nghỆ thuẬt tƯỢng trƯng · 2020-02-20 · trong việc lý giải và đôi chỗ còn chưa...
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
VÕ NHƯ NGỌC
NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG
TRONG SÁNG TÁC CỦA TRƯỜNG THƠ LOẠN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
HUẾ - NĂM 2016
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
VÕ NHƯ NGỌC
NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG
TRONG SÁNG TÁC CỦA TRƯỜNG THƠ LOẠN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 01 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS HỒ THẾ HÀ
2. TS NGUYỄN THANH SƠN
HUẾ - NĂM 2016
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS. TS Hồ Thế Hà, TS Nguyễn
Thanh Sơn đã tận tình hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu giúp
tôi hoàn thành luận án.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Quy
Nhơn, Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn Trường Đại học Quy Nhơn; lãnh
đạo Khoa Ngữ văn, Phòng Sau Đại học Trường Đại học Khoa học, Đại
học Huế đã quan tâm, tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
thực hiện luận án.
Xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, quý thầy cô, bạn
bè, đồng nghiệp, những người luôn động viên, khuyến khích, giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian thực hiện luận án.
Tác giả luận án
Võ Như Ngọc
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được
ai công bố trên bất kì công trình nào.
Huế, tháng 12 năm 2016
Tác giả luận án
Võ Như Ngọc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................................. 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 2
3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu ................................................................. 3
4. Đóng góp mới của luận án ............................................................................................. 5
5. Cấu trúc luận án ............................................................................................................. 5
NỘI DUNG ........................................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................................. 6
1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................................ 6
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn trước 1945 ......................... 6
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn từ 1945 đến 1975 .............. 10
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn từ 1975 đến nay ................ 13
1.2. Nhận xét tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài ........................................ 22
1.2.1. Nhận xét tình hình nghiên cứu ........................................................................... 22
1.2.2. Hướng triển khai đề tài ...................................................................................... 23
CHƯƠNG 2. TRƯỜNG THƠ LOẠN TRONG NGUỒN TƯỢNG TRƯNG THƠ MỚI . 25
2.1. Thơ mới và quá trình tiếp nhận chủ nghĩa tượng trưng ............................................ 25
2.1.1. Thơ mới - cuộc cách mạng thi ca vĩ đại ............................................................. 25
2.1.2. Quá trình tiếp nhận chủ nghĩa tượng trưng của Thơ mới .................................. 31
2.2. Trường thơ Loạn và những dòng tượng trưng Thơ mới ........................................... 38
2.2.1. Không gian văn hóa của Trường thơ Loạn ........................................................ 38
2.2.2. Trường thơ Loạn - chi lưu tượng trưng Thơ mới ............................................... 44
2.3. Quan niệm nghệ thuật của Trường thơ Loạn ............................................................ 50
2.3.1. “Làm thơ là làm sự phi thường” ........................................................................ 50
2.3.2. “Thơ là hoa trái của đau thương và sắc màu hoan lạc” ..................................... 57
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG TRONG SÁNG TÁC CỦA TRƯỜNG
THƠ LOẠN - NHÌN TỪ THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG VÀ BIỂU TƯỢNG ........................... 64
3.1. Hình tượng cái tôi trữ tình ........................................................................................ 64
3.1.1. Cái tôi gắn kết thi nhân và tín đồ ....................................................................... 64
3.1.2. Cái tôi đối cực trần thế và siêu nhiên ................................................................. 70
3.2. Hình tượng không gian và thời gian ......................................................................... 75
3.2.1. Không gian - những khung trời ảo diệu ............................................................. 75
3.2.2. Thời gian - những chiều kích vô biên ................................................................ 81
3.3. Những biểu tượng đặc sắc ........................................................................................ 87
3.3.1. Trăng, Hồn, Máu ................................................................................................ 88
3.3.2. Hoa, Nhạc, Hương ............................................................................................. 96
CHƯƠNG 4. NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG TRONG SÁNG TÁC CỦA .......... 103
TRƯỜNG THƠ LOẠN - NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN .......................... 103
4.1. Ngôn từ nghệ thuật ................................................................................................. 103
4.1.1. Sự lạ hóa về ngôn từ ........................................................................................ 103
4.1.2. Các thủ pháp tạo nghĩa ..................................................................................... 108
4.2. Nhạc tính và họa tính .............................................................................................. 114
4.2.1. Nhạc tính .......................................................................................................... 114
4.2.2. Họa tính ............................................................................................................ 121
4.3. Giọng điệu và nghệ thuật tương hợp ...................................................................... 128
4.3.1. Giọng điệu ........................................................................................................ 128
4.3.2. Nghệ thuật tương hợp ...................................................................................... 134
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 142
NHỮNG CÔNG TÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐỀ TÀI ..................... 145
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 147
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Với sự công phá mạnh mẽ vào thành trì thơ cũ, phong trào Thơ mới
(1930 - 1945) khép lại dòng văn học mang đậm chất quy phạm và chuẩn mực, đưa
tiến trình thơ Việt Nam vào quỹ đạo của văn học thế giới. Tuy nhiên, từ khi có một
lối thơ trình chánh giữa làng thơ đến nay, Thơ mới phải trải qua một cuộc hành
trình vinh quang và đau khổ. Song, vượt lên tất cả, nó vẫn khẳng định vị trí vững
chắc trong nền văn học dân tộc. Một thời đại trong thi ca ấy khắc ghi vào lịch sử
văn chương Việt mốc son rạng ngời với những tên tuổi tài danh: Thế Lữ, Huy Cận,
Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Tế Hanh, Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Vũ
Đình Liên, Đoàn Phú Tứ, Vũ Hoàng Chương... Họ sáng tác nhiều bài thơ hay, đem
đến một phạm trù thơ hiện đại, một hệ thi pháp mới thay thế thơ trữ tình cổ điển có
tự ngàn năm.
1.2. Nếu nói Thơ mới mở ra một cuộc cách mạng trong thi ca, thì có thể xem
Trường thơ Loạn là hiện tượng độc đáo và bí ẩn nhất của phong trào Thơ mới. Khởi
nguồn của trường thơ này chính là nhóm thơ Bình Định (còn gọi là Bàn thành tứ
hữu hay nhóm Tứ linh: Long, Lân, Quy, Phụng, ứng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan,
Quách Tấn và Chế Lan Viên). Nhóm thơ Bình Định sau này có sự phân hóa về
khuynh hướng sáng tác. Cuối năm 1936, từ sự phân hóa này, Hàn Mặc Tử cùng Chế
Lan Viên chủ trương thành lập Trường thơ Loạn. Từ sau 1938, Trường thơ Loạn
phát triển và kết nạp thêm những thành viên: Bích Khê, Hoàng Diệp, Quỳnh Dao,
tôn vinh Hàn Mặc Tử làm chủ soái. Bỏ qua những yếu tố sáo mòn, lỗi thời của văn
học truyền thống, vượt lên khỏi giới hạn Thơ mới để tiếp biến văn hóa, văn học hiện
đại phương Tây, nhất là chủ nghĩa tượng trương Pháp, các thi sĩ thơ Loạn tạo nên
một dấu ấn phong cách riêng, một quan niệm riêng, một miền đề tài riêng độc đáo
và bí ẩn, đưa người đọc đến những tầng bậc cảm nhận sâu thẳm.
Dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng dòng thơ ấy đã băng qua bầu trời
thi ca Việt Nam như vừng sáng huy hoàng, vừa rực rỡ vừa kinh dị, báo hiệu sự phát
triển và phá cách của thơ ca hiện đại.
2
1.3. Trải qua ba phần tư thế kỷ, đến nay Trường thơ Loạn vẫn là hiện tượng
văn học đầy ám gợi với những vần thơ trùng điệp lớp tầng, thách thức bao người
khám phá, giải mã. Điều đó cho thấy sức hấp dẫn khó cưỡng lại của tổ chức thi ca
này. Các tác giả thơ Loạn đã được nghiên cứu trên nhiều phương diện: phong cách
học, thi pháp học, phân tâm học, văn hóa học... Dù vậy, những băn khoăn, hoài nghi
về trường thơ lạ lẫm này vẫn còn đó. Các thi nhân như vẫn còn ẩn sâu trong thế giới
đầy khói sương, huyền hoặc của mình. Không ít người nhìn vào Trường thơ Loạn
với đôi mắt ngỡ ngàng, ngạc nhiên cùng những xung lực trái chiều trong cách nhìn
nhận, đánh giá. Một giai đoạn rất dài, những vần thơ tài hoa từ những tài năng yểu
mệnh này bị định kiến là suy đồi, bế tắc, mang nặng chủ nghĩa cá nhân. Dưới ánh
sáng của những quan điểm cởi mở hơn, Trường thơ Loạn dần được trả lại công
bằng. Thơ Loạn được xem xét trong sự vận động nội tại, thống nhất, hài hòa giữa
nội dung và hình thức, được thừa nhận như một sự cách tân đầy đột phá, có sức
vang vọng lớn đến thơ ca sau này. Tuy nhiên, đó mới là những bước đi ban đầu
trong việc lý giải và đôi chỗ còn chưa thỏa đáng. Đặc biệt, nghệ thuật tượng trưng
trong sáng tác của Trường thơ Loạn là một trong những vấn đề còn bỏ ngỏ, đang
chờ tay người đánh thức. Mĩ học và thực tiễn nghệ thuật của chủ nghĩa tượng trưng
phương Tây, đặc biệt là thơ tượng trưng Pháp với những thi sĩ thiên tài như
Baudelaire, Verlaine, Rimbaud, Mallarmée, Valéry đã khai mở những cách tân
trong phong trào Thơ mới Việt Nam, tiêu biểu là thi phẩm của những đỉnh cao thơ
Loạn. Vì lẽ đó, nhu cầu tìm hiểu Trường thơ Loạn một cách sâu sắc, đặt nó trong
tiến trình chung của Thơ mới để lý giải khách quan, chỉ ra giá trị trong tính toàn
vẹn, bao quát và chỉnh thể của thi pháp tượng trưng, thiết nghĩ là “hành trình thám
mã” cần thiết và cấp bách.
Luận án của chúng tôi cố gắng đáp ứng những yêu cầu đó, chỉ ra thế giới
nghệ thuật độc đáo, quan niệm thơ mới lạ và những cách tân về nghệ thuật, từ đó
chứng minh các thi sĩ thơ Loạn là những nhà thơ lớn và có nhiều đóng góp cho nền
văn học nước nhà.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Theo nhiều tư liệu đã được công bố, Trường thơ Loạn có sáu thành viên:
3
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Yến Lan, Hoàng Diệp, Quỳnh Dao. Tuy
nhiên, trong phạm vi đề tài, chúng tôi chủ yếu khảo sát các thi phẩm của ba nhà thơ
nổi bật và khá thống nhất, gần gũi nhau về nhiều mặt: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên
và Bích Khê. Đây là ba thi sĩ trụ cột trung thành, đi suốt hành trình thơ và đời với
tuyên ngôn tượng trưng, làm nên đặc sắc của Trường thơ Loạn thời tiền chiến.
Dù Trường thơ Loạn được thành lập vào năm 1936 với nòng cốt là ba thành
viên vừa kể trên, nhưng ngoài những bài thơ mang phong cách Đường thi, những thi
phẩm còn lại của ba tác giả thơ Loạn được sáng tác trước 1945 đều là đối tượng
chúng tôi nghiên cứu, vì những thi phẩm ấy hầu hết mang hơi hướng Loạn. Ngoài
ra, tác phẩm văn xuôi, tiểu luận, phê bình, tạp văn của các tác giả thơ Loạn cũng
được xem là tài liệu tham khảo quan trọng, soi sáng nhiều vấn đề trong quá trình
nghiên cứu.
Qua việc nghiên cứu nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ
Loạn một cách có hệ thống, phạm vi của luận án sẽ đi sâu nghiên cứu những điểm
đặc sắc về nội dung và hình thức biểu hiện của chúng ở những giá trị nổi bật về
ngôn từ nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật, biểu tượng nghệ
thuật, nhạc tính và họa tính, các biện pháp tu từ… độc đáo của trường thơ này trong
tính tương quan với nghệ thuật tượng trưng.
3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý thuyết: Luận án soi chiếu mỹ học của trường phái thơ tượng trưng
phương Tây vào sáng tác của Trường thơ Loạn. Bằng quan niệm mới về nghệ thuật,
thi phái tượng trưng đã tìm được tiếng đồng vọng và mở ra một thế giới trong tư
duy của các nhà thơ mới nói chung, Trường thơ Loạn nói riêng, góp phần hiện đại
hóa thơ ca dân tộc, đưa thơ Việt lên một tầm cao mới.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong luận án, chúng tôi sử dụng các phương
pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp văn học sử: Nghiên cứu trường phái thơ cụ thể nhưng chúng
tôi không tách rời, biệt lập mà đặt trong mối quan hệ với trào lưu cùng thời. Vì văn
học là một quá trình lịch sử - hiện thực, một quá trình lịch sử - sáng tạo, cho nên
mỗi hiện tượng văn học thường có định hướng của cả phong trào. Tìm hiểu Nghệ
4
thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn, chúng tôi đặt trong mối
quan hệ giữa các tác giả và trào lưu, tác phẩm và thời đại…
- Phương pháp vận dụng lý thuyết thi pháp học: Luận án sẽ khảo sát tần số
xuất hiện hệ thống hình tượng trở đi trở lại như ám ảnh nghệ thuật trong thi phẩm
thơ Loạn, và hệ thống các phương thức, phương tiện cấu thành chỉnh thể nghệ thuật
đó; mặt khác hình dung về mối quan hệ chủ nghĩa tượng trưng và Trường thơ Loạn.
- Phương pháp thống kê - phân loại: Dùng để khảo sát, thống kê nguồn tư
liệu theo những vấn đề chi tiết: tần số xuất hiện, hệ thống phương thức, phương tiện
biểu hiện... Từ đó phân loại để thấy được những nét riêng và mô hình riêng ổn định
của từng yếu tố cấu thành chỉnh thể nghệ thuật của Trường thơ Loạn trong tương
quan với nghệ thuật tượng trưng.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: Dùng đối chiếu các nhà thơ Loạn trong
tương quan với tổ chức thi ca và các nhà thơ cùng thời, soi sáng những nét độc đáo
về phong cách thơ. So sánh, đối chiếu cũng là cách chỉ ra ảnh hưởng của các trường
phái văn học phương Tây, nhất là ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đến thế giới
nghệ thuật của Trường thơ Loạn.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Sử dụng phương pháp này, chúng tôi
phân tích để làm sáng tỏ từng luận điểm. Từ những luận điểm đó, tổng hợp, khái
quát thành những đặc điểm cơ bản trong sáng tác của Trường thơ Loạn.
Ngoài ra, trong luận án, chúng tôi còn vận dụng những yếu tố hỗ trợ của các
thao tác nghiên cứu văn học, như: phê bình văn học, ngôn ngữ học... để thấy nét đặc
sắc của nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác Trường thơ Loạn so với các tác giả và
trào lưu văn học khác.
Trên đây là những hướng nghiên cứu cơ bản được sử dụng trong toàn bộ
luận án. Tuy vậy, chúng tôi quan niệm, mỗi phương pháp nghiên cứu nói trên không
thể rạch ròi, tách biệt mà có thể tiếp cận được chân lý. Vì thế, trong quá trình thực
hiện, chúng tôi cố gắng cùng lúc kết hợp nhiều phương pháp để giải quyết vấn đề
một cách tối ưu và hiệu quả nhất.
5
4. Đóng góp mới của luận án
Thơ Loạn là hiện tượng thơ ca độc đáo của phong trào Thơ mới. Đã có
những công trình quan tâm nghiên cứu Trường thơ Loạn trên nhiều phương diện,
góc độ khác nhau, trong đó có một số bài viết đặt trong so sánh với nghệ thuật
tượng trưng. Tuy nhiên, đây là những bài viết ngắn, đề cập từng yếu tố cụ thể của
từng tác phẩm, tác giả, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện. Luận án của
chúng tôi là công trình chuyên biệt đầu tiên đi vào tìm hiểu, nghiên cứu nghệ thuật
tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn.
Luận án đóng góp vào việc hệ thống hóa và khái quát hóa phong cách thơ
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, những người thể nghiệm và thiết kế mô
hình thơ hiện đại, làm nên một trường thơ nổi bật của phong trào Thơ mới.
Luận án chứng minh sự gặp gỡ giữa Trường thơ Loạn với thi phái tượng
trưng phương Tây để hình thành một khuynh hướng, một tuyên ngôn nghệ thuật
riêng biệt có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chính sự tiếp thu và tiếp biến nghệ thuật
thơ tượng trưng phương Tây của Trường thơ Loạn đã mở rộng biên độ và nội hàm
cho Thơ mới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cỗ xe văn học Việt Nam lăn nhanh trên
con đường hiện đại hóa, tiến vào quỹ đạo của thơ ca thế giới.
Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên Ngữ văn các
trường phổ thông, sinh viên Khoa Ngữ văn các trường đại học, cao đẳng, cũng như
phổ biến rộng rãi đến độc giả yêu thích văn học.
5. Cấu trúc luận án
Ngoài các phần: Mở đầu (5 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham khảo (6
trang), Nội dung luận án được triển khai theo 4 chương:
- Chương 1: Tổng quan lịch sử nghiên cứu đề tài (19 trang).
- Chương 2. Trường thơ Loạn trong nguồn tượng trưng Thơ mới (39 trang).
- Chương 3. Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn -
nhìn từ thế giới hình tượng và biểu tượng (39 trang).
- Chương 4. Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn -
nhìn từ phương thức biểu hiện (39 trang).
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ngay khi mới xuất hiện trên thi đàn, các thi sĩ thơ Loạn lập tức nổi lên trong
nền thơ ca Việt Nam như là một trong những hiện tượng thơ mang tầm thời đại. Với
những cách tân thơ rõ rệt, những thi phẩm của Trường thơ Loạn đã vượt ra ngoài
khuôn khổ, thoát khỏi biên độ của cái thông thường, thổi vào thơ Việt Nam đầu thế
kỷ XX một luồng gió mới, góp phần quan trọng vào quá trình hiện đại hóa văn học
dân tộc. Điều này khiến cho người yêu thơ phải khâm phục, ngạc nhiên và các nhà
nghiên cứu văn học phải ngẫm nghĩ về tài năng nghệ thuật của họ. Càng ngày,
Trường thơ Loạn càng được độc giả quan tâm yêu thích. Sáng tác của Trường thơ
Loạn, vì vậy, trở thành đối tượng hướng tới của rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình
bằng những phương pháp khoa học mới mẻ. Các công trình nghiên cứu về thơ Loạn
được tiếp cận ở nhiều khía cạnh. Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, góc độ nghiên
cứu khác nhau, các nhà nghiên cứu mải miết kiếm tìm và khám phá được nhiều giá
trị trong sáng tác của Trường thơ Loạn, khẳng định được tầm vóc, vị trí, vai trò của
các nhà thơ trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn trước 1945
Từ những ngày phôi thai của phong trào Thơ mới, cuộc tranh luận, bút chiến
giữa nội hàm Thơ mới và thơ cũ, giữa phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” và phái “nghệ
thuật vị nhân sinh” diễn ra rầm rộ trên các báo: Phong hóa, Tri tân, Ngày nay, Hà
Nội báo, Phụ nữ tân văn, Tiểu thuyết thứ bảy… Nằm trong mạch nguồn Thơ mới,
nhưng phản xạ của dư luận văn nghệ đương thời về Trường thơ Loạn lại khá mờ
nhạt, có chăng là những bài viết nhỏ lẻ về từng thi sĩ của trường thơ. Điều này một
phần vì Trường thơ Loạn không có cơ quan ngôn luận nào cổ vũ nên sáng tác của
họ lúc bấy giờ không gây được tiếng vang. Từ những điểm nhìn khác nhau, văn
giới, bạn đọc giải mã “ẩn số” thơ Loạn với không ít tranh cãi, bất đồng. Bằng hướng
tiếp cận có phần định kiến, nhiều người phủ nhận gay gắt các tác giả thơ Loạn.
Chính Xuân Diệu sau khi tuyên bố: “Hàn Mặc Tử không phải hạng chân thi sĩ” đã
hạ bệ Trường thơ Loạn xuống thành những rên siết của xác thân bệnh hoạn, xem đó
7
như biểu hiện của một thứ suy đồi: “Hãy so sánh thái độ can đảm kia với những
cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: Tôi
điên đây!... Tôi điên đây!... Điên cũng không dễ như người ta tưởng đâu! Nếu
không biết điên tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà lặng yên sống” [14,10].
Đầu năm 1938, trên báo Ích hữu, Trương Tửu có bài “Quan niệm về thơ
Chế Lan Viên”. Ở bài viết này, một mặt Trương Tửu thừa nhận, nhờ vào “nghệ
thuật tài hoa” và “trực giác linh mẫn”, Chế Lan Viên “đã hồi sinh được cả một cái
đã mất”. Mặt khác, Trương Tửu nhận định thơ tập Điêu tàn là một “trạng thái kì dị
của tâm hồn”, từ trạng thái kì dị ấy, Chế Lan Viên hình thành một quan niệm sai
lầm và nguy hiểm. Ông công kích việc tác giả lý thuyết hóa cái điên, cái mê của
mình trong bài tựa của tập Điêu tàn, bài tựa được Trường thơ Loạn coi như tuyên
ngôn thơ của mình: “Chế Lan Viên đã khách quan hóa cái chủ thể của ông. Nên ông
lầm. Vì thi sĩ bao giờ cũng có khuynh hướng chủ quan hóa cái khách thể của sự vật.
Ông đã rời bỏ khuynh hướng ấy. Ông đã phản cái bản tính thiên bẩm của mình. Ông
có tội với Nàng Thơ” [96,15].
Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới những đàm đạo sôi nổi từ các thi hữu
của Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử xem thơ Bích Khê là “một bông hoa lạ nở
hương, một thứ hương quý trọng thơm đủ mọi mùi phước lộc. Ta có thể so sánh
văn, thơ Bích Khê như đóa hoa thần dị ấy”. Hàn còn gọi Bích Khê là “thi sĩ thần
linh” bởi thơ Bích Khê vừa “nhuộm đầy màu sắc của các thi gia đời Đường”, vừa
“nhuộm đầy máu huyết Baudelaire”. Hàn khẳng định thơ Bích Khê gồm ba tính
cách khác nhau: tượng trưng, huyền diệu, trụy lạc, trong đó tượng trưng được coi là
quan trọng nhất. Ở khu vực thơ tượng trưng, Hàn nhận thấy “Thi sĩ Bích Khê là
người có đôi mắt rất thơ, rất mộng, rất ảo” [95,133]. Đây chính là bài viết đầu tiên
giới thiệu thơ Bích Khê với độc giả đương thời. Đánh giá về Chế Lan Viên, Nguyễn
Vỹ cho rằng thơ Chế nhiều bài cảm động, độc đáo: “Tập Điêu tàn của anh còn để
lại một chiếc bóng trong văn học sử Việt Nam, giống như những tháp Chàm trên đất
nước Đồ Bàn, còn văng vẳng tiếng nức nở nghìn thu Chiêm nữ hận” [45,28]. Trên
báo Người mới, Chế Lan Viên nói về người bạn thơ Hàn Mặc Tử: “… Mai sau, tôi
xin hứa hẹn với các người rằng, những cái tầm thường mực thước kia sẽ biến tan đi,
và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử” [97,9]… Những
nhận định ưu ái này có thể chưa hoàn toàn thuyết phục được công chúng, nhưng ít
ra cũng khai mở một hướng tiếp cận, khiến những người yêu sáng tác của các tác
giả thơ Loạn tiêu tốn bao giấy mực để lần tìm đến địa hạt thơ bí ẩn này.
8
Năm 1941, Trần Thanh Mại hoàn thành tập sách: Hàn Mặc Tử - thân thế và
thi văn, công trình chuyên khảo đầu tiên về thơ Hàn. Công trình này, tác giả đi sâu
vào đời tư và tìm ra được những ảnh hưởng trầm tích văn hóa và vẻ đẹp tự nhiên
của quê hương Bình Định góp phần hun đúc và thai nghén thơ Hàn. Cũng như Xuân
Diệu, ban đầu Trần Thanh Mại mỉa mai, công kích Hàn Mặc Tử khi nói về âm
hưởng thơ tượng trưng trong sáng tác của Hàn: “điên hẳn… còn dễ chịu hơn là
những anh chàng cố tình đi vào lối thơ tượng trưng… để vừa che đậy cái dốt của
mình, vừa lòe đời bằng một cách lường gạt có tổ chức”. Nhưng sau đó, tác giả nhìn
nhận: “Tôi quả đã vô duyên với thơ Hàn Mặc Tử”, và đánh giá: “Hàn Mặc Tử là
người đầu tiên ở thế kỷ XX mở ra một cuộc cải cách lớn cho văn chương Việt Nam
thành công một cách vinh quang, rực rỡ”… Thậm chí, khi so sánh với Baudelaire,
Edgar Poe và thơ tượng trưng, ông kết luận: “Thiên tài của Hàn Mặc Tử cao hơn tất
cả các thiên tài trên thế giới” [53,55]. Dù tồn tại nhiều tranh cãi, nhưng phải thừa
nhận, đây là công trình nghiên cứu bài bản “bằng những phương pháp xưa nay chưa
từng có trong lịch sử văn học Việt Nam” [60,25]. Việc công trình của Trần Thanh
Mại giới thiệu trang trọng Hàn Mặc Tử đã gợi mở cho các nhà phê bình sau này một
thông điệp quan trọng trong quá trình khảo cứu, giúp những người yêu văn học dấn
thân vào công cuộc khám phá thế giới thơ Hàn, đưa nhà thơ đến rộng khắp công
chúng, nhất là lúc bấy giờ độc giả chưa biết nhiều về thi sĩ. Một năm sau, Vũ Ngọc
Phan cũng đưa tên tuổi Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên vào Nhà văn hiện đại và tìm
ra con đường tiếp cận riêng khi so sánh: “Chế Lan Viên, trái lại không cứng cáp
chút nào. Thơ ông toàn là những tiếng khóc than; ông tả rặt những cái u sầu, ông có
giống Hàn Mặc Tử thì chỉ giống ở chỗ hay nhắc đến linh hồn chứ cái sầu của ông là
cái sầu não nùng, thê thảm, cái sầu bát ngát, khó khuây. Thật là thứ sầu vong quốc -
thứ sầu của dân tộc Chiêm Thành tuy ông không cùng dòng máu với họ” [68,702].
Công phu nhất là các bài viết của Hoài Thanh - Hoài Chân trong Thi nhân
Việt Nam. Tác phẩm tổng kết thành quả của phong trào Thơ mới với 45 nhà thơ tiêu
biểu mà theo Hoài Thanh “không nhiều thì ít, ở mức độ đậm nhạt khác nhau, đều bị
ám ảnh bởi Baudelaire, người đã khơi nguồn thơ ấy (tức thơ tượng trưng - VNN)”.
Cùng với các tên tuổi đương thời khác, Hoài Thanh giới thiệu, đánh giá các nhà thơ
chủ chốt của vương quốc thơ Loạn: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Yến
Lan. Và cũng ở đây, lần đầu tiên cái tên Trường thơ Loạn được một nhà phê bình
9
văn học nhắc đến: “Trái hẳn với lối thơ tả chân, có lối thơ Hàn Mặc Tử - Chế Lan
Viên. Cả hai đều chịu rất nặng ảnh hưởng của Baudelaire và qua Baudelaire, ảnh
hưởng nhà văn Mỹ Edgar Poe, tác giả Chuyện lạ. Có khác chăng là Chế Lan Viên
đã đi từ Baudelaire, Edgar Poe đến thơ Đường, mà Hàn Mặc Tử đã đi ngược lại, từ
thơ Đường đến Baudelaire, Edgar Poe và đi thêm một đoạn nữa cho gặp kinh thánh
của đạo Thiên chúa. Cả hai đều cai trị Trường thơ Loạn và chiêu tập một số đồ đệ là
Hoàng Diệp, Quỳnh Dao, Xuân Khai (tức Yến Lan - VNN). Tôi vừa nói Chế Lan
Viên đi về thơ Đường. Nếu nói đi đến thơ tượng trưng của Pháp có lẽ đúng hơn, tuy
hai lối này có chỗ giống nhau. Điều này cũng thấy rất rõ ở các tác phẩm của một
người rất gần Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử: Bích Khê”. Tiếp cận thơ Loạn theo lối
phê bình ấn tượng, tác giả Thi nhân Việt Nam thẩm bình, kết tinh sáng tác của họ
một cách nhạy bén và sắc sảo. Tuy vậy, Hoài Thanh còn dè dặt khi đánh giá các nhà
thơ này. Viết về Bích Khê, có lúc tác giả khẳng định: “Tôi đã bắt gặp ở Tinh huyết
những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam”, và cho rằng Bích Khê là một
trong những nhà thơ “đi đến chỗ mà người ta thường cho là cao nhất của thơ tượng
trưng: Mallarmée, Valéry”, rồi lại coi đó là “biệt thự một nhà triệu phú” xa cách và
khó thâm nhập, bởi thế “chưa thể nói nhiều về Bích Khê”. Ông đánh giá Hàn Mặc
Tử là “một vườn thơ rung rinh không bờ bến, càng đi xa càng thấy lạnh”, nhưng kết
thúc bài giới thiệu về thơ Hàn, lại lấp lửng: “Một tác phẩm như thế ta không thể nói
hay hay dở”, vì “Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn”. Cũng như vậy, đánh giá
Điêu tàn, Hoài Thanh xem như “một niềm kinh dị”, “giữa đồng bằng văn học Việt
Nam thế kỷ XX, nó đứng sừng sững như một cái tháp Chàm chắc chắn và lẻ loi, bí
mật”. Ông còn nhận xét về Chế Lan Viên rằng: “Con người này là con người của
trời đất, của bốn phương, không thể lấy kích tấc thường mà hòng đo được”, đến
cuối cùng ngần ngại: “Chúng ta, người đồng bằng, thỉnh thoảng trèo lên đó - có
người trèo đuối sức mà trầm ngâm và xem gạch rụng, nghe tiếng rên rỉ của ma Hời
cũng hay, nhưng triền miên trên đó không nên” [83,217]. Có thể thấy, Thi nhân
Việt Nam đã có công phát hiện những tài hoa của phong trào Thơ mới, tinh tế nhận
ra trong thơ Loạn sự bức bối, quẫy đạp “vượt ra ngoài vòng nhân gian để bung thoát
đến những giới hạn rộng xa của thi ca” [83,291]. Nhưng công trình này dường như
chỉ tập trung làm nổi rõ thời đại Thơ mới với cái tôi cá nhân, phong cách sáng tác
của từng nhà thơ mà chưa đặt họ vào vị trí thành viên của một trường phái sáng tác.
10
Nhìn chung, đa phần các công trình, bài viết về các tác giả thơ Loạn kể trên
còn tản mạn, nặng về cảm xúc hay những kỷ niệm riêng chứ chưa đi vào cảm thụ
giá trị đích thực tác phẩm của họ với tư cách là những tài năng thơ của thế kỷ.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn từ 1945 đến 1975
Trong đời sống phê bình văn học 1945 - 1975, việc nhìn nhận, đánh giá Thơ
mới nói chung, Trường thơ Loạn nói riêng tương đối phức tạp.
Ở miền Bắc, dưới sự chi phối của hai cuộc kháng chiến, thời đại Thơ mới
dường như chấm dứt, nhường chỗ cho những vấn đề lớn của cuộc sống, của nhân
dân qua những vần thơ cổ động kháng chiến, ngợi ca anh bộ đội Cụ Hồ. Căn
nguyên lịch sử ấy khiến Thơ mới không còn là đối tượng được ưu tiên nghiên cứu,
và sự đánh giá về nó cũng chưa thật chuẩn xác, nhất là về mặt nội dung. Một số
người có cái nhìn xã hội học dung tục cắt nghĩa tâm trạng đau buồn của các thi sĩ
lãng mạn “là vì anh nghèo khó nên anh không thể thực hiện cái lí tưởng tư sản của
mình, cái lí tưởng đầy những vàng son châu báu, lụa là hoa bướm, rượu - như hình
ảnh thơ các anh”, trong khi “tình yêu và sự hưởng lạc cần tiền”. Vì vậy nên “thơ
anh thường thể hiện giấc mơ về cõi tiên, về quá khứ, ở đó có đủ rượu, hoa, gái đẹp,
yến tiệc…” [71,76]. Hồng Chương kịch liệt phê phán các tác giả Thơ mới là “có
thái độ tiêu cực”. Ngay cả tác giả Thi nhân Việt Nam trong Nói chuyện thơ kháng
chiến cũng đánh giá lại Thơ mới bằng thái độ cực đoan, một chiều: “Những vần thơ
buồn tủi, bơ vơ ấy là những vần thơ có tội: nó xui con người ta buông tay cúi đầu,
do đó làm yếu sức ta và làm lợi cho giặc. Sự thực khách quan là thế” [63,197]. Theo
Hoài Thanh, “Thơ mới cơ hồ không biết đến tiếng nói đau khổ, tiếng nói căm thù,
tiếng nói quật khởi của các chiến sỹ cách mạng, của quần chúng cần lao” [84,222].
Phan Cự Đệ trong Phong trào Thơ mới 1932 - 1945 dành nhiều tâm huyết
nghiên cứu ảnh hưởng của thơ ca tượng trưng Pháp đến Thơ mới: “Nhìn chung từ
1936 trở về sau, trường phái tượng trưng được người ta chú ý hơn cả. Tại sao
đây?… Cái chính vẫn là sự gặp nhau của những tâm hồn trí thức bất mãn với xã hội,
đau buồn, chán nản, u uất khi phong trào cách mạng của quần chúng bị thất bại hoặc
bị đàn áp dữ dội…”. Về phương diện ảnh hưởng, theo tác giả: “Thơ ca Pháp đã ảnh
hưởng rõ rệt vào Thơ mới trong cách gieo vần, lối ngắt nhịp, lối bắc cầu, cách làm
cho ngôn ngữ giàu nhạc điệu, lối diễn tả bằng những cảm giác tinh tế…”. Trên tinh
thần phản ánh luận Mác xít, tác giả đánh giá những vấn đề của bản chất sáng tạo
như hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, nguyên nhân ra đời phong trào Thơ mới,
11
đồng thời có phần khách quan khi phê phán xu hướng thoát li tiêu cực và ghi nhận
những mặt tích cực của Thơ mới, như: thái độ không chấp nhận thực tại đối với xã
hội thực dân phong kiến, tình yêu quê hương đất nước, yêu cuộc sống, nhất là về
mặt ngôn từ nghệ thuật… Nhưng khi giới thiệu về Trường thơ Loạn, Phan Cự Đệ
lại viện dẫn như minh chứng về sự suy đồi trong Thơ mới giai đoạn sau: “Đương
thời, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Hoàng Diệp đã xướng lên Trường thơ
Loạn. Chịu ảnh hưởng của những quan niệm thẩm mĩ của Edga Poe, kể chuyện ca
ngợi vẻ đẹp của tử thần; và của Baudelaire, kẻ đã mĩ hóa cả cái độc, cái tởm, cái vô
đạo đức, Trường thơ Loạn bắt đầu đi tìm cái đẹp ở bến bờ xa lạ của cảm giác, tìm
những cái đẹp khoái lạc bệnh tật chưa được khám phá” [19,67].
Những ý kiến trên cơ bản nhìn nhận nội dung và cái tôi trữ tình Thơ mới
dưới góc độ phê phán. Sự kết án về tư tưởng này càng khiến Thơ mới cũng như
những vần thơ duy tân, nhuộm đầy máu huyết của Trường thơ Loạn tạm thời bị
quên lãng.
Ở miền Nam, do đặc thù của hoàn cảnh lịch sử xã hội, đến những năm 60 thế
kỷ XX, việc nghiên cứu giảng dạy văn học lãng mạn, trong đó có phong trào Thơ
mới được chú trọng. Và các tác giả thơ Loạn cũng được bàn luận khá sôi nổi trên
các tạp chí, như: Văn hóa Á châu, Nhận thức, Bách khoa, Phổ thông, Văn... cùng
nhiều công trình liên quan khác, như: Văn học sử Việt Nam của Bùi Đức Tịnh, Phê
bình văn học thế hệ 1932 - 1945 của Thanh Lãng, Từ Thơ mới đến thơ tự do của
Bằng Giang, Thi ca Việt Nam thời tiền chiến của Phan Canh, Việt Nam thi nhân
tiền chiến của Nguyễn Tấn Long, Khuynh hướng thi ca tiền chiến của Nguyễn
Tấn Long - Phan Canh, Thi nhân Việt Nam hiện đại của Phạm Thanh, Lược khảo
về thơ 1900 - 1950 của Uyên Thao, Những khuynh hướng trong thơ ca Việt Nam
của Minh Huy, Lược sử văn nghệ Việt Nam của Thế Phong, Thi ca Việt Nam hiện
đại của Trần Tuấn Kiệt, Ý Văn của Tam Ích... Đặc biệt, có những chuyên san về
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê: Hàn Mặc Tử nhà thơ siêu thoát của Thế
Phong, Đôi nét về Hàn Mặc Tử của Quách Tấn, Hàn Mặc Tử thi sĩ tiền chiến của
Hoàng Diệp, Chế Lan Viên thi sĩ tiền chiến của Hoàng Diệp, Đời Bích Khê của
Quách Tấn…
Trong những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn của các tác giả phía
Nam, chúng tôi quan tâm nhiều những đánh giá của Nguyễn Tấn Long và Phan
Canh. Trong Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long kết luận: “Hàn Mặc
12
Tử cũng như Bích Khê là người ở phái thơ cũ chuyển sang lĩnh vực Thơ mới. Từ
địa hạt thi ca có quy tắc trầm lặng tiến đến Thơ mới rồi vượt qua địa hạt tượng
trưng vươn lên nguồn thơ siêu thực”. Tác giả phát hiện ra cái mới lạ của Trường thơ
Loạn mà ông gọi đó là “Những vấn đề thơ khó hiểu, những lời nói khó tin”, và
chứng minh bằng luận điểm sắc sảo: “Nếu một Hàn Mặc Tử hay nói về thượng giới
thì Chế Lan Viên lại nhắc mãi về hạ giới, về cõi âm… Nếu Hàn thường nghĩ về
cảnh chết trước mắt nên ý thơ thường hướng về tương lai, ngược lại Chế hay tiếc
thương về thời đại cũ lại thích quay vần thơ về dĩ vãng” [50,67]. Trong công trình
Khuynh hướng thơ ca tiền chiến, Nguyễn Tấn Long và Phan Canh dù không trực
tiếp tiếp cận ảnh hưởng thơ tượng trưng trong Trường thơ Loạn, nhưng mặc nhiên
thừa nhận ít nhiều có sự chi phối của khuynh hướng ấy trong sáng tác của các thi
nhân, khi cho rằng “Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử là nguồn thơ tiêu biểu cho khuynh
hướng thơ siêu tưởng” [51,72]. Phan Canh trong Thi ca Việt Nam thời tiền chiến
1932 - 1945 [6], phần viết về chủ nghĩa tượng trưng và siêu thực cũng giới thiệu và
tuyển thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê.
Cùng với Nguyễn Tấn Long và Phan Canh, phải kể đến nhận định của Minh
Huy trong Những khuynh hướng trong thi ca Việt Nam. Theo tác giả, Hàn Mặc
Tử và Bích Khê là hai nhà lý thuyết của khuynh hướng thơ tượng trưng: “Hàn Mặc
Tử và Bích Khê, thi ca tượng trưng Việt Nam đã đến một cao độ tuyệt vời, đến một
nơi thật cao siêu và khả kính cho đến ngày nay chưa một nhà thơ tượng trưng tiền
và hậu thế chiến nào có thể vượt đến được” [31,127]. Trong công trình này, bên
cạnh Thơ mới tiền chiến, Minh Huy còn tìm hiểu ảnh hưởng của khuynh hướng
tượng trưng đến thi ca hậu chiến qua các tên tuổi, như: Quách Thoại, Đoàn Thêm,
Xuân Phụng, Cung Trầm Tưởng,…
Ngoài ra, còn có những công trình, bài viết bàn luận trực tiếp đến từng tác giả
thơ Loạn. Về Bích Khê có: “Nhạc và họa trong thơ Bích Khê” của Đinh Cường,
“Người em Bích Khê” của Lê Thị Ngọc Sương, “Dòng thơ, khoảng thơ và thời
gian” của Phạm Hoài Việt, “Nhân nhớ Bích Khê và thơ Bích Khê bàn về thơ tượng
trưng” của Tam Ích... Đặc biệt, bài viết “Thế giới thơ tượng trưng Bích Khê”, Phạm
Kim Thịnh tôn vinh thơ Bích Khê “thuộc hàng tượng trưng điển hình nhất”. “Bích
Khê đã dẫn người đọc vào một không gian chạm trổ những trăng sao, màu sắc,
hương thơm làm no nê tất cả mọi giác quan của người đọc”. Về Hàn Mặc Tử có:
“Hàn Mặc Tử và sự sáng tạo cuồng nộ” của Nguyễn Mộng Giác, “Nỗi Khắc khoải
13
siêu hình trong thơ Hàn Mặc Tử” của Nguyễn Xuân Hoàng, “Đức tin trong hồn thơ
Hàn Mặc Tử” của Đặng Tiến, “Tan loãng trong Hàn Mặc Tử” của Phạm Đán Bình,
“Kinh nghiệm thơ và hành trình tinh thần của Hàn Mặc Tử” của Võ Long Tê, “Thấy
được những huyền bí bên kia cõi chết qua hiện tượng Hàn Mặc Tử” của L.M Dũng
Lạc Trần Cao Tường, “Thi ảnh khẩu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử” của Bùi Xuân
Bảo, “Hàn Mặc Tử hay là sự hiện hữu của thơ” của Huỳnh Phan Anh,... Các bài viết
đều hết sức coi trọng những thành tựu nổi bật như: đề cao những cái khác thường,
kì dị, lý giải công phu vấn đề rất nhạy cảm là sự phóng chiếu tính dục, yếu tố tôn
giáo và tâm linh siêu hình trong thơ Hàn. Rất tiếc, dấu ấn tượng trưng thơ Hàn lại
không được nhắc đến. Cùng với đó là những công trình nghiên cứu khẳng định lại
giá trị tập thơ Điêu tàn của Chế Lan Viên theo kiểu phê bình ấn tượng.
Có thể thấy, tuy các công trình không đề cập trực tiếp về Trường thơ Loạn,
nhưng về từng thi sĩ riêng biệt của trường thơ được các tác giả, nhất là các tác giả
phía Nam nghiên cứu khá kỹ. Về cơ bản, các nhà phê bình văn học phía Nam giai
đoạn này đều thống nhất đề cao những thi sĩ thơ Loạn, và cho rằng chính họ mang
lại cho thi học và thi ca dân tộc những vấn đề mới lạ. Tuy nhiên, lập luận của các
nhà nghiên cứu còn mang tính chủ quan, thường dựa vào đời tư tác giả để cảm nhận
tác phẩm nên đôi chỗ còn cực đoan, phiến diện.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn từ 1975 đến nay
Từ sau 1975, giới phê bình văn học có điều kiện nghiên cứu chuyên sâu về
phong trào Thơ mới, trong đó có sáng tác của Trường thơ Loạn. Dù vậy, những năm
đầu sau giải phóng, các nhà nghiên cứu đây đó vẫn còn nhìn các tác giả thơ Loạn
bằng ánh mắt khắt khe và định kiến. Phạm Văn Sĩ ghi nhận ảnh hưởng của
Baudelaire đến Thơ mới: “Có một số thi sĩ Việt Nam nhìn Baudelaire như một nhà
cách tân trong lĩnh vực thơ và hướng theo cách làm của Baudelaire, số người đó tìm
cách làm cho thơ Việt Nam mới mẻ hơn. Bằng thực tiễn sáng tác, họ góp phần làm
cho thơ Việt Nam đi gần với những cảm xúc cá thể, với cách diễn đạt riêng của mỗi
người làm thơ, làm cho thơ Việt Nam tự do, phóng khoáng hơn trước, vượt qua
những công thức gò bó, những niêm luật nghiêm ngặt của thơ cổ” [82,51]. Nhưng
đề cập đến ảnh hưởng thơ tượng trưng Pháp đến sáng tác của hai thi sĩ thơ Loạn,
ông phê phán: “Trong lúc một số thanh niên, một số trí thức chuyển biến theo cách
mạng thì một số khác lại lấn sâu vào cuộc sống suy đồi, đi sâu hơn vào tâm trạng
buồn chán, bế tắc, họ ra sức đào bới những cảm xúc chủ quan của con người xa rời
14
cuộc sống thực tiễn, quay vào cái tôi cô đơn, bệnh hoạn như Bích Khê, Hàn Mặc
Tử, hoặc đi vào cuộc sống ăn chơi truỵ lạc như Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương.
Những người này đã khai thác mặt sa đọa trong thơ Baudelaire, mặt tiêu cực trầm
trọng nhất trong cuộc sống riêng của Baudelaire” [82,49]. Ngay cả Nguyễn Hoành
Khung cũng có lần nhận định: “Trường thơ Loạn là một xu hướng tiêu biểu cho tình
trạng bế tắc khủng hoảng của phong trào Thơ mới”, và cho rằng thơ của họ “có
nhiều bài kinh dị, có những vần thơ giống như tiếng gào rú của một linh hồn đau
thương cùng cực” [39,472].
Phải đến sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), dưới tư duy đổi mới,
Thơ mới cũng như Trường thơ Loạn được nhìn nhận lại một cách bình tĩnh, khách
quan và khoa học hơn. Tiếp cận lý thuyết văn học so sánh, các nhà nghiên cứu
chứng minh ảnh hưởng sâu sắc của thơ tượng trưng phương Tây đối với nhiều nhà
thơ mới và tiêu biểu là các nhà thơ trong Trường thơ Loạn. Nguyễn Quốc Túy trong
chuyên luận Thơ mới - Bình minh thơ Việt Nam hiện đại cho rằng: “Có những
trường phái Thơ mới giống các trường phái thơ phương Tây, thơ Pháp: lãng mạn,
tượng trưng, siêu thực” [94,47]. Theo Phan Ngọc: “Thơ Việt Nam chịu ảnh hưởng
từ thơ Pháp nhưng chủ yếu là từ Baudelaire về sau chứ không phải từ Baudelaire trở
về trước. Ảnh hưởng của Baudelaire rõ nhất ở Vũ Đình Liên, Chế Lan Viên, Hàn
Mặc Tử và hầu như không có ai không chịu ảnh hưởng của ông” [57,27].
Hoàng Hưng khi bàn về hành trình đến với chủ nghĩa tượng trưng của phong
trào Thơ mới Việt Nam, đánh giá: “Đến Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê,
Xuân Thu nhã tập, Thơ mới đã đi vào quỹ đạo thơ tượng trưng của Âu Mỹ”. Nhưng
theo ông, đó là lối thơ tượng trưng không triệt để, còn mang tính chất nửa vời. “Các
nhà thơ Việt Nam không triệt để tượng trưng đến thế. Chế Lan Viên còn quá tỉnh
táo và nhân tạo, Bích Khê còn quá rườm lời và lộ ý. Còn Xuân Thu nhã tập theo tôi
đã đi lạc đường: muốn đạt cái mơ hồ, họ dùng sự léo lắt của lý trí, họ lẫn trộn sự mù
mờ tăm tối mà tiềm thức trực cảm được với sự khó hiểu cầu kỳ phải dùng trí năng
để giải thích” [32,23]. Gần với quan điểm của Hoàng Hưng, Trần Đình Sử trong
Những thế giới nghệ thuật thơ có bài phân tích thơ tượng trưng và khẳng định ảnh
hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đối với các nhà Thơ mới Việt Nam: “Họ đọc
Baudelaire, Valéry, Rimbaud, Mallarmé, nhưng chỉ học một vài thủ pháp”. Trần
Đình Sử cho rằng, Thơ mới trước sau vẫn là thơ lãng mạn, kể cả đó là sáng tác của
các thi sĩ thơ Loạn. “Có những bài thơ, hình tượng thơ phảng phất phong cách
15
tượng trưng, nhưng không phải thơ tượng trưng”, vì theo tác giả, môi trường xã hội
Việt Nam lúc này không phù hợp cho phong cách thơ tượng trưng đúng nghĩa.
Ngay cả những bài như: Cô liêu (Hàn Mặc Tử) hay Tranh lõa thể (Bích Khê), dù
“có dáng tượng trưng nhưng thực ra là lãng mạn” [78,45].
Trần Thị Mai Nhi trong Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam: Giao lưu,
gặp gỡ chứng minh chủ nghĩa tượng trưng là một trường phái của chủ nghĩa hiện
đại phương Tây. Thơ tượng trưng Pháp trên đường du nhập vào văn học thế giới đã
dừng chân ở Việt Nam và để lại dấu tích cho các nhà thơ mới. “Hàn Mặc Tử, Bích
Khê, Thế Lữ và nhiều nhà thơ mới Việt Nam không hoàn toàn là những người theo
chủ nghĩa lãng mạn mà đã bước tới ngưỡng cửa của thơ hiện đại, đã tới gần chủ
nghĩa tượng trưng Baudelaire” [61,105]. Tác giả cũng chỉ ra những nét thi pháp
tượng trưng có trong thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê: thơ bắt nguồn từ
cõi vô thức, từ sự phi duy lý của con người, thơ của thế giới tâm linh khải thị, “tổ
chức lại tự nhiên” bằng các sức mạnh tưởng tượng của tinh thần theo ý niệm về sự
tương hợp Baudelaire... Đồng tình với quan niệm này, Phan Cự Đệ cho rằng những
ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đối với thơ Hàn Mặc Tử và Bích Khê là do tác
động từ thuyết tương giao của Baudelaire, từ tinh thần âm nhạc do thi phái tượng
trưng chủ nghĩa đề xướng. “Thức nhọn giác quan tác động trực tiếp vào thế giới
cảm giác của con người, đó là một đặc trưng của thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, của
một số nhà thơ lãng mạn khác chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng”, và “nhạc
điệu của thơ tượng trưng Pháp đã có ảnh hưởng ở mức độ đậm nhạt khác nhau đến
thơ Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Nguyễn Xuân Sanh” [16,18]. Trong
Văn học đổi mới và giao lưu văn hóa, ông còn khẳng định thêm rằng: “Hàn Mặc
Tử và Bích Khê là những thi sĩ đầu tiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của Baudelaire”
[18,90]. Chúng tôi kế thừa những kết quả khoa học này để khẳng định, làm sáng tỏ
thêm vấn đề cần triển khai.
Nhiều tác giả trực tiếp bàn về giá trị nghệ thuật trong sáng tác của Trường
thơ Loạn. Trong các công trình này, những gương mặt thơ Loạn hiện lên khá sắc nét
về chân dung và phong cách.
Lê Đình Kỵ trong Thơ mới những bước thăng trầm tái hiện phong trào Thơ
mới dưới dạng chân dung văn học. Ở phần nghiên cứu về các thi sĩ thơ Loạn, tác giả
tinh tế khám phá được từng “tạng” riêng của mỗi người: “Từ Chế Lan Viên đến
Bích Khê, Hàn Mặc Tử nằm ở giữa. Dù nói chuyện đầu lâu ma Hời, Chiêm nương
16
hiện hồn tất cả ở Chế Lan Viên đều sáng tỏ. Thơ Bích Khê hầu hết là khó đọc. Hàn
Mặc Tử chỉ lạ ở mông lung, phiếu diễm ở tứ thơ chứ không ở câu, ở chữ, ở điệu
thơ, không phải cái lạ nằm ngay trong tư duy như ở Bích Khê”. Tuy không đánh giá
mức độ ảnh hưởng thơ tượng trưng ở Trường thơ Loạn, nhưng ông phân tích giá trị
thơ của các thi sĩ ở phương diện có tiếp biến này. Đó là sáng tác của Hàn Mặc Tử
“không ít trường hợp dù rơi vào ảo giác, thơ ấy vẫn thấy đẹp và cuốn hút được ta”.
Hàn chỉ lạ khi “bị ánh sáng của chiêm bao vay xiết”. Ở Bích Khê có “dáng quyến
rũ, vừa mới lạ, vừa thân quen”, chữ bí mật nhưng “gây nên sức nổ dây chuyền của
cái lạ lẫm, cái tiềm thức, cái vô thức qua những ấn tượng, những liên tưởng đột
xuất, bất ngờ, xóa tan mọi khoảng cách, đem nhích lại gần nhau giữa những cái xa
lạ, vô can”. Ông cũng đặc biệt chú ý đến những sáng tạo của Bích Khê, xem nhạc
tính là sức mạnh của nhà thơ: “thành công ở lối thơ ngắt nhịp ở từ thứ tư, chia câu
bát làm hai nửa tứ ngôn, tạo thành giai điệu nửa riêng tây, nửa thuận hòa” [41,236].
Từ góc nhìn thi pháp học, Mắt thơ của Đỗ Lai Thúy nhận định xác đáng về
thơ Hàn Mặc Tử và Bích Khê. Theo Đỗ Lai Thúy, thơ Hàn Mặc Tử “chín rộ vào
quãng gối đầu giữa tượng trưng và siêu thực”. “Dĩ nhiên, một căn cốt Đông phương
thâm hậu đã làm cho tượng trưng của ông có bóng dáng tượng trưng Đường thi, và
xa hơn nữa là tượng trưng thiền, còn siêu thực thì đậm nhạt một màu sắc Liêu Trai.
Điều này tạo nên sự riêng biệt, vừa phong phú, vừa sâu sắc trong phong cách trữ
tình của thơ Hàn Mặc Tử”. Quan trọng hơn, Đỗ Lai Thúy còn nêu ra đặc trưng mô
hình trong thế giới thơ Hàn: Tính trữ tình + tư duy tôn giáo + mô hình và sáng tạo…
Ông tìm hiểu thơ Bích Khê từ ảnh hưởng của thơ ca phương Đông đến sự tiếp nhận
văn học phương Tây. Đặc biệt, ông đi sâu phân tích biện pháp nghệ thuật ẩn dụ mà
Bích Khê sử dụng hết sức thành công. “Thi nhân không chỉ phục hồi ý nghĩa từ
nguyên cho ẩn dụ, mà quan trọng hơn, còn cải tạo chúng theo cái nhìn thế giới của
riêng mình”. Đỗ Lai Thúy còn phát hiện ở “ngòi bút Bích Khê có biệt tài trong việc
tạo ra những ẩn dụ mới, độc đáo, lạ lẫm, tuy giống ẩn dụ cũ về ý nghĩa nhưng khác
về diễn tả ngôn từ”. Đỗ Lai Thúy còn quan tâm đến hiện tượng trùng phức, nhạc
tính trong thơ Bích Khê. Từ đó kết luận “Bích Khê đã vượt qua địa hạt lãng mạn
sang lãnh địa tượng trưng và trở thành chủ soái của trường thơ này” [88,193]... Tiếc
rằng, ở Mắt thơ, Đỗ Lai Thúy không đề cập đến Chế Lan Viên. Về sau, bài viết
“Chế Lan Viên tháp Chàm bốn mặt”, lý giải việc Chế không có chân trong nhóm
thất tinh của Mắt thơ, Đỗ Lai Thúy cho rằng Điêu tàn không tiêu biểu cho một
17
phạm trù thi pháp học, “nếu xét về mặt tư duy nghệ thuật, so với Tinh huyết của
Bích Khê, Đau thương của Hàn Mặc Tử, những người cùng Trường thơ Loạn với
ông, thì không bằng”. Theo Đỗ Lai Thúy, “mặc dù có một số khám phá mới mẻ về
ngôn ngữ, nhưng ở Điêu tàn, Chế Lan Viên vẫn chưa tìm được một ngôn ngữ thích
hợp để phô diễn những tư tưởng tân kỳ” [89,96].
Hà Minh Đức trong Văn chương tài năng và phong cách điểm qua các
gương mặt Thơ mới tiêu biểu trong đó có Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê và
khẳng định thành tựu trong sáng tạo nghệ thuật của họ là “một nguồn mạch phong
phú của thơ ca dân tộc trong thời kỳ hiện đại” [24,106]. Trong chuyên luận Một
thời đại trong thi ca, bên cạnh khắc họa sinh động chân dung các nhà thơ mới cùng
những đỉnh cao thơ Loạn, Hà Minh Đức chứng minh các nhà thơ mới Việt Nam học
được thơ tượng trưng lối cảm, lối nghĩ và cả lối sống. “Ở Baudelaire, các nhà thơ
mới tìm thấy nhiều hình thức biểu hiện phức tạp của cái tôi trữ tình, từ sự mong ước
đến chán nản, tuyệt vọng, từ cái đẹp vươn tới của nghệ thuật đến chất suy đồi của
thơ”. Tác giả đề cập đến quá trình hội nhập thầm kín và ngân tỏa sâu rộng từ
“những niềm hoan hỷ của tinh thần và giác quan” trong cảm nhận thế giới của
Baudelaire đến các nhà thơ mới. “Trong cảm nhận thi ca, câu thơ Hương thơm, màu
sắc và âm thanh tương hợp với nhau của Baudelaire cũng gợi nhiều cho các nhà thơ
kinh nghiệm khai thác thế giới nội cảm với những biến thái linh hoạt của cái tôi trữ
tình” [23,46]. Trước đó, trong bài viết “Điêu tàn và tâm hồn thơ Chế Lan Viên”, Hà
Minh Đức cho thấy sự cách tân quan trọng trong quan niệm nghệ thuật của Trường
thơ Loạn: “Với Trường thơ Loạn, quan niệm về thơ và nhà thơ đã có những thay
đổi quan trọng. Mẫu hình thi sĩ ru với mây gió, đẫm tình và mộng đã bị thay thế
bằng những thi nhân cực đoan, mạnh mẽ, dị thường. Họ muốn xác lập một thế giới
mới trong thi ca khác với quan hệ quen thuộc của đời thường. Cái lôgíc của thi ca
đã trở nên khác biệt nhiều khi đối lập với lôgíc của cuộc đời. Nhà thơ, chủ thể sáng
tạo, một nhân tố mạnh xem mình như trung tâm của vạn vật và bộc lộ cảm xúc một
cách khác thường” [22,29].
Mã Giang Lân trong Tìm hiểu thơ phân tích dấu ấn tượng trưng trong thi
phẩm của các tác giả thơ Loạn và đưa ra luận điểm khá xác đáng: “Về quan điểm
nghệ thuật, và từ đó là những sáng tác của bộ ba Trường thơ Loạn (Hàn Mặc Tử,
Chế Lan Viên, Bích Khê - VNN) là những con người trung thành với thơ tượng
trưng, siêu thực. Nhưng có điều, họ thực sự là những chân tài nên đã tạo nên nhiều
18
bài thơ đặc sắc, có giá trị lâu dài” [46,244]. Trong bộ ba thơ Loạn này, Mã Giang
Lân quan tâm nhiều đến Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên. Theo Mã Giang Lân, “cả
hai ông đều đề cao con người nghệ sĩ là con người khác thường, siêu phàm và coi
quá trình sáng tạo thơ như là một cái gì siêu phàm, thần bí”. Bên cạnh đó, Mã Giang
Lân còn đặc biệt chú ý đến tuyên ngôn nghệ thuật của hai nhà thơ, mà với nhà
nghiên cứu, nó bắt nguồn từ đức tin tôn giáo và sự dồn nén cảm xúc của nỗi niềm
nhân thế. Nói cách khác, đó là sự cộng hưởng của quan niệm triết mĩ và nỗi đau đời:
“Cả hai đã tuyên ngôn, bằng hình thức này hay hình thức khác, hình thành một
trường phái tạo nên những vần thơ kinh dị, bột phát từ những ẩn ức, tiềm thức và cả
những ý tưởng tôn giáo tối thượng linh thiêng”. Mã Giang Lân đánh giá Hàn Mặc
Tử “là người tiên phong đưa thơ đi vào con đường hiện đại, hòa nhập vào mặt bằng
thơ hiện đại thế giới”. Với Bích Khê, tác giả cho rằng: “Bích Khê nổi bật với sự
trung thành với những nguyên lý tối cao của chủ nghĩa tượng trưng, của Baudelaire,
ông tổ thơ hiện đại Pháp” [46,23-24]. Trong chuyên luận Tiến trình thơ hiện đại
Việt Nam, Mã Giang Lân đánh giá “những yếu tố tượng trưng siêu thực đã hiện rõ,
đậm đặc trong thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê”. Theo tác giả, chính thi
pháp tượng trưng đã “tạo nên nét khác biệt giữa nhóm các nhà thơ này và các nhà
thơ lãng mạn cùng thời” [47,131].
Phát hiện sự tương đồng trong việc thai nghén nguồn thi liệu giữa Baudelaire
với các thi sĩ thơ Loạn, Chu Văn Sơn cho rằng: “Baudelaire đã tìm kiếm chất thơ ở
những vật ghê rợn kinh hãi như xác chết, máu me, xương tủy, sự dâm đãng… Đến
lượt mình, Hàn Mặc Tử và các thành viên của Trường thơ Loạn cũng đi tìm thi
hứng và nói rất thoải mái đến những cái chết, sọ dừa, đầu lâu, mồ hoang, giếng
loạn, xương khô, sự trần truồng, sự dâm đãng… Tuy nhiên, trong khi các thi hữu
của mình nghiêng về sự tuân thủ những quan niệm lí thuyết, nghĩa là tuân theo
những mô thức do họ phác ra từ trước, thì riêng Hàn Mặc Tử lại có một đời sống
thực tế rất gần với cái thời gian kinh dị đó” [76,32]. Trong một công trình khác,
Chu Văn Sơn phát hiện mức độ ảnh hưởng của thơ tượng trưng đến mỗi nhà thơ
Loạn ở những khía cạnh khác nhau. Mỗi nhà thơ có một hướng đi trên cơ sở tiếp
thu và sáng tạo, hình thành một phong cách riêng cho mình: “Mỗi thi sĩ ảnh hưởng
lại tâm đắc một sắc thái nào đó. Do tạng của mình, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên
nghiêng về đau thương và kỳ dị, rồi đẩy lên đến kinh dị. Bích Khê lại mê cái kỳ dị
và xấu” [81,63].
19
Trần Thị Huyền Trang trong công trình Hàn Mặc Tử - Hương thơm và mật
đắng nhìn thấy nét gần gũi trong thế giới nghệ thuật của Trường thơ Loạn. “Qua
các tác phẩm thuộc Trường thơ Loạn, người đọc dễ dàng nhận ra sự ảnh hưởng lẫn
nhau trong ngôn ngữ và hình tượng thơ. Họ bắt gặp nhau trong ý tưởng và ngôn từ,
nhưng giọng điệu thì khác. Về mức độ, có lẽ Hàn Mặc Tử là người gây ảnh hưởng
nhiều nhất đối với các nhà thơ trong vương quốc của mình, tiếp đến là Chế Lan
Viên. Thơ của Hàn có trăng, hồn, máu thì thơ Chế Lan Viên, Bích Khê và Yến Lan
cũng có trăng, hồn, máu. Thơ Chế có bóng ma thì thơ Hàn, Bích Khê bóng ma
thỉnh thoảng cũng hiện về. Sọ người, tinh tủy, xương người đầy rẫy trong thơ Chế
Lan Viên và Bích Khê. Còn điều này nữa, cái chất chung, tan chảy điều hòa toàn bộ
sáng tác của họ là cái chất sầu… Với mỗi nhà thơ, cái sầu được thể hiện ở những
mức độ khác nhau. Ở Hàn Mặc Tử, nó phơi bày ở khía cạnh đau thương. Ở Bích
Khê, nó là sự dằn vặt triền miên. Ở Chế Lan Viên, nó cô lại thành khối chán nản. Ở
Yến Lan, nó khoanh tròn trong nỗi cô đơn tuyệt vọng não nề” [90,93-94]. Dù đây
không phải là phát hiện mới mẻ, nhưng qua việc nghiên cứu hiện tượng thơ Hàn
Mặc Tử, phần nào cho thấy tác giả có phần dày công trong việc đặt vị trí của một
nhà thơ trong tương quan trường phái sáng tác.
Phạm Phú Phong với bài viết “Bích Khê trong Trường thơ Loạn” quan tâm
nhiều đến khía cạnh huyền hoặc, đầy biến hóa trong sáng tạo nghệ thuật của các thi
sĩ. Theo tác giả, Trường thơ Loạn “đã tạo ra một dòng thơ lạ lẫm, kì dị khiến cho
nhiều người phải giật mình sửng sốt. Thơ của họ vút cao chót vót nối tầng cao nhất
của thiên đường tới tận cùng địa phủ, từ đó tạo ra thứ ánh sáng huyền hoặc”. Phạm
Phú Phong nhìn nhận: “Điều đáng lưu ý là tuy nói Loạn mà không loạn, Điên mà
không điên. Không bừa bãi, cẩu thả, mà được trau chuốt cẩn thận từng câu, từng
chữ, nhằm thể hiện cảm xúc luôn khao khát được sống hết mình, đòi hỏi người nghệ
sĩ phải sống bằng trái tim, bằng tâm hồn cháy bỏng từng ngọn lửa yêu thương, phải
mở lòng rộng rung rinh, lắng nghe tiếng nói thì thầm ở nơi tĩnh lặng nhất của cõi
lòng mình, phải thét phải gào cho thỏa những khát khao, ước mong về thế giới đau
thương, về cái đẹp, về tình yêu và cuộc sống. Điều ấy thể hiện rõ rệt thông qua sáng
tác của những tác giả chủ chốt của nhóm như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích
Khê” [69,188]. Trong một bài viết khác, tác giả nhận định: “Đọc tác phẩm của các
tác giả trong Trường thơ Loạn, chúng ta dễ dàng nhận ra sự thống nhất về quan
điểm trong một nguồn chung, có ảnh hưởng lẫn nhau trong ngôn ngữ và hình tượng,
20
nhưng đều có những thi pháp biểu hiện riêng và đã đạt được những thành tựu khác
nhau, còn sống mãi trên thi đàn dân tộc” [70,18].
Tuy không đặt vấn đề nghệ thuật tượng trưng trong thi phẩm của Trường thơ
Loạn như một phương diện nghiên cứu độc lập, nhưng ở nhiều bài viết, Hồ Thế Hà
thấp thoáng đề cập đến lĩnh vực này. Trong “Tư duy thơ Bích Khê - nhìn từ các
dạng thái của cái tôi trữ tình”, Hồ Thế Hà đưa người đọc đi từ thi giới Bích Khê đến
thế giới kinh dị của thơ Loạn. “Với Trường thơ Loạn, người đọc bất giác nhận ra
thế giới kì lạ, hình như không có khoảng cách giữa địa ngục và thiên đường, giữa
thực và ảo, giữa nhớ và quên, giữa mê và tỉnh, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa bình
thường và phi thường. Những đối lập này đã va chạm và phản âm, phản cảnh và
phản sắc tạo ra những kinh dị huyền diệu choáng ngợp… Chính các lớp hình tượng
trên được biểu hiện bằng thứ ngôn ngữ cũng quái đản, biến hóa đã làm cho thơ
Loạn càng lung linh, huyền bí, có sức cuốn hút kỳ lạ đối với bao thế hệ người đọc
hiếu kỳ và thích tận hưởng cái mới, cái ngoại vi thơ độc đáo, bất khả giải của thi ca.
Tưởng cũng nên nhắc lại các quan niệm thi ca của Trường thơ Loạn. Các thi sĩ của
Trường thơ Loạn đề cao tinh thần nghệ thuật vị nghệ thuật mà các yếu tố của thi ca
(éléments de póesie) bao gồm trăng, hương, hoa, nhạc được đề cao. Đó là thế giới
riêng của cái đẹp mà thi sĩ là thiên sứ mang cái đẹp đó cho trần gian, nối liền với
mọi người” [28,89]. Bài viết “Nhóm thơ Bình Định thời kỳ Thơ mới 1930 - 1945”,
sau khi điểm lại những gương mặt Thơ mới tại Bình Định, Hồ Thế Hà cho rằng
quan niệm nghệ thuật của Trường thơ Loạn là kết quả của sự kiếm tìm, đổi mới, sự
phá rào để “tiền trạm cho tương lai” (Breton). Dù rằng nhận thấy có những quá đà,
quá ngưỡng trong một số bài thơ, câu thơ dẫn đến huyền bí, siêu hình, nhưng theo
tác giả, “ngày nay, bình tĩnh nhìn lại, quả là các ông đã làm nên sự tân kỳ, hấp dẫn
mà lịch sử văn học phải ghi nhận công đầu” [28,348].
Luận án tiến sĩ ngữ văn Thơ mới 1932 - 1945 nhìn từ sự vận động thể loại,
Hoàng Sĩ Nguyên điểm qua những nét đặc trưng nổi bật về cái tôi cá nhân của các
tác giả thơ Loạn, và khẳng định: “Cái tôi trong thế giới Điêu tàn của Chế Lan Viên
luôn khoác cho mình một dĩ vãng vàng son và bi tráng đã lùi xa để gửi thông điệp
về sự hủy hoại của con người”, còn “Cái tôi trữ tình trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích
Khê là cái tôi khát khao tìm hiểu, khám phá và phát hiện trong chiều sâu” [59,29].
Đặc biệt, Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Hữu Hiếu Những biểu hiện của
khuynh hướng tượng tưng trong Thơ mới Việt Nam 1932 - 1945 [34] đã luận giải
21
khá sâu sắc nhiều vấn đề: từ cơ sở hình thành khuynh hướng tượng trưng đến những
quan niệm và khuynh hướng biểu hiện trong sáng tác của các nhà thơ mới... Công
trình này, Nguyễn Hữu Hiếu bao quát trên diện rộng và nhận thấy nhiều nhà thơ của
phong trào Thơ mới chịu ảnh hưởng của trường phái tượng trưng. Vì bao quát trên
diện rộng, nên tác giả dù có đề cập, nhưng không thể đi sâu làm rõ ảnh hưởng của
chủ nghĩa tượng trưng đến sáng tác của Trường thơ Loạn.
Nguyễn Toàn Thắng trong chuyên luận Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình
Định là người tìm hiểu nhiều về trường phái thơ Loạn. Bàn về quan niệm nghệ
thuật của Hàn Mặc Tử, nhóm thơ Bình Định và Trường thơ Loạn gắn với chủ nghĩa
tượng trưng, tác giả cho rằng: “Trường thơ Loạn đã có quan niệm nghệ thuật gần
gũi với thơ tượng trưng. Trong thi phẩm của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê,
thế giới hình tượng nghệ thuật đã có những thay đổi đáng kể. Cả cái biểu đạt (hình
tượng tượng trưng) và cái được biểu đạt bị che giấu đều trở nên bí ẩn. Hình tượng
tượng trưng giống như một câu đố đòi hỏi chúng ta phải đi tìm kiếm cái gì ý nghĩa
đằng sau hình tượng” [87,97]. Công trình này, tác giả có điểm qua sự tích hợp chất
Đạo và chất Đời của ba thi sĩ thơ Loạn: “Rõ ràng như thể có sự đồng điệu, vang
vọng về chất đạo, chất đời trong nhóm thơ Bình Định, Trường thơ Loạn giữa Hàn
Mặc Tử, Chế Lan Viên và Bích Khê. Đó là một nội dung quan trọng để cắt nghĩa
Trường thơ Loạn nói riêng và nhóm thơ Bình Định nói chung. Phải chăng có như
vậy mới phục nguyên được dáng vẻ toàn bích của tổ chức thi ca này?” [87,236].
Tuy vậy, chuyên luận này chủ yếu viết về Hàn Mặc Tử. Trên cơ sở nghiên cứu thơ
Hàn, Nguyễn Toàn Thắng so sánh những điểm tương đồng trong sáng tạo nghệ
thuật với nhóm thơ Bình Định và Trường thơ Loạn. Cũng vì vậy, tác giả chưa thể
tách Trường thơ Loạn thành phạm trù nghiên cứu riêng biệt. Mặt khác, dù xác định
thành viên của Nhóm thơ Bình Định và Trường thơ Loạn là khác nhau, nhưng đây
đó dường như tác giả đồng nhất nhóm thơ và trường thơ này về thi pháp sáng tác,
khi cho rằng: “Trường thơ Loạn hoài thai trong lòng nhóm thơ Bình Định, cho nên
nghiên cứu nhóm thơ Bình Định cũng là bao hàm cả Trường thơ Loạn” [87,37].
Điều này theo chúng tôi cũng cần phải bàn thêm.
Bên cạnh đó, còn phải kể đến các luận án Tiến sĩ Ngữ văn nghiên cứu về các
tác giả của Trường thơ Loạn, như: Đoàn Trọng Huy với Những nét đặc sắc cơ bản
của hình thức nghệ thuật thơ Chế Lan Viên từ sau 1945 [33]; Hồ Thế Hà với Thế
giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên [27]; Nguyễn Quốc Khánh với Thi pháp thơ
22
Chế Lan Viên [35]; Chu Văn Sơn với Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử [77]...
Ở những công trình này, các thi sĩ của Trường thơ Loạn hiện lên rõ nét về chân
dung và phong cách.
Ngoài các công trình đã được in thành sách, còn có các khóa luận Tốt nghiệp
Đại học, luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về Trường thơ Loạn hoặc từng tác giả thơ
Loạn riêng biệt, nhưng chúng tôi chưa có dịp dẫn chứng, tham khảo, vì nhìn chung
các công trình này vẫn không bàn ngoài những vấn đề mà các công trình đi trước đã
đề cập.
Xem sáng tác của Trường thơ Loạn là đặc trưng thẩm mĩ quan trọng, tạo ra
những khác biệt và lạ hóa so với phần còn lại của Thơ mới, chúng tôi đã công bố
một số bài viết trực tiếp liên quan đến trường phái thơ này. Những bài viết đó, dù có
đặt Trường thơ Loạn trong tương quan so sánh với nghệ thuật thơ tượng trưng,
nhưng trong giới hạn của những bài báo, chúng tôi chưa thể trình bày một cách cụ
thể, chi tiết và thấu đáo vấn đề này.
1.2. Nhận xét tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài
1.2.1. Nhận xét tình hình nghiên cứu
Điểm qua phần lịch sử nghiên cứu đề tài, chúng tôi nhận thấy:
Thứ nhất: Có thể thấy, việc đón nhận Trường thơ Loạn của các nhà nghiên
cứu, phê bình văn học có nhiều bước thăng trầm. Do những tác động của thời đại,
các quan điểm đánh giá về Thơ mới nói chung và Trường thơ Loạn nói riêng cũng
có những khác nhau dựa trên những phương pháp luận khác nhau. Trước 1975,
những vần thơ ấy được coi như “chiếc nấm lạ”, và bị đặt dưới góc nhìn phê phán,
minh họa cho sự tiêu cực của phong trào Thơ mới. Họ bị cho là bế tắc, bi quan,
thậm chí suy đồi. Phải hơn 10 năm sau khi đất nước thống nhất, việc đánh giá
Trường thơ Loạn mới có những bước tiến khách quan hơn.
Thứ hai: Dù là hiện tượng độc đáo trong bước chuyển mình ngoạn mục của
một chặng đường thi ca dân tộc, nhưng số lượng công trình nghiên cứu riêng biệt về
Trường thơ Loạn lại rất ít. Hầu hết các công trình chỉ điểm qua khuynh hướng sáng
tác của Trường thơ Loạn ở mức độ tổng quát và sơ lược.
Thứ ba: Theo thống kê của chúng tôi, trong ba đỉnh cao thơ Loạn, Hàn Mặc
Tử là nhà thơ được nghiên cứu nhiều nhất, tiếp đến là Chế Lan Viên và Bích Khê.
Tuy đi sâu tìm hiểu và phát hiện những giá trị đặc sắc của từng nhà thơ, nhưng các
23
nhà nghiên cứu ít khi đặt tác giả trong hệ thống của trường phái thơ để có một cái
nhìn tổng thể về phong cách nghệ thuật của Trường thơ Loạn.
Thứ tư: Trong các công trình kể trên, nhiều nhà nghiên cứu chung quan điểm
cho rằng Thơ mới Việt Nam chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng phương Tây. Họ
khẳng định các tác giả thơ tượng trưng Pháp như Charles Baudelaire, Arthur
Rimbaud, Paul Verlaine, hay nhà thơ lãng mạn và tượng trưng Mỹ Edgar Allan Poe
đã để lại dấu ấn đậm nhạt khác nhau, góp phần mở rộng biên độ thơ, làm đa dạng
phong cách nghệ thuật của phong trào Thơ mới. Từ đó, các tác giả thống nhất nhận
định Trường thơ Loạn chịu ảnh hưởng khá đậm của chủ nghĩa tượng trưng, đặc biệt
là việc tiếp nhận nguyên lý mỹ học tượng trưng của Baudelaire. Tuy vậy, xét về một
tổng thể hệ thống sáng tác của Trường thơ Loạn, có thể khẳng định, chưa có công
trình nào thật sự đặt vấn đề nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ này.
1.2.2. Hướng triển khai đề tài
Những thành viên chủ chốt của Trường thơ Loạn là những nhà thơ tài danh
của thi ca dân tộc. Sự nghiệp sáng tác của họ có thể xem là “thi ca chi bảo”, đòi hỏi
nhiều người tiếp tục nghiên cứu. Luận án của chúng tôi góp một cái nhìn mới trên
cơ sở tiếp thu thành tựu những công trình đi trước và cố gắng vận dụng lý thuyết
tiếp nhận văn học hiện đại để tìm hiểu, khám phá, chỉ ra giá trị ưu việt trong tính
toàn vẹn, bao quát và chỉnh thể Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường
thơ Loạn. Thực hiện điều này, luận án hướng tới giải quyết các vấn đề sau:
Một là: Luận án hệ thống lý thuyết thơ tượng trưng: sự hình thành và phát
triển, đặc trưng thẩm mỹ, ảnh hưởng của thơ tượng trưng đối với Thơ mới Việt
Nam tiền chiến. Quá trình ảnh hưởng này đã hình thành những chi lưu tượng trưng
Thơ mới, như: Dạ Đài, Xuân Thu nhã tập, Trường thơ Loạn… Trong đó, Trường
thơ Loạn là một hiện tượng văn học đầy hấp dẫn và ám gợi. Chúng tôi nhận thấy
rằng, mỗi người trong Trường thơ Loạn có sự thống nhất với nhau ở một số mặt,
nhưng đều có thi pháp biểu hiện riêng và đạt được những thành tựu khác nhau.
Những gương mặt thơ độc sáng đã kiến trúc nên cả một trường thơ còn sống mãi
trên thi đàn dân tộc cho đến tận hôm nay.
Hai là: Là hình thái ý thức xã hội đặc thù, văn học có quan hệ gắn bó với cơ
sở lịch sử xã hội làm nảy sinh ra nó. Vì vậy, nghiên cứu nghệ thuật tượng trưng
trong sáng tác Trường thơ Loạn, không thể không nói đến những trầm tích và sắc
thái riêng biệt của vùng đất Bình Định - không gian văn hóa của các tác giả thơ
24
Loạn, cũng như những giao lưu văn học Đông - Tây… góp phần hình thành và phát
triển tư duy thẩm mỹ của các thi sĩ.
Ba là: Luận án chứng minh tuyên ngôn nghệ thuật của Trường thơ Loạn có
sự tương đồng với nguyên tắc mỹ học của thơ tượng trưng phương Tây, nhất là của
Baudelaire. Và từ tuyên ngôn nghệ thuật này đã chi phối như thế nào đến hệ thống
hình tượng và biểu tượng cơ bản của Trường thơ Loạn: hình tượng cái tôi, hình
tượng không gian và thời gian, các biểu tượng trăng - hồn - máu, hoa - nhạc -
hương... Đây là cơ sở then chốt để cắt nghĩa sáng tác của họ.
Bốn là: Khẳng định ảnh hưởng của thơ tượng trưng đến Trường thơ Loạn
qua các phương diện: ngôn từ nghệ thuật, nhạc tính và họa tính, giọng điệu và nghệ
thuật tương hợp… Đây là những phương diện tạo nên giá trị bền vững cho sáng tác
của Trường thơ Loạn. Những thủ pháp nghệ thuật này có khả năng chứa đựng, diễn
tả được cảm xúc, tâm trạng cũng như những suy nghiệm của các nhà thơ trước cuộc
đời. Từ đó, người đọc có thể cảm nhận chính xác hơn những nỗi buồn cay đắng,
thấm đẫm nỗi đau đời… của các thi sĩ trước nghịch cảnh cuộc sống.
Tiểu kết
Từ việc tìm hiểu lịch sử nghiên cứu Trường thơ Loạn, chúng tôi rút ra một số
điểm sau:
Theo thời gian, các công trình nghiên cứu đã có nhiều cố gắng dựng lại diện
mạo của Trường thơ Loạn, nhất là những năm gần đây. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân, vẫn chưa có những công trình nghiên cứu xứng tầm so với đóng góp của
Trường thơ Loạn trên thi đàn dân tộc.
Nhìn lại quá trình vận động và phát triển phong trào Thơ mới, hầu hết các
nhà nghiên cứu nhận thấy, so với những nhóm thơ khác, Trường thơ Loạn khẳng
định tên tuổi và vị thế của mình hơn cả.
Nhiều tác giả đi sâu bàn về giá trị nội dung và nghệ thuật của Trường thơ
Loạn, khẳng định ảnh hưởng sâu sắc của thơ tượng trưng phương Tây nói chung và
Baudelaire nói riêng đến nhóm tác giả thơ Loạn từ sau 1936. Tuy vậy, những bài
viết này chỉ mang tính nhỏ lẻ, chưa thực sự chuyên sâu một cách hệ thống.
Từ những gợi ý quý báu trên của các nhà nghiên cứu, chúng tôi mạnh dạn
“len” vào nguồn mạch này để tiếp tục tìm hiểu Nghệ thuật tượng trưng trong sáng
tác của Trường thơ Loạn.
25
CHƯƠNG 2
TRƯỜNG THƠ LOẠN TRONG NGUỒN TƯỢNG TRƯNG THƠ MỚI
2.1. Thơ mới và quá trình tiếp nhận chủ nghĩa tượng trưng
2.1.1. Thơ mới - cuộc cách mạng thi ca vĩ đại
Cuộc cách mạng trong Thơ mới được thể hiện trước hết ở sự bùng nổ của cái
tôi cá nhân (individu). Thơ ca muôn đời vẫn là sự bộc lộ cảm xúc của chủ thể sáng
tạo trước con người và tạo vật, nên “cái tôi trong mọi thời đại được coi như nguồn
gốc của mọi hoạt động thơ ca, như lõi cốt của thể loại trữ tình” (Claude Pichois).
Trong thơ trữ tình cổ điển, hình tượng cái tôi trữ tình tự ý thức về mình như một
yếu tố trong mô hình vũ trụ. Tính chất của cái tôi trữ tình cổ điển là “phi cá thể, siêu
cảm giác” (Trần Đình Sử). Thi nhân hướng về lời dạy thánh hiền, vào chí đức của
các bậc quân tử, vào một miền lý tưởng nào đó để ngợi ca và khẳng định, vì vậy ít
có nhu cầu bộc lộ cá tính. Phạm trù chính phản ánh trong thơ cổ là tình - cảnh, cảnh
- tình để cái tôi cá nhân được khách thể hóa vào vũ trụ. Vì vậy, cái tôi văn học trung
đại xét đến cùng nó vẫn là cái tôi đại diện - cái tôi không của riêng tôi. Cố nhiên, sẽ
là hời hợt nếu cho rằng, thơ trung đại là “vô ngã”. Đây đó trong thơ cổ, vẫn có xuất
hiện cái tôi “lệch chuẩn”. Một Hồ Xuân Hương sắc sảo, đáo để qua tiếng Tự tình
chua xót, đớn đau trong canh khuya vắng lặng: “Đêm khuya văng vẳng trống canh
dồn, - Trơ cái hồng nhan với nước non. - Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, - Vầng
trăng bóng xế khuyết chưa tròn” (Tự tình - Hồ Xuân Hương); một Nguyễn Gia
Thiều muốn đạp phăng bức tường lễ giáo phong kiến tìm đến hạnh phúc đơn sơ của
chồng của vợ: “Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm, - Mùi hoắc lê thanh đạm
mà ngon. - Cùng nhau một giấc hoành môn, - Lau nhau ríu rít cò con cũng tình”
(Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều),… là những minh chứng. Nhưng xét
đến cùng, đó vẫn chỉ dừng lại ở sự manh nha của cái tôi cá nhân cá thể chứ chưa đủ
sức khẳng định như cái tôi trong Thơ mới sau này. Phải đến những năm đầu thế kỷ
XX, các yếu tố nội sinh cộng với sự tiếp biến văn học phương Tây, cái tôi mới được
tìm thấy và nở rộ trong thơ. “Những xáo trộn to lớn về mặt lịch sử - xã hội, sự thâm
nhập của các luồng tư tưởng phương Tây vào đầu thế kỷ này là tiền đề quyết định
sự ra đời của cái tôi lãng mạn chủ nghĩa” [1,36]. Hoài Thanh cho rằng, thơ Việt
Nam từ thời cổ điển đến thời hiện đại là đi từ “chữ ta” đến “chữ tôi”: “Tinh thần
26
xưa - hay thơ cũ nằm trong chữ ta”; “tinh thần nay - Thơ mới nằm trong chữ tôi”,
“tức nguồn cảm hứng của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa lãng mạn đã trở thành linh
hồn Thơ mới lúc bấy giờ”.
Thơ mới được thể hiện trước hết với tư cách là tiếng nói giải phóng khỏi
những ràng buộc của con người phận vị. Con người được sống trọn với cảm xúc của
mình, khẳng định quyền tự do yêu đương của chính mình. Các nhà thơ đề cập đến
tình yêu không chút che đậy, giấu giếm. Xuân Diệu là cái tôi bộc lộ đầy đủ, cá tính
và đam mê một tình yêu mãnh liệt: “Tôi không biết, không biết gì nữa cả - Chỉ yêu
nhiều là tôi biết mà thôi” (Tặng thơ - Xuân Diệu). Thế Lữ gọi mời: “Yêu đi… yêu
nữa và yêu mãi”. Với Nguyễn Bính: “Tôi như một kẻ sa lầy trong yêu”. Và với Tế
Hanh: “Tôi là triệu phú rất nhiều yêu”… Từ “con người chức năng trong xã hội
luân thường” (Trần Đình Hượu) của văn học trung đại đến con người với “khát
vọng thành thật” (Hoài Thanh) trong Thơ mới là một bước tiến dài hơi và đột biến,
cho phép nhà thơ biểu đạt mọi cung bậc của cảm xúc và suy tưởng.
Thơ mới đã tạo ra cái tôi cá thể hóa trong cách cảm nhận thiên nhiên độc
đáo, riêng tư. Nếu thơ xưa xem thiên nhiên là tấm gương soi ngắm mình thì ở Thơ
mới, vẻ đẹp toàn bích con người mới là chuẩn mực cho vạn vật. Xuân Diệu khi
miêu tả thiên nhiên đã lấy con người làm thước đo: “Lá liễu dài như một nét mi”,
“Mây đa tình như thi sĩ thời xưa”. Đinh Hùng thấy mình là trung tâm mà không gian,
thời gian như phụ thuộc vào đó: “Chúng ta đến mùa xuân thay sắc diện”… Cách nhìn
thế giới thay đổi, quan niệm mỹ học cũng thay đổi theo. Thơ mới đi sâu vào khai
thác thế giới thiên nhiên, coi nó như là một thế giới bình yên, thanh sạch, và là khách
thể cần khám phá, chinh phục.
Với tư cách là chủ thể nhận thức, cái tôi cá nhân trong Thơ mới đồng thời
cũng đóng vai trò là chủ thể sáng tạo mang phong cách riêng với nhu cầu tự khẳng
định mình. Rất nhiều bài trong Thơ mới, cảm hứng chủ đạo phô bày trực tiếp một
quan niệm, một tư tưởng nào đó của nhà thơ. Con người cá nhân, cá thể xuất hiện
trong Thơ mới là con người trực tiếp đối diện với thế giới và đối diện với chính
mình, hân hoan khẳng định chính mình. Các thi sĩ cất lên tiếng nói của chủ nghĩa cá
nhân đầy tự tin và tự hào. Xuân Diệu khẳng định mình như một văn nhân độc đáo,
cá biệt: “Ta là một, là riêng, là thứ nhất” (Hy Mã Lạp Sơn). Trần Huyền Trân lang
thang trên trên cánh đồng thơ bằng những bước đi đặc dị: “Chân mình vẫn lạc dấu
27
nghìn chân” (Tha hương)… Coi mình như người khác hẳn phàm trần, cũng đồng
nghĩa các nhà thơ mới tự cảm thấy mình lạc lối thời cuộc. Đinh Hùng chập chờn
giữa thế giới nguyên thủy tiền kiếp và đô thị hiện đại như lạc bước giữa trần đời:
“Ta về đây lạ hết các ngươi rồi - Lạ tình cảm, lạ đời chung, cách sống” (Bài ca man
rợ). Xuân Diệu và Huy Cận như một “ải quan xa”, một đóa hoa trong hẻm núi… Lẻ
loi trước nhân thế, các thi sĩ luôn tìm lời giải đáp cho câu hỏi “Ta là ai?” trên cõi
đời này. Chính vì vậy, xuất hiện nhiều câu thơ các thi sĩ tự truy vấn chính mình. Đó
cũng chính là một cách tuyên xưng dõng dạc đầy khẳng định của cái tôi - chủ thể.
Thế Lữ - “người khách đi qua trần thế” mộng mơ trong chốn bồng lai với tiên nga,
ngọc nữ, tiếng sáo Thiên Thai, hạc trắng hoa đào: “Tôi là người bộ hành phiêu lãng
- Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi” (Cây đàn muôn điệu). Xuân Diệu tự xem
mình: “Tôi là một kẻ làm thơ thẩn - Cúi nhặt thơ rơi giữa sỏi đường” (Đi dạo). Và
còn nữa, Tôi - cây kim bé nhỏ, Tôi - con chim đến từ núi lạ, Tôi - con nai bị chiều
đánh lưới, Tôi - thi sĩ của yêu thương, Tôi - kẻ đưa răng bấu mặt trời… Ý thức chủ
quan của chủ thể được biểu lộ một cách trực tiếp qua sự khẳng định của ý thức cá
nhân. Trong sự biểu hiện ấy, cái tôi Thơ mới thể hiện mọi tâm trạng, từ niềm vui
đến nỗi buồn, sự tuyệt vọng trên đường tìm hạnh phúc và cả những giấc mơ không
thành hiện thực để hữu hình hóa những vi diệu tâm hồn.
Mặc dù cái tôi Thơ mới xuất hiện với đầy đủ ý nghĩa tuyệt đối, nhưng sau sự
lên ngôi rực rỡ buổi đầu, thì về sau lại tỏ ra bất lực. Đỗ Lai Thúy nhận xét: “Con
người cá nhân Việt Nam vừa mới ra đời đã vấp phải bao mâu thuẫn, ngoài những
mâu thuẫn thường hằng của bản chất người. Đó là mâu thuẫn giữa nền văn hóa
nông thôn cổ truyền và nền văn hóa đô thị mới hình thành, giữa Đông và Tây, giữa
dân tộc và thế giới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa cái ta và cái tôi…” [88,268].
Nói cách khác, đó là sự lỗi nhịp của vòng quay lịch sử - thi ca. Trong sự lỗi nhịp ấy,
cái tôi cá nhân Thơ mới có nguy cơ chao đảo và bộc lộ hạn chế về tư tưởng. Thi
nhân đơn độc cùng nỗi âu sầu riêng tư, miên viễn vì một tình yêu trắc trở, một cảnh
sắc thiên nhiên, một nỗi niềm tâm sự… Nhưng trên hết, vì họ không thỏa hiệp được
với xã hội “kim tiền ô trọc”, lại xa rời và không có niềm tin vào thắng lợi của cuộc
đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân. Vậy là cái buồn trong cuộc đời thực
đã trở thành “tham số thi ca”… Thi sĩ biết cách tạo dựng cho lâu đài thơ mình một
thế giới buồn sầu riêng biệt. Trong dàn đồng ca đa sầu đa cảm Thơ mới, Huy Cận là
hồn thơ ảo não, thê thiết nhất. Nhà thơ tìm đến “nỗi sầu nhân thế” (Spléen) của Poe
28
và Baudelaire, khơi dậy mạch “sầu vạn kỷ” mấy ngàn năm ngấm ngầm trong hồn
thơ kim cổ để chiêm nghiệm không gian vô biên vô cùng và thời gian vô thủy vô
chung. Hồ Dzếnh mang nỗi sầu bao la bất tận của một tâm hồn Minh hương viễn
xứ. Giữ vai trò thi sĩ tiên phong của phong trào Thơ mới, tiếng thơ Lưu Trọng Lư
sẵn sàng “lịm người trong thú đau thương”, tự tay “buộc dải tang cho mình” để đối
chất, bộc bạch nỗi “sầu bao la”, “sầu biêng biếc”, “sầu vô hạn”. Nỗi sầu ngấm vào
từng thi ảnh, từng giai điệu thơ ông: “mắt sầu gợn sóng”, “sầu tràn cỏ cây”, “ngày
một thêm sầu”… với trạng thái “não nùng”, “bi thiết”: “Nghiêng nghiêng mái tóc
hương nồng - Thời gian lặng rót một dòng buồn tênh” (Thơ sầu rụng)... Chất sầu
buồn Thơ mới còn ở nỗi dằn vặt của Vũ Hoàng Chương, nỗi phẫn uất của Nguyễn
Vỹ, nỗi khắc khoải của Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, nỗi thống thiết tang thương
trong thi phẩm Trường thơ Loạn…
Đằng sau những buồn thương, đơn độc trước thực tại tối đen và lòng người
dưng dửng, các nhà thơ mới thường đặt mình vào cõi tiên, cõi ma để mộng mơ, siêu
tưởng… Và trong vô vàn cách trốn thoát, không ít người chọn đường về quá khứ,
một ngày xưa mơ hồ giúp họ tìm lại thời gian đã mất để may ra còn thấy sự hiện
hữu chính mình trong thế giới xa vời của ngày xưa thân ái. Nguyễn Nhược Pháp có
cả một tập thơ lấy tên là Ngày xưa nhằm làm sống lại một thời “sắc màu tươi, hình
dáng ngộ nghĩnh” [83,270]. Vũ Đình Liên hướng lòng vào “hàng thành quách cũ -
Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa” (Lòng ta là những hàng thành quách cũ),
tưởng nhớ bóng dáng ông đồ viết câu đối tết, hoài vãng nét đẹp văn hoá một thời
trong niềm da diết: “Những người muôn năm cũ - Hồn ở đâu bây giờ” (Ông đồ - Vũ
Đình Liên). Chế Lan Viên mơ tưởng về những gì rực rỡ nhất thời hoàng kim Chiêm
quốc… Vọng về quá khứ từ hiện tại đau buồn là hành trình tìm ký ức cội nguồn và
ký ức tâm hồn của thi nhân, cũng là của nhân sinh, của thế sự.
Tuy có hạn chế về mặt tư tưởng, nhưng sự xuất hiện của cái tôi cá nhân cá
thể Thơ mới đã đóng góp lớn trong việc sáng tạo nên những giá trị nghệ thuật, làm
thay đổi quan niệm thơ, quan niệm nghệ thuật về con người, chuyển từ “thơ điệu
ngâm” sang “thơ điệu nói” (Trần Đình Sử), đưa thơ vươn tới bao giá trị mới chưa
từng có trước đó.
Khi “cái tinh thần Thơ mới” - chữ tôi nở rộ, tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi
về thi pháp, mở rộng chân trời sáng tạo cho các nhà thơ mới, nhất là bình diện nghệ
thuật ngôn từ.
29
Thơ ca phương Tây, đặc biệt thơ ca Pháp hiện đại là nguồn mạch quan trọng
của Thơ mới. Có thể xem Thơ mới là một hành trình tiếp thu những trào lưu thơ
Pháp: lần lượt từ thơ lãng mạn thế kỉ XIX, đến thơ tượng trưng và có những biểu
hiện đầu tiên gần với thơ siêu thực những năm 20 của thế kỉ XX… Vì cùng lúc tiếp
nhận nhiều trào lưu nghệ thuật, nên phong trào Thơ mới, việc đẩy lên thành chủ
nghĩa riêng biệt là bất khả. Dù mỗi thi sĩ chịu ảnh hưởng của trường phái này hay
trường phái khác, nhưng khó có thể tìm ra lát cắt rạch ròi để phân xu hướng cho
từng nhà thơ, mà đa phần ở họ có sự đan xen, xuyên thấm của nhiều khuynh hướng.
Được giải phóng triệt để khỏi các phép tắc, thanh vận chặt chẽ của các thể
loại thơ truyền thống, Thơ mới bắt đầu xuất hiện nhiều bài mà số lượng các câu thơ
không còn bị giới hạn. Sau bao năm thơ ca trung đại sử dụng ngôn từ “như những
viên gạch để lắp vào bộ khung cố định của luật thơ” (Trần Đình Sử), thì với Thơ
mới, ngôn từ bùng nổ và trở nên phong phú, mới lạ hơn bao giờ hết. Với số từ vựng
giàu có, cách diễn đạt tự nhiên, đầy năng lượng và biến hóa trong từng phong cách,
Thơ mới khai thác nhiều giá trị các biện pháp tu từ, tạo cho ngôn ngữ thơ giàu sắc
thái biểu cảm, cung cấp thông tin mới cho từ trong hoạt động ngữ nghĩa. Đó là
những cách dùng từ rất lạ, những kiểu lập ngôn đầy hấp dẫn của Thơ mới mà văn
chương trung đại không bao giờ chấp nhận, như: “Chị ơi, em cưới mùa xuân nhé? -
Đốt pháo cho thơm với rượu hồng” (Xuân tha hương - Nguyễn Bính)… Đặc biệt,
ngôn ngữ bình thường trong đời sống hàng ngày đã được nâng lên thành ngôn từ
nghệ thuật nhằm mở rộng khả năng biểu đạt và biểu hiện để đáp ứng nhu cầu thổ lộ
dòng tâm trạng đang chất chứa nguồn cảm xúc tràn bờ trong thơ.
Không chỉ phong phú về số lượng và mới mẻ trong diễn đạt, ngôn từ Thơ
mới còn rất giàu tính nhạc. Nhạc tính là nguyên lý của thơ tượng trưng - đó cũng là
tinh túy của âm thanh, là đặc trưng ngôn ngữ Việt Nam. Bằng cách phối hợp thanh
điệu, kết hợp nguyên âm cao với phụ âm vang, cùng nhịp điệu tâm hồn và tinh thần
âm nhạc của thơ tượng trưng, các thi sĩ Thơ mới tạo nên những bản hòa âm giữa thơ
với nhạc. Tiếng nhạc vang ngân, da diết của Thơ mới được tạo nên bằng nhiều
cách: bằng làn điệu lục bát ca dao, dân ca được các nhà thơ biến tấu, vắt dòng, ngắt
nhịp: “Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi - Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...” (Buồn đêm
mưa - Huy Cận); bằng việc xây dựng câu thơ bình thanh: “Sương nương theo trăng
ngừng lưng trời - Tương tư nâng hồn lên chơi vơi” (Xuân Diệu); bằng cách điệp
30
âm, điệp thanh, lặp khổ: “Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dặt - Như hắt hiu
cùng hơi gió heo may” (Tiếng trúc tuyệt vời - Thế Lữ)... Với gợi ý từ tinh thần nhạc
của thơ tượng trưng, Thơ mới sáng tạo nên những bài thơ gây ấn tượng mạnh bởi sự
du dương âm điệu, làm giàu có hơn, đẹp đẽ hơn giá trị của ngôn ngữ tiếng Việt.
Bên cạnh tính nhạc, quan niệm của phái tượng trưng về sự tương hợp giữa
ánh sáng, màu sắc, âm thanh, mùi hương, nhạc điệu trong thế giới mơ hồ, siêu
tưởng đã in đậm rõ nét trong ngôn từ Thơ mới. Chủ thể tiếp nhận thơ tượng trưng
mài sắc giác quan, cùng lúc nghe mùi hương, ngửi màu sắc và nhìn âm thanh, khiến
thơ ca có thể chiếm lĩnh và biểu hiện thế giới tự nhiên một cách tinh vi, màu nhiệm.
Xuân Diệu khi viết “Những luồng run rẩy rung rinh lá” (Đây mùa thu tới) đã kết hợp
được rung động của nhạc điệu vào giao cảm tinh vi của thiên nhiên. Không chỉ ngắm
nhìn những chiếc lá cuối thu rung rinh trước gió, thi nhân còn cảm nhận được sự run
rẩy tội nghiệp của chúng khi sắp lìa cành. Ta còn thấy cảm quan tương ứng này ở rất
nhiều câu thơ: “Trong không khí hương với màu hòa hợp” (Đi giữa đường thơm -
Huy Cận); “Khúc nhạc hồng êm ái - Điệu kèn biếc quay cuồng” (Say - Vũ Hoàng
Chương); “Màu thời gian không xanh - Màu thời gian tím ngát - Hương thời gian
không nồng - Hương thời gian thanh thanh” (Màu thời gian - Đoàn Phú Tứ)…
Cùng với lãng mạn và tượng trưng, phong trào thơ siêu thực cũng lan tỏa vào
Thơ mới. Thế giới thơ siêu thực không phải là bản hòa âm bất tận được cảm nhận
vẹn toàn như thơ tượng trưng, mà chủ yếu là chiều sâu nội giới, những khuất khúc
và thẳm sâu của vô thức. Đó là thế giới thực tại của những ám tượng bất ngờ trở đi
trở lại vượt ngoài kiểm soát lý trí, tạo nên hình tượng và thi ảnh riêng biệt. Đây
chính là nguyên nhân hình thành lối viết tự động tâm linh, như chép lại những dòng,
những chữ của vô thức. Kết quả hình thức viết này tạo ra một sức mạnh để tiếp cận
một cách ngẫu nhiên những hiện thực mà tính logic hoàn toàn bất lực, không bao
giờ có thể liên kết lại được. Ta cũng có thể bắt gặp những vần thơ vượt qua từ
trường của thơ lãng mạn và tượng trưng, men tới lãnh địa của siêu thực để đi vào
thế giới siêu nhiên, siêu cảm này trong sáng tác của Nguyễn Xuân Sanh, Vũ Hoàng
Chương, một số tác giả của nhóm Dạ Đài, Xuân Thu nhã tập và Trường thơ Loạn…
Tuy “thực hiện một bước tổng hợp quan trọng giữa tinh hoa văn hóa Đông
Tây” [19,215], nhưng sự xuất hiện của Thơ mới không giống như “chiếc nấm lạ
trên cây gia hệ văn học dân tộc” [88,11]. Thơ mới đi vào quỹ đạo hiện đại mà
31
không thoát ly mạch nguồn truyền thống và văn chương nước nhà. Có thể tìm gặp
trong Thơ mới vô vàn thể loại với những hình thức diễn đạt khác nhau. Đó là những
thể loại thơ có nguồn gốc dân tộc, dân gian và bác học như lục bát, song thất lục
bát, tám chữ (hát nói), hay các thể thơ vay mượn đã trở thành truyền thống như thể
hành, thất ngôn, ngũ ngôn, tứ tuyệt… Các giá trị và thể loại truyền thống dân tộc
này đã nhập cuộc Thơ mới trên tinh thần hiện đại hóa sâu sắc nhằm thích ứng với
những nhu cầu của con người thời đại mới, nghĩa là đã sáng tạo nâng cao từ cái cũ
để phù hợp với “dòng cảm xúc”. Đó là một trong những nguồn tạo nên tinh thần
truyền thống, là gốc cội để các nhà thơ tìm về khẳng định cái tôi thời đại, làm mới
mình ngay trên mảnh đất quê hương. Điều này còn được minh chứng bằng sự xuất
hiện những dòng Thơ mới mang phong vị dân gian với những tác giả như: Anh
Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… Đặc biệt, sự hiện diện của Nguyễn Bính - thi sĩ
chân quê thứ thiệt đã kết tinh và thăng hoa cảnh quê, duyên quê, tình quê và cả nhịp
điệu đậm chất quê kiểng Việt Nam.
Vừa học tập phương Tây, vừa tiếp thu thơ Đường, vừa sử dụng tinh hoa văn
học dân tộc, các nhà thơ mới đã làm được bước tổng hợp quan trọng giữa văn hóa
Đông Tây và truyền thống. Đó là một sự tích hợp nghệ thuật kỳ diệu, độc đáo trong
lịch sử văn học Việt Nam và nó đã đi trọn hành trình thi ca trước lúc hạ cánh để
chuyển qua bước ngoặt mới khi lịch sử sang trang.
2.1.2. Quá trình tiếp nhận chủ nghĩa tượng trưng của Thơ mới
Chủ nghĩa tượng trưng (Symbolisme) là một trào lưu nghệ thuật và là một
quan điểm triết học - mỹ học xuất hiện ở Phương Tây, trước hết là ở Pháp… Đây là
khuynh hướng văn học nảy sinh ở Pháp nửa sau thế kỷ XIX, sau đó lan rộng thành
hiện tượng văn hóa toàn châu Âu, bao gồm nhiều lĩnh vực văn học - nghệ thuật,
như: thơ, kịch, tiểu thuyết, hội hoạ, sân khấu, âm nhạc… Ở nghĩa hẹp của thuật ngữ,
chúng tôi xem chủ nghĩa tượng trưng là một khuynh hướng văn học đánh dấu cột
mốc mới trong tiến trình hình thành và phát triển của văn học hiện đại trên thế giới.
Lịch sử thơ, ở đâu và bao giờ cũng là sự tiếp nối và đoạn tuyệt, kế thừa
truyền thống và bước nhảy sáng tạo. Vì, trong chiều hướng động của nghệ thuật,
một thi phái ngự trị một thời gian ngắn hay dài, dẫu ban đầu thật sự sôi nổi, lôi cuốn
cả một thế hệ văn học, rồi theo năm tháng cũng sẽ trở nên nhàm chán với những gì
đã từng đưa nó lên đài vinh quang quá khứ. Hai thi phái lãng mạn và Thi sơn, dù có
32
ảnh hưởng lớn trên thi đàn Pháp và để lại cho hậu thế những áng thơ bất hủ của
những tài danh chói sáng, nhưng rồi cũng phải chịu chung số phận ấy. Trường phái
lãng mạn chủ trương phá bỏ những quy luật chặt chẽ của thơ cổ điển, đề cao cái tôi
trữ tình, chú trọng tự do cá nhân, tin vào cảm hứng. Bằng óc tưởng tượng phong
phú, bằng tình cảm vị kỷ, các nhà thơ đi vào ngợi ca những mối tình đắm say,
những sầu đau hoài cảm, khóc gió, than mây và thả hồn phiêu diêu nơi cõi mộng để
bộc bạch nỗi niềm. Những vần thơ trào dâng cảm xúc của Alphonse de Lamartine
(1790 - 1869), Alfred de Vigny (1797 - 1863), Victor Hugo (1802 - 1885), Alfred
de Musset (1810 - 1857)… là đỉnh cao và tiêu biểu cho trào lưu nghệ thuật này.
Tương phản với lãng mạn, phái Thi sơn không tin ở cảm hứng, đả kích sự nô
lệ tình cảm như ma trận trữ tình mà thiếu những khắt khe về nghệ thuật của lối thơ
ấy. Thi sơn chú trọng vào sự gọt đẽo, chải chuốt của câu chữ để hình thức thơ phải
đẹp như một công trình kiến trúc trên cẩm thạch. Những đại diện của khuynh hướng
này như: Théophile Gautier (1811 - 1872), Leconte de Lisle (1818 - 1894),
Théodore de Banville (1823 - 1891), Sully Prudhomme (1839 - 1907), François
Coppée (1842 - 1908)… chủ trương một lối thơ vô cảm, công khai xu hướng vị
nghệ thuật trong thơ. Cả hai trường phái lãng mạn và Thi sơn đều có những điểm
yếu gây ra sự bất lực trong việc định hướng tư tưởng, tạo rung cảm cho thi ca.
Nhiều thi sĩ và độc giả bắt đầu nhàm chán, không chấp nhận lối thơ dễ dãi của thi
phái lãng mạn, cũng không tán thành đặc tính vô cảm, nặng tinh thần thực chứng
của phái Thi sơn. Họ hướng đến một lối thơ thuần khiết, có khả năng biểu đạt
những rung động tế vi của thế giới tâm hồn bằng một cách thức mới… Trước bối
cảnh một trường phái mới có thể thành hình, ngày 18.9.1866, báo Le Figraro cho
đăng bài của Jean Moréas - nhà thơ người Pháp với tựa đề: Un manifeste littéraire
(một bản tuyên ngôn văn chương). Bài báo được xem là bản tuyên ngôn định vị chỗ
đứng của thơ tượng trưng trong dòng chảy thi ca, một nhận thức về bản tính của thơ
để từ đó hướng đến sự sáng tạo.
Thực ra, sự mở đầu của thi phái tượng trưng sớm hơn nhiều, bắt đầu cùng
với sự xuất hiện của tập thơ Les fleurs du Mal (Những bông hoa ác) của Charles
Baudelaire (1821 - 1867), năm 1857. Kế thừa các nhà thơ lãng mạn qua sự kiếm tìm
cái tuyệt đối và phái Thi sơn qua sự đòi hỏi về hình thức, nhưng Baudelaire đánh
dấu một sự đoạn tuyệt hoàn toàn trong lịch sử thơ. Theo Baudelaire, “chức năng
33
đích thực của thơ là tượng trưng” [61,28]. Nguyên tắc mỹ học chủ đạo trong thơ với
ông là “những tương ứng”, tất cả đều giao hòa: tự nhiên hòa siêu nhiên, con người
hòa vũ trụ, các giác quan xâm nhập vào nhau, thế giới là một thể thống nhất.
Từ sự khơi nguồn của thủ lĩnh Baudelaire, các thế hệ nhà thơ sau này như
Arthun Rimbaud (1854 - 1891), Stéphane Mallarmé (1842 - 1898), Paul Verlaine
(1844 - 1896)… tiếp tục bổ sung những ý tưởng nghệ thuật và nâng lên thành chủ
nghĩa. Rimbaud kêu gọi “nhà thơ phải là người có thiên nhãn” (un voyant). Chàng
thi sĩ xứ Charleville đã làm một cuộc nổi loạn ngôn từ, đập phá mọi rào cản để đi
đến “miền sáng chói của tâm linh”. Mallarmé ao ước mang lại cho ngôn ngữ khả
năng thể hiện ý tưởng thuần túy mà những hình thức cảm tính chỉ là cái nhìn biểu
lộ. Rimbaud và Mallarmé chứa đựng thiên nhãn và bí hiểm, là những nhà luyện đan
ngôn từ, tiến hành cách mạng ngôn ngữ thơ ca Pháp. Verlaine đưa vào thơ vẻ đẹp
lấp lánh bằng âm nhạc và hội họa. Thơ “trước hết phải có nhạc tính”, do âm nhạc
hơn hẳn các nghệ thuật khác trong việc truyền đạt những sắc thái, những bán âm.
Verlaine được xem là nhạc sĩ của thi ca… Tất cả họ đã định hình các nguyên tắc,
khơi nguồn những ý hướng hiện đại mới không chỉ cho thơ Pháp mà còn cho thơ ca
nhân loại. Những ý hướng đó ngày càng trở nên hấp dẫn và có sức lôi cuốn, mời gọi
một thế hệ thơ những thập niên cuối thế kỷ XIX cho đến đầu thế kỷ XX. Ngoài
những tên tuổi vừa nhắc tới, có thể kể đến các thi sĩ như: Comte de Lautréamont,
(1846 - 1870), Émile Verhaeren (1855 - 1916), Gustave Kahn (1859 - 1936), Jules
Laforgue (1860 - 1887), Maurice Maeterlinck (1862 - 1949), Francis Viélé Griffin
(1846 - 1937), Henri de Réginier (1864 - 1936), Paul Claudel (1868 - 1955), Paul
Valéry (1871 - 1945), Guillaume Apollinaire (1880 - 1918). Số lượng đông đảo các
nhà thơ đã xác tín cho sự hấp dẫn và vai trò lịch sử đặc biệt của thi phái này.
Albérès đánh giá: “Sự xuất hiện của họ (những nhà thơ tượng trưng - VNN) không
phải là mở đầu một nền thi ca mới như người ta đã nói một cách ngây thơ, mà chính
là sự toàn thắng của nền thi ca ấy: buổi chung kết của cuộc chiến đấu tự ngàn năm
giữa thi ca thần diệu với thi ca trần tục, giữa khuynh hướng biến thi ca thành cuộc
khám phá vũ trụ với khuynh hướng dùng nó làm đồ trang trí cho thế giới thông
thường của xã hội loài người” [3,215].
Thi phái tượng trưng thực sự trở thành một hiện tượng thơ đầy sức quyến rũ.
Không phải ngẫu nhiên, hầu hết các nền văn học hiện đại phương Tây đều chịu ảnh
34
hưởng của thi phái này. Thơ Việt Nam trong buổi chuyển mình mới - cũ cũng tìm
thấy ở thơ tượng trưng những giá trị ưu việt để góp phần nâng nền thi ca dân tộc lên
một tầm mới. Luồng gió tượng trưng thổi vào nước ta giữa lúc thi ca tượng trưng
Pháp sắp tàn lụi, chuẩn bị bước sang phong trào thơ siêu thực và tả chân. Nhưng dù
muộn màng, Thơ mới Việt Nam cũng đón nhận say sưa những tinh túy của các
nguyên lý mỹ học thơ tượng trưng, tiếp biến những vang động sâu xa của tư duy thơ
hiện đại này để hoán cải và cách tân nền thơ ca nước nhà.
Trong quá trình tiếp nhận ảnh hưởng thi phái tượng trưng phương Tây, phong
trào Thơ mới Việt Nam có những thuận lợi nhất định cả chủ quan và khách quan.
Thơ mới trước hết đã chủ động tiếp nhận chủ nghĩa tượng trưng trong bối
cảnh giao lưu văn học. Đầu thế kỷ XX, kinh tế đô thị phát triển mạnh, tầng lớp thị
dân hình thành và ngày càng đông đảo đi liền với những thị hiếu và nhu cầu mới.
Chữ quốc ngữ đã thành thục, lớp trí thức Tây học ngày càng nhiều… Những điều
kiện ấy giúp người Việt Nam, khi đứng trước văn học phương Tây càng nhận ra sự trì
trệ, xơ cứng của nền thơ cũ tồn tại bao thế kỷ. Yêu cầu thời đại đòi hỏi lớp trí thức
Tây học phải thoát ly hệ tư tưởng phong kiến lạc hậu, không còn bị bó buộc trong tư
thế nghiêm khắc, cổ hủ mà mở rộng tâm hồn và trái tim trước cuộc đời. Sự thay đổi ý
thức hệ tư tưởng đã tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến đời sống văn học. Với tư cách
là một hình thái ý thức xã hội, văn học cũng phải cách tân tìm cho mình chỗ đứng.
Những hình thức nghệ thuật mới lạ của phương Tây lần đầu có mặt ở Việt Nam
như: sân khấu, kịch, hội họa, âm nhạc…, đặc biệt là họat động báo chí, văn học dịch
thuật viết bằng chữ quốc ngữ được truyền bá rộng rãi, trở thành dòng thông tin quan
trọng, giúp các trí thức được tiếp cận với văn học Pháp ngày một nhiều hơn. Qua
báo chí và dịch thuật, trí thức say sưa với các tác phẩm văn học Pháp của Hugo,
Musset, Stendhal, Balzac, Baudelaire, Rimbaud, Verlaine..., tiếp xúc với các nhà khai
sáng như Montesquieu, Diderot, Voltaire. Từ đó, chắt lọc thơ văn ưu tú của nhân
loại, tinh hoa thơ Pháp để sáng tạo thơ mình. Những tư tưởng, tình cảm, tâm trạng
của thơ Pháp thấm dần vào hồn thi sĩ ta một cách tự nhiên và đồng điệu. Tư duy thơ
cũ không còn phù hợp để diễn tả tếng nói thầm kín của cái tôi cá nhân ắp đầy tâm
trạng bế tắc trước hiện thực, vì thế mất dần chỗ đứng trên thi đàn. Nhu cầu đổi mới
văn học được đặt ra một cách cấp bách. Sau những khúc dạo đầu, người tiên phong
cho Thơ mới chính là Thế Lữ. Tiếp đến là Lưu Trọng Lư. Từ thời đỉnh cao cho đến
35
hết một vòng đời, xuất hiện trong Thơ mới hàng loạt các tên tuổi: Huy Thông, Xuân
Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Trần Huyền Trân, Vũ Hoàng Chương, Bích Khê,
Huy Cận, Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Anh Thơ, Tế Hanh, Đinh Hùng… Trong sự
tiếp xúc, giao lưu và học hỏi đó, có nguyên tắc sáng tác của thi phái tượng trưng là
một thực tế không phủ nhận. Các tác giả thơ tượng trưng như Charles Baudelaire,
Arthur Rimbaud, Paul Verlaine, Edgar Allan Poe... đã để lại nhiều dấu ấn trong
sáng tác của một bộ phận các nhà thơ mới. Nghệ thuật tinh vi, thế giới biểu tượng,
ngôn ngữ giàu nhạc điệu của thơ tượng trưng được các nhà Thơ mới tiếp thu một
cách nhuần nhuyễn. “Một thế kỷ thơ Pháp từ lãng mạn như Lamartine đến tượng
trưng như Mallarmé đã thu lại và in bóng trong 10 năm của phong trào Thơ mới”
[23,43]. Từ những bối cảnh như vậy, việc thơ Việt Nam tiếp nhận và vận dụng các
nguyên tắc sáng tác của thơ tượng trưng phương Tây trở nên phổ biến, và có thể sự
tiếp thu ấy qua thi phẩm của các tác giả Thơ mới sẽ còn để lại dư âm lâu dài cho
nền thơ Việt Nam qua nhiều thế kỷ... Đây có thể xem là sự chủ động tiếp nhận ảnh
hưởng của thơ tượng trưng trong bối cảnh giao lưu văn học.
Về mặt khách quan, có thể thấy sự tiếp thu chủ thuyết sáng tạo của thi phái
tượng trưng trong Thơ mới có nhiều thuận lợi, vì mĩ học của thi phái tượng trưng có
những điểm tương đồng với truyền thống thơ Việt và tư duy người Việt.
Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn âm tiết. Mỗi âm tiết ngoài khả năng
biểu đạt một nội dung còn có khả năng tạo nên tính hình tượng với cấu trúc đa tầng.
Hệ thống từ ngữ tiếng Việt chất chứa nhiều biểu tượng và bên cạnh tính tượng trưng
về ý nghĩa, sức ám gợi của âm thanh từ ngữ cũng rất mạnh. Sự phong phú về mặt
thanh điệu làm cho tiếng Việt thực sự có lợi thế trong việc diễn tả một cách dễ dàng
các sắc thái, các cung bậc khác nhau của tâm hồn con người. Truyền thống thơ Việt
đã khai thác rất tốt khả năng đó của tiếng Việt. Và như ta đã biết, thơ tượng trưng rất
chú ý tạo nhạc tính cho tác phẩm, hàu tìm lối thoát cho những giá trị thẩm mỹ, khắc
phục kiểu trình bày trực tiếp sự vật. Nói như Baudelaire: “âm nhạc cho ý tưởng về
không gian”, “âm nhạc làm sâu thẳm bầu trời”. Paul Valéry định nghĩa: “Thơ là sự
tương giao giữa âm thanh và ý nghĩa”. Đó là điểm tương đồng giữa truyền thống thơ
Việt và thơ tượng trưng Pháp. Tuy nhiên, vẫn có điểm khác biệt: nhạc tính trong
truyền thống thơ Việt là thứ âm nhạc chủ yếu mang tính chất mô phỏng - mô phỏng
sự vật, mô phỏng hành động; còn nhạc tính thơ tượng trưng thì tuân theo nguyên tắc
36
kết hợp giữa các âm thanh, cách hiệp vần, ngắt nhịp để tạo nên những cung bậc cao
thấp, những trường độ, cao độ, từ đó mỗi bài thơ là một giai điệu riêng. Chính sự
khác biệt này là điều kiện để Thơ mới sáng tạo khi tiếp thu. Thơ mới rất chú trọng
vấn đề nhạc tính, và trong thực tiễn sáng tác thơ ca, Thơ mới tạo ra những bài gây ấn
tượng mạnh mẽ không chỉ bởi hình ảnh, màu sắc mà chính bởi sự du dương trong âm
điệu của nó. Đặc điểm loại hình kết cấu của nhiều bài thơ mới là “tổ chức bài thơ theo
sự dẫn dắt của âm nhạc”, từ đó hướng đến “những thể nghiệm về thơ tự do, về một
loại thơ sử dụng toàn thanh bằng hay loại thơ trong đó đầy những biểu tượng ám gợi”
[11,67-74]. Tinh thần âm nhạc trong thơ được thể hiện qua nhiều tác giả, như: Xuân
Diệu với Nguyệt Cầm, Lưu Trọng Lư với Tiếng thu, Thế Lữ với Tiếng trúc tuyệt vời,
Huy Cận với Buồn đêm mưa, Nguyễn Xuân Sanh với Buồn xưa… Dường như nhà
thơ mới nào cũng ráo riết tiến hành cuộc truy tìm cái đẹp trong tiếng Việt, để chuyển
tải linh hồn âm nhạc cho thơ.
Người Việt Nam từ thời trung đại đã có thế mạnh về lối tư duy bằng hình
tượng. Khi chưa tách mình ra khỏi tự nhiên và chưa nhận thức được nó, người xưa
thường sử dụng tự nhiên để thực hiện nhu cầu biểu hiện mình và tư duy tượng trưng
được hình thành từ đó. Lối tư duy tượng trưng nguyên thủy đã có lâu đời trong cách
cảm, cách nghĩ của người phương Đông. Điều này được thể hiện rất rõ trong thơ
Đường. Trước khi có thơ lãng mạn và tượng trưng phương Tây, người Việt trải qua
nhiều thế kỷ tiếp xúc với thơ Đường. Đó là một thứ thơ giàu biểu tượng, gắn chặt vào
tâm thức của người trung đại. Một trong những nội dung chính của thơ Đường là
khám phá mối giao hòa giữa con người và thiên nhiên. Nếu người phương Tây có thế
mạnh về lối tư duy khái niệm và thơ thiên về mạnh mẽ, hùng vĩ, chân xác và tráng lệ
thì người phương Đông thiên về lối tư duy trừu tượng, dùng hình ảnh có tính tượng
trưng để diễn đạt chân lý, về sự cảm nhận cái mênh mông huyền diệu của vũ trụ.
Trong Lịch sử văn minh Trung Hoa, Will Durrant phát hiện ra điểm khác biệt rất
căn bản giữa thơ phương Đông và thơ phương Tây như sau: “thơ phương Tây thiên
về cái mạnh mẽ, hùng vĩ, chân xác và tráng lệ, còn thơ phương Đông thiên về cái
linh diệu, và thế mạnh cảm nhận cái mênh mông huyền diệu của vũ trụ chỉ có thơ
phương Đông mới có” [13,153]. Đây cũng chính là điểm gặp nhau nữa giữa thơ
Đường ở Việt Nam với thơ tượng trưng.
37
Người phương Đông nói chung, người Việt Nam nói riêng từ buổi hồng hoang
đã xem vũ trụ là một thể thống nhất, con người là một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ
(tiểu ngã trong đại ngã). Do vậy, vạn vật và con người nằm trong mối tương giao mật
thiết. Người xưa tin rằng nhờ sự liên hệ mật thiết đó mà trời đất và con người có khả
năng giao cảm, tương ứng… Tư tưởng thiên địa nhân hợp nhất là cốt lõi và đặc điểm
lớn của văn học Trung Hoa xưa và Việt Nam không nằm ngoài vùng phủ sóng của tư
tưởng này. Điều đó được chi phối rất rõ trong thơ. Bước vào thế giới Đường thi có
cảm giác như bước vào thế giới của sự hòa điệu. Những con người “siêu cá thể” tồn
tại giữa lòng thiên địa càn khôn trong sự hô ứng, tương giao, hòa hợp với thiên
nhiên… Mối liên hệ huyền bí giữa con người và vũ trụ là sự trùng hợp thú vị giữa cái
tìm tòi của thơ Pháp và chiều sâu tâm thức của người phương Đông và người Việt
Nam. Vì vậy, các nhà thơ mới Việt Nam không gặp nhiều khó khăn khi tiếp nhận
“cảm quan tương ứng” của thơ tượng trưng. Họ mài sắc các giác quan, “tổ chức lại tự
nhiên bằng các sức mạnh tưởng tượng của tinh thần theo ý niệm về sự tương hợp
Baudelaire” [61,110], khiến thơ ca có khả năng chiếm lĩnh và biểu hiện thế giới tự
nhiên một cách tinh vi nhất. Tuy nhiên, cần lưu ý điều này, sự tương giao, hòa hợp
giữa con người với thiên nhiên trong thơ xưa thường bắt nguồn từ cơ sở triết học “dĩ
vạn vật vi ngã” (lấy vạn vật để làm rõ lòng mình), nên thiên nhiên là chuẩn mực để
đánh giá, thể hiện, bày tỏ tình cảm tâm hồn con người. Những nhà thơ tượng trưng
chủ nghĩa phương Tây đã gặp tinh thần phương Đông ở chỗ tính thống nhất của vũ
trụ, nhưng họ luôn có ý thức vạch rõ đường biên giữa chủ thể nhà thơ với khách thể
thiên nhiên, đồng thời thấy được sự tồn tại song song giữa hai thực thể vốn luôn có sự
tương giao ấy. Để rồi qua trực giác, vô thức, tượng trưng họ phát hiện ra một thế giới
mới cao hơn thế giới thực tại, ở đó có những tương ứng bất ngờ giữa con người, vũ
trụ. Quan niệm của Baudelaire về sự tương ứng của các giác quan đã phát huy tác
dụng của nó đối với nhiều nhà thơ mới. Họ có sự nhất thể hóa ngũ giác nhằm khai tỏa
thế giới tâm linh để cảm nhận những huyền ảo trong tự nhiên và trong lòng người.
Chính bề dày kinh nghiệm thẩm mỹ của thơ Việt và tâm hồn có liên quan
đến tư duy tượng trưng đã giúp các tác giả Thơ mới Việt Nam không phải đón nhận
mĩ học tượng trưng phương Tây như một cái gì hoàn toàn mới mẻ mà là một sự
thức dậy của những khả năng tiềm ẩn trong tâm thức của mình.
38
Trong quá trình tiếp nhận ảnh hưởng, thi pháp tượng trưng Thơ mới được hình
thành theo quỹ đạo riêng và không còn giữ nguyên chất thứ thơ tượng trưng phương
Tây. Giữa các thi sĩ có những khoảng cách trên đường nắm bắt cái mơ hồ, sắc thái
tinh vi, những âu lo, phiền muộn, trăn trở, ước mơ…, và mức độ chịu ảnh hưởng
cũng khác nhau, tùy từng nhà thơ, tùy từng giai đoạn. Những năm 1932 - 1935 là giai
đoạn đấu tranh giành thắng lợi của Thơ mới. Dù chịu ảnh hưởng chủ yếu từ thơ ca
lãng mạn Pháp, nhưng khoảng thời gian này thi phái tượng trưng Pháp đã men tới
lãnh địa tư duy nghệ thuật Thơ mới. Giai đoạn 1936 - 1940, Thơ mới song hành và
dung hòa nhiều khuynh hướng: lãng mạn, tượng trưng, siêu thực. Tuy vậy, không ít
nhà thơ đã thể hiện khuynh hướng thơ tượng trưng trong sáng tác của mình. Các thi sĩ
như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên có những quan niệm gần gũi
với nguyên tắc mỹ học tượng trưng của Baudelaire, Verlaine, Valéry… Ảnh hưởng
của nguyên tắc thơ tượng trưng đến phong trào Thơ mới Việt Nam được thể hiện rõ
nhất ở giai đoạn 1940 - 1945. Có thể kể đến các tác giả tiêu biểu của thời kỳ này như:
Bích Khê với Tinh hoa, Đinh Hùng với Mê hồn ca và Đường vào tình sử, Đông
Hoài với Giác linh hương, nhóm Dạ Đài và Xuân Thu nhã tập với những tuyên ngôn
thơ, tuyên bố kiến tạo thơ theo kiểu tượng trưng riêng biệt.
Dù không đủ sức thành lập một trường phái rõ rệt như ở Pháp, nhưng khuynh
hướng tượng trưng trong phong trào Thơ mới Việt Nam cũng được coi là hiện tượng
sống động và phong phú. Nhờ đó, vườn hoa nghệ thuật nước nhà điểm sắc thêm
hương để vượt ra khỏi khuôn khổ vùng miền, tiệm cận với thi đàn nhân loại.
2.2. Trường thơ Loạn và những dòng tượng trưng Thơ mới
2.2.1. Không gian văn hóa của Trường thơ Loạn
Bao giờ cũng vậy, định danh cho diện mạo văn hóa một vùng đất, không thể
không nhắc đến những căn nguyên về lịch sử, địa lý và con người vùng đất đó. Và
Bình Định cũng không ngoại lệ. Hình thành trên cơ sở của nền văn hóa Sa Huỳnh
tài hoa và chân mộc, khả dĩ sánh cùng hơi hướng khoáng đạt của văn hóa Óc Eo
phương Nam và chất lịch lãm của văn hóa Đông Sơn phương Bắc, trước khi chính
thức trở thành miền biên viễn của nước Đại Việt, Bình Định một thời là thánh địa
của vương triều Vijaya. Sau này, Bình Định còn là kinh đô của vương triều Tây
Sơn. Tuy ngắn ngủi, song vương triều ấy trường tồn mãi trong niềm tự hào dân tộc.
Sừng sững với thời gian, nhiều nền văn hóa tích tụ, chồng lên nhau thành những
giai tầng chất ngất, tạo nên một Bình Định hôm nay.
39
Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn có đoạn viết
về người Bình Định: “Học trò chăm học, nhân dân siêng cày; tính tình trầm tĩnh,
dũng cảm, thích làm việc nghĩa…” [72,13]. Ham học, dũng cảm, thích làm việc
nghĩa là đặc điểm rất riêng của người dân Bình Định. Người một xứ có tính trượng
nghĩa dễ kiến tạo nên những nhân tài kiệt hiệt. Quả thật vậy! Bao thế hệ cư dân
Bình Định đã không ngừng bồi đắp, làm phong phú thêm hồn vía đất đai bằng trí
tuệ mẫn cảm và tâm hồn phong phú của mình. Với sự hội tụ của những điều thiêng
liêng, kỳ bí khó giải nghĩa, mảnh đất Bình Định đã khơi gợi hồn thơ của biết bao thi
sĩ, làm nên một vùng khí hậu cho văn học nghệ thuật đâm chồi, nảy lộc... Nhiều yếu
tố của vùng đất địa linh nhân kiệt này ảnh hưởng đến khí chất độc đáo của các tác
giả thơ Loạn.
Trước hết, phải nói đến vẻ đẹp thơ mộng của vùng đất này. Nằm trong tuyến
liên hoàn của vùng duyên hải miền Trung, vị trí Trung trung bộ vừa đặt Bình Định
trước những thử thách về thiên tai khí hậu, lại vừa tạo cho xứ sở này những cơ
duyên địa lý thuận lợi. Giao duyên với núi, với sông, ba mặt dập dìu sóng biển,
Bình Định được thiên nhiên ban tặng rất nhiều danh lam thắng cảnh và một dải biển
bờ nên thơ, vừa đẹp một cách tự nhiên, vừa thiêng liêng bởi bao thế hệ cha ông dày
công bồi đắp, giữ gìn. Vùng non nước mang dáng sơn kỳ thủy tú với một Ghềnh
Ráng mộng mơ, một Cù Lao Xanh quyến rũ, một Hầm Hô mời gọi, một Thị Nại mơ
màng…, cùng nhiều, rất nhiều danh lam thắng cảnh mang vẻ đẹp thiên phú. Hầu
như danh thắng nào cũng đượm mầu huyền thoại với những câu chuyện cổ giàu tính
nhân văn, có sức mê hoặc lòng người một cách kỳ lạ. Sự gắn bó thân thiết giữa con
người với cảnh sắc thiên nhiên tự ngàn đời kết tụ xếp đặt cho Bình Định những gì
đẹp nhất, đáng yêu nhất và trìu mến nhất, làm nên hồn đất, hồn người rất riêng, khơi
nguồn thi hứng vô tận cho các nhà thơ. Thần thái địa cuộc đó đã đi vào ca dao:
“Năm dòng sông chảy - Sáu dãy non cao - Biển xanh sóng vỗ dạt dào”…
Đắm mình cùng sự hữu tình của trời đất ấy, có lẽ vẻ đẹp lung linh của ánh
trăng Quy Nhơn - Bình Định ám ảnh và khơi vào trực cảm thiêng liêng của Trường
thơ Loạn hơn cả. “Những đêm trăng sáng, màu trăng hoang dại, huyền hoặc thường
quyến rũ chúng tôi đi ngủ biển. Chế Lan Viên, Yến Lan và tôi hội họp tại nhà Hàn
Mặc Tử… những đêm ấy là những đêm mưa tầm tã, lụt ngập trời. Nhưng mưa ở đây
là mưa sao, lụt ở đây là lụt trăng. Chúng tôi bị trăng vây phủ tứ bề, ngăn hết nẻo
40
đường và bị mưa sao đứng sững dòm ngó chúng tôi…” [87,56]. Hồi ức của Hoàng
Diệp đã hé mở cho ta thấy được trăng không chỉ là đề tài hấp dẫn đối với Trường
thơ Loạn mà còn là hình ảnh gắn liền với những kỉ niệm ngọt ngào, đẹp đẽ, thương
yêu, ấm áp của tình bằng hữu. Trong cảm quan các thi sĩ, trăng không đơn thuần là
nguồn sáng mà còn một hình tượng nghệ thuật độc đáo. Trăng huyền ảo, hướng vào
lòng người như sự đồng cảm, sẻ chia. Nhiều văn sĩ khi đến Quy Nhơn phải trầm trồ
thán phục vẻ đẹp của trăng. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo bảo trăng Quy Nhơn lạ và
khác so với phần còn lại của cả nước. Thú vị hơn, nhà nghiên cứu văn hóa người
Nhật Bản Araki Hiroshi khi đến nơi đây đã phải ngỡ ngàng thốt lên: “Trăng Quy
Nhơn đẹp nhất thế giới”. Trăng là mãnh lực huyền diệu đi vào thi phẩm của các nhà
thơ như phép nhuộm màu. Thi sĩ, nhạc sĩ Văn Cao, tháng 4 năm 1985, khi thăm
thành Đồ Bàn và Quy Nhơn, ngẩn ngơ trước vẻ đẹp ánh trăng mà cảm tác thành
chùm thơ Quy Nhơn nổi tiếng: “Một nửa hình con trai - Ngày - Lấp lánh sắc cầu
vồng - Một nửa mình trăng - Đêm - Nằm nghiêng trên bãi biển” (Quy Nhơn 1- Văn
Cao). Nhà thơ - chiến sĩ Trần Mai Ninh lúc đang hoạt động ở Nam Trung Bộ, một
đợt hành quân Nam tiến trong kháng chiến chống Pháp, đến nơi đây cũng có cảm
nhận riêng về vẻ đẹp của ánh trăng huyền diệu với giọng điệu phóng túng và một
bút pháp tạo hình ấn tượng: “Trăng nghiêng trên sông Trà Khúc - Mây lồng và nước
reo - Nắng bột chen dừa Tam Quan - Gió luồn uốn éo - Bồng Sơn dìu dịu như bài
thơ - Mờ soi Bình Định trăng mờ - Phú Phong rộng - Phù Cát lì - An Khê cao vun
vút…” (Tình sông núi - Trần Mai Ninh). Đối với các thi sĩ gắn bó cuộc đời với
mảnh đất này, qua nhãn quan của họ, trăng càng phát ra thứ ánh sáng diệu kỳ. Hoài
Thanh trong Thi nhân Việt Nam nhận xét: “vầng trăng vẫn thường ám ảnh các nhà
thơ Bình Ðịnh”. Phải! Nó ám ảnh theo từng cung bậc của dự cảm và xúc cảm. Xuân
Diệu, thi sĩ sinh và lớn lên ở vạn Gò Bồi, cách Quy Nhơn “một đêm đò”, ngoài
được biết đến với hồn thơ khát khao rạo rực của tình yêu và tuổi trẻ, còn được mệnh
danh như thi sĩ của trăng. Trăng trong thơ Xuân Diệu bàng bạc một thế giới đủ mọi
hình hài dáng vẻ và trạng thái cảm xúc: trăng sáng, trăng xa, trăng ngà, trăng ngần,
trăng lạnh, trăng mộng, trăng tàn… Có lúc trăng gợi một không gian rộng đến
choáng ngợp như một sự đối lập với nỗi cô đơn, nhỏ bé: “Trong vườn đêm ấy nhiều
trăng quá - Ánh sáng tuôn đầy các lối đi” (Trăng). Cũng lắm khi “Trăng vừa đủ
sáng để gây mơ” (Nhị hồ), để mời gọi: “Hương đêm say dậy với trăng rằm” (Cảm
41
xúc). Quách Tấn, đại biểu duy nhất của hình thức thơ cũ được Thơ mới chấp nhận,
đã đón trăng, làm thơ và tâm tình về những ước mơ cho con đường văn học đầy
trăng sao, sương khói. Ông có hai tập thơ về trăng: Giọt trăng và Trăng hoàng hôn.
Đọc thơ ông, “cứ tưởng từng mảnh trăng là từng mảnh thơ” (Hàn Mặc Tử): “Gió rủ
canh đi ngàn liễu khóc - Sông đưa lạnh tới bóng trăng run - Thuyền ai tiếng hát bên
kia vẳng? - Ghé lại cho nhau gửi chút buồn” (Bên sông)… Đặc biệt, đối với các tác
giả thơ Loạn, thế giới trăng mộng ảo, phi thường, lung linh và đổ vỡ, tạo nên những
chấn động khải hoàn trong thơ, đưa sáng tác của họ cập bến u huyền, siêu thực. Yến
Lan, chàng thi sĩ “lọt lòng ra giữa bãi trăng” dẫn lối ta vào thế giới mộng ảo thấm
đẫm ánh trăng đầy ám ảnh: “Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách - Rượu hết
rồi, ông lái chẳng buông câu - Trăng thì đầy, rơi vàng trên mặt sách - Ông lái buồn
để gió lén mơn râu - Ông không muốn run người ra tiếng địch - Chở mãi hồn lên
tắm bến trăng cao” (Bến My Lăng). Ở cạnh thành Đồ Bàn, những đêm trăng trong
khung cảnh vừa thanh thoát vừa thế tục, gợi Yến Lan những dự tưởng hoài niệm.
Ông tâm sự rằng: “Hơi sương như bốc lên, tỏa ra làm cho những đêm trăng thêm
huyền diệu, lung linh, con người thêm phiêu diêu mơ mộng, nhất là trong khung
cảnh xung quanh hiện lên bóng những tháp Chàm tư lự in lên trời, còn tường thành
rêu phong được ánh trăng chiếu vào cũng như dài rộng thêm ra”. Và Yến Lan đã
dựng nghiệp thơ cạnh thành quách cổ bên những đường làng nhễ nhại dưới trăng.
Cùng với Yến Lan, những người bạn thơ của ông trong Trường thơ Loạn cũng đều
viết nhiều và viết hay về trăng, cùng trăng sao thả hồn theo những thanh âm kỳ dị.
Quỳnh Dao với Tơ trăng (xuất bản năm 1939) gồm 25 bài thơ phản chiếu ánh trăng
nhẹ nhàng và mảnh dẻ: “Đêm nay sáng, đêm nay rằm - Trăng như e lệ đương nằm
trong cây - Bỗng luồng gió đậu cành say - Cành nao nao xuống… trăng bay ra
ngoài” (Nụ cười trong mơ - Quỳnh Dao). Trăng ám vận và sống động cuộc đời Hàn.
Thi sĩ uống trăng, say trăng, ôm trăng, nhìn trăng nằm sóng soải... Chế đi từ “cõi ta”
đến “cõi trăng sao” hoang đường, mờ ảo để tìm đến xứ sở của sự vĩnh hằng và bất
diệt. Với Bích Khê, trăng mang một nỗi buồn diệu vợi: “Trăng gây vàng, vàng gây
lên sắc trắng - Của gương hồ im lặng tựa bài thơ” (Mộng Cầm ca)… Trăng tỏa sáng
vằng vặc trong những trang thơ, và tê buốt xương da cùng ánh vàng lạnh lẽo!
Bên cạnh vẻ đẹp mộng ảo, những dấu tích Chiêm Thành trên đất Bình Định
cũng là nguyên do để các nhà thơ khơi nguồn thi hứng. Ngược dòng thời gian, Bình
42
Định xưa từng thuộc đất Việt Thường Thị, sau đổi ra tên đất Lâm Ấp. Thời Chiêm
Thành nơi đây là châu Thi Bị. G.Maspéro cho rằng địa danh Thi-bị được dịch tắt
chữ Cri-Vi (Jaya). Châu Vijaya có thành Đồ Bàn là kinh đô Chiêm Thành từ thế kỷ
thứ X - XV, giai đoạn văn hóa Champa phát triển đến mức độ tột đỉnh. Năm 1470,
vua Chiêm là Trà Toàn đem quân đánh lấn vùng biên thuỳ phía Nam nước ta là
châu Hoá, vua Lê Thánh Tông phải đích thân cầm binh đánh dẹp. Sau chiến thắng
của vua Lê Thánh Tông, vùng đất Vijaya sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt năm 1471
với tên gọi là phủ Hoài Nhân thuộc đạo Quảng Nam. Năm 1605, chúa Tiên Nguyễn
Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhân thành phủ Qui Nhơn. Vào năm 1771, nhà Tây Sơn
khởi nghĩa, năm 1778 Nguyễn Nhạc xưng đế, xây thành Hoàng Đế trên nền cũ của
thành Đồ Bàn, lấy phủ Qui Nhơn làm kinh đô của triều Tây Sơn. Năm 1799 Nguyễn
Ánh chiếm Qui Nhơn đổi tên thành Bình Định… Dù bị tàn phá bởi dâu bể thời gian
và bao phen binh hỏa, nhưng văn minh Chiêm Thành còn để lại trên đất này hệ
thống 8 cụm với 14 tháp Chàm cổ kính, rêu phong, trầm tư hàng thế kỉ, bàng bạc
trên đất kinh xưa… Tháp Chăm Bình Định còn khá nguyên vẹn, đẹp đến ngất ngây
với lối kiến trúc tinh xảo và huyền bí. Tháp Dương Long (tháp Ngà) thuộc địa phận
huyện Tây Sơn là khu tháp nổi bật, có kiến trúc uy nghi, được chạm trổ những
đường nét độc đáo, những phù điêu, họa tiết sống động và kỳ vĩ. Tháp Cánh Tiên
được xây dựng ngay ở trung tâm kinh thành Đồ Bàn, nhìn từ xa giống như đôi cánh
của tiên nữ giáng trần. Tháp Bánh Ít với 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau ngạo nghễ
trên một đỉnh đồi huyện Tuy Phước. Cùng với đó, còn phải kể đến các cụm tháp:
Hưng Thạnh (Tháp Đôi), Phú Lốc, Thủ Thiệm, Bình Lâm… được trang trí hoa văn
tinh tế, hài hòa, chứa đựng nhiều bí ẩn. Các tác phẩm là tinh hoa nghệ thuật kiến
trúc, điêu khắc của một dân tộc trên đất cố đô Chiêm quốc. Những ngọn tháp Chàm
rải rác là “từng giọt tháp” rơi trên nền trời xanh như Văn Cao liên tưởng. Ngoài di
tích tháp Chăm như những lâu đài tráng lệ nguy nga đầy kiêu căng của người Hời,
phải kể đến thành Đồ Bàn được triều đại vua Yangpuku Vijaya xây dựng năm 982
nay đã bị hoang phế. Dấu tích xưa của thành khá mờ nhạt, còn chăng chỉ dãy gò sỏi
trống không cùng vài di chỉ khảo cổ… Chế Lan Viên theo gia đình vào xứ bể dâu
từng là thánh địa của vương quốc Chăm Pa này từ những năm thơ ấu. Nhà Yến Lan
buổi thiếu thời cũng ở gần đó. Ngày, đôi bạn Chế - Yến trầm tư trong lòng những
ngôi cổ tháp. Đêm, họ lên lầu cửa Đông thành Đồ Bàn chiêm nghiệm nhân sinh
43
cùng vũ trụ. Chế Lan Viên cùng Yến Lan gọi đó là Lầu Tư Tưởng. “Sinh sống trên
đất của nước non Chiêm, mắt luôn nhìn thấy những cảnh tượng điêu tàn của một
dân tộc, tai thường nghe những âm thanh lạ lùng, ghê rợn xuất phát từ một cõi đêm
nào đầy bóng ma quái ở nội thành…, bấy nhiêu cơ hội và cảnh trí trên đã trở thành
bối cảnh đặc biệt cho sự phát sinh con người Lan Viên” [15,45]. Những tầng gạch
vỡ của thành, của tháp đã hớp hồn Chế, đưa ông hoài vãng về một thời xa xưa. Hơn
năm thế kỷ trước, vùng đất này là một chiến trường đẫm máu, bao chiến binh tử
trận mà vẫn không cứu nổi một vương triều. Và nhà thơ đã hồi tưởng lại những cảm
thức lịch sử văn hóa giữa muôn trùng xưa sau để viết nên vần thơ xúc động: “Thành
Đồ Bàn cũng không thôi nức nở - Trong sương mờ huyền ảo lắng tai nghe - Từ một
làng xa xôi bao tiếng mõ - Tan dần trong yên lặng của đồng quê” (Đợi người Chiêm
nữ). Chính quá khứ Chămpa và hình ảnh kinh thành hoang phế cùng những ngọn
tháp Chàm còn sót lại đã khơi gợi hồn thơ Chế Lan Viên về sự hưng thịnh, tiêu
vong của dân tộc, mường tượng đến tiếng oán hờn không bờ bến của những cô hồn
vong tộc. Đó là những khởi phát đầu tiên cho cảm xúc để rồi cùng với sự mẫn cảm
và trí tưởng tượng phi thường đã giúp Chế tạo lập một thế giới kinh dị, gửi gắm và
giãi bày suy ngẫm của mình về thời cuộc. Qua thơ ông, ta thấy ẩn hiện hình bóng
của vương quốc hùng mạnh “một thời vang bóng”, cùng nỗi niềm hoài cổ của nhà
thơ. Điêu tàn của Chế được sáng tác dựa trên ký ức về một nền văn minh đã bị mai
một hay chính cuộc sống trước mắt lúc bấy giờ, cuộc sống của người dân Việt Nam
trong vòng nô lệ tối tăm đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn thi sĩ… Như Chế Lan
Viên, Yến Lan cũng đau đáu về tháp Chàm, về phận đời Chiêm nương để viết nên
tập thơ Giếng Loạn. Tiếc rằng, do chiến tranh, bản thảo tập thơ bị thất lạc, dù trước
đó đã được Hàn viết lời tựa bằng thơ với nhan đề Trăng tự tử.
Về mặt văn học, Trường thơ Loạn được thành lập vào những năm phong trào
Thơ mới đạt đến đỉnh cao. Nhìn rộng ra, đây là thời kỳ văn học dân tộc đang trên đà
chuyển biến mang tính chất cách tân so với lịch sử hàng nghìn năm phát triển. Quá
trình hiện đại hóa văn học này diễn ra từ đầu thế kỷ XX, nhưng phải đến thời kỳ
1932 - 1945 mới được đẩy lên một bước phát triển mới với nhiều cuộc cách tân trên
tất cả các thể loại. Trong đó, phải kể đến thể loại thơ. Trong dòng Thơ mới, tuy
không phải là điểm xuất phát, nhưng Bình Định được đánh giá là nơi bùng phát một
trào lưu. Chính vậy, bên cạnh từ “đất võ”, nhắc đến Bình Định, người ta còn kèm
44
theo chữ “trời văn”… Cách nói này hoàn toàn khả dĩ, bởi nơi đây hội tụ, nuôi
dưỡng và hun đúc nhiều nhóm thơ, nhiều thi sĩ tầm cỡ với những phong cách thơ
đầy bản sắc. Tổng kết 10 năm đầu phong trào Thơ mới, Bình Định có đến 5 trong số
45 tác giả được Hoài Thanh mời vào Thi nhân Việt Nam với vị trí trang trọng. Một
Hàn Mặc Tử tài hoa, cao khiết với bao vật vã, đau thương. Một Xuân Diệu thiết tha
đến chảy bỏng, nồng nàn cùng biển tình lai láng. Một Quách Tấn đài các và trang
nghiêm trong sự giao thoa giữa ý tình mới - cũ. Một Chế Lan Viên với bóng dáng
tháp Chàm u hoài và bi thống. Một Yến Lan mơ màng cùng tiếng gọi đò chơi vơi
bên bến My Lăng trong đêm trăng lạnh. Đó là chưa kể đến Bích Khê, từ Thu Xà
Quảng Ngãi cũng về đây tụ họp… Mỗi thi sĩ đều định hình dấu ấn riêng, nhưng tựu
trung lại, ở họ có sự gặp gỡ, kết tinh giữa truyền thống và hiện đại, lãng mạn và
tượng trưng, khuôn thước và bùng nổ…, cùng nỗi niềm nhân thế. Họ cùng một số
nhà thơ khác trên mảnh đất này đã giao lưu với nhau, rồi lập ra nhiều nhóm thi văn,
như: nhóm Thái Dương văn đoàn (gồm: Lê Đình Ngân, Hoàng Diệp, Hoàng Tùng
Ngân, Trần Thống, Nguyễn Minh Vỹ, Nguyễn Viết Lãm, Phú Sơn); Nhóm thơ Bình
Định (còn gọi nhóm Tứ linh hay Bàn thành tứ hữu, gồm: Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên, Yến Lan, Quách Tấn); và đặc biệt là Trường thơ Loạn (gồm: Hàn Mặc Tử,
Chế Lan Viên, Yến Lan, Bích Khê, Hoàng Diệp, Quỳnh Dao)... Phong trào Thơ
mới cùng những thi sĩ xuất sắc của quê hương Bình Định có tác động lôi kéo, thúc
đẩy sự cách tân của những tài năng văn học Trường thơ Loạn. Với tư cách là những
thành viên của phong trào, Trường thơ Loạn đã hít thở không khí thời đại ấy và
trưởng thành theo những cách khác nhau. Trong số họ, cũng có người bước chân
vào làng thơ với những sáng tác mang dấu ấn Đường thi, nhưng ở lại địa hạt ấy
không lâu. Có thể xem thơ Loạn là mô hình thu nhỏ của Thơ mới Việt Nam, thậm
chí mang bóng dáng con đường một trăm năm thơ Pháp trong sáng tác của mình.
2.2.2. Trường thơ Loạn - chi lưu tượng trưng Thơ mới
Là nốt thăng trong bản bổng trầm của văn học dân tộc, chỉ hơn mười năm
hình thành và phát triển, phong trào Thơ mới khoác cho riêng mình một tấm xiêm y
Tây Âu được đan dệt bằng chất liệu Đông phương, làm thay đổi toàn bộ phục trang
thơ trữ tình Việt. Thơ mới đưa đến một cách nhìn khác về thế giới, tạo nên vầng
chói lạ và nhanh chóng tìm được vòng nguyệt quế vinh quang. Tuy nhiên, khi đã đạt
đến đỉnh cao nghệ thuật thì những cách tân của Thơ mới nhanh chóng trở thành
45
“điển phạm” có xu hướng “nô dịch” để rồi Thơ mới lún sâu vào nỗi ngờ vực, hoang
mang, khủng hoảng cùng nỗi cô đơn có tính định mệnh. Trong bầu không khí chung
ảm đạm ấy, một số nhà thơ mong muốn tìm kiếm một nhánh rẽ, một khuynh hướng
riêng cho mình. Sự tiếp cận cùng một phương pháp sáng tác nào đó sẽ tạo ra những
dòng thơ cùng quan điểm và gần gũi về thi pháp. Hoài Thanh căn cứ vào yếu tố
ngoại nhập để chia Thơ mới thành ba dòng: dòng ảnh hưởng thơ Pháp, dòng thuần
Việt, dòng ảnh hưởng thơ Đường… Ông còn tìm thấy trong làng thơ những xóm
thơ: xóm Sông Thương, xóm Phương Đông, xóm Huế, xóm Hà Tiên, xóm Tự Lực,
xóm Bình Định… Như một quy luật, khi các dòng thơ, xóm thơ phát triển và xuất
hiện đối tượng thẩm mĩ mới, tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành các trào lưu, các
trường phái. Sự hình thành của các nhóm thơ, trường thơ như: Trường thơ Loạn,
nhóm Xuân Thu nhã tập, nhóm Dạ Đài, nhóm thơ Bình Định, nhóm Thái Dương
Văn Đoàn, nhóm Áo bào gốc liễu,... phần nào thể hiện những phản ứng thẩm mĩ đối
với một phong trào thơ, tạo nên những sắc màu riêng cho Thơ mới. Tuy các nhóm
thơ, trường thơ xuất hiện tương đối nhiều, nhưng những nhóm thơ và trường thơ có
tuyên ngôn nghệ thuật tương đồng với mỹ học tượng trưng, thì chỉ có Trường thơ
Loạn, Xuân thu nhã tập, Dạ Đài.
Trong số các tổ chức thi ca kể trên, Trường thơ Loạn với những vần thơ
độc đáo, để lại nhiều ấn tượng với văn giới, bạn đọc hơn cả. Khởi nguồn của
Trường thơ Loạn chính là nhóm thơ Bình Định. Nhóm thơ Bình Định này về sau có
sự phân hóa về khuynh hướng: Quách Tấn theo hướng hiện thực cổ điển; Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên và Yến Lan thuộc hướng lãng mạn và bắt đầu thiên về địa hạt
tượng trưng. Chính sự gần gũi và thống nhất về khuynh hướng đã cho phép Hàn -
Chế - Yến nghĩ đến việc xây dựng một trường phái sáng tác. Và bản thảo tập Giếng
loạn mà Yến Lan vừa mới hoàn thành đã giúp Hàn Mặc Tử liên tưởng ra tên gọi
một trường phái thơ cho các thi sĩ này. Năm 1936, trong lần gặp gỡ giữa ba nhà thơ
tại ngôi nhà số 20 Khải Định (nay là đường Lê Lợi), Quy Nhơn, xúc động khi nhận
được bản tập Điêu tàn vừa xuất bản do Chế mang đến tặng, Hàn Mặc Tử nói: “Lâu
nay chúng ta làm toàn những loại thơ điên loạn, xem ra có đủ nhân tố để dựng một
trường thơ, Trường thơ Loạn. Ừ, mà nó đã có mầm mống từ lâu rồi (giơ tập Điêu
tàn của Chế Lan Viên lên), cái tựa tập Điêu tàn là tuyên ngôn thứ nhất của chúng
ta. Rồi chúng ta sẽ tiếp tục có tuyên ngôn bổ sung khi in tập thơ chung của Trường
thơ Loạn” [83,33]. Trường thơ Loạn ra đời từ đó...
46
Thời gian sau, Trường thơ này phát triển và kết nạp thêm những thành viên:
Bích Khê, Hoàng Diệp, Quỳnh Dao, trong đó Bích Khê - một thi sĩ xuất hiện vào
giữa cuối phong trào Thơ mới là người “mang rõ phong cách của Trường thơ
Loạn”. Qua người bạn thơ Quách Tấn, Bích Khê quen và kết thân với các nhà thơ
Bàn thành tứ hữu, nhất là Hàn Mặc Tử. Chịu ảnh hưởng đặc biệt từ Hàn, Bích Khê
đã gửi hồn vào Bình Định, trở thành “thần dân trung thành của vương quốc thơ
Loạn”; cùng với Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên hợp thành “tam trụ vương quốc”.
(Là một trong số những thành viên đầu tiên của Trường thơ Loạn, nhưng thơ Yến
Lan giản dị và hiền hòa, không theo khuynh hướng loạn - VNN)…
Tập hợp những tài năng nghệ thuật độc đáo, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa
lãng mạn, tượng trưng và siêu thực phương Tây, Trường thơ Loạn săn tìm cái đẹp
duy mỹ theo tinh thần nghệ thuật vị nghệ thuật. Thi sĩ theo quan niệm của Trường
thơ Loạn là thiên sứ của cái đẹp, là những bông hoa rất hiếm sinh ra ở đời với một
sứ mệnh thiêng liêng: tận hưởng cái đẹp từ châu báu thi ca và đem cái đẹp thi ca ấy
đến cho loài người. Ca ngợi vẻ đẹp quái đản của thiên nhiên và con người, xây lên
một “trời thơ” bao gồm sự hòa hợp của trăng, hoa, hương, nhạc, thế giới thơ Loạn
vừa lóng lánh sắc hương, vừa điêu tàn kinh dị, vừa mang vẻ đẹp rực rỡ, lộng lẫy ở
chốn bồng lai, vừa rùng rợn, lạnh lẽo của đáy huyệt mồ... Với những cách tân táo
bạo về quan niệm nghệ thuật và phương thức thể hiện, các thi sĩ đã tạo ra những vần
thơ khiến bao người sững sốt… Tiếc rằng, hiện tượng thi ca mang tính đột phá và
ngoạn mục ấy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Sau khi Hàn Mặc Tử mất (năm
1940), Trường thơ Loạn bắt đầu tan rã. Dư ba thơ Loạn chỉ còn bảng lảng trong
sáng tác Bích Khê và thực sự kết thúc khi thi sĩ qua đời. Một tập thơ in chung của
các tác giả trường thơ cùng bản tuyên ngôn bổ sung như tiên liệu của Hàn vẫn chưa
thực hiện được. Như ngôi sao băng vụt bay ngang qua bầu trời văn học, Trường thơ
Loạn vương vãi trên nhân thế những mảnh tinh thể ngời sáng, lung linh...
Trong dòng chảy tượng trưng, bên cạnh Trường thơ Loạn còn phải kể đến
nhóm Xuân Thu nhã tập, một tổ chức của những thi sĩ tiên phong cùng chí hướng:
nhà giáo Nguyễn Lương Ngọc, hoạ sĩ Nguyễn Đỗ Cung, nhạc sĩ Nguyễn Xuân
Khoát, các nhà thơ Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh. Sáng tác
của họ bao gồm nhiều thể loại: thơ, văn, nhạc, hoạ… Xuân Thu nhã tập xuất hiện
vào quãng 1939 - 1942, thời điểm phong trào Thơ mới sau gần 10 năm vận hành đạt
47
đến trọn vẹn khi “Tình yêu, sự cô đơn, nỗi buồn với mọi cung bậc đã khai thác đến
vỉa cuối cùng” [65,6]. Tiếp tục những tìm tòi nghệ thuật trên tiến trình vận động và
phát triển theo hướng hiện đại, nhưng ngược với quỹ đạo Thơ mới, Xuân Thu nhã
tập chủ trương “Tìm con đường thực, nối liền nguồn gốc xưa với ước vọng nay. Gọi
về những tính cách riêng của ta, để có thể xuôi chảy trong dòng sông thực của ta,
không quanh co, lúng túng vì những ảnh hưởng ngoài”, từ đó “Soi sáng cái thuần
túy: tri thức tuyệt vời và tuyệt đối”, tránh “cái bát nháo của người” [65,17]. Đó là
khát vọng cải tổ thơ ca dân tộc nhằm thoát khỏi “bi kịch” “đánh mất cái bình yên
thuở trước” cùng “lòng tự tôn” mà Hoài Thanh khi viết Thi nhân Việt Nam đã bùi
ngùi nhận thấy. Trên con đường tiền trạm cho một trào lưu mới, Xuân Thu nhã tập
gặp gỡ các thi nhân xưa ở quan niệm thơ mang tính cô đọng, hàm súc, kín đáo. Tuy
nhiên, không chỉ “trở lại nguồn ta” cùng “tấm thẻ căn cước dân tộc, căn cước
phương Đông” (Đỗ Lai Thuý), Xuân Thu nhã tập về bản chất là tập hợp những
tuyên ngôn và sáng tác minh xác cho một khuynh hướng nghệ thuật mang dấu ấn
của thơ ca tượng trưng Pháp thế kỉ 19 trên nền tảng văn hóa truyền thống Việt,
nhằm “diễn tả những lớp dày đặc của tiềm thức và vô thức”. Hành trình từ Tôi đến
Ta của Xuân Thu là hành trình người nghệ sĩ “thoát khỏi cái tôi dày đặc tối tăm, ta
đã sáng suốt vươn tới cõi vô cùng bằng Tình Yêu, bằng Thơ, bằng Tin Tưởng”
(Thiên chức). Cái Ta - tinh thần vũ trụ, cõi Vô Cùng cao cả theo quan niệm của
nhóm Xuân Thu này thực chất là một cái “Tôi đại ngã” kết tinh trong mình những
siêu hình không tưởng, thấu thị những ẩn ngầm của thế giới bằng trực giác, linh
giác, để xây cất những “màu sắc, hương thơm và thanh âm tương ứng”
(Baudelaire). Tuyệt đối hoá khả năng của người nghệ sĩ, từ đó đối lập họ với những
người bình thường, các tác giả Xuân Thu nhã tập đã gặp gỡ các nhà thơ trong
Trường thơ Loạn. Với quan niệm đó, sáng tác của Xuân Thu mơ hồ và khó hiểu..
Từ việc đề cao nghệ sĩ, Xuân Thu nhã tập đặt ra mối quan hệ giữa độc giả -
thi nhân. “Người đọc muốn biết cái đầy đủ trác tuyệt do một bài thơ dội vào tâm
hồn… ít ra cũng phải được lên dây cùng cung bậc với cây đàn, với thi sĩ, với tình
nhân” (Thơ). Thi sĩ phải “tan hồn vào cảnh vật”, người đọc phải “nhập thần vào bài
thơ”. Xác định vai trò đồng sáng tạo của người đọc, Xuân Thu nhã tập đưa ra quan
niệm về văn bản thơ: “Vậy một bài thơ có thể hiểu ra nhiều lối (…) nên độc giả tuỳ
vào trình độ trí thức của mình mà hưởng thụ ít hay nhiều” (Thơ). Đây là một quan
niệm đề cao vai trò của người đọc và sự tích cực, sáng tạo của chủ thể đọc.
48
Bàn về thiên chức người nghệ sĩ và vai trò của người đọc, các tác giả cũng
bàn về bản chất của thơ. Theo Xuân Thu, rung động chính là bản chất của thơ: “Có
rung động là có thơ, phải cần và chỉ cần có rung động ấy” [65,30]. Đó là sự rung
động siêu việt, hồn nhiên và vĩnh cửu, tiềm tàng tản mát trong mối tương giao, cộng
cảm giữa con người và vũ trụ.
Đề cao vai trò cảm xúc, Xuân Thu nhã tập đồng thời cũng xem nhẹ lý trí
trong sáng tạo thi ca. “Thơ là một cái gì siêu thoát ra ngoài ước lệ, ở trên lý trí”,
xuất hiện “ở những lớp dày đặc của tiềm thức vô ý thức”. Bên cạnh quan niệm thơ
phải hàm súc, “gợi” hơn là “tả”, không cần rõ nghĩa, dễ bắt gặp trong Xuân Thu nhã
tập tính ám thị và chất nhạc trong thơ. Kế thừa ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng
trưng, Xuân Thu nâng nhạc thành đạo trong sáng tác. Đạo cũng biểu hiện của cái
đẹp và chân lí tuyệt đối, là cái thật ở mức độ cao cấp và tiềm ẩn. “Cái gì trong trẻo
là đẹp”. Và “cái gì đẹp là thật”. Đó là vẻ đẹp của hương hoa, chất ngọc, của ý tưởng
hồn nhiên, vô tư lợi, của cử chỉ vô lí do, “hòa hợp ta trong cái Đẹp và ấp ta nằm
trong Sự thật”. Chính vì vậy, các tác giả Xuân Thu đưa ra mô hình sáng tạo: “Thơ =
Trong = Đẹp = Thật” và bằng tuyên ngôn sáng tác: “Trí thức, Sáng tạo, Đạo lý”.
Nặng xúc cảm, tiếp thu thuyết tương ứng các giác quan của chủ nghĩa tượng
trưng phương Tây, tính hàm súc, “ý tại ngôn ngoại” của thơ ca phương Đông, nên
Xuân Thu coi trọng “chất thơ” trong một tác phẩm thơ, và đặt nó trong sự đối lập
với “chất văn”: “Văn nói chuyện đời nhưng thơ là tiếng đời u huyền trực tiếp”.
Quan niệm này đem đến giá trị tinh thần bền vững cho thơ, đồng thời nâng thơ lên
một tầm vóc siêu việt, khó hiểu.
Những quan niệm nghệ thuật của Xuân Thu thể hiện khát vọng thay đổi và
phát triển thơ ca Việt. Một số tác phẩm kết tinh nghệ thuật độc đáo, làm tường minh
được những vấn đề lý luận mà nhóm đã đưa ra, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng
người đọc... Nhưng, có thể nhận ra những hạn chế trong quan niệm của các tác giả.
Họ chưa tạo ra một hệ thi pháp mới trong sáng tác. Những tuyên bố nặng về siêu
hình và đầy mâu thuẫn. Đó là các tác giả chủ trương trở về cội nguồn để thoát khỏi
sự đồng hóa của nghệ thuật phương Tây, nhưng sự thật lại ảnh hưởng sâu sắc chủ
nghĩa tượng trưng, siêu thực. Các bài thơ của Xuân Thu nhã tập phần lớn khó hiểu,
đi quá xa so với chủ trương: Trong - Đẹp - Thật mà họ mong ước. Dù vậy, những
49
giá trị Xuân Thu vẫn có thể xem là đốm sáng trong bối cảnh của “hoàng hôn” Thơ
mới, để lại những vấn đề lý luận có ý nghĩa cho đến hôm nay.
Tiếp nối Trường thơ Loạn và Xuân Thu nhã tập, Dạ Đài (gồm Trần Dần,
Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương) là bước tìm tòi
cuối cùng của phong trào Thơ mới. “Đầu thai nhằm lúc sao mờ” khi Thơ mới đã
thoái trào, Dạ Đài quyết tâm thực hiện hành trình thay đổi thời cuộc để lấy lại
những giá trị cao đẹp cho thơ ca. Bản tuyên ngôn tượng trưng viết ngày 16-11-1946
bằng ngôn ngữ tân kỳ, thanh thoát thể hiện quan niệm thơ mới mẻ, độc đáo của
nhóm được tiếp biến từ lý luận văn học phương Tây.
Tự nhận mình là các “thi sĩ thơ tượng trưng”, Dạ Đài cho rằng thi ca lãng
mạn hiện thời đã đi tận mút ngưỡng giới hạn của cảm giác đơn điệu, nhàm chán và
nỗi lòng nhạt nhẽo khi “người ta cứ lặn lội mãi trong mối thất tình eo hẹp”, “cứ nhìn
mãi vũ trụ ở ba chiều, và thu hẹp tâm tư ở bảy dây tình cảm”… Chán ngắt cái “thi
ca nông hẹp, nhai đi nhắc lại những phong cảnh trần gian, những tâm tình thế tục”,
Dạ Đài ước nguyện kiếm tìm những điều ưu tú nhất cho thơ. Không như những thi
sĩ tiền bối, Dạ Đài “không còn khóc vì người ta đã khóc mãi cái tình, công danh và
thế sự”, “không còn rung động với trần tâm”, bởi họ cho đó là con đường tuyệt
vọng. Quan niệm nghệ sĩ đối với Dạ Đài phải là người tinh nhạy cả thế giới thực và
ảo bằng cả hồn và xác trong “đam mê và khoái lạc”. Cảm hứng của nghệ sĩ phải
hoài thai từ cái đã có, cái chưa có và cả cái không có để tạo nên những “cuộc giao
hòa bí mật” giữa cõi thực và hư, cao hơn nữa là phải làm cho “trần gian phải hư lên
vì sự thực”. Nhà thơ cùng lúc phân thân và hội tụ các năng lực cam biên thế giới
bên trong và thế giới bên ngoài để bừng tỉnh trong không gian, thời gian, trong tiềm
thức, vô thức những khả giải và bất khả giải trong thơ. Không chạy trốn thực tại để
tìm đến cõi tiên cõi mộng, với Dạ Đài “thi cảm phải gây trong thực tại” nhưng “phải
gây nên cả hai không khí hoang đường và hiện thực”. Quan niệm này thực ra đã
được chủ nghĩa tượng trưng phương Tây bàn nhiều trước đó. Các nhà tượng trưng
xem thế giới hữu hình chỉ là hình ảnh, là cái bóng, là biểu trưng cho một thế giới mà
ta không thấy được. Chính cái không nhìn thấy đó mới là bản thể của thế giới. Nghệ
thuật tượng trưng muốn phản ánh thế giới phải tìm ra những “hiện thực ẩn giấu” và
thể hiện no bằng các biểu trưng thẩm mỹ.
50
Từ đây, Dạ Đài đưa đến một quan niệm về thơ. Thơ phải được xây dựng
“bằng hình tượng, thứ ngôn ngữ tân kỳ, ngôn ngữ của những thế giới yêu ma, của
những thế giới thần nhân mà cũng là của cái thế giới âu sầu đây nữa”. Trong thơ sẽ
“hiện lên những đường lối u minh”, “sẽ kể lại những cuộc viễn du trong những thế
giới âm thầm sự vật”. Chính vì tính diễm ảo của thơ, nên với Dạ Đài, phải cảm thấu
thơ bằng trực giác, bằng tất cả linh hồn và cửa ngách tâm tư.
Cũng giống như Xuân Thu nhã tập và Trường thơ Loạn, chịu sự chi phối của
thuyết “tương ứng giữa các giác quan”, Dạ Đài rất chú trọng nhạc tính trong thơ.
Nhạc tính trong thơ họ được kết tinh từ “sức khêu gợi của chữ” và “sức sống rung
động của tâm lý bài thơ”.
Tuyên ngôn tượng trưng của Dạ Đài không hệ thống, sâu sắc bằng quan niệm
của Xuân Thu nhã tập, và sáng tác của họ cũng không đủ sức theo kịp những gì
từng tuyên bố để tạo ra vầng sáng huy hoàng như Trường thơ Loạn. Nhưng với tất
cả những gì đã làm được, các thi sĩ Dạ Đài chứng tỏ sự tiến bộ cùng khát vọng sáng
tạo nghệ thuật không ngừng trong tiến trình đổi mới của thi ca Việt Nam hiện đại.
Có thể thấy, Trường thơ Loạn, Xuân Thu nhã tập và Dạ Đài khai thác khá
nhanh những biểu hiện của thi học tượng trưng, đem lại phẩm chất đích thực cho thi
ca hiện đại. Tuy nhiên, trong hành trình khát khao kiếm tìm lý tưởng sáng tạo, thi
phẩm của các tổ chức thi ca nói trên, nhất là Xuân thu nhã tập và Dạ Đài chưa được
chú ý, vì thơ tượng trưng ở Việt Nam giai đoạn này chỉ là bước ướm thử, dù rất say
mê. Thị hiếu chung của người đọc Việt Nam không thật sự quen với thế giới này.
2.3. Quan niệm nghệ thuật của Trường thơ Loạn
2.3.1. “Làm thơ là làm sự phi thường”
“Tôi điên tôi nói như người dại - Van lạy không gian xóa những ngày” (Lưu
luyến - Hàn Mặc Tử). Có lẽ, với các thi hữu của Trường thơ Loạn, mĩ học bao giờ
cũng là cái tột cùng. Vì vậy, cái đẹp trường thơ này tôn thờ không phải chỉ là cái
đẹp hài hòa cổ điển mà còn là cái đẹp phản hài hòa, xộc xệch, mê sảng, rách rưới,
mở ra một thế giới thi ca phi thường, điên cuồng, rùng rợn và chết chóc. Mọi cảm
xúc, trạng huống tình cảm luôn đến đỉnh ngưỡng có thể xem là mẫu số chung của ba
đỉnh cao thơ Loạn. Đó là kết quả của hành trình đảo lộn thời gian để “thoát khỏi
hiện tại”, “xáo trộn dĩ vãng”, “ôm trùm tương lai”, kiếm tìm một quan niệm thẩm
mĩ riêng, hướng đến cõi tượng trưng và siêu thực với thế giới đầy ma quái, siêu
hình, khép kín làm hoang mang người đọc.
51
Trong tựa Điêu tàn, như đại diện cho cả trường thơ, Chế Lan Viên trực tiếp
khởi sự một tư tưởng mĩ học mới về thi ca: “Hàn Mặc Tử viết: làm thơ tức là điên.
Tôi thêm: làm thơ là làm sự phi thường” [100,3]. Quan niệm này rất gần với quan
niệm thơ của Paul Géraldy: “Thơ là gì?... Thơ là vượt ra ngoài thói quen, mà bước
vào một cõi mới lạ có hứng thú hơn”. Thực chất, tuyên ngôn về sáng tạo thi ca của
Chế Lan Viên cũng là tuyên ngôn chung của Trường thơ Loạn, phản chiếu rõ nét tư
tưởng mỹ học của các nhà tượng trưng, siêu thực phương Tây. “Chịu ảnh hưởng
trực tiếp những quan niệm thẩm mĩ Edgar Poe” [19,67], về sau, ảnh hưởng của
nhiều thi sĩ Pháp, trong đó Baudelaire để lại ấn tượng sâu đậm nhất, Trường thơ
Loạn từ chỗ băn khoăn chán ghét thực tại bắt đầu “tìm cái đẹp ở những bến bờ xa lạ
của cảm giác, tìm những cái đẹp khoái lạc bệnh tật ở những vùng đất hoang dại
chưa được khai phá” [19,67], mơ tưởng đến một mĩ thể huyền nhiệm và tinh khiết.
Đó là địa hạt của thơ tượng trưng mà các thi hữu thơ Loạn ảnh hưởng tương đối
đậm đà. Vai trò chủ đạo trong nhận thức và sáng tạo nghệ thuật là trực giác được
đồng nhất với sự bừng ngộ thần bí, khải thị để khám phá ra một cái bí ẩn của thế
giới trong trạng thái bị kích động cao. Theo đó Điên, Loạn, Mơ, Say là biểu hiện
của sự hưng phấn thăng hoa đến tột độ, mê sảng điên cuồng nhất trong sáng tác…
Khi viết “Làm thơ là làm sự phi thường”, một mặt Chế Lan Viên xem thơ là cái siêu
phàm, làm theo những cách thức khác thường mà người thường không hiểu nổi.
Mặt khác, nhà thơ muốn khẳng định yếu tố “phi thường” như mục đích duy nhất
của sáng tạo, thơ phải đạt đến đỉnh cao để người ta ngỡ ngàng, khâm phục. Thiên
chức của nhà thơ như một siêu nhân mang sứ mệnh thiêng liêng xác lập một thế
giới dị thường. “Họ muốn xác lập một thế giới mới cho thi ca khác với quan hệ
quen thuộc của đời thường. Cái logic của thi ca đã trở nên khác biệt và đối lập
với logic cuộc đời” [21,115]. Như một sự tuyên chiến với mĩ cảm chung của
thơ ca đương thời, Chế Lan Viên cùng các thi sĩ thơ Loạn đề cao thơ như hình
thái đặc trưng vi diệu, lung linh, biến ảo, nhấn mạnh đến tính chất siêu phàm
của thi sĩ. “Thi sĩ không phải là người, nó là Người mơ, Người say, Người
điên. Nó là tiên, là ma, là quỷ, là tinh, là yêu. Nó thoát hiện tại. Nó xáo trộn
dĩ vãng. Nó ôm trùm tương lai…” [100,3]. Để sáng tạo nên tác phẩm, nhà thơ
phải thoát ly cuộc đời, sống trong “cõi khinh thanh”; xem mình là “một con thú
rừng, tự vào trong gai để tìm lấy cỏ hoa riêng”, là “một ánh sao băng, luôn luôn tự
52
đuổi chạy mình bởi thèm khát hư vô, và ước ao kỳ lạ” [98,45]. Nghĩa là nhà thơ
phải tự làm mới mình, và phải dấn thân vào nơi nguy hiểm để tìm đất cho thơ.
Chính quan niệm trên, Chế Lan Viên đã chọn một con đường đi riêng, một khoảng
trời riêng cho mình - là cõi âm, là quá khứ đau thương của nước Chàm xưa cũ. Đó
là xuất phát đầu tiên cho xúc cảm, để rồi cùng với mẫn cảm và trí tưởng tượng phi
thường giúp Chế Lan Viên tạo lập một cõi khác - một lịch sử đau thương trở về.
Bằng cái nhìn siêu hình, hư ảo, thi nhân đã cảm nhận ranh giới giữa địa ngục và
cuộc sống, giữa cõi âm và cõi dương thật mờ ảo, mong manh…
Cùng với bài tựa của Chế Lan Viên, hàng loạt bài viết tâm huyết về thơ của
Hàn như: Quan niệm thơ, Nghệ thuật là gì?, Chiêm bao với sự thật, Tựa tập Thơ
điên, Tựa tập Tinh huyết, Tựa tập Xuân như ý... cũng tiêu biểu cho quan niệm
nghệ thuật của Trường thơ Loạn. Quan niệm thơ rất khác thường, tất yếu Hàn
cũng quan niệm “nhà thơ không phải là người thường” (Lời bạt Một tấm lòng
của Quách Tấn). Trong Chế Lan Viên một thi sĩ điên, với bút danh Phong
Trần, Hàn xem “thi sĩ là một thần đồng”, “một thần đồng đã làm cho thiên hạ
ganh tỵ!” [91,241]. Tựa Tinh huyết, Hàn gọi Bích Khê là “thi sĩ thần linh”,
“một bông hoa lạ nở hương, một thứ hương quý trọng, thơm đủ mùi phước
lộc”, “một đóa hoa thần dị”. Người được xưng tôn là kẻ cai trị Trường thơ Loạn
này giống Chế Lan Viên ở cái nhìn phi thường về vai trò nhà thơ. Có điều, quan
niệm của Hàn lại được trình bày dưới màu sắc tôn giáo. Nhà thơ không chỉ được
Hàn đặt cho những danh xưng sang trọng, như: “thiên tài”, “thần đồng”, “người
thơ”, “vị khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo”..., mà còn có một tên gọi rất lạ khác là
“loài thi sĩ”: “Trừ hai loài trọng vọng là thiên thần và loài người, Đức Chúa Trời
phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: loài thi sĩ” (Thư Hàn Mặc Tử gửi cho Hoàng
Trọng Miên, trong bài Quan niệm về Thơ). Trên cả “thiên thần” và trên cả “loài
người”, chỉ “loài thi sĩ” mới biết tận hưởng tạo vật, thể hiện cuộc viễn du tinh thần
đưa lời thơ đến nhân loại. Đó là lúc thần trí được thăng hoa, bay tản đi chỉ còn lại
linh hồn trong cõi mộng để “toàn thân thi sĩ rung động như một sợi đường tơ”… Ta
có thể xem sự điên loạn trong sáng tạo nghệ thuật của Hàn chính là sự biểu
hiện cao nhất của trạng thái đau thương, thể hiện khát vọng sống mãnh liệt
đến khốc liệt của một thi tài đang thực hiện “cuộc chạy đua bạt vía đối với tử
thần” [75,230], phút chốc ngoái nhìn cuộc đời trong xót xa, chới với. Vì vậy,
53
thơ Hàn thường có nhịp điệu gấp gáp của một con người đang rượt đuổi thời gian để
giành sự sống. Đó là lý do giải thích vì sao đối với Hàn, thơ chính là bản tốc ký tâm
trạng: “Bị truy kích bởi cái chết, Tử hối hả dồn dập chứ đâu có làm văn! Anh
trút đời mình, lòng mình thành từng trận, từng hơi chữ đâu có ngồi điêu khắc,
chạm trỗ từng câu, từng chữ” [90,258]. Thực chất, Hàn muốn đề cao vai trò
của vô thức, tiềm thức trong sáng tạo mà thi sĩ ảnh hưởng từ lối viết “tự động
tâm linh” theo quan niệm của chủ nghĩa siêu thực. Cảm hứng dâng trào mang
đến những phút giây xuất thần đưa nhà thơ vào một thế giới mông lung, thăng
hoa trong sáng tạo. Em trai Hàn Mặc Tử từng ghi lại trạng thái đặc biệt này
của anh mình: “…Thường ngồi khoanh tay, nghe hơn là nói… nhiều lúc như
xuất thần, anh không hay biết gì xung quanh, nhất là lúc anh ngâm thơ, giọng
như run run đau đớn” [92,21]. Thơ Hàn là cuộc hành trình tìm vào vô thức
trong sâu thẳm tâm linh của chính mình. Sự dịch chuyển những ham muốn vô
thức mà trung tâm là ẩn ức “tình dục” (libido) có lẽ cũng là một phần căn
nguyên của sáng tạo nghệ thuật thơ Hàn: “Tôi lượm lá trăng làm chiếu trải -
Chúng tôi kê đầu lên khối sao băng - Chúng tôi nói chuyện bằng hơi thở - Dần
dần hoa cỏ biến ra thơ - Tôi lại là người của ước mơ - Không xác thịt chỉ linh
hồn đang mộng” (Rượt trăng).
Lối viết tự động tâm linh cùng quan niệm xem quá trình sáng tạo nằm
ngoài lý trí này cũng có ở Chế Lan Viên. Trong Giao thừa in trong tập Vàng
sao, Chế viết: “Giống những nhà thi sĩ kia, đầu óc một khi trang trải xong rồi
cứ ngồi im trong tưởng vọng. Đêm tối tiềm thức làm gì mặc nó, miễn là hôm
sau thức dậy tưng bừng trước mắt ta một buổi mai có chim, có bướm và có…
mặt trời” [98,54]. Và nhà thơ dựng lại quá trình sáng tạo của mình trong giây
phút vô thức và sự điên loạn thống trị hoàn toàn tâm hồn và thể xác: “Điên!
Điên! Điên! Và say nữa xin say - Điên đến chết và say cho đến khóc - Say
thêm nữa! Phút yêu say vàng ngọc… - Đắt bao nhiêu xin cũng cứ mua cho”
(Sôi nổi - in trong Vàng sao). Trong những phút giây “điên”, “say”, “mơ” ấy,
bằng khiếu năng riêng biệt, thi nhân đã tạo cho mình một đặc quyền để nhận
diện thực tại luôn biến đổi.
Màu sắc kỳ dị của Trường thơ Loạn cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sáng tác
của Bích Khê. Không có những tuyên ngôn mạnh mẽ về quan niệm thơ như hai bậc
54
đàn anh, Bích Khê chỉ lặng lẽ sáng tác theo khuynh hướng của Trường thơ Loạn.
Nhưng qua Tinh huyết và Tinh hoa, nhà thơ cũng coi thi sĩ là “siêu đẳng, thần
linh”, là “kẻ siêu phàm, thoát tục” trên tất thảy người đời: “Ta trên Đài Vọng
Hải - Ngất ngưởng mặt thần đồng - Khôi ngô và lẫm liệt - Từ nay trên Ngọc
Điện - Chỉ nhượng Phật Như Lai” (Hậu Ngũ Hành Sơn). Người nghệ sĩ siêu
đẳng, thần linh ấy đã luyện được cho mình cái nhìn “thấu thị”, “chọc thủng” rào cản
giữa thế giới hữu hình và thế giới siêu nhiên vô hình để sáng tạo nên một cõi thơ
linh thiêng huyền bí. Cùng đề cao vai trò nghệ sĩ, nhưng thơ Bích Khê được nhìn
dưới góc độ khác, không nhiều sự chết chóc, đớn đau, bi thương như hai bạn đồng
hành, trái lại đầy nhạc điệu, màu sắc và hương hoa. Được đánh giá là nhà thơ tiếp
thu chủ nghĩa tượng trưng triệt để nhất, Bích Khê dường như tuân thủ tất cả những
đặc trưng cơ bản, nổi bật của học thuyết tượng trưng trong sáng tác của mình. Bài
Xuân tượng trưng phần nào phản ánh quan niệm nghệ thuật của chính nhà thơ: “Hỡi
lời ca man dại - Điệu nhạc thở hơi rừng - Đêm nay xuân đã lại - Thuần túy và tượng
trưng” (Xuân tượng trưng). “Thơ thuần túy” chịu phần ảnh hưởng của Valéry. “Thơ
tượng trưng” chịu phần ảnh hưởng của Baudelaire, xa hơn nữa là Edgar Poe. Hàn
gọi Bích Khê là “bật nảy thiên tài”. Con đường thơ Bích Khê “nhuộm đầy máu
huyết Baudelaire”, người mà nhà thơ tôn làm vua thi sĩ: “Baudelaire! Người là vua
thi sĩ! - Cho xin trụm bao nhiêu mùi thi vị - Phà hơi lên, truyền nhiễm thấu trần
ai…” (Ăn mày - Bích Khê). Để sáng tạo “tính hiện đại” kiểu Baudelaire, Bích Khê
dựa vào cảm quan mở rộng, vào trực giác tinh tế, vào cả vô thức và bản năng, từ đó
chắt lọc cái đẹp từ cái tầm thường và nhơ nhuốc, tìm đến chỗ khải thị tuyệt đích
nhằm “chiếm lĩnh thế giới cùng cái đẹp nguyên sơ, toàn vẹn” [55,39]. Thơ với Bích
Khê là “đường kiến trúc nhẹ nhàng theo điệu mới” nên lời thơ phải “lóng lánh hạt
châu trong”. Thơ phải là nhạc, là họa, là nhiếp ảnh, là điêu khắc, là vũ đạo, và phải
là “một hỗn độn đẹp xô bồ say dậy”. Chỉ cần điểm qua một số bài thơ Bích Khê như
Sọ người, Duy tân, Xuân tượng trưng, Tranh lõa thể…, ta sẽ thấy ở đó một thế giới
tân kỳ, lung linh, biến ảo “mà tính tượng trưng, siêu thực, thần linh, âm nhạc có cơ
hội để tích hợp với nhau làm nên cái nền đa dạng, phong phú… và ngoạn mục mà
chủ nghĩa lãng mạn trước đấy chưa có được” [64,23]. Yếu tố siêu thực dù không
nhiều như Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên, nhưng cũng mang đến cho thơ Bích Khê
cách nói tự nhiên với những hình ảnh bất chợt và thú vị, kiểu như: “Yêu bằng mộng
55
và mơ tim sáng láng” hay “Đây sự thực trần truồng nằm giữa háng!” (Trái tim)…
Bích Khê đã mở cho riêng mình một con đường thơ với khát vọng duy tân cháy
bỏng ngay từ lúc Thơ mới lãng mạn đang nằm trên đỉnh vinh quang.
Chủ trương làm nên những vần thơ điên loạn và khó hiểu, cùng sự tôn thờ
những vần thơ của Valéry, Baudelaire và quan niệm của Mallarmé: “Nói cho rõ một
vật có nghĩa là bỏ qua mất ba phần tư lạc thú khi đọc thơ”, vì vậy với Trường thơ
Loạn, thơ hay chỉ có thể suy tư mà “cảm”, yên lặng mà “nghe” những thanh âm
rung động trong lòng hơn là nói ra thành lời một cách rạch ròi. Cảm quan mĩ học
của các thi sĩ tượng trưng luôn tạo ra thi hứng mãnh liệt để siêu hình hoá mọi trạng
thái, mọi phẩm chất, mọi cảm thức về không gian, thời gian, về ý nghĩa cuộc sống,
nên sáng tạo thơ đối với Trường thơ Loạn là những phút giây lóe sáng xuất
thần trong cuộc phiêu du của linh hồn. “Thi nhân tự biến mình thành tiên tri thấu
thị bằng một sự hỗn loạn của tất cả mọi giác quan, lâu dài, rộng lớn phi thường và
hợp lý” (Rimbaud). Lúc điên cuồng, họ gào thét trước nỗi đau thể xác để rồi
bùng lên khát vọng sống mãnh liệt. Quá trình sáng tạo này được coi là mất trí,
phát điên. Nhưng sự điên cuồng tuyệt nhiên không phải là bệnh lý mà là trạng
thái nhiệt hứng, khi xúc cảm thăng hoa đến tột độ: “Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi
yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản bội tất cả những gì mà lòng tôi, máu
tôi, hồn tôi hết sức giữ bí mật. Và cũng có nghĩa tôi mất trí, tôi phát điên”
(Tựa Đau thương). Trong Mùa thu đã tới, Hàn một lần nữa khẳng định: “Nhà
nghệ sĩ bao giờ cũng điên”: “Bây giờ tôi dại tôi điên - Chắp tay tôi lạy cả miền
không gian” (Một miệng trăng - Hàn Mặc Tử).
Cũng như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và Bích Khê đều thích thú khi nhiều
lần nhắc đến trong thơ mình những chữ: Điên - Cuồng - Loạn, và quả thật những
chữ ấy đã ám vận vào đời và thơ họ một cách tự nhiên không thể tách rời. Những
giây phút “mất trí”, “phát điên”, “cuồng dại” ấy chính là thời điểm hưng phấn sáng
tạo tràn qua bờ ngăn lý trí, giành lấy quyền điều hành ngòi bút của người nghệ sĩ để
ký thác nên những dòng thơ bằng tất cả nỗi niềm tâm trạng. Tất cả trở thành nguồn
cảm hứng sáng tạo nghệ thuật lý tưởng, như Hàn có lần phát biểu: “Khi nào tôi òa
lên khóc, hay gào thét như người điên, lúc bấy giờ tôi mới làm thơ được”. Đó có thể
là khoảnh khắc chán nản: “Nhắm mắt lại cho cả bầu bóng tối - Mênh mang lên, bát
ngát tựa đêm sâu” (Tạo lập - Chế Lan Viên), nơi cái đẹp đã được đẩy sang một địa
56
hạt khác của sự kinh dị tột cùng: “Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút - Mỗi lời thơ
đều dính não cân ta” (Rướm máu - Hàn Mặc Tử). Cũng có khi, đó là cuộc phiêu
diêu đầy chuếnh choáng: “Ôi! say khướt mới dào muôn ý tứ - Ôi! điên rồ mới ngớp
ánh chiêm bao - Ôi! dâm cuồng mới biết giá trăng sao” (Trái tim - Bích Khê). Thơ
Loạn không trực tiếp phản ánh hiện thực mà phản ánh tâm trạng trước hiện thực
bằng cái nhìn đầy huyền ảo và le lói những tia sáng dị kỳ. Hàn Mặc Tử mượn thơ
chắp cánh cho một cuộc viễn du trong cõi mộng mơ, huyền diệu: “Ta bay lên!
Ta bay lên! - Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thiềm - Ta ở trên cao nhìn trở xuống -
Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm” (Chơi lên trăng). Bích Khê cũng chìm
vào một thế giới bí ẩn “Đầy cỏ xanh xao mây lớp phủ - Trên mồ con quạ đứng
im hơi” (Nấm mộ - Bích Khê). Chế Lan Viên huy động tất cả mọi tiềm năng
tinh thần để viết nên những câu thơ siêu thoát: “Hỡi chiếc sọ, ta vô cùng rồ
dại - Muốn riết mi trong sức mạnh tay ta! - Để những giọt máu đào còn đọng
lại - Theo hồn ta, tuôn chảy những lời thơ” (Cái sọ người - Chế Lan Viên).
Quan niệm “Làm thơ là làm sự phi thường”, Trường thơ Loạn triền miên ngụp
lặn trong thế giới rùng rợn mà vùng vẫy, kêu la: “Nó gào, nó thét, nó khóc, nó cười.
Cái gì nó cũng tột cùng” (Tựa Điêu tàn). Thoát ly vào thơ và làm thơ thoát ly hiện
thực, đó là đặc điểm cốt lõi của phong trào Thơ mới. Nhưng nếu thoát li của Thơ
mới là một trạng thái tâm lí xã hội, lấy “thanh sắc thời gian làm tài liệu” để tìm
kiếm chốn nương thân nương hồn, thì thoát li ở thơ Loạn mang một chiều kích
khác, một bản chất khác. Đó là sự cố tình phơi bày những hình ảnh đau thương để
tạo cảm giác “đê mê, tê liệt” từ các liên hệ ngang - dọc, gần - xa, trực tiếp - gián
tiếp, trong ý thức, tiềm thức và vô thức… Ý gọi ý, hình gọi hình, nhạc lay
thức nhạc trong một trường cảm xúc mãnh liệt, biểu hiện thành lời thơ, thi
phẩm. Vừa tiếp nối chủ nghĩa lãng mạn của phong trào Thơ mới, nhưng đồng thời
Trường thơ Loạn đã đặt bước chân của mình vào chủ nghĩa tượng trưng và đưa thơ
vào những chấm phá đầu tiên của chủ nghĩa siêu thực. Baudelaire và các nhà thơ
tượng trưng phương Tây xem thi sĩ như là thiên tài cao cả, linh diệu, đứng hẳn lên
trên loài người. Trong Lời chúc phúc, Baudelaire cho rằng: “Nhà thơ theo lệnh các
quyền lực tối cao” “xuất hiện giữa thế gian buồn chán”, “nhưng được sự bảo trợ vô
hình của Thiên thần”. Cách nói đượm màu tôn giáo huyền bí trên đã tôn vinh loài
thi sĩ đến tột đỉnh, mà đối với Trường thơ Loạn, sáng tác thi ca là một việc làm phi
57
thường. Vì thế, thi sĩ là kết tinh của những gì siêu việt, những đối cực thần thánh và
quái dị, linh thiêng và tầm thường, say đắm mơ màng và điên cuồng loạn trí…
Khát khao làm sự phi thường, sáng tác của Trường thơ Loạn đã vượt khỏi
“tầm đón đợi” của người đọc, của thi đàn Thơ mới.
2.3.2. “Thơ là hoa trái của đau thương và sắc màu hoan lạc”
Nỗi buồn là âm hưởng chủ đạo của Thơ mới, nhưng đến với Trường thơ
Loạn, trên cả nỗi buồn là nỗi đau. Sự cô độc là một trong những trải nghiệm đau
đớn đầu tiên, gần như bản mệnh của các thi sĩ thơ Loạn. Ngay từ quan niệm “làm
thơ là làm sự phi thường” và “thi sĩ không phải người thường”, cũng đồng nghĩa
Trường thơ Loạn chấp nhận những kiếp sống đơn độc giữa đời thường. Cùng với
vạn cô liêu cõi lòng là những vết thương ái tình không kín máu, một xác thân bệnh
tật vô phương cứu chữa, sự ghẻ lạnh của người đời như lãnh cung định mệnh của
cuộc đời quăng quật.
Âm hưởng đau thương từ quan niệm thơ kết tinh những linh hồn mang
trong mình khổ đau và khát vọng là khoảnh khắc trở dạ của đứa con tinh thần, là
chất liệu để chưng cất thành thơ, để thơ nở ra “những bông hoa thần dị” (chữ dùng
của Hàn Mặc Tử), thành tiếng ca hoan lạc trên miền “thượng thanh khí” rực rỡ
quang năng. Chế Lan Viên với nỗi đau tinh thần chất chồng một khối sầu bi thống.
Chính quá khứ dân tộc Chàm trong niềm bi hận là khách thể đích thực để thơ được
thăng hoa. Điều này một phần được chi phối bởi tư tưởng Chế Lan Viên. Nhà thơ
tin vào chân lý của nỗi buồn, tin vào hạt lệ như một ẩn dụ của nỗi đau: “Hạt lệ!
Những cành hoa cho vô tận hái. Hạt lệ! Những ngọc trai mà bể tim đau. Hạt lệ!
Những ngôi tinh lạc rơi từ một vòm trời luôn luôn khuya khoắt là bầu mắt thẳm
xuống một trần gian mãi mãi gió sương mà lòng đau bát ngát của con người”
[98,15]. Và vì vậy, đối tượng thi ca của Chế là thế giới đau thương: “Sự đau
thương chẳng khác, nó vốn ở lòng người. Nó thụ thai trong những chiếc bào thai,
không đến từ bên ngoài, không lại từ sự vật” [98,39]. Điều này giải thích vì sao
khi thơ Chế Lan Viên “đầy những điệu sầu bi - Đầy hơi thịt ý ma cùng sắc chết”
(Tiết trinh).
Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên, trong ba thành viên chủ chốt của Trường
thơ Loạn, đến hai người mắc bệnh nan y. Số mệnh đã đặt họ đứng chông chênh giữa
bờ vực sống - chết, khiến thi nhân phải cất lên bằng tiếng thơ tuyệt vọng. Hơn tất
58
cả, Hàn Mặc Tử nhạy cảm đặc biệt với nỗi đau, vì đau thương là một định mệnh
miên man ám ảnh cuộc đời Hàn. Như tiên tri cho số phận bi kịch của mình, ngay
khi còn là một thanh niên căng tràn sức sống, Hàn đã chọn cho mình bút danh
Phong Trần - gió bụi và Lệ Thanh - tiếng khóc. Hàn cho rằng: “Thơ là hoa trái của
đau thương”, và xem đau thương như hành vi sáng tạo. Đau thương hành hạ
thân xác Hàn, đồng thời cũng cung cấp cho ông nguồn năng lượng sáng tạo vô
biên. Ta có thể xem Hàn là hiện tượng ám ảnh nhất trong lịch sử thi ca Việt. Ám
ảnh vì “Hàn Mặc Tử là một phức hợp gồm nhiều mặt: một thân phận thơ đầy
bất hạnh, một hồn thơ hết sức dị biệt và một tâm hồn thơ vừa trong trẻo bí ẩn,
vừa huyền diệu ma quái” [77,1]. Nhà thơ muốn phô bày tất cả bản thể của
mình qua thơ. Mỗi chữ trong thơ Hàn đều in bóng nỗi đau của chính mình:
“Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết - Trải niềm đau trên mảnh giấy mong
manh - Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết, - Cả lòng ta trong mớ chữ rung
rinh” (Rớm máu - Hàn Mặc Tử). Cảm nhận nỗi đau “bằng tim, bằng phổi, bằng
máu, bằng lệ, bằng hồn”, nên nỗi đau đã hình thành cá tính và thi pháp thơ ông. Nỗi
đau ấy khiến thi nhân nhìn thấy quanh mình cái gì cũng dữ dội, mãnh liệt và dâng
cao như ngọn cuồng phong rồi đổ ào xuống cuốn tất thảy vào lòng mình bằng sự
khủng khiếp không gì cản được. Con người trong thơ ông chính là hình bóng phản
chiếu cuộc đời ông. Tuy vậy, chúng ta không nên đồng nhất tiếng rên xiết trong thơ
với tiếng gào xé đớn đau của tấm thân bệnh hoạn. Chỉ khi nào những đau đớn xác
thân chuyển hóa sang địa hạt tinh thần, hòa vào nỗi đau tinh thần qua cảm quan thi
sĩ, thì khi đó mới thai nghén thành thơ. Đau đớn xác thân chính là chất liệu để hồn
thơ được chưng cất. Vì vậy, đọc Hàn, ta bắt gặp đầy những vần thơ chảy máu: “Trời
hỡi bao giờ tôi chết đi - Bao giờ tôi hết được yêu vì - Bao giờ mặt nhật tan thành
máu - Và khối lòng tôi cứ tợ si” (Những giọt lệ). Đó là thi liệu, là cảm hứng vô biên
để hồn thơ cất cánh, nên không phải tình cờ, tập thơ xuất sắc nhất trong sự nghiệp
sáng tác của Hàn cũng có có nhan đề Đau thương!
Nếu Hàn Mặc Tử ngày đêm chứng kiến sự ăn mòn thể xác của bệnh phong
như từng giờ đẩy mình đến cửa tử, thì Bích Khê cũng chịu đựng nỗi đau không kém
của bệnh lao quái ác: “Muôn ưu phiền dày đặc ứ trong đầu - Muôn sầu hận xây mồ
ngay giữa phổi” (Châu - Bích Khê). Và ông đã trút hết nỗi đau để kết tinh, chưng
59
cất thành Tinh huyết, Tinh hoa. Hàn lý giải ở Bích Khê - “thi sĩ thần linh” rằng:
“Sự điên cuồng ấy uyên nguyên một phần ở thiên tài, một phần ở đau khổ” [29,45].
Đau thương là khởi điểm để Bích Khê “phát tiết hết tinh lực của hồn của máu”, là
giây phút thi nhân điên cuồng ọc ra từng búng thơ sáng láng: “Anh ghi lấy ảnh.
Những đau thương - Thấm tận lòng anh khổ chán chường - Anh úp mặt vào đôi mắt
ấy - Rồi không ngăn được. Lệ anh tuôn” (Ảnh ấy - Bích Khê). Đó là một quá trình
“lên đồng”, là sự “nhập thần” mãnh liệt đến mức thi nhân phải bật thành
những tiếng khóc - than - gào - rú: “Thơ tôi lưu luyến giữa dòng châu - Trễ
nải cho nên ứ mộng sầu - Châu vỡ thiên tài lai láng cả - Chết rồi, khí phách
của tôi đâu?” (Đây bản đàn thơ - Bích Khê).
Từ trong đau thương, rũ liệt của cơ thể tàn tạ và cô đơn đã bùng cháy sự xuất
thần thành năng lực huyền nhiệm làm nên những vần thơ chói lọi. Nói như
Gottfried Keller: “Tôi đã làm chủ được nghệ thuật chịu đựng niềm vui, nỗi khổ và
niềm vui đau khổ trở thành niềm hạnh phúc với tôi”. Chồng chất nỗi đau, những
vần thơ Loạn đậm đặc hơi thở kì bí và rùng rợn, thậm chí như điên như dại, phải:
“gào vỡ sọ”, “thét đứt hầu”, “khóc trào máu mắt”, thấm đẫm nỗi niềm đam mê ma
quỷ. Cái đẹp đến từ cái quái đản, điều này rất gần với chủ nghĩa tượng trưng của
Verlaine, Rimbaud, và nhất là Baudelaire - tác giả Những bông hoa ác!
“Thơ là hoa trái của đau thương”. Thật vậy! Vì chính đau thương đã kết
nụ cho thơ thành hoa, thành trái. Đó cũng có thể xem là những vần thơ chân thật
nhất về nỗi đau con người.
Đối với Trường thơ Loạn, “những cảm xúc đối nghịch” (L. S. Vygotskij)
luôn song hành cùng nhau trong thi hứng của các thi nhân. Bằng những đôi mắt
nhuốm đầy đau thương, các nhà thơ nhìn đời như một thảm sử. Hiện tại chỉ là cơn
vật vã cuối cùng bên bờ nỗi chết. Nhưng càng đến gần cái chết, niềm khát sống, hân
hoan sống lại càng thêm mãnh liệt. Về hiện tượng này, Heine cho rằng: “Từ nỗi đau
đớn của mình, tôi lấy ra những khúc ca nhỏ”. Nietzsche cũng nhận định tương tự:
“Chỉ có những người khổ đau mới thể nghiệm được sự thoáng hiện của hoa
quỳnh hạnh phúc”. Đó cũng là hai hướng chính trong xúc cảm và trong quan niệm
nghệ thuật của Trường thơ Loạn. Chính vì vậy, xem thơ là hoa trái đau thương,
Trường thơ Loạn đồng thời cũng xem thơ là tận cùng của nguồn hoan lạc.
60
Biểu hiện đầu tiên của niềm khoái lạc trong thơ Loạn đó là sự ham
muốn vô biên những vẻ đẹp thanh cao, tinh khiết. Theo quan niệm Trường thơ
Loạn, hành trình thơ của một thi nhân tất yếu phải đến được “cõi mơ ước hoàn
toàn”. Cõi mơ ước ấy với Hàn là “trời mơ trong cảnh thực huyền mơ”, là
“đường trăng sao ánh nguyệt tuyệt vời bay”, nơi “rực rỡ ánh sáng muôn năm”
của sự vĩnh hằng trong khoái lạc đến tột cùng, tuyệt đối: “Ta sống mãi cùng
trăng sao gấm vóc - Trong nắng thơm trong tiếng nhạc thần bay” (Trường thọ
- Hàn Mặc Tử). Ở địa hạt huyền diệu ấy, Hàn quên đi đau khổ, quên đi tục lụy
trần thế để đón chào mùa xuân như ý ngập tràn ánh sáng và hương hoa. Với
Hàn, làm thơ là “hái những lá tinh hoa”, là đang “say sưa đi trong mơ ước”
(Tựa Điêu tàn), trong huyền diệu, trong ánh sáng và vượt ra hẳn ngoài hư
linh. Tắm gội trong thế giới tượng trưng đầy hào quang, diễm ảo với “hương
gấm”, “nhạc thơm”, “mộng ngọc”, thi sĩ dường như cũng tan loãng ra hòa vào
thượng thanh khí của chốn xa vời: “Chúng ta biến em ơi! Thành thanh khí -
Cho tan ra hòa hợp với tinh anh - Của trời đất, của muôn ngàn ý nhị - Và tình
anh sáng láng như trăng thanh” (Sáng láng - Hàn Mặc Tử).
Trong Quan niệm thơ, Hàn Mặc Tử khẳng định mình “không giống
Baudelaire lắm”, và so sánh: “Baudelaire lấy Passion (dục tình) làm hứng vị
cho thơ”, còn Hàn lấy “tình cảm” làm đối tượng và cảm hứng. Thực ra, đó chỉ
là cách nói. Làm nên hứng vị cho thơ Hàn vẫn có dục tình, nhưng nhiều hơn
là sự nguyên khôi của con tim khao khát. “Tình cảm là sự thanh sạch hồn
nhiên, không một chút gì bợn thơ, tội lỗi, còn dục tình là một sự ham muốn
phi thường, ngoài điều răn dạy của Đức Chúa Trời” [91,263]. Nghệ thuật với
Hàn là những âm thanh thiêng liêng như “đức tin kiều diễm” và xem Đức Chúa
Trời là cội nguồn của thơ: “Đức Chúa Trời vừa là điểm xuất phát cội nguồn,
vừa là đích đi tới, tiêu chuẩn của thơ” [56,102]. Và Hàn đã ca ngợi Đức Chúa
Trời, ca ngợi Thượng đế bằng những khúc thánh ca, bằng những lời cầu
nguyện trong cơn nguy cấp: “Cho tôi dâng lời cảm tạ phù nguy - Cơn lâm lụy
vừa trải qua dưới thế” (Thánh nữ đồng trinh Maria). Ta cũng có thể xem thơ
Hàn là tiếng thơ đi về giữa đời và đạo, phần đời đằm thắm còn phần đạo siêu thoát,
không định hướng. Đó là hệ quả tất yếu của quan niệm coi thi sĩ là thiên sứ cái
đẹp với niềm đê mê khoái lạc.
61
Nếu thơ Hàn Mặc Tử là cái đẹp ở cõi huyền diệu thì thơ Bích Khê là cái
đẹp tinh khiết, nguyên sơ thuần túy, tuyệt đối trong tự nhiên và con người.
Khám phá vẻ đẹp thánh thiện, cao quý là cách để Bích Khê chiếm lĩnh thế
giới và tạo vẻ thanh cao cho tòa thơ mình. Hàn Mặc Tử đồng cảm với quan
niệm này của Bích Khê: “Thơ sẽ ham thích hết sức những gì thanh cao như
hương thơ nhơn đức của vì á thánh” (Tựa Tinh huyết). Quan niệm này chi
phối thơ Bích Khê từ nghệ thuật xây dựng hình tượng đến cách sử dụng ngôn
từ, hình ảnh, nhạc điệu. Bước vào thi giới Bích Khê như bước vào cõi thơ
mộng của dạ lan, của đỉnh trầm hương hòa quyện, lan tỏa trong khắp không
gian nhuốm đầy “tơ trăng lụa”. Mọi cảnh trí, sắc màu đi vào thơ Bích Khê đều
được ảo hóa tạo cho thơ vẻ đẹp huyền hồ khó nắm bắt. Bằng đôi mắt mộng
mơ và nhạy cảm, “nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ trở thành chiêm bao, nhìn
vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu…” (Tựa Tinh huyết), Bích
Khê đã phát hiện, mĩ hoá bao vẻ đẹp thanh cao từ thiên nhiên và con người.
Tận cùng khoái lạc với Chế Lan Viên là được “tắm trong trăng”, “ngủ
trong sao”. Từ chán nản, cô đơn, Chế tìm cho mình một chỗ để ẩn nấu, để lui tới,
để lánh xa cuộc đời trần tục. Đó là cõi xa xăm của vũ trụ, sao trời để trốn chạy khỏi
chốn điêu linh: “Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh - Một vì sao trơ trọi cuối trời xa -
Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh - Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo” (Những
sợi tơ lòng). Đi từ “cõi ta” đến “cõi trăng sao”, “cõi mộng” để chạy trốn hiện tại,
nhà thơ hi vọng chốn vũ trụ bao la sẽ giúp tâm hồn được khuây khỏa, nhưng “một
tinh cầu giá lạnh” không thể sưởi ấm được tâm hồn băng giá, “một vì sao trơ trọi”
chỉ càng làm tăng thêm nỗi tái tê đang tràn ngập cõi lòng. Vì vậy, Chế tìm về quá
vãng để sống với một thời rực rỡ, và hơn hết tận hưởng những phút giây hoan lạc
cùng “Chiêm nương gờn gợn sóng cung Hằng” (Mộng), từ đó nhận diện bằng tâm
tưởng những gì không còn của quê hương Chàm yêu dấu.
Hướng về cái đẹp thanh cao và khoái lạc của cuộc sống, Trường thơ
Loạn tiếp tục làm giàu có thêm những biểu hiện mĩ học sáng tạo tân kì. Tuy
nhiên, đọc thơ Loạn, có thể thấy rõ một điều: niềm khoái lạc lớn nhất của thi
nhân là khám phá, chiếm lĩnh cái đẹp kinh dị. Cũng vì vậy, các thi nhân luôn
bị thôi miên bởi những huyền bí trong hành trình “đi tìm sự lạ” (Nghệ thuật là
62
gì - Hàn Mặc Tử). Cõi tịnh độ, Niết bàn không làm vơi đi những ám ảnh một
địa ngục ác dữ đang nuốt dần sự sống. Hàn thường xuyên rơi vào trạng thái cô
đơn tuyệt đối, tinh thần bị vây khốn giữa cõi lòng đơn độc, nên thơ Hàn lảng
vảng những bi ai trầm thống, và ánh mắt rờn rợn của thần chết kề bên. Điều
này cũng có nghĩa, bản thân cõi tinh thần của Hàn đã là điều kinh dị. Nó kích
thích khả năng sáng tạo nghệ thuật trong Hàn bằng rung cảm, khát khao…
Trong niềm khoái lạc vô biên ấy, thi sĩ triền miên ngắm nhìn cơ thể mình
chảy máu. Vì máu là duyên cớ để thơ ông lai láng, tuôn trào: “Lời thơ ngậm
cứng không rên rỉ - Và máu tim anh vọt láng lai - Thơ ở trong lòng reo chẳng ngớt -
Tiếng vang tha thiết dội muôn nơi” (Rớm máu)… Như vậy, quá trình sáng tạo thơ
với Hàn vừa là nỗi đau tột cùng, vừa là niềm khoái lạc vô biên. Chính trong
nguồn khoái ấy đưa thi sĩ vào cõi tâm linh có nhạc và có hoa, có đau thương
và mơ mộng, có lãng mạn và siêu thoát, có âm vọng thánh kinh.
Là thần dân trung thành của vương quốc thơ Loạn, Chế Lan Viên khoái lạc
với cái đẹp linh thiêng. Từ cái đẹp phá cách này, Chế chọn cho mình một
khách thể thẩm mĩ mang tính hư cấu - siêu hình - kinh dị chi phối thế giới
nghệ thuật thơ ông suốt những năm tháng “điêu tàn”: “Ta sẽ nhịp khớp xương
lên đỉnh sọ - Ta sẽ ca những giọng của hồn điên - Để máu cạn, hồn mê, tim tan vỡ -
Để trôi đi ngày tháng nặng ưu phiền” (Điệu nhạc điên cuồng). Thế giới hỗn loạn
đến rùng rợn của bãi tha ma đầy sọ người, xương khô, thịt rữa cùng tiếng kêu
của tượng Chàm lở lói, tiếng gào thét của những hồn điên thực chất là ý niệm
giúp ông giải thoát khổ đau, bế tắc, tuyệt vọng ở chốn trần gian.
Bích Khê cũng quan niệm cái đẹp ở dạng thức tột cùng của hai thái cực:
thanh cao và kinh dị. Và dạng thức nào cũng mang lại cho Bích Khê niềm
đam mê, khoái lạc. Cái đẹp thanh cao là cái đẹp của Trăng - Hoa - Hương -
Nhạc. Cái đẹp kinh dị là cái đẹp của Điên - Cuồng - Loạn - Ác. Nó là sự xé
rào, phản ứng, là sự không chấp nhận đóng khung cái đẹp trong quan niệm
đạo đức đương thời. Quan niệm mĩ học này của Bích Khê cũng như của thi sĩ
thơ Loạn chịu ảnh hưởng chủ yếu từ Baudelaire. Vị tổ trường phái tượng
trưng này từng quan niệm: “Hỡi cái Đẹp, con quái vật khủng khiếp và chất
63
phác thơ ngây, dù ngươi đến từ phương trời cao hay địa ngục. Điều đó có hề
chi nếu con mắt, nụ cười và bàn chân ngươi mở cho ta cánh cửa của vô tận mà
ta mến yêu và chưa hằng biết đến” (Baudelaire). Nhiều nhà thơ của phong
trào Thơ mới tiếp thu quan niệm khác lạ và độc đáo này, trong đó Trường thơ
Loạn để lại nhiều thành công hơn cả, vì ngay khi bước vào thi đàn Thơ mới,
thi sĩ thơ Loạn đã muốn đi đến tận cùng cuộc duy tân táo bạo với thi ca.
Dù rằng, xét từ quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống, quan niệm của
Trường thơ Loạn đã quay lưng lại lịch sử lầm than của cả một dân tộc. Mặt
khác, ảnh hưởng Edgar Poe, Baudelaire cùng các nhà tượng trưng và siêu thực
phương Tây, Trường thơ Loạn đề cao vai trò của thi nhân, của cái đẹp đến
mức cực đoan, phiến diện… Nhưng nếu xét từ lịch sử phát triển văn học,
không thể phủ nhận những tiến bộ của Trường thơ Loạn khi thực hiện bước
nhảy vọt về chất trong tư duy sáng tạo bằng quan niệm nghệ thuật tân kỳ.
Vượt qua vực sâu tâm hồn với bao tang tóc, viễn du vào một thế giới rộng
rinh không bờ bến, các thi sĩ thơ Loạn trong niềm khoái lạc vô biên đã kết
tinh và thăng hoa thành những vần thơ nhuộm đầy máu huyết.
Tiểu kết
Có thể thấy, sự tiếp thu chủ nghĩa tượng trưng vừa là một tất yếu khách quan
trong tiến trình hiện đại hóa văn học, vừa là một sự lựa chọn nghệ thuật của các tác
giả phong trào Thơ mới. Tuy là một thi phái đến từ phương Tây, nhưng thơ tượng
trưng không quá xa với truyền thống và kinh nghiệm thẩm mĩ của người phương
Đông và Việt Nam. Sự tiếp thu và gặp gỡ này tạo nên những dòng tượng trưng: Dạ
Đài, Xuân Thu nhã tập và Trường thơ Loạn. Riêng với Trường thơ Loạn, quá trình
ảnh hưởng chủ nghĩa tượng trưng còn chịu tác động không nhỏ từ không gian văn
hóa của một vùng đất. Quy Nhơn - Bình Định với vẻ đẹp tự nhiên và truyền thống
lịch sử, nơi giao hòa hai nền văn hóa Việt - Chăm, nơi hội tụ những điều thiêng
liêng, kì bí khó giải nghĩa đã khơi gợi hồn thơ của biết bao thi sĩ, trong đó có những
gương mặt thơ độc sáng kiến tạo nên một tổ chức thi ca với tuyên ngôn nghệ thuật
lạ lẫm đã mang lại dáng dấp hiện đại mới cho thơ, góp phần làm nên sự đa sắc màu
cho cả một nền văn học.
64
CHƯƠNG 3
NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG TRONG SÁNG TÁC CỦA TRƯỜNG
THƠ LOẠN - NHÌN TỪ THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG VÀ BIỂU TƯỢNG
3.1. Hình tượng cái tôi trữ tình
Cái tôi cá nhân (individu) là hình tượng chủ thể trữ tình trong một tác phẩm
trữ tình, là nơi nhà thơ giãi bày lập trường, tư tưởng, tình cảm, nhân sinh quan, thế
giới quan của mình. Nó vừa là đối tượng phản ánh, vừa là kết quả của sự miêu tả, tự
đánh giá, tự ý thức của chính nhà thơ. Theo Vũ Tuấn Anh “Cái tôi trữ tình là sự thể
hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với thế giới và con người thông qua lăng
kính cá nhân của chủ thể và thông qua việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ tình,
tạo ra một thế giới tinh thần riêng biệt độc đáo mang tính thẩm mĩ nhằm truyền đạt
tinh thần ấy đến người đọc” [2,32]. Tiến trình thơ trong lịch sử văn học nói chung
luôn luôn đồng hành với sự vận động của các kiểu cái tôi trữ tình. “Mỗi thời đại đều
có lối cảm xúc tế nhị hay cao siêu, hay tự do của nó. Tóm lại, mỗi thời đại đều có
lối quan niệm riêng về thế giới của nó. Cái này được biểu hiện rõ ràng nhất và hoàn
toàn nhất vì tiếng nói dùng để diễn đạt tất cả những gì diễn ra trong tinh thần con
người” [81,15]. Trong sáng tác của Trường thơ Loạn, hình tượng cái tôi trữ tình
được biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau. Có khi xuất hiện trực tiếp, có khi
gián tiếp, ẩn khuất. Do sự nhận thức của cuộc đời và nghệ thuật ở mỗi thi sĩ của
trường thơ khác nhau nên cái tôi trữ tình trong thơ họ cũng khác nhau. Nhưng
chung quy lại, ảnh hưởng của thời đại cùng những tương đồng về tư duy triết mỹ và
cảm quan tôn giáo đã đưa thi phẩm của các thi sĩ thơ Loạn gặp gỡ nhau để tạo nên
một cái tôi thống nhất.
3.1.1. Cái tôi gắn kết thi nhân và tín đồ
Dù không đồng nhất, nhưng cái tôi trữ tình trong thơ thường là sự hiện diện
của bản thân nhà thơ, nó vừa có sự thống nhất với nhà thơ “văn như kỳ nhân”, hay
“phẩm chất của thơ bắt nguồn từ phẩm chất của người” (Lưu Hy Tái), vừa là “một
hình tượng vượt ra khỏi nhà thơ” (R. Becher). Mỹ học Mác - Lênin quan niệm:
“Loại hình nghệ thuật là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt của con người, được phân
biệt dựa theo đối tượng của sự phản ánh, dựa theo tính chất và kiểu loại hình tượng,
theo những phương thức thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người, theo chất liệu
65
và theo các quy luật xây dựng hình tượng đặc trưng của mình” [67,96]. Nếu Hoài
Thanh gọi Thơ mới là thời đại “chữ tôi” thì có thể xem các thi sĩ thơ Loạn là những
người đi xa nhất trên hành trình tìm kiếm cái tôi thành thật đang đòi hỏi được khẳng
định, được phơi trải. Trong sáng tác của Trường thơ Loạn, cái tôi trữ tình đóng vai
trò như một chủ thể phát ngôn cho những cảm nghĩ, suy tư, mộng ước của nhà thơ
trước cuộc đời; là sự thống nhất giữa thi nhân và tín đồ. Nói cách khác, thi nhân và
tín đồ là những dạng thức đặc biệt của cái tôi trữ tình nhà thơ, là sự hóa thân của cái
tôi trữ tình trong Trường thơ Loạn.
Không phải ngẫu nhiên, trong sáng tác của Trường thơ Loạn, màu sắc tôn
giáo trong thơ trở thành cảm hứng - trạng thái tâm lý đặc biệt. Điều này xuất phát từ
những nguyên nhân sâu xa của nó:
Thứ nhất, Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử gắn bó với mảnh đất Quy Nhơn -
Bình Định - nơi hội ngộ của nhiều tôn giáo, từ đạo Phật, đạo Thiên chúa, đến
Balamôn giáo đều có mặt. Tuy không phải tín đồ của một tôn giáo nào, nhưng có
lần Chế Lan Viên tự thú: “Nỗi buồn ghê gớm nhất, những hư vô sâu thẳm nhất để
lại cho tôi, chính là các nền tôn giáo. Mở đầu tôi yêu Chúa. Rồi tôi yêu Phật. Tôi
tìm Chúa qua các giáo lý của Cơ đốc giáo, của Tin lành. Và tôi tìm Phật nơi bàn thờ
Phật của cha tôi, ở kinh các chùa và ở ngoài chùa nữa. Có lẽ văn chương đã góp
phần nhiều, dẫn lối đưa đường nhiều trong vấn đề này. Làm sao không rung động
trước những trang Tân ước và Cựu ước, trước cái trữ tình của Nhã Ca (Cartique des
Cantique) và siêu thực của Khải Huyền (Apocalypse). Và Kinh Lăng Nghiêm kiến
trúc tầng tầng lớp lớp sâu thẳm và rạng rỡ như cái trời sao thăm thẳm rạng ngời làm
tôi mê lúc ấy” [99,53].
Hàn Mặc Tử trước hết là một tín đồ, Francois Nguyễn Trọng Trí sinh ra trong
một gia đình công giáo lâu đời và được nuôi dưỡng trong sự ngoan đạo. Từ nhỏ, tôn
giáo đã thấm vào huyết mạch. Và khi tôn giáo trở thành một phần cuộc sống, cất
giữ phần hồn thì nó chi phối tư tưởng, tình cảm và cả hành động. Bởi vậy, nhà thơ
ảnh hưởng tôn giáo là điều có thể hiểu.
Bích Khê nương náu cửa chùa bên tiếng cầu kinh, gõ mõ để thoát khỏi buồn
đau trần giới. Năm 1936, Bích Khê đi tu tại chùa Ông Rau, trên núi Tà Cú. Đến năm
1937, nhà thơ lại đến một ngôi chùa khác: chùa Phú Thọ, để làm thơ vừa nghiên
66
cứu Đạo Phật. Bích Khê “đã bắt gặp Đạo Phật một cách ngẫu nhiên là tín ngưỡng
truyền thống của gia tộc” [54,27-28].
Thứ hai, không chỉ được tiếp xúc với các tôn giáo khác nhau, cả ba trụ cột của
Trường thơ Loạn này còn có sự gặp nhau về quan niệm tôn giáo. Với các thi sĩ, tất
cả các tôn giáo tuy khác nhau về giáo phái nhưng đều là những đấng tối cao hướng
tới nhân văn và thánh thiện. Hàn cho rằng: “Đạo vốn có một”, do người đời hiểu sai
lạc rồi đem phân ra thành đạo này đạo nọ. Thơ Hàn dày đặc những hình ảnh và bí
tích tôn giáo. Có thể nói, Hàn đã tích hợp các tôn giáo để biểu đạt tôn giáo của riêng
mình. Chế Lan Viên đã gọi một lượt tất cả hình bóng của “Đấng tối cao” - “Tạo
Hoá” là Thích Ca, Giê Su, Khổng Khâu, Lão Tử... Nghĩa là thi sĩ không hẳn thuộc
về một tôn giáo nào cả với tư cách tín đồ. Trong Vàng sao, Chế Lan Viên cầu
nguyện về điều đó: “Thích Ca! Giê Su! Khổng Khâu! Lão Tử! Tôi đều thành tâm
trước uy linh huyền diệu của các ngài”. Và, ở Bích Khê: “Thiên đường và Niết bàn
theo tôi là những cái tên chỉ một chốn và đạo Phật, đạo Thiên Chúa… là những con
đường để đi đến cực lạc và vĩnh cửu đó vậy” [54,28]. Đó là lý do giải thích vì sao
sáng tác của mỗi tác giả trong Trường thơ Loạn bị chi phối bởi không chỉ một, mà
nhiều tôn giáo khác nhau.
Thứ ba, đối với Trường thơ Loạn, đau thương là âm hưởng chủ đạo chi phối
và bao trùm khắp không gian thơ. Hàn Mặc Tử và Bích Khê đã trải qua tất cả kinh
hoàng bệnh tật. Còn Chế Lan Viên, một người luôn tìm về quá khứ huy hoàng ngày
xưa để u hoài nuối tiếc khi đối diện với một thế giới hoang tàn, đổ nát hiện tại. Bệnh
tật và nỗi cô đơn khủng khiếp đã khiến các thi sĩ thơ Loạn rơi vào trạng thái cuồng
loạn miên viễn. Định mệnh nghiệt ngã đó xô họ đến với tôn giáo để mở cánh cửa
giải thoát khổ đau, tuyệt vọng, và để được giãi bày tâm sự với nàng thơ. Những
thương khó của cuộc đời khác chi so với quan niệm bể khổ. Niết bàn là cõi hoàn
toàn diệt dục cũng như thiên đường là sự giải thoát đều gặp nhau ở chỗ là ước mơ
của con người trong tai ương, bất hạnh. Cõi cực lạc, tịnh độ đầy hoa, đầy nhạc, đầy
hương, đầy ánh sáng… là khát vọng vượt thoát mãnh liệt của những thi nhân đối lập
với thực tại đầy đau khổ, trần ai. Sáng tác của Trường thơ Loạn vì thế được chạm
khắc bởi nhiều tư tưởng tôn giáo, đem lại một tiếng nói mới lạ, thần bí cho thơ.
Khi cuộc sống bị dồn đuổi gấp gáp, khi cái chết đến cận kề, nỗi tuyệt vọng lên
đến đỉnh điểm, Bích Khê luôn bị ám ảnh về cõi Niết Bàn. Tiếng cầu kinh, tiếng mõ
67
đã làm tâm hồn thi nhân như thoát khỏi buồn đau nơi trần giới. Hai tháng trước
ngày từ giã cõi trần, Bích Khê niệm Kinh Di Lặc và tin tưởng ngày nhắm mắt có
Phật đến rước. Hình ảnh đức Phật sáng ngời trong thế giới thơ Bích Khê như hứa
hẹn một niềm cực lạc: “Liêu trai trở lại, lánh vòng trần - Ma Phật mơ hồ mộng với
thân - Mặt ngọc bên trời tàn bóng nguyệt, - Mình ta trước cửa thưởng hoa xuân”
(Gõ bồn). Cũng có lúc Bích Khê nghĩ đến thiên đường nơi Thánh Giá, nhưng cuối
cùng thi nhân quy y với Phật Như Lai. Những vần thơ trên mộ chí của Bích Khê
mang đậm triết lý luân hồi. Tinh anh con người như còn lẫn khuất giữa lằn ranh hư -
thực, sau phút giây thể phách giã từ cõi sống để đến được với một thế giới nhiệm
màu mà hồn thi sĩ sẽ cư ngụ trong ánh trăng thanh: “Thân bệnh: ngô vàng, mưa lá
rụng - Bút thần: sông lạnh bóng sao rơi - Sau nghìn thu nữa trên trần thế - Hồn vẫn
về trong bóng nguyệt soi” (Đề bia trước mộ - Bích Khê).
Tư tưởng tôn giáo ảnh hưởng rất sâu đậm đối với Chế Lan Viên. Thơ Chế
Lan Viên đem đến cho người đọc “niềm kinh dị” một phần nhờ lối tư duy tôn giáo
siêu hình. Đó là sự tổng hợp của đạo Phật và Thiên chúa: “Ta lắng nghe những thế
giới bao la - Tụ họp lại trong lòng muôn hột cát - Dòng tư tưởng dần trôi trong lầm
lạc - Hồn say sưa vào khắp cõi trời mơ” (Ngủ trong sao). Cái tôi trữ tình trong Điêu
tàn còn hóa thân vào một tín đồ đang hướng tới đức Phật linh thiêng. Nếu trong
cuộc đời Phan Ngọc Hoan không là một tín đồ tôn giáo nào thì trong thơ, ta lại bắt
gặp một Phật tử Chế Lan Viên ngoan đạo, rất thành tâm, tha thiết, đang quỳ lạy
trước Phật đài với một tấm lòng thành kính, tin tưởng tuyệt đối vào phép màu
nhiệm của Như Lai: “Như Lai ơi! Con góp hết lòng tin - Xin quỳ đây nô lệ trước
chân thiêng” (Sôi nổi). Nhà thơ nguyện làm nô lệ của Phật, khát khao được dâng
hiến, đem hết lòng tin, tấm chân tình lên tế lễ đấng linh thiêng. Trong khoảnh khắc
này, cái tôi thi nhân đang ẩn tàng dưới bóng dáng một đức tin đang nghiêng mình
kính cẩn trước chân thiêng Phật đài. Hướng vọng về Như Lai với một đức tin sùng
đạo nhưng với Chế, tìm đến cõi Phật cũng không nằm ngoài mục đích giải thoát
khỏi bể khổ trầm luân của cuộc đời, khẩn cầu lòng khoan dung độ lượng, từ bi hỉ xả
của Đức Như Lai hãy đoái thương đứa con lạc loài của Người đang khổ đau rên xiết
dưới cõi dân gian: “Rất nhiệm màu, ôi Đấng Cả Mâu Ni - Xin từng thác từng nguồn
mau rộng mở - Lòng thương cao xuống lòng con đau khổ - Dầu chỉ trong một phút,
hãy cho xem - Trời Tây phương thất bảo chói trang nghiêm” (Say). Không chỉ thành
68
tâm cầu nguyện như một tín đồ ngoan đạo, Chế còn tìm đến Phật để giãi bày, mong
tìm được sự cảm thông, sẻ chia từ Người. Bất hạnh trong cuộc đời, đau khổ trong
tình yêu, Chế quay về với Phật mong tìm được sự yêu thương, che chở của ngày
xưa thân ái: “Hãy nắm lấy tay con, hãy ôm con vào ngực - Hãy để trong lòng cao,
lòng thơ con thổn thức - Hãy cho con chuốc rượu đảo linh hồn” (Sôi nổi). Nhưng
cũng có khi Chế hướng vọng về Chúa và Phật bằng mắt nhìn chất vấn: “Ðã triệu đời
qua, Chúa còn soi bóng - Narcisse muôn năm, trên lòng giếng rộng - Ðáy Hư Vô,
Người ngửa mặt trông trời - Ta là ai? Người thấy đó là ai?” (Ta là ai?)… Thoát ly
vào tôn giáo là một đặc điểm của cái tôi trữ tình thơ Chế Lan Viên trước cách mạng.
Dù lối thoát chỉ mang tính “hạnh phúc hư ảo”, nhưng lại là con đường cứu rỗi linh
hồn thi nhân. Như vậy, con đường đi về với Phật của tín đồ Chế Lan Viên là xuất
phát từ nhu cầu được giải thoát của cái tôi thi sĩ. Cõi Phật là lối thoát tâm linh, tinh
thần của cái tôi đau thương, tuyệt vọng. Dù hiện tồn dưới nhiều dạng thức khác
nhau nhưng luôn có sự thống nhất giữa thi nhân và tín đồ trong cái tôi trữ tình Chế
Lan Viên - một cái tôi đau thương, sầu não, luôn khao khát hướng tới cõi vô cùng.
Trong Trường thơ Loạn và cả phong trào Thơ mới, Hàn Mặc Tử có lẽ là nhà
thơ chịu ảnh hưởng sâu đậm nhất tư tưởng tôn giáo, và cũng là “văn gia công giáo”
duy nhất được ghi trong Việt Nam giáo sử. Thơ Hàn dày đặc những hình ảnh và bí
tích tôn giáo. Hàn thừa nhận: “Tôi dùng văn chương và triết lý nhà Phật để làm thơ
mà thôi, tôi lợi dụng cả hai thể văn tôn giáo: Thiên Chúa và nhà Phật. Đó là muốn
làm giàu cho nền văn chương chung”. Nhận ra cõi đời là khổ lụy, nhà thơ đã tìm
Cực Lạc Quốc Độ của Phật A Di Đà để giải thoát. Cõi Tây Phương hiện lên trong
thơ Hàn Mặc Tử trang nghiêm và kiều diễm: “Vì muôn kinh dồn dập cõi thơm tho -
Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo” (Đêm xuân cầu nguyện). Thi nhân lạc vào
Đạo Từ Bi không phải để tu luyện đến ngày thành “chánh quả”, mà để thưởng thức
những cái đẹp khác thường, vừa giàu sang, vừa thanh thoát…
Nhưng có lẽ Thiên Chúa giáo mới là tôn giáo Hàn Mặc Tử sùng tín nhất.
Không phải ngẫu nhiên khi Đặng Tiến cho rằng: “Kiến trúc toàn bộ thơ Hàn Mặc
Tử đều vang dội lời truyền giảng của phúc âm” [17,75]. Cuộc sống “đầy lệ, đầy
thương, đầy tuyệt vọng” xô Hàn vào bãi cô liêu tâm thức, vào chông gai đau khổ,
nhưng đó lại là con đường để thi nhân “bay cho đến cõi thiên đàng”. Hàn đã vượt
qua định mệnh đau khổ đó bằng đôi cánh của chim Phượng Hoàng và dưới năng lực
69
của thi ca, đưa thi nhân trở thành “thi sĩ của đạo quân thánh giá”, thành “con rồng
trong nhóm tứ linh”, thành người lãnh xướng dàn đồng ca thơ Loạn, và là sứ giả
thiêng liêng của niềm hoan lạc vô biên trước phúc âm thiên chúa…
Gửi trọn “đức tin thơ” vào tôn giáo cũng là một học thuyết thống trị cả một
tiến trình phát triển của thơ tượng trưng phương Tây. Chủ nghĩa tượng trưng chủ
trương “đem thuộc tính tinh thần của con người sáp lại với tôn giáo, coi vô thức
trực giác là cái chủ yếu trong sáng tạo nghệ thuật” [87,96]. Tôn giáo đã tạo ra một
quầng sáng siêu hình và huyền ảo cho thơ Loạn.
Dù có sự gắn kết với tín đồ, nhưng cái tôi trữ tình trong sáng tác của Trường
thơ Loạn vẫn in đậm bóng dáng trần gian với những cảm xúc đời thường dạt dào
sức sống. Ta bắt gặp trong thơ Loạn tiếng pháo nổ rộn ràng đón xuân sang, tiếng
chim ríu rít ngào ngạt hương hoa và rất nhiều những sắc màu sự sống. Có thể những
lúc đau thương, luyến tiếc, hờn giận chất đầy, những nhà thơ Loạn xa lánh cõi trần
tục ấy đi tìm chút an ủi, song thơ Loạn vẫn lấp lánh tình đời. Chất đời ấy kéo thơ
Loạn về mặt đất vững chãi, mặt đất quen thân của chính mình. Và cõi đời trần tục
ấy, con người đã hận, đã yêu, đã quên, đã nhớ đến khánh kiệt linh hồn... Thi sĩ vẽ
nên những bức tranh sinh động về thiên nhiên, cuộc sống. Cảnh quê, tình quê với
những hình ảnh quen thuộc: tre già, nắng mới, trầu cau, vườn cam, gốc đào, và hình
ảnh con người với tình yêu trong sáng. Dẫu cho cuộc đời còn những vũng đau
thương, những mối sầu vạn cổ…, nhưng với các nhà thơ, nó vẫn là giấc mộng ngàn
đời để được yêu và sống. Thi sĩ như thể trích tiên bị đày đọa ở cõi trời, nhưng lại
yêu thiết tha nơi đã mang đến cho họ những nỗi đau đớn điên cuồng về tâm hồn và
thể xác. Dù có trở lại cõi trời thì họ cũng xót xa luyến tiếc: “Đấy là tất cả người anh
tiêu tán - Cùng trăng sao bàng bạc xứ Say Mơ - Cùng tình em thiết tha như văn thơ
- Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế” (Trường tương tư - Hàn Mặc Tử). Chế Lan
Viên dù lùi về dĩ vãng xa xưa với những người đã chết, chân giẫm lên những ngôi
mộ đầy hài cốt tiêu tan từ vạn kiếp, song nhà thơ không quay lưng hẳn với cuộc đời.
Tác giả Điêu tàn, vì thế thiết tha gắn bó với con người và cảnh vật: “Cũng mới độ
nào trong gió lộng - Nến lau bừng sáng núi lau xanh - Bướm vàng nhè nhẹ bay
ngang bóng - Những khóm tre cao rũ trước thành” (Thu - Chế Lan Viên). Bích Khê
nhìn thấy Phật Quan Âm trong hình bóng người mẹ tảo tần, nỗi khao khát yêu
thương, ánh mắt, nụ cười chị gái Ngọc Sương qua những hình ảnh tươi đẹp trong
70
Tinh huyết, Tinh hoa. Yến Lan dù có những giây phút giây chiêm nghiệm và thăng
hoa với Bánh xe luân hồi (tập thơ viết về đạo Phật của ông đã bị thất lạc - VNN),
song thi nhân vẫn luôn hướng về cuộc đời bằng lòng khát sống, khát yêu cháy bỏng.
Những câu thơ Yến Lan viết cho ngày chị ông đi lấy chồng thật thiêng liêng và cảm
động: “Khế chua chị nấu lá mồng tơi - Em ước cùng ăn đến trọn đời - Tang mẹ mãn
rồi bà mối giục - Chị đi bát đũa cũng mồ côi” (Khi chị đi lấy chồng - Yến Lan).
Quỳnh Dao mơ tưởng về hình bóng giai nhân bằng những vần thơ rất đời và thực:
“Có ai vô lý như thi sĩ - Môi nở qua đường cũng nhớ thương” (Bài thơ Huế - Quỳnh
Dao). Điều này được thể hiện rõ hơn ở Hàn Mặc Tử. Thi sĩ cảm nhận vẻ đẹp giai
nhân bằng sự tương ứng các giác quan, sự tương giao của vạn vật. Màu sắc, hương
hoa, âm thanh cùng tương hợp với lòng người: “Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc -
Cả một mùa xuân đã hiện hình - Thinh sắc cơ hồ lưu luyến mãi - Chết rồi xiêm áo
trắng như tinh” (Cô gái đồng trinh). Giai nhân nhiều lúc cũng mang dáng dấp của
“thánh nữ đồng trinh Maria”. Nói như Milan Kundera khi cảm nhận linh hoạt về lý
thuyết Baudelaire là: “hình bóng đức mẹ trong những người tình” [40,66]. Chu Văn
Sơn cho rằng: người tình ấy thực chất là đối ảnh của cái tôi thi sĩ. Đó cũng chính là
sự tích hợp giữa Đạo và Đời, sự tương giao của đức tin tôn giáo và ái tình si mê.
Với Trường thơ Loạn, tôn giáo là cứu cánh để họ đến với cõi nguồn diệu
tưởng vô cùng và vô tận, để thoát khỏi tù túng bế tắc trong cuộc đời. Nhưng dù các
thi nhân có siêu thoát đến cõi trời mơ cùng đức tin tôn giáo thì tình đời của họ vẫn
còn nặng lắm. Thế mới biết, dẫu có “tang thương dâu bể”, con người vẫn không cắt
đứt mạch nguồn sự sống luôn gắn với cuộc đời.
3.1.2. Cái tôi đối cực trần thế và siêu nhiên
Khát khao được giải thoát, được cứu rỗi như mũi tên lao đi dưới sức căng
đẩy của nỗi đau khổ nơi chót cùng sự sống khiến cái tôi thơ Loạn luôn mong manh
bên ranh giới giữa đời trần thế và cõi siêu nhiên. Thơ Loạn là những vần thơ được
viết ra từ những tâm hồn khát sống đến mãnh liệt. Cuộc sống bị thu ngắn lại, họ
càng thấm thía giá trị của những khoảnh khắc hiện tại để khao khát được sống, được
yêu. Càng khao khát càng tuyệt vọng, đó là “biện chứng tâm hồn” (Lê Tuấn Anh)
của những cảm thức đối cực nhưng lại thống nhất trong mạch cảm xúc của các nhà
thơ Loạn.
71
Khi khổ đau lên đến tột cùng, con người thường tìm đến với một vùng trời
bình yên trong mơ ước. Chỉ ở đó, họ mới có thể quên đi nỗi đau để sống với trọn
vẹn tình yêu, năng lực sống của mình. Bởi, nói như Nguyễn Tấn Long: “nếu không
có mất mát, không ai để ý đến việc tìm kiếm; nếu chẳng khổ đau, không ai mơ đến
những điều sung sướng; nếu không có cái chết, không ai tìm lẽ sống để làm gì”
[17,271]. Song thực tại không bao giờ buông tha khiến cho họ phải điên cuồng hối
hả tận hưởng sự sống đang úa tàn dần trước mắt. Thơ Loạn bật lên từ cõi chết mà
chống lại chính cái chết đang bủa vây. Đôi lúc nó quay về quá khứ để tìm trong
đống đổ nát hoang tàn một mầm sống âm thầm lặng lẽ nhưng xanh mướt vô cùng.
Người nghệ sĩ khó kìm nổi mãnh lực của chính mình, bùng cháy, nổ tung thành
những trang viết toàn những hồn, máu, tủy, tinh huyết… hiến dâng cho đời. Những
khi ấy, con người không còn là mình nữa, nó phân thân thành một thực thể khác,
trong trẻo, tinh khiết và thiêng liêng hơn để hòa mình vào thiên nhiên, miên man
trong cõi diệu huyền.
Trần thế và siêu nhiên là hai đối cực trong thơ Loạn. Từ trần thế chỉ cần với
tay nháy mắt, phiêu du phút giây, ta có thể lạc ngay vào cõi tiên mê đắm. Với Bích
Khê, nơi ấy hạnh phúc hiện hình giữa thời gian vô tận và không gian vô cùng: “Lên
Kim tinh xác bằng thanh khí - Đất lưu ly không khí xa hương - Cây du dương lâu
đài song sóng - Trên biền châu trời lộn kim cương” (Lên Kim tinh - Bích Khê).
Trong không gian ấy, cái gì cũng ngất ngây huyền diệu. Không gian như sợi tơ
giăng mắc, khẽ chạm đường tơ đã réo rắt cung đàn. Cõi siêu nhiên được phôi thai
trong nỗi cô đơn tuyệt vọng của con người. Cho nên, cái tôi trữ tình thơ Loạn cứ thế
chao nghiêng, đong đưa giữa lằn ranh sinh địa và tử địa, lúc nào cũng chập chờn bất
định giữa thực tại và chiêm bao. Cuộc đời dồn đuổi, hạnh phúc lùi xa, cái chết ám
ảnh, các nhà thơ Loạn tìm sự hoàn mỹ ở chốn vô thường. Thơ Loạn là liều thuốc
vuốt ve, vỗ về những niềm đau. Nhưng thi sĩ luôn rơi vào mâu thuẫn giữa thực tại
khổ đau và khát vọng được dung hòa, đưa họ vào nỗi u sầu đến ngất ngư, hối hả đến
điên cuồng để bám riết lấy sự sống: “Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt - Để chập
chờn trong ánh sáng mông lung - Để tìm em đưa hai tay ràng rịt - Mảnh tình thiêng
ngả ngớn giữa không trung” (Sáng láng - Hàn Mặc Tử). Càng bị đẩy sâu vào khổ
đau tuyệt vọng, con người lại càng khám phá ra những miền đất hoang sơ với hạnh
phúc ngọt ngào. Những chiều kích của tâm hồn được thăng hoa tột độ, vượt hẳn ra
72
ngoài lý trí để đi vào chiều sâu thế giới vô thức, đưa con người vào trạng thái mơ
hồ, lâng lâng, ngây ngất. Khoảnh khắc “nhập đồng”, “siêu thăng” dẫn nhập cái tôi
thi sĩ đi sâu vào trạng thái mông lung, hư ảo với rất nhiều những ảnh hình ảo mộng.
Chế tìm đến “đáy hư vô”, “một tinh cầu”, “một vì sao”; Hàn “chơi lên trăng”, “ngủ
với trăng”, “rượt trăng”; Bích Khê lang thang trong “mộng lạ”, “mơ tiên”, “lạc giữa
mộng như ngà”. Họ loãng tan hồn mình để hòa lẫn vào không gian trong trẻo với
niềm hạnh phúc vô biên: “Chúng ta biến em ơi thành thanh khí - Cho tan ra hòa hợp
với tinh anh - Của trời đất và muôn vàn ý nhị - Và tình ta sáng láng như trăng
thanh” (Sáng láng - Hàn Mặc Tử).
Cõi siêu nhiên đôi khi lại là một thế giới cuồng loạn nơi người nghệ sĩ gửi
vào đó những khát khao bị kìm nén, những nỗi tuyệt vọng đến vô cùng: “Chiều hôm
nay bỗng dưng ta lạc bước - Vào nơi đây thế giới vạn cô hồn - Hơi người chết tỏa
đầy trong gió lướt - Tiếng máu kêu rung chuyển cỏ xanh non” (Xương khô - Chế
Lan Viên). Ở đó, người nghệ sĩ có thể thỏa sức gào rú, rên xiết, nức nở khóc than.
Họ có thể cười phá lên vỡ òa cả vũ trụ. Nỗi đau có khi nâng cánh người ta lên thiên
đường nhưng cũng có thể nhấn chìm người ta xuống địa ngục rờn rợn hơi ma,
hoảng sợ và đầy mộng mị: “Tôi ngồi dưới bến đợi nường mơ - Tiếng rú ban đêm
rạn bóng mờ - Tiếng rú hồn tôi xô vỡ sóng - Rung tầng không khí, bạt vi lô” (Cô
liêu - Hàn Mặc Tử)…
Thơ Loạn là cõi siêu hình ngập ngụa những máu, đôi khi quay cuồng trong
vũ điệu của thần chết, phả ra mùi tanh nồng của thịt rã, xương tan, lắm lúc chan
chứa nỗi chán chường không sao cứu vãn. Cái tôi thơ Loạn điên cuồng nhảy múa, la
hét và cười sằng sặc. Bệnh tật đã dồn đuổi họ ra ngoài lề xã hội, bơ vơ lạc lõng giữa
dòng đời. Người thơ hoảng hốt đi tìm những hình ảnh thân quen, những ánh mắt,
những nụ cười giờ bỗng nhiên thành xưa cũ. Quá khứ lùi lại sau lưng, tình yêu vỡ
tan trong hố thẳm. Tuyệt vọng đến khôn cùng, nên cái tôi ấy muốn đập phá vũ trụ,
đảo lộn càn khôn, quay ngược thời gian trốn mình vào dĩ vãng, vào tình yêu đã mất.
Họ nức nở khóc than cho ước mơ đang tan biến từng giờ nên khao khát kiếm tìm sự
đồng cảm: “Hiểu gì không ý nghĩa của trời thơ - Của hương hoa trong trăng lờn lợt
bảy - Của lời câm muôn vì sao áy náy - Hiểu gì không, em hỡi! Hiểu gì
không?” (Trường tương tư - Hàn Mặc Tử). Nỗi đau lúc nhấn chìm các nhà thơ quằn
quại trong vũng đau thương, khi lại nâng họ phiêu du giữa chốn cung hằng. Hơn tất
73
cả những gì đang có, cái tôi thơ Loạn thiết tha yêu sống, yêu cõi trần tục này. Tình
yêu ấy được gửi vào hoa cỏ đất trời, vào tất cả những gì gắn bó với cuộc đời, mà
trước hết là người tình yêu dấu. Thi sĩ dễ xiêu lòng trước vẻ đẹp trinh nữ xuân tình.
Cảm xúc đó được thể hiện đến mức độ cao nhất để giải phóng những ẩn uất mãnh
liệt từ thực tại kìm hãm. Ta dễ hiểu vì sao thơ Loạn luôn ứ đầy những cung bậc của
yêu thương, nhung nhớ. Nhung nhớ, yêu thương trong thơ Loạn luôn ở trạng thái
đỉnh điểm: “Nhớ lắm lúc như si như dại - Nhớ làm sao bải hoải tay chân” (Muôn
năm sầu thảm - Hàn Mặc Tử).
Nhưng tình yêu trần thế là giấc mộng vinh quy không thành hiện thực nên đã
đẩy thi sĩ thơ Loạn vào chốn “Đào nguyên” để tìm đến tiên nữ, giai nhân trong “pho
tình sử”, thậm chí khát khao rủ cả “quần tiên hội” để dệt mộng yêu đương: “Phải
quê nàng ở Đào Nguyên - Bởi chưng sắc đẹp lại thêm đa tình - Xuống đây tìm nợ
ba sinh - Không hay trời khiến ta mình gặp nhau” (Duyên kỳ ngộ - Hàn Mặc Tử).
Bích Khê cũng từng ngây ngất với các tiên nương trong chốn mộng ảo, Đào
Nguyên ở chính lòng nàng: “Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi - Yêu nàng bao
nhiêu trên đôi môi - Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi - Đào Nguyên trong lòng nàng
đây thôi” (Tỳ bà - Bích Khê). Chế Lan Viên hoài vãng về một tình yêu, về hình
bóng Chiêm nương huyền ảo, rợn lạnh âm khí dưới ánh trăng tuyệt vọng. Người
tình ấy được miêu tả bằng những nét huyễn hoặc, mơ hồ: mái tóc “chảy giữa dòng
trăng”, giọng hát “trong trẻo quá”, dáng đi “uyển chuyển uống mình hoa”… Tìm
đến người tình Chiêm nữ là cách để Chế thỏa ước mong có giờ phút tâm sự, giãi
bày: “Nàng hỡi nàng trên tay ta là mộ trống - Trong lòng ta là huyệt bỏ với trong
hồn - Là mồ không lạnh lùng sương giá đọng - Toàn khổ đau, sầu não với lo buồn”
(Mồ không - Chế Lan Viên).
Nhưng có siêu thoát để tìm đến Chiêm nữ, Đào Nguyên, nàng tiên lộng
lẫy… thì đó cũng chỉ là giấc mơ về cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế. Bởi, từ nỗi đau
trần thế, thi sĩ mơ giấc mơ trần thế, hẳn sẽ không bao giờ muốn rời xa trần thế. Vì lẽ
đó, vườn trần, duyên trần cùng giai nhân rực rỡ vẫn còn nặng lòng với thi nhân
nhiều lắm: “Ta đam mê trong ánh sáng trần duyên - Và van lạy xin cô nàng kết
ngãi” (Phan Thiết! Phan Thiết! - Hàn Mặc Tử). Dù chỉ còn một chút hy vọng,
nhưng các nhà thơ Loạn vẫn bám riết vào đời để sống, để chắt chiu từng chút hơi
ấm tình người. Chốn cung Hằng có thể làm dịu mát những cơn đau, nhưng chính cõi
trần mới là nơi níu kéo thi nhân ở lại. Paul Eluard có lý khi cho rằng: “Khi nhà thơ
74
suy nghĩ chuyện trên trời nên nhớ rằng dưới đất này có lỗi” [73,268]. Vậy nên dẫu
có lúc chìm vào siêu thực, nhưng thi sĩ thơ Loạn không muốn rời bỏ cuộc đời để tìm
những cái hư ảo, những hình tượng siêu nhiên nhạt thếch. Họ say sưa bắt nắng
ngừng, nắng reo, nắng cháy, rình nghe niềm ý bâng khuâng, dìu hồn người tan cùng
vạn vật. Được tan vào thiên nhiên là khao khát trú ẩn trong cõi vĩnh hằng, là ước
mơ thỏa mãn hương thơm đê mê cuộc sống khi ý thức về cái chết đang đến từng
ngày: “Ta còn trìu mến biết bao người - Vẻ đẹp xa hoa của một thời - Đầy lệ, đầy
hương, đầy tuyệt vọng - Ôi! Giờ hấp hối sắp chia phôi” (Trút linh hồn - Hàn Mặc
Tử). Đó không phải là tiếng kêu từ cõi chết, mà là tiếng nói cất lên từ khát vọng,
tâm tư.
Thơ Loạn là đối cực giữa tình yêu trần thế và cõi siêu nhiên. Thật ra cõi siêu
nhiên ở đây được ánh xạ từ cõi thực, từ tình yêu thiết tha của con người đối với cõi
thực và làm thăng hoa nó, bao phủ lên nó sắc màu mộng ảo liêu trai tùy vào tư duy
của người nghệ sĩ. Nhưng trên hết, thơ Loạn cũng là những vần thơ của tâm hồn yêu
đến cuồng dại cuộc sống trần tục cõi đời, nơi ôm ấp và cho thi nhân tâm hồn để yêu,
để giận. Cõi siêu nhiên chẳng qua là cuộc sống đã được những linh hồn nhạy cảm
ấy hiểu đến tận cùng. Cái phi thường trong cuộc sống đã thúc ép cái phi thường
trong tư tưởng, từ đó những vần thơ ra đời đầy khát vọng và tình yêu. Đó là sự thể
hiện những đối cực giữa khát khao và tuyệt vọng. Các nhà thơ bước vào vườn tình
ái với tất cả sự thèm muốn rạo rực: “Anh tính ôm cầm lấy mắt mơ - Lấy môi lấy
má… lấy ngây thơ - Để anh nút ớn mùi hương ấm - Của một tình yêu giận hững
hờ!” (Ảnh ấy - Bích Khê). Tình yêu đã làm cho thi nhân muốn được kề môi say ân
ái, muốn ôm, muốn uống; và cũng lắm khi đẩy thi nhân xuống vực thẳm tuyệt vọng,
để lại nỗi niềm uất ức: “Làm sao giết được người trong mộng - Để trả thù duyên
kiếp phũ phàng” (Lang thang - Hàn Mặc Tử). Thi sĩ bám riết lấy sự sống, lấy tình
yêu để quên đi thực tại đau buồn. Chế Lan Viên tự ru mình bằng tình yêu mộng ảo
cùng Chiêm nương xinh đẹp, nhưng cũng nhanh chóng bình tâm tỉnh ngộ: “Lời
chưa dứt bóng đêm đà vụt biến - Tình chưa nồng đã sắp phải phôi pha!” (Đêm tàn -
Chế Lan Viên). Khát khao để mà tuyệt vọng, tha thiết đến cuồng si để mà đớn đau
đến dại rồ, thi nhân thơ Loạn đã vượt qua ngưỡng bình thường mà vươn tới tình yêu
tuyệt đích: “Hạnh phúc ngoài đời nhiều vẻ đẹp - Em đừng bận bịu ái ân xưa - Lòng
anh chẳng muốn cho em phải - Lẻ tẻ chân trời bóng nhạn thưa” (Nói với người tình
- Bích Khê).
75
Từ bất hạnh, đau thương, cái tôi thơ Loạn bật nảy khát vọng tình yêu không
thỏa trong kiếp nhân sinh. Và con người thi nhân ấy phân thân cùng hành trình viễn
du tinh thần vào vườn thơ rộng rinh trong sự đối cực giữa trần thế và siêu nhiên
không gì khác hơn là để tìm một niềm an ủ, vỗ về tinh thần. Tiếng nói cái tôi trữ
tình thơ Loạn là tiếng nói của hồn phách, tâm linh nhập vào cõi ước mơ và mộng
tưởng. Hội tụ những thành tố làm xuất hiện cái tôi đào xới thế giới tâm linh trong sự
đối cực ấy, ngoài những ẩn ức tích tụ trong đời sống cá nhân đặc biệt của các thi sĩ,
còn có xúc tác của tinh thần tượng trưng. Thơ tượng trưng phương Tây coi mỗi đối
tượng đều gắn với chuyển động tâm linh, điều hiện ra cho chúng ta như một tượng
trưng với mọi chiều sâu cuộc sống.
Có thể xem sự đối cực giữa trần thế và siêu nhiên của cái tôi trữ tình trong
sáng tác Trường thơ Loạn là những khát khao, trăn trở của cõi đời vẫn chưa hết
những đau thương nên còn nhiều ao ước!
Cái tôi nội cảm cộng hưởng với cảnh đời riêng, tâm thế sáng tạo riêng đã
hình thành kiểu tư duy kỳ lạ trong sáng tác của Trường thơ Loạn. Thơ Loạn ra đời
dựa trên sự thăng hoa nghệ thuật những nỗi đau, sự bung phá những giới hạn, sự
phân ly và hòa hợp những đối cực, sự hợp lưu của nghệ thuật, tôn giáo và cuộc
đời… Thế giới nghệ thuật trường thơ Loạn là ánh xạ đầy biến ảo của những cái tôi
đau thương và khát vọng.
3.2. Hình tượng không gian và thời gian
3.2.1. Không gian - những khung trời ảo diệu
Không gian nghệ thuật là khái niệm của thi pháp học chỉ “hình thức tồn tại
của thế giới nghệ thuật, là sự mô hình hoá thế giới của tác giả. Không gian nghệ
thuật trong tác phẩm mang tính biểu trưng và quan niệm” [80,120]. Không gian
nghệ thuật bao giờ cũng gắn với những cảm xúc và mang ý nghĩa nhân sinh, là
không gian tinh thần được tái hiện trong tâm tưởng người nghệ sĩ. Nó được chia
thành nhiều chiều, nhiều lớp khác nhau. Đó có thể là không gian mở hay không gian
khép, cũng có thể là không gian tĩnh hay không gian linh hoạt vận động đa chiều
hướng… Tiếp nhận chủ nghĩa tượng trưng, đặc biệt là của Egad Poe và Baudelaire
cả hai khía cạnh sống và chết, Trường thơ Loạn tạo nên một kiểu không gian nghệ
thuật mang nhiều biến thái, nhiều nhận thức khác nhau, ở đó có cả trần gian và địa
ngục, thiên đường và âm giới hòa lẫn trong cõi siêu hình.
76
Không gian nghệ thuật trong sáng tác Trường thơ Loạn trước hết là một
không gian tâm tưởng, thấm đượm những cảm thụ riêng tư. Nhà thơ lấy cảm xúc từ
thế giới hiện thực để đi vào thế giới phi hiện thực, đưa người đọc khi thì lên chốn
bồng lai, khi thì xuống cõi âm rùng rợn.
Chế Lan Viên tìm về quá vãng để bước vào một “thế giới đầy sọ dừa, xương
máu cùng yêu ma” (Hoài Thanh) của đất nước Chiêm Thành. Trong xu thế tìm về
quá vãng, Chế đặc biệt thành công khi dựng lại một thế giới hào hùng đầy uất hận.
Nhà thơ đã để tâm hồn mình hòa nhập vào lịch sử bi tráng của đất nước Chiêm
Thành thuở xưa. Những ngọn tháp Chàm đơn độc, hoang tàn chứa đựng những hình
ảnh cảm xúc đa dạng: “Đây điện cát huy hoàng trong ánh nắng - Những đền đài
tuyệt mĩ dưới trời xanh - Những chiến thuyền nằm yên trên sông lặng - Bầy voi
thiêng trầm mặc dạo quanh thành” (Trên đường về). Quá khứ và hiện tại là hai bức
tranh đối lập. Năm xưa khung cảnh thanh bình rạng rỡ, giờ đây là sự đổ nát, chán
chường. Một nỗi xót thương thê thiết vò xé tâm hồn nhà thơ khi chứng kiến cảnh bể
dâu lịch sử.
Chế Lan Viên tưởng tượng một không gian âm giới rùng rợn đầy chết chóc:
“Chiếc xương khô rợn trắng khí tinh anh!” (Điệu nhạc quay cuồng), “Sọ muôn
người lần lượt đuổi nhau rơi?” (Cái sọ người). Trong không gian Điêu tàn, sự chết
chóc, bóng đêm, âm thanh thê lương, sắc màu héo úa đã thay thế cho sự sống, ánh
sáng, âm thanh rộn rã, màu sắc tươi vui: “Trời hỡi trời hôm nay ta chán hết - Những
sắc màu hình ảnh của trần gian” (Tạo lập). Không gian mênh mông, vô tận và quái
đản trở thành thước đo định lượng tầm vóc nỗi niềm, tâm trạng để Chế Lan Viên
bày tỏ sự bế tắc tuyệt vọng của mình trước hiện thực. Nỗi đau mất nước của dân tộc
Việt được Chế Lan Viên gián tiếp bày tỏ qua cách quay về dĩ vãng, vực dậy từ đổ
nát của một nước Chàm oai linh. Một đất nước mà muốn tìm nó phải đi qua một
biên giới quan trọng: xóa bỏ thực tại để đi vào hư vô. Vì chính hư vô mới có thể bắt
gặp đầy đủ cả một vương quốc, cả một nền văn minh đền tháp, cả một thế giới du
dương bởi màu sắc và âm thanh, những tiếng hát u buồn của Chiêm nữ… Nhưng
chính không gian đó đã nhắc nhở Chế Lan Viên nhớ rằng, văn minh nước Chàm chỉ
còn là quá khứ. Nhà thơ khát vọng và tưởng tượng ra một không gian ảo mộng để
siêu thoát. Vốn nặng suy tư, Chế Lan Viên tìm đến hư vô cũng là muốn vươn tới trí
tuệ để tìm kiếm giải đáp triết học về bản thể, về vũ trụ và nhân sinh.
77
Ở Hàn Mặc Tử, không gian tâm tưởng là không gian mang đậm yếu tố tượng
trưng và màu sắc liêu trai của mộng mơ, vô thức. Bằng trí tưởng tượng phong phú,
Hàn chắp cánh cho hồn thơ mình thoát ra khỏi thực tại đau đớn để bay đến một
không gian cao vút thinh không. Ở đó có trăng, sao, mây, nước, sông Ngân Hà, cầu
Ô Thước, ánh mặt trời; là nơi “Cung quế”, xứ “Say mơ”, động “Huyền không”,
vượt ra ngoài “Cõi hư linh”… được xây dựng bởi “loài thi sĩ”. Không gian hư ảo ấy
được Hàn nhắc đến rất nhiều. Có khi đó là chốn xưa ghi dấu thời xuân xanh của tuổi
trẻ đi qua không bao giờ trở lại: “Đừng tưởng ngàn xưa còn phảng phất - Nơi làn
gió nhẹ lúc ban đêm - Hồn xưa từ ấy không về nữa - Ở cõi hư vô dấu đã chìm”
(Thời gian). Đó cũng có khi là khoảng mênh mông ảo huyền của hai người yêu
nhau như cách xa muôn dặm: “Anh đứng cách xa hàng thế giới - Lặng nhìn trong
mộng miệng em cười - Anh cười em cũng cười theo dọi - Để nhắn hồn em đã tới
nơi” (Lưu luyến)… Trong chiều không gian mộng tưởng, hư vô này, Hàn đặc biệt
thành công trong việc xây dựng nên mô hình không gian vũ trụ. “Hơn tất cả các thi
hào trên thế giới, Hàn Mặc Tử đã phóng thoát cái bản năng loài người, cởi lột được
bao nhiêu cốt cách của loài người để mà ăn nhập vào vũ trụ, để biến thành một hiện
tượng của vũ trụ” [82,153]. Hàn khao khát hòa nhập vào vũ trụ vô biên, để trường
tồn cùng thiên địa, quàng vai mây gió đi về. Là thi sĩ của cõi mộng, trong thơ Hàn
luôn có sự đan xen giữa chiêm bao và sự thật. Trong giấc chiêm bao, Hàn hứng lấy
trong hồn muôn ý tứ và thinh sắc của trời mộng xa xưa: “Mộng yêu đương đang khi
tim dào dạt - Thuyền anh neo đậu trước bến Hàn Giang - Nhưng uyên ương khi
trăng sao bàng bạc - Biến mất rồi anh thấy khói hương tan” (Khói hương tan)… Có
thể nói, không gian vũ trụ rộng lớn là nơi vẫy vùng của Hàn Mặc Tử. Nơi ấy, nhà
thơ đã khóc, đã cười, đã sống, đã yêu và đã vượt lên trên nỗi đau thường nhật của
mình. Ấy là nơi thi nhân được “Sống mãi với trăng sao gấm vóc - Trong nắng thơm,
trong tiếng nhạc thần bay” (Trường thọ) để cho ra đời những vần thơ bất tử.
Không gian mộng ảo trong sáng tác của Trường thơ Loạn thường có hai
chiều đối cực: chiều cao là cõi trời, chiều thấp là cõi đời. Đó cũng chính là sự đối
lập giữa cõi trần thế với cõi siêu nhiên. Từ trong đớn đau đến điên loạn và cuồng
dại, các thi sĩ đã vượt thoát đến tầm cao nhất của không gian, bước ra khỏi ranh giới
không gian thực để đặt chân vào một thế giới hư vô. “Cõi trời cách biệt” ấy là nơi
các đấng bậc ngự trị, là nơi con người xác tục được cứu độ, được giải thoát khỏi đau
78
khổ đọa đày. Ở đó, mùa xuân, tình yêu, ánh sáng, sự sống là sự vĩnh hằng. Và cũng
ở đó, thi nhân được đắm chìm trong sự huyền diệu mê hoặc. Bích Khê đưa ta vào
một thiên đường biểu trưng bằng không gian toàn khối và vĩnh cửu được “Trời dệt
gấm sao thêu kim tuyến”, lấp lánh sắc “ngời ngọc kim cương”. Nó chỉ có thể cảm
nhận bằng giác quan tinh tế của tâm hồn căng lên trước sự sống. Không gian ấy tràn
ngập mùi hương và du dương những thanh âm huyền diệu, có thể rộng bao la nhưng
cũng có khi chỉ là khung nắng có gió khẽ khàng với vần thơ giàu nhạc: “Gió đi chới
với trong khung nắng - Lộ nửa vần thơ nửa điệu ca” (Hiện hình - Bích Khê). Không
gian thơ Bích Khê thường được mĩ lệ hóa bởi những màu sắc rực rỡ, trong sáng.
Bước vào thế giới Tinh huyết, Tinh hoa, người đọc không chỉ choáng ngợp bởi
một không gian “rộng rinh không bờ bến”, đầy huyền hoặc, mơ hồ mang tính vĩnh
viễn mà còn bị mê đắm bởi một không gian đầy nhạc, hương và sắc - không gian
của sự tương giao, tương ứng: “Một đêm vàng, một đêm vàng âm điệu - Đầy nhựa
thơm, xanh mịt ngàn phi lao” (Sọ người - Bích Khê). Yến Lan cũng tạo cho riêng
mình một không gian dưới trăng vàng bạc xám với ông lái đò, chàng kỵ sĩ không
tuổi không tên, vừa gần vừa xa, hư hư, ảo ảo (Bến My Lăng). Đó là không gian của
cõi đời đã được thăng hoa thành cõi mộng, thành cảm giác, mang vẻ đẹp huyền hồ,
kỳ diệu và độc đáo trong thơ.
Xây dựng không gian mộng tưởng, hư vô, Trường thơ Loạn vừa tiếp thu văn
học phương Đông, vừa ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng của Pháp. Chủ nghĩa
tượng trưng luôn đề cao tính tưởng tượng. Thơ là ý thức, ý thức đến tận cùng nhưng
được thể hiện trong trạng thái kỳ lạ của một trái tim mang cảm xúc đặc biệt. Trường
thơ Loạn đã xuất phát từ điểm này để tạo ra cái mới lạ, độc đáo bằng việc lấy sự
tưởng tượng, hư cấu làm đối tượng để khám phá cuộc sống.
Trong thơ Loạn, trần thế chỉ toàn khổ đau và buồn chán. Các nhà thơ muốn
thoát khỏi nơi mà họ chẳng còn niềm tin, nhưng lại không biết đi đâu về đâu, nên
đành tìm đến một thế giới siêu nhiên chỉ có trong vọng tưởng. Vì thế, không gian
nghệ thuật trong sáng tác của Trường thơ Loạn còn là không gian tâm linh mở ra
đa chiều kích, hòa trộn cõi Thiên Đường, Niết bàn, Thiền… Hàn Mặc Tử thả hồn
bay giữa vũ trụ bao la cùng với đức tin và niềm an ủi nhận lãnh từ nơi Đức Chúa
Kitô. Đi trong mây, gió, trăng, sao, cánh chim Phượng Hoàng ấy vẫn tung bay, và
ọc ra thơ, từng dòng tuôn chảy: “Phượng Hoàng bay trong một tối trăng sao - Mà
79
ánh sáng không còn khiêm nhường nữa - Đương cầu xin, ọc thơ ra dường sữa - Ta
ngất đi trong khoái lạc của hồn đau… - Trên chín tầng diêu động cả trân châu -
Dường sống lại muôn ngàn hoa phẩm tiết” (Đêm xuân cầu nguyện). Đang bay trong
khoảng không vũ trụ, thi nhân vẫn chưa thấy thỏa lòng, mơ được thoát ra ngoài để
đến chốn Phượng Trì nơi đức mẹ Maria trong cơn mê sảng. Hướng đến cõi thiên
đàng, tịnh độ, tiên giới là cách để Hàn tách biệt khỏi sự trì níu của cõi đời tăm tối; là
khát khao vô bờ của một linh hồn róng riết sống, bị vò xé trong một thể xác đang
quằn quại: “Sáng vô cùng sáng cả mọi miền - Không u ám như cõi lòng ma quỷ - Vì
có đấng Hằng sống, Hằng ngự trị - Nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư vô” (Ngoài
vũ trụ). Đó có thể là ánh sáng, màu sắc của Đức Chúa trời trong đạo Ki tô, là chốn
tịnh độ, cực lạc của Đức Phật Di Đà, hay cõi tiên của Tây Vương Mẫu…, nghĩa là
một cõi “xuất thế gian” đi ra ngoài biên giới trần thế. Không gian không có một giới
tuyến nào chia cắt, được ngự trị bởi một bóng linh hồn bé nhỏ vụt lên từ vực sâu kín
trong tâm khảm thi nhân: “Hồn hỡi hồn, bay ra ngoài kia mức - Nơi thiên sầu địa
thảm, giới Lâm Bô” (Ngoài vũ trụ).
Trong thơ Bích Khê, ta gặp những hồn ma rên rỉ giữa đêm thu, nghe được
hơi thở hoa hồng vang nức nở. Thi sĩ mượn hình ảnh cõi tiên với suối mơ, ngọc nữ,
tiên nương để khơi lên khát vọng về một thế giới tươi đẹp: “Hoa thần bí vấn vương
hồn ngọc nữ - Động Đào nguyên chấp chới ánh lưu ly - Ơi sắc phàm trên bộ mặt từ
bi - Ôi tình thương trong tình xuân đầy ứ” (Sọ người). Đó cũng chính là cõi trời bí
ẩn, xa vời huyền diệu, thiêng liêng cao cả, với khát vọng vươn tới cõi vĩnh hằng:
“Phật Như Lai thoạt hiện - Trên bảy sắc cầu vồng - Quái thay hòn Non nước - Nghe
giảng đủ mười tông - Muôn năm lòng đá rắn - Nhuần thắm giọt từ bi” (Ngũ Hành
Sơn). Nhưng dù thi nhân “siêu thăng” đến cõi nào thì sự đối lập giữa hiện thực và
khát vọng vẫn là nỗi ám ảnh không dứt.
Ở Chế Lan Viên, đó là không gian của “xương vỡ máu trào”, “Những bóng
ma Hời sờ soạng trong đêm”. Cũng như Bích Khê và Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên
tin vào sự tồn tại của thế giới âm ty. Niềm tin ấy được khởi phát từ tín ngưỡng
mang tính nhiệm màu đã tồn tại và bám rễ sâu chặt trong tâm linh người Việt : “Ôi
bát ngát mênh mông như Âm giới, - Đây Cõi Ta rộng rãi đến vô biên - Nơi an táng
khổ đau trong huyệt tối - Nơi sinh sôi nảy nở những mầm Điên” (Cõi ta). Không
gian ấy còn là nơi thi nhân đã gặp nàng Chiêm nữ kiều diễm có mái tóc dài êm ả
80
sóng sánh giữa dòng trăng, nơi nhà thơ có thể nghe được giọng nói âu sầu tha thiết
của nàng mà cõi lòng xốn xang, rạo rực: “Ta gặp nàng trên một vì sao nhỏ - Ta hôn
nàng trong bóng núi mây cao - Ta ôm nàng trong những nguồn trăng đổ - Ta ghì
nàng trong những suối trăng sao” (Ngủ trong sao). Tháp Chàm, đất Chiêm của Chế
giờ đã thành tro bụi. Biết bao những con người đáng thương bị chôn vùi cùng lịch
sử bi ai. Bởi vậy, Chế hướng tâm hồn của mình vào thế giới ma quỷ, những hồn ma
chưa siêu thoát còn nhập nhằng với cõi đời nặng hận: “Hồn ma ơi! Trong những
đêm u tối - Mi tung mây về chân trời vòi vọi - Hãy mau nghiêng cánh lại ở bên mồ -
Phủ lòng ta say đắm chút hương mơ” (Mồ không). Điêu tàn là thế giới của sự lắng
nghe những điều tinh tế vi diệu nhất trong sâu thẳm chính mình. Đó là thế giới của
sự vĩnh hằng, thế giới của siêu nhiên đầy thiêng liêng, vọng ảo.
Từ mối linh cảm về “bí ẩn chảy khắp nơi như nhựa sống chan hòa”
(Baudelaire) đã tạo nên khung cảnh tâm linh đặc biệt trong sáng tác của Trường thơ
Loạn. Đây cũng là biểu hiện một trạng thái tinh thần của những con người yếu đuối,
bất lực trước mình. Tìm không gian tâm linh của âm ty, tiên giới để phiêu bồng
trong ảo tưởng là cách để các nhà thơ quên đi đau khổ, tìm chỗ trú ngụ cho tâm hồn
cô đơn. Và vì vậy, trong không gian tâm linh ấy, mọi đường nét, màu sắc, hình ảnh
kiến trúc của tự nhiên không còn thực hữu mà trở nên huyền vi để cất tiếng nói
thầm kín của tâm linh thi sĩ. Thế giới xung quanh Trường thơ Loạn dường như
mang bản thể kép, vừa là tự nhiên, vừa là siêu nhiên, vừa là thực tại hữu hình với
con người, cỏ cây, hoa lá…, lại vừa là chốn linh thiêng, thần thánh, vô hình… tạo
thành một không gian dày đặc những khung cảnh được tâm linh hóa.
Ta còn bắt gặp trong sáng tác của Trường thơ Loạn không gian trần thế của
cuộc sống thường nhật với những buồn, vui, đau, khổ. Đó mảnh vườn sớm mai, mặt
hồ sương khuya, dòng sông thương nhớ… thường gắn với những ưu phiền chìm
trong màn đêm bao phủ. Ở Hàn Mặc Tử, đó là không gian của sự cô đơn, trống
vắng, hiu quạnh, nơi nhà thơ phải vật lộn nỗi đau thân xác và tâm hồn của bệnh tật
dày vò: “Dưới túp lều tranh, trên chõng tre - Tứ bề cửa khép với phên che - Kéo
mền ủ kín toàn thân lại - Để thỏa hồn bay, gửi mộng về” (Hãy đón hồn anh). Ở Chế
Lan Viên, đó là không gian của sự chết chóc, điêu tàn với “tháp gầy mòn”, “đền xưa
đổ nát”, “tượng Chàm lở lói” (Trên đường về) với bao thê lương, vắng lặng. Trong
thơ Bích Khê, ta bắt gặp nét nhòa giữa không gian trần thế và không gian tiên cảnh.
81
Một không gian đầy thanh sắc được lộ ra bát ngát: “không gian như bể sáng kim
cương”, “không gian tan ra tiếng địch”. Đó là một thứ không gian mềm mại, tan
chảy vào hồn, đan xen giữa hai yếu tố hư - thực: “Mây nhung pha màu thu trên trời
- Sương lam phơi màu thu muôn nơi” (Tỳ bà - Bích Khê).
Đây đó trong thơ Loạn, ta cũng bắt gặp không gian sinh động trong cảm
hứng lành mạnh về quê hương đất nước. Những mảng màu của rừng xanh, trời
xanh, ngày xanh, xuân xanh, ánh trăng xanh,… làm dịu đi những chói ngợp, hiện
lên chốn nước non thanh tú, diễm lệ. Thơ Bích Khê tô vẽ một không gian hùng vỹ
và sáng láng: “Vẳng thay núi thấp nức danh đồn - Tuyệt nhất năm hòn ngọc thủy
sơn - Chẳng suối Phong Nha nghe róc rách - Chẳng mây Hồng Lĩnh thấp chờn vờn -
Giữa trời bóng nguyệt lồng vô động - Trên biển mù sương thổi lại non.” (Ngũ Hành
Sơn). Chế Lan Viên gắn hồn thơ mình trong khung cảnh trần gian tươi đẹp, căng
đầy nhựa sống: “Hàng dừa cao say sưa ôm bóng ngủ - Vài quả xanh khảm bạc hớ
hênh phô” (Xuân về). Trong không gian ấy, sắc màu lại chiếu rọi, đan hòa vào nhau,
say sưa ru biếc đất trời trong chốn thanh bình: “Trời trăng anh đứng bên hồ rộng -
Nghiệm thấy hơi sương thở dưới cầu - Và tiếng thì thào trong cụm lá - Thêm phần
huyền diệu của đêm sâu” (Tiếng Thu - Quỳnh Dao). Và đây, một mùa xuân đến với
tất cả những gì đẹp nhất: “Trong làn nắng ửng: khói mơ tan, - Đôi mái nhà tranh
lấm tấm vàng. - Sột soạt gió trêu tà áo biếc, - Trên giàn thiên lý bóng xuân sang”
(Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử). Có lẽ, sự siêu thoát đã giúp các nhà thơ chiến đấu
với bệnh tật, quên đi nỗi cô đơn. Và mùa xuân đã đến như một thế giới khải huyền,
khởi nguồn tự thuở xa xưa này qua bao đau thương, thăng trầm, xuân càng thêm
tươi mới: “Xuân gấm đầu tiên giữa cõi đời - Mùi thơm ngây dại sóng con ngươi -
Hãy hoan hô, lời cao như sấm - Vạn tuế bay ơi! Nắng rợp trời” (Xuân đầu tiên -
Hàn Mặc Tử)... Tuy nhiên, đây không phải là kiểu tín hiệu không gian đặc trưng
trong sáng tác của các thi sĩ.
3.2.2. Thời gian - những chiều kích vô biên
“Thời gian nghệ thuật là một trong những phạm trù quan trọng nhất của thi
pháp học bởi vì nó thể hiện thực chất sáng tạo nghệ thuật của nghệ sĩ. Nghệ sĩ có
thể chọn điểm bắt đầu và kết thúc, có thể nhanh hay chậm, có thể xuôi hay đảo
ngược, có thể chọn điểm nhìn từ quá khứ, hiện tại, tương lai; có thể chọn độ dài một
khoảnh khắc hay nhiều thế hệ, nhiều cuộc đời” [80,63]. Thời gian nghệ thuật trở
82
thành một ý thức vận động theo tư tưởng của hình tượng, gắn liền với sự phát triển
cũng như quá trình tự ý thức thông qua những mối liên hệ chằng chịt giữa con
người với con người. “Năng lực đo độ dài của thời gian vận động vốn có trong tâm
hồn con người, và chỉ trong tâm hồn mới có được những hình thức tri giác thời gian
đã qua, thời gian hiện tại và thời gian tương lai; trong thực tế vật thể không có
những hình thức này” [28,10]. Trong thi phẩm Trường thơ Loạn, hình tượng thời
gian rất phong phú, sinh động, đầy gợi cảm, giàu suy tư, thể hiện như một quan
niệm triết mỹ của các thi nhân gắn với cuộc đời.
Thời gian trong thơ Loạn là thời gian hoài vãng, hư vô. Dường như, khi con
người cảm thấy bất lực trước cuộc sống, bất lực trước sự tàn lụi thì họ cảm nhận
một cách sâu sắc về thời gian. Điều này đúng với Trường thơ Loạn, vì đối diện với
bi kịch số phận, với dòng thời gian đang từng phút, từng giây hủy hoại tế bào sinh
học, các nhà thơ cảm nhận tinh tế hơn mọi sắc thái thời gian.
Khi thời gian hiện tại là nỗi u hoài uất hận, là sắc thái đau thương, là sự quằn
quại thể xác, các thi sĩ thơ Loạn tìm về sự bình yên trong quá khứ, coi quá khứ là
vàng son vĩnh cửu. Ở đó, họ tìm thấy vẻ đẹp ngàn xưa, dù chỉ trong tâm tưởng.
Chế Lan Viên dựng lên một quãng thời gian quá vãng để khóc thương cho một
thời với những Chiêm nương má hồng thấp thoáng, với tháp Chàm lung linh trong
nắng sớm và rực rỡ dưới trăng vàng. Đó là “Thời gian của hạnh phúc đã mất, thời gian
của huỷ diệt đang chờ” được thi nhân xem xét qua ý thức siêu thể và tuyệt vọng. Ông
đã dựng lên một thời gian quá vãng để khóc thương cho hiện tại, cho những tháng ngày
xa xưa. Chế Lan Viên bày tỏ khát vọng hão huyền muốn quay ngược thời gian để được
trở về huyền thoại một thời với “tháp Chàm cô tịch”, với “đầu lâu, sọ trắng, xương
khô” “Để nếm lại cả một thời xưa cũ - Cả một dòng năm tháng đã trôi xa!” (Cái sọ
người). Nhà thơ tìm trong ánh nắng bóng thời gian, đưa ông về với dòng thời gian hiện
tại. Nhưng đứng nhìn hiện tại bằng đôi mắt tư tưởng, Chế Lan Viên đã bao trùm tất cả
các thời khắc. Ông như không phân biệt được đâu là thực, đâu là mộng, vì giữa thực và
mộng đã không còn ranh giới. Và giờ đây, không phải “thời gian là một chuyển động,
một luân lưu, một dòng chảy mà chúng ta đã chia cách thành hôm qua, hôm nay và
ngày mai” [42,45] như Kishnamurti từng nói. Chế Lan Viên như đã nhập thể vào quá
khứ, vào tất cả mọi linh hồn để làm cho thời gian dừng lại trong nghĩa khổ đau: “Cả dĩ
vãng là chuỗi dài vô tận - Cả tương lai là chuỗi huyệt chưa thành - Và hiện tại, biết
83
cùng chăng hỡi bạn - Cũng đang chôn lặng lẽ chuỗi ngày xanh” (Những nấm mồ).
Thực tại chỉ là “chuỗi mồ vô tận” và chán ngán, còn tương lai thì mờ mịt, xa vời, vì
vậy Chế chỉ còn biết quay về quá khứ, hoài vãng về thời vàng son đã mất. Đó có thể là
sự nuối tiếc khoảng thời gian mơ hồ như một mùa thu đã qua nào đó: “Ai đâu trở lại
mùa thu trước - Nhặt lấy cho tôi những cánh vàng - Với của hoa tươi muôn cánh rã -
Về đây đem chắn nẻo xuân sang” (Thu). “Mùa thu trước”, “cánh vàng”, “hoa tươi” là
ký ức thơ mộng, dịu dàng đã đi qua. Những kỷ niệm ngọt ngào về mùa thu lá đổ vẫn
còn sống mãi trong lòng Chế như bạn tâm giao, tri kỷ. Đắm mình trong quá khứ để tìm
chỗ trú chân khi phải đối diện với thực tế cuộc sống, nhưng mang tư tưởng siêu hình về
thời gian nên Chế Lan Viên không tìm ra lối thoát.
Hàn Mặc Tử tìm về một thời bình yên để được thương yêu và che chở. Vô
hình trung, thời gian quá khứ luôn là nhân vật gợi lên trong Hàn nỗi luyến tiếc, nhớ
nhung và day dứt, trăn trở trong tâm tình về thời tươi đẹp đã qua. “Đứng ở hiện tại,
ông dựng lên một khoảng thời gian quá vãng vô định để khóc than, oán hận”
[28,108]. Hiện tại là những khổ đau chồng chất, nên Hàn luyến tiếc về quá khứ của
một thời tươi đẹp xa xưa: “Nhớ khi xưa ta là chim Phượng Hoàng - Vỗ cánh bay
chín tầng trời cao ngất - Bay từ Dao Lý đến trời Đâu Suất - Và lùa theo không biết
mấy là hương” (Phan Thiết! Phan Thiết!). Quá khứ của một tình yêu đã mất, một
thời trai trẻ tràn trề sức sống đã xa lắm rồi, nên trong đau thương, thi nhân hồi
tưởng lại: “Còn đâu tráng lệ những thời xanh - Mùi vị thơm tho một ái tình - Đố
kiếm cho ra trong lớp bụi - Ít nhiều hơi hám của kiên trinh” (Thời gian). Lời thơ
như một tiếng khóc nghẹn ngào cho một thời đong đầy kỷ niệm. Tất cả lùi vào dĩ
vãng, cho dù dĩ vãng ấy chưa xa, cứ quanh quẩn trong tâm tưởng bên nỗi buồn sầu,
hiu hắt. Qua sự hồi tưởng, thi nhân đã làm sống dậy một thời xanh êm ái với tình
yêu và hy vọng, để rồi phải luyến tiếc và khổ đau càng thêm chất chồng cùng những
dòng thơ ứa lệ.
Bích Khê nhớ về cảnh mùa thu trong sắc vàng chói ngắt: “Ô hay! Buồn vương
cây ngô đồng - Vàng rơi! Vàng rơi: thu mênh mông” (Tỳ bà). Bằng cái nhìn huyền
ảo, thời gian trong thơ Bích Khê cũng trở nên hư vô, bất động: “Chàng ơi đêm nín
thở - Để hồn biến thành hương - Chập chờn trong nữ yêu - Vào ra theo rặng lựu -
Chập chờn trong ba tiêu” (Ngũ Hành Sơn).
84
Thơ Loạn là sự tích hợp thần diệu giữa trực giác phương Đông và dòng ý thức
phương Tây. Nhiều bài thơ thể hiện cảm thức thời gian thuộc về con người tâm linh
chứ không phải con người xã hội, con người cá thể. Vì vậy, thời gian nghệ thuật
trong sáng tác của Trường thơ Loạn còn là thời gian tâm linh, tâm trạng. Họ không
cho thời gian trôi theo đường thẳng tuyến tính mà ngông cuồng bắt thời gian say
đắm trong “nụ cười bao tự”, uống rượu cùng Ngu Cơ, tình tứ cùng Dương Quý Phi
trong ảo mộng (Bích Khê). Bằng tâm linh kỳ ảo, thi sĩ thơ Loạn thấy được cái
chóng vánh của hiện tại để khủng khiếp đón chờ ngày mai: “Anh rõ trước sẽ có
ngày cách biệt” (Hàn Mặc Tử) , “Mảnh hồn ta tiêu diệt tự bao giờ” (Chế Lan Viên),
“Hồn tôi đã thoát để tiêu dao” (Bích Khê). Ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng,
Trường thơ Loạn mang đến cảm giác sống động về thời gian trong từng khoảnh
khắc: “Từ đầu canh một đến canh tư - Tôi thấy trăng mơ biến hóa như - Hương khói
ở đâu ngoài xứ mộng - Cứ là mỗi phút mỗi nên thơ” (Huyền ảo - Hàn Mặc Tử).
Bích Khê, thi sĩ thần linh khoan thai đi trên bục thời gian huyền bí, đưa người đọc
tham chiếu về một sự hòa đồng các thế giới để chiêm nghiệm những trải nghiệm
của mình trong cuộc sống: “Lá vàng rơi - (Tôi khóc anh ơi!) - Đàn rung tiếng: -
Người yêu đương ngồi... - Trăng vàng rơi - (Tôi khóc anh ơi!) - Đàn nghẹn tiếng: -
Người yêu giận rồi - Hoa vàng rơi - (Tôi khóc anh ơi!) - Đàn rụng tiếng: - Người
yêu đi rồi - Sao vàng rơi - (Tôi khóc anh ơi!) - Đàn câm tiếng - Người yêu xa rồi -
Đêm vàng rơi - (Thôi hết anh ơi!) - Đàn bẻ phím! - Người yêu chết rồi!” (Thi vị -
Bich Khê). Thơ Yến Lan trôi theo mạch nhịp cùng dòng thời gian tàn tạ phôi pha,
phiêu bồng lãng đãng, ở đó chỉ có lòng người với bao xúc cảm: “Vô tình giẫm ánh
vàng yêu yếu - Mà chiều thả rộng dưới chân đêm” (Lạnh - Yến Lan).
Đối với các thi sĩ thơ Loạn, cuộc đời quá bất hạnh, nên tương lai, ngày mai
luôn gắn với khổ đau trăn trở. Có những lúc đang sống trong tình yêu nồng nàn,
nhưng thi nhân vẫn nhìn thấy rõ giờ phút chia ly đang đến thật gần. Nói cách khác,
sống trong hiện tại, nhưng họ vẫn nhìn thấy rõ được tương lai. Tương lai thật đáng
sợ, dự báo giờ chia phôi sẽ đến bởi cái chết cận kề: “Ta trút linh hồn giữa lúc đây -
Gió sầu vô hạn nuối trong cây - Còn em, sao chẳng hay gì cả? - Xin để tang anh đến
vạn ngày” (Trút linh hồn - Hàn Mặc Tử). Thi nhân bơi giữa dòng thời gian hư vô
mà hai tay cứ bám níu, bấu víu để cố giữ lấy hiện hữu. Và thơ Loạn đã biến thời
gian trừu tượng thành thời gian cụ thể, biến cái vô hình thành cái hữu hình để “riết
85
thời gian trong nắm tay” (Hàn Mặc Tử), “không muốn đất trời xoay chuyển nữa”
(Chế Lan Viên). Các nhà thơ muốn níu giữ thời gian bằng cách ghì mây, gò gió, bắt
nắng ngừng, kiềm sao bay…, thậm chí muốn thời gian ngưng chạy để được sống
mãi cùng tình người yêu dấu: “Tôi lạy muôn vì tinh tú nhé - Xin đừng luân chuyển
để thời gian - Chậm đi cho kẻ tôi yêu dấu - Vẫn giữ màu tươi một mỹ nhân” (Thời
gian - Hàn Mặc Tử). Tham vọng làm vĩnh hằng thời gian chính là muốn bước ra
khỏi thời gian, xóa bỏ thời gian tuyến tính thông thường để trường thọ cùng thiên
thu vĩnh cửu.
Trong thơ Loạn, thời gian nhuốm màu huyền nhiệm là cách để các thi nhân
tự ru mình, nên rất hư ảo, siêu hình, mơ hoặc. Bế tắc tương lai, quá khứ dù đẹp
nhưng cũng chỉ là giấc mộng, vì thế thời gian hiện tại là thời gian tâm trạng, chuyển
hóa theo nỗi buồn vui của lòng người. Khi thời gian gần đến điểm chết, khát vọng
siêu thoát, vĩnh hằng của các thi nhân trở nên ráo riết nhất. Thời gian lúc này nhuốm
màu úa tàn, đẩy con người và vạn vật đến sự chia lìa, vĩnh quyết. Níu giữ trong
tuyệt vọng bất thành, các thi sĩ khao khát vượt khỏi thời gian, sống trên thời gian để
thời gian trở nên vô biên vô lượng. Hàn Mặc Tử nghe bước đi của thời gian, thấy
hơi thở gấp của thời gian, cũng có nghĩa nhà thơ nhận thức được cái đích cuộc đời
đang đến. Nhiều khi nhà thơ cầu khẩn thời gian như một sự giải thoát: “Trời hỡi bao
giờ tôi chết đi - Bao giờ tôi hết được yêu vì - Bao giờ mặt nguyệt tan thành máu -
Và khối lòng tôi cứng tợ si” (Những giọt lệ - Hàn Mặc Tử). Hoảng loạn và tê tái
tâm can, thi nhân cảm nhận thời khắc khủng khiếp ấy bằng tiếng gà báo sáng, như
tín hiệu để về với hiện thực đầy chết chóc, tang thương: “Tiếng gà gáy rụng trăng
đầu hạ - Tôi hoảng hồn lên, giận sững sờ” (Một miệng trăng - Hàn Mặc Tử). Tiếng
gà gọi dậy bình minh cũng xuất hiện trong thơ Chế Lan Viên, âm thanh ấy làm
bừng tỉnh giấc mơ, đưa thi nhân trở về với cuộc đời trần thế: “Tiếng gà bỗng từ đâu
vang dội lại - Hồn yêu tinh sực tỉnh giấc mơ nồng - Và vội vã trở về nơi u tối -
Quên làn xương trong cỏ đóng sương trong” (Xương khô - Chế Lan Viên). Đêm tối
có thể là thời gian huyền diệu nhất trong cảm nhận của thi sĩ. Vì đó là thời điểm ghi
dấu những đam mê, những cơn mơ thức giấc. Với thơ Loạn, tiềm thức luôn chứa
đựng ý thức, những giấc mơ không ngủ, vùng dậy trong đêm, truy tìm sự thật: “Phải
giờ này đang lúc em chiêm bao - Và chính anh giờ đang yêu em thiệt” (Hãy nhập
hồn em - Hàn Mặc Tử). Thời gian đêm tối giúp Chế Lan Viên được sống với thế
86
giới riêng mình, được tâm sự, giãi bày cùng Tháp Chàm, Sông Linh, tinh cầu, huyệt
mộ, đầu lâu, xương tủy và Chiêm nương... trong mộng mị. Nên khi “bóng đêm đà
vụt tắt”, trở về với cảnh đời trần tục, Chế càng thêm chán nản, hão huyền ước vọng
“một tinh cầu giá lạnh”, “một vì sao trơ trọi” cuối chân trời. Nơi đó, ông có thể ẩn
náu thân mình để hy vọng thoát khỏi nỗi u buồn của kiếp nhân sinh. Ở Hoàng Diệp,
hầu như cả tập Xác thu là bóng đêm vô tận của thê lương, ảm đạm, trượt dài về
chốn tiêu vong, biểu đạt sự chiêm nghiệm, thức nhận của thi sĩ về cuôc đời: “Bên
đống lửa hoang tàn màu đã chết - Ta lạnh lùng nghe lại tiếng tiêu vong” (Dấu quê
hương - Hoàng Diệp). Trong trạng thái ấy, thời gian không phải lúc nào cũng mong
manh, ngắn ngủi, mà có khi ngưng đọng, đặc quánh trong sầu thảm bao la. Đó là
thời gian của hằng hà tâm lý, của đau thương khổ ải mà các thi nhân phải căng mình
gánh chịu... Thời gian trong thơ Bích Khê thường là thời gian mơ mộng, chiêm bao:
“Cho ta xin trong một tối du dương - Muôn thớ đàn run trên da thịt tuyết. - Đàn và
thơ kết thành dây tinh huyết - Có nguồn thương trào vọt miếng phong cầm: - Cho ta
xin ý điệu của tình câm. - Là giãi hết bi huyền nương bóng tối...” (Ăn mày - Bích
Khê). Con người tâm linh Bích Khê thoải mái đi về trên trục thời gian có tính chất
thần bí. Trong chớp mắt, con người thi nhân có thể ngược xuôi trong khoảng không
siêu vũ trụ. Trong phút xuất thần, linh hồn người thơ được sống trong cõi vĩnh
hằng, bất tử: “Bỗng khúc dương cầm nấc tiếng thu - Bỗng đôi mắt ngọc hiện xanh
mờ - Và châu và báu và thanh khí - Thoắt đưa ta về với nẻo thơ” (Đây bản đàn thơ -
Bích Khê).
Thời gian tâm linh, tâm trạng của thơ Loạn là sự cảm nhận thời gian trong
cơn mơ - siêu cảm. Giấc mơ ấy làm sống dậy những khoảnh khắc yêu đương đã xa,
và cả những giấc mơ không được giải tỏa của hữu thức đời người!
Trước bờ vực thảm khốc của sự hủy diệt, mỹ cảm thời gian thơ Loạn không
chỉ bừng dậy và chuyển hóa qua những hình ảnh thê lương, kinh dị mà còn những
phút giây tươi đẹp, ấm áp, hạnh phúc rạng ngời. Trong “sự nổi loạn tìm kiếm sự
vĩnh hằng” (Henri Benac), Hàn thi sĩ muốn thời gian miên viễn là mùa xuân ấm áp,
rực rỡ sắc hương: “Tứ thời xuân! Tứ thời non nước - Phút thiêng liêng nhuần gội
ánh thiều quang” (Nguồn thơm - Hàn Mặc Tử). Đồng nhất thời gian với mùa xuân
là để được chuyếnh choáng trong cơn say tuyệt diệu của mĩ vì xuân sắc. Chế Lan
Viên cũng nhạy bén trước những cảnh sắc tươi đẹp của một mùa xuân vĩnh hằng:
87
“Pháo đã nổ đưa xuân về vang động - Vườn đầy hoa ríu rít tiếng chim trong - Cỏ
non biếc, giãi mình chờ nắng rụng - Bên lau già, theo gió uống lưng cong - Đôi
bướm lượn, cánh vương làn sương mỏng - Chập chờn bay theo phấn điểm muôn
hoa - Cất tiếng hát ngây thơ trên cỏ rộng - Đàn chim khuyên đua nhạt ánh sương sa”
(Xuân về - Chế Lan Viên). Có khi nhà thơ gửi vào hình ảnh thiên nhiên, đất nước
nỗi lòng suy tư, u uất của mình: “Chao ôi! Thu đã tới rồi sao - Thu trước vừa qua
mới độ nào - Mới độ nào đây, hoa rạng vỡ - Nắng hồng choàng lấp dãy bàng cao -
Cũng mới độ nào trong gió lộng - Nến lau bừng sáng núi lau xanh, - Bướm vàng
nhè nhẹ bay ngang bóng - Những bóng tre cao rũ trước thành” (Thu). Bích Khê nhìn
đêm trăng với tất cả vẻ đẹp quyến rũ: “Chị ơi! Trời sáng màu xanh, - Tình trăng
sống dậy trên cành hoa tươi”. Dù không nhiều, nhưng nhịp điệu thời gian êm đềm,
ấm áp ấy phần nào giúp cho những vần thơ Loạn lắng dịu lại những cơn mê sảng.
Thời gian trong thơ Loạn được biến hóa phong phú, dồn đuổi các nhà thơ
vào bờ vực của sự tuyệt vọng. Nó là đối tượng để các nhà thơ Loạn níu giữ, hòa hợp
và tương ngộ. Sự ám ảnh của thơ Loạn là sự ám ảnh về thời gian và về sự thay đổi.
Thời gian trong cảm nhận của các nhà thơ Loạn lúc thì gấp gáp, khi thì ngưng đọng
nhuốm màu huyền diệu. Nó được soi chiếu trên nhiều bình diện: hiện tại - quá khứ -
tương lai; chuyển hóa thành vạn vật và biến thành phương tiện chuyên chở cảm xúc
trữ tình của nhà thơ.
3.3. Những biểu tượng đặc sắc
Hành trình tiếp cận bản chất biểu tượng đã có nhiều cách kiến giải, định
nghĩa được đưa ra. Trong lĩnh vực văn hóa, C.G.Jung cho rằng: “Biểu tượng là hình
ảnh thích hợp để chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất ta mơ hồ, nghi hoặc của tâm linh…
Biểu tượng không bó chặt gì hết, nó không cắt nghĩa, nó đưa ta ra ngoài chính nó
đến một ý nghĩa còn nằm tận đến phía ngoài kia, không thể nắm bắt, được dự cảm
một cách mơ hồ và không có từ nào trong ngôn ngữ của chúng ta có thể diễn đạt
thỏa đáng” [25,198]. Biểu tượng vì vậy, đầy gợi cảm và sinh động, phong phú hơn
nhiều một dấu hiệu, ký hiệu đơn thuần. Hiệu lực của nó vượt ra ngoài ý nghĩa, phụ
thuộc vào cách giải thích, động lên các cấu trúc tinh thần làm phát lộ những bí ẩn
của vô thức, của hành động, khai mở trí tuệ về cái chưa biết và cái vô tận. Theo các
nhà phân tâm học, biểu tượng là chiếc cầu nối hiếm hoi bắc từ ý thức qua vô thức,
là những tia sáng vừa làm hé lộ vừa ẩn lấp, phát ra những miền sâu thẳm nội tâm
88
con người. Biểu tượng trở thành ngôn ngữ tinh thần kết nối con người với nhau, cho
con người chiếm lĩnh thực tại trong chiều sâu bản chất của nó, cuốn hút người tiếp
nhận vào một cuộc tìm tòi bất tận ý nghĩa cuộc đời.
Trong lĩnh vực văn học, “Theo nghĩa rộng, biểu tượng là đặc trưng phản ánh
cuộc sống bằng hình tượng của văn học nghệ thuật. Theo nghĩa hẹp, biểu tượng là
một phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình tượng nghệ thuật đặc
biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của hình tượng nào
đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hoặc triết lý sâu xa về con người và
cuộc đời” [30,24]. Như vậy, có thể hiểu biểu tượng trước hết là hình tượng nghệ
thuật mang ý nghĩa biểu trưng gắn liền với đặc tính vốn có của nó, “là cái vật nào
đó có một ý nghĩa rộng lớn hơn chính nó” [78,65]. Các nhà thơ tượng trưng trong
quá trình sáng tác sử dụng biểu tượng như một phương tiện để “nói ra được cái
không thể nắm bắt bằng cách nào khác”. Họ chủ đích xây dựng hệ thống biểu tượng
rậm rạp, bí hiểm để chống lại nguyên tắc sáng tác kiểu “giãi bày tình cảm” của chủ
nghĩa lãng mạn. Thi phái tượng trưng từng nhận thấy mối quan hệ đầy bí ẩn giữa
thế giới hữu hình và thế giới vô hình bằng con mắt tâm linh, cảm quan tương ứng;
thế giới dường như mang bản thể kép vì tự thân chính nó đã là cả một rừng biểu
tượng: “Vũ trụ là một ngôi đền mà trụ cột thiên nhiên - Thỉnh thoảng nói lên những
lời mơ hồ, bí ẩn - Con người đi qua cả một rừng biểu tượng - Nhìn chúng ta với con
mắt thân quen” (Tương ứng - Baudelaire). Tiếp thu thơ tượng trưng Pháp, Trường
thơ Loạn ý thức sâu sắc việc sáng tạo và sử dụng những biểu tượng. Có thể nói, thế
giới trong sáng tác Trường thơ Loạn chính là thế giới được nhìn qua lăng kính
những biểu tượng; thi sĩ tuyệt đối hóa vai trò của biểu tượng trong thơ mình và coi
nó như một đặc trưng nghệ thuật.
3.3.1. Trăng, Hồn, Máu
Trong Thơ mới, trăng hiện lên với muôn dáng vẻ. Nhưng có lẽ không ở đâu,
trăng được nhìn với tất cả mọi sắc thái như các thi sĩ thơ Loạn (33/43 bài ở tập Đau
thương của Hàn Mặc Tử, 14/42 bài ở tập Tinh huyết của Bích Khê, 11/36 bài ở tập
Điêu tàn của Chế Lan Viên có trăng xuất hiện). Điều này một phần do yếu tố địa -
tâm thức. Vẻ đẹp hư ảo, lung linh của ánh trăng Bình Định khơi vào trực cảm thiêng
liêng của rất nhiều nhà thơ từng gắn bó với mảnh đất này. Riêng với Trường thơ
Loạn, trăng là một dạng thức “cái nguyên tôi” (Chu Văn Sơn) của các thi sĩ. Trăng
89
rây mượt, nhuộm óng vũ trụ thơ của các thi nhân, tạo nên một vừng sáng vừa kinh
dị ma quái, vừa lạnh lẽo võ vàng, vừa mênh mông êm dịu. Hàn Mặc Tử ngủ với
trăng, đuổi theo trăng, chơi cùng trăng. Cuộc giằng co giữa khát vọng sống và sự
hủy diệt khiến Hàn sợ hãi, mệt nhoài. Trăng trong thơ Hàn rất đẹp, rất lạ, dị thường.
Hàn viết hoa trăng, gửi vào trăng những nỗi đau tận cùng thể xác và tâm hồn, với
những khát vọng lớn lao của đời mình. Khác với thơ Hàn Mặc Tử, trăng trôi vào
thơ Chế Lan Viên thường không còn vẻ kì ảo, diễm lệ, bởi thế giới thơ Chế là thế
giới u ám những hồn ma vất vưởng trong hoang tàn đổ nát. Đó là thế giới của đầu
lâu, xương trắng, tủy huyết, sọ người. Trăng chiếu lên Điêu tàn thứ ánh sáng nhợt
nhạt, lạnh lẽo. Trăng đồng lõa với thần chết, yêu ma. Trong thơ Bích Khê, trăng ánh
lên sắc màu rực rỡ, sang trọng và tinh khiết. Đó là thế giới của mã não, ngọc quý,
trân châu. Chịu ảnh hưởng của Baudelaire, Bích Khê hòa quyện trăng trong hương,
hoa, nhạc.
Trăng là thú say mê, nơi gửi gắm tình cảm của thi sĩ thơ Loạn với những nỗi
đau tận cùng thể xác và tâm hồn. Bằng trí tưởng tượng phong phú, ngôn từ nghệ
thuật độc đáo, họ vẽ nên hình ảnh trăng muôn màu, đa nghĩa. Nó không chỉ là thứ
ánh sáng huyền ảo và hiu hắt mà còn hiện hữu như một linh vật, một con người,
một yêu ma biến hóa. Có lúc trăng là ước mơ, có khi là nỗi hãi hùng; lúc là ánh
sáng lung linh, khi là sắc màu gao gắt. Lúc hiền lành, trăng là người bạn thân thiết,
là bóng nguyệt, trăng xanh, trăng cổ độ. Khi điên cuồng, trăng là nỗi khiếp sợ, là
trăng rụng, trăng ghen, trăng tan từng vũng… Nhưng trước hết, nó là biểu tượng
cho nguồn sáng vô biên, nguồn sống bất diệt: “Chỉ có Trăng sao là bất diệt - Cái gì
khác nữa thảy đi qua” (Thời gian - Hàn Mặc Tử), gợi nên một thế giới thanh bình,
tươi đẹp. Đó là không gian muôn phần lộng lẫy với những dòng ánh sáng sóng sánh
ướp hương, là cõi thiên đường với bao khao khát: “Lần mò đường lên mây - Chén
trăng vừa tầm với - Chàng ơi vàng ròng đây - Kề môi say ân ái” (Ngũ Hành Sơn -
Bích Khê). Ngay cả một người luôn nhìn “ánh trăng mờ yếu” bằng nỗi “sầu héo
hắt” như Chế cũng có lúc phải thốt lên: “Cả một nguồn trăng sáng cả muôn hương”
(Đầu mênh mang - Chế Lan Viên).
Trường thơ Loạn nâng niu, yêu quý trăng như vàng, như ngọc, vì trăng là cõi
mộng mơ của những hồn thơ vốn mang trong mình bao buồn thương, sầu não. Cho
nên, họ xây dựng biểu tượng trăng rực rỡ, gần kề sự sống, lúc nào cũng quay cuồng,
90
ước ao hòa vào miền bất diệt để xa rời trần gian khổ ải: “Đã sướng chưa anh! trên
đọt cây... - Trăng càng vô lá, lá trăng say - Ôi bao lạc thú trên đời mộng - Tôi quyết
không sai, chỉ thế này” (Trung thu với nghệ sĩ - Quỳnh Dao), để được “tắm trong
trăng”, “ngủ trong sao” (Chế Lan Viên), sống trong khung cảnh đầy tràn ánh sáng.
Thấu nhập vào hồn thơ Loạn không chỉ màu trăng mà còn cả mùi trăng, hương
trăng nữa: “Mùi tô hợp quyện trong tơ trăng lụa” (Mộng cầm ca - Bích Khê) để
sống với những phút giây đê mê hạnh phúc: “Hai ta nhịp nhàng lên cung trăng”
(Nghê thường - Bích Khê). Ngày đêm, họ mong gặp trăng để sống với giấc mơ
huyền diệu đầy nước mắt: “Ta thích len vào trong đám lau - Núp chờ Trăng xuống
để quàng nhau” (Mơ - Hàn Mặc Tử).
Trăng là cứu cánh, là nguyên mẫu (archetye) đồng vọng cùng tiềm thức, vô
thức, và cũng là biểu tượng tuyệt mĩ mà thi nhân khát khao có được. Chẳng thế mà
khi bị đày vào “lãnh cung của sự chia lìa” - hố sâu ngăn cách của tình yêu đơn
phương vô vọng, của một thân phận mặc cảm đang bị giày vò bởi thân xác đớn đau,
là lúc trăng gợi lên vẻ đẹp thiếu nữ, điểm tựa duy nhất để hóa giải trạng huống đau
thương: “Bóng hằng trong chén ngả nghiêng - Lả lơi tắm mát làm duyên gợi tình”
(Uống trăng - Hàn Mặc Tử). Đó là vẻ đẹp tinh khiết, thơm tho của “trăng đứng
tuổi”, “trăng dậy thì” còn bẽn lẽn khiến thi nhân không ghìm nổi cơn sóng lòng tình
tự. Lắm khi, trăng thành người tình cuồng loạn kéo nhà thơ bước vào cuộc tri hoan
mê đắm để “quay cuồng”, “lăn lộn”, để “ghì”, để “liếm”, để “riết”, để trút bỏ hết
những ràng rịt cuộc sống: “Ta cưởi truồng ra - Ta cưởi truồng ra - Ngoài kia trăng
sáng chảy bao la - Ta nhảy vào quay cuồng thôi lăn lộn - Thôi ngụp lặn trong ánh
vàng hỗn độn - Cho trăng ghì, trăng riết cả làn da” (Tắm trăng - Chế Lan Viên).
Không ma quái và ảo hóa như trăng trong thơ Chế Lan Viên, cũng không ám thị
sinh mệnh như trăng trong thơ Hàn Mặc Tử, ở thơ Yến Lan, trăng hiện lên mơ hồ,
lung linh và lạnh lẽo. Thi sĩ say trăng, chở mãi hồn vượt cả bến trăng sao bên con
truyền trôi trên dòng sông lạnh (Bến My Lăng). Có khi, đó là hình ảnh trăng gầy đầy
huyền hoặc: “Ôi Bình Định tự thanh cao trao gửi - Buồn xế tà qua mấy cửa rong
xanh: - Nơi đã đọng những vũng chiều lạnh dợi - Cửa trăng gầy, gió lụy xuống
mong manh” (Bình Định 1935). Trăng trở thành bệnh lý mà Yến Lan là “bệnh
trăng”: “Trăng đi từ tóc đi vào máu - Như sữa tuôn dài chảy khắp thân - Tôi yêu
trăng quá, mê trăng quá - Như má yêu môi, đến rất gần” (Bệnh trăng - Yến Lan).
91
Trăng được bao phủ lớp sương khói bàng bạc, huyền diệu, thơ mộng, nên dù hao
khuyết hay viên mãn, vẫn có thể lay động lòng người trong từng nhịp thở. Quỳnh
Dao cũng không ít những câu thơ về trăng tài hoa và ướt át, vồ vập cuộc sống và
tình yêu: “Ngọn cỏ say rồi quên cả ướt - Trùng triền sắp sửa liếm da trăng” (Khi
tình mới nở - Quỳnh Dao)... Sự mê say tìm kiếm những nguồn hoan lạc vô biên có
khi đẩy thi nhân đến bến bờ huyền diệu để được thỏa sức mường tượng về những
“tranh lõa thể”, những dáng hình ngả ngớn: “Một cô hồn có lẽ thoáng đi qua - Sao
lốm đốm trên cây nằm lả tả” (Người say rượu - Bích Khê)… Dẫu có kì dị, hoang
đường, mờ ảo, mong ước được đến xứ trăng sao của các thi sĩ thơ Loạn cũng là tìm
đến xứ sở của sự vĩnh hằng và bất diệt. Nhưng lang thang mãi trên tầng trời cao,
“tắm trong trăng”, “ngủ trong sao”, các nhà thơ vẫn không tìm được sự bình yên
trong thẳm sâu tâm hồn.
Nhờ tưởng tượng phong phú, cảm xúc mạnh, Trường thơ Loạn đã làm thức
nhọn giác quan, mã hóa trăng từ biểu tượng của cái đẹp đến biểu tượng của cảm
giác cô đơn tràn ngập... Miền trăng của Trường thơ Loạn luôn hiện hữu bên chúng
ta một thứ ánh sáng vừa rực rỡ, vừa rợn ngợp và không bao giờ tắt.
Cùng với trăng, hồn là biểu tượng xuất hiện với tần số dày đặc trong thi
phẩm thơ Loạn. Theo các trường phái triết học tôn giáo phương Đông, hồn mang
tính dị nguyên được biểu hiện dưới hai dạng quỷ và thần: quỷ là phần hồn những
dục vọng của người sống, còn thần là phần tinh anh linh ứng trong bản thể người.
Khác với quan điểm phương Đông, phương Tây quan niệm hồn là giai đoạn quá độ
lên thần của mỗi con người. Như vậy, hồn gợi ý niệm về một quyền năng vô hình,
một sức mạnh siêu nhiên, về thần linh, về một trung tâm năng lượng nằm ngoài tầm
kiểm soát của con người. Nó thể hiện “cái vô thức” và “một sự nhân cách hóa
những nội dung vô thức” (C.G.Jung). Đi từ tính chất xã hội đơn thuần đến tính tâm
linh tôn giáo, cảm niệm về một thế giới khác ảo diệu, sâu xa hơn thực ra cũng rất
gần với ý niệm tôn giáo về một thế giới bên trong, nhất là với Hàn Mặc Tử, Chế
Lan Viên, Bích Khê - những thi sĩ sớm bén duyên với Phật giáo và Thiên chúa giáo.
Hồn trong thơ Loạn là phần tâm linh của cái tôi chủ thể trữ tình, tồn tại như
một thực thể hữu hình có cảm xúc buồn, vui, đau khổ. Thực trạng thân xác không
thể vượt qua rào chắn của khổ đau, bệnh tật và cái chết, những cái tôi kỳ dị trong
92
Trường thơ Loạn chỉ còn biết vượt qua bằng Hồn - một linh thể khả dĩ phiêu diêu
khắp nơi và thấu hiểu tất cả với một quyền năng vô hình nằm ngoài sức mạnh lý trí.
Đây không chỉ là một dạng thức tâm lý mà là sự vượt thoát mãnh liệt, vượt thoát
khỏi bệnh tật dày vò và nỗi cô đơn, biểu tượng cho cái tôi khát khao cháy bỏng
được tự do trôi dạt: “Lòng nao nao... - Hồn nao nao... - Những đêm buồn tai hại, -
Thấy trăng ngà đủn đởn giữa cành cao - Hồn ta lại dậy - Cho gió ghì, gió riết, gió
nâng cao”... (Tình quê - Quỳnh Dao). Thân xác quẩn quanh trong bệnh tật và cái
chết, để cho “Hồn say sưa vào khắp cõi trời Mơ” (Ngủ trong sao - Chế Lan Viên).
Do vậy, một cuộc giao tranh diễn ra quyết liệt trong con người thi nhân: thân xác
hữu hạn băng hoại còn linh hồn thì muốn sống vô biên: “Hồn đã cấu, đã cào, nhai
ngấu nghiến - Thịt da tôi sượng sần và tê điếng - Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên”
(Hồn là ai? - Hàn Mặc Tử). Nhà thơ càng tuyệt vọng thì hồn càng thăng hoa; nhà
thơ càng bị giam hãm bởi bệnh tật thì hồn càng khát khao đi vào ngóc ngách vũ trụ,
vào đến tận cùng thế giới sâu thẳm bên trong con người: “Hồn đê mê trong khi lòng
giận dữ - Và tạo ra một thứ sáng hào quang” (Sắc đẹp - Bích Khê). Đó là mỹ cảm
của tang thương, vượt ngoài tự chủ của lý trí, khát khao vươn tới những vùng linh
thị: “Ta muốn gửi thân ta về địa ngục - Cho linh hồn phiêu diễm chốn mung lung”
(Dòng tư tưởng - Hoàng Diệp).
Cũng là sự phân thân giữa xác và hồn, nhưng đối với các tác giả thơ Loạn, sự
phân thân này ở mỗi người mỗi khác. Trong thơ Hàn Mặc Tử, hồn vừa biểu lộ nỗi
ám ảnh bệnh tật, vừa biểu lộ ước vọng tái sinh. Cảm thức mất linh hồn mình luôn
ám ảnh Hàn. Thân xác còn đây mà “Hồn phiêu lạc đến bao giờ” (Hồn lìa khỏi xác).
Khát vọng được giải thoát khỏi thân xác bị đày đọa bởi căn bệnh nan y, nên thơ Hàn
là cả một “biển hồn ta”, “trút linh hồn”, “hồn lìa khỏi xác” lang thang, bay bổng “tới
chốn chiêm bao ngoài sự thực” (Ngoài vũ trụ) để kiếm tìm, mơ ước. Nhiều lúc, Hàn
không trả lời được câu hỏi “hồn là ai?” nên đã gào thét đến “Cả Thiên đường, Trần
gian và Địa ngục”, đi ròng suốt đêm để tự truy vấn: “Hồn là ai? Là ai? Tôi không
hay - Dẫu hồn đi ròng rã một đêm nay - Hồn mệt lả còn tôi thì chết giấc” (Hồn là
ai?). Lúc nào ta cũng thấy ở Hàn khát khao được “thoát hồn anh”, “khạc hồn ra
khỏi miệng”, và sốt sắng đến thành khắc khoải “Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu -
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang?” (Ave Maria). Sự phân ly của trải nghiệm
mĩ học vi diệu như rót những giọt sống cuối cùng, dâng hiến trọn vẹn để “hồn bất
93
diệt với sa hà”, đưa hồn thi sĩ hòa vào một thế giới siêu thăng... Mang ước mơ màu
nhiệm và khát khao vượt thoát, nhưng hồn vẫn không tránh khỏi những dằn vặt, đau
đớn của cơn lâm lụy: “Hồn đã lạnh, hình như hồn ớn lạnh - Không buồn về với thể
xác đêm nay - Và run lên như nhịp điệu cuồng say - Hồn muốn chết nhưng mà
không chết được” (Hồn đêm qua).
Trong thơ Bích Khê, hồn xuất hiện 76 lần (Tinh huyết 65 lần, Tinh hoa 11
lần), và là biểu tượng chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa sâu xa. Cuộc phiêu lãng của
hồn diễn ra rất phức tạp. Nó là chủ thể không chỉ cảm nhận cuộc sống chung quanh
mà còn tự thoát xác vào miền tâm linh khác: “Mây, tuyết, thời gian bay tợ ngọc -
Hồn tôi đã thoát để tiêu dao - Những tờ thơ nát đầy hơi hám - Tay khách đa tình sẽ
chuyển trao” (Nấm mộ). Giống như Hàn Mặc Tử, trong đau đớn hoảng sợ đến bạt
vía, kinh tâm, Bích Khê luôn ám ảnh bởi sự chia lìa giữa hồn và xác. Cơn tê dại tâm
can là lúc thi nhân nhận ra mình đang sống những ngày mất mác, chẳng vẹn nguyên
ngay đối với cặp đôi khắng khít là xác và hồn. Chịu ảnh hưởng của cảm thức siêu
thăng trong thơ Bauderlaire, trạng thái đặc trưng trong thơ Bích Khê là trạng thái
mê đắm: “Nhạc đâu bỗng vót từng khơi - Hồn theo với nhạc hồn ơi là hồn” (Cuối
thu). Nhiều khi, nhà thơ dẫn hồn đến với giai nhân để cùng đùa vui, quấn quýt,
thăng hoa cùng người tình trong cõi huyền diệu của lưu ly, ngọc thạch, trân châu,
mã não: “Chàng ơi! Hồn say trong mơ màng - Hồn ta? Hay là hồn tình lang?”
(Hoàng Hoa).
Trong Điêu tàn của Chế Lan Viên, hồn xuất hiện 61 lần trong 27 bài thơ.
Khát vọng giải thoát của chàng trai 17 tuổi còn bức thiết đến độ cho hồn “vụt đến
xứ Trăng - Mây”, để “hồn rảo bước” và tuyệt vọng biết bao khi “hồn không gặp
bến”. Vì vậy, hồn trong thơ Chế không gắn với ánh sáng mà chứa đầy bóng tối,
không thuộc về thực tại trần thế mà đồng hành cùng cái chết và hư vô. Cho nên, ở
Điêu tàn, những từ ngữ: hồn, hồn ma, hồn mơ, cô hồn, linh hồn, phách hồn, hồn
yêu tinh, hồn tử sĩ… trở đi trở lại trong hành trình “dạt trôi về nước non Chiêm” để
cảm thức một thời quá vãng.
Trong Thơ mới, khi khẳng định cái “tôi”, các nhà thơ cũng thường nhấn
mạnh phân tích phần “hồn” của mình: “Hồn anh như hoa cỏ may - Một chiều cả gió
bám đầy áo em” (Hoa cỏ mây - Nguyễn Bính). Cũng có khi, hồn là hình ảnh ẩn dụ
94
để diễn tả sắc độ tình yêu, trạng thái ngất ngây rạo rực yêu thương, nhung nhớ: “Từ
lúc yêu nhau hoa nở mãi - Trong vườn thơm ngát của hồn tôi” (Nguyên đán - Xuân
Diệu)... Nhưng thế giới tâm hồn, linh hồn ấy vẫn là biểu hiện tinh thần của thể xác,
tức là thuộc về thế giới hữu thanh, hữu hình chứ không phải là một đối cực với xác,
tách mình ra khỏi xác để du hành cùng siêu vũ trụ như trong thơ Loạn.
Biểu tượng hồn trong sáng tác của Trường thơ Loạn là tín hiệu nghệ thuật
đặc sắc, khơi dậy mạch liên tưởng trong lòng người đọc, vừa thể hiện phần tinh anh
của chủ thể, vừa gợi những điều kỳ bí của cõi hư vô.
Cùng với biểu tượng trăng, hồn là biểu tượng máu. Máu là phương tiện
truyền dẫn sự sống, là “bản nguyên của sự sinh thành” (Kinh thánh). Tuy nhiên,
trong thực tế, dạng thức tồn tại của máu bao giờ cũng có hai chiều đối nghịch: ở bên
trong cơ thể, máu là điều kiện của sự sống; ngược lại, nếu vãi ra, máu đồng nghĩa
với sự chết. Nói như Hồ Thế Hà, “Máu như một biểu tượng, một ẩn dụ để nối sự
sống và cái chết, nó bật thành tiếng than rên điên cuồng, thảm khốc. Nó như là âm
bản từ cấu trúc của đời sống” [28,97].
Trong văn học, máu biểu trưng cho nhiều ý nghĩa khác nhau, tùy thuộc vào
văn cảnh và dụng ý, phong cách tác giả. Ở Truyện Kiều, máu biểu trưng cho huyết
thống, tình ruột thịt của chị em Thúy Kiều: “Ngày xuân em hãy còn dài - Xót tình
máu mủ thay lời nước non” (Truyện Kiều - Nguyễn Du). Những câu thơ viết về máu
của nhà thơ cách mạng Tố Hữu thường gợi lòng người nỗi căm phẫn quân thù, ý chí
đấu tranh mãnh liệt: “Thương nhau, đừng khóc, em yêu - Tự do, phải trả bao nhiêu
máu này!” (Nước non ngàn dặm - Tố Hữu). Cũng có khi, máu là biểu tượng đau
thương của quê hương, đất nước trong chiến tranh: “Ôi! Những cánh đồng quê chảy
máu - Dây thép gai đâm nát trời chiều” (Đất nước - Nguyễn Đình Thi)... Trong thơ
Loạn, biểu tượng máu được xây dựng một cách kinh hoàng và lạ lẫm. Những vần
thơ Loạn dính đầy máu, những búng máu đỏ tươi thoát ra từ lồng ngực nóng bỏng
bị ẩn ức, từ trái tim vật vã đầy khát khao: “Người Trăng ăn vận toàn Trăng cả - Gò
má riêng thôi lại đỏ hườm - Ta nằm trong vũng Trăng đêm ấy - Sáng dậy điên
cuồng mửa máu ra” (Say Trăng - Hàn Mặc Tử). Nó là biểu tượng của cái chết, là
kết tinh và hội tụ thương đau khủng khiếp trong tâm hồn và thể xác thi nhân: “Ta sẽ
uống máu lan thành tủy chảy - Ta sẽ nhai thịt nát với xương khô - Lấy hơi ma nuôi
sống tấm hồn mơ - Luyện âm khí chuyển rung bao mạch máu” (Máu Xương - Chế
95
Lan Viên). Đó là những giọt máu của điên cuồng, phẫn uất: “Ai bảo là tôi chửa chết
rồi! - Máu cuồng vẫn chảy điệu mê tơi - Máu cuồng ran khắp trong cơ thể - Ai bảo
là tôi chửa chết rồi!” (Cơn mê - Bích Khê). Sự cảm nghiệm về máu của mỗi hồn thơ
Loạn hiện lên ở những góc độ đậm nhạt khác nhau. Hàn Mặc Tử ám ảnh bởi sự
tuôn chảy không ngừng của máu, ban đầu là “rớm máu”, rồi mỗi ngày càng trầm
trọng hơn với những “máu vọt”, “mửa máu”, “hộc máu”… thành “vũng máu”,
“búng huyết”, và cuối cùng tan thành một biển máu đầy xót xa được chảy ra từ
khoái cảm ngất ngây và điên dại trong người thi sĩ: “Máu tim ta tuôn ra làm bể cả -
Mà sóng lòng rồn rập như mây trôi - Sóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ - Dâng lên
cao, cao tột tới trên trời” (Biển hồn ta - Hàn Mặc Tử). Trong thế giới Điêu tàn của
Chế Lan Viên, máu là sự cụ thể hóa những tiêu vong tang tóc của dân tộc Chàm bao
trùm mọi không gian, cảnh vật: bầu trời trở thành “trời huyết”, Sông Linh “quằn
quại dòng máu thắm”, cảnh vật tươi tắn lúc xuân về cũng gợi hình “khối máu của
dân Chàm”… Sự đau thương trong thơ Bích Khê cũng được đẩy đến tột cùng ám
ảnh: “Buồn sao muốn khóc cho ra máu - Hiện ảnh trong hồn một đám tang” (Sầu
lãng tử - Bích Khê).
Máu vừa là biểu tượng của cái chết, vừa là biểu tượng của sự sống. Máu là
xác của linh hồn, cũng là hồn của thể xác. Cho nên, lắm khi máu mang đến những
thi sĩ thơ Loạn trạng thái nhiệt hứng, những cảm xúc say mê sáng tạo được đẩy đến
cực điểm: “Đây là bóng nghìn xưa hồn nghệ sĩ - Đem sắc tài đổi lấy phút mơ điên -
Trên máu cuồng ghi chép án thơ tiên” (Xác chết của người đẹp - Hoàng Diệp).
Dường như với họ, khi làm thơ là khi đang đổ máu, là lúc “Anh cắn hồn thơ để máu
trào” trong một hành trình thể nghiệm, tìm kiếm đầy đau thương. Đó là sự sáng tạo
trong đau đớn, là sự vắt kiệt sức mình cho thơ. Rất nhiều trường hợp trong thơ
Loạn, máu là thi cảm thai nghén tâm hồn thi nhân thành thi bảo: “ Cứ để ta ngất ngư
trong vũng huyết - Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh - Đừng nắm lại nguồn
thơ ta đang siết - Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh” (Rớm máu - Hàn Mặc Tử).
Chế Lan Viên cũng có ý muốn kinh hoàng như Hàn Mặc Tử: “Hỡi chiếc sọ, ta vô
cùng rồ dại - Muốn riết mi trong sức mạnh tay ta - Để những giọt máu đào còn đọng
lại - Theo hồn ta tuôn chảy những lời thơ” (Cái sọ người - Chế Lan Viên). Máu
cũng gắn với trạng thái sáng tạo đặc biệt trong thơ Bích Khê: “Lòng chết đi nhưng
máu vẫn cuồng say - Nhịp cung cầm cho vang lên tiếng nhạc” (Cô gái ngây thơ -
96
Bích Khê)… Máu là nguồn sáng tạo vô biên, đưa linh hồn nhà thơ đến gần với thể
thống nhất sâu xa của vũ trụ. Và khi đi đến tận cùng, thoát thai vào một cõi uy
nghiêm nào đó, hóa thân thành muôn vàng tinh khí, cũng là lúc khả năng sáng tạo
của các nhà thơ trở thành miên viễn.
Trăng - Hồn - Máu là cuộc nổi loạn trong cảm giác thi ca. Trường thơ Loạn
như muốn xé rào tìm kiếm cho thơ những miền cảm giác mạnh, đẩy cái kinh dị đến
tột cùng. Ở bình diện này, lối biểu hiện kinh dị vừa như một tìm tòi mới trong thơ,
nhưng trước tiên nó là một sự giải thoát, nghĩa là một nhu cầu sống bức xúc của chủ
thể trong thơ và bằng thơ. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy cái đẹp kỳ dị ấy có một
biên độ rộng hơn rất nhiều so với nghĩa hẹp của chữ kinh dị thông thường. Chỉ riêng
việc Trăng - Hồn - Máu gây ấn tượng tựa như cú sốc với người đọc, từng được giới
nghiên cứu quan tâm từ rất sớm, cũng có thể thấy được nội hàm nghĩa rất rộng của
nó. Không nằm trên mặt phẳng đời sống, Trăng - Hồn - Máu băng qua một vũ trụ
mới đầy hư ảo. Bên cạnh vẻ kinh dị, Trăng - Hồn - Máu cũng là những hình tượng
giàu chất thơ với những gì tinh khiết, miên viễn và tuyệt đích của sức sáng tạo. Có
“trăng vỡ”, “trăng tự tử” thì cũng có “trăng dệt gấm”, “trăng vàng trăng ngọc”,
“trăng sáng giữa trời trong”, “trăng sáng cả muôn hương”. Đây là hồn: “Hồn bay!
Hồn Bay! Hồn bay - Ngửa nghiêng tắm mát vàng lay nhạc hường” (Mơ tiên - Bích
Khê). Và đây là máu: “Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự - Tôi đều nhận thấy trên
môi em - Làn môi mong mỏng tươi như máu - Đã khiến môi tôi mấp máy thèm”
(Gái quê - Hàn Mặc Tử). Dường như nó là dấu vết của cuộc giao thoa kỳ diệu giữa
cõi người và cõi trời, là cuộc vật lộn nội tâm quằn quại hướng tới cái đẹp tột cùng
của hai thái cực: khổ đau và khát vọng.
3.3.2. Hoa, Nhạc, Hương
Hệ thống biểu tượng vô cùng phong phú, đa dạng đã mở ra cho chúng ta
cánh cửa để bước vào thế giới thơ Loạn. Đó là một thế giới đa diện, đa sắc và luôn
luôn có sự tương phản, đối chọi nhau gay gắt. Bên cạnh những mảng vỡ của sự siêu
thoát và chết chóc, là màu sắc của cuộc sống tươi tắn, phồn sinh... Cất lên từ thế
giới của sự hủy diệt, nhưng Trường thơ Loạn vẫn khát khao hướng về cuộc sống. Vì
vậy, thơ Loạn không chỉ có trăng, hồn, máu mà còn có cả hoa, nhạc, hương.
Biểu tượng hoa xuất hiện khá nhiều trong thơ Loạn. “Bông hoa nói chung là
biểu tượng của bản thể thụ động. Sự phát triển của bông hoa từ đất và nước tượng
97
trưng cho sự phát triển của sinh tồn. Hoa là những hình ảnh của đức tính, của tâm
hồn và bó hoa là hình ảnh của sự toàn hảo tinh thần. Hoa còn là biểu tượng của tình
yêu và sự hài hòa đặc trưng cho bản chất nguyên khởi, bản chất này gần với trạng
thái thiên đường trên trái đất” [25,247].
Sau những phút giây điên cuồng rồ dại như muốn tung hê, phá tan, vượt
thoát mọi cõi giới, ta lại thấy các thi sĩ thơ Loạn gieo mầm, ươm hoa. Sự hiện diện
của những đóa hoa, thảm hoa trong thơ Loạn là biểu tượng cho sự sống, sự sinh tồn,
làm nên một thiên đường trên mặt đất. Lần đầu tiên người ta thấy trong thơ không
phải là tiếng rên siết, gầm thét đến rợn người mà là “Một chuỗi cười rồ rộ nở trong
hoa” (Người say rượu - Bích Khê). Chế Lan Viên hái “cụm hoa ngời” để lấy lại thời
gian. Mặt đất nở hoa, hoa tỏa hương, “hương gây đê mê” đưa hồn thi sĩ đến xứ sở
của sự sống, của thiên đường siêu thoát.
Thế giới thơ Loạn trải đầy hoa hồng, biểu tượng cho tình yêu bất diệt, nồng
thắm. Những phút giây lưu luyến, hoa hóa thân làm tình nhân ân ái cùng gió, cùng
mây, giao hòa với vạn vật: “Hoa gió đã tình si?” (Sáng trăng - Hàn Mặc Tử), “Hay
hơi thở của hoa hồng mơ mộng” (Mộng cầm ca - Bích Khê), “Lá nhớ, hoa thương
mượn tình gió thổi” (Khua tiếng sóng - Chế Lan Viên)… Đó là những đóa hoa của
tình yêu xao động, gợi đến tận cùng hương vị cuộc sống say mê.
Tuy nhiên, nằm trong mạch cảm xúc đau thương, hoa trong thơ Loạn còn
biểu trưng cho một thế giới tàn tạ. Thảm hoa mà các thi sĩ đã dệt nên có những
mảng màu tươi tắn, rạng ngời nhưng cũng không ít màu héo úa, rữa tan. Bên cạnh
màu đỏ của hoa hồng còn là “ngàn hoa trắng ngập bao la” (Chế Lan Viên) phủ đầy
khí vị đau thương, tang tóc. Ta có thể thấy những đóa hoa ngời và cả những đóa hoa
tàn “muôn cánh rã”, “hoa rạn vỡ”, “hoa rung nhụy yếu”, “hoa đang rụng” được mọc
lên giữa hồn tang của những sầu bi, cô độc. “Hoa mảnh khảnh” (Bích Khê) sót lại
trong một xác thu gầy dường như không còn sức sống. Thậm chí, có khi màu hoa
còn biến thành màu lệ nhỏ cùng nỗi niềm bi thiết: “Tôi vẫn còn đây hay ở đâu? - Ai
đem tôi bỏ dưới trời sâu? - Sao bông phượng nở trong màu huyết, - Nhỏ xuống lòng
tôi những giọt châu?” (Những giọt lệ - Hàn Mặc Tử). Yến Lan, dù đôi lúc cùng hoa
lơ đãng trong miền lãng mạn: “Em đến xin hồng, hồng mới nụ - Hôm nay hồng nở,
bóng em xa - Cầm em bữa trước em không ở - Giờ biết làm sao cầm được hoa”
(Cầm chân em, cầm chân hoa); nhưng cũng có những đóa hoa tàn héo, gắn liền với
98
cả quá trình trải nghiệm để tích tụ trong thơ từ trống trải, vắng xa: “Tuổi trẻ băng
đồng đi hái hoa - Tặng em, ngấp nghé chực quanh nhà - Người không ra đón, hoa
dần héo - Héo cả làn mây, đỉnh núi xa” (Hoa tặng - Yến Lan). Thi phẩm Hoàng
Diệp cũng ngập tràn những cánh hoa rơi, những mộ hoa của héo khô, tàn hủy: “Vóc
liễu gầy bên khóm trúc khô - Hồn hoa gửi với xác hoa mồ” (Nhạc trăng - Hoàng
Diệp). Sự héo úa như muốn khỏa lấp những thảm hoa muôn sắc đang trỗi dậy mạnh
mẽ của những niềm khát sống.
Biểu tượng nhạc cũng xuất hiện nhiều trong thơ Loạn. “Âm nhạc là trạng
thái hài hòa của các con số và của vũ trụ; là một trong những phương tiện để hòa
nhập với cuộc sống viên mãn của vũ trụ. Nó giữ vai trò trung gian để mở rộng sự
giao cảm đến tận giới hạn của các thần thánh. Vũ trụ là một cuộc hòa nhạc huy
hoàng. Âm nhạc giả định một sự hòa hợp giữa linh hồn và thể xác…, một sự hài
hòa của các tâm năng” [25,33]. Chủ nghĩa tượng trưng coi “âm nhạc là trước hết”
(Mallarmé) và đặc biệt đề cao tính nhạc. Tuy nhiên, các nhà thơ tượng trưng cũng tỏ
rõ quan điểm của mình khi cho rằng âm nhạc trong thơ không chỉ là sự kết hợp
hoàn toàn bởi những cứ điệu số học, những luật lệ trắc bằng. Bao nhiêu câu thơ
niêm luật rất chỉnh tề mà vẫn tắt ngấm trong mang tai khi chữ cuối cùng vừa đọc
hết… Nhạc còn là linh hồn, sự rung động tâm lý ở chiều sâu. Đó là sự giao tình của
vạn vật mà chỉ nhà thơ mới có thể cảm nhận được. Với nhạc và bằng nhạc, các nhà
thơ tượng trưng khát vọng đi sâu vào thế giới huyền ảo, thâm nhập vào bản chất của
sự vật và đạt tới độ siêu việt.
Âm nhạc trong thơ tượng trưng góp phần giúp các nhà thơ có linh cảm kỳ
diệu về thế giới tâm linh, gợi lên những giấc mơ kỳ lạ: “Nhạc luôn mang ta đi như
sóng biển! - Đến ngôi sao mờ của ta - Dưới bầu trời u ám hay trong thinh không
xanh - Buồm ta mở rộng đi xa” (Nhạc - Baudelaire). Tiếp thu chủ nghĩa tượng
trưng, các nhà thơ Loạn không những kiến trúc các bài thơ đầy nhạc bằng nhịp điệu,
giọng điệu thấp cao mà còn coi nhạc là biểu tượng, là phương tiện để đạt đến cuộc
sống viên mãn của vũ trụ. Bích Khê dựng lên một thi giới tràn đầy âm nhạc, đồng
vọng ở cõi người và cõi vật. Chỉ riêng tập Tinh huyết, nhạc xuất hiện 38 lần ở 19
bài thơ, và có đến bốn bài thơ lấy nhạc, điệu nhạc làm đề tài: Mộng cầm ca, Tỳ bà,
Nhạc, Nghê thường. Nhạc vang lên từ đàn, từ không gian, từ môi thiếu nữ, thiếu nữ
tan thành nhạc. Tất cả dường như đều vận động theo nhạc điệu: nhạc trong gió,
99
trong nắng, trong lời nói, trong hơi thở con người. Trái tim, lồng ngực và cả da thịt
của thiếu nữ đều rung động theo nhịp điệu và cung bậc: “Tôi qua tim nàng vay du
dương” (Tỳ bà); “Mùa nhạc gẫm nao nao trong lồng ngực” (Cô gái ngây thơ); “Ôi
thớ thịt có đàn lên cung bậc” (Bàn chân). Không chỉ không gian tràn ngập nhạc mà
cả thời gian cũng vận động theo nhịp điệu của nó: “Mây, tuyết, thời gian bay tợ
nhạc” (Nấm mộ - Bích Khê). Thậm chí, đi sâu vào thế giới bí ẩn của cái sọ người,
thi sĩ cũng bắt gặp “máy thu thanh hòa âm nhạc thơm tho” (Sọ người - Bích Khê).
Con người tâm linh theo nhạc đi cao mãi, chạm tới cõi thần diệu, nơi ngự trị nhan
sắc và tình yêu. Hàn Mặc Tử theo đường nhạc vút cao mà hòa nhập với vũ trụ viên
mãn: “nhạc bay lên”, “nhạc lên trời”, “nhạc lên ngàn” (Xuân đầu tiên - Hàn Mặc
Tử). Khúc “nhạc thần” đưa thi nhân bay trong nguồn sáng thiêng liêng, nhiệm màu
của phước âm thần thánh để được chở che, nâng đỡ cùng những nguyện cầu: “Như
song lộc triều nguyên ơn phước cả - Dâng cao dâng đầy nhạc sáng hơn trăng -
Thơm tho bay cho đến cõi thiên đàng - Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể”
(Thánh nữ đồng trinh Maria - Hàn Mặc Tử). Trong tiếng nhạc ngất ngây, thiên
nhiên và lòng người cùng rung vang những cung đàn đồng vọng: “Những khúc nhạc
vàng bay lả tả - Những niềm run rẩy của đêm yêu” (Lưu luyến - Hàn Mặc Tử). Âm
thanh cuộc sống qua cảm nhận của Hàn trở thành bản hợp xướng kỳ vĩ.
Đặc biệt, trong sáng tác của Trường thơ Loạn, âm nhạc không chỉ đơn thuần
là phương tiện đưa hồn người phiêu diêu, siêu thoát, bảng lảng cõi hư vô trong một
thế giới hư thực xen lẫn cảnh trần gian với cõi thiên tiên, mà còn tạo nên chất men
say mê đắm lòng thi sĩ đang khát khao sự sống: “Đây khúc nhạc mềm như thiếu nữ
- Cả chiều tha thước ở sau cây” (Ý thơ - Quỳnh Dao). Cho nên có một Hàn Mặc Tử
ngây ngất với “nhạc nồng say”, một Chế Lan Viên rung ngân với “điệu nhạc điên
cuồng”, một Bích Khê đắm mình trong “nhạc lâm ly” chưng cất từ mười phương
cho tràn tim, thấu phổi!
Nhạc trong sáng tác của Trường thơ Loạn không phải bao giờ cũng du
dương, êm ả. Những bản đàn cũng có lúc loạn phím, đảo nhịp một cách bất thường.
Thi nhân “Nhấn dây tơ loạn buồn lơi lả” (Mộng - Bích Khê) làm tan rữa cả linh hồn,
thể xác và phá hủy cả tâm năng thi sĩ. Âm nhạc có thể giải thoát muôn vạn hồn đau
nhưng cũng có thể đẩy con người đến tột cùng ranh giới của sự sống - chết.
100
Biểu tượng hương cũng là biểu tượng độc đáo trong thơ Loạn. Thế giới thơ
Loạn tràn ngập sắc hoa, âm vang điệu nhạc và cũng đượm hương thơm. Hương
thơm vốn là một biểu tượng đa nghĩa: “Tính tế nhị không nắm bắt được, nhưng là
có thật của hương thơm làm cho nó gắn liền một cách tượng trưng với sự có mặt
tinh thần với bản chất của linh hồn. Hương thơm còn tượng trưng cho kí ức, cho
ánh sáng và là biểu thị của các đức hạnh” [25,461]. Linh cảm đặc biệt của những
tâm hồn nhạy cảm đã giúp các thi sĩ thơ Loạn tìm thấy muôn ngàn hương thơm của
vạn vật trong thế giới mà họ đang có mặt. Và, trong quá trình tư duy sáng tạo, các
thi nhân đã biến những hương thơm ấy thành đối tượng nghệ thuật trong thơ. Trong
sự đê mê ngây ngất, những hồn thơ Loạn đã xây dựng nên biểu tượng hương gắn
kết, hài hòa với biểu tượng hoa và nhạc nhằm kiến tạo bức tranh toàn vẹn về cuộc
sống phồn sinh.
Trường thơ Loạn đã tìm khắp ba cõi thiên đường, trần gian và địa ngục,
trong cả thế giới tự nhiên và siêu nhiên để chưng cất nên một loại hương đặc biệt có
nồng độ cực mạnh đem đến cảm giác tột cùng đê mê. Hương thơm ấy tượng trưng
cho ánh sáng, thứ ánh sáng thơm tho, tinh khiết có sức mạnh xua đi bóng tối, sưởi
ấm tâm hồn thi sĩ và tạo sự cân bằng cho cuộc sống. Trong thế giới thơ Loạn, hình
ảnh nắng thơm, nhạc thơm, hoa thơm, cỏ thơm, khí trời thơm, nụ cười thơm… đã
trở nên quen thuộc: “Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc; - Như nắng thơm
hớp đặc cả nguồn hương - Là nơi đây đoàn tụ nhạc mười phương - Ứ thành xuân
cho niên hoa bất tuyệt” (Nàng bước tới - Bích Khê). Hàn Mặc Tử trong buổi chiều
cầu nguyện an lành lại thấy: “Gió đổi mới thêm hương cho ánh sáng” (Say thơ -
Hàn Mặc Tử). Những cảm xúc đê mê của thi sĩ càng bừng lên mạnh mẽ khi đón
nhận ánh sáng và hương thơm của nắng vàng rực rỡ: “Mê cuồng say điêu đứng vì
thương - Ôi chao ôi! trong nắng rực mùi hương” (Nắng vàng - Hàn Mặc Tử). Hoàng
Diệp thì mạnh mẽ hơn: “Đốt trăng cho hương nhả khói ra”… Những hương thơm
ấy như ào ra từ hồn phách, từ ý nghĩ và cứ thế tự nhiên tuôn chảy trong nguồn mạch
thơ bất tận trong mỗi thi nhân. Nó cho thấy sự tương giao, tương hợp được nhận
diện bằng lối tư duy bất chợt đầy cảm xúc, khó lý giải nhưng lại gợi lên nhiều ám
ảnh thú vị đối với người đọc.
Nếu hương thơm từ vạn vật được thâu tóm bằng linh cảm đặc biệt của mọi
giác quan thì hương thơm toát ra từ da thịt của con người được các thi nhân cảm
101
nhận bằng những khát khao tinh tế. Đó là thứ hương rất đời, rất người, vừa trần tục
lại vừa thánh thiện. Thi sĩ thơ Loạn thực sự bị hấp dẫn bởi hương thơm của da thịt.
Trong thơ họ, nó tạo ra rất nhiều những liên tưởng bất ngờ. Không phải ngẫu nhiên
Bích Khê ví hương vị của trái măng cụt là “múi mát tợ thịt thơm”. Không bị hấp
dẫn, Bích Khê cũng sẽ không có những câu thơ tuyệt vời thế này: “Có cặp lông mày
phớt ráng đêm - Dậy như men rượu gợi mơ thèm - Có gì uyển chuyển trên da thịt -
Nức một đường thơm một điệu êm” (Châu). Hay: “Gió thiệt đa tình hôn mặt hoa -
Thơm tho da thịt bắt say ngà” (Hiện hình). Bích Khê nhận ra rằng, “hương da thịt
còn thơm hơn chất xạ”, nên khi cảm xúc dâng lên đến tột đỉnh, ông không kìm chế
được và đã thốt lên đầy ngưỡng mộ: “Hoan hô xác thịt chiếm ngôi thần” (Mộng lạ).
Chế Lan Viên, dù đã phiêu dạt đến một tinh cầu lạnh giá phía tận trời xa vẫn khôn
nguôi tiếc nuối vì: “Chưa lõa lồ thịt còn nằm trong da! - Chưa trần truồng óc còn
say trong ý! - Trăng chưa lấp đầy xương, chưa ngấm tủy: - Hồn vẫn còn chưa uống
hết, hương hoa” (Tắm trăng - Chế Lan Viên). Hàn Mặc Tử bị hớp hồn bởi làn
hương vướng sau xiêm áo: “Anh đi thơ thẩn như ngây dại - Hứng lấy hương nồng
trong áo em” (Âm thầm - Hàn Mặc Tử). Con người đa tình đến phong tình ấy còn
như mê đắm vì một bờ môi say đọng hương phấn trinh nguyên: “Say mơ vướng
phải mùi hương ướp - Yêu các môi hường chẳng nói ra” (Âm thầm - Hàn Mặc Tử).
Cô đơn, bệnh tật đi kèm với những ám ảnh về cái chết, nhưng hoàn cảnh ấy dường
như chỉ càng làm giàu có hơn óc tưởng tượng cho trang thơ thi sĩ.
Mỗi biểu tượng hoa, nhạc, hương trong sáng tác của Trường thơ Loạn đều
mang ý nghĩa biểu trưng phong phú. Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của thuyết
tương giao nên các thi sĩ thường xây dựng ba biểu tượng này trong mối quan hệ hô
ứng, hòa trộn vào nhau: “Ta những muốn sầu thương thôi biểu lộ - Sắc trong màu,
màu trong sắc; hân hoan... - Ta những muốn mùa đông nhường lại chỗ.- Nhạc gầy
hương, hương gầy nhạc; lan man... - Ta những muốn màn đen về cõi mộ - Cả không
gian là bể sáng tràn lan... ” (Đồ mi hoa - Bích Khê). Để đến thiên đường tượng
trưng nơi “Baudelaire! Người là vua thi sĩ!”. Bích Khê phải “Lạy tứ hướng và xin
khắp thiên hạ” một cảm quan tương ứng, để thấy “Nắng có nhạc chớp đầy hơi
hương lạ - Nấc âm thanh chết liệm giữa triền miên - Gió mang thư cho mang đến
cung thiềm - Thổi chứ gấm bằng khí điên cuồng vọng” (Ăn mày - Bích Khê). Vẻ
đẹp trong thơ Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử cũng sẽ giảm đi rất nhiều quyến rũ nếu
102
không có sự quyện hòa của “nhạc thơm, hương gấm” (Tựa tập Xuân như ý)... Sự
hòa quyện, xuyên thấm vào nhau của hoa, nhạc, hương trong thơ Loạn vốn không lạ
so với các nhà thơ cổ điển phương Đông, nhất là thơ Đường. Khi mỹ cảm ấy gặp gỡ
các nhà thơ tượng trưng phương Tây, đã làm nên một sắc thái mới trong sáng tác
của các thi sĩ thơ Loạn. Thi nhân ướp hương cho hoa, nâng tất cả trên đôi cánh
nhạc, siêu vượt trên những giới hạn trần tục. Những nhà thơ tượng trưng cho đây là
sự tương ứng cảm giác rất chân thật. Nói như Valéry: “Ở người thi sĩ, tai nói -
miệng nghe; chính là trí tuệ và sự tỉnh táo sản sinh và mơ mộng; chính là giấc ngủ
nhìn thấy rõ; chính là hình ảnh và ảo ảnh nhìn ngó; chính là sự khiếm khuyết và sự
trống rỗng sáng tạo”. Nếu như qua âm nhạc Wagner, Baudelaire nhận ra “muôn vật
đều tương tự lẫn nhau”, thì Trường thơ Loạn đã nhận thức cho ta “thế giới là một
tổng thể phức tạp không thể chia cắt”, chỉ có sự hòa điệu ở chiều sâu mà không có
sự tách lìa…
Biểu tượng hoa, nhạc, hương cũng phần nào cho thấy các thi sĩ thơ Loạn dù
điên cuồng đến đâu vẫn không thôi khát vọng niềm yêu sống. Thậm chí, càng bị đẩy
vào bờ vực cái chết thì khát vọng ấy càng trở nên mãnh liệt.
Tiểu kết
Sự tương đồng với mĩ học thơ tượng trưng cộng với tâm thế, động thái và
hoàn cảnh riêng đã quy định kiểu tư duy kì lạ trong việc xây dựng hệ thống hình
tượng và biểu tượng của Trường thơ Loạn. Các nhà thơ đã đem đến thi giới cái tôi
khát khao tìm hiểu, khám phá và phát hiện ở chiều sâu. Từ giới hạn của ước mơ và
hiện thực, Trường thơ Loạn đã gắn kết thi nhân và tín đồ, trần thế với siêu nhiên để
làm nên sự tích hợp và đối cực của một trường mê cảm. Cái tôi trữ tình ấy gắn bó
hữu cơ với hình tượng không gian và thời gian tương ứng. Không gian nghệ thuật
và thời gian nghệ thuật trong thơ Loạn được kiến tạo độc đáo, có nhiều kiểu, nhiều
miền, thể hiện sự phân thân chia cắt trạng thái tinh thần đặc biệt của thi nhân. Cùng
với thế giới hình tượng, Trường thơ Loạn còn sử dụng biểu tượng như ẩn dụ của ý
tưởng, tạo nên một ám ảnh day dứt, khôn nguôi. Đó chính là tình yêu và cuộc sống
được các nhà thơ khúc xạ và biến ảo trong thi ca, thoát khỏi sự cạn hẹp của lý trí,
đạt đến đỉnh điểm của mĩ học nhờ thăng hoa trong cảm nhận vũ trụ và con người.
103
CHƯƠNG 4
NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG TRONG SÁNG TÁC CỦA
TRƯỜNG THƠ LOẠN - NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN
4.1. Ngôn từ nghệ thuật
4.1.1. Sự lạ hóa về ngôn từ
Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy, là chất liệu duy nhất của văn học.
Nó không chỉ là vật liệu, là cái cấu tạo, mà còn là hình tượng. Maiakovsky và
Kvaranalx cho rằng: “ngôn ngữ là tướng của đạo quân sức mạnh của con người”,
“từ ngữ là hiệp sĩ của đạo quân không thể thay thế được”.
Ngôn ngữ trong tác phẩm trữ tình nói chung và thơ nói riêng “là ngôn ngữ
được tổ chức trên cơ sở nhịp điệu, hết sức cô đọng, hàm súc và đặc biệt gợi cảm”
[37,215]. Theo Martin Heidegger, “Tác phẩm thơ không phải là một cái gì khác
ngoài sự tạo ra một ngôn ngữ mới” [10,233]. Chúng ta có thể coi thơ như sự kết tinh
trong cách biểu đạt tư tưởng bằng ngôn từ. Những cảm xúc, tâm tình, thế giới tâm
hồn nhà thơ đều thể hiện thông qua ngôn từ. “Mỗi nhà thơ khi lựa chọn ngôn ngữ
thể hiện cho tư tưởng, tình cảm, ấn tượng, cảm xúc đều in rõ dấu ấn phong cách lên
khoảng ngôn ngữ mà anh ta lựa chọn” (Khrapchenco). Nói như Lê Đạt: “Mỗi công
dân có một dạng vân tay - Mỗi nhà thơ có một dạng vân chữ - Trộn không lẫn”. Có
thể nói, sự lựa chọn ngôn ngữ của thi sĩ được định hướng bởi tư tưởng, quan niệm,
tư duy nghệ thuật, phong cách, cá tính riêng. Đặc biệt, trong Thơ mới, ngôn ngữ
được thể hiện lạ lẫm và đầy ấn tượng. “Thơ mới là sự sáng tạo ngôn từ về nhiều
mặt; nó mở rộng câu thơ, bài thơ; nó đi vào chiều sâu của thơ bằng cấu trúc mới, cú
pháp mới, từ ngữ mới, nhịp điệu mới” (Đỗ Đức Hiểu). Chính sự tác động mạnh mẽ
của thơ lãng mạn, tượng trưng và siêu thực Pháp đã ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
“Tây hóa” trong phong trào Thơ mới. Sự đổi mới ngôn từ này không đơn thuần là
sự đổi mới về hình thức mà nó xuất phát từ những biến đổi trong cách nhìn nhận,
nhận thức cuộc sống của các nhà thơ. Trong sự đa dạng và cách tân của Thơ mới,
ngôn ngữ nghệ thuật của Trường thơ Loạn có sự lạ hóa và khu biệt nhất định.
Ngôn ngữ thơ Loạn đã duy tân một cách mới mẻ, đa dạng, biến hóa pha chút
thần linh, man dại, là thần, là mộng, là thiên tài… Ở đó, tín hiệu ngôn ngữ có tính
biểu đạt cao, gây cảm giác mạnh, khiến người đọc rơi vào một thế giới mặc khải với
104
những liên kết kỳ lạ, đột ngột. Đọc thi phẩm thơ Loạn, người ta có thể nhận thấy sự
khắc khoải, điên loạn trong lòng thi nhân, tìm được những hình ảnh ma quái mà thơ
Việt trước đây chưa từng có: não trắng, máu cân, sọ người, xương khô, thịt nát,
uống máu lan, nhai thịt sống… Những câu thơ kinh dị nhất của Thơ mới thuộc về
các tác giả thơ Loạn.
Ngôn ngữ trong thơ Loạn là “cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản” (Phan
Ngọc), là “Lời truyền đánh điện muôn nơi - Chữ bí mật chứa ngầm hơi chất nổ”
(Nàng bước tới... - Bích Khê). Để thực hiện “trò chơi ngôn ngữ”, Trường thơ Loạn
phải dùng tưởng tượng của tưởng tượng làm nảy sinh những gì đặc biệt về hình ảnh
và ý thơ: “Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng - Cho bay lên hí hửng với ngàn khơi - Ở
trên kia có một người - Ngồi bên sông giặt lụa chơi - Nước hóa thành trăng, trăng
hóa nước - Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm” (Say trăng - Hàn Mặc Tử). Bích Khê
hướng người đọc đến một sự cảm nhận mới mẻ bằng thứ ngôn ngữ đầy ám gợi:
“Nàng ở mô! Xiêm áo bỏ đâu đây - Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm” (Tranh
lõa thể - Bích Khê). Và đây là những câu thơ làm quay cuồng, điên đảo cả cô hồn,
tử khí, xương khô bằng sự lệch chuẩn và phá vỡ cái logic ngôn ngữ thông thường
của Chế Lan Viên: “Ta muốn thấy mi kêu gào, mi than thở - Ta muốn nghe mi khóc
lóc, mi vang lơn! - Ta muốn trông, từ mắt mi, máu đỏ - Từ đầu mi, não trắng, rủ
nhau tuôn!” (Xương khô - Chế Lan Viên). Sự tàn vong đến rợn lạnh, tang thương
này cũng xuất hiện nhiều trong thơ Hoàng Diệp: “Những thi thể rớt rơi trên mộ lá -
Những linh hồn rét mướt đẫm mình sương” (Dấu quê hương - Hoàng Diệp). Các thi
nhân tạo ra hệ thống ngôn ngữ vừa độc đáo vừa dị thường, dung chứa sự mơ hồ và
quyến rũ, làm ảo hóa cấu trúc bề mặt và bề sâu, đem đến cho ngôn ngữ thơ một sức
nặng mới.
Trong Nghệ thuật thi ca, Verlaine khẳng định: “Không gì hơn khúc ca màu
xám - Nơi cái mơ hồ cùng cái chính xác - Chung sức liên kết - Ôi sai biệt vi diệu,
chỉ mình nó se duyên - Mộng với mơ và sáo với kèn” (Nghệ thuật thi ca - Verlaine).
Để đưa người đọc đi vào khu rừng kỳ lạ của trí tưởng tượng bay bổng, các thi sĩ thơ
Loạn thường dùng hệ thống biểu tượng như: hồn, máu, trăng, ngọc, châu, giai
nhân… làm hằng số nghệ thuật đặc trưng, đặt chúng trong sự biến hóa khôn lường,
nhưng luôn cùng một tâm thức, một đồng hình và phục sinh cho chúng, để tạo sinh
105
nghĩa: “Hồn là ai? Là ai tôi chẳng biết - Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi - Môi
đầy hương tôi không dám ngậm cười - Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng (Hồn là
ai? - Hàn Mặc Tử). Hoặc nhà thơ tạo sự lung linh kỳ lạ bằng cách nhấn mạnh
những hình ảnh thị giác, thính giác và xúc giác, kết hợp với ý nghĩa ám thị: “Nhạc
khiêu vũ đâu đây lan sóng múa - Tôi tưởng chừng da thịt biến ra thơm - Những đầu
lâu đã hết khí xanh rờn - Những xiêm áo bay rờn trong cảnh mộng - Cả địa ngục đi
vào trăm lỗ hổng - Bắn tinh ra trộn trạo giữa nguồn hương” (Châu III - Bích Khê).
Thi sĩ thơ Loạn dường như không phải người sáng tạo thi ca nữa, mà là người để thể
xác của mình giao hòa với cõi hư ảnh, và ghi lại những cảm xúc day dứt về nỗi đau
khôn nguôi. Ngay cả điều tưởng như bình thường nhất cũng được Quỳnh Dao viết
lên bằng ngôn từ lạ lẫm: “Ngày mai dậy, hàng nghìn tia nắng dịu - Lướt ngang đồi
để liếm những hơi sương” (Muôn năm về trước - Quỳnh Dao). Thơ Yến Lan trước
cách mạng dù hiền hòa, nhè nhẹ, nhưng ngôn từ vẫn điêu luyện và tài hoa: “Sầu tam
giác buồn cô về lặng nghỉ - Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi” (Xa xanh - Yến
Lan); hay “Trống xa Mái ngẩn ngơ thơ đá chạm - Chiều bồ câu cánh ủ khắp viên
trang” (Thanh Hóa 1942 - Yến Lan). “Sầu tam giác”, “thơ đá chạm”... là những
khóm chữ tân kỳ giàu hình tượng, được chạm khắc từ sự am hiểu thơ Đường và thơ
Pháp cộng với chất thơ cổ điển của dân tộc hàng bao thế kỷ.
Đề cao trí tưởng tượng nhằm tạo ra những vần thơ lung linh, kỳ ảo, nên đối
với các thi sĩ thơ Loạn, thơ nhiều khi như là một sự thách đố. Đây cũng là một trong
những đặc tính của thơ tượng trưng. Baudelaire cho rằng: “Trí tưởng tượng là bà
chúa của các năng khiếu. Nó là sự phân tích, là sự tổng hợp… Chính trí tưởng
tượng đã dạy cho con người cái ý nghĩa tinh thần màu sắc, đường nét của âm thanh
và của mùi hương. Từ khởi thủy nó đã tạo ra phép loại suy (analogie), phép ẩn
dụ…” [60,46]. Chủ nghĩa tượng trưng thiên về lối thơ bí ẩn, gợi hơn tả, xem trọng
trực giác và vô thức trong sáng tạo. Mallarmé từng nhận định rất sâu sắc: “Gọi tên
đối tượng có nghĩa là phá hủy ba phần tư sự hưởng thụ bài thơ… Khiêu gợi, đó là
ước mơ và mục đích” [28,83]. Thơ vì vậy, nhiều trường nghĩa, giàu liên tưởng,
“ngôn tận ý nhi bất tận”. Liên tưởng vẫn được sử dụng trong văn học xưa nay, và
phổ biến trong Thơ mới. Đến thơ Loạn, nó trở nên linh hoạt, lạ lẫm, bất ngờ hơn.
Thi nhân luôn mở rộng giác quan để hứng lấy vạn vật và trao cho nó một hình hài
106
cụ thể để thế giới tinh thần và vạn vật trở nên có tâm trạng. Chẳng hạn, các nhà thơ
đã miêu tả thiên nhiên bằng những hình dung từ mới mẻ: “gió say mướt”, “ôm
ngang lấy gió”, “gió trêu tà áo biếc” (Hàn Mặc Tử). Chế Lan Viên biến dải ngân hà
thành sông, ở đó mỗi vì sao như con cá thủy tinh trong suốt: “Ta để xiêm lên mây,
rồi nhẹ bước - Xuống dòng Ngân lòa chói ánh hào quang - Sao tán loạn đua bơi trên
mặt nước - Tiếng lao xao dội thấu đến cung Hằng” (Ngủ trong sao - Chế Lan Viên).
Bích Khê khi diễn tả cái bí ẩn, vô hình, thường sử dụng ngôn ngữ chỉ màu sắc, gợi
hình ảnh thị giác như: “mộng trắng phau” (Mộng trắng phau phau, vót cung nga),
mộng xanh (Mộng rất xanh, rất xanh, rất xanh)… Nhà thơ có khả năng cảm nhận
được những biến đổi tinh vi của những cái tưởng như mơ hồ, khó nắm bắt. Đó có
thể là tiếng “hương vỡ”: “Phăng mạch đêm, hương vỡ, ứa ngầm tinh” (Mộng cầm
ca), “mắt vỡ”: “hồn ơi! Cặp mắt vỡ men hoa” (Châu I), hay một “mộng nghiêng”:
“Đêm nay nửa gối nghiêng nghiêng mộng” (Hồ Xuân Hương), một làn nắng thơm:
“Ôi nắng vàng thơm rung rinh điệu ngọc” (Nhạc), một bóng “đêm mềm”: “Nàng ơi
tay đêm đang giăng mềm” (Tỳ bà).
Thế giới trong thơ Loạn không phải là thế giới được nhìn thấy mà là thế giới
được nhận ra với những điều sâu thẳm và bí ẩn. Không còn sử dụng phương thức
kể, thi nhân đã khải thị một thế giới chưa từng biết, đầy huyền diệu và linh động
thông qua quyền năng ngôn ngữ. Diễn đạt thế giới thi ca ấy là bất khả đối với ngôn
từ của trí năng và là cơ hội cho ngôn từ của sự liên tưởng đầy trực giác và thần cảm:
“Có người buồn quá không sao khóc - Làm mùi thanh khí quyện tiên nương - Có
người buồn quá không sao khóc - Cười thơm như ngọc dội hương vang - Đây chàng
lãng tử buồn rơi lệ - Miệng cứng hào quang chảy tợ vàng” (Sầu lãng tử - Bích Khê).
Hàn Mặc Tử ngửi thấy mùi hương trăng tỏa khắp không gian: “Anh đã đón tình em
bay phất phới - Như hương trăng đằm thắm cõi không gian” (Sáng láng - Hàn Mặc
Tử). Đâu đây, người đọc liên tưởng đến hình ảnh người con gái dịu dàng, nết na nép
bên bậu cửa dưới ánh trăng huyền hoặc. Nhìn trăng bằng sự phân thân giữa bến bờ
hư - thực, Hàn còn thấy được cái hư ảo, cầm được cái vô lượng và nghe được sự
yên lặng vô hình của sắc - không, chung - thủy. Chế Lan Viên nhìn thấy sự tương
giao huyền bí trong vũ trụ và lòng người, tuân theo quy luật cảm nhận bằng trực
giác và vô thức: “Hãy lắng nghe nhạc tơ mềm dãy dụa - Trong nhạc trăng vang nỗi
khắp cung mây” (Vo lụa - Chế Lan Viên)…
107
Sự phong phú, đa dạng của đơn vị hình ảnh và ngôn từ trong sáng tác
Trường thơ Loạn có điểm xuất phát từ ảnh hưởng của thơ tượng trưng, nhất là
Baudelaire và Rimbaud. “Cảm quan tương ứng” của Baudelaire muốn dẫn ta đến
chỗ thẳm sâu của tâm hồn, nơi hội tụ của cảm giác, trong cái mơ hồ của tiếng nhạc
lòng, được tạo nên từ màu sắc, âm thanh, bóng tối và ánh sáng. Đến Rimbaud, nâng
lên thành loạn cảm giác, thành ảo giác ngôn từ, ảo giác hình tượng và ảo giác tâm
linh: “Tôi tự hào đã sáng tạo một ngôn từ thơ, có thể xâm nhập tất cả các cảm giác”
(Rimbaud). Lối diễn đạt đầy sáng tạo ấy, các thi sĩ thơ Loạn ập vào người đọc cảm
giác ngỡ ngàng, thú vị. Những liên tưởng đầy ngạc nhiên và táo bạo trong thơ họ
tựa như Baudelaire đã nói: “Trong một số trạng thái tâm hồn hầu như có tính chất
siêu nhiên, chiều sâu của cuộc sống bộc lộ hầu như toàn vẹn trong một cảnh tượng
bày ra trước mắt con người” [29,155]. Sáng tạo ngôn từ trong những trường hợp
này không phải là tạo ra từ mới, mà cơ bản là làm mới ngôn từ, nhằm đưa lại cho từ
một khả năng đặc biệt, qua đó góp phần làm hé lộ thế giới tinh thần bên trong của
bản thân sự vật. Chừng như, Trường thơ Loạn đang lấn sân vào nghệ thuật sắp đặt
bằng ngôn từ. Nên dù thi nhân có đặt những hiện tượng, tính chất của sự vật, sự
việc không hề dính dáng, tương tác nhau nhưng vẫn tạo ra một hiệu ứng thẩm mĩ
thông qua mắt xích liên tưởng. Ví như những câu thơ sau của Bích Khê, ta thấy như
không có sự sắp đặt của ý nghĩ và câu chữ, thơ là tự nó bật lên từ tâm thức: “Xác là
mộng mà tình là tuyệt đích! - Hỡi không gian! Hãy tan ra tiếng địch - Của lòng yêu
ca ngợi tuyệt vời cao - Hỡi trần gian! Hãy chết ngột trong sao - Cho chân lý ngời ra
như lưỡi kiếm - Cho tình ta xô dồn sang cực điểm - Và hào quang khiêu vũ với hào
quang…” (Nàng bước tới… - Bích Khê). Ý tứ giữa các câu thơ có cảm giác chẳng
ăn nhập gì với nhau, mỗi câu là một bày tỏ, một khát mong của thi nhân. Song, sự
kết hợp tự nhiên của chúng lại tạo nên tiếng nói chung của một tư duy nghệ thuật
hiện đại, tung hứng tới tận cùng những khám phá biểu đạt ngôn từ. Nó mở ra bất
ngờ và kết thúc cũng thật bất ngờ, khiến người đọc khó đoán định được ý tưởng của
người viết.
Thiên về lối diễn đạt những tương quan vô hình, bên trong, mang tính tinh
thần của bản thân sự vật, gắn với cảm quan về một thế giới thống nhất, Trường thơ
108
Loạn cho thấy đã tiếp thu nhanh chóng tư duy tượng trưng phương Tây từ các bậc
tiền bối như Baudelaire, Rimbaud, Verlaine…, khai phá địa hạt thần kỳ cho thơ,
góp phần chinh phục người đọc bao thế hệ.
Bằng cô đơn và nỗi đau thân xác, bằng trí tưởng tượng phong phú, bằng ngòi
bút kỳ tài, các thi sĩ đã làm sống dậy trong thơ một thế giới huyền diệu, khéo léo kết
hợp giữa ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ tâm linh và ngôn ngữ thi ca để tạo ra lớp
ngôn từ mới lạ. Diện mạo ngôn ngữ thơ Loạn này là kết quả của quá trình nhận thức
lý thuyết thi pháp học phương Tây, từ trải nghiệm cá nhân trong sáng tạo, cũng như
những bất hạnh riêng về thân phận của các nhà thơ. Nó là sản phẩm của một sự
khủng hoảng, một khát khao và một nỗ lực duy tân thơ.
Thơ Loạn là trạng thái chót cùng của cái tôi cá nhân đau thương, tuyệt vọng,
là một thứ thơ siêu nghiệm. Và trong thi phẩm thơ siêu nghiệm ấy, có những mảng
thơ Loạn đi đến độ quá ngưỡng về ngôn từ, gây nên sự khó chịu đối với không ít
người. Nhưng phải thừa nhận, sự táo bạo ngôn từ thơ Loạn đã đưa thơ Việt đương
thời phát triển lên một trình độ mới. Chính sự bất thường trong tổ chức ngôn ngữ
thơ đã đặt giới nghiên cứu văn học lâu nay hướng sự chú ý vào việc giải mã những
lệch chuẩn mang giá trị mỹ học của địa hạt thơ độc đáo này. Và đến tận hôm nay,
mỗi dòng mỗi chữ trong sáng tác của các thi sĩ ấy dường như vẫn còn cựa quậy với
một sức sống mãnh liệt và không bao giờ cũ.
4.1.2. Các thủ pháp tạo nghĩa
Thế giới thơ Loạn tràn đầy những hình ảnh thực và ảo, tràn đầy suy tưởng,
đủ màu sắc, tạo nên trong thơ nhiều phức cảm, phức điệu kỳ diệu. Những vần thơ
này đã gây chấn động mạnh mẽ về giá trị đạo đức, thẩm mĩ - xã hội trong lòng độc
giả. Sáng tạo những vần thơ như vậy, các thi nhân thơ Loạn vận dụng nhiều phương
thức tư duy nghệ thuật: tưởng tượng, suy tưởng, ấn tượng, trực giác…, và xử lý đề
tài bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, đặc biệt là các biện pháp: so sánh, ẩn dụ, nhân
hóa. “Biện pháp nghệ thuật với tư cách là một nguyên tắc cấu trúc trong việc tổ
chức phát ngôn nghệ thuật, đã giúp độc giả thấy: độ sâu triết học và cảm xúc thẩm
mĩ” [46,42].
Phổ biến nhất trong thơ Loạn là thủ pháp so sánh. Đây là biện pháp tu từ tốt
nhất để biểu hiện ý đồ nghệ thuật một cách rõ ràng trong việc xây dựng hình ảnh đa
109
chiều, tạo một trường liên tưởng rộng, sâu. Những so sánh trong thơ Loạn có tính
chất khác thường, tuy câu chữ đan kết nhưng tương ứng, không còn hiểu đơn giản là
giống nhau mà phải hiểu là sự xích lại gần nhau, hòa lẫn vào nhau của những cái
vốn rất khác xa nhau, và chỉ có thể cảm nhận bằng trực giác, biểu đạt cho thế giới
tâm linh, mầu nhiệm: “Đây cặp mắt hiền chan chứa mộng - Đây làn da mát dịu như
trăng” (Gái thời loạn - Quỳnh Dao); “Quả tim ta là một khối U buồn - Mạch máu ta
là một khối Đau thương - Mà quả đất là khối sầu vô hạn” (Đừng quên lãng - Chế
Lan Viên), “Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc - Như nắng thơm hớp đặc cả
nguồn hương” (Nàng bước tới - Bích Khê); “A ha! Ta vốn người trong mộng - Hư
thực như là một ý thơ” (Người ngọc - Hàn Mặc Tử). So sánh trong thơ Loạn gợi
trường liên tưởng rộng, thể hiện tính chủ quan cao độ, dẫn nhập vào chốn thâm
cung của tâm linh. Cấu trúc ngữ nghĩa của biện pháp tu từ so sánh này phá vỡ cách
thức truyền thống, gợi nên một quan hệ mới, huyền bí, lay động cảm giác, cảm xúc
lý tính và phi lý tính ở người thưởng thức. Ngôn ngữ có sự chuyển đổi từ phương
tiện biểu hiện nghĩa đã trở thành cứu cánh của nhà thơ, có giá trị tự thân. Bằng trí
tưởng tượng phi thường, thi nhân để cho ngôn từ lên tiếng: “Lầu ai ánh gì như lưu
ly? - Nụ cười ai trắng như hoa lê? - Thủy tinh ai để lòng gương hồ - Không gian xà
cừ hay san hô?” (Nghê Thường - Bích Khê); “Hãy nâng lên và nâng lên chút nữa -
Sáng thơm tho như khúc nhạc hừng đông” (Vầng trăng - Hàn Mặc Tử). Trường thơ
Loạn đã đưa thủ pháp nghệ thuật so sánh vào thơ với tần số khá cao. Các kiểu cấu
trúc so sánh thường gặp trong thơ Loạn: A như B “Hãy cho ta lúc vui trên tay khác -
Một chút tương an ủi tấm lòng đau - Như hồn ma trong khi về mồ khác - Còn đôi
hồi dừng cánh viếng mồ sâu” (Mồ không - Chế Lan Viên); A là B: “Nàng! Nàng!
Nàng! Không có nữa châu than - Xác là mộng mà hồn là tuyệt đích” (Nàng bước tới
- Bích Khê), A hơn B: “Đức tin thơm hơn ngọc - Thơ bay rồi thơ bay” (Điềm lạ -
Hàn Mặc Tử)… Có khi trong một đoạn thơ, thi nhân sử dụng cùng lúc nhiều từ ngữ
so sánh: “Ôi cặp mắt của người trong tựa ngọc - Sáng như gương và chấp chóa kim
cương - Mỗi cái ngó là một vì sao mộc - Mỗi lời yêu là phảng phất mùi hương (Cặp
mắt - Bích Khê). Vế được so sánh đôi lúc được nhà thơ đảo ngược để cú pháp so
sánh trở thành: “Trăng dẫu sáng còn thua đôi mắt ngọc - Trời tuy xa lòng thiếu nữ
xa hơn - Ái ân là hơi thở của van lơn - Và thú thật cũng không thích bằng khóc”
110
(Dấu tích - Hàn Mặc Tử). Sự biến hóa trong cùng một biện pháp so sánh cũng là
điểm mạnh, tạo cho nội dung, ý tưởng của Trường thơ Loạn đa dạng và đạt hiệu quả
cao. Nói như A. France: “Hình tượng là gì? Chính là sự so sánh”. Đinh Trọng Lạc
cho rằng: “Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ của sự liên hội và so sánh nghệ thuật,
là đôi cánh giúp ta bay vào thế giới của cái đẹp, của tưởng tượng hơn là đến với
ngưỡng cửa của logic học” [44,193]. Một so sánh đẹp là so sánh phát hiện. Trong
thơ Loạn, đối tượng được đem ra so sánh và dùng để so sánh thường rất hư ảo. Điều
đó khiến câu thơ vốn mơ hồ càng mơ hồ, tác động vào giác quan người đọc, tạo cõi
thơ huyền bí. Kiểu so sánh này đã phá vỡ lối so sánh của thơ truyền thống, tạo nên
sự biến hóa trong ngôn ngữ thơ; câu thơ vì thế linh động, hòa nhịp cùng cảm giác,
trở nên ma thuật, huyền ảo. Không thể phủ nhận, lối so sánh vốn phổ biến trong thi
ca dân gian và bác học nước ta từ bao đời. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó,
cũng có thể thấy, thủ pháp so sánh này của Trường thơ Loạn chịu ảnh hưởng không
nhỏ thơ tượng trưng phương Tây. So sánh là phương thức tư duy chủ yếu của thơ
tượng trưng. Thơ Baudelaire được xem là “cỗ máy so sánh thực sự”. Đã có nhà
nghiên cứu thống kê, thi sĩ dùng đến 349 lần từ comme (như) và vài chục lần những
từ so sánh khác trong tập Những bông hoa ác. Khảo sát thi phẩm của các nhà thơ
Loạn, chúng tôi nhận thấy, so sánh được Hàn Mặc Tử sử dụng 6 lần trong Gái quê,
43 lần/ 42 bài trong Đau thương; Bích Khê có 40 lần/ 34 bài trong Tinh huyết, 18
lần/ 42 bài trong Tinh hoa; Chế Lan Viên có 18 lần/36 bài trong Điêu tàn. Dường
như, ở những tập thơ thể hiện đậm thi pháp tượng trưng lại là những tập thơ được
dùng nhiều biện pháp so sánh.
Nghệ thuật ẩn dụ cũng được các thi sĩ thơ Loạn sử dụng tương đối nhiều. Ẩn
dụ là một trong những hiện tượng chuyển nghĩa được sử dụng phổ biến trong ngôn
ngữ văn chương. “Khi nhà thơ nhận được một ấn tượng sâu sắc thì sự nhận biết đơn
thuần các sự kiện tinh nguyên đó chưa đủ. Anh ta không bằng lòng mô tả đối tượng
một cách khoa học cho nó một đường viền chính xác, nhưng anh ta cần tới sự ẩn dụ.
Anh ta tóm lấy sự vật và chiếu rọi nó trong một thế giới khác với thế giới anh ta
đang sống. Anh ta thay cho đối tượng - nguyên nhân sự cảm xúc của anh ta bằng
một vật khác tốt đẹp hơn, có khả năng làm cho chúng ta lóa mắt” [58,409]. Nghệ
thuật ẩn dụ giúp thần kỳ hóa ngọn bút, gọi dậy cái vô thanh vô hình trong con chữ
111
hữu hình, chứa đựng thế giới thơ mênh mang nghĩa và giàu gợi cảm, vượt thoát
khỏi sự tầm thường và trở nên mới lạ. Các nhà thơ Loạn luôn đề cao sức ám gợi
theo tinh thần thơ Đường và thơ tượng trưng. Trong thơ, các thi sĩ luôn cố gắng đưa
ra hệ thống ngôn ngữ kỳ lạ, để tạo ra những ngầm ý. Giống các nhà thơ tượng trưng
phương Tây, các thi sĩ thơ Loạn thường hay dùng hình ảnh để mã hóa những điều
thầm kín trong lòng mình. Phong phú và sinh động nhất trong thơ Loạn là những ẩn
dụ thể hiện liên tưởng của thi nhân trong việc tạo hình ảnh, hình tượng và biểu
tượng, nhất là các biểu tượng trăng, hồn, máu…, vì đã phát huy tối đa tính tượng
trưng của nó trong việc biểu đạt. Sử dụng phương thức ẩn dụ, Trường thơ Loạn luôn
đặt ngôn từ, hình ảnh, hình tượng trong thế cai trị.
Chế Lan Viên mơ về “một tinh cầu giá lạnh”, “một vì sao trơ trọi” để ẩn dụ
về một hành tinh khác không còn “ưu phiền đau khổ với buồn lo” (Những sợi tơ
lòng - Chế Lan Viên). Hết mơ về cõi mộng, nhà thơ lại lạc đến cõi ma với những
âm hồn. Trong hành trình đi vào âm giới, ta bắt gặp ở thơ Chế Lan Viên rất nhiều
những điều kỳ dị: máu huyết, xương khô, thép lạnh, sọ người… Với Chế, tình yêu
và cõi chết vẫn có thể hòa quyện với nhau. Bình Định với vòm trời xanh thẳm trên
những tháp Chàm cô đơn đã dựng lại cõi hư vô ớn lạnh không ngừng ám ảnh Chế:
“Trên trời lạnh tháp Chàm sao ủ rũ - Hay hận xưa muôn thuở vẫn chưa nguôi? -
Hay lãnh đạm, Hời không về tháp cũ - Hay xuân sang, Chiêm nữ vẫn vui cười”
(Đêm xuân sầu - Chế Lan Viên). “Bãi tha ma” trong thơ Chế là ẩn dụ tập trung nhất
của thế giới “điêu tàn”, là hình tượng tổng hợp của chết chóc, đổ vỡ và tang thương.
Hóa ra, cái thế giới địa ngục ghê sợ ấy lại là nơi đồng cảm với thi sĩ, nơi thi nhân
cho là tốt hơn cõi hận - trần gian: “Hồn ma ơi! Hồn ma ơi! Có nhớ - Nơi mi hằng
chôn gửi hận trần gian - Nơi đã khô của bao mi máu đỏ - Bao tủy nồng não trắng
với xương tàn” (Mồ không - Chế Lan Viên). Tháp Chàm, ma Hời, Chiêm nữ là ẩn
dụ biểu trưng của Chế Lan Viên, là ám ảnh khắc khoải của hồn thơ u uất: “Trên đồi
lạnh tháp Chàm sao ủ rủ - Hay hận xưa muôn thuở vẫn chưa nguôi? - Hay lãnh đạm
Hời không về tháp cũ - Hay xuân sang Chiêm nữ chẳng vui cười” (Đêm xuân sầu -
Chế Lan Viên). Từ sâu thẳm cõi lòng, chưa một phút nào Chế lãng quên quá khứ.
Chiêm nữ là sự hóa thân tâm hồn thi nhân. Đôi mắt u buồn của nàng cũng chính là
ánh nhìn buồn thảm của thi nhân đang vọng về xa vắng. Đằng sau những Tháp
Chàm, ma Hời, cung nữ là ẩn dụ về sự xót xa, cô độc đến không thôi ám ảnh…
112
Tinh hoa và Tinh huyết của Bích Khê là sự hiện thực hóa khả năng tạo sinh
nghĩa của ngôn ngữ. Ở đó, thi nhân sử dụng nghệ thuật ẩn dụ một cách tài tình,
không giống các nhà thơ khác. Những hình ảnh thơ như: “Lệ tích lại sắp tuôn hàng
đũa ngọc” (Tranh lõa thể), hay: “Hỡi đôi mắt, châu báu của muôn đời” (Đôi
mắt)…, ta thấy, Bích Khê biến tất cả những gì thuộc thể lỏng thành vật rắn. Nước
mắt được ví như ngọc, dòng châu, pha lê; ngược lại lỏng hóa tất cả những gì vốn ở
dạng rắn. Sử dụng thủ pháp nghệ thuật này, Bích Khê chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa
tượng trưng khá rõ. Điều đó hình thành những liên tưởng tương ứng giữa các giác
quan, biểu đạt bằng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Cảm giác được nối kết, chuyển hóa
lẫn nhau tạo nên mạch liên tưởng vô cùng sinh động, làm nổi bật cảm nhận của thi
nhân về đối tượng.
Ở thơ Hàn Mặc Tử, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác này cũng xuất hiện nhiều, có
điều nó được biểu đạt ở sự bổ sung, hòa lẫn: “Ngoài không gian rất mát - Chim
thanh tước ra đời - Nêu cao hơn tiếng nhạc - Mùa hát sẽ xanh tươi” (Điềm lạ - Hàn
Mặc Tử). Sự quấn quýt của xúc giác, thính giác và thị giác báo hiệu sự xuất hiện
của thế giới mới thanh sạch và hoan ca rộn rã… Không chỉ ẩn dụ ở cấp độ từ ngữ,
thơ Hàn còn là ẩn dụ cấu tạo cú pháp. Dường như bản thân mỗi từ ngữ không thôi
chưa thể bộc lộ hết ý nghĩa tiềm ẩn mà tác giả hướng đến, nên phải tìm nghĩa ẩn dụ
ở câu thơ, khổ thơ: “Gió theo lối gió mây đường mây - Dòng nước buồn thiu hoa
bắp lay - Thuyền ai đậu bến sông trăng đó - Có chở trăng về kịp tối nay?” (Đây thôn
Vỹ Dạ - Hàn Mặc Tử). Các hình ảnh trong thơ như chẳng ăn nhập gì với nhau. Nó
tan tác, dở dang, và chia lìa. Gió đường gió, mây đường mây, nước lặng lẽ theo
dòng khẽ chạm hoa bắp, một con thuyền và một vầng trăng đổ ánh vàng lai láng cả
dòng sông. Cảnh buồn hay tâm trạng nhà thơ nhiều xáo động. Mỗi câu thơ với một
hình ảnh rời rạc ấy liên kết lại với nhau là ẩn dụ về tâm trạng cô đơn đến cô độc của
tâm hồn thi sĩ. Những ẩn dụ này đã tạo nên trường hô ứng trong thơ. Người đọc
cảm nhận sau những ngôn từ một vẻ đẹp tâm hồn. Tính đa nghĩa của hình tượng
nghệ thuật ẩn dụ đã mang đến cho thi phẩm của Trường thơ Loạn giá trị văn
chương và thẩm mĩ rất cao.
Trong sáng tác của Trường thơ Loạn, áp lực hòa đồng tâm trạng thi nhân
vào tâm trạng đối tượng được biểu hiện là rất lớn, vì thế các thi nhân còn sử dụng
biện pháp tu từ nhân hóa như một phương thức hữu dụng đồng nhất sự vật với tính
113
cách con người. Từ góc độ lý luận, “nhân hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong đó,
người ta lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người để biểu thị
thuộc tính, dấu hiệu không phải của con người” [43,63]. Phóng chiếu hình ảnh của
mình để cảm nhận thế giới khách quan, nhưng thực chất là để các thi sĩ tự bộc lộ cái
tôi của mình. Dưới nhãn quan của cái tôi muôn trùng đa cảm, các thi sĩ thơ Loạn
nhìn đâu cũng thấy yêu đương. Với ngòi bút tài tình, từ một loài hoa (Đồ mi hoa),
một loại trái cây (Quả măng cụt) đến một địa danh thắng cảnh (Ngũ hành sơn)…,
đều được Bích Khê nhân hóa bằng cái nhìn nhục cảm. Trong tư duy sáng tạo của thi
nhân, đồ mi hoa là biểu tượng của người đẹp và của thơ: “Đài nộn nhụy hóa nguồn
trinh tinh khiết - Ướp một làn hương rượu quyện lâng lâng - Tràng cánh trắng biến
ra da thịt tuyết - Một tiên nương mừa tựa một giai nhân - Ngửng đôi mắt chứa mùa
xuân phẩm tiết - Giữa bài thơ... đưa vẳng tiếng ngân” (Đồ mi hoa). Quả măng cụt
cũng được nhân hóa thành biểu tượng của vẻ đẹp thân thể: “Múi trăng sao như ngọc
- Múi mát tợ thịt thơm - Môi hoa ai mời mọc - Ngọt lịm đến linh hồn” (Quả măng
cụt). Biện pháp nhân hóa thường được Trường thơ Loạn đặt trong rất nhiều những
đối cực nghịch dị và ảo hóa. Các nhà thơ xếp đặt các từ khác xa về chức năng,
những từ ngữ bất ngờ đặt cạnh nhau tạo nên sự mới mẻ, hấp dẫn. Ngay cả khung
cảnh đồi và trăng vào xuân cũng được Bích Khê “vú hóa”: “Nâng lên núm vú đồi -
Sữa trăng nhi nhỉ ngọt” (Xuân tượng trưng). Từ đó mùa xuân chảy vào thơ Bích
Khê thành “xuân tượng trưng”. Hàn Mặc Tử cũng có lần nhân hóa đồi và trăng:
“Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ - Đầy mình lốm đốm những hào quang” (Ngủ
với trăng - Hàn Mặc Tử). Những hình ảnh nhân hóa được thi sĩ sử dụng rất tài hoa:
“Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt - Khép phòng đốt nến, nến rơi châu” (Lều tranh
đêm đông - Hàn Mặc Tử). Trăng cũng chính là người nên “trăng tái mặt”, nến cũng
chính là người nên “nến rơi châu”. Trăng và nến có thể là hiện thân của mô-típ một
người một bóng, đối diện với chính mình. Trăng có thể vừa là người yêu, vừa là
mình. Con người “trăng tái mặt” kia có lẽ đang mở cửa nhìn trăng thật. Con người
“nến rơi châu” cũng có thể đang khép phòng đốt nến thật. Phương thức nhân hóa
này vừa thể hiện hướng liên tưởng, vừa thể hiện cảm xúc và tâm trạng của nhà
thơ… Trong Đây thôn Vĩ Dạ, hình ảnh dòng nước đã được nhà thơ nhân hóa trở
thành một sinh thể có tâm trạng nhằm giãi bày tâm tư của chính mình. Bởi dòng
114
sông xứ Huế không thể tự buồn mà chính thi nhân đã thả hồn buồn vào dòng sông
ấy. Đặc biệt, trong thơ Hàn Mặc Tử, trăng bao phủ, xâm chiếm, đồng hóa tất cả.
Trăng biết quỳ, sấp mặt, cúi mình, ngã ngửa, biết ghen, biết rụng… Vượt lên thủ
pháp nhân hóa quen thuộc, những hình ảnh thơ Hàn Mặc Tử được tạo ra từ vô thức
và đời sống tâm lí cuồng loạn. Vì thế, vẫn là thủ pháp nhân hóa, nhưng bản thân thủ
pháp đã chuyển hóa tự nhiên thành vấn đề cái nhìn, cảm quan thế giới và sự thăng
hoa của những ẩn ức từ đời sống vô thức cá nhân… Trong Điêu tàn của Chế Lan
Viên, sự vật được nhân hóa bao giờ cũng mang tính siêu thường, kì ảo: “Ai tưởng
đến tháp Chàm kia trơ trọi - Tháng ngày luôn rộng lớn cửa đợi ma Hời - Ai nhìn
đến làn thương rêu lở lói - Trên thịt hồng nứt nẻ gạch Chàm tươi” (Thu về - Chế
Lan Viên). Trong sáng tạo nghệ thuật, Chế Lan Viên và Bích Khê gặp nhau ở chỗ,
đó là ít dùng biện pháp tu từ nhân hóa trong những phạm vi hình ảnh cụ thể của
những câu thơ đơn lẻ để diễn tả một trạng thái cảm xúc mà sử dụng nó như một thủ
pháp khơi gợi ý tưởng. Các bài Đồ mi hoa của Bích Khê, Vo lụa, Sọ người của Chế
Lan Viên là những minh chứng tiêu biểu… Nhân hóa là phương thức chứng tỏ sức
mạnh của mình trong việc giúp các vật không phải là người “đầu thai” vào kiếp
người trong thi phẩm của Trường thơ Loạn.
4.2. Nhạc tính và họa tính
4.2.1. Nhạc tính
Valéry từng nhận định: “Thơ là sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa”. Đối
với Mallarmé, thơ ca không phải để kể lể, mà là ám thị, muốn ám thị cần phải có
điệu nhạc ma quái. Trường thơ Loạn không nằm ngoài sự kiểm soát của những quan
niệm mang tính chất tuyên ngôn ấy, nên từng câu chữ thoát ra từ tâm khảm các thi
nhân luôn chứa đựng yếu tố nhạc. “Âm nhạc là nửa phần nếu không là phần lớn
nhất trong giá trị của thơ” [60,157]. Đặc biệt, trong thơ tượng trưng, “tinh thần âm
nhạc” được vinh danh hàng đầu. Các thi sĩ tượng trưng đề cao âm nhạc vì họ nhìn
thấy trong âm nhạc sức mạnh “gợi” và khả năng chuyển đổi, tương hỗ cảm giác và
dẫn dắt những cao diệu tuyệt vời của ý thơ. Mỗi bài thơ tượng trưng là một bản giao
hưởng, gợi cái lơ lửng không rõ ràng, cái sắc thái mơ hồ và tinh tế nhất của tâm
trạng bởi thế giới vô hình, trong suốt của âm thanh. “Âm nhạc làm sâu thẳm bầu
trời”, góp phần giúp nhà thơ có linh cảm kỳ diệu về thế giới tâm linh, gợi lên những
115
giấc mơ kỳ lạ. Nói như Baudelaire: “Nhạc luôn mang ta đi như sóng biển! - Đến
ngôi sao mờ của ta - Dưới bầu trời u ám hay trong thinh không xanh - Buồm ta mở
rộng đi xa” (Nhạc - Baudelaire); hay như Paul Verlaine: “Âm nhạc là thiên khải,
trước tất cả mọi thứ” (De la musique avant toutes choses). Nhạc điệu trong thơ
tượng trưng tác động ở mức độ đậm nhạt khác nhau đến sáng tác của Trường thơ
Loạn. Các nhà thơ tập trung khai thác đặc điểm của thanh điệu tiếng Việt ở các mặt
cao - thấp hay bằng - trắc để nhạc thơ được vang lên. Ngoài ra còn một thứ nhạc
nữa, đó là nhịp điệu bên trong của hình ảnh, tình ý, tâm hồn. Đó là nhịp điệu hình
thành của những cảm xúc và những hình ảnh liên tiếp hòa hợp mà những tiếng và
chữ gợi ra những ngân vang, ngay những khoảng lung linh giữa chữ, những khoảng
im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo của những xúc động. Làm nên hồn của nhạc
điệu là sự liên tưởng của tổ chức âm thanh với cảm giác âm nhạc trong lòng người.
Sự liên tưởng này không phải bao giờ cũng cụ thể, trực tiếp, mà lúc nào cũng có
mối liên hệ giữa âm hưởng, nhịp điệu với tâm hồn. Mỗi bài thơ trong sáng tác của
Trường thơ Loạn có thể được xem như bản giao hưởng ru lòng người theo những
nốt trầm bổng, du dương.
Có thể nói, thế giới nghệ thuật của Trường thơ Loạn là thế giới của những
âm điệu. Nhạc điệu trong thơ Loạn trước hết là nhạc điệu tâm hồn của những trạng
thái đặc biệt, u hoài và tha thiết. Tiếng nhạc trong thơ cũng chính là tiếng lòng thi
sĩ, vì với họ, làm thơ cũng chính là “dạo một cung đàn” (Hàn Mặc Tử). Ta bắt gặp ở
thơ Loạn những thanh âm da diết, những trùng điệp ngân rung, những kiểu gieo
vần, ngắt nhịp, những trầm bình thanh… Nhạc tính trong tương hợp giác quan từ
thuyết tượng trưng phương Tây được vận dụng trong thơ Loạn tài tình, lung linh, kỳ
ảo, lưu giữ bền lâu chất thơ trong lòng người. Nhạc hóa hồn thơ, thông qua cách
kiến trúc câu thơ đầy nhạc. Tất cả hòa quyện, chuyển hóa trong nhau để tạo thành
thi giới của âm nhạc, màu sắc, hương thơm và cảm giác u sầu, trước hết của chính
người thơ, sau đó, vươn đến tha nhân để vẫy gọi những tâm hồn đồng điệu.
Thơ Loạn trước hết là tiếng thơ buồn với những âm điệu buồn tạo nên từ sự
kết hợp các thanh bằng như những bè trầm lan tỏa. Bài thơ Bến My Lăng của Yến
Lan có số lượng 59% (105/179 từ của bài thơ) thanh bằng. Những thanh bằng với
116
độ mở khá cao hầu hết ở các chỗ ngắt nhịp thơ tạo một không gian vắng lặng, một
nỗi niềm cô tịch, lãng đãng trong khúc nhạc buổi hoàng hôn: “Trôi quanh thuyền,
những lá vàng quá lạnh - Tơ vương trời nhưng chỉ giãi trăng, trăng - Chiều ngui
ngút dài trôi về nẻo quạnh - Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng” (Bến My Lăng -
Yến Lan). Tập Điêu tàn, Chế Lan Viên cũng ưa sử dụng thanh bằng. Có những câu
thơ của Chế chỉ toàn thanh bằng như một hơi điệu dài, vang xa, triền miên trong
tâm thức, đưa tới miền sâu thẳm mơ hồ, kiểu như: “Ta mơ rồi! Mơ rồi! Ta mơ rồi”
(Mơ trăng - Chế Lan Viên). Những thanh bằng này tạo nên âm thanh du dương, đẹp
và buồn, trầm trầm một giai điệu tiêu huyền cổ kính. Hàn Mặc Tử khai thác tất cả
mọi tiềm năng của thanh điệu để diễn tả tối ưu một cung bậc của tình cảm: “Đàn
cung bậc gió dồn lên âm điệu, - Sững lòng chưa? Say chấp cả thanh bai. - Sang
chơi thôi, sang chơi thôi, mà ai - Thu đây rồi, bước lên cầu Ô Thước - Sao! Vàng
sao rơi đầy nơi sóng nước, - Đừng ngả tay mà hứng máu trời sa” (Đừng cho lòng
bay xa - Hàn Mặc Tử). Câu thơ “Sang chơi thôi, sang chơi thôi mà ai” toàn thanh
bằng như tiếng nhủ thầm trong lòng, như cung trầm của bản tình ca buồn. Những
chuyển giọng bất thường này của Hàn Mặc Tử làm nên bước nhảy đột biến về giai
điệu, gợi sự chơi vơi, bất định. Thi sĩ cố tạo ra những nghịch âm mà không quan
tâm đến luật bằng - trắc, bổng - trầm. Đặc biệt ở Bích Khê, nhà thơ có hẳn những
bài thơ sử dụng thanh bằng độc đáo: Tỳ bà, Hoàng hoa, tạo nên một hơi điệu dài
triền miên trong tâm thức, đưa thơ tới miền mộng ảo mơ hồ. Nếu không phải là phù
thủy ngôn từ, nhà thơ nào sáng tạo theo kiểu này rất dễ rơi vào khiên cưỡng trong
cách diễn đạt. Bích Khê quả rất tài tình khi viết trọn bài thơ bình thanh toàn bích
một cách thăng hoa, nhưng vẫn réo rắt, đồng vọng lòng người: “(…) Nàng ơi! tay
đêm đương giăng mềm - Trăng đan qua cành muôn tơ êm - Mây nhung pha màu thu
trên trời - Sương lam phơi màu thu muôn nơi - Vàng sao nằm yên trên hoa gầy -
Tương tư người xưa thôi qua đây…” (Tỳ bà - Bích Khê). Bài thơ có thể ví như giai
điệu trong một bản nhạc, êm đềm và nồng nàn cảm xúc. Cảm xúc ấy khi chơi vơi
dịu vợi, khi khắc khoải da diết, dội vào lòng người những nỗi niềm vừa gần gũi vừa
xa xôi. Cái độc đáo của Tỳ bà cũng như Hoàng hoa là ở chỗ, ý thức cho nhạc vào
thơ đã hòa điệu với tâm trạng nhà thơ. Nhà thơ đã biến những khoắc khoải gãy khúc
của tâm trạng thành điệu ru êm. Thế nên, dù cả hai bài thơ chỉ sử dụng một thanh
117
điệu, người đọc vẫn không hề có cảm giác đều đều nhàm chán. Sự kết hợp khéo léo
các thanh ngang và thanh huyền có lúc đưa cảm xúc vút lên, có lúc tưởng không có
hình, không có khối mà lan tỏa. Ảnh hưởng từ Bích Khê, Quỳnh Dao cũng có bài
thơ bình thanh đầy mơ màng, mộng mỵ: “Lòng vương theo giây lên khơi... - Lòng
xôn xao theo lời giây đương lơi... - Bờ Ngân Hà mơ như trời mùa thu - Dòng Ngân
Hà trong như hơi mùa thu. - Hằng Nga ơi đêm nay em nên cười, - Vì lòng ta đầy
thơ đương chơi vơi... - Đầu mùa thu lòng ta đương âm u, - Sau mùa thu thơ ta
đương âm u... - Hằng Nga ơi lên thuyền ta ra khơi - Đêm nay đây, trên đầu ta sương
rơi - Tay buông chèo lòng nương theo ru - Đường tơ êm khuya rồi chưa thôi ru... -
Ta hôn, ta hôn, cho buồn ta nguôi, - Trên đôi môi đầy trăng mà chưa thôi! - Lòng
vương theo dây lên khơi... - Lòng xôn xao theo lời giây đương lơi...” (Mộng Quân
Thiều - Quỳnh Dao). Với những bài thơ toàn thanh bằng này, các tác giả đã tạo ra
một máng trượt để người đọc phiêu lưu, dấn thân vào vùng ngôn ngữ của riêng
mình, vào những thanh âm mềm mượt, giai điệu chơi vơi, mê hoặc.
Ngoài việc sử dụng những quyền năng của thanh bằng, Trường thơ Loạn còn
chú trọng đến tiết tấu, nhịp điệu để tạo nhạc tính trong thơ. Nhịp điệu là hình thức
phân bố các thanh điệu chuyển động trong thời gian mà chúng ta cảm nhận được và
gây ở người đọc, người nghe sự cộng hưởng cảm xúc. Có thể thấy, Trường thơ
Loạn dường như đã thử sức mình trên hầu hết các thể loại thơ ca: từ các thể thơ
mang tính chất truyền thống như lục bát, song thất lục bát đến các thể thơ mô phỏng
thơ ca Trung Quốc như ngũ ngôn tứ tuyệt, thất ngôn tứ tuyệt, bát cú, hành... và cả
các thể thơ của phong trào Thơ mới như 5 tiếng, 7 tiếng, 8 tiếng, hợp thể... Nhiều
bài thơ Loạn được tổ chức theo tiết tấu thuận, tức là dạng tiết tấu mà bước đi của
nhịp luôn đều đặn một cách thống nhất với cách ngắt nhịp quen thuộc. Có nhịp 4/3
trang trọng hài hoà trong thơ thất ngôn Đường luật và thơ 7 tiếng: “Ai đâu trở lại/
mùa thu trước - Nhặt lấy cho tôi/ những lá vàng” (Xuân - Chế Lan Viên). Có nhịp
2/3 ở thơ ngũ ngôn: “Trước sân/ anh thơ thẩn - Đăm đăm/ trông nhạn về - Mây
chiều/ còn phiêu bạt - Lang thang/ trên đồi quê” (Tình quê - Hàn Mặc Tử). Có nhịp
3/4 và 2/2/2 ở song thất lục bát: “Mưa hoa rụng/ mưa hoa xuân rụng - Mưa xuống
lầu/ mưa xuống thềm lan - Mưa rơi/ ngoài nẻo/ dặm ngàn - Nước non/ rả rích/ giọng
đàn/ mưa xuân” (Tiếng đàn mưa - Bích Khê)…
118
Tuy nhiên, tính chất phong phú và đa dạng về nhịp điệu trong thơ Loạn
không chỉ là kết quả khách quan do yêu cầu của thể loại, bởi như thế dù có đa dạng
đến mấy vẫn là những tiết tấu quen thuộc không khỏi khiến ta cảm thấy tẻ nhạt và
đơn điệu. Trên cái nền nhịp điệu cơ bản ấy, Trường thơ Loạn đã biết tạo ra những
biến thiên khác để thơ mình trở nên bung phá và tươi tắn hơn. Nhịp điệu ấy như sự
trắc trở về những giấc mơ không đến trọn con đường của các thi sĩ. Bài Lang thang
của Hàn Mặc Tử thể hiện sự lai ghép nhịp thơ: nhịp thất ngôn, nhịp lục bát, nhịp
câu thơ 8 chữ, 9 chữ đan xen. Nhịp thơ Đường 2/2/3 đã bị nhịp thơ lục bát lấn sân
đành phải quay về nhịp 3/2/2 ở câu cuối thể hiện sự nghịch lý trong nội tâm nhân
vật trữ tình khi thì huyễn tưởng, lúc lại căm hờn, có khi lại buông xuôi: “Trời hỡi/
nhờ ai/ cho khỏi đói? - Gió trăng/ có sẵn/ làm sao ăn? - Làm sao/ giết được/ người
trong mộng? - Để trả thù/ duyên kiếp/ phũ phàng?” (Lang thang - Hàn Mặc Tử).
Trong Duy tân của Bích Khê, tiết tấu nhiều khi bị đảo lộn, xô đẩy có dụng ý, tạo
nên cái cảm giác tán loạn: “Người hòa điệu với thiên nhiên/ ân ái - Buồn/ và xanh
trời/. Tôi trôi với bờ - Êm biếc... - Khóc với thu: lời úa ngô - Vàng/ khi cách biệt/
giữa hồn xây mộ - Tình hôm qua/ dài hôm nay thương nhớ” (Duy tân - Bích Khê).
Lối bắt vần từ câu thơ trên tiếp nối câu thơ dưới tạo nên nét độc đáo cho đoạn thơ.
Thơ mà như nói. Đâu đây hiện lên trước mắt người đọc một Bích Khê đang độc
thoại nội tâm với chính mình. Trong đoạn thơ, Bích Khê vẫn giữ nguyên số lượng
chữ ở mỗi câu (hình thức thơ bát ngôn thường thấy). Chỉ khác là, cách ngắt nhịp
khấp khểnh, không theo một quy luật nhất định khiến cho Duy tân càng trở nên mới
mẻ. Bích Khê ngắt câu thơ ra thành nhiều câu hoặc nhiều thành phần câu liên tiếp
vắt nối sang nhau. Từ đây, biên độ cảm xúc được tăng thêm, không có ranh giới rõ
ràng giữa các câu thơ. Âm hưởng thơ vì thế được mở rộng giúp người đọc hình
dung ra bản hòa tấu tuyệt vời giữa con người và thiên nhiên: “Người hòa điệu với
thiên nhiên ân ái”. Sự xô đẩy nhịp điệu, tiết tấu, từ ngữ, cú pháp; sự tương tác về
ngữ nghĩa do hiện tượng vắt dòng được Bích Khê thể nghiệm mới lạ và độc đáo:
“Thoảng tiếng gáy của cu - Cườm./ Hiu hiu vàng đượm”. Chữ “cườm” của câu
trước lại được tách riêng ra đứng đầu câu sau. Trong cách vắt dòng này, ngữ nghĩa
của “cườm” trở nên đa dạng, nó không chỉ là tên gọi mà còn gợi lên hình ảnh của
những giọt âm thanh long lanh vàng đượm. Trong Xuân tượng trưng và một số bài
119
khác, Bích Khê cũng vận dụng hình thức này và đã tạo nên hiệu quả âm nhạc khá
rõ… Chế Lan Viên cũng có một bài thơ tựa đề Tập qua hàng khá đặc biệt mà ông
thừa nhận đã học từ cách viết này của Bích Khê: “Chỉ một ngày nữa thôi./ Em sẽ -
Trở về./ Nắng sáng cũng mong. Cây - Cũng nhớ./ Ngõ cũng chờ. Và bướm - Cũng
thêm màu trên cánh đang bay” (Tập qua hàng - Chế Lan Viên). Tuy vậy, đó là câu
thơ được sáng tác sau này, còn Điêu tàn của Chế thường ít có sự phá cách về nhịp.
Nhịp điệu đều đặn của Điêu tàn gợi cảm giác u hoài bởi nó diễn đạt nỗi khắc khoải
thời gian, lo âu cho chuỗi mồ dĩ vãng, phấp phỏng vì tương lai là chuỗi huyệt chưa
thành, còn hiện tại thì chán chường, đổ nát.
Nhạc tính trong sáng tác của Trường thơ Loạn còn được ký âm bởi các biện
pháp điệp. Điệp là biện pháp lặp lại một yếu tố diễn đạt để nhấn mạnh ý nghĩa và
cảm xúc, nâng cao khả năng biểu cảm, gợi hình cho lời thơ. Sự lặp lại mang tính
chu kỳ được Jacobson gọi là sự lặp lại hình thái âm thanh tạo nên sự song hành
trong cấu trúc, giúp khắc phục sự trôi tụt của thời gian, neo giữ lại chất thơ bền
vững. Trường thơ Loạn sử dụng rất nhiều điệp từ, điệp ngữ tạo ra sự vang dội cộng
hưởng, những chuỗi âm thanh rung ngân thi vị. Thơ Hoàng Diệp không ít lần xuất
hiện biện pháp điệp từ nhằm nhấn mạnh, tô đậm hình tượng thơ, khiến cho những
con chữ luôn có sức vang ngân, ám ảnh: “Tiếng muôn người xô nhau vào cõi chết -
Tiếng quan tài đổ ụp xuống hư vô - Tiếng ngàn sâu lung lay hồn rũ liệt - Tiếng hình
hài sắp vữa nát ra tro” (Xứ sở của hồn ta - Hoàng Diệp). Chế Lan Viên có lẽ là
người thuần thục nhất trong việc khai thác nhạc điệu bằng biện pháp điệp từ đầu
tiên ở mỗi câu thơ: “Hãy ngả nghiêng, lăn lộn, hãy kêu gào - Hãy rít lên những điệu
xương vỡ rạn - Hãy buông ra những tiếng máu sôi trào! - Hãy quay cuồng, múa
may, trong gió lốc - Hãy cười những điệu cười như tiếng khóc - Hãy hét vang, rung
động đến mây cao” (Xương vỡ máu trào - Chế Lan Viên). Sự thừa thãi về mặt từ
ngữ bao giờ cũng thể hiện sự tràn đầy trong đời sống nội tâm, lưu lại cho chúng ta
sự trùng trùng, trào dâng và dập dồn cảm xúc. Nó được Chế khai thác triệt để nhằm
tăng độ gấp gáp của nhịp điệu thơ. Kiểu điệp này xuất hiện dày đặc trong Điêu tàn:
“Ta gặp Nàng trên một vì sao nhỏ - Ta hôn Nàng trong bóng núi mây cao - Ta ôm
Nàng trong những nguồn trăng đổ - Ta ghì Nàng trong những suối trăng sao” (Ngủ
trong sao - Chế Lan Viên). Hàng loạt từ “ta”, “nàng” lặp lại gắn liền với một động
120
từ chỉ trạng thái yêu đương, mơn trớn mỗi lúc một nồng nàn, bạo liệt: “gặp”, “hôn”,
“ôm”, “ghì” như diễn tả được trạng thái tâm hồn vừa đam mê, vồ vập của nhân vật
trữ tình khi khám phá ra vẻ đẹp diệu kỳ Chiêm nữ… Bài Thi vị của Bích Khê có 4
khổ, 70 âm tiết nhưng có tới 51 âm tiết là được lặp đi lặp lại. Các tiếng “vàng”,
“rơi”, “đàn”, “người yêu”, “anh ơi” lặp lại 5 lần; “rồi”, “tiếng”, “tôi khóc” được lặp
lại 4 lần. Có khi, Bích Khê kết hợp biện pháp điệp với việc sử dụng những câu
nhiều thanh bằng tạo nên những ấn tượng mới mẻ “Những cánh hồng đơm, những
cánh hồng đơm - Nhịp nhàng, nhịp nhàng thở đều trong sương... - Thơ bay! Thơ
bay vô bàn tay ngà - Thơ ngà ngà say, thơ ngà ngà say” (Nhạc - Bích Khê). Các
nhóm chữ đi về, lặp lại, gối chồng lên nhau như những nhịp sóng vỗ bờ tạo thành
âm điệu da diết khắc khoải triền miên. Bằng sự lặp lại ấy mà vẻ đẹp của nhạc được
tượng hình ngay trong nhạc tính của ngôn ngữ thơ. Hàn Mặc Tử thường xuyên láy
đi láy lại từ để tạo nhạc tính: “Gió theo lối gió mây đường mây” (Đây thôn Vĩ Dạ),
hoặc: “Những ngày đau khổ nhuộm buồn thiu - Những đám mây lam cuốn dập dìu -
Những mảnh nhạc vàng rơi lả lả - Những niềm run rẩy của đêm yêu” (Lưu luyến).
Đặc biệt, bài “Trăng vàng, trăng ngọc”, Hàn sử dụng câu thơ chỉ một danh từ
“trăng”: “Trăng, Trăng, Trăng, là Trăng, Trăng, Trăng”, và câu thơ này được lặp lại
ba lần trong bài, cũng là câu mở đầu cho từng khổ thơ. Một câu thơ có 6 từ trăng
như điệu hát được cất lên. Âm thanh nhấn đi nhấn lại, mới đọc lên đã nghe như
nhạc. Nhạc đến từ trước hình ảnh, ý nghĩa. Nguyên âm mở và phụ âm vang của từ
“trăng” như kéo dài và ngân nga mãi điệu nhạc ấy, gợi cảm giác như thi nhân đang
reo vui, nhảy múa dưới ánh trăng huyền dịu. Cách điệp cú pháp này được sử dụng
phổ biến trong thơ Bích Khê. Những bài thơ như: Mộng cầm ca, Thi vị, Tiếng đàn
mưa, Phương Thảo, Cơn mê, Tân hôn,... đều có sử dụng lối điệp này. Bài Thi vị,
câu thơ “Tôi khóc anh ơi” được lặp lại hoàn toàn trong các khổ thơ như những điệp
khúc kết hợp với các hình thức điệp khác (điệp âm, điệp từ, ngữ, điệp cấu trúc đoạn)
tạo thành những vòng tròn lớn nhỏ quấn quýt tương giao. Không chỉ âm thanh tạo
ra nhạc mà các hình ảnh cũng tạo ra nhạc, một thứ nhạc chuyển từ thấp đến cao từ
hình ảnh người yêu vận động qua các trạng thái: “đương ngồi”, “dậy rồi”, “đi rồi”,
“xa rồi”, “chết rồi”… Cứ mỗi trạng thái lại càng lúc càng xót xa, nức nở. Cũng có
khi thi sĩ thơ Loạn chỉ điệp lại một bộ phận của câu thơ, nghĩa là cấu trúc ngữ pháp
121
giống nhau, song đã có một sự xê dịch nào đó về sắc thái ngữ nghĩa. Ví như: “Buồn
lưu cây đào xin hơi xuân - Buồn sang cây tùng thăm đông quân” (Tỳ bà - Bích
Khê), hay: “Có phải chăng còn trào bao suối huyết? - Có phải chăng còn dội tiếng
đầu sa?” (Đầu rơi - Chế Lan Viên).
Tác động từ quan điểm thẩm mĩ của văn học phương Tây, đặc biệt là
Baudelaire, Valéry, Gautier… với quan niệm rằng, thơ ca muốn đẹp, muốn kỳ diệu
cần phải thoát ly cuộc sống, thoát ly cái hữu ích, vụ lợi của con người trần tục, cũng
như tư tưởng của Mallarmé: “Điều kiêng kỵ nhất của thơ là diễn tả đúng thực tại.
Thơ không cần rõ ràng, sự tách bạch. Thơ là mờ ảo, là tinh khiết, là lan tỏa. Thơ
tượng trưng còn coi yếu tố nhạc là phương diện chuyển tải hiệu quả nhất cho các ý
tưởng siêu hình”, các thi sĩ thơ Loạn đã sáng tạo nên những vần thơ đầy nhạc. Có
thể nói, tiếng nhạc trầm bổng trong thơ, lúc ảm đạm bi ai, lúc rạo rực tha thiết đã
phần nào đưa các tác giả thơ Loạn đạt tới được cái công thức nổi tiếng của P.
Valéry: “Bài thơ là sự phân vân kéo dài giữa âm thanh và ý nghĩa”.
4.2.2. Họa tính
“Thi trung hữu họa” là một quan niệm có từ rất sớm ở phương Tây. Từ xưa
xưa, người phương Tây đã phát hiện tính họa trong thơ, tính thơ trong họa và xem
thơ ca và hội họa là hai loại hình nghệ thuật gần gũi. Thời La Mã cổ đại, Simonides
đã nói: “Họa là thơ không lời, thơ là họa có lời”, và với Horace: “Thơ như họa”.
Đây là sự dung hòa trong hai loại hình nghệ thuật trong cùng một tác phẩm. Thực
ra, ban đầu ở phương Tây, địa vị thi ca được đánh giá cao hơn hội họa. Phải đến
thời Phục hưng, hội họa mới xác lập được vị trí của mình. Và cũng bắt đầu từ đây,
thơ và họa tiếp xúc, dung hợp với nhau trên một số phương diện. Thơ ca cũng có tác
dụng miêu tả, tái hiện như hội họa; và hội họa cũng có tác dụng biểu hiện như thơ
ca. Trong quá trình sáng tạo, các nghệ sĩ đều muốn mở rộng biên độ giữa thơ và
họa, thậm chí cái này còn muốn thâm nhập, dung hợp cái kia. Vì thế, họa sĩ và thi sĩ
luôn luôn tìm cách vượt qua mọi trở ngại, hạn chế, không phụ thuộc hoàn toàn vào
chất liệu. Chẳng hạn, chất liệu của thơ là ngôn từ, nhưng nhà thơ không chỉ tả ý,
chí, tình mà còn hòa âm, tạo dáng cho thơ. Hoạ sĩ cũng không chỉ dùng nhằm tái
hiện lại hình ảnh sao cho “giống như thật” với sự vật bên ngoài, mà còn chú ý đến
cái thần, gửi gắm tâm tình của mình qua đường nét và màu sắc. Thơ phương Đông
122
từ bao đời đều giàu hình ảnh và đường nét. Với khối lượng hữu hạn các đơn vị ngôn
ngữ, thơ Đường vẫn có khả năng tạo dựng một bức tranh vô hạn về thế giới nội tâm
con người. Không gian mờ ảo của phong cảnh chia tay bên rặng liễu non xanh lất
phất mưa bay trong buổi sang xuân được Vương Duy - một thi sĩ và họa sĩ Trung
Quốc đời Đường điểm tô bằng bút pháp tài tình, ấn tượng: “Vị Thành triêu vũ ấp
khinh trần, - Khách xá thanh thanh liễu sắc tân. - Khuyến quân cánh tận nhất bôi
tửu, - Tây xuất Dương Quan vô cố nhân” (Tống Nguyên Nhị sứ Tây An - Vương
Duy). Trong thơ cổ, kết cấu một bài thơ bao giờ cũng gồm hai phần: tình và cảnh,
trong đó phần cảnh hiện lên trước mắt người đọc như một bức tranh. Thơ mới, các
thi sĩ cũng vẽ nên hình ảnh bằng ngôn từ để tạo sức hấp dẫn và sức gợi cho thơ.
Trong sáng tác của Trường thơ Loạn, thơ nhiều lúc như một bản nhạc, lắm
khi như một bức họa. Trong thơ tượng trưng, họa là một xúc cảm thẩm mĩ gần
ngang hàng với nhạc. Để diễn tả những bí mật thầm kín bằng sự ám thị, thơ tượng
trưng phải tìm đến một thứ ngôn ngữ phi thường, kỳ ảo trong sự hòa điệu nhịp
nhàng của màu sắc và âm thanh. Theo các nhà tượng trưng, nếu “âm nhạc là người
thầy tối thượng” thì “màu sắc là phím đàn, mắt là cái búa đập lên nó, tâm hồn là thứ
nhạc khí có muôn ngàn dây cung”. Tinh thần thơ tượng trưng này được các thi sĩ
thơ Loạn cảm thụ sâu sắc. Thế giới thơ Loạn ngoài thanh âm, còn là thế giới của sắc
màu. Màu sắc là chất liệu không thể thiếu được trong tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt
là trong hội họa và văn học. Hegels khẳng định: “Nhờ việc dùng sắc màu làm cho
các sự vật dường như có tâm hồn và sức sống”. “Màu sắc trong văn học chẳng
những là phương tiện miêu tả thế giới mà còn là phương tiện thể hiện cái nhìn nghệ
thuật đối với cuộc đời, mang đậm màu sắc thời đại và cá tính. Màu sắc trong tác
phẩm có thể giàu nghèo, đậm, nhạt, thực, ảo phụ thuộc vào cái nhìn nghệ thuật của
người nghệ sĩ” [78,419]. Baudelaire cho rằng: “Màu sắc là sự hòa hợp giữa hai sắc
độ: sắc độ nóng và sắc độ lạnh mà mọi lý thuyết đều nằm trong sự đối kháng của
chúng, không thể định nghĩa được một cách tuyệt đối: chúng chỉ có thật một cách
tương đối” [8,26]. Qua sự khúc xạ sắc màu, chúng ta sẽ nhận ra gương mặt cuộc
sống và thế giới tâm hồn của các thi sĩ thơ Loạn. Màu sắc trong Trường thơ Loạn
được thể hiện tương ứng với những hình ảnh và cảm xúc thơ. Có khi, đó là những
sắc màu có thực trong thế giới khách quan: “Trời xanh ơi hỡi, xanh không nói - Hồn
123
tôi muốn hiểu chẳng cùng cho” (Đọc sách - Chế Lan Viên); Hàn Mặc Tử hướng về
làng quê tươi đẹp khi mùa xuân chín: “Trong làn nắng ửng khói mơ tan - Đôi mái
nhà tranh lấm tấm vàng” (Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử)…, nhưng nhiều hơn là sắc
màu của cảm xúc, màu của nỗi lòng. Nói cách khác, đó là màu của ảo ảnh, của tâm
tưởng được khúc xạ qua điểm nhìn tác giả. Đó là những sắc màu nửa thực, nửa hư,
nhìn thấy nhưng không làm chủ được. Chế Lan Viên đã thực hiện hành trình trên
sắc màu hoài vãng. Cỏ biếc là sắc màu vàng son thường thấy trong thơ Chế Lan
Viên: “Ta vừa thấy bóng nàng trên cỏ biếc - Suối tóc dài tuôn chảy giữa lòng trăng”
(Mộng - Chế Lan Viên). Thi sĩ đã dùng sắc màu để vẽ nỗi sầu trong tim giữa buổi
hoàng hôn thời đại. Màu máu tràn ngập trong không gian Điêu tàn. Sắc màu rực rỡ
đã dần tan biến trở thành ảo ảnh nhường chỗ cho những sắc màu bi thống, khiến
Chế nhớ về sắc màu nát tan của Chiêm Thành thuở xưa. Cái tôi soi mình vào vạn
vật nên nhuốm màu khủng khiếp của địa ngục máu xương. Dòng suy tưởng Chế
Lan Viên trôi theo sắc đỏ của máu, màu trắng của xương, màu vàng của chết chóc,
màu đen của bóng đêm. Trong thế giới đó, bóng tối nhiều hơn ánh sáng, hoàng hôn
lấn át ban mai. Sắc màu trong Điêu tàn vừa rực rỡ hoang tàn, vừa lung linh đổ vỡ.
Chán màu thật, cảnh thật trần gian, thi sĩ thơ Loạn muốn “Cho hồn phách say sưa
trong giả dối - (…) Cho lăn lóc hôn mê trong ảo huyễn” (Tạo lập - Chế Lan Viên).
Trong Điêu tàn, Chế Lan Viên sử dụng các màu chủ đạo, như: trắng, xanh, đen, mờ
để cụ thể hoá những đường nét của “thành quách”, “tháp đổ”, “ngàn lau”, “sọ trắng”
và những “chiều thẫm máu hồng”. Thi sĩ cũng sử dụng màu xanh, nhưng không
phải màu xanh của tương lai, hy vọng mà lại gắn liền với những “tàn xanh ngày
chiến tượng trở về”; với những đỉnh tháp gầy mòn trong mong đợi “Cũng đương
chôn lặng lẽ chuỗi ngày xanh” (Những nấm mồ). Trong khung cảnh Điêu tàn vào
cõi chiều tà, đêm sâu, màu trắng là màu tang chế, ghê rợn nhất. Ta chỉ thấy “một
khớp xương ma rợn trắng” một “nền giấy trắng như xưa trong bãi chém” và
“những thành sọ trắng của ma thiêng” hoặc những “khớp xương ma trắng tựa não
cân người”. Cái chết, mà tượng trưng là màu trắng, cứ chập chờn trên từng trang
thơ. Lẫn trong tâm trí người đọc là hình ảnh của xương, sọ, tha ma và huyệt lạnh.
Để điểm tô không gian rùng rợn thêm phần ấn tượng, Chế sử dụng màu mờ đặt giữa
hư vô và thực tại, giữa bóng tối và ánh sáng, giữa âm giới và trần gian. Do vậy,
124
những câu thơ có hình dung từ này, đều dẫn dắt người đọc đến một cõi xa xôi nào
đó đã mất đi trong quá khứ và dĩ vãng xa lìa. Trên tấm lụa bạch “điêu tàn”, nó đính
vào các hình ảnh, làm nên ý nghĩa của hủy diệt, chết chóc: “Hay mi nhớ những đêm
mờ rùng rợn” (Cái sọ người), “Này nghe chăng những đêm sâu mờ mịt” (Bóng tối),
“Dòng sông Linh nước mờ không dám chảy” (Tiếng trống), “Tháp Chàm đua nhau
đổ dưới trăng mờ” (Những sợi tơ lòng), “Đừng có để những đêm mờ vắng vẻ” (Đầu
rơi)... Giữa cõi mờ mờ, hư ảo đó, không sự vật nào mang đường nét cụ thể, rõ ràng.
Tất cả đều hoang dại. Chế Lan Viên đã đẩy những hình ảnh này đến biên độ cực đại
của siêu hình.
Cái đẹp trong thơ Loạn gắn với màu sắc kỳ dị. Bằng nghệ thuật pha màu,
Bích Khê khai phá những vùng đất mới, đem đến cho người đọc những cảm giác
mới mẻ về thơ. “Ngoài âm thanh ra, Bích Khê còn làm sáng tỏ đối tượng bằng màu
sắc, hoặc trừu tượng hoặc cụ thể. Khi thì huyền mơ, diễm ảo, khi thì âm u chói
chang” [7,70]. Thơ Bích Khê như một “đóa hoa thần dị”, dội vào lòng người một
nỗi đau khổ tuyệt vọng. Qua lớp ngôn từ được bao phủ bởi màu sắc trụy lạc, ta như
thấy được cơn ham mê, cuồng loạn trong tâm hồn nhà thơ. Thi nhân ưa nói đến
những gam màu lạnh và dịu nhưng không kém phần gợi cảm như: trắng, xanh,
vàng,..: “Khung trắng trời mây trắng lạ thường” (Hiện hình), “Vàng rơi! Vàng rơi!
Thu mênh mông” (Tỳ bà), “Ô trời hôm nay sao mà xanh?” (Nghê thường)… Trong
số sắc màu ấy, màu vàng có lẽ là gam màu mang lại cho Bích Khê nhiều cảm hứng
sáng tạo. Nhà thơ như tìm thấy bên trong những gam màu mà ông yêu thích sức
mạnh lan tỏa: lá vàng, trăng vàng, sao vàng, đêm vàng, sóng vàng, lệ vàng… hòa
thành một mảng đầy ám thị đối với người đọc, gợi những liên tưởng thú vị về thế
giới tự nhiên. Thế giới ấy không độc lập với con người mà gắn với những khoái
cảm dậy nên từ phía tâm tư. Bích Khê không cố ý miêu tả những màu sắc vốn có
của thiên nhiên, mà những màu sắc ấy thường bật ra từ vô thức khi thi nhân miên
man, chìm đắm trong cõi mộng: “Trăng gây vàng, gây vàng trên sắc trắng - Của hồn
thu đi lạc ở trong mơ” (Mộng cầm ca). Màu sắc như là cách để Bích Khê dồn vào
đó những ý nghĩ không thể diễn đạt được. Cứ đều đặn thế, trong những bài thơ thi
sĩ, khi mà cảm xúc bị đẩy lên đến tận cùng thì màu sắc bật ra trong cái vô hình vô
thể đầy huyền vi, cao khiết: “Mộng sao mộng lạ, trắng như ngà” , “Mộng rất xanh,
125
mộng rất xanh”… Những sắc màu ấy hòa vào tâm linh của chính nhà thơ, đưa
người đọc chập chờn giữa hai bờ hư - thực.
Trong thơ Hàn Mặc Tử, ta thấy xuất hiện “vô số màu tươi chảy lặng lờ”,
nhưng tập trung chủ yếu ở các màu: vàng, trắng, đỏ, xanh. Sắc màu đó là kênh giao
tiếp dẫn dắt người đọc đến với sự phong phú, đa dạng của cái tôi trữ tình mênh
mông không bờ bến. Màu vàng chiếm ưu thế nổi trội trong thơ Hàn, nó gắn với
không gian ân ái, với thân thể ngọc ngà của giai nhân và tột cùng cảm xúc: “nắng
vàng con mắt”, “hào quang vàng”, “trăng bọc vàng”, “tiếng vàng rơi”, “thu vàng”,
“nhạc vàng”… Đa phần, màu vàng trong thơ Hàn thể hiện sự tàn phai, héo úa: “Em
có nghĩ ra một chiều vàng úa - Lá trên cành héo hắt, gió ngừng ru” (Trường tương
tư). Nhưng cũng có khi đó là màu của nắng vàng tươi sáng: “Nắng sao như nắng đời
xưa ấy - Nắng vàng con mắt thấy duyên đâu” (Buồn ở đây). “Nắng đời xưa” là màu
nắng của tâm tưởng, của hoài niệm, của sự chờ mong, của niềm hy vọng, rực rỡ
xuân xanh, trinh nguyên trời đất. Một bức tranh đẹp được kết hợp hài hòa các màu
sắc rực rỡ, thể hiện niềm khát khao, mơ ước cháy bỏng của thi nhân về một vũ trụ
huy hoàng… Cùng với màu vàng, màu đỏ cũng là màu sắc xuyên suốt trong các tập
thơ Hàn Mặc Tử. Hàn nhiều lần mô tả sắc đỏ trên đôi gò má hay cặp môi đỏ hồng
của các cô gái đương tuổi xuân thì: “Môi tươi thiếu nữ vừa trang điểm - Nắng mới
âm thầm muốn kết hôn - Đưa má hồng hào cho nắng nhuộm - Tình thay, một vẻ
ngọt và ngon” (Nắng tươi). Nhưng màu đỏ trong thơ Hàn nhiều nhất vẫn là màu
máu. Cả thể xác, cả linh hồn, cả chữ, cả thơ, cả khổ đau, cả hạnh phúc đều dính màu
đỏ của máu. Máu của những nỗi đau dồn nén là màu đậm đặc của huyết: “Máu của
sao, tủy của nguyệt bao giờ - Chảy sửng sốt như phong vàng anh ánh” (Hồn đêm
qua)… Không gian nghệ thuật thơ Hàn, màu trắng cũng xuất hiện rất nhiều. Màu
trắng ngoài được miêu tả những sự vật của đời thường: mỏm đá trắng, cánh buồm
trắng, tờ giấy trắng, mây trắng, thơ trắng… còn được dùng để miêu tả sự cô đơn, xa
vắng của một kiếp người: “Rụng rồi hương không còn trắng như băng… - Đo hoài
niệm có dài hơn kinh tuyến - Hay thua xa, thua xa màu vĩnh viễn - Không rộng
bằng hiu quạnh của thời gian?” (Tình hoa). Có khi đó là màu của chiếc áo trinh
nguyên, thánh thiện và huyền ảo: “Áo em trắng quá nhìn không ra” (Đây thôn Vĩ
Dạ), màu của những cánh bông thơ: “Những cánh bông thơ trắng ngọt ngào” (Ước
126
ao)… Hàn Mặc Tử còn đưa vào thơ mình gam màu xanh với đủ sắc độ: “xanh
tươi”, “xanh mơ”, “xanh rợn”, “xanh biếc”, “xanh ngát”, “xanh như ngọc”, “xanh
lờn lợt”, “xanh như cẩm thạch” và cả những màu xanh không có thực trong đời mà
chỉ có trong tâm tưởng nhà thơ: “xanh huyền diệu”, “xanh hờ hững”, “xanh huyền
hoặc”… Nhìn chung, thế giới quan, phương pháp sáng tác và cảm quan hiện thực
của nhà thơ đã ảnh hưởng đến việc sử dụng màu sắc. Màu sắc là phương diện của
cái nhìn nghệ thuật trong thơ Loạn. Ở đó, ta có thể tìm thấy những biểu hiện gián
tiếp của một thời đại thơ ca và của một hệ ý thức.
Từ những màu sắc vừa cụ thể, vừa mơ hồ, Trường thơ Loạn vẽ nên những
bức tranh thơ sinh động về cuộc sống và hiện thực. Hàn Mặc Tử đã cấu trúc không
gian theo sự phập phồng của nỗi khát khao tình ái: “Ai đã làm thinh chớ nói nhiều -
Để nghe dưới đáy nước hồ reo - Để nghe tơ liễu run trong gió - Và để xem trời giải
nghĩa yêu” (Đà Lạt trăng mờ - Hàn Mặc Tử). Không gian tượng trưng ân ái ấy, mọi
vật đều thăng hoa trong yêu đương: “Trăng nằm sóng soải trên cành liễu - Đợi gió
đông về để lả lơi” (Bẽn lẽn - Hàn Mặc Tử). Thơ Bích Khê là hội họa trừu tượng.
Họa không phải là cái bản thể của ngôn ngữ thơ, cho nên thơ phải mượn đến họa.
“Thi trung hữu họa” là một kinh nghiệm làm thơ. “Muốn vào trong thơ đúng như
cái bản thể của thơ thì họa phải tự hủy chất tạo hình vật lý cụ thể của mình, nghĩa là
phải hủy cái hình thái tự nhiên vốn dĩ của mình để hóa thân thành họa siêu hình, cái
họa lung linh trong cảm xúc của một người, khúc xạ trong một chất chủ quan cá
thể” [62,114]. Hình tượng trong thơ Bích Khê mang chất hội họa bất hòa bề mặt để
đi tìm tới sự thống nhất trong bề sâu: “Chữ biến hình ảnh mới, lúc trong ngâm -
Chữ điêu khắc, tỉa nghệ thuật sầu câm - Đầy thẩm mĩ của một pho thần tượng - Lúc
trong ngâm giữa pho vàng mộng tưởng - Múa song song khiêu vũ dưới đêm hồng”
(Duy tân - Bích Khê). Có khi, thơ Bích Khê là cả bức tranh thục nữ yêu kiều được
phác họa từ sắc màu ái, ố, hỷ, nộ cùng ngòi bút sáng tạo giàu cảm hứng: “Nàng là
tuyết hay da nàng tuyết điểm? - Nàng là hương hay nhan sắc lên hương? - Mắt ngời
châu rung ánh sóng nghê thường - Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc - Đêm u
huyền ngủ mơ trên mái tóc. - Một chút trăng say đọng ở làn môi” (Tranh lõa thể -
Bích Khê). Đó là cả một bức tranh lõa thể “lồ lộ một tòa hoa nghiêm động” khiến
thi nhân vừa “miên man uống mộng quỳnh dao”, vừa tưởng tượng ra bao điều kỳ
127
thú: “Bóng thời gian phải quỵ dưới chân nàng - Xuân muôn đời đi giữa một vùng
tang!”. Bích Khê đã họa lại bằng thơ vẻ đẹp thiếu nữ và những đam mê trần tục của
con người tinh tế đầy gợi cảm.
Thơ Loạn đã ảo hóa ngôn từ để khám phá bức tranh thế giới qua sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa yếu tố thực tế và yếu tố trừu tượng. Bức tranh lộng lẫy của thơ
Loạn chính là lớp ngôn ngữ lấp lánh tự soi, phát sáng nhờ bàn tay của người nghệ sĩ
cấu trúc nên. Yến Lan phác họa bức tranh toàn cảnh thiên nhiên với những nét đặc
trưng của một vùng đất từ lâu gắn bó với mình: “Ở đây nắng bãi võ vàng - Dừa cao
lểnh khểnh, cành xan ngoằn ngoèo - Con đường thì khuất cheo leo - Mình đi chỉ
bóng cùng theo với mình” (Về làng - Yến Lan). Vẫn có những nét vẽ cụ tượng,
nhưng nhiều hơn trong thơ Loạn là những bức tranh huyền hồ, khó nắm bắt. Hàn
Mặc Tử phân thân để chiếm lĩnh sắc màu thiên nhiên, từ đấy những bức tranh thơ
Hàn được cấu trúc theo sắc màu kỳ ảo. Đây thôn Vỹ Dạ là bức tranh chắp nối, đứt
đoạn theo một cấu trúc nhảy cóc tâm trạng. Chỉ một nét Huế thôi mà đã nói được
bao điều: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc - Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Thế nhưng, trong bức tranh tưởng chừng tươi đẹp ấy, vẫn thấm một nỗi buồn chia
ly, nỗi nhớ nhung sâu sắc của một người đang yêu. Nhiều bài thơ khác, Hàn vẽ
tranh bằng máu huyết của mình. Từ trong huyết quản thi nhân, thơ trào ra nơi đầu
ngọn bút lấp lánh ngọc bích cho dù nó có huyền hoặc, dị thường. Thơ Chế Lan Viên
là bức họa của một thế giới siêu tưởng và ảo giác. Vẫn là cảm hứng lãng mạn,
nhưng trong cách cảm nhận của Chế Lan Viên, bức tranh tượng trưng siêu thực như
những vỉa lấp lánh trong tư duy thơ lúc bấy giờ. Bức tranh ấy mang vẻ u uất, xót xa,
ghê rợn, bí hiểm hướng về một không gian đã trở thành hoang tàn của lịch sử.
Trong thơ Chế, yếu tố tượng trưng và siêu thực luôn được quan niệm để làm gia
tăng chiều kích của bức tranh hiện thực, làm cho hiện thực sung mãn hơn: “Ai
tưởng đến tháp Chàm kia trơ trọi - Tháng ngày luôn rộng cửa đợi ma Hời - Ai nhìn
đến làn thương đang lở lói - Trên thịt hồng nứt nẻ gạch Chàm tươi” (Thu về). Bức
tranh trong Tinh huyết của Bích Khê chứa đựng bao vẻ lạ kỳ và bí ẩn..., làm cho
cảm xúc người đọc rung rinh theo từng con chữ. Thế giới huyền diệu ấy là một
phức hợp bao gồm nhiều thế giới khác: thế giới thần tiên, thế giới trần tục và thế
giới ma quái với đặc trưng riêng biệt của nó. Với Đồ mi hoa, thi nhân đem đến cho
độc giả một bức tranh kỳ ảo: “Đây một đóa đồ mi ta đón lấy - Áp hồn hoa... đem đặt
128
giữa bài thơ” (Đồ mi hoa), là suối nguồn của trinh tiết và tinh khiết. Bỗng nhiên,
đóa đồ mi đột ngột biến thành giai nhân, thành tiên nương cao giá, thoắt một cái
thành “anh hồn hoa vũ trụ”, với đủ đầy “tinh chất khí âm dương”, để rót ngọc, nhả
sâm... và biến ra nhạc, ra hương, ra vàng, ra ngọc ngà, ra ánh sáng. Thế giới thơ kỳ
dị, huyền ảo đó được đan kết với các yếu tố thi ca, nhạc, hương, màu sắc, ánh sáng,
ngọc châu và các hình tượng trung tâm: trăng, hồn, máu, giai nhân..., và luôn đặt
trong các mối tương quan, tương hợp. Tạo ra một thế giới hư - thực, chập chờn như
vậy, Bích Khê đã vận dụng một cách tài tình các phương thức kỳ ảo, huyền thoại để
định lượng đối tượng thẩm mỹ của mình. Bích Khê cùng các thi sĩ thơ Loạn đã vận
dụng linh hoạt màu sắc và đường nét để vừa vẽ nên bức tranh ngôn từ tuyệt diệu,
vừa bộc lộ những rung động tế vi trong tâm hồn con người.
4.3. Giọng điệu và nghệ thuật tương hợp
4.3.1. Giọng điệu
Nghiên cứu giọng điệu trong thi ca là nhận thức điệu hồn của thi nhân phổ
nơi thi phẩm. Mỗi một điệu hồn sẽ cho người đọc thấy cá tính sáng tạo của nhà thơ.
Theo Trần Đình Sử: “Giọng điệu trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật toát ra
từ bản thân tác phẩm và mang một nội hàm tư tưởng thẩm mĩ… là hiện tượng siêu
ngôn ngữ học phụ thuộc vào cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm, khuynh hướng nghệ
thuật của tác giả và của thời đại” [79, 248]. Như vậy, có thể hiểu giọng điệu là
những biểu hiện của tình cảm, cảm xúc của nhà thơ đối với điều được nói tới trong
tác phẩm. Đó là tư tưởng, là thái độ của nhà thơ trước hiện thực với những dấu hiệu,
sắc điệu riêng của nó: buồn thương, giận dữ, vui sướng, tự hào… Mỗi thi sĩ bao giờ
cũng có một điệu hồn riêng. Tuy là điệu hồn của mỗi cá nhân, nhưng giọng điệu thơ
bao giờ cũng chịu sự tác động của nhịp điệu đời sống và vang ứng của chất giọng
thời đại.
Do ý thức sâu sắc về cái hữu hạn, nhỏ bé của kiếp người trước vũ trụ, nên
sáng tác của Trường thơ Loạn thường mang giọng điệu u sầu và ảo não. Các thi
nhân thất vọng trước thực tại lạnh lùng, nghiệt ngã và tâm hồn nhân thế vô cảm, vô
tri: “động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ”
[83,46], từ đó ngân lên tiếng thơ lạnh lùng, u sầu, thần bí.
Chuyển hướng rất nhanh từ khuynh hướng lãng mạn sang tượng trưng rồi
129
siêu thực, Trường thơ Loạn làm một cuộc hội ngộ giữa phương Đông và phương
Tây bằng giọng điệu thơ hết sức độc đáo. Trong thơ họ, ta thấy dấu ấn của
Baudelaire khá rõ. Thiên đường và địa ngục, cái đẹp và cái xấu, cái ác, cái ghê rợn,
sống và chết, đầy đọa và siêu thoát... là những nguồn cảm hứng trong thơ để minh
chứng cho một sự gặp gỡ ở những tín niệm thẩm mĩ đôi khi nằm ngoài ý thức của
các thi nhân. Hãy xem chất giọng u uất, sầu đau đến khắc khoải của Baudelaire:
“Chúa trời hỡi! Cám ơn Chúa đã cho đau khổ - Làm phương thuốc thần rửa sạch
mọi bùn nhơ - Và là tinh hoa tuyệt vời trong sáng nhất từ xưa - Cho những con
người mạnh hưởng khoái lạc thần tiên nhất” (Chán chường và lý tưởng -
Baudelaire). Cả Baudelaire và các thi sĩ thơ Loạn đều quằn quại trong vũng đau
thương, văng vọt cả máu lệ và linh hồn. Do vậy, bi thương là âm điệu và là trục xúc
cảm chủ đạo trong những tập thơ ghê gớm của các tác giả này (Những bông hoa ác
- Baudelaire, Đau thương - Hàn Mặc Tử, Điêu tàn - Chế Lan Viên, Tinh hoa, Tinh
huyết - Bích Khê). Thảm kịch thân phận đưa các nhà thơ gặp nhau trong những tri
nhận và xúc cảm về cuộc đời, về con người để cất lên tiếng thơ làm kinh hoàng
người đọc. Chế Lan Viên gào thét một nỗi chán chường, uất hận trước thực tại với
giọng bi thiết mà chính ông cũng thấy giật mình kinh sợ. Khước từ sự sống quay về
cõi chết, lấy máu huyết địa đàng dựng thành bức tranh sống động, cho nên đọc thơ
Chế, ta thấy chủ thể trữ tình lẻ loi, chứng kiến mọi thứ quanh mình dần tan rã, một
sự tan rã không gì cứu vãn nổi: “tháp Chàm đua nhau rụng”, “gạch Chàm rơi lác
đác”, “đền xưa đổ nát dưới trần gian”, “tượng Chàm lở lói rỉ rên than”... Nó được
đặt trong sự tương phản với “cảnh thái bình”, “điện các huy hoàng”, “đền đài tuyệt
mỹ”..., nên càng làm nổi bật lên cái hoang tàn, ngập tràn đau thương của Chiêm
quốc. Thiên nhiên, vũ trụ cũng như tan vỡ: “hoa rạn vỡ”, “muôn cánh rũ”, “sao sa”,
“trăng rụng”... Cảnh tượng đó gieo vào lòng người nỗi đau xót, niềm tiếc thương,
một cảm giác u buồn choáng ngợp. Với ý thức chấp nhận cái tột cùng của bi thảm là
sống với hư vô, Chế Lan Viên cảm nhận được cái nhỏ bé, đơn côi của mình trong
cõi siêu hình như “một con chim thu lạc cuối ngàn”. Lắm lúc, chủ thể trữ tình như
thấy thân thể mình cũng đang dần tan vỡ: “Hầu rang nóng lửa hồn bừng cháy mắt -
Máu hồng tươi lay vỡ cả thành tim - Đâu điệu nhạc điên cuồng khao khát - Chẳng
vang lên tràn ngập suối trăng êm - Đem mau đây chiếc sọ người ứ huyết - Chiếc
130
xương khô rợn trắng khí tinh anh - Và rót mau trong hồn ta tê liệt - Những nguồn
thơ rồ dại hỡi yêu tinh” (Điệu nhạc điên cuồng - Chế Lan Viên).
So với Chế Lan Viên, giọng điệu trong thơ Bích Khê gần gũi và đằm thắm
hơn. Song, Bích Khê vẫn lạ và mới. Nếu đọc kỹ từng bài thơ của Bích Khê, ta sẽ
thấy thi nhân nói nhiều về những chiêm nghiệm, những khao khát từ trong sâu thẳm
ý nghĩ và những ước vọng riêng tư của mình. Tiếng nói ấy âm vang từ bên trong
tâm hồn nhà thơ, thấp thoáng một nỗi buồn cô đơn, nhẹ nhàng, tha thiết: “Gió về
mang cả mùi lăng tẩm - Buồn cắt lên đền những miếng đen - Người viễn khách lòng
sầu vạn cổ - Dặm mòn muốn gặp một người quen!” (Dặm mòn - Bích Khê). Giọng
sầu buồn trong thơ Bích Khê nhiều khi tản mát, nở tan thành niềm khoái lạc: “Tôi
chết rồi! Tiếng nói như châu - Tản mát ra muôn vạn khí sầu - Người khóc tình ta
thơ mộng cả - Để tìm khoái lạc ở chiêm bao” (Tôi chết rồi tiếng nói như châu - Bích
Khê). Đó là tiếng lòng của một tâm hồn dịu dàng, đa sầu, đa cảm.
Cùng nằm trong Trường thơ Loạn, Hàn cũng giống Chế ở những lời bi thiết
như tiếng nguyện cầu tuyệt vọng bên bờ nỗi chết, ý thức khiếp đảm dạt nép đi để
những lời “mê man”, “điên loạn” ngự trị trong những bài thơ cùng dòng cảm xúc.
Nhiều bài thơ của Hàn, ngay từ câu đầu ta bắt gặp một sự thoảng thốt, hoang mang:
“Lòng giếng lạnh! Lòng giếng lạnh! - Sao chẳng một ai hay”, và kết thúc bài thơ là
nỗi chơi vơi, chìm ngập trong âm u, sợ hãi: “Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng
thiên - Nhảy ùm xuống giếng với xác trăng lên” (Trăng tự tử - Hàn Mặc Tử).
Chừng như, thi nhân cô đơn ngay trong chính việc đào bới, độc thoại với nội tâm,
với sâu thẳm tâm thức của chính mình. Trong vật vã cô đơn ấy, Hàn phải “tập nói
trong môi trường vắng lặng”, “thả hồn mình và cảm xúc trong dòng ngôn ngữ sâu
thẳm của cõi lòng riêng” [26,59]. “Lòng ta sầu thảm hơn mùa lạnh - Hơn hết u buồn
của nước mây - Của những tình duyên thương lỡ dở - Của lời rên siết gió heo mây”
(Sầu vạn Cổ - Hàn Mặc Tử). Khi dòng chảy thênh thang của cảm xúc lãng mạn bắt
đầu lâm vào tử địa, Hàn réo gào, rên siết trong niềm “đau thương” tột cùng. Nỗi đau
sầu ấy như tan loãng, thẩm thấu và quyện hòa trong cảm thức một kiếp người: “Nhớ
thôi lòng những sầu bi - Lệ rơi vào rượu hàng mi lờ đờ” (Say chết đêm nay - Hàn
Mặc Tử). Những lời thơ của thi nhân tựa “Một lời run hoi hóp giữa không trung”
(Trường tương tư - Hàn Mặc Tử) lạ thường, phiêu du và tán lạc rồi bất ngờ như
những ngọn sóng tung xóa lên từ thác ghềnh số phận.
131
Các thi sĩ thơ Loạn đã đục khoét trái tim người bằng những câu thơ rùng rợn
và truyền vào trí não mọi người những tiếng thơ than vãn, não nề đến tê liệt. Giọng
điệu ấy hướng nội và hướng ngoại, đan cài xoắn xuýt cùng đồng hiện, làm người
đọc nhiều khi không biết đâu là giọng của tác giả và đâu là giọng của nhân vật trữ
tình: “Ai kêu ta trong cùng thẳm hư vô - Ai réo gọi giữa muôn sao chới với” (Ngủ
trong sao - Chế Lan Viên), hay: “Người đi một nửa hồn tôi mất - Một nửa hồn tôi
bỗng dại khờ” (Những giọt lệ - Hàn Mặc Tử). Nó đau thương, mê đắm, huyền hoặc,
hồ nghi, đưa người đọc vào cõi hư vô trong sự thăng hoa tiềm thức: “Theo trực giác
bay lên nguồn ngọc lệ - Cho đã khát trong đê mê huyền bí - Ánh tiên tri nức nở
sóng anh linh - Đường kim tuyến nhiễm hút chất vô hình - Dẫn địa ngục đi vào đôi
giếng loạn” (Châu III - Bích Khê). Thế giới thơ Loạn là thế giới của thực tại ấn
tượng. Ở đó, thi nhân nhìn đời bằng nhãn quan quy ước, bằng ngòi bút điêu linh,
bằng tâm hồn hướng vào bóng âm nơi ánh sáng mặt trời câm bặt sau biển mây u
buồn để trần gian ngập đầy bóng tối. Với giọng điệu bi quan, chán nản, nên trong
thơ Loạn, số lượng từ ngữ chỉ tâm trạng buồn tràn ngập trong từng bài thơ và cả
những tập thơ: “buồn lo”, “buồn vương”, “buồn thương”, “u buồn”, “buồn lạ”,
“buồn tư lự”, “buồn ủ rũ”, “buồn như đám mây”, “sầu não”, “sầu rơi”, “sầu muộn”,
“sầu tư”, “sầu khổ”, “tiêu sầu”, “bể u sầu”, “sầu vạn cổ”, “sầu lạ lùng”, “điệu sầu
bi”, “mối đau thương”, “khúc buồn thương”… Cùng với đó là những thán từ biểu
thị cảm thán như tiếng rên thê thiết của những xác thân bị dày vò, tàn hủy: “Trời hỡi
làm sao cho khỏi đói - Gió trăng có sẵn làm sao ăn” “Ôi trời ơi là Phan Thiết! Phan
Thiết!”, “Trời hỡi bao giờ tôi chết đi” (Hàn Mặc Tử). Thi nhân u buồn, đau đớn
trước hiện thực cuộc sống tan hoang, đổ nát: “Ôi rồ dại muôn người trên mặt đất”,
“Hồn ma ơi! Hồn ma ơi có nhớ”, “Trời hỡi trời, hôm nay ta chán hết - Những sắc
màu hình ảnh của trần gian!” (Chế Lan Viên). Đó là tiếng nói bi phẫn trước một đất
nước bị tàn phá, một dân tộc bị diệt vong; là tâm trạng bi quan của một cái tôi
không lối thoát, một nỗi đau xót, hoài niệm về dĩ vãng... Bích Khê đau khổ vì một
tấm thân bệnh hoạn và tình yêu gãy đổ: “Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề - Hoa vàng
đưa hương gây đê mê”; “Hỡi không gian! Hãy tan ra tiếng địch - Của lòng yêu ca
ngợi tuyệt vời cao - Hỡi thời gian! Hãy chết ngột trong sao” (Nàng bước tới - Bích
Khê). Với những từ ngữ như vậy, giọng điệu thơ sao tránh khỏi sầu não, bi quan.
Đó là nỗi bi quan, sầu não của “Một khối tình nức nở giữa âm u - Một hồn đau rã
132
lần theo hương khói” (Trường tương tư - Hàn Mặc Tử). Lắm lúc nhà thơ xem nỗi u
buồn ấy như là liều thuốc an ủi, băng bó vết thương lòng: “Vì u buồn là những đóa
hoa tươi - Và đau khổ là chiến công rực rỡ” (Đừng quên lãng - Chế Lan Viên). Vì lẽ
đó, trong thơ Loạn, ta bắt gặp những âm thanh rên rỉ đến tan hoang, đổ vỡ. Đó có
thể là tiếng kêu đau thương của bệnh tật, của sự xóa mòn tâm hồn trước hiện thực
cuộc sống. Và, đó cũng là giọng chủ âm thảm thiết của các thi sĩ đang đi tìm cái đẹp
từ sự đau thương.
Cảm hứng sầu bi trong giọng điệu thơ không chỉ có ở “ba đỉnh cao thơ
Loạn”, mà còn lan tỏa, bàng bạc và đồng vọng trong cảm thức của các thi hữu khác
của cả trường thơ. Với Yến Lan, đó là nỗi buồn sầu trải dài nhẹ nhàng, man mác:
“Lầm lũi em đi chẳng nói năng - Vắng em anh cũng thắt buồng gan - Gần nhau hay
phải xa nhau mãi - Mặt biển tình ta dải thẳng băng” (Cam chịu - Yến Lan). Thi sĩ
nhẹ nhàng bước vào làng thơ cùng Bến My Lăng với hình ảnh ông lái đò buồn dợi,
đợi khách trên bến sông trăng lung linh ánh sáng như nhân chứng lạnh lùng:
“Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã - Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly -
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả - Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi” (Bến My
Lăng - Yến Lan). Còn đây là cả “một thế giới u sầu không bến đỗ” của Hoàng Diệp:
“Mau giở lại, bay về trong khoảng vắng - Trong mùa thu tắt cả tiếng lòng ta - Trong
thế giới u sầu luôn vắng lặng - Trong muôn đêm khổ não… một thời xa” (Xứ sở của
hồn ta - Hoàng Diệp). Bắt nhịp cùng cơn xoáy hút của Trường thơ Loạn, mỹ cảm
thi ca Hoàng Diệp luôn gặm nhấm sự tàn lạnh đến hãi hùng. “Hãy theo ta khối sầu
thiên vạn cổ - Khóc làm chi năm tháng đã xa rồi - Hãy theo ta đi tìm người muôn
thuở - Dưới muôn trùng địa ngục, chốn xa xôi” (Xác chết của người đẹp - Hoàng
Diệp). Chất giọng buồn buồn, chan chán ấy không chỉ xuất hiện trong một bài thơ,
mà lai láng, chưng diện khắp vũ trụ, thành sắc độ rất riêng xuyên suốt tập thơ Xác
thu của tác giả... Và đây nữa, tiếng lòng buồn thiu đến thất thểu của thành viên cuối
cùng gia nhập Trường thơ Loạn - Quỳnh Dao: “Tiếng nhạc đồi khuya không trỗi
nữa - Ngàn cây vương vướng một hơi buồn - Ôi chao trên cành lá trào lệ - Ta thít
lên như lạnh tới hồn...” (Đà lạt trăng ngủ - Quỳnh Dao)...
Tuy vậy, phải thấy rằng, trong thơ Loạn, dù giọng điệu sầu bi là chủ đạo,
nhưng không phải là duy nhất. Có khi, thơ Loạn mang kết cấu đa âm, linh hoạt với
đầy đủ biểu hiện của nó về trường lực âm thanh, độ trầm bổng, cao thấp, nặng nhẹ;
133
tương quan với nó là các trạng thái cảm xúc vui buồn, đê mê, căm hờn. Thơ Chế
Lan Viên huyền bí, vang rền âm ba rờn rợn là thế, nhưng cũng lắm khi giàu cảm
xúc triết lý, nhận thức sự, người với giọng điệu ngân nga: “Ai kêu ta trong cùng
thẳm hư vô - Ai réo gọi giữa muôn sao chới với” (Ngủ trong sao - Chế Lan Viên).
Hàn Mặc Tử không thiếu những câu thơ phả từ tâm hồn “nhuần gội áng thiều
quang”, mở ra một vũ trụ đầy hân hoan trong niềm mơ cứu rỗi: “Xuân gấm đầu tiên
giữa cõi đời - Mùi thơm ngây dại sóng con ngươi” (Xuân đầu tiên - Hàn Mặc Tử).
Nhiều câu thơ được Bích Khê dệt nên bởi một hồn thơ đã thoát khỏi “lâm lụy” để
đến giấc mộng đời bất tử của bao điều tinh túy: “Ôi đi! đoàn tiên lột khỏa thân -
Hoan hô xác thịt chiếm ngôi thần” (Mộng lạ - Bích Khê). Chúng ta đọc ra tình yêu
của thi nhân trong giọng thơ mặc khải, rạo rực như một tiếng reo, đầy ắp những
hình ảnh và âm thanh kỳ thú: “Người cho ta một thanh gươm rất sắc? - Ô vung
lên… cắt mạch nguyệt vàng xanh! - Xẻ mạch trời, - xô mây sao răng rắc! - Phăng
mạch đêm, hương vỡ, ứa ngầm tinh! - Người cho ta một thanh gươm rất sắc? - Ta
điên rồ… múa giữa áng bình minh” (Mộng cầm ca - Bích Khê).
Khi quên đi những cơn đau, cũng là lúc thơ Loạn nguôi đi tiếng rú gào thảm
thiết. Sự chuyển kênh giọng điệu này có thể diễn ra trong cùng một bài thơ, một khổ
thơ. Ví như đoạn thơ sau: “Máu tim ta tuôn ra làm bể cả - Mà sóng lòng rồn rập như
mây trôi - Sóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ - Dâng cao lên, cao tột tới trên trời. - Ôi
ta đã mửa ra từng búng huyết - Khi say sưa với lượn sóng triền miên - Khi nhận lấy
trong thâm tâm cay nghiệt - Giọng hờn đau trăm vạn nỗi niềm riêng” (Biển hồn ta -
Hàn Mặc Tử), ta thấy xuất hiện phức cảm, phức điệu nhiều âm hưởng: có đau
thương, có mê đắm, và có cả huyền hoặc…, thể hiện tính chất tương phản trong ngõ
ngách, sâu thẳm tâm hồn thi sĩ… Điều này cho thấy, thi phẩm của Trường thơ Loạn
không bị thu hẹp vào những khuôn hình giọng điệu có sẵn, mà ở đó “Dưới bầu trời
u ám hay trong thinh không xanh nhẹ - Buồm ta mở rộng mà đi” (Baudelaire), rẽ
theo nhiều đường, thấm sâu và lan rộng trong lòng độc giả.
Trong tiểu luận Cách viết là gì, Barthes nhận định khá xác đáng: “Trong bất
kỳ hình thức văn học nào cũng đều có sự lựa chọn chung một giọng điệu”. Chất
giọng của thơ Loạn nhìn chung vẫn không nằm ngoài giọng chủ âm ảo não của
134
phong trào Thơ mới. Nhưng so với Thơ mới, giọng điệu thơ Loạn tang thương và bi
thiết hơn.
Khi tìm hiểu đặc trưng chung về giọng điệu của Trường thơ Loạn, chúng ta
cũng không thể không nhìn thấy những âm hưởng riêng, chủ đạo của từng tác giả.
Một Hàn Mặc Tử giọng điên cuồng day dứt. Một Chế Lan Viên với gọi thăm thẳm
hư vô về thời dĩ vãng. Một Bích Khê huy hoàng ánh sáng, có kỳ dị nhưng không
rùng rợn như hai bậc đàn anh. Tất cả các thi sĩ với nỗ lực vượt thoát, bung phá
giọng điệu đã mang đến cho Trường thơ Loạn giá trị thẩm mĩ đặc sắc, không trộn
lẫn với các nhà thơ và tổ chức thi ca khác cùng thời.
4.3.2. Nghệ thuật tương hợp
Gần với thơ phương Đông, thơ tượng trưng phát hiện ra mối tương hợp, hô
ứng với nhau giữa các giác quan, giữa mùi hương, màu sắc và âm thanh. Thi phái
tượng trưng đã khai triển sự nhất thể của cảm giác. Baudelaire là người đầu tiên khám
phát ra sự nhất thể kỳ diệu này. “Ngửi thấy một hương thơm, thi sĩ thấy mình như
nghe một âm thanh huyền diệu hay trông thấy một màu sắc quyến rũ; bởi vậy nhà thơ
có thể nghe thấy một mùi hương, ngửi thấy một màu sắc hoặc trông thấy một thanh
âm” [66,54]. Tương ứng là cách để các thi sĩ thơ tượng trưng thay đổi quan hệ của
con người với thế giới. Một quan hệ mới với thế giới nảy sinh “mà trong đó cảm giác
lẫn lộn với nhau và mâu thuẫn đớn đau biến mất. Tâm hồn có thể uống ừng ực hương
thơm, âm thanh và màu sắc” [49,100]. Rimbaud đòi hỏi nhà thơ phải là “một kẻ thấu
thị” (un visionnist), nghĩa là “có khả năng thấy được cái siêu nhiên mà người thường
không trông thấy” bằng “sự gây rối loạn lâu dài, rộng khắp và có suy tính tất cả các
giác quan” (Phùng Văn Tửu)... Âm thanh, màu sắc, hương thơm - những đối tượng
của giác quan xuất hiện với tần số rất cao ở thi giới Trường thơ Loạn... Trong Điêu
tàn, Chế Lan Viên 52 lần nhắc đến màu sắc, 63 lần nhắc đến âm thanh, 24 lần nhắc
đến mùi hương. Trong Tinh hoa và Tinh huyết, Bích Khê 126 lần nhắc đến màu sắc,
52 lần nhắc đến âm thanh, 72 lần nhắc đến hương thơm. Trong Đau thương và Xuân
như ý, Hàn Mặc Tử 46 lần nhắc đến màu sắc, 55 lần nhắc đến âm thanh, 45 lần nhắc
đến hương thơm... Thi sĩ thơ Loạn cảm nhận vẻ đẹp lộng lẫy, yêu kiều, tươi rói của
thiên nhiên bằng năng lực tổng hợp qua thính giác, thị giác, xúc giác, khứu giác, vị
giác, đem lại sự khám phá tinh túy, kỳ diệu về thế giới xung quanh mình.
135
Bích Khê say đắm trong không gian ngập tràn hương, sắc và giai điệu. Mộng
cầm ca là hương sữa lúa, mùi tô hợp, hương trầm, hương xạ, hương dạ lan, hơi thở
hoa hồng... Chúng như quyện lẫn vào nhau trong không gian tơ gợn sóng nhạc. Nhạc
ngân từ khúc Lạc Mai Hoa, điệu Tỳ Bà, khúc Mộng Cầm ca... dẫn lối nhà thơ đến
một vùng mộng tuyết, một bến xa khơi. Phải có sự thính nhạy và rộng mở của các
giác quan trong trạng thái mê sảng mới có thể giúp thi nhân chiếm lĩnh thiên nhiên,
khám phá vẻ đẹp thuần khiết và mới lạ đến thế. Nhiều bài thơ, Bích Khê mang đến
cho người đọc “cả không gian là bể sáng tràn lan” phảng phất hương và nhạc:
“Nường hé môi ra. Bay điệu nhạc - Mát như xuân và ngọt tợ hương” (Hiện hình -
Bích Khê). Nhà thơ như thấu thị thiên nhiên và con người để nghe những điều không
ai nghe, nhìn thấy những gì không ai thấy, phá vỡ ranh giới của cảm giác, hòa nhập
tất cả trong cảm quan tương ứng diệu kỳ. Thi sĩ nhìn trăng như một thứ dạ quang lung
linh của ngọc ngà châu báu. Trăng tạo ánh lưu ly, màu xà cừ, san hô, ngọc thạch, trân
châu, mã não, hổ phách... trong “niền hoan hỷ của tinh thần và giác quan”. Có lúc say
trăng, Bích Khê lạc vào cõi mộng: “Hai ta vừa gối bến sông Ngân - Ôi! Nàng Xuân
Hương để ngực trần - Ngâm bài Vấn nguyệt tiếng trong ngần - Nhìn xuống giai nhân
cười như điên” (Nghê thường - Bích Khê). Thiên nhiên và con người đã xác lập một
mối quan hệ mới, một sự vận động mới. Sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên
là sự hòa điệu giữa tỉnh và mộng, hiện thực và siêu thực, cảm giác và ảo giác, giữa
mùi hương, màu sắc và âm thanh trong một thế giới huyền bí, siêu nhiên: “Những
cặp môi cười gươm sắc lẹm - Chóa lên không khí dội hương vang” (Mộng lạ).
Hàn Mặc Tử nghe tiếng đàn lại thấy sắc, thấy hương và giai âm lạ: “Bằng
trăm tiếng vẽ ra trăm màu sắc - Với đôi tay nàng trút hết đê mê - Dạ lan hương bừng
nở cánh e dè - Trong khúc nhạc rên đều hơi gió tới” (Đàn ngọc - Hàn Mặc Tử). Yến
tiệc của đất trời ngào ngạt và lòng thi sĩ cũng ngất ngư trước bao mĩ vị cao sang,
quyến rũ. Thi sĩ ướp hương cho hoa, nâng tất cả trên đôi cánh nhạc, siêu vượt trên
những giới hạn trần tục: “Trăng là ánh sáng nhất là giữa mùa thu, ánh sáng càng
thêm kỳ ảo, thơm thơm và nếu người cho thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận
thấy có nhiều tiếng nhạc say say gió xé rách lả tả” (Chơi giữa mùa trăng - Hàn Mặc
Tử); “Thơ em cũng giống lòng em vậy - Nghĩa là thơm tho như ánh trăng” (Lưu
luyến - Hàn Mặc Tử). Thiên nhiên trong thơ Hàn là một thế giới đa dạng và sống
136
động, phiếu diễu, đánh động mọi cảm giác và tri giác người đọc: “Cả trời bỗng nổi
lên muôn điệu nhạc - Rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác - Rất phương phi, trên
hết cả anh hoa” (Ra đời). “Sự thống trị của cái chủ quan là căn nguyên của việc thơ
tượng trưng, siêu thực có ảnh hưởng sâu sắc đến Thơ mới” (Trần Nho Thìn).
Sự tương hợp này, dù không nhiều, nhưng đây đó vẫn thấy xuất hiện trong
thơ Chế Lan Viên. Với ý thức chấp nhận cái tột cùng của bi thảm là sống với hư vô,
Chế Lan Viên cảm nhận được cái nhỏ bé, đơn côi của mình trong cõi siêu hình như
“một con chim thu lạc cuối ngàn”. Nhưng trong những phút giây ấy, thi sĩ được dịp
phát triển hết mọi cảm quan, ngây ngất, đê mê, mơ mộng trước cảnh tượng u sầu,
huyền ảo. “Hãy lắng nghe nhạc trăng vàng dãy dụa - Trong nhạc trăng vang nổi
khắp cung mây” (Vo lụa - Chế Lan Viên).
Từ năng lực khám phá những tương ứng, tương giao trong thiên nhiên,
Trường thơ Loạn đã bỏ “cái trông thấy” để đi vào thế giới bên trong, nơi âm thanh,
màu sắc, hương thơm hòa hợp, sáp nhập với nhau. Thế giới đầy nhạc, đầy hoa thơm
tho vô độ ấy là “thế giới của ước mơ, của sự giao hòa tương ứng giữa các giác quan,
của sự mập mờ bất phân định giữa chủ thể và khách thể” [12,163].
Thơ Loạn không chỉ có sự tương hợp giữa các giác quan mà còn có cả sự
tương hợp giữa trực giác và vô thức trong tư duy nghệ thuật. Tư duy văn học đóng
vai trò quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định đến sáng tác cũng như chất
lượng tác phẩm. “Đặc điểm quan trọng nhất của tư duy thơ là sự thể hiện cái tôi trữ
tình, cái tôi cảm xúc, cái tôi đang tư duy” [85,56]. Chế Lan Viên từng nói: “Nghe
ngóng, quan sát, lấy tài liệu cũng chỉ giúp ta nắm chân lý lấy một nửa. Còn một nửa
nữa là phải biết vận dụng tư duy… Tư duy phải làm nghìn triệu phép tính, bộ óc
phải vận dụng từ sức quan sát, sự phán đoán, trí tưởng tượng” [27,87]. Ảnh hưởng
từ những luồng tư tưởng tiến bộ phương Tây, Trường thơ Loạn đã có những chuyển
biến mạnh mẽ đầy sáng tạo, phóng túng theo trí tưởng tượng, cảm xúc, nhân sinh
quan, thế giới quan và hoàn cảnh riêng của chủ thể trữ tình. Thơ Loạn có sự dung
hòa giữa tư duy phương Đông và phương Tây, thiên về trực giác và phi lý tính.
Hơn ai hết, các thi sĩ thơ Loạn quan niệm thi nhân phải là người thức nhọn
mọi giác quan, đi sâu vào tận tâm hồn, cõi tâm linh của mình để đánh thức những
miền bí ẩn, huyền diệu của thế giới vô thức, cảm nhận thế giới bằng trực giác chứ
137
không phải bằng những trực cảm thông thường. Điều này cũng xuất phát từ nhu cầu
muốn nắm bắt những tương quan, bí ẩn giữa con người và vũ trụ của các nhà thơ.
Thi sĩ luôn quan sát, lắng nghe mọi âm thanh của vũ trụ, thế giới hồn mình, nhưng
để nó bật lên thành nghệ thuật thì chỉ trong một khoảnh khắc, một phút giây nào đó
thường không có sự tham gia của lý trí, mà là một nhận thức bất chợt ta gọi là giây
phút “xuất thần”. Vậy trực giác là gì? Theo nhà triết học Pháp Bergson: “Chúng tôi
gọi trực giác là sự thông cảm nhờ đó ta đem chính mình vào trong lòng sự vật để
đồng hóa ta với cái gì là duy nhất là bất khả của sự vật đó” [60,29], và con người
“Nhìn thấy được, nhận biết được một cách trực tiếp, không cần gián tiếp thông qua
phân tích, chứng minh của lý trí. Nó giúp ta nắm được cái tiềm ẩn của sự vật, nhưng
không theo quá trình được ý thức một cách rõ ràng” [52,17]. “Trực giác là một đột
nhiên trong tâm lý ta bắt gặp một hình tướng hay ý tượng, mà thực ra đó là sự sáng
tạo vì hình tướng là sự sáng tạo nên nghệ thuật [93,164]. Thông qua trực giác, nhà
thơ có thể nắm được cái tiềm ẩn bên trong, “cái lõi” của sự vật, hiện tượng một cách
trực tiếp nhất, nó khác với những trực cảm thông thường của các nhà thơ lãng mạn.
Thực ra, trong văn học nghệ thuật phương Đông từ xa xưa đã có cái nhìn trực giác
tâm linh. Đỗ Phủ cho rằng “thi thành, khấp quỷ thần” (thơ thành khiến cho quỷ thần
phải khóc). Sự ngự trị của con mắt tâm linh trong thơ ca phương Đông thường đưa
đến chiều hướng làm thơ theo phép mộng tưởng, giả tưởng. Các tác giả Xuân Thu
nhã tập xem trực giác là bản chất có tính cội nguồn của thơ. Trong tuyên ngôn của
mình, Xuân Thu nhã tập cho rằng: “cái mà thời nhân có thể cho là hấp thụ của
phương Tây, thì người Á Đông ta có cái trí cổ sử, trực giác ngay từ lúc đầu, nhờ
một ngôn từ đặc biệt” [86,36]. Cổ nhân gọi điều mà trực giác trực tiếp cảm thấy
được là cái “thần” của sự vật. Đó là sự vụt hiện, là khoảnh khắc gây nổ tung, tuôn
vọt những cảm xúc, cảm giác ở thang độ đỉnh điểm vốn tích lũy những mãnh lực
nằm ẩn sâu trong lớp vô thức. Chính trực giác và vô thức làm cho nghệ thuật bùng
phát và tỏa sáng. “Toàn bộ tác phẩm nghệ thuật đều do tính trực giác sáng tạo sinh
ra” (Maritain), mà cơ sở của tính trực giác sáng tạo là “tinh thần vô thức”. Theo
Maritain, nguồn gốc của sự hoạt động con người dù là lý tính hay phi lý tính đều
gom về một mối là tinh thần vô thức. Và tinh thần vô thức ẩn tàng trong cội nguồn
chung của toàn bộ lực lượng tâm hồn.
138
Trong thơ Loạn, thế giới tượng trưng mờ ảo là thế giới lý tưởng của từng thi
sĩ. Có thể là thế giới của niềm tin và của trăng quằn quại trong thơ Hàn Mặc Tử; là
thế giới của hồn ma, tử khí, xương khô trong thơ Chế Lan Viên; hay thế giới đầy
nhạc, lệ, đẹp, dâm, cuồng, ánh sáng và tình yêu trong thơ Bích Khê... Và trong thế
giới tượng trưng, dường như tất cả được nhìn bằng trực giác và vô thức. Vô thức
như một giây phút thôi miên từ hư vô xa thẳm vẫy gọi tác phẩm hình thành. Từ trực
giác và vô thức, thi sĩ thơ Loạn có thể nghe “tiếng sao rơi”, “âm hưởng địa cầu đang
vỡ toang ra từng mảng”, ngửi được “hương trăng”, thấy được “lòng trăng mật”... Vô
thức trong thơ Loạn được khởi phất từ những điều ám ảnh của thực tại khách quan
mà các nhà thơ từng trải qua và có tác động cực kỳ to lớn đến nhận thức của họ.
Nhưng những ám ảnh của các thi nhân có thể xuất phát từ những ẩn ức dồn nén do
bi kịch cá nhân đem lại. Chính những ảnh hưởng to lớn của thực tại khách quan
chèn ép đến nhận thức khiến nhà thơ ám ảnh. Trực giác dẫn dắt thi nhân đến chân
trời huyền bí, bằng lý trí khó cắt nghĩa được, tất cả đều mơ hồ, bí ẩn: “Thơ bay! Thơ
bay vô tay ngà, - Thơ ngà ngà say! Thơ ngà ngà say! - Nàng ơi! Đừng động có nhạc
trong giây, - Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trong mây - Nhạc lên cung hường, nhạc
vô đào động” (Nhạc - Bích Khê). Hai bờ thực ảo bị xóa nhòa, chỉ còn tâm hồn siêu
thăng, lắng đọng để âm nhạc dìu dặt ngân lên. Không gian thực mất đi chỉ còn là cõi
mộng tưởng, vô hình, hư vô “hoa mộng”, “đào động”, “nàng tiên nương”. Có khi,
những hình ảnh rùng rợn của chiếc sọ người với đôi hố sâu gớm ghiếc của mắt, với
hàm răng nhe ra như tinh ma, thi nhân bảo đó là bình vàng chén ngọc, chứa đựng
những khoái lạc lịm người, thơm tho ngào ngạt: “Ôi khối mộng của hồn thơ chếnh
choáng! - Ôi buồng xuân hơ hớ cánh đào sương! - Ôi bình vàng! ôi chén ngọc đầy
hương! - Ôi hồ nguyệt đọng nhiều trăng lấp loáng! - Ôi thần tình! người chứa một
trời thương. - Người yên tịnh nhưng người đi muôn dặm - Máy thu thanh hòa âm
nhạc thơm tho! - Miệng yêu kiều mơn ánh sáng say no! - Nguồn trinh tiết gây hồng
tươi xanh thắm! - Bầu sữa người êm mát vạn sầu lo” (Sọ người - Bích Khê). Hàn
Mặc Tử nhận xét thẩm mỹ quan của Bích Khê rằng: “Trực giác của thi sĩ mạnh quá,
đến nỗi thấy nhan sắc lên hương, thấy cả bóng Nghê thường đang nao nao gợn, và
so sánh hai hàng nước mắt trong trắng của nàng là hai chiếc đũa ngọc (…). Nếu
chẳng phải là một nghệ thuật siêu thần, thi nhân làm sao đưa đến một nguồn sống
139
phong tình mà thanh khiết cho giai nhân? Để có được cái ma lực huyền diệu cám dỗ
được ngũ quan của người trần” (Tựa Tinh huyết)… Cái tôi tâm linh đầy ẩn ức trong
thơ Bích Khê có sự trộn lẫn giữa những gì trần tục và thanh cao, có cả địa ngục và
thiên đường, khát vọng cao cả và khoái lạc thân xác… Cho nên, ngoài Sọ người,
còn có những Tranh lõa thể và những Mộng lạ làm người đọc ngỡ ngàng và kinh
ngạc. Những bức tranh “nuy” là kết quả thăng hoa của những ẩn ức dồn nén, bị chế
ngự trong vô thức và đến đỉnh điểm xung động thì bừng nở ở một chàng trai trẻ chịu
định mệnh đóng đinh bằng căn bệnh lao quái ác. Từ thực tại khắc nghiệt và lòng
khát khao vô hạn độ của bản năng tuổi trẻ, Bích Khê tìm sự giải hạn bằng cuộc
phiêu du trong cõi tinh thần, cõi tâm linh, “chiếm lĩnh cái đẹp nguyên sơ, toàn vẹn”:
“Một người thiếu nữ hiện trong trăng - Khăn hồng chùi lệ ngấn đôi mắt - Da thịt
phô bày ý tuyết băng” (Hiện hình - Bích Khê). Bích Khê làm thơ có sự gia công
nghệ thuật rất rõ. Như một nhà luyện đan ngôn từ, thi sĩ “cặm cụi đun nấu, pha chế,
thử nghiệm các con chữ. Ông dò tìm năng lực tiềm ẩn của chúng: ngữ âm, ngữ
pháp, ngữ nghĩa, hình ảnh…” [88,188], nhưng có những thoáng chốc, trong vô
thức, ngôn từ dìu nhau đi tự nhiên trên văn bản làm mê hoặc, quyến rũ người đọc
thơ: “Đây bóng lá ánh trăng nhuồm sấp ngã - Một cô hồn có lẽ thoáng đi qua - Sao
lốm đốm trên cây nằm lả tả - Một chuỗi cười rồ rộ ở trong hoa” (Người say rượu -
Bích Khê).
Như Bích Khê, Hàn Mặc Tử phải chịu căn bệnh quái ác trầm kha dày vò thể
xác và tâm hồn đến tê dại. Chính vì vậy, không ít câu thơ của Hàn ghi ra trong trạng
thái hỗn loạn đau đớn mà không ai lí giải được. Đó là thế giới hình tượng đầy trăng,
hoa, hương lẫn lộn với hồn và máu được cảm nhận bằng trực cảm sắc nhạy. Đây là
ám ảnh của linh thị khi bệnh tình vừa phát tiết: “Lụa trời ai dệt với ai căng - Ai thả
chim bay đến Quảng Hằng - Và ai gánh máu đi trên tuyết - Mảnh áo da cừu ngắm
nở nang” (Cuối thu - Hàn Mặc Tử). Và đây, những vần thơ Hàn ghi lại sau khi trở
về từ cõi chết: “Cả hơi hám muôn xưa theo ám ảnh - Hồn trơ vơ không biết lạc về
đâu - Và vướng vất phải muôn ngàn tinh khí lạnh - Hồn mê man bất tỉnh một hồi
lâu” (Hồn lìa khỏi xác - Hàn Mặc Tử)… Thơ Hàn Mặc Tử diễn đạt những giấc
chiêm bao, những ảo giác bằng những câu, những nhịp điệu mơ hồ, đứt quãng. Thơ
thể hiện trong trạng thái nửa mơ, nửa thức, chập chờn, bất định. Thi sĩ đã xáo trộn
140
những quan hệ trong cuộc sống và thi ca. Logic của thơ ca không được tuân thủ
theo trật tự bình thường, một hiện thực quen thuộc mà là siêu hiện thực. Cốt lõi của
bài thơ hình thành một mạch chìm đâm cành rẽ nhánh, biến hóa theo dòng tư tưởng,
tình cảm, qua cảm nhận trực quan của thi nhân: “Ai đi lẳng lặng trên làn nước - Với
lại ai ngồi khít cạnh tôi - Mà sao ngậm cứng thơ đầy miệng - Không nói không rằng
nín cả hơi?” (Cô liêu - Hàn Mặc Tử)… Những dòng thơ ám thị, cuốn hút người đọc
vào thế giới hư thực, chập chùng, lung linh. Đó là tiếng lòng của giấc mơ, của cơn
say, sự mê sảng, của dòng ý thức và vô thức đan chéo, mắc giăng.
Chế Lan Viên cũng có nhiều bài thơ sáng tác từ kiểu tư duy kết hợp trực giác
và vô thức. Chán ghét thực tại, Chế quay về quá khứ, tìm lại nước Chàm xưa cũ.
Trên đường về, bằng trực giác của mình, thi nhân đã nghe được bao âm thanh huyền
bí, ghê sợ vọng lên từ cõi tâm linh: “Ta hãy nghe, trong mồ sâu lạnh lẽo, - Là thịt
người nảy nở tiếng xương rên” (Bóng tối - Chế Lan Viên). Tất cả như tan biến chỉ
còn hồn ma ám ảnh, vô thức sống dậy đẩy lùi ý thức, thậm chí phủ nhận luôn sự tồn
tại của ý thức. Nhà thơ dựng lại quá khứ của dân tộc Chiêm Thành, sống với những
hình ảnh về hồn ma bóng quỷ, lấy trạng thái “điêu tàn” làm đối tượng thẩm mĩ:
“Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng - Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh -
Đây, chiến thuyền nằm mơ bên sông lặng - Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành”
(Trên đường về - Chế Lan Viên). Từ cái nhìn bi quan về cuộc đời, Chế đã nhập vào
dân Chàm mà khóc thương cho kiếp buồn của họ, vực dậy sự đổ nát, điêu tàn của
thời đại. Nỗi đau mất nước của dân tộc Việt được Chế Lan Viên gián tiếp bày tỏ qua
cách quay về dĩ vãng, tìm đến nước non Chàm một thuở oai linh. Một đất nước mà
muốn tìm nó phải đi qua một biên giới quan trọng: xóa bỏ thực tại, vào cõi hư vô để
cảm nhận bằng trực giác và vô thức. Vì chính hư vô mới có thể bắt gặp đầy đủ cả
một vương quốc, cả một nền văn minh đền tháp, cả một thế giới du dương bởi màu
sắc và âm thanh… Chính giữa hư vô, nơi nhà thơ nhập thể vào, vẳng lên tiếng hát
như thực, như mộng của Chiêm nương: “Chiêm nương ơi, cười lên đi em hỡi! - Cho
lòng anh quên một phút buồn lo! - Nhìn chi em chân trời xa vòi vọi - Nhớ chi em
sầu hận nước Chàm ta?” (Đêm tàn - Chế Lan Viên). Người tình Chiêm nữ biểu
trưng cho nỗi u sầu, oán hận của một đất nước tươi đẹp đã mất: “Đây những cảnh
thái bình trong Chiêm quốc - Những cô thôn vàng nhuộm ánh chiều tươi - Những
141
Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp - Áo hồng nâu phủ phất xõa lời vui” (Trên đường
về - Chế Lan Viên). Dù đang ở trên bóng núi mây cao hay trong vòng tay âu yếm
của người tình, linh hồn Chiêm nữ vẫn đau đáu hướng về cố quốc. Hoài vãng về
nước non Chàm một thời rực rỡ, một người tình diễm lệ, hư vô cũng là cách để Chế
Lan Viên giải phóng những ẩn ức của thực tế cuộc sống. Bởi, trong thời đại bấy giờ,
muốn bày tỏ nỗi lòng một cách trọn vẹn, không gì hơn bằng quay về quá khứ, mượn
hình ảnh người làm hình ảnh mình, mượn tiếng than của người làm tiếng than của
mình, mượn nỗi thù hận của người làm nỗi thù hận của mình.
Nghệ thuật tương hợp giúp Trường thơ Loạn thiết kế nhiều bài thơ tân kỳ, lôi
cuốn người đọc vào miền tâm linh miên viễn. Tuy vậy, sự đề cao thái quá trực giác
và vô thức đây đó cũng khiến thi phẩm Trường thơ Loạn mất cân bằng, có lúc vượt
qua từ trường tượng trưng, men vào lãnh địa siêu thực, dễ đi vào siêu hình thần bí.
Tiểu kết
Từ sự thay đổi về quan niệm nghệ thuật tất yếu sẽ dẫn đến một kênh mới về
phương thức thể hiện trong sáng tác của Trường thơ Loạn, mà trước hết là sự cách tân
về ngôn ngữ. Các thi nhân đã mang đến cho thi phái của mình một ngôn ngữ thơ mới
lạ, độc đáo, giàu thủ pháp tạo nghĩa, kéo thơ đến gần với nhạc và họa bằng giai âm
huyền hồ và sắc màu diệu vợi. Có thể xem nhạc và họa như một chiếc áo tân kỳ lung
linh và rực rỡ, được Trường thơ Loạn sử dụng như một nét thi pháp nổi trội trong
suốt hành trình sáng tác. Thơ Loạn là một thế giới vĩnh cửu được tạo nên từ sự thức
nhận ngôn từ, sự đa thanh giọng điệu, cùng nghệ thuật tương hợp để hòa trộn mọi
giác quan, tạo cho thơ một thế giới tinh vi và khơi gợi, ngợi ca những hệ lụy cõi đời,
những khát khao trần thế, những mối giao hòa giữa con người với vũ trụ vô biên. Tuy
có lúc, Trường thơ Loạn để tâm trí của mình phiêu diêu quá xa đời thực khiến hình
tượng thơ có phần cầu kỳ, gây cản trở quá trình lĩnh hội, nhưng không thể phủ nhận,
cách diễn đạt mới lạ của các thi sĩ đã tạo nên sự thay đổi chiều sâu, làm nên một cú
hích quan trọng trong quá trình phát triển thơ Việt.
142
KẾT LUẬN
1. Chỉ trong vòng chưa đầy 15 năm, Thơ mới đi trọn vẹn hành trình bằng hơn
100 năm thơ Pháp (Phan Cự Đệ), thành một hiện tượng có một không hai trong lịch
sử văn học dân tộc. Phong trào Thơ mới tỏa sáng với những tên tuổi và thi phẩm bất
hủ, kiến trúc nên thời đại rực rỡ với nhiều khuynh hướng, nhiều trường phái sáng
tạo. Nhưng nhìn lại quá trình vận động và phát triển phong trào Thơ mới, so với
những nhóm thơ khác, Trường thơ Loạn khẳng định tên tuổi và vị thế của mình hơn
cả. Đây là một hiện tượng văn học vô cùng phong phú, đa dạng nhưng không kém
phần phức tạp. Lịch sử nghiên cứu, phê bình hơn hai phần ba thế kỷ qua đã chứng
minh điều ấy. Cũng từ lịch sử nghiên cứu, phê bình, chúng tôi nhận thấy, dù đã có
khá nhiều những chuyên luận, bài báo trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến biểu hiện
của khuynh hướng tượng trưng trong thơ Loạn. Song, chưa có công trình nào nêu
lên vấn đề này như đối tượng nghiên cứu trọn vẹn.
2. Sự gặp gỡ, tiếp thu và tiếp biến thi pháp tượng trưng phương Đông thâm
trầm, huyền bí với thi pháp tượng trưng phương Tây hiện đại cùng bi kịch cá nhân
như món quà vô giá mà tạo hóa ban phát, đã giúp những nghệ sĩ thơ Loạn thiết kế
nên những vần thơ thiên tài, kinh hoàng và thu hút. Thơ Loạn là sự tích hợp giữa
lãng mạn và tượng trưng, càng về sau yếu tố tượng trưng càng đậm nét. Đó là cuộc
cách mạng vĩ đại thể hiện ở khả năng hòa nhập và tái tạo với một tinh thần luôn học
hỏi, không chịu lùi bước, không chịu đi theo lối mòn khuôn sáo cũ.
Quá trình tiếp biến và kết tinh yếu tố tượng trưng nói trên là bệ đỡ để Trường
thơ Loạn thể hiện quan niệm mới lạ về thơ. Trường thơ Loạn thần thánh hóa vai trò
của nhà thơ, xem việc sáng tác thơ là cuộc du ngoạn của những cảm xúc tinh túy,
thăng hoa trong “khoái lạc của hồn đau” (Võ Long Tê), trong tột cùng đau thương và
hạnh phúc. Họ đặt thơ vào cái vô hình và xuất phát từ cảm giác, vì thế thơ không
còn là truyền cảm nữa mà là gợi cảm. Độc giả phải tự khai mở những hướng đi của
thơ vào tâm hồn mình để tiếp nhận được những gì tế vi nhất.
3. Từ ảnh hưởng của thi phái tượng trưng, Trường thơ Loạn mang đến cho
người đọc thế giới hình tượng và biểu tượng độc đáo.
Đi từ cái tôi gắn kết giữa thi nhân và tín đồ đến cái tôi đối cực trần thế và
143
siêu nhiên, để từ đó bằng mộng mơ và tưởng tượng, cái tôi trữ tình thơ Loạn vượt
thoát vào một thế giới mới, một vũ trụ mới được dệt bằng hương hoa, thanh sắc và
giai âm. Ở đó, con người mang trong mình tột đỉnh đau thương và khát vọng, vượt
khỏi giới hạn chật hẹp của thể xác để thoát thai vào cõi hư vô. Con người có xu
hướng nhìn sâu vào bản thể mình để tìm kiếm những giá trị mới và những cơn vận
động run rẩy của linh hồn, sự hoảng loạn, đổ vỡ của nội tâm quay cuồng trong cơn
đau thương mê sảng…
Cùng với hình tượng cái tôi, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật
cũng là hình tượng thơ đặc sắc của Trường thơ Loạn. Trường thơ Loạn lấy mình,
lấy chung quanh mình làm đối tượng chiêm quan để khái quát lên những hình tượng
không gian và thời gian độc đáo. Các thi nhân dệt nên những sợi không gian, thời
gian với rất nhiều sắc màu tâm trạng, nhưng đều ở mức độ mãnh liệt nhất, đồng
hiện cùng những buồn, vui, hạnh phúc và đớn đau, qua đó nói lên hiện thực và các
phạm trù có liên quan đến đời sống con người.
Việc tiếp thu lý thuyết tượng trưng làm cho biểu tượng trong sáng tác
Trường thơ Loạn mang ý nghĩa phổ quát cao. Biểu tượng là phương thức hữu hiệu
giúp thơ Loạn độc đáo và quyến rũ. Sự sống của các nhà thơ Loạn là sự tụ tán của
Trăng - Hồn - Máu. Trăng là kết tinh vẻ đẹp đau thương và thánh thiện, hồn là phần
anh linh của thi sĩ, máu là thể xác thống khổ về những thảm sử. Cùng với đó, Hoa -
Nhạc - Hương cũng là chuỗi biểu tượng xuất hiện với tần số cao trong thơ Loạn, gợi
vẻ trinh nguyên và thanh khiết. Những biểu tượng này được đặt trong mối liên hệ,
hỗ tương, tác động với nhau để tạo ra thế giới nghệ thuật tân kỳ và bí hiểm, làm nên
mĩ học tượng trưng đặc thù Việt Nam.
4. Trong hành trình đến với thơ tượng trưng, Trường thơ Loạn thực hiện
cuộc phiêu lưu kiếm tìm phương thức thể hiện phù hợp với quan niệm nghệ thuật,
tạo nên những phong cách thơ mới lạ, riêng biệt nhưng thống nhất, nhất là trên các
phương diện: ngôn ngữ, giọng điệu và nghệ thuật tương hợp trong thơ.
Quá trình cách tân ngôn ngữ trong Trường thơ Loạn xuất phát từ sự thức
nhận ngôn từ. Với ngôn từ mới lạ, hàm súc, đa dạng thủ pháp tạo nghĩa, Trường thơ
Loạn đưa người đọc đến một thế giới ảo mộng, hư huyền, mở ra một vùng cảm xúc
144
kỳ diệu. Các thi nhân đã chiếm lĩnh, cắt nghĩa vẻ đẹp cuộc sống, tâm hồn con người
bằng khả năng điều khiển ngôn ngữ thơ một cách tài tình, linh hoạt và phong phú.
Ngôn ngữ trong thi phẩm thơ Loạn rất giàu nhạc tính và họa tính. Có thể nói,
Trường thơ Loạn tìm đến thơ tượng trưng như tìm sự hội ngộ của tư duy truyền
thống và hiện đại. Hai trong ba trụ cột của Trường thơ Loạn trước khi đến với thơ
tượng trưng đã làm thơ Đường khá vững. Do đó, họ chắc chắn không xa lạ với
nguyên tắc mĩ học “thi trung hữu nhạc” và “thi trung hữu họa” của thơ ca phương
Đông. Nhờ đó, thi phẩm thơ Loạn có sức mạnh gợi cảm khi biết tổng hợp vào mình
nhiều loại hình nghệ thuật khác như hội họa và âm nhạc.
Bên cạnh đó, một trong những phương diện tạo nên giá trị bền vững cho thơ
Loạn là giọng điệu thơ. Giọng điệu nghệ thuật trong sáng tác của Trường thơ Loạn
đa sắc điệu, có khả năng chứa đựng, diễn tả được cảm xúc, tâm trạng cũng như
những suy nghiệm của nhà thơ trước cuộc đời. Từ giọng điệu đó, người đọc có thể
cảm nhận chính xác hơn những u buồn cay đắng, thấm đẫm nỗi đau đời; hay tình
cảm đằm thắm thiết tha, cái sôi nổi cũng như cái trần trụi, xót xa khi nhà thơ thể
hiện những nghịch lí trong đời sống.
Trường thơ Loạn bước vào địa hạt thơ tượng trưng, dù còn những hạn chế
nhất định, nhưng đã mang đến cho thơ vẻ đẹp thăng hoa từ những điều thiêng liêng
và kinh dị. Thơ Loạn là thế giới của sự tương thông, thế giới của “hương thơm, màu
sắc, âm thanh trong không gian tương ứng”. Các thi sĩ đã khai phá thế giới tâm linh
vi diệu ấy bằng trực giác sắc nhạy, vô thức và bản năng để thiết kế nên một mô hình
thơ hiện đại, đưa thơ Việt tiến vào quỹ đạo thơ thế giới.
Đã tròn 80 năm tính từ ngày thành lập, nhìn lại, Trường thơ Loạn đã hoàn
thành trọng trách lịch sử - thi ca của mình. Tất cả họ đã sống hết mình trong niềm
đam mê vô hạn với thơ để khám phá, sáng tạo ra một “cuộc đời thứ hai bằng ngôn
ngữ” (Chế Lan Viên). Các thi sĩ đã ra đi, nhưng vườn thơ họ vẫn điểm sắc, tỏa
hương thơm ngát giữa dòng thời gian miên viễn của cõi người.
145
NHỮNG CÔNG TÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐỀ TÀI
1. Võ Như Ngọc (2014), “Quan niệm nghệ thuật của Trường thơ Loạn - nhìn từ
thi phái tượng trưng”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học
Khoa học Huế, số 2, tập 1.
2. Võ Như Ngọc (2012), “Sự vận động hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Chế
Lan Viên”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Quy Nhơn, số 3, tập 6.
3. Võ Như Ngọc (2012), “Chế Lan Viên - nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy”,
Tạp chí Lý luận và phê bình văn học nghệ thuật, số 3.
4. Võ Như Ngọc (1015), “Trường thơ Loạn - Thi trung hữu họa”, Tạp chí Văn
hiến Việt Nam, số 9 (248).
5. Võ Như Ngọc (2015), “Không gian văn hóa của Trường thơ Loạn trong
phong trào Thơ mới 1932 - 1945”, Tạp chí Văn hóa Bình Định, số 60.
6. Võ Như Ngọc (2011), “Cảm thức thời gian trong thơ Chế Lan Viên”, Tạp chí
Văn hiến Việt Nam, số 9 (181).
7. Võ Như Ngọc (2015), “Thế giới biểu tượng trong sáng tác của Trường thơ
Loạn”, Tạp chí Văn hóa Bình Định, số 55.
8. Võ Như Ngọc (2014), “Cảm thức hoài vãng trong Điêu tàn”, Tạp chí Văn
nghệ Bình Định, số 19 + 20.
9. Võ Như Ngọc (2011), “Sự vận động quan niệm nghệ thuật thơ Chế Lan
Viên”, Tạp chí Đất Quảng, số 92 (214).
10. Võ Như Ngọc (2016), “Không gian và thời gian nghệ thuật trong sáng tác
của Trường thơ Loạn”, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, (có giấy nhận đăng).
11. Võ Như Ngọc (2015), “Nhạc và họa trong thơ Hàn Mặc Tử”, Tạp chí Văn
hóa Bình Định, số 62.
12. Võ Như Ngọc (2012), “Trường thơ Loạn với hoa trái đau thương và sắc màu
khoái lạc”, Tạp chí Văn nghệ Bình Định, số 15.
13. Võ Như Ngọc (2016), “Trăng trong thơ Yến Lan”, Kỷ yếu Hội thảo khoa
học Yến Lan - một nhân cách, một sự nghiệp thi ca, Hội Văn học Nghệ thuật
Bình Định tổ chức nhân kỷ niệm 100 năm sinh nhà thơ Yến Lan.
146
14. Võ Như Ngọc (2014), “Vẻ huyền ảo của biểu tượng Trăng, Hồn, Máu trong
sáng tác Trường thơ Loạn”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Yếu tố kỳ ảo và huyền
thoại trong văn học, Đại học Khoa học Huế.
15. Võ Như Ngọc (2012), “Trường thơ Loạn và nỗi khát khao làm sự phi
thường”, Tạp chí Văn nghệ Bình Định, số 14.
16. Võ Như Ngọc (2015), “Trực giác và vô thức trong thơ Bích Khê”, Tạp chí
Văn nghệ Bình Định, số 25.
17. Võ Như Ngọc (2013), “Chế Lan Viên - Từ tháp Chàm bí ẩn đến tháp Bay-on
bốn mặt”, Tạp chí Văn hóa Bình Định, số 58.
18. Võ Như Ngọc (2015), “Trường thơ Loạn với sự lạ hóa chứ quốc ngữ”, Kỷ
yếu Hội thảo Bình Định với chữ quốc ngữ, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam
và UBND tỉnh Bình Định tổ chức.
19. Võ Như Ngọc (2016), “Người tình Chiêm nữ trong thơ Chế Lan Viên”, Tạp
chí Đất Quảng, số 145 (267).
20. Võ Như Ngọc (2016), “Giọng điệu nghệ thuật trong sáng tác của Trường thơ
Loạn”, Tạp chí Văn hóa Bình Định, số 64.
147
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tiếng Việt
1. Vũ Tuấn Anh (1996), “Sự vận động của cái tôi trữ tình và tiến trình thơ ca”,
Tạp chí Văn học, số 1.
2. Vũ Tuấn Anh (1997) Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 - 1995, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
3. R. M. Albérès (1963), (Phạm Đình Khiêm dịch) Tổng kết văn học thế kỷ XX,
Viện Đại học Huế.
4. Nguyễn Bao (1991), Xuân Thu nhã tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
5. C. Baudelaire (1995) (Vũ Đình Liên dịch), Thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
6. Phan Canh (1999), Thi ca Việt Nam thời tiền chiến 1932 - 1945, Nxb Đồng
Nai.
7. Đinh Cường (1966), “Nhạc và họa trong thơ Bích Khê”, Tạp chí Văn, số 64.
8. Jacques Charpier, Pierre Seghers (1996) (Lê Thanh Lộc dịch), Nghệ thuật
hội họa, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
9. X. Darcos (1997) (Phan Quang Địch dịch), Lịch sử văn học Pháp, Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
10. Trương Đăng Dung (1998), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
11. Phan Huy Dũng (1999), “Tổ chức bài thơ theo sự dẫn dắt của âm nhạc: một
đặc điểm loại hình kết cấu của nhiều bài thơ mới”, Tạp chí Văn học, số 2.
12. Phan Huy Dũng (2000), Kết cấu trong thơ trữ tình, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn,
Đại học Sư phạm Hà Nội.
13. Will Durrant (1999) (Nguyễn Hiến Lê dịch), Lịch sử văn minh Trung Hoa,
Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
14. Xuân Diệu (1938), “Thơ của người”, Báo Ngày nay, số ra ngày 7 tháng 8.
15. Hoàng Diệp (1969), Chế Lan Viên, Thi sĩ tiền chiến, Nxb Khai trí, Sài Gòn.
16. Phan Cự Đệ (1998), Hàn Mặc Tử: tác phẩm, phê bình và tưởng niệm, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
17. Phan Cự Đệ, Nguyễn Toàn Thắng (2003) (Tuyển chọn và giới thiệu), Hàn Mặc
Tử, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
148
18. Phan Cự Đệ (1997), Văn học đổi mới và giao lưu văn hóa, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
19. Phan Cự Đệ (tái bản 1998), Phong trào Thơ mới1932 - 1945, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà
Nội.
21. Hà Minh Đức (1995), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Hà Minh Đức (1996), “Điêu tàn và tâm hồn thơ Chế Lan Viên”, Tạp chí Văn
học, số 10.
23. Hà Minh Đức (1999), Một thời đại trong thi ca, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
24. Hà Minh Đức (2001), Văn chương, Tài năng và phong cách, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
25. Alain Gheerbrant - Jean Chevalier (1997), Từ điển biểu tượng văn hoá thế
giới, Nxb Đà Nẵng.
26. Bích Hà (Tuyển chọn và giới thiệu) (2006), Hàn Mặc Tử - một cá tính sáng
tạo độc đáo, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
27. Hồ Thế Hà (1999), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Luận án Tiến sĩ,
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
28. Hồ Thế Hà (2007), Những khoảnh khắc đồng hiện, Nxb Văn học, Hà Nội.
29. Lê Bá Hán (chủ biên, 1998), Tinh hoa Thơ mới, thẩm bình và suy ngẫm, Nxb
Giáo dục, Hà Nội
30. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31. Minh Huy (1962), Những khuynh hướng trong thi ca Việt Nam, Nhà sách
Khai Trí, Sài Gòn.
32. Hoàng Hưng (1993), “Thơ mới và thơ hôm nay”, Tạp chí Văn học, số 2.
33. Đoàn Trọng Huy (1994), Những nét đặc sắc cơ bản của hình thức nghệ thuật
thơ Chế Lan Viên từ sau 1945, Luận án Phó Tiến sĩ Ngữ Văn, Hà Nội.
34. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Những biểu hiện của khuynh hướng tượng trưng
trong Thơ mới Việt Nam 1932 - 1945, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Thành phố Hồ Chí Minh.
149
35. Nguyễn Quốc Khánh (1999), Thi pháp thơ Chế Lan Viên, Luận án Tiến sĩ
Ngữ văn, Thành phố Hồ Chí Minh.
36. Nguyễn Quốc Khánh, (2004), Trường thơ Bình Định, Diện mạo và những
đóng góp vào phong trào Thơ mới 1932 - 1945, Đề tài nghiên cứu khoa học,
Trường Đại học Quy Nhơn.
37. Nguyễn Trọng Khánh (2006), Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường
từ góc độ ngôn ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Bích Khê (1995), Tinh hoa, Tinh huyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
39. Nguyễn Hoành Khung (1983), “Hàn Mặc Tử”, Từ điển văn học, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
40. Milan Kundera (1998) (Nguyên Ngọc dịch) Nghệ thuật tiểu thuyết, Nxb Đà
Nẵng.
41. Lê Đình Kỵ (1996), Thơ mới, những bước thăng trầm, Nxb Thành phố Hồ
Minh.
42. Kishnamuti (1976), Tự do và hòa bình, Nxb An Tiêm, Sài Gòn.
43. Đinh Trọng Lạc (2000), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
44. Đinh Trọng Lạc (Chủ biên), Nguyễn Thái Hòa (2004), Phong cách học tiếng
Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Phong Lan (sưu tầm và biên soạn) (2006), Chế Lan Viên người làm vườn
vĩnh cửu, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
46. Mã Giang Lân (1997), Tìm hiểu thơ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
47. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
48. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam hiện
đại, Nxb Lao động, Hà Nội.
49. C. De Ligny - M. Rousselot (1998), Văn học Pháp, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Nguyễn Tấn Long (1968), Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển thượng), Nxb
Sống mới, Sài Gòn.
51. Nguyễn Tấn Long, Phan Canh, (1968), Khuynh hướng thơ ca tiền chiến, Nxb
Sống mới, Sài Gòn.
150
52. Phương Lựu (2001), “Tìm hiểu trực giác và vô thức trong tư duy nghệ
thuật”, Tạp chí Văn học, số 2.
53. Trần Thanh Mại (1941), Hàn Mặc Tử - thân thế và thi văn, Nxb Tân Việt,
Sài Gòn.
54. Nguyễn Thanh Mừng (1992), Bích Khê Tinh hoa và Tinh huyết, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
55. Lê Hoài Nam (1998), “Thế giới nghệ thuật trong tập thơ Tinh huyết của Bích
Khê”, Tạp chí Văn học, số 321.
56. Phan Quỳnh Nga (1999), “Thơ, Người thơ, Nghề thơ trong quan niệm
thơ Hàn Mặc Tử”, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 2.
57. Phan Ngọc (1993), “Ảnh hưởng của văn học Pháp tới văn học Việt Nam giai
đoạn 1930 - 1945” Tạp chí Văn học, số 4.
58. Văn Ngọc (2004), Đi trong thế giới hội họa, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
59. Hoàng Sĩ Nguyên (2007), Thơ mới 1932 - 1945 nhìn từ sự vận động thể loại,
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội.
60. Vương Trí Nhàn (1996) Hàn Mặc Tử hôm qua và hôm nay, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
61. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam giao lưu,
gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội.
62. Nhiều tác giả (2004), 70 năm đọc thơ Bích Khê, Nxb Văn học, Hà Nội.
63. Nhiều tác giả (1997), Văn học Việt Nam 1900-1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
64. Nhiều tác giả (2006), Tham luận hội thảo thơ Bích Khê, Hội Nhà Văn Việt
Nam - Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Ngãi.
65. Nhiều tác giả (1991), Xuân Thu nhã tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
66. Lê Huy Oanh (1967), “Thơ tượng trưng Pháp và Việt Nam”, Tập san Văn, số 66.
67. Lê Lưu Oanh (2006), Văn học và các loại hình nghệ thuật, Nxb Đại học Sư
phạm Hà Nội.
68. Vũ Ngọc Phan (1959), Nhà văn hiện đại, Nxb Thăng Long, Sài Gòn.
69. Phạm Phú Phong (2008), “Bích Khê trong Trường thơ Loạn”, Bích Khê tinh
hoa tinh huyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
151
70. Phạm Phú Phong - Phạm Phú Uyên Châu (2012), “Hàn Mặc Tử trong
Trường thơ Loạn”, Kỷ yếu tham luận Hội thảo 100 năm sinh nhà thơ Hàn
Mặc Tử, Bình Định.
71. Vũ Đức Phúc (1971), Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong văn học
Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
72. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí (Tập 3), Nxb
Thuận Hóa, Huế.
73. Nguyễn Quân, Vương Trí Nhàn (1982), “Mười nhà thơ lớn của thế kỷ”,
Chân dung văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
74. A. Rimbaud (1997) (Huỳnh Phan Anh dịch và giới thiệu), Một mùa địa ngục,
Nxb Văn học, Hà Nội.
75. Chu Văn Sơn (2006), Ba đỉnh cao Thơ mới: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn
Mặc Tử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
76. Chu Văn Sơn (2001), “Thơ điên Hàn Mặc Tử, Thi học của cái tột cùng”, Tạp
chí Văn học, số 11.
77. Chu Văn Sơn (2001), Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử, Luận án Tiến sĩ
Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
78. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
79. Trần Đình Sử (2002), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
80. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
81. Trần Đình Sử, Nguyễn Hữu Sơn (1997), Về con người cá nhân trong văn học
cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
82. Phạm Văn Sĩ (1986), Về tư tưởng và văn học hiện đại phương Tây, Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
83. Hoài Thanh, Hoài Chân (Tái bản 2000), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học,
Hà Nội.
84. Hoài Thanh (1965), Phê bình và tiểu luận, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.
85. Nguyễn Bá Thành (1999), Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy tưởng, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
86. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nxb
Văn học, Hà Nội.
152
87. Nguyễn Toàn Thắng (2007), Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
88. Đỗ Lai Thúy (1997), Mắt thơ - phê bình phong cách Thơ mới, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
89. Đỗ Lai Thúy (2007), “Chế Lan Viên tháp Chàm bốn mặt”, Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật, số 6.
90. Trần Thị Huyền Trang (1997), Hàn Mặc Tử - Hương thơm và mật đắng, Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
91. Xuân Tùng (2001) (sưu tầm và biên soạn), Thơ và văn xuôi Hàn Mặc
Tử, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
92. Nguyễn Bá Tín (1994), Hàn Mặc Tử trong riêng tư, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
93. Chu Quang Tiềm (1991), (Khổng Đức Đinh Tấn Dung dịch) Tâm lý văn
nghệ - Mĩ học hiện đại, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
94. Nguyễn Quốc Túy (1994), Thơ mới - Bình minh thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Văn học, Hà Nội.
95. Hàn Mặc Tử (1997), “Bích Khê thi sĩ thần linh”, Tuyến tập phê bình nghiên
cứu văn học Việt Nam (1900 - 1945), Nxb Văn học, Hà Nội.
96. Trương Tửu (1938), “Quan niệm về thơ Chế Lan Viên”, Báo Ích hữu, số 103.
97. Chế Lan Viên (1940), “Những kỷ niệm về Hàn Mặc Tử”, Báo Người mới, số
ra ngày 23 tháng 11.
98. Chế Lan Viên (1942), Vàng sao, Nxb Tân Việt, Sài Gòn.
99. Chế Lan Viên (1990), Tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
100. Chế Lan Viên (1967), Điêu tàn, Nxb Hoa Tiên, Sài Gòn.
B. Tiếng nước ngoài
101. Austin. L.J (1956), L'Univers poétique de Baudelaire, Mercure de France.
102. Barasch. M (2000), Theories of art, (2) from Winckelmann to Baudelaire,
Routledge.
103. Chatel. N (1970), Charles Baudelaire, Coll. Les Géant, Paris - Match.
104. Eliot. T.S (1951), "Baudelaire", Selected essays, Faber and Faber limited,
London, p. 419 - 430.