file 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

20
PHÚ YÊN THẬP CÀNH ĐỀ VNH Núi Đá Bia (1) Kính dâng lên anh linh Thầy Đà Giang (2) Trần SĐỉnh non Bia Đá phủ mù sương, Đừng sng (3) tng cao tri một phương. (4) Đèo cả hôm nao tràn giặc Hán, Rừng sâu (5) bui ấy trú xe Đường. (6) Ngàn thu bi tự mây mài nét, (7) Muôn thuở danh thn srọi gương. Ai kchm bia gikhuất bóng, Khiến người qua đó cảm hoài vương… Yên Lĩnh Nguyễn Đảm

Upload: dam-nguyen

Post on 21-Jan-2018

100 views

Category:

Education


2 download

TRANSCRIPT

Page 1: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

PHÚ YÊN THẬP CÀNH

ĐỀ VỊNH

Núi Đá Bia (1)

Kính dâng lên anh linh

Thầy Đà Giang (2)

Trần Sỹ

Đỉnh non Bia Đá phủ mù sương,

Đừng sững (3) tầng cao trời một phương. (4)

Đèo cả hôm nao tràn giặc Hán,

Rừng sâu (5) buổi ấy trú xe Đường. (6)

Ngàn thu bi tự mây mài nét, (7)

Muôn thuở danh thần sử rọi gương.

Ai kẻ chạm bia giờ khuất bóng,

Khiến người qua đó cảm hoài vương…

Yên Lĩnh Nguyễn Đảm

Page 2: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

Lên Núi Chóp Chài, Cảm Tác (8)

Một sáng lên thăm ngọn Chóp Chài,

Ngắm vời (9)sông biển dãi cầu dài ...

Ngại (10) vàng đồng ruộng mênh mông trải,

Nhỏ đẹp nhà thôn lác đác cài.

Lối nhựa thu đưa thiên lý khách,

Vầng mây (11)đông phủ vi ba đài.

Nơi nao dâu tháp (12)trong huyền thoại

kể chuyện tiền nhân thủa (13) mở, khai...

Yên Lĩnh Nguyễn Đảm

Page 3: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

Thăm Núi Nhạn Tháp

Đỉnh non Tháp Nhạn nắng mai tươi,

Mây trắng trời xanh, lác đác người.

Hoa điểm nhấp nhô ven mọi nẻo,

Đài xây dang dở tự bao thời.

Đền Chiêm nỗi nhớ tràn muôn thuở,

Tượng Phật niềm tin tỏa khắp nơi!

Chóp tháp mấy chòm mai (14)biệt dạng,

Chạnh lòng, hoài cảm dễ hồ vơi...

Yên Lĩnh Nguyễn Đảm

Page 4: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

ChiềuTrên Đỉnh

GÀNH ĐÁ DIÃ

Sóng nước bao năm cuộc biển dâu,(15)

Xói mòn sa thạch hiện kỳ khâu.(16)

Trụ rêu gió ngập, bao chìm nổi;

Dĩa đá sương in, lắm dãi dầu.

Yến tiệc địa tiên (17)lưu "Đá Dĩa",

Xứ thôn ngư phủ gọi "Tiên Châu".(18)

Đỉnh cao mây ngắm bâng khuâng nghĩ:

Lại một kỳ quan chốn địa đầu!

Yên Lĩnh Nguyển Đảm

Page 5: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

Hòn Yến Đầu Xuân

Tuyệt ngạn (19)vút cao đá dựng xây,

Mênh mông trời biển với ngàn mây.

Cù Lao đất lở màu hồng ửng,

Hòn Yến rêu phong sóng bạc vây.

Vàng rực nắng mai hoà nước biếc,

Tưng bừng gió sớm ngập ghe đầy.

Đầu xuân ngắm cảnh lòng mơ ước:

Hoá cánh chim trời viếng đó đây...

Yên Lĩnh Nguyễn Đảm

Page 6: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

Gành Bà(20

Một Buổi Lãng Du

(Cùng lớp chuyên Toán Trường Nguyễn Huệ 82 - 85)

Muôn đá nhấp nhô chốn biển, gành;

Đá xây sừng sững tựa tường thành.

Cát vàng mịn trải ven thềm vắng,

Sóng bạc vui reo với nước thanh.

Nắng rải trời cao màu ảo hoá,

Gió đưa khơi thẳm vị an lành.

Cảnh phong hùng vĩ mây liền núi,

Trời biển hoà đồng một sắc xanh...

Yên Lĩnh Nguyển Đảm

Page 7: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

Viếng Đập Đồng Cam, Cảm Vịnh

(Nhân một chuyến viễn du của toàn trường Nguyễn Huệ)

Đá loạn đầy sông, cây điểm xanh,

Nước cao thác đổ cuộn cuồng nhanh.

Thẳng băng vách đập vương mây tuyết,

Dốc ngược sườn non ngập lá cành.

Bản nhạc sơn tuyền nơi Tượng Huyện,

Bức tranh nguyệt tuyết chốn Hoa Anh.

Xóm làng đồng ruộng nhờ nơi đập

Phú thịnh phì nhiêu, thật vẹn danh!

Yên Lĩnh Nguyễn Đảm

Page 8: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

Đến Hồ Thủy Điện Sông Hinh

Ngút xa lam biếc núi xây viền,

Núi chạy vòng cung, đập tiếp liền…

Bát ngát tiềm long(21)hồ bán nguyệt,

Yên bằng ẩn kiệt nước thanh thiên.

Thuyền nâu một lá lênh đênh nổi,

Cò trắng vài đôi lờ lững nghiêng.

Mây nước quạnh hiu nơi tụ tích,

Thế năng (22)thủy lượng chốn lâm tuyền...

Yên Lĩnh Nguyễn Đảm

Page 9: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

Vịnh Chùa Bửu Lâm

Bửu Lâm Tự, một sáng thăm chùa,

Phật tượng mây vương chuông vọng khua.

Mấy vị tăng nhân lo tưới xới,

Muôn loài dị thảo nở chen đua.

Nhiều tầng thiền cảnh, chân dồn bước,

Một cõi u lâm, rễ ngập tua.

Cạnh Học Viện hoằng dương Đạo Pháp,

Suối trong dẫn tưới khắp, ba mùa...

Yên Lĩnh Nguyễn Đảm

Page 10: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

Trường Nguyễn Huệ

Thân tặng nguyên học sinh

trường Nguyễn Huệ Tuy Hoà

Nguyễn Huệ học đường tự khởi lai,

Rồng mây (23)cửa Võ (24)lắm danh tài.

Kinh luân thao lược đâu chùn bước,

Khoa học văn chương há nhượng ai.

Tâm mỹ vẫn luôn gìn chẳng đổi,

Tình thâm hằng mãi nhớ không phai.

Ngôi trường, điểm tựa trong tâm cảm;

Của vạn môn sinh chốn vũ đài!

Yên Lĩnh Nguyễn Đảm

Page 11: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

CHÚ THÍCH (1) Bài "Núi Đá Bia" phỏng hầu hết theo ý bài thơ của cụ Phan Thanh Giản,

qua bản dịch của Việt Ngâm trong báo Tiếng Dân; Trần Sĩ và Nguyễn Đình Cầm

sao chép lại trong "Địa dư Phú Yên" (1937; thấy nhiều bài biên khảo ghi 1938.

Người viết có bản photocopie lần in đầu 1937 theo sách lưu trữ ở Thư viện

Trung ương với ký số M.11068):

Mảnh đá đầu non dừng,

Tầng cao ngất một phương.

Chia bờ nêu cột Hán,

Đuổi giặc trú xe Đường.

Chữ triện mây lu nét,

Công thần sử dọi gương.

Chạm bia người xa vắng,

Hành khách chệnh lòng thương.

(2) Đà Giang là tên chữ (tự danh) của Thầy Trần Sĩ. Có hai cách đặt tên

chữ:

Một là dùng chữ có liên quan đến tên thật. Cụ Bùi Kỷ tự là Ưu Thiên vì

nước Kỷ (một tiểu quốc ở Trung Hoa thời cổ) có người lúc nào cũng ngay ngáy

lo trời (ưu thiên) sập! Tên chữ của cụ Nguyễn Văn Thành là Tiểu La, vì trong

truyện Tàu có nhân vật tên Tiểu La Thành.

Thuở nhỏ, người viết, sau khi đọc một bài nói về tự danh, đã đặt tên chữ

cho mình là Trung Can; vì trong gan (trung can) có mật, mà mật là đảm theo

tiếng Hán Việt.

Một hôm hỏi chuyện cụ thân sinh:

-Sao Thầy Trần Sĩ lúc nào cũng gọi con là Đởm?

-Tên con là Đảm với nghĩa: "gánh vác" (đảm đang). Chắc thầy con tưởng

với nghĩa "mật" (can đảm), mà với nghĩa này có thể đọc "Đởm", Việt nam Sử

Lược (Trần Trọng Kim) ghi tên vua Minh Mạng là đảm với nghĩa “mật”

Theo Đại Nam Quấc Âm Tựu Vị thì lại khác : Có một ông Hoàng nào đó tên

Đảm với nghĩa gánh vác”Do đó, để cử tên (húy danh) chữ này được đọc là Đãm

Page 12: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

hay Đởm. Cũng theo Quấc âm Tự Vị thì “mật” là đãm chứ không phải là đảm

(không thấy ghi là để kiên cữ gì(Để cữ tên vua Minh Mạng).

Vì không hợp nghĩa và cũng vì trùng với tên tiền nhân nên ông cụ không

cho dùng tên tự ấy.

Hai là dùng một địa danh có liên quan "đối nhân" (en personne, mượn chữ

trong ngành luật) nào đó. Đông Hồ là một cảnh đẹp ở Hà Tiên. Thi sĩ Lâm Tấn

Phát rất ái mộ thắng cảnh này nên lấy Đông Hồ làm tên chữ. Sông Đà Rằng là

nguồn tự hào của dân Phú Yên nên Đà Giang trở thành tên tự của Thầy Trần Sĩ.

Tên tự thường đặt trước tên thật, trong trường hợp cần tỏ vẻ trang trọng:

Ưu Thiên Bùi Kỷ, Lệ Thần Trần Trọng Kim, Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố...

Tên tự có thể được lấy làm bút hiệu, nhưng bút hiệu không phải là tên chữ,

không thể đặt trước tên thật, nếu không thoả một trong hai điều kiện nói trên.

Giới trẻ, kể từ thời Tự Lực Văn Đoàn, coi "cái kiểu cách Á Nam Trần Tuấn

Khải" đó nặng nề thiếu tính chất trẻ trung nên bỏ không dùng đến.

Ai cũng có thể có tên chữ mà không cần phải viết lách gì chút ít. Trong lý

lịch cá nhân thường thấy:

Họ và tên:.................

Tên tự:......................

(3) "Đừng sững" là phương ngữ Phú Yên, hiện hầu như bị quên lãng. Ngoài

nghĩa sừng sững nó còn bao hàm ý trường tồn, khó suy sụp đổ ngã.

"Trên chóp núi Đá Bia thuộc dãy Đèo Cả có một hòn đá to lớn đứng đừng

sững như một tấm bia dựng".

(Trần Sĩ, Địa dư Phú Yên, trang 37)

Trong "Đại Nam Quấc (13)

Âm Tự Vị" 1895 và tự điển Việt Nam của Hội Khai

Trí Tiến Đức 1931 không có từ "Đừng sững".

(4) Về câu thừa này (trong thơ Đường câu 1 gọi là phá; câu 2: thừa, câu 3

và 4: thực; câu 5 và 6: luận; câu 7 và 8: kết) lúc đầu:

"Đừng sững lưng trời vọng đại dương".

Chữ "vọng" có thể gây liên tưởng đến câu:

"Bất bạo động, bạo động tắc tử; bất ngoại vọng, ngoại vọng tắc nguy".

(Phan Chu Trinh)

Page 13: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

hoặc liên tưởng đến "hòn Vọng Phu"

Có 4 hòn Vọng Phu:

- Hòn Vọng Phu ở toạ độ 12041'40" vĩ độ bắc, 160

036'03'' kinh độ đông; khi

thuộc Darlac, khi thuộc Khánh Hoà.

- Hòn Vọng Phu ở Phù Cát, Bình Định.

- Hòn Vọng Phu ở Thanh Hoá.

- Hòn Vọng Phu ở Kỳ Lừa, Lạng Sơn.

(Tàu cũng có Vọng Phu, ở miền Bắc núi Vũ Xương).

Thiếu phụ trong ba Vọng Phu đầu đều chẳng hề biết chồng mình là em

(Vọng Phu I) hay anh ruột! Người chồng cũng mãi sau mới hay và lặng lẽ bỏ đi

biệt!

Nàng Vọng Phu Lạng Sơn là vợ lính, làm đề tài cho ba bản nhạc thời danh

của nhạc sĩ Lê Thương và bài "Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa" trong trường ca"Con

Đường Cái Quan" của nhạc sĩ Phạm Duy.

Vậy nên mới sửa lại:

"Đừng sững lưng trời một cõi phương"

"Cõi" và "phương" trùng ý. Nhưng:

- Hình như "cõi phương" vừa có vị trí bất định, vừa có biên giới mơ hồ hơn

"cõi" hơn "phương" (?).

- Có thể là: "hai danh từ cùng nghĩa ghép lại sẽ tạo thêm tính bất định mơ

hồ cho ý nghĩa nguyên thuỷ của từng danh từ"(?).

Phan Long Côn và Minh Hào đề nghị dùng "thiên nhất phương", trời một

cõi.

Thật là hợp với điều tôi nghĩ và muốn viết về núi Đá Bia:

"Đừng sững tầng cao trời một phương"

"Thiên nhất phương" là chữ Tô Đông Pha dùng trong bài "Tiền Xích Bích

phú" lừng danh:

"Diễu diễu hề dư hoài,

Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương"

(Nhớ ai canh cánh bên lòng,

Page 14: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

Nhớ người quân tử ngóng trông bên trời).

(Nguyễn Hiến Lê, Đại cương Văn học Sử Trung Quốc,

quyển III)

Tô Thức lại dùng chữ của Khuất Nguyên (cả hai, sống cách nhau 15 thế kỷ,

đều từng bị thất sủng và trong lưu đày vẫn luôn tưởng nhớ đến nhà vua):

"Vọng mỹ nhân hề vị lai".

(Cửu Ca, câu 180,

bài Thiếu Tư Mệnh)

"Trông người đẹp a chửa đến".

(Sở Từ, NXB Văn học)

"Người đẹp" ám chỉ nhà vua. Nên chi nếu dùng "trời một phương" (thiên

nhất phương) trong bài thơ "Núi Đá Bia" thì gợi đến ý "vọng mỹ nhân" tức "vọng

vua Lê Hồng Đức", người đã sai khắc bia trên núi.

(5) Nếu thay thế "Đèo cả" bằng "Xâm lược" (kết hợp của hai động từ) và

"Rừng sâu" bởi "Quân tranh" thì câu thơ nói lên được nhiều ý hơn.

"Xâm lược hôm nao tràn giặc Hán

Quân tranh buổi ấy trú xe Đường".

Trong "Quân tranh" (chữ lấy trong Binh pháp của Tôn Võ Tử, thiên 7) "quân"

là danh từ ( quân đội), cũng có thể là động từ (đóng quân lại) nên thiết tưởng

"quân tranh" có thể đối với "xâm lược" được (?).

(6) Có lẽ nói đến chiến dịch năm 808, quan Đô hộ Trương Châu đánh sâu

vào lãnh địa nước Hoàn Vương (một tên cũ, theo sử liệu Trung Hoa, của Chiêm

Thành).

(7) Sau khi thống nhất miền Bắc Trung Quốc, Tần Thuỷ Hoàng sai Đồ Thư

thôn tính Phương Nam, chia làm ba quận: Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận.

Theo sử xưa, địa bàn Tượng Quận là nước Au Lạc (Văn Lang + nước Thục).

Theo những nghiên cứu về sau thì Tượng Quận cũng như Nam Hải, Quế Lâm

đều nằm trong lãnh thổ Trung Quốc ngày nay, Đồ Thư chưa hề vượt biên giới

Việt - Trung để thôn tính Au Lạc.

Rồi Triệu Đà xâm chiếm nước Au Lạc, sát nhập vào quận Nam Hải để thành

lập nước Nam Việt. Nhà Tây Hán sai Lộ Bác Đức xuống lấy Nam Việt, đổi thành

Giao Chỉ Bộ gồm chín quận trong đó có Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (thuộc

lãnh thổ Au Lạc xưa). Hai bà Trưng khởi nghĩa giành độc lập (cho cả các quận

Page 15: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

bên Tàu). Mã Viện theo lệnh nhà Đông Hán sang tái chiếm; tràn quân khắp Giao

Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam; vượt biên giới sang cả nước Tây Đồ kế cận phương

nam, nhưng không chiếm đóng xứ này; dựng cột đồng làm mốc biên giới; để lại

một đơn vị nhỏ canh giữ đồng trụ.

Theo Lê Quí Đôn trong Vân Đài Loại Ngữ thì có sách nói Mã Viện trồng tới

hai Đồng trụ; có sách nói 3, lại có sách nói đến 5 Đồng trụ.

Khoảng ba trăm năm sau, trong "Tấn Thư" (sử nhà Tấn) thấy ghi: trong

huyện Tượng Lâm ở cực nam quận Nhựt Nam có bốn động mà dân chúng ở đó

xưng là dòng dõi nhà Hán. Hẳn đó là hậu duệ của đơn vị được lưu lại canh gác.

Vào năm 137, cuối đời Đông Hán, có người ở huyện Tượng Lâm tên là Khu

Liên giết Huyện Lệnh đi, tự xưng làm vua nước Lâm Ap (Từ đó không thấy sử nói

đến nước Tây Đồ nữa, chắc bị Lâm Ap thôn tính).

Năm 1471, sau khi hạ thành Trà Bàn (ở Bình Định) vua Lê Thánh Tôn chia

đất Chiêm Thành (tên mới của Lâm Ấp) ra ba nước: Chiêm Thành (từ Thạch Bi

Sơn trở về Nam), Nam Bàn (từ núi này về Tây) và Hoa Anh (sử không ghi rõ ở

đâu).

Tương truyền vua Hồng Đức sai đục đá làm bia trên đỉnh núi cao (núi ấy sau

gọi là núi Thạch Bi) để phân ranh hai nước:

"Chiêm Thành quá thử, bình bại quốc vong;

An Nam quá thử, tướng tru binh chiết".

Chiêm Thành qua đấy, quân thua nước mất;

An Nam qua đấy, tướng chết binh tan.

Vào năm 1937 viên Tri phủ Tuy Hoà Nguyễn Văn Thơ có phái người trèo lên

đỉnh để tìm kiếm bút tích, song không thấy gì cả (B.A.V.H.1937, trang 71).

(Theo chú thích của Hưng Bình Phạm Đình Khiêm trong Văn hoá Nguyệt

San tháng 8/1959).

(8) Người viết quan niệm "nhan đề" của một bài thơ là một danh từ riêng

(tên đặt cho bài thơ ấy); do đó các mẫu tự đầu trong các chữ của nhan đề đều

phải được viết hoa.

Theo văn phạm Pháp ngữ, trong mục "nhân cách hoá" (personnification,

hiểu như một cách biến đổi danh từ chung thành danh từ riêng) thì nhan đề của

một tác phẩm là một danh từ riêng.

Nhan đề quyển sách đã vậy thì nhan đề bài thơ tưởng cũng nên vậy.

Page 16: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

Nhân tiện xin ghi thêm: Coi một "vật" (chose, thing) như một "sinh vật", dù

sinh vật ấy không phải là người, cũng được xem là nhân cách hoá. Đặt tên cho

tàu thủy, khinh khí cầu, phi cơ... xem như nhân cách hoá. Cụm từ nói về một

biến cố có thể được xem như danh từ riêng. Ví dụ: "phong trào đông du" trở

thành danh từ riêng "Phong Trào Đông Du".

(Trình bày theo Grammaire Franscaise par une réunion de professeurs).

Ở Mỹ nhan đề nào của một bài thơ, văn cũng đều được viết hoa ở mỗi mẫu

tự đầu của mỗi chữ ngoại trừ các chữ phụ như the, and... ("phong cách Mỹ" còn

một đặc điểm khác: Khi sang hàng thì để trống nguyên cả một hàng và chữ đầu

tiên tiếp theo không viết lùi vào trong).

(9) Vời: (trạng từ) có nghĩa là xa.

Ngắm vời: ngắm vọng về xa

"Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe"

(Chinh phụ ngâm)

(10) Về động từ, "ngại" có nghĩa "hơi e sợ".

Về hình dung từ, "ngại" là một phương ngữ Phú Yên, hiện ít được sử dụng,

có nghĩa "xanh – lục – hơi – ẩn – vàng".

Trong thang màu Newton (Echelle de teintes de Newton) ngại ứng với le

vert plus clair, có độ dài sóng 0,54.

(G.Bruhat, Optique, Masson et Cie, Paris 1959, Page 128)

(11) "Chóp Chài đội mũ

Mây phủ Đá Bia

Ếch nhái kêu lia

Trời mưa như đổ"

(phương ngôn Phú Yên)

(12) Tương truyền người Việt "xây" tháp trên Chóp Chài để sánh thi với tháp

Nhạn do người Chàm nhận thách xây cùng lúc. Thi nhau về thời gian xây và thời

gian đốt cháy mau!

(13) Ngày xưa, thay vì nói "thuở", các cụ nói "thuả". Thân phụ tôi (sinh 1900)

lúc sinh tiền vẫn còn phát âm và viết như vậy.

Trong "Chinh phụ ngâm", bản của cụ Vân Bình Tôn Thất Lương, thấy:

Page 17: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

"Thủa trời đất nổi cơn gió bụi"

Có lẽ địa bàn của âm "thủa" bắt đầu từ Đèo Ngang trở vào.

Nhân tiện ghi thêm: chữ "quốc" xưa viết là "quấc" ("Đại Nam Quấc Am Tự

vị" của Huình Tịnh Paulus Của, 1895).

(14) Một variété của Ochna integerrima (Lour.) Merr. Khác với các thứ mai

thường gặp ở chỗ đầu lá không nhọn mà tròn. Cánh hoa vàng nở vào hè.

Một chiều năm nào, mấy cô cậu học trường Nguyễn Huệ dạo chơi đầu núi.

Một cạu ngẫu hứng leo lên tháp. Mỗi bước chân nhấc lên, một đám mảnh gạch

vụn nát rơi lả tả... Các bạn sợ hãi hối thúc quay xuống. Càng gọi xuống càng lên

mau! Đến tận đỉnh, cạnh mấy gốc mai hè. Nhìn quanh, hoảng sợ: "Bay đem dùm

xe về và nói với mẹ tao là tao chết rồi nghen!".

Nhân tiện lại chú thích thêm:

"Nghen" là tiếng tạo thành bởi sự kết hợp của hai tiếng khác nhau khi phát

âm mau:

Nghe không? = Nghe hông? (= Nghe hôn?)

= Nghe ông? (= Nghe ôn?)

= Ngheng! (= Nghen!)

Lúc nhỏ tôi quen nói như mọi người trong miền: "Dầu nhị iên đường". Đến

lúc biết chữ mới ngạc nhiên khi đọc thấy: "Dầu nhị thiên đường" trong một tờ chỉ

dẫn cách sử dụng dầu; đến giờ vẫn còn nhớ rõ cảm giác kinh ngạc đó.

Trong Lục Vân Tiên:

"Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,

Nguyệt Nga liếc thấy càng thìn nết na"

"Thìn" = "Thấy ưa nhìn", chuyển âm theo lối thúc vận (Variation phonétique);

theo chú thích trong bản Lục Vân Tiên của nhà Tân Việt.

Có lẽ nên chua: variation phonétique en ellipse et en liaison thì đầy đủ hơn.

Còn một lối rút gọn khác nghĩ cũng nên ghi lại, gọi là làm chứng tích cho

ngày mai:

-Chị chép dùm em bài…

-Thôi tội!

Page 18: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

Thôi tội = Thôi... ! Tội... !

= Thôi đi! Tội nghiệp cho thân chị quá mà em!

(15) Biển dâu: ruộng dâu hoá thành biển xanh. Xem chú thích (30).

(16) "Khâu" là gò cao.

(17) Địa Tiên là Tiên do người tu luyện trở thành.

(18) Theo truyền thuyết địa phương, xa xưa, một đêm trăng, nhiều vị tiên tụ

họp yến tiệc. Tình cờ một thanh niên trong miền bắt gặp. Thấy bị lộ, chư Tiên

liền biến mất; chỉ còn dĩa đá lưu lại đến ngày nay. Và cũng từ đó ngôi làng sở tại

mang tên Tiên Châu (thuộc xã An Ninh, Tuy An).

(19) La falaise, danh từ địa chất học, còn gọi là hải bích, huyền nhai; chỉ bờ

biển dựng đứng. Chân tuyệt ngạn bị biển xâm thực, đến một lúc cả phần trên đổ

ụp xuống, đất đá vung vãi nằm ngổn ngang. Và tuyệt ngạn có thể cứ vậy lùi dần

vào đất liền, cùng với thế dựng đứng ấy.

(20) Thuộc thôn Mỹ Quang, An Chấn. Có một gành Bà khác thuộc thôn Mỹ

Thạnh, Hoà Phong, ở hữu ngạn sông Đà Rằng.

Thử tìm hiểu: gành là gì?

a. Theo tự điển Việt Nam của Lê Văn Đức, tự điển Việt Nam của nhà sách

Khai Trí và tự điển Việt Nam của Vĩnh Lộc, Bảo Đoan, Ngọc Hạnh thì gành được

đồng hoá với ghềnh và được định nghĩa "Vũng sâu có nước xoáy".

b. Trong tự điển Việt Nam của Hội Khai Trí Tiến Đức không có chữ gành và

ghềnh cũng được định nghĩa "Vũng sâu có nước xoáy".

c. Trong tự điển Việt Pháp của Đào Văn Tập không có chữ gành còn ghềnh

thì được dịch là Chute (chute d’eau = thác nước) Cataracte (thác lớn).

Trong tự điển Việt Anh của Lê Bá Khanh và Lê Bá Kông, không có chữ

gành và ghềnh được dịch là waterfall (thác nước).

d. Trong tự điển Việt Pháp của Đào Đăng Vĩ thì ghềnh được đồng hoá với

gành và được dịch là Chute, cataracte. Nhưng ở một trang khác gành lại được

dịch Pente rocheuse (dốc đá) Escarpement (thế dốc). Thật là mâu thuẫn!

e. Theo Lê Văn Hoè (Cung oán ngâm khúc chú giải, Hà Nội 1954) thì ghềnh

là: "Chỗ bờ cao chênh vênh thành vại cách xa mặt nước".

Ta nhận thấy các định nghĩa về ghềnh nêu trên không phù hợp nhau

và cũng chẳng phù hợp với khái niệm "gành" ở Phú Yên (bao hàm trong

những địa danh: Gành Bà Mỹ Quang, Gành Bà Mỹ Thạnh, Gành Ông Mỹ Quang,

Page 19: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

Gành Đỏ Sông Cầu, Gành Đá Phú Lộc, Gành Đá Dĩa Tiên Châu).

g. Theo Đại Nam Quấc (13)

Âm Tự Vị 1895 thì gành là "chỗ đất đá gio gie

bên mé biển". Còn ghềnh được giải nghĩa: "Tấm vòng, không sát, đáy còn có

chỗ hổng lên; đầu cao đầu thấp; kình chống".

Có lẽ gành ở Phú Yên giống như gành của Huỳnh Tịnh Của, nhưng cần mở

rộng: gành là "chỗ đất đá gio gie bên mé biển, mé sông".

(Gành Đá Phú Lộc xưa đứng bên mé sông Đà Rằng, còn giờ thì ở giữa

đồng ruộng).

Do đó gành theo phương ngữ Phú Yên ứng với cap (mũi đất) trong danh từ

địa lý học của Pháp (Albert Demangeon, Géographie) với cape (The Cape of

Good Hope, mũi Hảo Vọng), headland, promontory trong Anh ngữ (riêng

promontory bao gồm gành biển, gành hồ; theo tự điển Oxford).

(21) Tiềm long: con rồng nằm ẩn. Người có đức tốt mà chưa làm việc đời.

(22) Thế năng, énergie potentielle, danh từ vật lý học, chỉ năng lượng tiềm

ẩn trong vật chất ở một trạng thái nào đó. Ví dụ: mọi vật để cao trên mặt đất đều

có thế năng:

E = mgh

E : Năng lượng tính theo joule.

m : khối lượng tính theo Kg.

g 9,81 km/s2, gia tốc trọng lực.

h : chiều cao từ mặt đất đến trọng tâm của vật, tính theo mét.

Thế năng bao hàm trong một phạm trù rộng lớn gọi là "Thế" (potentiel,

potential), gồm các khái niệm như:

* Thế năng

* Thế của một trường vectơ:

A = - grad V

(A: vectơ trường, hàm V gọi là thế)

* Thế của một trận chiến (Binh thế):

-Thế chiến bất quá kỳ, chính (thế đánh không ngoài kỳ và chính).

-Thế như khoắc nỏ, tiết như phát cơ (thế đánh giống như giương nỏ, thời

Page 20: File 7 a phú yên thập cảnh đề vịnh

nhịp giống như phát tên).

(Tôn Tử Binh Pháp, Binh thế thiên đệ ngũ)

(23) Rồng mây = long vân, chỉ gặp cơ hội may mắn.

"Rồng mây khi gặp hội ưa duyên,

Đem quách cả sở tồn làm sở dụng,

Trong lăng miếu ra tài lương đống,

Ngoài biên thùy vạch mũi can tương"

(Nguyễn Công Trứ)

(24) Cửa Võ do chữ Vũ môn, tên một thác vực ở thượng lưu sông Trường

Giang. Theo huyền thoại, đến mùa lụt, cá đua nhau nhảy qua, con nào nhảy khỏi

thì hoá ra rồng (ngư long biến hoá).