
Ngoài những đối tượng chú thích của phụ chú đã nêu trên, đối tượng
của phụ chú còn là câu hoặc vế câu biểu thị cho sự tình. Theo sự phân chia sự
tình, chúng tôi chia thành phần phụ chú thành 2 loại:
2.3.1. Phụ chú cho sự tình động
Sự tình động được hiểu là là những biến cố, những sự việc, những sự
thay đổi có thể diễn ra, xảy ra như “nổ”, “đánh” hay những hành động có chủ
ý như “chạy” , “đánh”,… có sự điều khiển của bản thân sự vật.
Xét về mặt công dụng, tất cả các kiểu phụ chú đều dùng để bổ sung một
điều gì đó vào văn bản. Nhưng nếu xem xét chi tiết hơn, dựa vào vai trò của
phụ chú đối với sự tình động, có thể chia thành các tiểu loại.
a. Phụ chú thể hiện nguyên nhân, điều kiện cho sự tình
Ví dụ: (32) Hải “bánh” đã đưa Hưng và Trường xuống Vũng Tàu trốn
và nhiều lần liên lạc với Năm Cam, mục đích là yêu cầu Năm Cam lo cho
Hưng và Trường trốn đi nước ngoài (vì trước đó, Năm Cam đã hứa hẹn giúp
đỡ và lo cho Hải “bánh”) nhưng Năm Cam không nghe máy. [75: 67]
(33) Năm Cam đã mua vé máy bay ra Hà Nội nhờ Thắng “Tài Dậu”
dẫn đến nhà Trần Văn Thuyết ở số 91 Nguyễn Thái Học, Hà Nội để nhờ
Thuyết lo chạy giúp (vì biết Thuyết có quen nhiều cán bộ ở các cơ quan pháp
luật, các cơ quan báo chí ở trung ương). [75: 202]
(34) Ông già Chín nói nghề bán vé số của ông thấy vậy mà có ý nghĩa
ghê lắm, vì đem lại hy vọng cho người ta, vì đem lại sự giàu có cho người ta
(nếu trúng số), và nghề này có ý nghĩa nhất là trên những dặm đường phiêu
bạt, ông tìm được cô đào Hồng. [76: 85]
(35) Các con bạc chọn ô (…) trên chiếu bạc để đặt tiền (nếu đặt tiền với
số lượng lớn thì đổi ra phỉnh). [75: 171]
Trong ví dụ (32), sự tình là “nhiều lần liên lạc với Năm Cam” được
phần phụ chú bổ sung về nguyên nhân của sự tình là: vì trước đó, Năm Cam
đã hứa hẹn giúp đỡ và lo cho Hải “bánh”; tương tự trong ví dụ (31), phần
phụ chú vì biết Thuyết có quen nhiều cán bộ ở các cơ quan pháp luật, các cơ
quan báo chí ở trung ương đã bổ sung điều kiện cho đối tượng chú thích là sự
tình “mua vé máy bay… để nhờ Thuyết lo chạy giúp”.
Ở ví dụ (34), phần phụ chú nếu trúng số đã bổ sung điều kiện cho sự
tình: đem lại sự hi vọng và giàu có cho người ta; tương tự ở ví dụ (33), sự
tình “đặt tiền” được bổ sung thêm điều kiện cụ thể là: nếu đặt tiền với số
lượng lớn thì đổi ra phỉnh.
Như vậy, phần phụ chú thể hiện nguyên nhân, điều kiện cho sự tình
động thường bắt đầu bằng các quan hệ từ như: vì, do, sở dĩ,…; nếu, nếu
như,… và đa phần là có cấu tạo ngữ pháp là tương đương một vế câu.
b. Phụ chú thể hiện đặc điểm, tính chất cho sự tình
Ví dụ:
(36) …Công an quận Hoàn Kiếm ra lệnh bắt tạm giam Lê Duy Long
(có phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm). [75: 133]
(37) Trong khi đang chấp hành án phạt tù tại trại Phi Liệt (…),
Nguyễn Khánh Quốc cùng đồng bọn đánh bạc xóc đĩa, bị bắt quả tang ngày
20-1-1986 (việc đánh bạc do Quốc rủ rê các phạm nhân khác tham gia và
chính Quốc là người chuẩn bị dụng cụ như bát, đĩa và cắt lá bài tổ tôm là
đồng vị…) [75: 187]
Trong ví dụ (36) trên, sự tình “ra lệnh bắt giam” được bổ sung thêm
về đặc điểm nhờ phụ chú có phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân quận
Hoàn Kiếm. Còn ở ví dụ (37), phần phụ chú việc đánh bạc do Quốc rủ rê các
phạm nhân khác tham gia và chính Quốc là người chuẩn bị dụng cụ như bát,
đĩa và cắt lá bài tổ tôm là đồng vị… đã bổ sung thêm tính chất của sự tình
“Nguyễn Khánh Quốc cùng đồng bọn đánh bạc”.
Cả hai ví dụ trên cho thấy những sự tình khi trở thành đối tượng của
phụ chú, về hình thức, thường không phải là sự tình đặc biệt. Tuy nhiên, để
thể hiện đặc điểm tính chất của sự tình, tác giả văn bản thường dùng phụ chú
để bổ sung vào văn bản. Do đó, dạng phụ chú này thường có cấu tạo dài,
mang ý nghĩa miêu tả, minh họa.
c. Phụ chú thể hiện kết quả, khả năng cho sự tình
Ví dụ:
(38) Điều này càng đặc biệt rõ khi chuyển thể truyện “Số phận con
người” thành phim truyện (Sô- lô- khốp rất hài lòng với phim này, ông trực
tiếp xuất hiện với tư cách người dẫn truyện). [70: 109]
(39) Tại buổi làm việc ngày 26-6-2002, do Ủy ban Kiểm tra Trung ương tổ
chức (…), ông Chiến đã thừa nhận: Đến nay thấy tài liệu (1995) để tập trung
cải tạo đối với Trương Văn Cam là quá đủ (có khi còn thừa)… [75: 227]
Trong ví dụ (38), sự tình “chuyển thể truyện “Số phận con người”
thành phim truyện” dẫn đến kết quả là “Sô- lô- khốp rất hài lòng với phim
này, ông trực tiếp xuất hiện với tư cách người dẫn truyện”; phần kết quả này
đã được bổ sung nhờ phụ chú.
Ở ví dụ (39), đối tượng chú thích của phụ chú là “thấy tài liệu của
Năm Cam đã quá đủ” được phần phụ chú bổ sung thêm khả năng là: “có khi
còn thừa”.
Qua hai ví dụ (38) và (39), có thể thấy rằng phụ chú thể hiện kết quả,
khả năng cho sự tình có vai trò là bổ sung thêm cho sự tình những kết quả
khác với mong đợi, khả năng ngoài mong muốn, hoặc có thể là tình thái khả
năng của sự việc. Về phần này chúng tôi sẽ phân tích ở chương sau.
d. Phụ chú thể hiện sự phủ định, khẳng định cho sự tình
Ví dụ:
(40a) Mai mốt đây hai đứa phải lấy chồng (con gái ở quê nuôi lớn
không để lấy chồng thì để làm gì?). [76: 43]
Trong ví dụ (40a), sự tình “lấy chồng” là đối tượng chú thích của phần
phụ chú “con gái ở quê nuôi lớn không để lấy chồng thì để làm gì?”. Phần
phụ chú này thể hiện ý nghĩa khẳng định: lấy chồng là điều quan trọng đối với
phụ nữ ở nông thôn.
(40b) Song giờ đây, khi những câu văn tế đọc bên nấm mồ đã nhanh
chóng trở nên văn bia vì ngay sau đó, nó được in lên mặt báo được tuyển vào
sách (nghĩa là cái câu khôn văn tế, dại văn bia không đúng nữa), thì có lẽ nên
bảo nhau tỉnh táo một chút. [76: 122]
Ở ví dụ (40b), phần phụ chú nghĩa là cái câu khôn văn tế, dại văn bia
không đúng nữa đã phủ định về sự tình có vấn đề nhập nhằng giữa cách dùng
văn tế và văn bia trong thực tế.
Như vậy, trong quá trình tạo lập văn bản, khi đưa ra một sự tình, tác giả
văn bản có thể phủ định hoặc khẳng định sự tình đó bằng cách tạo ra phụ chú.
e. Phụ chú thể hiện thời gian cho sự tình
Ví dụ:
(41) Nghiên cứu buổi đầu dựng nước và giữ nước của dân tộc – thời kì
Hùng Vương và trước nữa – chúng ta không chỉ dựa vào một ít tài liệu lịch
sử, cũng không chỉ tìm hiểu qua các truyền thuyết, chúng ta còn có một kho
tàng rất phong phú và quý giá vô ngần: đó là những di tích do người xưa để
lại, được bảo tồn khá chu đáo trong lòng đất mà ngày nay khảo cổ phải nghiên
cứu. [65: 161]
Trong ví dụ (41), sự tình “Nghiên cứu buổi đầu dựng nước và giữ nước
của dân tộc” trở thành đối tượng chú thích của phần phụ chú bổ sung ý nghĩa
về thời gian, đó là: thời kì Hùng Vương và trước nữa.
Phần phụ chú bổ sung cho sự tình về thời gian có hai dạng có thể là
thời đoạn hoặc thời điểm xảy ra sự tình. Trong những trường hợp như thế,
nhờ phần phụ chú mà sự tình được xác định rõ ràng về thời gian.
g. Phụ chú thể hiện phương tiện, phương thức cho sự tình
Ví dụ:
(42) Như chúng tôi đã lưu ý nhiều lần (qua các bài viết trong các mục
Sổ tay hàng tháng) nay là lúc các sáng tác đang bung ra về số lượng, mà cơ
chế lựa chọn thì không theo kịp. [74: 75]
Trong ví dụ ở trên, sự tình “lưu ý” là đối tượng chú thích của phần phụ
chú thể hiện ý nghĩa về phương tiện cho sự tình: Sự lưu ý đó được thực hiện
qua các bài viết trong các mục Sổ tay hàng tháng.
2.3.2. Phụ chú cho sự tình tĩnh
Sự tình tĩnh có thể hiểu là những tình thế, những trạng thái, những tính
chất có thể kéo dài, nghĩa là tồn tại ở các sự vật trong một thời gian được tri
giác là có chiều dài như “to”, “ngủ”, “sợ”, những tư thế như “đứng”, “ở”...
Nói cách khác, đó là những sự tình không do chủ ý mà ra, những quá trình
hay những trạng thái của sự vật mà không có sự tự điều khiển của chúng.
[41: 49].
Ví dụ: (43) Mắc yêu thì yêu – ông già cự lại, vẻ mặt sương sướng
không giận gì ai – Bây thì biết gì, tình xưa đó, mà, mình thương người ta mà
người ta đâu có thương mình. [76: 87]
(44) Thường Khanh đã già đi (ai mà chẳng vậy) nhưng cái phong thái
tao nhã ung dung vẫn như ngày xưa. [76: 94]
Phần phụ chú trong 2 ví dụ trên có tác dụng rõ nghĩa cho “yêu” và
“già”. Cả hai sự tình được đề cập đó là một tất yếu khách quan và cả 2 phụ
chú nhằm khẳng định không thể thay đổi những tất yếu đó trong cuộc sống.
Dựa vào vai trò của phụ chú đối với sự tình, luận văn nhận thấy phụ
chú cho sự tình tĩnh cũng có những điểm tương đồng về quan hệ ngữ nghĩa
với sự tình như phụ chú cho sự tình động.
Ví dụ phụ chú thể hiện sự phủ định, khẳng định cho sự tình tĩnh:
(45) Những săn sóc nâng niu, những lời nói ngọt ngào…tất cả đều
không thật (mình biết tỏng tòng tong là nhờ bùa ngãi chớ thương yêu gì).
[76:108]
(46) Có hề gì, rồi chị sẽ yêu một người khác, nhưng mãi mãi, chỉ
không quên nỗi ê chề bị bỏ lại bên đường (bằng chứng là ba cha con tôi có
quên được đâu). [76: 189]
Ví dụ phụ chú thể hiện thời gian cho sự tình:
(47) Tôi ngẫm nghĩ mấy giả thuyết (tất nhiên là trong lúc rảnh), có thể,
khi tôi tất tả trên con đường này thì thằng bạn lại đi trên con đường khác; tôi
đi chợ mua cá nấu cơm, bạn đang nhậu; tôi thức gần trắng đêm để viết lách
kiếm cơm, bạn phải ngủ; khi tôi ngược về vùng sâu vùng xa công tác, bạn
được sếp cử đi Sài Gòn…kẻ xuôi người ngược. [76: 134]
…
Ngoài những ý nghĩa quan hệ với phụ chú giống như với sự tình động
đã nêu ở trên, sự tình tĩnh còn có thêm một số tiểu loại sau:
a. Phụ chú thể hiện hệ quả của sự tình
(48) Những cánh đồng đó đã hất hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn
vịt). [76: 208]
Ở đây, hệ quả của sự tình “hất hủi cây lúa” có thêm hệ quả là: và gián
tiếp từ chối đàn vịt. Sở dĩ người đọc có thể hiểu một cách trọn vẹn, đầy đủ sự
tình vì đối tượng chú thích được thể hiện bằng phần phụ chú.
b. Phụ chú thể hiện sự tác động cho sự tình
(49) May, sau nầy Thường không đến nữa, vì bận túi bụi thay Hậu tiếp
nhận chức Tổng giám đốc công ty Mặt trời, nghiễm nhiên là chủ tịch hiệp hội
đồ chơi (những gì Hậu để lại nặng nề hết sức). [76: 147]
Trong ví dụ (49), phần phụ chú “những gì Hậu để lại nặng nề hết sức”
bổ sung ý nghĩa cho đối tượng chú thích là “thay Hậu tiếp nhận chức Tổng
giám đốc công ty Mặt trời”. Ở đây phần phụ chú đã đưa ra những tác động
của việc thay thế chức vụ đó là “những hậu quả hết sức nặng nề”.
Có thể hình dung sự phân bố của phụ chú đối với các loại sự tình trong
câu bằng bảng dưới đây:
Bảng 2.3: Bảng so sánh phụ chú cho sự tình tĩnh và sự tình động
trong các phong cách văn bản
Sự tình tĩnh Sự tình động Sự tình
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Phong cách nghệ thuật 47 26 24 18
Phong cách báo chí 21 12 37 29
Phong cách khoa học 70 39 50 39
Phong cách chính luận 41 23 18 14
Tổng số 179 100 129 100
26
18
12
29
3939
23
14
0
5
10
15
20
25
30
35
40
Nghệthuật
Báo chí Khoahọc
Chínhluận
Sự tình tĩnh
Sự tình động
Biểu đồ 2.3: So sánh phụ chú cho sự tình tĩnh và sự tình động trong
các phong cách văn bản
Từ bảng 2.3 và sơ đồ 2.3, luận văn rút ra một số nhận xét như sau:
- Phụ chú cho sự tình tĩnh chiếm số lượng nhiều hơn phụ chú cho sự
tình động và nhiều nhất trong phong cách ngôn ngữ khoa học và ít nhất trong
phong cách ngôn ngữ báo chí.
- Phụ chú cho sự tình động cũng có số lượng nhiều nhất trong phong
cách khoa học và ít nhất trong phong cách chính luận.
TIỂU KẾT
- Phụ chú hiện diện ở tất cả các vị trí trong câu và có chức năng
hết sức đa dạng: bổ sung ý nghĩa, mở rộng hay thu hẹp ý nghĩa của yếu tố
được phụ chú.
- Đối tượng chú thích có ý nghĩa sự vật chiếm số lượng nhiều nhất
trong các loại ý nghĩa.
- Có thể hình dung chức năng ngữ nghĩa của phụ chú với các yếu
tố được phụ chú trong bảng tổng kết sau đây:
Bảng 2.4: Bảng tổng kết chức năng ngữ nghĩa của phụ chú với sự
tình trong câu
Yếu tố
Chức năng
ngữ nghĩa
Sự tình
động
Sự tình
tĩnh
Nguyên nhân + +
Điều kiện + +
Đặc điểm + +
Tính chất + +
Hệ quả - +
Kết quả + +
Khả năng + +
Phủ định + +
Khẳng định + +
Thời gian + +
Phương tiện, phương thức + +
Tác động - +
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA NGỮ DỤNG
CỦA PHẦN PHỤ CHÚ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT
Phần này luận văn sẽ xem xét thành phần phụ chú trên bình diện ngữ
nghĩa ngữ dụng . Đây là bình diện của việc sử dụng ngôn từ trong những tình
huống cụ thể, đối thoại cụ thể, trong những ngữ cảnh cụ thể với những mục
đích cụ thể. Theo quan niệm của đa số tác giả hiện nay, cấu trúc câu xét theo
bình diện dụng học tức là tìm hiểu sự thông báo nêu - báo trong câu, các hiện
tượng tiêu điểm hóa (focalisation) và cường điệu (emphatisation) nhấn mạnh
ngữ đoạn này hay ngữ đoạn khác để nêu rõ tầm quan trọng hay sự tương
phản, các giá trị ngôn trung và sức ngôn tác (perlocutionary force), các quy
tắc sử dụng ngôn từ do phong tục dân tộc quy định,…
Nghiên cứu phần phụ chú trên bình diện ngữ nghĩa ngữ dụng có mối
liên hệ với một số vấn đề về văn hóa, phong cách,…
3.1. Phần phụ chú xét theo hành động ngôn trung
Trong giao tiếp, khi đưa ra một phát ngôn, người phát ngôn thường
thực hiện hai hành động: hành động mệnh đề và hành động ngôn trung. Hành
động ngôn trung là hành động giao tiếp nhất định và có mặt trong bất kỳ phát
ngôn nào.
Mặt khác, phần phụ chú trong câu tiếng Việt (dù được cấu tạo bằng
hình thức nào) cũng là lời chú thích của người chú thích (người tạo văn bản,
nhân vật trong văn bản hay của người biên tập văn bản). Và bất kì lời chú
thích nào cũng hướng đến đối tượng người đọc. Như vậy, bất kì phụ chú nào
cũng đều có đích ngôn trung. Theo đó, mỗi một hành động chú thích đều nêu
ra một sự nhận định hay một sự xác nhận, “đó là sự thực hiện một hành động
tạo lời mang lực ngôn trung” [32: 259]. Trong mọi trường hợp, một cách trực
tiếp hay gián tiếp đều có thể nhận ra phụ chú được dùng để thực hiện hành
động nói nào đó và ở đây chỉ bàn đến hành động ngôn trung (hành động tại
lời). Hành động nói đó có thể được thực hiện bằng câu ngôn hành, có thể thực
hiện bằng kiểu câu phân theo mục đích nói trực tiếp hoặc gián tiếp.
Trên cơ sở đã nêu, căn cứ vào bảng phân loại 5 lớp hành động của
J.Searle, ngữ liệu khảo sát cho thấy các phụ chú trong câu tiếng Việt chủ yếu
phân bố vào 4 lớp hành động nói:
- Phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp biểu hiện
- Phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp điều khiển
- Phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp ước kết
- Phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp bộc lộ
Ngoài 4 kiểu phụ chú thực hiện hành động nói thuộc 4 lớp kể trên, còn
có một kiểu phụ chú đồng thời thực hiện nhiều hành động nói khác nhau (các
hành động này có thể cùng nằm trong một lớp hoặc không) tạm gọi là kiểu
phức hợp hành động nói. Ở đây, luận văn không bàn đến trường hợp phức
hợp này.
3.1.1. Phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp biểu hiện
Đích ngôn trung của lớp biểu hiện này là chỗ ghi nhận “trách nhiệm”
của người nói trong việc thông báo tình trạng sự việc với các thang độ: đúng,
chính xác, không đúng, không chính xác [52].
Trong số 817 ngữ liệu khảo sát, phụ chú thuộc lớp này có 769 đơn vị,
chiếm tỉ lệ 94%. Toàn bộ 769 phụ chú của lớp biểu hiện được phân bố vào 17
kiểu nhỏ.
(1) Phụ chú thực hiện hành động “giải thích”
Qua quá trình khảo sát ngữ liệu, chúng tôi xác định có 256 trường hợp
phụ chú thực hiện hành động giải thích, chiếm tỉ lệ 33% của lớp biểu hiện.
Tùy đối tượng chú thích và mục đích giải thích mà kiểu phụ chú này
thực hiện chức năng giải thích khác nhau. Trong giới hạn của luận văn khó có
thể khái quát hết các kiểu giải thích mà phụ chú thực hiện đối với phát ngôn.
Dưới đây là những kiểu tiêu biểu:
* Phụ chú giải thích bằng cách giải nghĩa: Giải nghĩa tức là làm cho
rõ nghĩa [39]. Do đó, phụ chú giải thích bằng cách giải nghĩa là làm rõ nghĩa
đối tượng chú thích. Ví dụ:
(1a) Từ buôn lậu, Dung Hà chuyển sang bảo vệ ngầm (bảo kê) cho một
số nhà hàng, vũ trường và mở sòng bạc. [75: 15]
(1b) Công an Hà Nội dựng được hai nhóm đối tượng là nhóm của
Nguyễn Văn Thắng – tức Thắng “tài dậu” và Trần Quốc Sơn – tức Sơn
“bạch tạng”. [75: 26]
(1c) Năm Cam lại gọi tên Cường đến, cho mở sòng mới ở ngã ba
Thành phố Hồ Chí Minh – Biên Hòa và tại đây Năm Cam được hưởng 60%
tiền xâu (tức là tiền của các con bạc, ai thắng ván nào phải bỏ ra 10% cho
chủ sòng). [75: 51]
Loại phụ chú trong các ví dụ trên đều được dùng để giải thích bằng
cách giải nghĩa. Do người chú thích sử dụng cách giải nghĩa các từ không
giống nhau mà các phụ chú này có sự khác biệt về chi tiết:
- Trong ví dụ (1a), cách giải nghĩa là dẫn ra một từ đồng nghĩa (chỉ
khác phong cách). Đối với cách giải nghĩa này, phụ chú không đưa thêm tin
mới vào văn bản mà chỉ có giá trị giúp người đọc hiểu cách gọi tên công việc
của các băng nhóm: bảo vệ ngầm là bảo kê.
- Trong ví dụ (1b), cách giải nghĩa là đưa thêm tên gọi khác của đối
tượng, cung cấp thêm thông tin về đối tượng nhằm giúp người đọc có sự liên
hệ.
- Trong ví dụ (1c), phụ chú giải nghĩa bằng cách định nghĩa trực tiếp
tiền xâu (tức là tiền của các con bạc, ai thắng ván nào phải bỏ ra 10% cho
chủ sòng)
* Phụ chú giải thích bằng cách cụ thể, chi tiết hóa hoặc khái quát
hóa đối tượng chú thích
- Cụ thể hóa có nghĩa là làm cho trở thành cụ thể, rõ ràng [39]. Phụ
chú dùng để giải thích đối tượng theo kiểu cụ thể, chi tiết hóa có nhiệm vụ chỉ
rõ chi tiết nghĩa của từ ngữ được chú thích, những từ ngữ này vốn mang ý
nghĩa chung chung hoặc là những danh từ riêng còn chưa xác định được vật
chiếu. Ví dụ:
(2a) Lần đầu tiên, nhờ học thuyết của Mác, người ta thấy rõ tầm quan
trọng của quan hệ sản xuất (bao gồm quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất và
quan hệ về phân phối sản phẩm), người ta thấy rõ mối quan hệ của nó một
bên với sức sản xuất, một bên với kiến trúc thượng tầng, với lĩnh vực tư
tưởng… [65: 17]
Quan hệ sản xuất là một khái niệm rộng, chứa đựng nhiều yếu tố bên
trong. Vì thế, phần phụ chú giải thích đã cụ thể hóa khái niệm đó bằng các
yếu tố gần gũi hơn: bao gồm quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất và quan hệ về
phân phối sản phẩm
(2b) Băng Bò Lục, Lủng Cu Trắng chuyên bảo kê cho các sòng bạc của
Bảy Xí (anh rể Năm Cam)… [75: 21]
Tuy Bảy Xí là một danh từ riêng nhưng ta vẫn chưa rõ vật chiếu của
danh từ này, vì có thể là trùng tên gọi. Phụ chú đã xác định được vật chiếu
cho danh từ riêng bằng cách cụ thể hóa quan hệ của tên gọi đó với đối tượng
chính của chuyên án: anh rể Năm Cam.
- Khái quát là nắm lấy những cái có tính chất chung cho một loại sự
vật, hiện tượng [39]. Phụ chú giải thích theo kiểu khái quát hóa có nhiệm vụ
nêu cái chung của các đối tượng đã được từ ngữ biểu thị. Ví dụ:
(3) Mác, Ăng-ghen và Lê-nin, những người sáng lập chủ nghĩa xã hội
khoa học, trong suốt đời hoạt động của mình, đã không bỏ sót lĩnh vực nào
của khoa học xã hội mà không nghiên cứu một cách sâu sắc và đề ra những
luận điểm chói lọi mà ánh sáng đang soi đường cho chúng ta. [65: 11]
Ngược lại với cách giải thích văn bản ở ví dụ (2), phụ chú trong ví dụ
(3) được dùng để giải thích từ ngữ theo kiểu khái quát hóa. Nói cách khác,
chúng giải thích từ ngữ bằng cách bổ sung một phần tin mới, có tính chất khái
quát với lượng tin đã cho. Phần tin mới trong ví dụ trên là đã khái quát vai trò
của: Mác, Ăng-ghen và Lê-nin, họ đều là những người sáng lập chủ nghĩa xã
hội khoa học.
* Phụ chú giải thích bằng cách so sánh
So sánh có nghĩa là nhìn vào cái này mà xem xét cái kia để thấy sự
giống nhau hay sự hơn kém [39]. Phụ chú giải thích bằng cách so sánh có
nhiệm vụ đưa thêm vào văn bản một phần tin mới có nhiệm vụ đối chiếu để
làm rõ vấn đề mà từ ngữ biểu thị. Thông qua ý nghĩa của phụ chú, người đọc
hiểu sâu sắc thêm ý nghĩa của các từ ngữ được nói đến trong văn bản. Ví dụ:
(4a) Tổng cục Cảnh sát và Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kịp
thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công
an) và đã nhận được sự chỉ đạo của Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Nội vụ…
[65: 55]
(4b) Này tỉnh X. đang cần thêm mấy bài cho cuốn tác giả văn học của
nó đấy. Cậu viết cho nó một bài. Định đòi mấy trăm nào? (hồi ấy mấy trăm
còn quý). [74: 38]
Ở đây, phụ chú ở (4a) cho thấy Bộ Nội vụ trong chuyên án là Bộ công
an hiện tại. Tương tự như vậy trong ví dụ (4b), đối tượng chú thích là “mấy
trăm”, phần phụ chú đưa ra sự so sánh “hồi ấy mấy trăm còn quý” nghĩa là có
sự so sánh giữa giá trị của mấy trăm của “hồi ấy” với thời điểm ra đời của
phát ngôn trong văn bản.
* Phụ chú giải thích bằng cách trình bày nguyên nhân, lí do
(5a) Hải “bánh” đã đưa Hưng và Trường xuống Vũng Tàu trốn và
nhiều lần liên lạc với Năm Cam, mục đích là yêu cầu Năm Cam lo cho Hưng
và Trường trốn đi nước ngoài (vì trước đó, Năm Cam đã hứa hẹn giúp đỡ và
lo cho Hải “bánh”) nhưng Năm Cam không nghe máy. [75: 67]
(5b) Sau khi bị tạt axit gây thương tích, Lâm không dám tố cáo mặc dù
nghi vấn chủ mưu việc này do Năm Cam (vì sợ thế lực của Năm Cam trong
giới giang hồ). [75: 109]
Việc Hải “bánh” trong (5a) liên lạc với Năm Cam được giải thích là vì
trước đó, Năm Cam đã hứa hẹn giúp đỡ và lo cho Hải “bánh”. Giải thích
bằng cách trình bày lí do là 1 kiểu giải thích của phụ chú.
Như vậy, giải thích phát ngôn (hay văn bản) bằng cách giải nghĩa, bằng
cách cụ thể, chi tiết hóa, khái quát hóa ý nghĩa của đối tượng, hay bằng cách
dẫn ra nội dung có ý nghĩa so sánh hoặc trình bày nguyên nhân, lí do của điều
được nói đến trong phát ngôn (hay văn bản) là những cách giải thích thường
gặp của phụ chú giải thích trong ngữ liệu của luận văn.
(2) Phụ chú thực hiện hành động “trình bày”
Qua quá trình khảo sát ngữ liệu, chúng tôi xác định có 132 trường hợp
phụ chú thực hiện hành động trình bày, chiếm tỉ lệ 17% của lớp biểu hiện.
Trình bày có nghĩa là nói ra một cách rõ ràng và đầy đủ cho người
khác (thường là cấp trên hoặc số đông) hiểu rõ [39].
Nhìn chung, phụ chú thực hiện hành động trình bày tương đối đa dạng
và phức tạp. Căn cứ vào nội dung, có thể chia thành các loại nhỏ:
* Phụ chú trình bày nguồn gốc, xuất xứ của sự vật, hiện tượng hay
phần trình bày của người chịu trách nhiệm về văn bản
Sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan đều có nguồn gốc, xuất xứ.
Khi đưa những sự vật, hiện tượng này vào văn bản, người viết thường dùng
phụ chú để nêu rõ nguồn gốc, xuất xứ sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: (6a) Trong khi đó tại bản giải thích hung khí gây nên thương
tích của nạn nhân Hưng (giải thích theo yêu cầu của cơ quan điều tra), Tổ
chức giám định pháp y – pháp y tâm thần Thành phố Hồ Chí Minh do bác sĩ
Bùi Thanh Tuyền ký… [75: 78]
Trong văn bản, khi tường thuật lại mẩu đối thoại của nhân vật hay khi
nói lại ý hoặc trích dẫn lời của người khác, người viết thường dùng phụ chú
để chú thích chủ ngôn đó là ai.
Ví dụ: (6b) Ấy vậy mà khi nghe Lê Thanh hỏi tại sao, sau Tố Tâm, ông
không viết nữa, Hoàng Ngọc Phách đã thực thà thú nhận: “Ở trường ra, đi làm
ít thì giờ quá” “Vả chăng sức yếu làm việc thường đã thấy mệt, nên cũng nản”
(tất cả những đoạn vừa dẫn đều được Lê Thanh ghi lại trong Cuộc phỏng
vấn các nhà văn – 1943). [74: 30]
Trong ví dụ (6b), người viết đã dùng phụ chú để trình bày rõ những
phát ngôn trên là do Lê Thanh ghi lại trong Cuộc phỏng vấn các nhà văn –
1943. Từ đó, có thể xác định chủ ngôn và người phát ngôn không phải là một.
* Phụ chú dùng để trình bày mục đích của đối tượng được nói đến
Ví dụ: (7) Nhân viên y tế nào mới về ngó câu khẩu hiệu ấy cũng cười,
cũng thương. Nhưng rồi nửa khuya ngồi ăn mì gói, nghe cú kêu lẫn tiếng
radio khọt khẹt (để chút âm thanh đấy cho đỡ quạnh), vạch đi vạch lại tờ báo
cũ mèm, họ sực nhớ phải về quê lấy vợ, lấy chồng, sực nhớ vợ mình mới sinh,
sực nhớ tội nghiệp ba má đã già…Và họ từ giã cù lao. [76: 19]
Để chút âm thanh đấy cho đỡ quạnh (phụ chú) là mục đích của việc
để tiếng radio khọt khẹt được nói tới trong phát ngôn (7).
* Phụ chú dùng để trình bày điều kiện của đối tượng được nói đến
Ví dụ: (8) Ông già Chín nói nghề bán vé số của ông thấy vậy mà có ý
nghĩa ghê lắm, vì đem lại hy vọng cho người ta, vì đem lại sự giàu có cho
người ta (nếu trúng số), và nghề này có ý nghĩa nhất là trên những dặm đường
phiêu bạt, ông tìm được cô đào Hồng. [76: 85]
Ở đây, phụ chú trình bày điều kiện bắt buộc đem lại sự hi vọng và giàu
có cho người ta là nếu trúng số.
* Phụ chú dùng để trình bày một phạm vi hay một nội dung của
đối tượng được nói đến
Ví dụ: (9a) Đoạn 1 (từ đầu đến "chiếc thuyền lưới vó đã biến mất"):
Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh. [70: 64]
(9b) Tất cả đều là những người có tài, có đức và nhất là có chí hành đạo
giúp đời nhưng đều không đạt được sở nguyện (Khổng Tử lận đận, Nhan
Uyên chết sớm, Đổng Trọng Thư chí lớn mà không ngôi,…) [69: 156]
Trong ví dụ (9a), phần phụ chú từ đầu đến "chiếc thuyền lưới vó đã
biến mất" đã giới hạn phạm vi của đối tượng chú thích là “Đoạn 1”.
Còn trong ví dụ (9b), đối tượng chú thích là “những người không đạt
được sở nguyện” và phần phụ chú đã xác định được nội dung của đối tượng là
“Khổng Tử lận đận, Nhan Uyên chết sớm, Đổng Trọng Thư chí lớn mà không
ngôi,…”
* Phụ chú dùng để trình bày chủ ý của tác giả
Ví dụ: (10a) Chính lúc ấy nổi bật tất cả tầm quan trọng của vai trò tổ
chức, động viên và cải tạo (tôi gạch dưới – Phạm Văn Đồng). [65: 13]
(10b) Một là giữ gìn và phát triển vốn chữ của tiếng ta (tôi không muốn
dùng chữ “từ vựng”). [65: 130]
(10c) Hai là nói và viết đúng phép tắc của tiếng ta (tôi muốn thay chữ
“ngữ pháp”). [65: 130]
Việc tác giả Phạm Văn Đồng gạch dưới các từ trong phát ngôn là hoàn
toàn có chủ ý và chủ ý này được trình bày rõ ràng trong phụ chú tôi gạch dưới
– Phạm Văn Đồng trong ví dụ (10a); tương tự, cách dùng “vốn chữ” và “phép
tắc” cũng được khẳng định có chủ ý trong phụ chú của (10b), (10c).
(3) Phụ chú thực hiện hành động “miêu tả”
Trong ngữ liệu của chúng tôi, có 93 trường hợp thực hiện hành động
miêu tả, chiếm tỉ lệ 12% của lớp biểu hiện.
Miêu tả là dùng ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm
cho người khác có thể hình dung được cụ thể, sự vật hoặc thế giới nội tâm
của con người [39].
Miêu tả chỉ được coi là hành động nói khi người ta dùng ngôn ngữ làm
phương tiện thể hiện. Phụ chú thực hiện hành động miêu tả rất đa dạng, khó
có thể liệt kê hết các kiểu nhỏ. Sau đây là một số kiểu phụ chú thực hiện hành
động miêu tả tiêu biểu được phân loại căn cứ vào đối tượng miêu tả của phụ
chú.
* Phụ chú được dùng để miêu tả nhân vật
- Phụ chú được dùng để miêu tả hình dáng, đặc điểm của nhân vật
Ví dụ: (11) Dung Hà - một phụ nữ đã cứng tuổi, có dáng người đậm
chắc, tóc cắt ngắn như con trai - là 1 ả giang hồ gốc Hải phòng khét tiếng
toàn quốc trong lĩnh vực tổ chức cờ bạc, đâm thuê chém mướn và bảo kê bến
bãi, khách sạn... [75: 7]
Đối tượng chú thích là một “nhân vật” trong chuyên án: “Dung Hà”,
nhờ phần phụ chú “một phụ nữ đã cứng tuổi, có dáng người đậm chắc, tóc cắt
ngắn như con trai” mà hình dáng và đặc điểm của nhân vật được xác định.
- Phụ chú được dùng để miêu tả xác định tuổi tác của nhân vật
Ví dụ: (12) Điều này phù hợp với lời khai của nhân chứng tại thời điểm
nói trên thấy 2 (trong đó có người khoảng 40 tuổi) người đi xe Spacy qua
quán Cấm Chỉ và dừng lại ở đường Nguyễn Huệ - Hải Triều. [75: 86]
Trong ví dụ (12), một trong hai người đã được miêu tả tuổi tác: trong
đó có người khoảng 40 tuổi bằng thành phần phụ chú.
- Phụ chú được dùng để miêu tả tính cách, thói quen của nhân vật
Ví dụ: (13) Trong một thoáng Hậu xâu chuỗi lại các sự kiện. Chồng
mình. Khoản tiền thất thoát. Cô kế toán trưởng chi nhánh miền Tây. Những
lời đồn đại (mà trước giờ Hậu chẳng tin)… [76: 149]
Có thể nói nhờ phần phụ chú mà người đọc có thể đoán tính cách của
nhân vật là trước giờ chẳng tin những lời đồn đại.
- Phụ chú được dùng để miêu tả thái độ của nhân vật trong hội thoại
Ví dụ: (14a) Tùy bà! – Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái
cung cách bề ngoài của một vị chánh án – chủ trương nguyên tắc của chúng
tôi là kêu gọi hòa thuận… [68: 74]
(14b) – Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng
mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà
thuyền lại chật. [68: 75]
Nhờ phần phụ chú trong ví dụ (14a) mà người đọc biết rằng nhân vật
Đẩu đã đổi thái độ sang cung cách của vị chánh án; tương tự trong (14b),
phần phụ chú đã giúp người đọc xác định thái độ của nhân vật người đàn bà
là đang ngượng ngùng, xấu hổ: bỗng mụ đỏ mặt. Trong trường hợp này, phụ
chú vừa được dùng để miêu tả thái độ nhân vật, vừa được dùng để miêu tả
hành vi kèm ngôn ngữ của nhân vật hội thoại. Thông thường, hành vi kèm
ngôn ngữ của nhân vật là: nét mặt, điệu bộ, cử chỉ,… Các yếu tố kèm ngôn
ngữ này có vai trò nhất định trong việc lí giải ý nghĩa lời nói, nhưng ở đây
không bàn đến.
* Phụ chú được dùng để miêu tả sự vật, hiện tượng
- Phụ chú được dùng để miêu tả đặc điểm của sự vật, hiện tượng
Ví dụ: (15a) Sơn quay đầu chạy ngược theo hướng Hàm Nghi –
Nguyễn Huệ đến gần quán phở Lan (liền kế với quán Cấm Chỉ) thì bị Văn
Công Tiến dùng ghế nhựa đập vào đầu,… [75: 90]
(15b) Hồ Thanh Tùng khai đã sử dụng con dao bấm hình cây viết cài
ngực, (lưỡi sắc, nhọn đều, rộng khoảng 1-1,5 cm). [75: 94]
Đối tượng được miêu tả trong (15a) là quán phở Lan, đặc điểm vị trí
của nó là liền kế với quán Cấm Chỉ; còn trong (15b), đối tượng được miêu tả
là con dao bấm có các đặc điểm là lưỡi sắc, nhọn đều, rộng khoảng 1-1,5 cm.
- Phụ chú được dùng để miêu tả xác định thời gian ra đời, kết thúc của
sự vật, hiện tượng
Phụ chú không chỉ được dùng để miêu tả xác định tuổi tác của nhân vật
mà còn được dùng để miêu tả xác định thời gian ra đời hay kết thúc hoặc thời
đoạn tồn tại của sự vật, hiện tượng, tổ chức,…
Ví dụ: (16a) Ấy thế mà đùng một cái, tập văn xuôi “Tuổi thơ im lặng”
xuất hiện (1986). [74: 23]
(16b) Từ đó về sau (2-10-2000 đến đầu tháng 12-2000), Năm Cam và
Hải “bánh” tạm thời không liên lạc nữa. [75: 67]
Trong ví dụ (16a), chữ số (1986) là phụ chú được dùng để miêu tả xác
định thời điểm ra đời của tác phẩm “Tuổi thơ im lặng”. Trong ví dụ (16b),
cụm 2-10-2000 đến đầu tháng 12-2000 là phụ chú được dùng để miêu tả thời
gian bắt đầu và kết thúc của sự việc Năm Cam và Hải “bánh” không liên lạc
với nhau.
(4) Phụ chú thực hiện hành động “bổ sung”
Trong ngữ liệu của chúng tôi, có 50 trường hợp thực hiện hành động bổ
sung, chiếm tỉ lệ 7% của lớp biểu hiện.
Bổ sung có nghĩa là thêm vào cho đủ [39]. Phụ chú thực hiện hành
động bổ sung được dùng để bổ sung nhiều nội dung khác nhau. Có thể kể ra
một số tiểu loại tiêu biểu:
* Phụ chú bổ sung một khả năng lựa chọn
Ví dụ: (17a) Nhưng liệu có thể nhân danh sự đơn giản (và cả sự trong
sáng nữa!) để khai tử những từ đã có sức sống lâu bền? [74: 80]
(17b) Còn về phần những người được (hay bị) mang ra làm tài liệu cho
cuốn sách thì sao? [74: 127]
Ở đây, ngoài việc nhân danh sự đơn giản người ta còn có thể nhân danh
sự trong sáng để khai tử một cách tùy tiện các từ ngữ. Người chú thích đã bổ
sung thêm một khả năng cho sự việc trong phát ngôn (17a); hoặc như trong
(17b), phần phụ chú đã đưa thêm một khả năng nữa về đối tượng chú thích là
“những người được (hay bị) mang ra làm tài liệu”.
* Phụ chú bổ sung một chứng cứ cho lập luận
Ví dụ: (18) Quan điểm của các ông đã thay đổi các ông cần trình ra cho
được sự thay đổi đó trước mọi người hay đây chỉ đơn giản là đòi hỏi của cuộc
mưu sinh (và cả sự kiên quyết hôm qua thật ra cũng là một cách mưu sinh mà
thôi), chúng tôi không rõ. [74: 71]
Ở phát ngôn (18), người chú thích đặt ra vấn đề là: Vấn đề là do sự thay
đổi của quan điểm hay đơn giản là đòi hỏi của cuộc mưu sinh; đồng thời để
lập luận thêm vững chắc, người chú thích đưa thêm chứng cứ và cả sự kiên
quyết hôm qua thật ra cũng là một cách mưu sinh mà thôi.
* Phụ chú bổ sung một cách viết khác cho văn bản
Ví dụ: (19) Mỗi ngày chúng được Ba Mạnh, Sáu Nhà trả công từ
80.000 (tám mươi nghìn) đến 120.000 (một trăm hai mươi nghìn) đồng.
[75:173]
Trong ví dụ (19), phát ngôn đã được bổ sung cách ghi khác bằng chữ
của số tiền nhờ phần phụ chú.
* Phụ chú bổ sung cho văn bản một nội dung chỉ số lượng
Ví dụ: (20) Nhưng do Lâm có thể lực tốt, lại được cấp cứu kịp thời nên
thoát chết, nhưng bị thương tật rất nặng (tỷ lệ 75%) đã cấu thành tội cố ý gây
thương tích được quy định tại điều 104 Bộ luật Hình sự. [75: 112]
Ở đây, để làm rõ vấn đề thương tật rất nặng, người chú thích đã đưa
vào phần phụ chú số lượng cụ thể của thương tật là tỷ lệ 75%.
Các tiểu loại và các ví dụ vừa dẫn tuy chưa trọn vẹn nhưng cũng cho
thấy phụ chú thực hiện hành động bổ sung rất đa dạng. Nội dung của phụ chú
phụ thuộc vào ý định của người tạo lập văn bản và đối tượng được chú thích.
(5) Phụ chú thực hiện hành động “minh họa”
Trong ngữ liệu của chúng tôi, có 58 trường hợp thực hiện hành động
minh họa, chiếm tỉ lệ 8% lớp biểu hiện.
Minh họa là làm cho rõ thêm, sinh động thêm nội dung của tác phẩm
văn học hoặc của bản trình bày, bằng hình vẽ hoặc bằng hình thức dễ thấy,
dễ hiểu, dễ cảm [39].
Phụ chú thực hiện hành động minh họa thường thể hiện là các hình thức
ví dụ được đưa ra làm dẫn chứng hoặc lời trích dẫn để minh họa cho nhận
định nêu ở văn bản.
Ví dụ: (21a) Còn lục chắc không phải là sáu mà là ký lục, biên chép
(Truyện Kiều: Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh). [74: 83]
Phần “Truyện Kiều: Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh” là ví dụ do
tác giả đưa ra để minh họa cho phần nhận định lục là ký lục, biên chép.
(21b) Nguyễn Khải vốn là một trong những ngòi bút năng động bậc
nhất của nền văn học chúng ta. Sau mấy chiến tích vang dội một thời (Gặp gỡ
cuối năm, Thời gian của người), từ sau 1986 ông lại chứng tỏ sức sống của
mình bằng sự đột phá vào các đề tài trước mắt trong hàng loạt truyện ngắn
mới in báo. [74: 64]
Trong (21b), Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người là những tác phẩm
được đưa ra minh họa cho mấy chiến tích vang dội một thời của nhà văn
Nguyễn Khải.
Phần phụ chú ở (21a) và (21b) đều được dùng để minh họa cho các nhận
định của tác giả được nêu ra trước đó; chỗ khác nhau là ở (21a), phụ chú là lời
trích dẫn từ văn bản Truyện Kiều, còn ở (21b) phụ chú là do người chú thích
tự đưa ra.
(6) Phụ chú thực hiện hành động “nhận xét”
Trong ngữ liệu của chúng tôi, có 43 trường hợp thực hiện hành động
nhận xét, chiếm tỉ lệ 6% lớp biểu hiện.
Nhận xét là đưa ra ý kiến có xem xét và đánh giá về một đối tượng nào
đó [39]. Phụ chú thực hiện hành động nhận xét có thể là lời của tác giả nhưng
cũng có khi lời của nhân vật trong văn bản về một điều gì đó đã được nói đến.
Ví dụ: (22a) Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng
bắt tôi bỏ nó! – Lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên
như một nụ cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái
chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ. [68: 76]
(22b) Má tôi nói (giọng như là cảnh cáo tôi vậy), thằng Tứ Phương
khác thường, nó trầm tính, sâu sắc, người như vậy thương ai là thương tới
chết mới thôi. [76: 67]
(22c) Trước mắt tôi giờ đây là một tập sách mỏng, ngoài bìa đề rõ giai
thoại Tản Đà, tóm lại là một số mẩu chuyện về ông, mẩu nào cũng ngồ ngộ,
hay hay (cố nhiên, nếu ngẫm nghĩ kỹ thì cũng thấy có nghĩa!). [74: 105]
Ví dụ (22) đều là lời nhận xét nhưng ở (22a), (22b) là nhận xét của
nhân vật đối với nhân vật, còn ở (22c) là nhận xét của tác giả đối với sự việc
được nêu ra.
Như vậy, căn cứ vào đối tượng chú thích có thể thấy phụ chú thực hiện
hành động nhận xét tương đối nhiều. Nó có thể là lời nhận xét về nhân vật,
hiện tượng, sự vật,… được nói đến trong văn bản. Hành động nhận xét mà
phụ chú thực hiện có thể là lời của tác giả, có thể là lời nhân vật hoạt động
trong văn bản.
(7) Phụ chú thực hiện hành động “quả quyết”
Trong ngữ liệu của chúng tôi, có 31 trường hợp thực hiện hành động
khẳng định, chiếm tỉ lệ 4% lớp tỉ lệ.
Quả quyết là khẳng định chắc chắn, không chút do dự [39]. Cũng giống
như phụ chú thực hiện hành động nhận xét, phụ chú thực hiện hành động quả
quyết có thể là lời của tác giả nhưng cũng có khi lời của nhân vật trong văn
bản về một điều gì đó đã được nói đến.
Ví dụ: (23a) Thường Khanh đã già đi (ai mà chẳng vậy) nhưng cái
phong thái tao nhã ung dung vẫn như ngày xưa. [76: 94]
(23b) Nói thế là đúng, nhưng tôi cho là còn phải thấy lý do sự đình đốn,
trì trệ khá toàn diện ràng buộc, cả ngành chúng ta (chứ không riêng ai) thiếu
những tiền đề cần thiết để làm việc. [74: 39]
Trong ví dụ (23a), phụ chú là lời quả quyết của nhân vật đối với nhân
vật: Thường Khanh già đi là một quy luật tất yếu “ai mà chẳng vậy”; trong
(23b), lời quả quyết là của tác giả: sự đình đốn, trì trệ diễn ra cả ngành chứ
không riêng một ai.
(8) Phụ chú thực hiện hành động “bình luận”
Trong ngữ liệu của chúng tôi, có 37 trường hợp thực hiện hành động
bình luận, chiếm tỉ lệ 5% lớp biểu hiện.
Bình luận là bàn và đánh giá, nhận xét về một tình hình, một vấn đề
nào đó [39]. Phụ chú thực hiện hành động bình luận là kiểu phụ chú được
dùng để bổ sung một nội dung bàn luận, đánh giá, nhận xét về một vấn đề nào
đó đã được nói đến trong văn bản.
Đối tượng của phụ chú thực hiện hành động bình luận khá đa dạng:
thiên nhiên, con người, sự kiện,… Tùy thuộc vào đối tượng chú thích, có thể
phân chia thành những kiểu nhỏ sau:
* Phụ chú dùng để bình luận về thiên nhiên
Ví dụ: (24) Chị về khi trăng rạng rỡ trên đầu (mãi sau này, tôi vẫn
còn ghê sợ cái màu trăng ấy). [72: 203]
Phần phụ chú là lời bình luận của nhân vật về hình ảnh trăng rạng rỡ
trên đầu. Đó là một thứ ánh sáng báo hiệu điều xấu mãi sau này, tôi vẫn còn
ghê sợ cái màu trăng ấy.
* Phụ chú dùng để bình luận về con người
Ví dụ: (25) Giống cả cái yêu lặng lẽ, lầm lì (như ông trời trả lại y
chang). [76: 140]
Ở đây, phụ chú như ông trời trả lại y chang là lời bình phẩm của tác
giả về sự giống nhau của 2 nhân vật (Giống cả cái yêu lặng lẽ, lầm lì) được
nói đến trong văn bản.
* Phụ chú dùng để bình luận về một sự kiện
Ví dụ: (26) Đại khái, sau khi cho in một vài tập truyện và được trong
giới khen là có hi vọng người ta sẵn sàng tuyên bố là khi cần, sẽ bỏ viết đi
buôn – một điều những người đi trước thuở mới vào nghề thường không dám
nghĩ, có nghĩ cũng không dám nói. [74: 13]
Phụ chú trong ví dụ này là lời bình phẩm của tác giả về sự kiện bỏ viết
đi buôn của những nhà văn, đó là một điều những người đi trước thuở mới
vào nghề thường không dám nghĩ, có nghĩ cũng không dám nói.
* Phụ chú dùng để bình luận về việc dùng từ ngữ
Ví dụ: (27a) Cha tôi đã có vẻ bình thường, hay nói cười, hồ hởi trong
những lúc có người (chữ “người” này không tính hai chị em tôi). [76: 188]
(27b) Cái cảm giác đang ở xóm cũ (…) vây riết lấy chúng tôi (chữ
“chúng tôi” tôi không kể cha vào). [76: 178]
Trong 2 ví dụ trên, cách dùng từ là đối tượng chú thích: “người” trong
ví dụ (27a), “chúng tôi” trong ví dụ (27b) đều được phần phụ chú bình luận
thêm.
(9) Phụ chú thực hiện hành động “nhấn mạnh”
Trong ngữ liệu của chúng tôi, có 20 trường hợp thực hiện hành động
nhấn mạnh, chiếm tỉ lệ 3% lớp biểu hiện.
Nhấn mạnh là nêu bật lên để làm cho người khác quan tâm, chú ý hơn
[38]. Phụ chú thực hiện hành động nhấn mạnh có thể là lời của tác giả hoặc là
lời của nhân vật.
Ví dụ: (28a) Về cái sự chúng tôi không gặp (dù thi thoảng cũng nhớ
nhau), có quá nhiều giả thuyết. [76: 134]
(28b) Tôi nói thật là mỗi lần đi địa phương nói chuyện (nhất là đồng
chí Lê Liêm thường nhắc tôi một cách nhẹ nhàng nhưng rất nghiêm khắc là
đừng có quên công tác văn hóa), tôi cũng suy nghĩ nhiều. [74: 31]
Trong ví dụ (28a) là hành động nhấn mạnh của nhân vật trong văn bản.
Nhân vật này nhấn mạnh dù thi thoảng cũng nhớ nhau nhưng họ vẫn không
gặp nhau. Trong ví dụ (28b), hành động nhấn mạnh là của tác giả về việc phải
suy nghĩ nhiều.
(10) Phụ chú thực hiện hành động “quy ước”
Trong ngữ liệu của chúng tôi, có 7 trường hợp thực hiện hành động quy
ước, chiếm tỉ lệ 1% lớp biểu hiện.
Quy ước ở đây được hiểu là thỏa thuận với nhau mà quy định [39]. Căn
cứ vào mục đích chú thích, có thể chia loại này thành các dạng nhỏ:
- Phụ chú được dùng để quy ước cách viết tắt.
- Phụ chú được dùng để quy ước cách gọi tên cho một khái niệm nào
đó.
Tuy nhiên, trong giới hạn ngữ liệu khảo sát của luận văn, chúng tôi chỉ
tìm thấy loại phụ chú được dùng để quy ước cách viết tắt.
Trong văn bản, người viết thường sử dụng lối viết tắt một số từ ngữ
có kích thước dài và được sử dụng nhiều lần để sự diễn đạt được ngắn gọn.
Để người đọc hiểu được nội dung của những chữ viết tắt trong phần văn bản
phía sau, người viết thường đặt chữ viết tắt vào phụ chú để ghi nhận chúng
trong lần xuất hiện đầu tiên. Cách viết tắt thông thường là dùng chữ cái đầu
âm tiết thay cho toàn âm tiết.
Ví dụ: (29a) Trong đó có vụ án: Nguyễn Hữu Thịnh cùng đồng bọn
phạm tội giết người, che giấu tội phạm, không tố giác tội phạm, gây rối trật tự
công cộng (TTCC), xảy ra tại quán Cấm Chỉ, số 4 đường Hải Triều quận 1
vào ngày 27-1-2000. [75: 79]
(29b) Cả Nguyễn Văn Thọ, Dương Ngọc Hiệp, Lê Thị Kim Anh, Tôn
Vĩnh Đắc đều được cơ quan điều tra, điều tra viên (ĐTV) Đặng Hải Tương
mời lên làm việc và tổ chức cho đối chất với Bảy Việt trong trại giam,…
[75: 103]
Các kiểu viết tắt trên rất quen thuộc nên người chú thích không giải
thích gì thêm. Và phụ chú loại này không đem đến cho văn bản một lượng tin
mới so với lượng tin đã có.
(11) Phụ chú thực hiện hành động “xác nhận”
Trong ngữ liệu của chúng tôi, có 7 trường hợp thực hiện hành động xác
nhận, chiếm tỉ lệ 1% lớp biểu hiện.
Xác nhận có nghĩa là thừa nhận đúng sự thật [39]. Theo ngữ liệu của
chúng tôi, phụ chú thực hiện hành động xác nhận bao gồm lời của nhân vật và
lời của tác giả.
Ví dụ: (30a) Những người thể nghiệm tự biết sức mình là chưa thể làm
ngay những tác phẩm lớn, nhưng tha thiết với đời sống chung, nên sẵn lòng đi
vào tìm tòi trong một phương diện nào đó, cho người khác làm điểm tựa.
Thiếu đi sự hào hiệp ấy thì – như chúng ta đã thấy – những tác phẩm tốt rất
khó xuất hiện. [74: 10]
(30b) Bởi Hậu gật đầu, hẳn nhiên hai người sẽ lấy nhau. Sau bữa tiệc
nho nhỏ là đêm động phòng (chớ còn gì nữa), Nhâm sẽ phát hiện Hậu có một
cái thẹo lớn trên vai. [76: 153]
Trong ví dụ (30a), lời tác giả xác nhận như chúng ta đã thấy, nếu thiếu
sự tìm tòi… thì những tác phẩm tốt rất khó xuất hiện; còn trong ví dụ (30b),
hành động xác nhận của nhân vật là không thể khác “chớ còn gì nữa” về sự
việc “sau bữa tiệc nho nhỏ là đêm động phòng”.
(12) Phụ chú thực hiện hành động “phỏng đoán”
Trong ngữ liệu của chúng tôi, có 7 trường hợp thực hiện hành động
phỏng đoán, chiếm tỉ lệ 1% lớp biểu hiện.
Phỏng đoán là đoán phỏng chừng, không lấy gì làm chắc chắn [39].
Phụ chú thực hiện hành động phỏng đoán có 2 dạng:
* Phụ chú thực hiện hành động phỏng đoán là lời tác giả
Ví dụ: (31) Ông không nói với nó vẫn thường thấy chị ôm cái áo người
cũ ngồi khóc, chị thường hay kho cá bỏ me, ông vốn không ưa (nhưng chắc
người ta nào đó thích). [76: 56]
Phần phụ chú nhưng chắc người ta nào đó thích là hành động phỏng
đoán của tác giả đối với sự việc chị thường hay kho cá bỏ me mà ông vốn
không ưa.
* Phụ chú thực hiện hành động phỏng đoán là lời nhân vật
Ví dụ: (32) Giật mình thức dậy mới hay mình ngủ quên trong kẹt bồ
lúa, con chó Phèn ngoài hè nôn nóng cào đất rột rẹt chỗ cái lỗ chui (Chắc má
tưởng hai chị em tôi đi chơi nên chốt cửa trước cửa sau mất rồi). [76: 169]
Phụ chú trong ví dụ (32) cũng là phỏng đoán những khác ở ví dụ (31) ở
chỗ đây là lời của nhân vật hoạt động trong văn bản.
Theo ngữ liệu khảo sát, phụ chú thực hiện hành động phỏng đoán
thường được cấu tạo bởi những cụm từ mang ý nghĩa phỏng đoán, ước chừng
như: có lẽ, hình như, chắc rằng,…
(13) Phụ chú thực hiện hành động “đính chính”
Trong ngữ liệu của chúng tôi, có 3 trường hợp thực hiện hành động
đính chính, chiếm tỉ lệ 0.5% lớp biểu hiện.
Đính chính là sửa lại cho đúng những chỗ in sai, nói sai [39]. Phụ chú
thực hiện hành động đính chính thường là lời tác giả và được dùng để đính
chính về việc dùng từ ngữ hay nhận định đưa ra trước đó của mình.
Trong phạm vi ngữ liệu của luận văn, chúng tôi tìm thấy phụ chú thực
hiện hành động đính chính là lời của tác giả và lời nhân vật trong văn bản
dùng để đính chính về từ ngữ hoặc nhận định đưa ra trước đó của mình. Sự
“đính chính” của tác giả có thể là thật và cũng có khi nhằm một dụng ý nghệ
thuật nào đó.
Ví dụ: (33) Tôi thở dài cái thượt như cũng đang nặng lo cho “nhà
mình” (mặc dầu hơi ngẩn ngơ, mình có vai trò gì trong ngôi nhà xiêu đổ ấy
đâu?). [76: 63]
Trong ví dụ (33), từ nhà mình được dùng với ý là tài sản, chỗ tựa
nương của nhân vật thế nhưng thực chất nhân vật không có vai trò gì trong
ngôi nhà xiêu đổ ấy.
(14) Phụ chú thực hiện hành động “lưu ý”
Trong ngữ liệu của chúng tôi, có 19 trường hợp thực hiện hành động
lưu ý, chiếm tỉ lệ 3% lớp biểu hiện.
Lưu ý là để ý đến để xem xét, theo dõi hoặc giải quyết, không bỏ qua
đi; nhắc gợi, yêu cầu, làm cho người khác lưu ý [39]. Theo ngữ liệu của
chúng tôi, phụ chú thực hiện hành động lưu ý đều là lời nhắc gợi của tác giả
nhằm làm cho người đọc lưu ý điều gì đó đã được nhắc gợi trong văn bản.
Ví dụ: (34) Ngày 19-8-1996, ông Phạm Sỹ Chiến đã ký văn bản số
1333/KSĐT – TA để kiến nghị ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ hủy bỏ quyết định
tập trung cải tạo số 73 ngày 20-5-1995 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh đối với việc tập trung cải tạo Năm Cam (cần lưu ý là văn bản số
1333 đóng dấu “mật” và chỉ sao gửi cho Văn phòng Quốc Hội, Văn phòng
Chủ tịch nước và Văn phòng chính phủ. Hiện nay chưa làm rõ được vì sao
ông Hạnh lại có văn bản này để đăng báo). [75: 226]
Ở đây, người chú thích đã lưu ý người đọc về tính chất mật của văn bản
số 1333 để đưa ra sự mâu thuẫn trong vấn đề nêu ra ở văn bản.
* Tiểu kết về phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp biểu hiện
- Phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp biểu hiện không những có
số lượng cao nhất mà còn đa dạng về kiểu loại nhất trong các lớp phụ chú xét
về phương diện hành động nói. Cụ thể là phụ chú thực hiện hành động nói
thuộc lớp biểu hiện chiếm tới 94% số phụ chú luận văn thống kê và được chia
thành 14 kiểu nhỏ căn cứ vào hành động nói mà phụ chú thực hiện.
- Sự phân bố của phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp biểu hiện
ở các kiểu văn bản là không đồng đều (xem chi tiết ở bảng 3.5), chẳng hạn:
+ Phụ chú thực hiện hành động giải thích, trình bày, miêu tả xuất hiện
nhiều nhất ở phong cách ngôn ngữ báo chí, đặc biệt là cách giải thích về tên
gọi, biệt danh xuất hiện nhiều trong chuyên án được luận văn dùng làm ngữ
liệu.
+ Phụ chú thực hiện hành động quy ước, xác nhận, phỏng đoán không
tìm thấy trong ngữ liệu của phong cách chính luận trong luận văn này.
Bảng 3.5: Bảng tổng kết các kiểu phụ chú thuộc lớp hành động biểu
hiện
Phong cách
nghệ thuật
Phong cách
khoa học
Phong cách
báo chí
Phong cách
chính luận
Văn bản
Các tiểu
loại thuộc lớp
hành động biểu hiện
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
hành động “giải thích”
28 11 50 20 150 58 28 11
hành động “trình bày”
43 33 31 23 46 35 12 9
hành động “miêu tả” 39 42 8 9 45 48 1 1
hành động “bổ sung” 17 34 24 48 8 16 1 2
hành động “minh họa” 7 12 37 64 0 0 14 24
hành động “nhận xét” 22 51 15 35 3 7 3 7
hành động “quả quyết” 13 42 6 19 9 29 3 10
hành động “bình luận” 10 27 26 70 1 3 0 0
hành động “nhấn
mạnh”
7 35 7 35 0 0 6 30
hành động “quy ước” 0 0 1 14 6 86 0 0
hành động “xác nhận” 0 0 2 29 5 71 0 0
hành động “phỏng
đoán”
5 72 1 14 1 14 0 0
hành động “đính
chính”
3 100 0 0 0 0 0 0
hành động “lưu ý” 1 5 5 26 10 53 3 16
3.1.2. Phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp điều khiển
Đích ngôn trung của lớp phụ chú này là những cố gắng khác của người
nói nhằm đạt được việc người nghe thực hiện một cái gì đó [52].
Theo thống kê của chúng tôi, phụ chú thực hiện hành động nói thuộc
lớp điều khiển có 27 trường hợp, chiếm tỉ lệ 3% số phụ chú đã thống kê. Qua
khảo sát ngữ liệu, luận văn nhận thấy có 3 kiểu hành động nói thuộc lớp hành
động điều khiển, đó là: chuyển chú, yêu cầu và khuyên.
(1) Phụ chú thực hiện hành động “chuyển chú”
Trong ngữ liệu của chúng tôi, có 39 trường hợp thực hiện hành động
chuyển chú, chiếm tỉ lệ 83% lớp điều khiển.
Chuyển chú có nghĩa là chỉ dẫn người đọc xem ở chỗ khác [39]. Phụ
chú thực hiện hành động chuyển chú thường xuất hiện trong các văn bản khoa
học, nghệ thuật, chính luận. Loại phụ chú này có khi là lời chú thích của tác
giả nhưng cũng có khi là lời của người tuyển chọn, biên tập văn bản.
Ví dụ: (35) Trước mắt, một việc nên làm ngay là các ngành cần soát lại
xem trong ngành mình đã nhập những chữ nào không đúng- như đã phân tích
trên đây - , và cố tìm những chữ trong tiếng ta để thay thế. [65: 133]
Trong ví dụ trên, phần phụ chú như đã phân tích trên đây có tác dụng
chuyển hướng sự theo dõi người đọc lên phần trên của văn bản.
(2) Phụ chú thực hiện hành động “yêu cầu”
Trong ngữ liệu của chúng tôi, có 6 trường hợp thực hiện hành động yêu
cầu, chiếm tỉ lệ 13% lớp điều khiển.
Yêu cầu là nêu ra điều gì với người nào đó, tỏ ý muốn người ấy làm,
biết rằng đó là việc thuộc nhiệm vụ, trách nhiệm hoặc quyền hạn hoặc khả
năng của người ấy [39]. Phụ chú thực hiện hành động yêu cầu đều là lời nói
của tác giả trực tiếp yêu cầu người đọc làm một việc gì đó.
Ví dụ: (36) Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi Hồng
Ngài (giáo viên cần tập trung hướng dẫn cho học sinh phân tích kĩ hành động
này). [70: 9]
Trong ví dụ trên, lời yêu cầu của người chú thích (tác giả sách giáo
viên Ngữ Văn 12) dành cho người đọc (giáo viên) là cần tập trung hướng dẫn
cho học sinh phân tích kĩ hành động này.
(3) Phụ chú thực hiện hành động “khuyên”
Trong ngữ liệu của chúng tôi, có 2 trường hợp thực hiện hành động
khuyên, chiếm tỉ lệ 4% lớp điều khiển.
Khuyên là nói với thái độ ân cần cho người khác biết điều mình cho
người khác nên làm [39]. Kiểu phụ chú này chủ yếu là lời tác giả dành cho
đối tượng cùng tham gia hoạt động giao tiếp.
Ví dụ: (37) Phải làm sao diễn tả được tính tình rất đẹp của dân tộc Việt
Nam ta là yêu đời, lạc quan, vui tính, yêu quê hương - ở đây nên nhấn mạnh
tình yêu Nam Bắc - yêu gia đình. [65: 76]
Phụ chú nên nhấn mạnh tình yêu Nam Bắc là lời khuyên của tác giả
Phạm Văn Đồng đối với giới văn nghệ sĩ khi tác giả yêu cầu họ viết về những
phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam.
* Tiểu kết về phụ chú thuộc lớp hành động điều khiển
- Phụ chú thuộc lớp hành động điều khiển chiếm tỉ lệ cao thứ hai. Có
thể dễ dàng nhận thấy phụ chú thuộc lớp hành động điều khiển không phong
phú đa dạng như phụ chú thuộc lớp hành động biểu hiện.
- Phụ chú thuộc lớp hành động điều khiển xuất hiện nhiều ở phong cách
văn bản khoa học, chính luận ít xuất hiện ở các phong cách văn bản nghệ
thuật, báo chí. Một số hành động không xuất hiện trong các phong cách,
chẳng hạn như hành động chuyển chú không có trong phong cách báo chí,
hành động khuyên không có trong phong cách nghệ thuật,… (xem chi tiết ở
bảng 3.6)
Bảng 3.6: Bảng tổng kết các kiểu phụ chú thuộc lớp hành động điều khiển
Phong cách
nghệ thuật
Phong cách
khoa học
Phong cách
báo chí
Phong cách
chính luận
Văn bản
Các tiểu
loại thuộc lớp
hành động điều khiển
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
hành động
“chuyển chú” 14 36 6 15 0 0 19 39
hành động “yêu cầu” 0 0 5 83 0 0 1 17
hành động “khuyên” 0 0 1 50 0 0 1 50
3.1.3. Phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp ước kết
Đích ngôn trung của lớp phụ chú này là đặt trách nhiệm cho người nói
thực hiện hành động nào đó trong tương lai [52].
Qua thống kê ngữ liệu, chúng tôi ghi nhận có 1 trường hợp phụ chú
thực hiện hành động nói thuộc lớp ước kết, chiếm tỉ lệ 0,1% tổng số ngữ liệu.
Đồng thời, qua khảo sát, luận văn ghi nhận phụ chú thuộc lớp ước kết chỉ có 1
kiểu: hành động báo trước việc mình sẽ làm (hứa). Hứa là “nói với ai, với ý
thức ràng buộc mình là sẽ làm điều gì đó mà người ấy đang quan tâm” [39].
Ví dụ: (38) Bởi trong xã hội hiện đại, sự nhốn nháo có chiều tăng lên,
người ta lại càng quý mến những ai giữ được tiết sạch giá trong của ngòi bút
(còn việc mang lại cho cái tình yêu đó một sắc thái hiện đại, ấy là chuyện
khác và chúng ta sẽ nói tới vào một dịp khác!). [74: 149]
Trong ví dụ trên, người viết hứa rằng sẽ phân tích sắc thái hiện đại vào
một dịp khác bằng phụ chú biểu thị hành động hứa: còn việc mang lại cho cái
tình yêu đó một sắc thái hiện đại, ấy là chuyện khác và chúng ta sẽ nói tới vào
một dịp khác!
Bảng 3.7: Bảng tổng kết các kiểu phụ chú thuộc lớp ước kết
Phong cách
nghệ thuật
Phong cách
khoa học
Phong cách
báo chí
Phong cách
chính luận
Văn bản
Kiểu
phụ chú
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
hành động “hứa” 0 0 1 100 0 0 0 0
3.1.4. Phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp bộc lộ
Đích ngôn trung của lớp phụ chú này là ở chỗ nhằm diễn đạt một trạng
thái tâm lí do điều kiện chân thành đối với tình trạng của sự việc được xác
định trong phần văn bản [52].
Qua thống kê ngữ liệu, phụ chú thuộc lớp hành động bộc lộ có 15
trường hợp, chiếm tỉ lệ 2% tổng số ngữ liệu. Theo tư liệu của chúng tôi, phụ
chú thuộc lớp hành động bộc lộ gồm các kiểu nhỏ là xin lỗi và biểu cảm.
(1) Phụ chú thực hiện hành động xin lỗi
Xin lỗi là hành động xin được tha thứ vì biết lỗi [39]. Phụ chú thực
hiện hành động xin lỗi là lời của tác giả.
Ví dụ: (39) Những đồng chí làm văn nghệ trẻ tuổi vì ít học cho nên, -
xin lỗi các đồng chí, - không biết trời cao đất rộng thế nào, không thấy khó
khăn và công phu trong sáng tác văn nghệ như thế nào, không thấy giá trị của
tác phẩm, do đó mà chủ quan, có khi thiếu khiêm tốn, đòi hỏi người ta nhiều,
đòi hỏi mình ít và như vậy thì lúc làm nên chút đỉnh là kiêu ngạo, lúc gặp khó
khăn thì chán nản. [65: 90]
(40) Chị quê Cây Khô, lỡ thời, thương thằng (xin lỗi!) thợ gặt miệt
Bình An đổ xuống. [76: 53]
Cả hai phụ chú thực hiện hành động xin lỗi là lời của tác giả. Tác giả
gọi những người làm văn nghệ trẻ ít học (trong (39); gọi nhân vật thứ ba được
nói tới là “thằng” (trong 40) và đã xin lỗi trong phụ chú.
(2) Phụ chú thực hiện hành động biểu cảm
Biểu cảm có nghĩa là biểu hiện tình cảm, xúc cảm [39]. Có thể chia phụ
chú thực hiện hành động biểu cảm thành các loại nhỏ.
* Thái độ mỉa mai, châm biếm, nghi ngờ
Ví dụ: (41) Trong sự ổn định của nó, dư luận ấy là một thứ đồng hồ đo
tốc độ chiếc xe đang chạy, một tấm kính phản ánh đời sống văn học biến
động hàng ngày (còn chính xác đến đâu lại là chuyện khác). [74: 67]
Qua phụ chú còn chính xác đến đâu lại là chuyện khác thể hiện sự nghi
ngờ một thứ đồng hồ dư luận đối với đời sống văn học.
* Thái độ bất bình, căm giận
Ví dụ: (42) Hôm mới giải phẫu xong, cảnh đời mới buồn ác liệt, khi
tỉnh dậy, Hậu chỉ biết tê tái hỏi một câu, “sao anh đành đoạn giết em?” (trời
đất ơi, chắc là hết chuyện nói rồi). [76: 146]
Phần phụ chú trong ví dụ (42) thể hiện thái độ bất bình của tác giả đối
với tình cảnh của nhân vật trong văn bản.
* Thái độ thông cảm, thương cảm
Ví dụ: (43) Dưới con mắt của con người bây giờ thì ở chỗ này, Hoàng
Ngọc Phách tỏ ra hơi bệt. Như là ông có phần cầu an, khiếp nhược (!). Ông
không đủ nghị lực để vượt lên khỏi mọi khó khăn hàng ngày. Mà ông cũng
không đủ ý chí để khai thác cái ưu thế sẵn có (!) [74: 30]
Qua phụ chú được diễn đạt bằng dấu chấm than đặt trong ngoặc đơn
(!), tác giả thể hiện thái độ thương cảm với Hoàng Ngọc Phách.
* Thái độ bực bội kết hợp với mỉa mai, nghi ngờ
Ví dụ: (44) Ngày 26-12-1996, Bộ Nội vụ có văn bản số 1117 gửi Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao phúc đáp kiến nghị số 1333 với nội
dung khẳng định: Năm Cam là một đối tượng rất nguy hiểm đến an ninh trật
tự, bắt tập trung cải tạo đúng tiêu chuẩn, đúng đối tượng; không có căn cứ để
hủy bỏ quyết định tập trung cải tạo một tên trùm lưu manh là Năm Cam, làm
ngơ trước các tài liệu quan trọng do Thủ tướng chỉ đạo và nhiều công văn và
tài liệu của Cơ quan chức năng trao đổi (phải chăng, tất cả những cái đó
không đáng tin cậy bằng “lời kêu cứu” của vợ con tên trùm lưu manh hay
sao). [75: 227]
Ở ví dụ (44), phần phụ chú là một câu mỉa mai “lời kêu cứu” của vợ
con tên trùm lưu manh kèm theo thái độ bực bội “tất cả những cái đó không
đáng tin cậy bằng…”.
Từ việc phân tích các ví dụ (41- 44), có thể thấy một phụ chú có thể
đồng thời thể hiện nhiều sắc thái tình cảm khác nhau của người chú thích.
Những sắc thái tình cảm này có khi diễn đạt bằng lời như ở (41), (42), (44)
nhưng cũng có khi không diễn đạt bằng lời như ở (43).
* Tiểu kết về phụ chú thuộc lớp bộc lộ
- Phần phụ chú thuộc lớp bộc lộ cũng không đa dạng về số lượng và
tiểu loại so với phụ chú thuộc lớp biểu hiện.
- Phụ chú thuộc lớp bộc lộ phân bố nhiều ở phong cách văn bản nghệ
thuật và không xuất hiện ở phong cách báo chí (xem bảng 3.8). Điều này bắt
nguồn từ đặc trưng của phong cách ngôn ngữ văn bản, cụ thể trong trường
hợp này là phong cách báo chí và nghệ thuật.
Bảng 3.8: Bảng tổng kết các kiểu phụ chú thuộc lớp bộc lộ trong các
phong cách văn bản
Phong cách
nghệ thuật
Phong cách
khoa học
Phong cách
báo chí
Phong cách
chính luận
Văn bản
Các tiểu
loại thuộc lớp
hành động bộc lộ
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
hành động “xin lỗi” 2 92 0 0 0 0 1 8
hành động “biểu cảm” 8 67 3 25 1 8 0 0
Nhận xét:
Bảng 3.5; 3.6; 3.7; 3.8 đã tường minh hóa một số vấn đề như sau:
Phụ chú thuộc lớp biểu hiện chiếm số lượng nhiều nhất trong phong
cách ngôn ngữ báo chí, nghệ thuật, khoa học. Sự phân bố số lượng các phụ
chú là không đồng đều, có những loại hành động chỉ xuất hiện trong vài
phong cách ngôn ngữ, chẳng hạn như: hành động xin lỗi chỉ xuất hiện trong
phong cách nghệ thuật và phong cách chính luận.
Ngoài ra, trong thực tế ngôn ngữ những phụ chú phức hợp nhiều kiểu
hành động nói chiếm số lượng không nhỏ. Qua thống kê, chúng tôi ghi nhận
có những trường hợp phụ chú trong phụ chú, đan xen nhiều kiểu hành động
nhưng trong giới hạn của luận văn, chúng tôi không tiện trình bày.
Sau đây là bảng tổng kết khái quát các kiểu phụ chú được phân loại
theo hành động nói trên cơ sở ngữ liệu mà chúng tôi đã thống kê.
Bảng 3.9: Bảng tổng kết các lớp phụ chú xét theo hành động nói
trong các phong cách văn bản
Biểu hiện Điều khiển Ước kết Bộc lộ Phụ chú trong quan
hệ với các lớp
hành động
nói
Văn bản
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Phong cách nghệ thuật 195 26 0 0 0 0 10 66
Phong cách khoa học 213 28 6 22 1 100 3 20
Phong cách báo chí 284 37 0 0 0 0 1 7
Phong cách chính luận 71 9 21 78 0 0 1 7
Tổng số 763 100 27 100 1 100 15 100
3.2. Phần phụ chú biểu thị nghĩa tình thái
Đối với logic học, nội dung của một mệnh đề được chia ra làm 2 phần:
Phần thứ nhất gọi là ngôn liệu (lexis or dictum), tức “mối liên hệ tiềm năng”.
Và phần thứ hai gọi là tình thái, là cách thực hiện mối liên hệ ấy, cho biết mối
liên hệ ấy là có thật (hiện thực) hay là không có (phủ định nó, coi nó là phi
hiện thực), là tất yếu hoặc là không tất yếu, là có thể được hay không thể có
thể được.
Ngôn ngữ học quan niệm: Khi giao tiếp, bên cạnh việc truyền đạt thông
tin, người phát ngôn luôn thể hiện ý định, thái độ, trạng thái tình cảm của
mình đối với người nghe hoặc đối tượng được đề cập đến trong phát ngôn. Đó
là tình thái phát ngôn.
Từ khi biết sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp, con người không chỉ dùng
nó để nói về hiện thực mà còn để nói lên sự nhận thức, sự đánh giá và thái độ
của mình về đối tượng đề cập trong phát ngôn (có thể là sự vật hoặc sự tình).
Các nhà ngữ pháp học hiện đại thường chia nội dung của một phát
ngôn ra thành hai phần là ngôn liệu (tập hợp các yếu tố thể hiện nội dung câu)
và tình thái. Theo cách hiểu này, tình thái của phát ngôn (hay hành động phát
ngôn) phân biệt các phát ngôn về phương diện mục đích nói và tác dụng trong
giao tế.
Ý nghĩa của tình thái rất phong phú và đa dạng, cách định nghĩa thiết
thực nhất có thể dùng cho tình thái có lẽ là “Tất cả những ý nghĩa gì được
truyền đạt trong câu mà không thuộc về ngôn liệu” (Cao Xuân Hạo) [26:520].
“Phạm trù tình thái bao gồm tất cả những phương diện nội dung gắn với sự
thực tại hoá câu, biến các nội dung mệnh đề ở thế tiềm năng trở thành các
phát ngôn trong giao tiếp” (Lê Đông- Nguyễn Văn Hiệp) [21: 23]. Hoặc là:
“Tình thái có thể được xem là sự áp đặt các nhân tố của nhận thức lên các sự
kiện của thế giới hiện thực được phản ánh trong câu nói” để tạo ra sự kiện
mới phù hợp với nhận thức cá nhân (Huỳnh Văn Thông) [47: 6].
Có nhiều cách để phân chia tình thái nói chung và tình thái của phụ chú
nói riêng. Chúng tôi chọn cách phân chia tình thái của phụ chú thành 2 loại
dựa trên quan điểm của John Lyons (Ngữ nghĩa học - Nguyễn Văn Hiệp dịch)
gồm 2 loại lớn:
- Tình thái hướng về người đối thoại: Đây là loại tình thái thể hiện thái
độ, sự đánh giá của người nói đối với người đối thoại.
- Tình thái hướng về sự tình: Đây là loại tình thái thể hiện thái độ và sự
đánh giá của người nói đối với sự tình được nói đến trong câu.
3.2.1. Phụ chú biểu thị tình thái của người nói đối với người nghe
Những hành động nói của con người hàng ngày là rất đa dạng, phong
phú. Tình thái biểu thị thái độ của người nói đối với người nghe giữ vai trò
quan trọng giúp người nghe hiểu được ý định của người phát ngôn. Trong các
cuộc giao tiếp thông thường, người nói thường để lộ ý định của mình trong
hành động nói.
Tình thái biểu thị thái độ của người nói đối với người nghe là loại tình
thái thể hiện thái độ và sự đánh giá của người nói đối với người đối thoại.
Theo sự thống kê của chúng tôi, phần phụ chú biểu thị tình thái loại này
có 136 trường hợp, chiếm tỉ lệ 17% tổng số ngữ liệu.
3.2.1.1 Phần phụ chú là hành động nói ngôn hành
Theo ngữ liệu của chúng tôi, có thể nhận xét một cách khái quát: tất cả
các kiểu hành động nói được thực hiện trong phụ chú đã trình bày ở mục 3.1
đều được thể hiện dưới dạng phát ngôn ngôn hành tường minh hoặc hàm ẩn,
trong đó loại hàm ẩn chiếm đa số.
Căn cứ vào hành động nói được thực hiện trong phụ chú là phát ngôn
ngôn hành tường minh hay phát ngôn ngôn hành hàm ẩn, phụ chú được chia
thành 2 kiểu nhỏ:
a. Phụ chú là hành động nói ngôn hành tường minh
Những phát ngôn ngôn hành tường minh là phát ngôn trong đó có sử
dụng động từ ngôn hành. Kiểu phụ chú thực hiện hành động nói dưới dạng là
phát ngôn ngôn hành tường minh trong ngữ liệu của chúng tôi chỉ có 3 trường
hợp, chiếm tỉ lệ 2% phụ chú tình thái loại này.
Ví dụ: (Dẫn lại ví dụ 39) Những đồng chí làm văn nghệ trẻ tuổi vì ít
học cho nên, - xin lỗi các đồng chí, - không biết trời cao đất rộng thế nào,
không thấy khó khăn và công phu trong sáng tác văn nghệ như thế nào, không
thấy giá trị của tác phẩm, do đó mà chủ quan, có khi thiếu khiêm tốn, đòi hòi
người ta nhiều, đòi hòi mình ít và như vậy thì lúc làm nên chút đỉnh là kiêu
ngạo, lúc gặp khó khăn thì chán nản. [76: 90]
(Dẫn lại ví dụ 40) Chị quê Cây Khô, lỡ thời, thương thằng (xin lỗi!) thợ
gặt miệt Bình An đổ xuống. [76: 53]
(45) Vậy mà cái thằng đó (xin lỗi!) tệ, làm ít nhậu nhiều. [76: 54]
Trong 3 ví dụ vừa dẫn, hành động nói trong phụ chú đều là hành động
xin lỗi. Về mặt cấu tạo, các phát ngôn ngôn hành ở đây đều đã được tỉnh lược
một số thành phần. Ví dụ (40) và (45) chỉ có động từ ngôn hành; còn trong ví
dụ (39) gồm động từ ngôn hành và tham thể chỉ đối tượng. Điểm chung có thể
nhận thấy là phát ngôn ngôn hành trong phụ chú đều không có chủ thể của
hành động.
b. Phụ chú là hành động nói ngôn hành hàm ẩn
Austin cho rằng [Dẫn theo 54: 31], những phát ngôn trong đó không có
sử dụng động từ ngôn hành (nhưng có thể phục hồi dạng ngôn hành được) là
phát ngôn ngôn hành hàm ẩn. Như vậy, phát ngôn ngôn hành hàm ẩn có thể
có động từ ngôn hành hoặc không.
Ví dụ: “Ngày mai tôi sẽ đến chỗ anh.” => có thể hiểu là: (Tôi hứa với
anh rằng) ngày mai tôi sẽ đến chỗ anh.
Theo ngữ liệu của chúng tôi, dạng phát ngôn ngôn hành hàm ẩn chiếm
số lượng 133 trường hợp, tỉ lệ 98% dạng phụ chú tình thái.
Ví dụ: (46) Ba má em chết rồi. – Chị Chiến nói thêm cho rõ. [76: 60]
(Dẫn lại ví dụ 22b) Má tôi nói (giọng như là cảnh cáo tôi vậy), thằng
Tứ Phương khác thường, nó trầm tính, sâu sắc, người như vậy thương ai là
thương tới chết mới thôi. [76: 67]
(Dẫn lại ví dụ 37) Phải làm sao diễn tả được tính tình rất đẹp của dân
tộc Việt Nam ta là yêu đời, lạc quan, vui tính, yêu quê hương - ở đây nên
nhấn mạnh tình yêu Nam Bắc, - yêu gia đình. [74: 76]
Trong ví dụ (46), có phần phụ chú Chị Chiến nói thêm cho rõ. Nó được
coi là phần ngôn hành hàm ẩn vì không có động từ ngôn hành nhưng có thể
hiểu chủ thể đang giải thích.
Ở ví dụ (22b), giọng như là cảnh cáo tôi vậy là phụ chú hành động
nhận xét. Đây là một phát ngôn ngôn hành hàm ẩn thể hiện sự nhận xét của
người con đối với thái độ người mẹ.
Trong ví dụ (37), phần phụ chú ở đây nên nhấn mạnh tình yêu Nam
Bắc là một hành động khuyên. Phát ngôn ngôn hành hàm ẩn này cũng khuyết
chủ thể hành động khuyên và đối tượng khuyên.
Như vậy, có thể thấy phát ngôn ngôn hành tường minh hay hàm ẩn để
thực hiện hành động nói trong phụ chú đa phần đều có cấu tạo khuyết thành
phần, số ít có cấu tạo đủ thành phần. Đối với những phát ngôn bị khuyết
thành phần đều có thể phục hồi lại được.
3.2.1.2 Phụ chú là hành động nói gián tiếp
Trong các cuộc giao tiếp bằng ngôn ngữ bình thường, người nói thường
để lộ rõ ý định trong hành động nói của mình để người nghe nắm bắt được.
Để thực hiện ý định, người nói thực hiện hành động nói chủ yếu theo một
trong hai cách sau:
- Sử dụng hành động nói trực tiếp
- Sử dụng hành động nói gián tiếp
Theo Diệp Quang Ban, câu trong hành động ngôn ngữ gián tiếp (câu
gián tiếp) là: Câu có đặc điểm cấu tạo về thức có thể được sử dụng không
đúng với chức năng (mục đích nói) vốn có của nó, như dùng câu nghi vấn để
nhận định một sự việc nào đó, dùng câu trình bày để hỏi,… [5: 310]. Nói cách
khác, đây là trường hợp mà đặc điểm cấu tạo về thức của câu và chức năng
của câu không trùng hợp với nhau.
Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: Khi nào có quan hệ gián tiếp giữa một
cấu trúc với một chức năng là những phát ngôn có hành động ngôn từ gián
tiếp (indirect speech act). Một nhóm các câu liên quan đến lí thuyết hành
động ngôn từ là những câu thực hiện một hành động ngoài lời một cách gián
tiếp bằng một hành động khác, đó là hành động ngôn từ gián tiếp.
Chẳng hạn, lời của một em nhỏ nói với mẹ:
Mẹ bạn Hoa mới mua cho bạn ấy một cái áo khoác đẹp lắm mẹ ạ!
Đó là một câu thuộc kiểu câu trần thuật, nghĩa tường minh là em nhỏ
đó kể cho mẹ nghe về một sự thật, nhưng rất có thể em ấy muốn xin mẹ mua
cho mình một cái áo tương tự. Ở đây, câu trần thuật đã được dùng để thực
hiện hành động đề nghị.
Trên cơ sở đó, theo kết quả khảo sát của luận văn, phụ chú là câu gián
tiếp gồm 63 trường hợp, chiếm tỉ lệ 8% tổng số ngữ liệu.
Ví dụ: (47) Ông hay chê Phi với má, “Cái thằng, lừ đừ lừ đừ không biết
giống ai” (còn có thể giống ai?). [76: 102]
(48) Như chờ đợi chỉ có thế, chị gật đầu, mặt tở mở và rạng rỡ, gần như
không suy nghĩ gì (Má tôi cũng đã từng chọn lựa nhanh như thế sao).
[76:185]
(49) Kể ra cũng có loại người đánh dấu chấm hết cho tác phẩm rồi thì
chỉ còn một ý nghĩ là mình đã viết thì phải thật hay, chẳng còn điều gì phải
bàn ngoài chuyện lo chạy cho cuốn sách vừa in phải giải này, giải nọ. Nhưng
để loại người đó sang một bên, tôi nghĩ tới cái bơ vơ của một ít người viết còn
thành tâm: Giá có chuyện hoàn chỉnh cái đã viết và rút kinh nghiệm cho cuốn
sách sau, cũng không biết trông vào đâu cả. [74: 9]
(50) Người hăng hái đi trước có lúc phải hối hận; kẻ báo trước sự nhộn
nhịp, mà lúc nhộn nhịp đến, mọi người hái ra tiền bạc, còn bản thân lại nhếch
nhác như vậy, nhếch nhác hơn cả hôm qua nữa – nhìn cả vũ khúc đời văn,
chẳng là tê tái hay sao? [74: 142]
Các ví dụ (47 – 50) đều là các phát ngôn thực hiện hành động nói dùng
theo lối gián tiếp. Trong ví dụ (47), phụ chú là hành động hỏi dùng với đích
ngôn trung là khẳng định: “còn có thể giống ai?” là chắc chắn chỉ có thể
“Phi” giống “ông” mà thôi. Trong ví dụ (48), (50) phụ chú cũng là hành động
hỏi dùng với đích ngôn trung là thể hiện thái độ biểu cảm. Còn trong (49) lại
dùng phụ chú là hành động khẳng định để thực hiện với đích ngôn trung là
chất vấn.
Kiểu phụ chú có hành động nói gián tiếp này xuất hiện trong nhiều
phong cách văn bản (xem chi tiết ở bảng 3.10), trong đó loại phụ chú là hành
động hỏi với đích ngôn trung khác chiếm số lượng nhiều nhất.
Bảng 3.10: Bảng tổng kết phụ chú biểu thị tình thái của người nói
đối với người nghe
Phong cách
nghệ thuật
Phong cách
khoa học
Phong cách
báo chí
Phong cách
chính luận
Văn bản
Phụ chú
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Câu ngôn hành 92 68 22 16 21 15 1 1
Câu gián tiếp 54 86 5 8 1 2 3 4
3.2.2. Phụ chú biểu thị tình thái của người nói đối với sự việc được
đề cập đến trong câu
Đây là loại tình thái thể hiện thái độ và sự đánh giá của người nói đối
với sự tình được nói đến trong phát ngôn. Tình thái dạng này của phụ chú khá
phức tạp. Ở đây, sau khi khảo sát và thống kê ngữ liệu, chúng tôi ghi nhận
được 212 trường hợp dạng này, chiếm tỉ lệ 26% tổng số ngữ liệu và khái quát
thành 3 dạng cơ bản (theo quan điểm của John Lyons).
3.2.2.1 Phần phụ chú biểu thị nghĩa tình thái hiện thực và phi hiện
thực
Theo thống kê, phụ chú tình thái hiện thực và phi hiện thực chiếm số
lượng 75 trường hợp, có tỉ lệ 35% phụ chú biểu thị tình thái của người nói đối
với sự việc được đề cập đến trong câu.
Ví dụ: (51) Thế nhỡ các nhà văn ở ta thích quan niệm rằng nếu một
người không có năng khiếu, thì có đọc đến vài vạn quyển sách chăng nữa,
cũng chẳng viết nên một câu thơ cảm động lòng người – mà trong thực tế
sáng tác vẫn vậy, thì anh nghĩ sao, liệu anh có còn cảm thấy có quyền bàn bạc
với mọi người, và anh có còn tin ở cái đơn thuốc của anh nữa không. [74: 57]
(52) Bữa nọ Nga đem mang cần xé ổi ra chợ huyện cân cho vựa thì gặp
đám bạn Văn xốc xếch đứng trên bến. Nga cho quá giang về Mút Cà Tha (mà
không hiểu sao trong bụng muốn nhận chìm xuồng cho tụi này bỏ ý định ra cù
lao cho rồi). [76: 23]
Trong ví dụ (51), phụ chú thể hiện tình thái sự tình đã diễn ra rồi, tình
thái hiện thực, đó là một thực tế là có đọc đến vạn quyển sách mà không có
năng khiếu cũng chẳng viết ra được một câu thơ cảm động lòng người.
Trong ví dụ (52), phụ chú thể hiện tình thái sự tình chỉ mới nằm trong
dự định, “Nga” chỉ muốn nhận chìm xuồng, chứ không thực hiện, đó là tình
thái phi hiện thực.
3.2.2.2 Phần phụ chú biểu thị nghĩa tình thái chỉ khả năng xảy ra
của sự tình
Qua khảo sát, số lượng phụ chú tình thái chỉ khả năng chiếm 48 trường
hợp, có tỉ lệ 23% phụ chú biểu thị tình thái của người nói đối với sự việc được
đề cập đến trong câu.
Ví dụ: (53) Riêng chúng tôi thì không cần chị phải yêu thương chăm
sóc, dạy dỗ gì hết. Chúng tôi không hy vọng điều đó (đến con chị còn không
hy vọng gì mà). [76: 186]
(54) Không biết trong bụng, Nguyễn Huy Thiệp có nghĩ thế không
(phần KHÔNG chắc nhiều hơn) nhưng mấy năm trước, hồi viết Huyền thoại
phố phường, trong một đoạn nói tạt ngang men theo suy nghĩ của nhân vật,
anh đã buông một câu lửng lơ về giới văn nghệ như vậy. [74: 179]
Cả ví dụ (53) và (54) đều có phụ chú thể hiện tình thái khả năng và
đều là khả năng không xảy ra của sự tình. Nhưng khác biệt ở chỗ ví dụ (53) là
khả năng khách quan; còn ví dụ (54) là khả năng chủ quan.
3.2.2.3 Phần phụ chú biểu thị nghĩa tình thái đạo lý
Theo sự khảo sát của luận văn, phụ chú biểu thị nghĩa tình thái đạo lý
có số lượng 89 trường hợp, có tỉ lệ 42% phụ chú biểu thị tình thái của người
nói đối với sự việc được đề cập đến trong câu.
Ví dụ: (55) Vì ông lấy người yêu duy nhất của Nguyễn Thọ làm vợ
(đáng lẽ phải để dành), rồi sau đó không cho vợ đi dự những cuộc họp mặt,
hội thảo về Nguyễn Thọ (làm vậy không phải là quay lưng với quá khứ sao?)
và cũng vì cách ông dạy thằng Thảo (đáng lẽ phải nâng niu, chiều chuộng).
[76: 77]
(56) Người làm biên tập xử lý bản thảo qua loa cho xong – sách in có
một ngàn bản chứ có nhiều nhặn gì mà phải cẩn thận. [74: 96]
Phụ chú với nghĩa tình thái đạo lý thể hiện những sự việc phải diễn ra
theo đúng lẽ tự nhiên. Trong ví dụ (55), phụ chú đáng lẽ phải để dành và
đáng lẽ phải nâng niu, chiều chuộng là những gì tất yếu, đúng đạo lí. Và
trong (56), phụ chú sách in có một ngàn bản chứ có nhiều nhặn gì mà phải
cẩn thận biểu thị nghĩa tình thái trong thời buổi thị trường, người ta không
bận tâm nhiều đến trách nhiệm cẩn thận trong việc biên tập xử lý bản thảo.
Như vậy, không phải lúc nào 3 tiểu loại phụ chú tình thái của người
nói đối với sự tình cũng rạch ròi; có khi nó đan xen nhiều loại tình thái tạo
thành loại phức hợp (ở đây không bàn đến).
Bảng 3.11: Bảng tổng kết phụ chú biểu thị tình thái của người nói
đối với sự việc được đề cập đến trong câu
Phong cách
nghệ thuật
Phong cách
khoa học
Phong cách
báo chí
Phong cách
chính luận
Văn bản
Phụ chú
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Số
lượng
Tỉ
lệ
%
Tình thái hiện thực và
phi hiện thực
53 71 12 16 7 9 3 4
Tình thái khả năng 63 68 4 4 5 5 20 23
Tình thái đạo lý 39 81 2 4 5 10 2 5
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
- Căn cứ vào lí thuyết hành động nói và ngữ liệu điều tra, phụ chú được
xếp vào 20 loại với 4 lớp hành động. Cụ thể là lớp biểu hiện gồm 14 loại:
giải thích, trình bày, miêu tả, bổ sung, minh họa, nhận xét, quả quyết, bình
luận, nhấn mạnh, quy ước, xác nhận, phỏng đoán, đính chính, lưu ý; lớp điều
khiển gồm: chuyển chú, yêu cầu, khuyên; lớp ước kết gồm hành động hứa;
lớp bộc lộ gồm hành động xin lỗi và biểu cảm. Sự phân bố số lượng các hành
động ở các phong cách khác nhau là không giống nhau.
- Phụ chú biểu thị tình thái đối với người nghe và đối với sự tình rất đa
dạng, góp phần quan trọng vào việc xác định ngữ dụng của phát ngôn trong
hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
- Phụ chú tình thái xuất hiện ở tất cả các loại phong cách ngôn ngữ văn
bản nhưng chiếm số lượng nhiều nhất là ở phong cách nghệ thuật. Điều này
dễ dàng lí giải dựa vào đặc trưng của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
KẾT LUẬN
1. Phụ chú là một thành phần không nằm trong cấu trúc cú pháp của
câu. Về chức năng, nó có thể giải thích, minh họa, quy ước, bổ sung, biểu
cảm,… cho đối tượng chú thích để giúp người nghe, người đọc hiểu rõ hơn
nội dung của câu hoặc ý định của người viết (người nói).
Những phương diện nghĩa của câu bao gồm nghĩa biểu hiện và nghĩa
tình thái. Trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu, có vai nghĩa mang tính bắt
buộc và vai nghĩa không mang tính bắt buộc. Tương tự, tình thái của câu cũng
có thể chia thành 2 dạng: tình thái chủ quan và tình thái khách quan. Thành
phần phụ chú có liên quan chặt chẽ với cả hai nghĩa này.
Mặt khác, dựa vào lí thuyết của hành động ngôn từ, có thể chia hành
động nói thành các lớp. Qua đó, phụ chú cho hành động nói sẽ dựa trên tiền
đề này.
2. Luận văn đã thực hiện trên cơ sở 817 ngữ liệu (với 1097 phụ chú)
được thu thập từ các văn bản thuộc bốn kiểu phong cách: phong cách chính
luận, phong cách báo chí, phong cách khoa học, phong cách nghệ thuật; trong
đó phong cách chính luận có 107 ngữ liệu (với 135 phụ chú), phong cách báo
chí có 240 ngữ liệu (với 381 phụ chú), phong cách khoa học có 240 ngữ liệu
(với 330 phụ chú), phong cách nghệ thuật có 230 ngữ liệu (với 251 phụ chú).
Về ngữ nghĩa biểu hiện, phần phụ chú có thể có quan hệ với các tham
tố hiện diện trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với các mức độ khác nhau.
Bước đầu luận văn đã miêu tả các dạng, các tiểu loại phụ chú.
Đối với mối quan hệ nghĩa với các tham tố, luận văn xác định được
các dạng phụ chú bổ sung và giải thích cho diễn tố và chu tố gồm: điều kiện,
nguyên nhân, thời gian, đặc điểm,… Đối với mối quan hệ nghĩa với sự tình,
luận văn khảo sát phần phụ chú cho 2 loại sự tình (sự tình tĩnh và sự tình
động). Qua đó, chúng tôi xác định sự tương đồng và khác biệt giữa các chức
năng ngữ nghĩa của phụ chú.
Khi khảo sát ngữ liệu phụ chú trên phương diện ngữ nghĩa trong các
kiểu phong cách ngôn ngữ văn bản, luận văn nhận thấy phong cách ngôn ngữ
báo chí có số lượng phụ chú cho tham tố nhiều nhất, kể cả tham tố bắt buộc
và tham tố không bắt buộc. Thế nhưng, khi phân tích các ngữ liệu phụ chú có
quan hệ với một yếu tố trong câu thì các loại ý nghĩa mà phụ chú bổ sung có
sự phân bố khác: phụ chú có ý nghĩa sự vật chiếm nhiều nhất trong phong
cách ngôn ngữ báo chí, phụ chú có ý nghĩa hoạt động, trạng thái, quá trình tập
trung nhiều ở phong cách nghệ thuật, phụ chú có ý nghĩa tính chất, đặc điểm
chiếm số lượng nhiều ở phong cách ngôn ngữ khoa học…
Nhìn chung, những yếu tố được chú thích thường là những yếu tố mang
nghĩa chung chung, chưa rõ vật chiếu hoặc còn chưa rõ nghĩa. Vì thế phần
phụ chú rất đa dạng, có khi làm rõ nghĩa, khi mở rộng nghĩa hoặc thu hẹp
nghĩa của đối tượng chú thích.
3. Qua sự khảo sát và phân tích ở chương ba (đây là chương trọng tâm
của luận văn), chúng tôi rút ra một số điểm sau:
- Phụ chú xét theo hành động ngôn trung được phân bố vào 4 lớp hành
động nói với 20 tiểu loại phụ chú thực hiện hành động nói. Cơ sở để phân
chia là dựa vào đích ngôn trung của các lớp hành động. Theo đó, luận văn tiến
hành khảo sát, phân loại ngữ liệu và có thể nhận xét rằng: Phụ chú thực hiện
hành động nói thuộc lớp biểu hiện có số lượng tiểu loại nhiều nhất, hành động
nói của phụ chú đa dạng nhất, số lượng ngữ liệu phong phú nhất. Đồng thời,
phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp “biểu hiện” đều có mặt trong văn
bản thuộc các phong cách ngôn ngữ mà luận văn khảo sát. Trong khi đó, phụ
chú thuộc lớp “điều khiển” chỉ tìm thấy ở phong cách khoa học và phong cách
chính luận với số lượng ngữ liệu ít ỏi; cũng như phụ chú thuộc lớp “ước kết”
chỉ tìm thấy ở phong cách khoa học hay phụ chú thuộc lớp “bộc lộ” thì không
tìm thấy ở phong cách báo chí,…
- Một phụ chú có thể thực hiện một hành động nói tường minh bằng
lời hoặc là hành động nói không tường minh bằng lời; phụ chú có thể là hành
động nói trực tiếp hoặc gián tiếp; chúng có thể là phát ngôn ngôn hành tường
minh hay phát ngôn ngôn hành hàm ẩn. Như vậy, theo ngữ liệu điều tra khảo
sát, phát ngôn ngôn hành tường minh được dùng để thực hiện hành động nói
trong phụ chú đều có cấu tạo ngữ pháp khuyết thành phần chủ ngữ; còn phát
ngôn ngôn hành hàm ẩn được dùng để thực hiện hành động nói trong phụ chú
có thể đầy đủ thành phần hoặc khuyết thành phần.
- Một phụ chú có thể thực hiện một hành động nói nhưng cũng có thể
thực hiện hơn một hành động nói (dạng phụ chú trong phụ chú). Đối với
những phụ chú trên một hành động nói thì các hành động nói đó có thể cùng
loại hoặc không cùng loại, có thể cùng một lớp hoặc không cùng một lớp. Mặt
khác, dạng phụ chú trong phụ chú này, nếu số lượng hành động nói càng cao
thì tần số sử dụng càng thấp. Có lẽ vì phụ chú thực hiện càng nhiều hành động
nói thì phụ chú càng phức tạp về ngữ nghĩa. Điều này sẽ làm phân tán lượng
thông tin của phần câu còn lại, gây khó khăn cho người tiếp nhận văn bản.
- Hành động nói của phụ chú có thể là hành động nói của tác giả
nhưng cũng có thể là hành động nói của nhân vật hoạt động trong văn bản. Về
điểm này, có thể thấy trong phong cách nghệ thuật hầu hết là hành động nói
của nhân vật, ngược lại thì các phong cách như khoa học, chính luận, báo chí
có phụ chú thực hiện hành động nói phần nhiều là của tác giả.
- Phụ chú có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tình thái của câu,
cả với tình thái chủ quan lẫn tình thái khách quan. Đối với tình thái hướng về
người đối thoại (người nghe), loại này chiếm số lượng nhiều (gần gấp đôi tình
thái hướng về sự việc) bao gồm người nghe là nhân vật trong văn bản và cả
người đọc văn bản. Đồng thời, qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi xác định phụ
chú biểu thị tình thái tập trung chủ yếu trong phong cách ngôn ngữ nghệ
thuật.
Trong phạm vi hạn hẹp của luận văn, chúng tôi chưa thể trình bày
những phương diện khác của phụ chú. Điều đó cho thấy tính đa dạng, phong
phú của thành phần phụ chú và gợi mở thêm cho chúng tôi những nghiên cứu
sâu rộng hơn khi có điều kiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Diệp Quang Ban (1987), Câu đơn tiếng Việt, Nxb Đại học và THCN.
2. Diệp Quang Ban (1996), Ngữ pháp tiếng Việt, tập II, Nxb Giáo dục.
3. Diệp Quang Ban (2004), Ngữ pháp Việt Nam-phần câu, Nxb ĐH
Sư Phạm.
4. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
5. Diệp Quang Ban (2008) Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt (Theo định hướng
ngữ pháp chức năng), Nxb Giáo dục.
6. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt. Tiếng- Từ ghép- Đoản
ngữ, Nxb Đại học và THCN.
7. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb ĐH Quốc gia.
8. Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1983), Giáo
trình ngữ pháp tiếng Việt, tập II, Cú pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
9. Đỗ Hữu Châu (2005), Tuyển tập, tập II, Đại cương Ngữ dụng- Ngữ pháp
văn bản, Nxb Giáo dục.
10. Đỗ Hữu Châu (2006), Đại cương ngôn ngữ học, tập II, Ngữ dụng học,
Nxb Giáo dục.
11. Đỗ Hữu Châu (1995), Giáo trình giản yếu về ngữ dụng học, Nxb
Giáo dục.
12. Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê (1963), Khảo luận về ngữ pháp Việt
Nam, Đại học Huế.
13. Mai Ngọc Chừ (chủ biên), Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi
Minh Toán (2007), Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.
14. Simon C. Dik (Nhóm biên dịch: Nguyễn Vân Phổ, Trần Thủy Vịnh,
Nguyễn Hoàng Trung, Đào Mục Đích, Nguyễn Thanh Phong) (2005),
Functional Grammar (Ngữ pháp chức năng), Nxb ĐH Quốc gia
TPHCM.
15. Nguyễn Đức Dân (1987), Lôgích – Ngữ nghĩa – Cú pháp, Nxb Đại học
và THCN.
16. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, tập I, Nxb Giáo dục.
17. Nguyễn Đức Dân (1998), “Biểu thức ngữ vi”, Ngôn ngữ, (2), Tr, 14-22.
18. Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng (2007), Giáo trình dẫn luận ngôn ngữ học,
Nxb Đại học Sư phạm.
19. Nguyễn Đức Dương , Hoàng Dũng (2001), “Bàn thêm về phần chú thích
trong SGK môn Văn”, Ngôn ngữ & Đời sống (7), tr. 2-6.
20. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt – Từ loại, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội,
21. Lê Đông – Nguyễn Văn Hiệp (2003), “Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ
học”, Ngôn ngữ (7,8), tr 23-27.
22. Ferdinand De Saussure, Cao Xuân Hạo dịch (tái bản 2005), Giáo trình
Ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học Xã hội.
23. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết,
(1994), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.
24. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
25. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb
Khoa học Xã hội.
26. Cao Xuân Hạo (1999), Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ
nghĩa, Nxb Giáo dục.
27. Nguyễn Văn Hiệp (1991), Các thành phần phụ của câu tiếng Việt (Luận
án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn), Đại học Tổng hợp Hà Nội.
28. Nguyễn Văn Hiệp (2008), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nxb
Giáo dục.
29. Nguyễn Chí Hoà (2006), Ngữ pháp tiếng Việt thực hành, Nxb ĐH
Quốc gia.
30. M. A. K. Halliday (Hoàng Văn Vân dịch) (2001), Dẫn luận ngữ pháp
chức năng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
31. Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm (in lần thứ tư, không đề năm
in), Việt Nam văn phạm, tủ sách giáo khoa Tân Việt.
32. John Lyons (Nguyễn Văn Hiệp dịch) (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận,
Nxb Giáo dục.
33. Nguyễn Thị Ly Kha (chủ biên), Vũ Thị Ân (2007), Ngữ nghĩa học, Nxb
Giáo dục.
34. Đào Thanh Lan (2002), Phân tích câu đơn tiếng Việt theo cấu trúc Đề -
Thuyết, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
35. Lưu Vân Lăng (1970), “ Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt trên quan điểm
ngữ đoạn tầng bậc có hạt nhân”, Ngôn ngữ (3), tr.49-62.
36. Hồ Lê (1992), Cú pháp tiếng Việt, quyển II, Nxb Khoa học Xã hội
Hà Nội.
37. Hồ Lê (1993), Cú pháp tiếng Việt, quyển III, Nxb Khoa học Xã hội
Hà Nội.
38. Nguyễn Thị Lương (2006), Câu tiếng Việt, Nxb ĐH Sư Phạm.
39. Hoàng Phê (chủ biên) (tái bản 2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
40. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt, câu, Nxb Đại học và
THCN.
41. Nguyễn Thị Quy (1995), Vị từ hành động tiếng Việt và các tham tố của
nó, Nxb Khoa học Xã hội TP Hồ Chí Minh.
42. Hữu Quỳnh (1980), Ngữ pháp tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục.
43. Lê Xuân Thại (1994), Câu chủ - vị tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội
Hà Nội.
44. Nguyễn Kim Thản (1964), “Về việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt”,
Văn học (6), tr. 43-49.
45. Nguyễn Kim Thản (1997), Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo
dục.
46. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục.
47. Huỳnh Văn Thông (2004), Vị từ tình thái tiếng Việt (đối chiếu với tiếng
Kơho-Mạ), Luận án Tiến sĩ, Đại học Quốc gia Tp.HCM.
48. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), Nguyễn Văn Hiệp (2004), Thành phần
câu tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
49. Ủy Ban KHXH Việt Nam (2000), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
50. Hoàng Văn Vân (2000), Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt – mô tả
theo quan điểm chức năng hệ thống, Đại học Ngoại ngữ Hà Nội.
51. Đào Thị Vân (2001), “Phần phụ chú được cấu tạo từ số từ trong câu tiếng
Việt”, Ngôn ngữ, (7), tr. 37- 43.
52. Đào Thị Vân (2002), “Bước đầu tìm hiểu về hành động nói của phần phụ
chú trong câu tiếng Việt”, Ngôn ngữ, (1), tr 36-40.
53. Đào Thị Vân (2007), “Phần phụ chú trong câu tiếng Việt xét từ phương
diện quan hệ nghĩa với phần văn bản hữu quan”, Ngôn ngữ, (12), tr.1-10.
54. Đào Thị Vân (2009), “Về các kiểu phần phụ chú trong câu tiếng Việt có
quan hệ thời gian với phần văn bản hữu quan”, Ngôn ngữ (6), tr.5-14.
55. Đào Thị Vân (2002), Phần phụ chú trong câu tiếng Việt (Luận án Tiến sĩ
Ngữ văn), ĐH Sư phạm Hà Nội.
56. Viện Ngôn ngữ học (2003), Những vấn đề Ngôn ngữ học (Hội nghị Khoa
học 2002), Nxb Khoa học Xã hội.
57. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2001), Từ điển giải thích thuật ngữ Ngôn ngữ
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
58. Asher R. E (1994), The Encyclopedia of language and linguistics-
Glossary, V10, Oxford University Press.
59. Austin J. L (1962), How to do things with words, Oxford.
60. Judith Pearsall and Bill Trumble (1996), The Oxford Encyclopedia
English Dictionary, Oxford University Press, USA.
61. R.Quirk, S.Greenbaum, G.Leech, J.Svartvik (1985), A Comprehensive
Grammar of the English Language, Longman.
Tài liệu trực tuyến
62. http://www.ngonngu.net
63. http://vi.wikipedia.org
64. http://www.linguistlist.org
Tài liệu trích dẫn
65. Phạm Văn Đồng (1973), Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người
nghệ sĩ, Nxb Văn học.
66. Dương Hướng (2004), Bến không chồng, Nxb Hải Phòng.
67. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2008), Ngữ văn lớp 12, tập1, Nxb
Giáo dục.
68. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2008), Ngữ văn lớp 12, tập2, Nxb
Giáo dục.
69. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2008), Ngữ văn lớp 12, tập 1, Sách giáo
viên, Nxb Giáo dục.
70. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2008), Ngữ văn lớp 12, tập2, Sách giáo
viên, Nxb Giáo dục.
71. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2008), Thiết kế bài học Ngữ văn lớp 12
tập 1, Nxb Giáo dục.
72. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2008), Thiết kế bài học Ngữ văn lớp 12
tập 2, Nxb Giáo dục.
73. Mường Mán (2006), Trăng không mùa, Nxb Trẻ.
74. Vương Trí Nhàn (1999), Buồn vui đời viết, Nxb Hội Nhà văn.
75. Nguyễn Như Phong (2003), Chuyên án Z501 (Vụ án Năm Cam và đồng
bọn), Nxb Công an Nhân dân.
76. Nguyễn Ngọc Tư (2008), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ.
PHỤ LỤC 1: PHỤ CHÚ TRONG VĂN BẢN THUỘC PHONG
CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
1. Ông lấy trời đất thần phật, rắn rít và cả kiếp sau (mặc dù ông cũng chưa
biết nó ra sao) ra thề nhưng bà không tin, giận chẳng nhìn, chớ thèm cười
nói. [76: 8]
2. Đã quá chừng đau, khi ông nhìn sâu trong ánh mắt vợ mình thấy không
còn lấp lánh thương yêu, chỉ tối tăm ngờ vực, hoài nghi, và bữa ông đi, bà
đứng giữa nắng trưa, cuốc đất (chỗ đất còn mới tinh ông vừa lên liếp).
[76: 9]
3. Ông đi được vài bước, ông day lại nhìn Diễm Thương (cho chắc là nó
đang đứng đây, và có thiệt trên đời). [76: 10]
4. Ông sẽ đưa nó đi dài xóm, khoe “Con Cải tui về đây nè, bà con coi, nó lớn
quá chừng hen”, trong lòng không giấu được hả hê (vậy mà mấy người nói
tui giết nó). [76: 10]
5. Có lần, ông đậu xe kẹo đầu chợ, thấy người ta làm phim vụ lấn chiếm lòng
lề đường, người hốt thúng mủng, cá rau bỏ chạy, ông sướng rồi lăng xăng
chạy tọt chỗ này ló mặt đằng kia, mấp máy mấy câu “Cải ơi…” (mà vô
phim người ta đã xóa mất tiếng còn đâu). [76: 13]
6. Diễm Thương biết có chạy qua không hay là bận khách, bận cười cợt (mà
lòng não nề) biểu uống với em chút nữa đi anh. [76: 14]
7. Người thành phố ngồi ngấm cái “mấy hồi” của ông già, mừng tủi thấy màu
xanh cây cỏ cù lao đã thẫm trước mắt (mà sau mới biết mình mừng hụt).
[76: 17]
8. Nhân viên y tế nào mới về ngó câu khẩu hiệu ấy cũng cười, cũng thương.
Nhưng rồi nửa khuya ngồi ăn mì gói, nghe cú kêu lẫn tiếng radio khọt khẹt
( để chút âm thanh đấy cho đỡ quạnh), vạch đi vạch lại tờ báo cũ mèm, họ
sực nhớ phải về quê lấy vợ, lấy chồng, sực nhớ vợ mình mới sinh, sực nhớ
tội nghiệp ba má đã già…Và họ từ giã cù lao. [76: 19]
9. Mà trông Văn vẫn buồn, buồn chen giữa hai cái cười, nó tranh thủ cả khi
Văn đưa ly rượu lên môi và để ly không xuống (còn lúc uống thì mặt Văn
nhăn nhúm lại, vẻ buồn không rõ ràng). [76: 20]
10. Hỏi nghĩ sao mà tình nguyện về đất cù lao này, nghe tên Mút Cà Tha bộ
không ớn sao, Văn (lại ) cười… [76: 20]
11. Lúc đấy thì ít nói, thẹn thò nhưng ở lại lâu, dọn dẹp lăng xăng, quét trên
quét dưới, bắc nồi cơm lên bếp, làm cá nấu canh chua trái giác, sung sướng
thấy mình bận rộn giống hệt mấy nhỏ bạn mới lấy chồng (tụi con gái
thường hay điên vậy, tới khi xà quần chồng con thật, lại than số mình cực
như trâu). [76: 22]
12. Ông Tư ngồi trước cửa, giấu sự thắc thỏm (Và một chút lưỡng lự, mình
tạo điều kiện cho hai đứa gần gũi vầy có sao không ta). [76: 22]
13. Bữa nọ Nga đem mang cần xé ổi ra chợ huyện cân cho vựa thì gặp đám
bạn Văn xốc xếch đứng trên bến. Nga cho quá giang về Mút Cà Tha (mà
không hiểu sao trong bụng muốn nhận chìm xuồng cho tụi này bỏ ý định
ra cù lao cho rồi). [76: 23]
14. Xuồng cập bến, Nga xăm xăm đi trước dẫn đường, tong tả xộc vào phòng
sau của trạm xá, cằn nhằn cử nhử, sao anh Văn bày tùm lum như vầy (cho
tụi kia biết, ta đây đã thân thuộc với anh ấy đến mức nào). [76: 23]
15. Bước vô cửa thấy ba bốn người nằm ngủ nghiêng ngủ ngửa, Nga nói
ngay, “Ủa, anh kia chưa về hả, cha, ảnh đâu ta? Em hỏng có đi chung”
(cho anh đừng suy diễn lung tung, rồi hiểu lầm lòng dạ em). [76: 25]
16. Thí dụ như con cá, lá rau, hạt gạo mến thương của người cù lao không
ràng buộc được một con người (như đã từng rịt chân ông lại), thì cái bóng
nhỏ nhoi của đứa con gái đang tuyệt vọng đứng ngóng chờ dưới bến không
có ý nghĩa gì sao? [76: 25]
17. Mai mốt đây hai đứa phải lấy chồng (con gái ở quê nuôi lớn không để lấy
chồng thì để làm gì?), Điềm ước gì mình gặp được một người tử tế, hiền
hậu, có học thức như Thi, lấy được người chồng mà tự mình tìm hiểu, yêu
thương như Huệ. [76: 43]
18. Sáng ra Bà Hai, má Huệ, nói vói với thím Mười Ba: “Làm gì hồi đầu hôm
nầy mấy con chó nhà tôi sủa ong ỏng hoài vậy không biết?”. [76: 43]
19. Một ngày khác thường của tuổi mười hai – tuổi bè bạn, tuổi vui chơi, tôi
lùa mười sáu con vịt – một trong những gia tài của má tôi – ra đồng, mưa
đầm đìa vào ngày mùa. [76: 48]
20. Chị quê Cây Khô, lỡ thời, thương thằng (xin lỗi!) thợ gặt miệt Bình An đổ
xuống. [76: 53]
21. Vậy mà cái thằng đó (xin lỗi!) tệ, làm ít nhậu nhiều. [76: 54]
22. Ông không nói với nó vẫn thường thấy chị ôm cái áo người cũ ngồi khóc,
chị thường hay kho cá bỏ me, ông vốn không ưa (nhưng chắc người ta nào
đó thích). [76: 56]
23. Con vịt thì chạy xà quần rượt cắn đám con nít, ông uống chút gì đó (hoặc
trà, hoặc rượu) lai rai với láng giềng. [76: 56]
24. Mãi mãi chẳng dám nói thật lòng, cho đến cuối đời, tình ấy vẫn bàng bạc,
rập rờn và mỗi khi có dịp (như đi qua chỗ ngồi cũ, con đường cũ, gương
mặt cũ…), ta bỗng thấy nhói ran. [76: 62]
25. Tôi thở dài cái thượt như cũng đang nặng lo cho “nhà mình” (mặc dầu
hơi ngẩn ngơ, mình có vai trò gì trong ngôi nhà xiêu đổ ấy đâu?). [76: 63]
26. Từ đầu tới cuối, Phương nhắc đến tôi chỉ một câu chín chữ, “Út Nhỏ có
qua nhà mình xin giấm không (?!)”, vậy mà anh Tứ Hải vẫn ân cần dặn,
“Ráng chờ thằng Phương nghen , Út nhỏ. [76: 67]
27. Má tôi nói (giọng như là cảnh cáo tôi vậy), thằng Tứ Phương khác thường,
nó trầm tính, sâu sắc, người như vậy thương ai là thương tới chết mới thôi.
[76: 67]
28. Má tôi tức lắm, bảo, “Con Út Nhỏ chắc mắc nợ anh em thằng Tứ Hải. Để
coi, thể nào mầy cũng ế chồng. Mà,- bà ngờ ngợ- con nhỏ ngông này, có
thương thằng Tứ Phương thiệt hôn?”. [76: 68]
29. Hai đứa nhỏ ngẩn người ra, vỗ tay cười, chú út nói sai bét, ba con nói chữ
đó là “Anh hùng náo”, chữ kia là “Bao Thanh Thiên”, còn lưu thiên cổ gì
đó, ba nói là “Tứ tử đăng khoa” (toàn tên mấy tuồng cải lương). [76: 69]
30. Thể thì ngồi lui ra sau chừng năm ba thước như xưa rày vẫn vậy (tôi ngờ
rằng cũng ở vị trí đó, một hôm chị chọn được người trăm năm của mình),
lặng lẽ cười. [76: 69]
31. Hai đứa tôi ngồi đâu đó (chỗ mà ai cũng nhìn thấy) nói chuyện chơi, có
lúc chẳng cần nói gì. [76: 70]
32. Bảy năm trước, lúc ông Mười đem hết thảy bốn chín cái thư của Nguyễn
Thọ gửi dì Thấm đem đốt hết, cũng không ai cản được. Mấy ông viết sử
của tỉnh kêu trời, đồng đội, đồng chí của Nguyễn Thọ cũng kêu trời, phải
chi còn, đem in vô tập những bức thư tình hay nhất (mặc dù chưa ai được
xem Nguyễn Thọ viết ra làm sao). [76: 75]
33. Vì ông lấy người yêu duy nhất của Nguyễn Thọ làm vợ (đáng lẽ phải để
dành), rồi sau đó không cho vợ đi dự những cuộc họp mặt, hội thảo về
Nguyễn Thọ (làm vậy không phải là quay lưng với quá khứ sao?) và cũng
vì cách ông dạy thằng Thảo (đáng lẽ phải nâng niu, chiều chuộng).[76: 77]
34. Trên những tấm hình trắng đen cũ kỹ hiện lên một hình người nằm cạnh
cây súng đã gãy (nghe nói chính anh đập gãy sau khi bắn đến viên đạn
cuối cùng). [76: 81]
35. Thí dụ như lớn lên tôi sẽ làm chủ tịch nước, hay lấy một ông già làm…
chồng. Già như ông ngoại tôi vậy. Lúc nào cũng chậm rãi, cũng hiền hiền,
cũng trầm lặng, cũng tràn đầy bao dung (một ông chồng giống như vậy
đáng mong chờ lắm chớ bộ). [76: 84]
36. Lớn lên tôi nhận ra người già quá…nhăn nheo, không được… đẹp (trong
khi có nhiều thằng con trai hấp dẫn, trắng trẻo thẳng thớm phát mủi lòng).
[76: 84]
37. Ông già Chín nói nghề bán vé số của ông thấy vậy mà có ý nghĩa ghê lắm,
vì đem lại hy vọng cho người ta, vì đem lại sự giàu có cho người ta (nếu
trúng số), ... [76: 85]
38. Mắc yêu thì yêu – ông già cự lại, vẻ mặt sương sướng không giận gì ai –
Bây thì biết gì, tình xưa đó, mà, mình thương người ta mà người ta đâu có
thương mình. [76: 87]
39. Thường Khanh đã già đi (ai mà chẳng vậy) nhưng cái phong thái tao nhã
ung dung vẫn như ngày xưa. [76: 94]
40. Ông Chín đứng đó, trong lòng vừa mừng (tại cô Hồng không muốn gặp
chớ không phải tại tôi ích kỉ à nghen) vừa thắt thẻo thương bà… [76: 95]
41. Ông hay chê Phi với má, “Cái thằng, lừ đừ lừ đừ không biết giống ai”
(còn có thể giống ai?). [76: 102]
42. Ở đáy con sông nào, còn là nơi gởi gắm xương thịt của người đàn bà xấu
số - má Giang. [76: 115]
43. Anh Hiện gởi lời thăm chế. Ổng hỏi em hoài hà, hỏi vậy chớ chế lúc này
vui hông? Em nói hổng biết. Sao mà em thấy ổng tội nghiệp thiệt. Phải… -
Con Thủy lúng búng dừng lại rồi thẹn thò nói tiếp – Phải chi có cái gì
thường được, mình thường cho ổng. [76: 118]
44. Mắc mớ gì mà phải bồi thường, Giang cười, rồi giật mình, con Thủy năm
nay mười tám tuổi, nó lớn thiệt, lớn mau quá. [76: 118]
45. Hỏi sao kì vậy, má tôi kéo chéo khăn lên chậm chậm vô mắt, “Bộ hết
người rồi sao mà mà nội bây cưới tao cho ổng, đó, - bà chỉ tay ra bến –
gần hết đời rồi tao có được vui đâu. [76: 122]
46. - Ổng còn nguyên đó chớ có đi đâu, trước không mất giờ còn sợ mất mát
gì nữa, mà – giọng má chợt cay đắng – hồi đó giờ ổng có phải của tao đâu
mà giữ. [76: 124]
47. Nội tôi dứt khoát không chịu (nội có tỉ tỉ lý do, nhưng cái lý do lớn nhất là
người phụ nữ đó đã có một đời chồng), ba tôi mới dắt díu người ta bỏ nhà
đi sống kiếp thương hồ. [76: 126]
48. Mơ hồ dường như mình mắc nợ ai đó, cả nhà tôi lúc nào cũng cảm thấy
không vui, dù hạnh phúc ( hai thứ này sao lại không thể đi chung). [76:
127]
49. – Dà, đêm nay nhiều gió thiệt – Dì vẹt mớ quần áo ngổn ngang trên cái
sạp tre – chị vô mui ngồi cho ấm, chờ bớt gió rồi đi, ngồi ngoài đó cảm
sương chết. [76: 128]
50. – Dà, - dì bối rối - ảnh … đi xa lắm. [76: 129]
51. Tôi ngẫm nghĩ mấy giả thuyết (tất nhiên là trong lúc rảnh), có thể, khi tôi
tất tả trên con đường này thì thằng bạn lại đi trên con đường khác; tôi đi
chợ mua cá nấu cơm, bạn đang nhậu; tôi thức gần trắng đêm để viết lách
kiếm cơm, bạn phải ngủ; khi tôi ngược về vùng sâu vùng xa công tác, bạn
được sếp cử đi Sài Gòn…kẻ xuôi người ngược. [76: 134]
52. Về cái sự chúng tôi không gặp (dù thi thoảng cũng nhớ nhau), có quá
nhiều giả thuyết. [76: 134]
53. Nhưng đời đám nhân viên phục vụ bỗng buồn hiu. Khách đến, khách say,
tán tỉnh, hôn hít họ rồi về (thì ca hay, phục vụ chu đáo, nên khách thưởng
chơi vậy mà). [76: 137]
54. Có ai yêu mình, tin mình, chịu cưới mình khi suốt ngày mình đưa mặt cho
người ta hôn hít (và cả đáp lại người ta, nếu có yêu cầu). [76: 137]
55. Chuyện đó cũng đã lâu, nhắc lại, Xuyến cười, quên mất tiêu rồi (giống
như quên cái nón, cái khăn, cái bàn chải đánh răng…) [76: 138]
56. Xuyến lên nhà chơi với Bi (hú vía, may mà có con bé nhỏ teo xinh xẻo
này) [76: 138]
57. Mắt mở trợn trạo, mặt đỏ bừng, Khởi lia tay vào bàn tiệc (như đang đếm
gà, vịt), gằn giọng: “Cô nắm níu ở đây là thèm khát thứ này sao, Xuyến?,
xong quay lưng đi một nước. [76: 139]
58. Một chiều Xuyến ra bến chơi, anh cũng xách dao dọn cỏ, tỉa cây gần đó,
anh nói láp váp đủ chuyện dưới đất trên trời (như thể mình mà im lặng
Xuyến sẽ khóc mất). [16: 40]
59. Anh nhằn gió trên trời, thổi chi cho tội, nhằn ai phơi khô cá thòi lòi không
đặng nắng để bốc mùi thúi ủm. Nhằn cả chuyện độ rày gạo cá lên giá quá
chừng…(ủa, chuyện này mắc mớ gì đàn ông lo). [76: 140]
60. Ngoài chỗ nói nhiều ra (mà toàn nói chuyện khơi khơi), sao mà anh Năm
“Già” giống Khởi kỳ lạ. [76: 140]
61. Giống cả cái yêu lặng lẽ, lầm lì (như ông trời trả lại y chang). [76: 140]
62. Xuyến bần thần một thoáng (những đứa trẻ ấy có một mụn thịt trong vành
tai, có một nốt ruồi son đỏ sau gáy, có cái rốn to nhăn nhúm buồn cười
như cái mặt người, cái rốn hai mươi mốt ngày mới rụng…như Bi không?).
[76: 140-141]
63. Đáng lẽ phải nói như vầy, em thấy yêu mến, gắn bó mảnh đất này quá đi,
anh à (nói theo kiểu thanh niên tình nguyện trả lời phỏng vấn trên truyền
hình). [76: 141]
64. Một bữa hai người chơi thả tàu giấy dưới bãi với Bi, anh Năm nhìn Xuyến
thật lâu, trìu mến nhìn chị em vung vinh thách nhau thuyền nào đi trước,
cắn môi mấy cái, nhìn trước, nhìn sau (như sắp truyền tin cho nhau giống
trong phim Biệt động Sài Gòn)… [76: 141-142]
65. Hôm đó trời đứng gió, Xuyến nghe con ong o e trên ngọn đước, nghe
mình rỗng không, nghe tim nín thít (và bần thần tự hỏi, đứa trẻ mình sẽ
sinh với anh có cái ngón chân út quẹo đơ, có những sợi lông măng dày mịt
che cả cái bớt đen sau cổ như con bé Bi xinh xẻo này không). [76: 142]
66. Tiễn anh vòng vèo qua những con đường nhỏ trong rừng, ai cũng nghe
tiếc, nghe đau, nói dèm với nhau (cốt để anh Năm nghe thấy), khu du lịch
mình bộ khai trương ngày xấu, hồi đó tới giờ không tổ chức được một đám
cưới nào. [76: 142]
67. Và tàu mang người đi, thăm thẳm như thể nó đã nuốt chửng anh rồi. Mọi
người hỏi Xuyến có sao không, Xuyến bảo mai mốt cũng quên (như quên
đôi dép, đôi giày…Và như quên Khởi). [76: 142]
68. Như thế này thì nhằm nhò gì cái hồi Xuyến xin đi làm bồi bàn cho một
quán ăn trong thị xã, để được đi lại (chầm chậm) trên khúc đường gần đó,
nhìn Bi bò lủm củm trong nhà. [76: 143]
69. Những khuya không ngủ được, Xuyến lọ mọ lại khoảng sân đầy lá trước
nhà Bi, rờ rẫm chỗ đất cạnh gốc điệp già (chỗ đó, có một sáng đôi vợ
chồng nọ mở cửa ra, thấy một đứa bé đang nằm say ngủ). [76: 143]
70. Hậu đã khóc suốt tháng viện đầu, uống thuốc vào thì ngủ thiếp, thức dậy
đã thấy nước mắt chảy thành hàng (như thể Hậu đã khóc sẵn trong mơ)
[76: 145]
71. Tháng thứ hai Hậu vật vờ, nín thinh nín thít, nằm không muốn dậy (mà đã
dậy thì chẳng muốn nằm), đang ăn rớt đũa Hậu thà lấy tay bốc chứ không
thèm lượm lên. [76: 146]
72. Giỏi giắn tươi tắn đến nỗi không ai tin Hậu còn bệnh (bác sĩ nhiều khi còn
không dám tin), nhưng mãi Hậu vẫn không nhận ra chồng. [76: 146]
73. Hôm mới giải phẫu xong, cảnh đời mới buồn ác liệt, khi tỉnh dậy, Hậu chỉ
biết tê tái hỏi một câu, “sao anh đành đoạn giết em?” (trời đất ơi, chắc là
hết chuyện nói rồi). [76: 146]
74. May, sau nầy Thường không đến nữa, vì bận túi bụi thay Hậu tiếp nhận
chức Tổng giám đốc công ty Mặt trời, nghiễm nhiên là chủ tịch hiệp hội
đồ chơi (những gì Hậu để lại nặng nề hết sức). [76: 147]
75. Trong một thoáng Hậu xâu chuỗi lại các sự kiện. Chồng mình. Khỏan tiền
thất thoát. Cô kế toán trưởng chi nhánh miền Tây. Những lời đồn đại (mà
trước giờ Hậu chẳng tin)… [76: 149]
76. Hậu nghe tim mình vỡ bục ra, giãy đành đạch rồi nín luôn. Sau coi phim
thấy cảnh hiếp đáp éo le cũng không thương khóc nữa (hoàn cảnh đấy thì
sức mấy mà đau bằng mình). [76: 149]
77. Nhâm thảng thốt cuối đầu, tôi đã có lúc điên vì tiền , lúc đó, con gái tôi
đau nặng lắm…Hậu gật đầu miệng ờ ờ (như đã chứng kiến cảnh ấy rồi, đã
biết tỏng rồi)… [76: 150]
78. Bởi Hậu gật đầu, hẳn nhiên hai người sẽ lấy nhau. Sau bữa tiệc nho nhỏ là
đêm động phòng (chớ còn gì nữa), Nhâm sẽ phát hiện Hậu có một cái thẹo
lớn trên vai. [76: 153]
79. Chị nhảy xổm ra, la oai oái, sau lại cười (mà con mắt đung đưa phía cha)
“Mai mốt mấy con vịt quỷ này sẽ khoái chị, mấy hồi…”. [76: 162]
80. Chị ngạc nhiên, thấy nước mắt ràn rụa trên má thằng Điền (mà chị không
biết là nó bị bệnh chảy nước mắt sống từ hồi chín tuổi). [76: 162]
81. Mới rồi chúng tôi dừng chân ở một xóm nhỏ bên bờ sông lớn mênh mang.
Mỉa mai, người ở đây lại không có nước để dùng (như chúng tôi đi trên
đất dằng dặc mà không có cục đất chọi chim). [76: 162]
82. Con nít ba tuổi đã biết quý nước, mắc lắm cũng ráng chạy ra vườn đái vô
chậu ớt, chậu hành (báo hại cây rụi lá). [76: 163]
83. Để bầy vịt không bị chôn sống (điều đó đồng nghĩa với việc đứt vốn cho
mùa sau), bọn tôi tôi quyết định vẫn cầm chúng ở đây. [76: 163]
84. Chúng tôi rủ chị đi câu (Chúng tôi cho là chị buồn, dù chuyện đó khá tức
cười, làm điếm được trả tiền mà buồn nỗi gì). [76: 166]
85. Người đàn ông cười hề hề, thề “Tôi nói láo cô Hai cho xe đụng chết ngắc”
(ngay lập tức, Điền thầm nghĩ, “thằng chả ở dưới ghe kiếm đâu ra chiếc
xe, nói dóc…”, và bằng cái vẻ ác cảm lạ lùng, thằng Điền bảo tôi nhìn
khuôn mặt và tấm lưng trần chi chít những nốt ruồi của ông ta, bảo “Tại
hồi đó má ổng mới sanh ổng ra quên lấy lồng bàn đậy, nên ruồi bu tùm
lum”). [76: 167]
86. Giật mình thức dậy mới hay mình ngủ quên trong kẹt bồ lúa, con chó
Phèn ngoài hè nôn nóng cào đất rột rẹt chỗ cái lỗ chui (Chắc má tưởng hai
chị em tôi đi chơi nên chốt cửa trước cửa sau mất rồi). [76: 169]
87. Suốt nhiều năm sau đó tôi không dám nhớ má, bởi ngay khi vừa nghĩ đến
má, lập tức hình ảnh ấy hiện ra. Theo đó là hình ảnh rực rỡ trên da thịt màu
vải má tôi vừa đổi được (không phải bằng tiền hay lúa). [76: 169]
88. May sao chúng nhớ đường về. Khi nhìn thấy ánh đèn chong leo lét đầu
ghe, chúng tôi mừng như chết đi sống lại, Điền nắm tay tôi chạy như điên,
nước đồng giăng sáng trắng. Bầy vịt tao tác một phen (báo hại đêm đó tụi
nó nín đẻ). [76: 174]
89. Cái cảm giác đang ở xóm cũ (có ngôi nhà cũ) vây riết lấy chúng tôi (chữ
“chúng tôi” tôi không kể cha vào). [76: 178]
90. Thật lạ làm sao khi chúng tôi quen dần với những hình ảnh giống mình
(tức là bị bỏ giữa đời chơi vơi), thí dụ như nhìn một chiếc đũa gãy, cái nắp
nồi vỡ, hay bầy gà con lạc mẹ nhao nhác…Nhưng không quên được cái bồ
lúa ngai ngái mùi cứt trâu, giữa nó và vách nhà là một khoảng hơi tối
nhưng rất thu hút trẻ con. [76: 179]
91. Chúng hay giả bộ đó là nhà riêng của chúng, để bày biện để nấu nướng,
đóng vai chồng vợ, vai má con. Để lúc bị đòn, chúng cũng chui tọt vào đó
khóc một mình, nhiều khi ngủ quên luôn (và người lớn thì hãi hùng, sao
không thấy đứa nhỏ đâu, nó bỏ đi về ngoại, nội? hay đã vô ý trợt chân té
xuống đìa?). [76: 179]
92. Họ biết chữa bệnh (có thể lấy từ bụng ta ra một nùi tóc với cái lưỡi dao
cạo, hay dùng hột gà luộc lăn trên da thịt ta, sau đó bẻ cái trứng ra cho ta
coi một nhúm lông…chó mực), cũng biết dùng những tấm bùa được vẽ
bằng máu…lưỡi để ếm chết người, và cuối cùng, họ đem được người ta
yêu trở lại. [76: 180]
93. Những săn sóc nâng niu, những lời nói ngọt ngào…tất cả đều không thật
(mình biết tỏng tòng tong là nhờ bùa ngãi chớ thương yêu gì).
[76: 180]
94. Bằng cái giọng rộn rã, giòn tan chỗ cao trào, rồi chị hết sức chậm rãi, tỉ mỉ
tả cái đoạn chị dùng dao rạch mặt cô ta và xát muối ớt vào (những người
quê mình vẫn thường làm chuyện đó rất bình thường, sẽ buồn cười khi có
ai đó nói làm vậy là vi phạm điều X chương Y luật hình sự, họ cãi ngay,
“Uả, nó cướp chồng tui thì tui đánh cho tởn chớ, với vẻ mặt tự hào ngút
ngất, tỉnh bơ, ngây thơ, tựa như một người đi qua trận địa cũ và nói với
ông bạn mình, hồi năm bảy hai tui bắn thằng lính cộng hòa ở chỗ này, óc
nó nát như chao, con mắt văng ra xa cả thước. Ông bạn chẳng ớn, nói tôi
cũng cắt cổ thằng Mỹ ở đây chứ đâu). [76: 181]
95. Cha tôi trù trừ nhưng rốt cuộc cũng gật đầu (với một thoáng giễu cợt), thật
không nỡ chối từ một tấm lòng như thế. [76: 182]
96. Tôi ôm quắp thằng Điền nghe những con sóng nhỏ lách tách vỗ vào mũi
ghe, nói, Hai nhớ trường học quá à, cưng (Ôi cái trường xiêu dựng trên
khu vườn chùa đầy cây thuốc, có ông thầy trẻ tuổi hay vò đầu tôi và xao
xuyến hỏi, má khỏe hôn con?). [76: 183]
97. Tôi không biết, tôi đã ngưng nhớ nó từ khi sống cuộc sống trên đồng,
nhưng đêm nay, sao tôi lại nghĩ tới, cả chuyện kiếm tiền để chữa mắt cho
Điền (tôi vẫn nghĩ, sự xuất hiện của nước mắt chỉ có ý nghĩa khi người ta
khóc). [76: 183]
98. Như chờ đợi chỉ có thế, chị gật đầu, mặt tở mở và rạng rỡ, gần như không
suy nghĩ gì (Má tôi cũng đã từng chọn lựa nhanh như thế sao).
[76: 185]
99. Chị cũng sẽ mất khá lâu để thích hợp với nhiều hình ảnh mang tính ước
lệ, thí dụ như mấy bụi hành ngò trồng trên cái xô bể (thay vì khu vườn cây
cỏ hoa trái mênh mông), hay cái lò cà ràng nhỏ (thay vì cả một gian bếp
ấm sự mùi củi lửa)… [76: 186]
100. Riêng chúng tôi thì không cần chị phải yêu thương chăm sóc, dạy dỗ gì
hết. Chúng tôi không hy vọng điều đó (đến con chị còn không hy vọng gì
mà). [76: 186]
101. Cái cảm giác mà cha tôi đã từ bỏ là yêu thương, che chở cho một sinh
linh (yếu ớt, nhỏ bé) nào đó thật ngọt ngào. [76: 187]
102. May là lần này chúng tôi ở Cỏ Uá khá lâu, chăm chút bầy vịt (mới gầy
lại) “trơn lông bụng”. [76: 188]
103. Cha tôi đã có vẻ bình thường, hay nói cười, hồ hởi trong những lúc có
người (chữ “người” này không tính hai chị em tôi). [76: 188]
104. Có hề gì, rồi chị sẽ yêu một người khác, nhưng mãi mãi, chỉ không
quên nỗi ê chề bị bỏ lại bên đường (bằng chứng là ba cha con tôi có quên
được đâu). [76: 189]
105. Cha không tốn nhiều công sức cho việc chinh phục (những người đàn
ông quê mùa đã tự tay đẩy người đàn bà của mình đến với cha, bằng nhiều
cách. Họ thích uống say, họ thích dùng tay chân để tỏ rõ uy quyền. Mệt
nhọc làm lụng trên đồng, người đàn ông đã trở nên khô cằn, có khi cả đời,
họ không nói với phụ nữ một câu yêu thương tử tế. Họ không biết vuốt ve
âu yếm, khi cần, họ lật cạch người phụ nữ ra và thỏa mãn, rồi quay lưng
ngủ khò). [76: 190]
106. Nên mỗi lần cha nhìn đăm đắm và mỉm cười với một người đàn bà mới,
chúng tôi lại thắt thẻo. Thêm mối tình đau trước cả ngày thứ nhất (mà chị
em tôi không cách nào ngăn được). [76: 190]
107. Tôi không còn muốn chữa mắt cho Điền. Bởi Điền khóc suốt (giống hệt
tôi), dù vẻ mặt nó rất bình thản (tôi cũng vậy, khác là nước mắt tôi khô rốc
trong lòng). [76: 191]
108. Dấu hiệu bắt đầu từ một bữa trong xóm đê, tình cờ ngó đôi chó nhảy
nhau, thấy các chị đang phơi lúa kêu ó ré lên, tôi rủ Điền giả đò nhắm mắt
(trò này cực kì trẻ con, vì ai cũng mường tượng mồn một tư thế động tình
của hai con chó). [76: 192]
109. Phải rất lâu, tôi mới nhìn Điền một cách bình thường, tôi cố quên
chuyện của nó, tưởng tượng bây giờ nó mới chín mười tuổi gì đó (cái hồi
hai đứa như cây kiểng còi, thẳng đuột như nhau, thằng Điền hay bắt
chước đái ngồi). [76: 194]
110. Nỗi bẽ bàng của những người đàn bà bị cha tôi bỏ rơi (và cộng thêm
niềm đau vỡ của những người quây quanh họ) đã thấu qua những tầng
mây. [76: 194]
111. Đắm đuối với loại ngôn ngữ mới, chúng tôi chấp nhận để cho người ta
nhìn mình như những kẻ điên (miễn là tạm quên nỗi buồn của cõi người).
[76: 195]
112. Chị em tôi học cách thương yêu đàn vịt (hy vọng sẽ không bị đau như
yêu thương một người nào đó). [76: 195]
113. Lần rủi ro này (của cái nghề lắm rủi ro) thật khốc liệt. [76: 197]
114. Hình ảnh đó, nét mặt đó làm cho tôi tuyệt vọng. Mà lúc đó, tôi đang
chết điếng, sao tôi lại nhìn về phía cha? Vì tôi muốn cầu cứu (như những
đứa trẻ con gặp chuyện giật mình, hay buột miệng gọi má ơi hoặc cha
ơi!)? [76: 197]
115. Cha không chấp nhận cả những người phụ nữ mà ông kì công chiếm
đoạt (của người khác), thì sao ông có thể tin tưởng ở sự hiến dâng?
[76: 199]
116. Tôi sửng sốt. Thằng Điền sửng sốt. Trời ơi, khác với những gì chúng
tôi biết (qua cha tôi, má tôi), trong sự hoan lạc (của những con vịt) đầy ắp
thứ gọi là tình yêu. [76: 200]
117. Họ phơ phởn nói bằng thứ ngôn ngữ buồn cười (bọn chăn vịt chúng tôi
chẳng khi nào dùng những chữ “chỉ thị”, “loại trừ tận gốc” hay “giải
quyết dứt điểm”…) [76: 201-201]
118. Cách đó năm bảy bước, giọng nói của chị vẫn lướt như một dòng gió
đầy hơi nước, thấm dịu lại hai khuôn mặt (cố tỏ ra) cứng đơ. [76: 202]
119. Chị thấu hiểu đàn ông đến nỗi, ngay lập tức chị ngó về phía chúng tôi,
ngầm báo, cuộc thương lượng (về một sự đổi chác) đã kết thúc rồi.
[76: 202]
120. Chị về khi trăng rạng rỡ trên đầu (mãi sau này, tôi vẫn còn ghê sợ cái
màu trăng ấy). [76: 203]
121. Tôi chờ nó đến khi mùa mưa đổ xuống cánh đồng Chia Cắt (tôi tạm gọi
vậy) một trời sao. [76: 204]
122. Không biết tối nay thằng Điền có được mệt nhoài úp lên chị, hay vạ vật
ở đâu đó, bên vách buồng (hay một tấm ghi-đô bằng vải), đau vật vã nghe
hoan lạc chảy thành những dòng rên xiết, kêu thét. [76: 205]
123. Tôi nhớ Điền, bao gồm nhớ một đồng loại (và tôi là một đồng loại còn
lại), nhớ một cách trò chuyện (đọc thấu lòng nhau), nhớ một người nghe
được tim mình (điều này thì con vịt mù làm được, nhưng nó chết rồi), và
nhớ một người che chở (công việc này, đáng lẽ là của cha, má tôi).
[76: 205]
124. Ánh mắt giống bàn tay của ông xẩm mù mà tôi từng gặp, đụng chỗ nào
cũng dừng lại, vuốt vuốt bóp bóp (chắc là cho dễ hình dung)…[76: 206]
125. Bây giờ, gió chướng non xập xòe trên cánh đồng Bất Tận (tên này tôi
tự dưng nghĩ ra). [76: 208]
126. Những cánh đồng đó đã hất hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt).
[76: 208]
127. Nhưng ngay từ đầu, chúng tôi đã tự làm quẩn chân mình, vì không thể
quay lại những cánh đồng cũ (với người quen cũ). [76: 208]
128. Bọn người này cướp vịt ở các bầy khác (trong đó có của chúng tôi)
bằng cách lén phết sơn đen lên đầu những con vịt và phơ phởn đến nhận
chúng là của mình, hiển nhiên mang đi. [76: 209]
129. Trời ơi, tại sao tôi không nhận ra điều đó, ngay lúc ấy (để giấu kín nỗi
ám ảnh trong lòng, giả đò tươi cười với má, xem như không có chuyện gì,
để chiều chiều cùng má ra sông, hỏi nhau không biết chừng nào thì cha
về). [76: 212]
130. Đứa con gái thoáng nghĩ, rớt nước mắt, trời ơi, có thể mình sẽ sinh con.
Nhưng nó chấp nhận việc ấy, dù phũ phàng (với nó, chấp nhận cũng là
một thói quen). [76: 213]
131. Đây là tài sản vô giá của họ Nguyễn – Cụ Nghiên nói, tay run run, mở
nắp rương lấy ra hai tờ giấy trao cho con trai. [66: 24]
132. Tờ thứ hai ghi gia phả và kèm theo lời nguyền độc – Mối thù đời kiếp
với dòng họ Vũ. [66: 24]
133. Bố nói với con lời cuối cùng – cụ Nghiên kéo tay Nguyễn Khiên đặt lên
ngực mình – Con người ta sống ở trên đời quý nhất là cái đức, từ thằng ăn
cắp đến kẻ giết người chúng vẫn nể trọng cái đức… [66: 24]
134. – Đã có mống nào chưa đây? – Tiếng ông Xung oang oang từ ngõ.
[66: 25]
135. Tình cảm của Vạn đối với chị Nhân lúc này cũng giống như tình cảm
của Vạn đối với họ tộc: Vừa kiêu hãnh mà cách xa, vừa yêu thương và
giận dỗi. [66: 31]
136. Ông muốn đi tù đấy phỏng? – Ông Kình rỉ tai ông Xung – Ông đừng có
dại mà xúc phạm đến ủy ban. [66: 32]
137. Tôi không xúc phạm ủy ban – Ông Xung gắt – Tôi nói là nói cái đứa
đếch coi tổ tiên là gì. [66: 32]
138. Chuyện vinh quang thì tôi biết rồi! - Ông Xung dốc hết chén rượu nhìn
mọi ngưới bằng ánh mắt đỏ ngầu – bây giờ tôi muốn hỏi anh Vạn về cái
chuyện anh léng phéng với nhà chị Nhân,… [66: 32]
139. Mời ông lên ủy ban xã – Vạn nghiêm giọng – ông đã bị bắt quả tang về
hành động lén lút giấu giếm chính quyền. [66: 39]
140. Đấy là tội thứ nhất – Vạn tiếp – tội thứ hai ông đã vi phạm lệnh giới
nghiêm. [66: 39]
141. Như tôi… với chị - Vạn ấp úng – Tôi nhìn thấy tụi trẻ nhà chị lại nghĩ
đến bố chúng nó. [66: 42]
142. Tôi tình nguyện bắn địa chủ Hào – Vạn háo hức nói. [66: 52]
143. Hạnh ơi cháu không hiểu đâu – Vạn run run đưa tay nắm lấy bàn tay
con Hạnh – Chú đây cũng có thời yêu mẹ cháu. [66: 69]
144. Cút đi! Cút xéo khỏi đây ngay – Chú Vạn rít lên mặt hằm hằm nhìn hai
đứa. [66: 68]
145. Chớ có dại con ạ - bà Khiên phù họa. [66: 75]
146. Chả lẽ con và Hạnh thương yêu nhau lại là chuyện xấu sao? – Nghĩa
nói, mắt nhìn bố mẹ vẻ khổ hạnh. [66: 75]
147. Mày làm sao vậy Hạnh? – Tiếng mẹ khẽ thì thầm bên tai Hạnh. [66: 76]
148. – Ta sẽ đi mãi thế này hết đêm – Nghĩa bóp mạnh tay Hạnh. [66: 78]
149. Thôi dẹp chuyện kèn trống đi các cụ ơi – Chú Xeng trịnh trọng buông
bát đĩa đứng lên đưa mắt điểm từng gương mặt các bậc cha chú trong họ -
từ nãy tới giờ các cụ toàn bàn tính những chuyện đâu đâu . [66: 114]
150. – Đúng là cái giọng của lão Xung – Bà Nhị nói nhỏ vào tai Dâu.
[66: 114]
151. Trứng khôn hơn vịt – ông Kình rỉ tai ông Phỏng – Cái thằng Xeng rõ
độc miệng. [66: 114]
152. – Tôi có ý kiến thế này – Ông Phỏng tay vẫn còn cầm cả nắm xôi giơ
lên xin phát biểu – Chú Vạn cứ bỏ quách cái nhà của lão Hào cho mẹ
thằng Tốn nó ở. [66: 114]
153. – Xin lỗi cả họ - Chú Xeng lại đứng bật dậy – Ông Phỏng cao tuổi mà
dại. [66: 115]
154. - Chú Vạn nói chí phải đấy! – Dâu bỗng đứng vụt dậy nhìn các cụ
trong họ - Cháu xin phép các cụ có ý kiến. [116]
155. – Dâu! Bố Dâu quát – Đây là việc của các cụ, con không được hỗn.
[66: 116]
156. – Cái ông này rõ lạc hậu – ông Phỏng cầm đũa chọc vào sườn bố Dâu
– Việc họ bây giờ cũng phải để cho trẻ con nó tham gia. [66: 116]
157. Các nàng mê trai khu Ba mình lắm đấy. – Anh Biền nháy mắt nhéo đùi
Nghĩa một cái, rỉ tai Nghĩa – ngồi bên con gái mà không bấu véo thủ thỉ
thù thì là nó bảo mình ngố! [66: 119]
158. – Mẹ! Hạnh nắm chặt bàn tay khô gầy của mẹ chồng giọng lạc đi – Bố
mẹ chẳng có lỗi. [66: 119]
159. – Có báo động mà mày gan lỳ không chạy hả? – Anh Biền nói và quăng
ba lô xuống giường – Đây là Thủy em gái tớ. [66: 121]
160. Anh Nghĩa ơi! – Thủy tủm tỉm cười đưa cặp mắt đen nhánh nhìn Nghĩa
vẻ láu lỉnh. [66: 123]
161. – Anh chỉ giỏi giả vờ ngốc nghếch – Thủy nói – Anh không hiểu làm
thế nào để nhớ nhau mãi à? [66: 124]
162. – Ai chẳng biết anh có vợ. – Thủy cười nhìn vào mắt Nghĩa – Em bảo
anh hôn em theo ý nghĩa tình bạn, tình anh em chẳng hạn. [66: 124]
163. – Anh có cảm giác gì không? – Thủy thì thầm. [66: 124]
164. Chú Vạn ngó trừng trừng Nghĩa – Thôi. Việc đã rồi. Không được buồn.
Yếu người đi. [66: 128]
165. – Chú để nó nghỉ ngơi tý đã nào – Mẹ Nghĩa nhặt rau ở cửa nói xen
vào – Nó vừa mới về đã tính chuyện đi. [66: 129]
166. – Thằng Nghĩa…Nghĩa – ông Xung lẩm nhẩm trong miệng nhắc đi
nhắc lại mãi tên Nghĩa. [66: 131]
167. – Mày đã nghe làng nước nói gì chưa hả? – Chú Xeng ngồi trước bàn
kéo hơi thuốc lào, mắt lờ đờ nhìn Nghĩa. [66: 131]
168. Tưởng cái vận hạn đã buông – chú Xeng ngập ngừng nhìn Nghĩa – Đến
đời mày bỗng dưng lại lao đầu vào cưới con Hạnh. [66: 132]
169. – Em không ngủ sao? – Nghĩa tỉnh giấc nắm chặt lấy tay Hạnh.
[66: 133]
170. – Chúng mình lại hôn nhau lần nữa ở đúng chỗ này xem anh có nhớ lâu
không – Nghĩa ôm lấy Hạnh và hôn lên môi cô. [66: 136]
171. Anh Tràng ơi! – Tràng quay đầu lại. Nó gân cổ gào lên lần nữa –
chông vợ hài. [70: 24]
172. Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ. – thị liếc mắt, cười tít. [70: 26]
173. Mày câm à, con chó cái! – Nó quát bọn lính – Đứng ì ra đó à! [70: 45]
174. Ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm
răng: như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn há miệng cho rộng
để nhả ra cũng không được. [70: 54]
175. Sáng hôm sau, ông năm Hên đi lên ao sấu, có tư Hoạch – một tay ăn
ong rất rành địa thế vùng Cái Tàu dẫn đường. [70: 53]
176. Ba má em chết rồi. – Chị Chiến nói thêm cho rõ. [70: 60]
177. – Khôn ! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn
bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn
hơn chú hồi trước. – Chú cười, đưa mấy ngón tay cứng còng chùi mắt. –
Đây rồi tao giao cuốn sổ gia đình cho chị em bây. [70: 62]
178. Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh
“đắt” trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một
danh họa thời cổ. [70: 70]
179. Tôi rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi
húi thay phim, lúc ngẩng lên thấy một chuyện hơi lạ: một chiếc thuyền lưới
vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nảy đang chèo thẳng trước mặt
tôi. [70: 70]
180. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắc lưới và tấm lưới nằm
giữa hai chiếc gọng gió hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi,
toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ
đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối,
trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. [70: 70]
181. Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn
vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã. [70: 72]
182. Chị cứ ngồi nguyên đấy! – Đẩu nói với vẻ đầy hào hứng của một con
người bảo vệ công lí vừa có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang
phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. [70: 74]
183. Tùy bà! – Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề
ngoài của một vị chánh án – chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu
gọi hòa thuận… [70: 74]
184. – Chị cảm ơn các chú ! – Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một
giọng khẩn thiết – Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. [70: 74]
185. Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? – Tôi bỗng hỏi một
câu như lạc đề. [70: 75]
186. – Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ
đỏ mặt – nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà
thuyền lại chật. [70: 75]
187. – Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? – Tôi hỏi. [70: 75]
188. – Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi. [70: 75]
189. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng,
Mị vẫn giấu trong áo. [70: 6]
190. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại
những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi
tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì
giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc
bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi.
[70: 6]
191. Nhưng hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái nhà Pá Tra: cô ấy là vợ
A Sử, con trai thống lí Pá Tra. [70: 4]
192. Thống lí Pá Tra xuống ngựa, cho thị sống ( một chức việc đi hầu thống
lí như người làm mõ thời trước) dắt ngựa vào tàu. [70: 9]
193. Theo sau thống lí là một lũ thống quán (một chức việc như phó lí), xéo
phải ( như trưởng thôn) và một bọn thị sống vẫn thường ra vào hầu hạ, ăn
thịt uống rượu, hút thuốc phiện nhà thống lí. [70: 9]
194. Chè đây – Bà lão múc ra một bát – chè khoán(1) đây, ngon đáo để cơ.
[70: 31]
195. Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình
chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bồng(2). [70: 27]
196. Thanh niên có đứa biết, có đứa chưa biết rõ. Còn lũ con nít thì chưa
biết . – Ông cụ trừng mắt nhìn lũ trẻ, chúng nó thấy cái nghiêm trang
trong lời ông già, đứa nào đứa nấy ngồi im lặng thin thít, dán mắt vào
miệng ông cụ. – Tnú, anh Tnú của chúng mày về rồi đó, ông cụ đặt bàn tay
chắc nịch lên vai Tnú. [70: 42]
197. Tin đồn đại lần lần đến tai ông Năm Hên, người thợ già chuyên bắt sấu
ở Kiên Giang đạo, tức là vùng Rạch Giá ngày nay. [70: 51]
198. Cũng không phải là lần đầu đến một nơi công sở nhưng người đàn bà
vẫn có vẻ sợ sệt, lúng túng – cái vẻ lúng túng, sợ sệt mà ngay lúc mụ đứng
giữa bãi xe tăng cũng không hề thấy có. [70: 73]
199. Cũng phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn
bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi. [70: 75]
200. Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng
một lúc thốt lên. [70: 76]
201. – Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài
đầy chua chát, - trên thuyền phải có một người đàn ông…dù hắn man rợ,
tàn bạo? [70: 76]
202. – Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
[70: 76]
203. Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ
nó! – Lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như
một nụ cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái
chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ. [70: 76]
204. Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? - Đột nhiên tôi hỏi. [70: 76]
205. Trong cái đám con cái đông đúc đang sống dưới thuyền, mụ không yêu
một đứa nào bằng thằng Phác, cái thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống
như lột ra từ cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn
hành hạ mụ cho đến khi chết – nếu không có cách mạng về. [70: 76]
206. Ừ, ừ...! – Ông lão lẩm bẩm, vẫn không rời mắt khỏi chiếc thuyền đang
chống chọi với sóng gió giữa phá. [ 70: 77]
207. Ngoài các món thường thấy ở cỗ Tết như gà luộc, giò, chả, nem, măng
hầm, chân giò, miến nấu lòng gà, xúp lơ xào thịt bò… – món nào cũng
mang dấu ấn tài hoa của người chế biến – là các món khác thường như gà
quay ướp húng lìu, vịt tần hạt sen, chả chìa, mọc, vây. [70: 88]
208. Bên ngoài trời rét, mưa rây lả lướt chỉ đủ làm ẩm áo chứ không làm
ướt, lại nhìn một bà lão ( nếu là một thiếu nữ thì đúng hơn) lau đánh cái
bát bày thủy tiên thấy Tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một
cái Tết Hà Nội. [70: 96]
209. Nè, muốn gì thì nói quách đi, sao dám lôi cả giòng giống đờn bà ra vậy,
gan quá hén! – Bà chủ ghe trông trẻ hơn tuổi trong bộ bà ba vải siu màu
vàng trái tắc cười ngỏn ngoẻn, tặng cho ông chủ lò đang quạu đeo khóe
nhìn mềm mượt, phát khẽ vào vai ông ta rồi quay qua “sấp nhỏ” – Ráng
lên các chú em, lỡ có bứt gân qua chịu tất. Đâu, em nào là xếp sòng ở đây?
[73: 7]
210. Khỏi thách! – Ông Hai quay sang Thao – Được nhiêu hay nhiêu, bắt
ghe neo lại mai chuyển tiếp – Đoạn ông rảo bước. [73: 8]
211. Té ngửa – Cô gái nói trẹo, không đúng cái từ mà cô đã nghịch ngợm
nghĩ. [73: 12]
212. Lại dóc, chỉ cần ba muỗng hơi rượu xốc tận óc sẽ té lăn quay – Càu
nhàu nhưng rồi Thao cũng theo lời bảo ban của khách lạ và, thán phục
nghe tiếng “roóc” của con nhỏ “đã” hơn tiếng của mình. [73: 12]
213. Vậy chịu khó ngồi đây chờ bà má về! – Hắn làm bộ cắp đàn vào nách
dợm đứng lên. [73: 13]
214. Hổng biết! – Kẹp chặt hai tay giữa hai đùi, co người hệt con tôm sú, cô
tưởng tượng cho… bỏ ghét: - Mai má bỏ con ở lại đây đi, Kòntuốc của má
đã gặp hoàng tử rồi đó. [73: 15]
215. Trong ánh sáng lờ mờ hắt qua khe liếp, con nhỏ mười mấy tháng tuổi
nhưng chỉ bé bằng con chó, quẫy đạp loạn xạ. Cơn sốt chẳng rõ bao nhiêu
độ khiến nó khốn khổ. Ẳm gọn “cục than” – dính lòng thòng mấy thứ rách
tả được gọi quần áo – vào lòng ru dỗ. [73: 16]
216. Hay chưa, con bà bà giữ sao hỏi tôi? – Thao lạnh lùng – Chó tha mất
chớ ai thèm đánh cắp mớ giẻ rách đó. [73: 17]
217. Đâu có! – Lấm lét nhìn Thao, Liên lắc đầu nguầy nguậy – Thiệt tình tối
nay chị chỉ đi coi hát. [73: 17]
218. Thiệt không? – Có cá dưới sông nó tin chị - Thao lắc đầu ngao ngán,
bước ra khỏi ngưỡng cửa. [73: 17]
219. Phần đêm còn lại, trước khi chìm vào giấc ngủ không mấy thanh thản,
Thao khôi hài nghĩ, hổng biết đêm nay là cái đêm gì mà bị tới ba con yêu
nữ quấy phá. Đường Tăng không may đầu thai về đây, còn khuya ổng mới
thỉnh kinh trót lọt, cho dù Tôn Ngộ Không có tới một tỉ phép thần thông.
[73: 18]
220. Không nghe tiếng lửa réo trong lò nấu lợn(1) . [68: 9]
221. A Phủ lê hai cái đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù(1). [68: 12]
222. A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng vía(1) lằn trên cổ,… [68: 13]
223. Anh Tràng ơi! – Tràng quay đầu lại. Nó lại cong cổ gào lên một lần
nữa – Chông vợ hài(1). [68: 24]
224. May ra mà qua khỏi cái tao đoạn này(1) thì thằng con bà cũng có vợ, nó
yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào
mà lo cho hết được? [68: 29]
225. Mùi đốt đống rấm(2) ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào
khét lẹt. [68: 29]
226. Hai cái ang(2) nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm
ắp. [68: 30]
227. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên(1) ở một
góc nhà đã thấy đem ra sân hong. [68: 30]
228. Ba năm đi lực lượng(1) bữa nay Tnú mới có dịp ghé về thăm làng.
[68: 39]
229. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn(2).
[68: 38]
230. Con mắt tròn tròn
Cái miệng tròn tròn
Của mắt nai – Trương Ái Liên. [73: 19]
PHỤ LỤC 2: PHỤ CHÚ TRONG VĂN BẢN THUỘC
PHONG CÁCH NGÔN NGỮ KHOA HỌC
1. Trong hai năm 1997- 1998, việc xuất bản trở lại các bộ sưu tập báo chí
vốn in ra đã lâu (Tiên Phong, Văn Nghệ - 50 năm trước; Tao Đàn – 60
năm trước) được nhiều người khuyến khích vì nó gợi ra nhiều khía cạnh
khác nhau trong đời sống văn chương nay đã thuộc về lịch sử, có một điều
ít người để ý: Ấy là những tác phẩm tạm gọi là xuất sắc thường tìm về hội
tụ với nhau, trong những quãng thời gian nhất định. [74: 5]
2. Và ngay trong Văn nghệ số 1(ra 3/1948) đã có Cá nước của Tố Hữu,
Làng của Kim Lân, bản nhạc sông Lô của Văn Cao. [74: 5]
3. Hoặc lùi về trước nữa, thời kì nửa sau thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, khi
mà có hàng loạt truyện nôm khuyết danh xuất hiện. [74: 6]
4. Các nhà nghiên cứu văn học gần đây đã đưa ra nhiều bằng cớ chứng
minh rằng Nguyễn Du có quan hệ thân tình với Hồ Xuân Hương: Các tài
năng thường hẹn nhau hội ngộ. [74: 6]
5. Những ví dụ trên, cùng bao ví dụ tương tự cho thấy không khí chung
trong giới sáng tác có liên quan tới sáng tạo của một cá nhân ra sao: Hóa
ra, trong khi đơn độc trước những trang giấy trắng, một người viết văn
luôn luôn ở trong mọi quan hệ với những người khác, với đồng nghiệp,
bằng cách giao đãi, tiếp nhận, tranh cãi, đối thoại. Vì thế mới có chuyện
“hội tụ”, hẹn nhau mà xuất hiện. [74: 7]
6. Kể ra cũng có loại người đánh dấu chấm hết cho tác phẩm rồi thì chỉ
còn một ý nghĩ là mình đã viết thì phải thật hay, chẳng còn điều gì phải
bàn ngoài chuyện lo chạy cho cuốn sách vừa in phải giải này, giải nọ.
Nhưng để loại người đó sang một bên, tôi nghĩ tới cái bơ vơ của một ít
người viết còn thành tâm: Giá có chuyện hoàn chỉnh cái đã viết và rút kinh
nghiệm cho cuốn sách sau, cũng không biết trông vào đâu cả. [74: 9]
7. Lại nói tới chuyện thể nghiệm. Tuy là một thực thể thống nhất, song
mỗi tác phẩm văn chương vẫn có thể phân tách ra thành nhiều phương
diện: đề tài, ngôn ngữ, thể loại. [74: 10]
8. Những người thể nghiệm tự biết sức mình là chưa thể làm ngay những
tác phẩm lớn, nhưng tha thiết với đời sống chung, nên sẵn lòng đi vào tìm
tòi trong một phương diện nào đó, cho người khác làm điểm tựa. Thiếu đi
sự hào hiệp ấy thì – như chúng ta đã thấy – những tác phẩm tốt rất khó
xuất hiện. [10]
9. Một khi đã sa vào đấy, chẳng khác chui vào một cái hom: đường ra
không có. [12]
10. Đại khái, sau khi cho in một vài tập truyện và được trong giới khen là
có hi vọng người ta sẵn sàng tuyên bố là khi cần, sẽ bỏ viết đi buôn – một
điều những người đi trước thuở mới vào nghề thường không dám nghĩ, có
nghĩ cũng không dám nói. [74: 13]
11. Còn như một cái nhìn phải chăng đối với người viết văn – đấy cũng là
những tiêu chuẩn thường được người trong nghề đặt ra để đo tính nhau –
thì có phần đơn giản hơn. [74: 15]
12. Ở đây, người ta chỉ trông chờ ở mỗi đương sự một cái gì riêng, người
khác không thay thế được. Món hàng độc ấy (độc đáo chứ không phải độc
hại) có thể hiểu theo nhiều nghĩa. [74: 15]
13. Một đề tài được trở đi trở lại (như kiểu Tô Hoài với các loài vật, hoặc
Kim Lân với các trò chọi gà đánh vật). [74: 15]
14. Một loại nhân vật có đường nét riêng (như cái “tôi” tai ngược, khi
mang tên Nguyễn, khi mang tên Bạch của Nguyễn Tuân). [74: 15-16]
15. Một giọng văn riêng (như Hoàng Đạo Thúy với lối văn cộc lốc rơi rớt
từ thời Hoàng Tích Chu). [16]
16. Không phải ngẫu nhiên, một số nhà văn đặt tên sách theo kiểu nhấn
mạnh vai trò bản thân: Tôi đọc, Người đi tìm mặt, Tôi vạch mặt tôi, Tôi lật
con bài của tôi, Tôi thú nhận là tôi đã sống… [74: 16]
17. Tuy vậy có một sự thực hiển nhiên: ấy là chẳng có một cuốn cẩm nang
nào dắt dẫn nhà văn đi tới “mặt hàng in dấu ấn riêng đời mình cả.[74: 16]
18. Hồi mối quan hệ văn học Liên Xô (cũ) và Việt Nam đang được triển
khai rộng rãi, thỉnh thoảng tôi cũng có dịp được gặp một số đồng nghiệp là
các nhà nghiên cứu đến từ Moskva, Leningrad… [74: 17]
19. Một mặt, anh ta cố gắng trở nên chuyên nghiệp, tức là viết sao chất
lượng đều đều, trang viết “sạch nước cản”, bài ngắn báo chí có thể sử
dụng, tác phẩm dài hơi được giới xuất bản cho in. [74: 17]
20. Một điều khiến tôi tự an ủi: chung quanh nào có khác chi mình? Nhìn
trước nhìn sau, số nhà văn thâm canh vào một đề tài đã ít, số người dám
theo đuổi những tìm tòi riêng để có được những khai phá mới trong cách
nhìn đời sống cũng như cách viết, số đó càng ít. [74: 17]
21. Tác giả của mấy cuốn sách đáng quý ấy là những học giả vừa quá cố:
Cao Xuân Huy (1900 – 1983), Nguyễn Từ Chi (1925 – 1995) và Trần
Đình Hượu (1928 – 1995). [74: 18]
22. Một điều lạ nữa là sinh thời, các học giả này gần như sống trong im
lặng. Tìm đến các ô phích thư viện có liên quan đến tên tuổi họ, người ta
chỉ nhận thấy một vài tài liệu mỏng (mấy quyển sách nói trên, đều chỉ
được in ra, sau khi tác giả qua đời). [74: 19]
23. Những tấm gương ấy, ít nhiều không phải chúng tôi không biết. Có
điều, để biện hộ cho sự lười biếng của mình, tôi lại lý sự: cả một thế hệ có
khi chỉ đẻ ra được vài người như thế. [74: 19]
24. Những người có dịp sống ở Hà Nội liên tục dăm chục năm nay thường
gặp nhau ở một nhận xét: khẩu vị của dân kinh kỳ cũng trở nên pha tạp.
[74: 19]
25. Đọc một nhà văn có bản lĩnh người ta vừa thấy quen thuộc vừa từng
bước ngạc nhiên: Anh ta đã tìm ra cách để “tự bùng nổ”, tự giải phóng
theo cái hướng chính anh ta cũng không hay biết. [74: 22]
26. Giữa những người viết một vài chục năm gần đây, ví dụ thích hợp
nhất cho sự đột biến này có lẽ là Duy Khán (1934 – 1993). [74: 23]
27. Ấy thế mà đùng một cái, tập văn xuôi Tuổi thơ im lặng xuất hiện
.(1986). [74: 23]
28. Các nhà văn độc miệng thường nói đùa: Có những cuộc đời dang dở,
viết lách chưa được gì, đến mức có nhắm mắt cũng không yên. [74: 24]
29. Có một câu rất thực mà những người trong nghề hay nói với nhau: “Tự
lượng sức mình là điều quan trọng nhất đối với người viết”. [74: 24]
30. Với một khối lượng chữ nghĩa khiêm tốn – in ra chưa đầy 100 trang
khổ sách 13x19, tiểu thuyết Tố Tâm xuất hiện như một cuốn sách kì lạ
trong đời sống văn chương những năm đầu thế kỉ. [74: 27]
31. Sở dĩ nhiều nhà văn trước kia có chỗ đứng riêng của họ trong văn học
sử - như trường hợp của tác giả Tố Tâm ở trên vừa nói – một phần là vì họ
biết cách trả lời riêng cho những câu hỏi lớn đó, dù không phải bao giờ họ
cũng có ý thức đầy đủ. [74: 29]
32. Đằng sau câu nói nhũn nhặn, “có lẽ nó (tức cuốn Tố Tâm – VTN ) ra
đời vào lúc người mình đang chờ một tiểu thuyết như thế” là một khẳng
định kín đáo: tác phẩm của ông đã vượt ra khỏi phạm vi cá nhân để trở
thành một hiện tượng có tầm vóc xã hội. [74: 30]
33. Ấy vậy mà khi nghe Lê Thanh hỏi tại sao, sau Tố Tâm, ông không viết
nữa, Hoàng Ngọc Phách đã thực thà thú nhận: “Ở trường ra, đi làm ít thì
giờ quá” “Vả chăng sức yếu làm việc thường đã thấy mệt, nên cũng nản”
(tất cả những đoạn vừa dẫn đều được Lê Thanh ghi lại trong Cuộc phỏng
vấn các nhà văn – 1943 ). [74: 30]
34. Dưới con mắt của con người bây giờ thì ở chỗ này, Hoàng Ngọc Phách
tỏ ra hơi bệt. Như là ông có phần cầu an, khiếp nhược (!). Ông không đủ
nghị lực để vượt lên khỏi mọi khó khăn hàng ngày. Mà ông cũng không đủ
ý chí để khai thác cái ưu thế sẵn có (!) [30]
35. Nói theo ngôn ngữ thể thao, so với các nhà văn bây giờ, lúc xuất phát,
Hoàng Ngọc Phách tự đặt ra cho mình một mục đích lớn hơn, ông đi xa
hơn, mà lúc tiếp đất (tức trong công việc chia tay với nghề văn) ông cũng
tỏ ra dứt khoát và gọn ghẽ hơn. [74: 31]
36. Nghe tin rằng ở Liên Xô cũ, các tạp chí cho in ra hàng loạt những
Chức vụ mới, Áo trắng, Bò rừng, Những đứa con của phố Arbat, Quyền
tưởng nhớ…, có nhiều bạn đọc đã có ý hỏi các nhà văn ở ta, liệu tới đây,
có thể có những tác phẩm tương tự (Chỉ loại đó thôi chứ chưa phải những
tác phẩm lớn hơn, những kiệt tác)? [74: 33]
37. Ngay sau khi đọc bài báo đó (của Hoàng Minh Tường, báo văn nghệ
số 42 – 1987), trong tôi chợt nảy ra cái ý giá có ai thử làm một phóng sự
tương tự “Làng văn có gì vui?”, chắc cũng phác họa ra một búc tranh vừa
ngộ vừa bi đát không kém. [74: 34]
38. Chẳng hạn đi nói chuyện (nói chuyện cũng cần thôi, nhưng nếu lấy
việc đó làm chính, bỏ sáng tác tức là chuyển nghề rồi) hoặc chẳng hạn
nhận “thầu” viết sử, viết dư địa chí, hoặc nhiều loại “đơn đặt hàng” khác.
[74: 34]
39. Vậy mà các nhà xuất bản vẫn thường xuyên ở tình trạng đói bản thảo
(bản thảo tạm in được chứ không phải bản thảo kém, cố nhiên) và phải cố
in cho đủ kế hoạch đề tài. [74: 35]
40. Chất lượng của những tác phẩm loại này thế nào, chắc chúng ta đều
biết: phần lớn đó là những thứ hành tầm tầm, hoặc đôi khi gợi người ta
nghĩ tới một thứ quả xanh, giá để nữa cũng có thể chín, nhưng trót hái
xuống rồi, không bao giờ chín được nữa. [74: 36]
41. Danh hiệu nhà văn chỉ giúp cho sản phẩm của người ấy trông khéo hơn
một chút (thơ uốn éo nặn nọt hơn; văn xuôi, kịch ra miếng ra nghề nhiều
hơn) nhưng rút cục, vẫn là thấp hơn rất nhiều so với nhà văn có thể làm
được, lại càng thấp hơn so với đòi hỏi của bạn đọc hiện nay. [74: 36]
42. Thử nhìn vào trình độ nghề nghiệp của người viết trong các sáng tác,
chúng ta sẽ thấy: giống như như những gian phòng chúng ta ở hiện nay,
vừa chật chội, lại vừa luộm thuộm, nhiều cuốn sách đã in ra tùy tiện trong
dẫn dắt, xộc xệch về bố cục, nhân vật phát triển chẳng đâu vào đâu, đặc
biệt rất nhiều chi tiết sai. [74: 36]
43. Nhưng phê bình ở ta còn một điểm nữa rất tệ là nhiều khi chỉ truy nhau
quan điểm, chăm chăm xác định đúng sai (theo những tiêu chuẩn tùy tiện
tạm bợ), còn sự phân biệt hay dở nhiều khi chỉ làm chiếu lệ. [74: 37]
44. Trong số những kỉ niệm cay đắng của một người viết phê bình văn
học, tôi nhớ những lần người ta rỉ tai tôi: ngành nọ, ngành kia mới ra
quyển sách đấy, viết cho nó đi, rồi nó lấy tuyên truyền phí trả thêm cho.
[74: 38]
45. Này tỉnh X. đang cần thêm mấy bài cho cuốn tác giả văn học của nó
đấy. Cậu viết cho nó một bài. Định đòi mấy trăm nào? (hồi ấy mấy trăm
còn quý). [74: 38]
46. Phê bình văn học của chúng ta lâu nay còn dở, nên rẻ rúng như thế là
có lý – có người sẽ bảo như thế. [74: 38]
47. Tích tiểu thành đại, đến nay, đã có thể nói là trong khi đánh giá nhau
(thậm chí làm những công việc với ý định để đời, như viết các loại từ
điển), chúng ta cũng quá dễ dãi, không có chuẩn mực vững chắc. [74: 38]
48. Câu trả lời gần đây của nhiều người là: tại sự trói buộc, tại cái “hành
lang vừa hẹp vừa thấp” (chữ của Nguyễn Minh Châu) nó hạn chế chúng ta,
khiến chúng ta thường vừa viết vừa run, không dám là mình, không viết
hết mình. [74: 39]
49. Nói thế là đúng, nhưng tôi cho là còn phải thấy lý do sự đình đốn, trì
trệ khá toàn diện ràng buộc, cả ngành chúng ta (chứ không riêng ai) thiếu
những tiền đề cần thiết để làm việc. [74: 39]
50. Công tác nghiên cứu văn học cổ quá chậm trễ, không mang lại hiệu
quả thiết thực. Đặc biệt, thiếu sự giao lưu thường xuyên và lành mạnh với
văn hóa thế giới, nên cách sống, cách làm việc của từng người cũng như
các hoạt động của toàn ngành (tức là trình độ sản xuất) còn ở tình trạng
lạc hậu. [74: 39]
51. Đã có người nhận xét một cách cực đoan: không những trình độ của
chúng ta hiện nay thua kém so với thế giới mà ngay cả so với các bậc tiền
bối, ta cũng không chín được tới cái độ như thời đại họ cho phép họ, nên
những sáng tác tốt của thời đại ta đóng góp vào lịch sử văn học dân tộc có
lẽ cũng… khá khiêm tốn. [74: 40]
52. Bước đi thông thường của một người viết văn ở lứa tuổi tôi, là sau khi
có bài đăng báo (thơ, truyện, phê bình văn học), phải dăm bảy năm và già
dặn ra là chục năm người ta mới có cơ may được in một quyển sách đầu
tiên. [74: 42]
53. Bởi một tuyển tập in ra lúc đó là một cái gì lớn lắm: Là sự khẳng định
một đời văn, một sự nghiệp văn học. [74: 43]
54. Một cây bút mới viết nhì nhằng một hai năm nếu muốn, đã có sách in
với tên họ thật to ngoài bìa, to hơn cả tên cuốn sách. [74: 44]
55. Một người làng nhàng, cũng có thể thu thập các bài viết tạp nham của
mình dưới một cái tên rất oai: tuyển tập. [74: 44]
56. Mặt khác cái lối in ào ào, quý hồ đa bất quý hồ tinh rút cục khiến cho
người ta nghĩ rằng những chuẩn mực có thể hiểu thế nào cũng được.
[74: 44]
57. Tôi nhớ những ao ước hôm qua: ao ước có thêm giấy mực, có thêm
chỗ in. [74: 44]
58. Do sách ra ít, từ 1986 về trước, các cuốn sách xuất bản ở Hà Nội dễ
dàng được nhắc tới trên báo văn nghệ. Và cái cách nhắc cũng mang đặc
điểm của thời gian ấy, tức là có sự phân cấp rõ rệt. [74: 44]
59. Còn đây, một điều có thật khác, là tình thế của bọn tôi bây giờ, bị đặt
cách đều giữa hai phương án buồn chán như nhau, ngoảnh về quá khứ thấy
tội nghiệp mà nhìn vào hiện tại cũng không thể bằng lòng. [74: 46]
60. Đại khái ông bảo hơn nửa thế kỉ cầm bút, tình cảnh chưa bao giờ tang
thương như bây giờ: sách ra loạn xạ, hay dở lẫn lộn, đầu sách có tăng,
nhưng số in từng cuốn ngày mỗi giảm. Nhuận bút thì thê thảm không ai
tưởng tượng ra nổi. [74: 48]
61. Trong thiên truyện mang tên Anh hùng bĩ vận (trong tập Một thời gió
bụi, nxb Lao Động 1993), Nguyễn Khải kể chuyện một xã anh hùng nay
tụt hậu, và chạnh lòng nghĩ tới nghề văn, cảm thấy thân phận mình thật
cũng chẳng khác những người dân làm cói ở xã N. nọ “Lẫm liệt một thời
mà bây giờ thì… tội nghiệp quá”. [74: 49]
62. Tiếc thay, đây lại là cách nhiều người chúng ta mong đợi – những
người không sống nổi với cơ chế thị trường và luôn nghĩ về thời bao cấp
với nhiều tiếc nuối. [74: 51]
63. Mà sở dĩ chúng ta yếu ớt như vậy, vì được chiều chuộng quá – vâng,
chiều chuộng thật sự, chứ không phải khinh bỉ như có người đã nói. [51]
64. Anh nói gì lạ vậy, tôi không tin. Để những ưu tiên về tinh thần sang
một bên hãy nói một việc liên quan trực tiếp đến mọi người - chuyện trả
công, trả nhuận bút. [74: 51]
65. Tôi không thể tin những Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, hoặc hai người mà
anh đã nêu lúc đầu, Tô Hoài, Nguyễn Khải, cùng là nhiều anh chị em khác,
lại liên quan đến cái mà anh gọi là đời sống hỗn loạn trước đây, dù chỉ là
hỗn loạn “âm tính”.[74: 55]
66. Ở nước nào cũng vậy, ở xã hội ta, cả thời phong kiến lẫn thời Pháp
thuộc cũng vậy, văn nhân đồng nghĩa với người có học vấn (chứ không
phải chỉ có năng khiếu) nhưng mấy chục năm nay, ở ta, hai khái niệm ấy
bị tách rời, và tôi cho rằng, cả trong những năm bao cấp, lẫn trong những
năm kinh tế thị trường gần đây văn học ở ta phát triển khó khăn, lý do là ở
sự tách rời ấy. [74: 56]
67. Thế nhỡ các nhà văn ở ta thích quan niệm rằng nếu một người không
có năng khiếu, thì có đọc đến vài vạn quyển sách chăng nữa, cũng chẳng
viết nên một câu thơ cảm động lòng người – mà trong thực tế sáng tác vẫn
vậy, thì anh nghĩ sao, liệu anh có còn cảm thấy có quyền bàn bạc với mọi
người, và anh có còn tin ở cái đơn thuốc của anh nữa không. [74: 57]
68. Nhớ lại những vụ việc “có vấn đề” trong mấy chục năm qua, từ Cái
gốc (Nguyễn Thành Long), Tình rừng (Nguyễn Tuân), Đêm đợi tàu (Đỗ
Phú), Sẹo đất (Ngô Văn Phú), Cây táo ông lành (Hoàng Cát), người ta hẳn
thấy giới phê bình đã đóng một vai trò không lấy gì làm sáng giá cho lắm.
[74: 58]
69. Một ví dụ khác, phần viết về văn học đương đại, trong cuốn từ điển
văn học (nhiều tác giả thực hiện) cũng có sự dễ dãi khó chấp nhận.[74: 61]
70. Chất lượng sách thì khác nhau mà lời khen thì có hạn, và sự chê bai bị
coi là không nên nói ra, cho nên nhiều người viết phê bình (trong đó có cả
người viết bài này) phải tìm một hệ thống uyển ngữ nào là thành tựu bước
đầu, thành tựu đáng ghi nhận, đóng góp không nhỏ, bước tiến nhất định…
[74: 61]
71. Nguyễn Khải vốn là một trong những ngòi bút năng động bậc nhất của
nền văn học chúng ta. Sau mấy chiến tích vang dội một thời (Gặp gỡ cuối
năm, Thời gian của người), từ sau 1986 ông lại chứng tỏ sức sống của
mình bằng sự đột phá vào các đề tài trước mắt trong hàng loạt truyện ngắn
mới in báo. [74: 64]
72. Những bước đi gần đây của Ma Văn Kháng trong Heo may gió lộng,
Ngày đẹp trời và gần đây nhất, trong Trăng soi sân nhỏ hoặc những bước
đi của Phan Thị Vàng Anh trong Khi người ta trẻ và Hội chợ chưa được
quan tâm thích đáng (mặc dù Vàng cũng thường được phỏng vấn chẳng
kém Nguyễn Khải). [74: 65]
73. Nhưng mỗi cuốn có một số phận riêng: Một bên, Bóng chữ được chào
đón, được phân tích, được phê phán, nói chung được đề cập tới trong
khoảng chục bài phê bình trên các loại báo (và người ta bảo rằng lâu lắm
mới có một tập thơ thu hút được sự chú ý đến vậy, mà chỉ là do những vấn
đề nghệ thuật nó đặt ra, chứ không phải do chuyện tư tưởng tức cái ý
nghĩa xã hội mà độc giả tìm thấy ở nó). [74: 65]
74. Trong sự ổn định của nó, dư luận ấy là một thứ đồng hồ đo tốc độ
chiếc xe đang chạy, một tấm kính phản ánh đời sống văn học biến động
hàng ngày (còn chính xác đến đâu lại là chuyện khác). [74: 67]
75. Song dăm bảy năm gần đây,lại thấy xảy ra một tình trạng lộn xộn, mà
ai cũng kêu, nhưng không biết làm sao thay đổi: Sách in ra nhiều hơn bao
giờ hết. [74: 67]
76. Có điều ở đó, người ta chỉ mới thấy phần nào sự phân biệt đúng sai,
còn như chuyện hay dở - một yêu cầu cốt tử đối với một dư luận lành
mạnh – thì lại chưa được quan tâm đúng mức. [74: 67]
77. Quan điểm của các ông đã thay đổi các ông cần trình ra cho được sự
thay đổi đó trước mọi người hay đây chỉ đơn giản là đòi hỏi của cuộc mưu
sinh (và cả sự kiên quyết hôm qua thật ra cũng là một cách mưu sinh mà
thôi), chúng tôi không rõ. [74: 71]
78. Khi cầm trên tay những Thầy Lazarô phiền hay Hoan châu ký (tiểu
thuyết cổ do Trần Nghĩa khảo đính và giới thiệu) người đọc hoàn toàn hiểu
rằng trong việc “phục chế” các thứ đồ cổ quý giá này không thể có chuyện
chạy theo mốt hay kiếm chút tiền bạc. [74: 71]
79. Ở đây chúng tôi chỉ lưu ý một vấn đề tưởng như đã cũ mà vẫn phải dè
chừng: ấy là câu chuyện công bằng. [74: 71]
80. Ở trang 181 bắt sang trang 182 nhân viết về Nguyễn Khuyến, giáo sư
Khiêu viết: “Bao nhiêu người đã để lại thơ văn còn nhiều hơn ông (chỉ
Nguyễn Khuyến – V.T.N.) nữa. Trên ba ngàn bài thơ của vua Tự Đức còn
giữ lại trong thư viện Khoa học Trung ương đã mấy ai đến đọc bao giờ!
Nhưng thơ ông (vẫn Nguyễn Khuyến – V.T.N.) thì khác (…) bao người đã
chép thơ ông, bình thơ ông, thuộc thơ ông.”[74: 72]
81. Suốt thời học phổ thông và đại học (sư phạm văn) chưa bao giờ bọn
tôi được nghe nói là Tự Đức có nhiều thơ thế. [74: 72]
82. Như chúng tôi đã lưu ý nhiều lần (qua các bài viết trong các mục Sổ
tay hàng tháng) nay là lúc các sáng tác đang bung ra về số lượng, mà cơ
chế lựa chọn thì không theo kịp. [74: 75]
83. Nó có thể được làm ra để chép trong sổ tay “tác giả”, hoặc vài người
bạn, nhưng nhân bản lên, làm thành sách, cho bày bán ở các hiệu sách, tức
là muốn được xã hội hóa rộng rãi, thì phải bị hạn chế và những người
giúp cho nó xuất hiện, phải bị phê phán. [74: 76]
84. Đây đó, thỉnh thoảng các nhà văn học sử lại có dịp lôi những hồ đồ của
một số nhà xuất bản trong việc đánh giá một số kiệt tác (Umberto Eco đã
chế giễu chuyện này trong bài phiếm luận mang tên “Chúng tôi lấy làm
tiếc là không thể xuất bản tác phẩm của ông”, in trên tạp chí Văn học
nước ngoài số 1. 1997). [74: 76-77]
85. Trong cái việc một số cây bút tháo khoán cho nhau in sách (cứ có tiền
là được in) rồi xúm vào tâng bốc nhau, người ta không khỏi cảm thấy thấp
thoáng cái không khí chợ trời nói trên. [74: 78]
86. Cách gọi tên các tháng trong tiếng Việt nói chung bình thường, nếu
không kể tới mấy trường hợp đặc biệt: tháng mười một gọi là tháng một,
tháng mười hai gọi là tháng chạp, và tháng đầu năm gọi là tháng giêng.
[74: 79]
87. Vào những ngày này, nếu xem chương trình ti-vi VTV1, VTV3, luôn
luôn người ta được nghe nói ngày bốn tháng một (4-1), ngày năm tháng
một (5-1)… [74: 79]
88. Và nếu đó trở thành xu thế chủ đạo thì tức là những từ vốn sống dai
dẳng, từ mấy trăm năm qua (bằng chứng là nó được ghi trong từ điển Việt
– Bồ-La của A.de Rhodes (1951) đến nay có nguy cơ trở thành tiếng Việt
cổ, một thứ tử ngữ. [74: 79-80]
89. Nhưng liệu có thể nhân danh sự đơn giản (và cả sự trong sáng nữa!)
để khai tử những từ đã có sức sống lâu bền? [74: 80]
90. Bên cạnh những từ, những cách nói mất đi (hoặc có khả năng mất đi)
lại có những từ mới, những cách nói mới ngày mỗi sinh sôi nảy nở. [74:
90]
91. Trong tiếng ta, từ bị thường đi kèm với ý kém, dở, đáng bỏ đi (“bức
tường bị ngả màu”, “bộ cách đã bị loại sớm”…), nhưng ở đây nó lại được
dùng để lưu ý tới một trạng thái tốt. [74: 80-81]
92. Có điều, tuy mới chỉ gia nhập vào kho tàng tiếng Việt độ mươi năm
nay song nó, cũng như một vài cách nói khác (rách việc, ti tỉ lần…) đang
trở nên phổ biến, và từ chỗ chỉ dùng đùa bỡn, đi dần sang các lĩnh vực
nghiêm chỉnh. [74: 81]
93. Vai trò sàng lọc và cố định ngôn ngữ dân tộc trước tiên thuộc về các
nhà văn, nhà giáo. (Lâu lắm không nghe thấy có nhà văn nào mới xuất
hiện, mà được người trong giới khen là có văn, văn hay, văn đẹp!).
[74: 82]
94. Song trong thời buổi bùng nổ các phương tiện thông tin đại chúng như
hiện nay, thì cái sự làm giàu, làm sạch tiếng Việt còn phải trông chờ ở các
nhà báo (cả báo viết lẫn báo nói) và nói chung bất cứ ai có sử dụng đến
chữ nghĩa để phát ngôn trong xã hội. [74: 82]
95. Còn lục chắc không phải là sáu mà là ký lục, biên chép.(Truyện Kiều:
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh). [74: 83]
96. May quá, lúc giở đến trang 8, ta cũng thấy những người dịch nói tạt
ngang, đại ý bảo rằng mỗi bài (trong tập) đều có tên riêng, nghĩ đến
chuyện gì, viết chuyện đó đúng như cái tên chung “tùy tưởng”. [74: 84]
97. “Một thứ nhớ gì ghi nấy, nghĩ gì ghi nấy” – tôi luôn tiện trình bày quá
trình “giải mã” của mình với người bán sách, để giá có ai hỏi, anh ta còn
bật mí cho họ hiểu một cách sơ lược. [74: 84]
98. Tiếc thay, nhìn vào sách báo hiện nay, người ta thấy nhan nhản những
lối lắp ghép bừa bãi. Nào là cố nhà văn, cựu nhà viết kịch, nào là đệ nhất
nhà hàng, Thanh Tú quán, cựu ngôi sao bóng rổ và cả thơ tuyển (với nghĩa
tập hợp nhiều bài thơ được chọn). [74: 87]
99. Dùng cố tác gia thì sang trọng, nhưng lại sợ chữ tác gia (với nghĩa
người viết văn) không ai biết. [74: 87]
100. Ngoài năm mươi tuổi, đã là Hội viên Hội nhà vănVN từ năm 1980, bạn
tôi, nhà thơ Anh Ngọc vừa cùng lúc cho in hai tập thơ: Một con mèo nằm
ngủ trên ngực tôi (thơ viết), và Độc thoại của Marylin Monroe (thơ
dịch). [74: 89]
101. Tôi chỉ ước có một tờ báo nào cho quảng cáo, tức là cho phép tôi trả
tiền thuê một ít “đất” trên báo để tin cho bạn đọc là có hai tập thơ như
thế, giá bây nhiêu, bây nhiêu và nếu muốn mua xin mời đến số nhà…
[74: 89]
102. Theo chỗ tôi biết, các nhà thơ tạm gọi là chuyên nghiệp (Hội viên Hội
nhà văn Việt Nam ngành thơ) trước khi tính chuyện bỏ tiền in sách còn
phân vân chán. [74: 90]
103. Thế các thi sĩ (không thuộc hai lọai người trên) làm thế nào để có thơ
in? Vẫn có cách của họ. [74: 90]
104. Còn khi người ta đã trên dưới 50, đã sống (đôi khi là vất vưởng, nhưng
đôi khi là rất vinh quang) với nghề làm thơ chừng vài chục năm, làm sao
có thể nghĩ như thế được. [74: 92]
105. Nhìn lại những vất vả của một đời văn tài hoa như Tản Đà, trong một
bài viết in trên Ngày nay cuối năm 1939, tức là sau khi Tản Đà mất mấy
tháng – và sau này in lại trong tập Theo dòng – Thạch Lam tỏ ý than tiếc
là “những tác phẩm của ông dễ không có quyển nào xuất bản tới ba lần.
[74: 94]
106. Theo một tin quảng cáo in trên Ngày nay, tới 1940, Hồn bướm mơ tiên
của Khái Hưng đã in ra tới nghìn thứ 15 (lần xuất bản thứ 8). [74: 94]
107. Mà quãng trước sau 1940, dân Việt Nam mới độ 25 – 30 triệu (thơ Tản
Đà: Dân hai lăm triệu ai người lớn – Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con).
[74: 95]
108. Chính từ chỗ này, chúng tôi muốn trở lại với cái tình trạng mà nhiều
người đã đề cập tới – tình trạng dân số cả nước lên tới 70 triệu và số
người biết chữ đâu chiếm tới 70 – 80% vậy mà các sáng tác trong nước in
ra lại chỉ quanh quẩn ở con số 1000 hoặc dưới 1000. [74: 95]
109. Người làm biên tập xử lý bản thảo qua loa cho xong – sách in có một
ngàn bản chứ có nhiều nhặn gì mà phải cẩn thận. [74: 96]
110. Gái có công thì chồng chẳng phụ - sau khi in ra lần đầu chỉ dăm trăm
hoặc một ngàn bản, cuốn sách mang đầy tâm huyết và in dấu tài năng của
anh sẽ biến rất nhanh khỏi các quầy hàng. [74: 96]
111. Vâng, tôi có thể an bần lạc đạo, thậm chí ngồi lỳ cân đo tính toán từng
câu từng chữ, nhưng lúc nhìn lên trước mắt tôi biết bao đồng nghiệp xoàng
xĩnh hơn, cẩu thả hơn, vẫn cứ ra sách tơi tới, rồi giải thưởng nọ giải
thưởng kia – con gà tức nhau tiếng gáy, hỏi tôi bình tĩnh sao được?!
[74: 97]
112. Câu thứ hai là của một người Pháp, ông này viết về tiểu thuyết Pháp thế
kỉ XIX, nhà phê bình Thiếu Sơn lấy ra để minh họa cho một ý tưởng của
mình trong cuốn phê bình và cảo luận in từ sáu chục năm trước (1933).
[74: 99]
113. Còn câu trước là của Thạch Lam in trong tập Theo dòng (1941), khi
dẫn ý, Thạch Lam còn nhắc lại một câu chua chát của A.Gide:… [74: 99]
114. Ở đây ngoài sự ham muốn, ngoài những lý do thiêng liêng như nhu cầu
tìm hiểu chân lý, khám phá sự thật và phiêu lưu vào những bí mật của
nghệ thuật – tóm lại là những động cơ trong sáng như chúng ta hay nói –
thì còn những lý do rất trần tục : Họ biết rằng khi cuộc thí nghiệm thành
công, sách sẽ in ra rộng ra và với số tiền tác quyền rất lớn, họ sẽ đủ để
sống đời. [74: 101]
115. Từ một đời sống văn hóa được quan niệm một cách cổ điển – non kém
yếu ớt nhiều khi giả tạo nữa nhưng vẫn là theo kiểu cổ điển – giờ đây
chúng ta đang có một đời sống văn hóa nhộn nhịp, màu sắc sặc sỡ, biến
đổi luôn luôn để cuối cùng thành một món “tạp pí lù” hỗn độn. [104]
116. Trước mắt tôi giờ đây là một tập sách mỏng, ngoài bìa đề rõ giai thoại
Tản Đà, tóm lại là một số mẩu chuyện về ông, mẩu nào cũng ngồ ngộ, hay
hay (cố nhiên, nếu ngẫm nghĩ kỹ thì cũng thấy có nghĩa!). [74: 105]
117. Cũng giống như tình hình báo chí vừa nêu, điều oái oăm đang thấy rõ ở
đây là chính nó – văn hóa – lại thiếu cái đặc tính mà ai cũng tưởng nó sẵn
nhất trong hoạt động của mình: tính văn hóa. [74: 107]
118. Trước khi có nghĩa là “ những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn
nhu cầu của đời sống tinh thần”, văn hóa trong các thứ tiếng phương Tây
vốn có nghĩa hẹp hơn mà cụ thể hơn: sự thâm canh, sự làm kỹ, làm đến
thành thục, một việc gì đấy. [74: 107]
119. Báo Văn nghệ số 31 (2.8.97) có đăng những lời phàn nàn của một bạn
đọc về những câu chữ bốc đồng trong một bài viết nhân bế giảng khóa V
trường viết văn Nguyễn Du cũng in ở tờ báo này, số ra hai tuần trước đó.
[74: 110]
120. Một điều đáng nói ở đây: những nhận xét trên không những học sinh
tự bốc nhau lên, mà trong nhiều trường hợp là của Hội đồng giám khảo
nhà trường dành cho khóa sinh (người viết đã chua rõ như thế ở phần chú
thích). [111]
121. Không phải trẻ con không biết đâu. Chúng dùng cái chữ của kinh tế thị
trường: điểm của các thầy cô thời nay “rẻ” lắm. [74: 111]
122. Song cũng là tự nhiên nếu xem nó như một dấu hiệu của một căn bệnh
trầm trọng hơn: bệnh thiểu lực, tức ở đây, trong văn nghệ, là sức sáng tạo
suy yếu, thành quả làm ra chính những người trong cuộc cũng thấy không
vừa lòng, mà không biết cách nào để làm được hơn, đành phải vuốt ve
mơn trớn nhau, đề cao nhau cho đỡ buồn. [74: 112]
123. Đọc qua cả đoạn, bạn đọc thông thường – trong đó có cả người viết
bài này – chỉ mang máng đoán ra cái ẩn ý của Tô Hoài: hẳn ông muốn
mách cho ta thấy cái nhếch nhác của đám người cầm bút bấy giờ. [74: 114]
124. Nhà văn Kim Lân kể: “Ấy, vào nhà mình, có dò hoa nào đẹp là ông ấy
tước, hoặc có cái lọ, cái đĩa nào hay hay mắt là lúc về, ông ấy thản nhiên
cho vào cặp. [74: 115]
125. Còn ở trong trường hợp cái ông nhà văn tôi nói về sau, gọi đúng tên thì
phải bảo đó là một thói xấu tầm thường: không biết mình biết người.
[74: 117]
126. Thành thử cái đạo luật không ghi thành văn bản trên kia nhắc tới vẫn
đúng, chỉ có điều phải ghi chú thêm: chỉ nhân nhượng cho những người có
tài, khi người ấy đang có tài. [74: 117]
127. Trong tình hình chung khi mà hoạt động phê bình còn yếu kém, những
khô cứng và hời hợt còn kéo dài chưa biết bao giờ có cơ may sửa chữa, thì
việc xuất hiện các mẩu chuyện, những bút ký, hồi ký mà người trong nghề
viết về nhau, quả dễ được chú ý: do sự sinh động hấp dẫn, chúng có khả
năng trở thành một tư liệu giúp cho bạn đọc hiểu thêm về các sáng tác cụ
thể, cũng như những con người cụ thể, đứng sau các sáng tác ấy, và suy
rộng ra về cả giới cầm bút. [74: 120]
128. Chỉ không hiểu sao một cách nhìn phải chăng như thế của Tô Hoài
hoặc trước đó, của Nguyễn Công Hoan (trong hồi ký Đời viết văn của tôi)
của Vũ Bằng (trong Bốn mươi năm nói láo) không được mấy người chia
sẻ… [74: 120-121]
129. Song giờ đây, khi những câu văn tế đọc bên nấm mồ đã nhanh chóng
trở nên văn bia vì ngay sau đó, nó được in lên mặt báo được tuyển vào
sách (nghĩa là cái câu khôn văn tế, dại văn bia không đúng nữa), thì có lẽ
nên bảo nhau tỉnh táo một chút. [74: 122]
130. Còn về phần những người được (hay bị) mang ra làm tài liệu cho cuốn
sách thì sao? [74: 127]
131. Đại khái hồi còn bao cấp đủ sống, mấy người ấy có lối lăng xăng tích
cực trong các công việc không phải văn chương (của đáng tội nhiều khi
vốn rất cần cho xã hội và nếu ai không chịu làm thì cũng không tiện!)
[74: 130]
132. Chưa biết nội dung ra sao, nhưng một cuốn sách bìa đẹp, giấy trắng
trong lại dày dặn – loại sách có gáy như tiếng trong nghề vẫn nói – dễ gây
ấn tượng về một cái gì đó chững chạc. [74: 132]
133. Thuở ấy, nhà văn được trọng vọng. Anh nổi tiếng. Anh luôn được mọi
người nhắc nhở. Nhiều cơ sở - các nhà máy, các đơn vị quân đội – chèo
kéo mời mọc anh. [74:140]
134. Người hăng hái đi trước có lúc phải hối hận; kẻ báo trước sự nhộn
nhịp, mà lúc nhộn nhịp đến, mọi người hái ra tiền bạc, còn bản thân lại
nhếch nhác như vậy, nhếch nhác hơn cả hôm qua nữa – nhìn cả vũ khúc
đời văn, chẳng là tê tái hay sao? [74: 142]
135. Tưởng trên đời này, không còn ai xứng đáng với danh hiệu nhà văn trẻ
như N. Trẻ đồng nghĩa với mới mẻ sáng tạo – xưa nay ai mà chẳng nghĩ
thế. [74: 143]
136. Đến hội nghị các cây bút trẻ, anh lại được yêu cầu ngồi lên hàng đầu,
bẽn lẽn ngượng nghịu mà ngồi, trở thành cái đích trông ngắm của bàn dân
thiên hạ. Cho đến vài lần đi họp hội nghị quốc tế - thế giới bây giờ người
ta cũng chuộng trẻ – lại cũng N nốt. [74: 144]
137. Bởi trong xã hội hiện đại, sự nhốn nháo có chiều tăng lên, người ta lại
càng quý mến những ai giữ được tiết sạch giá trong của ngòi bút (còn việc
mang lại cho cái tình yêu đó một sắc thái hiện đại, ấy là chuyện khác và
chúng ta sẽ nói tới vào một dịp khác!). [74: 149]
138. Theo quy luật kinh tế thị trường, cố nhiên là thứ hàng làm cho một vạn
người đọc (tạm tính thế) phải được coi trọng và trả công cao hơn thứ hàng
dành cho một ngàn. [74: 150]
139. Chỗ trong nghề với nhau, người ta bảo nhiều vị hiện nay viết cả hai
tay, tay phải và tay trái (sinh thời, nhà thơ Chế Lan Viên đã đặt mấy câu vè
miêu tả tình trạng “nhà văn làm việc này để có cái ăn và yên tâm tính một
việc khác”: Lấy ngắn nuôi dài lấy ngoài nuôi trong lấy Kim Đồng nuôi
người lớn). [74: 151]
140. Đối tượng để họ chinh phục thường là các nhà thơ cổ điển (cỡ như Hồ
Xuân Hương, Tú Xương) hoặc một vài nhà văn hiện đại đã được liệt hạng
(Thạch Lam, Nam Cao) tức là những người có tác phẩm được ưa chuộng
và nhất là học sinh ở trường phải học. [158]
141. Ở đâu cũng vậy: đại khái hiện nay không ít người cho rằng cứ ăn
lương ở những cơ quan có liên quan có liên quan đến văn chương chữ
nghĩa (các nhà xuất bản, các tờ báo hoặc các hội đoàn chuyên về văn
nghệ) thì mặc nhiên đã là chuyên nghiệp. [74: 162]
142. Một mặt như Nguyễn Khải đã nói, họ là những nhân cách đáng trọng
(đói thì đói nhất không bỏ nó để làm nghề khác; khổ sở túng thiếu thì nghe
kể đã đủ hãi song lúc trẻ viết không đủ ăn thì nhờ vợ gánh vác dùm, về già
thì nhờ con chu cấp thêm)… [74: 163]
143. Mỗi buổi sáng thay cho tập thể dục, hãy ngồi gắng chế ra một bài báo
vặt, cốt lấy dăm bảy chục một trăm gì đó – Anh kể với vẻ tự nhiên, như
không có cách nào khác. [74: 168]
144. Thỉnh thoảng, trong đám những người viết văn, vẫn thấy xảy ra hiện
tượng một người đang viết rất khỏe – thuộc về thời kì anh hoa phát tiết ra
ngoài – bỗng nhiên “tạnh” hẳn, không viết gì nữa, và con người tác giả thì
biến đi tưởng như chưa bao giờ anh ta quan hệ với giới viết văn. [74: 170]
145. Văn chương càng kém cỏi, thì bạn đọc càng quay lưng với nó, và con
số bản in của từng đầu sách (một con số liên quan tới uy tín của một nền
văn học) sẽ ngày càng suy giảm. [74: 171]
146. Trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại, do hội nhà văn cho biên soạn
(thực tế chỉ nên gọi là một thứ kỉ yếu ghi chép về các hội viên của Hội),
sau khi kể họ tên, năm sinh tháng đẻ, quê quán, các nhà văn còn có thêm
một mục để khai:… [74: 174]
147. Giá kể đẩy lên một chút nữa, hẳn sẽ có một cuộc tranh luận thú vị (tuy
nhiên, cái sự giá kể ấy không xảy ra, mọi chuyện lại treo lơ lửng).
[74: 176]
148. Trong hơn chục năm, số lượng những tập thơ được in ra chỉ độ vài ba
chục gì đấy (Riêng NXB Đời nay của nhóm Tự Lực văn đoàn suốt trong
thời gian tồn tại của mình chỉ in có 8 tập). [74: 177]
149. Không biết trong bụng, Nguyễn Huy Thiệp có nghĩ thế không (phần
KHÔNG chắc nhiều hơn) nhưng mấy năm trước, hồi viết Huyền thoại phố
phường, trong một đoạn nói tạt ngang men theo suy nghĩ của nhân vật, anh
đã buông một câu lửng lơ về giới văn nghệ như vậy. [74: 179]
150. Và tôi đoán là nhiều người – ở những cương vị khác nhau và thuộc
nhiều ngành khác nhau – đã đọc câu ấy mà không lấy gì làm ngạc nhiên.
[74: 179]
151. Đất nước – không gian tuyệt diệu của tình yêu – không chỉ của thế hệ
hiện tại mà còn là của bao thế hệ đã đi qua,... [69: 115]
152. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, thuộc
nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên
(Quang Dũng thuộc vào số này). [69: 83]
153. ... rồi từ đó mới quả quyết, vào mùa xuân nước sông Đà có sắc xanh
(mà nhất định phải là sắc xanh ngọc bích chứ không phải xanh canh
hến)… [69: 193]
154. Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh ngày 7 tháng 9 năm 1920 ở
quê ngoại – làng Nghĩa Đô,thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông ( nay là
phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội) [68: 3]
155. Thời thơ ấu, Tố Hữu sinh ra trong một gia đình nho học ở Huế - mảnh
đất rất thơ mộng, trữ tình và còn lưu giữ được nhiều nét văn hóa dân gian.
[69: 97]
156. Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự
hóa thân, phân thân của cái tôi trữ tình – một kiểu đặc biệt của cái tôi trữ
tình nhập vai. [69: 148]
157. Tuy không có tên tuổi cụ thể, một người vô danh như biết bao người
đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập
trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này.
[70; 66]
158. … thuở nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư
địa chí của Nguyễn Trãi,… [69: 203]
159. Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước
con dao trên tay thằng em trai, không cho nó làm một việc trái với luân
thường đạo lí. [70: 67]
160. Chắc trong lòng cô bé tan nát vì đau đớn: bố điên cuồng hành hạ mẹ;
chỉ vì thương mẹ mà thằng em định cầm dao ngăn bố… [70: 67]
161. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến bài học đúng đắn về cuộc
sống và con người : một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản
chất thực sự sau bề ngoài của hiện tượng. [70: 64]
162. Chỉ đến lần thứ hai, khi lại phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thể
hiện bản chất người lính là không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái
ác. [70: 65]
163. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác, con trai lão, đã kịp tới để
chở che cho người mẹ đáng thương. [70: 65]
164. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo
nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần. [70: 67]
165. Đây là chân dung chú bé Va-ni-a – chừng năm, sáu tuổi – trong con
mắt An-đrây Xô-cô-lốp:’[…] thằng bé rách bươm xơ mướp. [70: 106]
166. Nhưng dù thế nào thì cái chi tiết quan trọng mà chú bé nhớ lại (bố nó
từng vận chiếc bành tô bằng da) cũng hằn lên trong tâm trí chú như một
thắc mắc. [70: 107]
167. Điều này càng đặc biệt rõ khi chuyển thể truyện Số phận con người
thành phim truyện (Sô-lô-khốp rất hài lòng với phim này, ông trực tiếp
xuất hiện với tư cách người dẫn truyện). [70: 109]
168. Sô-lô-khốp miêu tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó, trong “đau
khổ, chết chóc, máu me” (lời L. Tôn-xtôi). [70: 111]
169. Cảm nhận được vẻ đẹp không những của lão ngư phủ đơn độc và dũng
cảm mà cả vẻ đẹp của “nhân vật” cá kiếm – kì phùng địch thủ của ông.
[70: 115]
170. Câu hỏi vừa nói lên sự bàng hoàng sửng sốt, vừa ẩn giấu một niềm vui
có người hiểu con mình (chứng cớ là liền sau đó bà mới gào khóc, rồi lại
khẩn cầu cho con quạ chứng nghiệm)…[70: 91]
171. Tuy nhiên, hình ảnh người săn đuổi chỉ có thể đẹp đẽ, cao cả, nếu đối
thủ - đích tới của họ - ở một tầm cao khó vươn tới. [70: 115]
172. Chính ở đây, sự cảm nhận của ông lão về “đối thủ” hoàn toàn không
nhuốm màu hằn thù mà ngược lại: có thể nói đó là một sự cảm kích chiêm
ngưỡng – thậm chí đôi khi có pha lẫn tiếc nuối vì hành động của mình.
[70: 116]
173. Sự miêu tả như vậy về cảm nhận (và cảm thông) của nhân vật chính
với đối thủ của mình làm xuất hiện một lớp nghĩa thứ hai: con cá kiếm
không chỉ là con mồi, Xan-ti-a-gô không chỉ là lão ngư phủ, đoạn văn
không chỉ miêu tả một hành trình săn bắt cá. [70: 116]
174. Vẻ đẹp kiêu hùng của con cá – đặc biệt khi nó chưa bị cầm tù – có thể
biểu tượng cho ước mơ. [70: 116]
175. Hướng dẫn cho học sinh tìm phần nổi – có nghĩa là những hình ảnh,
chi tiết tả thực cuộc săn bắt cá, cuộc đấu giữa hai “nhân vật” chính trong
diễn biến căng thẳng tới đích; những độc thoại nội tâm hướng tới đối
thoại biểu hiện quan hệ đặc biệt của người đi săn với đối thủ của mình.
[116]
176. Tìm thấy sự khác biệt giữa hình ảnh đẹp đẽ cuối cùng của con cá khi
chưa bị chiếm lĩnh (tập trung vào sự xuất hiện cuối cùng của nó ở đoạn
“khi ấy con cá, mang cái chết trong mình…phía trên ông lão và chiếc
thuyền”, rồi sau đó: “da cá chuyển từ…vị thánh trong đám rước”): phải
chăng đó là sự chuyển biến từ hình ảnh ước mơ sang hiện thực – nó không
còn xa vời, khó nắm bắt và cũng chính vì thế, nó không còn đẹp đẽ, huy
hoàng như trước? [70: 119]
177. Có thể đặt ra cho học sinh bằng cách đặt ra một câu hỏi phụ: Sự cảm
nhận của ông lão về con cá chỉ giới hạn trong hai giác quan – thị giác và
xúc giác – hay không? [70: 118]
178. Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài (giáo
viên cần tập trung hướng dẫn cho học sinh phân tích kĩ hành động này).
[70: 9]
179. Ông luôn có những phát hiện mới mẻ về các nét lạ trong tập quán và
phong tục (tục cướp vợ, trình ma, đánh nhau, xử kiện, ốp đồng, đêm tình
mùa xuân, trói đứng,…) [70: 13]
180. Nhờ luôn luôn mài sắc khả năng quan sát, tìm tòi nên cách tạo dựng
bối cảnh, tình huống, miêu tả thiên nhiên trong sáng tác của Tô Hoài
thường sống động và đầy chất thơ (cảnh mùa về trên núi cao, lời ca và giai
điệu tiếng sáo trong những đêm tình mùa xuân, cảnh uống rượu ngày
tết,…). [70: 13]
181. Cần lưu ý học sinh: phải có ý thức nộp bài đúng thời gian quy định –
tạo thói quen cần thiết để dự các kì thi, cũng như tham gia các công trình
tập thể sau này (nếu có). [70: 15]
182. Bà cụ Tứ (mẹ Tràng) ngạc nhiên. [70: 24]
183. Có thể gợi không khí của nạn đói khủng khiếp năm 1945 – bối cảnh
làm nền cho truyện ngắn “Vợ nhặt”. [70: 24]
184. Và liệu ta có bảo tồn được sự sống của mình không, trong một cuộc
chiến mà, xét về phương diện kĩ thuật, là không cân sức (như sự không cân
sức giữa giáo và súng) ấy? [70: 45]
185. Tình huống độc đáo của truyện được bộc lộ ngay trong nhan đề: Vợ
nhặt. Một thứ vợ do nhặt được , nhặt một cách ngẫu nhiên (chứ không phải
vợ cưới). [70: 27]
186. Người đàn bà đói khát bỗng dưng có nơi nương tựa, và Tràng bỗng
nhiên mà có vợ - trong cảnh ngộ cụ thể của họ - là một niềm vui, niềm
hạnh phúc. [70: 29]
187. Người đàn bà đói rách sở dĩ tự nguyện theo không Tràng, một phần vì
tìm thấy ở anh một cử chỉ hào hiệp: sẵn lòng cho một một người xa lạ một
miếng ăn giữa lúc người chết đói như ngả rạ. [70: 30]
188. Nổi bật lên trên cảnh thiên nhiên giàu có và dữ dội ấy là những người
dân lao động mộc mạc, đôn hậu, dũng cảm, hào phóng, trọng nghĩa khinh
tài, và có một cái gì rất Nam Bộ: hồn nhiên, cởi mở, cả tin, ngang tàng,
bộc trực, vui đời (mê giọng cổ, hát bội kể Truyện Lục Vân Tiên,…).
[70: 48]
189. Và bao trùm lên những trang viết là tấm lòng nhà văn thiết tha yêu quê
hương đất nước, yêu nhân dân mình – phẩm chất tinh thần sâu sắc nhất
của người Việt Nam. [70: 48]
190. Nhấn mạnh để học sinh nắm được tư tưởng và phong cách Nguyễn Thi
(qua phần Tiểu dẫn). [70: 52]
191. Phân tích nét đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật (nghệ thuật kể
chuyện) của Nguyễn Thi; từ đó hướng dẫn học sinh khám phá tác phẩm.
[70: 52]
192. …mặt khác, phải dựa trên cơ sở đặc điểm thể loại (truyện ngắn) để khai
thác tác phẩm. [70: 51]
193. Việt tỉnh dậy lần thứ hai lúc trời “lất phất mưa” (chú ý: hai mắt bị
thương nên Việt không nhìn thấy gì hết. Mọi cảnh vật xung quanh chỉ được
cảm nhận bằng các giác quan khác như xúc giác, thính giác,…). [70: 53]
194. “…Tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm
trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra
bề ngoài” – một sự cam chịu nhẫn nhục như thế thật đáng để chia sẻ, cảm
thông. [70: 66]
195. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài ấy, hiểu
sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu sâu thêm bản
chất người đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình. [70: 68]
196. Cách thức nói là không trực tiếp mà thông qua một biểu tượng: cái kho
– biểu tượng của người lắm tiền nhiều của. [70: 72]
197. Tại lượt lời thứ nhất và thứ hai của Bá Kiến có dùng những câu hỏi
(Chí Phèo đấy hở?; Rồi làm mà ăn chứ cứ báo người ta mãi à?), nhưng
không nhằm mục đích hỏi, không thực hiện hành động hỏi, mà nhằm mục
đích hô gọi, hướng lời nói đến người nghe (câu hỏi thứ nhất), và mục đích
cảnh báo, sai khiến: thúc giục Chí Phèo làm mà ăn chứ không thể luôn đến
xin tiền (câu hỏi thứ hai) [70: 72]
198. Tại hai lượt lời đầu của Chí Phèo, hắn đều không nói hết ý (đến đây để
làm gì?) phần hàm ý được tường minh hóa ở lượt lời thứ ba của hắn (Tao
muốn làm người lương thiện). [70: 72]
199. Như vậy, cách nói ở hai lượt lời đầu của Chí Phèo không đảm bảo
phương châm về lượng (nói không đủ lượng thông tin cần thiết so với yêu
cầu ở thời điểm nói) và cả phương châm cách thức (nói không rõ ràng).
[70: 72]
200. Qua lượt lời thứ hai của bà, ta còn thấy lượt lời đầu có thêm hàm ý
khác (không nói ra): không tin tưởng hoàn toàn vào tài văn chương của
ông , ông viết nhưng có thể bị loại bỏ vì văn kém, chứ không phải như điều
đắc chí của ông đồ (ý văn dồi dào). [70: 72]
201. Trong bài này chủ yếu quan tâm đến một số tác dụng như: (1) tạo ra
hiệu quả mạnh mẽ, sâu sắc hơn cách nói thông thường (cách nói tường
minh),(2) giữ được tính lịch sự và thể diện tốt đẹp cho người nói hoặc
người nghe,… [70: 70]
202. Bài học tập trung vào một số cách thức thường gặp như: người nói
chủ ý vi phạm phương châm hội thoại (phương châm lượng tin,
phương châm quan hệ, phương châm cách thức,…) hoặc dùng hành động
nói gián tiếp. [70: 71]
203. Cách trả lời của A Phủ có hàm ý công nhận bò bị mất, bị hổ ăn thịt,
công nhận mình có lỗi, nhưng A Phủ khôn khéo lồng vào đó ý định lấy
công chuộc tội, hơn nữa còn hé mở hi vọng con hổ có giá tri hơn nhiều so
với con bò bị mất (con hổ này to lắm). [70: 71]
204. Đó là công nhận việc để mất bò nhưng muốn lấy công chuộc tội (lấy
súng bắn hổ). [70: 71]
205. Biết lĩnh hội và phân tích hàm ý (trong văn bản nghệ thuật và trong
giao tiếp hàng ngày). [70: 70]
206. Lời bác Phô gái thực hiện hành động van xin, ông lí đã đáp lại bằng
một hành động nói mỉa: mỉa mai thói quen nặng về tình cảm yếu đuối, hay
thiên vị cá nhân (mà theo ông, việc quan cần phải lí trí, cứng rắn, khách
quan,…). [70: 73]
207. Theo nhà văn, “viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã
là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng
trong lòng người đọc” (Tô Hoài – Trả lời phỏng vấn phóng viên Thanh
Thuận, báo An ninh thế giới, ngày 29/7/2007). (70: 5)
208. Mị bị tròng hai thứ dây trói là làm con nợ (bắt buộc) và làm con dâu
(ép buộc) vì cha con thống lí Pá Tra đã muốn như thế. (70: 7)
209. Căn buồng của Mị ở nhà thống lí chỉ là một thứ ngục thất giam cầm
một tù nhân: “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ
vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không
biết là sương hay là nắng”. (70: 7-8)
210. Có làng chết gần hết, nhiều người chết lả trên đường đi, nơi gốc cây,
ven đường, hè nhà, quán chợ, …nhiều gia đình, nhiều người phải ăn cháo
cám, ăn rau, ăn củ chuối…thay cơm (gia đình nhà văn Kim Lân cũng đã
từng phải ăn cháo cám trong những ngày đói ấy). [70: 22]
211. Những nét độc đáo trong quan sát và diễn tả của các tác giả về đề tài
miền núi( nếp sinh hoạt, phong tục, thiên nhiên, con người, xây dựng tình
huống, cốt truyện, nghệ thuật dẫn truyện,…)? [15]
212. Những đặc điểm đó cùng với những đặc điểm riêng biệt khác của từng
người ( lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp vốn sống, văn hóa,…) luôn luôn
chi phối lời nói của họ về nội dung và hình thức ngôn ngữ. [70: 21]
213. Nhiệm vụ của bài dạy này là vừa cung cấp kiến thức – những kiến thức
cơ bản, phù hợp với trình độ học sinh – vừa rèn các kĩ năng. [70: 156]
214. Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài (GV
cần tập trung hướng dẫn cho HS phân tích kĩ hành động này). [70: 9]
215. Ông đã sớm nhìn thấy và thể hiện thành công những phẩm chất độc
đáo của tính cách người Mông: âm thầm mà mãnh liệt; mộc mạc, đơn sơ
mà hết sức dữ dội. [70: 11]
216. Điều đó thể hiện rõ nét qua những diễn biến nội tâm tinh tế và phức
tạp của nhân vật Mị qua hai tình huống: trong đêm tình mùa xuân và đêm
Mị cắt dây trói cứu A Phủ. [70: 11]
217. Nghệ thuật trần thuật của tác giả uyển chuyển, linh hoạt mang phong
cách truyền thống nhưng cũng đầy sáng tạo. Nhà văn chủ yếu vẫn tuân
theo lối trần thuật sự kiện theo trình tự thời gian, tạo nên một dòng chảy
liền mạch nhưng cũng có lúc đan xen các hồi ức một cách tự nhiên, có lúc
pha trộn quá khứ với hiện tại một cách ý nhị (chẳng hạn đoạn văn: “Ngày
trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo.
Mị uốn chiếc là trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có bao nhiêu
người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị…”) [70: 12]
218. Đoạn thứ ba (bốn khổ cuối) là khúc hát lên đường sôi nổi, tin tưởng và
say mê. [69: 135]
219. Tác phẩm đưa người đọc vào một không gian tương đối mới là đề tài
miền núi nhưng vẫn gợi cảm giác quen thuộc nhờ cách miêu tả đời sống
theo xu hướng hiện thực (khác với một số nhà văn đã từng viết về đề tài
này trước 1945, sáng tác theo xu hướng lãng mạn thường có thiên hướng
phóng đại cái khác thường, kì bí hoặc gia tăng những yếu tố rùng rợn
nhằm kích thích trí tưởng và chiều theo tính tò mò của độc giả, chẳng hạn:
vàng và máu (Thế Lữ), Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya (Đới Đức Tuấn),
Truyện đường rừng (Lan Khai),…). [70: 4]
220. Anh (chị) hãy kể tên các chặng đường phát triển chính và thành tựu
trên những các thể loại của giai đoạn văn học này. (3 HS phát biểu, mỗi HS
nêu thành tựu của một chặng đường văn học.) [70: 5]
221. Nhân vật của “Đất nước đứng lên” và “Rừng xà nu” là Núp, Tnú –
những người anh hùng Tây Nguyên trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mĩ,... [70: 12]
222. Từ việc tóm tắt quan điểm sáng tác văn học nghệ thuật của Hồ Chí
Minh, soi chiếu vào sự nghiệp văn học của Người, anh (chị) có nhận xét
gì? (GV gợi mở: Những tác phẩm văn học của Bác đã thể hiện quan điểm
của chính Người như thế nào?...) [70: 26]
223. HS lựa chọn các tác phẩm đã được học, đọc thêm để minh họa, làm
sáng tỏ đặc điểm (ví dụ: Vi hành, Chiều tối, Ngắm trăng,…) [70: 27]
224. Sự kiện này không những chỉ là một dấu mốc trọng đại trong trang sử
đất nước mà còn trở thành nguồn cảm hứng thi ca dào dạt trong văn học
(Hôm nay sáng mùng hai tháng chín – Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình –
Muôn triệu tim chờ chim cũng nín – Bỗng vang lên tiếng hát ân tình – Tố
Hữu). [70: 30]
225. Trước khi lời “đại cáo” (báo cáo rộng khắp) cất lên cho ai nấy đều hay,
điểm tựa lí luận quán xuyến được tác giả đặt ra là:… [70: 31]
226. Nội dung của “sự thật” đó là gì? (Từ mùa thu năm 1940, nước ta là
thuộc địa của Nhật chứ không phải là thuộc địa của Pháp nữa; dân ta lấy
lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.) [70: 36]
227. Vậy sự trong sáng của tiếng Việt có cho phép pha tạp yếu tố của ngôn
ngữ khác hay không? (GV dẫn và gợi ý nhận xét về câu văn trong bài: Các
Superstar rất thích dùng mobile phone loại xịn). [70: 41]
228. Ông là tác giả của nhiều bài nói, bài viết sâu sắc, mới mẻ và đầy nhiệt
huyết về các danh nhân văn hóa (Hồ Chủ Tịch – hình ảnh của dân tộc;
Nguyễn Trãi – người anh hùng của dân tộc; Nguyễn Đình Chiểu – ngôi
sao sáng trong văn nghệ của dân tộc),… [70: 45]
229. Đoạn 1 (từ đầu đến “chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”) : Hai phát hiện
của người nghệ sĩ nhiếp ảnh. [72: 79]
230. Đoạn 2 (từ “Đây là lần thứ hai…” đến “chiếc thuyền đang chống chọi
giữa phá”) : Câu chuyện của người đàn bà hàng chài tòa án huyện.[72: 79]
231. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (1) anh viết
bài thơ “Tây Tiến”. [69: 82]
232. Khổ thơ này là một bằng chứng trong thơ có họa (“thi trung hữu
họa”)(2). [69: 85]
233. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu hòa quyện, xâm nhập vào
nhau tạo nên vẻ đẹp bi tráng – thần thái chung của bức tượng đài. [69: 88]
234. Đọc đoạn thơ này, ta như lạc vào thế giới của cái đẹp, thế giới của cõi
mơ, của âm nhạc(1). [69: 88]
235. …mặt khác, chính cái bi thương ấy lại bị mờ trước lí tưởng quên mình,
xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến (“Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh”). [69: 89]
236. Sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không
có đến cả manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại được
bọc trong những tấm “áo bào” sang trọng (1). [69: 90]
237. Thói quen này gắn liền với quan niệm về văn chương của ông: “Có
những cách cày bừa tăng năng suất cho cây trồng. Có những cách dùng
chữ, viết văn tăng năng suất cho ý”(1). [69: 138]
238. “Ai đã đặt tên cho dòng sông”? là bài bút kí là bài bút kí xuất sắc, viết
tại Huế, ngày 4 – 1 – 1981, in trong tập sách cùng tên(1). [69: 201]
239. Lịch sử văn học là sự vận động của chính bản thân văn học (tác giả, tác
phẩm, trào lưu, khuynh hướng) qua các thời kì lịch sử. [69: 181]
240. Trước khi đặt bút viết, bao giờ Người cũng tự đặt ra và giải đáp những
câu hỏi: “Viết cho ai?” (đối tượng), “Viết để làm gì?” (mục đích) rồi mới
quyết định “Viết cái gì?” (nội dung) và “Viết như thế nào?” (hình thức).
[69: 216]
PHỤ LỤC 3: PHỤ CHÚ TRONGVĂN BẢN THUỘC
PHONG CÁCH NGÔN NGỮ CHÍNH LUẬN
1. Chúng ta cần chiến thắng trên mặt trận khoa học kĩ thuật cũng như ta
đã chiến thắng trên mặt trận chính trị và quân sự * [65: 9]
2. Chúng ta làm những việc đó theo điều kiện của nước ta, theo cách làm
của chúng ta, theo phong cách của người Việt Nam ta: giản dị, tiết kiệm,
chứ không phải bắt chước và chạy theo phương Tây. [65: 10]
3. Mác, Ăng-ghen và Lê-nin, những người sáng lập chủ nghĩa xã hội
khoa học, trong suốt đời hoạt động của mình, đã không bỏ sót lĩnh vực nào
của khoa học xã hội mà không nghiên cứu một cách sâu sắc và đề ra
những luận điểm chói lọi mà ánh sáng đang soi đường cho chúng ta.
[65: 11]
4. Ở đây cần nhấn mạnh một câu nói của Mác: “Không phải ý thức xã hội
quyết định sự tồn tại xã hội, mà trái lại chính tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội”. [65: 12]
5. Chính lúc ấy nổi bật tất cả tầm quan trọng của vai trò tổ chức, động
viên và cải tạo (tôi gạch dưới – Phạm Văn Đồng) [65: 13]
6. Trong thời đại ngày nay phải chăng những sự hiểu biết lớn nhất của
nhân dân thế giới phải tập trung vào hai điểm sau đây (cố nhiên còn nhiều
điểm khác, nhưng đây là những điểm có tính chất thời sự nóng hổi nhất) ?
[65: 14]
7. Chúng ta đang chứng minh chân lí của thời đại: phải đánh đế quốc Mỹ,
bởi vì nó đánh mình, phải quyết đánh nó và biết đánh nó, và phải đánh đến
cùng, đến thắng lợi. [65: 15]
8. Thực tiễn của cuộc chiến đấu vô cùng quyết liệt đang diễn ra ở nước ta
đã dạy nhân dân ta đánh giá đúng kẻ thù và đánh giá đúng sức của mình,
và từ đó phát huy đến mức rất cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng: dũng
cảm, thông minh, sáng tạo, nhân tố tinh thần và vật chất của thắng lợi.
[65: 15]
9. Ngược lại quan hệ sản xuất có thể gây ảnh hưởng rất lớn (hoặc mở
đường và thúc đẩy, hoặc kìm hãm và phá hoại) đối với sức sản xuất.
[65: 16]
10. Lần đầu tiên, nhờ học thuyết của Mác, người ta thấy rõ tầm quan trọng
của quan hệ sản xuất (bao gồm quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất và quan
hệ về phân phối sản phẩm), người ta thấy rõ mối quan hệ của nó một bên
với sức sản xuất, một bên với kiến trúc thượng tầng, với lĩnh vực tư
tưởng… [65: 17]
11. Đó là lĩnh vực, đó là tác dụng của cách mạng tư tưởng và văn hóa, của
các ngành khoa học xã hội rộng lớn và phong phú: triết học, kinh tế học,
sử học, dân tộc học, văn học, ngôn ngữ học, khoa học pháp lý…[65: 19]
12. Chúng ta sẽ sáng tạo một đời sống vật chất sung túc đến mức nào đó
(sau đó sẽ không ngừng nâng cao): ăn no, mặc ấm, ở tốt, đi lại thuận
tiện… [65: 20]
13. Bởi vì đó là những bông hoa của dân tộc dưới chế độ mới, xã hội chủ
nghĩa – những bông hoa đó càng nảy nở và tươi thắm trong khói lửa của
chiến tranh – mỗi người chúng ta đều phải có ý thức giữ gìn và phát huy
những của quý vô giá đó. [65: 20]
14. Mọi lĩnh vực của khoa học xã hội: triết học, kinh tế học, sử học, dân
tộc học, văn học, ngôn ngữ học, khoa học pháp lý… đều là những mặt trận
đánh địch và thắng địch. [65: 21]
15. Muốn phát triển văn hóa phải giải quyết hai vần đề: nội dung và hình
thức. [65: 27]
16. Các đồng chí phải biết toàn bộ công tác của ta năm nay: khôi phục kinh
tế, phát triển văn hóa, phát triển nông nghiệp như thế nào? [65: 27]
17. Tôi nói thật là mỗi lần đi địa phương nói chuyện (nhất là đồng chí Lê
Liêm thường nhắc tôi một cách nhẹ nhàng nhưng rất nghiêm khắc là đừng
có quên công tác văn hóa), tôi cũng suy nghĩ nhiều. [65: 31]
18. Vụ mùa vừa qua đã đem đến nhiều điểm mới ở nông thôn: mới trong
đời sống, mới trong xã hội và mới trong bản thân người nông dân. [65: 32]
19. Kế hoạch xây dựng cơ bản ba năm chủ yếu là về công nghiệp, và trong
công nghiệp chủ yếu là công nghiệp nặng như: điện lực, gang thép, hóa
chất… [65: 33]
20. Nâng cao tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ, nâng cao nhiệt tình xã
hội chủ nghĩa, nâng cao tình cảm xã hội chủ nghĩa (vì văn hóa, văn nghệ
phải có tình cảm hơn các ngành khác). [65: 35]
21. Trong công tác khoa học kỹ thuật, chúng ta đòi chuyên môn phải phục
tùng chính trị - chuyên môn mà không có chính trị thì không làm được gì.
[65: 35]
22. Đòi hỏi chuyên môn có chính trị (chính trị là động cơ), nhưng có chính
trị là để phát huy tốt công tác chuyên môn, phát huy sáng chế, phát minh,
phát huy sản xuất, chứ nếu chỉ có chính trị không không thôi thì cũng
không được. [65: 35]
23. Vì sao ta không có phim truyện? Tôi nghĩ rằng không phải là do vấn đề
thiếu trường quay. Có lẽ vì ta đặt mức cao quá! Ta làm để ta xài với nhau,
chưa cần phải nghĩ đến việc đưa ra ngoài (phim tài liệu hay thì có thể xuất
cảng tốt). [65: 36]
24. Nông dân ta chưa đòi hỏi nghệ thuật cao (kẻ lông mi ba tiếng đồng hồ),
ánh sáng, màu sắc phức tạp, dù phim ta có dở hơn phim các nước anh em
mười lần mà nếu nội dung chính trị được, thì cũng được nông dân ưa
thích. [65: 37]
25. Cuối cùng, chúc các đồng chí nhận thức đúng, nhận thức một cách sâu
sắc, kiên định, nhận thức rất vững (mặc dầu thiên hạ chưa nhận thức
đúng) đối với công tác văn hóa. [65: 37]
26. Chính Lê-nin thường nhắc lại một lời nói rất đẹp của thi hào Gơ-tơ: mọi
lý thuyết đều là màu xám, mà cây đời mãi mãi xanh tươi. [65: 43]
27. Nói tóm lại, tôi đã nói với các đồng chí về ba loại vốn của người văn
nghệ sĩ: vốn chính trị, vốn văn hóa, nghệ thuật và vốn sống. [65: 53]
28. Tiếng Việt Nam ta giàu lắm, phong phú lắm (đây là nói về làm văn,
chớ còn về các môn học khác: khoa học, kĩ thuật, kinh tế học, triết học, thì
tiếng ta còn nghèo, phải dùng chữ nước ngoài, nhưng chỉ nên dùng danh
từ thật cần thiết và tiếng ta không có. Chúng ta nên bỏ thói quen dùng chữ
nước ngoài thay tiếng Việt Nam theo kiểu dùng chữ: “kiều lộ” thay chữ
“cầu đường”; “cầu đường” là tiếng Việt Nam dễ nghe, dễ hiểu lại hay, vì
sao lại không dùng? Ở đây có nhiều chuyện nói, nhưng chỉ ngoặc nói đôi
câu…). [65: 55]
29. Văn học và nghệ thuật là thứ vũ khí tư tưởng rất sắc bén, có tác dụng to
lớn, sâu rộng và bền bỉ mà lịch sử loài người từ trước tới nay – nghĩa là
lịch sử đấu tranh giai cấp – đã xác nhận. [65: 56]
30. Ngày xưa, nhất là ở phương Tây, người ta ưa thần thánh hóa nghệ thuật
và nghệ sĩ: người ta tưởng tượng rằng nguồn cảm hứng của người nghệ sĩ
có tài là những nàng tiên có nhiều phép lạ. [65: 58]
31. …và những văn hào lớn nhất đồng thời là người chiến sĩ đầy nhiệt tình
của cuộc đấu tranh thần thánh này: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn
Đình Chiểu… [65: 58]
32. Nhưng ngay lúc ấy, tâm trí tôi lại nhớ đến cảnh nhà ngói ở nông thôn
Quảng Bình: cảnh nào đẹp hơn cảnh những mái nhà ngói mới dưới ánh
sáng mặt trời ở nông thôn miền Bắc nước ta. [65: 62]
33. Nghệ thuật là một công trình gian khổ và lâu dài, nghệ thuật đòi hỏi
công phu: nghệ thuật là lâu dài còn thời gian thì ngắn ngủi (Bô-đơ-le-rơ).
[65: 62]
34. Tôi nhắc lại: văn học nghệ thuật là một vũ khí tư tưởng cực kì sắc bén,
có thể nói xưa nay trên đời chưa hề có một vũ khí tư tưởng nào sắc bén
hơn văn học nghệ thuật. [65: 67]
35. Còn một điểm nhỏ nữa – nói nhỏ chứ thật ra nó không nhỏ - các đồng
chí hãy nâng niu, trau dồi nghề của mình và công cụ trời cho, nghĩa là quí
báu vô cùng, để hoạt động về nghề ấy… [65: 69]
36. Và bên cạnh những tàn tích của cái cũ, còn có những cái sai, cái không
đúng, không đáng xảy ra – những cái này không ít đâu. [65: 72]
37. Tôi nhấn mạnh điểm này: cái mới đáng ca ngợi là cuộc đấu tranh cách
mạng, đấu tranh chống tất cả những khó khăn, những cái không đúng
không đáng xảy ra. [65: 74]
38. Nếu các đồng chí muốn tìm những các mới trong tổ chức, các đơn vị,
các hợp tác xã, các xí nghiệp, thì các đồng chí có thể đi nhiều nơi: thí dụ về
hợp tác xã Đại Phong. [65: 75]
39. Phải làm sao diễn tả được tính tình rất đẹp của dân tộc Việt Nam ta là
yêu đời, lạc quan, vui tính, yêu quê hương - ở đây nên nhấn mạnh tình yêu
Nam Bắc, - yêu gia đình. [65: 76]
40. Tôi kể một câu chuyện nữa: Lúc tôi sang Đức, có dự một cuộc mít –tinh
trong đó có nhiều phụ nữ. [65: 78]
41. Tôi xin nhắc lại: Yêu cầu đối với tác phẩm phải là yêu cầu cao về tư
tưởng, yêu cầu cao về nghệ thuật. [65: 81]
42. Muốn làm việc lớn, bất cứ người nào và làm việc gì – người nghệ sĩ
cũng vậy – phải có bản lĩnh lớn: bản lĩnh về tư tưởng, bản lĩnh về nghệ
thuật. [65: 82]
43. Trong lúc nói những điều này, tôi động đến một vấn đề mà các đồng
chí bàn cãi: Trong điều kiện nước ta, người nghệ sĩ có tự do sáng tác hay
không? – nhất định người nghệ sĩ chúng ta hoàn toàn có tự do sáng tác.
[65: 84]
44. Trong điều kiện nước ta, người nghệ sĩ có tự do sáng tác hay không? –
Nhất định người nghệ sĩ chúng ta hoàn toàn có tự do sáng tác. [65: 84]
45. Đây là một lời tâm sự: Chúng tôi luôn luôn trau dồi nhiệt tình sôi nổi
đối với sự nghiệp của chúng ta. [65: 85]
46. Nhân đây, tôi xin gợi thêm một ý nữa: Ngoài việc tự nghiên cứu đường
lối của Đảng và nghe các đồng chí phụ trách giải thích, các đồng chí nên
để thì giờ đọc những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
[65: 88]
47. Những đồng chí làm văn nghệ trẻ tuổi vì ít học cho nên, - xin lỗi các
đồng chí, - không biết trời cao đất rộng thế nào, không thấy khó khăn và
công phu trong sáng tác văn nghệ như thế nào, không thấy giá trị của tác
phẩm, do đó mà chủ quan, có khi thiếu khiêm tốn, đòi hỏi người ta nhiều,
đòi hỏi mình ít và như vậy thì lúc làm nên chút đỉnh là kiêu ngạo, lúc gặp
khó khăn thì chán nản. [65: 90]
48. Cho nên đồng thời với việc chuẩn bị để có tác phẩm tốt, tác phẩm lớn
về mọi mặt, chúng ta phải có tác phẩm văn học, sân khấu, điện ảnh và các
tác phẩm nghệ thuật khác (mà cũng phải tốt) phục vụ cho yêu cầu trước
mắt của nhân dân. [65: 93]
49. Trên mặt trận văn nghệ, văn nghệ sĩ chúng ta cũng phải làm ăn thế nào
để thiên hạ khỏi phải chờ đọc sách dịch (chỉ vì ta thiếu sách của ta!).
[65: 93]
50. Không nhất thiết phải có trường quay (studio) mới làm được phim.
[65: 93]
51. Bây giờ tôi xin thay mặt Đảng và chính phủ có mấy lời với các đồng
chí anh hùng và chiến sĩ thi đua (có mặt ở đây và khắp nơi trên đất nước
ta). [65: 100]
52. “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là đều không thể
tránh khỏi. Nhưng không phải các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội
một cách hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ mang lại phần sáng tạo của
mình trong hình thức này hay hình thức khác của nền dân chủ, trong loại
này hay loại khác của chuyên chính vô sản, trong nhịp độ này hay nhịp độ
khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa các mặt của đời sống xã hội”. *
[65: 103]
53. Tôi nhấn mạnh: Xây dựng chủ nghĩa xã hội không giản đơn. [65: 106]
54. Ở đây tôi xin nhắc lại câu nói của Mác: Tư tưởng thống trị của một
thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị. [65: 115]
55. Chính Mác là người đã tổng kết tất cả sự hiểu biết của loài người lúc
bấy giờ, tổng kết có phê phán, và ghi nhận những cái gì có giá trị nhất về
các khoa học (ở đây chủ yếu là nói về khoa học xã hội, đồng thời cũng là
nói về khoa học tự nhiên) và sự hiểu biết này gắn liền với sự nghiệp đấu
tranh của giai cấp công nhân. [65: 117]
56. Trước hết, tôi sẽ nói với các đồng chí – theo sự hiểu biết của tôi – tiếng
Việt trong sáng như thế nào, sau đó tôi sẽ nói một số điểm về tình hình
phát triển của tiếng Việt… [65: 125]
57. Trong những bài thơ, bài văn hay của nền văn học nước ta, chúng ta
càng thấy rõ cái tinh hoa đặc sắc và độc đáo của tiếng Việt, nhiều câu thơ
vừa là họa lại vừa là nhạc, ví dụ thơ Nguyễn Du tả Từ Hải (lấy ví dụ trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du, vì chúng ta đương kỉ niệm Nguyễn Du):
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo. [65: 127]
58. Trong tiếng ta, một chữ có thể dùng để diễn tả rất nhiều ý; hoặc ngược
lại, một ý nhưng lại có bao nhiêu chữ để diễn tả*. [65: 127]
59. Hiện nay đời sống chính trị, đời sống xã hội của dân ta rất rộng rãi,
phong phú; người ta nói, viết và đọc rất nhiều. Đó là điều tốt. Nhưng cũng
do đó mà rất dễ diễn ra – và nếu không khéo sẽ phát triển – những khuynh
hướng, những hiện tượng không tốt. [65: 130]
60. Một là giữ gìn và phát triển vốn chữ của tiếng ta (tôi không muốn dùng
chữ “từ vựng”). [65: 130]
61. Hai là nói và viết đúng phép tắc của tiếng ta (tôi muốn thay chữ “ngữ
pháp”). [65: 130]
62. Ba là giữ gìn bản sắc, tinh hoa, phong cách của tiếng ta trong mọi thể
văn (văn nghệ, chính trị, khoa học kĩ thuật…). [65: 130]
63. Về tiếng Việt ta, nói chung; về cách nói, cách viết tiếng ta – Đây là một
vấn đề rất lớn và khó, tôi không có gì nói hơn ngoài những điều tôi đã nói
với các đồng chí trong phần đầu câu chuyện của tôi hôm nay. [65: 132]
64. Trước mắt, một việc nên làm ngay là các ngành cần soát lại xem trong
ngành mình đã nhập những chữ nào không đúng – như đã phân tích trên
đây - , và cố tìm những chữ trong tiếng ta để thay thế. [65: 133]
65. Làm một phim dài cũng như viết một truyện dài, khó lắm. (Tất nhiên
làm ngắn mà hay cũng không phải dễ). [65: 139]
66. Đến nay sử sách – mà ta biết được – viết về Vua Hùng thật là ít ỏi, vẻn
vẹn chỉ có mấy trang giấy và chắc chắn là không thể tin được hết vì nhiều
lẽ! [65: 159]
67. Sự tưởng nhớ vua Hùng là một biểu hiện của sức sống mãnh liệt này,
một biểu hiện của niềm tự hào dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, ý chí kiên
cường bất khuất, đã thể hiện trong cuộc đấu tranh không ngừng và vô cùng
ác liệt chống ngoại xâm và thiên nhiên, làm nảy nở những đức tính cổ
truyền của dân tộc: anh dũng, cần cù thông minh, sáng tạo… [65: 160]
68. Nghiên cứu buổi đầu dựng nước và giữ nước của dân tộc – thời kì
Hùng Vương và trước nữa – chúng ta không chỉ dựa vào một ít tài liệu lịch
sử, cũng không chỉ tìm hiểu qua các truyền thuyết, chúng ta còn có một
kho tàng rất phong phú và quý giá vô ngần: đó là những di tích do người
xưa để lại, được bảo tồn khá chu đáo trong lòng đất mà ngày nay khảo cổ
phải nghiên cứu. [65: 161]
69. “Việc gì cũng cần phải thiết thực mới được, nói được làm được. Việc
gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ thấp dần dần
đến cao” (Thư Hồ Chủ tịch gửi thanh niên Việt Nam). [65: 181]
70. Tuy vậy, những di vật mà chúng ta đã tìm thấy trong hơn mười năm
qua nhờ các cuộc khai quật ở trung du, ở đồng bằng Bắc Bộ và các tỉnh
Liên khu 4 (cũ) thật là phong phú và đã vượt qua nhiều lần tất cả những gì
đã được thu thập từ trước. [65: 161]
71. Ở những nơi này, cuộc chiến tranh ác liệt – lúc này ác liệt hơn trước –
và cán bộ ta đã dạy cho nhân dân ta hiểu đây là một cuộc chiến tranh nhân
dân, nó đòi hỏi sự đóng góp, sự hy sinh tất cả sức lực của mọi người.
[65: 188]
72. Cho nên, người nào không biết dân vận – không giải thích cho nhân
dân hiểu, không cùng nhân dân bàn bạc – mà không thi hành được lệnh
tổng động viên, hoặc nếu thi hành được nhờ cưỡng bức và làm nhân dân
oán trách, thì người ấy có lỗi, thậm chí có tội. [65: 190]
73. Trong lúc nhân dân vì thiên tai, vì địch phá, vì đóng góp cho bộ đội
phải thắt cái bụng lại, ăn độn, ăn thiếu, thế mà có những cán bộ dám bỏ ra
hàng vạn để chi tiêu vào việc xa xỉ hoặc không ích lợi lắm. Trong số này,
phần lớn là vô ý thức – cố nhiên là vô ý thức vẫn có lỗi, còn một số thì
đích đáng là kẻ gian, cần thanh trừ và trừng phạt. [65: 191]
74. Chúng ta đã tránh được nhiều khuyết điểm trong việc động viên nhân,
tài, vật lực của nhân dân; chúng ta đã biết tự kiểm thảo, tự phê bình trước
nhân dân về những khuyết điểm ấy (vài nơi ở Liên khu IV);… [65: 192]
75. Hôm nay – ngày 19 tháng 5 – chúng ta chúc mừng Hồ Chủ tịch, chúc
mừng vị lãnh tụ kính mến của chúng ta, chúng ta vui mừng Hồ Chủ tịch
thêm một tuổi và chúng ta chúc Hồ Chủ tịch mạnh khỏe sống lâu.
[65: 194]
76. “Mây đen lại kéo đến nghịt bầu trời Việt Nam”. * [65: 200]
77. Không chỉ nhân dân ta, mà nhân dân các nước trên thế giới, nhất là
nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, và nhân dân các nước ở châu Á, châu
Phi…đếu biết và ca ngợi Hồ Chủ tịch, coi Hồ Chủ Tịch là người bạn rất
thân của mình *. [65: 213]
78. …làm cách mạng, giai cấp vô sản không mất gì hết, có mất chăng chỉ
mất xiềng xích của mình và sẽ giành được cả thế giới! * [65: 215]
79. Về văn hóa, giáo dục thì thành tựu của chúng ta thật kì diệu* [234]
80. Nhờ những thành tựu của chủ nghĩa xã hội, sức khỏe của nhân dân ta
khác hẳn trước, tuổi thọ được nâng lên nhanh chóng, tỷ lệ chết của trẻ con
mới đẻ giảm xuống mức thấp nhất thế giới * [65: 234]
81. Hồ Chủ Tịch vạch rõ: “Công nhân, nông dân ta và người lao động trí óc
cần tin rằng chúng ta có đủ sức mạnh, can đảm và thông minh để xây dựng
cuộc đời mới của mình…Chỉ có như thế, chúng ta mới xây dựng thắng lợi
chủ nghĩa xã hội”. * [65: 236]
82. Con người của Bác, đời sống giản dị như thế nào, mọi người chúng ta
đều biết: bữa cơm, đồ dùng, cái nhà, lối sống. [65: 238]
83. Ngay trong lúc ở tù, tay chân bị trói buộc, thì người vẫn ung dung thư
thái, và tâm hồn đó cùng cảnh ngộ đó đã sinh ra những bài thơ tuyệt đẹp:
Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong. [65: 238]
84. Người là con chim phượng hoàng của núi Trường sơn* [65: 242]
85. Thực hiện năm lời thề đó, tức là đẩy mạnh và hoàn thành hai cuộc cách
mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ
nghĩa… [65: 243]
86. Thắng lợi của nhân dân ta sẽ là một thắng lợi có ý nghĩa quốc tế và lịch
sử, như Bác đã vạch rõ: “Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã
anh dũng đánh thắng hai đế quốc to – là Pháp và Mỹ, và đã góp phần xứng
đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”. [65: 245]
87. Tây Bắc, khu tự trị Thái – Mèo, nơi chiến thắng Điện Biên Phủ, nơi
lịch sử, mặt nước ta hướng về phía Tây, là một vùng rộng lớn (một phần tư
diện tích miền Bắc) rất giàu và đẹp của nước ta, một hòn ngọc ngày mai
của Tổ quốc. [65: 252]
88. Nơi đây, từ hợp tác xã đã xuất hiện những con người mới, như anh
hùng lao động nông nghiệp Lò Văn Muôn, như các chiến sĩ thi đua dẫn
đầu phong trào thi đua sản xuất nông nghiệp: Lò Thị Khịn (người Thái),
Lầu A Doa (người Mèo), Quàng Văn Lê (người Xá), Lù Thị Minh (người
Nhắng) v.v… [65: 252]
89. Cuộc vận động “ Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh
tế tài chính, chống tham ô, lãng phí, quan liêu” gọi tắt là cuộc vận động 3
xây 3 chống (3 chống là chống tham ô, chống lãng phí, chống quan liêu; 3
xây là xây dựng về tư tưởng, xây dựng về tổ chức và chế độ, xây dựng về
tác phong và lề lối làm việc). [259]
90. Phân bố lại sức sản xuất – trước hết là sức người – nhằm phát triển sản
xuất nông nghiệp toàn diện, khai thác các nguồn lâm nghiệp, đẩy mạnh
mọi hoạt động kinh tế ở trung du và miền núi… [65: 260]
91. Hãy làm việc một ngày đáng một ngày (nghĩa là tám giờ ở xí nghiệp,
công trường và mọi cơ quan của nhà nước), một tháng đáng một tháng,
một năm đáng một năm. [65: 262]
92. Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn văn là
chính trị: chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị, ngoại giao, “mở nền thái
bình muôn thuở, rửa nỗi thẹn nghìn thu” (Bình Ngô đại cáo); võ là quân
sự: chiến lược và chiến thuật, “yếu đánh mạnh, ít địch nhiều”,…thắng
hung tàn bằng đại nghĩa” (Bình Ngô đại cáo); văn và võ đều là võ khí,
mạnh như vũ bão, sắc như gươm dao: “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết
mọi thời” (Lê Quý Đôn), văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp
kinh bang tế thế” (Phan Huy Chú). [65: 269]
93. Chúng ta hãy ngẫm nghĩ lại hai câu thơ (chữ Hán) dưới đây của
Nguyễn Trãi:
Họa phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỷ thiên niên. [65: 270]
94. …điều 5: nội bộ triều Minh không hòa, xương thịt hại nhau; điều 6:
(xin trích nguyên văn) “Nay ta dấy nghĩa binh, trên dưới cùng lòng, anh
hùng hết sức,…” [65: 272]
95. Học theo ngòi bút chí công
Trong thơ cho ngụ tấm lòng Xuân thu! (I) [265: 76]
96. Bớ các quan ơi, chớ thấy chín trùng (I) hòa nghị mà tấm lòng địch khái
nỡ phôi pha, cho rằng ba tỉnh giao hòa mà cái việc cừu thù đành lơ lảng!
[65: 277]
97. Bớ các làng ơi, chớ thấy đồn dưới Gò Công (2) thất thủ mà trở mặt hại
nhau, chớ nghe bảo trên Bến Nghé phân cơ mà đành lòng theo mọi!
[65: 277]
98. Phong trào bắt đầu dấy lên ở miền Đông, sau lan rộng khắp nơi ở “lục
tỉnh”, biến thành cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn, nhiều nơi, nhiều lúc
sôi nổi và mạnh mẽ lạ thường, khiến cả kẻ thù cũng không tiếc lời tỏ lòng
khâm phục (theo nhiều sách của người Pháp trong cuộc viết về cuộc chiến
tranh xâm lược Nam bộ):… [65: 277]
99. Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung (I) [65: 278]
100. Tập khiên (2), tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó. [65: 278]
101. Ngoài cật có một manh áo vải, ào đợi mang bao tấu, bầu ngòi (3).
[65: 278]
102. Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia (4);
[65: 278]
103. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní (I) hồn kinh;
[65: 279]
104. Xin trích mấy câu trong bài thơ của Nguyễn Tư Giản tiễn Nguyễn
Thông về Bình Thuận (nguyên văn chữ Hán, dưới đây là văn dịch):…
[65: 280]
105. Họ sống trong một xã hội cũng như biết bao xã hội từ xưa tới nay – có
người tốt kẻ xấu, người ngay kẻ gian, có nhiều đau khổ bất công – họ đã
đấu tranh không khoan nhượng chống mọi gian dối,… [65: 281]
106. Nhân kỉ niệm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu (ngày 3 tháng 7 năm
1888), trong lòng chúng ta, chúng ta hãy đốt một nén hương để tưởng nhớ
con người vinh quang của dân tộc! [65: 281]
107. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các bạn đã giúp đỡ chúng tôi trong
việc chuẩn bị để in tác phẩm này và xin trân trọng giới thiệu Tổ quốc ta,
nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ với đông đảo bạn đọc. *
[65: 6]
PHỤ LỤC 4: PHỤ CHÚ TRONG VĂN BẢN THUỘC
PHONG CÁCH NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
1. Dung Hà đang ngồi uống nước với Nguyễn Thị Bích Thanh, Đoàn Thị
Tú Anh và Nguyễn Thị Nghiệp tại trước cửa số nhà 17 Bùi Thị Xuân
thuộc phường Bến Nghé (quận 1 – thành phố Hồ Chí Minh). [75: 7]
2. Dung Hà – một phụ nữ đã cứng tuổi, có dáng người đậm, chắc, tóc cắt
ngắn như con trai – là 1 ả giang hồ gốc Hải Phòng khét tiếng toàn quốc
trong lĩnh vực tổ chức cờ bạc, đâm thuê chém mướn và bảo kê bến bãi,
khách sạn... [75: 7]
3. Xung quanh vũng máu có năm chiếc ghế nhựa màu nâu, có bốn ly nước
uống (hai ly nằm trong khay, hai ly nằm trên lề đường), bốn tạp chí Tình
yêu hôn nhân gia đình, hai xâu chìa khóa… [75: 9]
4. Chấp hành nghiêm túc sự chỉ đạo của thành ủy, Ban giám đốc công an
thành phố Hồ Chí Minh đã có kế hoạch 201 về tấn công tội phạm hình sự
và chỉ đạo Cảnh sát Điều tra (CSĐT), Cảnh sát Hình sự (CSHS) và cả một
số đơn vị nghiệp vụ của an ninh tập trung làm rõ các băng nhóm lớn nguy
hiểm. [75: 12]
5. Từ đầu những năm thập kỉ 80, đất cảng Hải Phòng – nơi được coi là sản
sinh ra những tướng cướp, những kẻ giang hồ nguy hiểm nhất từ trước đến
nay – đã nảy nòi ra một Dung Hà. [75: 14]
6. Dung Hà sinh năm 1965 trong một gia đình đông anh em, mẹ mất sớm
và có hộ khẩu tại 2/23 phố Trạng Trình phường Phan Bội Châu quận Hồng
Bàng (Hải Phòng). [75: 15]
7. Nhặt nhạnh sắt vụn, làm thuê làm mướn và có cơ hội thì chôm chỉa – đó
là những “nghề” mà ngay từ tuổi ấu thơ, Dung Hà đã trải qua. [15]
8. Từ buôn lậu, Dung Hà chuyển sang bảo vệ ngầm (bảo kê) cho một số
nhà hàng, vũ trường và mở sòng bạc. [75: 15]
9. Sau khi Đại Cathay chết, băng tan rã, mụ đứng ra lập băng mới và chọn
khu vực Cầu Ván – Hai Mươi Thước (quận 4) làm nơi hoạt động. [75: 19]
10. Và theo như điều tra của trinh sát Cơ quan An ninh (Bộ Công an) thì
chính Lệ Hải đã vạch bước đi cho Năm Cam… [75: 19]
11. Băng Bò Lục, Lủng Cu Trắng chuyên bảo kê cho các sòng bạc của Bảy
Xí (anh rể Năm Cam)… [75: 21]
12. … khẩn trương tiến hành truy bắt Hải “bánh” và Lê Công Hải – tức Hải
“bén”… [75: 24]
13. …hàng loạt đối tượng tình nghi liên quan đến vụ giết Dung Hà như
Nguyễn Hoàng Hải – tức Hải “chùa”, Nguyễn Hoàng – tức Hoàng “hán”,
Lưu Bạch Đằng. [75: 25]
14. Công an Hà Nội dựng được hai nhóm đối tượng là nhóm của Nguyễn
Văn Thắng – tức Thắng “tài dậu” và Trần Quốc Sơn – tức Sơn “bạch
tạng”. [75: 26]
15. Nguyễn Tuấn Hải tức Hải “bánh” sinh ngày 7-11-1967 và có hộ khẩu ở
36 phố Hàng Cót phường Hàng Mã (Hà Nội) [75: 28]
16. Thời kỳ đầu, hắn vốn là đệ tử ruột của Dung Hà và từng theo lệnh của ả
cùng Hải “hấp, Hải “lớ”, Trung, Nga Dũng “béo”, Duy Quân và hai tên
nữa tổ chức phá sòng bạc của tên Cường ở nhà T180, tổ 2, khu phố 3,
phường Long Bình (Biên Hòa – Đồng Nai). [75: 29]
17. Năm Cam đã chi cho Hải “bánh” 10.000 USD “chơi” sòng bạc đối thủ
sát ván. (Tuy nhiên, ngay sau khi phá xong, Năm Cam phải bay ra Hải
Phòng để dàn xếp với một “bố già” khác, bởi lẽ sòng bạc đó chính là của
hắn). [75: 30]
18. Một gã nữa tên là Lê Công Hải – tức Hải “bén” cũng là đối tượng rất
quan trọng. [75: 31]
19. Hải “bén” đã từng bị truy nã từ năm 1991 về tội cùng đồng bọn dùng vũ
khí đi bắt tên Trịnh Văn Chương – tức Tám Bô đem ra xa lộ Hà Nội nện
cho một trận chí tử rồi dùng dao phay chặt đứt ngón tay cái. [75: 31]
20. Đến ngày 29-5, hắn trở về thành phố Hồ Chí Minh và khi đang hát
karaoke ở một quán trên đường Nguyễn Biểu (quận 5) thì bị Công an quận
1 bắt. [75: 32]
21. Bước đầu, Hải “bánh” khai nhận về các mối quan hệ với Năm Cam,
Tống Viết Hòa, Dung Hà, Hạ Thị Thu Giang, Lưu Bạch Đằng, Lê Công
Hải (Hải “bén”), Nguyễn Mạnh Hải (Hải “lớ”), Nguyễn Hoàng Hải (Hải
“chùa”), Lê Duy Long (Long “tây”)…cùng hàng chục đối tượng khác.
[75: 34]
22. …hắn cùng các tên Long Bình, Cao Văn Sơn và 5 tên nữa mang theo
súng, dao phay đi đến đường Lý Thái Tổ ở quận 10 để trả thù tên Trịnh
Văn Chương (tức Tám “bô”)… [75: 36]
23. Thực hiện nghiêm túc các kế hoạch của ban chỉ đạo Chuyên án, Công an
thành phố Hà Nội cũng mở một đợt truy lùng những tên đã thực hiện vụ
giết Dung Hà như Lê Long Duy (Long “tây”), Nguyễn Xuân Trường
(Trường “xoăn”), Nguyễn Việt Hưng(Hưng “pinhon”). [75: 41]
24. Và vào giữa năm 2000 (khi chưa xảy ra vụ án Dung Hà), đồng chí Phó
giám đốc đã gọi điện cho Dương Minh Ngọc, Trưởng phòng Cảnh sát
Hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh và khuyên Ngọc hãy nhanh
chóng chấm dứt quan hệ với Năm Cam… [44]
25. Ngoài hàng chục sòng bạc do các đàn em của Năm Cam đứng ra làm
chủ thì hắn là chủ “đầu tư” trực tiếp của 4 sòng bạc tại số 4 Đồn Đất (quận
1), ở phường 3 (quận 4), ở ngã ba Biên Hòa – Xa lộ Hà Nội và một sòng
tại Biên Hòa. [75: 47]
26. Dưới trướng Năm Cam có một đội ngũ đệ tử tin cậy như Trương Hiền
Bảo; Nguyễn Văn Thành (Mười “lù”); Lai Em; Bảy Việt; Trung Tâm; Thọ
“đại úy”; Thảo “già”; Tạ Đắc Lung (Lý “đôi”); Hồ Viết Sử; Cường
“nghiện”; Kim Anh. [75: 48]
27. Theo lệnh của Năm Cam, Dung Hà cho tay chân tạt axit vào Lâm “chín
ngón”, tổ chức phá sòng bạc của tên Cường tại Biên Hòa (Đồng Nai).
[75: 50]
28. …Năm Cam lại gọi tên Cường đến, cho mở sòng mới ở ngã ba thành phố
Hồ Chí Minh – Biên Hòa và tại đây Năm Cam được hưởng 60% tiền xâu
(tức là tiền của các con bạc, ai thắng ván nào phải bỏ ra 10% cho chủ
sòng). [75: 51]
29. Khi lập vũ trường, Hòa năn nỉ Năm Cam góp vốn nhưng Năm Cam
không nghe, trong khi đó một số chủ “đầu tư đen” ở Đài Loan, Hồng Kông
vốn là thành viên của đảng 14K (sau này bị Cảnh sát Trung Quốc đánh
mạnh, chúng đổi tên thành 3814) lại muốn có Năm Cam bởi chúng biết sẽ
“an toàn” hơn nếu có sự tham gia của hắn. [52]
30. Đồng chí Võ Văn Kiệt đã trực tiếp giao nhiệm vụ cho đồng chí Bộ
trưởng Bộ Nội vụ Bùi Thiện Ngộ (nay là Bộ Công an) đề nghị tiến hành
các biện pháp cần thiết làm rõ những nội dung mà Quân báo đã báo cáo.
[75: 55]
31. Tổng cục Cảnh sát và Công an thành phố Hồ Chí Minh đã kịp thời báo
cáo Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) và
đã nhận được sự chỉ đạo của Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Nội vụ...
[75: 55)]
32. …bắt vụ tổ chức đánh bạc do Huỳnh Tỳ cầm đầu ở 98F Lê Lai, quận 1,
thành phồ Hồ Chí Minh (đây là một trong những sòng bạc lớn nhất do
Năm Cam lập ra và bảo kê)… [75: 57]
33. ….bắt 35 tên trong vụ tổ chức đánh bạc ở xã Hóa An, Biên Hòa, Đồng
Nai, trong đó có nhiều tên thân tínvới Năm Cam như Nguyễn Anh Tuấn
(Tuấn Tăng), Tạ Đắc Lung (Lý đôi), Thành “đô la”, Đại “già”, Vũ Thế
Khải. [75: 57]
34. …trên lĩnh vực cờ bạc có Nguyễn Thành Thảo (Thảo ma), Tạ Đắc Lung
(Lý đôi), Nguyễn Chung Tâm…; trên lĩnh vực bảo kê, thanh toán nhau có
Hải “bánh”, Dung Hà, Châu Phát Lai Em, Trần Quốc Sơn (Sơn “bạng
tạng”), nguyễn Văn Thắng (Thắng “tài dậu”). [75: 59]
35. Năm Cam cũng dùng nguồn tiền bất chính thu được từ việc tổ chức cờ
bạc để lo chi phí nuôi dưỡng đàn em và quan hệ (ngoại giao) với một số
cán bộ có chức quyền, sa đọa biến chất bao che cho hoạt động tội phạm
của y. [75: 59]
36. Điển hình nhất là vào khoảng tháng 8-2000, do mâu thuẫn trong giới
giang hồ giữa Trần Quốc Sơn (Sơn “bạch tạng”) và Dung Hà, Sơn đã tổ
chức cho 20 tên đàn em thân tín (một số đi bằng đường hàng không, một
số đi bằng tàu hỏa từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh) mang theo vũ
khí để thanh toán băng Dung Hà. [75: 60]
37. ...Hải “bánh” đã nhờ Lê Duy Long (Long tây) chở đến nhà Lưu Tấn
Nhơn (Đằng tây) tại 156 Nguyễn Phi Khanh , quận 1, thành phố Hồ Chí
Minh mượn khẩu súng Rulo và 6 viên đạn. [75: 61]
38. …Hải “bánh” còn mượn của Lê Quốc Lâm, ngụ tại 110B Trần Bình
Trọng, phường 1, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh một khẩu súng Col 45
cũ (hỏng kim hỏa). [75: 61]
39. Khẩu súng này, Lâm khai nhặt được tại một căn phòng của căn nhà số 6
Nguyễn Tất Thành, phường 12, quận 4, thành phố Hồ Chí Minh (khu nhà
tập thể của công an thành phố Hồ Chí Minh). [75: 61]
40. Bọn chúng chạy thẳng theo đường Cách Mạng Tháng Tám (hướng về
phía quận 1) được một đoạn thì rẽ trái (ngược chiều đường Nguyễn Du), đi
được một đoạn thì mất phương hướng (vì quá hoảng sợ). [75: 64]
41. Sau đó khoảng 0 giờ 45 phút ngày 2-10 thì Trường vào một nhà dân có
máy điện thoại cho thuê ở đường Trần Quốc Thảo điện vào máy di động
của Anh Thư (Hải “bánh” đang cầm) báo là Hưng đã bắn Dung Hà…
[75: 65]
42. Sau khi gặp Trường, Lâm lấy xe đưa về quán cà phê Ca Dao của Đằng
tại 38 Lý Tự Trọng, Long lấy điện thoại của Long (trước đó Hải “bánh “
đã mượn đưa cho Trường và Hưng)… [75: 65]
43. Dưới sông có nhiều bèo tây (bèo mắc ở cả những mố cầu). [75: 67]
44. Từ đó về sau (2-10-2000 đến đầu tháng 12-2000), Năm Cam và Hải
“bánh” tạm thời không liên lạc nữa. [75: 67]
45. Hải “bánh” đã đưa Hưng và Trường xuống Vũng Tàu trốn và nhiều lần
liên lạc với Năm Cam, mục đích là yêu cầu Năm Cam lo cho Hưng và
Trường trốn đi nước ngoài (vì trước đó, Năm Cam đã hứa hẹn giúp đỡ và
lo cho Hải “bánh”) nhưng Năm Cam không nghe máy. [75: 67]
46. Trong đêm 1-10-2000 (đêm xảy ra vụ giết Dung Hà), Anh Thư có lên vũ
trường Phi Thuyền chơi cùng Hải “bánh”, Lê Duy Long, Trường, Hưng và
một số người bạn của Hải. [75: 69]
47. Khoảng hơn 1 giờ ngày 27-1-2000, tại quán Cấm Chỉ (số 4, đường Hải
Triều, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh) xảy ra vụ đâm đánh nhau đông
người, làm 2 người chết. [75: 71]
48. Khoảng hơn 1 giờ ngày 27-1-2000, các tên Nguyễn Hữu Thịnh, Văn
Công Tiến (Khắc Sinh), Từ Anh Kiệt (út “lùn”), Huỳnh Anh Tuấn (Hùng
“nhỏ”), Nguyễn Thị Kim Yến (bạn gái của Tiến) sau khi đã uống bia tại
quán 136 Nguyễn Thái Học đi 4 xe máy đến quán cơm phở Hà Nội (quán
Cấm Chỉ), số 4 đường Hải Triều để ăn khuya. [75: 73]
49. Đến trước cửa quán, pha đèn Suzuki Sport của Kiệt chiếu thẳng vào bàn
ăn của các anh Phan Lê Sơn, Hồ Phước Hưng cùng các bạn gái (tất cả gồm
9 người) cũng đang ngồi uống bia, ăn khuya tại quán. [75: 73]
50. Do bị Sơn đánh, Nguyễn Hữu Thịnh tức giận nên gọi điện thoại di động
cho Bùi Anh Việt (Bảy Việt) đang ngồi nhậu cùng Nguyễn Văn Thọ (Thọ
“đại úy”, cha của Thịnh), Phạm Văn Minh (Minh “bu”),…. [75: 73]
51. Thịnh nói với Bảy Việt rằng Thịnh đang bị đánh ở Phủ Kiệt (Hải Triều),
nhờ Việt ra giúp. [75: 73]
52. Sau khi nghe điện thoại của Thịnh, Bảy Việt nói lại cho Thọ biết, đồng
thời rủ các tên Toàn, Dương, Phi, Tùng (là người trông xe ở quán 136
Nguyễn Thái Học) lấy xe máy chạy ra Hải Triều. [75: 73]
53. Minh xuống bếp tìm hung khí thì được tên Nguyễn Hữu Chung (đầu
bếp) đưa cho một con dao và ngồi sau xe máy do Nguyễn Hữu Chung điều
khiển chạy theo Thọ ra Hải Triều. [75: 74]
54. Nguyễn Hùng Cường là chủ quán 136 Nguyễn Thái Học (Con rể Năm
Cam) cũng đi xe máy chạy theo Thọ ra đường Hải Triều. [75: 74]
55. Trong lúc đâm, đánh hỗn loạn, các tên Nguyễn Văn Thọ, Trương Tấn Phi
cũng bị đồng bọn đâm nhầm bị trọng thương (Thọ bị Tùng đâm thương ở
sau lưng, Phi bị Thịnh đâm thương ở bụng). [75: 75]
56. …đề nghị truy tố bị can Nguyễn Thị Kim Yến tội che giấu tội phạm theo
quy định tại điều 246 – BLHS năm 1985; Huỳnh Anh Tuấn (Hùng nhỏ),
tội không tố giác tội phạm heo quy định tại điều 247 – BLHS năm 1985;
Nguyễn Văn Thọ (Thọ “đại úy”) tội gây rối trật tự công cộng theo quy
định tại điều 198 – BLHS năm 1985 (Điều 245 – BLHS năm 1999).
[75: 77]
57. Trong khi đó tại bản giải thích hung khí gây nên thương tích của nạn
nhân Hưng (giải thích theo yêu cầu của cơ quan điều tra), Tổ chức giám
định pháp y – pháp y tâm thần thành phố Hồ Chí Minh do bác sĩ Bùi
Thanh Tuyền ký lại nêu thương tích trên người nạn nhân Hưng do 2 loại
hung khí: loại dao có một lưỡi sắc, loại dao có 2 lưỡi sắc (dao bấm) và kết
luận là Hồ Phước Hưng bị đâm do loại dao bấm,… [75: 78]
58. Trong đó có vụ án: Nguyễn Hữu Thịnh cùng đồng bọn phạm tội giết
người, che giấu tội phạm, không tố giác tội phạm, gây rối trật tự công cộng
(TTCC), xảy ra tại quán Cấm Chỉ, số 4 đường Hải triều quận 1 vào ngày
27-1-2000. [75: 79]
59. Cầm đầu vụ án là Nguyễn Văn Thọ (tức Thọ đại úy) cháu ruột của Năm
Cam (mẹ Thọ là chị gái Năm Cam). [75: 79]
60. Thọ chỉ bị khởi tố về tội “Gây rối trật tự công cộng” và được tại ngoại,
bỏ lọt nhiều tên có hành vi “che giấu tội phạm” trong đó có Năm Cam,
Dương Ngọc Hiệp (Hiệp phò mã). [75: 79]
61. Nguyễn Văn Thọ (Thọ “đại úy”) là tên có vai trò đặc biệt quan trọng đối
với các hoạt động tội phạm của Năm Cam đã bỏ trốn ngay sau khi Năm
Cam bị bắt. [75: 79]
62. …cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã tiến hành trưng cầuViện khoa
học hình sự Bộ Công an (Viện KHHS) cử giám định pháp y có kinh
nghiệm tiến hành nghiên cứu, thực nghiệm, giám định pháp y để làm rõ
các cơ chế hình thành các dấu vết, thương tích… [75: 80]
63. Khoảng 23 giờ ngày 26-1-2000, anh Lê Tâm Việt (chiến sĩ Phòng Cảnh
sát hình sự, CSHS) ngồi ở quán Cơm Phở Hà Nội (quán Cấm Chỉ), số 4
đường Hải Triều, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh gọi điện thoại di động
cho anh Phan Lê Sơn (là chiến sĩ Phòng Cảnh sát hình sự) rủ anh Sơn đến
đường Hải Triều nhậu tiếp. [75: 80]
64. …sau khi nhận được điện thoại của anh Việt đã rủ nhóm bạn gồm: Hồ
Phước Hưng, Lê Trần Thịnh, Đào Văn Thành (Tỷ), Trần Văn Năng,
Nguyễn Hoàng Lộc (Bi), Quách Ngọc Thanh (bạn gái Sơn mới quen) đến
quán Cấm Chỉ đường Hải Triều để nhậu tiếp và ăn khuya với Lê Tâm Việt.
[75: 81]
65. Tất cả nhóm bạn của Sơn và Việt (gồm 9 người, có cả nữ) ngồi chung
một dãy bàn kê tại vỉa hè trước cửa quán “Cấm Chỉ” sát kho bạc nhà nước,
phía đường Nguyễn Huệ, cả nhóm uống bia Heniken và ăn phở. [75: 81]
66. Cũng trong buổi tối ngày 26-1-2000, các tên Nguyễn Hữu Thịnh, Huỳnh
Anh Tuấn (Hùng “nhỏ”), Từ Anh Kiệt (út “lùn”) và Hùng “lớn”, Văn
Công Tiến (Khắc Sinh), Nguyễn Thị Kim Yến (bạn gái của Tiến), Bùi
Anh Việt (Bảy Việt), Trương Tấn Phi, Trần Dương, Võ Song Toàn (cả ba
do Bảy Việt gọi đến) và Lê Thị Hồng Ngọc chủ quán Tân Hải Vân (162
Nguyễn Trãi quận 1) ngồi nhậu chung bàn tại quán 136 Nguyễn Thái Học,
quận 1. [75: 81]
67. Đến hơn 1 giờ ngày 27-1, Nguyễn Hữu Thọ (Thọ “đại úy”), Phạm Văn
Minh (Minh “bu”) và một số phụ nữ, bạn của Thọ đến quán 136 Nguyễn
Thái Học uống rượu nhưng ngồi riêng bàn khác. [75: 81]
68. Nguyễn Hữu Thịnh thấy cha mình (Thọ “đại úy”) đến bèn cùng các tên
Kiệt, Tiến, Yến, Tuấn, Hùng lớn đứng dậy đi nơi khác. [81]
69. Thịnh đi một mình bằng xe Spacy màu lông chuột, Tuấn (Hùng “nhỏ”)
đi một mình bằng xe Spacy màu trắng (mượn của Hùng lớn)…[83]
70. Thấy có đánh nhau một số bạn của Sơn (trong đó có anh Hưng)và chủ
quán Cấm Chỉ là cô Đặng Thu Thơm ra can ngăn nên hai bên không ẩu đả
nữa, ai về bàn người đó ngồi. [75: 82]
71. Nguyễn Hữu Thịnh gọi điện thoại di động cho Bùi Anh Việt (Bảy Việt)
nói cho Bảy Việt biết Thịnh bị đánh ở Phủ Kiệt (Hải Triều) và kêu Bảy
Việt giúp. [83]
72. Bảy Việt sai Hồ Thanh Tùng (Hai Lợi) là người giữ xe của quán 136
Nguyễn Thái Học dắt xe Spacy màu trắng của Bảy Việt ra và bảo Tùng
ngồi phía sau cùng đi Hải Triều với Bảy Việt. [75: 83]
73. Khi ra Hải Triều, bảy Việt và Tùng không gặp Thịnh, chạy xe đến ngã 3
Hải Triều – Nguyễn Huệ thì Bảy Việt nghe điện thoại của Thịnh lần thứ 2
(lúc 1giờ 40 phút)… [75: 83]
74. Tại đây, Văn Công Tiến nói với Bảy Việt “Tụi nó giống hình sự lắm”,
Bảy Việt nói “Tụi nó là hình sự thì muốn đánh ai thì đánh hả, đi ra quất
luôn (đánh luôn)”. [75: 83]
75. Nguyễn Hữu Thịnh sau khi gọi điện thoại cho Bảy việt, lấy xe chạy theo
đường Nguyễn Huệ - Bạch Đằng – Hàm Nghi, mục đích là gặp Bảy Việt
nhưng không gặp, nên y chạy xe về quán 136 Nguyễn Thái Học và gặp cha
mình là Nguyễn Văn Thọ (Thọ “đại úy”) đang ngồi nhậu với Phạm Văn
Minh và Lê Thị Hồng Ngọc (chủ quán Tân Hải Vân)…, ngoài ra còn gặp
Nguyễn Hùng Cường (Cường anh – chủ quán 136 Nguyễn Thái Học) là
con rể của Năm Cam đứng bên ngoài. [75: 84]
76. Theo lời Minh khai thì thấy Thọ “đại úy” đã chạy xe trước (thực tế
Thịnh chở tên Thọ chạy trước) nên tên Chung hỏi Minh “Đi theo Thọ phải
không?” [75: 85]
77. Sau khi biết Thọ cùng các tên Minh, Chung đầu bếp cùng đi ra Hải
Triều để đánh nhau, tên Nguyễn Hùng Cường (Cường anh – con rể Năm
Cam) cũng vào bếp lấy một con dao… [75: 85]
78. Thịnh chở Thọ ra Hải Triều nhưng không gặp Bảy Việt và đồng bọn,
nên Thịnh gọi điện thoại cho Bảy Việt, hỏi Bảy Việt đang ở đâu (lúc 1 giờ
40 phút). [75: 85]
79. Điều này phù hợp với lời khai của nhân chứng tại thời điểm nói trên
thấy 2 (trong đó có người khoảng 40 tuổi) người đi xe Spacy qua quán
Cấm Chỉ và dừng lại ở đường Nguyễn Huệ - Hải Triều. [75: 86]
80. Tên Văn Công Tiến (Khắc Sinh) thấy Tùng đâm Thọ nên kêu lên “Sao
mày đâm chú tao?...” [75: 88]
81. Tên Nguyễn Hữu Thọ (Thọ “đại úy”) cũng tích cực đuổi theo Phan Lê
Sơn, miệng hò hét chửi bới… [75: 89]
82. …khi y vừa bước lên bậc thềm của quán để đuổi theo Sơn chạy vào trong
nhà thì bị tên Hồ Thanh Tùng đứng phía sau đâm trúng vào lưng bị trọng
thương (vì tên Tùng tưởng Thọ là người bên anh Sơn). [75: 89]
83. Nguyễn Hùng Cường (Cường anh), chủ quán 136 Nguyễn Thái Học và
em trai Nguyễn Tuấn Hùng chạy xe đến sau cùng. [75: 90]
84. Sơn quay đầu chạy ngược theo hướng Hàm Nghi – Nguyễn Huệ đến gần
quán phở Lan (liền kế với quán Cấm Chỉ) thì bị Văn Công Tiến dùng ghế
nhựa đập vào đầu,… [75: 90]
85. Anh nguyễn Văn Đông là chồng chị Nguyễn Thị Lan chủ quán phở,
chiến sĩ CSHS – Công an Quận 1 đang ngủ trên lầu 1 của quán phở Lan
(nhà số 4, Hải Triều), thấy có ồn ào đánh nhau dưới đường, lấy súng K54
bắn cảnh cáo nên tất cả bọn chúng mới bỏ chạy. [75: 91]
86. Tên Từ Anh Kiệt chở tên Nguyễn Hùng Cường (Cường anh) chạy đến
trung tâm cấp cứu Sài Gòn thăm Nguyễn Văn Thọ. [75: 93]
87. Các tên Huỳnh Anh Tuấn (Hùng nhỏ), Nguyễn Tuấn Hùng (Cường em),
có mặt ở hiện trường giữ xe và chứng kiến đồng bọn đâm, đánh các nạn
nhân, sau khi nghe tiếng súng nổ đều bỏ chạy khỏi hiện trường. [75: 94]
88. Hồ Thanh Tùng khai đã sử dụng con dao bấm hình cây viết cài ngực,
(lưỡi sắc, nhọn đều, rộng khoảng 1-1,5 cm). [75: 94]
89. Các bị can đều khai nhận sau khi gây án, chúng đều vứt bỏ hung khí
(dao) của các đối tượng sử dụng trong khi gây án, Cơ quan điều tra đã tổ
chức cho các bị can và nhân chứng nhận dạng dao có các đặc điểm, hình
dáng gần giống như các loại dao đã được mô tả ở trên. [75: 95]
90. Tại đây, Bảy Việt, Kim Anh gặp lê Thị Hồng Ngọc, thị Điệu (vợ Thọ) và
một số đối tượng vừa gây án ở Hải Triều. [75: 95]
91. Tại đây, Bảy Việt và Kim Anh gặp Dương Ngọc Hiệp (Hiệp “phò mã”).
[75: 96]
92. Được tin cha con Nguyễn Hữu Thịnh, Nguyễn Văn Thọ cùng đồng bọn
đánh nhau, đâm chết hai người ở đường Hải Triều, ngay trong đêm (rạng
sáng 27-1-2000), Dương Ngọc Hiệp tức Hiệp “phò mã” đã điện thọai cho
cha vợ là Năm Cam… [75: 96]
93. Năm Cam gọi Dương Ngọc Hiệp đến hỏi để nắm lại tình hình vụ án, sai
Lê Thị Điệu (vợ Thọ “đại úy”, mẹ Thịnh) gọi điện kêu Thịnh đang bỏ trốn,
về thành phố để gặp Năm Cam… [75: 97]
94. Sau khi nghe Hiệp “phò mã”, Thịnh, Thọ kể lại Năm Cam đã nắm được
nội dung vụ án, đại ý là: Thịnh cùng đám bạn đi ăn khuya ở Hải Triều, dọi
đèn pha vào mặt Sơn (sau này Năm Cam mới biết tên hai nạn nhân) đang
ngồi nhậu. [75: 97]
95. Theo lời khai của Dương Ngọc Hiệp, vì lo sợ Nguyễn Văn Thọ (Thọ
“đại úy”) bị bắt nên cha vợ y là Năm Cam đã chỉ đạo Hiệp phải gọi
Nguyễn Hữu Thịnh về đầu thú,… [75: 98)]
96. ….Tối hôm đó (26 rạng ngày 27-1-2000) khi Thịnh bị đánh gọi điện về
cho Bảy Việt đang ngồi ở quán 136 Nguyễn Thái Học kêu người ra Hải
Triều để can thiệp… [75: 98]
97. Trước khi đưa Nguyễn Hữu Thịnh ra đầu thú, bản thân Năm Cam đã
cùng Hiệp gặp Thịnh, Tiến, Yến Tại nhà Hiệp ở 36 Nguyễn Hữu Cầu,
phường Tân Định, quận 1 (tối 29-1-2000). [75: 99]
98. …Dương Ngọc Hiệp và Nguyễn Văn Thọ đến nhà Kim Anh để cùng bàn
bạc, tổ chức cho Bùi Anh Việt trốn đi Campuchia (CPC)… [75: 100]
99. Trưa hôm sau (9/1 âm lịch), Hiệp, Thọ, Kim Anh đã gặp Bảy Việt để
thuyết phục Bảy Việt đi trốn… [75: 100]
100. Dương Ngọc Hiệp đã bàn bạc và nhờ Tôn Vĩnh Đắc (Long “đầu đinh”)
bố trí xe ô tô. [75: 100]
101. Hiệp thuê tên Taing Peng Chheu (Tư Miên) người CPC, lấy vợ Việt
Nam ở Sài Gòn là bạn buôn bán xe ô tô cùng với Long và Hiệp, để Tư
Miên dẫn đường đưa Bảy Việt sang CPC. [75: 101]
102. Tối ngày 9-1-2000 (âm lịch), Bùi Anh Việt từ nhà Kim Anh đi taxi đến
nhà Long ở 274/21B Nam Kỳ Khởi Nghĩa – phường 8 – Quận 3 gặp
Nguyễn Tấn Lộc… [75: 101]
103. Cũng trong thời gian này, theo sự chỉ đạo của Ban Giám đốc Công an
thành phố, Dương Minh Ngọc (nguyên là trưởng phòng CSHS) và Nguyễn
Mạnh Trung (nguyên là phó trưởng phòng CSĐT) đã gặp riêng Năm Cam
để thuyết phục Năm Cam đưa Bảy Việt và các tượng khác ra đầu thú.
[75: 102]
104. Năm Cam đã nói với Dương Ngọc Hiệp chỉ đạo Tư Miên đưa Bảy Việt
từ CPC về Việt Nam và ra đầu thú (ngày 17-3-2000). [75:102]
105. Cả Nguyễn Văn Thọ, Dương Ngọc Hiệp, Lê Thị Kim Anh, Tôn Vĩnh
Đắc đều được cơ quan điều tra, điều tra viên (ĐTV) Đặng Hải Tương mời
lên làm việc và tổ chức cho đối chất với Bảy Việt trong trại giam,…
[75: 103]
106. Lê Ngọc Lâm (Lâm “chín ngón”) sinh năm 1945 tại Hà Tây. [75: 104]
107. Nguyễn Hữu Thế Trạch (con rể bà Mai) đã nhờ Năm Cam nói với Lâm
để được giúp đỡ. [75: 105]
108. Ngoài ra còn có thông tin đến tai Năm Cam (Bình Kiểm nói) là Lâm
muốn gây chuyện với Cam. [75: 106]
109. Tối ngày 9 hoặc 10-7-1999, Dung Hà đi xe máy do Nguyễn Duy Quân
(Quân béo) chở đến nhà Năm Cam… [75: 106]
110. Năm Cam đồng ý và gọi điện cho Nguyễn Văn Thọ (Thọ “đại úy”) đi
mua axit. [75: 107]
111. …Thọ mang axit về đựng trong bình nhựa màu trắng (loại can nhựa 1
lít) đưa cho Dung tại nhà Năm Cam. [75: 107]
112. Sau đó, Quân chở Dung đem theo can axit còn lại về số 19 Bùi Thị
Xuân, quận 1, nơi Dung tạm trú, cất can axit và hai người tiếp tục đi đến
ngã tư đường 3-2 – Sư Vạn Hạnh (khu vực nhà Lâm). [75: 107]
113. Khi đến nơi, chị Liên và con trai vào bàn ngồi trước (lúc này khoảng 20
giờ 30 phút), Lâm đang dựng xe máy thì bị một thanh niên khoảng 30 tuổi
đi đến cầm ca nhựa màu đỏ đựng axit bất ngờ tạt vào mặt… [75: 107]
114. Sau khi bị tạt axit gây thương tích, Lâm không dám tố cáo mặc dù nghi
vấn chủ mưu việc này do Năm Cam (vì sợ thế lực của Năm Cam trong giới
giang hồ). [75: 109]
115. …Đặng Huy Hải (Nam lùn), Nguyễn Phúc, Hoàng “nổ” (còn gọi là
Hoàng MEXICO) cùng một thanh niên nữa đi hai xe máy đến nhà Lâm tại
số 297, đường 3-2, quận 10, rủ Lâm đi nhậu, nhưng Lâm không đi.
[75: 110]
116. Cơ quan điều tra gọi hỏi Nguyễn Trọng Hoàng (Hoàng “đệ”) đang làm
thuê cho Tân “hói” hiện ở 240 Đoàn Văn Bơ, phường 14, quận 4, nhưng
Hoàng không thừa nhận có quan hệ với anh Phạm Sinh, Nguyễn Phúc,
Đặng Duy Hải. [75: 110]
117. Dương Thanh Hà (Thanh “xoăn”) phạm nhân đang cải tạo tại A2 – V26
– Bộ Công an khai báo: … [75: 110]
118. Năm Cam giao cho nhóm tội phạm đâm thuê chém mướn gốc Hải Phòng
là Thành (Thành “chân”), đang định cư ở nước ngoài, Quốc “lủi”, Long
“rắn”, Thủy “ba thỏ”, Dũng “Bắc cạn”, Sơn “con”, Tuấn “cơm”, Văn
“con” (đã chết), Tiệp “chó”, Tới “hen” (đã bị tử hình về tội giết người) tổ
chức đánh nhau tại cầu Công Lý (sở dĩ chọn địa điểm này vì đây là địa bàn
giáp ranh giữa phường 7, quận 3 và phường 16, quận Phú Nhuận, có
nhiều đường ngang ngõ tắt, dễ bề tẩu thoát ). [75: 110]
119. Cơ quan điều tra đã tiến hành ghi lại lời khai Lê Kim Quyền (Cu
“sún”), hiện bị tạm giam tại trại Chí Hòa về tội mua bán ma túy… [111]
120. Nhưng do Lâm có thể lực tốt, lại được cấp cứu kịp thời nên thoát chết,
nhưng bị thương tật rất nặng (tỷ lệ 75%) đã cấu thành tội cố ý gây thương
tích được quy định tại điều 104 Bộ luật Hình sự. [75: 112]
121. Khỏang 12 giờ ngày 26-12-1987, Đổng Chí Nam sinh 1963 tại Sài Gòn,
trú tại 1/17 đường Calmett, phường 19 (nay là phường Nguyễn Thái Bình),
quận 1, thành phố Hồ Chí Minh là công nhân bốc xếp tại chợ cá Cầu Ông
Lãnh, đòi tiền bốc xếp của chủ hàng tôm tên là Mỹ, dẫn tới có sự cãi nhau
giữa Nam với chị Mỹ và anh Hùng lái xe chở hàng cho chị Mỹ (không xác
định được địa chỉ của chị Mỹ và anh Hùng). [75: 113]
122. Lúc đó Châu Phát Lai Em cũng từ nhà 88X (nhà của Châu Kim Hoa)
trong hẻm 88X đi ra và gặp Nam ở đầu hẻm. [75: 113]
123. Nhân chứng Nguyễn Minh Chánh, là công nhân bốc xếp chứng kiến trực
tiếp sự việc từ đấu đến cuối, có khai (lúc 14 giờ 30 phút ngày 26-12-1987
ngay sau khi sự việc xảy ra)”…sau đó tôi có thấy anh Nam đến đứng trước
căn nhà 89X Bến Chương Dương (cạnh hẻm 88X Bến Chương Dương),
trên tay anh Nam có cầm 1 cây sắt đặc và một cây ống nước dài khoảng
80-90cm. [75: 114]
124. Những tài liệu, kết quả điều tra nêu trên (lời khai nhân chứng, biên bản
giải phẫu tử thi, kết luận giám định, thực nghiệm điều tra…) đã bác bỏ
hoàn toàn lời khai chối tội của bị can Châu Phát Lai Em. [75: 116]
125. Mặt khác theo phiếu nhập, xuất và bàn giao tang vật mà Nguyễn Minh
Tuân chuyển đến Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh gồm: 1 con dao
và hai thanh sắt nhưng trên kết luận điều tra vụ án chỉ thấy nêu tang vật là
một con dao (biên bản thu hồi tang vật tại hiện trường ngày 26-12-1987
cũng chỉ có một con dao). [75: 118]
126. Ngày 8-10-1988 ông Nguyễn Văn Bông (Phó viện trưởng) ký lệnh tạm
tha số 106/KSĐT – TA đối với bị can Châu Phát Lai Em về tội giết người
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. [75: 119]
127. Sau khi đình chỉ điều tra, Lâm Xuân Phát đã không chuyển giao hồ sơ vụ
án cho bộ phận tổng hợp để chuyển lưu giữ, dẫn tới mất tòan bộ hồ sơ vụ
án (hồ sơ chính và hồ sơ kiểm sát điều tra). [119]
128. …Lâm Xuân Phát khai đã giao hồ sơ vụ án này cho văn thư của Phòng
kiểm sát điều tra án trị an là chị Hải (chị Hải hiện nay đang định cư tại
Mỹ),… [75: 120]
129. Việc để lọt tội giết người của Châu Phát Lai Em (một đối tượng có nhiều
tiền án tiền sự, tay chân thân tín của Năm Cam), hắn tiếp tục có điều kiện
thực hiện các việc phạm tội khác trong thời gian dài, làm mất ổn định trật
tự xã hội trên địa bàn rộng lớn, ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng
nhân dân đối với Đảng và nhà nước… [75: 121]
130. Trước đây, Minh không dám tố cáo vì khiếp sợ thế lực của anh em nhà
Châu Phát Lai Em (Lai Em là anh ruột của Châu Phát Út và là tay chân
thân cận cua Năm Cam)… [75: 122]
131. Châu Phát Út đến quán “Barconket” (sau đổi tên thành nhà hàng
Hoàng Hôn), thì gặp Nguyễn Trần Lam (Lam là bạn tù trước đây với Út ở
trại Xuyên Mộc) và Đinh Tuấn Huy (bạn của Lam)… [75: 122]
132. Lam chở Huy cầm kiếm ngồi sau bỏ chạy đến đầu đường Nguyễn Công
Trứ (cửa công ty SAIGON SHIP) thì dừng lại và Lam gọi điện thoại cho Út
nhưng không gặp. [75: 123]
133. …Út dựng xe bên lề đường và đi vào nhà em rể tên là Của (hiện Của đã
chết),… [75: 122]
134. Gia đình Đinh Tuấn Huy tự nguyện bồi thường cho gia đình Minh 2
triệu đồng nhưng chị Phượng (vợ Trần Văn Minh) không nhận. [75: 124]
135. …Nguyễn Bá Phong (nguyên là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
quận 1) đã từng bước chỉ đạo và đến ngày 23-7-2001 thì đình chỉ điều tra
vụ án… [75: 127]
136. Ngày 15-2-2001, Nguyễn Bá Phong trực tiếp nhận “đơn xin bãi nại” (bản
photo) không ghi ngày tháng năm 2001 của Trát Minh Dũng…, “đơn xin
bảo lãnh” của Châu Kim Hoa (chị ruột của Châu Phát Út) và công văn đề
nghị của Hợp tác xã bốc xếp số 1 Bến Chương Dương do Châu Phát Lai
Em (anh ruột của Châu Phát Út) đưa. [75: 127]
137. Nay có đơn bãi nại, nếu thương tích không trầm trọng (11%) thì phân
loại xử lý đề nghị công an hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. [75: 127]
138. …mặc dù chức năng giao vụ án này cho cấp dưới để kiểm sát điều tra là
nhiệm vụ của ông Lê Mạnh Quân (Phó viện trưởng phụ trách án hình sự).
[75: 128]
139. …Ông Lê Mạnh Quân đã có bút phê: “Bị can phạm tội thuộc khoản 2
điều 104 BLHS (có tính chất côn đồ và dùng hung khí nguy hiểm),…
[75: 129]
140. Vụ Lê Duy Long cố ý gây thương tích (dùng dao chém Nguyễn Đăng
Đức và Nguyễn Văn Thảo tại ngã ba Tống Duy Tân – Trần Phú, Hà Nội).
[75: 131]
141. Khoảng 22 giờ ngày 19-8-2001, Lê Duy Long (Long “tây”) ngồi uống
rượu với Nguyễn Xuân Trường, sinh năm 1974, trú tại 28 tổ 7, Phúc Tân,
Hoàn Kiếm – Hà Nội; Vũ Đình Thi, sinh năm 1974 trú tại 31B, Phạm Ngũ
Lão, Hải Dương và một người bạn của Thi (chưa xác định được) tại quán
Haleclub ở 64 Nguyễn Du, Hà Nội. [75: 132]
142. …Công an quận Hoàn Kiếm ra lệnh bắt tạm giam Lê Duy Long (có phê
chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm). [75: 133]
143. Vụ Hải “Bánh” cố ý gây thương tích (dùng đĩa thức ăn đập vào đầu anh
Lê Quang Hiếu, tại quán ăn Tân Hải Vân, đường Nguyễn Trãi, Bến Thành,
quận 1, thành phồ Hồ Chí Minh). [75: 134]
144. Hồi 0 giờ 30 phút ngày 24-5-2001, trước quán ăn Tân Hải Vân (đối diện
với quán Dìn Ký, số 139, Nguyễn Trãi, Bến Thành, quận 1), Hải Bánh
(sinh 1967, trú tại 36, Hàng Cót, Hàng Mã, Hoàn Kiếm, Hà Nội) ngồi chờ
đồ ăn cùng với 3 thanh niên là Nguyễn Toàn Thắng (sinh 1975, ngụ tại
66/3, Phó Đức Chính, Nguyễn Thái Bình, quận 1, thành phố Hồ Chí
Minh), Nguyễn Tiến Minh (anh của Thắng, sinh 1965) và Phạm Chung
Thành (sinh 1973, đối tượng sống lang thang). [75: 15]
145. Lúc đó, anh Lê Quang Hiếu (sinh 1974, ngụ 364/8A Cộng Hòa, phường
13, Tân Bình) từ quán ăn Dìn Ký đi bộ băng qua gặp Thành. [135]
146. …Cơ quan Cảnh sát điều tra nhận được rất nhiều đơn thư và điện thoại tố
cáo hành vi cưỡng đoạt tài sản của một số tên (đàn em của Năm Cam) trên
nhiều địa bàn ở thành phố Hồ Chí Minh… [75: 136]
147. …chủ khách sạn Minh Thắng (số 53/1 Nguyễn Khắc Nhu, Cô Giang,
quận 1, thành phố Hồ Chí Minh) tố cáo Nguyễn Minh Khánh (Khánh “Bà
Mì”) đến quậy phá khách sạn, yêu cầu anh Đức hàng tháng phải đưa tiền
bảo kê. [75: 137]
148. Lai Em không đồng ý mà chỉ cho Khánh thu mỗi tháng 1,5 triệu vì
khách sạn Minh Thắng là của Nguyễn Minh Đức (em vợ Hứa Văn Em).
[75: 138]
149. Khi Tuyền về nhà mẹ đẻ ở, giấy tờ căn nhà này Tuyền gửi bà Nương
(mẹ của Tuyền),… [75: 142]
150. Cụ thể là vào năm 1997, Nguyễn Thanh Tuyền và Nguyễn Thị Ngọc
Xuân là con gái của bà Nương chung nhau mua căn nhà số 129/3 Lê Lợi,
phường 3, quận Gò Vấp, lúc đó chìa khóa căn nhà này do Tuyền giữ (khi
đó Giang và Tuyền vẫn đang sống với nhau). [75: 147]
151. Sau đó bà Nương mua lại căn nhà này và đã làm đầy đủ các giấy tờ sang
tên cho bà Nương (đã thu bản photocopy giấy tờ mua bán, sang tên căn
nhà này cho bà Nương). [75: 147]
152. Đến năm1999, anh Thức và Vinh mới làm xong giấy tờ hoàn công (khi
đó Tuyền đã không còn ở chung với Giang tại 21/15A đường Trường Sơn
nữa). [75: 148]
153. Vào năm 1998, Vinh có nhận làm cho Tuyền hồ sơ hoàn công xưởng dệt
của anh Quốc (bạn của Tuyền) với giá 40 triệu đồng. [75: 148]
154. Ngoài khoản thu này thì nhóm của Minh và Thơm “đui” còn thu tiền của
các xe ô tô chở cá vào chợ (gọi là tiền bến bãi)… [75: 155]
155. Lê Văn Thơm (tức Thơm “đui”) khai: đã cùng với Trần Văn Minh đi
thu tiền của các ô tô cá… [75: 156]
156. Các ông Phương, Biết, Hùng (cảnh sát khu vực phụ trách tổ dân phòng)
cũng xác định đã chỉ đạo cho tổ dân phòng thu khoản tiền này theo thỏa
thuận với các chủ ô cá… [75: 157]
157. Căn cứ lời khai của bị can Trần Văn Minh, của Lê Văn Thơm và lời khai
của người bị thấy có đủ cơ sở xác định Minh và Thơm đã cưỡng đoạt tài
sản của chị Lê Thị Lắm (Năm “mọi” 7.200.000 đồng và của chị Đặng Thị
Kim Nho là 2.400.000 đồng) bằng hình thức nhận bảo kê. [75: 160]
158. Lê Thị Lắm (Năm “mọi”) khai: Tâm nhiều lần vào xin tiền và xin cá,
nếu xin tiền thì cho 10.000 – 20.000 đồng, nếu xin cá thì không cần có
đồng ý hay không, Tâm vẫn cứ lấy (không nhớ bao nhiêu lần). [75: 167]
159. Lê Thị Hùng khai: Tâm rất nhiều lần đến xin tiền, không xin cá (không
nhớ bao nhiêu lần) [75: 167]
160. Khi đến xin thì Tâm luôn nói “hôm nay muốn giết người” rồi sau đó mới
xin (không nhớ bao nhiêu lần). [75: 168]
161. Năm Cam lấy một đầu mười (1/10) của mình chia lại cho Thảo, Nguyễn
Văn Thọ (Thọ “đại úy”)… [75: 170]
162. Các miếng “đồng vị” được làm từ một lá bài cỡ nhỏ (bài tây 54 lá) cắt
thành 4 hình tròn. [75: 170]
163. Các con bạc chọn ô (chẵn hoặc lẻ) trên chiếu bạc để đặt tiền (nếu đặt
tiền với số lượng lớn thì đổi ra phỉnh). [75: 171]
164. Mỗi ngày chúng được Ba Mạnh, Sáu Nhà trả công từ 80.000 (tám mươi
nghìn) đến 120.000 (một trăm hai mươi nghìn) đồng. [75: 173]
165. Do Chánh mê đánh bạc và tự tiện cho con bạc vay mượn làm thâm hụt
tiền quỹ nên Hà cho Chánh nghỉ việc, giao Hòa và thị Phượng (Hòa và
Phượng đều là em ruột của Thảo “ma”) thay nhiệm vụ của Chánh. [173]
166. Khoảng cuối tháng 1-2001 (hạ tuần tháng Chạp năm Canh Thìn),
Nguyễn Văn Nhã bàn với Năm Cam và Nguyễn Thành Thảo tiếp tục mở
sòng bạc xóc đĩa tại quận 9. [75: 175]
167. Tổng số tiền lời làm cái hàng ngày được chia làm mười phần (gọi là tiền
“đầu mười”) … [75: 178]
168. Khỏang mùng 10 tết Canh Thìn (tức khoảng tháng 2-2001) Năm Cam đi
Mỹ, Nguyễn Văn Nhã và Nguyễn Thành Thảo tiếp tục mở sòng bạc tại nhà
Liên… [75: 178]
169. Tham gia góp vốn có Triệu Tô Hà, Tạ Đắc Lung, Trương Mạnh Long
(Long “giấy”). [75: 179]
170. Tiền lời làm cái (đầu mười) được chia làm 10 phần: … [75: 182]
171. …Hùng đã giới thiệu địa điểm quán cà phê của Nguyễn Văn Nghĩa
(quán 12 kinh doanh cà phê có chiếu bóng đá thu qua vệ tinh) số nhà 1102
đường Tự Lập phường 4, Tân Bình. [75: 182]
172. Bộ phận phục vụ sòng bạc gồm có các tên: Trần Thị Anh Anh (thủ quỹ),
Nguyễn Hoàng Khương (lắc cái), Nguyễn Thị Kim Phượng, Nguyễn Thị
Kim Hòa (giữ phỉnh đổi tiền trong sòng bạc), Vũ Thế Khải, Bùi Viết Hùng
(giám sát), Tăng Văn Sên, Mã Chung Phát, Đào Thế Minh, Trịnh Chảy
(hồ lỳ), Đặng Thị Bé, Nguyễn Thanh Tuấn (phục vụ ăn uống), Nguyễn
Minh Tiến, Bùi Thanh Tuấn, Nguyễn Thành Hiệp (cảnh giới bảo vệ).
[75: 183]
173. Tổng số phần hùn làm cái hàng ngày khoảng 1,3 tỷ (một tỷ ba trăm triệu)
đồng. [184]
174. …phần còn lại chia làm 4 phần: Quốc và Năm Cam mỗi người một phần
(Năm Cam chia lại phần của mình cho Nhã một phần, Thọ một phần, Năm
Cam 2 phần);… [75: 184]
175. Tiền lời làm cái (đầu mười) được chia làm mười phần: Năm Cam 1 phần,
Quốc 1 phần. [75: 185]
176. Còn lại 8/10 (tám đầu mười) đem chia tiếp ra làm 10 phần:… [75: 185]
177. Mặt khác Nhã cũng lấy tiền từ sòng bạc mỗi ngày 3.900.000 đồng giao
cho Nguyễn Văn Thọ và Cô Đệ chi phí bảo vệ và “ngọai giao” với một số
cán bộ công an phường 1, quận 8 và cảnh sát hình sự quận 8 (trong đó
3.600.000 đồng dùng để hối lộ, 300.000 đồng trả công bảo vệ canh gác
vòng ngoài sòng bạc). [75: 186]
178. Sau khi sòng bạc bị bắt giữ, Anh Anh trở lại nhà Quốc mở két sắt lấy đi
toàn bộ số tiền của sòng bạc (khoảng 800.000 đồng) rồi bỏ trốn, và trốn
khỏi nơi giam của Nguyễn Khánh Quốc. [75: 187]
179. Trong khi đang chấp hành án phạt tù tại trại Phi Liệt (nay là trại Xuân
Nguyên), Nguyễn Khánh Quốc cùng đồng bọn đánh bạc xóc đĩa, bị bắt quả
tang ngày 20-11986 (việc đánh bạc do Quốc rủ rê các phạm nhân khác
tham gia và chính Quốc là người chuẩn bị dụng cụ như bát, đĩa và cắt lá
bài tổ tôm là đồng vị…). [75: 187]
180. Đánh bạc bằng hình thức chơi bài xập xám là sử dụng bộ bài Tây 52 lá
chia ra bốn tụ, mỗi tụ 13 lá (tiếng Quảng Đông – Trung Quốc số 13 là xập
xám),… [75: 188]
181. …người ngồi ngoài có thể ké (góp vốn vào mỗi tụ), các con bạc ăn thua
với nhau. [75: 188]
182. Khoảng tháng 6-2000, tên VươngTử (tự Xây – việt kiều Canada, anh vợ
trước của Triệu Tô Hà) cho Triệu Tô Hà biết:… [75: 188]
183. Đồng thời Xây dẫn thêm hai người bạn nữa (không rõ tên tuổi, địa chỉ)
cùng đến tham gia đánh bạc. [75: 190]
184. Nhà này do tên Xây thuê làm nơi ở và tổ chức sòng bạc (Xây nhờ
Nguyễn Công Hán, ngụ tại 46/12A Âu Cơ phường 9 Tân Bình đứng tên
hợp đồng thuê nhà). [75: 191]
185. Vương Tử đưa hai người Hoa (không rõ tên tuổi, địa chỉ) đến đánh bạc.
[75: 192]
186. Huy đồng ý và Năm Cam giao cho Nguyễn Thành Thảo và Bé Ba (Võ
Thị Kim Hương) và Nguyễn Hữu Đức trực tiếp ghi sổ và thu tiền xâu.
[75: 192]
187. Sòng bạc hoạt động sang ngày thứ hai (9-10-2001) thì sòng bạc xóc đĩa
tại 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 bị bắt, … [75: 193]
188. Trong thời gian quen biết, Năm Cam thường xuyên mời anh Ba Tung
(tức Phan Thanh, trưởng phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố Hồ
Chí Minh) và Dương Minh Ngọc đi ăn nhậu. [75: 193]
189. Lúc này, Năm Cam đã đi cải tạo về (tháng 10-1987) tiếp tục chủ động
tìm gặp Dương Minh Ngọc để củng cố mối quan hệ đã có từ trước.
[75: 194]
190. Đến khoảng giữa năm 1998, mối quan hệ giữa các tên Năm Cam,
Nguyễn Thành Thảo (Thảo “ma”), Dương Ngọc Hiệp (Hiệp “phò mã”)
và Dương Minh Ngọc trở nên thân thiết. [194]
191. Khi sòng bạc hoạt động Ngọc biết nên đã giao nhiệm vụ cho Võ Văn
Tâm (Đội trưởng Đội chống tệ nạn xã hội Phòng Cảnh sát hình sự) lên
phương án bắt. [75: 194]
192. Lần 1 nhận 5 triệu đồng tại tầng 10 nhà hàng khách sạn trên đường Hàm
Nghi, lần 2 nhận 5 triệu đồng tại quán trên đường Cách Mạng Tháng Tám
(không nhớ rõ địa chỉ). [75: 195]
193. …Dương Minh Ngọc đã cố ý làm ngơ, bao che cho Năm Cam mở sòng
bạc ở quận 8, được Năm Cam cho 10 triệu đồng, trả tiền ăn nhậu (lợi ích
vật chất khác) 6 triệu đồng, tổng cộng là 16 triệu đồng. [75: 195]
194. Tại nhà hàng Cánh Buồm (số 127 Pasteur, phường 6, quận 3, thành phố
Hồ Chí Minh), Năm Cam cho Minh Ngọc hùn vốn 100 triệu đồng, …
[75: 196]
195. Tại nhà hàng Ra Khơi (số 5 công trường Mê Linh, phường Bến Nghé,
quận 1, thành phố Hồ Chí Minh), Năm Cam cho Ngọc hùn 100 triệu đồng.
[75: 196]
196. Tại nhà hàng Thanh Vy (số 146, Nguyễn Văn Trỗi, phường 8, Phú
Nhuận), Năm Cam cho Minh Ngọc hùn 7000 USD (tương đương 100 triệu
đồng). [75: 197]
197. Minh Ngọc đồng ý và điện thoại gặp ông Hoàng Mai (Trưởng phòng
Cảnh sát hình sự Công an Đồng Nai) trao đổi về việc đối tượng Tạ Đắc
Lung ra đầu thú. [75: 198]
198. …Minh Ngọc đưa lá thư này cho Thảo, Thảo đưa cho Lý “Đôi” mang
lên Đồng Nai đưa cho một cán bộ không rõ tên nhờ chuyển cho ông Mai,
nhưng Dương Minh Ngọc khai đưa thư cho một cán bộ Phòng PC 14 Công
an thành phố Hồ Chí Minh (không nhớ tên) chuyển cho ông Mai. [75: 198]
199. …Năm Cam khai đã khấu trừ 4 tuần tiền xâu của Lý “Đôi” ở sòng bạc
quận 8 (nơi Lý “Đôi” góp vốn cùng Năm Cam mở sòng bài) khoảng 14
triệu đồng. [75: 199]
200. Ngày 24-9-1992, Sau ba tháng Ngọc mới chỉ đạo cho Trương Công Hớn
(Đội phó săn bắt cướp) soạn thảo công văn gửi cho PC14 Hải Phòng đề
nghị xác minh lai lịch tên Quốc… [75: 200]
201. Theo lời khai của Trần Văn Thuyết và Năm Cam, Thuyết dẫn Năm Cam
đến nhà ông Cao Huy Phước (cán bộ về hưu) ở 111 Hàng Bông, Hoàn
Kiếm, Hà Nội. [75: 202]
202. Năm Cam đã mua vé máy bay ra Hà Nội nhờ Thắng “Tài Dậu” dẫn đến
nhà Trần Văn Thuyết ở số 91 Nguyễn Thái Học, Hà Nội để nhờ Thuyết lo
chạy giúp (vì biết Thuyết có quen nhiều cán bộ ở các cơ quan pháp luật,
các cơ quan báo chí ở trung ương). [75: 202]
203. …đồng thời gia đình phải viết đơn (kêu oan) cho Năm Cam, do Trúc
đứng tên… [75: 205]
204. …Hiệp “phò mã” và gia đình sử dụng số tiền một tỉ đồng trước đây đã
thế chấp căn nhà 191, Lý Tự Trọng, phường Bến Thành, quận 1, thành phố
Hồ Chí Minh, cho Ngân hàng Sài Gòn công thương – chi nhánh Thái Bình
(số tiền này trước khi Năm Cam bị bắt tập trung cải tạo đã chuẩn bị trả, vì
vậy, đã gia hạn từ sau khi Năm Cam bị bắt tập trung cải tạo năm 1995,
đến tháng 2-1998 đã trả xong). [75: 206]
205. Năm 1985, Năm Cam và gia đình (Phan Thị Trúc và Hiệp “phò mã”) có
nhờ Thuyết lo “chạy tội” cho Năm Cam. [75: 206]
206. Trong thời gian này ông quen biết Trần Văn Thuyết (trước khi đó ông
Hạnh không quen biết Thuyết) [75: 208]
207. Thực tế, ông Trần Mai Hạnh với danh nghĩa là tổng biên tập báo Nhà báo
và Công luận đã cho đăng 2 bài báo theo yêu cầu của Thuyết (bài “Về đơn
khiếu nại của bà Phan Thị Trúc” và bài “Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
kiến nghị về trường hợp tập trung cải tạo đối với Năm Cam”). [75: 210]
208. Thuyết chuẩn bị 1 phong bì bên trong bỏ 1000USD (loại 100USD).
[75: 213]
209. …Ông Nguyễn Hữu Ngọc (cán bộ Cục Canh sát hình sự) thu giữ, sử
dụng điện thoại di động của gia đình Năm Cam gây thiệt hại gần 20 triệu
dồng. [75: 212]
210. Do đó, ông Hạnh đã lấy chiếc Omega của Thuyết (trị giá 2500 USD),…
[75: 213]
211. Hôm đó ông Hạnh đến nhà Thuyết ăn cơm trưa, khi ăn xong ông Hạnh ra
về, Hiệp chạy theo bỏ phong bì có 1000 USD vào túi áo vét của ông Hạnh
(Thuyết khai thời điểm này là sau khi ông Hạnh cho đăng báo kêu oan cho
Năm Cam). [75: 213]
212. …Thuyết đặt vấn đề lắp cho ông Hạnh một dàn máy nghe nhạc nhưng
đến năm 1999 thì Thuyết mới lắp (dàn máy gồm 1 tivi 21 inch, 1 đầu
video, 1 âmly, 2 loa thùng, loại hàng của Nhật),… [75: 214]
213. Việc đưa, nhận hối lộ này lại phù hợp với những việc làm mà ông Hạnh
đã làm cho Thuyết và Hiệp – làm theo yêu cầu của người đưa hối lộ (ông
Hạnh cho đăng 2 bài báo trên và có 2 công văn hỏi Viện kiểm sát nhân
dân Tối cao về việc của Năm Cam), do đó có căn cứ xác định. [75: 215]
214. Năm 1996, bị can Dương Ngọc Hiệp lấy chiếc đồng hồ Rolex của Năm
Cam sử dụng (do người bạn của Năm Cam cho)… [75: 215]
215. …ông Hạnh lấy chiếc đồng hồ Omega (trị giá 2.500 USD) của Thuyết để
sử dụng, còn chiếc đồng hồ Rolex thì Thuyết sử dụng (việc này cả bị can
Trần Văn Thuyết và Dương Ngọc Hiệp đều biết và khai nhận hoàn toàn
khớp với nhau). [75: 216]
216. Hiện nay ông Hạnh đã trả Thuyết 40 triệu đồng, còn thiếu 100 triệu
(nguồn tiền nàyThuyết khai là của Dương Ngọc Hiệp). [75: 216]
217. …bị can Dương Ngọc Hiệp khai trong 2 năm 1995 và 1996, Hiệp đưa
cho ông Hạnh 2 lần tiền tại nhà riêng của Thuyết (91, Nguyễn Thái Học,
Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội),… [75: 216]
218. …ông Hạnh chỉ nhận 2 bộ vest mới và quần áo sơ mi, một số bộ đầm cho
vợ ông Hạnh (ông Hạnh không biết giá trị Thuyết mua là bao nhiêu).
[75: 217]
219. Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an yêu cầu ông Hạnh trình bày về
việc ai là người thu thập nội dung công văn trên, ai là người ở Viện Kiểm
sát nhân dân Tối cao cung cấp công văn số 1333 thì ông Hạnh không trả
lời được và xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc này (vì công văn của
Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao trả lời ông Hạnh không nêu cụ thể nội
dung văn bản số 1333, trong khi đó bài báo lại nêu rất chi tiết văn bản
này). [75: 219]
220. Một tấm ảnh khác chụp có bà Phạm Thị Chức (vợ ông Chiến), ông Phạm
Sỹ Chiến, anh Vũ Văn Mão (lái xe cho Thuyết), vợ chồng anh Thành
(giám đốc khách sạn Mai Anh). [75: 220]
221. Ngày 19-8-1996, ông Phạm Sỹ Chiến đã ký văn bản số 1333/KSĐT –
TA để kiến nghị ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ hủy bỏ quyết định tập trung cải
tạo số 73 ngày 20-5-1995 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
đối với việc tập trung cải tạo Năm Cam (cần lưu ý là văn bản số 1333
đóng dấu “mật” và chỉ sao gửi cho Văn phòng Quốc Hội, Văn phòng Chủ
tịch nước và Văn phòng chính phủ. Hiện nay chưa làm rõ được vì sao ông
Hạnh lại có văn bản này để đăng báo). [75: 226]
222. Ngày 26-12-1996, Bộ Nội vụ có văn bản số 1117 gửi Viện trưởng Viện
Kiểm sát nhân dân Tối cao phúc đáp kiến nghị số 1333 với nội dung khẳng
định: Năm Cam là một đối tượng rất nguy hiểm đến an ninh trật tự, bắt tập
trung cải tạo đúng tiêu chuẩn, đúng đối tượng; không có căn cứ để hủy bỏ
quyết định tập trung cải tạo một tên trùm lưu manh là Năm Cam, làm ngơ
trước các tài liệu quan trọng do Thủ tướng chỉ đạo và nhiều công văn và
tài liệu của Cơ quan chức năng trao đổi (phải chăng, tất cả những cái đó
không đáng tin cậy bằng “lời kêu cứu” của vợ con tên trùm lưu manh hay
sao). [75: 227]
223. Tại buổi làm việc ngày 26-6-2002, do Ủy ban Kiểm tra Trung ương tổ
chức (có lãnh đạo Cơ quan Cảnh sát điều tra và điều tra viên cùng tham
dự), ông Chiến đã thừa nhận: Đến nay thấy tài liệu (1995) để tập trung cải
tạo đối với Trương Văn Cam là quá đủ (có khi còn thừa)… [227]
224. Ngoài ra, ngày 30 Tết nguyên đán 1996, vợ chồng ông Chiến đến nhà
Thuyết (91, Nguyễn Thái Học) ăn tất niên… [275: 28]
225. Bà Phạm Thị Chức khai: Việc nhờ Thuyết mua dàn máy nghe nhạc là do
Phạm Thị Hòa (con gái bà Chức đang du học tại Anh) đặt vấn đề với
Thuyết. [75: 230]
226. Sau khi Thuyết đem dàn máy đến lắp ráp cho gia đình thì bà Chức trả
cho Thuyết khoảng 6-7 triệu đồng (bà Chức không nhớ cụ thể là bao
nhiêu) [75: 230]
227. Khi cơ quan Điều tra Bộ công an hỏi “dàn máy hiện nay để ở đâu” thì bà
Chức khai “mất hết, chỉ còn lại 1 chiếc tivi 21 inch” do chuyển nhà; lúc thì
khai “hiện vẫn còn đầy đủ dàn máy trên, để ở nhà” (tổ 28, cụm 4, Xuân La,
Tây Hồ, Hà Nội). [75: 231]
228. Sau khi Năm Cam bị bắt (tháng 12-2001), ông Chiến đã kiểm tra, nghiên
cứu tài liệu… [75: 231]
229. … Thuyết chuẩn bị một túi quà gồm rượu, trái cây và phong bì 10 triệu
đồng tiền Việt Nam (trị giá 1000 USD). [75: 228]
230. Thuyết trực tiếp đưa túi quà trên cho bà Phạm Thị Chức để biếu ông
Chiến (ông Chiến không có nhà). [75: 228]
231. Việc này do vợ con làm, ông Chiến không biết (ông Chiến đi công tác
phía Nam). [75: 232]
232. Cho đến nay, các cơ quan chức năng có thẩm quyền của Đảng và Nhà
nước (cụ thể là Ban cán sự Đảng của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao) đã
tiến hành thẩm định lại hồ sơ tập trung cải tạo Năm Cam năm 1995…
[75: 233]
233. Ngày 14-8-1995, ông Đặng Chung viết báo cáo kết quả việc trên với lãnh
đạo Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao (bản viết tay)… [75: 235]
234. Ông Đạo nói là đơn gửi cho ông Cường (thư ký riêng của ông Đạo).
[75: 238]
235. Từ đó đến tháng 3-1997 (khi vụ án Epco xảy ra), Liên Khui Thìn đã cho
Hoàng Linh tiền rất nhiều (không nhớ số lần cụ thể) … [75: 252]
236. …cho tới khi Thìn bị bắt (đầu năm 1997), Hoàng Linh đã được Liên
Khui Thìn cho một điện thoại di động Erisson và nhiều lần cho tiền…
[75: 253]
237. Vào khoảng năm 1998, Hoàng Linh đã viết một bài báo về việc nhập
khẩu hàng hóa có lợi cho công ty XNK Nông sản, tiểu thủ công nghiệp
Vũng Tàu (SHINHANCO). [75: 255]
238. Sau khi vụ án Trung sĩ Phan Lê Sơn xảy ra, Ban chuyên án và Ban giám
đốc (ông Võ Văn Măng) đã nhiều lần chỉ đạo các đơn vị và Cơ quan điều
tra… [75: 258]
239. Trong quá trình làm giám đốc Công an thành phốHồ Chí Minh (từ tháng
4-1996 đến tháng 7-2001)…ông Bùi Quốc Huy (Năm Huy) đã thiếu chỉ
đạo, thiếu biện pháp điều tra có hiệu quả để phạm tội có tổ chức xảy ra
trong thời gian dài, gây hậu quả đặc biệt quan trọng…[75: 260]
240. Ông Năm Huy chỉ đạo thành lập chuyên án và giao cho ông Võ Văn
Măng (tự Út Măng, phó giám đốc phụ trách cảnh sát) làm trưởng ban và
một số phòng ban nghiệp vụ tham gia. [75: 262]