mỘt sỐ Ý kiẾn, ĐỀ xuẤt cỦa bỘ lao ĐỘng, thƯƠng binh...
TRANSCRIPT
Công ty Cổ phần Phát triển Giáo dục Hawking SĐT: 04.6253.1570 – Email: [email protected]
Website: www.hawking.edu.vn
MỘT SỐ Ý KIẾN, ĐỀ XUẤT
CỦA BỘ LAO ĐỘNG, THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
1. Xu thế phát triển công nghiệp trên thế giới và khu vực, tác động của nó đến
phát triển chiến lược đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển của công nghiệp đất
nước thời gian tới
* Xu thế phát triển công nghiệp trên thế giới và khu vực
Bước sang thế kỷ XXI, thời kỳ mà các quan hệ quốc tế đã phát triển tới mức bất kỳ
quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù thuộc hệ thống kinh tế - xã hội nào cũng phải chịu sự tác
động ấy. Đây là thời kỳ nền kinh tế chuyển đổi mạnh mẽ từ phát triển theo chiều rộng sang
phát triển theo chiều sâu. Trước đây, nền kinh tế thế giới hoạt động chủ yếu dựa vào những
cơ sở vật chất – kỹ thuật truyền thống. Tuy nhiên, cơ sở này ngày càng tỏ ra không đáp ứng
được yêu cầu phát triển của giai đoạn mới. Tại các nước công nghiệp phát triển, kỹ thuật cơ
khí hóa đã đạt trình độ cao và phổ biến các nguồn năng lượng dựa trên cơ sở sử dụng nguyên
liệu rắn và lỏng, các vật liệu kim khí… đều đã được tận dung cao độ và nguồn cung cấp
chúng ngày càng hạn chế. Các quá trình công nghệ không liên tục ngày càng không đáp
ứng được các yêu cầu phát triển, không gian lục địa đã tỏ ra không đủ cho một nền kinh tế
thế giới trong tương lai…
Đây cũng là thời kỳ mà nền kinh tế tri thức đang bắt đầu phát triển mạnh mẽ. Đó là
những người máy sẽ thay thế cho những người lao động. Các nguồn năng lượng mặt trời và
nhiệt hạch… sẽ phổ biến và thay thế cho các nguồn năng lượng hiện có. Các chất siêu dẫn,
siêu bền… sẽ thay thế các vật liệu truyền thống. Công nghệ vi sinh, công nghệ gen sẽ phát
triển… Các công nghệ liên tục sẽ được sử dụng rộng rãi. Khi đó, nền sản xuất thế giới sẽ
đảm bảo cung cấp hàng hóa dồi dào với chi phí rất thấp, các khu vực sản xuất vật chất sẽ
thu hẹp lại nhỏ bé so với các khu vực kinh tế tri thức.
Các quốc gia có nền kinh tế phát triển, trình độ công nghiệp hóa cao coi khoa học
công nghệ là cốt lõi của biến đổi nền kinh tế. Các nước này áp dụng nhiều biện pháp để
dành được các ưu thế trong sáng tạo kỹ thuật công nghệ như: tăng cường quản lý Nhà nước
về lĩnh vực nghiên cứu khoa học công nghệ, thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học công
nghệ và tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học, cải cách và chấn hưng giáo dục, bồi dưỡng
và thu hút nhân tài, thành lập các thành phố khoa học kỹ thuật cao.
Để duy trì phát triển công nghiệp và thu được lợi thế, các nước phát triển thực hiện
chuyển nhượng kỹ thuật cho các nước kém phát triển hơn. Cũng nhờ đó mà các nước nghèo
rút ngắn được chu kỳ đổi mới kỹ thuật và thời gian hoàn vốn cho những kỹ thuật nhập khẩu
Công ty Cổ phần Phát triển Giáo dục Hawking SĐT: 04.6253.1570 – Email: [email protected]
Website: www.hawking.edu.vn
để xây dựng những ngành công nghiệp hiện đại cho nền kinh tế của mình. Bên cạnh đó,
nguồn nguyên liệu hay lao động thường là những lợi thế của các nước đang phát triển nhằm
thu hút đầu tư của nước phát triển. Để tận dụng được lợi thế này, các nước đang phát triển
phải áp dụng chính sách kinh tế mới, thực hiện chính sách mở cửa với bên ngoài, tham gia
cạnh tranh quốc tế, sử dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật và dịch vụ quốc tế.
Để thấy được xu thế phát triển công nghiệp mới theo từng ngành cụ thể, nghiên cứu
của McKinsey dựa trên những đặc điểm chung về cầu sản phẩm đầu ra, nhu cầu các yếu tố
đầu vào (nhân lực, vốn, nguyên liệu…)… đã chia các ngành công nghiệp sản xuất thành 5
nhóm ngành công nghiệp toàn cầu như sau:
Nhóm ngành công nghiệp Đặc điểm Ngành công nghiệp
Công nghiệp nặng
Cạnh tranh dựa trên sáng tạo và
chất lượng, đòi hỏi nghiên cứu và
phát triển sâu
Hóa học
Một số thành phần được trao
đổi trên toàn cầu với nhiều khu
vực lắp ráp và sản xuất
Xe có động cơ, rơ mooc, phụ
tùng
Thiết bị vận tải khác
Máy móc thiết bị điện
Máy móc, thiết bị, dụng cụ
Khu vực chế biến/gia công
Mức độ thương mại thấp Cao su và các sản phẩm nhựa
Rất phức tạp và logistic tốn
kém Sản xuất sản phẩm từ kim loại
Yêu cầu mới và gần nơi có nhu
cầu cao
Thực phẩm, đồ uống và thuốc
lá
Tính tự động hóa cao, không
đòi hỏi nhiều về nghiên cứu và
sáng tạo
In ấn và xuất bản
Công nghiệp khai thác năng lượng/tài nguyên
Cung cấp hàng hóa đầu vào
cho các ngành khác
Sản xuất các sản phẩm gỗ
Xăng dầu, than, hạt nhân
Có năng lượng hoặc nguồn tài
nguyên dồi dào Giấy và bột giấy
Sản phẩm cạnh tranh, nguồn tài
nguyên đa dạng
Các sản phẩm từ khoáng sản
Các sản phẩm kim loại cơ bản
Công nghiệp sáng chế/sáng tạo
Cạnh tranh dựa trên nghiên cứu
và phát triển công nghệ tiên tiến Máy tính và thiết bị văn phòng
Có thể là sản phẩm cuối cùng
hoặc là đầu vào cho ngành công
nghiệp khác
Chất bán dẫn và điện tử
Y tế và quang học
Cường độ lao động cao (30-35
giờ trên 1000$ giá trị gia tăng) May mặc, da giày
1
2
3
4
5
Công ty Cổ phần Phát triển Giáo dục Hawking SĐT: 04.6253.1570 – Email: [email protected]
Website: www.hawking.edu.vn
Nhóm ngành công nghiệp Đặc điểm Ngành công nghiệp
Ngành thâm dụng lao động
Khả năng phơi nhiễm cao với
giá cả cạnh tranh
Đồ đạc, đồ trang sức, đồ chơi,
khác
Được giao dịch trên toàn thế
giới, nhu cầu thấp
Trong đó, nhóm ngành công nghiệp nặng và công nghiệp sáng chế/sáng tạo với đặc thù
là nhu cầu nhân lực chất lượng cao, vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại… nên đây là hai nhóm
ngành tập trung chủ yếu ở các nước tiên tiến phát triển như Mỹ, các nước khu vực châu Âu,
một số rất ít các nước ở khu vực châu Á như Nhật Bản hay Hàn Quốc.
Đối với nhóm ngành công nghiệp nặng, một số ngành như hóa học, sản xuất xe có
động cơ, đặc biệt là công nghiệp chế tạo máy bay… tiếp tục phát triển mạnh mẽ ở các nước
phát triển. Đây cũng là những ngành tạo ra nhiều giá trị nhất đối với nền kinh tế. Một số
ngành công nghiệp còn lại như sản xuất thiết bị, dụng cụ hay sản xuất các loại thiết bị vận
tải khác tạo ra giá trị thấp, đang có xu hướng được chuyển dần đến các nước kém phát triển
hơn.
Hiện nay, các công ty trong nhóm công nghiệp nặng đang phải thu hút nhiều kỹ sư và
công nhân lành nghề ở các khu vực để duy trì năng lực cạnh tranh. Họ dự kiến sẽ chỉ tuyển
dụng được những lao động như vậy trong ngắn hạn, đặc biệt ở Nhật Bản và các nền kinh tế đối
mặt với vấn đề già hóa dân số (lao động sẽ nghỉ hưu với quy mô lớn). Trong khi đó, đội ngũ
lao động tài năng trong các nền kinh tế đang phát triển ngày càng tăng. Châu Á cũng là một
trong những thị trường lao động tiềm năng sẽ bổ sung nhân lực cho nhóm nước công nghiệp
này. Một số lĩnh vực được dự báo sẽ thiếu lao động kỹ năng trầm trọng như: sản xuất thuốc,
sản xuất máy móc thiết bị tiêu chuẩn, sản xuất hóa chất (thuốc trừ sâu, thực phẩm, ngành nhựa)
và các ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất phụ tùng…
Đối với nhóm công nghiệp sáng chế/sáng tạo: Nhóm được tạo thành từ 3 ngành công
nghiệp: chất bán dẫn và thiết bị điện tử; y tế và thiết bị quang học; máy tính và thiết bị văn
phòng. Trong đó, tạo ra nhiều giá trị nhất là công nghiệp bán dẫn và thiết bị điện tử. Tạo ra
ít giá trị nhất là công nghiệp máy tính và thiết bị văn phòng. Nhóm này có mức độ thương
mại khá cao, đạt tới 55-90% tổng giá trị sản xuất, bao gồm cả để làm sản phẩm trung gian
hay sản phẩm cuối cùng. Theo truyền thống, nhóm công nghiệp sáng chế/sáng tạo này tập
trung ở các nền kinh tế tiên tiến như Apple và Hewlett_Packard tại Hoa Kỳ; Fujitsu, Hitachi
và Toshiba tại Nhật Bản; Ericsson, Nokia, Philips, Siemens ở Châu Âu. Một số các nước ở
Châu Á như Hàn Quốc hay Trung Quốc cũng có một số công ty khá mạnh sản xuất sản
phẩm thuộc nhóm này và thị phần cũng tăng khá nhanh thời gian qua. Tuy nhiên, các sản
phẩm cũng chỉ tập trung vào sản xuất thiết bị điện tử tiêu dùng và máy tính. Trong khi, các
nền kinh tế tiên tiến tiếp tục thống trị về y tế, các thiết bị quang học và xuất khẩu mạnh các
Công ty Cổ phần Phát triển Giáo dục Hawking SĐT: 04.6253.1570 – Email: [email protected]
Website: www.hawking.edu.vn
sản phẩm này.
Trong nhóm ngành công nghiệp này, chi phí lao động đóng góp khá quan trọng trong
khâu lắp ráp. Vì chi phí lao động ở Trung Quốc tăng nên các nước kém phát triển khác có
khả năng sẽ trở thành nước thay thế thu hút các công ty nước ngoài đến đầu tư. Việt Nam
vẫn tiếp tục là một quốc gia tiềm năng thu hút các công ty nước ngoài.
Giai đoạn 2015-2025, với việc chuyển nhượng mạnh mẽ một số ngành công nghiệp
sản xuất tới các nước kém phát triển hơn, sẽ là cơ hội cho khu vực ASEAN phát triển mạnh
mẽ và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ. Với đặc trưng là một trong những khu vực giàu có về tài nguyên thiên
nhiên, nguồn lao động dồi dào với giá nhân công rẻ, trình độ chuyên môn của người lao
động đang được nâng cao, nhóm ngành công nghiệp thâm dụng lao động và nhóm ngành
chế biến/chế tạo đang tập trung chủ yếu ở khu vực ASEAN.
Đối với nhóm công nghiệp chế biến: nhóm này có 4 ngành công nghiệp lớn: (i) thực phẩm,
đồ uống, thuốc lá; (ii) các sản phẩm được sản xuất từ kim loại; (iii) in ấn và xuất bản; (iv) các sản
phẩm từ cao su và nhựa. Trong đó, thực phẩm, đồ uống và thuốc lá tạo ra nhiều giá trị gia tăng
nhất, cũng như tạo ra nhiều việc làm nhất. Ngược lại, nhóm sản xuất sản phẩm từ nhựa và cao su
là tạo ra ít giá trị nhất cũng như tạo thêm ít việc làm nhất.
Nhóm này phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nhiên liệu và thị trường tiêu thụ. Các ngành
công nghiệp thuộc nhóm này, yêu cầu đổi mới công nghệ thấp và nhu cầu vốn cao. Mức độ
thương mại thấp, ví dụ thực phẩm và đồ uống được sản xuất ra phải tươi và đáp ứng nhu cầu/sở
thích của người dân địa phương đó. Hơn nữa, một số sản phẩm sản xuất từ kim loại đúc sẵn thì
tốn kém trong khâu vận chuyển và phức tạp trong logistic.
Nhóm ngành thâm dụng lao động: nhóm này được tạo thành từ các ngành công
nghiệp như dệt, may mặc, da; đồ nội thất, đồ trang sức, đồ chơi và hàng hóa khác. Trong số
này, dệt may và da là có giá trị gia tăng lớn nhất và tạo ra nhiều việc làm nhất.
Hầu hết các nước ở thời kỳ đầu phát triển đều hướng tới phát triển ngành dệt may, da
giày này như một cách đến tận dụng lợi thế về lao động và cũng là bước để chuyển đổi từ
nông thôn nông nghiệp sang công nghiệp. Hiện nay, nhóm ngành này đang tập trung chủ
yếu ở Mỹ Latinh và châu Á, đặc biệt là Trung Quốc.
Trong sự trỗi dậy của tự do hóa thương mại, chi phí lao động thấp đã trở thành một
yếu tố quan trọng hơn trong hầu hết các ngành thâm dụng lao động. Đó cũng là lý do mà
hầu hết các nền kinh tế tiên tiến đã mất đi thị phần của ngành này. Ngoài ra, các sản phẩm
có giá trị gia tăng cao cũng không phải nhất thiết đặt tại nơi được thiết kế ra hoặc tại thị
trường tiêu thụ chính. Chính vì thế, các công ty có thể đặt trụ sở tại nơi có chi phí nhân công
giá rẻ để tận dụng thời kỳ thương mại hóa toàn cầu này. Trung Quốc vẫn là nước thu hút
được nhiều dòng vốn đầu tư nước ngoài nhờ chi phí lao động tương đối thấp, vận chuyển
Công ty Cổ phần Phát triển Giáo dục Hawking SĐT: 04.6253.1570 – Email: [email protected]
Website: www.hawking.edu.vn
tốt và thị trường trong nước rộng lớn. Tuy nhiên, vấn đề chính trị trên Biển Đông và mong
muốn của nhà sản xuất đa dạng hóa địa điểm để giảm thiểu rủi ro chính trị và chuỗi cung
cấp được các công ty đẩy mạnh tìm kiếm địa điểm mới. Sản xuất và gia công quần áo đã
được chuyển đến Campuchia và Việt Nam và một số nước khác. Bên cạnh đó, một số quốc
gia như Nhật Bản cũng bày tỏ quan điểm rõ ràng sẽ giảm sự phụ thuộc của mình vào Trung
Quốc trong lĩnh vực dệt may.
Trong bối cảnh của cuộc Đại suy thoái, nền kinh tế toàn cầu đã bước vào một giai
đoạn mới với nhiều biến động và công ty sản xuất gặp rất nhiều khó khăn. Ngay cả khi nền
kinh tế toàn cầu phục hồi, sản xuất vẫn phải đối mặt với những thay đổi dài hạn về môi
trường, nhu cầu của người tiêu dùng, chi phí sản xuất tăng, thiếu hụt tài nguyên và tài năng,
sự lay lan của công nghệ mới và những tác động của chính sách Chính phủ để thúc đẩy và
hỗ trợ sản xuất trong nước.
Hiện nay, thiếu hụt lao động kỹ năng vẫn là một vấn đề lớn của các quốc gia. Trong một
cuộc khảo sát năm 2011, 26% người sử dụng lao động từ châu Âu, Trung Đông và các quốc gia
châu Phi báo cáo là họ có khó khăn trong tìm kiếm lao động có trình độ kỹ năng cao, đặc biệt
là kỹ thuật viên và kỹ sư; 80% các công ty của Nhật Bản cũng báo cáo vấn đề tương tự. Trong
cùng năm đó, khi tỷ lệ thất nghiệp của Hoa Kỳ vượt quá 9%, một cuộc khảo sát 2000 công ty
Mỹ cho thấy 30% của các công ty nói chung và 43% các công ty sản xuất không lấp được chỗ
làm việc trống trong vòng 6 tháng.
Dựa trên các xu hướng hiện tại, nghiên cứu của McKinsey ho thấy ở các nước có tốc
độ tăng trưởng nhanh chóng như Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ, công nhân lành nghề và
công nhân kỹ thuật bậc trung sẽ bị thiếu hụt lớn vào năm 2030. Ba trong số 5 loại lao động
tìm kiếm khó khăn nhất vào năm 2011 là kỹ thuật viên, lao động lành nghề và kỹ sư liên
quan trực tiếp đến sản xuất. Trong một số ngành công nghiệp thì lao động là động lực chính
để cạnh tranh. Điều này tạo cơ hội cho các nền kinh tế mới nổi sẽ là thị trường lao động
chính. Trong hai thập kỷ tới, sự phát triển của lực lượng lao động toàn cầu sẽ chậm lại, trong
nhiều nền kinh tế tiên tiến, sự tăng trưởng kinh tế sẽ không đáng kể. Một số nước như Nhật
Bản, lực lượng lao động dự đoán sẽ giảm do lão hóa và tỷ lệ sinh thấp. Tại Hoa Kỳ, công
nhân lớn tuổi (từ 55 tuổi trở lên) chiếm 40% lực lượng lao động trong sản xuất hóa chất
nông nghiệp, hơn 1/3 lực lượng lao động trong gốm và trong một số ngành sản xuất kim
loại và hơn ¼ của hàng không vũ trụ, động cơ, tua bin và thiết bị chế tạo chính xác. Bao
gồm cả công nhân ở nhóm 45-55 tuổi, số lượng lao động trung niên và lao động lớn tuổi
chiếm lần lượt 60% và 70% lao động trong các ngành công nghiệp.
Trong 20 năm tới, thị trường tài nguyên có khả năng sẽ thay đổi rất nhiều. Trên tất cả
các mặt hàng chủ lực, nhu cầu dự kiến tăng từ 30%-80% bởi việc bổ sung khoảng 1,8 tỷ
thành viên mới vào lớp tiêu thụ toàn cầu trong 15 năm tới, chủ yếu ở Châu Á. Đến năm
2030, nhu cầu về xe hơi toàn cầu dự kiến sẽ tăng gấp đôi, năng lượng dự kiến tăng 20%,
Công ty Cổ phần Phát triển Giáo dục Hawking SĐT: 04.6253.1570 – Email: [email protected]
Website: www.hawking.edu.vn
nhu cầu về cơ sở hạ tầng đô thị sẽ tăng cao.
* Cơ hội và thách thưc của Việt Nam để phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự
phát triển của công nghiệp đất nước thời gian tới
- Về cơ hội
Với việc tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do, sự hình thành cộng đồng
ASEAN, Việt Nam có cơ hội tham gia ngày càng nhiều hơn vào chuỗi giá trị gia tăng và
mạng phân phối toàn cầu, vào phân công lao động quốc tế và điều này sẽ tác động tích cực
đến thị trường lao động, đào tạo NNL trình độ cao ở các ngành/nghề cụ thể như sau:
+ Với việc tham gia hội nhập ASEAN, Việt Nam sẽ tham gia sản xuất và cung ứng
các sản phẩm thuộc 12 ngành ưu tiên bao gồm: 7 ngành sản xuất hàng hóa là nông sản, thủy
sản, sản phẩm cao su, sản phẩm gỗ, dệt may, điện tử, ô tô; 2 ngành dịch vụ là hàng không
và thương mại điện tử; và 3 ngành vừa hàng hóa vừa dịch vụ là y tế và công nghệ thông tin,
ngành hậu cần. Trong quá trình này, nguồn nhân lực Việt Nam sẽ được đào tạo và trải
nghiệm nhiều hơn, đầy đủ hơn, chất lượng nguồn nhân lực sẽ được nâng cao và tiến gần
hơn với chuẩn chất lượng nhân lực thế giới trong những ngành này.
+ Với việc tham gia ký kết hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Việt Nam
sẽ tham gia xuất khẩu các mặt hàng dệt may, nông sản và sản phẩm công nghệ sinh học hiện
đại, ngành khai khoáng (dầu khí, khoáng sản).
+ Theo dự báo của ILO&ADB trong báo cáo “Hội nhập AEC:…”: đến 2025”, Việt
Nam sẽ tăng thêm 6 triệu việc làm, hơn 50% thuộc ngành thương mại và vận tải, may mặc,
chế biến LTTP; Đồng thời, cũng theo dự báo này thì 10 nghề có nhu cầu lao động tăng cao
là: Thợ thủ công và các hoạt động liên quan, Lái xe tải, xe buyt; Nấu ăn; Dịch vụ KD; nhân
viên bán hàng, vận hành, chế biến thực phẩm, ngư dân, LĐ giản đơn khác. Nếu nắm bắt tốt
xu thế này để đào tạo nguồn nhân lực, Việt Nam sẽ tận dụng được cơ hội vàng nhằm nâng
cao năng suất và chất lượng lao động.
+ Bên cạnh tạo việc làm trong nước, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, các nước sẽ
có cơ hội đưa lao động chất lượng cao tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Tham gia hội nhập ASEAN, lao động chất lượng cao trong một số ngành của Việt Nam
cũng sẽ có nhiều cơ hội đi làm việc ở nước ngoài như: bác sĩ, điều dưỡng viên, kỹ sư, kiểm
toán, kiến trúc sư, nha sĩ, nhân viên vận chuyển và nhân viên ngành du lịch. Đây sẽ là cơ
hội tốt cho lao động nâng cao trình độ, tay nghề khi được tiếp xúc và làm việc ở môi trường
hiện đại, tiên tiến. Sau khi trở về nước, họ sẽ truyền đạt lại kinh nghiệm giúp nâng cao chất
lượng lao động trong nước.
- Về thách thưc
Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh các cơ hội do hội nhập mang lại, Việt
Nam cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức xuất phát từ điểm yếu của nền kinh tế và
thị trường lao động như: nguồn nhân lực Việt Nam sẽ bị cạnh tranh gay gắt trong các ngành
/nghề: (i) Nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia hoặc LĐKT (các vị trí được cấp
Công ty Cổ phần Phát triển Giáo dục Hawking SĐT: 04.6253.1570 – Email: [email protected]
Website: www.hawking.edu.vn
phép theo NĐ 102); (ii) tám lĩnh vực nghề được tự do di chuyển trong ASEAN: Kiểm toán,
kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, điều dưỡng viên, kỹ sư, nhân viên vận chuyển và nhân viên
ngành du lịch.
Đồng thời, do tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam còn thấp, đó là chưa kể đến
tình trạng thiếu các kỹ năng nghề, kỹ năng mềm, trình độ ngoại ngữ, tin học, tác phong làm
việc… sẽ làm tăng nguy cơ mất việc làm của lao động Việt Nam ở một số lĩnh vực như: (i)
lao động trong các doanh nghiệp và ngành có sức cạnh tranh thấp (doanh nghiệp nhỏ và
vừa, ngành chăn nuôi, ngành dệt may…,); (ii) Lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước
được bảo hộ nhiều sẽ có nguy cơ bị mất việc hàng loạt; (iii) lao động trong chuỗi cung ứng
hàng hóa dịch vụ bán buôn, bán lẻ (Trung tâm mua sắm, chợ, siêu thị …hướng vào bán
hàng nhập khẩu).
* Tác động của các xu thế phát triển công nghiệp tới việc chuyển dịch lao động từ
nông nghiệp sang công nghiệp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Những phân tích trên đây cho thấy rằng tham gia vào chuỗi giá trị và cung ứng toàn
cầu là điều tất yếu đối với mỗi quốc gia. Tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày
càng rõ nét. Tiến bộ khoa học và công nghệ, điển hình là công nghệ thông tin, công nghệ
chế tạo và tự động hóa, công nghệ sinh học,... và chuyển sang kinh tế tri thức, kinh tế
số/mạng đưa lại một khuôn mẫu phát triển kinh tế mới cho thế giới, làm thay đổi cơ bản tư
duy và chiến lược tăng trưởng hướng tới chất lượng cao hơn. Tuy nhiên, quá trình này lại
đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực cao hơn, cơ cấu ngành nghề đào tạo phù hợp hơn, linh
hoạt hơn.
Tính đến hết năm 2015, dân số Việt Nam đạt 91,7 triệu người và đang trong thời kỳ
“dân số vàng”. Lực lượng lao động Việt Nam là 53,98 triệu người Tỷ lệ lực lượng lao động
từ 15 tuổi trở lên không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 58%. Hàng năm trung bình có
khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể lực và tầm vóc của nguồn nhân
lực đã được cải thiện và từng bước được nâng cao. Lao động Việt Nam được đánh giá là
thông minh, khéo léo, cần cù.... Đây là những điều kiện khá tốt để việc chuyển dịch lao
động từ nông nghiệp sang công nghiệp nhanh chóng và đạt hiệu quả cao.
Để thực hiện có hiệu quả việc chuyển dịch, hai mục tiêu phát triển công nghiệp mà
Đảng và Chính phủ đã đề ra là:
(i) Đến năm 2025, công nghiệp Việt Nam phát triển với cơ cấu hợp lý theo ngành và
lãnh thổ, có khả năng cạnh tranh để phát triển trong hội nhập, có công nghệ hiện đại và
tham gia chuỗi giá trị toàn cầu ở một số chuyên ngành, lĩnh vực, có khả năng đáp ứng cơ
bản các yêu cầu của nền kinh tế và xuất khẩu; đội ngũ lao động có đủ trình độ đáp ứng nhu
cầu của nền sản xuất hiện đại.
(ii) Đến năm 2035, công nghiệp Việt Nam được phát triển với đa số các chuyên ngành
có công nghệ tiên tiến, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi
Công ty Cổ phần Phát triển Giáo dục Hawking SĐT: 04.6253.1570 – Email: [email protected]
Website: www.hawking.edu.vn
giá trị toàn cầu, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, cạnh tranh bình đẳng trong hội
nhập quốc tế; đội ngũ lao động chuyên nghiệp, có kỷ luật và có năng suất cao, chủ động
trong các khâu nghiên cứu, thiết kế, chế tạo.
Để đạt được các mục tiêu phát triển công nghiệp đã đề ra, nhằm thực hiện hiệu quả
chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực nên
được ưu tiên ở một số nhóm ngành chính sau:
Nhóm ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo, bao gồm các ngành/lĩnh vực nhỏ như: (i)
ngành Cơ khí và Luyện kim: giai đoạn đến năm 2025, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực và
phát triển các sản phẩm: máy móc thiết bị phục vụ nông nghiệp, ô tô và phụ tùng cơ khí,
thép chế tạo. Sau năm 2025, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực và phát triển các sản phẩm:
đóng tàu, kim loại màu và vật liệu mới; (ii) ngành hóa chất: giai đoạn đến năm 2025, ưu
tiên đào tạo nguồn nhân lực và phát triển các sản phẩm: hóa chất cơ bản, hóa dầu và sản
xuất linh kiện nhựa – cao su kỹ thuật; Giai đoạn sau 2025, ưu tiên phát triển nhóm ngành
hóa dược; (iii) ngành chế biến nông, lâm, thủy sản: giai đoạn đến năm 2025, ưu tiên đào tạo
nguồn nhân lực và phát triển các sản phẩm: nông sản, thủy sản chủ lực và chế biến gỗ phù
hợp với quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong quá
trình sản xuất, chế biến nông sản, xây dựng thương hiệu và sức cạnh tranh của nông sản
Việt Nam; (iv) ngành Dệt may, da giầy: giai đoạn đến năm 2025, ưu tiên đào tạo nguồn
nhân lực và phát triển các sản phẩm: phụ liệu phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu;
giai đoạn sau năm 2025, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực và phát triển các sản phẩm: quần
áo thời trang, giầy cao cấp.
Nhóm ngành Điện tử và Viễn thông: giai đoạn đến năm 2025, ưu tiên đào tạo nguồn
nhân lực và phát triển các sản phẩm: thiết bị máy tính, điện thoại và linh kiện. Giai đoạn
sau năm 2025, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực và phát triển các sản phẩm: phần mềm, nội
dung số, dịch vụ công nghệ thông tin và điện tử y tế.
Nhóm ngành Năng lượng mới và năng lượng tái tạo: giai đoạn đến năm 2025, thúc
đẩy phát triển các dạng năng lượng mới và tái tạo như gió, mặt trời, biomass; giai đoạn sau
2025, phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình, ưu tiên phát triển các dạng
năng lượng tái tạo như địa nhiệt, sóng biển…
2. Mục tiêu và những định hướng lớn về đào tạo nguồn nhân lực, nhất là đào tạo
nghề phục vụ sự phát triển công nghiệp đất nước giai đoạn 2016-2025
* Mục tiêu:
- Mục tiêu tổng quát: Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu về số lượng, cơ cấu và
trình độ nhân lực, đảm bảo yêu cầu nhân lực thực hiện thành công đường lối công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nhanh những ngành, lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế
Công ty Cổ phần Phát triển Giáo dục Hawking SĐT: 04.6253.1570 – Email: [email protected]
Website: www.hawking.edu.vn
so sánh quốc tế; đồng thời nêu ra các giải pháp phát triển nhân lực, hình thành đội ngũ nhân
lực chất lượng cao theo chuẩn khu vực và từng bước tiến tới chuẩn quốc tế
- Mục tiêu cụ thể:
+ Tăng nhanh tỷ lệ nhân lực qua đào tạo trong nền kinh tế dưới các hình thức, trình
độ khác nhau, đạt mức 70,0% năm 2020, trong đó tỷ lệ nhân lực qua đào tạo ngành đạt tới
92,0%.
+ Phát triển đồng bộ đội ngũ nhân lực với chất lượng ngày càng cao, đủ mạnh ở mọi lĩnh
vực, đồng thời tập trung ưu tiên những lĩnh vực Việt Nam có lợi thế cạnh tranh.
+ Xây dựng được đội ngũ giáo viên có chất lượng cao để đào tạo nhân lực có trình độ
cho đất nước.
* Những định hướng lớn về đào tạo nguồn nhân lực:
- Định hướng phát triển chung là chuyển mạnh mẽ đào tạo nguồn nhân lực từ mở
rộng quy mô sang nâng cao chất lượng. Đến năm 2020, đào tạo nguồn nhân lực nói chung
và dạy nghề nói riêng đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động cả về số lượng, chất
lượng, cơ cấu nghề và trình độ đào tạo; chất lượng đào tạo của một số nghề đạt trình độ các
nước phát triển trong khu vực ASEAN và trên thế giới; hình thành đội ngũ lao động lành
nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử
dụng lao động.
- Hoàn thiện thể chế, chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; đổi mới và phát
triển đào tạo nguồn nhân lực theo hướng cầu của thị trường lao động, gắn với chiến lược
phát triển KT-XH của cả nước và gắn với giải quyết nhu cầu việc làm của người lao động
ở trong nước và nhu cầu xuất khẩu lao động.
- Đổi mới và phát triển đào tạo nguồn nhân lực theo hướng chuẩn hóa, công nghiệp
hóa và hội nhập một cách toàn diện, đồng bộ từ mục tiêu đến nội dung chương trình, phương
pháp đào tạo, phương pháp đánh giá kết quả học tập và các điều kiện đảm bảo chất lượng
đào tạo khác; thực hiện sự công nhận, liên thông lẫn nhau giữa các trình độ đào tạo trong
đào tạo nghề và giữa đào tạo nghề với với các phân hệ giáo dục khác cũng như với các nước
trong khu vực và quốc tế.
- Lựa chọn lĩnh vực ưu tiên trong đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phù
hợp với mục tiêu phát triển công nghiệp thời gian tới.
- Đẩy mạnh đào tạo tại doanh nghiệp; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các
tổ chức, cá nhân và toàn xã hội, nhất là các doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp, cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ tham gia phát triển dạy nghề. Nhà nước bảo đảm thực hiện công
bằng xã hội về cơ hội học nghề thường xuyên và suốt đời cho mọi người, góp phần xây
dựng xã hội học tập ở Việt Nam trong những thập niên tới.
Công ty Cổ phần Phát triển Giáo dục Hawking SĐT: 04.6253.1570 – Email: [email protected]
Website: www.hawking.edu.vn
3. Những đề xuất mới về chính sách đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự phát
triển công nghiệp đất nước giai đoạn 2016-2025
Thư nhất, ban hành chính sách phát triển nguồn nhân lực cho các ngành công nghiệp,
đặc biệt chú trọng một số ngành công nghiệp ưu tiên đến năm 2025 như: cơ khí và luyện
kim, ngành hóa chất, ngành chế biến nông, lâm, thủy sản, ngành dệt may, da giầy, ngành
điện tử-viễn thông, ngành năng lượng mới và năng lượng tái tạo.
Hai là, đổi mới giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói
chung và nhân lực công nghiệp nói riêng. Trước mắt, cần tập trung vào một số nội dung sau
đây:
- Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng,
khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Tổ chức lại mạng lưới giáo dục đào
tạo, sắp xếp lại hệ thống giáo dục quốc dân cả ở quy mô đào tạo, cơ cấu ngành nghề, cơ sở đào
tạo, quy hoạch lại mạng lưới giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước, vùng, miền và địa phương.
- Đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình đào tạo ở bậc
đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự
nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, kỹ năng người học,
doanh nghiệp và xã hội cần, đảm bảo liên thông giữa các bậc học, cấp học, giữa giáo dục
nghề nghiệp và giáo dục đại học. Đa dạng hoá các phương thức đào tạo. Có cơ chế để tổ
chức, cá nhân người sử dụng lao động tham gia xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương
trình đào tạo và đánh giá năng lực người học.
- Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Cải cách mục tiêu,
nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin. Từng bước áp dụng kiểm định, đánh giá theo kết quả đầu ra của
giáo dục và đào tạo.
Đổi mới chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao chất lượng
nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào tạo. Đặc biệt chú trọng
việc tổ chức sắp xếp lại và hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các trường sư phạm trên
phạm vi cả nước.
Ba là, đổi mới và nâng cao chất lượng dạy nghề. Phát triển dạy nghề theo hướng
chuẩn hoá và hiện đại hóa; đổi mới, hiện đại hóa chương trình, nội dung đào tạo theo hướng
linh hoạt, nâng cao kỹ năng thực hành, năng lực tự tạo việc làm, năng lực thích ứng với
những biến đổi của công nghệ và thực tế sản xuất để tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo
chủ động gắn đào tạo với yêu cầu của sản xuất, tạo thuận lợi cho người học. Xác định rõ
ràng các lĩnh vực, ngành nghề hiện đang thiếu nhân công, thiếu người lao động có trình độ
chuyên môn cao; Tiêu chuẩn hóa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng kỹ năng,
Công ty Cổ phần Phát triển Giáo dục Hawking SĐT: 04.6253.1570 – Email: [email protected]
Website: www.hawking.edu.vn
với những chỉ tiêu chất lượng được quy định chặt chẽ; Khuyến khích phát triển tất cả các
hình thức đào tạo tập trung và phân tán, đào tạo kèm cặp tại chỗ, truyền nghề ở các cơ sở
sản xuất kinh doanh, gia đình truyền thống; Tổ chức đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng
nghề theo khung trình độ quốc gia.
Bốn là, chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
Xây dựng, thường xuyên cập nhật hệ thống pháp luật về phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không trái với thông lệ và
luật pháp quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam tham gia, ký kết, cam kết thực hiện.
Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây dựng nội dung,
chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo theo định hướng phù hợp chuẩn quốc tế và
đặc thù Việt Nam; tăng cường quan hệ liên thông chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục
và các ngành đào tạo của Việt Nam và quốc tế; thực hiên công nhận lẫn nhau chương trình đào
tạo giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo của Việt Nam và của thế giới; thỏa thuận về việc công
nhận văn bằng, chứng chỉ đào tạo giữa Việt Nam với các nước.
Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh giá và quản lý chất
lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào tạo đại học, sau đại học
và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại học Việt
Nam và thế giới.
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài
năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quá trình
đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học
Việt Nam.
Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước và huy động các nguồn
lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng một số trường đại học, cao đẳng và
dạy nghề đạt chuẩn quốc tế. Thu hút các trường đại học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế vào
Việt Nam hoạt động.
Tăng cường dạy và bồi dưỡng ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh), văn hoá thế giới, kỹ
năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh quốc tế cho người Việt Nam.
Năm là, bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực
Ngân sách Nhà nước là nguồn lực chủ yếu để phát triển nhân lực quốc gia đến năm
2020. Tăng đầu tư phát triển nhân lực cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng nguồn
vốn đầu tư toàn xã hội. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách Nhà nước theo hướng
tập trung chi để thực hiện các chương trình, nhiệm vụ, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên
và thực hiện công bằng xã hội (hỗ trợ đào tạo, phát triển nhân lực ở các vùng sâu, vùng xa,
cho các đối tượng là người dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách,…). Nghiên cứu đổi mới
cơ chế phân bổ và hỗ trợ bằng ngân sách Nhà nước cho phát triển nhân lực từ hỗ trợ cho
Công ty Cổ phần Phát triển Giáo dục Hawking SĐT: 04.6253.1570 – Email: [email protected]
Website: www.hawking.edu.vn
các đơn vị cung ứng sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng và bảo đảm công bằng
giữa các cơ sở công lập và ngoài công lập.
Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân lực.
Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người dân đầu tư và đóng
góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục,
đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể thao; Góp vốn, mua công trái, hình thành các quỹ
hỗ trợ phát triển nhân lực. Cần quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với sự phát triển
nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế, chính sách mạnh để doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế tăng đầu tư phát triển nhân lực nói chung và đào tạo, bồi dưỡng, dạy
nghề nói riêng. Mở rộng các hình thức tín dụng ưu đãi cho các cơ sở giáo dục, đào tạo và
cho học sinh, sinh viên để học nghề, học đại học, cao đẳng, hỗ trợ người lao động học tập
bồi dưỡng nâng cao trình độ.
Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát triển
nhân lực Việt Nam; sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực
(ODA); thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài cho phát triển nhân lực (đầu tư trực tiếp
xây dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao..).
Tài liệu tham khảo
1. Manufacturing the future: The next era of global growth and innovation,
McKinsey&Company, November 2012.
2. https://www.nist.gov/sites/default/files/documents/mep/data/Manufacturing-
the-Future.pdf.
3. Chiến lược hội nhập lao động và xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội,
2015.
4. Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 2015-2020 đáp ứng yêu cầu đảy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
5. Quyết định số 879/QĐ-TTg của thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát
triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035.
6. Quyết định số 1216/QĐ-TTg về phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt
Nam giai đoạn 2011-2020.
7. Báo cáo tổng kết 30 năm đổi mới lĩnh vực dạy nghề, Tổng Cục dạy nghề, 2014.