hỘi thẢo cẤp khoa kẾt nỐi vÀ phÁt triỂn
TRANSCRIPT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA XÃ HỘI HỌC – CÔNG TÁC XÃ HỘI – ĐÔNG NAM Á
20/5/2021
HỘI THẢO CẤP KHOA KẾT NỐI VÀ PHÁT TRIỂN
MỤC LỤC
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ MẪU GIÁO (3 – 6
TUỔI) ........................................................................................................................................... 2
Trần Thị Thanh Trà ....................................................................................................... 2
NGĂN NGỪA BỎ HỌC SỚM – KINH NGHIỆM CỦA HOA KỲ VÀ NGỤ Ý
CHO VIỆT NAM ...................................................................................................................... 10
Nguyễn Thuỵ Diễm Hương ........................................................................................ 10
NHỮNG TỔN THƯƠNG TÂM LÝ CỦA THIẾU NIÊN KHI CÓ CHA MẸ LY
HÔN ........................................................................................................................................... 32
Phan Thị Mai Quyên ................................................................................................... 32
VẬN DỤNG “THUYẾT THÂN CHỦ TRỌNG TÂM” TRONG THỰC HÀNH
CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NHÓM TRẺ EM ........................................................................ 44
Hồ Sỹ Thái .................................................................................................................. 44
HOẠT ĐỘNG TỪ THIỆN HƯỚNG ĐẾN CÔNG TÁC XÃ HỘI ................................ 58
Võ Thị Thu Hà ............................................................................................................ 58
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỆ
THỐNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE NGƯỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...... 69
Thái Huy Ngọc ............................................................................................................ 69
Hoàng Thanh Dương .................................................................................................. 69
CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI VÀ VAI
TRÒ CỦA NHÂN VIÊN XÃ HỘI TẠI NHẬT BẢN ............................................................ 82
Huỳnh Minh Hiền ....................................................................................................... 82
BẢO HIỂM CHĂM SÓC TẠI NHẬT BẢN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ..... 94
Huỳnh Minh Hiền ....................................................................................................... 94
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY .............................................................................................................................. 106
Phạm Quốc Hưng ...................................................................................................... 106
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH VÀ THỰC TẬP CÔNG TÁC XÃ
HỘI CHO CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC .................................................................................... 116
Nguyễn Thụy Diễm Hương ...................................................................................... 116
CHƯƠNG TRÌNH
Thời gian: Ngày 20 tháng 5 năm 2021
Địa điểm: Trường ĐH Mở Thành phố Hồ Chí Minh – Phòng họp lầu 7, Cơ sở Hồ Hảo Hớn
THỜI GIAN NỘI DUNG NGƯỜI TRÌNH BÀY
8:00 - 8:10 Lời chào Lâm Thị Ánh Quyên
8:10 - 8:40
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN
TỪ CHO TRẺ MẪU GIÁO (3 – 6 TUỔI)
Trao đổi
Trần Thị Thanh Trà
8:50 - 9:20
NGĂN NGỪA BỎ HỌC SỚM – KINH
NGHIỆM CỦA HOA KỲ VÀ NGỤ Ý CHO
VIỆT NAM
Trao đổi
Nguyễn Thuỵ Diễm
Hương
9:20 - 9:40 Giải lao
9:40 - 10:10
NHỮNG TỔN THƯƠNG TÂM LÝ CỦA
THIẾU NIÊN KHI CÓ CHA MẸ LY HÔN
Trao đổi
Phan Thị Mai Quyên
10:10 - 10:40
BẢO HIỂM CHĂM SÓC TẠI NHẬT BẢN
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
Trao đổi
Huỳnh Minh Hiền
10:40 - 11:10
HOẠT ĐỘNG TỪ THIỆN HƯỚNG ĐẾN
CÔNG TÁC XÃ HỘI
Trao đổi
Võ Thị Thu Hà
11:10 – 11:30 Trao đổi chung Huỳnh Minh Hiền
11:30 - 11:40 Lời cảm ơn Lâm Thị Ánh Quyên
2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ MẪU
GIÁO (3 – 6 TUỔI)
Trần Thị Thanh Trà1
Tóm tắt
Phát triển vốn từ cho trẻ là cơ sở của công tác phát triển ngôn ngữ. Phát triển vốn từ
được hiểu như là một quá trình lâu dài trẻ tích luỹ vốn từ và hình thành cách sử dụng từ
trong các tình huống giao tiếp cụ thể. Bài viết này đề cập đến đặc điểm phát triển vốn từ và
một số biện pháp để phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo như: (BP1) hướng dẫn trẻ quan sát;
(BP2) xem tranh; (BP3) sử dụng đồ chơi; (BP4) sử dụng trò chơi; (BP5) sử dụng câu hỏi
mở, cho trẻ thường xuyên nhắc lại các từ khó, từ mới.
Từ khoá: Ngôn ngữ trẻ mẫu giáo; Phát triển vốn từ; Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo.
1 Dẫn nhập
Ngôn ngữ là công cụ nhận thức, công cụ tư duy và là phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất của con người. Nhờ ngôn ngữ mà con người có trao đổi những tri thức, thông tin và
giao tíếp hàng ngày. Ngôn ngữ không phải là năng lực bẩm sinh, sẵn có của con người mà
chỉ có thể hình thành và phát triển khi con người có sự giao tiếp, tiếp nhận thông tin từ
người khác và môi trường xung quanh.
Quá trình học nói của con người có thể kéo dài cả đời, nhưng theo nghiên cứu của các
nhà tâm lý học và ngôn ngữ học, 6 năm đầu tiên là quan trọng nhất. Giai đoạn 1 – 3 tuổi là
giai đoạn hình thành lời nói, bắt chước ngôn ngữ, tích luỹ vốn từ và hình thành những mẫu
câu đơn giản. Giai đoạn 3 – 6 tuổi là giai đoạn của sự phát triển vượt bậc về chất lượng
1 Giảng viên Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh
3
ngôn ngữ của trẻ. Ở giai đoạn này, các lỗi cơ bản về cách phát âm, ngữ pháp, cách sử dụng
từ ngữ đã được trẻ tự khắc phục, loại bỏ dần dần, đặc biệt là vốn từ của trẻ tăng lên một
cách mạnh mẽ (tuỳ theo từng giai đoạn).
Phát triển vốn từ được hiểu như một quá trình lâu dài của việc lĩnh hội vốn từ mà con
người đã lĩnh hội được trong lịch sử. Nó bao gồm 2 mặt: tích luỹ số lượng (tăng dần số từ
tích cực) và nâng cao chất lượng (lĩnh hội dần dần nội dung xã hội tích luỹ trong từ, nó là sự
phản ánh kết quả của nhận thức) [14]
2 Khái niệm
“Phát triển” được hiểu là “sự biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến
rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” [9]. Tác giả Nguyễn Thị Phương Nga cho rằng:
“Phát triển vốn từ cho trẻ là hoạt động có chủ đích, có kế hoạch, nhằm giúp trẻ lĩnh hội vốn
từ có hiệu quả” [11]. Phát triển vốn từ cho trẻ được hiểu như là một quá trình lâu dài trẻ tích
lũy vốn từ, hiểu nghĩa của từ và hình thành cách sử dụng từ trong các ngữ cảnh giao tiếp
khác nhau. Trẻ lĩnh hội nghĩa của từ khi từ được sử dụng trong câu, trong lời nói.
Vì vậy, việc phát triển vốn từ cần thực hiện chặt chẽ với việc phát triển lời nói mạch lạc.
Một mặt, lời nói tạo điều kiện cho trẻ lựa chọn từ ngữ có nghĩa phù hợp; mặt khác vốn từ là
cơ sở cho ngôn ngữ mạch lạc.
Như vậy, phát triển vốn từ cho trẻ là quá trình cung cấp vốn từ về mặt số lượng, giúp trẻ
hiểu nghĩa của từ và biết dùng từ phù hợp trong ngữ cảnh giao tiếp.
3 Đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ mẫu giáo
3.1 Vốn từ xét về mặt số lượng [13]
- Từ 12 tháng trở đi, bên cạnh các âm bập bẹ, xuất hiện các từ chủ động đầu tiên.
4
- Đến năm thứ 3, trẻ đã sử dụng được trên 500 từ, phần lớn là danh từ, động từ, tính từ
chỉ các sự vật, hiện tượng xung quanh, quen thuộc với trẻ.
- Trẻ 4 tuổi có khoảng 700 – 1000 từ, chủ yếu cũng là danh từ và động từ.
- Trẻ từ 5 – 6 tuổi, vốn từ của trẻ tăng quân bình đến 1.033 từ, tính từ và các loại từ
khác chiếm tỉ lệ khá cao.
3.2 Vốn từ xét về mặt cơ cấu từ loại
Trong cuốn Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Xuân Khoa (1998) [6] và Phương pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo (2017) [7] cho rằng tiếng Việt có 9 loại: danh từ, động từ,
tính từ, số từ, đại từ, phó từ, quan hệ từ, định từ, tình thái từ.
Sách giáo khoa lớp 4, lớp 5 [1] hiện nay lại cho rằng tiếng Việt có 12 loại từ: danh từ,
động từ, tính từ, số từ, lượng từ, chỉ từ, phó từ, đại từ, quan hệ từ, trợ từ, thán từ, tình thái từ.
Tuy có khác biệt nhau về việc khẳng định các loại từ hiện nay trong tiếng việt, các tác
giả đều khẳng định các từ loại trên xuất hiện dần trong vốn từ của trẻ. Đầu tiên là danh từ,
sau đó là động từ, tính từ rồi đến các loại hình khác. Cụ thể:
- Giai đoạn 3 – 4 tuổi, về cơ bản trong vốn từ của trẻ đã có đủ các loại từ này.Tuy
nhiên, tỉ lê danh từ và tính từ cao hơn nhiều so với các loại khác: danh từ chiếm 38%,
động từ: 32%, tình từ: 6,8%, đại từ: 3,1%, phó từ: 7,8%, tình thái từ: 4,7%, quan hệ
từ và số từ còn ít xuất hiện (số từ: 2,5%, quan hệ từ: 1,7%) [8].
- Giai đoạn 5 – 6 tuổi cũng là giai đoạn hoàn thiện một bước cơ cấu từ loại trong vốn
từ của trẻ. Tỉ lệ danh từ, động từ giảm đi (chỉ còn khoảng 50%) nhường chỗ cho tính
từ và các loại từ khác tăng lên: tính từ đạt tới 15%, quan hệ từ tăng lên đến 5,7%, còn
lại là các loại từ khác. [8]
5
4 Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo
4.1 Biện pháp 1: Hướng dẫn trẻ quan sát
Dạy trẻ quan sát là dạy trẻ biết xem xét, phân tích, so sánh để tìm ra những đặc điểm,
thuộc tính của đối tượng quan sát về các mối quan hệ của nó với môi trường xung quanh.
Quá trình hướng dẫn trẻ quan sát là quá trình có mục đích, kế hoạch, thứ tự. Ví dụ: quan
sát xe ô tô tải: nhìn tổng thể có các: buồng lái, thùng xe, bánh xe, … Sau đó, đi vào quan sát
trong buồng lái xe có những gì? , thùng xe có thể chứa được những vật gì? bánh xe trông
như thế nào? …
Khi quan sát, chọn đối tượng phù hợp với trẻ (đẹp, hấp dẫn, đúng sở thích, ..); chọn từ
ngữ phù hợp, dễ cắt nghĩa, những từ cần cung cáp thông tin cho trẻ; chọn nội dung truyền
tải nhẹ nhàng, gắn liền với cuộc sống của trẻ (nếu trẻ thích xe tải, có thể hướng dẫn trẻ quan
sát theo kiểu: xe tải to, nặng, có xe tải nhỏ - taxi tải để chở đồ đạc, hành lý, hàng hoá, …)
Biện pháp này có thể thường thực hiện ngày cả ở nhà và ở trường mẫu giáo.
4.2 Biện pháp 2: Cho trẻ xem tranh
Trẻ nhỏ rất thích xem tranh, đặc biệt là những dạng tranh nhiều màu sắc, gắn liền với sở
thích, ước mơ, trí tưởng tượng của trẻ. Khi cho trẻ xem nhiều thể loại này vừa pháta triển
vốn từ, vừa giáo dục thẩm mỹ nghệ thuật cho trẻ. Khi miêu tả bức tranh, trẻ sẽ tiếp thu thêm
nhiều từ mới, đồng thời huy động cả vốn từ cũ kể diễn tả những gì trẻ quan sát được.
Khi xem tranh, trẻ thường chú ý một cách tản mạn; trẻ thường tập trung vào những gì
mà chúng thích. Người lớn nên hướng sự quan sát của trẻ theo trật tự. Đầu tiên là nhìn toàn
bộ bức tranh: vẽ về ai, vẽ về cái gì, sau đó mới đi vào chi tiết. Sau cùng, người lớn nên miêu
tả ngắn gọn về toàn bộ bức tranh.
Có thể sử dụng các bức tranh vẽ, kết hợp cho trẻ quan sát và đàm thoại theo nội dung
bức tranh để trẻ hiểu được từ, đặc biệt là các khái niệm. Ví dụ: Cho trẻ xem một bức tranh
6
vẽ về đàn cá đang bơi. Qua quá trình quan sát, trao đổi và miêu tả, trẻ sẽ dần biết được thế
nào là cá mẹ, đàn cá, bên trái, bên phải, to, nhỏ, xa nhất, gần, gần nhất, …
4.3 Biện pháp 3: Sử dụng đồ chơi
Đồ chơi là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc giáo dục trẻ nói chung và phát triển
vốn từ nói riêng. Đồ chơi được xem là công cụ, là phương tiện, là đối tượng để trẻ tiếp xúc,
sử dụng. Đối với việc phát triển vốn từ, đồ chơi rất quan trọng, vì mọi sự vật trong thế giới
khách quan đều gắn với một từ nhất định (từ phản ánh sự vật hiện tượng). Ngoài ra, đồ chơi
còn gây hứng thú cho trẻ, tạo điều kiện cho trẻ hoạt động tích cực hơn.
Đối với trẻ từ 3 – 6 tuổi, người lớn nên cẩn thận lựa chọn các đồ chơi phù hợp, đơn giản,
tăng tính sáng tạo cũng như có sức hấp dẫn cho trẻ. Có thể sử dụng nhiều đồ chơi khác nhau
cùng một lúc. Với trẻ lớn (5 – 6 tuổi) có thể sử dụng các đồ chơi lắp ghép nhiều bộ phận.
4.4 Biện pháp 4: Sử dụng các trò chơi
Trong quá trình sử dụng trò chơi, trẻ sẽ được cung cấp từ mới và có cơ hội hiểu nghĩa
của từ mới trong hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Đồng thời, trong quá trình chơi, trẻ viết vận
dụng, sử dụng từ ngữ vào hoàn cảnh chơi để nhận vai chơi, giải quyết các tình huống phát
sinh trong quá trình chơi, nhiệm vụ chơi một cách phù hợp. Trò chơi sẽ giúp trẻ nhận biết,
cung cấp từ mới, tập phát âm, tập nói, tập sử dụng từ ngữ để diễn đạt đúng mục đích, ngữ
cảnh, tăng cường khả năng tương tác và thiết lập mối quan hệ với mọi người xung quanh,
giúp trẻ phát triển kỹ năng giao tiếp. Trò chơi là cầu nối để cung cấp vốn từ cho trẻ một
cách thoải mái, không gò ép, mà còn tạo được sự hấp dẫn, hứng thú đối với trẻ.
Một số trò chơi gợi ý [10]:
- Trò chơi chiếc túi kỳ diệu: cho đồ chơi vào túi. Trẻ dùng tay để xác định tên của món
đồ chơi đó, nếu đúng sẽ được rút tiếp lần 2, nếu chưa đúng sẽ nhường quyền cho
những người xung quanh (ông bà, ba mẹ hay bạn bè).
7
- Trò chơi gặp gỡ bạn mới: trẻ đóng vai chủ nhà hoặc khách. Khi khách đến nhà, chủ
nhà sẽ phải nói làm gì với khách. Và ngược lại. Tro chơi này củng cố thói quen giao
tiếp ngôn ngữ, học cách sử dụng các câu từ chào hỏi, lễ nghi, …
- Trò chơi đóng vai theo chủ đề: cho trẻ hoá thân vào các nhân vật với các chủ đề khác
nhau (thiên nhiên, gia đình, lớp học, phim hoạt hình, …). Thông qua những “vai”
diễn của mình, trẻ sẽ tăng tính sáng tạo, tính tự lập cũng như phát triển vốn từ và sử
dụng cấu trúc ngữ pháp một cách linh hoạt hơn.
4.5 Biện pháp 4: Sử dụng hệ thống các câu hỏi mở, cho trẻ thường xuyên nhắc lại các
từ khó, từ mới
Trẻ rất hay tò mò, khao khát được khám phá về thế giới xung quanh nhưng không có
kinh nghiệm về thực tiễn hay nói đúng hơn là vốn từ còn hạn chế, chưa có kỹ năng nhiều về
cách đặt câu hỏi. Do đó, trẻ cần có sự hướng dẫn và định hướng ban đầu của người lớn (ông
bà, cha mẹ hay cô giáo,…). Dù là người hay trẻ đặt câu hỏi, thì đây cũng là cơ hội cho trẻ
suy nghĩ và thể hiện được suy nghĩ đó bằng ngôn ngữ [15.]
Việc sử dụng hệ thống câu hỏi mở là một trong những biện pháp để phát triển vốn từ
cho trẻ. Ví dụ: Con thích con vật nào nhất? Vì sao? Bông hoa này có những đặc điểm gì?
Mặt trời đẹp nhất khi nào? … Thông qua biện pháp này, bên cạnh việc phát triển ngôn ngữ,
trẻ tăng cường sự tập trung, chú ý cũng như tính sáng tạo trong việc sử dụng linh hoạt ngôn
ngữ.
5 Kết luận
Ở tuổi mẫu giáo, trẻ phải nắm được một vốn từ cần thiết đủ để cho chúng giao tiếp với
bạn bè, người lớn, tiếp thu các tri thức ban đầu từ môi trường xung quanh và chuẩn bị cho
hoạt động học tập trong các trường phổ thông. Vì thế, việc hình thành vốn từ là một nhiệm
vụ quan trọng trong quá trình phát triển tâm lý của giai đoạn này.
8
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo. (2019). Tiếng Việt (lớp 4, lớp 5). Nxb Giáo Dục.
2. Nguyễn Thị Diệu Hoa. (2012). Giáo trình Tâm lý học phát triển. Nxb Đại học Sư
Phạm.
3. Jalongo, M. R. (2008). Learning to listen, listening to learn. Washington, DC:
NAEYC.
4. Jalongo, M. R. (2000). Early childhood language arts (3rd ed.). Needham Heighs,
MA: Allyn and Bacon.
5. Locke, J. L. (1993). The children’s path to spoken language. Cambridge, MA:
Harvard University Press.
6. Nguyễn Xuân Khoa. (1998). Tiếng Việt. Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.
7. Nguyễn Xuân Khoa. (2017). Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo.
Nxb Đại học Sư Phạm Hà Nội.
8. Lưu Thị Lan. (1997). Những bước phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 0 – 6 tuổi. Luận án
tiến sĩ Ngôn Ngữ học. Đại học KHXH&NV Hà Nội.
9. Hoàng Phê (chủ biên). 2009. Từ điển Tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng.
10. Nguyễn Thị Phương Nga. (2005). Tuyển tập bài tập trò chơi phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mầm non. Nxb Giáo Dục.
11. Nguyễn Thị Phương Nga. (2006). Giáo trình Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mầm non. Nxb Giáo dục.
12. Rober A. Baron (1999), Psychology (4th ed.), Pearson College Div.
13. Đinh Hồng Thái, Trần Thị Mai. (2011). Giáo trình Phát triển phương pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Nxb Giáo dục.
9
14. Đinh Hồng Thái. (2017). Giáo trình Phát triển ngôn ngữ cho tuổi mầm non. Nxb Đại
học Sư Phạm.
15. Vukelich, C., Christie, J., & Enz, B. (2008). Helping young children learn language
and literacy: birth through kindergarten. Boston, MA: Pearson.
10
NGĂN NGỪA BỎ HỌC SỚM – KINH NGHIỆM CỦA HOA KỲ VÀ
NGỤ Ý CHO VIỆT NAM
Nguyễn Thuỵ Diễm Hương2
Tóm tắt
Bỏ học sớm luôn là mối bận tâm của mọi quốc gia. Sau nhiều năm nghiên cứu, áp dụng
và đánh giá, Hoa Kỳ đã xác định những chiến lược hiệu quả để ngăn ngừa tình trạng bỏ học
sớm. Các chiến lược này được khuyến khích thực hiện trên toàn quốc ở các phương diện
khác nhau để đảm bảo rằng không một trẻ em nào bị rớt lại đằng sau. Những kinh nghiệm
này thực sự có thể áp dụng tại Việt nam nhưng không rập khuôn máy móc mà phù hợp với
bối cảnh đất nước.
Từ khóa: giáo dục, bỏ học sớm, trẻ em ngoài nhà trường
1 Dẫn nhập
Từ năm 1986, Trung tâm ngăn ngừa bỏ học quốc gia (National dropout prevention
center – NDPC) của Mỹ đã tiến hành các nghiên cứu, tài trợ cho các hội thảo và hội nghị
quốc gia và hợp tác với các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách và các nhà thực
hành để tiếp tục sứ mạng làm giảm tỷ lệ bỏ học của giới trẻ Mỹ. NDPC đã xác định được
những chiến lược có tác động tích cực nhất đến việc giảm tình trạng bỏ học. Những chiến
lược này có vẻ độc lập với nhau, nhưng thực ra chúng thực sự gắn kết và xếp chồng lên
nhau. Mặc dù cũng có thể thực hiện riêng biệt từng chiến lược, nhưng nghiên cứu cho thấy
kết quả sẽ tích cực hơn nhiều khi phối hợp cùng lúc toàn bộ hoặc hầu hết các chiến lược này.
Các chiến lược này đã tỏ ra thành công ở tất cả các cấp trường từ mầm non đến lớp 12, ở
2 Giảng viên Trường Đại Học Mở Thành phố Hồ Chí Minh
11
thành thị lẫn nông thôn. Chúng được nhóm thành bốn nhóm: các chiến lược nền tảng
(foundational strategies), các chiến lược can thiệp sớm (early intervention), các chiến lược
cốt lõi cơ bản (basic core strategies), và nhóm quản lý và cải tiến giáo dục (managing and
improving).
2 Nhóm các chiến lược nền tảng
2.1 Đôi mới hệ thống
Đổi mới hệ thống là một quá trình liên tục đánh giá các mục đích và mục tiêu liên quan
đến chính sách, phương cách thực hành và cơ cấu tổ chức của trường vì chúng ảnh hưởng
đến toàn bộ nguồn học sinh đa dạng. Việc đánh giá thường xuyên này giúp xác định những
cách làm mới để nâng cao chất lượng giáo dục, xóa bỏ mọi rào cản trong tổ chức và đem lại
một cơ cấu hỗ trợ cho những thay đổi giúp nâng cao thành tích học sinh (Duttweiler, 2004,
p56).
Để chiến lược này thành công, trước hết phải có được sự đồng thuận trong toàn bộ hệ
thống, ít nhất từ cấp thành phố đến các trường học. Kế đến, đội ngũ lãnh đạo phải thực sự
cởi mở và ổn định. Họ có năng lực năng lực lập kế hoạch và thực hiện cải cách từ trong ra
ngoài. Bên cạnh đó, yếu tố thời gian và nguồn lực xung quanh cũng hết sức quan trọng
trong việc góp phần tăng tính hiệu quả của việc đổi mới.
Chiến lược tiếp cận hệ thống cho thấy sau năm năm bền bĩ thực hiện, các mô hình cải
cách đã giúp cải thiện điểm kiểm tra của học sinh rõ rệt (Borman, Hewes, & Brown, 2002).
2.2 Hơp tác giữa Cộng đồng và trường học
Trường học không tồn tại độc lập nhưng được đặt trong một cộng đồng. Để học sinh
duy trì việc học, để các nhu cầu về xã hội, kinh tế và gia đình, cũng như nhu cầu học tập
được đáp ứng đầy đủ, các em cần sự hỗ trợ và giúp đỡ cả cộng đồng. Vì thế sự hợp tác giữa
12
cộng đồng với trường học là cần thiết. Chiến lược Hợp tác giữa Cộng đồng và trường học
bắt nguồn từ hai niềm tin mãnh liệt: (1) tất cả mọi tổ chức, đoàn thể trong cộng đồng đều có
thể là nguồn hỗ trợ tốt cho trường học và (2) cơ sở hạ tầng vững chắc giúp duy trì môi
trường quan tâm nâng đỡ là nơi người trẻ có thể phát triển và thành đạt.
Hợp tác giữa cộng đồng và trường học là sự chung tay vì sự nghiệp giáo dục giữa nhà
trường và các nhóm hoặc cơ quan đoàn thể như trường học, gia đình, nơi thờ phượng (chùa,
nhà thờ), giới truyền thông, bảo tàng, thư viện, các cơ quan cộng đồng và các doanh nghiệp.
Công tác tình nguyện và tài trợ là hai phương thức chính mà cộng đồng có thể hỗ trợ trường
học. Ngoài ra, một số sáng kiến khác bao gồm chương trình tạo việc làm, phòng chống lạm
dụng ma túy, các trung tâm sau giờ học và hoạt động tăng năng lực cho phụ huynh.
Thông thường Chiến lược Hợp tác giữa Cộng đồng và trường học thành công sở hữu
bảy đặc tính sau: chia sẻ tầm nhìn chung, lãnh đạo có kỹ năng, định hướng tiến trình, đa
dạng văn hóa, chương trình nghị sự lấy thành viên làm trung tâm, có sự đại diện của mọi lực
lượng xã hội và có trách nhiệm giải trình (The National Assembly, 1991, 2000).
Nghiên cứu của Schargel và Smink cho thấy chiến lược Hợp tác giữa cộng đồng và nhà
trường đem lại lợi ích không chỉ cho học sinh mà còn cho cả cộng đồng này. Nó giúp trẻ cải
thiện khả năng đọc hiểu và làm toán, tăng tỉ lệ hiện diện trong lớp, giảm tỷ lệ đình chỉ học
và bỏ học, gia tăng nhận thức cộng đồng về những vấn đề của trẻ có nguy cơ, tạo ra sự đối
thoại nhiều hơn giữa các lãnh đạo và đại diện cộng đồng, phát triển hệ thống thông tin dồi
dào, cải thiện sự hợp tác giữa khu vực công và tư nhân (Schargel & Smink, 2001, p. 201).
2.3 Môi trường học tập an toàn
Học sinh bỏ học vì nhiều lý do, nhưng bạo lực và xung đột là những yếu tố góp phần
cho tình trạng này. Trung tâm phát triển giáo dục Mỹ phát hiện rằng chỉ một nửa số trẻ em
cảm thấy an toàn trong trường. Mỗi ngày, khoảng 160. 000 học sinh nghỉ học vì bị bạo hành
13
thể chất (Educational Development Center, 1996). Ngoài ra, nhiều nghiên cứu cho thấy rằng
bạo lực học đường có tác động đến cộng đồng. 40% trẻ đã từng bắt nạt người khác khi đi
học có ít nhất 3 tiền án khi đến tuổi 24 (Fight Crime, 2003, p. 5). Sớm giải quyết vấn đề này
sẽ rất có ích cho tương lai của trẻ em sau này (Duttweiler và Smink, 1997).
Điều hiển nhiên là giải quyết xung đột và bạo lực không chỉ rất quan trọng đối với
những trẻ có nguy cơ bỏ học mà tác động tích cực đối với mọi học sinh bởi vì các em không
thể tập trung học trong môi trường thiếu an toàn. Đặc biệt, đối với những học sinh đang vật
lộn với áp lực học tập và cần hỗ trợ, môi trường thân thiện rất quan trọng
Chiến lược môi trường học tập an toàn không dung thứ cho những hành vi bắt nạt, đe
dọa và khủng bố. Nó tập trung vào việc giúp trẻ đạt được thành tích học tập tốt, duy trì
chuẩn mực đạo đức, bồi dưỡng mối quan hệ tích cực giữa giáo viên và học sinh, khuyến
khích sự tham gia của cha mẹ và cộng đồng. Chiến lược này thúc đẩy việc xây dựng và thực
hiện một kế hoạch phòng chống bạo lực toàn diện, bao gồm giải quyết xung đột, đối phó
với bạo lực tiềm năng, quản lý khủng hoảng và huấn luyện thái độ xã hội tích cực, kỹ năng
giao tiếp hiệu quả cho tất cả học sinh, cho chuyển trường nếu không cảm thấy an toàn. Thay
vì phản ứng với xung đột bằng bạo lực hoặc tránh né, học sinh được dạy cách đối phó với
xung đột cách thích hợp. Các em được trau dồi kỹ năng giao tiếp hiệu quả để xứ lý các tình
huống nhóm, học cách tiết chế, quản lý và giải quyết các xung đột (Schargel & Smink,
2001).
Thông thường, trường sẽ có một ủy ban lập kế hoạch trường học an toàn với thành viên
đa dạng và có sự tham gia của cộng đồng. Sau khi đánh giá các số liệu về tội phạm học
đường, Ủy ban xác định một kế hoạch bao gồm những chiến lược và những chương trình
đem lại sự an toàn cho trường học cũng như đảm bảo các thủ tục hoạt động hợp pháp. Kế
tiếp, Ủy ban tổ chức một cuộc họp thông báo cho mọi người trước khi thực hiện kế hoạch,
14
phổ biến kế hoạch cách rộng rãi, thực hiện và giám sát chặt chẽ. Hàng năm, Ủy ban có thể
lượng giá sửa đổi kế hoạch nếu cần (Stephens, 2004).
3 Các chiến lược can thiệp sớm
3.1 Gia đình tham gia
Một nghiên cứu tổng hợp của Henderson và Mapp (2002) kết luận rằng sự tham gia của
gia đình tỉ lệ thuận với thành tích học tập của trẻ. Điều này luôn đúng với mọi học sinh
thuộc mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp kinh tế xã hội, chủng tộc / dân tộc và mọi nền giáo dục.
Clark (1993) cho thấy rằng việc trẻ dành thời gian để làm bài tập và đọc sách ở nhà là do sự
gắn kết giữa nhà trường và gia đình.
Nguyên tắc chủ đạo để thu hút sự tham gia của gia đình là thấu hiểu các phẩm chất, đặc
điểm và nhu cầu của cha mẹ để vượt qua những rào cản ngăn trở sự giao tiếp giữa nhà
trường và gia đình. Henderson và Mapp (2002) đề xuất các bước hành động sau để thiết lập
các chương trình tương tác hiệu quả với gia đình: (1) Nhìn nhận rằng tất cả các bậc cha mẹ
dù ở tình trạng thu nhập, giáo dục hay nền văn hóa nào cũng đều quan tâm đến giáo dục và
muốn con cái học tốt ở trường; (2) Ra sức nối kết gia đình và lôi kéo sự tham gia của cộng
đồng trong công tác giáo dục; (3) Tạo ra những sáng kiến hỗ trợ các gia đình hướng dẫn trẻ
học ngay từ sơ sinh; (4) Phát triển năng lực của cán bộ trường học để làm việc với gia đình;
(5) Tập trung nỗ lực để thúc đẩy phát triển mối tương quan tin tưởng và tôn trọng; (6) Hợp
tác và sẵn sàng chia sẻ quyền lực với gia đình. Đảm bảo rằng các bậc phụ huynh và nhân
viên trường học hiểu rằng trách nhiệm phát triển giáo dục của trẻ em là trách nhiệm chung.
Như vậy, với chiến lược Gia đình tham gia, cha mẹ không thể “giao khoán” cho trường
học nhưng chịu trách nhiệm tạo ra môi trường khuyến khích, nâng đỡ tại nhà, thường xuyên
quan tâm trao đổi với trẻ, đưa ra những mong đợi vừa tầm, định hướng nghề nghiệp tương
lai của con. Với sự giúp đỡ của nhà trường, cha mẹ có thể đăng ký các khóa huấn luyện,
15
được chia sẻ tài liệu và kinh nghiệm động viên con cái phát triển, giải quyết những vấn đề
về sức khỏe và hành vi của trẻ cũng như bồi dưỡng các kỹ năng tự quản và nghề nghiệp cho
trẻ ngay tại gia đình (Mapp, 2004).
Chiến lược Gia đình tỏ ra rất hữu dụng trong thực tế. Các nghiên cứu cho thấy khi cha
mẹ quan tâm đến việc học của con cái, các em đi học đều đặn hơn, hoàn thành bài vở
thường xuyên hơn và cải thiện được kết quả học tập. Bên cạnh đó, những hành vi không
mong muốn như bạo lực, nghiện ngập giảm rõ rệt. Trẻ cư xử đúng mực đối với thầy cô, bạn
bè, gia đình và những người xung quanh (Henderson & Mapp, 2002).
3.2 Giáo dục tốt từ thuở ấu thơ
Nhiều nghiên cứu gần đây đã xác định tầm quan trọng của sự phát triển nhận thức xã
hội trong những năm đầu đời. Những can thiệp từ khi mới sinh đến lúc năm tuổi giúp gia
tăng sự phát triển của não bộ. Trong khi môi trường kích thích phát triển phù hợp ban đầu là
nền tảng cho sự phát triển sau này thì ngược lại, những trải nghiệm từ môi trường độc hại
khiến não bộ của trẻ bị đầu độc và tổn thương lâu dài. (Cartwright, 2012).
Jimerson, Reschly và Hess (2008) cho biết việc bỏ học không diễn ra đột ngột nhưng đó
là quá trình trẻ rút lui dần. Các vấn đề về hành vi, khó khăn trong giao tiếp, không hoàn
thành các bài tập cũng như những vấn đề liên quan đến việc thích nghi ở trường có thể được
xác định ngay từ những năm đầu cấp tiểu học. Do đó, việc sớm nhận dạng những rủi ro là
một phương cách hết sức cần thiết trong giáo dục trẻ nhỏ. Nếu vấn đề được xác định và giải
quyết sớm thì tác động của nó ít. Nếu chờ cho đến cấp trung học cơ sở hoặc trung học phổ
thông thì có lẽ đã quá muộn đối với nhiều em.
Giáo dục từ thuở ấu thơ là xây dựng nền giáo dục chất lượng cao ngay từ cấp mầm non
trong đó đặt trọng tâm ở tính toàn diện, nhất quán, thực tiễn, khích lệ khai phá và tương tác
trong suốt chương trình học. Chiến lược này tập trung từ trẻ 0 tuổi đến mẫu giáo để đảm
16
bảo rằng trước khi vào lớp 1, các kỹ năng ngôn ngữ, nhận thức và tự tư duy của trẻ phát
triển tốt. Trẻ được dìm mình trong môi trường có các trải nghiệm học tập phù hợp, phong
phú và có nhiều cơ hội tương tác xã hội (Francis, Dioro, Plotsky, & Meaney, 2002;
Stegelin, 2004).
Reynolds, Temple, Robertson, và Mann (2001) cho biết so với những trẻ khác, trẻ từng
tham gia các chương trình giáo dục từ thuở thơ ấu trong ít nhất 1,2 năm có năng lực và
thành tích cao trong học tập, có sự tự tin hơn, biết tự điều chỉnh bản thân, ít dính vào những
hành vi phạm pháp và ít lưu ban hoặc bỏ học hơn sau này.
3.3 Biết đọc, biết viết sớm
Đọc hiểu và viết tốt là một trong những yêu cầu cơ bản để có thể đạt được thành tích
cao trong học tập và trong mỗi công việc. Theo truyền thống, để giúp trẻ cải thiện kỹ năng
đọc hiểu thì chỉ có một phương cách, đó là chờ cho đến khi chúng sẵn sàng (Pinnell, Deford,
& Lyons, 1988). Những trẻ chưa đọc trôi chảy được cho lưu ban hoặc cho tham gia các
chương trình học riêng với các trẻ đồng cảnh. Nhưng đây lại là nguyên nhân khiến trẻ bỏ
học sớm và có thu nhập thấp khi trưởng thành (Donley, Baenen, Hundley, 1993). Các nhà
nghiên cứu ngày nay tin rằng nên can thiệp sớm và cung cấp các dịch vụ cần thiết để ngăn
trẻ rơi vào thất bại sau này. Những can thiệp sớm thường giúp các trẻ học chậm cải thiện kỹ
năng đọc và viết đồng thời xây dựng nền tảng cần thiết để trẻ có thể học các môn khác hiệu
quả hơn.
Nguyên tắc căn bản để giúp trở thành một người đọc hiểu, có kỹ năng nhận thức và kỹ
năng ngôn ngữ tốt đó là cho học trước khi đến tuổi đến trường. Cha mẹ và những người
chăm sóc trẻ nhỏ được khuyến khích đọc sách hàng ngày cho bé nghe ngay từ thuở sơ sinh
và nằm nôi. Thậm chí, sau khi trẻ bắt đầu đến trường, cha mẹ cũng nên duy trì việc đọc sách
với con.
17
Flippo (2001) đề xuất một số yếu tố giúp chiến lược Biết đọc, biết viết sớm đạt được
hiệu quả ở trường. Thư viện trường cần trang bị nhiều đầu sách phong phú. Các hoạt động
đọc và viết cần được đa dạng hóa và được cho đủ thời gian để thực hiện. Người dạy đọc lớn
tiếng, để trẻ đọc to cho mọi người nghe, cho đọc chung và hỗ trợ nhau khi học. Người dạy
cũng để ý đến âm, vần; hướng dẫn trẻ hiểu bản văn và viết tốt.
Bên cạnh đó, cộng đồng cũng có thể chung tay trong việc này. Họ thể tạo thói quen đọc
sách bằng những thư viện cộng đồng và các chương trình thi đọc sách tại địa phương
(Alexander & Entwisle, 1996).
4 Những Chiến lược cốt lõi cơ bản
4.1 Cô vấn học tập
Cố vấn là một nghệ thuật chuyên nghiệp đã có từ lâu đời ở nhiều nơi trên thế giới với
mục tiêu xây dựng, phát huy thế mạnh của mối tương quan tích cực và hữu ích giữa người
với người. Đây là hình thức chăm sóc, hỗ trợ 1-1, giữa một người hướng dẫn và một người
được hướng dẫn trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau. Trong trường học, cố vấn học tập giải quyết
các nhu cầu cụ thể của học sinh như đọc hiểu, viết văn, làm toán; các vấn đề về định hướng
nghề nghiệp, kỹ năng giao tiếp, thích nghi…. Công tác cố vấn học tập có thể được thực hiện
dưới nhiều dạng thức khác nhau như cố vấn một – một, cố vấn nhóm, cố vấn di động tùy
chủ đề. Các trường học sử dụng chiến lược Cố vấn học tập thường tuyên bố rõ ràng mục
đích và mục tiêu của chương trình, tuyển dụng và tuyển chọn kỹ người làm cố vấn, đào tạo
và hỗ trợ các cố vấn, thường xuyên giám sát và đánh giá chương trình (Smink, 1999).
Theo nhiều tác giả, sự ảnh hưởng của các cố vấn học tập làm thay đổi chu kỳ tiêu cực
của người được cố vấn và gia đình của họ, giúp xây dựng lại những ước mơ của trẻ có hoàn
cảnh khó khăn (Tierney & Grossman, 1995; McLearn, Colasanto, and Schoen, 1998). Cố
vấn học tập thúc đẩy trẻ nâng cao thành tích học tập, chuẩn bị tốt cho thị trường lao động và
18
việc làm, điều chỉnh hành vi, gia tăng năng lực giải quyết vấn đề trong gia đình và gánh vác
trách nhiệm xã hội. Đối với hệ thống giáo dục, Cố vấn học tập góp phần gia tăng tỉ lệ đến
lớp, giảm bớt tình trạng kỷ luật học đường và mang thai sớm, nâng tỷ lệ tốt nghiệp.
Chìa khóa thành công của chiến lược này là phẩm chất mối tương quan giữa người cố
vấn và người được cố vấn. Cẩm nang hướng dẫn Cố vấn học tập đã xác định người cố vấn
là một người bạn thông thái, đáng tin cậy, cam kết hướng dẫn và hỗ trợ cho người được cố
vấn để giúp họ phát triển mọi tiềm năng và đạt được những ước mơ của mình. Để đem lại
lợi ích tốt nhất cho trẻ, người cố vấn phải xem nhu cầu của trẻ là một phần hết sức giá trị
trong công việc của mình. Người ấy phải sẵn sàng dành thời gian cho trẻ nhưng tôn trọng
những quyết định của trẻ, có thái độ cư xử phù hợp, chịu trách nhiệm giữ cho tương quan
đôi bên sống động và biết tìm kiếm sự hỗ trợ và tư vấn của người có chuyên môn khi cần
(National Mentoring Partnershipp, 2015).
4.2 Học qua phục vụ cộng đồng
Một trong các nguyên nhân khiến học sinh bỏ học là cảm giác nhàm chán khi đến
trường. Service learning – Học qua phục vụ cộng đồng là một chiến lược học tập chủ động
gắn trường học với thế giới thực. Service learning nối kết các trải nghiệm dịch vụ cộng
đồng với việc học tập ở trường. Nó khuyến khích mở rộng kiến thức và tầm nhìn của học
sinh bằng các công việc phục vụ tại cộng đồng.
Những yếu tố giúp chương trình thành công bao gồm:
- Chương trình hỗ tương, đôi bên, học sinh và cộng đồng cùng có lợi
- Học sinh học bằng cách áp dụng những kiến thức và kỹ năng trên lớp để đáp ứng
những nhu cầu thiết thực của cộng đồng
- Học sinh có thời gian để phản ánh về những gì đang làm thông qua bài viết và các
buổi thảo luận về các ứng dụng trong bối cảnh thực tế
19
- Học sinh tích cực tham gia xây dựng chương trình học và tự quản lý các dự án học
tập dựa vào cộng đồng trong suốt một học kỳ hoặc cả năm học
- Giáo viên sử dụng nhiều tài liệu học tập và phương pháp hướng dẫn
- Môi trường học tập đem lại niềm vui và hứng thú (Shumer & Duckenfield, 2004, p.
141, Pearson, 2002).
Phương pháp dạy và học này đem lại rất nhiều lợi ích cho các bên liên quan. Nó cho
phép học sinh chủ động sử dụng các kỹ năng học tập và tìm hiểu kiến thức mới trong môi
trường sống động, cộng tác với những hình mẫu người lớn trong cộng đồng, làm việc theo
nhóm. Quá trình đó giúp trẻ thấy được tầm quan trọng của việc học ở trường và việc chọn
lựa nghề nghiệp trong tương lại. Nhiều em nhận thức rõ hơn các vấn đề xã hội hiện tại và
nhận ra trách nhiệm công dân qua việc tích cực phục vụ cộng đồng ngay từ bé. Khả năng
suy tư, óc phán đoán và các kỹ năng tương tác của chúng cải thiện nhiều qua các hoạt động
này.
Đối với trường học, Học tập qua phục vụ cộng đồng là một phương tiện mạnh mẽ để cải
cách trường học cách hiệu quả. Nó vừa củng cố tầm quan trọng và giá trị của học đường
vừa làm phong phú và sinh động hóa công tác giảng dạy của giáo viên. Nó mở rộng tài
nguyên, giúp xây dựng tình hợp tác hỗ tương giữa nhà trường với các cộng đồng địa
phương và tạo ra những lãnh vực nghiên cứu và học thuật mới. Đối với cộng đồng, Học tập
qua phục vụ cộng đồng cung cấp nguồn nhân lực quan trọng cho cộng đồng, gia tăng cơ hội
cho người dân đóng góp khả năng và lòng nhiệt tình trong việc giáo dục lớp trẻ, tạo điều
kiện cho sự hợp tác lâu dài giữa cộng đồng và nhà trường (Morgan & Streb, 2001).
4.3 Giáo dục thay thế
Giáo dục thay thế được xây dựng dựa trên niềm tin cơ bản là mọi học sinh đều có thể
học và các em cần được cho cơ hội học tập phù hợp với bản thân. Giáo dục thay thế đem lại
20
cho những học sinh có nguy cơ bỏ học (trẻ học kém, thiếu điểm để tốt nghiệp, không theo
kịp bạn bè, vi phạm pháp luật, có thai ngoài ý muốn….) những chọn lựa khác với giáo dục
truyền thống nhằm giúp các em có thể tốt nghiệp trung học phổ thông như lòng mong ước.
Hefner - Packer (1991) đã nghiên cứu và mô tả 5 mô hình trường học thay thế ở Mỹ:
- Lớp học thay thế, có một lớp học độc lập trong một trường học truyền thống nhưng
có các chương trình đa dạng (giống giáo dục hội nhập của ta)
- Trường bên trong trường, có hẳn một trường học nhỏ với các chương trình giáo dục
chuyên biệt bên trong một trường học truyền thống
- Trường thay thế riêng biệt, tách biệt với trường phổ thông thông thường và có các
chương trình học và giúp điều chỉnh hành vi riêng
- Trường giáo dục thường xuyên, dành cho học sinh không thể theo học các trường
truyền thống được nữa, hoạt động như một học viện để đào tạo nghề hoặc các trung tâm dạy
làm cha mẹ
- Trường chuyên sâu, cung cấp một chương trình chuyên môn hóa trong một hoặc
nhiều lãnh vực như toán học hoặc khoa học
Dù ở hình thức nào, trường phải có sứ mệnh rõ ràng, cam kết giúp đỡ từng học sinh, có
bộ quy tắc kỷ luật và tổng số học sinh không quá 250 em. Trường có chương trình học cụ
thể phù hợp mong đợi và cách học của mỗi em, lịch học linh hoạt với sự tham gia và hỗ trợ
của cộng đồng. Ban giám hiệu thường xuyên quan tâm đến sự phát triển của giáo viên. Mỗi
giáo viên phụ trách tối đa 10 học sinh, đặt kỳ vọng vào thành tích học tập của học sinh.
Các loại hình giáo dục thay thế tạo nên sự bình đẳng trong giáo dục và có sự đáp ứng
các nhu cầu đa dạng của học sinh và gia đình. Chúng góp phần làm giảm tình trạng trốn học
và các vấn đề liên quan đến hành vi đồng thời giúp tích lũy các tín chỉ và đạt được mục tiêu
học tập (Cash, 2004).
21
4.4 Các chương trình sau giờ học/ khi nghỉ hè
Để giải quyết tình trạng nhiều trẻ em tự xoay xở sau giờ học hoặc trong thời gian nghỉ
hè mà không có người giám sát, nhiều trường cung cấp các chương trình nâng cao sau giờ
học hoặc suốt kỳ hè. Những trải nghiệm như vậy đặc biệt quan trọng đối với học sinh có
nguy cơ học kém vì chúng lấp đầy những khoảng thời gian trống bằng các hoạt động hấp
dẫn, mang tính xây dựng. Theo Peterson và Fox (2004), các chương trình sau giờ học kiểu
mẫu thường hỗ trợ học tập, giúp học sinh làm bài tập, cố vấn việc học, luyện đọc và viết.
Các chương trình này còn tổ chức dã ngoại; dạy các môn nghệ thuật, ngoại ngữ, công nghệ,
kỹ năng tuy duy phản biện; dạy và tổ chức các hoạt động thể thao; kết nối với hoạt động
cộng đồng.
Nhiều nghiên cứu cho thấy các chương trình ngoài giờ học có ảnh hưởng tích cực đến
thành tích học tập, hành vi xã hội của trẻ và cung cấp cơ hội làm giàu bản thân cho trẻ. Khi
tham gia các chương trình này, trẻ nhận được những hỗ trợ trong học tập, có thời gian vui
chơi giải trí lành mạnh, phát triển năng khiếu và giao lưu văn hóa với các bạn khác. Trẻ
phát triển cảm xúc và có mối quan hệ với bạn bè tốt hơn. Nhờ đó, tình trạng bỏ học ở
trường cũng như lập băng đảng, nghiện ngập, phạm pháp trong cộng đồng giảm rõ rệt
(Department of Education, 2002; Fight Crime, 2014).
5 Quản lý và cải tiến giáo dục
5.1 Phát triển chuyên môn
Thực tế chứng minh chất lượng của giáo viên là một trong những chỉ báo quan trọng
cho sự thành công của học sinh (Darling - Hammond, 1998). Vì thế, giáo viên làm việc với
trẻ có nguy cơ bỏ học cần liên tục phát triển bản thân, tích lũy kỹ năng/kỹ thuật và học hỏi
những phương pháp tiên tiến. Giáo viên cần có sự đầu tư về chất lẫn về lượng.
22
Về kiến thức và kỹ năng, giáo viên cần được đào tạo kỹ về môn học mình giảng dạy, có
hiểu biết về các giai đoạn phát triển của trẻ, nắm vững và ứng dụng nhuần nhuyễn phương
pháp dạy và học. Về phẩm chất đạo đức, giáo viên trau dồi các đặc tính cốt lõi: tận tụy,
quan tâm, chịu trách nhiệm quản lý và giám sát việc học của học sinh, ý thức nâng cao trình
độ chuyên môn, không ngừng học hỏi kinh nghiệm, hợp tác với cộng đồng (The National
Broad for Professional Teaching Standards, 2016).
Hội đồng Chất lượng giáo dục của Mỹ đánh giá hiệu quả các chương trình Phát triển
chuyên môn cho giáo viên của các trường dựa trên 3 tiêu chí. Thứ nhất là chương trình có
sự hỗ trợ của lãnh đạo và trải dài nhiều giai đoạn. Thứ hai, nội dung đào tạo phù hợp với
chương trình giảng dạy với các chủ đề tập trung nâng cao chuyên môn. Thứ ba, giáo viên
được tham gia nhiều hoạt động chủ động như chứng minh, thực hành, phản hồi và thực hiện
nghiên cứu hợp tác về việc học của học sinh. Sau cùng, kết quả đào tạo được áp dụng vào
thực tế để liên tục cải thiện việc dạy và học (The Council for School Performance, 1998).
5.2 Giáo dục chủ động
Nghiên cứu cho thấy rằng mỗi người có cách tiếp thu riêng. Nếu sử dụng cách học phù
hợp thì não bộ sẽ phát huy công năng và kết quả học tập sẽ cao. Ngược lại, nếu bị áp đặt,
kết quả sẽ không như mong đợi. Giáo dục chủ động là chiến lược dạy và học có tương tác
và sự tham gia của người học trong nhiều hoạt động phong phú như thảo luận nhóm, động
não, sắm vai, nghiên cứu trường hợp, sử dụng công cụ trực quan, sơ đồ tư duy, làm dự án…
Những hoạt động học tập này đáp ứng các phong cách học tập khác nhau của học sinh. Qua
đó, các em được được trao nhiều cơ hội thể hiện thế mạnh của bản thân, tìm ra những
phương cách mới mẻ và sáng tạo không ngừng để giải quyết vấn đề.
Nhiều bằng chứng cho thấy giá trị của giáo dục chủ động trong việc cải thiện thành tích
của học sinh viên, đặc biệt học sinh kém và học sinh người dân tộc thiểu số. Nó thúc đẩy ý
23
thức trách nhiệm về việc học và ước muốn học tập suốt đời. Mặt khác, dù với vai trò là
người hỗ trợ kiến thức, giáo viên cũng được thách đố sáng tạo không ngừng, đổi mới
phương pháp giảng dạy để thu hút và tạo ra niềm đam mê học tập cho từng học sinh với
phong cách học tập riêng (Kagan, 1994; Smink, J., & Schargel, 2004).
5.3 Ứng dụng Công nghệ trong giáo dục
Ứng dụng công nghệ trong giáo dục là một trong những chiến lược giúp giảng dạy hiệu
quả. Công nghệ giáo dục có thể xóa bỏ các rào cản trong việc học và đặc biệt hữu ích đối
với sinh viên có nguy cơ. Nó tạo ra vô số cơ hội học tập linh hoạt, giúp tăng năng lực, biến
các em từ thụ động tiếp nhận đến chủ động làm chủ nội dung học tập. Nó tạo ra môi trường
tâm lý an toàn cho học tập, đưa ra những hướng dẫn cá nhân, giúp cải thiện thái độ học tập
của học sinh và tăng hiệu quả cho những hướng dẫn của giáo viên (Boe, 1989, Wesley,
2004). Bên cạnh đó, công nghệ còn mở rộng tầm nhìn bằng cách cung cấp nhiều kinh
nghiệm và tài nguyên cho giáo viễn lẫn trẻ. Nó cũng giúp chuẩn bị cho học sinh đi làm sau
này bởi hầu hết các công việc ngày nay đều đòi hỏi một mức độ sử dụng công nghệ nào đó
(Bennett, 1999).
Tuy nhiên, tích hợp công nghệ vào chương trình giảng dạy là một thách thức đối với
nhiều giáo viên. Máy tính và kết nối với internet thôi chưa đủ nhưng còn cần có những giáo
viên có đam mê, am hiểu sâu sắc, sử dụng thành thạo và có thể dạy học sinh cách sử dụng.
Mặt khác, giáo viên cũng được yêu cầu sử dụng công nghệ phù hợp với mục tiêu dạy học
thay vì lạm dụng nó; xem công nghệ là một phương tiện để khám phá và sáng tạo thay vì
chỉ là một cỗ máy tự động.
5.4 Giảng dạy cá nhân
Mỗi học sinh xuất thân từ hoàn cảnh, điều kiện sức khỏe, trí tuệ, tâm lý, gia đình, kinh
tế, xã hội khác nhau nên có những quan tâm và kinh nghiệm học tập riêng. Dựa trên đạo
24
luật “Không bỏ sót một trẻ thơ nào” (No child is left behind), chương trình Giảng dạy cá
nhân cho phép sự linh hoạt trong phương pháp và chiến lược để thúc đẩy những nét độc đáo
của từng học sinh, cách riêng những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt.
Hai khía cạnh chính của Giảng dạy cá nhân là học tập và tạo động lực. Liên quan đến
học tập, mỗi em có kế hoạch giáo dục riêng để phát triển tiềm năng. Kế hoạch học tập của
mỗi em là kết quả nỗ lực hợp tác giữa trẻ, giáo viên, phụ huynh, ban giám hiệu và nhân viên
các dịch vụ liên quan (như an sinh xã hội, y tế, tâm lý…) sau khi đã có những đánh giá toàn
diện. Dù giảng dạy cá nhân nhưng học sinh được trải nghiệm nhiều hoạt động dạy và học
phong phú để lãnh hội đầy đủ kiến thức, kỹ năng và phẩm chất cần thiết. Các hoạt động này
bao gồm học dựa trên vấn đề, đôi bạn cùng tiến, học qua trải nghiệm, làm dự án, nhật ký
học tập, đóng kịch, sắm vai, mô phỏng, nghiên cứu… (Switzer, 2004, p. 196).
Về động lực, Giảng dạy cá nhân dựa trên ba yếu tố động lực chính. Đó là những giá trị
tích cực, mối tương quan rõ rệt giữa hành vi và hậu quả và sự tin tưởng rằng thành công có
thể đạt được qua việc tận dụng kỹ năng và tài nguyên sẵn có. Ba yếu tố này kích thích học
sinh hợp tác với giáo viên và ra sức học tập.
Như vậy, Giảng dạy cá nhân đem lại cơ hội tốt nghiệp cho học sinh bằng cách cung cấp
cho các em kiến thức, kỹ năng theo nhịp độ, cách thức phù hợp với từng trường hợp.
5.5 Giáo dục kỹ thuật và nghề nghiệp
Chiến lược giáo dục kỹ thuật và nghề nghiệp bắt nguồn từ khi hiện tượng toàn cầu hóa
diễn ra mạnh mẽ trên mọi lãnh vực, đặc biệt là lãnh vực kinh tế. Công nhân được mong đợi
đảm nhận nhiều công việc khác nhau. Vì thế, khả năng học tập suốt đời là điều các doanh
nghiệp mong đợi nơi nhân viên của mình. Thay vì để công nhân tập trung vào một chuyên
môn duy nhất như trong quá khứ, ngày nay nhà tuyển dụng cần những người biết suy tư, ra
quyết định và học được kỹ năng mới hơn là có thâm niên (Clark, 1999).
25
Trong xu hướng đó, những chương trình giáo dục kỹ thuật và nghề nghiệp rất quan
trọng đối với mọi học sinh vì mọi người trẻ cần các kỹ năng cụ thể để chuẩn bị đáp ứng yêu
cầu công việc sau này. Các trường học ở Mỹ có những chương trình đào tạo nghề rất phong
phú như hướng nghiệp, trang bị kiến thức về công nghệ, báo cáo chuyên đề, tham quan thực
tế, thực tập, lớp dạy nghề, học viện nghề, trường trung học hướng nghiệp và các doanh
nghiệp dựa vào trường học (Schargel & Smink, 2001, p. 209). Mọi chương trình Giáo dục
kỹ thuật và nghề nghiệp đều cấp chứng chỉ hoặc chứng nhận cho học sinh
Qua năm tháng, chiến lược Giáo dục kỹ thuật và nghề nghiệp đã phát huy tác dụng. Nó
tạo ra động lực học tập, nâng cao chất lượng đào tạo, giữ chân học sinh ở trường cho đến
khi họ tốt nghiệp, cung cấp kiến thức và năng lực liên quan đến công việc, cung cấp những
trải nghiệm liên kết trường học với thế giới thực đầy lý thú và thúc đẩy sự cộng tác giữa
trường học và doanh nghiệp (Stone, 2004; Schargel and Smink, 2001, p. 212).
6 Ngụ ý cho Việt nam
Bỏ học sớm luôn là một trong những vấn đề nhức nhối của Việt nam. Theo báo cáo của
UNICEF (2016), chưa kể học sinh THPT, vào năm 2014, Việt nam có khoảng 715.400 trẻ
từ 5-14 tuổi ngoài nhà trường. Đặc biệt, vùng Đồng bằng sông Cửu long có tỷ lệ trẻ em
ngoài trường cao nhất nước, độ tuổi 5 tuổi là 14,7% và THCS là 14%. Hậu quả là ở ta chỉ có
28,3% người trong độ tuổi 18 -29 đi học đại học. Tỉ lệ này thuộc hạng thấp nhất thế giới,
thua xa Thái lan với 49,3% và Mỹ 88% (Trần Huỳnh, 2019).
Các chuyên gia cho rằng các rào cản ngăn cản trẻ em Việt nam tới trường được chia
thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất liên quan đến phía cầu, bao gồm nghèo đói và trẻ phải lao
động sớm, di cư, thiên tai, kết quả học tập kém, thiếu sự quan tâm của gia đình, tảo hôn.
Nhóm thứ hai thuộc phía cung: trường học thiếu và chưa chất lượng, môi trường khó tiếp
cận và thiếu hỗ trợ, khoảng cách địa lý, không đủ phương tiện, giáo viên thiếu và yếu, chế
26
độ đãi ngộ không thỏa đáng, năng lực quản lý chưa tốt, chương trình học bất cập, bạo lực
học đường và phân biệt đối xử, rào cản ngôn ngữ, ngân sách giáo dục hạn chế (UNICEF,
2016, p27-28). Như vậy, ngăn ngừa bỏ học ở Việt nam phải tập trung vào việc xóa bỏ rào
cản để tạo ra những “đại lộ thênh thang” cho giáo dục. Công việc này đòi hỏi những chiến
lược toàn diện, đồng bộ, thu hút mọi lực lượng thành phần xã hội tham gia.
Thứ nhất, liên quan đến những chiến lược nền tảng, việc đổi mới hệ thống giáo dục các
cấp theo hướng mở là rất cần thiết để đảm bảo mọi trẻ em được tiếp cận giáo dục dưới
nhiều phương thức đào tạo và môi trường học tập khác nhau. Điều này đòi hỏi Nhà nước
xây dựng hành lang pháp lý và cơ chế vận hành, đầu tư cơ sở hạ tầng cũng như tăng năng
lực và rèn luyện phẩm chất đạo đức cho đội ngũ lãnh đạo giáo dục. Bên cạnh đó, hệ thống
giáo dục cần được gắn kết chặt chẽ với các hệ thống khác như kinh tế, văn hóa, chính trị, xã
hội để đảm bảo một môi trường học tập an toàn, phá bỏ những rào cản gây trở ngại việc học
tập của trẻ.
Thứ hai, để đất nước có được một lực lượng lao động có hiểu biết, kỹ năng và phẩm
chất tốt trong tương lai, Việt nam cần có những chiến lược can thiệp sớm. Một mặt, từng gia
được xem như cái nôi giáo dục đầu tiên. Mỗi gia đình tích cực và chủ động tham gia giáo
dục con ngay từ khi bé mới được sinh ra bằng những làm hết sức cụ thể và trực tiếp như đọc
sách, tập viết, học chung, hỗ trợ trẻ nhằm tạo sự hứng thú và động lực học tập nơi trẻ. Mặt
khác, từng trẻ, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, đều nhận được nền giáo dục tốt nhất ngay từ thuở
ấu thơ làm nền tảng vững chắc cho những bước tiến sau này.
Thứ ba, với chủ trương giáo dục cho mọi người, chúng ta phải nghĩ đến việc triển khai
rộng rãi những chiến lược cốt lõi cơ bản. Theo đó, các trường phát động mạnh mẽ các
chương trình cố vấn học tập theo sát trẻ để giải gỡ những khó khăn kịp thời. Đối với những
trẻ có hoàn cảnh đặc biệt với nguy cơ bỏ học cao, các mô hình giáo dục thay thế đa dạng là
27
những chọn lựa tốt để giữ chân trẻ trong môi trường giáo dục lâu nhất có thể. Các hình thức
học tập qua phục vụ cộng đồng và các chương trình sau giờ học/khi nghỉ hè cũng cần được
đầu tư để gắn trường học với nhu cầu thiết thực của cộng đồng và phát huy tiềm năng nơi
mỗi cá nhân.
Sau cùng, quản lý tốt và cải tiến không ngừng phải được xem là điều kiện tiên quyết
cho việc giảm tỉ lệ trẻ ngoài trường học. Các nhà quản lý giáo dục được trao quyền để có
những sáng kiến trong những chương trình giảng dạy cá nhân, giáo dục kỹ thuật và nghề
nghiệp. Giáo viên được tạo điều kiện để phát triển chuyên môn, áp dụng những phương
pháp giáo dục chủ động và công nghệ trong dạy học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bennett, F. (1999). Computers as tutors: Solving the crisis in education. Sarasota, FL:
Faben, Inc.
Boe, T. (1989). The next step for educators and the technology industry: Investing in
teachers. Educational Technology, 29(3), 39-44.
Borman, G. D., Hewes, G.M., & Brown. S. (2002). Comprehensive school reform and
student achievement: A meta- analysis. Baltimore: Johns Hopkins University.
Cartwright, K. B. (2012). Insights from cognitive neuroscience: The importance of
executive function for early reading development and education. Early Education and
Development, 23, 24–36
Cash, T. (2004). Alternative schooling. In Smink, J. & Schargel, F. P. (Eds), Helping
Students Graduate: A Strategic Approach to Dropout Prevention. Larchmont, NY: Eye on
Education.
Clark, D. (1999, April-May). What we have learned. NAIEC (National Association for
Industry-Education Cooperation) Newsletter, 35, 1-2.
28
Clark, R. M. (1993). Homework-focused parenting practices that positively affect
students’ achievement. In N. F. Chavkin (Ed.). Families and schools in a pluralistic
society (pp. 85-105). Albany, NY: State University of New York.
Council for School Performance. (1998). Staff development and student achievement:
Making the connection in Georgia schools. Atlanta: School of Policy Studies, Georgia State
University.
Darling-Hammond, L. (1998). Investing in quality teaching: State-level strategies, 1999.
Denver: Education Commission of the States.
Donley, J., Baenen, N., & Hundley, S. (1993). A study of the long-term effectiveness of
the Reading Recovery Program (E&R Report No. 93.09A). Paper presented at the annual
meeting of the American Education Research Association, Atlanta, GA.
Duttweiler, P. C. (2004). Systemic renewal: What works? In F. P. Schargel & J. Smink
(Eds), Helping students graduate: A strategic approach to dropout prevention (pp. 55-63).
Larchmont, NY: Eye on Education.
Duttweiler, P. C., & Smink, J. (1997). Critical strategies for effective dropout
prevention. School Safety Journal, 4-9.
Educational Development Center, Inc. (1996, May). Schools and violence. National
Network of Violence Prevention Practitioners Fact Sheet, Vol. 1, No. 3. Washington, DC:
Author.
Fight Crime: Invest in Kids. (2014). Investing in Kids Will Prevent Crime and Violence.
Washington, DC: Author.
Flippo, R. (2001). About the expert study: Report and finding. In R. Flippo
(Ed), Reading researcher in search of common ground (pp. 5-12). Newark, DE:
International Reading Association.
29
Francis, D., Diorio, J., Plotsky, P., & Meaney, M. (2002). Environmental enrichment
reverses the effects of maternal separation on stress reactivity. The Journal of Neuroscience,
22, 7840–7843.
Henderson, A., & Mapp, K. (2002). A new wave of evidence: The impact of school,
family, and community connections on student achievement. Austin, TX: Southwest
Educational Development Laboratory.
Jimerson, S., Reschly, A., & Hess, R. (2008). Best practices in increasing the likelihood
of high school completion. In A. Thomas & J. Grimes (Eds.), Best practices in school
psychology (5th ed., Vol. 4, pp. 1085– 1097). Bethesda, MD: National Association of
School Psychology.
Morgan W., & Streb, M. (2001, March). Building citizenship: How student voice in
service-learning develops civic values. Social Science Quarterly, 82(1), 155-169.
National Board for Professional Teaching Standards. (2016). What teachers should
know and be able to do. 2nd ed. VA: Authors.
National Mentoring Partnership. (2015). Elements of effective practice for mentoring: A
checklist for mentoring programs, 4th edition. Alexandria, VA: Author.
Peterson, T. K. and Fox, B. (2004). After-school program experiences: A time and tool
to reduce dropouts. In J. Smink & F. P. Schargel (Eds.), Helping Students Graduate: A
Strategic Approach to Dropout Prevention (pp. 177-184). Larchmont, NY: Eye on
Education.
Reynolds, A. J., Temple, J. A, Roberston, D. L., & Mann, E. A. (May 2001). Long-term
effects of an early childhood intervention on educational achievement and juvenile arrest: A
15-year follow-up of low-income children in public schools. JAMA, 285:2339–2346.
(Erratum in 2001; 286:1026)
30
Schargel, F. P., & Smink, J. (2001). Strategies to Help Solve Our School Dropout
Problem. Larchmont, NY: Eye on Education.
Shumer, R. & Duckenfield, M. (2004). Service-learning: Engaging students in
community-based learning. NY: Eye on Education.
Smink, J., & Schargel, F. P. (2004). Helping Students Graduate: A Strategic Approach
to Dropout Prevention. Larchmont, NY: Eye on Education
Stephens, R. D. (2004). Creating safe learning environments. In F. P. Schargel & J.
Smink (Eds), Helping students graduate: A strategic approach to dropout prevention.
Larchmont, NY: Eye on Education.
Stone, J. R. (2004). Career and technical education: Increasing school engagement. In J.
Smink, J. & F. P., Schargel. (Eds.), Helping Students Graduate: A Strategic Approach to
Dropout Prevention (pp. 195-203.). Larchmont, NY: Eye on Education.
Switzer, D. (2004). Individualized instruction. NY: Eye on Education.
The National Assembly. (2000). 21st Century Community Learning Centers
collaborative survey. Washington, DC: National Assembly National Collaboration for
Youth.
Tierney, J. P. & Grossman, J. B. (with Resch, N. L.). (1995). Making a difference. An
impact study of Big Brothers/Big Sisters (Executive Summary). Philadelphia, PA:
Public/Private Ventures.
Trần Huỳnh. (2019). Tỉ lệ người học đại học Việt nam thuộc loại thấp nhất thế
giới. Retrieved Feb. 14, 2020, from: Tuổi trẻ online https://tuoitre.vn/ti-le-nguoi-hoc-dai-
hoc-vn-thuoc-loai-thap-nhat-the-gioi-20190617134102003.htm.
UNICEF. (2016). Báo cáo tóm tắt Trẻ em ngoài Nhà trường 2016 – Nghiên cứu
của Việt nam.
31
Wesley, T. (2004). Educational technology: Why and how it counts for students at risk.
NY: Eye on Education.
32
NHỮNG TỔN THƯƠNG TÂM LÝ CỦA THIẾU NIÊN KHI CÓ
CHA MẸ LY HÔN
Phan Thị Mai Quyên3
Tóm tắt
Khi hai người trưởng thành quyết định kí vào tờ giấy đăng ký kết hôn tức là đã sẵn sàng
cho một cuộc sống mới, đó là hôn nhân. Cả hai sẽ cùng cam kết đồng hành, yêu thương, tôn
trọng, sẻ chia trong trách nhiệm gia đình, con cái. Thế nhưng, trên thực tế không phải cuộc
hôn nhân nào cũng sẽ bền vững và hạnh phúc. Các khó khăn, mâu thuẫn xuất hiện để thử
thách các giá trị đã xây dựng trước đó. Không phải cặp vợ chồng nào cũng có thể dung hòa,
hi sinh, nhẫn nhịn để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Ly hôn là dấu chấm hết cho một cuộc hôn
nhân không hạnh phúc. Nó kéo theo nhiều hệ lụy, một trong số đó là tổn thương tâm lý của
những đứa con chung. Bài viết sẽ tập trung phân tích những yếu tố ảnh hưởng tâm lý tuổi
thiếu niên (1), những mâu thuẫn trong hôn nhân có thể dẫn đến ly hôn (2), sau đó phân tích
các tổn thương tâm lý ở thiếu niên khi có cha mẹ ly hôn (3) nhằm hướng đến thực hành
tham vấn tâm lý và thực hành công tác xã hội trẻ em.
Từ khóa: ly hôn, thiếu niên, tổn thương tâm lý
1 Dẫn nhập
Có thể nói ly hôn là một cuộc chia ly không một cặp vợ chồng nào mong muốn. Gia
đình tan vỡ, tổ ấm không còn, anh chị em người sống với cha, người ở với mẹ. Khi ly hôn
trăm ngàn khó khăn bủa vây gia đình nói chung và ở các trẻ nói riêng. Các tổn thương ở
những đứa trẻ có cha mẹ ly hôn là điều không thể tránh khỏi, các tổn thương có thể đi từ
nhẹ đến phức tạp, bởi mối quan hệ giữa cha mẹ là hình mẫu của trẻ về sự thương yêu, lòng
3 Giảng viên Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh
33
tôn trọng, sự sẻ chia. Do đó, sự chia ly làm trẻ mất lòng tin vào những giá trị đã hình thành
và bồi đắp trước đó. Trong sự chia ly ấy, có trẻ được chuẩn bị tâm thế, có trẻ thì không. Sự
không chuẩn bị ấy làm cho các em tổn thương về tâm lý kéo dài, thậm chí đến tuổi trưởng
thành và ảnh hưởng luôn góc nhìn về hôn nhân sau này.
Với góc nhìn người lớn, khi yêu thương không còn, mọi nỗ lực hàn gắn cũng là con
số không, đôi khi ly hôn là một giải pháp. Nó khiến cho cả hai bớt đi cảm giác nặng nề
trong chính hôn nhân, ngôi nhà của mình. Thế nhưng, với các đứa trẻ thì sao, trẻ phải đương
đầu với việc ra đi của một trong hai người mà nó thương yêu nhất, cha mẹ là người cực kỳ
cần thiết với trẻ và không phải ai cũng có thể thay thế được. Trong giới hạn bài viết tham
luận, tác giả muốn đề cập đến những tổn thương tâm lý của thiếu niên khi có cha mẹ ly hôn,
đây là một giai đoạn các em đã nhìn nhận được vấn đề một cách khái quát, trọn vẹn và sâu
sắc hơn những giá trị về gia đình. Sự chia ly của cha mẹ làm cho các em cảm thấy hụt hẫng,
mất mát và tổn thương rất lớn.
2 Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của thiếu niên
Khái niệm: Theo từ điển tiếng Việt, “Thiếu niên là trẻ em thuộc lứa tuổi từ 10-11 đến
14-15”[1]. Đây là giai đoạn có nhiều thay đổi cả về tâm sinh lý và xã hội dẫn đến những
biến đổi sâu sắc về mọi mặt. Giai đoạn thiếu niên thường được gắn với những cách gọi khác
như “tuổi bất trị”, “tuổi nổi loạn”, “khủng hoảng tuổi thiếu niên”.
Yếu tố sinh lý: Ở giai đoạn tuổi thiếu niên, sự phát triển sinh lý diễn ra với tốc độ rất
lớn, có sự biến đổi về chất và lượng. Cụ thể, trẻ phát triển rất nhanh về chiều cao, đây là giai
đoạn “nhảy vọt về tầm vóc” của trẻ. Tuy nhiên, sự phát triển của cơ bắp lại chậm hơn,
không theo kịp với sự phát triển của chiều cao dẫn đến sự mất cân đối giữa chiều cao và cân
nặng.
34
Hệ tuần hoàn và các tuyến nội tiết cũng có sự phát triển đáng kể. Vì thế thiếu niên trong
giai đoạn này thường có những cơn xúc động mạnh, những phản ứng nóng nảy, vô cớ,
những hành vi bất thường. Trong thời kỳ này các quá trình hưng phấn mạnh hơn các quá
trình ức chế nên các em nhiều khi không làm chủ được bản thân, khó kiềm chế được cảm
xúc.[4]
Đáng lưu ý nhất trong sự phát triển sinh lý của trẻ ở giai đoạn này là hiện tượng dậy thì.
Trong giai đoạn dậy thì thiếu niên có sự phát triển khá hoàn thiện về cấu tạo và chức năng
của các cơ quan nội tiết như: tuyến thượng thận, tuyến giáp, tuyến yên và tuyến sinh dục.
Dấu hiệu chính ở các em gái là bắt đầu kinh nguyệt, ở các em trai là hiện tượng mộng tinh.
Sự phát triển sinh lý trong thời kỳ này dẫn đến sự mất cân bằng tạm thời, gây ảnh hưởng
tâm lý trẻ. Ví dụ, việc mất cân bằng giữa sự phát triển của các cơ quan nội tiết và hệ thần
kinh trung ương là cơ sở của sự mất cân bằng chung, dẫn đến trẻ dễ bị nổi nóng, dễ bị kích
thích, tính hiếu động, hay gây gổ và tính uể oải, thờ ơ có chu kỳ ở thiếu niên. Sự phát triển
thiếu tương xứng giữa chiều cao và cơ bắp dẫn đến thiếu độ bền bỉ, dẻo dai khi tham gia các
hoạt động. Hơn thế nữa, các cử chỉ, động tác còn lóng ngóng, vụng về, chưa mềm dẻo, khéo
léo nên thường nói tuổi này là tuổi “hậu đậu” [4]
Sự tăng trưởng mạnh và sự cải tổ về mặt sinh lý ở lứa tuổi này còn làm cho các em chưa
thật sự sẵn sàng, thâm chí còn bối rối. Một số em do ít được chuẩn bị tâm thế cho những
biến đổi đó (thiếu giáo dục giới tính, thiếu kênh hướng dẫn, trò chuyện của bố mẹ và người
chăm sóc…) sẽ tỏ ra lo lắng, hốt hoảng. Đầu giai đoạn này, các em thường có cảm giác như
“bị đánh mất mình”, bản sắc như “bị nhòe đi” và đi kèm là sự giảm sút về tự đánh giá bản
thân. Chính sự thay đổi đột ngột này dẫn đến các em dường như không tìm thấy chính mình.
Bên cạnh đó, những thay đổi lớn của lứa tuổi này còn kéo theo không ít những thay đổi về
tâm tư, tình cảm và mơ ước, nguyện vọng càng nhiều càng làm cho các em thêm lạ lẫm về
35
mình. Trong giai đoạn này, nếu không đưuợc quan tâm chăm sóc đúng mực, lắng nghe tích
cực, chia sẻ, động viên thì các em dễ có những suy nghĩ và hành động bộc phát, không phù
hợp như: đánh nhau, gây gỗ, chứng tỏ mình một cách tiêu cực. Các em một mặt muốn tìm
các biểu tượng mong muốn của mình, mặt khác lại muốn đánh mất đi bản sắc vốn có của
mình. Các em dễ biến thành những người với nhiều đặc điểm tương đối khác với con người
của các em trước kia.
Yếu tố về mặt xã hội: Cùng với sự thay đổi về mặt sinh lý, ở lứa tuổi này còn có những
thay đổi quan trọng về mặt xã hội. Một trong những thay đổi rõ ràng nhất là các em chuyển
từ tiểu học lên trung học cơ sở. Ở môi trường này, các thức dạy học và các hoạt động khác ở
hai môi trường khác nhau rất nhiều. Ở cấp tiểu học các em được xem như là những học sinh
nhỏ bé, cần có sự quan tâm, chăm sóc chu đáo, cẩn thận. Cô giáo chủ nhiệm gắn bó hàng
ngày trên lớp với các em nên các em dễ thích nghi với điều kiện học tập và sinh hoạt đặc
thù tiểu học. [4]
Vào trung học cơ sở, các em được xem là nhứng học sinh đã tích lũy được một vốn kiến
thức nhất định, có khả năng tự chủ hơn trong học tập, trong sinh hoạt nên mô hình giáo dục
có khác đi. Mỗi môn học thường do một giáo viên đảm nhiệm, điều này đòi hỏi các em phải
có tinh thần tự giác cao, có khả nặng thích ứng nhanh để có thể tiếp thu được các môn học.
Phong cách sinh hoạt, nề nếp cũng khắt khe, nghiêm túc hơn. Đây là một khó khăn mà các
em phải trải qua, từ một đứa trẻ với kỷ luật tương đối lỏng lẻo cùng với nhiều sự quan tâm
của gia đình và thiết chế trường học đến một vị thành niên với nhiều vai trò đòi hỏi tính kỷ
luật và nghị lực, từ một đứa trẻ trong gia đình đến một thành viên của xã hội.
Về phía gia đình, các em không còn được xem là những đứa trẻ như trước đây, các em
đã có một vị thế mới trong gia đình. Trong một số ít gia đình, nhiều em còn phải tham gia
lao động để góp phần cùng giải quyết những khó khăn kinh tế của gia đình. Không ít em đã
36
hơn hẳn bố mẹ về mặt trình độ học vấn. tấ cả những điều đó làm xuất hiện ở thiếu niên
nguyện vọng muốn làm người lớn và được đổi xử như người lớn.
Nhưng thực tế, các em vẫn còn phải phụ thuộc gần như hoàn toàn vào bố mẹ. Sự tiếp
xúc xã hội rất hẹp, sự va chạm với cuộc sống còn hạn chế, kinh nghiệm sống còn nghèo nàn.
Từ đó có mâu thuẫn khá phổ biến giữa người lớn và các em trong giao tiếp, ứng xử. Người
lớn vẫn giữ cách đối xử với các em như với trẻ con trong khi các em tự coi mình là người
lớn, dẫn đến các em dễ có những phản ứng ngược, ngang bướng, muốn bứt phá ra khỏi sự
kiểm soát của người lớn. Các em không muốn cha mẹ răn dạy mình từng ly từng tí như trẻ
con, “con đã lớn, để con tự làm, cha mẹ đừng can thiệp vào kiểu tóc của con, màu nhuộm
vàng hay màu nhuộm đỏ mặc con” “không cần nói về chuyện áo ngắn hở bụng hay váy
ngắn hở đùi của con, đó là kiểu mốt nhất hiện nay, nó phô diễn vẻ đẹp tự nhiên của cơ
thể”… là những lời nói gắt gỏng lại những góc nhìn của các em về góc nhìn của cha mẹ, đôi
khi rất khác biệt, nhiều tranh luận xảy ra xung quanh các vấn đề như làm bạn với ai, về các
bạn cùng độ tuổi, kế hoạch của trường lớp, kiểu tóc, kiểu quần áo, các quan điểm của cá
nhân….Qua các cuộc tranh luận, dường như thấy ở các em có một “góc nhìn riêng”, một ý
thức mới trong biểu lộ tình cảm, cảm xúc trong quan hệ xã hội và thực hiện các vai trò xã
hội cũng mới, khác với các thời kỳ trước.
3 Những mâu thuẫn trong hôn nhân có thể dẫn đến ly hôn
Khi hai người đã không còn gì để tìm hiểu nhau và lại có những nhu cầu khác nhau thì
nhất định sẽ phát sinh nhiều loại vấn đề. Họ thường mơ ước có một hạnh phúc lý tưởng và
không muốn có những ý nghĩ về một thực tế khắc nghiệt. Họ không muốn nhận thấy ở họ
đã có những vấn đề nảy sinh và hi vọng rằng những vấn đề tự nó sẽ giải quyết được mà
không cần đến sự cố gắng của họ. Tuy nhiên trong đời sống hôn nhân đâu phải khi nào cũng
bằng phẳng như vậy, có những việc cả hai người cần phải thông cảm và hiểu nguyên nhân
37
dẫn đến mâu thuẫn để có thể ngăn chặn kịp thời. Quá trình đó sẽ giúp bạn hiểu rõ thêm bản
thân và người bạn đời của bạn, giúp cho nhau tránh được những yêu sách vô lý. Dưới đây là
những mâu thuẫn có thể dẫn đến những mâu thuẩn trong hôn nhân:
Sự mâu thuẫn của những nhu cầu, ý kiến và các giá trị: Trong hôn nhân có một số
trường hợp xuất hiện những loại vấn đề như có sự khác nhau trong các nhu cầu về cuộc
sống cá nhân, khi các giá trị tinh thần và vật chất nằm trong sự xung đột đúng vào thời điểm
ở họ đang có sự hiểu lầm nhau, trong khi họ và bạn đời lại có những hiểu biết khác nhau về
hôn nhân.
Sự mâu thuẫn do vợ chồng có những nhu cầu khác nhau có thể rất bình thường. Kết quả
của sự rắc rối này tùy thuộc vào thái độ phản ứng của hai vợ chồng đối với các xung đột này.
Chẳng hạn, trong một kỳ nghỉ, hai vợ chồng đã cãi nhau chỉ vì một người thì muốn ngủ còn
người kia thì đi dạo chơi. Ngay ở những cặp vợ chồng hòa thuận, rất yêu thương nhau cũng
khó tránh khỏi xung đột sau mỗi lần tranh cãi như vậy và rất có thể làm hỏng kỳ nghỉ nếu
một trong hai người không tỏ ra thông minh hơn để chủ động thỏa hiệp trước. Những lúc có
sự bất hòa nghiêm trọng, nhiều người tìm cách trì hoãn việc giải quyết chuyện đã xảy ra, tự
hạ thấp các yêu cầu của mình khi thấy các quan hệ gia đình còn quan trọng hơn gấp nhiều
lần việc thực hiện được điều mong muốn của mình.
Những quan niệm về hôn nhân của hai vợ chồng theo ngày tháng có thể thay đổi và
biến hóa đi. Nếu một trong hai người thẳng thắn quan sát xung quanh mình trên quan điểm
của người kia, nhìn bằng đôi mắt của người đó thì mọi quan niệm về nhiều vấn đề trong
cuộc sống sớm muộn cũng thay đổi. Trong hôn nhân, mỗi người thường có những quan
niệm riêng về người bạn đời và về nhiệm vụ mà mỗi người phải thực hiện. Những quan
niệm ấy rất có thể trùng nhau hoặc ngược lại hoàn toàn bất đồng. [8]
38
Sự không hòa hợp trong quan hệ tình dục: Nhiều cặp vợ chồng chia tay vì không hòa
hợp trong quan hệ tình dục. Đôi khi, mâu thuẫn này thường biểu hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau như giận cá chém thớt, đổ lỗi ở những việc khác, nặng nhẹ nhau trong hành động,
lời nói.[4]
Các vấn đề tiền bạc: Những va chạm trong gia đình thường nảy sinh từ một số vấn đề
như tiền bạc, về ngân sách gia đình và về giúp đỡ kinh tế với cha mẹ của cả hai bên. Những
chuyện tranh cãi về những vấn đề như vậy làm cho hôn nhân dần dần tan vỡ. Đôi khi người
ta cũng quen với những cuộc cãi cọ như thế và cho đó là những buồn phiền nhỏ mọn.
Nhưng những điều tưởng như vặt vãnh đó lại rất dễ biến thành những khủng hoảng nghiêm
trọng.[8]
Vấn đề nuôi dạy con cái: Thực tế cho thấy những vấn đề có liên quan tới việc giáo dục
và dạy dỗ con cái thường là nguyên nhân chủ yếu phá vỡ các quan hệ gắn bó của hai vợ
chồng. Cũng giống với các khó khăn về tiền bạc, ở đây những mối quan tâm của các bậc
cha mẹ thường biểu hiện ở chỗ người này phó mặc cho người kia. Một trong hai người sẵn
sàng “nhường” việc quyết định các vấn đề giáo dục con cái cho người bạn đời của mình.
Tình hình đó kéo dài rất dễ dẫn tới sự xung đột trong gia đình. Trong khi đó cuộc sống của
con cái luôn luôn cần đến những tiếng nói đồng tình, đồng ý của cả cha và mẹ trong những
quyết định chung và những hành động thống nhất chứ tuyệt nhiên chúng không cần đến
những bố mẹ chỉ biết chửi bới lẫn nhau và sống trong cảnh xung đột liên tục.
Một số gia đình luôn bắt con cái làm theo mệnh lệnh mà không quan tâm gì đến suy
nghĩ và cảm giác của con cái. Có những mệnh lệnh thì được con cái tuân theo nhưng cũng
có lúc thì lại chống đối hoặc thoái thác. Cũng có những gia đình người bố đang mắng nhiếc
con cái khi chúng không nghe lời mình thì người mẹ lại ra sức bảo vệ con.
39
Cuộc sống thường xuyên đặt cho chúng ta nhiều vấn đề trong đó có những vấn đề gia
đình, mà chúng ta chỉ giải quyết được chúng khi gia đình là một thể toàn vẹn thống nhất.
Trong các gia đình hạnh phúc, hai vợ chồng luôn luôn là những người có trách nhiệm cao
trong việc giáo dục con cái. Điều quan trọng phải nhớ rằng, trong mọi tình huống thì cả vợ
và chồng phải thống nhất về cách dạy con, như thế mới tránh được sự mâu thuẫn và con trẻ
cũng sẽ được tiếp thu một nền giáo dục gia đình hài hòa nhất.
Những vấn đề khủng hoảng: Hầu như trong suốt chiều dài của mỗi cuộc hôn nhân đều
chịu một trong những lần kiểm tra nghiêm túc – tình huống khủng hoảng. Khủng hoảng có
thể đến một cách bất ngờ, đột ngột hay bi thảm, chẳng hạn như một tai nạn ôtô, một đám
cháy hay một căn bệnh hiểm nghèo. Phản ứng trước những hiện tượng này ở mỗi người
thường rất khác nhau (sốc, mất lòng tin, và sự kính trọng…)
Ở nhiều cuộc hôn nhân, những giai đoạn nặng nề thường là kết quả của những mối quan
hệ hiểu biết cá nhân của hai vợ chồng đã bị phá hủy, chẳng hạn, cái chết của một người
trong gia đình sau một trận ốm kéo dài, bị thải hồi hoặc sau những chuyện bực mình trong
công việc, những khó khăn không thanh toán được tiền phải trả… Rất nhiều khủng hoảng
tương tự cứ từng ngày, từng ngày một tấn công vào hôn nhân. [8]
Sự buồn chán: Một trong những nguyên nhân làm cho hôn nhân bị tan vỡ dễ nhận thấy
nhất và thường hay gặp nhất là sự đơn điệu trong cuộc sống gia đình hàng ngày.Khi các vợ
chồng mà lại cảm nhận cuộc sống là buồn tẻ, chính vì họ đã thường xuyên làm mất đi niềm
hứng thú đối với nhau. Thời gian cùng chung sống của họ tựa như một con rùa đang bò.
Một trong hai người luôn muốn được sống ở một chỗ khác vào lúc đó. Sự buồn chán ở nhà
có thể trở nên bao trùm tất cả đến nỗi con người sẽ bắt đầu tìm kiếm vào hy vọng những thú
vui giải trí cho bản thân, có thể còn đi tìm một quan hệ ngoài hôn nhân.
40
Mặc dầu lúc mới thoạt nhìn chuyện gia đình như vậy tưởng chừng rất vặt vãnh chỉ là
biểu hiện một trạng thái khó chịu trong chốc lát, song sự buồn chán đó lại chính là một hiện
tượng nghiêm trọng. Nó có thể phát triển nhanh chóng, gây ra mọi sự xung đột. Nếu không
giải quyết vấn đề này và hạn chế dần sự buồn chán của một trong hai người thì điều đó có
nghĩa là hôn nhân đang lâm vào tình thế nguy hiểm, rất dễ dẫn đến ly hôn.[8]
4 Các tổn thương tâm lý của thiếu niên khi có cha mẹ ly hôn
Khi cha mẹ ly hôn, sẽ có rất nhiều ảnh hưởng dẫn đến tổn thương tâm lý của thiếu niên,
do đặc trưng về tâm lý lứa tuổi nên các em cũng có các tiếp nhận vấn đề gia đình khác hơn
các lứa tuổi trước đó, cụ thể:
Về nhận thức: Ly hôn của cha mẹ đã tác động rất lớn đến nhận thức của thiếu niên về
giá trị của gia đình và cuộc sống, cụ thể là các em sẽ đánh giá thấp vai trò của gia đình, của
người cha, người mẹ so với bạn bè cùng trang lứa có gia đình hạnh phúc. Ly hôn của cha
mẹ có thể tạo nên các nhận thức sai lệch về giá trị chung của gia đình. Đặc biệt, trong lứa
tuổi lớn hơn, các em sẽ có xu hướng tìm kiếm sự bù đắp tình cảm và sự sẻ chia bằng xu
hướng tìm kiếm ngoài xã hội, điều này có thể làm nảy sinh nhiều vấn đề tâm lý xã hội
khác.[4]
Về cảm xúc, tình cảm: Các em thường có những biểu hiện về cảm xúc, tình cảm sau:
đau khổ, choáng váng, buồn, thất vọng, chối bỏ không tin đó là sự thật. Trong một bộ phận
các em có tâm lý mặc cảm, tự ti, ngại tiếp xúc với bạn bè, có xu hướng thu mình lại hoặc
chỉ thích chơi với một nhóm nhỏ.
Một số trẻ thì cảm thấy bất lực, trách chính bản thân mình vì không tác động được đến
quyết định của cha mẹ. Một số khác thì lại đóng vai trò ngược, là người an ủi, động viên cha
mẹ trong khi chúng cố giấu kín nỗi bực dọc, đau khổ của mình vì sợ làm buồn lòng cha mẹ.
41
Có một số cha mẹ, sau khi ly hôn đã cố tình lôi kéo con cái về phía mình, lấy con cái
làm “bia đỡ đạn” hay xem con cái như một thứ vũ khí để trừng phạt người vợ hoặc người
chồng. Vì phải bắt buộc đưa ra quyết định ủng hộ một phía nào đó, các em cảm thấy giống
như đang phản bội lại cha hoặc mẹ của mình, mặc cảm tội lỗi cứ dằn vặt, ám ảnh chúng,
làm cho tâm hồn vốn dĩ đang non nớt lại càng mỏng manh hơn. Một số khác thì lại không tỏ
thái độ gì trước việc ly hôn của cha mẹ. Chúng vẫn học hành tốt, mọi việc diễn ra bình
thường, người ngoài nhìn vào có cảm giác rằng đó là những đứa trẻ vô tư, ít bận tâm suy
nghĩ. Nhưng trong một số nghiên cứu dài hạn cho thấy, chính những đứa trẻ này lại gặp rất
nhiều khó khăn khi bước vào tuổi trưởng thành. Như vậy, không thể tiên đoán chính xác
hậu quả kéo dài của ly hôn đối với thiếu niên dựa trên những gì chúng phản ứng sau khi xảy
ra sự việc.
Về giao tiếp, ứng xử hàng ngày: Các thay đổi về ứng xử hàng ngày của các em cũng có
những thay đổi khi cha mẹ ly hôn. Có nhiều em trở nên hung hăng, dễ gây hấn, đặc biệt có
những em thậm chí dễ kích động, phô trương sức mạnh khi ai đó hỏi về vấn đề gia đình.
Mặt khác, các em thích chơi với những bạn ngổ ngáo, những bạn lớn tuổi hơn – thực ra là
những người có sức mạnh, có thể che chở, bảo vệ các em. Một số khác thì hiếu động, thiếu
tập trung trong giao tiếp. Thậm chí có những em trở nên nhạy cảm, nhút nhát và thiếu tự tin
hẳn. Chính hoàn cảnh gia đình như vậy đã hình thành ở các em có bố mẹ ly hôn nhiều hình
thức tự vệ nhằm che đậy các yếu điểm của mình.
Việc ly hôn của cha mẹ ảnh hưởng đến cách biểu hiện hành vi và ứng xử của con cái họ,
dù rằng những hành vi và cách thức ứng xử tiêu cự không thể hiện mạnh mẽ và rõ ràng ở
các em. Tuy nhiên, so với các em trong các gia đình không có bố mẹ ly hôn thì lại được thể
hiện rõ hơn một cách có ý nghĩa.[4]
42
Về sự tự đánh giá bản than: Ở tuổi thiếu niên, hình ảnh về cơ thể là một phần rất quan
trọng của sự đánh giá bản thân. Các em có sự đánh giá về hình ảnh bản thân cân bằng, tức là
sẽ thích nghi một cách hài hòa với sự phát triển sinh lý, thường trải qua khủng hoảng lứa
tuổi giai đoạn này một cách dễ dàng, ngược lại, những em không được chuẩn bị tâm thế về
những thay đổi của cơ thể rất dễ rơi vào khủng hoảng nặng nề. Đặc biệt, ở các em phải trải
qua thời kỳ tiền ly hôn, thời kỳ ly hôn và sau ly hôn của cha mẹ, các em phải thường xuyên
chứng kiến sự lạnh lùng của cha mẹ hoặc sự căng thẳng của họ rồi các vấn đề phức tạp liên
quan đến họ hàng, hàng xóm…điều này gây cho các em cảm giác về sự phức tạp của quan
hệ giữa người lớn và giữa những con người khác trong xã hội.
Thêm vào đó, các em có bố mẹ ly hôn không thể thoát khỏi mặc cảm về sự thiếu hụt về
hình ảnh bản thể của mình, đó cũng là lý do để các em né tránh hoặc thận trọng hơn các suy
nghĩ cũng như trong các mối quan hệ xã hội. [4]
Ở tuổi này các em đã ý thức việc chia tay của cha mẹ là vĩnh viễn, nên các em đôi khi
sẽ rơi vào trạng thái trầm uất, đánh giá thấp về “cái tôi bản thân”. Các câu hỏi “vì sao điều
đó lại xảy đến với tôi”, “tôi có xứng đáng không” “sao cả thế giới quay lưng với tôi” “sự
tồn tại của tôi không còn ý nghĩa” … nó sẽ là con dao hai lưỡi, chờ chực và làm tổn thương
sâu sắc đến đời sống tâm lý thiếu niên
Về các rối nhiễu tâm lý: Ở một số em thì có các biểu hiện rỗi nhiễu tâm lý như căng
thẳng cấp tính, trầm cảm, rối loạn lo âu…bằng các biểu hiện thực thể như: chán ăn, ăn
không kiểm soát, cắn móng tay, bứt tóc, đái dầm, đau hông, đau dạ dạy, khó ngủ, ngủ dễ
gặp ác mộng, ngủ triền miên… những rối nhiễu này đôi khi bị lược bỏ bởi gia đình. Do đó
một số em khi được đưa đi thăm khám thì chuyển qua giai đoạn nặng, phải can thiệp bằng
thuốc.
43
5 Kết luận
Nếu kết hôn là sự kiện đáng nhớ thì ly hôn lại là cơn ác mộng của các cặp vợ chồng.
Cuộc ly hôn nào cũng kéo theo nhiều hệ lụy của nó, ai rồi cũng có những vết hằn tâm lý.
Thế nhưng, tổn thương nhiều nhất có lẽ vẫn là những đứa trẻ, khi chúng bị động trong tất cả
quyết định của cha mẹ. Ly hôn về mặt thực tế, nó không phải là điều xấu, nó là điều không
tránh khỏi ở những gia đình không tìm kiếm được hạnh phúc. Tuy nhiên, cha mẹ nên cân
nhắc các tác động tiêu cực của ly hôn lên tâm lý của con cái, để từ đó có các cách thức trang
bị tâm thế sẵn sàng, chủ động cho các em trước bước ngoặt thay đổi của gia đình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Schnarch, D. (2009), Passionate marriage, Norton, W.W. & Company. Inc.
2. Gottman, J. (1995). Why marriages succeed or fail: And how you can make your last, Simon & Schuster.
3. Gottman, J. (2007). 10 lesson to transform your marriage, Crown Publishing group.
4. Văn Thị Kim Cúc. (2003). Những tổn thương tâm lý của thiếu niên do bố mẹ ly hôn. NXB Khoa học xã hội.
5. Nguyễn Minh Hòa. (2000), Hôn nhân gia đình trong xã hội hiện đại, NXB Trẻ.
6. Vũ Tuấn Huy. (2003), Mâu thuẩn vợ chồng trong gia đình và những yếu tố ảnh hưởng, NXB Khoa học xã hội.
7. Hoàng Phê. (1998). Từ điển Tiếng Việt. NXB Đà Nẵng.
8. Muriel Zamses. (1979). Hôn nhân là cho yêu thương. Addison – Wesley Publisher.
44
VẬN DỤNG “THUYẾT THÂN CHỦ TRỌNG TÂM” TRONG THỰC
HÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NHÓM TRẺ EM
Hồ Sỹ Thái4
Tóm tắt
Công tác xã hội nhóm là một phương pháp của công tác xã hội nhằm tạo dựng và phát
huy sự tương tác, chia sẻ kinh nghiệm, nguồn lực giữa các thành viên, giúp củng cố, tăng
cường chức năng xã hội và khả năng giải quyết vấn đề, thỏa mãn nhu cầu nhóm. Phương
pháp công tác xã hội nhóm được thực hiện dựa trên cơ sở nền tảng của nhiều khái niệm và
lý thuyết khác nhau, một trong số đó là thuyết thân chủ trọng tâm. Lý thuyết này đã nhìn
nhận được vai trò của mối quan hệ nhân viên xã hội trong hoạt động nhóm chủ yếu mang
tính chất gián tiếp thông qua việc tạo môi trường năng động, an toàn, lành mạnh, thúc đẩy
các tương tác nhóm, tinh thần nhóm, phát huy nội lực của nhóm, của mỗi cá nhân trong
nhóm hướng đến sự thay đổi và hành động vì mục tiêu xác định.
Từ khoá: Thân chủ trọng tâm, Công tác xã hội, trẻ em
1 Dẫn nhập
Công tác xã hội nhóm là một phương pháp của công tác xã hội nhằm tạo dựng và phát
huy sự tương tác, chia sẻ kinh nghiệm, nguồn lực giữa các thành viên, giúp củng cố, tăng
cường chức năng xã hội và khả năng giải quyết vấn đề, thỏa mãn nhu cầu nhóm (Nguyễn
Thị Thái Lan, Nguyễn Thị Thanh Hương, Bùi Thị Xuân Mai. 2008). Thông qua sinh hoạt
nhóm, mỗi cá nhân hòa nhập, phát huy tiềm năng, thay đổi thái độ, hành vi và khả năng
4 Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế; Email: [email protected]
45
đương đầu với nan đề của cuộc sống, tự lực và hợp tác giải quyết vấn đề đặt ra vì mục tiêu
cải thiện hoàn cảnh một cách tích cực. Phương pháp công tác xã hội nhóm được thực hiện
dựa trên cơ sở nền tảng của nhiều khái niệm và lý thuyết khác nhau, một trong số đó là
thuyết thân chủ trọng tâm.
2 Khái quát về sự ra đời của thuyết thân chủ trọng tâm
Thuyết thân chủ trọng tâm là thuật ngữ nhằm gọi tên cho một nhóm những phương
pháp trị liệu tâm lý dựa trên quan điểm lý thuyết về bản chất con người và các tương tác xã
hội được sáng lập và phát triển bởi Carl Rogers (1902 – 1987) - nhà tâm lý học người Mỹ
vào những năm cuối thập kỷ 40 của thế kỷ XX. Lý thuyết này thuộc trường phái tâm lý học
nhân văn. Sau này, nhiều tác giả khác đã phát triển thêm các phân nhánh cho loại trị liệu
này như Eugene Gendlin với “liệu pháp kinh nghiệm” năm 1979; Leslie Greenberg, Laura
Rice, Robert Eliott với “liệu pháp tiến trình – kinh nghiệm” năm 1993…
Lúc đầu, Rogers gọi liệu pháp của mình là “liệu pháp không hướng dẫn” (non-directive
therapy) nhằm nhấn mạnh vào tính chất đặc trưng của nhà trị liệu và không hướng dẫn thân
chủ của mình. Mục đích trị liệu là tạo ra một bầu không khí cởi mở và không can thiệp. Vào
thập niên 1950, Rogers bắt đầu nhấn mạnh đến “sự thấu cảm” (empathic understanding) và
sang thập niên 1960, những tính cách của nhà trị liệu được Rogers nhấn mạnh là “sự hài
hòa” (congruence) và “tính trung thực” (genuineness) (Vũ Thị Lụa, Lý Thị Hàm, Lê Thị
Dung, 2004).
Về sau, Rogers áp dụng quan điểm của mình một cách sâu rộng hơn ra ngoài các môi
trường khác không thuộc tâm lý trị liệu và làm việc với các nhóm người không phải là thân
chủ. Quan điểm thân chủ trọng tâm ảnh hưởng sang cả ngành giáo dục Hoa Kỳ, điều đó
khiến Rogers đặt lại tên cho phương pháp của mình là “nhân vị trọng tâm” (person –
centred) để phản ánh sự chuyển đổi đối tượng của phương pháp không chỉ bao gồm những
46
thân chủ trong tâm lý trị liệu mà còn nhằm đến bản chất con người và các mối tương tác xã
hội nói chung.
Liệu pháp thân chủ trọng tâm có thể áp dụng cho nhiều loại thân chủ ở các cơ sở trị liệu
khác nhau. Carl Rogers khởi đầu việc trị liệu của mình như một nhà trị liệu theo định hướng
phân tâm tại Trung tâm hướng dẫn trẻ em New York – nơi ông làm việc với những trẻ em
thiệt thòi và gia đình của chúng. Sau đó, ông làm việc tại Trung tâm tư vấn thuộc Đại học
Chicago với mục đích phục vụ cho các đối tượng trong cộng đồng và các sinh viên trong
trường.
Theo Smith (1982), Carl Rogers được xếp hạng là nhà tâm lý trị liệu có tầm ảnh hưởng
sâu rộng nhất, vượt lên cả ảnh hưởng của Sigmund Freud, mặc dù trong thực tế chỉ có
khoảng 9% trong tổng số các nhà trị liệu tự nhận mình theo trường phái thân chủ trọng tâm.
3 Nội dung cơ bản của thuyết thân chủ trọng tâm
Theo Carl Rogers, bản chất con người là thiện với những khuynh hướng tiến đến phát
triển tiềm năng xã hội và xã hội hóa mà nếu đặt trong môi trường thuận lợi sẽ phát triển
nhận thức và hiện thực hóa tiềm năng đầy đủ.
Rogers giả thiết rằng mỗi người đều sở hữu những tiềm năng cho sự lớn lên, tiềm năng
cho những hành vi có hiệu quả và có khuynh hướng tự hiện thực hóa những tiềm năng của
mình. Sở dĩ một cá nhân nào đó phát triển những hành vi kém thích nghi là do sự tập nhiễm
những mẫu ứng xử sai lệch. Bởi vì mỗi cá nhân đều có nhu cầu mạnh mẽ được người khác
chấp nhận, coi trọng nên anh ta hoặc cô ta có thể hành động một cách không tự nhiên,
không thực tế và phát triển những cảm giác sai lệch về bản thân, về những điều mình mong
muốn.
Rogers cũng cho rằng cá nhân có khuynh hướng một mặt làm cho phần lớn trường hợp
những trải nghiệm mà mình sẽ sống trong thế giới bên ngoài phù hợp với khái niệm về cái
47
mình, cái mình thực tế. Mặt khác nó nhằm làm cho khái niệm về cái mình sát với những
tình cảm sâu xa tạo nên cho cái mình lý tưởng, tương ứng với những gì tiềm tàng. Như vậy
cái mình hiện thực có nguy cơ không ăn khớp hoặc khi con người dưới áp lực của hoàn
cảnh bắt buộc phải từ chối một số trải nghiệm hoặc con người tự thấy mình phải áp đặt
những tình cảm và những giá trị hoặc những thái độ khiến cho cái mình hiện thực xa với cái
mình lý tưởng.
Sự lo âu và những không thích nghi về tâm lý ít nhiều để lại hậu quả của sự mất ăn
khớp giữa cái mình hiện thực và những trải nghiệm cuộc sống một bên và bên kia giữa cái
mình hiện thực và hình ảnh lý tưởng mà bản thân con người đó có. Mục đích của phương
pháp tham vấn tập trung vào cá nhân không phải là chữa trị cho thân chủ hoặc tìm kiếm
những nguyên nhân từ quá khứ mà cái chính là khuyến khích thân chủ sự tự hiện thực hóa
những tiềm năng của bản thân, tạo điều kiện dễ dàng cho sự phát triển tâm lý lành mạnh ở
thân chủ. Thân chủ được xem như là một chủ thể có hiểu biết, họ phải được hiểu, được chấp
nhận để nhà tham vấn có thể cung cấp những loại hình trợ giúp được tốt hơn.
Rogers đã phát biểu quan điểm của mình về mối tương giao giữa nhà tham vấn và thân
chủ như sau: “Mối tương giao tôi thấy hữu ích là mối tương giao được định tính bằng một
sự trong suốt về phần tôi trong đó cảm quan thực sự của tôi biểu hiện rõ ràng, bằng sự chấp
nhận người khác như một con người riêng biệt có quyền có giá trị riêng và bằng một sự cảm
thông sâu xa khiến tôi có thể nhìn thế giới riêng tư của người ấy qua con mắt của người ấy.
Khi các điều kiện trên được thực hiện thì tôi trở thành một người bạn đồng hành của thân
chủ tôi, theo chân họ trong sự tìm kiếm chính mình mà bây giờ họ cảm thấy được tự do
trách nhiệm”
Như vậy, theo Rogers, trong tham vấn nếu nhà tham vấn tạo được một mối tương giao
định tính bằng một sự chân thực trong suốt, trong đó nhà tham vấn sống với các cảm quan
48
thực của mình; một sự nhiệt tình tôn trọng và chấp nhận thân chủ như một cá nhân riêng
biệt; một khả năng nhạy cảm để nhìn thế giới của thân chủ y như thân chủ nhìn họ, thì thân
chủ sẽ:
- Có kinh nghiệm và hiểu được những phương diện của chính mình mà trước đây bị
dồn nén.
- Thấy mình trở nên hợp nhất hơn, có thể hành động hữu hiệu hơn.
- Trở nên giống mẫu người mà mình ao ước muốn trở thành.
- Tự chủ và tự tin hơn.
- Thân chủ là chính mình, độc đáo hơn và bộc lộ hơn.
- Hiểu người khác và chấp nhận người khác hơn.
- Có thể đương đầu với những vấn đề của đời sống một cách thích đáng và dễ chịu
hơn.
Quan điểm của Rogers về mối quan hệ giữa nhà tham vấn và thân chủ không chỉ có
hiệu quả trong tham vấn mà còn rất hữu ích trong tất cả các mối tương giao nhân loại.
Rogers tin rằng nếu nhà tham vấn có thể đem lại những điều kiện thuận lợi như trên cho
thân chủ thì thân chủ sẽ trở nên cởi mở và hiểu những nỗi đau, tổn thương trong quá khứ là
do những mối quan hệ có điều kiện trong cuộc sống của họ. Thực tế thì những mối quan hệ
tham vấn như thế này có thể giúp thân chủ thay đổi những hành vi mà họ đã có trong quá
khứ và trợ giúp thân chủ chuyển từ những nhận thức sai lệch về bản thân đến nhận thức
đúng đắn về chính họ.
Nhiệm vụ của nhà tham vấn theo phương pháp tiếp cận này là tạo ra một môi trường
thuận lợi cho phép thân chủ học cách hành động để đạt đến sự tự khuyến khích và tự hiện
thực hóa. Nhiệm vụ chính của nhà tham vấn là giúp thân chủ gỡ bỏ những “rào cản tâm lý”
đang hạn chế sự bày tỏ khuynh hướng tích cực vốn có và giúp thân chủ làm sáng tỏ, hiểu rõ
49
bản thân và chấp nhận tình cảm riêng của mình. Vì Rogers tin rằng thân chủ có thể tìm ra
giải pháp của riêng mình trong một môi trường ở đó có mối quan hệ tham vấn nồng ấm và
thấu cảm nên ông xem chính mối quan hệ tham vấn như là một vật xúc tác cho sự thay đổi
và tin rằng việc nhà tham vấn tìm cách đưa ra lời giải thích thay cho thân chủ là không thích
hợp. Do đó, ông hoàn toàn không chi phối quyết định của thân chủ mà sử dụng kỹ thuật
lắng nghe tích cực và tiến hành phản hồi lại cho thân chủ điều gì mà thân chủ đã nói.
Lắng nghe tích cực là một kỹ năng nền tảng trong tham vấn theo phương pháp thân chủ
trọng tâm nói riêng và tham vấn nói chung. Nó đòi hỏi nhà tham vấn phải lắng nghe bằng
tất cả các giác quan, nghe bằng sự cảm nhận của xúc cảm, nghe bằng “trái tim”, lắng nghe
là dừng nói và dừng suy nghĩ. Lắng nghe tích cực thể hiện ở việc nghe và nhận hết được
cảm xúc của đối tác, không suy luận, đánh giá, không liên hệ với cái này cái kia. Lắng nghe
tích cực như một sự ngầm ẩn trả lời: tôi tin tưởng và tôn trọng vào sự nồng nhiệt, sự giá trị
của bản thân bạn, tin tưởng vào con người bạn vào những điều bạn đang có. Cùng lúc đó
thân chủ cảm thấy như mình đã được nghe, được hiểu, được thông cảm. Lắng nghe tích cực
làm cho thân chủ tự đi sâu vào mình, tự trải nghiệm cảm xúc của mình, lắng nghe trong sự
khổ đau để từ đó hiểu mình hơn, hiểu vấn đề vướng mắc và có thể đi đến chấp nhận nó.
Lắng nghe tích cực giúp thân chủ giải phóng được mình khỏi sự kiềm chế của người khác,
giải tỏa được xung đột, uẩn ức trong nội tâm, động viên thân chủ tiếp tục nói nhiều hơn nữa,
đặc biệt chia sẻ hơn về cảm xúc đối với nhà tham vấn.
Phản hồi là việc nhà tham vấn nói lại bằng ngôn ngữ của mình hay nhắc lại lời của thân
chủ một cách cô đọng để làm rõ hơn cảm xúc, ý nghĩa cảm nhận của thân chủ và phải đạt
được sự tán thành của thân chủ. Có hai cách phản hồi: phản hồi theo cách lặp lại nội dung
và phản hồi tâm tình. Phản hồi lặp lại nội dung là nhà tham vấn diễn đạt lại những điều đã
nghe thấy, quan sát thấy từ thân chủ. Điều này giúp cho nhà tham vấn không bị sao nhãng
50
thân chủ - trọng tâm và tiếp cận được với vấn đề của thân chủ, đồng thời giúp thân chủ
dừng lại cô đọng, sắp xếp ý tưởng theo logic của họ. Phản hồi tâm tình nhấn mạnh cảm xúc,
tình cảm mà thân chủ bày tỏ trong đó hay ẩn dấu sau câu nói bằng cách nhắc lại cho thân
chủ nội dung tình cảm trong ngôn từ của họ. Cách phản hồi này dễ đạt được sự cảm thông,
khuyến khích thân chủ sẵn sàng chia sẻ và giúp thân chủ xác định được cảm xúc đang hiện
hữu trong họ. Kỹ năng phản hồi dựa trên sự thông đạt vấn đề của thân chủ. Nếu chưa thông
đạt thì khó có được phản hồi tốt. Thông đạt là kỹ năng đòi hỏi nhà tham vấn phải khai thông
được sự hiểu biết của mình về điều thân chủ đang nói và cố gắng bộc lộ điều đó một cách
trung thực, nồng hậu, chân thành không đánh giá, phán xét khiến thân chủ tự vệ.
Thuyết thân chủ trọng tâm cũng đề ra 10 yêu cầu đối với nhà tham vấn: Trung thực,
thông suốt, trải nghiệm, nhân cách, tự chủ, thấu cảm, chấp nhận, nhạy bén, khách quan,tin
tưởng. Những yêu cầu mà Rogers đưa ra trong thuyết thân chủ trọng tâm đối với nhà tham
vấn đã đóng góp lớn lao cho việc xây dựng những phẩm chất đạo đức và nghề nghiệp cho
nhà tham vấn và nghề tham vấn như trung thực, thấu cảm trọn vẹn, tôn trọng, chấp nhận
thân chủ, tin vào khả năng giải quyết của thân chủ… Theo đó, công cụ để tạo sự thay đổi ở
thân chủ đó là: “sự thành thực, sự thấu hiểu và chấp nhận vô điều kiện” của nhà tham vấn
đối với thân chủ.
4 Vận dụng thuyết thân chủ trọng tâm trong thực hành Công tác xã hội với
nhóm trẻ em
Phương pháp làm việc theo nhóm hay thông qua nhóm đã hình thành từ lâu trong trong
tiến trình lịch sử nhân loại. Xem xét một cách đơn giản nhất, làm việc theo nhóm là sự tham
gia của nhiều cá nhân và mỗi cá nhân có những công việc cụ thể để hoàn thành nhiệm vụ,
đồng hành chung với mục tiêu đã xác định (Nguyễn Thị Thái Lan, Nguyễn Thị Thanh
Hương, Bùi Thị Xuân Mai, 2008).
51
Lý thuyết thân chủ trọng tâm đã nhìn nhận được vai trò của mối quan hệ trong tham vấn
và đưa ra một số kỹ thuật để phát triển mối quan hệ có tính rất nhân văn trong tham vấn.
Nếu như trong công tác xã hội cá nhân, mối quan hệ giữa nhân viên xã hội và thân chủ là
quan hệ trực tiếp (một – một) thì trong công tác xã hội nhóm, nhân viên xã hội không phải
là người đứng trên nhóm, lãnh đạo nhóm mà trở thành “thành viên tích cực” của nhóm.
Nhân viên xã hội đóng vai trò là người khởi xướng, hướng dẫn, điều phối, theo dõi, giúp đỡ,
điều chỉnh hoạt động nhóm, không làm hộ, làm thay mà chỉ là chất xúc tác (Lê Văn Phú,
2004) giúp cho nhóm tự giải quyết vấn đề của nhóm hoặc của mỗi thành viên trong nhóm.
Bởi vì thuyết thân chủ trọng tâm đã nhấn mạnh rằng “mỗi người đều sở hữu những tiềm
năng cho sự lớn lên, tiềm năng cho những hành vi có hiệu quả và có khuynh hướng tự hiện
thực hóa những tiềm năng của mình”. Tức là trong mỗi cá nhân đều có những tiềm năng
nhất định và cái quan trọng là phải khơi dậy được tiềm năng ấy để cá nhân tự giải quyết vấn
đề của mình. Ở đây ảnh hưởng của nhân viên xã hội trong hoạt động nhóm chủ yếu mang
tính chất gián tiếp thông qua việc tạo môi trường năng động, an toàn, lành mạnh thúc đẩy
các tương tác nhóm, tinh thần nhóm, phát huy nội lực của nhóm, của mỗi cá nhân trong
nhóm hướng đến sự thay đổi và hành động vì mục tiêu xác định. Thông thường mọi người
không nói điều mà họ nghĩ đặc biệt là trong cuộc họp. Đôi khi rất khó chấp nhận rủi ro và
mọi người sợ bị người khác chỉ trích. Người thúc đẩy nên nhận thức khuynh hướng này và
giúp mọi người vượt qua nó.
Lấy thí dụ, thực hành Công tác xã hội với nhóm trẻ em sang chấn tâm lý do bị lạm dụng
tình dục. Theo lý thuyết thân chủ trọng tâm “Sở dĩ một cá nhân nào đó phát triển những
hành vi kém thích nghi là do sự tập nhiễm những mẫu ứng xử sai lệch”, điều này góp phần
lý giải nguyên nhân vì sao ở nhóm trẻ này thường xuất hiện những hành vi, cách ứng xử,
thái độ kỳ lạ như các em thường sợ tiếp xúc với người lạ, hay tiếp xúc với nam giới, hay
52
khóc một mình, đôi khi đang ngủ lại thức dậy la hét… Những hành vi kém thích nghi hoặc
các chứng nhiễu tâm của các em có liên quan trực tiếp đến những niềm tin phi lý của con
người đối với những biến cố trong cuộc sống của mình. Các em dễ có nguy cơ bị trầm cảm
khi tin rằng không thể kiểm soát các kết quả quan trọng trong đời sống.
Thân chủ gặp khó khăn có thể do hệ thống hành vi cư xử không phù hợp, ảnh hưởng
của cú shock là quá lớn mà các em chưa từng đối phó nên trước tiên, nhân viên xã hội phải
thiết lập được mối quan hệ thân thiết để thân chủ bộc lộ, chia sẻ những vấn đề đang gặp
phải. Khi xảy ra sang chấn, thân chủ thường có trạng thái tâm lý hoảng loạn, lo âu, sợ sệt,
khóc… và khó khăn trong chia sẻ nên nhân viên xã hội là người phát hiện và động viên họ,
lúc này nhân viên xã hội đóng vai trò là người hướng dẫn trong nhóm.
Vì vậy, khi thực hành công tác xã hội với nhóm trẻ em này, điều đầu tiên là nhân viên
xã hội phải chú ý đến những hành vi, thái độ, cư xử của các em trong nhóm để tìm hiểu
những vấn đề các em đang gặp phải, xâu chuỗi các sự kiện với nhau để thấy được nguyên
nhân của sự thay đổi đó. Đồng thời tạo lập mối quan hệ thoải mái tiếp cận mức độ của sang
chấn dựa trên những biểu hiện của thân chủ. Đây là giai đoạn hình thành nhóm. Giai đoạn
này nhóm chưa phải là một nhóm đúng nghĩa mà là tập hợp cả các cá thể. Nhiều cá nhân
trong nhóm còn e dè, phòng vệ, ít chia sẻ, thiếu thống nhất, có thái độ thăm dò nhau. Công
việc trước mắt là nhân viên xã hội cần thực hiện thảo luận, xây dựng hoặc định hướng về
mục đích hoạt động, tồn tại của nhóm.
Sau khi thân chủ chia sẻ vấn đề của mình, nhân viên xã hội xác định vấn đề chính xảy
ra với thân chủ và yếu tố kích động sang chấn. Cần làm việc với vấn đề tình cảm hay cảm
nhận và xúc động, chấp nhận thân chủ vô điều kiện, tôn trọng cử chỉ, hành vi của các em,
gợi cho thân chủ những giải pháp đồng thời hỏi các em về những giải pháp mà đã sẵn có
đồng thời cùng các em vạch ra một kế hoạch hành động.
53
Mỗi cá nhân đều có những năng lực, khả năng tiềm ẩn vì vậy việc tham gia vào nhóm
sẽ giúp cá nhân bộc lộ những khả năng ấy rõ nét hơn. Đối với nhóm trẻ sang chấn tâm lý do
bị lạm dụng tình dục, thông qua các hoạt động nhóm, có thể khơi gợi những năng lực cá
nhân, bầu không khí nhóm sẽ làm cái tôi của các em trỗi dậy. Các em được tham gia nhóm,
cùng sinh hoạt với nhau sẽ nhận ra rằng không chỉ bản thân em mà có rất nhiều những bạn
khác cũng gặp hoàn cảnh như mình nhưng họ vẫn vươn lên, hòa nhập với cộng đồng và
giúp đỡ những người khác. Điều này được nhấn mạnh trong thuyết thân chủ trọng tâm rằng
“mỗi người đều sở hữu những tiềm năng cho sự lớn lên, tiềm năng cho những hành vi có
hiệu quả và có khuynh hướng tự hiện thực hóa những tiềm năng của mình”. Thông qua sự
chia sẻ, tinh thần đoàn kết nhóm, các em sẽ cảm thấy tự tin vào bản thân mình và cùng với
nhân viên xã hội xây dựng kế hoạch trị liệu phù hợp.
Mặt khác, cách tiếp cận thân chủ trọng tâm được áp dụng để đưa mọi người sát lại gần
nhau và có thể ứng dụng với nhiều thân chủ thuộc các hệ văn hóa khác nhau. Một trong
những khó khăn lớn nhất của hoạt động công tác xã hội nhóm là các thành viên trong nhóm
còn có khoảng cách về giao tiếp, chưa thực sự hiểu nhau khi có những rào cản về sự khác
biệt văn hóa, tâm lý, trình độ, nhu cầu… Do đó, theo thuyết thân chủ trọng tâm “mỗi cá
nhân đều có nhu cầu mạnh mẽ được người khác chấp nhận, coi trọng nên anh ta hoặc cô ta
có thể hành động một cách không tự nhiên, không thực tế và phát triển những cảm giác sai
lệch về bản thân, về những điều mình mong muốn” (Nguyễn Duy Nhiên, 2010). Để khẳng
định mình trong nhóm, mỗi cá nhân sẽ có những hành vi, những ứng xử đôi khi đi ngược lại
mục đích, nhu cầu, mong muốn của nhóm. Giai đoạn này là giai đoạn bão tố - cạnh tranh
trong hoạt động nhóm. Ở đây vai trò của nhân viên xã hội rất quan trọng trong việc điều
phối hoạt động nhóm, mối quan hệ giữa các nhóm viên với nhau, đặc biệt chú ý đến những
nhóm viên ít thể hiện, chìm hơn so với những người khác, nhằm xóa dần khoảng cách giữa
54
họ và đảm bảo sự bình đẳng trong nhóm. Vai trò của người thúc đẩy là tạo ra môi trường
cho những người ngại ngùng và thẹn thùng nói lên quan điểm, mong ước và mối quan tâm
của mình. Đặc biệt là phải giúp đỡ những người phụ nữ đưa ra quan điểm của họ vào cuộc
thảo luận. Vì vậy, quan điểm thân chủ trọng tâm làm cho nó trở nên đặc biệt phù hợp cho
việc trị liệu các thân chủ là phụ nữ, người thuộc các nhóm dân tộc ít người, những người
thuộc các nền văn hóa khác nhau, hoặc những người có thay đổi định hướng giới tính. Thu
hút nhóm viên vào các hoạt động chung của nhóm như chuẩn bị báo cáo, dán biểu đồ…
Đối với nhóm trẻ em sang chấn tâm lý do bị lạm dụng tình dục, nhân viên xã hội
thường e ngại về những vấn đề các em gặp phải là những vấn đề tế nhị, khó nói nên thường
chọn phương pháp tiếp cận với từng trường hợp cụ thể trước khi dẫn dắt các em vào các
nhóm sinh hoạt. Đồng thời quan sát thái độ, cử chỉ, hành vi của các em khi đề cập đến các
vấn đề hay khi giao tiếp với mọi người. Vì vậy, sự kết nối giữa từng cá nhân các em với môi
trường nhóm ít chặt chẽ hơn, hoạt động nhóm chưa thực sự tạo ra sự thoải mái cho các em
bộc lộ bản thân và vấn đề mình đang gặp phải.
Bên cạnh đó, thuyết thân chủ trọng tâm vận dụng trong thực hành công tác xã hội nhóm
có ưu điểm là góp phần thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau và vượt qua các định kiến: nhóm có
thể làm việc không tốt nếu các thành viên không thực sự hiểu lẫn nhau. Hầu hết mọi người
cảm thấy khó khăn khi tự mình thoát khỏi những định kiến. Người thúc đẩy giúp nhóm
nhận ra rằng nhóm hiệu quả là nhóm được xây dựng trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau. Những
quan điểm khác nhau vì vậy cần được thu thập và thảo luận để đi đến một kết quả thỏa mãn
tất cả mọi người. Việc không hiểu nhau dẫn đến sự căng thẳng cho những người tham gia.
Những người lo lắng cần sự hỗ trợ và cần được đối xử một cách tôn trọng. Đối với người
thúc đẩy quan trọng là không chiếm được một vị trí mà là tôn trọng tất cả các quan điểm và
lắng nghe để mọi người cảm thấy tự tin và hiểu mình đang nói gì. Mỗi cá nhân khi tham gia
55
vào nhóm đều có những vấn đề nhất định, đặc biệt một số cá nhân có những vấn đề tế nhị,
khó nói nên khi tham gia vào nhóm họ có sự e ngại, thờ ơ hơn so với những nhóm viên khác.
Vì vậy, đôi khi họ ít được quan tâm, chú ý hơn. Họ không thể ứng phó với việc chia sẻ cạnh
tranh trong bối cảnh nhóm. Mặt khác một số cá nhân dễ bị dán nhãn vì những thành viên
khác trong nhóm không hiểu rõ hoặc hiểu không đầy đủ vấn đề trong lịch sử của họ.
Một số em khi tham gia vào các nhóm thường lo sợ, mặc cảm với vấn đề của mình hay
có thái độ mất niềm tin với xã hội, với con người nên chưa thực sự hòa mình vào các hoạt
động nhóm và có cảm giác xa rời nhóm. Môi trường nhóm trở nên xa lạ và các em cảm thấy
lạc lõng trong nhóm. Như vậy, nhu cầu được chia sẻ, được an toàn của các em không những
không được đáp ứng mà còn tăng thêm cả về cường độ và mức độ.
Trong một số trường hợp, nhóm có thể nguy hiểm đối với một số ít người. Nhóm và
người hướng dẫn nhóm có thể tấn công một cá nhân, từ chối cá nhân. Trong sinh hoạt dân
chủ, thiểu số phục tùng đa số có thể đưa đến sự ức chế ở thiểu số. Cơ cấu ngầm có thể xuất
hiện và chọi lại cơ cấu chính thức. Điều này được lý giải do nhóm và các cá nhân trong
nhóm chưa thực sự quan tâm đến các cá nhân riêng lẻ nên không biết những cảm xúc, hành
vi mới của cá nhân bắt nguồn từ đâu, từ khi nào và có phải do ảnh hưởng của nhóm hay
không? Khi những nhu cầu không được đáp ứng, một số em có thể đi ngược lại những quy
định chung của nhóm, làm trái những yêu cầu nhóm đưa ra và có ý định chống đối lại hoạt
động nhóm cũng như những nhóm viên khác. Đây là mầm mống của xung đột nhóm. Vì vậy
khi thực hành công tác xã hội với nhóm trẻ em này nhà xã hội cần lưu ý đến những hành vi,
thái độ trong quá khứ của các em để đánh giá chính xác và có những biện pháp thích hợp
nhằm điều chỉnh hành vi, thái độ sai lệch. Ví dụ trước đây em A là một cô bé ngoan, chăm
học nhưng sau khi bị bố dượng lạm dụng tình dục em trở nên rụt rè, sống khép mình và
thường hay cáu giận bất thường, em không muốn tiếp xúc với mọi người, đặc biệt là tham
56
gia vào nhóm với các bạn cùng lứa tuổi, khi nhân viên xã hội muốn em chơi cùng bạn trong
nhóm thì em lại bỏ ra ngoài sân…
Trong công tác xã hội nhóm, lý thuyết này cũng góp phần thúc đẩy giải pháp tập thể và
thay đổi cách suy nghĩ hơn thua: mọi người có thể tưởng tượng rằng các bên tham gia với
sự khác biệt rõ ràng thực tế lại có thể đạt được một thỏa thuận chung làm hài lòng tất cả các
bên. Hầu hết nhóm viên trong nhóm bị vướng phải quan điểm rằng giải quyết vấn đề và
mâu thuẫn chỉ là chấp nhận hoặc cách của anh hay cách của tôi. Người thúc đẩy nhóm giúp
tìm kiến ý tưởng có thể kết hợp quan điểm của mọi người. Theo lý thuyết thân chủ trọng
tâm: “Mối tương giao tôi thấy hữu ích là mối tương giao được định tính bằng một sự trong
suốt về phần tôi trong đó cảm quan thực sự của tôi biểu hiện rõ ràng, bằng sự chấp nhận
người khác như một con người riêng biệt có quyền có giá trị riêng và bằng một sự cảm
thông sâu xa khiến tôi có thể nhìn thế giới riêng tư của người ấy qua con mắt của người ấy.
Đây là một nhiệm vụ đầy thử thách – người thúc đẩy chỉ là một người suy nghĩ về những
khả năng mà ở đó có thể tồn tại những giải pháp mang tính tập thể. Khi sử dụng cách suy
nghĩ mới này, nhóm sẽ phát hiện yếu tố tích cực và thường xuyên trở nên hữu ích hơn đối
với hiệu quả của nhóm.
5 Kết luận
Thuyết thân chủ trọng tâm đã chỉ ra rằng “Sự lo âu và những không thích nghi về tâm lý
ít nhiều để lại hậu quả của sự mất ăn khớp giữa cái mình hiện thực và những trải nghiệm
cuộc sống một bên và bên kia giữa cái mình hiện thực và hình ảnh lý tưởng mà bản thân con
người đó có. Mục đích của phương pháp tham vấn tập trung vào cá nhân không phải là chữa
trị cho thân chủ hoặc tìm kiếm những nguyên nhân từ quá khứ mà cái chính là khuyến khích
thân chủ sự tự hiện thực hóa những tiềm năng của bản thân, tạo điều kiện dễ dàng cho sự
phát triển tâm lý lành mạnh ở thân chủ hài hòa với lợi ích chung của tập thể có cá nhân
57
trong đó”. Do vậy, phương pháp công tác xã hội nhóm luôn luôn đề cao việc chia sẻ trách
nhiệm, tức là quá trình tham gia, các bên cảm thấy có trách nhiệm tạo lập và phát triển sự
nhất trí mang tính bền vững. Bản thân cá nhân thừa nhận rằng họ phải sẵn sàng và có thể
thực hiện những đề xuất mà họ đã nêu ra, vì vậy họ phải nỗ lực hết mình để cho và nhận
những đầu vào trước khi ra quyết định. Điều này đối lập với những giả định truyền thống
trước đây mọi người phải chịu trách nhiệm về những hậu quả về những quyết định chỉ do
một ít người đưa ra. Tuy nhiên, tôn trọng ý kiến cá nhân không có nghĩa là không để ý đến
mối tương quan với các cá nhân khá trong nhóm. Ở đây vai trò nhà công tác xã hội được đề
cao không chỉ là người dẫn dắt, hỗ trợ quá trình đưa ra quyết định của cá nhân mà còn là
người thiết lập và duy trì bầu không khí nhóm tích cực nhằm thúc đẩy hoạt động nhóm đạt
hiệu quả và duy trì tiến trình sinh hoạt nhóm đúng kế hoạch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Thị Thái Lan, Nguyễn Thị Thanh Hương, Bùi Thị Xuân Mai. (2008). Giaó
trình Công tác xã hội nhóm. NXB Lao động xã hội Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Lâm. (2006). Công tác xã hội nhóm. Trường Đại học Mở thành phố Hồ
Chí Minh.
Vũ Thị Lụa, Lý Thị Hàm, Lê Thị Dung. (2004). Gíao trình tâm lý học. NXB Lao động
xã hội Hà Nội
Bùi Thị Xuân Mai. (2008). Giáo trình tham vấn. NXB Lao động xã hội Hà Nội.
Nguyễn Duy Nhiên. (2010). Giaó trình Công tác xã hội nhóm. NXB Đại học Sư phạm
Hà Nội.
Lê Văn Phú. (2004). Công tác xã hội. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
58
HOẠT ĐỘNG TỪ THIỆN HƯỚNG ĐẾN CÔNG TÁC XÃ HỘI
-Chia sẻ về hoạt động nhóm Hành Trang Cuộc Đời-
Võ Thị Thu Hà5
Tóm tắt
Làm từ thiện sao cho đúng? Vấn đề được đặt ra khi những sự kiện làm từ thiện gây
tranh cãi trên mạng xã hội trong thời gian qua. Bài viết sau đây chia sẻ về hoạt động của
nhóm thiện nguyện Hành Trang Cuộc Đời, những thuận lợi và thách thức mà nhóm trải
nghiệm khi làm thiện nguyện hướng đến Công tác xã hội trong phạm vi của một nhóm nhỏ.
Như những nhóm từ thiện khác, nhóm HTCĐ cũng gặp những thách thức như nghi ngờ
thiếu minh bạch, nghi ngờ vì lợi ích cá nhân, sự trông chờ, ỷ lại, sự lợi dụng, thiếu trung
thực v.v... đã có những lúc khiến nhóm xuống sức lực và tinh thần. Tuy nhiên với quy mô
nhỏ nên sự việc cũng không đi quá giới hạn, và đó cũng chỉ là trở ngại từ thiểu số. Công
việc thiện nguyện trở nên phức tạp hơn so với ban đầu, nhóm cũng phải nhìn lại giới hạn và
khả năng để công việc thiện nguyện vẫn đem lại niềm vui, hạnh phúc cho cả hai bên Cho và
Nhận, chứ không trở thành áp lực, hoặc tự gánh vác thêm trách nhiệm quá khả năng của bên
Cho.
Từ khoá: Hành Trang Cuộc Đời, hoạt động từ thiện, Công tác xã hội
1 Dẫn nhập
Trong những năm gần đây các hoạt động từ thiện tự phát như một lời mời gọi “Lá lành
đùm lá rách” của các cá nhân, nhóm tự phát, hay các tổ chức của tôn giáo, đoàn thể, và cả
các doanh nghiệp v.v... ngày càng được biết đến thông qua mạng xã hội. Hoạt động thiện
nguyện với nhiều hình thức, đa dạng và quy mô khác nhau. Từ một bình nước hay tủ bánh
5 Giảng viên Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh
59
mì miễn phí đặt ở vỉa hè, bữa cơm 2000, hoặc cơm từ thiện trong các bệnh viện đâu đó trên
những con đường người dân đi qua, khám bệnh miễn phí cho đến việc cứu trợ quy mô cho
người dân vùng lũ với thiên tai, dịch bệnh mà không cần một lời hồi đáp như thể cho đi đã
là một niềm vui rồi. Đặc biệt là những hình thức mới như cây ATM gạo (Anh,2020), ATM
nhu yếu phẩm (Nữ,2020), ATM khẩu trang (Phan, 2020) khi dịch Covid-19. Từ Thiện lúc
này thật là cao quí vì giúp cho bao người khó khăn cần một cánh tay đưa ra và chia sẻ vì
tình người, tình nhân loại giúp người khốn khó vượt qua những ngày khó khăn này.
Tuy nhiên, nhiều người muốn đóng góp cho xã hội những gì trong khả năng của họ mà
không bị ràng buộc bất cứ trách nhiệm hay cam kết nào gây ảnh hưởng đến đời sống riêng
tư của họ, bởi không cần phải có chuyên môn, cũng không đợi phải giàu có mới làm từ
thiện được. Sự linh hoạt này cũng là ưu thế của hoạt động từ thiện, cứ như dòng nước len
lỏi qua các kẽ nhỏ giúp đỡ người yếu thế vì nhiều lý do chính sách an sinh chưa chạm đến
được. Tuy vậy vẫn có một số hệ lụy đôi khi làm nản chí người cho như sự đòi hỏi, so bì, lừa
đảo, nghi ngờ thiếu minh bạch, tranh chấp giữa mạnh thường quân và người quyên góp,
v.v... nguyên nhân từ cách thức và động lực của người làm từ thiện. Điều này dẫn đến
những sự việc “cho đi đòi lại” (A.Q, 2021) đã thu hút đông đảo sự chú ý của dư luận và các
giới chuyên môn.
Kinh nghiệm từ những vụ việc xảy ra, một số ý kiến cho rằng hoạt động từ thiện cần có
cơ chế quản lý, hay cơ chế hợp tác khoa học. Làm từ thiện sao cho đúng (Anh, 2021), sao
cho hiệu quả (Diệp, 2020), đây cũng là nền tảng cho việc định hình nên nghề công tác xã
hội – ngành khoa học xã hội ứng dụng ngày nay; và người làm công tác xã hội là những
người được đào tạo chuyên môn để làm việc cho những người yếu thế cần đến. Tuy nhiên
nghề Công tác xã hội ra đời không có nghĩa là thay thế hẳn các hoạt động từ thiện, cả hai
vẫn song hành với mục đích giúp người, giúp cộng đồng và có thể bổ khuyết cho nhau.
60
Trong phạm vi bài viết này, người viết chia sẻ những thách thức trong hoạt động từ thiện
hướng đến công tác xã hội của nhóm Hành Trang Cuộc Đời.
2 Phân biệt hoạt động từ thiện (HĐTT) và Công tác xã hội (CTXH)
Công tác xã hội giống hoạt động từ thiện ở chỗ đều mang tính là nhân đạo, cả hai có
cùng mục đích chung là giúp đỡ những người gặp khó khăn vượt qua cảnh ngộ của họ.
Chính điểm này khiến nhiều người ngộ nhận CTXH và HĐTT cùng là hoạt động từ thiện
giúp xã hội mặc dù hai hoạt động này khác nhau trên nhiều phương diện mục đích, động cơ,
phương pháp, mối quan hệ giúp đỡ và kết quả giúp đỡ (An, 2006).
Về mục đích, tuy cùng mục đích chung nhưng CTXH giúp đối tượng thụ hưởng tăng
năng lực để họ tự giúp mình và hỗ trợ họ thực hiện hiệu quả các chức năng xã hội thông qua
việc cải thiện môi trường xã hội.
Về động cơ, CTXH và HĐTT có cùng mối quan tâm đến những đối tượng yếu thế, tuy
nhiên người ta làm từ thiện có thể với nhiều lý do khác nhau vì sự thương cảm, lòng từ,
thiện chí, tín ngưỡng, xây dựng uy tín hay hình ảnh cá nhân/tập thể, nhu cầu tâm lý, hoặc vì
lợi ích cá nhân họ. Trong khi đó, CTXH xem nhu cầu và lợi ích của người hưởng lợi là mối
quan tâm hàng đầu.
Về phương pháp, HĐTT giúp đỡ theo cách thức Cho – Nhận, ban phát. Người Cho
quyên góp dưới nhiều hình thức những gì họ nghĩ là cần thiết, và phân chia, cấp phát cho
người Nhận. Người Cho cũng không cần phải qua sự đào tạo chuyên môn nào cả, do đó các
mức độ đáp ứng nhu cầu người Nhận sẽ tùy thuộc vào sự nhạy bén của người Cho. Trong
CTXH, nhân viên xã hội (NVXH) là người thực hiện nhiệm vụ giúp đỡ một cách khoa học
qua việc cung cấp các dịch vụ xã hội, và người được giúp đỡ được gọi là khách hàng hay
thân chủ. NVXH được đào tạo chuyên môn, có tiến trình làm việc và phải tuân thủ các
61
nguyên tắc, quy điều đạo đức nghề nghiệp. NVXH hỗ trợ dựa trên vấn đề/ nhu cầu của khác
hàng, giúp khách hàng phát huy tiềm năng để tự giúp.
Về mối quan hệ giúp đỡ, mối quan hệ giúp đỡ trong HĐTT là cho – nhận. Người Cho
chủ động quyết định sẽ làm gì, cho gì; còn người Nhận thụ động do việc cho gì nhận nấy
khiến người Nhận có cảm giác mình là kẻ dưới, người Cho là kẻ trên; hoặc có khi cả hai
bên chỉ gặp nhau một lần duy nhất và sau khi cho và nhận không ai biết đến ai nữa. Mối
quan hệ giữa NVXH và khách hàng trong CTXH là mối quan hệ nghề nghiệp trên cơ sở
bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. NVXH xây dựng mối quan hệ và sự tin tưởng với khách
hành, hỗ trợ khách hàng tự giải quyết vấn đề/ nhu cầu của họ từ việc tìm hiểu và đánh giá
nhu cầu của khách hàng. Khách hàng cùng tham gia chủ động vào tiến trình giải quyết vấn
đề với NVXH và tự quyết định những gì liên quan đến họ.
Từ sự khác nhau về mục đích, động cơ, phương pháp, mối quan hệ giúp đỡ của HĐTT
và CTXH lẽ tất nhiên dẫn đến kết quả hỗ trợ khác biệt. HĐTT giải quyết những vấn đề tạm
thời, hoặc cấp bách, tức thì nên vấn đề chỉ được giải quyết tạm thời hoặc chỉ là xoa dịu. Và
với cách làm giùm, làm thay của người Cho sẽ khiến đối tượng Nhận có thể ỷ lại, đòi hỏi.
Về phía CTXH, với phương pháp làm việc khoa học có sự tham gia từ đầu của khách hàng,
NVXH giúp khách hàng tăng năng lực ứng phó và tự giải quyết vấn đề qua việc giúp họ tự
khám phá khả năng của bản thân, và nhận biết, kết nối với các nguồn lực bên ngoài. Với
kinh nghiệm này, họ có thể tự giải quyết những vấn đề tương tự.
3 Nhóm thiện nguyện hành trang cuộc đời (HTCĐ)
Nhóm Hành Trang Cuộc Đời (HTCĐ) được thành lập vào 04/2014. Nhóm điều hành
HTCĐ gồm bốn thành viên đang làm việc trong các lĩnh vực kinh doanh, thiết kế và xã hội.
Đối tượng nhận hỗ trợ là nhóm trẻ mồ côi, trẻ hoặc người chăm sóc có bệnh mãn tính, có
hoàn cảnh gia đình khó khăn, sinh sống trên địa bàn quận Gò Vấp và Bình Thạnh.
62
Cơ duyên thành lập nhóm HTCĐ bắt đầu từ việc gặp nhau giữa một bên mong muốn
làm điều gì đó cho người nghèo nhưng chưa biết nên bắt đầu từ đâu, làm như thế nào và
một bên biết những người nào cần được giúp đỡ. Đây là nhóm tự phát, các thành viên cũng
không biết mình sẽ duy trì hoạt động trong bao lâu, cứ làm được đến đâu hay đến đó.
Với mục đích ban đầu giúp giảm nhẹ gánh nặng học phí nhằm khuyến khích trẻ và gia
đình duy trì việc học cho trẻ. Hoạt động đầu tiên và cũng là hoạt động chủ đạo của nhóm
cho đến nay là tặng học bổng cho nhóm trẻ theo từng học kỳ mỗi năm học; và nhóm cũng
chỉ biết cho được học kỳ nào hay kỳ nấy, không có sự cam kết lâu dài với trẻ và gia đình.
Qua thời gian, trẻ và các gia đình tin tưởng thường tìm đến các thành viên tổ chức khi gặp
các vấn đề liên quan đến trẻ, đến gia đình, và đặc biệt về sức khỏe khiến họ kiệt quệ về tinh
thần và tài chính. Do đó mục đích của nhóm được mở rộng nhằm nâng đỡ trẻ em, các cá
nhân, gia đình vượt qua giai đoạn ngặt nghèo trong cuộc sống. Và để duy trì việc giúp đỡ
được xuyên suốt, nhóm điều hành quyết định số lượng trẻ nhận học bổng được duy trì ổn
định trên dưới 20 trẻ (đây là nhóm trẻ chính) và mở rộng thêm khoảng 20 trẻ tham gia các
hoạt động của nhóm như đi vui chơi, tham quan.
Về cách thức làm việc, các thành viên làm việc trên tinh thần tự nguyện, không tìm
kiếm hoặc thu lợi từ các hoạt động thiện nguyện của nhóm, không sử dụng hình ảnh hay
thông tin của người được giúp để công khai quảng bá vận động quyên góp. Chuẩn bị cho
mỗi đợt phát học bổng, nhóm liên hệ với gia đình để nhận các phiếu thu hoặc biên lai đã
đóng học phí, kết quả học tập của trẻ (minh chứng cho việc trẻ vẫn đang đi học). Đây cũng
là dịp nhóm hiểu thêm về gia đình và tình hình học tập của trẻ. Trị giá học bổng thông
thường bằng 1/2 hoặc 2/3 số tiền gia đình đã đóng cho nhà trường. Vì thế số tiền học bổng
các trẻ được nhận sẽ không giống nhau ngay cả cùng bậc học nhưng khác trường. Bên cạnh
hoạt động chính là phát học bổng, mỗi khi tổ chức các trẻ tập trung cũng được chơi các trò
63
chơi trong khi chờ đợi ban tổ chức chuẩn bị. Dần dần việc vui chơi này trở thành hoạt động
không thể thiếu và được lồng ghép các nội dung cung cấp kiến thức hoặc kỹ năng sống cho
các trẻ. Các hoạt động này được hỗ trợ bởi nhiều đợt tình nguyện viên, sinh viên tình
nguyện, một số dì phước từ nhà thờ. Thỉnh thoảng có những buổi phát học bổng, các phụ
huynh, người chăm sóc trẻ cũng được tập trung để trò chuyện, chia sẻ.
Từ một hoạt động chính là tặng học bổng, hiện nay, các hoạt động giúp đỡ bao gồm:
‐ Tặng học bổng kết hợp tổ chức hoạt động vui chơi, kỹ năng sống cho trẻ.
‐ Vận động hỗ trợ hoặc kết nối, chuyển gửi những trường hợp bệnh tật, hoặc hoàn
cảnh trở nên khó khăn.
‐ Trò chuyện, lắng nghe những trường hợp trẻ hoặc gia đình tìm đến khi họ gặp
vấn đề.
‐ Phát quà những dịp lễ tết, hàng năm tổ chức cho trẻ đi chơi một ngày (tùy theo
khả năng của nhóm).
Những thuận lợi và thách thức
Các vận động quyên góp để thực hiện của hoạt động nào chỉ dùng cho hoạt động đó.
Nếu có sự thay đổi cách thức hoặc mục tiêu hỗ trợ, nhóm đều đưa ra thảo luận trong nhóm
điều phối, với mạnh thường quân. Cách thức này giúp nhóm tránh được sự tranh cãi, bất
hòa do những thay đổi hoặc phát sinh ngoài mong muốn, đồng thời củng cố được sự tin
tưởng của những người đóng góp tài lực cho nhóm.
Giúp đỡ với quy mô nhỏ và ổn định về số lượng trẻ, gia đình, và cách thức tổ chức
trong khả năng tài lực của nhóm. Điều này giúp nhóm duy trì hoạt động lâu dài do chủ động
được trong việc vận động quyên góp, sắp xếp công việc và thời gian cá nhân. Đồng thời, sự
hỗ trợ trong thời gian dài đem lại cảm giác nhóm và gia đình cùng đồng hành, giúp nhóm và
các gia đình hiểu nhau hơn trong cách thức làm việc và có sự tin tưởng lẫn nhau. Gia đình
64
hiểu ý nghĩa các hoạt động của nhóm nên họ tham gia và hợp tác hơn trong việc quan tâm
đến con em nhất là việc học tập, cảm xúc, tâm lý trẻ, chủ động trao đổi, chia sẻ với nhóm hỗ
trợ.
Kết quả đạt được từ khi thành lập nhóm 04/2014 đến 04/2021:
- Tổng số 74 trẻ nhận ít nhất 1 trong các hỗ trợ: học bổng, quà dịp lễ tết, tham gia
hoạt động vui chơi, tham quan hoặc kỹ năng sống.
- 39/74 trẻ với 255 lượt nhận học bổng. Trong đó có 1 trẻ học đã học xong cao đẳng
và 1 em đang học đại học.
- 20/39 trẻ đã kết thúc nhận học bổng với các lý do như học xong trung học đi làm,
nghỉ học vì sức khỏe, vì không tiếp thu nổi, kinh tế đã ổn định, thay đổi người chăm sóc
v.v...
-13 gia đình quá khó khăn về sức khỏe, kinh tế hoặc các vấn đề trong gia đình được
hỗ trợ hoặc chuyển gửi.
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, nhóm cũng gặp những thách thức trong quá trình 07
năm thực hiện:
- Về phía các gia đình:
• Có sự nghi ngờ có sự thiên vị, thiếu công bằng vì trị giá học bổng có sự khác
nhau giữa các trẻ nên họ so bì, đòi hỏi, kèo nài.
• Nghi ngờ nhóm thiện nguyện ắt phải có lợi lộc hằng tháng hoặc hưởng %
trong số tiền quyên góp mới chịu khó giúp đỡ họ bao nhiêu năm qua.
• Trông chờ, ỷ lại vào học bổng nên có gia đình chờ nhận mà không chịu chuẩn
bị trước để đóng tiền học cho con em, họ bức xúc nếu học bổng phát trễ khiến
họ bị nhà trường nhắc nhở. Hoặc viện cớ than vãn hỏi xin giúp đỡ tiền bạc.
65
• Thiếu trung thực, lợi dụng sự thông cảm khi gửi các biên lai học phí, cố tình
quên hoặc báo mất để che dấu việc con em họ dừng học mà vẫn muốn nhận
tiền hỗ trợ học phí.
• Gia đình gặp khó khăn, sử dụng học bổng cho mục đích khác khiến trẻ phải
nghỉ học vì thiếu học phí của trường.
- Về phía nhóm HTCĐ:
Để giải quyết những trở ngại nêu trên, nhóm cũng điều chỉnh cách làm khoa học hơn
(Lợi thế của nhóm 2 trong 4 người làm việc trong mảng công tác xã hội):
• Giúp gia đình hiểu ý nghĩa và giới hạn của sự hỗ trợ, trách nhiệm của gia đình
với con em họ, các thành viên nhóm trao đổi thường xuyên hơn với trẻ và gia
đình trong những buổi trao học bổng, hoặc trao đổi riêng với gia đình, cũng có
trường hợp nhóm từ chối, không giúp đỡ nữa. Linh động trong việc nới lỏng
hay siết chặt các yêu cầu khi làm việc với gia đình để hỗ trợ đúng người, đúng
việc.
• Đến thăm gia đình, xem xét chứng từ liên quan việc học của trẻ, hoặc trò
chuyện với gia đình, xác minh hoàn cảnh để có thể giúp trình bày hoàn cảnh,
kết nối và chuyển gửi những gia đình quá khó khăn vì bệnh tật, thất nghiệp,
v.v...
Điều này có nghĩa là các thành viên trong nhóm phải dành thêm thời gian, công sức hơn
cho hoạt động thiện nguyện của nhóm, khiến ảnh hưởng không ít đến công việc, quỹ thời
gian cá nhân và tạo thêm áp lực cho bản thân. Đây cũng là thách thức lớn với nhóm làm từ
thiện quy mô nhỏ muốn hướng đến việc giúp đỡ một cách hiệu quả tuy rằng nhóm có lợi thế
là có thành viên làm việc trong lĩnh vực công tác xã hội.
66
Như những nhóm từ thiện khác, nhóm HTCĐ cũng gặp những thách thức như nghi ngờ
thiếu minh bạch, nghi ngờ vì lợi ích cá nhân, sự trông chờ, ỷ lại, sự lợi dụng, thiếu trung
thực v.v... đã có những lúc khiến nhóm xuống sức lực và tinh thần. Tuy nhiên với quy mô
nhỏ nên sự việc cũng không đi quá giới hạn, và đó cũng chỉ là trở ngại từ thiểu số. Công
việc thiện nguyện trở nên phức tạp hơn so với ban đầu chỉ phát học bổng cho trẻ, sự việc
dần dẫn dắt nhóm hướng đến chiều sâu, bởi giúp trẻ duy trì việc học không phải chỉ có học
bổng là đủ mà còn liên quan đến các vấn đề phát sinh từ gia đình ảnh hưởng đến việc học
tập của trẻ (như sao nhãng việc học, cảm xúc tiêu cực, muốn nghỉ học đi làm). Điều này vô
tình tạo áp lực và cần công sức của nhóm nhiều hơn làm ảnh hưởng đến đời sống riêng của
các thành viên, do đó nhóm cũng cần nhìn lại phạm vi, giới hạn để tự cân bằng lại và đủ sức
hoạt động lâu dài.
4 Kết luận
Nhìn lại chặng đường nhóm thiện nguyện Hành Trang Cuộc Đời, hoạt động từ việc
khởi xướng tưởng như đơn giản bởi muốn chia lửa từ trái tim đến trái tim cho những người
gặp khó khăn cần ai đó nắm lấy và chia sẻ. Tuy nhiên đã có lúc những người thiện nguyện
cũng chùng bước vì thiện chí, tình yêu của họ đổi lại là sự nghi ngờ, trông chờ và ỷ lại, ….
Nhưng được chứng kiến những thành quả nhóm đạt được, các thành viên nhóm HTCĐ cảm
nhận niềm vui, hạnh phúc vì những cố gắng, những vất vả của họ thật xứng đáng. Giúp
đúng người cần, và giúp một cách hiệu quả là mục tiêu nhóm hướng đến trong khả năng của
nhóm. Và không chỉ nhóm từ thiện chuyển mình trong việc cải thiện cách thức làm việc mà
cả người nhận cũng chuyển biến tốt hơn trong quá trình nhận được hỗ trợ. Từ việc thụ động
sang đến việc chủ động và có trách nhiệm với những gì họ nhận được và sau này lại đóng
góp cho bản thân, gia đình và xã hội. Dù vậy, nhóm cũng phải nhìn lại giới hạn và khả năng
67
để công việc thiện nguyện vẫn đem lại niềm vui, hạnh phúc cho cả hai bên Cho và Nhận,
chứ không trở thành áp lực, hoặc tự gánh vác thêm trách nhiệm quá khả năng của bên Cho.
Có thể nói từ thiện mang tính tài tử bên cạnh tính chuyên nghiệp của nghề Công tác xã
hội, bởi các hình thức, quy mô từ thiện thay đổi linh hoạt theo thay đổi của xã hội và ai
cũng có thể làm, tùy theo khả năng, không cần phải có chuyên môn, không có sự ràng buộc
trách nhiệm. Có thể rằng từ thiện đáp ứng mong đợi của người Cho hơn người Nhận, nhưng
nó vẫn có nét đẹp và ý nghĩa riêng của nó. Do đó, cơ chế quản lý cũng cần thích ứng với sự
đa dạng hình thức, quy mô của hoạt động từ thiện, và tạo thuận lợi để mọi người tham gia,
đồng thời xã hội cũng tận dụng được nguồn lực lớn từ dân. Thủ tướng Chính phủ cũng đã
có chỉ đạo việc xây dựng nghị định thay thế Nghị định 64/2008/NĐ-CP (14/5/2008) về hoạt
động quyên góp, từ thiện, cứu trợ.
Mong rằng nhóm Hành Trang Cuộc Đời và với tất cả những ai làm công tác thiện
nguyện vẫn tiếp tục cầm ngọn đuốc và bước đi trong bóng đêm gian khó nêu cao tinh thần
“Thà thắp lên một ngọn nến hơn là nguyền rủa bóng tối” (Eleanor Roosevelt), để những ai
cần có tia sáng hy vọng có thể bước ra và đồng hành cùng với các bạn trong hy vọng và
niềm vui.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A.Q. (2021, ngày 12 tháng 4). Cho đi và đòi lại.https://nld.com.vn/thoi-su/cho-di-va-
doi-lai-20210411220404957.htm
Hoa Nữ. (2020, ngày 15 tháng 5). Nếu thiếu nhu yếu phẩm hãy đến cây ATM thực phẩm
miễn phí. Truy xuất từ http://congtacxahoi.vn/neu-thieu-nhu-yeu-pham-hay-den-cay-atm-
thuc-pham-mien-phi.html 15 Th5, 2020
68
Hoàng Tuấn Anh. (2020, ngày 06 tháng 08)."ATM gạo" nhân bản yêu thương, lan tỏa
tình người. https://tuoitre.vn/atm-gao-nhan-ban-yeu-thuong-lan-toa-tinh-nguoi-
20200412234741985.htm
Lê Phan. (2020, ngày 06 tháng 08). Video chủ nhân 'ATM khẩu trang' chia sẻ cách thức
vận hành máy. Truy xuất từ https://tuoitre.vn/video-chu-nhan-atm-khau-trang-chia-se-cach-
thuc-van-hanh-may-20200806110211962.htm 06/08/2020
Lê Chí An. (2006). Công tác xã hội nhập môn.Đại học Mở bán công thành phố Hồ Chí
Minh.
Nguyễn Diệp.(2020, ngày 04 tháng 11). Chuyên gia công tác xã hội Sơn Phạm: "Thủy
Tiên nên tin tưởng vào địa phưo7ng, đừng đánh giá chủ quan người giàu và nghèo dựa trên
bề ngoài của họ". Truy xuất từ https://kenh14.vn/son-pham-pho-giam-doc-quy-lin-cach-
lam-cua-thuy-tien-mang-tinh-thoi-diem-neu-duoc-can-can-bang-nguon-ngan-sach-giua-
hien-tai-va-dau-tu-vao-nhung-du-an-dai-lau-de-hoi-phuc-sau-lu-20201103223720532.chn
Phan Anh. (2021, ngày 17 tháng 04). Làm từ thiện sao cho đúng?: Thống nhất giữa
nhà tài trợ với địa phương. Truy xuất từ https://nld.com.vn/ban-doc/lam-tu-thien-sao-cho-
dung-thong-nhat-giua-nha-tai-tro-voi-dia-phuong-20210416213549066.htm
69
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG HỆ THỐNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE NGƯỜI CAO TUỔI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Thái Huy Ngọc6
Hoàng Thanh Dương7
Tóm tắt
Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi là việc đáp ứng các nhu cầu và yêu cầu đặc biệt dành
riêng cho người cao tuổi. Hệ thống chăm sóc sức khỏe bao gồm các dịch vụ y tế như khám
chữa bệnh, bảo hiểm y tế, đào tạo nhân lực ngành lão khoa, chăm sóc dài hạn, viện dưỡng
lão, chăm sóc trong các cơ sở bảo trợ và chăm sóc tại nhà. Do có nhiều loại hình chăm sóc
sức khỏe được thực hiện ở Việt Nam, nhằm mục đích hỗ trợ cho các hoạt động chăm sóc
sức khỏe cho người cao tuổi nên cần phải có những giải pháp phù hợp. Bài viết này tổng
quan thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi ở Việt Nam, qua đó đề xuất một
số giải pháp nâng cao chất lượng hệ thống chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Người cao tuổi, chăm sóc sức khỏe
1 Dẫn nhập
Hiện nay, tỷ lệ người cao tuổi trên khắp thế giới đang tăng nhanh và sẽ tiếp tục tăng
trong những năm tới. Theo dự báo của Liên hợp quốc năm 2010; số người cao tuổi (từ 60
tuổi trở lên) sẽ tăng từ 760 triệu trong năm 2010 lên khoảng 2 tỷ người vào năm 2050 (tức
là từ 11% lên 22% tổng dân số thế giới) [8; tr.1]. Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương
6 Giảng viên Trường Đại học Nguyễn Huệ 7 Giảng viên Trường Đại học Nguyễn Huệ
70
binh và Xã hội, năm 2020, ở Việt Nam có gần 13 triệu người cao tuổi, chiếm 12% số dân;
trong đó, khoảng 1,98 triệu người hơn 80 tuổi; gần 4,8 triệu người cao tuổi là nam giới. Dự
báo đến năm 2035, người cao tuổi chiếm tỷ lệ 20% số dân, lúc đó Việt Nam là quốc gia dân
số già [5]. Cũng đã có cảnh báo rằng Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ “già trước khi giàu”
khi tốc độ già hóa dân số tiếp tục tăng nhanh trong khi GDP bình quân đầu người mới ở
mức trung bình thấp (khoảng 2.000 USD Mỹ) [10]. Do đó, già hóa dân số diễn ra với tốc
độ nhanh đang đặt ra những thách thức lớn về sự cần thiết phải thay đổi hệ thống an sinh xã
hội, lao động việc làm, vui chơi giải trí…, đặc biệt là hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao
tuổi ở nước ta, đòi hỏi Việt Nam ngay từ bây giờ phải chuẩn bị.
2 Thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại Việt Nam
Tuổi thọ của người dân cao lên đi kèm với sự suy giảm sức khỏe của người cao tuổi
ngày một tăng. Người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay thường phải đối mặt với những bệnh
như tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa, đái tháo đường, sa sút trí tuệ… Đây là nhóm bệnh
không lây nhiễm, nhưng số lượng những bệnh nhân của nhóm này ngày càng tăng và
phải điều trị suốt đời. Trong khi đó, tại Việt Nam, mô hình gia đình hiện đại (hay còn gọi là
gia đình hạt nhân - chỉ có 2 thế hệ) đang dần thay thế cho mô hình gia đình truyền thống (có
từ 3 thế hệ trở lên), khiến cho số người thân chăm sóc cho người già cũng ít đi. Thực trạng
này đã dẫn tới sự hình thành và phát triển hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, giúp
họ được hưởng một cuộc sống lành mạnh cả về thể chất và tinh thần.
Một thành phần trong hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đầu tiên được Việt
Nam quan tâm và hướng đến là phát triển dịch vụ y tế, nâng cao chất lượng khám, chữa
bệnh cho người cao tuổi, trong đó trọng tâm là thành lập các bệnh viện lão khoa, khoa lão
khoa. Theo đó, Bộ Y tế đã lập kế hoạch tổng thể tăng cường năng lực của hệ thống lão khoa
tại các địa phương trong cả nước, hướng tới chăm sóc toàn diện cho người bệnh là người
71
cao tuổi tại bệnh viện. Theo số liệu thống kê, hiện cả nước có 1 Bệnh viện Lão khoa
Trung ương và 97 khoa lão khoa được thành lập tại bệnh viện đa khoa của 49/63 tỉnh, thành
phố và các bệnh viện tuyến Trung ương với gần 1.800 nhân viên y tế được đào tạo về lão
khoa; hơn 918 khoa khám bệnh có buồng, bàn khám riêng và có trên 8.000 giường điều
trị ưu tiên cho người cao tuổi [5]. Đáng chú ý là việc xây dựng bệnh viện lão khoa tại
các địa phương bắt đầu được triển khai, giúp người cao tuổi hạn chế việc phải chuyển
tuyến điều trị, giảm quá tải cho Bệnh viện Lão khoa Trung ương, từ đó giảm gánh nặng cho
người bệnh và gia đình. Điển hình là vào tháng 8/2019 vừa qua, Quảng Ninh là địa
phương đi đầu cả nước khởi công xây dựng Bệnh viện Lão khoa với quy mô 200 giường
bệnh, tổng mức đầu tư 429 tỷ đồng, thời gian triển khai trong 2 năm (2019 - 2020). Dự
án được đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng, cây xanh theo hướng thân thiện với môi trường, đảm
bảo khí hậu và điều kiện chăm sóc tốt nhất cho người bệnh [6].
Cùng với đẩy mạnh phát triển hệ thống lão khoa trên cả nước, Bộ Y tế đồng thời hướng
dẫn các trường đại học y thành lập bộ môn lão khoa để cung cấp nhân lực cho hệ thống này.
Hiện nay, đã có Trường đại học Y Hà Nội, Trường đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
(Thành phố Hồ Chí Minh) thành lập được môn lão khoa, đào tạo chính nguồn nhân lực thầy
thuốc lão khoa. Công tác đào tạo các điều dưỡng chuyên ngành lão khoa cũng sẽ được triển
khai tại các trường cao đẳng ngành y trong thời gian tới. Mặt khác, ngành Y tế Việt Nam
cũng đang đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tăng cường nguồn nhân lực cũng như nâng cao chất
lượng khám chữa bệnh của bác sĩ lão khoa. Ví dụ như chương trình hợp tác đào tạo nguồn
nhân lực lão khoa giữa Bệnh viện Lão khoa trung ương với các bệnh viện, cơ sở đào tạo của
Pháp và Nhật Bản.
Bên cạnh đó, Bộ Y tế đã triển khai gói dịch vụ y tế cơ bản tại Trạm y tế xã theo Thông
tư 39/2017/TT-BYT, danh mục thuốc điều trị các bệnh tại tuyến y tế cơ sở được mở rộng
72
nhằm tạo thuận lợi cho người cao tuổi trong khám và điều trị các bệnh mãn tính tại Trạm y
tế xã, phường, thị trấn. Ngoài ra, Bộ Y tế cũng quy định rõ người cao tuổi được đăng ký
khám chữa bệnh ban đầu tại cơ sở khám chữa bệnh tuyến xã, tuyến huyện thuận tiện với nơi
cư trú và khả năng đáp ứng của cơ sở khám chữa bệnh; đăng ký khám chữa bệnh ban đầu tại
các cơ sở khám chữa bệnh tuyến tỉnh, tuyến Trung ương khi có khả năng đáp ứng được việc
tiếp nhận đăng ký khám chữa bệnh ban đầu. Đặc biệt, người cao tuổi trên 80 tuổi được đăng
ký khám chữa bệnh ban đầu tại bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến trung ương [2]. Việc thực hiện
quy định này đã tạo thuận tiện cho người cao tuổi trong việc khám, chữa bệnh bảo hiểm y
tế và được chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
Nhằm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, toàn diện, liên tục, thuận lợi cho
người bệnh (đặc biệt là người cao tuổi) và góp phần giảm tình trạng quá tải ở các bệnh viện.
Từ năm 2013, Việt Nam cũng đã triển khai thực hiện mô hình bác sĩ gia đình (một mô hình
có từ lâu tại các nước phát triển) theo Đề án Bác sĩ gia đình giai đoạn 2013-2020. Thực hiện
dịch vụ này đối với người cao tuổi, các bác sĩ gia đình sẽ hướng dẫn người thân trong
gia đình cách chăm sóc người cao tuổi, giám sát người cao tuổi khi mắc bệnh nghiêm trọng
hoặc tình trạng sức khỏe không ổn định, chăm sóc người cao tuổi về vấn đề vệ sinh, ăn
uống… Với những ưu điểm như tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại khám chữa bệnh, chất
lượng bác sĩ tốt, dịch vụ bác sĩ gia đình được đánh giá là mô hình phù hợp và đang ngày
càng phát triển tại Việt Nam.
Bên cạnh việc phát triển loại hình, chất lượng dịch vụ y tế thì phát triển bảo hiểm y
tế đang được xem là một điểm tựa vững chắc cho người cao tuổi chăm lo sức khỏe của
mình khi họ phải đối mặt với tình trạng bệnh tật gia tăng trong khi chi phí khám chữa bệnh
là một gánh nặng. Theo thống kê, năm 2020 cơ quan Bảo hiểm xã hội cấp thẻ bảo hiểm y tế
cho gần 13 triệu người cao tuổi; (chiếm 95% số lượng người cao tuổi). Hiện người cao tuổi
73
đang chiếm trên 12% trong tổng số đối tượng tham gia bảo hiểm y tế. Chính phủ cũng đã có
quy định người trên 80 tuổi sẽ được hỗ trợ mua bảo hiểm y tế. Để tạo điều kiện dễ dàng tiếp
cận với các dịch vụ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế cho nhóm đối tượng này, các địa
phương phấn đấu đến hết năm 2021 sẽ đạt 100% người cao tuổi có thẻ BHYT, tiến tới nâng
cao chất lượng khám sức khỏe định kỳ, ban đầu cho người cao tuổi [5].
Một mô hình khác trong chăm sóc người cao tuổi được phát triển ở Việt Nam trong
những năm gần đây là nhà/viện dưỡng lão. Mô hình này khá mới mẻ và được phân thành 3
nhóm sau:
Nhóm thứ nhất là các cơ sở do các cá nhân, doanh nghiệp đứng ra tổ chức, xây dựng,
vận hành theo mô hình kinh doanh dịch vụ chăm sóc sức khỏe, có lợi nhuận để tự duy trì
hoạt động. Một số viện dưỡng lão thuộc nhóm này có thể kể đến là: Trung tâm dưỡng lão
Thiên Phúc, Orihome, Nhà tuổi vàng, Trung tâm Phù Đổng, Trung tâm dưỡng lão Diên
Hồng… Đây là những địa chỉ có cơ sở hạ tầng, khuôn viên thuận tiện cho người già sinh
hoạt, nhân viên chăm có được tập huấn, đào tạo bài bản.
Nhóm thứ hai là các cơ sở dưỡng lão từ thiện do các các nhân hoặc tổ chức tôn giáo
(nhà chùa, giáo hội) đứng ra tổ chức, hoạt động theo mô hình thiện nguyện, kinh phí
hoạt động do sự đóng góp của các doanh nghiệp, cá nhân hảo tâm.
Nhóm thứ ba là các cơ sở chăm sóc, điều dưỡng người có công, người cao tuổi thuộc
diện chính sách do nhà nước đứng ra bảo trợ.
Qua thực tế hoạt động, mô hình nhà/viện dưỡng lão, đặc biệt là các cơ sở tư nhân đang
mang lại một môi trường sống khá thoải mái và thuận lợi cho người cao tuổi và đang được
nhiều gia đình lựa chọn.
Bên cạnh việc phát triển các cơ sở dưỡng lão, các địa phương đang đồng thời đẩy mạnh
các hoạt động chăm sóc người già tại cộng đồng. Điển hình như tại Thành phố Hồ Chí Minh,
74
từ năm 2016, Trung tâm Công tác xã hội Thanh niên của thành phố đã phối hợp cùng 3
trung tâm bảo trợ xã hội tổ chức cung cấp dịch vụ xã hội như tổ chức giao lưu văn hóa, dạy
tập thể dục dưỡng sinh cho người cao tuổi…
Mặc dù vấn đề phát triển các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi đã được quan tâm trong
thời gian qua, song thực tế cũng cho thấy lĩnh vực này còn nhiều khoảng trống. Trước hết,
số lượng bệnh viện chuyên về lão khoa trên cả nước so với tỷ lệ người cao tuổi đang rất
thiếu. Hiện nay, ở Việt Nam chỉ có một bệnh viện đầu ngành chăm sóc cho người cao tuổi
là Bệnh viện Lão khoa trung ương còn tại các địa phương, chỉ khoảng 20% các bệnh viện
tỉnh có khoa lão khoa, chủ yếu tập trung ở tỉnh có dân số đông [7].
Bên cạnh đó, tại các khoa lão khoa thuộc bệnh viện địa phương, hệ thống y tế chăm sóc
riêng cho người cao tuổi hiện chưa đồng bộ ở các tuyến, trang thiết bị còn thiếu; đội ngũ
cán bộ y tế được đào tạo chuyên sâu để điều trị và chăm sóc cho người cao tuổi còn mỏng,
chủ yếu là hoạt động ghép với các chuyên khoa khác như: Thận, tim mạch, nội… Việc thiếu
các chuyên khoa lão khoa và đội ngũ cán bộ y tế ở cơ sở đã phần nào ảnh hưởng đến công
tác chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi ở nước ta.
Mặc khác, mô hình bác sĩ gia đình cũng chỉ mới phát triển mạnh tại hai thành phố lớn là
Hà Nội và Hồ Chí Minh do người dân chưa hiểu và chưa tin, nguồn nhân lực có chuyên
môn về y học gia đình còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu. Bên cạnh đó, cơ sở thực hành
cho chuyên ngành Y học gia đình chưa được xây dựng nên việc chăm sóc sức khỏe ban đầu
và quản lý sức khỏe cho người dân chưa chuyên nghiệp. Trong khi đó, chưa có mẫu hồ
sơ bệnh án phù hợp với mô hình và phần mềm quản lý thông tin bệnh nhân của phòng khám
bác sĩ gia đình.
Thêm vào đó, nhu cầu vào viện dưỡng lão, trung tâm chăm sóc người cao tuổi hiện rất
lớn trong khi mạng lưới hệ thống dưỡng lão ở Việt Nam thiếu và yếu. Theo Cục Bảo trợ xã
75
hội (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội), hiện cả nước có 102 cơ sở tổng hợp có phân
khu chăm sóc người cao tuổi, trong đó chỉ có 32 cơ sở chuyên biệt chăm sóc người già trên
cả nước và các viện dưỡng lão này phần lớn thuộc khu vực tư nhân [4]. Tức là
không đủ trung bình mỗi tỉnh thành một trung tâm. Các cơ sở chăm sóc người cao tuổi cũng
chủ yếu tập trung ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh và mức phí dịch vụ còn
khá cao. Còn tại các địa phương, các trung tâm bảo trợ xã hội cũng dành một phần
hoạt động để nuôi dưỡng, chăm sóc người già, tuy nhiên đối tượng chỉ là các cụ neo đơn,
khó khăn, không nơi nương tựa. Hơn nửa, đội ngũ chăm sóc người cao tuổi tại nhiều cơ sở
nhà/viện dưỡng lão chưa chuyên nghiệp, không được đào tạo bài bản [3].
Ngoài ra, đối với các cơ sở nhà/viện dưỡng lão do các cá nhân, doanh nghiệp đứng ra tổ
chức, xây dựng đều gặp khó khăn nhất định do các chính sách hỗ trợ của nhà nước
chưa đầy đủ và triệt để, việc thuế đất cũng như hỗ trợ vay vốn còn gặp nhiều khó khăn.
Trong khi đó, các cơ sở dưỡng lão từ thiện có cơ sở vật chất thường không được khang
trang, diện tích nhỏ, chủ yếu nuôi dưỡng những người cao tuổi cô đơn, không có người thân
thích, lang thang, cơ nhỡ… Còn tại các cơ sở chăm sóc, điều dưỡng người có công, người
cao tuổi thuộc diện chính sách do nhà nước đứng ra bảo trợ chủ yếu chăm sóc, điều dưỡng
luân phiên mà không nhận nuôi dưỡng suốt đời và số lượng các cơ sở còn ít.
Một nhân tố cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi
đó là tác động của các chính sách, chương trình trợ giúp xã hội thường xuyên ở Việt Nam
còn hạn chế, chỉ giúp giảm 1,9 điểm phần trăm của tỷ lệ nghèo quốc gia. Đây là hệ quả của
việc kinh phí trợ giúp thấp và kinh phí thấp lại bắt nguồn từ độ bao phủ thấp và mức hưởng
trợ cấp thấp. Nhìn chung, kinh phí trợ giúp xã hội thường xuyên của Việt Nam thấp hơn
nhiều so với một số nước thu nhập trung bình, như Nam Phi và Brazil - cả hai nước đều có
mức chi khoảng 3% GDP, trong khi tỷ lệ này ở Georgia là hơn 6% GDP. Trên thực tế, mức
76
chi của Việt Nam còn thấp hơn một số nước thu nhập thấp ở châu Á như Nepal và
Bangladesh. Trong khi trợ giúp cho người cao tuổi trên 80 tuổi ở Việt Nam là chương trình
trợ giúp xã hội thường xuyên lớn nhất thì tổng chi cho chương trình này mới chỉ là 0,09%,
thấp hơn nhiều so với các nước đang phát triển khác, vì nhiều trong số các nước này đã đầu
tư trên 1% GDP cho chương trình [9].
Kể từ tháng 1/2015, mức hưởng trợ cấp cho các nhóm đối tượng của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội được quy định là 270.000 VNĐ/tháng, mặc dù có một số nhóm đối
tượng được hưởng mức cao hơn, tính theo hệ số. Một số tỉnh - nhất là các tỉnh có thặng dư
ngân sách chi trả mức hưởng cao hơn, tự cấp kinh phí từ nguồn lực của tỉnh mình. Mức
hưởng trợ cấp cơ bản năm 2012 bằng khoảng 45% chuẩn nghèo nông thôn và 36% chuẩn
nghèo thành thị. Mức trợ cấp cho người trên 80 tuổi là một trong những mức thấp nhất ở
các nước đang phát triển, chỉ bằng 6,7% GDP đầu người, trong khi nhiều nước đang hỗ trợ
trên 15% GDP đầu người. Do vậy, nhìn chung hệ thống trợ giúp xã hội thường xuyên hiện
tại nước ta chưa tương xứng với vị thế của một nước thu nhập trung bình. Mức đầu tư còn
thấp, độ bao phủ cũng như mức hỗ trợ còn hạn chế. Trong vòng đời còn tồn tại nhiều
khoảng trống lớn chưa được hỗ trợ phù hợp, kể cả với người cao tuổi [1].
3 Một số giải pháp nâng cao hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi ở Việt
Nam hiện nay
Một hệ thống chăm sóc xã hội phù hợp là một cấu phần quan trọng của nền kinh tế thị
trường vận hành hiệu quả. Bởi vậy, Để án đổi mới hệ thống chăm sóc xã hội cần xác định,
định hướng mở rộng và hiện đại hóa hệ thống chăm sóc xã hội quốc gia, để có thể góp phần
tăng trưởng kinh tế và gắn kết xã hội. Đến 2025, mục tiêu của Việt Nam là có được hệ
thống trợ giúp xã hội thường xuyên, có sự phối hợp với hệ thống bảo hiểm xã hội, nhằm
đảm bảo thu nhập tối thiểu cho mỗi người cao tuổi trên 65 tuổi. Mọi người từ 65 tuổi trở
77
lên có thể tiếp cận lương hưu tối thiểu, tương đương với 8% GDP trên đầu người, dưới hình
thức trợ giúp xã hội thường xuyên hoặc một phần của hệ thống bảo hiểm xã hội [1].
Để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi, Việt
Nam cần tập trung làm tốt một số giải pháp để nâng cao hệ thống chăm sóc sức khỏe người
cao tuổi hiện nay, cụ thể là:
Thứ nhất, đổi mới hệ thống chăm sóc xã hội. Cần tăng cường nguồn lực đầu tư cho hệ
thống chăm sóc xã hội quốc gia do dịch vụ hiện nay mới chỉ giải quyết được một phần nhu
cầu. Một mặt, cần thiết phải tạo cơ hội thuận lợi hơn nữa cho khu vực tư nhân và các tổ
chức phi chính phủ tham gia lĩnh vực này, mặt khác, cần thống nhất rằng Chính phủ là cơ
quan sẽ chi trả chính cho các dịch vụ này. Nhìn chung, cần thấy rõ ba mức trình độ của đội
ngũ cán bộ công tác xã hội. Một là cán bộ công tác xã hội chuyên nghiệp - có trình độ tối
thiểu là cử nhân; hai là nhân viên chăm sóc cả ở cộng động và trung tâm; ba là người chăm
sóc - đa phần là các thành viên trong gia đình, phải bỏ việc để chăm sóc người thân, hiện
vẫn chưa được nhận khoản hỗ trợ tối thiểu nào. Cần tăng số lượng cán bộ công tác xã hội
chuyên nghiệp, có thể đến 2025 là 1 cán bộ/10.000 dân. Số lượng nhân viên chăm sóc cũng
cần tăng đáng kể để có thể chăm sóc đối tượng dễ bị tổn thương tại gia đình - ví dụ như
cung cấp lương thực, đáp ứng nhu cầu về vệ sinh cá nhân, quần áo, mua sắm, vv., đồng thời
cũng nâng cao trình độ nhân viên chăm sóc tại các trung tâm bảo trợ xã hội. Việc cung cấp
nhân viên chăm sóc xã hội có thể coi là một chương trình việc làm, vì thực chất sẽ giúp giải
quyết tình trạng thất nghiệp thông qua cung cấp việc làm cho hàng trăm ngàn người. Chính
phủ nên xây dựng một hệ thống hỗ trợ cho hàng triệu người đang chăm sóc người thân của
mình, để họ không cảm thấy bị cô lập và phải chịu áp lực, trợ giúp họ về tài chính, có thời
gian nghỉ ngơi, đào tạo và tư vấn. Cần tiếp tục thành lập các trung tâm công tác xã hội, để
đến 2025 có thể hoạt động được ở tất cả các huyện, với đội ngũ cán bộ, nhân viên công tác
78
xã hội phù hợp. Nên chia hệ thống công tác xã hội và chăm sóc xã hội thanh hai nhóm dịch
vụ cho trẻ em và người lớn, do một nhóm sẽ có những thách thức riêng. Đồng thời, Chính
phủ cũng cần đảm bảo hoàn thiện khung pháp lý tổng thể để vận hành hệ thống công tác xã
hội.
Thứ hai, cần đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục sức khỏe và nâng cao nhận thức,
ý thức về sức khỏe cho mọi lứa tuổi để chuẩn bị cho một tuổi già khỏe mạnh, tránh bệnh tật,
thương tật và tàn phế. Cần chú trọng đến việc quản lý và kiểm soát các bệnh mãn tính (đặc
biệt như tim mạch, tăng huyết áp, thoái khớp, tiêu đường, ung thư...) cùng với việc ứng
dụng các kỹ thuật mới trong chẩn đoán và điều trị sớm, điều trị lâu dài các bệnh mãn tính.
Thực hiện nghiêm túc các quy định của Chính phủ và các Bộ, Ngành về việc tạo ra môi
trường sống thân thiện cho người cao tuổi (như xây dựng nhà cao tầng phải có thang máy
hoặc đường đi cho xe lăn của người bị tàn tật hoặc già yếu...). Cần phải có một chương
trình, mục tiêu quốc gia toàn diện về chăm sóc người cao tuổi mà trong đó cần xác định một
số mục tiêu lượng hóa được và có tính đặc trưng giới để cải thiện tình trạng sức khỏe người
cao tuổi, giảm thiểu các bệnh mãn tính, tàn phế và tử vong khi bước vào tuổi già. Do đó,
công tác tuyên truyền cần phải làm triệt để và sâu rộng nhằm tuyên truyền đến đúng đối
tượng, đúng mục tiêu đặt ra giúp người cao tuổi có nhận thức đúng và hiểu thực chất vấn đề
từ đó có những phương pháp tổ chức và thực hiện phù hợp. Đồng thời có công tác chuẩn bị
tốt nhất ngay từ bây giờ.
Thứ ba, xây dựng và củng cố mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, đặc biệt
là mạng lưới kiểm soát các bệnh mãn tính. Mạng lưới y tế này cần đảm bảo được sự tiếp cận
thuận lợi cho các nhóm người cao tuổi thiệt thòi hoặc bất lợi như người cao tuổi ở nông
thôn, phụ nữ cao tuổi hoặc người cao tuổi dân tộc ít người. Đặc biệt, các khó khăn về tài
chính của các nhóm bất lợi này cần được giải quyết thông qua khám chữa bệnh miễn phí
79
hoặc hỗ trợ toàn phần bằng thẻ bảo hiểm y tế. Bên cạnh nguồn ngân sách nhà nước dành
cho công tác chăm sóc sức khỏe, đời sống người cao tuổi còn hạn hẹp thì việc xã hội hóa,
vận động tư nhân thành lập trung tâm dưỡng lão, tham gia chuỗi dịch vụ chăm sóc người
cao tuổi cũng là xu hướng tất yếu và được đẩy mạnh.
Thứ tư, nhà nước cần khắc phục tình trạng thiếu nhân lực chăm sóc sức khỏe người cao
tuổi hiện nay và đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ cụ thể cho các trung tâm bảo trợ xã hội, các
trung tâm chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi do tư nhân cung cấp. Nhà nước cần nhanh
chóng khắc phục tình trạng thiếu nhân lực chăm sóc sức khỏe người cao tuổi hiện nay, bởi
vì nhân viên chăm sóc có vai trò và vị trí quan trọng. Vì đây là những người gắn bó trực tiếp
với người cao tuổi, một đối tượng chăm sóc đặc biệt. Ngoài các kiến thức, kỹ năng về nhu
cầu dinh dưỡng cũng như cách phòng ngừa bệnh tật, bảo vệ sức khỏe cho người cao tuổi thì
nhân viên chăm sóc phải biết cách quan tâm đến nhu cầu tâm lý lẫn sinh lý của người cao
tuổi một cách phù hợp. Đây là lĩnh vực còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam và có nhu cầu rất
lớn trong cả bệnh viện và cộng đồng, rất cần học tập kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Về dài hạn, với nguồn nhân lực dồi dào và có chất lượng, Việt Nam có thể cung cấp nhân
lực điều dưỡng lão khoa cho khu vực và quốc tế.
Bên cạnh đó, nhà nước cũng có các biện pháp hỗ trợ cho các trung tâm bảo trợ xã hội,
các trung tâm chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi do tư nhân cung cấp, thông qua giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp, định hướng phát triển nguồn nhân lực... là những việc làm thiết
thực nhất để tạo điều kiện cho các tổ chức này xây dựng, củng cố và phát triển trong điều
kiện nhu cầu chăm sóc người cao tuổi ngày càng cao. Kết hợp hình thức này với việc
khuyến khích chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng động và từng bước nâng cao và mở
rộng dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tại nhà. Đây là hoạt động xã hội hóa chăm sóc người
cao tuổi cần được quan tâm ngay.
80
Thứ năm, xây dựng hệ thống bệnh viện và tổ chức nghiên cứu lão khoa trên phạm vi cả
nước. Trước bối cảnh mô hình bệnh tật thay đổi và tốc độ già hóa dân số tăng nhanh, Bộ Y
tế đang đẩy mạnh, tăng cường hoạt động y tế cơ sở và chăm sóc sức khỏe ban đầu, phát
triển mô hình y học gia đình để triển khai phát huy chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng
đồng, đồng thời củng cố các hệ thống bệnh viện chuyên về lão khoa và nhân lực trong chăm
sóc người cao tuổi, khuyến khích tư nhân tham gia phát triển các mô hình nhà dưỡng lão
phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam. Từng bước xây dựng và phát triển các chương
trình đào tạo điều dưỡng lão khoa phù hợp với nhu cầu, điều kiện thực tế của từng địa
phương. Các nội dung về nguyên tắc, cách tiếp cận trong chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
cần phải được đưa vào chương trình đào tạo y khoa cũng như các chương trình tập huấn cho
nhân viên công tác xã hội, dịch vụ dân số, y tế, và truyền thông. Các chương trình đào tạo
người chăm sóc không chính thức như các thành viên gia đình, bạn bè đồng niên... của
người cao tuổi cũng cần được xây dựng và phát triển từ cộng đồng.
4 Kết luận
Già hóa dân số sẽ làm cho gánh nặng kinh tế và xã hội trở nên nghiêm trọng hơn nếu
không có những bước chuẩn bị và thực hiện thích ứng các chiến lược, chính sách xây dựng
và hoàn thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi ngay từ bây giờ. Việt Nam sẽ
bước vào giai đoạn già hóa dân số với tốc độ cao và thời gian chuẩn bị thích ứng không còn
nhiều nên cần phải tăng cường xây dựng và nâng cao chất lượng hệ thống chăm sóc sức
khỏe người cao tuổi một cách cụ thể, thực tế, xác đáng để thích ứng với tình hình đó. Việc
xây dựng hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi cần phải dựa trên các bằng chứng về
mối quan hệ qua lại giữa “dân số già” đến tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội. Việc chủ
động trong nâng cao chất lượng hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi để đảm bảo hệ
81
thống an sinh tuổi già không trở thành gánh nặng của nền kinh tế là nhiệm vụ cấp bách ở
Việt Nam hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Y tế. (2016). Quyết định 7618/QĐ-BYT ngày 30/12/2016 về việc phê duyệt Đề án
chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017-2025. Hà Nội.
Bộ Y tế. (2017). Thông tư 39/2017/TT-BYT ngày 18 tháng 10 năm 2017 về quy định
gói dịch vụ y tế cơ bản cho tuyến y tế cơ sở. Hà Nội.
Trịnh Duy Luận. (2016). Chính sách chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay. Tạp
Chí Khoa học xã hội Việt Nam ,1 (98).
UNDP. (2016). Tổng quan và đề xuất đổi mới hệ thống trợ giúp xã hội Việt Nam. Hà
Nội.
UNFPA. (2016). Già hóa dân số nhanh chóng ở Việt Nam thách thức và cơ hội. Hà Nội.
82
CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI
VÀ VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN XÃ HỘI TẠI NHẬT BẢN
Huỳnh Minh Hiền8
Tóm tắt
Tỷ lệ người cao tuổi trên 28.7% là một thách thức lớn cho nền an sinh xã hội Nhật Bản
(Hiệp hội đào tạo nhân viên chăm sóc, 2020). Số lượng người cao tuổi tăng, tỷ lệ sinh giảm
đã làm cho vấn đề chăm sóc người cao tuổi tại Nhật Bản không còn là vấn đề của mỗi gia
đình mà là vấn đề nan giải của toàn xã hội. Càng lớn tuổi, con người càng có nguy cơ mắc
những bệnh mãn tính, vấn đề trí nhớ và nhiều vấn đề liên quan đến chăm sóc. Đây là những
vấn đề không thể tránh khỏi vì là những vấn đề đi chung với tuổi già. Chính vì thế, cần phải
có một đội ngũ chuyên nghiệp chăm sóc về thể chất, tinh thần và xã hội nhằm đáp ứng kịp
thời nhu cầu ngày càng đa dạng của cá nhân và phù hợp với tình hình xã hội. Trong đội ngũ
chăm sóc này, chắc chắn không thể thiếu nhân viên xã hội. Việc xã hội nhìn nhận đúng vai
trò của nhân viên xã hội và triển khai thực hiện một mạng lưới hỗ trợ hợp lý cho người cao
tuổi là điều hết sức cần thiết trong vài mươi năm qua và ngày càng được chú trọng nhằm
giúp cho người cao tuổi có được một cuộc sống hạnh phúc đúng nghĩa trong giai đoạn cuối
đời.
Bài viết trình bày một vài số liệu mới nhất được Nhật Bản công bố và tổng hợp một số
nghiên cứu về các vấn đề chính liên quan đến chăm sóc người cao tuổi. Qua đó tác giả làm
rõ một số vai trò chính của nhân viên xã hội tại cộng đồng, tại các cơ sở y tế và trung tâm
chăm sóc được đòi hỏi trong bối cảnh hiện nay.
8 Giảng viên Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh
83
Từ khóa: Nhân viên xã hội, công tác xã hội, người cao tuổi, chăm sóc người cao tuổi,
vai trò của nhân viên xã hội.
1 Dẫn nhập
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cùng với sự phát triển kinh tế, tỷ lệ người cao tuổi
trong cơ cấu dân số Nhật Bản ngày càng tăng nhanh. Các vấn đề liên quan đến an sinh cho
người cao tuổi ngày càng nhiều, càng cấp bách và là một bài toán khó giải cho Nhật Bản do
việc kết hôn trễ, tỷ lệ sinh giảm,…
Các gia đình có người cao tuổi đều hết sức khó khăn khi đối diện với các vấn đề liên
quan chăm sóc, suy giảm trí nhớ của người cao tuổi. Số lượng người cao tuổi nằm liệt
giường, cần sự chăm sóc, suy giảm trí nhớ đã buộc Nhật Bản phải chấp nhận một số lượng
lớn lao động nước ngoài tham gia vào các ngành nghề liên quan đến chăm sóc. Các rào cản
về ngôn ngữ của người nước ngoài làm việc trong lĩnh vực này làm phát sinh nhiều vấn đề
như thiếu sự giao tiếp, thiếu sự cảm thông, stress trong chăm sóc cho cả phía cung cấp dịch
vụ lẫn người sử dụng dịch vụ.
Chính vì thế, một đội ngũ nhân viên đủ để đáp ứng nhu cầu hiện tại bên cạnh một dịch
vụ chăm sóc chuyên nghiệp là nhu cầu tất yếu của xã hội Nhật Bản. Để triển khai thực hiện
được những yêu cầu này, vai trò của đội ngũ nhân viên xã hội ngày càng quan trọng và
không thể thiếu.
2 Số lượng người cao tuổi cần được chăm sóc tăng
2.1 Số người có bệnh tuổi già, suy giảm trí nhớ và nằm liệt giường tăng nhanh
Theo dự báo của Bộ An sinh Nhật Bản, số lượng người cao tuổi nằm liệt giường, suy
giảm trí nhớ và cần chăm sóc do già yếu vào năm 2025 sẽ đạt đến mức báo động là 5,3 triệu
người (Hiệp hội đào tạo nhân viên chăm sóc, 2020). Vấn đề càng trầm trọng hơn khi thời
84
gian nằm liệt giường của người cao tuổi ở những năm cuối đời ngày càng có xu hướng kéo
dài do có nguồn tài nguyên, chất lượng chăm sóc và các thành tựu của y học,... Thống kê
của Bộ An sinh cũng cho thấy, số lượng người cao tuổi nằm liệt giường 3 năm trở lên trước
khi chết là 53% và con số này lên đến 74% nếu tính cả số người cao tuổi nằm liệt giường 1
năm trở lên trước khi chết. Chính vì thế, có thể nói vấn đề chăm sóc người cao tuổi trong
giai đoạn cuối đời tại Nhật Bản là vấn đề hết sức cấp bách và không riêng của bất kỳ gia
đình nào khi tỷ lệ người cao tuổi đã vượt quá 23% trong cơ cấu dân số và vấn đề sinh ít, kết
hôn trễ, không kết hôn,… đã đưa đến sự thiếu hụt trầm trọng nguồn nhân lực có thể chăm
sóc 24/24 cho người cao tuổi trong giai đoạn cuối đời.
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu công bố “Khảo sát sinh hoạt quốc dân”, “Khảo sát Trung
tâm chăm sóc”, “Khảo sát bệnh tật” của Bộ An sinh Nhật Bản năm 2020.
2.2 Những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nằm liệt giường
Theo Bộ An sinh Nhật Bản (Hiệp hội đào tạo nhân viên chăm sóc, 2020), những
nguyên nhân chính gây nên tình trạng nằm liệt giường ở người cao tuổi bao gồm đột quỵ
85
(32.7%), già yếu (26.7%), gãy xương và té ngã (9.2%), viêm khớp (6.1%), bệnh tim mạch
(4.9%) và các nguyên nhân khác (20.5%). Hơn ½ số người nằm liệt giường có nguyên nhân
do sự thay đổi tự nhiên diễn ra trong quá trình lão hoá.
Theo đánh giá của Hiệp hội đào tạo nhân viên chăm sóc (1999:7), việc lạm dụng nối
ống tiểu, thiết kế một môi trường quá sức yên tĩnh tại các cơ sở y tế cũng là một trong
những nguyên nhân làm người cao tuổi mất ý chí sinh tồn và đưa đến những vấn đề như
trầm cảm và nằm liệt giường. Thêm vào đó, việc thiếu thốn nguồn lực chăm sóc tại nhà, vấn
đề về kiến thức, rào cản ngôn ngữ, kỹ thuật chăm sóc của nhân viên chăm sóc (bao gồm cả
kỹ thuật huấn luyện sự tự lập cho người cao tuổi), sự thiếu hiểu biết về tâm lý người cao
tuổi đã làm số lượng người cao tuổi nằm liệt giường, trầm cảm tăng nhanh.
2.3 Số lượng người cao tuổi trải qua thời gian cuối đời tại nhà giảm
Cũng theo Bộ An sinh Nhật Bản (Hiệp hội đào tạo nhân viên chăm sóc, 2020:19), số
lượng người cao tuổi qua đời tại nhà chỉ chiếm 20%, số còn lại qua đời tại trung tâm chăm
sóc và cơ sở y tế. Trong khi đó, số lượng người cao tuổi mong muốn được trút hơi thở cuối
cùng tại nhà riêng của bản thân chiếm trên dưới 90%. Điều này có thể hiểu được rằng, số
lượng người cao tuổi thực hiện được nguyện vọng cuối cùng là được chết tại nhà chỉ chiếm
30%.
Việc xã hội có thể thực hiện được nguyện vọng cuối đời cho một người dân của mình là
điều đương nhiên cần thiết. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này hoàn toàn không dễ dàng
tại xã hội Nhật Bản. Nguyện vọng cuối đời này của người cao tuổi sẽ được thực hiện dễ
dàng hơn nếu nhân viên xã hội xây dựng được một cộng đồng thân thiện, tạo cảm thông
giữa các thế hệ cũng như thực hiện công tác biện hộ tốt cho người cao tuổi (Nakazima
Kenichi và cộng sự, 2011).
86
3 Những vấn đề liên quan đến chăm sóc
3.1 Người chăm sóc chính
Thống kê của Bộ An sinh Nhật Bản (Hiệp hội đào tạo nhân viên chăm sóc, 2020:8)
cũng cho thấy, số lượng người cao tuổi liệt giường được chăm sóc tại nhà khoảng 80%.
Trong đó, người chăm sóc là vợ hoặc chồng chiếm 27.9%, con chiếm 20.6%, con dâu/con
rể chiếm 33.4%, người họ hàng chiếm 9,6%, khác chiếm 8.4%. Tuy nhiên, phụ nữ lại chiếm
tỷ lệ khoảng 85% trong tổng số số lượng người chăm sóc trực tiếp tại gia đình và gần 50%
số người chăm sóc cho người cao tuổi nằm liệt giường trên 60 tuổi. Điều đáng lưu ý hơn là
đến 22% số người chăm sóc có độ tuổi trên 70.
Bên cạnh đó, có sự khác biệt lớn về người chăm sóc nếu người cao tuổi nằm liệt giường
là nam (vợ 58%, con dâu 18%, con 11%, bà con 6%) và là nữ (con dâu 43%, con 26%,
chồng 9%, bà con 7%). Điều này cũng do đặc điểm về tuổi thọ, thể chất tâm lý của nam và
nữ khi cao tuổi. Tuy nhiên, những con số này cũng là điều nhắc nhở cho nhân viên xã hội
trong việc lập kế hoạch hỗ trợ nam giới cao tuổi tự lập trong việc nhà cũng như nâng cao
kiến thức, kỹ thuật và sự hiểu biết về bệnh tật tuổi già để có sự hỗ trợ phù hợp cho bạn đời
khi cần thiết.
Theo Hiệp hội đào tạo nhân viên chăm sóc (2020:14), trong cuộc khảo sát của báo
Mainichi về chăm sóc, đối với câu hỏi “Anh/chị muốn người chăm sóc cho mình khi về già
là ai?” thì câu trả lời là vợ/chồng chiếm 45%, con gái chiếm 13%, con dâu chiếm 7%, con
trai chiếm 6%, họ hàng chiếm 1%. Tỷ lệ người cao tuổi mong muốn con dâu chăm sóc cho
bản thân chỉ chiếm 7%, tuy nhiên thực tế lại chiếm đến 34%. Đây cũng là một trong những
đặc điểm về văn hoá của Nhật Bản và cũng có thể là một trong những yếu tố cản trở sự tự
lập, hồi phục ở người cao tuổi khi nhận sự chăm sóc.
87
Tỷ lệ người cao tuổi mong muốn người chăm sóc khi về già là nhân viên chăm sóc tại
bệnh viện, trung tâm chiếm 16%, nhân viên chăm sóc tại nhà chiếm 8%. Sự mong chờ vào
nguồn nhân lực chăm sóc từ bên ngoài xã hội tương đối lớn là 24%. Chính vì thế, việc lập
kế hoạch hỗ trợ cho người dân nâng cao kiến thức, có nhiều thông tin, tiếp cận được các
kiến thức, kỹ thuật liên quan đến chăm sóc là điều hết sức cần thiết mà nhân viên xã hội cần
chú ý.
3.2 Ý thức phụng dưỡng
Theo kết quả khảo sát về So sánh quốc tế: Ý thức về nghĩa vụ chăm sóc cha mẹ cao tuổi
năm 1993 (Hiệp hội đào tạo nhân viên chăm sóc, 1999), tỷ lệ thanh niên Nhật Bản trong độ
tuổi từ 18 tuổi đến 24 tuổi cho rằng “Sẽ chăm sóc cha mẹ cao tuổi trong mọi trường hợp”
chiếm chưa đến 21% so với trên dưới 60% tại Mỹ và Pháp, hơn 45% tại Anh, gần 40% tại
Thuỵ Sĩ. Ý thức phụng dưỡng cha mẹ cao tuổi tỷ lệ thuận với tỷ lệ già hoá dân số tại đa số
các nước nhưng điều này lại có giảm 10% tại Nhật Bản sau 10 năm khảo sát.
Theo khảo sát của báo Asahi vào năm 1994 (Hiệp hội đào tạo nhân viên chăm sóc,
1999), quan niệm về việc “Con cái đương nhiên phải chăm sóc cha mẹ cao tuổi” được cho
là đúng chiếm hơn ½ số người trong độ tuổi từ 20 tuổi đến 29 tuổi khi được hỏi, nhưng tỷ lệ
đồng ý này chỉ khoảng 40% đối với người trong độ tuổi 30 và dưới 30% đối với người trong
độ tuổi 50. Vấn đề về ý thức phụng dưỡng ngày càng giảm theo độ tuổi phản ánh sự bất an
của người cao tuổi trong giai đoạn cuối đời và những bất an, khó khăn của những thế hệ sau
trong việc chăm sóc cha mẹ cao tuổi (Nakazima Kenichi và cộng sự, 2011:93).
3.3 Những lo lắng khi tuổi già
89.2% người trong độ tuổi từ 30 tuổi đến 60 tuổi cho rằng có nhiều lo lắng trong tương
lại khi cao tuổi (Hiệp hội đào tạo nhân viên chăm sóc, 2020:78). Những lo lắng này bao
gồm lo lắng về sự già yếu của bản thân và của vợ/chồng (49.4%), cần sự chăm sóc của
88
vợ/chồng khi nằm liệt giường hay suy giảm trí nhớ (49.2%), thiếu tiền sinh hoạt (35.5%),
cái chết của vợ/chồng (27.4%), sự cô đơn do con cháu không có bên cạnh (13%), cảm giác
không tiến kịp với thời đại (8,3%),… Có thể nói, những năm gần đây là những năm khó
khăn lớn của xã hội Nhật Bản về vấn đề kinh tế cũng như vấn đề an sinh. Các khó khăn, lo
lắng của người cao tuổi hiện tại có thể giảm bớt phần nào nhờ vào bảo hiểm chăm sóc
nhưng bảo hiểm chăm sóc cũng không phải là chìa khoá để giải quyết được hết những lo
lắng khi tuổi già. Vì vậy, trong tình thế hiện tại, việc đào tạo nguồn nhân lực giỏi về công
tác xã hội sẽ góp phần không nhỏ trong việc giải quyết bớt những lo lắng ở tuổi già cho
người cao tuổi Nhật Bản.
3.4 Những khó khăn của người chăm sóc tại gia đình
Người chăm sóc luôn có những khó khăn nhất định. Các khó khăn bao gồm những áp
lực về thể xác lẫn tinh thần như sắp xếp thời gian đảm bảo cho công việc hiện tại, sự lo lắng
về vấn đề kinh tế khi nguồn thu của gia đình ít hơn nguồn chi, stress trong chăm sóc do
thiếu ngủ, do thời gian dành cho chăm sóc dài, thời gian dành cho bản thân không có, thiếu
sự hỗ trợ từ các thành viên gia đình, thiếu kỹ thuật chăm sóc,…
Các khó khăn của người chăm sóc có thể dẫn đến những ảnh hưởng không tốt cho các
mối quan hệ trong gia đình và những khó khăn này rất dễ dẫn đến vấn đề ngược đãi người
cao tuổi. Ngược đãi không chỉ ảnh hưởng đến người cao tuổi mà còn là một vết thương lòng
khó chữa ở người chăm sóc (Nakazima Kenichi và cộng sự, 2011:42). Chính vì thế, nhân
viên xã hội không chỉ là người hỗ trợ cho người cao tuổi mà còn là người đồng hành cùng
người chăm sóc của gia đình nhằm thực hiện công tác biện hộ cũng như có sự hỗ trợ kịp
thời, giúp người chăm sóc có được sự kiên trì, nhẹ nhàng hơn trong quá trình chăm sóc.
89
4 Vai trò của nhân viên xã hội
Những trải nghiệm về lão hoá của bản thân nhân viên xã hội có ảnh hưởng nhiều đến
công việc do không thể không có những cảm xúc cá nhân trong quá trình hỗ trợ người cao
tuổi và gia đình. Ngoài những kiến thức liên quan đến công tác xã hội, nhân viên xã hội làm
việc trong lĩnh vực cao tuổi cần trang bị cho bản thân những kiến thức liên quan đến y học,
tôn giáo,… và nhất là chăm sóc để có thể hỗ trợ người cao tuổi và gia đình hiệu quả. Điều
kiện đầu tiên của một nhân viên xã hội Nhật Bản làm việc trong lĩnh vực cao tuổi là tự trang
bị kiến thức về chăm sóc và có chứng chỉ hành nghề về chăm sóc người cao tuổi. Điều này
có vẻ phi lý vì công tác xã hội và công tác chăm sóc là hai nghề khác nhau. Tuy nhiên trên
thực tế, việc trang bị kiến thức về chăm sóc cho bản thân sẽ giúp nhân viên xã hội tiếp cận
và tạo sự tin tưởng dễ dàng hơn, là điều kiện để thực hiện một đánh giá bao quát, hoàn
chỉnh và lập kế hoạch hỗ trợ tốt hơn.
4.1 Công tác hỗ trợ tại nhà
Một trong những khó khăn lớn của nhân viên xã hội gặp phải ngay từ khi gặp mặt lần
đầu là không những cần thoả mãn nhu cầu của người cao tuổi mà còn phải chú ý đến nhu
cầu của những người liên quan đến người cao tuổi. Ngoài việc thể hiện sự đồng cảm với
những lời than phiền sau xuất viện, nhân viên xã hội cần giải thích rõ ràng những câu hỏi
của người cao tuổi và gia đình liên quan đến công tác chăm sóc như thay tã, ăn uống, tắm
rửa,… Sự nhiệt tình của người chăm sóc và sự hỗ trợ kịp thời của nhân viên xã hội trong
giai đoạn đầu là một thành công lớn trong suốt quá trình hỗ trợ. Ngoài ra, việc có những gợi
ý phù hợp để gia đình có sự phân chia thời gian chăm sóc hợp lý sẽ giúp cho chất lượng
chăm sóc được nâng cao.
Mặc dù không phải là nhân viên chuyên về vật lý trị liệu nhưng nhân viên xã hội cần
hiểu biết và có thể giải thích được công năng của xe lăn, giường bệnh,… các dụng cụ hỗ trợ
90
người bệnh cho gia đình. Bên cạnh đó, việc chú ý vận dụng các tài nguyên chính thức và
không chính thức khi lập kế hoạch hỗ trợ là điều quan trọng. Việc nắm thông tin về các đơn
vị cung cấp dụng cụ hỗ trợ (ngay cả mới lẫn cũ), thông tin về các đơn vị cung cấp dịch vụ
chăm sóc theo giờ đúng nhu cầu luôn cần được cập nhật và thể hiện trên giấy để người cao
tuổi và gia đình có thể đưa ra những lựa chọn phù hợp với nhu cầu, nhận biết và sắp xếp thứ
tự nhu cầu của họ một cách hợp lý (Nakazima Kenichi và cộng sự, 2011).
Ngoài ra, việc sử dụng sức mạnh nhóm của những người chăm sóc để hỗ trợ người
chăm sóc, nhóm người cao tuổi cần chăm sóc để hỗ trợ người cao tuổi cần chăm sóc là điều
không thể không chú trọng. Sức mạnh của nhóm có thể tạo được những thay đổi lớn ở
người cao tuổi và gia đình mà cá nhân nhân viên xã hội không thể làm được. Các buổi sinh
hoạt nhóm tại cộng đồng, tại trung tâm chăm sóc gần nhà có thể là nơi để người cao tuổi và
gia đình cập nhật thông tin và phát hiện nhu cầu cá nhân. Việc thúc đẩy sự tham gia của
người dân trong cộng đồng không những là bước đầu trong việc giáo dục người dân mà còn
là phương pháp để vận dụng những nguồn lực hiện có tại cộng đồng nhằm có được sự hỗ
trợ về nhân lực, vật lực và nhất là ý thức trong việc thiết kế một cộng đồng thân thiện với
người cao tuổi (Nakazima Kenichi và cộng sự, 2011).
4.2 Công tác hỗ trợ tại cơ sở y tế
Nhân viên xã hội tại bệnh viện là một trong những người có cơ hội tiếp xúc và ảnh
hưởng nhiều đến người cao tuổi và gia đình. Chính vì thế, việc nhân viên xã hội ý thức
trong việc tìm hiểu, đánh giá nhu cầu cũng như dự đoán được những nhu cầu của người cao
tuổi và gia đình sau khi xuất viện là điều hết sức cần thiết. Các thông tin liên quan đến các
thành viên trong gia đình, người chăm sóc chính, các khó khăn của người chăm sóc do
khuyết tật của người cao tuổi, không gian sống tại nhà, điều kiện kinh tế, các tài nguyên xã
hội có thể sử dụng tại địa phương, nguồn lực hỗ trợ từ bệnh viện, các cơ sở y tế phù hợp gần
91
nhà… là những thông tin cần nắm rõ nhằm có được sự chủ động, linh hoạt trong việc xây
dựng kế hoạch hỗ trợ.
Mặc dù thông tin về các hệ thống dịch vụ chăm sóc cho người cao tuổi rất nhiều nhưng
việc người cao tuổi và gia đình thiếu thông tin về các dịch vụ chăm sóc là vấn đề luôn tồn
tại. Do đó, những buổi trao đổi trực tiếp với người cao tuổi và gia đình luôn giúp gia đình
phát hiện những nhu cầu mới của chính họ và giúp họ chủ động trong việc lựa chọn dịch vụ
có sẵn tại cộng đồng để đáp ứng những nhu cầu này.
4.3 Công tác hỗ trợ tại trung tâm chăm sóc
Việc thường xuyên tiếp xúc với người cao tuổi, gia đình, các nhân viên hành chính phụ
trách chi trả bảo hiểm chăm sóc là công tác quan trọng nhằm xác định lại nhu cầu và có
được kế hoạch hỗ trợ tối ưu. Bên cạnh đó, việc nhân viên xã hội phát huy vai trò là người
điều phối tại trung tâm chăm sóc là điều hết sức quan trọng. Việc tạo được sự kết nối và có
được sự phối hợp, hợp tác tốt của các nhân viên từ cơ sở y tế, trung tâm chăm sóc, chuyên
gia dinh dưỡng, nhân viên vật lý trị liệu,… là trách nhiệm của nhân viên xã hội.
Những năm gần đây, việc xuất hiện đội ngũ chăm sóc là người nước ngoài làm xuất hiện
một số vai trò mới của nhân viên xã hội mà trước đây chưa có (Honma Akira và cộng sự,
2010). Bên cạnh việc giải thích, xoá bỏ rào cản từ những khác biệt không đáng có trong
chăm sóc xuất phát từ yếu tố văn hoá, nhân viên xã hội cần có khả năng giao tiếp tốt với
người nước ngoài sử dụng tiếng Nhật, chú ý hỗ trợ kịp thời cho nhân viên chăm sóc hiểu
văn hoá Nhật Bản, nhu cầu của của người cao tuổi và gia đình, đồng thời có kế hoạch hỗ trợ
tránh tình trạng cạn kiệt ở họ.
Hiện nay, số lượng người cao tuổi suy giảm trí nhớ nặng được chăm sóc dài ngày tại các
trung tâm ngày càng có xu hướng gia tăng. Vấn đề suy giảm trí nhớ nặng là trở ngại lớn và
không thể khắc phục trong việc giao tiếp giữa nhân viên xã hội với người cao tuổi và nhất là
92
trong việc đánh giá nhu cầu. Chính vì thế, một nhân viên xã hội cần có đủ năng lực làm việc
với gia đình, nhân viên tại trung tâm và các cơ quan bên ngoài nhằm tạo được sự kết nối,
phối hợp, điều phối tốt.
5 Kết luận
Dân số siêu già là một thách thức lớn cho nền an sinh xã hội Nhật Bản. Những vấn đề
phát sinh do dân số già là những vấn đề ngày càng khó giải quyết trong bối cảnh xã hội
Nhật Bản hiện tại. Số lượng người cao tuổi nằm liệt giường, suy giảm trí nhớ, cần sự chăm
sóc tăng nhanh làm cho hệ thống an sinh quá tải, không thể đáp ứng được nhu cầu cả về tài
chính và nhân lực trong lĩnh vực chăm sóc. Để sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên hữu hạn,
vai trò của nhân viên xã hội tại các cơ sở y tế, trung tâm chăm sóc và tại cộng đồng ngày
càng được kỳ vọng nhiều.
Làm việc với người cao tuổi là một công tác rất thường được ủng hộ nhưng trên thực tế
số lượng nhân viên xã hội tham gia trong lĩnh vực này không nhiều do có những khó khăn
về vô thức (Kathleen McInnics-Dittrich, 2009). Hiểu rõ các vấn đề liên quan đến lão hóa
một cách khoa học, có khả năng điều phối cao sẽ giúp nhân viên xã hội thực hiện công tác
hỗ trợ một cách thuận lợi và hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Anh
Kathleen McInnics-Dittrich. (2009). Social work with older adults. Pearson Education.
Tiếng Nhật
Hiệp hội đào tạo nhân viên chăm sóc. (2020). Kaigo gairon. Tyuo Hoki.
Hiệp hội đào tạo nhân viên chăm sóc. (1999). Kaigo gairon. Tyuo Hoki.
93
Honma Akira và cộng sự. (2010). Rozin Fukushi Ron. Zenkoku Syakai Fukushi
Kyogikai.
Kuroki Yashuhiro và cộng sự. (1998). Gurupu waku ron. Minerva.
Kuroiwa Haruko. (2008). Nintisyo koureisya no gurupu waku. Takasuga.
Nakazima Kenichi và cộng sự. (2011). Shinrigaku. Zenkoku Syakai Fukushi Kyogikai.
Oshima Tasuku và cộng sự. (1999). Koreisya Fukushi Ron. Minerva.
94
BẢO HIỂM CHĂM SÓC TẠI NHẬT BẢN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN
Huỳnh Minh Hiền9
Tóm tắt
Năm 1995, Bộ An sinh xã hội Nhật Bản công bố sẽ thực thi chính sách Bảo hiểm chăm
sóc trong tương lai. Đến tháng 12 năm 1997 Luật Bảo hiểm chăm sóc được ban hành và đến
tháng 4 năm 2000 Bảo hiểm chăm sóc được chính thức áp dụng và là một loại bảo hiểm bắt
buộc tại Nhật Bản. Cùng với các chế độ về liên quan đến an sinh cho người cao tuổi, Bảo
hiểm chăm sóc đã giúp cho người cao tuổi và gia đình có nhiều cơ hội lựa chọn các dịch vụ
liên quan đến chăm sóc hơn (Komatsu, 2015).
Trong bài viết này, tác giả đứng từ góc nhìn của một nhân viên xã hội để trình bày một
số vấn đề của Bảo hiểm chăm sóc và các vấn đề này cũng là những vấn đề nan giải đối với
những người làm chính sách tại Nhật Bản. Thông qua đó, hy vọng Việt Nam có thể tham
khảo để không vấp phải những hạn chế khi thực thi các chính sách liên quan đến chăm sóc
trong tương lai.
Từ khóa: Nhân viên xã hội, người cao tuổi, chăm sóc người cao tuổi, bảo hiểm chăm
sóc.
1 Dẫn nhập
Vấn đề liên quan đến chăm sóc người cao tuổi được Nhật Bản bàn tới khi tỷ lệ dân số
cao tuổi ở mức 5,7% vào những năm đầu của thập niên 60 thế kỷ trước. Để tạo được sự an
tâm cho người cao tuổi, Nhật Bản đã ban hành chính sách miễn phí điều trị y tế cho người
cao tuổi vào những năm thuộc thập niên 70. Tuy nhiên, chính sách này đã không thể áp
9 Giảng viên ngành CTXH trường Đại học Mở TP.HCM. Email: [email protected]
95
dụng lâu dài do số lượng người cao tuổi ngày càng nhiều, đặc biệt là số người cao tuổi nhập
viện, nằm liệt giường ngày càng tăng. Các vấn đề chăm sóc người cao tuổi càng được quan
tâm, nghiên cứu khi tỷ lệ người cao tuổi đạt mức 9.1% vào đầu thập niên 90 và được báo
động đỏ khi đạt 12% vào cuối thập niên 90 (Komatsu, 2015). Tỷ lệ người cao tuổi tăng
nhanh trong cơ cấu dân số đã làm cho Nhật Bản buộc phải đưa ra những chính sách mới
nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết liên quan đến chăm sóc cho người dân (Hiệp hội nghiên
cứu An sinh, 2020).
Nhằm giảm nhẹ gánh nặng về chi phí và phù hợp với tâm lý, nhu cầu của người cao tuổi,
Nhật Bản đã khuyến khích giảm bớt mô hình chăm sóc tập trung, chuyển dần sang mô hình
chăm sóc tại nhà và áp dụng bảo hiểm chăm sóc nhằm giảm bớt gánh nặng về chi phí, đa
dạng hoá mô hình chăm sóc cho người dân. Tuy nhiên, với sự thay đổi khó lường trước, các
vấn đề liên quan đến bảo hiểm chăm sóc đã được đặt ra và buộc các nhà làm chính sách
Nhật Bản phải đưa ra những quy định, chế độ mới để đáp ứng được nhu cầu của người dân,
kéo dài sự ổn định của quỹ bảo hiểm đang ngày càng ít dần.
2 Bảo hiểm chăm sóc
Bảo hiểm chăm sóc là một loại bảo hiểm bắt buộc của quốc gia, loại bảo hiểm này dùng
tiền bảo hiểm thu được và thuế để chi trả cho người cao tuổi khi cần được chăm sóc. Cũng
giống như các dạng bảo hiểm khác, để được chi trả chi phí trong chăm sóc, người cao tuổi
cần thoả mãn những yêu cầu chung khi thẩm định hồ sơ. Về nguyên tắc, khi sử dụng bảo
hiểm chăm sóc, cá nhân cần chi trả 10%, nhà nước và quỹ bảo hiểm chăm sóc sẽ chi trả
90% chi phí, tuy nhiên số tiền chi trả của cá nhân có thể lên 20% hay 30% tuỳ theo thu nhập
của cá nhân đó có trước khi có yêu cầu sử dụng bảo hiểm (Komatsu, 2015).
96
2.1 Đối tượng của bảo hiểm chăm sóc
Theo quy định, người đủ 40 tuổi buộc phải tham gia và đóng bảo hiểm chăm sóc mỗi
tháng cùng lúc với bảo hiểm y tế. Bảo hiểm chăm sóc buộc các đối tượng tham gia có nghĩa
vụ đóng phí mỗi tháng cho đến cuối đời. Mức phí bảo hiểm chăm sóc được tính toán dựa
trên mức thu nhập hàng năm, tài sản,… của người tham gia bảo hiểm, được người sử dụng
lao động chi trả 50% (nếu có việc làm) và phí thấp nhất là 5.869 yên/tháng (Hiệp hội nghiên
cứu An sinh, 2020). Đối với người về hưu, phí bảo hiểm sẽ được trừ trước khi nhận được
lương hưu hàng tháng. Những gia đình có thu nhập thấp hoàn toàn có thể xin giảm mức phí
bảo hiểm nhằm tránh tạo gánh nặng cho gia đình.
Đối tượng được sử dụng bảo hiểm chăm sóc được chia làm hai dạng a) Người từ 65 tuổi
trở lên; b) Người từ 40 tuổi đến 64 tuổi. Về nguyên tắc, nhóm thứ nhất là nhóm đối tượng
chính của bảo hiểm chăm sóc, nhóm đối tượng thứ hai nếu muốn sử dụng cần trải qua kỳ
thẩm định xét duyệt gắt gao và chỉ chi trả cho người mắc phải tối thiểu một trong 16 loại
bệnh được bảo hiểm quy định bao gồm ung thư thời kỳ cuối, viêm cơ khớp, các dạng suy
giảm trí nhớ, Parkinson, tiểu đường có di chứng nặng,…
Thẻ bảo hiểm sẽ được cấp phát bởi bộ phận phụ trách bảo hiểm chăm sóc tại các cơ
quan hành chính gần nhà. Người từ 65 tuổi trở lên (và những người thuộc đối tượng nhóm
b) sẽ được phát thẻ bảo hiểm thông qua đường bưu điện nhằm giảm bớt những phiền toái
cho người tham gia bảo hiểm.
2.2 Dịch vụ chăm sóc và thủ tục sử dụng bảo hiểm
Các dạng dịch vụ có thể sử dụng bảo hiểm chăm sóc bao gồm (Hiệp hội nghiên cứu An
sinh, 2020):
a) Hỗ trợ thông tin trong việc chăm sóc và nâng cao sức khoẻ tại nhà như lập kế hoạch
chăm sóc và tham vấn gia đình;
97
b) Dịch vụ chăm sóc tại nhà: Chi trả lương cho nhân viên chăm sóc thăm nhà theo giờ,
hỗ trợ sinh hoạt (quét dọn, tắm giặt, mua sắm, nấu ăn,…), vệ sinh thân thể (tắm rửa,
tiểu tiện), điều dưỡng gia đình, cung cấp dịch vụ bồn tắm di động, vật lý trị liệu,
quản lý sức khoẻ (bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, chuyên gia dinh dưỡng,…), cấp cứu 24/24;
c) Dịch vụ chăm sóc ban ngày và ngắn ngày: Dịch vụ chăm sóc ban ngày (ăn uống, tắm
rửa, duy trì chức năng,…) tại trung tâm hay tại bệnh viện (vật lý trị liệu); Dịch vụ
chăm sóc ngắn ngày (ngủ qua đêm, vật lý trí liệu) nhằm giảm bớt gánh nặng chăm
sóc cho gia đình;
d) Dịch vụ chăm sóc dài hạn: Nằm viện dài hạn hay ở trung tâm chăm sóc cho đến suốt
đời;
e) Dịch vụ cung cấp dụng cụ hỗ trợ chăm sóc: Thuê xe lăn, giường bệnh, mua các dụng
cụ tắm rửa, tiểu tiện (hạn mức tối đa 100.000 yên và người sử dụng bảo hiểm chi trả
trong khoảng từ 10% - 30%)
f) Sửa chữa nhà: Trang bị tay nắm, toilet và các dụng cụ hỗ trợ di chuyển trong nhà
(hạn mức tối đa 200.000 yên và người sử dụng bảo hiểm chi trả trong khoảng từ 10%
- 30%)
Quy trình xét duyệt sử dụng bảo hiểm được cụ thể hoá như sau: Nhận hồ sơ Chấp nhận
1. Nộp đơn 4. Tìm nhân viên xã hội phụ
trách
2. Đánh giá, duyệt xét 5. Thống nhất kế hoạch
3. Thông báo kết quả
Bắt đầu sử dụng dịch vụ
98
Để sử dụng được bảo hiểm chăm sóc, người cao tuổi cần nộp đơn yêu cầu được sử dụng
bảo hiểm tại địa phương. Sau khi tiếp nhận, chính quyền thành phố nơi người cao tuổi cư
trú sẽ cử nhân viên phụ trách bảo hiểm, nhân viên xã hội, bộ phận y tế đến nhà người cao
tuổi để thực hiện đánh giá. Nội dung đánh giá bao gồm tình hình sinh hoạt, tình hình gia
đình, các chức năng cơ thể và nhu cầu của người cao tuổi. Kết quả đánh giá được thông báo
cho người cao tuổi và gia đình chậm nhất sau một tháng kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ. Nếu kết
quả đánh giá thuộc dạng chỉ cần hỗ trợ thì người cao tuổi sẽ liên lạc với trung tâm hỗ trợ
thông tin gần nhà để cùng nhân viên xã hội lập kế hoạch, tham vấn, nếu kết quả đánh giá
thuộc dạng cần chăm sóc thì người cao tuổi và gia đình sẽ đến các trung tâm mình thích để
làm việc với nhân viên xã hội tại trung tâm. Ngoài ra, người cao tuổi vẫn có thể tự lựa chọn
cho mình một nhân viên xã hội phù hợp với nhu cầu bản thân (gần nhà, qua giới thiệu,…) từ
danh sách các nhân viên xã hội mà địa phương cung cấp. Người cao tuổi và gia đình có thể
yêu cầu thay đổi nhân viên xã hội phụ trách nếu cảm thấy không phù hợp. Nhân viên xã hội
phụ trách chăm sóc có nhiệm vụ lắng nghe, cùng với người cao tuổi và gia đình lập kế
hoạch chăm sóc phù hợp với nhu cầu và điều kiện tài chính. Do số tiền được bảo hiểm chi
trả sẽ được căn cứ vào thu nhập, tài sản,… của người cao tuổi nên về nguyên tắc, dịch vụ
chăm sóc của các cá nhân sẽ có giá khác nhau, được thực hiện đúng theo kế hoạch chăm sóc
mà người cao tuổi, gia đình và nhân viên xã hội thống nhất dựa trên khả năng tài chính.
Mức độ cần chăm sóc càng lớn, số tiền được bảo hiểm chi trả sẽ càng cao và số tiền bảo
hiểm chi trả cho công tác chăm sóc được quy định hạn mức nhất định theo từng tháng. Vì
thế, nhân viên xã hội cần căn cứ vào hạn mức mà thân chủ mình được nhận cùng với khả
năng tài chính của thân chủ và gia đình để thiết kế kế hoạch chăm sóc phù hợp. Mức độ cần chăm sóc
và hạn mức chi trả
Tiêu chí đánh giá chung Ghi chú
Mức 1 (cần hỗ trợ) Hoàn toàn có thể thực hiện được các công việc Có thể tự chăm sóc
99
Hạn mức: 50.320 yên chăm sóc bản thân tại nhà (ăn uống, vệ sinh,
tắm rửa, dọn dẹp). Một trong các hoạt động như
mua sắm, quản lý tiền bạc, quản lý thuốc men,
sử dụng điện thoại cần có người hỗ trợ à Hỗ
trợ tự lập, tham vấn, tư vấn tại nhà, cung cấp
thông tin về sức khoẻ, dinh dưỡng, thăm nhà
định kỳ
bản thân sau khi
được hỗ trợ
Mức 2 (cần hỗ trợ)
Hạn mức: 105.310 yên
Như mức 1 (cần hỗ trợ) nhưng là người có nguy
cơ té ngã do già yếu và cần chăm sóc trong
tương lai à Dịch vụ chăm sóc ban ngày; Mua
sắm, thuê dụng cụ hỗ trợ và sửa chữa nhà cửa
Cá nhân chi trả từ
10% đến 30%
Mức 1 (cần chăm sóc)
Hạn mức: 167.650 yên
Như mức 2 (cần hỗ trợ) nhưng việc di chuyển
trong nhà và các hoạt động sinh hoạt hằng ngày
gặp khó khăn do sức mạnh cơ bắp, xương khớp
và có nguy cơ té ngã cao. Cần người hỗ trợ một
phần để hoàn thành công việc sinh hoạt à
chăm sóc tại nhà, chăm sóc ban ngày, ngắn
ngày
Cá nhân chi trả từ
10% đến 30%
Mức 2 (cần chăm sóc)
Hạn mức: 197.050 yên
Cần người hỗ trợ hằng ngày để hoàn thành các
công việc liên quan đến sinh hoạt hay có biểu
hiện về suy giảm trí nhớ à chăm sóc tại nhà,
chăm sóc ban ngày, ngắn ngày
Cá nhân chi trả từ
10% đến 30%
Mức 3 (cần chăm sóc)
Hạn mức: 270.480 yên
Sử dụng gậy, dụng cụ hỗ trợ hay xe lăn để di
chuyển và cần hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ các
hoạt động sinh hoạt hằng ngày à chăm sóc tại
nhà, chăm sóc ban ngày, ngắn ngày
Cá nhân chi trả từ
10% đến 30%
Mức 4 (cần chăm sóc)
Hạn mức: 309.380 yên
Sử dụng xe lăn và không thể sống nếu không có
người hỗ trợ. Tuy nhiên vẫn có thể trao đổi
Cá nhân chi trả từ
10% đến 30%
100
bằng lời.
Có thể tự ăn uống, không cần chăm sóc hoàn
toàn nhưng cần cung cấp thức ăn qua lỗ thông
trực tiếp vào dạ dày hoặc truyền dịch liên tục à
chăm sóc tại nhà, chăm sóc ban ngày, ngắn
ngày, dài hạn
Mức 5 (cần chăm sóc)
Hạn mức: 362.170 yên
Nằm liệt giường, khó khăn trong trí nhớ, không
thể tự ăn uống và không thể không có người
chăm sócà chăm sóc tại nhà, dài hạn
Cá nhân chi trả từ
10% đến 30%
(Ghi chú: người cao tuổi có thu nhập chi trả 20% đến 30%)
Do bảo hiểm chăm sóc là một dạng bảo hiểm mới nên theo luật cứ mỗi 3 năm sẽ có một
đợt chỉnh sửa để phù hợp với nhu cầu và điều kiện tài chính chung. Điều này là hoàn toàn
phù hợp do tốc độ già hoá dân số nhanh và tỷ lệ sinh giảm mạnh ở Nhật Bản. Để giảm bớt
gánh nặng trong tương lai, việc chi cho các hoạt động cần hỗ trợ sẽ được chú trọng (Hiệp
hội nghiên cứu An sinh, 2020).
Để hạn chế việc người cao tuổi sử dụng quỹ bảo hiểm, việc chú ý thành lập mạng lưới
hỗ trợ trước khi người cao tuổi cần đến bảo hiểm là điều hết sức quan trọng và nhân viên xã
hội đóng vai trò quyết định. Việc mở rộng nội dung, phạm vi hoạt động của các quán cà phê
cộng đồng, trung tâm chăm sóc,… để người cao tuổi có thể tiếp cận, có thêm thông tin về
dinh dưỡng, chế độ ăn uống, phòng bệnh,… là điều cần thiết để hạn chế số lượng người cao
tuổi sử dụng quỹ bảo hiểm tăng.
3 Các vấn đề liên quan đến chăm sóc và bảo hiểm chăm sóc
3.1 Nạn nhân của bảo hiểm chăm sóc
Nạn nhân của bảo hiểm chăm sóc (tiếng Nhật: Kaigohoken nanmin) là từ được dùng để
chỉ người trên 65 tuổi đã được cơ quan hành chính xem xét đồng ý cho sử dụng bảo hiểm
101
chăm sóc nhưng vẫn chưa tìm được trung tâm chăm sóc để sử dụng dịch vụ do quá tải. Theo
dự báo, toàn Nhật Bản sẽ có 430.000 người cao tuổi là nạn nhân của bảo hiểm chăm sóc vào
năm 2025 (Hiệp hội nghiên cứu An sinh, 2020). Ngoài ra, vấn đề thiếu nhân lực làm việc
trong ngành chăm sóc cũng là một trong những lý do chính dẫn đến tình trạng này.
Trong tình hình hiện nay, việc hoàn thiện một hệ thống hỗ trợ toàn diện tại cộng đồng là
giải pháp hữu hiệu cho việc giảm số lượng nạn nhân của bảo hiểm chăm sóc. Các trung tâm
sinh hoạt, hỗ trợ tại cộng đồng luôn đóng vai trò chính là người cung cấp thông tin và thực
hiện công tác phòng tránh hữu hiệu. Các trung tâm này còn là cầu nối để lực lượng tình
nguyện có thể thực hiện công tác hiệu quả. Bên cạnh đó, việc thực hiện huấn luyện cho
người tham gia tình nguyện trước khi giới thiệu họ đến với người cao tuổi và gia đình sẽ
làm tăng chất lượng hỗ trợ. Ngoài ra, nhân viên xã hội tại cộng đồng cần chú ý đến việc
khuyến khích gia đình tạo điều kiện để người cao tuổi có thể tự thực hiện các công việc
hằng ngày trong phạm vi có thể. Điều này tưởng chừng vô lý nhưng việc tự thực hiện các
công việc hằng ngày sẽ giúp cho người cao tuổi vận động nhiều hơn, giữ được thăng bằng,
cải thiện giác quan, tránh nguy cơ té ngã và huyết áp tốt hơn.
3.2 Các vấn đề liên quan đến quỹ bảo hiểm và tiền lương
Mặc dù số tiền được bảo hiểm chi trả có sự hỗ trợ 25% của nhà nước, 25% của chính
quyền địa phương nhưng với số lượng người cao tuổi tăng nhanh và tuổi thọ trung bình tăng
mỗi năm như hiện tại thì vấn đề tài chính của bảo hiểm chăm sóc là vấn đề không tránh khỏi.
Do điều kiện kinh tế - xã hội, thu nhập, tài sản, số lượng người cao tuổi tại mỗi địa phương
khác nhau nên có sự khác biệt về số tiền được miễn, giảm và số tiền mà người tham gia bảo
hiểm chăm sóc phải đóng hàng tháng (Komatsu, 2015). Ngoài ra, cho dù đóng một số tiền
bảo hiểm hằng tháng giống nhau nhưng do nhu cầu cá nhân khác nhau nên dễ nhận thấy có
nhiều than phiền khi người thụ hưởng so sánh nội dung dịch vụ với nhau.
102
Bên cạnh sự khác biệt về số tiền phải đóng ở mỗi địa phương, thì vấn đề lương của
người tham gia lao động trong lĩnh vực chăm sóc cũng là vấn đề nan giải cho việc đảm bảo
nguồn nhân lực. Chăm sóc người cao tuổi là công việc không hề dễ dàng, các yếu tố gây
stress luôn tồn tại,… tuy nhiên tiền lương chỉ nằm ở mức thu nhập dưới trung bình. Điều
này dẫn đến sự khó khăn trong tuyển dụng, nạn bỏ việc và vấn đề về tay nghề của nhân viên
chăm sóc do nhu cầu tuyển dụng quá cao. Nếu không có những chính sách tốt nhằm thu hút
nguồn nhân lực trong lĩnh vực này thì việc phụ thuộc vào lao động nước ngoài là điều tất
yếu. Tuy nhiên, việc sử dụng quá nhiều lao động nước ngoài trong công tác chăm sóc lại
đem đến nhiều vấn đề mới mà trước nay Nhật Bản chưa từng phải đối diện.
3.3 Sự khác biệt khi bắt đầu dụng dịch vụ y tế và dịch vụ chăm sóc
Về nguyên tắc, bảo hiểm y tế là một dạng bảo hiểm bắt buộc và có thể sử dụng cho tất
cả mọi người mà không có sự hạn chế về mặt thời gian và địa điểm. Chính vì thế, so với bảo
hiểm y tế, quy trình, thủ tục để sử dụng bảo hiểm chăm sóc là một quy trình tốn nhiều thời
gian cho những công việc liên quan đến hành chính, đánh giá,… và được cho là quá khó
khăn. Một người trên 65 tuổi muốn sử dụng bảo hiểm chăm sóc cần phải tốn ít nhất một
tháng cho các thủ tục thẩm định và điều này càng khó khăn hơn nếu người có nhu cầu sử
dụng là người từ 40 tuổi đến 64 tuổi.
Bên cạnh đó, phạm vi chi trả của bảo hiểm y tế tại Nhật Bản được đánh giá là rộng hơn
và ít tạo gánh nặng cho người sử dụng hơn do không có quy định chặt chẽ về hạn mức sử
dụng như bảo hiểm chăm sóc. Nhu cầu cá nhân đa dạng đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ
của các loại hình dịch vụ liên quan đến chăm sóc. Sự đa dạng về nội dung dịch vụ là một
trong những điểm mạnh trong ngành chăm sóc tại Nhật Bản nhưng ngược lại cũng tạo cho
người cao tuổi và gia đình có những hụt hẫng không đáng có do sự hạn chế về tài chính của
gia đình (Komatsu, 2015).
103
3.4 Sự thay đổi trong kinh doanh chăm sóc
Bảo hiểm chăm sóc ra đời làm thay đổi rất lớn trong nội dung dịch vụ chăm sóc. Người
cao tuổi không còn là đối tượng thụ hưởng chính sách tại trung tâm mà là người sử dụng
dịch vụ đúng nghĩa thông qua việc ký kết hợp đồng chăm sóc. Điều này làm cho sự vận
hành trung tâm có nhiều thay đổi để đáp ứng được nhu cầu khách hàng theo nguyên lý kinh
tế thị trường và các trung tâm quy mô nhỏ không còn đủ sức cạnh tranh. Một số trung tâm
chăm sóc đã quá chú trọng đến việc lợi nhuận, lôi kéo khách hàng và đưa ra những cam kết,
dịch vụ không đúng theo quảng cáo, đi ngược với nguyên tắc kinh doanh dịch vụ liên quan
đến an sinh (Komatsu, 2015). Một thực tế đau lòng khác là sự thay đổi không đáng có của
một số nhân viên xã hội trong việc giới thiệu những dịch vụ không hoàn toàn phù hợp với
thân chủ do có kết nối với trung tâm chăm sóc vì mục đích lợi nhuận. Do quy định buộc các
trung tâm giữ chỗ trong trường hợp người cao tuổi đang sử dụng dịnh vụ nhập viện dưới 3
tháng nên một số trung tâm đã cố sức sử dụng nguồn hỗ trợ y tế có sẵn nhằm giữ người cao
tuổi ở lại trung tâm để tăng doanh thu mà không đưa vào bệnh viện để chữa trị. Chính vì thế,
trong những năm gần đây, chính phủ Nhật Bản đã căn cứ vào điều 24 của luật An sinh xã
hội để đưa ra nhiều biện pháp nhằm đảm bảo, nâng cao chất lượng cũng như buộc các trung
tâm chăm sóc minh bạch hoá trong công tác quản lý và dịch vụ chăm sóc.
Mặc khác, do mức độ chăm sóc càng lớn thì số tiền mà các trung tâm chăm sóc thu về
từ quỹ bảo hiểm càng cao nên các trung tâm có xu hướng ưu tiên cho người cao tuổi cần sự
chăm sóc nhiều (Nagada, 2019). Thêm vào đó, sự cạnh tranh của các trung tâm chăm sóc
càng khốc liệt hơn khi nguồn lao động làm việc trong lĩnh vực chăm sóc không đáp ứng đủ
nhu cầu. Ngoài việc cải cách chính sách tiền lương, các công tác hỗ trợ nâng cao kỹ thuật,
phòng tránh cạn kiệt cho nhân viên làm việc tại các trung tâm chăm sóc đang là điều cần
được chú trọng.
104
4 Kết luận
Già hoá dân số đang dẫn đến nhiều vấn đề buộc hệ thống an sinh Nhật Bản phải có
những thay đổi nhằm phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội. Nhật Bản là một trong những
quốc gia phải đối diện với già hoá dân số nhanh nhất thế giới và cũng là một trong những
quốc gia đi đầu về chính sách an sinh cho người cao tuổi. Với sự thay đổi nhanh chóng và
nhu cầu đa dạng ngày nay, Nhật Bản cần xây dựng một hệ thống chăm sóc toàn diện cho
người dân bên cạnh việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực an sinh. Việc thay đổi chính sách
về an sinh nhất là bảo hiểm chăm sóc là vô cùng cần thiết để có thể khắc phục được những
hạn chế còn tồn tại.
Bảo hiểm chăm sóc thường gây cảm giác phiền toái cho người cao tuổi và gia đình
trong lần đầu sử dụng do đòi hỏi khá nhiều thủ tục giấy tờ, đánh giá và thay đổi chính sách
chi trả mỗi 3 năm. Tuy nhiên, đây là một loại bảo hiểm giúp ích rất nhiều cho người cao
tuổi và gia đình khi nhu cầu chăm sóc phát sinh. Hy vọng Việt Nam sẽ học tập được nhiều
kinh nghiệm của Nhật Bản và thiết lập được một hệ thống chăm sóc tốt trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hiệp hội đào tạo nhân viên chăm sóc. (2020). Kaigo gairon. Tyuo Hoki.
Hiệp hội đào tạo nhân viên chăm sóc. (1999). Kaigo gairon. Tyuo Hoki.
Hiệp hội nghiên cứu An sinh. (2020). Kaigohoken zidai no fukushi unei ưo kangaeru.
Tyuo Hoki.
Honma Akira và cộng sự. (2010). Rozin Fukushi Ron. Zenkoku Syakai Fukushi
Kyogikai.
Kuroki Yashuhiro và cộng sự. (1998). Gurupu waku ron. Minerva.
Kuroiwa Haruko. (2008). Nintisyo koureisya no gurupu waku. Takasuga.
105
Komatsu. (2015). Syakai fukushi shisetsu unei ron. Tyuo Hoki.
Nagada. (2019). Syoshi koreika zidai no iryo to fukushi. Akiseki.
106
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Phạm Quốc Hưng10
Tóm tắt
Với cuộc sống hiện đại ngày nay nhiều người bận rộn với công việc, nên không có
nhiều thời gian để chăm sóc và phụng dưỡng ba mẹ, ông bà của mình. Dịch vụ chăm sóc
người già ngày được nhiều khách hàng quan tâm, đặc biệt là các thành phố lớn. Công việc
này đòi hỏi ở người chăm sóc phải có lòng kính trọng với người già, đồng thời phải am hiểu
được tâm lý của người cao tuổi (NCT) mới có thể chăm sóc, phụng dưỡng một cách tốt
nhất…Bằng phương pháp duy vật biện chứng; tiếp xúc thực tiễn kết quả tham luận trình
bày: (i) Khái quát về lý luận; (ii) Thực trạng NCT ở Việt Nam; (iii) Giải pháp nâng cao chất
lượng chăm sóc NCT và (iv) Kết luận
Từ khoá: Người cao tuổi, lý luận, thực trạng, chăm sóc, giải pháp
1 Khái quát về lý luận
NCT hay người cao niên hay người già là những người lớn tuổi, thường có độ tuổi
khoảng từ 60 trở lên. Pháp lệnh người cao tuổi ở Việt Nam (số 23/2000/PL-UBTVQH, ra
ngày 28/04/2000) nhận định: "người cao tuổi có công sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục con
cháu về nhân cách và vai trò quan trọng trong gia đình và xã hội"[1].
Về mặt pháp luật: Luật Người cao tuổi Việt Nam năm 2010 quy định: NCT là “Tất cả
các công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên”. Theo WHO: NCT phải từ 70 tuổi trở lên. Những
10 Giảng viên Trường Đại học Văn Hiến, [email protected]
107
nước có hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì tuổi thọ và sức khỏe của người dân cũng
được nâng cao [2]
Hà Nội, ngày 13 tháng 10 năm 2020- QUYẾT ĐỊNH- Số :1579/QĐ-TTG-PHÊ DUYỆT
CHƯƠNG TRÌNH CHĂM SÓC SỨC KHỎE NGƯỜI CAO TUỔI ĐẾN NĂM 2030-Nội
dung chủ yếu :
1. Mục tiêu chung : Chăm sóc, nâng cao sức khỏe người cao tuổi (người từ đủ 60 tuổi
trở lên) bảo đảm thích ứng với già hóa dân số, góp phần thực hiện thành công Chiến lược
Dân số Việt Nam đến năm 2030.
2. Mục tiêu cụ thể: a) 100% cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp ban hành nghị quyết, kế
hoạch, đầu tư ngân sách cho chăm sóc sức khỏe người cao tuổi vào năm 2025 và duy trì đến
năm 2030; b) Người cao tuổi hoặc người thân trực tiếp chăm sóc người cao tuổi biết thông
tin về già hóa dân số, quyền được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi đạt 70% năm
2025; 85% năm 2030; c) Người cao tuổi được khám sức khỏe định kỳ ít nhất 1 lần/năm đạt
70%, được lập hồ sơ theo dõi quản lý sức khỏe đạt 95% năm 2025; 100% năm 2030; c)
Người cao tuổi được phát hiện, điều trị, quản lý các bệnh không lây nhiễm (ung thư, tim
mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, sa sút trí tuệ...) đạt 70%
năm 2025; 90% năm 2030; d) Người cao tuổi có khả năng tự chăm sóc được cung cấp kiến
thức, kỹ năng tự chăm sóc sức khỏe đạt 50% năm 2025; 90% năm 2030; đ) 100% người cao
tuổi không có khả năng tự chăm sóc, được chăm sóc sức khỏe bởi gia đình và cộng đồng
vào năm 2025 và duy trì đến năm 2030; e) Câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau và các loại
hình câu lạc bộ khác của người cao tuổi có nội dung chăm sóc sức khỏe đạt 80% năm 2025;
100% năm 2030; g) Số xã, phường, thị trấn có ít nhất 01 câu lạc bộ chăm sóc sức khỏe
người cao tuổi, có ít nhất 01 đội tình nguyện viên tham gia chăm sóc sức khỏe người cao
tuổi đạt 50% năm 2025; 90% năm 2030; h) Số quận, huyện thí điểm, phát triển mô hình
108
Trung tâm chăm sóc sức khỏe ban ngày cho người cao tuổi đạt 20% năm 2025; 50% năm
2030; i) Số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có mô hình Trung tâm dưỡng lão theo
hình thức xã hội hóa thực hiện nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đạt 25% năm
2025; 100% năm 2030; k) 100% người cao tuổi khi bị bệnh được khám và điều trị vào năm
2025 và duy trì đến năm 2030; l) Người cao tuổi cô đơn, bị bệnh nặng không thể đến khám
bệnh, chữa bệnh tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được khám và điều trị tại nơi ở đạt 70%
năm 2025; 100% năm 2030; m) Bệnh viện, trừ bệnh viện chuyên khoa nhi có khoa lão khoa
và bệnh viện tuyến quận, huyện dành một số giường để điều trị người bệnh là người cao
tuổi đạt 70% năm 2025; 100% năm 2030; n) Số xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí môi trường
thân thiện với người cao tuổi đạt ít nhất 20% năm 2025; 50% năm 2030[3].
2 Thực trạng người cao tuổi ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất ở châu Á và
đã chính thức bước vào thời kỳ già hóa từ năm 2011, số người già trên 60 tuổi ở nước ta
hiện chiếm trên 11%; kết quả từ sự sụt giảm của tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết và tuổi thọ ngày càng
tăng lên. Có người cho rằng Dân số Việt Nam đang già nhanh: ‘Chưa giàu thì đã già’ …
Điều này tác động sâu sắc tới mọi khía cạnh của cá nhân, gia đình, cộng đồng và của toàn
xã hội. Bên cạnh mặt tích cực, già hóa dân số cũng đặt ra những thách thức trong công tác
chăm sóc sức khỏe và an sinh xã hội dành cho NCT [4].
Theo PGS.TS Lương Ngọc Khuê - Cục trưởng Cục quản lý Khám, chữa bệnh, Phó
Trưởng Tiểu ban điều trị, Việt Nam hiện có khoảng 11,409 triệu NCT, phần lớn trong số
này mắc nhiều bệnh mạn tính như đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh mạch vành... Việc
phòng bệnh là vô cùng quan trọng đối với NCT, sức đề kháng suy giảm, khả năng chống đỡ
bệnh tật kém, dễ mắc bệnh và diễn biến bệnh thường nặng khi dịch bệnh xảy ra.
*Xu hướng gia tăng tỷ trọng NCT Việt Nam trong tổng dân số qua các năm
109
Năm Tổng dân số
(triệu người)
Số lượng NCT 60+
(triệu người)
Tỷ trọng NCT 60+ trong
tổng dân số (%)
1979 53,74 3,71 6,90
1989 64,38 4,64 7,20
1999 76,33 6,19 8,10
2009 85,79 7,72 9,00
2011 87,80 8,70 9,90
2016 92,7 10,14 10,94
2017 93,69 10,26 10,95
Nguồn: Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê các năm, Điều tra Dân số và nhà ở, Báo
cáo của Ủy ban Quốc gia người cao tuổi các năm.
Năm 2018, 2019 dân số Việt Nam tương ứng là 94,666 triệụ và 96,209 triệu người;
người cao tuổi từ 60 trở lên là 12,875 và 11,409 triệu người; tỷ lệ là 13,6% và 11, 8% [5]
Dưới đây là số liệu thống kê chính về dân số người cao tuổi của Việt Nam: 2019 2050
Dân số từ 60 tuổi trở lên (tổng cộng) 11.988.000 29.841.000
Dân số từ 60 tuổi trở lên (% tổng dân số) 12,3 27,2
Phụ nữ lớn tuổi từ 60 tuổi trở lên (% tổng dân số) 7,14 15,08
Tuổi thọ (nam) 71,16 77,2
Tuổi thọ (nữ) 79,4 83,22
Tỷ số phụ thuộc tuổi già (65+ / 15-64 tuổi) 11,4 32,8
Người cao tuổi ở nông thôn (% tổng dân số) 10,69
Người cao tuổi thành thị (% tổng dân số) 9,76
Người cao tuổi sống một mình từ 60 tuổi trở lên
(% tổng dân số từ 60 tuổi trở lên) 9,4
Nguồn: Global AgeWatch Insight
Trong đời sống xã hội, NCT luôn có vai trò rất quan trọng. NCT là một trong những lực
lượng nòng cốt ở cơ sở. Trong gia đình, NCT nêu gương, hướng dẫn, động viên con cháu
chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. NCT
110
vẫn tiếp tục có những đóng góp để góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở. Tuy nhiên, NCT ở Việt Nam đa phần có
đời sống vật chất khó khăn, chăm sóc sức khỏe chưa thật đầy đủ, cuộc sống tinh thần chưa
thực sự thỏa mãn, còn nhiều người trong tình trạng sống cô đơn.
Nhận thức được điều này, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã luôn quan tâm và ban hành
nhiều chủ trương, chính sách đối với NCT để đảm bảo đời sống vật chất cũng như tinh thần
của họ. Các chính sách này đã tạo ra các khuôn khổ pháp lý để cải thiện và nâng cao chất
lượng cuộc sống của NCT…Trước khi có Luật NCT, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng đã
đưa ra các chủ trương và ban hành, triển khai nhiều chính sách cụ thể trên thực tế như Chỉ
thị số 59-CT/TW, ngày 27/9/1995 về chăm sóc NCT; Chỉ thị số 117/TTg ngày 27/2/1996 về
chăm sóc NCT và hỗ trợ hoạt động cho Hội Người cao tuổi Việt Nam; Pháp lệnh Người cao
tuổi số 23/2000/PL-UBTVQH10; Nghị định 71/2000/NĐ-CP ngày 23/11/2000 quy định
việc kéo dài thời gian công tác của cán bộ, công chức đến độ tuổi nghỉ hưu; Quyết định số
141/2004/QĐ-TTG ngày 05/08/2004 về việc thành lập Ủy ban Quốc gia về NCT Việt Nam.
Bộ Y tế đã có Quyết định 1588/QĐ-BYT về việc ban hành tài liệu chuyên môn "Hướng
dẫn tạm thời quản lý sức khỏe người cao tuổi, người mắc bệnh mạn tính tại tuyến y tế cơ sở
trong bối cảnh dịch COVID-19" và "Hướng dẫn chăm sóc sức khỏe phòng chống dịch
COVID-19 cho NCT tại cộng đồng". Tài liệu này được áp dụng tại các cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh trong cả nước… Tài liệu này nhằm hướng dẫn cán bộ y tế cơ sở trong việc phối
hợp với y tế tuyến trên cùng với chính quyền, các ban ngành đoàn thể địa phương vừa thực
hiện nhiệm vụ dự phòng lây nhiễm COVID-19 cho NCT vừa bảo đảm điều trị có hiệu quả
cho bệnh nhân mắc các bệnh mạn tính tại cộng đồng trong bối cảnh phòng chống dịch
bệnh…
111
Phòng ngừa lây nhiễm bệnh COVID-19 không chỉ giúp phòng tránh lây lan bệnh ở một
nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, làm giảm tỷ lệ mắc và tử vong chung và còn góp phần trì
hoãn đỉnh dịch, tránh nguy cơ quá tải cho hệ thống y tế khiến cho dịch bệnh trở nên trầm
trọng hơn. Bởi vậy, Chính phủ và ngành Y tế luôn coi NCT, người mắc bệnh mạn tính là
đối tượng ưu tiên trong công tác phòng chống dịch bệnh COVID-19 [6].
3 Giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay
NCT thường bị các bệnh mãn tính không lây như: xương khớp, tim mạch và huyết áp,
rối loạn tiểu tiện; những bệnh tật phát sinh như: sa sút tinh thần và trầm cảm... có xu hướng
tăng. NCT chưa có thói quen khám bệnh định kỳ vì vậy khi phát hiện bệnh thường ở giai
đoạn muộn, nguy cơ khuyết tật cũng rất cao, thường gặp nhất là khuyết tật về mất thị lực và
thính lực. Các bệnh về tim mạch, ung thư và hô hấp là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu
đối với nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên. NCT phải đối mặt với gánh nặng về sức khỏe nhưng
việc tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe lại đang gặp hạn chế và có sự khác biệt lớn
giữa khu vực nông thôn, miền núi với thành thị. Bên cạnh đó, đời sống vật chất của nhiều
NCT trên địa bàn vùng sâu vùng xa còn rất khó khăn…Tác giả đề xuất:
Một là: Trong giai đoạn này, Luật về NCT là văn bản pháp lý rất quan trọng cùng với
các văn bản quy phạm pháp luật khác của Chính phủ đã khá đầy đủ. Vấn đề tiếp sau là các
Bộ, Ngành , địa phương cần quy định chi tiết hướng dẫn thi hành các văn bản trên về NCT
để điều chỉnh các hoạt động chăm sóc, phụng dưỡng và phát huy vai trò của NCT.
Hai là: Để NCT nhận được nhiều hơn sự quan tâm, chăm sóc của xã hội, cần nhiều hơn
nữa sự quan tâm giúp đỡ của các cấp các ngành để xây dựng và ngày một hoàn thiện các
công trình phúc lợi xã hội như hệ thống y tế lão khoa, hệ thống nhà dưỡng lão để đáp ứng
được nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của NCT. Cần nâng cao hơn mức sinh hoạt
đạt được hiện nay của NCT. Bên cạnh đó, cần có các giải pháp thích ứng với vấn đề "già
112
hóa dân số" bằng hệ thống chính sách phát huy vai trò của NCT, nhờ kinh nghiệm vốn có
của NCT…tạo môi trường thân thiện với NCT nhằm khuyến khích họ mang những kiến
thức, kinh nghiệm quý báu truyền cho thế hệ con cháu, tạo nên và duy trì sự phát triển mang
tính chiến lược và bền vững.
Ba là: Theo WHO (Tổ chức Y tế Thế giới), sức khỏe không chỉ là tình trạng không
bệnh tật của cơ thể mà còn là trạng thái thoải mái về cả mặt tinh thần và xã hội. Đây không
phải là một phát ngôn đặc biệt của WHO mà chỉ là một định nghĩa được đúc kết dựa vào
một sự thật là con người là một tổng thể được kết hợp bởi 3 yếu tố: thể chất, tinh thần và xã
hội.
Do vậy NCT cần ăn uống lành mạnh là tiền đề rất quan trọng để ngăn ngừa việc thiếu
chất: Thiếu vitamin (đặc biệt là vitamin D), sắt, các loại thực phẩm giàu tinh bột và
protein… Đảm bảo lượng nước uống hằng ngày để tránh mất nước, thiếu nước NCT dễ bị
đột qụy, hại thận, hại gan, cản trở tiêu hóa… NCT cần tích cực tập thể dục nhiều hơn. Tập
thể dục làm tăng sức cơ, giữ cho khớp dẻo dai, và kích hoạt các hệ thống kiểm soát cân
bằng và vận động các bộ phận toàn cơ thể... Các bệnh viện cử các chuyên gia vật lý trị liệu
không chỉ đến các cơ sở dưỡng lão, cần đến cả các khu dân cư có công viên hoặc nơi có
không gian rộng, mở các đợt (lớp) hướng dẫn ngắn ngày luyện tập cho NCT. Tuy nhiên
NCT nên chủ động trong việc quyết định phương pháp nào phù hợp nhất. Chẳng hạn, một
số người thích tham gia một lớp tập thể dục trong khi những người khác thích các hoạt động
như khiêu vũ, bơi lội hoặc tập dưỡng sinh. Các hoạt động giúp phát triển sức cơ và cân bằng
đặc biệt hữu ích.
Bốn là: Trách nhiệm của gia đình: Con-Cháu phải có trách nhiệm nuôi dưỡng chăm sóc
Cha-Mẹ-Ông-Bà…cả về vật chất và tinh thần. Con-Cháu chủ động tạo môi trường gia đình
thuận hòa, để bậc sinh thành sống khỏe - sống vui! Bậc sinh thành sống khỏe – sống vui
113
mới đủ minh mẫn để làm gương, khuyên dạy truyền kinh nghiệm nghề, kinh nghiệm quan
hệ xã hội tốt đẹp cho hậu sinh! Các bậc sinh thành mới “Nhân sinh thất thập chưa già, Vạch
ra chiến lược cả nhà làm theo”.
Năm là: Hợp tác quốc tế nhằm chia sẻ kinh nghiệm về những vấn đề ưu tiên; chuyên
môn, kỹ thuật, đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ; tăng cường liên doanh,
liên kết; huy động các nguồn vốn, tài trợ quốc tế để thực hiện nhanh, hiệu quả các mục tiêu
của Chương trình chăm sóc NCT.
4 Kết luận
Các chính sách về NCT của Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện: Dành ngân sách để chăm
sóc vật chất và tinh thần của NCT; nhấn mạnh việc tạo điều kiện về mọi mặt để Hội người
cao tuổi phát huy tốt vai trò nòng cốt trong phong trào toàn dân chăm sóc NCT là nhiệm vụ
của các cấp, ngành để góp phần thực hiện tốt chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, giữ
gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; vận động toàn dân tham gia các hoạt động
đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng; chăm sóc vật
chất và tinh thần của người già, nhất là những người già cô đơn, không nơi nương tựa; quy
định về chăm sóc, phụng dưỡng NCT; phát huy vai trò của NCT… Các chính sách về NCT
đã quan tâm, bảo đảm đến hầu hết tất cả các lĩnh vực trong đời sống của NCT, từ trong hoạt
động văn hóa, giáo dục, y tế - chăm sóc sức khỏe cho đến các hoạt động về thể dục thể thao,
giải trí, du lịch hay trong sử dụng các công trình, các phương tiện công cộng…Trách nhiệm
của các Bộ, Ngành và chính quyền địa phương triển khai chi tiết thực hiện phù hợp thực
tiễn.
Tự hào về thành tựu nâng tuổi thọ trung bình, đồng thời thực hiện đạo hiếu với bậc tiền
bối, sinh thành, với trách nhiệm của mỗi người tới sự phát triển bền vững của các thế hệ tiếp
sau, thực hiện tốt QUYẾT ĐỊNH Số: 1579/QĐ-TTg-Hà Nội, ngày 13 tháng 10 năm 2020-
114
PHÊ DUYỆT CHƯƠNG TRÌNH CHĂM SÓC SỨC KHỎE NGƯỜI CAO TUỔI ĐẾN
NĂM 2030.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Pháp lệnh người cao tuổi: Của UBTVQH Việt Nam, số 23/2000/PL-UBTVQH, ra ngày
28/04/2000
http://benhvien tien giang.vn › chi-tiet-tin › cac-giai-oan-c..
Số 1579/QĐ-TTg- Hà Nội, ngày 13 tháng 10 năm 2020- QUYẾT ĐỊNH PHÊ DUYỆT
CHƯƠNG TRÌNH CHĂM SÓC SỨC KHỎE NGƯỜI CAO TUỔI ĐẾN NĂM
https://syt.quangbinh.gov.vn/3cms/Ban-in-507.htm?art=1457686802683
https://helpagevn.org/blogs/tin-du-an/nguoi-cao-tuoi-viet-nam-theo-ket-qua-tong-dieu-
tra-dan-so-va-nha-o-nam
http://giadinh.net.vn/y-te/ban-hanh-tai-lieu-quan-ly-va-nang-cao-suc-khoe-nguoi-cao-
tuoi-trong-boi-canh-dich-covid-19-20200408163814083.htm-08/04/2020
Đàm Hữu Đắc. (2010). “Chính sách phúc lợi xã hội và phát triển dịch vụ xã hội: Chăm
sóc người cao tuổi trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập”, Hà Nội;
NXB Lao động - Xã hội.
Giang Thanh Long. (2010). “Chuyển đổi hệ thống hưu trí từ PAYG DB sang tài khoản
cá nhân tượng trưng (NDC)”, Báo cáo số 3 của Dự án TF058179 giữa Ngân hàng thế giới
và Viện Khoa học Lao động và Xã hội. Hà Nội: Ngân hàng thế giới và Viện Khoa học Lao
động và Xã hội.
Luật Người cao tuổi Việt Nam năm 2009.
Phạm Thắng, Đỗ Thị Khánh Hỷ. (2009). Báo cáo tổng quan về chính sách chăm sóc
người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi ở Việt Nam, Bộ Y tế - UNFPA, Hà Nội.
115
UNFPA. (2012). Già hóa trong thế kỷ 21: thành tựu và thách thức.
UNFPA. (2014). Báo cáo “Bảo đảm thu nhập cho người cao tuổi ở Việt Nam: Lương
hưu xã hội”.
Ủy ban Quốc gia người cao tuổi. Báo cáo 21/BC-UBQGNCT ngày 29/12/2017 về Tình
hình và kết quả thực hiện công tác người cao tuổi năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ
năm 2018.
116
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH VÀ THỰC TẬP CÔNG
TÁC XÃ HỘI CHO CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC
Nguyễn Thụy Diễm Hương11
Tóm tắt
Thực hành/ thực tập là một phần không thể thiếu trong đào tạo công tác xã hội vì nó
liên kết việc học trên lớp với việc vận dụng ngoài hiện trường. Thực hành/ thực tập công tác
xã hội cung cấp một trải nghiệm học tập thực tế giúp sinh viên hiện thực hóa mục tiêu học
tập và chứng minh vai trò chuyên nghiệp của mình trong việc giúp đỡ người khác dưới với
sự giám sát chặt chẽ từ người hướng dẫn thực thực hành có kinh nghiệm. Trong bối cảnh
các trường đào tạo công tác xã hội ngày càng nhiều trong khi tính chuyên nghiệp của các cơ
sở xã hội chưa cao, việc tổ chức thực hành/ thực tập công tác xã hội cho sinh viên đang là
một thách đố to lớn. Dựa trên những nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn, tác giả bài viết
trình bày các yếu tố chính yếu giúp nâng cao chất lượng thực hành và thực tập công tác xã
hội: (1) chuẩn bị sinh viên trước khi đến hiện trường, (2) xây dựng quan hệ đối tác và xác
định trách nhiệm của các bên liên quan và (3) thiết kế phương thức đánh giá kết quả thực
tập toàn diện.
Từ khóa: công tác xã hội, thực hành, thực tập, đào tạo, giáo dục thực địa
1 Dẫn nhập
Nếu như giáo dục thực địa được xem như làm phương pháp dạy và học đặc trưng của
ngành công tác xã hội thì dường như nó đang gặp một thách đố rất lớn. Theo ông Tô Đức -
Phó Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội (Bộ LĐ-TBXH) cho biết, đến năm 2018, cả nước có
khoảng 55 trường đại học, cao đẳng và 21 cơ sở dạy nghề có đào tạo chuyên ngành Công
11 Giangr viên Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh
117
tác xã hội (trong đó có 5 trường đã tiến hành đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ ngành Công tác xã hội)
với những hình thức đào tạo đa dạng và linh hoạt cùng hàng chục ngàn sinh viên ra trường
mỗi năm. Trong khi đó, do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan, các cơ sở xã
hội hiện nay còn hoạt động thiếu chuyên nghiệp và chưa phát huy hết chức năng công tác xã
hội (Nguyen Huong, 2018). Như vậy, bằng cách nào có thể cung cấp hiệu quả một môi
trường thực hành/ thực tập tại hiện trường cho một số lượng lớn các cơ sở đào tạo và người
học mỗi năm?
Một nghiên cứu mới nhất về thực hành/ thực tập được thực hiện trên 8 trường đại học từ
Bắc chí Nam có đào tạo ngành công tác xã hội cho thấy các mô hình giáo dục thực địa của
Việt nam còn nhiều hạn chế. Những hạn chế này đến từ việc hợp tác lỏng lẽo giữa các
trường đào tạo với cơ sở thực tập, số lượng giám sát viên có trình độ chuyên môn và kinh
nghiệm thiếu và các phương pháp đánh giá chưa toàn diện (Nguyen HT, Cohen E, Văn Đỗ
T, et al, 2020). Như vậy, vấn đề lớn đặt ra cho các cơ sở đào tạo là làm thế nào để gia tăng
chất lượng thực hành/ thực tập công tác xã hội trong bối cảnh hiện nay. Bài viết giúp khám
phá các yếu tố quan trọng, góp phần rất lớn cho giáo dục thực địa của công tác xã hội. Ở
đây có thể kể đến ba yếu tố cốt lõi: công tác chuẩn bị cho sinh viên trước khi đến hiện
trường, quan hệ đối tác và trách nhiệm của các bên liên quan và cơ chế đánh giá kết quả
thực tập/ thực hành.
2 Chuẩn bị sinh viên cho thực hành/ thực tập
Đào tạo thực hành đòi hỏi yêu cầu cao vì nó liên quan đến việc kết nối lý thuyết với
thực hành trong quá trình làm việc với đối tượng con người thân chủ, các cơ sở xã hội và
cộng đồng. Việc các cơ sở đào tạo chuẩn bị sinh viên kỹ lưỡng trước khi thực hành/ thực tập
tốt thể hiện tinh thần trách nhiệm đối với người học, nghề công tác xã hội, thân chủ và cộng
đồng.
118
Đầu tiên, sinh viên cần đáp ứng các yêu cầu cơ bản của lý thuyết trong chương trình
đào tạo trước khi được phép thực hành/ thực tập. Sinh viên trải qua một số học kỳ nhất định
để được trang bị tốt các môn học tiên quyết như Nhập môn công tác xã hội, an sinh xã hội,
lý thuyết công tác xã hội và các môn phương pháp thực hành công tác xã hội. Những môn
học này nhằm đặt nền tảng vững chắc cho thực địa. Những sinh viên không đạt được bất kỳ
môn học tiên quyết cần được yêu cầu học lại trước khi thực hiện kỳ thực hành/ thực tập.
Việc học trên lớp không chỉ là lý thuyết suông nhưng bằng những phương pháp dạy và
học đa dạng như thao tác gián tiếp/ trực tiếp, thực hành mô phỏng, phân tích trường hợp,
tham quan thực tế…, các môn học này phải vừa đảm bảo sinh viên được trang bị đầy đủ các
kiến thức chuyên môn vừa rèn luyện thái độ và kỹ năng cần thiết của một nhân viên công
tác xã hội tương lai. Mô hình học tập trải nghiệm của David Kolb (1984) là một đề xuất lý
tưởng cho giai đoạn này. Theo đó, người học được phát triển toàn diện về: trí tuệ, cảm xúc,
thể chất, kĩ năng và các mối quan hệ xã hội trong quá trình tham gia.
Kế đến những buổi định hướng thực hành/ thực tập là không thể thiếu trong công tác
chuẩn bị. Chúng giúp sinh viên hiểu được đề cương các môn thực hành/ thực tập tốt nghiệp
(mục tiêu, chuẩn đầu ra, nội dung thực hiện….), các tiêu chuẩn pháp lý, quy định đạo đức
thực hành nghề công tác xã hội trong bối cảnh Việt nam, cách học nơi thực địa, cách gắn
kết giữa lý thuyết với thực hành để đáp ứng yêu cầu của từng đợt thực hành/ thực tập….
Những buổi định hướng cũng hướng dẫn sinh viên sử dụng các các thủ tục hành chánh và
các biểu mẫu liên quan đến thực hành/ thực tập.
Trước khi chính thức thực hành/ thực tập tại cơ sở, sinh viên còn được chuẩn bị tinh
thần qua buổi gặp gỡ, trao đổi với giảng viên hướng dẫn. Sinh viên có thể có được những
thông tin sơ khởi về cơ sở thực tập và cùng giảng viên hướng dẫn xác định lịch họp kiểm
huấn, phương thức thông tin, liên lạc giữa đôi bên và những quy định liên quan đến thực tập.
119
Thực tế cho thấy, cho dù được đặt trong môi trường chưa chuyên nghiệp đủ, sinh viên
càng được chuẩn bị về mặt chuyên môn và tinh thần thì càng biết tận dụng lợi thế của
chương trình đào tạo và những tương quan xã hội để giải quyết ổn thỏa những khó khăn,
thách đố xảy ra trong quá trình thực hành/ thực tập (Nguyen HT, Cohen E, Văn Đỗ T, et al,
2020).
3 Xây dựng quan hệ đối tác và quy định trách nhiệm của các bên liên quan
trong thực hành/ thực tập công tác xã hội
Để việc thực hành/ thực tập của sinh viên đạt được kết quả tốt nhất, thông thường rất
cần mối quan hệ đối tác bền chặt và tinh thần trách nhiệm của các bên liên quan (ASI –
CFSI, 2011). Ở đây, ngoài vai trò của đơn vị đào tạo (cụ thể là khoa/ bộ môn công tác xã
hội), còn có trách nhiệm của điều phối viên, kiểm huấn viên thực địa, giảng viên hướng dẫn
và sinh viên thực tập.
Với tư cách là đơn vị đào tạo, trách nhiệm của khoa/ bộ môn công tác xã hội là tích cực
tìm kiếm và xây dựng mối quan hệ hợp tác tốt đẹp và hiệu quả với các cơ sở xã hội và kiểm
huấn viên thực địa để thu xếp nơi thực tập phù hợp nhu cầu của sinh viên. Việc chọn lựa các
cơ sở thực tập phải dựa trên các tiêu chuẩn nhất định. Sự hợp tác lâu dài giữa đôi bên cần
được hợp thức hóa bằng bản thỏa thuận ghi nhớ (MOU) trong đó quy định rõ trách nhiệm
và quyền lợi của cả hai. Cùng với cơ sở xã hội, khoa còn cần xác định những người có thể
hỗ trợ sinh viên thực tập tại hiện trường. Thường họ là những người có chuyên môn công
tác xã hội, kinh nghiệm làm việc và kiểm huấn.
Ngoài ra, thông qua những khóa tập huấn ngắn hạn, khoa truyền đạt các đề cương môn
học với các mục tiêu, yêu cầu và nội dung thực hành/ thực tập rõ ràng cho các bên liên quan,
các biểu mẫu sử dụng cũng như chức năng và vai trò của kiểm huấn viên thực địa để nâng
cao năng lực và tính chuyên nghiệp của đội ngũ hỗ trợ thực tập sinh. Đồng thời khoa thiết
120
lập một cơ chế thông tin liên lạc và phản hồi phù hợp, thuận tiện cho việc trao đổi và giải
quyết kịp thời những vấn đề có thể xảy ra trong quá trình sinh viên thực hành/ thực tập.
Trong lãnh vực thực hành/ thực tập, vị đại diện cho khoa được xem như là điều phối
viên. Vị này chuẩn bị các thủ tục hành chánh và văn bản cần thiết, liên hệ các cơ sở thực tập
để xin phép gởi sinh viên, trao đổi và thống nhất mục tiêu và công việc thực tập. Bên cạnh
đó, vị này cần tổ chức định hướng trước khi sinh viên đi thực tập để ướng dẫn chi tiết qui
trình thực tập các biểu mẫu, cách viết nhật ký, viết báo cáo, ghi chép trường hợp, đánh
giá…. Trong suốt thời gian sinh viên thực tập, điều phối viên theo dõi sát sao tình hình để
kịp thời giải quyết các sự việc phát sinh, tổ chức các cuộc họp với giảng viên hướng dẫn,
thăm viếng thực địa hoặc dự các buổi lượng giá giữa kỳ giữa giảng viên hướng dẫn, kiểm
huấn viên cơ sở và sinh viên thực tập. Cuối kỳ, điều phối viên cũng thường tổ chức buổi
lượng giá thực tập với các bên liên quan, thu thập các thông tin phản hồi để cải thiện mô
hình thực tập/ thực hành.
Đi sâu sát với thực tập sinh là trách nhiệm của những giảng viên hướng dẫn của khoa/
bộ môn công tác xã hội. Thông thường, mỗi giảng viên phụ trách tối đa 20 sinh viên/ học kỳ.
Họ luôn duy trì mối quan hệ tích cực với điều phối viên, sinh viên và cơ sở thực tập. Họ
đồng hành cùng sinh viên trong quá trình thực tập, bảo đảm rằng sinh viên được hướng dẫn
tốt và được tạo điều kiện để hoàn thành các mục tiêu của đợt thực tập và biết cách vận dụng
lý thuyết vào thực tế công việc. Họ hỗ trợ sinh viên tìm kiếm những nguồn trợ giúp thích
hợp khi cần, chuẩn bị và tổ chức định kỳ các cuộc họp kiểm huấn sinh viên thực tập. Ngoài
ra, họ luôn làm việc chặt chẽ, thăm viếng và họp lượng giá với cơ sở thực tập để có thể đánh
giá kết quả thực tập của sinh viên một cách khách quan nhất (ASI – CFSI, 2011).
Nếu cơ sở thực tập không có kiểm huấn viên, giảng viên hướng dẫn có thể kiêm luôn
vai trò kiểm huấn. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, tốt hơn nên tách biệt hai vai trò này
121
để có thể quản lý, đào tạo và hỗ trợ sinh viên cách hiệu quả trong quá trình thực hành/ thực
tập.
Đối tác không thể thiếu trong giáo dục thực địa là kiểm huấn viên cơ sở. Vị này cung
cấp hỗ trợ, tư vấn và hướng dẫn chuyên môn cho sinh viên tại hiện trường; tạo ra và duy trì
một tương quan trong đó sinh viên sẽ cảm thấy yên tâm vận dụng kiến thức và kỹ năng vào
môi trường thực tế. Trong cụ thể, kiểm huấn viên cung cấp thông tin về triết lý, sứ mệnh và
chức năng, cơ cấu tổ chức, các thủ tục, chính sách và các dịch vụ của cơ quan… (tổng quan
cơ sở). Họ quan sát trực tiếp, đề xuất ca/ nhóm cho sinh viên can thiệp. Họ có thể bổ sung
kiến thức và huấn luyện thêm kỹ năng cho sinh viên. Họ cũng giám sát các ca đã giao cho
sinh viên và cho phản hồi, giữ liên lạc với cơ sở đào tạo và cho những nhận xét khách quan,
công bằng, đáng tin cậy về năng lực của sinh viên trong quá trình thực hành/ thực tập.
Tuy được chuẩn bị kỹ lưỡng và nhận được nhiều sự hỗ trợ từ nhiều phía nhưng sinh
viên thực tập là người chịu trách nhiệm chính về việc học của mình và bảo đảm sử dụng
hoàn toàn cơ hội học tập để đạt mục tiêu học hành. Sinh viên phải tuân theo các tiêu chuẩn,
đạo đức nghề nghiệp và các quy định của cơ sở thực tập. Tùy theo yêu cầu của mỗi đợt thực
tập, sinh viên lựa chọn phương pháp thực hành/ thực tập phù hợp, có trách nhiệm về những
gì họ làm trong việc hỗ trợ và phục vụ thân chủ dưới sự giám sát của giảng viên hướng dẫn
của trường và kiểm huấn viên thực địa. Sinh viên chủ động tìm kiếm cơ hội học tập và kinh
nghiệm mới, đồng thời chủ động đưa ra các vấn đề để thảo luận với hướng dẫn viên thực
địa. Họ cần chuẩn bị và tham gia đầy đủ các buổi họp kiểm huấn cũng như hoàn thành các
bài tập và báo cáo thực tập đúng thời gian quy định.
4 Thiết kế phương thức đánh giá toàn diện
Việc đánh giá kết quả học tập cả sinh viên do giảng viên hướng dẫn, kiểm huấn viên cơ
sở và chính thực tập sinh thực hiện dù rằng kết quả cuối cùng do giảng viên hướng dẫn
122
quyết định. Mục đích của đánh giá là để đo lường mức độ sinh viên đã đạt được các mục
tiêu học tập. Trong thực tế, đánh giá là một quá trình liên tục, bắt đầu từ ngày đầu tiên sinh
viên tham gia cho đến khi kết thúc thực hành/ thực tập. Tuy nhiên, có hai đợt đánh giá lớn:
đánh giá giữa kỳ và đánh giá cuối kỳ.
Thông thường, các lãnh vực đánh giá tập trung vào bốn khía cạnh: (1) vận dụng kiến
thức vào thực hành, (2) sử dụng kỹ năng chuyên môn trong cung ứng dịch vụ, (3) thể hiện
thái độ và tư cách của nhân viên xã hội chuyên nghiệp trong cơ sở và (4) nỗ lực tự rèn luyện
và phát triển nghề nghiệp. Mỗi khía cạnh đánh giá lại chia thành những tiêu chí và các cấp
độ khác nhau để thể hiện đúng năng lực của sinh viên (Department of Applied Social
Studies, 2010). Dữ liệu để đánh giá bao gồm kế hoạch phát triển cá nhân, nhật ký thực tập,
bảng điểm danh, biên bản kiểm huấn, phản hồi của bạn cùng nhóm thực tập, phản hồi / đánh
giá của cơ sở, bản tự đánh giá của sinh viên, báo cáo tiến độ, báo cáo thực tập, ghi chú từ
quan sát trực tiếp / gián tiếp…
Một mặt, việc đánh giá phải giúp giảng viên hướng dẫn cho điểm, xếp hạng sinh viên
thực tập theo yêu cầu của chương trình đào tạo. Mặt khác, đánh giá còn đem lại cho sinh
viên cơ hội biết rõ mình hơn với những ưu và khuyết điểm liên quan đến việc phát triển
nghề nghiệp trong tương lai. Ngoài ra, đánh giá còn có thể cung cấp dữ liệu để đơn vị đào
tạo và cơ sở xã hội dựa vào đó mà cải tiến chất lượng đào tạo cũng như các dịch vụ xã hội
(ASI – CFSI, p108 - 2011).
5 Kết luận
Từ một thập kỷ nay, chương trình đào tạo công tác xã hội của Việt nam vừa cố gắng
tích hợp những tiêu chuẩn quốc tế vừa gắn liền với thực tiễn thực hành tại địa phương. Để
đất nước có những nhân viên công tác xã hội có chất lượng trong tương lai, ngoài những
kiến thức, kỹ năng được trang bị trên lớp, sinh viên cần môi trường thực địa thuận lợi để
123
thực hành/ thực tập nghề nghiệp. Trách nhiệm này chủ yếu được đặt trên vai của các cơ sở
giáo dục. Giáo dục thực địa chỉ thực sự sinh ích lợi nếu các trường trang bị tốt và đầy đủ
cho sinh viên ngay từ những tiết học trên giảng đường. Bên cạnh đó, cơ sở đào tạo cần có
sự hợp tác tốt với cơ sở xã hội và đào luyện các bên liên quan với đầy đủ kiến thức, năng
lực, kỹ năng và phẩm chất cần thiết cho việc học tập trải nghiệm của sinh viên. Đồng thời,
hệ thống đánh giá kết quả thực hành / thực tập khoa học, toàn diện cũng góp phần làm gia
tăng chất lượng đào tạo thực địa cho ngành công tác xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Allyson Davys & Liz Beddoe. (2010). Best Practice in Professional Supervision – A
Guide for the Helping Professions. Jessica Kingsley Publishers.
ASI – CFSI .(2011). Kiểm huấn Công tác xã hội. Tài liệu dự án “Đào tạo công tác xã
hội Việt nam”
Charles R. Horejsi & Cynthia L. Garthwait. (1999). The Social Work Practicum – A
Guide and Workbook for Students. Allyn & Bacon.
Department of Applied Social Studies. (2010). Practicum Handbook for Bachelor of
Social Sciences (Social work) Programme. 10th edition. City of University of Hongkong.
Kolb, D. (1984). Experiential Learning: experience as the source of learning and
development. Englewood Cliffs. NJ: Prentice Hall.
Nguyen HT, Cohen E, Văn Đỗ T, et al. Social work field education in Vietnam:
Challenges and recommendations for a better model. International Social Work. June 2020.
Nguyen Huong. (2018). Đào tạo và thực hành nghề công tác xã hội từ đề án 32 đến nay.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Công tác xã hội – nhu cầu nhân lực và vấn đề đào tạo công tác
xã hội viên”. Đại học Sư phạm TPHCM. 10/208, p 234 – 248.