gia chaùnhtravinhhaingoai.com/dacsan/2007/pg0061.pdfhũ... lẩu chay sẽ mang hương vị hấp...

10
61

Upload: nguyennhi

Post on 10-Apr-2018

218 views

Category:

Documents


5 download

TRANSCRIPT

61

62

- Hình 4: Chánh điện chùa Âng, cạnh Ao Bà Om, kiến trúc kiểu thường, nóc không có tháp. - Hình 5: Cổng chùa Chệy Sô, Ngũ lạc, CN - Hình 6: Cổng chùa Giữa, Hòa Thuận, Châu Thành. - Hình 7: Cổng chùa Ô Đùng (Phnô-Đôn) - Hình 8: Tượng thần rắn (Sheshnag). - Hình 9: Cảnh ông lục đi bình bát. - Hình 10: Nữ sinh ghé cảnh gần chùa Ăng (Ao Bà Om) - Hình 11: Dảy am cốc (Tốp) để đi thiếp. - Hình 12: Đa văn hóa, Lễ Thanh Minh, tháng 3, có ông lục tụng kinh. - Hình 13: Tục múa Chằn và Khỉ vào dịp Tết Khmer (Chô chnam thmây), đi từng nhà như múa lân của Tết ta. - Hình 14: Một trong 5 nhạc khí ngụ âm (thanh tre dày treo) - Hình 15: Bộ trống của ngũ âm. - Hình 16: Một nhạc cụ ngũ âm khác, cồn đồng tí hon treo. - Hình 17 và 18: Tượng trang trí ngoài chùa và sla.

Gia Chaùnh

LẨU CHAY

Ngày xưa, ăn chay thường chỉ có ở những người theo đạo Phật, hoặc vài tôn giáo khác. Ngày nay, hình thức này đã phổ biến hơn, có rất nhiều người ở khắp nơi trên toàn thế giới đã bắt đầu chuyển sang ăn chay. Các lý do chính là để bảo vệ động vật, môi trường và sức khỏe… Trong đó gồm có cả các ngôi sao điện ảnh, nhân vật nổi tiếng như Natalie Portman, Prince, Tobei Maguire, Anne Hathaway, Alicia Silverstone,... Trong lịch sử cũng có rất nhiều nhà khoa học, chính trị gia là người ăn chay, có thể kể ra một vài cái

tên tiêu biểu như: Albert Einstein, Leonardo da Vinci, Nikola Tesla, Mahatma Gandhi... Thức ăn chính trong bữa ăn chay là những món ăn chế biến từ rau, củ, quả, sữa, đậu tương...

Với các vật liệu như cải bắc thảo, mì căn, tàu hũ... lẩu chay sẽ mang hương vị hấp dẫn. Đây sẽ là món ngon miệng với những người sợ chất béo. Vật liệu: - 200g kim châm. - Tàu hủ (nhiều hay ít tuỳ ý thích) - 2 cây mì căn ống. - 50g cà rốt tỉa hoa. - 1 bắp cải bắc thảo.( Cải làm kim chi ) - 1 nhánh hành cọng lớn ( boa rô ). - 1 gói bún tươi 500g. - 1,5 lít nước dùng chay. - Muối, đường, nước tương ngon, tiêu, dầu ăn. Thực hiện: - Kim châm cắt gốc, tách rời, rửa, vẩy ráo cắt ngắn. - Boa rô cắt gốc, lá, rửa, cắt khoanh mỏng. - Mì căn ống cắt khoanh dày 1cm. - Tàu hủ cắt khoanh dày lcm. - Cà rốt tỉa hoa rửa, trụng nước sôi, cho ra rổ xả nước nguội, xóc ráo. - Cải bắc thảo tách rời, rửa sạch, để ráo, cắt ngắn. - Nấu sôi nước + 1/2 muỗng cà-phê muối, cho bún tươi vào luộc trên lửa lớn 2-3 phút, cho ra rổ, xả nước nguội, xóc ráo, trộn đều với dầu ăn. - Bày bún và cải bắc thảo vào đĩa. - Nấu sôi nước dùng cho muối + đường + boa rô cắt khoanh vào, cắm điện nồi lẩu cho nước dùng nấu sôi, cho từ từ kim châm + đậu hũ + mì căn + cà rốt tỉa hoa + cải bắc thảo vào. Dọn lẩu chay dùng với bún, thêm xì dầu và ớt cắt khoanh. hoặc chanh tùy thích.

Ông Xả Năm

63

Hoaøi Nieäm Chiều về vịt lội Ao Vuông, Đêm Khuya dơi quạ bay về chùa Hang. Trà Vinh sáng nắng mưa chiều, Thân em vất vả mỹ-miều hơn xưa Ô- Trao bụi dứa thấm mầu Ô-Xoài, Xà-mút đỉa trâu quá chừng Sóc-Ruộng bông lúa vàng đồng, Bụi tre, bụi trúc em bồng em ru, Ngày nào em lội đập Sen Mấy con đỉa mén nó đeo bao giờ. Đập Sen Ô-Chác đêm nầy, Bao nhiêu Kỷ niệm bùn lầy em ơi! Ngày nào em tát bùn non, Mấy con cá chạch nó còn lắc lơ Ô-Tre bụi dứa vẫn còn, Đìa ao liên tục đường mòn quanh co Đường đi Kchon Tọp bùn lầy Hòa Lac, Cá Ngam xứ nầy, đẹp xinh Ngày nào câu cá lóc đồng Đầu bờ lúa chín ửng hồng hoàng hôn. Mấy cây dái ngựa tòn teng Hai bên lề lộ nó đen xần xì Đập Bà Thể, con đò nhỏ Tối về em thấp ngọn tỏ ngọn lu Đêm khuya em tưởng mưa hè Giật mình tĩnh dậy ai nhè câu đêm Cơm khuya em chấm mắm mè Mè thơm mắm mặn ai còn nhớ chăng? Bờ trơn cỏ trợt em ơi: “Vác cần câu nặng tưởng rơi xuống đồng Trời chưa sáng hẳn mờ mờ Láng Thé chợ sớm em nhờ củ khoai Ba Si gió ngược đạp về Còn năm cây số rề rề lộ êm Câu đêm không mệt sáng rồi lại mong Vầng trăng khi khuyết khi tròn Em ngồi ở lại, em chờ trăng lên.”

Trần Sinh Phấn Phụ Chú: Dơi : có 3 loại dơi ở Nam phần, sống từng bầy ở nơi âm-u và tối mới xuất hiện Dơi muổi, Dơi sen, Dơi quạ. (dơi quạ to như con quạ my). Tối bay đi hướng Dừa Đỏ Bến tre kiếm ăn trái cây, hừng sáng bay về chùa Hang, cạnh Đa Lộc. Vịt ( Le-Le) Chuyện anh Khờ đi mua vịt. Đàn vịt không người nuôi, sống nơi hoang dã hồ, sông, đi ăn

từng bầy, thập niên 50-60 thường xuất hiện ở Ao Vuông( Ao Bà Om) vắng bóng sau thập niên 70 của Thế kỷ 20. Đập : là nơi chận nước phèn của dòng sông khi nước mặn vào ruộng đồng. Cá lóc thường tập trung ở đây lâu năm và rất to, mặt đập rất nhiều lục bình và rộng cỏ. Rất khó câu được cá lóc ban ngày vì nước trong veo. Đập Bà Thể đường đi lộ ngang qua Dừa Đỏ. Đập Sen đường đi lộ ngang qua chợ Ất từ Ô Chác ( Song Lộc)

Traø Vinh Thöông Nhôù _______________________Nguyễn Chiêu Hiền.

Bao năm xa cách Trà-Vinh Bấy nhiêu thương nhớ mối tình quê hương. Trà-Vinh ơi ! các nẻo đường, Ấu thơ dẩn bước tung tăng phố phường. Quê xưa chín nhớ mười thương, Nữa vòng trái đất quê hương trong lòng. Cánh diều chao lượn bên sông, Diều soi bóng nước lớn, ròng phù sa Thủy triều con nước vô ra Nhấp nhô triền sóng đoá hoa lục bình Quê hương ơi ! đất Trà Vinh Sóc Miên làng Việt thanh bình chung vui Bình minh họp chợ tiếng cười “ Uôn si nùm chooc, bò bòn tâu na “ “Lầm Thôn” linh động thiết tha Hồi chuông xóm đạo, canh gà sóc Miên. Còn đâu cái thuở bình yên Ra đi từ độ Trà Vinh giặc về Bao năm xa vắng làng quê Nhớ ơi tình đất, tình quê, tình người. Xa quê đánh mất nụ cười Triền miên thương nhớ, ngậm ngùi héo hon Nhớ quê nhớ cả lối mòn Tri Tân về Trốt thân thương hôm nào Bót Ông Cò, Xóm Cù Lao Đường qua Thanh Lệ dừa, cao khuất Vàm. Cầu Tiệm Tương chuyến xe Lam Long Bình, Chùa Phướng xanh chùm me keo. Đường số Một, xóm Lò Heo Phú De sở rác xóm nghèo quê tôi. Trà Vinh ơi, nhắc nghẹn lời Hai quê Nội, Ngoại ngàn đời khó quên.

Nguyễn Chiêu Hiền (Thương tặng Anh Trương Dưởng & Chị Nhi

để hồi tưỡng lại quê hương mình

64

Phạm Chinh Ðông Tỉnh Vĩnh Bình, bây giờ gọi là Trà Vinh, có cả thảy 7 quận : Châu Thành, Càng Long, Cầu Kè, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Long Toàn. Long Toàn, bây giờ gọi là Duyên Hải, là quận heo hút nhất, trãi dài theo bờ biển. Kinh rạch chi chít trong những khu rừng lá dừa nước có chen lẫn cây tạp, nước mặn, muỗi độc đầy trời. Chỉ có một con lộ lớn duy nhất nối từ thị xã, ngang qua quận Cầu Ngang, băng qua một con sông lớn để vào địa phận Long Toàn. Đó là sông Long Tòan. Trước 1975, chi khu và quận đường ở phía bờ tây, cách sông Long Toàn khoảng 4 cây số. Sau 1975, Cộng Sản đổi tên gọi thành Huyện Ủy và dời về phía bờ đông. Từ lâu đã có một cây cầu sắt bắt qua con sông Long Toàn này. Dân chúng qua lại làm ăn thoải mái. Từ cuối năm 1963, sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, nền chính trị Sài Gòn liên tục bị xáo trộn vì sự tranh dành quyền lực, miền Nam Việt Nam coi như bỏ ngỏ cho Cộng Sản miền Bắc tha hồ xâm nhập mở đầu cho cuộc bỏ chạy nhục nhã 12 năm sau. Trong bối cảnh đau lòng đó, năm 1965, Cộng Sản thả dàn phá nát con lộ và đem mìn giật sập chiếc cầu. Từ đó, và mãi sau này, qua sông phải dùng đò ngang. Buổi trưa nắng đỏ. Sông Long Toàn nước chảy cuồn cuộn. Chuyến đò vừa cập bến. Khách trên đò xôn xao đi xuống. Khách dưới bến láo nháo đi lên. Lại có những tay không đi đâu nhưng cũng tất bật ùa xuống đò. Tôi là một tay trong đám đó. Đám xe Honda ôm. Xứ này là xứ sống bằng nghề thủy sản. Vài năm trước, đám xe ôm chỉ có loe ngoe vài mống túng nghề xách xe chạy bậy. Đến giờ, đập đìa cá tép thưa dần, tôm cua nuôi hồ năm trúng năm thất, những tay chủ đập sạt nghiệp đành trốn nợ bỏ nhà đi xứ khác, những tay mới ngáp ngáp cũng mất vía, hoảng hồn, sang bán đổ tháo rồi mua một chiếc Honda để chở khách, kiếm gạo qua ngày. Vì vậy, riết rồi xe ôm nhiều hơn khách đi. Được một điều, mọi người đều biết nhường nhịn nên không có cảnh giành giật, chửi bới, đánh nhau. Tôi không có đập đìa gì hết. Tôi chỉ là một người trở về từ trại tù cải tạo với tài sản duy nhất và quý giá nhất là một cô vợ chung thủy và ba đứa con ngoan.

Tôi gốc gác Biên Hòa, ngày xưa làm việc ở chi khu Long Toàn này, bị một cô nữ sinh tên là Bé Năm, nhà ở gần đó, trói cổ nên đã nhận nơi nầy làm quê hương ! Khi nước mất, tôi vào tù, như mọi người. Sau sáu năm “học tập tốt”, xấc bấc xang bang, tôi tốt nghiệp, ra khỏi trường tù Bến Giá và về sống bên vợ con ở Long Vĩnh, một xã của quận Long Toàn. Bắt đầu làm lại cuộc đời mới bằng nghề đốn củi bán cho ghe buôn. Rừng lá dừa nước thì nhiều nhưng không thể làm củi. Cây mắm, cây giá, cây bần thì rải rác, chẳng bao nhiêu nên đã cạn kiệt. Lớp người trước đã đốn hết, chỉ còn để lại phần gốc rễ. Do đó, tôi không đốn củi mà là... đào củi ! Và đào bằng cây búa lục nhầy của ông bà già vợ cho ! Không phải ổng bả keo kiệt mà vì cả nhà bấy giờ chỉ có cây búa trành đó mà thôi. Không bao lâu, chẳng còn củi để đào, tôi xoay qua nghề làm mướn bá nạp. Đào ao, gánh đất, cuốc giồng trồng khoai...ai cần gì, tôi làm cái nấy. Đến một lúc cũng chẳng còn ai mướn vì xóm vốn thưa dân và kẻ dư ăn không có mấy người. Tôi bèn xoay qua nghề sửa xe đạp dù thật tình không biết chút gì cái nghề này. Qua Đôn Châu học lóm ba bữa, tôi trở về hì hục đóng ngay miếng bảng nhỏ “Sơn Sửa Xe Đạp” vào thân cây bạch đàn trước nhà. Ấy thế mà sống đựợc lai rai ! Cũng sửa con chó, nối sên đứt, vá ruột, sơn bằng ống bơm..! Xe đạp xã hội chủ nghĩa xài toàn đồ dỡm nên tôi có việc làm hoài. Có ông nội nào đó, mới thay cái ruột xe mới tinh bữa trước, bữa sau đã dắt tới vá rồi. Mà thiệt khổ, vá xong lỗ này thì xì lỗ khác.Vá xong đâu vào đấy, cái ruột xe mới giống như một miếng giẻ rách và tiền công vá muốn bằng tiền mua ruột mới! Phần tôi cũng không khỏi tổ trác. Anh chàng Ba Hợp xóm trong đặt làm 2 bánh, niềng mới, căm mới. Buổi chiều lấy, buổi tối ló đầu vô nhà. Tôi hỏi : - Tối rồi, đi đâu ? Ủa, sao mà tèm lem, tuốc luốc vậy ? Ba Hợp nhăn nhó : - Xe đạp từ chiều tới giờ đi lắc như bàn gằn, tính ra cho anh hay để coi lại, ai dè tới đầu bờ thì lắc luôn xuống mương !

65

Hóa ra thầy Hiệp bắt căm lỏng le ! Xuống mương là còn may đó ! Lúc đó, Tư Chiến, người bạn thân chòm xóm của tôi, trong nhà có sẳn chiếc Honda 67 trùm mền từ ngày mất nước và hắn xách túi vô tù. Một hôm, sau khi đi Trà Vinh về, Tư Chiến đem xe ra chợ Cái Đôi ngồi chong ngóc. Ngạc nhiên, tôi hỏi : -Chờ ai mà ngồi đây ? Tư Chiến kể lễ : -Thấy trên thị xã, người ta chở khách bằng Honda, tui thử một bữa coi sao. Tối hôm đó, Tư Chiến mò tới nhà tôi, hể hả khoe : -Quá đã ! Ngày hôm nay chạy được sáu, bảy ngàn.

Và hắn khẩn khoản biểu tôi ráng tìm cách xoay qua nghề honda ôm cho đỡ khổ hơn. Tôi ham quá nhưng không biết làm sao. Một chiếc Honda cũ rẻ nhất cũng trên dưới 1 cây vàng chớ bộ ít sao ! Gia tài sự sản nhà tôi không hơn 2 chỉ. Cuối cùng, vợ chồng đồng ý làm liều : bán cái máy may của ông bà già vợ cho, mượn thêm vàng của bà con mỗi người một ít để mua một chiếc honda cũ và bắt đầu hành nghề xe ôm ngay hôm lấy xe về. Sau vài tuần, gom tiền mua 4 con heo con, nhịn ăn nhịn mặc cho heo ăn, và gần một năm sau thì trả xong nợ vàng. Mừng hú. Kể từ đó, tôi và Tư Chiến trở thành hai tên xe ôm chuyên nghiệp và đầu tiên trong xóm này. Hằng ngày chạy khách loanh quanh cơi Long Toàn, Cái Đôi, Kinh Đào, Cái Cối. Thỉnh thoảng cũng có dịp chở khách đi ngược ra Ba Động, Cồn Cù, nhìn biển trời mênh mông mà buồn nhớ đâu đâu. Khách qua đò lần lần đi lên. Mấy bà đi chợ về gióng gánh lỉnh kỉnh. Mấy cô cậu học trò tan lớp về nhà, đùa giỡn lao nhao. Mấy ông đầu tóc chờm bơm, râu ria lởm chởm, da sạm đen mốc thích, chắc mới qua chợ huyện bên kia sông mua này mua kia hay đi làm giấy tờ, vay tiền ngân hàng gì đó. Mấy tên xe ôm kiếm được khách đi hớn hở nổ máy chuẩn bị lên đường. Những tên không hên, thản nhiên trở lại dãy quán ăn lụp xụp quanh bến đò, ngồi chờ chuyến khác.

Tôi thường được nằm trong những tên không may đó. Ngày trước, dàn xe ôm còn ít nên khách chở nhiều khi không hết. Đôi lúc phải chịu giận hờn vì chở người này, bỏ người kia. Bây giờ, dàn xe quá đông. Đã vậy, toàn những chàng trai trẻ, xông xáo, năng nổ chào mời tìm khách khiến cho những tay sồn sồn như tôi nhiều bữa phải chịu lỗ tiền xăng, ngồi ngóng gió suốt ngày. Chuyến đò này tôi không kiếm được mối nào. Cũng may hồi sáng sớm đã làm được một cuốc từ Cái Đôi lên đây. Chở cô nàng Hoa, con bà Hai Giáo ở cùng xóm, đi Long Toàn. Không biết cô nàng làm sở gì, vài bữa vắng bóng, vài bữa chạy về với mẹ, quần áo nhởn nhơ. Người ta xì xầm, con nhỏ này mắc bịnh siđa và công an đang kiếm bắt. Đây là một tin long trời lở đất vì thời buổi đó, xóm nghèo này chưa có chuyện đĩ điếm bao giờ. Cùng lắm là vài cuộc tình vụng trộm của những kẻ yêu nhau trong ngang trái mà thôi, đâu đến nỗi gì. Một lần, sau vài tháng làm phụ hồ bên Cầu Quan, thằng Cốm Đui, con chị Ba Như, dẫn về một cô gái và nói là vợ. Cốm Đui đâu có đui mù gì, chỉ có một con mắt lé và cái tật ba chớp, ba nháng mà thôi. Ba Như khoái chí vì khỏi tốn tiền cưới vợ cho con. Cơm không đủ ăn lấy gì cheo cưới ? Ai dè ít bữa có người trên Trà Vinh về cho hay mới té ngữa ra là gái làng chơi ở khu Tiệm Rượu, Hàng Dầu. Vậy là cả xóm mượn công an ấp quyết liệt đuổi cô gái đi ngay, bất kể Cốm Đui nhào lăn dưới đất, khóc la như heo bị thiến. Về sau, Cốm Đui cũng được vợ chồng Hai Mén ở mé rừng gả không cho đứa con gái cưng. Cả hai chí thú làm ăn, chồng làm thợ, vợ chằm lá bán cho ghe buôn, tuy nghèo nàn nhưng thật giàu hạnh phúc. Đang vẫn vơ chuyện xóm làng, có tiếng người chợt hỏi : -Anh có khách chưa ? Tôi giật mình, quay nhìn vào. Một người đàn ông trạc tuổi tôi, quần áo xuề xòa, đang ngồi một mình với ly đá chanh. Hình như người nầy đã đến từ những chuyến đò trước rồi ghé uống nước ở quán này. Tôi không hiểu hắn muốn gì, ngờ ngợ đáp : -Chưa. Người đàn ông nói bằng giọng từ tốn : -Vậy anh chở tui đi Cồn Trứng được không ? Thì ra là khách ! Tôi mừng hú, có phần khỏi lo là đây. Người khách đứng dậy, theo tôi ra xe, không hỏi giá cả như thói thường, nhanh nhẹn ngồi lên. Nhìn vết thẹo thâm đen ngay giữa trán của hắn, bỗng nhiên tôi cảm thấy không yên tâm chút nào. Chạy được một lát, khi bắt đầu quẹo vào lộ 81 dẫn ra Láng Cháo, Cồn Trứng, người khách cho tôi biết tên của hắn là Minh. Tôi hỏi cho vui : -Tại sao anh chọn tui ?

66

Minh cười hì hì : -Sợ té ! Mấy bố trẻ chạy dữ quá. Bị té một lần xém gãy giò, hoảng rồi. Cở tuổi tụi mình chắc chạy cẩn thận hơn. Tôi đùa : -Gặp già dịch thì sao ? Nói vậy thôi, đường này đắp bằng đất có té cũng nhẹ thôi. Trặc xương sống là cùng ! -Giỡn hay chơi đó ? -Để coi. Mà anh biết không, tui cũng dự phần "học" đắp nên con đường này đó. Minh có vẻ thắc mắc : -Làm dân công hả ? Tôi vắn tắt kể chuyện ngày xưa khi nước mất, đã "học tập" khắp nơi trong vùng này. Bắt đầu từ một đêm đầu tháng 5 năm 1975, kẻ chiến thắng trưng dụng chiếc ghe lá đưa toàn bộ 21 sỉ quan chi khu Long Toàn thất trận vào rừng Mù U để "học". Rồi theo thời gian, dời về Láng Cháo, Khám Lớn Trà Vinh, Bào Sen, Cồn Tàu, La Ghi và cuối cùng là Bến Giá. Toàn là những "bài học" gian nan, bi thiết, suốt đời ám ảnh không rời. Con lộ 81 này đã được đắp lên bằng máu của hai chiến hữu và mồ hôi, nước mắt của hơn 200 chiến sĩ sa cơ.

Minh hớn hở ra mặt khi biết tôi là tên lính cũ. Hắn thì thầm cho tôi biết hắn cũng được đi "học" nhưng xa hơn, miền Bắc, "tốt nghiệp" năm 1982 và đang ở Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa, làm rẫy. Vết thẹo trên trán là kỷ niệm đòn thù ở trại tù Tuyên Quang. Thì ra là vậy ! Hai người đồng cảnh bất ngờ gặp nhau nên nói không hết những chuyện dưới đất, trên trời. Cuối lộ 81 là Láng Cháo. Quẹo phải về Cồn Cù, Động Cao. Quẹo trái về Cồn Tàu, Cồn Trứng, Khoáng Tiều, Nhà Mát, Ba Động. Tôi chỉ long phong về phía sau dãy nhà lá trước mặt để nói với Minh rằng trại tù Láng Cháo ngày xưa ở đó với dãy ruộng muối rộng lớn do chính bàn tay khai phá của đám tù binh. Đâu đó trong đám nhà lá trước mặt này, hồi đó có ông Ba Sài Gòn và bà Sáu Lục. Ông Ba Sài Gòn quê quán ở đây, thời chiến tranh bỏ xứ lên Sài Gòn kiếm ăn, nay

về quê sinh sống. Không dè, ông lại là anh họ của Lâm Văn Mầu, người bạn cùng khóa và đang cùng khổ với tôi. Chính ông đã tổ chức đưa Mầu trốn trại bằng đường ghe lên Trà Vinh rồi từ đó đi xe đò về Sài Gòn ở với vợ con. Mầu lại tìm đường vượt biên đường bộ qua Kampuchea. Rủi thay, bị Cộng Sản bắt ở Châu Đốc và đem giam ở trại tù Suối Máu. Ở đó, Mầu anh dũng leo rào vượt trại và bị lính gác bắn chết tại vòng rào thứ nhì. Bà Sáu Lục cũng mới hồi cư về đây sau chiến tranh. Hình như không có chồng và sống hui hút với đứa con gái chừng mười bốn, mười lăm tuổi. Bả có sở ruộng hương hỏa cả chục công đất rừng giáp ranh với trại tù, đào ao xẻ mương đàng hoàng. Nhờ vậy, mỗi con nước, cá tép chạy xà ngôm đem bán chợ cũng đủ xây xài cho hai mẹ con. Từ trại tù có một con đường bờ chạy thẳng tới chòm nhà Sáu Lục. Một bữa nghỉ chủ nhật , tôi bàng hoàng khi người bạn tù vong niên, Sáu Hoàng, nguyên trưởng ấp Cờ Đỏ, Càng Long, lớn hơn tôi hơn 20 tuổi, rủ tôi ra nhà bà Sáu Lục làm chuyện "nọ kia" cho vui. Sáu Hoàng nói rất thiệt tình : -Tao làm hai ba lần rồi ! Bả biểu tao chớ làm sao tao dám ! Tôi hỏi: -Đi cách nào tới đó được ? Sáu Hoàng đáp : -Giả bộ đi kiếm cá theo đường bờ phía sau trại, cây già,cây vẹt lung tung, không ai thấy đâu. Mút đường là nhà bả.Chui qua cái hàng rào chà tre là xong, dễ ợt ! -Dễ vậy sao không trốn luôn cho khỏe ? Sáu Hoàng buồn bã : -Ai không muốn trốn, nhưng trốn rồi làm sao ra khỏi vùng này ? Ngoài kia là biển, quanh đây là dân của tụi nó, là rừng chồi, mương xẻo chằng chịt. Nhắm trốn lọt không? Thôi thì ra đó chơi một lát cho đã rồi vô. Tôi không đi vì không dám chơi dại và cũng nhất định không tin chuyện trời ơi đất hỡi đó. Đến lúc anh chàng Lương đi theo Sáu Hoàng về nói lại, tôi mới chưng hững. Lương khoái trá nói : -Tao với ổng thay phiên nhau làm. Không tốn tiền bạc gì hết. Bả còn nói "ngày nào không có chịu không nỗi" nghe mậy ! Tôi chỉ còn biết kêu trời : -Ở tù muốn chết mà chơi với bời ! Lạ thiệt ! Nghe Sáu Hoàng nói đám ham vui càng ngày càng đông, trong đó có cả lão Không già lụm cụm. ốm trơ xương, thiếu điều đi không nỗi trong chuyến về ! Đến nửa năm 1977, trại tù Láng Cháo đóng cửa. Tù binh được dời về Khám Lớn Trà Vinh và quên dần chuyện lạ Sáu Lục. Bây giờ, hơn mười năm sau, tôi lại có dịp ngang qua và nhắc lại. Biết bao lần đi ngang nhưng tôi không

67

có lý do gì để ghé. Cảnh cũ nhưng không biết người xưa còn đó hay không? Lòng tôi bỗng nhiên chùng xuống. Minh chợt kêu lên : -Người ta làm gì mà gánh gồng tùm lum vậy ? Từ hướng Cồn Tàu, ba bốn người gánh những thúng, giỏ, nong, nia, rỗ, ki, rế nồi... đương bằng tre đang đi trở ra. Tôi không dấu được nỗi xót xa : -Họ là những người Kmer ở tuốt bên Đại An, Hàm Giang, chuyên sống bằng nghề đương đát. Chắc chuyến này bán ế, họ đang đi lần về nhà. Tội lắm, đồ này gánh muốn gãy xương sống nhưng bán rẻ như bỏ. Mình làm không nỗi đâu. Minh cũng buồn lây : -Không còn nghề nào đỡ hơn sao? -Đỡ gì nỗi ! Lúa thất, đất cằn, việc làm không có, sẳn có nhiều tre trúc nên làm đại nghề đương đát kiếm cơm.

Đại An, Hàm Giang thuộc quận Trà Cú, đa số là người Kmer. Không hiểu vì sao dân cư ở đó phần đông nghèo khổ quá. Những ngày mùa hạn, họ dẫn nhau đi từng đoàn qua Kinh Đào, Cái Đôi, Long Khánh, Đình Cũ của quận Long Toàn, là những nơi có nhiều ruộng nuôi tôm, để chủ ruộng nào cần người đào đất, sên mương thì chạy ra gọi vào. Công xá tính theo tầm, theo thước. Nhìn họ dồn tất cả sức lực vào cái gàu ống, ném từng thỏi đất nặng trĩu lên bờ cao nghệu, ai có lòng từ tâm đều không khỏi xót thương. Những người đi bán đồ tre trúc này càng đáng thương hơn. Từ bến đò Đôn Châu, họ đi đò qua Kinh Đào. Từ Kinh Đào, họ gánh hàng theo lộ cái đi dần lên, tới đâu bán tới đó. Khổ nỗi, con lộ độc đạo ấy lại đúng ngay hướng gió chướng ào ạt từ Long Toàn thổi xuống. Bạn sẽ nghĩ gì khi thấy những con người đen đủi, ốm nhom, còng lưng gánh nặng đang chống chỏi với cơn gió vô tình quái ác ? Đôi lúc lại có hai người chung vai gánh nguyên một cái giường tre ! Buồn cười nhưng rớt nước mắt không hay !

Minh và tôi tự dưng im lặng. Không biết vì đâu. Xe vẫn chạy rì rầm trên con đường đất nhỏ vắng tanh, hai bên là những lùm cây lức mọc dày đặc trong dãi đất bỏ hoang, và không xa lắm, những đụn cát trắng im lìm với hàng phi lao chớn chở che khuất biển xanh ngay chân phía ngoài. Khi chòm nhà đầu tiên hiện ra, tôi chạy xe chậm lại : -Tới Cồn Trứng rồi. Anh muốn xuống ở đâu ? Đến lúc nầy, Minh mới hỏi tôi : -Anh biết nhà ông Sáu Ngời không ? Bác ruột của tui đó. Tôi phân vân : -Phải ông Sáu Ngời đã chết mấy năm rồi không ? -Đúng rồi. Tui về dự đám giỗ đây.Anh biết ổng sao -Còn hơn vậy nữa, tui mang ơn ổng. Năm xưa, đám tù tụi tôi bị đem ra Cồn Tàu gần hai tháng để đắp bờ ngăn nước mặn. Không có sẳn trại giam nên Cộng Sản gởi mỗi nhà dân quanh đó hai ba tên tù. Sáng sớm tập trung đi vào rừng lao động, tối về tự nấu nướng, ngủ nghê. Tôi và Phạm Vĩnh ở trong nhà của một cặp vợ chồng son. Năm Dơi, người chồng, ngày nào cũng bị vợ mắng nhiếc là đồ làm biếng nhớt thây. Phần Năm Dơi, ngày nào cũng than thở, "chắc tui sống không lâu quá !" Nhà lá chật hẹp, giường ngủ của vợ chồng Năm Dơi phía sau vách lá vàng bạc và cái giường nống chà là dành cho tụi tôi lại đâu đầu ngay tấm vách mỏng đó ! Vì vậy, tụi tôi hiểu được tại sao Năm Dơi kêu trời, kêu đất. Dĩ nhiên, hai tên tù đói khát đủ thứ này cũng trắng mắt, kêu đất kêu trời ! Sau này, tình cờ gặp lại Thủy, vợ Năm Dơi, ở bến đò Long Toàn, tôi hỏi thăm: -Anh Năm cấp rày khỏe không ? Thủy phấn khởi : -Khỏe hơn trâu ! Bây giờ đứng bán tiệm có gì đâu mà mệt ! Thì ra, chuyện trời đất cũng đâu đến nỗi làm người ta sống không lâu. Đừng lo ! Những ngày ở Cồn Tàu, chủ nhật nghỉ, đám tù đi lang thang đầy đường. Không phải đi chơi, ngắm cảnh mà là đi kiếm ăn. Người đi thụt cá kèo, móc cua, đào ba khía. Người thả rề rề đầu làng cuối xóm để coi có ai kêu vào mướn đào đìa, cuốc cỏ gì chăng hầu có được vài đồng mua thuốc giấy, đồ ăn.( Mười mấy năm sau, những người nghèo đói bên Trà Cú đi tìm nơi làm mướn cũng y chang như vậy).Tôi theo vài tên khác lén bơi qua cái mương lớn đến ấp giáp ranh, Cồn Trứng. Ở đây, tụi tôi được một ông già gọi vào đào đìa. Ông Sáu Ngời. Ông nói : -Mấy cháu cứ từ từ mà làm. Chừng nào rồi cũng được. Trước khi vào việc, ông cho đám cu-li-bất-đắc-dĩ ăn một bữa cơm có đầy đủ rượu thịt - bữa cơm Phiếu Mẫu ngon nhất trần đời. Rồi đến khi làm việc, cứ một

68

lúc ông lại đi ra kêu cả đám lên bờ hút thuốc, uống nước trà, ăn đường thẻ ! Bởi vậy, mặc dù làm việc thiệt tình, đến xế chiều cả đám đào chưa được phân nửa ! Ông Sáu Ngời vẫn vui vẻ nói, "đi đâu mà gấp", rồi cho mỗi người một số tiền cùng với một bộ đồ và dặn tuần sau tới làm tiếp. Đang cơn đói ăn, thiếu mặc, hơn nữa đang sống trong quê hương, giòng họ của quân thù, chúng tôi như từ trên trời rơi xuống. Đêm đó, hỏi khéo Năm Dơi về ông già tốt bụng ấy, tôi chới với khi biết đó là một đảng viên kỳ cựu, từng giữ chức xã đội trưởng Trường Long Hòa trong những năm chiến tranh, bây giờ coi như về hưu (vì đâu có lương tiền gì!) sống bằng nghề lưới biển và cho mướn đám lá dừa nước rộng ngút ngàn. Con cháu của ổng lũ khũ. Một mớ đã rửa giò trèo lên bàn thờ làm liệt sĩ. Một mớ thoát chết mặt mày xanh mét đang làm việc khắp nơi trong huyện này.

Bây giờ lại té ra thêm một đứa con cháu có gốc "ngụy" tên Minh này nữa ! Tôi bán tín bán nghi : -Anh biết nhà ổng không ? Minh cười : -Biết chớ. Và hắn chỉ đúng căn nhà dưới hàng dừa cao có cái đìa rộng ở vườn sau, nơi mà ngày xưa tụi tôi đã "đi đâu mà gấp" suốt 3 cái chủ nhật mới xong ! Tôi yên chí, vậy là tay nầy không ba xạo. Quốc gia, Cộng sản cùng trong một nhà, chuyện nầy đâu có gì lạ trong cuộc chiến Việt Nam. Tôi nói : -Vậy thì sẳn dịp, tui cũng ghé vào thắp nhang cho bác Sáu. Tội nghiệp ông già, mới gặp đó mà đã khuất bóng mấy năm rồi. Xong đâu đó, tôi trở ra bến đò tìm chuyến khác. Minh ở lại và không biết đến bao giờ mới về lại Xuyên Mộc. Tôi gần như quên bẳng người khách xa xôi này. Cuối năm 96, sau một năm giấy tờ trật vuột, cả nhà tôi được qua Mỹ định cư trong diện tù cải tạo. Xứ lạ quê người, không một người bà con dòng họ, chúng tôi quen dần với cuộc sống chẳng có gì vui. Một ngày chủ nhật, theo thói quen, vợ chồng tôi đến chợ trời giải khuây. Người bán, người mua lao

xao giữa trời xứ xa gợi nhớ những buổi chợ quê nhà. Ôi, những buổi chợ mưa ngập lối đi, những buổi chợ nhóm từ lúc trời chưa sáng, le lói ngọn đèn dầu nghèo khó thương yêu. Chằng Lửa, biệt danh thân thương do tôi đặt cho vợ, chợt chỉ tay về phía cuối dãy. Một người đàn ông vác cây cần câu đang bước đi chậm rãi, lưng quay lại. -Anh dùm hỏi ông kia mua cần câu ở khu nào và giá bao nhiêu ? Tôi lựng khựng : -Câu kéo ở đâu ? Hỏi làm gì ! Chằng Lửa nằn nì : -Lẹ đi, để ổng đi mất bây giờ. Tôi nói, "cần câu ngời ngời đó làm sao mà mất !" và luồn lách đám đông, bước vội theo người đàn ông. Mái tóc đen, vóc dáng người châu Á. Khi đến sát sau lưng, tôi nói bằng tiếng Mỹ cho chắc ăn : -Excuse me Người đàn ông quay lại. Trong một lúc, cả hai đứng ngớ ra. Hắn nhìn tôi, mắt nheo lại vì suy nghĩ. Tôi nhìn hắn, bàng hoàng vì vết thẹo thâm đen giữa trán. Và như tia chớp, cả hai đều nhận ra nhau ngay. -Hiệp xe ôm đó hả ?! -Minh khách ôm tui đó hả ?! Hai người cố tri cười vang trời tha hương. Có niềm vui nào lớn bằng ? Tôi hỏi : -Anh đi năm nào ? HO mấy ? Minh cười hề hề : -Không HO gì ráo ! Đi ngay đêm sau bữa gặp anh, bằng chiếc ghe cào của con ông Sáu Ngời ! Mà tui cũng không phải là cháu chiếc gì của ổng ! Che mắt công an vậy mà. Đi bằng ghe của con nhà đảng viên chắc ăn như bắp, phải không ?! Tôi kêu trời từng chặp. Đời tôi hình như hay gặp những chuyện khác thường. Lần này, tôi kêu trời nhưng không phải như lúc ở Cồn Tàu đâu nhé !

Phạm Chinh Đông

Nhà Thờ Tin Lành Trà Vinh

69

NHÔÙ VEÀ

MOÄT LAÙ TRAÀU Võ Thị Ðông Mai

Một chiếc lá giống hình trái tim hơi cong cong, dài dài, có vị nồng cay, xanh xanh màu cẩm-thạch được người Việt Nam gọi là trầu. Theo tự điển Pháp :

trầu = betel được giải nghĩa = dây tiêu leo gốc gác ở Mã Lai ( poivrier grimpant ! origine malaisienne), cũng có tự điển khác cho loại dây tiêu nầy gốc ở Ấn Độ. Như vậy có thể suy ra, ngoài người Đông Dương gồm Việt, Miên, Lào, đa số các nước Á Đông cũng đều biết qua hương vị của lá trầu.

Có ai về Sài Gòn qua vùng Bà Điểm Hốc Môn mà không lướt mắt nhìn những dây trầu tươi xanh ngắt san sát leo trên những cây cột dọc theo bờ mương. Trồng trầu ở gần bờ mương cho tiện việc tưới nước thường xuyên, vì nếu khô trầu không được mượt mà.

“Trồng trầu thì phải khai mương Làm trai hai vợ phải thương cho đều”

Câu trên nghe được xuôi tai, còn câu dưới dường như có gút mắc khó gỡ ! Các cô, các bà Hoạn Thư nhất định phản đối... rất quyết liệt ! Cũng không biết tại sao ông bà ta lại nói :

“Trồng trầu trồng lộn dây tiêu Con theo hát bội, mẹ liều con hư”

Sau nầy, tôi nghe người ta giải thích vì tiêu với trầu đều có hình thù và đặc tính giống nhau cũng nồng cay, thích khí hậu nóng như nhau nóng như nhau hoặc cố ý cho lá trồng thêm nồng, lại tiện việc tưới nước. tuy nhiên nếu có ai biết thêm xin bổ túc cho.

* * * Có người Việt nam nào lại không biết sự tích Trầu Cau qua tình sử cảm động nầy : Đời vua hùng Vương thư Tư, trong làng nọ, có hai anh em nhà họ Cao rất thương yêu nhau, nhường nhịn. Không may, cả hai đều yêu thương một cô gái đẹp ở làng kế bên, nhưng người anh lại được người đẹp. Người em vui cho anh nhưng rất buồn cho mình, nên một hôm bỏ nhà ra đi, sau đó vì mệt mỏi đói khát chàng chết đi

bên bờ sông rồi hóa ra thành hòn đá. Người anh thấy em đi biệt tích nên đi tìm, đi mãi rồi cũng kiệt sức nằm chết bên hòn đá, hóa thân thành cây cau. Người vợ, thấy chồng đi lâu không thấy về, bèn khăn gói tìm chồng, sau đó vì quá đau buồn vì không tìm được chồng, nàng nằm chết bên cạnh hai anh em và hóa kiếp thành dây trầu quấn quanh thân cau. Sau có người đem chuyện tâu lên vua, vua muốn thử cho biết, truyền người lấy trầu, quét vôi lấy từ phiến đá, ăn chung với cau, thấy cho ra một thứ nước đỏ thắm. Cảm động trước tình anh em hòa hợp, nghĩa vợ chồng gắn bó vua truyền cho dân gian dùng trầu cau trong nghi thức lễ cưới. Bởi thế, để trách người yêu chậm chân để cho mình sai duyên lỡ phận “Sá gì một mớ trầu cay

Sao anh không hỏi những ngày em còn không Bây giờ em đã có chồng Như chim vào lồng, như cá cắn câu Cá căn câu biết đâu mà gỡ Chim vào lồng biết thuở nào ra...”

Tính chất keo sơn gắn bó của trầu cau còn được mượn qua ca dao để khuyên nhủ cho tình đồng bào ruột thịt Việt Nam :

“Dây trầu quấn lấy thân cau Việt Nam yêu lấy đồng bào Việt Nam”

Dân gian cũng hay ví von “miếng trầu là đầu câu chuyện” . Thật vậy, ngày xưa khi có khách đến nhà lấy trầu mời khách, rồi mới bắt đầu chuyện trò, xem rất thanh nhã làm sao

“Con quạ nó đứng đầu cầu Nó kêu bớ má têm trầu khách ăn”.

70

Những người ở nhà quê cũng vậy, khi người con trai gặp con gái, đem trầu cau ra mời nhưng nếu nàng là con gái nhà lành nàng sẽ nghiêm trang từ khước nhẹ nhàng:

“Thưa rằng cha mẹ em răn Làm thân con gái chớ ăn trầu người”

Đó là những câu phong dao trong Hương hoa đất nước không biết có tự thuở nào. Có câu chuyện gần hơn cũng lá trầu: Có anh sinh viên du học ở Pháp, cưới vợ người bản xứ, đưa gia đình về Việt Nam thăm mẹ. Cậu bé, con anh sinh viên, thấy ở quê cha, cái gì cũng lạ quá, một hôm thấy bà nội đang nhai trầu, chẳng đặng đừng cậu hỏi “Ba ơi ba, bộ ỡ đây bít-tết xen-nhăng (beefsteak saignant) dai lắm sao mà bà nội nhai hoài vậy ba.”

* * * Khi mới tới Canada thấy còn nhiều trầu, cau, vôi, bày bán ỡ các tiệm thực- phẫm V.N. vài năm sau đó không thấy nữa, không rõ ở các nước khác, nơi có người VN đông-đão thì sao? Theo tôi, từ đây, món chewing-gum cỗ-truyền nầy, (trầu cau), chỉ còn “vang bóng một thời” mà thôi. Nhưng, nhắc tới trầu, cau mà không nhắc đến bà ngoại tôi thì quả là một thiếu sót, ngoại tôi nhai trầu mệt nghĩ, bà ghiền trầu như chàng lưu-linh ghiền rượu, như một gã chuyên đánh bạc nhớ lá bài, như một kẽ hút xách nhớ ã phù-dung, chứ không phãi vừa, thiếu trầu một buổi, ngoại ngáp lên ngáp xuống hoài nghe lạt miệng, đôi khi lại bỏ ăn như người sắp nhuốm bệnh: bà đang bị trầu “hành” má tôi đã nói như vậy. Ngoại tôi không phãi gốc Trà-Vinh, quê quán bà ỡ quận Cái-bè, một quận-lỵ tôi đã có lần đi qua, nơi có cam ngọt xớt, nổi tiếng; cam Cái-bè. Đã lâu lẳm rồi mà tôi vẫn nhớ mãi ngôi nhà lợp ngói đỏ, ít nhiều rêu phong, với nền nhà lót bằng gạch tàu đỏ ao rất sạch và đẹp. Tuy nhiên, đó không phãi lý-do mà bà chịu ở hoài một chỗ, bà giống như con thoi, cứ năm ba tháng bà lên Sài Gòn ở trông chừng mấy đứa con nhỏ cho mấy dì như tôi, ba bốn tháng sau đó xuôi về Trà-Vinh thăm gia-đình chúng tôi, và mỗi khi nghe đám nhỏ hàng xóm la lên ngoại xuống, ngoại xuống (Dù là không phải ngoại của tụi nó) là chiếc xe lôi chỡ ngoại từ bến xe, đã đậu ngay trước ngõ, chúng tôi ba đứa mừng lắm, cũng chạy ùa ra đón ngoại, đứa thì ôm hôn, đứa đỡ ngoại xuống xe, đứa nắm tay dắt vao nhà, nhưng muốn xin xách giỏ trầu của ngoại thì hơi khó, ngoại phãn-đối liền, bà sợ chúng tôi làm rớt đỗ bễ hết. Đi đâu ngoại cũng xách giỏ trầu theo, giỏ trầu quý của ngoại bằng mây đan, sơn màu gỗ, đánh vẹt ni bóng loáng, được sắp-đặt rất thứ-tự: một chun nhỏ đựng cau khô ngâm nước cho mềm vì bà không còn

răng, hai trái cau tươi, khoảng mươi lá trầu xanh, một bình nhỏ đựng vôi trắng, một con dao bầu dùng để chẽ cau. Mỗi lần ngoại têm trầu tôi hay tò-mò nhìn theo cử-chỉ của bà: lần nào cũng vậy, trước tiên, bà ngắt gọn đầu, đuôi lá trầu, quết nhẹ lên đó một lần vôi mõng, gói một miếng cau, cuốn lại, đặt vào chiếc óng ngoái bà lấy cây giầm giã cho nát, rồi nhẹ-nhàng đưa vuông khăn đỏ lau kỹ chiếc óng ngoái bà lấy cây giầm, xếp vào giỏ, rồi khệ nệ bưng ống nhổ làm bằng đồng được chùi sáng, đưa gần miệng phun ra một ngụm nước đỏ tươi : những động tác lớp lang, điều hòa ấy đã khiến nghệ thuật têm trầu của bà tôi, biến thành một nguyên tắc, sau đó, tôi giành phần têm trầu cho ngoại, không có gì khó, chỉ đừng cho nhiều vôi sợ phỏng lưỡi. Tôi còn nhớ có lần hai anh em tôi nghịch ngợm lén lấy trầu nhai thử, bị say chúng tôi ngủ li bì cả một buổi chiều, khiến má tưởng chúng tôi bị bóng đè.

Ngoại tôi không nhỏ nhắn như phần đông các bà già Việt Nam, bà có dáng cao vững chãi, tuy lưng hơi còng, nhưng đôi mắt vẫn còn tinh anh dưới đôi mắt kính lão. Bà ăn cơm không nhiều, chỉ có hai món ăn chơi bà rất “ái mộ” ăn hoài không ngán, đó là món bánh canh cá lóc Trà Vinh có nước súp nghịt lừ, mấy miếng cá trắng phau, thêm một chút trứng cá nỗi trên mặt, một chút hành lá xanh, chút tiêu cay cay thơm phức, hấp dẫn và còn bánh gói nữa, chiếc bánh vuông vuông, mỏng mỏng làm bằng bột gạo có nhưn đậu xanh chính giữa được gói trong lá chuối, hấp nóng hổi chan nước cốt dừa lên...ngon hết biết. Vì “gu” của bà