nhu lieutruong chua nhat

113
B à i H c T r ư n g C h ú a N h t Chương Trình Ca Đức Chúa Tri Cho Các Thi Đại Mc sư Đoàn Văn Miêng

Upload: tinlanhlibrary

Post on 06-Jun-2015

656 views

Category:

Documents


9 download

DESCRIPTION

Sunday School Series by Rev Mieng Doan

TRANSCRIPT

Page 1: Nhu LieuTruong Chua Nhat

B à i H ọ c T r ư ờ n g C h ú a N h ậ t

Chương Trình Của

Đức Chúa Trời Cho Các Thời Đại

Mục sư Đoàn Văn Miêng

Page 2: Nhu LieuTruong Chua Nhat

2

Mục sư Đoàn Văn Miêng sinh ngày 1-1-1914 tại làng Giai Xuân tỉnh Cần Thơ trong một gia đình nho giáo

gồm có 2 anh trai và 5 chị gái. Ông được nghe giảng Tin lành lần đầu tiên vào năm 1931,

tin nhận Chúa vào năm 1933 tại Hội thánh Ô Môn. Ông dâng mình hầu việc Chúa vào năm 1935 và theo học ở Trường Kinh Thánh Đà Nẵng.

Năm 1937, ông được bổ nhiệm đến Hội thánh Trà Ôn 2 năm và Hội thánh Gia Rai 4 tháng.

Ông trở về Trường Kinh Thánh và tốt nghiệp Thần học vào năm 1942.

Ông tiếp tục hầu việc Chúa tại các Hội thánh Lộc Thuận, Bình Đại, Mỹ Tho và Tân Thạnh.

Năm 1943, ông được phong chức Mục sư, làm chủ tọa Hội thánh Bến Tre năm 1944,

Hội thánh Hàm Long năm 1948 và Hội thánh Long Xuyên vào năm 1953.

Năm 1956, ông được mời làm Giáo sư Trường Kinh Thánh Đà Nẵng.

Năm 1960, ông được cử làm Chủ Nhiệm Địa Hạt Trung Phần và đến tháng 8 năm 1960,

ông giữ Chức vụ Hội Trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam cho đến năm 1976.

Từ đó ông giữ chức vụ Phó Hội Trưởng cho đến khi ông về với Chúa vào ngày 19 tháng 12 năm 1994,

ông hưởng thọ được 80 tuổi.

Vài hàng vềsoạn giả

cố Mục sưĐoàn Văn Miêng

Page 3: Nhu LieuTruong Chua Nhat

3

Chương Trình Của Đức Chúa Trời Cho Các Thời Đại

Cách sử dụng 4 Bài 1- Đức Chúa Trời có một chương trình 6 Bài 2- Vị kiến trúc sư thiên thượng 10 Bài 3- Vị kiến trúc sư bày tỏ chương trình của mình 14 Bài 4- Thiên sứ của Đức Chúa Trời 18 Bài 5- Sa-tan 22 Bài 6- Sự dựng nên vũ trụ 26 Bài 7- Sự dựng nên các sinh vật 30 Bài 8- Tội lỗi 34 Bài 9- Hậu quả của tội lỗi 38 Bài 10- Đức Chúa Trời đoán phạt loài người bằng nước lụt 42 Bài 11- Khi con người tự cai quản 46 Bài 12- Đức Chúa Trời lựa chọn một dân tộc 50 Bài 13- Ban luật pháp 55 Bài 14- Đức Chúa Trời đối đãi với tuyển dân của Ngài 60 Bài 15- Giấc mơ của vua Nê-bu-cát-nết-sa 64 Bài 16- Bốn trăm năm yên lặng 68 Bài 17- Giê-xu Christ là con Đức Chúa Trời 72 Bài 18- Giê-xu Christ là con người 76 Bài 19- Giê-xu Christ là Cứu Chúa đã bị chối bỏ 80 Bài 20- Phép lạ ở Gô-gô-tha 84 Bài 21- Sự sống lại của chúa Giê-xu Christ 88 Bài 22- Chúa Giê-xu Christ thăng thiên 93 Bài 23- Đời sống mới thay cho đời sống cũ 98 Bài 24- Đức Thánh Linh 102 Bài 25- Ân điển của Đức Chúa Trời 106 Bài 26- Đức tin là chìa khóa của cuộc đời 110

Page 4: Nhu LieuTruong Chua Nhat

4

Cách sử dụng

I. Cách Sử Dụng Bài Học (Phần dành cho giáo viên) 1. Xin giáo viên đừng cầm bài học mà đọc từng chữ cho học viên nghe. Vì làm vậy họ sẽ chán. Giáo viên nên đọc bài học nhiều lần ở nhà riêng, làm dấu bằng viết mực hay viết chì màu những chổ quan trọng, những câu kinh thánh phải trưng dẫn để khi nhìn vào là biết ngay mình phải nói gì. Giáo viên có thể dùng lời riêng của mình mà diễn tả ý nghĩa của bài học, không cần phải dùng đúng mỗi lời trong đó. Cách này khiến cho các giáo viên tự do nhìn thẳng vào học viên nói chuyện cùng họ, khiến họ chú ý, nhất là giữa giáo viên và học viên có sự cảm thông với nhau. 2. Sau mỗi bài học có một số câu hỏi. Đành rằng sau khi dạy xong, giáo viên cần ôn lại bằng những câu hỏi đó để xem học viên có lãnh hội được sự dạy dỗ hay không. Tuy nhiên nếu giáo viên vừa dạy vừa hỏi để học viên trả lời ngay không cần ôn lại cũng được, vì học viên đã trả lời hết rồi. Ngoài ra, cách này còn làm cho lớp học hào hứng, hấp dẫn thêm. 3. Sau khi dạy xong bài học, giáo viên xin mỗi học viên viết đại ý, sự dạy dỗ, sự cảm động của bài học đó rồi nộp cho giáo viên vào tuần tới. Cách này sẽ giúp học viên tiến bộ nhanh chóng đồng thời làm nền tảng cho sự khen thưởng của giáo viên mỗi tháng hay mỗi ba tháng. 4. Nếu học viên vô tình ngồi rải rác, giáo viên nên mời họ ngồi lại gần nhau thành một nhóm nhỏ. Như vậy sẽ khiến mỗi học viên chú ý nghe, giáo viên không cần phải nói lớn, khỏi làm ồn cho lớp học bên cạnh. 5. Nếu có một buổi học vì thời tiết, hoặc vì một một việc bất thường nào mà chỉ có rất ít học viên, xin giáo viên cũng cứ giữ lớp mình, đừng bao giờ sáp nhập với một lớp khác. Dầu chỉ có một người, giáo viên vẫn có thể dạy một bài học rất hay như Chúa Giê-xu đã dạy cho Ni-cô-đem, cho người đàn bà Sa-ma-ri.

Page 5: Nhu LieuTruong Chua Nhat

5

II. Cách Soạn Bài Dạy Trước hết, giáo viên phải dọn lòng mình. Hãy xin Chúa ba điều: 1. Xin Chúa dạy bạn bài học này để bạn có thể dạy lại cho học viên. Xin Chúa cảm động bạn qua lời của Ngài để khi bạn dạy, học viên cũng chịu sự cảm động. 3. Xin Chúa cho bạn thấy đúng nhu cầu của học viên trong lớp bạn và bạn có sự khôn ngoan để biết đúng lời Ngài mà đáp ứng các nhu cầu ấy. Kế đó, bạn soạn bài dạy. Hãy nhớ lại bài học tuần qua và xem đại ý bài học tuần tới, để biết bạn đang ở đâu, trong khung cảnh nào. Vì luôn luôn có một cái móc giữa bài học này với bài học kia mà bạn cần phải nối lại. Trong mỗi bài học có một vài điểm thích ứng với nhu cầu lớp bạn, phải nhấn mạnh các điểm ấy. Có điểm nào không rõ ràng , học viên khó hiểu, bạn nên dùng một thí dụ, một hình ảnh để soi sáng. Mỗi bài học đều có một mục đích ghi sẵn ở phần đầu, bạn dạy thế nào để đạt mục đích đó. Một bữa cơm ngon phải do một đầu bếp khéo. Dầu đầu bếp khéo cũng cần phải chuẩn bị sẵn sàng. Khi bạn đã chuẩn bị sẵn sàng cậy ân điển và quyền năng của Chúa mà thi hành trách nhiệm. Được vậy chắc chắn bạn sẽ luôn luôn thành công. Cách hướng dẫn chương trình của chủ tọa các lớp học kinh thánh Dạy kinh thánh là một đặc ân Chúa dành cho bạn. Trong cõi đời đời bạn mới lường hết giá trị của nó. Vậy xin bạn hãy tận dụng khả năng, thì giờ vào việc này. Bạn sẽ không bao giờ hối tiếc. Vì thì giờ có hạn, xin Chủ tọa các lớp học Kinh thánh vui lòng hướng dẫn phần đầu của chương trình như sau: - Hát thánh ca. - Cầu nguyện. - Đọc Kinh thánh có ghi trong bài học. Về phần kết luận, xin dành cho giáo viên của mỗi lớp. Trước khi chấm dứt giờ học Kinh thánh, xin Chủ tọa mời thơ ký đọc số tổng kết các lớp học hôm đó. Chủ tọa có vài lời khuyến kích và thông báo bài học tuần tới.

Page 6: Nhu LieuTruong Chua Nhat

6

BÀI SỐ 1

Đức Chúa Trời Có Một Chương Trình KINH THÁNH: Thi Thiên 136: 1-9 Câu gốc: "Ta là Đức Chúa Trời và chẳng có Chúa nào khác, Ta là Đức Chúa Trời, chẳng có ai giống như Ta. Ta đã rao ra sự cuối cùng của buổi đầu tiên và đã nói từ thuở xưa những sự chưa làm nên". Ê-sai 46: 9-10 Mục đích: Giúp tín hữu nhận thức rằng Đức Chúa Trời cao cả có một chương trình và họ cũng nằm trong chương trình của Ngài. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chúa Nhật : Đức Chúa Trời có từ ban đầu Thi Thiên 90: 1-12 Thứ Hai : Sự dựng nên vũ trụ Thi Thiên 19: 1-14 Thứ Ba : Trời và Đất được dựng nên Ê-sai 40: 12-22 Thứ Tư : Nền của trái đất Giê-rê-mi 31: 37; Hê-bơ-rơ 1: 10-11 Thứ Năm : Kích thước trái đất Gióp 38: 4-6 ; Ê-sai 40: 12-22 Thứ Sáu : Đức Chúa Trời biết tôi Thi Thiên 139: 1-18 Thứ Bảy : Đức Chúa Trời cao cả Thi Thiên 136: 1-9 Đức Chúa Trời là Đấng Tự hữu và Hằng hữu. Ngài vốn có từ trước vô cùng và còn cho đến sau vô tận. Ngài là Đấng đời đời. Đời đời là không có lúc bắt đầu cũng không có khi chấm dứt. Chương trình của Đức Chúa Trời là để cho loài người được biết Ngài qua ba nguồn tài liệu chính xác như : 1. Sự Khải thị của Ngài trong Kinh-thánh. 2. Sự Khải thị của Ngài trong vũ-trụ. 3. Sự Khải thị của Ngài qua Chúa Giê-xu. Ba nguồn tài liệu trên đây như ba pho sách của một tác giả, nên lời lẽ và tư tưởng trong ba pho sách nầy không hề mâu thuẫn nhau mà bổ túc cho nhau. Chúng ta có thể hiểu biết Đức Chúa Trời và không sợ sai lầm bằng cách dựa vào 3 nguồn tài liệu đó.

Page 7: Nhu LieuTruong Chua Nhat

7

Hôm nay chúng ta học về chương trình của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong vũ trụ và trong Kinh thánh.

I. Vũ Trụ Bao La. Kinh thánh chép " Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất " (Sáng thế ký 1: 1). Kinh thánh quả quyết Đức Chúa Trời thực hữu và thực hữu từ ban đầu. Ngài là Số một (1), trước Ngài chỉ có một số không (0). Ngài đã dựng nên vũ trụ. Trong Thi thiên 136 : 1-3, tác giả tôn xưng Chúa bằng 3 Danh Hiệu " Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các thần, Chúa của muôn chúa " 1. Đức Giê-hô-va : Đức Giê-hô-va là Đấng tự hữu, hằng hữu (Xuất Ê-díp-tô ký 3: 15) Đức Giê-hô-va là Đấng dựng nên trời đất (Nê-hê-mi 9: 6 ; Ê-sai 42: 5 ) 2. Đức Chúa Trời của các Thần : Đây là nói theo cách của loài người thường nói, kỳ thật chỉ có một Thần là Đức Chúa Trời (I Cô-rinh-tô 8: 4-16). Tất cả đều là loài thọ tạo, còn Chúa là đấng tạo hóa. 3. Chúa của muôn Chúa : Đây chỉ về quyền cai trị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời trên muôn loài, muôn nước, muôn dân (Dân-số-ký 6: 24-26, Khải-huyền 19: 26). Tiếp theo, tác giả cảm tạ Chúa, ca ngợi Chúa, vì chỉ một mình Ngài làm nên các phép lạ lớn lao (Câu 4). Công việc của Chúa thật kỳ diệu, lớn lao quá đến nỗi viễn vọng kính cũng không khám phá ra hết được, và nhỏ li ti đến nỗi kính hiển vi cũng không thấy rõ được. Khi đứng trên núi hay bên bờ đại dương, chúng ta cảm thấy mình chỉ là một sinh vật vô cùng bé nhỏ trong quả đất nhỏ này của vũ trụ. Kể ra quả đất của chúng ta cũng khá lớn, bằng cớ là chẳng mấy ai trong chúng ta đủ tiền đi vòng quanh nó. Song mặt trời lớn hơn quả đất môt triệu ba trăm ngàn lần. Dầu vậy, mặt trời so với các thiên thể khác chỉ là một hạt cát trong sa mạc. Trong dãy ngân hà của chúng ta có 25 triệu mặt trời. Ngoài ra còn có các ngôi sao bề trục kính 240 triệu dặm và có đến hàng tỉ tỉ ngôi sao, không thể nào đếm được. Lại từ ngôi sao này đến ngôi sao kia xa quá, nên người ta phải đo bằng tốc độ ánh sáng. Mỗi giây đồng hồ ánh sáng đi 186 ngàn dặm. Với tốc độ đó, ánh sáng đi từ quả đất đến mặt trăng chỉ hơn 11 giây. Song ánh sáng phải đi mất hai triệu năm mới từ quả đất đến dãy ngân hà gần nhất, và có mấy triệu ngân hà như vậy. Ánh sáng phải đi hơn một tỉ năm mới từ quả đất đến ngân hà xa nhất mà con người có thể thấy được. Thế thì vũ trụ thật là bao la vô cùng!

Page 8: Nhu LieuTruong Chua Nhat

8

Bây giờ chúng ta hãy nghe khoa học kể những sinh vật li ti của vũ trụ. Khi nói một vật nhỏ, chúng ta thường nói nhỏ như con kiến. Song vi trùng còn nhỏ hơn mà mắt trần không thấy được, lại trong vi trùng còn có các bộ phận tiêu hóa, sinh sản, thì nhỏ biết bao! Thế mà nguyên tử còn nhỏ hơn nữa. Trong một giọt nước mà chúng ta uống có chừng một trăm triệu nguyên tử. Vậy nguyên tử nhỏ là dường nào. Tóm lại, một giáo sư đại học đã viết "Đối với một nhà thiên văn điều đáng chú ý hơn hết về vũ trụ không phải sự bao la của nó, không phải là thời đại lâu dài của nó, cũng không phải là sức mãnh liệt đang hành động trong nó. Điều làm cho nhà thiên văn cãm động và sợ hãi là cái yếu tố trật tự của nó. Từ một vệ tinh nhỏ xíu của thái dương hệ đến những ngân hà mênh mông vượt quá sự hiểu biết của chúng ta thì không có một dấu vết nào của sự hỗn độn, chẳng hề có sự ngẫu nhiên hoặc bất thường. Trật tự của vũ trụ là sự khám phá tuyệt đỉnh của khoa học". Một giáo sư khác viết "Vũ trụ không phải do kết quả của một định luật đui mù, nhưng là sự sắp đặt bởi một Trí Thông Minh vĩ đại, chậm chạp song chắc chắn. Trí Thông Minh vĩ đại đó là Đấng Tạo Hóa, là Đức Chúa Trời". Chúa dựng nên vũ trụ là công việc kỳ diệu, Chúa cứu chuộc loài người còn kỳ diệu hơn biết bao! Từ chỗ hư vô, Chúa đã dùng lời phán của Ngài mà dựng nên vũ trụ bao la. Song để cứu chuộc loài người Chúa phải giáng hạ trần gian, nếm trải trăm ngàn cay đắng, thậm chí phải chết trên thập tự giá và sống lại. Vậy nếu chúng ta cảm tạ và ca ngợi Chúa về công việc của Ngài đã dựng nên vũ trụ thì chúng ta càng phải cảm tạ và ca ngợi Ngài muôn lần hơn về công việc của Ngài đã cứu chuộc chúng ta. "Vì sự nhân từ Ngài, còn đến đời đời".

II. Kinh Thánh Chính Xác. Mục đích của Kinh thánh không phải để dạy khoa học, song khi đề cập đến lỉnh vực khoa học, Kinh thánh nói chính xác. Vì như trên đã tỏ: Vũ trụ và Kinh thánh là 2 pho sách của cùng một tác giả, 2 nguồn khải thị của Đức Chúa Trời. Vũ trụ và Kinh thánh không hề có sự mâu thuẫn. "Bị thử nghiệm bởi vũ trụ học, thiên văn học, địa chất học, động vật học, sinh lý học, cơ thể học, vật lý học. . . Kinh thánh chứng minh sự trí thức khôn ngoan siêu phàm của nó". Vào thế kỷ thứ 11, có 2 nhà thiên văn tưởng có thể đếm hết các ngôi sao trên trời nên đã cho Kinh thánh nói sai, vì Chúa phán với Áp-ra-ham "Ngươi hãy ngó lên trời và ngươi đếm được các ngôi sao thì cứ đếm đi!.. Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy" (Sáng-thế-ký 15: 5). Ngày nay nhờ chế tạo được viễn vọng kính cực mạnh có đường kính 5 mét thấy thật xa, các nhà thiên văn phải thú nhận không thể nào đếm hết các ngôi sao. Thế thì, tại khoa học khám phá chưa tới, chứ không phải Kinh thánh nói sai. Trong khi các khoa học gia thuở xưa nghỉ rằng quả đất là một mặt phẵng thì Kinh thánh đã chép "Chúa trải bắc cực ra trên vùng trống, treo trái đất trong khoảng không

Page 9: Nhu LieuTruong Chua Nhat

9

không" (Gióp 26: 7), và Đức Chúa Trời là "Đấng ngự trên vòng trái đất này" (Ê-sai 40: 22). Vậy, khoa học ngày càng tiến bộ càng chứng minh Kinh thánh nói đúng. Sự khải thị của Đức Chúa Trời trong vũ trụ vật chất và sự khải thị của Đức Chúa Trời trong Kinh thánh là 2 phương diện của một sự khải thị. Sự khải thị của Đức Chúa Trời trong thiên nhiên không hề mâu thuẫn với sự khải thị của Đức Chúa Trời trong Kinh thánh. Mỗi khi có một điều dường như mâu thuẫn giữa khoa học (là phương pháp giải thích thiên nhiên), với thần học (là phương pháp giải thích Kinh thánh), là vì một trong 2 phương pháp giải thích đó sai lầm. Và vấn đề căn bản của sự xung đột giữa Cơ-đốc-giáo và khoa học nằm trong địa hạt giải thích. Một nhà khoa học về không gian đã nói "Càng đi xa hơn trong việc thăm dò không gian, đức tin của tôi càng sâu nhiệm". Đức Chúa Trời có một chương trình là bày tỏ chính mình Ngài cho chúng ta biết. Qua vũ trụ và Kinh thánh, không những chúng ta biết Chúa là Đấng Hằng Hữu, quyền năng, vinh hiển, thánh khiết, hơn nữa chúng ta còn biết Ngài rất mực yêu thương chúng ta. Vậy, chúng ta hãy dâng mình cho Ngài, để dự vào chương trình của Ngài là đem tình thương cho kẻ khác. (Hãy kêu gọi mọi học viên cầu nguyện dâng mình cho chúa ngay bây giờ). CÂU HỎI 1. Đức Chúa Trời Hằng hữu, đời đời là có nghĩa gì ? 2. Đức Chúa Trời tự bày tỏ cho chúng ta qua 3 nguồn nào? 3. Tại sao chúng ta dám quả quyết rằng vũ trụ và Kinh thánh không hề mâu thuẫn nhau? 4. Hãy nhắc lại một điều gì chứng minh vũ trụ thật bao la? 5. Điều gì trong vũ trụ làm cho các nhà thiên văn phải cảm động và sợ hãi? 6. Tại sao chúng ta biết Kinh thánh nói không ai có thể đếm được hết các ngôi sao là đúng? 7. Tại sao chúng ta biết Kinh thánh nói quả đất tròn là đúng? 8. Hãy nhắc lại một điều gì chứng minh có những sinh vật li ti trong vũ trụ? 9. Tại sao đôi khi dường như có sự mâu thuẫn giữa khoa học và Kinh thánh? 10. Chúng ta phải làm gì để dự phần vào chương trình của Chúa?

Page 10: Nhu LieuTruong Chua Nhat

10

BÀI SỐ 2

Vị Kiến Trúc Sư Thiên Thượng KINH THÁNH: Thi thiên 139: 1-12 Câu gốc: "Hầu cho các ngươi được biết và tin Ta, và hiểu rằng Ta là Chúa! Chẳng có Đức Chúa Trời nào tạo thành trước Ta và cũng chẳng có sau Ta nữa". Ê-sai 43: 10 Mục đích: Dạy về đặc tính của Ba ngôi Đức Chúa Trời và sự thờ phượng Ngài. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chủ Nhật: Đức Chúa Trời có một không hai. Phục truyền 6: 4; Ê-sai 44: 6-8; I Cô-rinh-tô 8: 4-6; I Ti-mô-thê 2: 5 Thứ Hai: Đức Chúa Trời Ba ngôi. Ma-thi-ơ 3: 16-17; 28: 19; I Cô-rinh-tô 12: 3-6; Ê-phê-sô 4: 4-6; II Cô 13: 13 Thứ Ba: Đức Chúa Trời biết mọi điều. Thi thiên 139: 1-6; Ê sai 48: 5-8 Thứ Tư: Đức Chúa Trời làm được mọi sự. Thi 107: 25-29; 139: 14-18 Thứ Năm: Đức Chúa Trời ở khắp mọi nơi. Thi 139: 7-12; Giê-rê-mi 23: 23, 24 Công vụ các sứ đồ 17: 23-28 Thứ Sáu: Đức Chúa Trời thương yêu lạ lùng. I Giăng 4: 8-16 Thứ Bảy: Chỉ thờ phượng một mình ĐCT. Ê-sai 6: 1-8 (Xin học viên đọc các khúc Kinh thánh trên đây để hiểu được bài hoc) Này anh nói sao? Không có Đức Chúa Trời à? Chắc anh cho là một chiếc đồng hồ tự nhiên mà có, không cần ai chế tạo? Hay một tòa nhà không cần kiến trúc sư mà tự nhiên được xây lên? Hoặc một khu vườn trù phú mà chẳng cần bàn tay siêng năng của người chủ? - Thưa anh, không hề có như vậy được. Trái lại, muốn có một chiếc đồng hồ phải có người thợ chế tạo, muốn có một tòa nhà phải có một kiến trúc sư xây lên, muốn có một khu vườn trù phú, phải có bàn tay siêng năng của người chủ. Đó là những việc nhỏ, việc thường, phương chi trời đất bao la lại không có Đấng Tạo Hóa làm nên? Chắc chắn phải có Đấng Tạo Hóa, Ngài là kiến trúc sư thiên thượng, là Đức Chúa Trời "Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng có vật chi làm nên mà không bởi Ngài". (Giăng 1: 3)

Page 11: Nhu LieuTruong Chua Nhat

11

Có người hỏi vị tù trưởng của một bộ lạc du mục ở sa mạc rằng làm sao ông có thể tin Đức Chúa Trời thực hữu trong khi ông chưa bao giờ thấy Ngài? Ông đáp "Sáng nay, khi ra khỏi lều, tôi thấy dấu chân của một con lạc đà in trên cát. Tôi không thấy con lạc đà, nhưng chắc chắn đã có một con lac đà đi qua. Cũng vậy, khi xem muôn vật đã được dựng nên, tôi tin rằng phải có Đấng Tạo Hóa".

I. Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Kinh thánh cho chúng ta biết rằng vị kiến trúc sư thiên thượng đã dựng nên trời đất là Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Khi làm nên loài người Đức Chúa Trời phán "Chúng ta hãy làm nên loài người như hình chúng ta và theo tượng chúng ta" (Sáng thế ký 1: 26). Sau khi loài người phạm tội, Đức Chúa Trời phán: "Nầy, về sự phân biệt điều thiện và điều ác, loài người đã thành một bực như chúng ta" (Sáng thế ký 3: 22). Khi loài người quyết định xây tháp Ba-bên, Đức Chúa Trời phán "Thôi, chúng ta hãy xuống, làm lộn xộn tiếng nói của chúng nó" (Sáng thế ký 11: 7). Chữ "chúng ta" có nghĩa là từ 2 người trở lên. Nêu chúng ta tham khảo với các chỗ khác trong Kinh thánh thì biết rằng Đức Chúa Trời có Ba Ngôi là Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh. Ba Ngôi Đức Chúa Trời hiện diện khi Chúa Giê-xu chịu Báp-têm (Ma-thi-ơ 3: 16, 17). Ba Ngôi Đức Chúa Trời hiện diện mỗi khi có tín đồ chịu Báp-têm (Ma-thi-ơ 28: 19). Ba Ngôi Đức Chúa Trời đồng gầy dựng Hội Thánh (I Cô-rinh-tô 12: 3-6; Ê-phê-sô 4: 4-6; II Cô-rinh-tô 13: 13). Ba Ngôi Đức Chúa Trời đồng công cứu rỗi tội nhân (I Phi-e-rơ 1:2; Giu-đê 20, 21). Đức Chúa Cha là Đức Chúa Trời (Giăng 6: 27; I Phi-e-rơ 1: 2). Đức Chúa Giê xu là Đức Chúa Trời (Giăng 1: 1; Tít 2: 13; Hê-bơ-rơ 1: 8). Đức Thánh Linh là Đức Chúa Trời (Công vụ các sứ đồ 5: 3, 4; I Cô-rinh-tô 6: 19). Ba Ngôi hiệp một song không hề lẫn lộn. Đức Chúa Cha không phải là Đức Chúa Con, Đức Chúa Con không phải là Đức Thánh Linh, Đức Thánh Linh không phải là Đức Chúa Cha. Không phải có ba Đức Chúa Trời, song cả ba ngôi là Đức Chúa Trời có một không hai, bình đẳng về thời gian, quyền năng, địa vị v.v... Lẽ Đạo Ba Ngôi Đức Chúa Trời rất mầu nhiệm, chúng ta không hiểu thấu được. Kinh thánh không hề giải thích là vì ngôn ngữ của loài người không đủ và trí óc của loài người không tiếp thu nổi. Ví dụ trẻ con cũng hưởng được lợi ích của điện như ánh sáng đèn, phòng lạnh, tủ lạnh, máy thu thanh, máy truyền hình, nhưng chúng không hiểu được làm thế nào có như vậy. Nếu một kỹ sư điện muốn giải thích cho chúng hiểu cũng không được, cho đến chừng nào chúng lớn và học về điện. Bây giờ chúng ta cứ tin để được phước rồi ngày nào đó, chúng ta sẽ gặp Chúa, mặt đối mặt, chừng đó chúng ta sẽ hiểu về Đức Chúa Trời Ba Ngôi và nhiều lẽ mầu nhiệm khác nữa.

Page 12: Nhu LieuTruong Chua Nhat

12

II. Đức Chúa Trời Là Đấng Thế Nào? Kinh thánh tỏ cho chúng ta biết vị kiến trúc sư thiên thượng có những đặc tính kỳ diệu đáng cho chúng ta kính mến, tôn thờ trọn đời mình. 1. Đức Chúa Trời là thần (Giăng 4: 24): Chúa Giê xu đã giải thích "Thần thì không có thịt xương" (Lu-ca 24: 39). Vì vậy chúng ta không thể thấy được Đức Chúa Trời bằng mắt xác thịt, song có thể thấy Ngài bằng mắt tâm linh, mắt đức tin. Phi-e-rơ viết "Ngài là Đấng anh em không thấy mà yêu mến, dầu bây giờ anh em không thấy Ngài, tin Ngài và vui mừng lắm một cách không xiết kể và vinh hiển"(I Phi-e-rơ 1: 8) 2. Đức Chúa Trời vô hạn lượng (Thi thiên 145: 3): Con người thì hữu hạn vì tùy thuộc thời gian và không gian, bị công lệ thiên nhiên chi phối. Song Đức Chúa Trời vô hạn lượng, vì Ngài đã dựng nên vũ trụ và điều khiển vũ trụ. Ngài thực hữu trước vũ trụ, ngoài vũ trụ và hằng hữu sau khi vũ trụ qua đi. Vì vậy, vũ trụ không thể chứa được Ngài: "trời là ngôi của Ngài, đất là bệ chân của Ngài" (I Các vua 8: 27; Ê-sai 66: 1). 3. Đức Chúa Trời không hề thay đổi (Hê-bơ-rơ 13: 8): Con người luôn luôn thay đổi hoặc xấu hơn hay tốt hơn, hoặc thoái hóa hay tiến bộ song Đức Chúa Trời không bao giờ thay đổi, vì Ngài toàn thiện toàn mỹ. Chúng ta có thể tin cậy Ngài, vâng lời Ngài trọn vẹn mà không cần phải lo thất vọng. Chúa phán "Ta là Đức Giê-hô-va, ta không hề thay đổi" (Ma-la-chi 3: 6). 4. Đức Chúa Trời biết hết mọi điều (Thi thiên 139: 1-6): Trước khi sáng thế, Chúa đã biết ngày tận thế, vì Ngài là căn nguyên của vũ trụ. Không có việc gì xảy ra là ngẫu nhiên cho Chúa cả. Đối với Chúa không có việc gì là kín đáo, song mọi việc đều tỏ tường. Ngài biết tất cả tư tưởng trong lòng chúng ta ngay khi chúng ta chưa nói ra một lời nào. Có hàng tỉ tỉ sao không ai đếm được, song "Ngài đếm số các vì sao, gọi từng tên, hết thảy các vì sao ấy... Sự thông sáng của Ngài vô cùng, vô tận" (Thi thiên 147: 4-5). 5. Đức Chúa Trời ở khắp mọi nơi (Thi thiên 139: 7-12): Cùng một lúc Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi. Dầu trên trời hay dưới đất, Nam cực hay Bắc cực, chẳng có nơi nào mà không có Chúa. Song con cái Chúa thật là sung sướng, vì vô luận họ ở đâu, nếu là trong thánh ý của Chúa thì tại đó Ngài dẫn dắt, gìn giữ họ luôn.

Page 13: Nhu LieuTruong Chua Nhat

13

6. Đức Chúa Trời làm được mọi sự (Ma-thi-ơ 19: 26): Chúa phán "Ta là Đức Chúa Trời toàn năng" (Sáng thế ký 17: 1). "Ôi hỡi Đức Giê-hô-va! Chính Ngài đã dùng quyền phép lớn lao và cánh tay giơ ra làm nên trời và đất, chẳng có sự gì khó quá cho Ngài cả" (Giê-rê-mi 32: 17). Vì vậy Ngài có thể làm trổi hơn vô cùng mọi việc chúng ta cầu xin và suy tưởng. 7. Đức Chúa Trời yêu thương lạ lùng (Giăng 3: 16): Chúa giàu lòng thương xót cho đến nỗi không tiếc chính con độc sanh của Ngài, nên nhờ đó chúng ta được cứu rỗi. Sau khi được cứu rỗi, Chúa còn thương yêu chúng ta nhiều hơn. Dầu Ngài yêu thương cả thế gian, song yêu thương con cái Ngài cách đặc biệt hơn mẹ thương con (Ê- sai 49: 15). Vậy chúng ta có lấy làm hãnh diện về Cha của Chúng ta là vị kiến trúc sư thiên thượng không? Bây giờ chúng ta phải làm gì? Chúa Giê xu phán "Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi. Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi" (Ma-thi-ơ 4: 10; 22: 37). Chúng ta hãy đem đời sống mình để chứng minh cho thế gian biết về Cha của chúng ta, cũng như vũ trụ đã làm, Kinh thánh đã làm và Chúa Giê-xu đã làm vậy (Ma-thi-ơ 5: 16). CÂU HỎI 1. Tại sao chúng ta tin rằng đã có Đấng Tạo Hóa dựng nên vũ trụ? 2. Đức Chúa Trời có mấy ngôi? Những ngôi đó là ai? 3. Những câu Kinh thánh nào chép về Đức Chúa Trời ba ngôi? 4. Tại sao lẽ đạo Đức Chúa Trời ba ngôi chúng ta không hiểu thấu? 5. Chúa chúng ta có những đặc tánh nào? 6. Xin giải thích mỗi đặc tánh của Chúa? 7. Chúng ta phải làm gì đối với Chúa chúng ta ? 8. Chúng ta phải làm gì để làm chứng cho thế gian về Chúa chúng ta? 9. Bài học hôm nay khích lệ chúng ta thế nào?

Page 14: Nhu LieuTruong Chua Nhat

14

BÀI SỐ 3

Vị Kiến Trúc Sư Bày Tỏ Chương Trình Của Mình KINH THÁNH: I Cô-rinh-tô 2: 9-15 Câu gốc: "Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời" II Phi-e-rơ 1: 21 Mục đích: Dạy rằng chương trình của Đức Chúa Trời qua các thời đại chỉ được bày tỏ ra trong Kinh thánh mà thôi. Kinh Thánh Đọc Hàng Ngày Chủ Nhật: Chương trình vĩ đại của Đức Chúa Trời Thi thiên 95: 1-5 Thứ Hai: Chương trình của Chúa cho dân sự Ngài Giô-suê 1: 7-9 Thứ Ba: Chương trình của Chúa cho cơ đốc nhân Cô-lô-se 3: 14-17 Thứ Tư: ĐCT bày tỏ chương trình của Ngài qua ĐTL I Cô-rinh-tô 2: 9-15 Thứ Năm: ĐCT bày tỏ chương trình của Ngài qua Chúa Giê-xu Giăng 1: 1-4, 14 Thứ Sáu: Lời của Đức Chúa Trời được soi dẫn Giăng 7: 14-17; II Ti-mô-thê 3: 16 Thứ Bảy: Luật pháp của Đức Chúa Trời là toàn hảo Thi thiên 19: 7-11 Như chúng ta đã học, Kinh thánh là một trong 3 nguồn khải thị của Đức Chúa Trời. Qua cõi thiên nhiên, chúng ta chỉ có thể biết Đức Chúa Trời là Đấng quyền năng vô cùng, khôn khéo lạ lùng, thông minh tuyệt đối. Song nhờ Kinh thánh chúng ta mới biết Ngài cũng là Đấng nhân ái, thánh khiết, thành tín, không hề thay đổi, hằng sống đời đời và nhất là không muốn một ai hư mất mà muốn mọi người được cứu rỗi. Vì Đức Chúa Trời đã bài tỏ chương trình của Ngài trong Kinh thánh, nên chúng ta phải biết Kinh thánh như thế nào?

I. Kinh Thánh Chân Thật. "Sự tổng cộng lời của Chúa là chân thật, các mạng lệnh công bình của Chúa còn đời đời" (Thi thiên 119: 160). Kinh thánh không bao giờ sai lầm, chẳng hề thay đổi, đáng làm khuôn vàng thước ngọc cho đời sống đức tin của chúng ta.

Page 15: Nhu LieuTruong Chua Nhat

15

Toàn bộ Kinh thánh là một bộ thư viện có 66 quyển, được viết lại bởi 45 trước giả trong khoảng thời gian 1500 năm. Quyển cuối cùng được viết khoảng năm 80 sau Chúa giáng sinh. Các trước giả sống trong những thời đại khác nhau, làm những chức vụ khác nhau, thuộc những giai tầng xã hội khác nhau, nói những thứ tiếng khác nhau. Họ gồm có vua, quan, thầy tế lễ, thầy thông giáo, kẻ chăn chiên, văn sĩ, sử gia, y sĩ, người thâu thuế, ngư phủ v v... Dầu vậy, tư tưởng của Kinh thánh từ trang thứ nhất đến trang cuối cùng đều hòa hợp nhau trọn vẹn, vì thật ra chỉ có một tác giả soi dẫn và điều khiển là Đức Thánh Linh. Cả Kinh thánh từ Sáng thế ký đến Khải huyền có một sứ điệp duy nhất là sự giáng sinh, sự chết, sống lại và về trời của Cứu Chúa Giê-xu Christ để cứu vớt tội nhân. Tất cả sự việc xảy ra đều xoay quanh cái trục vĩ đại đó. Chúa Giê-xu đã phán với người Do-Thái " Các ngươi xem dò Kinh thánh, vì tưởng bởi đó được sự sống đời đời ấy là Kinh thánh làm chứng về Ta vậy" (Giăng 5: 39). Với hai môn đồ tại Em-ma-út "Ngài bắt đầu từ Môi-se rồi kế đến mỗi tiên tri mà cắt nghĩa cho hai người đó những lời chỉ về Ngài trong cả Kinh thánh" (Lu-ca 24: 27). Với các sứ đồ Ngài phán "Ấy đó là điều mà khi Ta còn ở với các ngươi, Ta bảo ngươi rằng mọi sự đã chép về Ta trong luật pháp Môi-se, các sách tiên tri cùng các thi thiên phải được ứng nghiệm (Lu-ca 24: 44). Tất cả mọi người đều có tội, nên cũng chỉ được cứu rỗi bằng một phương pháp duy nhất là tin nhận Chúa Giê xu làm Cứu Chúa của riêng mình. Về sự cứu rỗi, không hề có thời đại này khác thời đại kia, phương trời này khác phương trời nọ. "Vì chỉ có một Đức Chúa Trời và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người tức là Đức Chúa Giê-xu Christ, là người. Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người" (I Ti-mô-thê 2: 5-6).

II. Kinh Thánh Được Soi Dẫn. Câu gốc của bài học này dạy rằng "Ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời" Phao-lô quả quyết; "Cả Kinh thánh đều bởi Đức Chúa Trời soi dẫn..." (II Ti-mô-thê 3: 16). Vậy Đức Thánh Linh soi sáng, dẫn dắt để các trước giả viết một cách chính xác, vô ngộ Đức Chúa Trời ban cho họ, hầu truyền lại cho loài người. Trong cựu ước, những chữ "Đức Giê-hô-va phán", hoặc "Đức Chúa Trời phán" có đến hơn 3800 lần. Chỉ trong sách Lê vi ký có đến hơn 50 lần lập lại những chữ "Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se". Đa-vít nói "Thần của Đức Giê-hô-va đã cậy miệng ta mà phán, và lời của Ngài ở nơi lưỡi ta" (I Sa-mu-ên 23: 2). Các tiên tri từ Ê-sai đến Ma-la-chi, các sứ đồ là Phao-lô, Phi-e-rơ, Giăng đều quả quyết rằng Đức Chúa Trời đã phán cho họ và qua họ. Một trong những bằng cớ chính xác chứng minh Kinh thánh được soi dẫn là các lời tiên tri. Các lời tiên tri trong Cựu-ước về Chúa Giê-xu đã được ứng nghiệm trọn vẹn trong Tân-ước. Nhất là 4 sách Tin lành và sách Công vụ các sứ đồ luôn luôn lập lại

Page 16: Nhu LieuTruong Chua Nhat

16

những chữ "Để được ứng nghiệm lời tiên tri". Như Chúa giáng sinh bởi một nữ đồng trinh (Ma-thi-ơ 1: 22-23), tại thành phố Bết-lê-hem nước Do Thái (Ma-thi-ơ 2: 1-6) lánh nạn qua Ê-díp-tô (Ma-thi-ơ 2: 13-15), con trẻ tại Bết-lê-hem bị giết (16-18). Chúa về Na-xa-rét (Ma-thi-ơ 2: 23). Giăng Báp-tít dọn đường cho Ngài (Ma-thi-ơ 3: 1-3). Chúa bắt đầu chức vụ (Ma-thi-ơ 4: 12-16). Chữa lành mọi bệnh tật (Ma-thi-ơ 8: 17), giảng dạy một cách có quyền (Ma-thi-ơ 12: 17-21; 13: 14-15, 35; 15: 7-8), vào thành Giê-ru-sa-lem (Ma-thi-ơ 21: 4-5). Chúa bị phản bội (Giăng 13: 18), bị bán với giá 30 miếng bạc (Ma-thi-ơ 27: 9-10), chịu chết (Giăng 19: 24, 36-37), sống lại (Công vụ các sứ đồ 2: 24-28), thăng thiên (Công vụ các sứ đồ 2: 32-35). Những bằng chứng thiết thực và hiển nhiên hơn hết là kinh nghiêm của tín đồ trải qua mọi thời đại cho đến ngày nay. Hễ ai vâng theo lời Kinh thánh mà ăn năn tội tin nhận Chúa Giê-xu thì được tái tạo, được sự sống mới, có một đời mới. Suốt cuộc đời theo Chúa, họ sống bằng lời Kinh thánh như: đọc suy gẫm và cẩn thận làm theo. Mọi lời hứa của Chúa trong Kinh thánh đều ứng nghiệm trọn vẹn cho họ, khiến ai nấy giống "Như cây trồng gần dòng nước, sanh bông trái theo thì tiết, lá nó cũng chẳng tàn héo" (Thi thiên 1: 3) hay giống "Như cây trồng nơi bờ suối, đâm rễ theo dòng nước chảy, ngộ khi trời nắng chẳng cần sợ hãi, mà lá cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng lo gì mà cứ ra trái không dứt". (Giê-rê-mi 17: 7-8).

III. Kinh Thánh Bày Tỏ Chương Trình Của Đức Chúa Trời. Từ khi sa vào tội lỗi, con người đã trở nên dốt nát, không biết được bản chất và số phận của mình. Con người từ đâu mà đến? Mình hiện hữu với mục đích gì? Tại sao con người phải đau khổ, phải chết. Cuối cùng con người phải đi đâu? Con người không thể trả lời các câu hỏi đó. Các triết thuyết trái ngược nhau, không ai tìm được một câu giải đáp thỏa đáng. Chỉ có Kinh thánh là lời của Đấng Tạo hóa, nên Kinh thánh đã giải đáp tất cả các câu hỏi trên. Kinh thánh là một bức ảnh chụp chung, nên ai nấy có thể tìm thấy chính hình ảnh của mình trong đó. Kinh thánh là một tấm gương soi kỳ diệu, nên mọi người có thể thấy lòng mình phản chiếu vào đó. Đấng đã viết Kinh thánh cũng là Đấng đã dựng nên con người, nên Ngài biết hết những gì trong con người. Vì vậy, Kinh thánh đã chỉ cho chúng ta con đường cứu rỗi duy nhất. Chúa phán "Ấy chính ta là Đấng đã rao truyền, đã giải cứu và đã chỉ bảo..." (Ê-sai 43: 12). Nếu Đức Chúa Trời không khải thị, loài người chẳng biết chi về chương trình của Ngài. Nếu không nhờ Kinh thánh thì ai có thể hiểu biết được nguồn gốc của trời, đất, muôn vật và loài người? Ai có thể biết tại sao loài người phải đau khổ và chết? Ai có thể biết được loài người sanh ra để làm gì và chết rồi sẽ đi đâu? Nếu không nhờ Kinh thánh thì ai có thể biết được Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy, không bị hư mất mà sẽ được sống đời đời? Nếu không nhờ Kinh thánh thì ai có thể biết cách nào để sống một đời thánh khiết, một nếp sống

Page 17: Nhu LieuTruong Chua Nhat

17

hạnh phúc mỗi ngày? Qua Kinh thánh chúng ta còn có thể biết nhiều điều khác tương quan đến quá khứ, hiện tại và tương lai của chúng ta. Vì tất cả chương trình của Đức Chúa Trời nằm trong Kinh thánh. Thế thì, "Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi, là ánh sáng cho đường lối tôi". "Lời chúa ngọt họng tôi dường bao! Thật ngọt hơn mật ong trong miệng tôi!". "Tôi yêu mến luật pháp Chúa biết bao! Trọn ngày tôi suy gẫm luật pháp ấy" (Thi thiên 119: 105, 103, 97). CÂU HỎI 1. Cõi thiên nhiên cho chúng ta biết gì về Chúa? Kinh thánh cho ta biết gì về Chúa nữa? 2. Kinh thánh toàn bộ có bao nhiêu quyển? Các quyển đó do bao nhiêu người trước thuật? 3. Những người trước thuật Kinh thánh có điều gì khác nhau? 4. Tại sao Kinh thánh do nhiều người, ở nhiều nơi, thuộc nhiều thời đại đã trước thuật mà không hề có sự trái nhau? 5. Điều gì đã tỏ ra Kinh thánh đã được Đức Thánh Linh soi dẫn? 6. Nhờ đâu mà chúng ta biết được nguồn gốc của vũ trụ? 7. Nhờ đâu mà chúng ta biết được nguyên do con người phải khổ, phải chết? 8. Nhờ đâu mà chúng ta biết được Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta? 9. Để biết chương trình của Đức Chúa Trời đối với chúng ta thì phải căn cứ vào đâu?

Page 18: Nhu LieuTruong Chua Nhat

18

BÀI SỐ 4

Thiên Sứ Của Đức Chúa Trời KINH THÁNH: Hê-bơ-rơ 1: 1-14 Câu gốc: "Hỡi hết thảy những thiên sứ Ngài, hãy ngợi khen Ngài... cả thảy khá ngợi khen Đức Giê-hô-va, vì Ngài ra lệnh thảy bèn được dựng nên" Thi thiên 148: 2, 5 Mục đích: Cho chúng ta biết nhiệm vụ của thiên sứ trong chương trình của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh Đọc Hàng Ngày Chủ Nhật: Thiên sứ thờ phượng Đức Chúa Trời. Nê-hê-mi 9: 6; Phi-líp 2: 11; Hê-bơ-rơ 1: 1-6 Thứ Hai: Thiên sứ là những thần linh để hầu việc. Công vụ 12: 7-11; 27: 23-24; Hê-bơ-rơ 1: 7-14 Thứ Ba: Thiên sứ rao truyền ý chỉ của ĐCT. Đa-ni-ên 2: 15-17; 9: 20-23; 12: 1-7 Thứ Tư: Thiên sứ thi hành ý chỉ của Đức Chúa Trời. Dân số ký 22: 21-35; Ma-thi-ơ 13: 39- 42 Thứ Năm: Thiên sứ hầu việc Chúa Giê xu Christ. Ma-thi-ơ 4: 11; Lu-ca 22: 39-45 Thứ Sáu: Thiên sứ là tôi tớ của Chúa Giê xu Christ. Ê-phê-sô 1: 20-22; Cô-lô-se 1: 15-17; 2: 10 Thứ Bảy: Thiên sứ sẽ đi theo Chúa Giê xu khi Ngài tái lâm. Ma-thi-ơ 16: 27; 25: 31; Mác 8: 38 Chúng ta ít biết về thiên sứ, nên có người ước ao được như thiên sứ. Có sự khác nhau giữa chúng ta và thiên sứ. Thiên sứ không phải là nam, cũng không phải là nữ, nên giữa vòng họ không có hôn nhân. Khi chúng ta từ kẻ chết sống lại, hay được biến hóa khi Chúa tái lâm sẽ có cuộc sống như thiên sứ, là không cần hôn nhân nữa (Ma-thi-ơ 22: 30). Đức Chúa Trời dựng nên loài người kém thiên sứ về quyền năng và vinh hiển, song thiên sứ được dựng nên để phục vụ như đầy tớ, còn loài người được dựng nên để tương giao với Ngài như con cái. Thế thì loài người quý trọng hơn thiên sứ, nhất là các thánh đồ sẽ xét đoán thế gian và thiên sứ (I Cô-rinh-tô 6: 3).

Page 19: Nhu LieuTruong Chua Nhat

19

I. Quyền Năng Và Địa Vị Của Thiên Sứ. 1. Quyền năng của thiên sứ: (II Tê-sa-lô-ni-ca 1: 7; II Phi-e-rơ 2: 11) : Hai câu Kinh thánh này nói rằng thiên sứ có quyền năng và sức mạnh. Thật vậy, một thiên sứ chỉ trong một đêm có thể giết chết 185.000 quân A-sy-ri, có đầy đủ vũ khí và sẵn sàng chiến đấu (Các vua 19: 35). Ban đêm, một thiên sứ đã mở cửa khám cho các sứ đồ ra khỏi đó, sáng hôm sau ngưòi ta thấy khám đóng kỹ và lính canh đang đứng trước cửa (Công vụ các sứ đồ 5: 19). Một thiên sứ đã tháo xiềng, mở ngục cho Phi-e-rơ ra khỏi, dầu ông đang ngũ giữa hai tên lính, bên ngoài vẫn canh phòng cẩn mật (Công vụ các sứ đồ 12: 7). Một thiên sứ đã đánh chết vua Hê-rốt, vì ông này không nhường sự vinh hiển cho Chúa (Công vụ các sứ đồ 12: 23). Còn nhiều việc khác như vậy bày tỏ quyền năng của thiên sứ. 2. Vinh hiển của thiên sứ: Khi Chúa Giê-xu giáng sinh, một thiên sứ đến báo tin cho các mục đồng, vì vinh hiển của thiên sứ chói loà nên các mục đồng rất sợ hãi (Lu-ca 2: 9). Khi Chúa sống lại, một thiên sứ hiện ra tại phần mộ với hình dung sáng như chớp, áo trắng như tuyết, làm cho bọn lính canh ngã lăn ra như người chết (Ma-thi-ơ 28: 2,3). Khi Chúa tái lâm sẽ có các thiên sứ cũng đến với Ngài trong sự vinh hiển của họ (Lu-ca 9: 26). Đó là vài điểm nói lên sự vinh hiển của thiên sứ. 3. Phẩm trật của thiên sứ: Các thiên sứ ở trên trời (Ma-thi-ơ 22: 30). Song mỗi vị có thứ bật riêng (Giu-đe 6). Thiên sứ trưởng là Mi-chên cũng gọi là Mi-ca-ên đã chôn xác Môi-se (Giu-đe 9; Khải huyền 12: 7). Gáp-ri-ên là thiên sứ quan trọng đã báo tin Giăng Báp-tít ra đời và Chúa Giê-xu giáng sinh (Lu-ca 1: 19, 26). Khi có những thiên sứ đã bỏ phẩm trật, tức là phá kỷ luật, sống vô trật tự, thì đã bị đuổi xuống khỏi trời và trở thành ma quỉ. 4. Số các thiên sứ: Đức Chúa Trời đã dựng nên vô số thiên sứ, không sao đếm hết được (Hê-bơ-rơ 12: 22; Khải huyền 5: 11). Thiết tưởng mọi con cái Chúa đều có ít nhất là một thiên sứ bảo vệ (Ma-thi-ơ 18: 10) và có thể nhiều hơn nữa (Thi thiên 34: 7). 5. Cách chúng ta đối với thiên sứ: Các thiên sứ dầu là thuộc giới thần linh, song có nhiều lúc họ hiện ra mà loài người thấy được. Có nhiều người đã nói chuyện với các thiên sứ như Áp-ra-ham, Lót, Xa-cha-ri, Ma-ri, Ma-ri Ma-đơ-len (Giăng 20: 11-12). a. Không nên thờ lạy thiên sứ, thờ lạy thiên sứ là một sai lầm lớn (Cô-lô-se 2: 18). Thiên sứ không bao giờ dám nhận sự thờ lạy của ai. Qua dị tượng Giăng thấy tại cù lao Báp-mô, đã hai lần ông muốn thờ lạy thiên sứ, song bị từ chối hẳn (Khải huyền 19:

Page 20: Nhu LieuTruong Chua Nhat

20

10; 22: 8-9). Các thiên sứ đều phải thờ lạy Chúa Giê-xu như chúng ta thờ lạy Ngài (Hê-bơ-rơ 1: 6). b. Phải thờ lạy thiên sứ của Đức Giê-hô-va. Trong Cựu-ước chỗ nào chép "Thiên sứ của Đức Giê-hô-va" hoặc "Thiên sứ của Đức Chúa Trời" thì đó không phải là thiên sứ thường, mà là Chúa Giê-xu trước khi giáng sinh. Vì vậy, thiên sứ của Đức Giê-hô-va đã nhận sự thờ lạy của loài người. Thiên sứ của Đức Giê-hô-va hiện ra với A-ga, nên bà gọi Ngài là Đức Giê-hô-va (Sáng thế ký 16: 7-13). Thiên sứ của Đức Chúa Trời hiện ra với A-ga khi bà và con trai bị đuổi khỏi nhà (Sáng thế ký 21: 17-19). Thiên sứ của Đức Giê-hô-va hiện ra với Môi-se trong bụi gai cháy. Ngài tự xưng là Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời, Đấng tự hữu hằng hữu (Xuất Ê-díp-tô ký 3: 2-14). Thiên sứ của Đức Giê-hô-va hiện ra với Ghê-đê-ôn và ông dâng lễ cho Ngài (Các quan xét 6: 11-24). Thiên sứ của Đức Giê-hô-va hiện ra với ông bà Ma-nô-a và họ thờ lại Ngài (Các quan xét 13: 6-23). Thiên sứ của Đức Giê-hô-va hiện ra với Đa-vít và ông dâng cho Ngài một của lễ thiêu (II Sa-mu-ên 24: 15-25).

II. Chức Vụ Của Thiên Sứ. Họ là sứ giả của Chúa, lúc nào cũng sẵn sàng đi, làm, nói theo chỉ thị của Ngài. Song thiên sứ cũng đôi khi chỉ về người nữa, như thiên sứ của các Hội thánh chép trong sách Khải huyền (1: 20; 2: 1, 8, 12, 18; 3: 1, 7, 14). Chức vụ của các thiên sứ như sau: 1. Ca ngợi Đức Chúa Trời ba ngôi: Bởi Thánh Linh cảm động, Đa-vít kêu gọi các thiên sứ và cả cơ binh của Chúa hãy ca tụng Ngài (Thi thiên 103: 20-21). Thiên sứ đã hiện với vô vàn thiên binh ca ngợi Chúa bằng một bài ca tuyệt diệu khi Ngài giáng sinh (Lu-ca 2: 13-14). Sứ đồ Giăng thấy trên trời có vô số thiên sứ ca ngợi Chúa rằng "Chiên con đã chịu giết đáng được quyền phép, giàu có, khôn ngoan, năng lực, tôn quý, vinh hiển và ngợi khen". Rồi họ hiệp với muôn vật và vũ trụ mà nói "Chúc cho Đấng ngồi trên ngôi cùng Chiên Con được ngợi khen, tôn quý, vinh hiển và quyền phép, cho đến đời đời" (Khải huyền 5: 11-13). Các thiên sứ không phạm tội, không kinh nghiệm ơn cứu rỗi mà còn ca ngợi Chúa như vậy, phương chi là chúng ta. Vậy hễ ngày nào còn sống, chúng ta hãy ca ngợi, cảm tạ, tôn vinh, tôn thờ Chúa, không những bằng lời nói mà cũng bằng cả hành vi và tư tưởng của chúng ta. 2. Phục vụ Chúa Giê-xu: Sau khi Chúa đánh bại Sa-tăn tại đồng vắng, nó liền trốn đi, thì có thiên sứ đến phục vụ Ngài (Ma-thi-ơ 4: 11). Trong vườn Ghết-xê-ma-nê, khi Chúa chiến đấu trong sự cầu nguyện đến nỗi mồ hôi tuôn ra như giọt máu lớn rơi xuống đất, thì có một thiên sứ đến thêm sức cho Ngài (Lu-ca 22: 43). Khi Chúa tái lâm thì sẽ có một đoàn thiên sứ thánh cùng đi với Ngài (Ma-thi-ơ 16: 27). 3. Phục vụ con cái Chúa: (Hê-bơ-rơ 1: 13-14):

Page 21: Nhu LieuTruong Chua Nhat

21

Thiên sứ đã đến với Lót để giải cứu ông và gia đình khỏi Sô-đôm và Gô-mô-rơ. Khi họ lần lửa thì hai thiên sứ nắm tay và kéo họ ra ngoài (Sáng thế ký 19: 16). Khi Ê-li-se và đầy tớ ông bị quân Sy-ri bao vây thì có một đạo thiên sứ như xe và ngựa lữa bảo vệ thầy trò ông (II Các vua 6: 15-17). Kinh thánh chép rằng Chúa sẽ ban lịnh cho các thiên sứ gìn giữ đường lối chúng ta nâng đỡ chúng ta để chân chúng ta không vấp ngã (Thi thiên 91: 11-12). Thiên sứ của Đức Giê-hô-va đóng trại xung quanh những kẻ kính sợ Ngài và giải cứu họ (Thi thiên 34: 7). Thiên sứ đã hai lần giải cứu Phi-e-rơ khỏi khám tù, thiên sứ đã an uỉ Phao-lô trong cơn nguy nạn hơn hết (Công vụ các sứ đồ 27: 19-20). Thiên sứ đã hướng dẫn Ma-ri và Giô-sép lánh nạn tại Ê-díp-tô và trở về Na-xa-rét (Ma-thi-ơ 2: 13, 19, 20). Thiên sứ đã hướng dẫn Phi-líp đi gặp hoạn quan Ê-thi-ô-pi (Công vụ các sứ đồ 8: 26-40). Thiên sứ đã hướng dẫn Phi-e-rơ đến nhà Cọt-nây (Công vụ các sứ đồ 10: 1- 48). Thiên sứ tiếp rước linh hồn con cái Ngài vào nơi an nghỉ khi họ qua đời (Lu-ca 16: 22). Thiên sứ thổi kèn để triệu tập tất cả con cái Chúa khi Ngài tái lâm (Ma-thi-ơ 24: 31). 4. Thi hành sự đoán phạt: Khi Chúa tái lâm, chính các thiên sứ thi hành sự đoán phạt đối với tín đồ giả hình trong hội thánh như chia rẽ cỏ lùng khỏi lúa, cá xấu khỏi cá tốt (Ma-thi-ơ 13: 36-42; 47-50). Chúng ta rất vui mừng vì được thiên sứ phục vụ. Song thiên sứ cũng rất vui mừng khi có một tội nhân ăn năn (Lu-ca 15: 10). Chúng ta phải sẵn sàng ca ngợi và phục vụ như thiên sứ. CÂU HỎI 1. Tại sao thiên sứ không có hôn nhân? 2. Tại sao khi chúng ta sống lại và lên trời cũng không có hôn nhân? 3. Xin kể ra vài việc quyền năng của thiên sứ? 4. Xin kể ra vài việc bày tỏ vinh hiển của thiên sứ? 5. Xin kể ra phẩm trật của thiên sứ? 6. Số của thiên sứ là bao nhiêu? 7. Thiên sứ nào ta không nên thờ lạy và thiên sứ nào phải thờ lạy? 8. Tại sao phải thờ lạy thiên sứ của Đức Giê hô va? 9. Chức vụ của thiên sứ là gì? 10. Xin cho biết thiên sứ làm gì cho tín đồ?

Page 22: Nhu LieuTruong Chua Nhat

22

BÀI SỐ 5

Sa-tan KINH THÁNH: Ê-sai 14: 12-20. Câu gốc: "Chúa đời nầy đã làm mù lòng họ, hầu cho họ không trông thấy sự vinh hiển chói lòa của Tin lành Đấng Christ, là ảnh tượng của Đức Chúa Trời." II Cô-rinh-tô 4: 4 Mục đích: Giải thích cho chúng ta biết ma quỉ là gì, công việc của nó và chúng ta phải làm gì để chiến thắng nó. Kinh Thánh Đọc Hàng Ngày Chủ Nhật: Những tên gọi của Sa-tan. Ma-thi-ơ 9: 34; Giăng 12: 31; II Cô-rinh-tô 4: 4; Ê-phê-sô 2: 2 Thứ Hai: Ngày tàn của Sa-tan. Ê-sai 14: 12-20 Thứ Ba: Những thiên thần gian ác bị hình phạt. Giu-đe 5-10 Thứ Tư: Những bộ mặt giả hiệu của Sa-tan. II Cô-rinh-tô 2: 11; 11: 13, 14; Gia-cơ 4-7 Thứ Năm: Tình trạng của nhân loại. Giăng 8: 44; I Giăng 3: 8-10 Thứ Sáu: Bộ áo giáp của Đức Chúa Trời. Ê-phê-sô 6: 10-17 Thứ Bảy: Sa-tan bị đoán phạt đời đời. Khải huyền 20: 1-10 Nhân loại ít biết về Sa-tan, tức là ma quỉ. Nó hoạt động ngày đêm không ngừng nghỉ trong bóng tối, song nó không muốn ai thấy nó, biết nó, thậm chí có người nói không có ma quỉ. Nó thích nghe người ta nói như vậy để nó dễ dàng hoạt động. Kinh thánh cho chúng ta biết ma quỉ có thật, "Khi người nào nghe đạo nước thiên đàng mà không hiểu, thì quỉ dữ đến cướp điều đã gieo trong lòng người". Kẻ thù nghịch gieo cỏ lùng vào ruộng lúa là ma quỉ (Ma-thi-ơ 13: 19-39). "Đương bữa ăn tối, ma quỉ đã để mưu phản vào lòng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt. Liền khi Giu-đa đã lấy miếng bánh thì Sa-tan vào lòng người" (Giăng 13: 2, 27). "Hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời để được đứng vững mà địch cùng mưu kế của ma quỉ" (Ê-phê-sô 6: 11)." Hãy tiết độ và tỉnh thức, kẻ thù nghịch anh em là ma quỉ, như sư tử rống" (I Phi-e-rơ 5: 8). Những câu Kinh thánh trên đây cho chúng ta biết chắc rằng ma quỉ có thật và nó hoạt động chống lại Chúa như: ngăn trở, phá hoại, cám dỗ, mưu mô, rình mò vv...

Page 23: Nhu LieuTruong Chua Nhat

23

I. Sa-tan Là Ai ? Nó có nhiều danh hiệu như: Bá chủ của thế gian (Giăng 12: 31; 14: 30; 16: 11), thần của đời này (II Cô-rinh-tô 4: 4), vua cầm quyền không trung (Ê-phê-sô 2: 2), vua của các quỉ (Ma-thi-ơ 9: 34). Dưới tay nó còn có nhiều quỉ sứ sẵn sàng vâng lệnh nó. Vì vậy ma quỉ có một quyền lực lớn lao, đến nỗi cả thế gian tội ác nằm trong nó (Công vụ 26: 18; I Giăng 5: 19). Không một người nào đủ sức đương đầu với ma quỉ. Người ta không biết quyền lực của ma quỉ, vì chưa bao giờ đương đầu với quyền lực ấy, cũng như người cả đời thả trôi theo dòng nước chảy, theo luồng gió thổi thì chẳng bao giờ biết sức mạnh của nước và gió.

II. Công Việc Của Sa-tan: Ma quỉ có rất nhiều công việc, song tất cả tập trung về một mục đích là chống lại Chúa, nên nó được gọi là kẻ thù của Hội Thánh (I Phi-e-rơ 5: 8). Nó là một tay chuyên nghiệp, lão luyện, không phải mấy chục năm, mà là mấy ngàn năm. Công việc của ma quỉ và bè lũ của nó là: 1. Cám dỗ (Ma-thi-ơ 4: 3; I Tê-sa-lô-ni-ca 3: 5): Nó xui dục người ta làm theo điều mình ưa thích, mặc dầu biết rằng đìều đó chống lại mạng lệnh của Chúa, như nó cám dỗ A-dam, Ê-va bất tuân mạng lệnh của Chúa mà ăn trái cấm. Nó cũng cám dỗ Chúa Giê-xu như vậy, song nó thất bại. Phao-lô lo ngại cho tín đồ cũng bị nó cám dỗ mà mất sự đơn thuần và thánh khiết đối với Chúa, làm cho công lao của ông thành ra vô ích. 2. Lừa dối (II Cô-rinh-tô 11: 14; II Giăng 7): Không những xui dục người ta làm điều ác, ma quỉ còn lừa dối một cách tinh tế, là giả làm thiên sứ sáng láng. Nó giả nhân giả nghĩa, giả hình, giả dạng như chó sói mang lốt chiên con, dối trá từ đầu chí chân. Sứ đồ Giăng cho biết trong thế gian có nhiều kẻ lừa dối, là kẻ chống lại Chúa Giê-xu. Chính mình Chúa đã mô tả ma quỉ là kẻ không bao giờ biết nói thật, vì không có lẽ thật trong nó, song nó chỉ biết nói dối và là cha của sự nói dối (Giăng 8: 44). Vì vậy, Chúa bảo rằng hãy coi chừng kẻo bị cám dỗ, vì có nhiều người sẽ mạo danh Ngài mà đến (Lu-ca 21: 8). Phao-lô cảnh cáo chúng ta đừng để mắc bẫy ma quỉ (II Ti-mô-thê 3:7). Vì đã có nhiều người bị lừa dối mà sa vào cạm bẫy của ma quỉ, bị nó bắt phải làm theo ý nó (II Ti-mô-thê 2: 26). 3. Ngăn trở (I Tê-sa-lô-ni-ca 2: 18): Ma quỉ sử dụng trăm phương ngàn kế để ngăn trở sự phát triển của Hội thánh. Đã hai lần Phao-lô muốn đến thăm Hội thánh Tê-sa-lô-ni-ca, song đều bị ma quỉ ngăn trở. Chúa Giê-xu cũng phán rằng khi chúng ta giảng đạo, ma quỉ đến cướp lấy lời thính giả đã

Page 24: Nhu LieuTruong Chua Nhat

24

nghe khỏi lòng họ, để họ không tin. Ngoài ra nó còn tìm cách pha sự giả dối vào lẽ thật, đem kẻ giả dối vào trong Hội thánh như gieo cỏ lùng vào trong ruộng lúa (Ma-thi-ơ 13: 19, 39). Ma quỉ muốn làm bất cứ cách nào để gây trở ngại từ bên trong lẫn bên ngoài, hầu chận đứng sự phát triển của Hội thánh. 4. Vào lòng người ta (Giăng 13: 2, 27; Công vụ các sứ đồ 5: 3-4): Thiết tưởng đây là một hành động nguy hiểm nhất của Sa-tan đối với Hội thánh. Để có thể ám hại Chúa Giê-xu, ma quỉ đã để mưu phản vào Giu-đa Ích-ca-ri-ốt là một trong mười hai sứ đồ, vì nó nghĩ rằng mua chuộc được một sứ đồ, sử dụng người đó như một công cụ trong tay nó, thì cầm chắc sự thành công. Từ chỗ nó để mưu phản vào lòng Giu-đa đến chỗ nó hoàn toàn chiếm hữu ông cũng chẳng bao xa, và thật vậy, nó đã thành công tạm thời. Sau này Đức Thánh Linh giáng lâm, Hội thánh đã được khai sinh, lớn lên và lan tràn một cách mau chóng, mặc dầu bị đe dọa, đánh đòn, bỏ tù. Ma quỉ bèn thêm vào một chiến thuật mới là không những tấn công từ bên ngoài mà cũng xâm nhập vào bên trong Hội thánh và nó đã cám dỗ cùng sử dụng được A-na-nia và Sa-phi-ra đến nói và làm điều dối trá. Nếu họ thành công, thì tội lỗi là sự dối trá và kẻ dối trá đã xâm nhập vào Hội thánh và phá hoại Hội thánh ngay từ bên trong. Nhưng Đức Chúa Trời toàn tri, toàn năng là chủ của Hội thánh, Ngài đã cảm động Phi-e-rơ quở trách A-na-nia "Sao quỉ Sa-tan đã đầy dẫy lòng người, đến nỗi người nói dối Đức Thánh Linh. Ấy chẳng phải người nói dối loài người bèn là nói dối Đức Chúa Trời." Ma quỉ hoàn toàn thất bại, vì A-na-nia và Sa-phi-ra không tìm được một chỗ đứng trong Hội thánh.

III. Số Phận Của Sa-tan. Số phận của ma quỉ đã bị định từ lâu: 1. Bị rủa sả (Sáng thế ký 3: 14): Từ khi ma quỉ nhập vào con rắn cám dỗ Ê-va phạm tội, con rắn bị rủa sả nặng, từ đời này qua đời kia nó phải bò bằng bụng và ăn bụi đất (Ê-sai 5: 25). Con rắn là hình ảnh của ma quỉ, kẻ bị Chúa rủa sả. 2. Sẽ bị giày đạp dưới chân (Rô-ma 16: 20): Đức Chúa Trời sẽ giày đạp Sa-tan dưới chân tín đồ, nghiền nát đầu nó như một bàn chân sắt nghiền nát đầu con rắn. Việc đó chỉ còn chờ giờ đễ thi hành mà thôi. 3. Sẽ bị hình phạt đời đời trong hỏa ngục: Chúa Giê xu phán phần "Lửa đời đời sẽ sắm sẵn cho ma quỉ và những quỉ sứ nó" (Ma-thi-ơ 25: 41). Hỏa ngục là số phận dành cho ma quỉ và bè lũ của nó. Họ sẽ phải chịu khổ tại đó cả ngày và đêm cho đến đời đời (Khải huyền 20: 10). Ma quỉ là kẻ giết người, là kẻ nói dối (Giăng 8: 44). Phần của kẻ giết người, kẻ nói dối ở trong hồ có lửa và diêm cháy bừng bừng (Khải huyền 21: 8).

Page 25: Nhu LieuTruong Chua Nhat

25

IV. Cách đối phó với Sa-tan. 1. Ma quỉ là kẻ chiến bại: Chúng ta nên biết rằng khi Chúa Giê xu chịu chết vì nhân loại và sống lại, là Ngài đã giày đạp Sa-tan dưới chăn Ngài và hủy các công việc của nó (I Giăng 3: 8b). Trước khi chịu chết, Chúa đã phán "Hiện bây giờ có sự phán xét thế gian này và hiện nay, vua chúa của thế gian này phải bị xua đuổi" (Giăng 12: 31; 16: 11). Kể từ đó, ma quỉ không còn một chỗ đứng nào trên trời để ngày đêm kiện cáo chúng ta nữa, mà phải bị quăng xuống đất (Khải huyền 12: 8-10). 2. Hãy chống cự ma quỉ (Gia-cơ 4: 7; I Phi-e-rơ 5: 8, 9): Dầu ma quỉ được hình dung như sư tử rống, song là sư tử bị xiềng, nên nó có thể hoạt động trong một phạm vi rất hẹp, là rình mò để tìm kiếm người nào nó có thể nuốt được, tức là những người như Giu-đa, A-na-nia, Sa-phi-ra v..v... Vì thế, chúng ta hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự nó. Hãy phục tùng Đức Chúa Trời, rồi chống cự ma quỉ thì nó sẽ chạy trốn. Hãy nhờ sức toàn năng của Chúa, mang lấy mọi khí giới của Ngài, chúng ta sẽ đắc thắng, sẽ vững vàng và tôn vinh Chúa luôn (Ê-phê-sô 6: 11-17). Chúa chúng ta đã phán "Các ngươi sẽ có hoạn nạn trong thế gian nhưng hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi" (Giăng 16: 33). CÂU HỎI 1. Tại sao chúng ta biết chắc ma quỉ có thật? 2. Ma quỉ có tên gì? và có quyền lực thế nào? 3. Hãy kể các công việc của ma quỉ là những gì? 4. Trong các công việc đó, việc nào nguy hiểm hơn hết cho ta? 5. Số phận của ma quỉ là gì? 6. Tại sao chúng ta không cần sợ ma quỉ? 7. Ma quỉ được hình dung như gì? 8. Tại sao ma quỉ cứ gầm thét và rình mò? 9. Chúng ta phải làm gì để ma quỉ phải chạy trốn? 10. Bài học này đã giúp cho học viên có ý thức mới nào đối với ma quỉ?

Page 26: Nhu LieuTruong Chua Nhat

26

BÀI SỐ 6

Sự Dựng Nên Vũ Trụ KINH THÁNH: Sáng thế ký 1: 1-19. Câu gốc: "Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất" Sáng thế ký 1: 1. Mục đích: Dạy rằng Đức Chúa Trời dựng nên mọi vật theo chương trình của Ngài và Ngài có một chương trình cho chúng ta. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chủ Nhật: Đức Chúa Trời dựng nên trời đất. Sáng thế ký 1: 1-08 Thứ Hai: Đất khô và các từng trời. Sáng thế ký 1: 9-19 Thứ Ba: Đấng Christ dựng nên muôn vật. Giăng 1: 1-14 Thứ Tư: Vũ trụ bày tỏ quyền năng của Đ. C. T. Thi thiên 104: 1-9 Thứ Năm: Đ. C. T. có một chương trình cho muôn vật. Thi 104: 10-18 Thứ Sáu: Sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Thi thiên 104: 19-24 Thứ Bảy: Phải thờ phượng Đức Chúa Trời. Thi thiên 104: 25-35 Khi đứng trước một hòn núi hay bên bờ đại dương, chúng ta thấy mình nhỏ bé quá còn quả đất to lớn quá, song quả đất chỉ là một hành tinh hết sức nhỏ bé trong vũ trụ bao la gần như vô tận này. Thử hỏi: Ai đã dựng nên vũ trụ? Có người cho rằng vũ trụ tự nhiên mà có, do một sự tình cờ. Chúng ta không thể chấp nhận một lý thuyết như vậy. Vì chung quanh chúng ta có muôn loài vạn vật, song không có loài nào, vật gì tự nhiên mà có được, phải do bàn tay khéo léo làm ra. Phải có thợ gốm mới có đồ gốm. Không thể có chiếc đồng hồ mà lại không có ông thợ làm nên, thì cũng không thể có chiếc đồng hồ vĩ đại là vũ trụ bao la này lại không có Đấng tạo ra nó. Có người cho rằng vũ trụ do sự tiến hóa từ loài này đến loài kia mà có. Chúng ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết này. Vì từ khi có loài người trên mặt đất, chúng ta chưa hề nghe thấy loài nào tiến hóa thành loài khác. Loài người sinh ra loài người, loài vật sinh ra loài vật. Ngay trong loài vật, loài nào sinh ra loài nấy, chứ không có loài này sinh ra hay tiến hóa đến loài kia. Đó là luật bất di bất dịch từ xưa đến

Page 27: Nhu LieuTruong Chua Nhat

27

nay. Loài vật không hề tiến hóa, chỉ có loài người tiến hóa, song sự tiến hóa của loài người cũng không làm cho mình trở thành một loài khác được. Vậy, ai đã dựng nên vũ trụ? Câu gốc trong bài này trả lời:

I. Ban Đầu Đức Chúa Trời Dựng Nên Trời Đất. Khi nhìn xem vũ trụ, người ta cố gắng dùng sức tưởng tượng để giải thích nguồn gốc của nó. Những lời giải thích ức đoán đó không đáng tin cậy. Đức Chúa Trời không ức đoán, song ký thuật một cách rành mạch cho chúng ta hiểu nguồn gốc của vũ trụ. Ông thợ gốm phải lớn hơn đồ gốm. Đấng tạo hóa phải lớn hơn loài thọ tạo. Chỉ có Đức Chúa Trời toàn tại, toàn năng, chí tôn, chí thánh mới dựng nên vũ trụ vừa bao la, vừa đẹp đẽ, có trật tự hẳn hòi, có định luật không bao giờ thay đổi. Người thợ mộc phải có sẵn gỗ mới đóng được chiếc bàn, ông kỹ sư phải có sẵn nguyên liệu bằng đủ loại kim khí mới đóng được phi cơ hay vệ tinh không gian. Song chỉ một mình Đức Chúa Trời mới từ cõi hư vô đã dựng nên vũ trụ vật chất. "Các từng trời được làm nên bởi hơi thở của miệng Ngài mà có... Vì Ngài phán thì việc liền có, Ngài biểu, thì vật bèn đứng vững bền. Bởi đức tin, chúng ta biết rằng thế gian đã được làm nên bởi lời của Đức Chúa Trời." Thi thiên 33: 6, 9; Hê-bơ-rơ 11: 3. Từ ban đầu Đức Chúa Trời đã dựng nên muôn loài, vạn vật, và truyền lịnh chúng phải sanh sản tùy theo loại. Trong Sáng thế ký 1: 11-25 có đến 10 lần lập lại những chữ "tùy theo loại". Cây cỏ sinh ra tùy theo loại (câu 11, 12), súc vật dưới nước, chim bay trên trời sinh ra tùy theo loại (câu 21), súc vật, côn trùng, thú rừng trên đất sinh ra tùy theo loại (câu 24, 25). Sau đó Ngài cũng dựng nên loài người và bảo rằng "Hãy sinh sản ra nhiều và làm cho đầy dẫy đất". Vậy Đức Chúa Trời dựng nên vũ trụ từ ban đầu. Chúng ta không có biết từ ban đầu là lúc nào. Các khoa học gia ức đoán là hằng mấy tỷ năm rồi, nghĩa là từ lâu lắm. "Các từng trời thuộc về Chúa, đất cũng thuộc về Chúa; Chúa sáng lập thế gian và mọi vật nó chứa." Thi thiên 89: 11.

II. Đức Chúa Trời Dựng Nên Vũ Trụ Trong 6 Ngày (Sáng thế ký 1: 2-19): Chúa đã dựng nên vũ trụ theo thứ tự sau đây: 1. Ngày thứ nhất (Sáng thế ký 1: 3-5):

Page 28: Nhu LieuTruong Chua Nhat

28

Đức Chúa Trời đã dùng lời của Ngài và dựng nên sự sáng và Ngài thấy nó là tốt đẹp. Ngài liền chia sáng và tối , ngày và đêm. Ánh sáng là nhu cầu thiết yếu nhất cho sự sống của muôn loài, phải được dựng nên trước hết. Nó cũng là vẻ đẹp của vũ trụ. Khi Chúa cứu chúng ta, cũng có nghĩa là tái tạo chúng ta, thì Ngài đem chúng ta từ tối tăm qua sáng láng, khiến chúng ta có thể dự phần cơ nghiệp của các thánh trong sự sáng láng (Công vụ các sứ đồ 26: 18; Cô-lô-se 1: 12-13). Không có gì vui sướng bằng sống trong sự sáng láng cũng như không có gì buồn khổ bằng sống trong sự tối tăm. Chúng ta phải cảm tạ Chúa về ơn tạo hóa và nhất là ơn cứu rỗi. 2. Ngày thứ hai (Sáng thế ký 1: 6-8): Đức Chúa Trời đã dựng nên khoảng không gọi là trời để phân rẽ nước dưới khoảng không và nước trên khoảng không. Nước trên khoảng không là mây, trong mây luôn luôn có hằng tấn nước, nhưng chúng không đổ xuống cho đến chừng nào Chúa cho phép. Đó là một việc kỳ diệu mà chỉ một mình Chúa làm được. Đây là một câu hỏi "Ông có biết mây cân bình ra sao chăng? Có hiểu công việc diệu kỳ của Đấng có trí tuệ trọn vẹn sao chăng?" (Gióp 37: 16). Trong đời Nô-ê, khi ông và gia đình cùng mọi loài vật đã được chỉ định đã vào tàu, Chúa liền cất thế quân bình của mây làm cho các đập trên trời mở xuống, mưa sa trên mặt đất 40 ngày và 40 đêm (Sáng thế ký 7: 11-12). Đó là trận đại hồng thủy kinh hoàng nhất xưa nay. Trong tương lai, cơn giận của Đức Chúa Trời như "Lửa hừng sẽ đốt cháy kẻ bội nghịch... Vì Đức Chúa Trời chúng ta là đám lửa hủy diệt (Hê-bơ-rơ 10: 27; 12-29). 3. Ngày thứ ba (Sáng thế ký 1: 9-13): Ngày thứ nhất Chúa làm nên ánh sáng, vì cần cho sự sống của động vật và thực vật. Ngày thứ hai Chúa làm nên khoảng không để ánh sáng hoạt động, tức là chiếu vào. Ngày thứ ba Chúa làm nên cây cỏ là đúng với nhu cầu một cách có thứ tự. Sau khi phân ra biển và đất, Chúa bảo đất phải sanh cỏ, rau, cây như chúng ta thấy ngày nay. Trong các loài đó có hột giống trong chúng để sinh sản mỗi ngày một nhiều, và tùy theo loại. Trong phần này có ba lần "tùy theo loại". Không có trường hợp cây ổi sanh ra trái xoài hay trồng khoai mà gặt lúa được. Trên trái đất hiện có khoảng 250.000 loại thảo mộc khác nhau. Có những cây thật cao lớn, cũng có những cành hoa, ngọn cỏ thật nhỏ nhắn, song hết thảy đều đẹp đẽ khéo léo lạ lùng và ích lợi vô cùng. 4. Ngày thứ tư (Sáng thế ký 1: 14-19): Đức Chúa Trời dựng nên mặt trời, mặt trăng và ngôi sao để phân định ngày giờ, năm tháng và thời tiết. Trái đất đã lớn, mặt trời còn lớn hơn 1.300.000 lần, mặt trời đã lớn, có ngôi sao còn lớn hơn hằng triệu lần. mặt trời ở xa trái đất 93 triệu dặm, song thổ tinh ở xa trái đất một tỷ bảy trăm triệu dặm. Thế mà còn vô số ngôi sao ở xa hơn nữa.

Page 29: Nhu LieuTruong Chua Nhat

29

Chúa đặt mọi vật đó vào một vị trí xứng hiệp để làm ích lợi cho mọi sinh vật. Nếu mặt trời ở gần trái đất hơn thì nóng quá không sinh vật nào sống được. Nếu mặt trời ở xa trái đất hơn thì lạnh quá cũng không sinh vật nào sống được. Vậy, nếu Đức Chúa Trời đã từ cõi hư vô mà dựng nên vũ trụ, thì có gì lớn và khó cho Ngài đâu. Chúa Giê-xu đã thách thức Na-tha-na-ên "Ngươi sẽ thấy việc lớn hơn việc đó" (Giăng 1: 50). Nếu Đức Chúa Trời đã điều khiển vũ trụ mà suốt mấy tỷ năm vẫn y nguyên thì Ngài há không thể điều khiển đời sống chúng ta trong bình an, hạnh phúc giữa mọi hoàn cảnh hay sao? Nếu Đức Chúa Trời quyền năng và giàu có dường ấy thì nỗi nguy nan hơn hết của chúng ta là nhỏ mọn quá cho Ngài, nhu cầu lớn nhất của chúng ta không có nghĩa gì đối với Ngài. Một lời phán của Chúa là đủ quá cho chúng ta rồi (Ma-thi-ơ 8: 8). Nếu Đức Chúa Trời đã bảo tồn vũ trụ và chăm sóc mọi loài thì chúng ta là linh quí hơn hết, chắc chắn sẽ được Ngài bảo tồn và chăm sóc luôn (Thi thiên 145: 15, 16). Nếu Đức Chúa Trời toàn năng, toàn ái, toàn trí, là Cha của chúng ta như chúng ta thường cầu nguyện "Lạy Cha chúng tôi ở trên trời", thì chúng ta còn gì phải sợ? Câu hỏi 1. Tại sao chúng ta biết rằng vũ trụ không phải tự nhiên mà có? 2. Tại sao chúng ta biết rằng vũ trụ không do tiến hóa mà nên? 3. Ai đã làm nên vũ trụ? Ngài đã lấy gì làm nên vũ trụ? 4. Đức Chúa Trời đã dựng nên vũ trụ trong mấy ngày? 5. Ngày thứ nhất, Chúa dựng nên gì? 6. Ngày thứ hai, Chúa dựng nên gì? 7. Ngày thứ ba, Chúa dựng nên gì? 8. Ngày thứ tư, Chúa dựng nên gì? 9. Bạn nghĩ thế nào khi biết Đức Chúa Trời là Cha chúng ta?

Page 30: Nhu LieuTruong Chua Nhat

30

BÀI SỐ 7

Sự Dựng Nên Các Sinh Vật KINH THÁNH: Sáng thế ký 1: 20-31. Câu gốc: "Đức Chúa Trời dựng nên loài người giống như hình Ngài, Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời, Ngài dựng nên người nam cùng người nữ". Sáng thế ký 1: 27 Mục đích: Dạy rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên các sinh vật Ngài dựng nên loài người để thông công với Ngài. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chủ Nhật: Đức Chúa Trời tạo ra sự sống. Sáng thế ký 1: 20-31 Thứ Hai: Vườn Ê-đen. Sáng thế ký 2: 1- 17 Thứ Ba: Đức Chúa Trời dựng nên Ê-va. Sáng thế ký 2: 18-25 Thứ Tư: Địa vị của loài người. Thi thiên 8: 1-9 Thứ Năm: Loài người phải ca ngợi Đức Chúa Trời. Thi thiên 139: 14-18 Thứ Sáu: Địa vị của loài người trong Đấng Christ. Ê-phê-sô 1: 15-23 Thứ Bảy: Thiên đàng của loài người trong tương lai. Khải huyền 22: 1-5 Trước khi học bài mới, chúng ta ôn lại bài cũ. Tuần trước, chúng ta đã học về Đức Chúa Trời dựng nên vũ trụ trong 4 ngày đầu. Hôm nay chúng ta sẽ học về Đức Chúa Trời dựng nên vũ trụ trong hai ngày kế tiếp rồi khi mọi việc xong xuôi, Ngài nghỉ vào ngày thứ bảy. Công việc Chúa thật lạ lùng, nên khi nhìn xem, chúng ta phải rùng mình kinh sợ. Nếu công việc Chúa là như vậy, thì chính mình Chúa là thế nào? Ôi, thật lạ lùng biết bao! Ngày được xưng là Đấng lạ lùng (Ê-sai 9: 5).

I. Ngày Thứ Năm (Sáng thế ký 1: 20-23) Ngày này Chúa dựng nên loài chim và loài cá. Để chúng bay trên không, Chúa dựng nên loài chim có bộ xương rỗng lại chứa đầy không khí ở trong như một chiếc bong bóng được bơm hơi vào. Nhờ đó, loài chim bay nhảy một cách nhẹ nhàng, dễ dàng.

Page 31: Nhu LieuTruong Chua Nhat

31

Có rất nhiều loài chim lớn nhỏ khác nhau, màu sắc khác nhau, hình dạng khác nhau, song hết thảy đều đẹp đẽ. Chúa cũng dựng nên loài cá, từ nhỏ xíu cho đến loại khổng lồ như cá voi. Cá voi là loại cá lớn nhất mà người ta được biết. Động mạch chính của cá voi là một ống dẫn máu có thể chứa được một người to lớn. Chim và cá được lịnh phải sinh sản thêm nhiều theo loại để làm thức ăn cho loài người.

II. Ngày Thứ Sáu (Sáng thế ký 1: 24-31) Công việc của ngày thứ sáu rất quan trọng. 1. Chúa dựng nên súc vật, côn trùng và thú rừng (câu 24, 25). Trong 2 câu này có 5 lần lập lại những chữ "tùy theo loại". Thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, côn trùng tùy theo loại. Chúa thấy mọi vật đó đều tốt lành, vì đem lại lợi ích cho loài người. 2. Chúa dựng nên loài người (câu 26, 27). Sau khi mọi vật đã dựng nên xong xuôi, Chúa bắt đầu dựng nên loài người, để họ vui hưởng công việc của Ngài. Cách Chúa dựng nên loài người khác hơn cách Ngài dựng nên muôn vật. Để dựng nên muôn vật, Chúa chỉ dùng lời Ngài, song để dựng nên loài người, Ba Ngôi Đức Chúa Trời đã họp hội nghị và long trọng tuyên bố "Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta... Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi, thì người trở nên một loài sinh linh". Loài người được dựng nên hình Đức Chúa Trời, không chỉ về thân thể, vì Chúa là Đấng vô hình, Song chỉ về tâm linh giống như Chúa trong sự thánh khiết và công nghĩa (Ê-phê-sô 4: 24; Cô-lô-se 3: 10). Nhờ được Chúa hà hơi vào lỗ mũi mà loài người hưởng được sự sống của Ngài. Trong sự sống đó, loài người có trí tuệ, ý chí lương tâm là những khả năng phân biệt thiên ác và lựa chọn con đường cho mình. Vì vậy loài người là tuyệt điểm và vương miện trong công trình sáng tạo của Đức Chúa Trời. a. Loài người được dựng nên để thông công với Đức Chúa Trời. Dầu Chúa đã dựng nên vô số loài chim bay trên trời, loài cá lội dưới nước, loài thú đi trên đất, song không có loài nào được thông công với Ngài, vì chúng không có sự sống của Ngài, duy chỉ có loài người có sự sống ấy mà thôi. Có một người buồn lắm bèn bỏ nhà vào rừng mà ở. Tại đó, anh gặp một gấu con, liền đem nó vào ở với anh trong một chòi tranh. Người và gấu làm bạn với nhau lâu ngày

Page 32: Nhu LieuTruong Chua Nhat

32

thương yêu nhau. Trưa hôm nọ anh nằm ngủ, con gấu nằm ở bên cạnh anh. Gấu thấy một con ruồi đậu trên mặt anh, nó đuổi đi, con ruồi bay đi rồi trở lại đậu trên mặt anh nữa, và cứ như vậy nhiều lần. Giận quá, gấu bèn lấy một hòn đá to ném con ruồi, ôi thôi! Con ruồi không chết, mà mặt và đầu anh ta không còn. Đó là không biết làm bạn. Con người và con vật không thể thông công với nhau, và con vật không có tri thức như con người. b. Loài người được dựng nên để quản trị muôn vật trên khắp đất (26b và 27b). Câu nầy lập lại hai lần để nhấn mạnh tầm quan trọng của nó. Loài người dầu có thân hình nhỏ hơn con vật, song loài người có thể quản trị con trâu, con voi, kể cả thú dữ như cọp, beo, sư tử vv... Muôn vật được dựng nên để phục vụ loài người. Mặt trời cung cấp ánh sáng và sức nóng cho loài người, loài vật và cây cối để mọi loài vui sống. Đất đai sanh hoa cỏ, ngũ cốc làm thức ăn cho loài người và loài vật. Sông ngòi cung cấp cho loài người phương tiện di chuyển, nước uống, tưới cây. Rừng rậm núi non, biển cả cung ứng cho loài người nguyên liệu quí giá, làm nên những thức ăn và vật dụng cần thiết. Con người được như vậy là vì Đức Chúa Trời dựng nên loài người có thân thể, linh hồn và tinh thần, mà không hề một loài vật nào có được. Thế mà khi loài người sa ngã, đã tự sỉ nhục, cúi đầu thờ lạy mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, núi non, sông, biển, điểu thú, côn trùng, gỗ, đá, bạc vàng (Thi thiên 106: 20; Ê-xê-chi-ên 8: 10, 11; Rô-ma 1: 23; Công vụ các sứ đồ 17: 29) c. Loài người được dựng nên để sanh sản thêm nhiều (câu 28). Để đạt mục đích đó Đức Chúa Trời đã dựng nên người nam, rồi lấy một xương sườn của người nam mà dựng nên người nữ. Và Chúa phán rằng "Người nam ở một mình thì không tốt, ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó". Dầu xung quanh A-đam có vô số loài vật, thì ông không tìm được ai giúp đở mình, mà phải có Ê-va. Hôn nhân đó Đức Chúa Trời thiết lập. Tình yêu của vợ chồng là tình yêu thánh khiết đến nỗi Chúa đã mượn tình yêu đó để sánh với tình yêu của Ngài đối với dân Y-sơ-ra-ên đời xưa và Hội thánh ngày nay. Không có ai giúp đỡ và an ủi nhau bằng vợ chồng. A-đam có cả một cơ nghiệp của Chúa cho, song không thể thiếu Ê-va (Châm ngôn 18: 22; 19: 14). Vậy ai dám cho hôn nhân là bất khiết? "Mọi người phải kính trọng sự hôn nhân" (Hê-bơ-rơ 13: 4). Cấm cưới gả và bảo kiêng các thức ăn là giáo lý của ma quỉ (I Ti-mô-thê 4: 1-5) Bài học cho chúng ta là gì? Cám ơn Chúa Ngài không dựng nên chúng ta như một bộ máy hay như một con vật. Nếu vậy chúng ta hoàn toàn nô lệ không có giá trị, cũng không có trách nhiệm. Song Ngài đã dựng nên chúng ta giống như Ngài để thông công cùng Ngài. Dầu khi chúng ta phạm tội làm mất sự thông công với Chúa, Ngài đã tái lập mối thông công đó bằng sự chết của con Ngài trên thập tự giá để đem chúng ta về với Ngài. Vì thế Chúa Giê-xu đã tự xưng là con đường duy nhất từ đất lên trời (Giăng 14: 6).

Page 33: Nhu LieuTruong Chua Nhat

33

Chúa đã dựng nên chúng ta cao quý, vinh hiển như vậy để quản trị muôn vật chớ không phải để thờ lạy chúng. Vì vậy Chúa cấm quì lạy trước các hình tượng, vô luận là hình tượng nào, cũng không được thờ phượng bất cứ ai ngoài ra chính mình Ngài. (Xuất Ê-díp-tô ký 20: 3-5). Vì vậy ba thanh niên Hê-bơ-rơ thà bị quăng vào lò lửa chớ không chịu thờ hình tượng, Đa-ni-ên thà bị quăng vào hang sư tử chớ không chịu bỏ sự cầu nguyện với Chúa. "Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi" (Ma-thi-ơ 4: 10). Hôn nhân nằm trong chương trình của Chúa đối với loài người. Ngoại trừ một đôi trường hợp đặc biệt mà có người ở độc thân, kỳ dư nam nữ có gia đình là tốt. Vì nhờ có gia đình mà khả năng thiên phú của họ được phát triển, tức là khả năng làm chồng, làm cha, làm vợ, làm mẹ. Trên hết mọi sự, vợ chồng là bạn trăm năm để giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống hằng ngày. Vì Chúa không muốn cho ai cô độc. Chúa dựng nên muôn vật và loài người với mục đích bày tỏ quyền năng, yêu thương của Ngài. Loài người cao quí hơn hết, có trách nhiệm phải tôn vinh Ngài trong nếp sống hằng ngày của chúng ta. Muốn vậy, chúng ta phải giữ luôn mối thông công mật thiết với Chúa. CÂU HỎI 1. Ngày thứ năm, Chúa dựng nên loài nào? 2. Tại sao con chim bay được dễ dàng? 3. Ngày thứ sáu Chúa dựng nên các loài nào? 4. Tại sao chúng ta biết loài thú không thể tiến hóa từ loài nầy sang loài khác? 5. Cách Chúa dựng nên loài người với loài vật khác nhau thế nào? 6. Những điểm khác nhau của loài người và loài vật là gì? 7. Chúa dựng nên loài người với ba mục đích gì? 8. Tại sao loài người được thông công với Chúa, mà loài vật thì không được? 9. Tại sao chúng ta không nên thờ muôn vật? 10. Tại sao hôn nhân không phải là bất khiết?

Page 34: Nhu LieuTruong Chua Nhat

34

BÀI SỐ 8

Tội Lỗi KINH THÁNH: Sáng thế ký 3: 1-24 Câu gốc: "Cho nên, như bởi một người mà tội lỗi vào trong thế gian, lại bởi tội lỗi mà có sự chết thì sự chết trải qua trên hết mọi người như vậy, vì mọi người đều hạm tội..." Rô-ma 5: 12 Mục đích: Cho biết tội lỗi đã đến trong thế gian cách nào và làm sao để chúng ta được tha tội. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chủ Nhật: Bà Ê-va bị cám dỗ. Sáng thế ký 3: 1-07 Thứ Hai: Tội lỗi phải bị trừng phạt. Sáng thế ký 3: 8-19 Thứ Ba: Hậu quả của tội lỗi. Sáng thế ký 3: 20-24 Thứ Tư: Mọi người đều đã phạm tội. Rô-ma 5: 12-19 Thứ Năm: Tội lỗi của loài người. Rô-ma 3: 10-23 Thứ Sáu: Đấng Christ chết vì tội chúng ta. Rô-ma 5: 1-11 Thứ Bảy: Đấng Christ tha tội chúng ta. I Giăng 1: 1-10 Trong đời người, không có gì đáng yêu chuộng bằng sự thánh khiết, ngược lại, không có gì đáng ghê tởm bằng tội lỗi. Tội lỗi cướp mất mọi sự, phá hủy mọi sự, kết quả của nó thật khủng khiếp, không ai có thể đo lường được.

I. Khuất Phục Sự Cám Dỗ Là Phạm Tội (Sáng thế ký 3: 1-6) A-đam và Ê-va được Đức Chúa Trời dựng nên cách vô tội trọn vẹn. Vô tội trọn vẹn không phải là không có khả năng phạm tội. Chúa dựng nên ông bà khác hơn cỏ cây, khác hơn cầm thú, là ông bà có ý chí tự do. Với ý chí tự do, ông bà có khả năng phục tùng Chúa để ăn ở thánh khiết, hoặc chống lại Ngài để phạm tội. Đức Chúa Trời đặt ông bà tại vườn Ê-đen là chỗ tốt nhất tại trần gian, với lời dặn dò cẩn thận. Song khi ma quỉ nhập vào con rắn, đến cám dỗ thì Ê-va đã nghe lời nó mà

Page 35: Nhu LieuTruong Chua Nhat

35

bỏ lời của Ngài. Câu hỏi của ma quỉ (Sáng thế ký 3: 1) là để gieo sự nghi ngờ vào lòng Ê-va, nghi ngờ tình thương của Chúa, nghi ngờ mạng lệnh của Ngài. Vì nghi ngờ tình thương của Chúa, nên về trái cấm, Chúa bảo đừng ăn đến thì bà lại thêm cũng đừng đụng đến. Vì nghi ngờ mạng lệnh của Chúa, nên khi Chúa bảo ngày nào ngươi ăn thì sẽ chết, bà lại bớt đi ý nghĩa của nó là e rằng phải chết chăng. Từ ban đầu ma quỉ đã là kẻ giết người, kẻ nói dối là cha của sự nói dối, nó dám nói trắng trợn rằng "Hai người chẳng chết đâu, nhưng Đức Chúa Trời biết rằng hể ngày nào hai người ăn trái cây đó, mắt mình mở ra, sẽ như Đức Chúa Trời biết điều thiện và điều ác". Phạm tội để được phước, chống lại Đức Chúa Trời để được như Ngài, đó là lý luận của ma quỉ. Bà Ê-va cứ nhìn vào trái cấm, thấy nó ngon đẹp, lại quí để trở nên khôn ngoan. Chân bà bước tới, tay bà đưa ra, ban đầu còn ngần ngại, lần hồi lòng tham muốn đã đến cực độ, bà quyết định hái ăn và trao cho chồng ăn nữa. Thế là bà đã khuất phục sự cám dỗ mà phạm tội cùng Chúa. Có những câu hỏi không cần trả lời như câu hỏi của ma quỉ hỏi bà Ê-va. Có những lý luận không cần nghe như lý luận của ma quỉ nói với Ê-va. Có những vật không cần nhìn xem, không cần nghĩ đến như trái cấm trong vườn Ê-đen. Kinh thánh giải thích sự cám dỗ đã biến thành tội lỗi như sau "Nhưng mỗi người bị cám dỗ khi mắc tư dục xui giục mình. Đoạn, lòng tư dục cưu mang, sanh ra tội ác, tội ác đã trọn, sinh ra sự chết" (Gia-cơ 1: 14-15). Sự ham muốn theo ý riêng lôi cuốn mình vào sự cám dỗ, nếu không chối bỏ lập tức và dứt khoát mà cưu mang nó trong lòng thì từ tư tưởng đến hành động sẽ không bao xa. Vậy hãy coi chừng sự ham muốn của xác thịt, sự ham muốn của mắt và sự kiêu ngạo của đời này. Vì chúng đều từ thế gian hư hoại mà ra.

II. Tội Lỗi Là Gì? Kinh thánh đã trả lời: 1. Tội lỗi là sự vi phạm luật pháp (I Giăng 3: 4). 2. Tội lỗi là mọi sự bất công (I Giăng 5: 17). 3. Tội lỗi là không chịu làm điều lành (Gia-cơ 4: 17). 4. Tội lỗi là làm điều gì không bởi đức tin (Rô-ma 14: 23). 5. Tội lỗi là không tin Chúa Giê-xu (Giăng 16: 9). 6. Tội lỗi là tư tưởng ngu dại (Châm ngôn 24: 9). 7. Tội lỗi là tự cao, kiêu ngạo, gian ác (Châm ngôn 21: 4). Tất cả tư tưởng và hành động của Ê-va được mô tả bằng những câu Kinh thánh trên đây. Đó là tư tưởng và hành động của nhân loại, là dòng dõi của bà. Người đã phạm tội và chuyên nghề phạm tội, tưởng mình rất khôn ngoan, song kỳ thật rất ngu dại. Tư tưởng đưa đến hành động bất công, bất nghĩa, vô tính, kiêu căng. Tội lỗi và Sa-tan được tập trung vào con rắn là rất đúng. Con rắn có một làn da rất đẹp, song rất dể sợ, sau làn da đó là nọc độc giết người.

Page 36: Nhu LieuTruong Chua Nhat

36

III. Kết Quả Của Tội Lỗi (Sáng thế ký 3: 7-24). Ngay sau khi phạm tội, mắt hai người mở ra, không thấy gì tốt đẹp hơn, mà chỉ thấy mình khốn nạn hơn bao giờ hết, là sự lõa lồ, hổ thẹn, vì mất cả vinh quang của Chúa rồi. Cách khôn ngoan nhất mà ông bà có thể làm được là một chiếc áo bằng lá vả để che thân. Tiếp theo đó là sự sợ hãi khi nghe Chúa đến thăm, không còn vui vẻ, hồn nhiên đón mừng Ngài như trước, mà chạy trốn trong bụi cây. Khi Chúa thẩm vấn thì ông đổ lỗi cho bà, đồng thời cũng gián tiếp đổ lỗi cho Chúa "Người nữ mà Chúa đã để gần bên tôi, cho tôi trái cây đó và tôi ăn rồi". Bà đổ lỗi cho con rắn cám dỗ bà. Dầu đỗ lỗi cho kẻ khác, ông bà cũng không khỏi tội được. Bà bị đau đớn, ông bị cực khổ. Cả hai bị đuổi ra khỏi vườn Ê-đen. Thật là một tình trạng thê thảm! Đúng như mạng lịnh của Chúa, ông bà đã chết ngay sau khi phạm tội, là mất sự thông công với Chúa. "Đức Chúa Trời không chịu khinh dể đâu, vì ai gieo giống chi lại gặt giống ấy. Gieo xác thịt gặt sự hư nát, gieo tội lỗi gặt sự hình phạt". Thế mà nhân loại vẫn còn bị ma quỉ lừa dối, tưởng rằng phạm tội sẽ có kết quả tốt. Tội lỗi của A-đam và Ê-va thâm nhiễm vào dòng dõi họ và phát triển một cách khủng khiếp. 1. Tội lỗi làm cho con người xa cách Đức Chúa Trời (Ê-sai 59: 1-2) và trở nên thù nghịch cùng Ngài (Cô-lô-se 1: 21). Khi con người đã xa cách Đức Chúa Trời, họ cũng xa cách nhau. Khi họ đã thù nghịch cùng Ngài, họ cũng thù nghịch nhau. Vì vậy, Ca-in đã giết em mình là A-bên, rồi bắt đầu từ đó, con người cứ tiếp tục giết nhau, càng ngày càng mạnh, càng nhiều cho đến ngày nay. 2. Tội lỗi làm cho con người bại hoại, xấu xa, gian ác (Sáng thế ký 6: 5, 11, 12; Giê-rê-mi 17: 9). Mắt thuộc linh của con người đã đui mù (II Cô-rinh-tô 4: 4), trí khôn trở nên tối tăm (Ê-phê-sô 4: 18), lòng đã bị ô uế (Tít 1: 15), không làm được điều lành, không tránh được điều dữ (Rô-ma 7: 17-18). Vì vậy, về phần đạo đức, con người ngày càng thoái hóa, trụy lạc. 3. Tội lỗi đưa con người đến cõi chết (Rô-ma 5: 12; 6: 23). Có 3 sự chết: a- Sự chết thuộc thể (Sáng thế ký 3: 19). b- Sự chết thuộc linh (Sáng thế ký 2: 17; Ê-phê-sô 2: 1). c- Sự chết đời đời (Khải huyền 14: 11; 20: 10). Chết thuộc thể là thân thể bị tuyệt giao với mọi người, mọi vật chung quanh. Chết thuộc linh là linh hồn bị tuyệt giao với Đức Chúa Trời. Chết đời đời là cả thân thể cũng như linh hồn bị tuyệt giao với Đức Chúa Trời và bị quăng vào hồ lửa đời đời (Khải huyền 20: 15).

Page 37: Nhu LieuTruong Chua Nhat

37

Hãy lắng nghe tiếng kêu la của một người vô tín trong hỏa ngục: "Hỡi Áp-ra-ham, tổ tôi ơi, xin thương xót tôi, sai La-xa-rơ nhúng đầu ngón tay vào nước đặng làm cho mát lưởi tôi, vì tôi bị khổ trong lửa này quá đỗi... Tổ tôi ơi, vậy thì sai La-xa-rơ đến nhà Cha tôi, vì tôi có năm anh em, đặng người làm chứng cho họ những điều này, kẻo họ xuống nơi đau đớn này chăng" (Lu-ca 16: 24, 27, 28).

IV. Lời Hứa Về Đấng Cứu Chuộc (Sáng thế ký 3: 15, 21). Ngày nay khi loài người phạm tội, Đức Chúa Trời đã hứa ban Cứu Chúa chịu chết đền tội cho họ. Cứu Chúa sẽ ra từ dòng dõi người nữ, sẽ dày đạp trên đầu con rắn là Sa-tan, khi Ngài chịu chết và sống lại. Chiếc áo bằng lá vả của A-đam và Ê-va đã được thay thế bởi chiếc áo dài bằng da thú. Như vậy, đã có một con chiên bị giết và con chiên đó chỉ về Chúa Giê-xu (Giăng 1: 29; Khải huyền 13: 8). Ngày nay, mỗi lời hứa đó đã được ứng nghiệm trọn vẹn. Nhờ Chúa Giê-xu, chúng ta được tha thứ, được hòa lại cùng Đức Chúa Trời. Đồng thời chúng ta được Đức Thánh Linh tái tạo một đời sống mới, giống như Đức Chúa Trời trong sự thánh khiết và công nghĩa, đã vượt khỏi sự chết mà đến sự sống thuộc linh, sự sống đời đời. Ngay sự chết thuộc thể cũng không còn nọc độc đối với chúng ta nên Phao-lô gọi đó là giấc ngủ để đưa mình về cùng Đức Chúa Trời (I Tê-sa-lô-ni-ca 4: 14-15; Phi-líp 1: 21-23). Tội lỗi làm buồn cho Đức Chúa Trời (Sáng thế ký 6: 5-6), làm hại cho người và cho mình, song ân điển của Ngài đem lại sự vui mừng như khi con trai phá của trở về cùng cha (Lu-ca 15: 23, 32). CÂU HỎI 1. Sự vô tội trọn vẹn của A-đam, Ê-va khi mới được dựng nên có nghĩa gì? 2. Tại sao Ê-va và A-đam đã phạm tội? 3. Muốn thắng sự cám dỗ, phải làm sao? 4. Tội lỗi là gì? 5. Kết quả của tội lỗi đã đem ngay đến cho A-đam và Ê-va những điều gì? 6. Kết quả của tội lỗi đã đem đến những gì cho nhân loại là dòng dõi của họ? 7. Có mấy sự chết? 8. Người đã xuống địa ngục còn biết gì? Còn nhớ gì? Và đã xin gì? 9. Sau khi loài người phạm tội, Đức Chúa Trời đã hứa gì? 10. Lời hứa đó ứng nghiệm vào ai? 11. Kết quả của tội lỗi và ân điển khác nhau thế nào?

Page 38: Nhu LieuTruong Chua Nhat

38

BÀI SỐ 9

Hậu Quả Của Tội Lỗi KINH THÁNH: Sáng thế ký 4: 6. Câu gốc: "Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Giê-xu Christ, Chúa chúng ta" Rô-ma 6: 23. Mục đích: Cho chúng ta biết rằng tội lỗi đưa đến sự chết nhưng Đức Chúa Trời đã sắm sẵn một phương pháp cứu rỗi cho chúng ta. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chủ Nhật: Tội lỗi của loài người. Sáng thế ký 6: 1-7 Thứ Hai: Ân điển của Đức Chúa Trời. Sáng 6: 8; 7: 1; Rô-ma 5: 20 Thứ Ba: Lời cảnh cáo. Lu-ca 17: 22-37 Thứ Tư: Loài người cần một của lễ sống. Hê-bơ-rơ 9: 16-28 Thứ Năm: Đấng Christ đổ huyết làm của lễ chuộc tội. Hê-bơ-rơ 10: 11-18 Thứ Sáu: Sự bất nghĩa của loài người. Rô-ma 3: 9-20 Thứ Bảy: Sự công nghĩa của Đức Chúa Trời. Rô-ma 4: 3-7; 5: 15-21 Hậu quả của tội lỗi là tai hại xảy ra sau khi loài người phạm tội. Hậu quả của tội lỗi thật lớn lao, lâu dài và khủng khiếp quá sức tưởng tượng của con người. Chúng ta phải run sợ khi nghĩ đến hậu quả của tội lỗi. Nếu mọi người trên thế gian đều có đủ cơm ăn, áo mặt, nhà ở, học có trường, đau có thuốc, thì ai nấy sẽ sống ngay lành chăng? Không đâu! Hãy xem A-đam và Ê-va trong cảnh vườn Ê-đen. Họ có thiếu chi không? song họ ham muốn những điều Chúa cấm, tưởng được nhiều hơn. Kết quả họ không được nhiều hơn mà bị mất hết, tức là bị đuổi ra khỏi vườn Ê-đen và phải chịu đau đớn, nhọc nhằn cho đến chết. Sau khi phạm tội A-đam và Ê-va biết phân biệt điều thiện và điều ác, song họ không thể làm điều thiện, tránh điều ác. Loài người là dòng dõi của ông bà cũng vậy.

I. Loài Người Sống Theo Ý Riêng. Khi A-đam và Ê-va đã theo ý riêng mà ăn trái cấm, con của ông bà là Ca-in cũng hành động như vậy. Chúa đã dạy ông bà, rồi ông bà dạy lại hai con, song chỉ có một người vâng lời.

Page 39: Nhu LieuTruong Chua Nhat

39

Khi phải dâng lễ lên Chúa, A-bên dâng chiên đầu lòng và mỡ nó, song Ca-in dâng thổ sản. Nào có lạ gì khi Đức Chúa Trời đoái xem A-bên và nhậm lễ của ông mà không đoái xem Ca-in và từ chối tế lễ của ông này. Vì một bên vâng lời, còn một bên không. Vâng lời là tin Đấng Cứu Thế, không vâng lời là vì không tin Đấng Cứu Thế. "Bởi đức tin của A-bên đã dâng cho Đức Chúa Trời một tế lễ tốt hơn của Ca-in và được xưng công bình, vì Đức Chúa Trời làm chứng về người rằng Ngài nhận lễ vật ấy" (Hê-bơ-rơ 11: 4). Tại sao Chúa nhậm tế lễ của A-bên? "Vì mạng sống của xác thịt ở trong huyết, ta đã cho các ngươi huyết rưới trên bàn thờ đặng làm lễ chuộc tội cho linh hồn mình vì nhờ sanh mạng mà huyết mới chuộc tội được" (Lê-vi-ký 17: 11). Toàn thể nhân loại hôm nay cũng được chia làm hai hạng, đi hai con đường và đi đến hai kết quả như Ca-in và A-bên. Tội lỗi đã làm cho con người tự thị, tự mãn, tự kiêu, tự phụ, lấy chính mình làm trung tâm mà không chịu phục tùng ai cả. Pha-ra-ôn của Ai-cập đã nói "Giê-hô-va là ai mà trẩm phải vâng lời người?... Trẩm chẳng biết Giê-hô-va nào hết" (Xuất Ê-díp-tô ký 5: 2). Kẻ gian ác nói với Đức Chúa Trời "Ngài hãy lìa xa chúng tôi vì chúng tôi không muốn biết đạo của Ngài. Đấng toàn năng là chi mà chúng tôi phải phục sự Ngài? Nếu chúng ta cầu khẩn thì được ích gì?" (Gióp 21: 14-15). Đã vậy, Ca-in vẫn là ngoan cố, không chịu ăn năn lòng vô tín của mình mà còn giận lắm và gầm nét mặt. Tội lỗi của Ca-in đang làm cho Chúa giận ông, song ông lại giận Chúa. Dầu vậy, Ngài dịu dàng phán hỏi Ca-in "Cớ sao ngươi giận và nét mặt ngươi gằm xuống? Nếu ngươi làm lành há chẳng ngước mắt lên sao? Còn như ngươi chẳng làm lành, thì tội lỗi nằm đợi trước cửa, thèm ngươi lắm, nhưng ngươi phải quản trị nó" (Sáng thế ký 4: 6-7). Chúa muốn nói với Ca-in rằng có gì mà phải giận. Nếu ông có thiện chí được Ngài đẹp lòng nhận lấy, thì nên dâng lên Ngài một tế lễ khác bằng chiên con, nếu trái lại ông không ăn năn việc sai lầm của mình thì đây là lời cảnh cáo: Tội lỗi như một ác thú chực sẵn một bên để tấn công ông bất cứ lúc nào thuận tiện, nên ông phải chiến thắng nó. Than ôi! Ca-in chẳng hề đáp lại tiếng gọi nhân từ của Chúa, mà cứ giữ một thái độ im lìm đáng sợ của một người đang giận lắm và gằm nét mặt. Lòng của Ca-in lúc nầy như một hỏa diệm sơn sắp phun lửa. Đó là hiệu quả của tội lỗi! Nhân loại đã và đang đi con đường của Ca-in, là không tin cậy, không vâng lời Chúa mà còn thù người, hận Trời, "Dọc ngang nào biết trên trời có ai".

II. Loài Người Trở Thành Gian Ác. Ca-in thật gian ác, lòng căm giận, mặt gằm xuống, nhưng cố giấu A-bên và trò chuyện như không có gì cả. Rồi thình lình, Ca-in xông vào em mình và giết đi. Hành động của Ca-in là để hả giận với A-bên và đồng thời trả thù Đức Chúa Trời. Tại sao Ca-in giết A-bên ? Bởi việc làm của người là dữ, còn việc làm của em người là công bình (I Giăng 3: 12). Ghen ghét, tức giận đưa đến giết người là tức nhiên (I Giăng 3: 15). Xưa nay, kẻ gian ác giết người công bình là sự thường. Tội lỗi đã ăn sâu

Page 40: Nhu LieuTruong Chua Nhat

40

vào đời sống con người và phát triển hết sức mau lẹ. Một khi con người đã thù nghịch cùng Chúa thì đồng thời cũng thù nghịch với nhau. Ca-in sanh Hê-nóc, Hê-nóc sanh Y-rát, Y-rát sanh Mê-hu-đa-ên, Mê-hu-đa-ên sanh Mê-tu-sa-ên, Mê-tu-sa-ên sanh Lê-méc. Ca-in giết người, sanh con cũng là kẻ giết người. Lê-méc là cháu 5 đời của Ca-in biết rèn đủ khí giới bằng đồng, bằng sắt. Bài ca của Lê-méc là bài ca giết người khoe khoang lòng gian ác và chí căm thù của mình với hai vợ (Sáng thế ký 4: 23-24). Vì vậy, không lạ gì hôm nay con người cũng khoe khoang khí giới giết người và khả năng giết người của mình. Nhân loại đã vô tình tôn thờ Ca-in và dòng dõi của ông ấy. Đó là hậu quả của tội lỗi.

III. Chương Trình Cứu Chuộc Của Đức Chúa Trời. Dầu A-bên đã bị giết, Đức Chúa Trời vẫn dự bị một dòng dõi kính sợ Ngài do Sết mà ra, từ đây người ta bắt đầu cầu khẩn danh Đức Giê-hô-va" (Sáng thế ký 4: 26). Sết sanh ra Ê-nót, Ê-nót sanh Kê-nan, Kê-nan sanh Ma-ha-la-le, Ma-ha-la-le sanh Giê-rết, Giê-rết sanh Hê-nóc, Hê-nóc sanh Mê-tu-sê-la, Mê-tu-sê-la sanh Lê-méc, Lê-méc sanh Nô-ê. Hai dòng dõi đó tên trùng nhau. "Hê-nóc cùng đi với Đức Chúa Trời rồi mất biệt, bởi vì Đức Chúa Trời tiếp người đi... Nô-ê trong đời mình là người công bình và trọn vẹn đồng đi cùng Đức Chúa Trời " (Sáng thế ký 5: 24; 6: 9). Từ dòng dõi nầy Đấng Cứu Thế ra đời như chiên con của Đức Chúa Trời đổ cất tội lỗi thế gian đi. Suốt dòng lịch sử nhân loại, Đức Chúa Trời hoạt động không ngừng để đưa Đấng Cứu Thế vào đời. Công tác trọng đại nhất của Đức Chúa Trời không phải là dựng nên vũ trụ mà là cứu tội nhân khỏi tội lỗi, khỏi trầm luân. Mỗi chúng ta phải biết sự thực này, chúng ta là dòng dõi của A-đam và Ê-va, ai nấy cũng đều phạm tội y như ông bà ấy và mang lấy hậu quả là sự chết (Rô-ma 5: 12; 6: 23). Khi ông bà đưa tay hái trái cấm mà ăn thì chúng ta cũng đã làm y như ông bà vậy vì lúc đó chúng ta đang ở trong dòng máu của ông bà. Toàn thể nhân loại, nam giới là A-đam con, nữ giới là Ê-va con. Bản chất của A-đam và Ê-va cũng là bản chất của chúng ta. Từ ông bà sanh ra hai dòng dõi dữ và lành, thuộc về Ca-in và thuộc về A-bên hay Sết. Lành không có nghĩa là hoàn toàn thánh thiện mà chỉ nhận biết tội mình, cầu khẩn Đức Chúa Trời, tin lấy cứu Chúa đã chết đền tội cho mình như chiên con của A-bên, đồng đi cùng Đức Chúa Trời như Hê-nóc và Nô-ê. Các bạn thuộc dòng dõi nào? Các bạn có nhờ ân điển của Đức Chúa Trời, tin Chúa Giê-xu mà được tha tội, được xưng công bình, được tái sanh làm con trai, con gái của Ngài chưa? Lòng của các bạn có bình yên, thanh thản như lòng của A-bên dầu phải chết? Hay lòng các bạn đang căm giận, mặt các bạn đang gầm xuống, chực giết người như Ca-in? Hay giống như dòng dõi của Sết? Các bạn hãy quyết định ngay bây giờ cho đời mình, cho dòng dõi mình cho số phận tương lai vô tận của mình. Tôi nhân Danh Chúa tha thiết khuyên nài các bạn hãy hết lòng ăn năn, dâng lên Chúa một tế lễ như A-bên, tức là tin nhận cứu Chúa chịu chết về mình như chiên con chịu giết, để nhờ đó bạn được cứu rỗi. Bằng không tôi cũng nhân Danh Chúa cảnh cáo các bạn qua lời Chúa "Còn như ngươi chẳng làm lành thì tội lỗi rình đợi ngươi trước cửa, thèm ngươi lắm, nhưng người phải quản trị nó" (Sáng thế ký 4: 7). Tội lỗi như một ác thú ham mồi, như sư tử

Page 41: Nhu LieuTruong Chua Nhat

41

rống rình mò xung quanh, tìm kiếm người nào nó có thể nuốt được. Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự nó (I Phi-e-rơ 5: 8). CÂU HỎI 1. Tại sao Ca-in dâng một tế lễ khác hơn tế lễ của A-bên? 2. Tại sao Chúa đoái xem và nhận tế lễ của A-bên mà từ chối của Ca-in? 3. Ca-in có thái độ nào khi ông không được Chúa đoái xem và nhận tế lễ của mình? 4. Ca-in có thái độ nào khi Chúa nhân từ kêu gọi ông ăn năn? 5. Vì không ăn năn Ca-in đã phạm thêm tội gì? 6. Dòng dõi của Ca-in ra sao? Họ khoe khoang về điều gì? 7. Chúa dự bị cho nhân loại dòng dõi của ai? 8. Do dòng dõi của Sết, có ai ra đời để cứu nhân loại? 9. Công tác trọng đại nhất của Đức Chúa Trời trải qua các đời là gì? 10. Chúng ta thuộc dòng dõi của ai?

Page 42: Nhu LieuTruong Chua Nhat

42

BÀI SỐ 10

Khi Đức Chúa Trời Đoán Phạt Loài Người Bằng Nước Lụt

KINH THÁNH: Sáng thế ký 7: 17-24; 9: 8-17 Câu gốc: "Đức Giê-hô-va phán rằng: Thần ta sẽ chẳng hằng ở trong loài người luôn" Sáng thế ký 6: 3 Mục đích: Dạy chúng ta rằng Đức Chúa Trời đoán phạt tội nhân và ban thưởng cho những kẻ vâng phục Ngài. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chủ Nhật: Tội lỗi. I Giăng 3: 1-10 Thứ Hai: Lời cảnh cáo của Chúa Giê-xu. Lu-ca 17: 22-37 Thứ Ba: Chiếc tàu của Nô-ê. Sáng thế ký 7: 1-8: 19 Thứ Tư: Bàn thờ của Nô-ê lập. Sáng thế ký 8: 20-22 Thứ Năm: Giao ước của Đức Chúa Trời. Sáng thế ký 9: 9-17 Thứ Sáu: Giao ước mới. Hê-bơ-rơ 8 : 6-13 Thứ Bảy: Sự đoán phạt bằng lửa. II Phi-e-rơ 3: 3-13 Chúng ta thấy hậu quả của tội lỗi lớn lao và kinh khiếp là dường nào! Ban đầu chỉ có 2 người phạm tội, bị đuổi ra khỏi vườn Ê-đen phải chịu nhọc nhằn, đau đớn cho đến chết. Con trai của ông bà ấy còn phạm tội ghê gớm hơn là giết em mình, bị rủa sả, phải lưu lạc khổ sở. Dòng dõi của ông bà ngày càng đông đúc, thì tội lỗi cũng ngày càng phát triển đến mức Đức Chúa Trời phải quyết định giết cả loài người lẫn loài vật. Thật không lạ gì mà Chúa phải hành động như thế, vì các con trai của Đức Chúa Trời là dòng dõi Sết đã lấy các con gái của loài người là dòng dõi Ca-in, làm cho loài người không còn bản chất thuộc linh mà chỉ là xác thịt. Sự hung ác của họ rất nhiều, và ý tưởng của họ đều xấu luôn (Sáng thế ký 6: 1-7). Chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời rất yêu thương, song cũng rất thánh khiết. Bởi yêu thương, Ngài đã dựng nên loài người và muôn vật. Bởi thánh khiết, Ngài đoán phạt họ. Không ai được phép khinh dể sự dư dật của lòng nhân từ, nhịn nhục, khoan dung của Chúa, song biết rằng mọi sự đó cốt để đem tội nhân đến sự ăn năn. Nếu ai không ăn năn thì tự chứa cho mình sự thạnh nộ của ngày thạnh nộ như một cơn lụt.

Page 43: Nhu LieuTruong Chua Nhat

43

I. Lời Cảnh Cáo Về Sự Đoán Phạt. Dầu nhân loại thời bấy giờ rất bại hoại nhưng còn có gia đình của Nô-ê gồm 8 người là công bình trọn vẹn, đồng đi cùng Đức Chúa Trời. Vì thế khi Nô-ê được 480 tuổi, Chúa bảo ông đóng một chiếc tàu để cứu cả nhà mình và các loài súc vật. Suốt 120 năm gia đình Nô ê chỉ làm một việc là vừa đóng tàu vừa giảng đạo. "Còn 120 năm nữa Đức Chúa Trời sẽ hủy diệt thế gian bằng nưóc lụt". Nhưng chẳng ai tin lời của Nô-ê. Họ có tài chăn nuôi, trồng tỉa, đánh đàn thổi sáo, chế tạo khí giới, mạnh dạn, nổi danh. Họ tưởng mình có tài năng tự vệ, không gì có thể làm hại mình được. Vả lại, chưa hề có một dấu hiệu nào tỏ ra sẽ có nước lụt. Thay vì ăn năn, chắc ai nấy đã không tiếc lời chế nhạo Nô-ê, vì không có sự điên dại nào bằng đóng một chiếc tàu lớn trên đất khô để dành cho một cơn nước lụt mà phải bao nhiêu công phu, thì giờ. Song Nô-ê và gia đình ông quyết làm xong công việc Chúa giao. Nếp sống của gia đình Nô-ê không giống như người đồng thời của họ. Khi mỗi người chung quanh lo ăn uống, cưới gả, vui chơi như thường thì gia đình ông "thành tâm kính sợ, đóng một chiếc tàu để cứu cả nhà mình" (Hê-bơ-rơ 11: 7). Kinh thánh gọi Nô-ê là thầy giảng đạo công bình (II Phi-e-rơ 2: 5). Đó là hành động của con người có đức tin. Ngày nay, chúng ta phải sống như Nô-ê, "Hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời không tì, không vít, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian" (Phi-líp 2: 15)

II. Phương Pháp Thoát Khỏi Sự Đoán Phạt. Chiếc tàu Nô-ê đóng không hoàn toàn giống như một chiếc tàu thường, thật ra nó là một cái thùng khổng lồ, có thể nổi lềnh bềnh trôi trên mặt nước vì được trét chai cả trong lẫn ngoài. Kích thước của nó lại giống như một chiếc tàu thường: bề dài 137m, bề ngang 23m, bề cao 14m, có một cửa sổ và một cửa ra vào. Tàu có ba tầng gồm nhiều phòng dành cho người và súc vật. Sau khi chiếc tàu đã đóng xong, Đức Chúa Trời bảo Nô-ê và cả gia đình ông vào tàu, và các loài vật thanh sạch mỗi loại 7 cặp, các loài vật không thanh sạch mỗi loại 1 cặp, đực và cái, trống và mái, với lương thực đầy đủ cho chúng. Mọi việc ấy phải hoàn tất trong 7 ngày. Thời gian 7 ngày đó rất quan trọng như đặc ân cuối cùng dành cho tội nhân. Đang khi ai nấy nhìn xem công việc của Nô-ê, họ có đủ thì giờ vào tàu với ông. Song than ôi! chẳng ai buồn nghỉ đến nên cuối cùng bị nước cuốn đi hết thảy! Nhân loại trong đời Nô-ê hư mất không phải tại nước lụt mà tại lòng hững hờ, vô tín của họ. Vì dầu nước lụt, song đã sẳn tàu. Nhân loại hôm nay hư mất đời đời trong hỏa ngục không phải vì tội lỗi của họ lớn lao, nặng nề mà tại lòng hững hờ, vô tín của họ. Vì tội lỗi của họ đã có Chúa Giê-xu chết thế cho rồi.

Page 44: Nhu LieuTruong Chua Nhat

44

Bảy ngày trôi qua, nhằm năm Nô-ê 600 tuổi, mọi sự đã xong, Đức Chúa Trời đóng cửa tàu lại, trời bắt đầu mưa như cầm chĩnh mà đổ trọn 40 ngày và 40 đêm, đồng thời các nguồn vực lớn nổ ra, các đập trên trời mở xuống. Nhân loại bấy giờ không ngờ chi hết, kẻ leo lên mái nhà, kẻ trèo lên cây, người chạy lên đồi, lên núi, cuối cùng các đỉnh núi cao nhất đều ngập suốt 150 ngày. Song nước càng dâng cao bao nhiêu, nâng hỏng chiếc tàu bấy nhiêu, chiếc tàu nổi trên mặt nước. Tất cả các loài có hơi thở đều chết, chỉ có gia đình Nô-ê và các loài vật ở với ông trong tàu đều được sống. Trong tàu Nô-ê, con chuột cũng được cứu như con voi, ngoài tàu Nô-ê, con voi cũng chết như con chuột. Được cứu hay phải chết không phải tại lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu, mà tại ở trong tàu hay ở ngoài tàu. Nhân loại ngày nay cũng vậy, được cứu rỗi hay bị hư mất không phải tại lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, tốt hay xấu, mà tại ở trong Chúa Giê-xu hay ngoài Chúa Giê-xu. Trong Chúa Giê-xu, người nghèo cũng được cứu rỗi như người giàu, ngoài Chúa Giê-xu, người giàu cũng bị hư mất như người nghèo.

III. Đức Chúa Trời Lập Giao Ước Với Loài Người. Sau khi nước hạ, mặt đất khô, Nô-ê và gia đình được chỉ thị của Đức Chúa Trời ra khỏi tàu cùng các loài súc vật. Với tấm lòng tràn ngập vui mừng vì biết ơn sâu xa, Nô-ê liền lập một bàn thờ, bắt các loài vật thanh sạch làm lễ thiêu dâng lên Đức Chúa Trời để tôn vinh và cảm tạ Ngài. Chúng ta được cứu rỗi trong Chúa Giê-xu khỏi bị hình phạt đời đời mà được hạnh phúc đời đời nên ai nấy phải tỏ lòng biết ơn mà dâng chính mình làm của lễ sống và thánh trên bàn thờ của Ngài (Rô-ma 12: 1). Khi ra khỏi tàu, nhìn cảnh hoang tàn của nước lụt, là những di tích rùng rợn, con người cảm thấy sợ hãi lắm. Ai nấy tự hỏi, chừng nào sẽ có một cơn nước lụt như vậy nữa? Động lòng thương xót, Chúa đã trấn an và bảo đảm với họ "Ta sẽ lập giao ước cùng các ngươi và các loài xác thịt, chẳng bao giờ lại bị nước lụt hủy diệt và cũng chẳng có nước lụt để hủy hoại đất nữa" (Sáng thế ký 9: 11). Để chứng minh giao ước của Chúa là chắc chắn, không bao giờ thay đổi, Ngài cho một dấu hiệu là chiếc mống (cầu vòng) đặt trên các từng mây, nói lên rằng Ngài sẽ giữ lời cam kết với họ. Từ đó đến nay, không còn cơn nước lụt nào như trong đời Nô-ê, mặc dầu nhân loại trong đời này không tốt hơn nhân loại trong đời Nô-ê. Vậy khi mây đến giăng bủa khắp nơi, bầu trời tối mịt, mưa tuôn xối xả, chúng ta cũng không cần sợ hãi, vì chiếc móng còn đó, Chúa sẽ chẳng bao giờ hủy diệt toàn thể loài người bằng nước lụt nữa. Về phương diện thuộc linh, thập tự giá là dấu hiệu của giao ước mới của Chúa với Hội thánh, nên đôi khi dầu có giông tố phũ phàng, ba đào nổi dậy, chúng ta chỉ cần nhìn xem thập tự giá, vì nó bảo đảm cho chúng ta lời hứa của Chúa (Rô-ma 8: 1; 31-39). Bài học cho chúng ta là: 1. Nô-ê làm y như lời Chúa phán dặn (Sáng thế ký 6: 22; 7: 5). 2. Nô-ê vừa đóng tàu vừa giảng đạo, đó là lời giảng hùng hồn như sấm sét.

Page 45: Nhu LieuTruong Chua Nhat

45

3. Đức Chúa Trời bảo Nô-ê "Ngươi và cả nhà ngươi hãy vào tàu" (Sáng thế ký 7: 1). Các bạn có đem cả nhà mình vào tàu cứu rỗi của Chúa Giê-xu chưa? Hãy làm ngay bây giờ đi! 4. Đức Chúa Trời đứng phía sau cõi thiên nhiên, bàn tay Ngài điều khiển mọi sự. Nếu Chúa chẳng cho phép thì chẳng có gì xảy ra. Dầu khi Chúa cho nước lụt xảy ra thì đồng thời Ngài cũng dự bị chiếc tàu cho những kẻ thuộc về Ngài. "Bởi cớ ấy phàm người nhân đức đều cầu nguyện cùng Chúa trong khi có thể gặp Ngài, quả thật trong lúc có nước lụt lan ra, thì sẽ chẳng lan đến người" (Thi thiên 32: 6). 5. Thế gian đời xưa để dành cho nước, thế gian đời này để dành cho lửa (Ha-ba-cúc 2: 13; II Phi-e-rơ 3: 10-12). CÂU HỎI 1. Hãy kể những phát triển của tội lỗi từ A-đam đến Nô-ê. 2. Đức Chúa Trời đã dùng Nô-ê cảnh cáo nước lụt trong bao lâu? 3. Suốt thời gian đó, gia đình Nô-ê đã làm gì? 4. Thái độ của người thế gian đối với gia đình Nô-ê thế nào? 5. Nhân loại lúc bấy giờ có thể thoát khỏi cơn đoán phạt bằng cách nào? 6. Cơ hội cuối cùng cho nhân loại là bao lâu? 7. Ai bị nước lụt cuốn đi, và ai được cứu? 8. Tại sao Đức Chúa Trời lập giao ước với loài người? 9. Thế gian ngày nay để dành cho gì? 10. Bài học hôm nay dạy chúng ta phải làm gì?

Page 46: Nhu LieuTruong Chua Nhat

46

BÀI SỐ 11

Khi Con Người Tự Cai Quản KINH THÁNH: Sáng thế ký 11: 1-9 Câu gốc: "Phàm ai có lòng kiêu ngạo lấy làm gớm ghiếc cho Đức Giê-hô-va. Quả thật nó sẽ chẳng được khỏi bị phạt" Châm ngôn 16: 5 Mục đích: Cho chúng ta thấy rằng khi con người tự cai quản và đặt Đức Chúa Trời ra ngoài đời sống mình thì những hậu quả nào sẽ xảy ra. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chủ Nhật: Một chính quyền mới. Sáng thế ký 9: 1-6 Thứ Hai: Sự thất bại của loài người. Sáng thế ký 11: 1-9 Thứ Ba: Làm tôi mọi cho tội lỗi. Rô-ma 6: 14-23 Thứ Tư: Một số người không biết Đức Chúa Trời. Rô-ma 1: 18-23 Thứ Năm: Các nhà cầm quyền phải tôn kính Đức Chúa Trời. Ê-xơ-ra 7: 25-28 Thứ Sáu: Cầu nguyện cho các nhà cầm quyền. I Ti-mô-thê 2: 1-04 Thứ Bảy: Nhà cầm quyền gian ác sẽ bị hình phạt. Thi thiên 2: 1-12 Có người cho rằng nhân loại sẽ tiến bộ mỗi ngày một cách không ngừng cho đến chừng lên tận các ngôi sao. Ngược lại, chúng ta thấy từ khi sa ngã, nhân loại ngày càng bại hoại một cách đáng sợ. Quỉ Sa-tan đã quả quyết "Ta sẽ lên trời, ta sẽ nhắc ngai ta lên trên các ngôi sao của Đức Chúa Trời. Ta sẽ ngồi trên núi hội về phương bắc, ta sẽ lên trên cao những đám mây, ta sẽ làm ra mình bằng Đấng rất cao". Nhưng kết quả, nó phải xuống nơi âm phủ, sa vào nơi vực thẳm (Ê-sai 14: 12-15). Dầu ngày nay, nhân loại, đã dùng khoa học đưa một đôi người lên cung trăng, rồi cũng từ đó trở về vị trí cũ của mình mà thôi. Hình thức là như vậy, còn đạo đức thì ngày càng tệ hại hơn. Vì vậy, số phận đời đời của nhân loại là sẽ "Bị ném xuống hồ lửa" (Khải huyền 20: 15) nếu không kịp thời ăn năn. Sau cơn đoán phạt bằng nước lụt, nhân loại vẩn muốn tự cai quản chứ không chịu phục tùng Chúa. Đây hãy xem kết quả.

Page 47: Nhu LieuTruong Chua Nhat

47

I. Con Người Sanh Ra Nhiều Thứ Tiếng (Sáng thế ký 11: 1-7) Sách Sáng thế ký chép về nguồn gốc của vũ trụ, của sự sống của con người, của tội lỗi, của các thứ tiếng và của các chủng tộc. Nhiều thứ tiếng gây nhiều trở ngại cho sự thông công giữa người với người. Đó cũng là hậu quả của tội lỗi. Từ sau cơn nước lụt cho đến chừng 100 năm sau, gia đình của Nô-ê đã thêm lên khoảng 30 nghìn người "Cả thiên hạ đều có một giọng nói và một thứ tiếng". Nhờ vậy, ai nấy hiệp nhất với nhau thành một sức mạnh đáng kể. Điều này cũng rất tốt và cũng rất xấu. Dùng sức mạnh để làm việc lành là rất tốt, song dùng sức mạnh để làm việc dữ thì rất xấu. Nhân loại đã đưa nhau đến một đồng bằng rộng rãi phì nhiêu tại xứ Si-nê-a. Họ dùng sức mạnh, sự khôn ngoan và tài nguyên sẵn có mà quyết định xây một thành phố, dựng một cái tháp giữa thành phố đó với 3 mục đích: 1. Tháp cao tận trời. 2. Để được rạng danh. 3. Để khỏi bị tản lạc khắp nơi. Chương trình của nhân loại luôn luôn là ích kỷ, kiêu căng và phản loạn. Song sự cố gắng tối đa của họ cũng như của tổ phụ họ: một chiếc áo bằng lá vả với một cái tháp dở dang, cả hai chỉ là công dã tràng xe cát! Họ là những người mạnh khỏe, can đảm, có nhiều tham vọng, song chỉ là tham vọng ích kỷ, kiêu căng gian ác. Họ nói với nhau "Hè, chúng ta hãy làm gạch và hầm trong lửa... Nào! Chúng ta hãy lo làm cho rạng danh". Họ đã hô hào, cổ võ để thống nhất ý chí, tập trung nỗ lực vào một công tác mà thôi. Họ quyết định khắc phục mọi khó khăn vượt qua mọi trở lực cho đến chừng đạt được mục đích. Không có đá, lấy gạch thế cho đá, không có hồ, lấy chai thế cho hồ. Nếu mục đích của họ là tôn vinh Chúa, phục vụ Ngài thì phước biết bao! Song mục đích của họ là tự tôn vinh và chống lại Ngài. 1. Tháp cao tận trời: Không thể nào xây một cái tháp chót cao tận trời, song lòng kiêu căng của họ thật đã lên tận trời, đến nỗi Đức Chúa Trời phải xuống để xem xét công việc của họ. Ngày nay, lòng kiêu căng của nhân loại cũng như vậy và còn hơn nữa. 2. Làm cho rạng danh: Họ không hề nghĩ đến danh Chúa, mà chỉ nghĩ đến danh mình. Họ muốn lưu lại cho muôn đời về sau một kỷ niệm về công trình vĩ đại của họ, tỏ ra họ là những anh hùng, con cháu của anh hùng Nim-rốt (Sáng thế ký 10: 8-9). 3. Để khỏi bị tản lạc khắp nơi: Chúa bảo họ "Hãy sanh sản thêm nhiều, làm cho đầy dẫy trên mặt đất" (Sáng thế ký 9: 1). Song hành động của họ là chống lại mạng lịnh của Chúa. Từ khi sa ngã, con người thích chống đối, nhất là chống đối Đức Chúa Trời,

Page 48: Nhu LieuTruong Chua Nhat

48

thậm chí khinh dể Ngài để tỏ ra ta đây là mạnh mẽ. Song "Đức Chúa Trời không chịu khinh dể đâu, vì ai gieo giống chi lại gặt giống ấy" (Ga-la-ti 6: 7). Đức Chúa Trời phải trực tiếp can thiệp để hủy phá chương trình và mục đích của nhân loại, Ngài phán "Bây giờ chẳng còn chi ngăn chúng nó làm các điều đã quyết định được. Thôi! Chúng ta hãy xuống, làm lộn xộn tiếng nói của người nầy với người kia". Không ai biết rõ bởi cách nào và bao lâu, hoặc ngay lập tức hay là từ từ mà nhân loại bắt dầu đổi giọng nói và thứ tiếng, một thành nhiều, làm cho họ không còn hiểu nhau được nữa. Chúa đã dựng nên con người, Ngài chỉ cần sửa lại một chút thôi là có sự thay đổi liền, rồi Chúa đã khiến cho con lừa của Ba-la-am nói tiếng người, đã làm cho Nê-bu-cát-nết-sa mất trí, tưởng mình là một con bò, cũng dể dàng như vậy. Nhân loại đã quyết định, nên Đức Chúa Trời không có phương pháp nào tốt hơn là phải làm lộn xộn tiếng nói của họ, để ai nấy không hiểu nhau, không thể đồng công cộng tác và họ nản lòng mà bỏ việc. Một số người, một giọng nói và một thứ tiếng, một ý chí, một quyết tâm, một mục đích, tất cả thành một lực lượng vô địch như không ai phá hủy nổi, không ai ngăn chặn được. Song đối với Đức Chúa Trời thì dễ quá. Ngày nay có khác hơn ngày xưa, nhân số đông đúc, nguyên liệu dồi dào, khoa học kỹ thuật cao, thì Đức Chúa Trời vẫn phán "Kìa, các dân tộc khác nào một giọt nước nhỏ trong thùng, và kể như một mảy bụi rơi trên cân; Này Ngài dỡ các cù lao lên như đồ vật nhỏ... Mỗi dân tộc ở trước mặt Đức Giê-hô-va đều như không, Ngài xem như trống không và hư-vô vậy" (Ê-sai 40: 15-17).

II. Con Người Tản Lạc Khắp Nơi (Sáng thế ký 11: 8-9) Dầu rất bực tức, vì không thể tiếp tục công tác, nhân loại đã phải tan ra khắp trên mặt đất, đúng như chương trình của Chúa đã định cho họ. Chúa đã hành động như vậy là vì thương yêu nhân loại, muốn cứu họ khỏi phí thì giờ, sức khoẻ để làm một việc vô ích, chỉ vì kiêu căng khoe khoang. Dầu vậy, tinh thần ích kỷ, kiêu căng, phản loạn của nhân loại vẫn còn cho đến ngày nay, nên ai nấy đang lo xây tháp Ba-bên cho mình. Kinh thánh chép gì về công trình của nhân loại ngày nay? "Khốn thay cho kẻ lấy huyết dựng ấp, và lấy sự gian ác xây thành! Phải, ấy há chẳng phải bởi Đức Giê-hô-va vạn quân mà các dân làm việc cho lửa, và các nước nhọc nhằn cho sự hư không hay sao?" (Ha-ba-cúc 2: 12-13) "Bấy giờ các từng trời sẽ có tiếng vang rầm mà qua đi, các thể chất bị đốt mà tiêu tan, đất và mọi công trình trên đất đều sẽ bị đốt cháy cả" (II Phi-e-rơ 3: 10). Ngày nay người ta còn tìm thấy di tích của tháp Ba-bên tại Ba-by-ôn, trên bờ sông Ơ-phơ-rát. Nó nói lên cho ai nấy biết đó là công trình vĩ đại của người xưa, là nguồn gốc sinh ra nhiều thứ tiếng, nói chung là hậu quả của tội lỗi.

Page 49: Nhu LieuTruong Chua Nhat

49

Bài học cho chúng ta: Đồng tâm hiệp lực, thống nhất ý chí, san bằng trở ngại để phục vụ Chúa là phước, để chống lại Ngài là nguy. A-đam không vâng lời Chúa, làm cho dòng dõi ông bị hư mất, Giê-xu vâng lời Chúa làm cho dòng dõi Ngài được cứu rỗi. Vì vậy, Giê-xu là cứu Chúa của những kẻ vâng lời Ngài (Hê-bơ-rơ 5: 9). Kẻ gian ác tự tôn vinh, người công bình tôn vinh Chúa (Khải huyền 7: 9-10). Kẻ gian ác kiêu căng, người công bình khiêm nhường "Đức Giê-hô-va biết đường người công bình, song đường kẻ ác rồi bị diệt vong" (Thi thiên 1: 6). Dầu con người gian ác, Chúa vẫn thương yêu, "Ngài khiến mặt trời mọc lên soi kẻ dữ cùng kẻ lành, làm mưa cho kẻ công bình cùng kẻ độc ác" (Ma-thi-ơ 5: 45). CÂU HỎI 1. Khi con người đòi hỏi cho được quyền tự cai quản, thì họ đã làm điều tốt hay xấu? 2. Ban đầu con người có mấy thứ tiếng và mấy giọng nói? 3. Chương trình và mục đích lúc bấy giờ của con người là gì? 4. Họ dùng vật liệu gì để xây thành và tháp? 5. Họ không xây tháp cao tận trời, nhưng cái gì đã lên đến tận trời? 6. Họ làm vậy để chống lại mạng lịnh nào của Chúa? 7. Chúa đã làm gì để phá hủy chương trình của con người? 8. Công trình của con người ngày nay để dành cho? 9. Bài học cho chúng ta là gì?

Page 50: Nhu LieuTruong Chua Nhat

50

BÀI SỐ 12

Đức Chúa Trời Lựa Chọn Một Dân Tộc KINH THÁNH: Sáng thế ký 12: 1-9. Câu gốc: "Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi và ngươi sẽ thành một nguồn phước" Sáng thế ký 12: 2. Mục đích: Cho chúng ta thấy việc Đức Chúa Trời lựa chọn một dân tộc làm nguồn phước cho cả thế gian. Đức Chúa Trời có thể dùng chúng ta hôm nay để thi hành ý chỉ của Ngài. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chủ Nhật: Đức Chúa Trời lựa chọn một người. Sáng thế ký 12: 1-9 Thứ Hai: Giao ước của Đức Chúa Trời với Áp ra ham. Sáng thế ký 15: 18; Sáng thế ký 17: 1-8 Thứ Ba: Nơi Đức Chúa Trời ban phước. Sáng thế ký 13:14-18; Sáng thế ký 26: 1-3 Thứ Tư: Đ. C. T. ban thưởng cho đức tin của Áp ra ham. Sáng. 4: 1-8; 13-22 Thứ Năm: Đức Chúa Trời giao trách nhiệm. Hê-bơ-rơ 11: 23-29 Thứ Sáu: Ơn phước của Đ. C. T. tùy thuộc sự vâng lời. Lê-vi-ký 26: 1-13 Thứ Bảy: Ơn phuớc Chúa ban trong cơn nguy khốn. Sáng thế ký 39: 1-23 Sau cơn nước lụt đời Nô-ê, Đức Chúa Trời đã quyết định không hủy diệt nhân loại nữa, mặc dầu họ vẫn tiếp tục sống cuộc đời gian ác. Nhưng Ngài chia ra kẻ gian ác với người công bình, biệt riêng người công bình khỏi kẻ gian ác, để từ đó Ngài sẽ có một dân và qua dân đó, Đấng cứu thế giáng trần. Hội thánh cũng là một dân mà Đức Chúa Trời đã lựa chọn từ giữa thế gian, để riêng ra làm một dân thuộc về Ngài (I Phi-e-rơ 2: 9-10).

I. Đức Chúa Trời Lựa Chọn Một Người: Người Đức Chúa Trời lựa chọn là Áp-ram, về sau đổi tên là Áp-ra-ham (Sáng thế ký 17: 5). Ông vốn sinh trưởng tại thành U-rơ, xứ Canh-đê, là một trung tâm văn hóa và tôn giáo của thế giới thời bấy giờ. Song tôn giáo đó chỉ thờ phượng các thần tượng chứ không thờ Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật. Chúa biết lòng của Áp-ram và Sa-rai, về sau đổi tên là Sa-ra (Sáng thế ký 17: 15).

Page 51: Nhu LieuTruong Chua Nhat

51

Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ram khi ông còn ở tại quê hương, vòng bà con và nhà cha ông mà bảo rằng "Ngươi hãy ra khỏi... mà đi đến xứ ta sẽ chỉ cho" (Sáng thế ký 12: 1; Công vụ các sứ đồ 7: 2-3).Chúng ta không biết cách nào Chúa đã kêu gọi ông, song tiếng gọi của Ngài rất rõ ràng đối với ông. Ông phải chấp nhận một điều kiện có ba bước như sau: 1. Ra khỏi quê hương: Con người ai cũng yêu mến quê hương của mình. Vả lại, quê hương của Áp-ram vừa giàu có, vừa văn minh, nên ra khỏi quê hương là một hy sinh không nhỏ của ông. 2. Ra khỏi vòng bà con: Dầu Áp-ram chỉ có 2 em trai, song nếu kể bà con nội ngoại thì rất đông, vì bấy giờ người ta sống rất lâu sinh nhiều con trai, con gái. Ra khỏi vòng bà con mà đi đến một nơi xa lạ là điều không phải dễ 3. Ra khỏi nhà cha: Nhà cha là tổ ấm tại trần gian, không có nơi nào được an ủi bằng tại nhà cha mình. Ra khỏi nhà cha cũng như ra khỏi quê hương và vòng bà con, Áp-ram mất rất nhiều tài sản và quyền lợi. 4. "Đi đến xứ mà ta sẽ chỉ cho": Xứ đó là Ca-na-an (Sáng thế ký 11: 31), song ông không biết xứ đó ở đâu và ra sao (Hê-bơ-rơ 11: 8). Đời sống theo Chúa là đời sống đức tin, đời sống theo Chúa là đời sống hy sinh. Song tin theo Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ thất vọng, hy sinh theo Chúa sẽ không bao giờ hối tiếc. Phần thưởng của đức tin là sẽ thấy việc mình đã tin. Hy sinh vì Chúa rất ít, nhận lảnh nơi Chúa rất nhiều. Có đức tin lớn, Áp-ram mới dám vâng lời Chúa ra đi. Người như thế Chúa mới lựa chọn làm tổ phụ của một dân tộc, gọi là dân tộc có đức tin. Nếu muốn được Chúa lựa chọn và trọng dụng, chúng ta phải học đòi đức tin của Áp-ram.

II. Đức Chúa Trời Hứa Ban Phước Cho Một Người (Sáng thế ký 12: 1-3). Ai dám tin cậy Chúa và vâng lời Ngài thì sẽ nhận được lời hứa của Ngài. Lời hứa của Ngài là quí báo, lớn lao và lâu dài. Có 7 điều mà Chúa hứa với Áp-ram so với 1 điều mà Chúa đòi hỏi ông: 1. "Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn": Chữ "lớn" đây có hai nghĩa: a. Là ngày càng lớn, khi lời nầy phán ra thì Áp-ram chưa có con, song kể từ đó, số dân Y-sơ-ra-ên mỗi ngày một nhiều.

Page 52: Nhu LieuTruong Chua Nhat

52

b. Là cao thượng, vĩ đại, lịch sử chứng minh dân Y-sơ-ra-ên rất khôn ngoan, mạnh mẽ, xứng đáng với danh "một dân lớn". 2. "Ta sẽ ban phước cho ngươi": Lời hứa nầy đã được thực hiện ngay trong đời Áp-ram. Ê-li-ê-xe làm chứng "Đức Giê-hô-va đã ban phước cho chủ tôi bội phần, trở nên thạnh vượng, Ngài ban cho chủ tôi chiên, bò, bạc vàng, tôi trai, tớ gái, lạc đà và lừa" (Sáng thế ký 24: 35). Dầu Áp-ram có nhiều lỗi lầm, song Chúa thành tín và nhân từ vẫn ban phước cho ông cả thuộc thể lẩn thuộc linh. 3. "Ta sẽ... làm nổi danh ngươi": Chưa từng có ai nổi danh như Áp-ra-ham, và cũng chưa có ai được trọng vọng bằng ông. Những tín đồ Hồi giáo, Do thái giáo và Cơ đốc giáo đều coi ông là tổ phụ đức tin của họ. Ngay trong thời ông, người ta đã tôn ông là một quan trưởng của Đức Chúa Trời (Sáng thế ký 23: 6). Chính Đức Chúa Trời đã gọi ông là một tiên tri, một bạn hữu, một tôi tớ (Sáng thế ký 20: 7; Gia-cơ 2: 23; Thi thiên 105: 5-6). Ngài không dấu diếm điều chi với ông (Sáng thế ký 18: 17). 4. "Ngươi sẽ thành một nguồn phước": Chúa đã làm cho ông như lời Ngài đã hứa, song chính ông có trách nhiệm trong nếp sống hằng ngày của mình là phải sống thế nào mà để kẻ khác nhờ đó mà được phước, vì họ đã tin Chúa như ông (Ga-la-ti 3: 8-9). 5. "Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi": Chúa xem Áp-ra-ham là một nhân vật rất quan trọng, không những được Ngài ban phước mà bất cứ kẻ nào chúc phước ông cũng được Ngài ban phước. Làm lành cho tiên tri, cho bạn hữu, cho đầy tớ của Chúa được kể như làm lành cho chính mình Ngài (Ma-thi-ơ 25: 40). 6. "Ta sẽ... rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi": Ngược lại, ai rủa sả Áp-ra-ham thì Chúa cầm bằng rủa sả Ngài, và người đó chắc chắn bị rủa sả. Y-sác lập lại lời đó khi chúc phước cho Gia-cốp (Sáng thế ký 27: 29). Không những đối với Áp-ram và dòng dõi của ông mà đối với con cái Chúa trải qua các đời cũng vậy, ai rủa sả họ sẽ bị Chúa rủa sả. 7. "Các chi tộc trên thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước": Lời hứa nầy được thực hiện qua Đấng cứu thế Giê-xu ra từ dòng dõi Áp-ram. Lời hứa nầy rất quan trọng, nên được nhắc lại nhiều lần (Sáng thế ký 18: 18; 22: 18; 26: 4; 28: 14). Tân ước cũng xác nhận Đấng cứu thế là dòng dõi Áp-ram (Ma-thi-ơ 1: 2). Những lời mà Chúa đã hứa với Áp-ram thật lớn lao, đến nỗi phải mất hơn 2.000 năm Ngài mới thực hiện hết. Những phước mà Chúa ban cho Áp-ram thật rất nhiều, đến nỗi qua ông và dòng dõi ông, cả nhân loại cũng được phước. Áp-ram đã tin cậy và vâng

Page 53: Nhu LieuTruong Chua Nhat

53

lời Chúa, nên Ngài đã dùng ông để thực hiện chương trình vĩ đại của Ngài. Chúa còn có những chương trình khác, nên Ngài cũng muốn dùng chúng ta để thực hiện, miễn là chúng ta cũng tin cậy và vâng lời Ngài. Chúng ta không khao khát một đời sống phước hạnh như Áp-ram sao?

III. Đức Chúa Trời Dẫn Dắt Một Người (Sáng thế ký 12: 4-9). "Rồi Áp-ram đi, theo như lời Đức Giê-hô-va đã phán dạy". Chúa kêu gọi, Chúa hứa cho, Chúa dẩn dắt, còn ông phải tin cậy và vâng lời. Trên đây là một câu ngắn ngủi song đầy đủ, mô tả đời sống đức tin của Áp-ram. Ông mạnh dạn lên đường, công khai chứng tỏ mình hết lòng theo Chúa. Tin cậy và vâng lời Chúa là tạo một cơ hội thuận tiện để Ngài thực hiện lời hứa của Ngài. Chúng ta hãy bước theo sự dẩn dắt của Chúa. Mục tiêu cuộc hành trình của Áp-ram là xứ Ca-na-an. Vì vậy, ông đã thu thập tài sản từ người chí vật, có vợ là Sa-rai và cháu là Lót cùng đi. Họ đã đến Ca-na-an. Ông đã đi chặng đường thứ nhất từ U-rơ đến Cha-ran là 430 dặm, bây giờ ông đi đoạn đường thứ hai là từ Cha-ran đến Si-chem, thuộc xứ Ca-na-an là 300 dặm. Chắc Áp-ram và gia đình đã mệt nhọc nhiều, song chắc chắn cũng vui thoả lắm trên đường theo Chúa. "Đức Giê-hô-va hiện ra cùng Áp-ram" Đó là phần thưởng rất lớn cho Áp-ram, vì tỏ ra Chúa đẹp lòng và hoan nghinh ông đã tin cậy và vâng lời Ngài. Được Chúa hiện ra trò chuyện với mình là một đặc ân vô giá. Những nỗi gian lao của Áp-ram đã được Chúa bù đắp một cách xứng đáng quá mức. Phước cho ai được Chúa thăm viếng như vậy. Chúa phán "Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi xứ nầy". Trước kia, Chúa bảo ông đến xứ Ca-na-an, bây giờ đã đến, Chúa hứa ban xứ đó cho dòng dõi ông. Sự ban cho của Chúa dồi dào quá, tình thương của Ngài bao la là dường nào! Để bày tỏ lòng biết ơn xâu xa, Áp-ram lập một bàn thờ và dâng của lể thiêu lên Ngài. rồi tiếp tục con đường đến Bê-tên. Tại đó, ông lập một bàn thờ nữa và cầu khẩn Danh Ngài. Cầu khẩn Danh Chúa có nghĩa là ông công khai làm chứng về Chúa cho mọi người chung quanh. Cuộc đời của Áp-ram thật là đẹp, nên không lạ gì khi thấy Chúa đã thực hiện trọn vẹn mọi lời hứa của Ngài dành cho ông. Dầu đôi khi Áp-ram vẫn bị cám dỗ mà phạm tội, thì sau đó, ông đã ăn năn tiếp tục tin cậy và vâng lời Chúa, nên Ngài vẫn tiếp tục ban phước cho ông.

Page 54: Nhu LieuTruong Chua Nhat

54

CÂU HỎI 1. Sau cơn nước lụt, Chúa không còn hủy diệt loài người gian ác mà Ngài đã làm gì? 2. Trước khi chọn một dân tộc là Y-sơ-ra-ên thì Chúa đã chọn ai? 3. Để theo Chúa, Áp-ram phải chấp nhận điều kiện gì? 4. Đức Chúa Trời đã hứa ban cho Áp-ram 7 phước nào? 5. Trong các phước ấy, phước nào quan trọng hơn cả và có tương quan đến cả nhân loại? 6. Để đến chỗ Chúa chỉ cho, Áp-ram phải đi con đường bao xa? 7. Khi đến nơi, Chúa ban cho Áp-ram một phần thưởng gì? 8. Để tỏ lòng biết ơn Chúa, Áp-ram đã làm chi? 9. Áp-ram cầu khẩn danh Chúa có nghĩa gì? 10. Muốn được phước như Áp-ram, chúng ta phải sống như thế nào?

Page 55: Nhu LieuTruong Chua Nhat

55

BÀI SỐ 13

Đức Chúa Trời Ban Luật Pháp KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 20: 1-17. Câu gốc: "Vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo luật pháp mà sẽ được xưng công bình trước mặt Ngài, vì luật pháp cho người ta biết tội lỗi" Rô-ma 3: 20. Mục đích: Cho chúng ta thấy rằng luật pháp của Đức Chúa Trời là căn bản đạo đức. Tội nhân phải nhờ Chúa Giê-xu mới làm vui lòng Đức Chúa Trời. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chủ Nhật: Đời sống tôi mọi. Xuất Ê-díp-tô ký 1: 5-14 Thứ Hai: Cuộc đời tôi mọi được giả phóng. Xuất Ê-díp-tô ký 14: 13-28 Thứ Ba: Dân sự lựa chọn luật pháp. Xuất Ê-díp-tô ký 19: 3-8 Thứ Tư: Luật pháp. Xuất Ê-díp-tô ký 20: 1-26 Thứ Năm: Mục đích của luật pháp. Ga-la-ti 3: 19-24 Thứ Sáu: Đấng Christ giữ luật pháp. Rô-ma 10: 4-10 Thứ Bảy: Bình an với Đức Chúa Trời. Rô-ma 5: 1-11 Đức Chúa Trời đã ban cho Áp-ra-ham và Sa-ra một con trai là Y-sác trong lúc già nua. Y-sác cưới Rê-bê-ca, sanh Ê-sau và Gia-cốp. Gia-cốp có 12 con trai và khi xứ Ca-na-an có đói kém, ông đem cả gia đình 70 người xuống Ê-díp-tô. Sau 400 năm tại Ê-díp-tô, dân Y-sơ-ra-ên là dòng dõi của Gia-cốp sanh sản thêm nhiều, kể cả nam phụ lảo ấu vào khoảng hơn một triệu người. Bấy giờ, Pha-ra-ôn là hoàng đế Ê-díp-tô không còn tử tế với dòng dõi Gia-cốp như lúc mới xuống đó, mà ngược đãi, hành hạ như những tên nô lệ với ý đồ tiêu diệt họ. Đức Chúa Trời đã can thiệp, buộc Pha-ra-ôn phải phóng thích Dân Y-sơ-ra-ên. Được phóng thích, dân Y-sơ-ra-ên qua Biển Đỏ, vào đồng vắng đến núi Si-nai. Tại đây, Đức Chúa Trời ban luật pháp cho họ.

I. Mục Đích Đức Chúa Trời Ban Luật Pháp. Bất cứ một dân tộc nào cũng cần có luật pháp để bảo vệ an ninh trật tự, làm căn bản cho quyền lợi và nếp sống đạo đức của con người. Vì vậy, Đức Chúa Trời đã kêu gọi Môi-se lên núi Si-nai và Ngài ban luật pháp để ông truyền lại dân Y-sơ-ra-ên. Luật pháp

Page 56: Nhu LieuTruong Chua Nhat

56

được chép trong Ngũ kinh của Môi-se, nhưng cũng bao hàm các các sách Thi thiên và Tiên tri (Giăng 12: 34; I Cô-rinh-tô 14: 21; Giăng 10: 34; 15: 25; Lu-ca 24: 44). Luật pháp có hai phần: Luật đạo đức và luật lễ nghi, cũng gọi là luật thờ phượng. Luật đạo đức như 10 điều răn thì không thay đổi mà vẫn còn giá trị cho đến ngày nay, còn luật lễ nghi như đền tạm tại đồng vắng, đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, các con sinh, thầy tế lễ chỉ có ý nghĩa tượng trưng nên đều bị thay đổi. Luật pháp của Chúa là trọn vẹn (Thi thiên 19: 7), song con người bất toàn nên không ai giữ trọn, mặc dầu là khi mới nhận luật pháp, dân Y-sơ-ra-ên rất hồ hởi, phấn khởi (Xuất Ê-díp-tô ký 19: 7-8). Vì vậy, luật pháp ban ra không phải để cứu người, song để cho người biết mình có tội. Luật pháp như chiếc gương soi để ai nấy biết mặt mình bẩn, song nó không thể làm cho mặt mình sạch được! Muốn sạch, chúng ta phải nhờ nước. Ân điển như nước, vì vậy, sau phần luật đạo đức, có phần luật lễ nghi, luật đó chỉ cho con người cách nào để được tha thứ tội lỗi, hầu có đủ tư cách mà đến gần Đức Chúa Trời. Tất cả luật lễ nghi được ứng nghiệm trọn vẹn trong Chúa Giê-xu: Ngài là đền thờ, là con sinh, là thầy tế lễ, là mọi sự (Cô-lô-se 2: 16, 17; Hê-bơ-rơ 8: 5). Sự chết và sự sống lại của Ngài để đền tội chúng ta là ân điển của Đức Chúa Trời, nhờ đó chúng ta được tha thứ (Giăng 1: 17).

II. Hai Phần Quan Trọng Của Luật Đạo Đức (Xuất 20: 1-17). Chúa Giê xu đã tóm tắt hai phần nầy là: Yêu Chúa và yêu người (Ma-thi-ơ 22: 37-40), đối với Chúa và đối với người. 1. Đối với Chúa (Xuất Ê-díp-tô ký 20: 1-11). a. Trước mặt ta ngươi chớ có các thần khác (câu 1-3) Chúa nhắc cho họ nhớ rằng Ngài là Đấng đã giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ tại Ê-díp-tô bằng 10 tai vạ đã giáng lên Pha-ra-ôn. Ngài đã rẽ Biển Đỏ cho họ đi qua, dẫn dắt họ bằng trụ mây và trụ lửa, nuôi họ bằng ma-na và nước trong hòn đá. Vì vậy, họ không có phép thờ bất cứ thần nào khác ngoài Ngài. Về sau mỗi lần sa ngã, dân Y-sơ-ra-ên thờ các thần khác thì bị Chúa sửa trị bằng nhiều tai vạ như đói kém, dịch lệ, gươm đao. Lần nặng hơn hết là Ngài đã lưu đày họ 70 năm tại Ba-by-lôn. Sau khi từ Ba-by-lôn trở về, họ không còn thờ thần nào khác nữa. Chúng ta đã làm nô lệ cho ma quỉ trong nước tối tăm, mà đã được giải phóng bằng sự chết đền tội và sự sống lại của Chúa Giê-xu nên chúng ta không được phép thờ một thần nào khác ngoài Chúa. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ mà thờ thần Ma-môn / tiền tài, vật chất (Ma-thi-ơ 6: 24) và nhiều thần khác (Cô-lô-se 3: 5; Ê-phê-sô 5: 5). Nếu chúng ta yêu bất cứ một người nào, một điều gì hơn Chúa thì những điều đó đã trở thành những thần của chúng ta rồi (Ma-thi-ơ 10: 37) (I Giăng 2: 15-17). Chúa Giê-xu phán

Page 57: Nhu LieuTruong Chua Nhat

57

"Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi" (Phục truyền luật lệ ký 6: 13; Ma-thi-ơ 4: 10). b. Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình (câu 4-6): Điều răn thứ nhất là thờ một mình Đức Chúa Trời, điều răn thứ hai là cách thờ Ngài: đừng vẽ một hình nào, đừng đúc một tượng nào gọi là hình tượng Đức Chúa Trời để thờ. Làm như vậy là không tôn vinh Ngài mà sỉ nhục Ngài vì xem Ngài như vật vô tri, làm như vậy là không yêu Ngài, mà là ghét Ngài. Kết quả của việc đó, Chúa phạt từ tổ phụ đến con cháu trải ba bốn đời, song làm ơn ngàn đời cho kẻ yêu Ngài và giữ điều răn của Ngài. Kinh thánh chép "Vậy thì các ngươi có thể ví Đức Chúa Trời với ai, lấy ảnh tượng nào mà so sánh với Ngài được? Vậy, bởi chúng ta là dòng dõi Đức Chúa Trời thì chớ ngờ rằng Chúa giống như vàng bạc hay là đá, bởi công nghệ và tài xảo của người ta chạm trổ nên" (Ê-sai 40: 18; Công vụ các sứ đồ 17: 29). Kinh thánh lập lại nhiều lần, nhiều cách Đức Chúa Trời nghiêm cấm và lên án sự thờ hình tượng (Xuất Ê-díp-tô ký 23: 24; Ê-sai 44: 12-20; Thi thiên 115: 4-8; Ê-sai 2: 20; Khải huyền 21: 8; 22: 15). Lời khuyên tha thiết của Giăng là " Hỡi các con cái bé mọn, hãy giữ mình về hình tượng" (I Giăng 5: 21). Phao-lô khuyên (I Cô-rinh-tô 10: 14). c. Ngươi chớ lấy danh Chúa làm chơi (câu 7) : Thời Cựu Ước, dân Y-sơ-ra-ên chỉ được phép nhân Danh Chúa mà thề (Phục truyền luật lệ ký 6: 13b) trong một việc quan trọng, không ai được thề dối. Trong Tân-ước, Chúa Giê-xu khuyên đừng thề chi cả, phải thì nói phải, không thì nói không (Ma-thi-ơ 5: 33-37). Gia-cơ cũng lập lại lời ấy (Gia-cơ 5: 12). d. Ngươi hãy nhớ ngày yên nghỉ đặng làm nên ngày thánh (8-11): Làm cho ngày đó trở nên ngày thánh là nghỉ tất cả mọi công việc xác thịt tại đồng vắng, chợ búa, xí nghiệp, công sở, mà làm công việc, thuộc linh tại nhà thờ. Họp lại ca hát, cầu nguyện nghe giảng, nói chung là sinh hoạt thuộc linh, để cho tâm hồn và thể xác được yên nghỉ, được bồi dưởng. Đây không có nghĩa là buộc phải nghỉ ngày thứ bảy của tuần lễ, song cứ bảy ngày thì nghỉ một ngày. Mục sư, truyền đạo không nghỉ Chúa nhật, có thể nghỉ ngày thứ bảy hoặc thứ hai. Tín đồ nào, vì công tác không nghỉ Chúa nhật được, có thể nghỉ ngày nào khác thay vào. Điều quan trọng là nghỉ (Xuất Ê-díp-tô ký 23: 12). Chúa bảo dân Y-sơ-ra ên khi vào xứ Ca-na-an thì cứ 7 năm cho đất nghỉ một năm (Xuất Ê-díp-tô ký 23: 10, 11; Lê-vi ký 25: 1-7; 20-22). Song họ không vâng lời, nên sau 490 năm, Đức Chúa Trời cho dân ấy bị lưu đày 70 năm, hầu cho đất được nghỉ như lời Chúa đã phán (II Sử ký 36: 20-21). Hội thánh đầu tiên nghỉ ngày thứ nhất trong tuần lễ tức là Chúa nhật, vì Chúa Giê-xu đã sống lại trong ngày ấy (Ma-thi-ơ 28: 1; Giăng 20: 19, 26). Đức Thánh Linh cũng giáng lâm vào ngày thứ nhất (Công vụ các sứ đồ 2: 1-2). Dầu vậy không phải giữ ngày nghỉ để được cứu đâu (Ga-la-ti 4: 10, 11; Cô-lô-se 2: 16-17).

Page 58: Nhu LieuTruong Chua Nhat

58

2. Đối với người (Xuất Ê-díp-tô ký 20: 12-17). a. Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi (câu 12): Phao lô đã gọi đây là điều răn thứ nhất (Ê -phê-sô 6: 1-3), Chúa Giê-xu đã quở trách người Pha-ri-si bỏ điều răn nầy mà theo lời truyền khẩu (Ma-thi-ơ 15: 1-9; Mác 7: 8-13). Ngài còn nêu gương hiếu kính (Lu-ca 2: 51; Giăng 19: 26-27). Không ai sống đẹp lòng Chúa nếu không hiếu kính cha mẹ. Ai yêu mến Chúa cũng yêu mến cha mẹ. b. Ngươi chớ giết người (câu 13): Chúa Giê-xu kể kẻ giận hoặc mắng anh mình cũng đáng tội như kẻ giết người (I Giăng 3: 15), không ai được tự sát như Giu-đa (Ma-thi-ơ 27: 3-5). c. Ngươi chớ phạm tội tà dâm (câu 14): Chúa Giê-xu kể kẻ ngó đàn bà động tình tham muốn, thì trong lòng đã phạm tội tà dâm (Ma-thi-ơ 5: 27-28), Phao-lô lên án tà dâm là một tội rất nặng, vì quan hệ đến thân thể là đền thờ của Chúa (I Cô-rinh-tô 6: 15-18). d. Ngươi chớ trộm cắp (câu 15): Chẳng những không trộm cắp mà còn chịu khó để giúp kẻ thiếu thốn (Ê-phê-sô 4: 28). e. Ngươi chớ làm chứng dối (câu 16): Ma quỉ là cha của sự nói dối (Giăng 8: 44). Ai nói dối là tự nhận mình là con cái của ma quỉ và đồng số phận với nó trong hồ lửa (Khải huyền 21: 8). Hãy nói thật với kẻ lân cận (Ê-phê-sô 4: 25). f- Ngươi chớ tham lam (câu 17): Tham lam của cải, tiền bạc, vợ của người là tội nặng như thờ hình tượng. A-can tham của cải (Giô-suê 7: 10-26), Ghê-ha-xi tham vàng bạc (II Các vua 5: 19-27), Đa-vit tham vợ người (II Sa-mu-ên 11: 2-5). Giao ước cũ, luật pháp chép trên bảng đá; giao ước mới luật pháp chép trên bảng thịt, trong lòng (Giê-rê-mi 31: 31-33; Ê-xê-chi-ên 36: 26, 27). Xin Thánh linh chép luật pháp Ngài trong chúng ta để nó trở thành sự sống, bản tính của chúng ta, hầu ai nấy vâng giữ làm theo.

Page 59: Nhu LieuTruong Chua Nhat

59

CÂU HỎI 1. Đức Chúa Trời ban luật pháp cho dân Y-sơ-ra-ên tại đâu? Lúc nào? Qua ai? 2. Luật pháp có mấy phần? Là những phần nào? 3. Đức Chúa Trời ban luật pháp với mục đích gì? 4. Tại sao chúng ta cũng như dân Y-sơ-ra-ên thờ một mình Chúa mà thôi? 5. Tại sao chúng ta không nên thờ Đức Chúa Trời bằng hình tượng? 6. Giữ ngày yên nghỉ để làm gì? 7. Chúa Giê-xu dạy và làm gương thế nào về sự hiếu kính cha mẹ? 8. Tại sao tín đồ không nên nói dối? 9. Hãy kể ra hậu quả của sự tham lam và vài người trong Kinh thánh ? 10. Nhờ đâu chúng ta giữ được luật pháp của Chúa ?

Page 60: Nhu LieuTruong Chua Nhat

60

BÀI SỐ 14

Đức Chúa Trời Đối Đãi Với Tuyển Dân Của Ngài KINH THÁNH: Giô-suê 3: 9-17. Câu gốc: "Vậy nên, phải nhận biết rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, tức Đức Chúa Trời thành tín, giữ sự giao ước và nhơn từ đến ngàn đời cho những người yêu mến Ngài và vâng giữ các điều răn Ngài" Phục truyền luật lệ ký 7: 9. Mục đích: Cho chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời thành tín luôn luôn giữ lời hứa của Ngài. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chủ Nhật: Lời tiên tri trong kinh thánh. II Phi-e-rơ 1: 15-21 Thứ Hai: Những kẻ nhạo bán lời tiên tri. II Phi-e-rơ 3: 1-14 Thứ Ba: Đức Chúa Trời hứa với Áp-ra-ham. Sáng thế ký 12: 1-3; 13: 14-18; 15: 1-21; 17: 4-8 Thứ Tư: Dân Do thái không vâng lời Chúa. Lê-vi ký 26: 27-34; Nê-hê-mi 9: 26-29; Ê-xê-chi-ên 36: 19 Thứ Năm: Đức Chúa Trời luôn luôn thành tín. Lê-vi ký 26: 40-46 Thứ Sáu: Dân Y-sơ-ra ên bị bắt làm phu tù. II Các vua 17: 5; 21-23 Thứ Bảy: Dân Giu-đa bị bắt làm phu tù. II Các vua 24: 11-25: 10 Đức Chúa Trời đã chọn Áp-ra-ham và dòng dõi ông là dân Y-sơ-ra-ên để từ đó Đấng Cứu Thế ra đời làm nguồn phước cho nhân loại. Chương trình của Chúa không những cứu dân Y-sơ-ra-ên mà còn cứu cả nhân loại, lịch sử dân Y-sơ-ra-ên là lịch sử Đấng Cứu Thế theo phần xác. Mọi việc Chúa làm trải qua các thời đại đều hướng về thập-tự-giá là nơi con độc sanh của Ngài phải dâng mình làm của lễ đền tội cho chúng ta (Hê-bơ-rơ 9: 26).

I. Dân Y-sơ-ra-ên Vào Đất Hứa. Đức Chúa Trời thành tín đã rẽ sông Giô-đanh, đưa dân Y-sơ-ra-ên vào tận Ca-na-an như Ngài đã hứa cùng tổ phụ họ (Xuất Ê-díp-tô ký 3: 8, 17; 13: 5; Giô-suê 24: 11).

Page 61: Nhu LieuTruong Chua Nhat

61

Giô-suê phân chia sứ Ca-na-an cho 12 chi phái theo tên 12 con trai của Gia-cốp. Hai lần ông lập lại câu nầy "Trong các lời lành mà Đức Giê-hô-va đã phán cho nhà Y-sơ-ra-ên chẳng có lời nào không thành, thảy đều ứng nghiệm hết" (Giô-suê 21: 45; 23: 14), để xác nhận sự thành tín của Chúa đối với họ. Câu gốc bài học hôm nay nhấn mạnh về sự thành tín đó. Kinh thánh mô tả sự thành tín của Chúa là lớn lắm (Ca thương 3: 23), đến tận các mây (Thi thiên 36: 5), tồn tại đời đời (Thi thiên 100: 5). Không những đối với dân Y-sơ-ra-ên, song đối với chúng ta, Đức Chúa Trời cũng thành tín như vậy. Ngài tha thứ cho chúng ta (I Giăng 1: 9). Ngài không thể thất tín (II Ti-mô-thê 2: 13), mọi lời Ngài hứa đều chắc chắn (I Cô-rinh-tô 1: 9; II Cô-rinh-tô 1: 18; Hê-bơ-rơ 10: 23), nên chúng ta có thể an tâm phó mình cho Ngài (I Phi-e-rơ 4: 19).

II. Dân Y-sơ-ra-ên Phạm Tội. Vào xứ Ca-na-an đượm sữa và mật, dân Y-sơ-ra-ên đã không giữ được lòng kính mến Chúa như lúc ban đầu. Sau khi Giô-suê và những người đồng thời với ông qua đời, con cháu họ không nhìn biết Chúa, làm ác trước mặt Ngài, thờ lạy hình tượng (Các quan xét 2: 10-13). Đức Chúa Trời nổi thạnh nộ, phó họ vào tay kẻ thù nghịch của họ và họ bị khốn khổ lắm. Mỗi khi họ ăn năn, Chúa dấy lên một quan xét giải phóng họ. Việc nầy cứ lập lại nhiều lần như vậy cho đến đời Sa-mu-ên. Dầu dân Y-sơ-ra-ên đã trải qua một thời đại tối tăm, hỗn độn mà "ai nấy làm theo ý mình lấy làm phải" (Các quan xét 17: 6; 21: 25), thì vẫn có người trung thành với Chúa, nên được Ngài trọng dụng, nam có mà nữ cũng có như bà Đê-bô-ra. Trong vòng dân sự cũng không thiếu những người yêu mến Ngài, nam có mà nữ cũng có như Na-ô-mi, An-ne. Điều đó giống như trong đền thờ Đức Chúa Trời, lúc nào đèn cũng cháy luôn chứ không hề tắt (Xuất Ê-díp-tô ký 27: 20, 21; Lê-vi ký 24: 1-4). Hội thánh đang trong thời kỳ tối tăm cuối cùng, thời kỳ bội đạo. Mỗi chúng ta là một ngọn đèn, cũng như Giăng Báp-tít là một cây đuốc đang cháy (Ma-thi-ơ 5: 14-16; Giăng 5: 35). Giữa dòng dõi gian ác, bội nghịch nầy, chúng ta phải giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian (Phi-líp 2: 15).

III. Dân Y-sơ-ra-ên Bị Lưu Đài Và Tan Lạc. Đến đời Sa-mu-ên, dân Y-sơ-ra-ên xin ông lập lên trên họ một vua như các dân tộc chung quanh đã có. Lời xin đó không đẹp lòng Chúa chút nào, song họ cố xin cho kỳ được (I Sa-mu-ên 8: 4-9). Chúa vốn là vua của họ. Trong Xuất Ê-díp-tô ký 19: 4-6, Chúa đã dùng đến 8 lần chữ "ta" hoặc "của ta" mà nói với dân Y-sơ-ra-ên, tỏ ra Ngài đã cứu họ, và họ thuộc về Ngài. Song đến đây, họ từ chối Ngài. Vua thứ nhất của họ là Sau-lơ, kế đến Đa-vít và Sa-lô-môn. Khi còn thanh niên và trung niên, Sa-lô-môn rất tốt, song khi trở về già, Sa-lô-môn rất xấu, mặc dầu ông rất giàu và khôn ngoan hơn tất cả mọi người sau ông và trước ông. Sa-lô-môn thăng hà, nước ông bị chia ra làm 2: Nam và Bắc. Miền Nam có 2 chi phái là Giu-đa và Bên-gia-min do Rô-bô-am, con của Sa-lô-môn cai trị, lấy

Page 62: Nhu LieuTruong Chua Nhat

62

Giê-ru-sa-lem làm kinh đô, tên nước là Giu-đa. Miền Bắc có 10 chi phái do Giê-rô-bô-am là một trong những bầy tôi của Sa-lô-môn cai trị, lấy Sa-ma-ri làm kinh đô, tên nước là Y-sơ-ra-ên. Nước Y-sơ-ra-ên rộng đất, đông dân hơn nước Giu-đa, song các vua Giu-đa yêu mến Chúa hơn các vua Y-sơ-ra-ên (I Các vua 12: 16-24). 1. Nước Y-sơ-ra-ên ở miền Bắc bị mất: Dân Y-sơ-ra-ên lìa bỏ Đức Chúa Trời là Đấng đã giải phóng tổ phụ họ khỏi Ê-díp-tô mà đem qua Ca-na-an. Họ bắt chước các dân tộc xung quanh mà thờ các thần bằng đủ thứ hình tượng gớm ghê (I Các vua 16: 32; 18: 19; II Các vua 13: 6). Mặc dầu Chúa đã dùng nhiều tiên tri như Ô-sê, A-mốt, Ê-li, Ê-li-sê, vv... không ngớt khuyên lơn, cảnh cáo nhưng họ không ăn năn. Vì vậy, Đức Chúa Trời đã phó họ trong tay vua A-si-ri. Kinh đô Sa-ma-ri bị hạ, dân Y-sơ-ra-ên bị giết, kẻ sống sót bị bắt làm phu tù. Người ta đem các dân khác đến ở Sa-ma-ri thế chỗ cho dân Y-sơ-ra-ên. Việc này xảy ra nhằm năm 722 trước Chúa giáng sinh (II Các vua 17: 5-24). Về sau dân Do thái không thừa nhận dân tại Sa-ma-ri là dân Do thái mà cứ kể họ là dân Sa-ma-ri. Đến đời Chúa Giê-xu dân Do thái không chịu giao thiệp với dân Sa-ma-ri, kể họ như là dân ngoại bang, mặc dầu Sa-ma-ri nằm trong địa phận nước Do thái (Lu-ca 11: 15-18; Giăng 4: 9) "Sự công bình làm cho nước cao trọng, song tội lỗi là sự hổ thẹn cho các dân tộc" (Châm ngôn 14: 34). Kết quả của tội lỗi là hổ thẹn và cuối cùng là sự chết, còn được giải phóng khỏi tội lỗi thì kết quả là sự thánh khiết và cuối cùng là sự sống đời đời (Rô-ma 6: 21-22). 2. Nước Giu-đa ở miền Nam bị mất: Các vua rất tốt của Giu-đa là A-sa, Giô-sa-phát, Ê-xê-chi-a, Giô-si-a, còn các vua rất xấu là A-cha, Ma-na-se, Có một cơn phục hưng xảy ra trong đời vua Giô-si-a, khi ông nầy ra lịnh hủy diệt tất cả mọi hình tượng và vật dụng trong cuộc thờ lạy các tà thần. Đồng thời thầy tế lễ Hinh-kia tìm được quyển luật pháp trong đền thờ Đức Chúa Trời (II Sử ký đoạn 34, 35). Nước Giu đa bị quân đội Ba-by-lôn đánh phá nhiều lần. Lần thứ nhất nhằm năm 605 TC. Nê-bu-cát-nết-sa bắt những thành phần ưu tú của Giu-đa đem qua Ba-by-lôn (II Các vua 24: 1; Đa-ni-ên 1: 1). Đến năm 586 TC, nước Giu-đa bị hủy phá hoàn toàn, của cải bị cướp, người bị giết hoặc bị bắt lưu đày để làm nô lệ (II Các vua 25: 1-20; II Sử ký 36: 11-21). Nước Giu-đa mất vì những lý do sau đây: 1. Sau khi nước Y-sơ-ra-ên ở miền Bắc bị thôn tính, nước Giu-đa ở miền Nam bị cô lập. 2. Thay vì hết lòng ăn năn nhờ cậy Chúa, họ đã cầu cứu các lân bang. Do đó có những mối liên hệ về xã hội, chính trị, kéo theo mối liên hệ về tín ngưỡng làm cho nước Giu-đa bị ảnh hưởng sự thờ lạy hình tượng.

Page 63: Nhu LieuTruong Chua Nhat

63

3. Dầu đã được các tiên tri nhiều lần, nhiều cách kêu gọi họ cũng chẳng vâng lời. Sau 70 năm bị lưu đày ở xứ người, dân Giu-đa hoàn toàn tuyệt vọng xem mình như trũng xương khô, thì Đức Chúa Trời đã đem họ trở về tổ quốc như Ngài đã hứa (II Sử ký 36: 22-23; Giô-suê 25: 9; 29: 10). Xô-rô-ba-bên và Nê-hê-mi đã hướng dẫn họ. Ngay từ đó, họ không còn thờ lạy tà thần như trước. Song cũng ngay từ khi bị lưu đày, họ mất quyền tự chủ luôn luôn ở dưới sự đô hộ của Ba-by-lôn, Mê-đô Ba-tư, Hy-lạp và La-mã cho đến đời Chúa Giê-xu. Trong đời Chúa Giê-xu, lại một lần nữa, dân Giu-đa chối bỏ Ngài, nộp Ngài để chịu đóng đinh trên thập tự giá, nên họ bị tan lạc khắp nơi trên thế giới từ năm 70 cho đến 1947 họ mới được độc lập. Qua cách đối đãi của Đức Chúa Trời đối với tuyển dân của Ngài chúng ta thấy Chúa vừa thương xót, vừa công bình, nhất là Ngài thành tín mặc dầu họ thất tín. Lịch sử của dân Do thái được Đức Chúa Trời điều khiền để thực hiện chương trình cứu rỗi nhân loại. CÂU HỎI 1. Đức Chúa Trời lựa chọn Áp-ra-ham và dòng dõi của ông với mục đích gì? 2. Tại sao Chúa đem dân Y-sơ-ra-ên vào tận Ca-na-an? 3. Khi vào Ca-na-an thì lòng dân Y-sơ-ra-ên thế nào? 4. Mỗi khi dân Y-sơ-ra-ên ăn năn thì Chúa làm gì cho họ? 5. Tại sao chúng ta biết Chúa không bao giờ bỏ hẳn dân Y-sơ-ra-ên? 6. Sau khi Sa-lô-môn qua đời thì nước ông bị chia ra hai phần nào? 7. Tại sao nước Y-sơ-ra-ên ở miền Bắc bị mất luôn cho đến ngày nay? 8. Dầu dân Giu-đa bị lưu đày 70 năm thì còn được gì? 9. Kể từ khi bị lưu đày đó, dân Giu-đa đã mất gì quí hơn hết? 10. Kết quả của sự chối bỏ Chúa Giê-xu, dân Giu-đa còn bị hình phạt nào nữa?

Page 64: Nhu LieuTruong Chua Nhat

64

BÀI SỐ 15

Giấc Mơ Của Vua Nê-Bu-Cát-Nết-Sa KINH THÁNH: Đa-ni-ên 2: 1-49. Câu gốc: "Nhưng có một Đức Chúa Trời ở trên trời tỏ ra những điều kín nhiệm; và đã cho vua Nê-bu-các-nết-sa biết điều sẽ tới trong những ngày sau rốt" Đa-ni-ên 2: 28. Mục đích: Cho chúng ta thấy lời tiên tri đã bày tỏ chương trình của Đức Chúa Trời ra như thế nào, bài học cũng cho chúng ta hiểu chương trình của Chúa qua lời Ngài. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chủ Nhật: Giấc mơ của nhà vua. Đa-ni-ên 2: 1-18 Thứ Hai: Sự kín nhiệm được tỏ ra. Đa-ni-ên 2: 19-30 Thứ Ba: Tương lai được tiên đoán. Đa-ni-ên 2: 31-45 Thứ Tư: Đa-ni-ên được đưa lên địa vị cao trọng. Đa-ni-ên 46-49 Thứ Năm: Vương quốc sẽ xuất hiện trong tương lai. Đa-ni-ên 7: 9-14 Thứ Sáu: Vị vua sẽ đến trong vinh hiển Ma-thi-ơ 24: 27-51; Khải huyền 19: 11-16 Thứ Bảy: Ngôi vua của Đa-vít. II Sa-mu-ên 7: 15, 16; Lu-ca 1: 31-33; Công vụ 2: 29-32 Năm 605 TC, vua Nê-bu-cát-nết-sa đem quân đánh phá xứ Giu-đa và bắt thành phần ưu tú trong dân đem qua Ba-by-lôn. Giữa dòng những người bị bắt có Đa-ni-ên và 3 bạn của ông đều là những thanh niên. Nhờ dám tin cậy Đức Chúa Trời mà không chịu ô uế bởi của cúng là món ăn, thức uống của Nê-bu-cát-sa-nết-sa, nên Đa-ni-ên và 3 bạn của ông được Chúa ban cho sự khôn ngoan xuất chúng, mười lần giỏi hơn các nhà thông thái của Ba-by-lôn. Tuy nhiên, trước cảnh nước mất nhà tan, tấm thân làm nô lệ ở xứ người, chắc Đa-ni-ên không khỏi thắc mắc: Tại sao Đức Chúa Trời cho phép điều này xảy ra? Chúa có chương trình gì cho các dân, các nước trong đó có Giu-đa? Vì vậy, Chúa đã cho Đa-ni-ên biết chương trình của Ngài qua giấc mơ của Nê-bu-cát-nết-sa.

Page 65: Nhu LieuTruong Chua Nhat

65

I. Đa-ni-ên Nhắc Lại Giấc Mơ Cho Vua Nê-bu-cát-nết-sa (Đa-ni-ên 2: 1-35) Vào năm 603 TC, trong một đêm, Nê-bu-cát-nết-sa thấy một niềm chiêm bao rất quan trọng, song khi thức giấc thì ông quên hết. Ông liền cho vời tất cả các nhà thông thái trong nước bảo họ thuật lại niềm chiêm bao của ông và giải nghĩa nó. Không một nhà thông thái nào làm thỏa mãn vua được, họ theo lệ thường là thuật chiêm bao đó cho họ nghe, rồi họ sẽ giải nghĩa. Vua tức giận, truyền lệnh giết tất cả các nhà thông thái, cũng tìm Đa-ni-ên và 3 bạn ông để giết nữa. Đa-ni-ên tin rằng chỉ một mình Đức Chúa Trời biết chiêm bao đó và giải nghĩa được mà thôi, nên ông bình tĩnh xin Nê-bu-cát-nết-sa một thời hạn ngắn, ông sẽ thuật chiêm bao cho vua và giải nghĩa nó. Được vua chấp thuận, chắc Đa-ni-ên và 3 bạn ông đã kiêng ăn, cầu nguyện hết lòng, hết sức, nên Đức Chúa Trời đã bày tỏ sự bí mật đó cho Đa-ni-ên bằng một chiêm bao. Ông liền ca ngợi Đức Chúa Trời đời đời về sự khôn ngoan và quyền năng của Ngài như tể trị muôn vật, bày tỏ sự bí mật cho loài người. Ông cũng cảm tạ Ngài đã nhậm lời khẩn nguyện của ông mà ban cho ông sự khôn ngoan để biết những bí mật trong chương trình của Ngài. Đa-ni-ên xin vào chầu Nê-bu-cát-nết-sa và thuật cho vua về chiêm bao mà vua đã thấy: Vua thấy một pho tượng rất lớn, rực rỡ lạ thường và dữ tợn lắm. Pho tượng đó đầu bằng vàng ròng, ngực và hai cánh tay bằng bạc, bụng và vế bằng đồng, hai ống chân bằng sắt và hai bàn chân một phần bằng sắt một phần bằng đất sét. Cuối cùng có một hòn đá đến đập vào hai bàn chân bằng sắt và đất sét của pho tượng, làm cho tất cả sắt, đất sét, đồng, bạc và vàng đều thành ra tro bụi, những hòn đá đó hóa ra thành một hòn núi lớn đầy dẫy trên đất. Chiêm bao của Nê-bu-cát-nết-sa gần giống như chiêm bao của Đa-ni-ên trong đoạn 7. Đa-ni-ên thấy có 4 hướng gió xô xát trên biển, thì từ biển lên 4 con thú khác nhau: Con thứ nhất giống như sư tử, con thứ hai giống gấu, con thứ ba giống beo và con thứ tư dữ tợn, mạnh mẽ có răng lớn bằng sắt, cắn nuốt, nghiền nát, giày đạp mọi vật nhưng không biết nó tên gì.

II. Đa-ni-ên Giải Nghĩa Giấc Mơ Cho Nê-bu-cát-nết-sa (Đa-ni-ên 2: 36-45) Pho tượng mà Nê-bu-cát-nết-sa thấy là do Đức Chúa Trời bày tỏ, Ngài cho chúng ta thấy chương trình của Ngài đối với thế gian qua 4 đế quốc được dấy lên rồi bị lật đổ từ đời Đa-ni-ên cho đến cuối cùng: 1. Đầu bằng vàng ròng là đế quốc Ba by lôn của Nê-bu-cát-nết-sa. Vua nầy giàu có, oai quyền, vĩnh viễn bậc nhất như vàng ròng. Ông đã xây một đền thờ cho các thần

Page 66: Nhu LieuTruong Chua Nhat

66

của ông, vách thì dát vàng, và những loại đá quý lấp lánh như ánh sáng mặt trời. Ba-by-lôn làm bá chủ thế giới thời bấy giờ trong thời gian 87 năm (625- 538). 2. Ngực và hai cánh tay bằng bạc là đế quốc Mê-đi Ba-tư. Ba-by-lôn bị đánh bại và Đa-ri-út lên làm vua cai trị (Đa-ni-ên 5: 31). Như hai cánh tay, nước nầy cũng có hai phần Mê-đi và Ba tư. Dầu thua Ba-by-lôn như bạc kém hơn vàng, song Mê-đi Ba-tư đã chinh phục và cai trị các nước một cách oai quyền hiếm có trong thời gian hơn 200 năm (538-330). 3. Bụng và vế bằng đồng là đế quốc Hy-lạp. A-lịch-sơn đại đế đã chiến thắng Mê-đi Ba-tư và lập nên đế quốc Hy-lạp, thống trị thế giới bấy giờ. Sau khi A-lịch-sơn đại đế qua đời, 4 tướng lãnh của ông chia các nước thành 4 phần để cai trị, Đế quốc Hy-lạp duy trì quyền bá chủ trong thời gian 267 năm (330-63). 4. -ng chân và bàn chân bằng sắt lộn với đất sét là đế quốc La-mã. La-mã như 2 ống chân bằng sắt. Sắt không có giá trị bằng vàng, bạc, đồng, song rất cứng, có sức mạnh làm vỡ nát mọi vật. La-mã đã chinh phục Hy-lạp và cai trị thế giới từ năm 63 TC. đến năm 395 SC. La-mã bị chia ra làm hai phần: Đông La-mã và Tây La-mã. Đông La-mã bị đánh bại năm 476, còn Tây La-mã cho đến năm 1453 mới mất hẳn trong tay Thổ-nhỉ-kỳ. Hai bàn chân 10 ngón bằng sắt độn đất sét cũng thuộc về hai ống chân bằng sắt, tức là 10 nước thuộc về ảnh hưởng của La-mã. Mười nước đó theo chính thể vừa cứng vừa giòn như đất sét lộn sắt là chính thể quân chủ và dân chủ. Hiện nay chúng ta đang sống trong thời đại 10 ngón chân nầy. Mười nước tại Âu châu thuộc đế quốc La-mã xưa sẽ được thiết lập thành một khối trước khi Chúa Giê-xu tái lâm. Lịch sử thế giới chứng minh rằng 4 đế quốc vừa kể trên thật đã liên tiếp nắm quyền bá chủ thế giới bấy giờ đúng như thứ tự mà Đa-ni-ên đã giải nghĩa về pho tượng mà Na-bu-cát-nết-sa đã thấy. Ngay khi Đa-ni-ên giải nghĩa pho tượng, thì Ba-tư chỉ là một tỉnh nhỏ thuộc quyền đế quốc Ba-by-lôn. Trong khi đó Hy-lạp chỉ là những bộ lạc hiếu chiến, không có hy vọng gì trở thành một cường quốc mấy trăm năm sau. Cũng vào thời đó, La-mã chỉ là một thành phố nhỏ mới xây dựng trên bờ sông Tiber. Như vậy, sách tiên tri là một sách lịch sử được viết trước khi các biến cố xảy ra. Biết trước như vậy chỉ có Đức Chúa Trời biết, và Ngài có cho viết thành sách để bài tỏ chương trình của Ngài đối với thế gian. 5. Hòn đá siêu nhiên: Hòn đá siêu nhiên mà Nê-bu-cát-nết-sa đã thấy cũng như Đấng Thượng cổ trong Đa-ni-ên 7: 9-12. Hòn đá nầy không bởi tay người đục ra, hòn đá đập vào pho tượng làm cho pho tượng vỡ nát từ đầu chí chân, rồi hòn đá thành một núi lớn. Đa-ni-ên giải thích rằng Đức Chúa Trời sẽ dựng nên một nước không bao giờ bị hủy diệt mà nước nầy sẽ đánh tan mọi nước. Cả Kinh thánh đều mượn hòn đá để chỉ về Chúa Giê-xu (Thi thiên 118: 22; Ê-sai 28: 16; Ma-thi-ơ 21: 42-44; Mác 12: 10; Lu-ca: 20: 17-18; Công vụ các sứ đồ 4: 9-12). Việc nầy sẽ xảy ra khi Chúa Giê-xu tái lâm, vì Ngài là vua của các vua Chúa của các Chúa (Khải huyền 19: 11-16).

Page 67: Nhu LieuTruong Chua Nhat

67

III. Sự cảm Xúc của Nê-bu-cát-nết-sa (Đa-ni-ên 2: 46-49) Nghe qua mọi sự, vua cảm súc sâu sa, đến nỗi sấp mình lạy Đa-ni-ên rồi truyền dâng lễ vật cho ông. Vua cất tiếng ca ngợi Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên là Đấng tỏ các sự bí mật, rồi Đa-ni-ên và ba bạn ông được tôn trọng và thăng thưởng. Bài học cho đời sống chúng ta: Đức Chúa Trời có một chương trình cho thế giới mà Ngài đã dựng nên. Đức Chúa Trời cũng có một chương trình cho mỗi đời sống chúng ta mà Ngài đã cứu chuộc. Ngài đang thực hiện các chương trình đó. Chúng ta hãy buông mình vào tay Chúa và xin Ngài thực hiện chương trình của Ngài trong chúng ta. "Vì Đức Giê-hô-va biết đường người công bình, song đường kẻ ác rồi bị diệt vong" (Thi thiên 1: 6) CÂU HỎI 1. Trong khi Đa-ni-ên và 3 bạn ông làm phu tù tại Ba-by-lôn thì có điều gì xảy ra cho Nê-bu-cát-nết-sa? 2. Tại sao các nhà thông thái của Ba-by-lôn không làm thỏa mãn được yêu cầu của vua? 3. Đa-ni-ên và 3 bạn ông đã làm gì trong lúc nguy nan đó? 4. Đa-ni-ên đã làm cho ông vua thoả mãn thế nào? 5. Đầu bằng vàng chỉ về ai? 6. Ngực và cánh tay bằng bạc chỉ về ai? 7. Bụng và vế bằng đồng chỉ về ai? 8. Hai ống chân bằng sắt chỉ về ai? 9. Mười ngón chân sắt và đất sét lộn chỉ về ai? 10. Hòn đá chỉ về ai? 11. Tại sao vua lại sấp mình lạy Đa-ni-ên? Bài học cho chúng ta là gì?

Page 68: Nhu LieuTruong Chua Nhat

68

BÀI SỐ 16

Bốn Trăm Năm Yên Lặng KINH THÁNH: Ê-sai 44: 28-45: 4. Câu gốc: "Nầy, tay Đức Giê-hô-va chẳng trở nên ngắn mà không cứu được; tai Ngài cũng chẳng nặng nề mà không nghe được đâu. Nhưng ấy là sự gian ác các ngươi làm xa cách mình với Đức Chúa Trời; và tội lỗi các ngươi đã che khuất mặt Ngài khỏi các ngươi, đến nỗi Ngài không nghe các ngươi nữa". Ê-sai 59: 1-2 Mục đích: Cho chúng ta biết chương trình của Đức Chúa Trời đã được làm trọn như thế nào trong khoảng thời gian giữa Cựu Ước và Tân Ước, cũng nói về cách Đức Chúa Trời đưa dắt chúng ta trong những ngày khó khăn. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chủ Nhật: Bảy mươi năm tù đày Giê-rê-mi 25: 8-14, 32, 33 Thứ Hai: Lời tiên đoán về sự tan lạc. Lê-vi-ký 26: 22-32; Phục truyền 28: 63-68 Thứ Ba: Các phu tù Do Thái được trở về. Ê-xơ-ra 1: 1-2: 1 Thứ Tư: Các phu tù Do Thái được trở về lần thứ hai. Ê-xơ-ra 7: 1-10, 27, 28 Thứ Năm: Các phu tù Do Thái được trở về lần thứ ba. Nê-hê-mi 2: 1-20 Thứ Sáu: Lời tiên tri lạ lùng về Si-ru. Ê-sai 44: 28-45: 4 Thứ Bảy: Hy vọng của dân Do Thái. Ê-sai 9: 1-7 Kinh thánh không được sắp theo thứ tự thời gian mà được sắp theo loại. Các sách lịch sử từ Giô-suê đến Ê-xơ-tê, các sách văn thơ từ Gióp đến Nhã-ca, các sách tiên tri từ Ê-sai đến Ma-la-chi. Thời gian thì không theo thứ tự. Ví dụ: có 3 sách lịch sử chép lúc dân Y-sơ-ra-ên được trở về tổ quốc là Ê-xơ-tê, Ê-xơ-ra và Nê-hê-mi. Bấy giờ có 3 tiên tri giảng dạy họ là A-ghê, Xa-cha-ri và Ma-la-chi. Vậy Ma-la-chi là tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, còn Nê-hê-mi là nhân vật cuối cùng của lịch sử Y-sơ-ra-ên trong Cựu Ứớc. Từ Ma-la-chi và Nê-hê-mi đến Chúa Giê-Xu giáng sinh là khoảng thời gian hơn 400 năm và là thời gian yên lặng.

Page 69: Nhu LieuTruong Chua Nhat

69

I. Lời Tiên Tri Về Dân Y-sơ-ra-ên Bị Lưu Đày. Theo sách Lê-vi ký 26: 22-32 và Phục-truyền luật-lệ ký 28: 63-68 thì trước khi vào Ca-na-an đượm sữa và mật, Đức Chúa Trời đã cảnh cáo dân Y-sơ-ra-ên rằng nếu họ không nghe lời Chúa, không cẩn thận làm theo điều răn và luật pháp của Ngài, họ sẽ bị rủa sả. Các sự rủa sả là bệnh tật, chiến tranh, hạn hán, nhất là bị bắt làm nô lệ ở xứ người. Dầu Đức Chúa Trời đã không ngớt sai các tiên tri đến khuyên lơn, thức tỉnh, song dân Y-sơ-ra-ên cứ miệt mài trong tội lỗi của họ nên Ngài phải thi hành mạng lệnh của Ngài là lưu đày họ 70 năm làm nô lệ ở Ba-by-lôn (Giê-rê-mi 25: 8-11).. Chúa đã dấy Nê-bu-cát-nết-sa lên và phó dân Y-sơ-ra-ên vào tay của ông. Ông chẳng qua là một công cụ như cây roi trong tay của Chúa để Ngài sửa phạt dân sự Ngài. Đức Chúa Trời là Đấng thương yêu, công bình, thánh khiết. Ngài ban phước cho dân Y-sơ-ra-ên, song Ngài không thể tha sự sửa phạt nếu họ đã phạm tội mà không chịu ăn năn. Ngài ban phước rất nhiều, và sửa phạt rất nặng đúng như lời Ngài đã phán. Đó là bài học mà chúng ta phải ghi nhớ luôn.

II. Lời Tiên Tri Về Dân Y-sơ-ra-ên Được Trở Về Tổ Quốc. Khi tiên tri Giê-rê-mi công bố bản án của dân Y-sơ-ra-ên thì tiên tri Ê-sai cũng công bố lời hứa của Chúa cho họ. Lời hứa đó là Chúa sẽ dấy Si-ru lên. Ông sẽ chinh phục Ba-by-lôn làm vua nước Mê-đi Ba-tư và giải phóng dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi cảnh nô lệ mà trở về tổ quốc (Ê-sai 44: 28-45: 4). Khi Ê-sai công bố lời tiên tri nầy thì Si-ru chưa ra đời cho đến khoảng 100 năm sau. Vì bấy giờ dân Y-sơ-ra-ên chưa làm phu tù, và sau 70 năm làm phu tù, Si-ru mới vâng lệnh Chúa mà giải phóng dân Y-sơ-ra-ên. Vào năm 538 T.C., tức là năm thứ nhất triều vua nước Mê-đi Ba-tư, ông ra một chiếu chỉ phóng thích dân Y-sơ-ra-ên, trả lại tất cả khí dụng trong đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem mà Nê-bu-cát-nết-sa đã cướp đoạt và đem qua Ba-by-lôn. Đồng thời ông cũng khuyến khích các dân tộc thuộc quyền đế quốc của ông nên biếu tặng vàng, bạc, của cải, súc vật và các thứ lạc hiến cho việc xây lại đền thờ của Đức Chúa Trời (Ê-xơ-ra 1: 1-11). Những người hướng dẫn dân Y-sơ-ra-ên trở về tổ quốc là Ê-xơ-ra, Nê-hê-mi và Xô-rô-ba-bên. Dầu phải đương đầu với nhiều khó khăn, trở ngại do kẻ thù gây nên, song cuối cùng họ đã thành công và có 1 lễ khánh thành vui vẻ (Nê-hê-mi 12: 27-47). Chỉ có một mình Đức Chúa Trời biết trước mọi sự và làm được mọi sự. Những thịnh, suy, bĩ, thới, vinh, hư, tiêu, trưởng của các nưóc trên thế giới nằm gọn trong tay Chúa và Ngài điều khiển mọi sự hiệp lại làm ứng nghiệm lời hứa của Ngài, hoàn tất chương trình của Ngài. Khi dân Y-sơ-ra-ên tuyệt vọng trong cảnh nô lệ, tự sánh như trủng xương khô chỉ chờ ngày mục nát mà thôi, thì Chúa đã làm cho họ sống lại thành một đạo quân rất lớn, trở về tổ quốc. Hy vọng nơi Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ hổ

Page 70: Nhu LieuTruong Chua Nhat

70

thẹn, không bao giờ thất vọng, vì Ngài không bao giờ thất hứa, không bao giờ thay đổi (Thi thiên 42 và 43).

III. Bốn Trăm Năm Yên Lặng. Đó là khoảng thời gian từ khi Nê-hê-mi xây lại xong xuôi đền thờ của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem cho đến khi Chúa Giê-Xu giáng sinh hay là từ Ma-la-chi cho đến Ma-thi-ơ. Trong thời gian nầy Kinh thánh không ghi lại chi cả, song lịch sử thế giới có ghi chép, trong đó có những việc tương quan với dân Y-sơ-ra-ên. Vào năm 336 TC. A-lịch-sơn được 20 tuổi, nối ngôi cha là Phi-líp làm vua làm vua xứ Ma-xê-đoan. Ông chinh phục đế quốc Mê-đi Ba-tư và các lân bang, nắm quyền bá chủ thế giới bấy giờ. Song ông qua đời quá sớm vào năm 323 TC, tuổi được 33, A-lịch-sơn rất tử tế với dân Do Thái, dành cho họ nhiều đặc ân. Dưới triều A-lịch-sơn, văn chương Hy-lạp được truyền bá khắp nơi, ngôn ngữ Hy-lạp là ngôn ngữ phổ thông. Nhờ đó Kinh thánh Cựu Ước từ tiếng Hy-bá-lai được dịch ra tiếng Hy-lạp thì có nhiều người đã hiểu được. Sau khi A-lịch-sơn qua đời, đế quốc Hy-lạp bị chia làm 4 phần do 4 tướng lãnh cai trị, Ptolémée xứ Ê-díp-tô, Séleucus xứ Ba-by-lôn, Cassandre xứ Ma-xê-đoan và Lysimaque xứ Thrace. Bấy giờ xứ Do-thái nằm trong lảnh thổ của Ptolémée và được ông nầy đối đãi tử tế. Năm 198 TC, vua của Sy-ri là Antiochus nổi lên chống lại với Ptolemée và chiếm xứ Do thái. Ngay sau đó, dân Do thái bị bắt bớ một cách tàn nhẫn, phải trốn khỏi Giê-ru-sa-lem, nhiều người bị giết, đàn bà, con trẻ bị bán làm nô lệ, Antiochus đã đánh hạ các thành cướp giựt mọi khí dụng trong đền thờ, dựng lên trong đó tượng thần Jupiter, dâng huyết và thịt heo trên bàn thờ để làm ô uế và sỉ nhục người Do thái hầu tiêu hủy đức tin của họ (Đa-ni-ên 11:31). Ngoài ra ông còn cấm làm lễ cắt bì, tịch thu tất cả Kinh thánh. Trong 3 năm liền, đền thờ tại Giê-ru-sa-lem bị bỏ hoang. Thật là một thời kỳ hắc ám kinh hoàng. Bấy giờ có một gia đình Do-thái họ Ma-ca-bê là ông Mattathia và năm con trai nổi lên chống lại sự bạo tàn của Antiochus. Họ đã chiến thắng. Năm 165 TC, họ tẩy uế đền thờ tại Giê-ru-sa lem, tái lập cuộc thờ phượng như trước, đem lại an ủi, niềm tin và hy vọng cho dân tộc Do thái. Về sau, dân Do thái còn giữ ngày ấy làm kỷ niệm (Giăng 10: 22). Năm 63 TC dân Do-thái bị ở dưới quyền đô hộ của đế quốc La-mã sau khi đế quốc nầy đã lần hồi cướp quyền Hy-lạp. Năm 47 TC Hê-rốt được hoàng đế La-mã cử làm vua Do-thái. Hê-rốt không phải là người Do-thái chính tông, nên ông đã theo Do-thái giáo để được đẹp lòng họ. Ngoài ra ông còn xây một đền thờ rất đẹp mà Chúa Giê-Xu đã đến đó. Vì gian ác nên lúc nào Hê-

Page 71: Nhu LieuTruong Chua Nhat

71

rốt cũng sợ hãi, vì tham quyền cố vị nên ông cũng muốn giết Giê-xu là vua của Do-thái (Ma-thi-ơ 2: 13, 16). Bốn năm sau Chúa giáng sinh, Hê-rốt qua đời. Dầu khi Đức Chúa Trời làm thinh, Ngài vẫn có mặt, dầu khi tưởng như Ngài yên lặng, Ngài vẫn hoạt động không ngừng. Trong bóng đêm dầy đặc, Chúa vẫn hiện diện, trong cảnh vật đổi sao dời, Chúa vẫn y nguyên. Bất luận lúc nào chúng ta kêu cầu, Chúa vẫn phán "Có ta đây!"(Ê-sai 58: 9). Vậy chúng ta không nên nản lòng, thất vọng, mà lúc nào cũng vững vàng, tin cậy và tràn đầy hy vọng. CÂU HỎI 1- Tại sao dân Y-sơ-ra ên bị lưu đày 70 năm tại Ba-by-lôn? 2- Việc đó thình lình xảy ra hay có trong chương trình của Chúa? 3- Khi Giê-rê-mi công bố bản án thì Ê-sai làm gì? 4- Lời hứa nầy bao nhiêu năm sau mới thực hiện? 5- Ai cầm vận mạng của các nước trên thế giới? 6- Các sách trong Kinh thánh được sắp đặt theo thứ tự nào? 7- Bốn trăm năm yên lặng là từ thời nào đến đời nào? 8- Trong bốn trăm năm năm yên lặng, có những việc gì xảy ra? 9- Làm sao chúng ta biết Đức Chúa Trời thật không yên lặng như chúng ta tưởng? 10- Chúng ta phải có thái độ nào trong thời kỳ tối tăm hơn hết?

Page 72: Nhu LieuTruong Chua Nhat

72

BÀI SỐ 17

Giê-Xu Christ Là Con Đức Chúa Trời KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 1: 18-25; Lu-ca 1: 26-23. Câu gốc: "Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai và sanh một con trai, rồi người ta sẽ đặt tên con trai đó là Em-ma-nu-ên; nghĩa là: Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta". Ma-thi-ơ 1: 23. Mục đích: Dạy rằng Đức Chúa Trời đã dùng một gái đồng trinh để sinh hạ Con Ngài và chúng ta phải tin nhận Con ấy làm Cứu Chúa của mình. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Xin đọc theo lối đối chiếu: Lời tiên tri để thấy rõ chương trình của Đức Chúa Trời. Chúa Nhật: Được sinh bởi một nữ đồng trinh Ê-sai 7:14; Sáng 3:15 Ma-th 1: 23; Lu-ca 1: 26-35. Thứ Hai: Là dòng dõi của Sem và Áp-ra-ham Sáng thế ký 9: 26-27; 12: 3 Lu-ca 3:36; Ma-thi-ơ 1: 1-2. Thứ Ba: Là con cháu Y-sắc Sáng thế ký 18: 18; 17: 19 Lu-ca 3:34; Ma-thi-ơ 1: 1-2. Thứ Tư: Là con cháu Gia-cốp Sáng thế ký 28: 14; 24: 15 Ma-thi-ơ 1:1-2; Lu-ca 3:34. Thứ Năm: Thuộc chi phái Giu-đa Sáng thế ký 49: 10 Ma-thi-ơ 1: 2; 2: 6. Thứ Sáu: Thuộc nhà Đa-vít Ê-sai 9: 6-7; Lu-ca 3: 31. Thứ Bảy: Sanh tại Bết-lê-hem Mi-chê 5:2; Lu-ca 2: 4-11

Ma-thi-ơ 2: 16 Giê-Xu Christ là Con Đức Chúa Trời, là giáo lý cơ bản của đức tin để nhờ đó chúng ta được cứu rỗi (Giăng 20: 31). Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời không giống như dân Y-sơ-ra-ên là Con Đức Chúa Trời (Xuất Ê-díp-tô ký 4: 22-23), cũng không giống như chúng ta là Con Đức Chúa Trời (Giăng 1: 12). Giê-xu Christ là Con độc sanh của Đức Chúa Trời có nghĩa là Ngài bình đẳng với Đức Chúa Trời và chính Ngài là Đức Chúa Trời (Giăng 1: 1; 5: 18; 10: 33). Vì Giê-xu Christ là Đức Chúa Trời nên gốc tích Ngài từ đời xưa, từ trước vô cùng (Mi-

Page 73: Nhu LieuTruong Chua Nhat

73

chê 5: 2). Không phải Ngài mới có gần 2000 năm nay, mà trước khi chưa có Áp-ra-ham, Ngài vẫn hằng hữu (Giăng 8: 58). Có nhiều bằng cớ chứng minh Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời nhưng chỉ xin kể ra đây một vài bằng cớ:

I. Lời Tiên Tri Về Giê-Xu Christ Là Con Đức Chúa Trời. 1. Lời tiên tri về sự giáng sinh: Sau khi A-đam và Ê-va phạm tội, Đức Chúa Trời liền hứa một Cứu Chúa sẽ ra từ dòng dõi người nữ (Sáng thế ký 3: 15). Hơn một ngàn năm sau, lời hứa ấy được rõ ràng hơn là người nữ đó thuộc dòng dõi Áp-ra-ham (Sáng thế ký 12: 3), của Y-sắc (Sáng thế ký 17: 19) của Gia-cốp (Sáng thế ký 28: 14), của chi phái Giu-đa (Sáng thế ký 49: 10), của nhà Đa-vít (Ê-sai 9: 6-7). Cuối cùng là một trinh nữ sẽ thụ thai sinh ra Cứu Chúa theo phần xác tại Bết-lê-hem, xứ Do-thái. Tất cả nhân loại dầu ở phương trời nào, thuộc thời đại nào, thành phần nào cũng được sinh ra cách ngẫu nhiên. Song chỉ một mình Giê-xu Christ được sinh ra ngoài công lệ thiên nhiên là không có Cha xác thịt, vượt hẳn mọi người là theo chương trình của Đức Chúa Trời đã hoạch định từ buổi sáng thế. Nếu đem các lời tiên tri trên so với sự kiện lịch sử đã được ghi chép trong 4 sách Tin lành về sự giáng sinh của Ngài, chúng ta sẽ thấy mọi sự kiện đều ứng nghiệm trọn vẹn. Đó là bằng cớ Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời. 2. Lời tiên tri về Ngài chịu nghèo nàn và bị chối bỏ: Thật là việc không ngờ. Cứu Chúa của nhân loại lại giáng sinh trong cảnh nghèo nàn và bị chối bỏ. Ê-sai 53: 1-3 nói trước vào khoảng hơn 600 năm rằng Ngài như cái rễ ra từ đất khô, từng trải sư buồn bực, và đau đớn, một người không có hình dung tốt đẹp, nên chẳng ai thèm xem vì chẳng ai ưa thích được. Câu 4-7 nói thêm rằng Ngài mang sự khốn khổ, gánh sự buồn bực, bị vết, bị thương. Ngài bị áp bức như chiên con bị dắt đến hàng làm thịt, như chiên câm trước mặt kẻ hớt lông. Ngài chẳng từng mở miệng. Đọc lịch sử của Ngài trong 4 sách Tin lành chúng ta thấy những lời tiên tri trên đây được ứng nghiệm trọn vẹn. Ngài giáng sinh trong chuồng chiên, nằm nôi máng cỏ, lớn lên trong gia đình thợ mộc nghèo nàn tại Na-xa-rét. Khi bắt đầu chức vụ Ngài mượn thuyền để đi, mượn lừa để cỡi, mượn bánh để hóa ra, mượn nhà để dự lễ. Dầu vậy Ngài đã chứng minh một cách hùng hồn và đầy đủ về Ngài là Con Đức Chúa Trời qua sự giảng dạy kỳ diệu và công tác đầy quyền năng của Ngài. Chưa bao giờ có một giáo sư giảng dạy như Ngài, Ngài không tốt nghiệp một trường nào, không có một thư viện, không có một quyển sách trong tay trong bất cứ trường hợp nào, trước một số thính giả thuộc thành phần nào trong xã hội loài người,

Page 74: Nhu LieuTruong Chua Nhat

74

Chúa đều có lời lẽ, ý tứ thích hiệp với họ. Không có một câu hỏi hóc búa nào mà Ngài trả lời không được, vì trước khi người ta hỏi, Chúa đã đọc được tư tưởng trong lòng họ. Ngài không bao giờ nói có lẽ hay ức đoán mà lúc nào cũng nói: Quả thật, quả thật. Người thời bấy giờ nói với nhau về Ngài rằng "Chẳng hề có người nào đã nói như người nầy". Cho đến ngày nay, đã suốt qua 20 thế kỷ, không ai tìm thấy một lỗi lầm nào trong sự giảng dạy của Ngài. Vì sự giảng dạy của Ngài là sự giảng dạy của Con Đức Chúa Trời. Không hề có một y sĩ nào chữa bệnh một cách quyền năng như Ngài. Dầu ngày nay y học đã tiến bộ, người ta cũng chữa bệnh một cách rất khó khăn, phải mất nhiều thì giờ, tiền bạc, thuốc men, song chỉ đỡ được phần nào, chứ không như Chúa Giê-xu. Ngài chỉ phán một lời kẻ câm nói được, kẻ điếc nghe được, kẻ mù thấy được, kẻ phung được lành, kẻ què đi được, kẻ chết sống lại. Khi bão tố nổi lên, sóng dậy phủ thuyền, Ngài chỉ phán "Im đi!" Mọi sự đều im lặng ngay như tờ. Ngài dùng 5 cái bánh mạch nha và hai con cá mặn là phần ăn của một người mà hóa ra cho năm ngàn người ăn no nê, lại còn thừa nữa. Công việc của Ngài không phải là công việc của người, nhưng là công việc của Con Đức Chúa Trời. Song rất tiếc dân Do thái vẫn ngoan cố, khăng khăng chối bỏ Giê-xu Christ và nộp Ngài cho nhà cầm quyền La-mã để đóng đinh Ngài trên thập tự giá. Họ đã vô tình làm ứng nghiệm lời tiên tri trong Ê-sai 53 và Thi thiên 22.

II. Những Chứng Nhân Của Chúa Giê-Xu Christ. Hãy hỏi những người đồng thời với Chúa Giê-xu, họ sẽ nói cho chúng ta biết Giê-xu là ai: 1. Xin hỏi ông Na-tha-na-ên: Ông nghĩ thế nào về Giê-Xu? Na-tha-na-ên đáp: Tôi đã gặp Giê-xu và sau một hồi trò chuyện, tôi đã thưa "Lạy thầy, Thầy là Con Đức Chúa Trời, Thầy là vua dân Y-sơ-ra-ên" (Giăng 1: 49). 2. Xin hỏi bà Ma-thê: Bà rất quen biết Giê-xu. Vậy hãy nói cho chúng tôi biết Giê-xu là ai? Đáp: Khi anh tôi là La-xa-rơ chết, Chúa có đến thăm và kêu anh tôi sống lại. Ngay trước đó, tôi đã thưa với Chúa rằng "Lạy Chúa phải tôi tin Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời, là Đấng phải đến thế gian" (Giăng 11:27). 3. Xin hỏi các môn đồ: Các ông đã theo Giê-xu trên mọi nẻo đường, các ông hãy cho chúng tôi biết Ngài là ai? Đáp: Khi chúng tôi thấy Chúa đi bộ trên mặt biển vào lúc nửa đêm, thì chúng tôi sấp mình xuống chân Ngài mà thưa rằng "Thầy thật là Con Đức Chúa Trời" (Ma-thi-ơ 14: 33). Lần khác, Chúa hỏi chúng tôi "Còn các ngươi thì xưng ta là ai?" Bấy giờ chúng tôi đều đồng thinh đáp "Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống" (Ma-thi-ơ 16: 16). 4. Xin hỏi ma quỉ: Anh đã ám ảnh một người ở Giê-ra-sê, rồi khi Giê-xu đi ngang qua đó, anh đã làm gì? Đáp: Tôi đã chạy lại, sấp mình xuống trước mặt Ngài và kêu lớn

Page 75: Nhu LieuTruong Chua Nhat

75

rằng "Hỡi Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời rất cao... xin Ngài đừng làm khổ tôi" (Mác 5: 6-7). 5. Xin hỏi ông Giu-đa: Sau một thời gian theo Giê-xu, ông nghĩ thế nào về Ngài mà đã phản nộp Ngài để được 30 miếng bạc? Đáp: "Tôi đã phạm tội vì nộp huyết vô tội" (Ma-thi-ơ 27:4). 6. Xin hỏi đội trưởng La-mã: Ông nghĩ thế nào về Giê-xu? Đáp: "Khi tôi chứng kiến cái chết của Ngài trên thập tự giá và các biến động xảy ra thì tôi kinh tâm tán đởm mà la lên: "Thật người nầy là Con Đức Chúa Trời" (Ma-thi-ơ 27: 54). 7. Xin hỏi Phao-lô: Ông nghĩ thế nào về Giê-xu mà quyết định tiêu diệt những kẻ theo Ngài? Đáp: "Tôi đã làm những điều đó trong lúc ngu muội chưa tin... Đức Chúa Giê-xu Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy, trong những kẻ có tội đó, tôi là đầu" (I Tim-mô-thê 1: 13-15). Quả thật, Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời, nhưng đừng tin như ma quỉ tin (Mác 5: 6-7; Gia-cơ 2: 19). Phải tin như các môn đồ là quì xuống thờ lạy Ngài, tận hiến đời mình cho Ngài để Chúa hoàn toàn chiếm hữu và sử dụng. CÂU HỎI 1. Tại sao sự giáng sinh của Giê-xu Christ làm chứng rằng Ngài là Con Đức Chúa Trời? 2. Tại sao sự nghèo nàn và sự bị chối bỏ của Ngài làm chứng rằng Ngài là Con ĐCT? 3. Trong 3 năm chức vụ, Chúa Giê-Xu đã làm gì để chứng minh mình là Con ĐCT? 4. Người đồng thời với Ngài đã nói gì với Ngài khi nghe Chúa giảng? (Giăng 7: 46) 5. Người đương thời đã nói gì khi thấy phép lạ Chúa làm? (Mác 2:12; Giăng 9: 32) 6. Có mấy người đã làm chứng rằng Giê-xu là Con Đức Chúa Trời? Xin kể một người. 7. Ma quỉ có tin Giê-xu là Con ĐCT không? Nếu có tại sao nó không được cứu? 8. Tin Giê-xu là Con Đức Chúa Trời để được cứu thì phải làm thế nào? 9. Anh chị em có thật tin Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời không?

Page 76: Nhu LieuTruong Chua Nhat

76

BÀI SỐ 18

Giê-Xu Christ Là Con Người KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 16: 13-18 Câu gốc: "Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta nhờ đó mà được cứu." Công vụ các sứ đồ 4: 12. Mục đích: Dạy về sự tuyệt đối của Giê-xu Christ và chúng ta phải quyết định tin nhận Ngài làm Cứu Chúa của mình. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chủ Nhật: Thiên sứ báo tin cho Ma-ri. Lu-ca 1: 26-38 Thứ Hai: Nữ đồng trinh sinh ra Giê-xu Christ. Lu-ca 2: 1-20 Thứ Ba: Ngài cũng chịu cám dỗ như chúng ta. Ma-thi-ơ 4: 1-11;

Hê-bơ-rơ 2: 17-18; 4: 15 Thứ Tư: Sự trở thành nhục thể. Giăng 1: 1-14; Cô-lô-se 2: 9 Thứ Năm: Con người. Phi-líp 2: 5-11 Thứ Sáu: Lời chứng của Đức Chúa Trời. Mác 9: 1-10 Thứ Bảy: Lời chứng của Phi-e-rơ. Ma-thi-ơ 16: 13-18 Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời, song Ngài đã trở thành con người. Ngài là Ngôi lời đã trở nên xác thịt, tức là Thượng Đế vô hình đã mặc lấy hình người ở giữa chúng ta (Giăng 1: 14). Tân Ước có 77 lần chép về Ngài là Con người, thuộc về muôn dân, muôn nước. Ngài vừa là Đức Chúa Trời mà cũng vừa là người, cả hai bản tánh Ngài đều hòa hợp trọn vẹn. Vì vậy, chỉ một mình Ngài là Đấng trung bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người để làm cho ai nấy hoà hợp lại với Đức Chúa Trời. Giê-xu Christ là một nhịp cầu, một gạch nối giữa trời và người. Nếu không nhờ Ngài thì chẳng hề có ai đến được với Đức Chúa Trời (Giăng 14: 6).

Page 77: Nhu LieuTruong Chua Nhat

77

I. Giê-Xu Christ Có Một Đời Sống Toàn Hảo. Ngài đã trở thành một hài nhi nằm trong máng cỏ, chuồng chiên lớn lên trong gia đình thợ mộc nghèo nàn tại làng Na-xa-rét nhỏ bé, nhưng Ngài có một đời sống toàn hảo giữa loài người bất toàn (Lu-ca 2: 40-52). Ma quỉ đã dùng đủ cách để cám dỗ Ngài, song Ngài chẳng hề phạm tội. Người đồng thời đã cố gắng thổi lông tìm vết, vạch lá tìm sâu nhưng không hề thấy một lỗi lầm nào trong lời nói cũng như trong việc làm của Ngài. Hơn nữa Chúa còn thách đố họ rằng "Trong các ngươi có ai xác minh ta có tội ư?" Hết thảy đều cuối đầu, ngậm miệng tổng đốc Phi-lát phải 3 lần tuyên bố rằng "Ta không thấy người nầy có tội gì cả" (Giăng 18: 38; 19: 4-6). Kinh thánh mô tả "Ngài chưa hề phạm tội, trong miệng Ngài không có chút chi dối trá, Ngài bị rủa mà chẳng rủa lại, chịu nạn mà không hề ngăm dọa, nhưng cứ phó mình cho Đấng xử đoán công bình" (I Phi-e-rơ 2: 22-23). Thậm chí Giu-đa cũng phải thú nhận rằng "Tôi đã nộp huyết vô tội" (Ma-thi-ơ 27: 4), còn anh trộm bị đóng đinh bên cạnh Ngài cũng nói "Hình ta chịu xứng với việc ta làm, nhưng người nầy (Giê-xu) không hề làm một điều gì ác" (Lu-ca 23: 41).

II. Giê-Xu Christ Có Sự Thông Minh Toàn Hảo. Sự thông minh của Ngài bài tỏ Ngài hoàn toàn vô tội như A-đam trước khi sa ngã. Khi 12 tuổi, Ngài đã làm rối trí các giáo sư Do Thái bằng những lời đối đáp của Ngài. Ngài chưa từng tốt nghiệp một trường đại học nào, không có một thư viện, cũng chẳng có một quyển sách nào trong tay, song khi Ngài giảng dạy, tất cả người nghe Ngài phải ngạc nhiên, vì Ngài giảng cách có quyền, chứ không giống như các giáo sư Do thái (Ma-thi-ơ 8: 29). Không có một câu hỏi hóc búa nào mà Ngài không trả lời được. Hơn nữa, Ngài còn đọc được tư tưởng trong lòng của mọi người, nên khi họ chưa hỏi, Ngài đã trả lời được cho họ (Mác 2: 8; Giăng 2: 25; 6: 61, 64; 13: 11). Sự giảng dạy của Ngài thích hiệp với mọi người thuộc mọi thành phần, trong mọi hoàn cảnh khác nhau. Ni-cô-đem là một giáo sư nổi tiếng phải thưa "Chúng tôi biết thầy là giáo sư từ Đức Chúa Trời đến" (Giăng 3: 2). Những kẻ từng chỉ trích Ngài trong lời nói phải cúi đầu ngậm miệng, hoặc nói rằng "Chẳng hề có người nào đã nói như người nầy" (Giăng 8: 46). Lời giảng dạy của Ngài đã được chép thành sách và được dịch ra hơn 1500 thứ tiếng trong thế giới, song suốt gần 20 thế kỷ qua chưa hề có ai tìm thấy một lỗi lầm nào trong lời giảng dạy của Ngài. Sư thông minh cũng như đời sống của Ngài là một con người hoàn toàn.

III. Giê-Xu Christ Có Những Hành Động Toàn Hảo. Chúa Giê-xu có quyền năng vô cùng. Song Ngài không thi hành quyền năng đó để khoe khoang, để làm cho mình được tiếng tăm lừng lẫy, được thiên hạ hoan nghinh, Ngài cũng không thi hành quyền năng đó để báo thù kẻ làm hại Ngài. Ngài chỉ dùng lời phán mà chữa lành tất cả bệnh tật thậm chí kêu kẻ chết sống lại. Ngài đuổi quỉ khỏi kẻ nó ám

Page 78: Nhu LieuTruong Chua Nhat

78

ảnh, hóa bánh cho toàn dân ăn no nê mà còn thừa. Mỗi hành động đó đều phát xuất từ lòng yêu thương, nhân tư của Ngài (Ma-thi-ơ 9: 36; 14: 14; 15: 32). Ngài vâng phục Đức Chúa Trời mà làm mọi việc, nên hai lần Đức Chúa Trời long trọng tuyên bố rằng "Nầy là Con yêu dấu của Ta đẹp lòng ta mọi đàng" (Ma-thi-ơ 3: 17; 17: 5). Khi dân chúng thấy Ngài làm nhiều phép lạ, tin rằng Ngài là một tiên tri, muốn tôn Ngài làm vua của họ để giải phóng họ khỏi quyền đô hộ của đế quốc La-mã, thì Ngài lui ở một mình trên núi (Giăng 6: 14-15). Giê-xu Christ là Con người toàn hảo trong mọi hành động. Sự sống của Ngài không phải là sự sống của con người tội lỗi như chúng ta mà là sư sống của Đức Chúa Trời, nên mọi hành động của Ngài vừa tỏ ra Ngài là Con Người mà đồng thời cũng là Con Đức Chúa Trời. Bên miệng giếng Gia-cốp, Chúa mệt mỏi như một người, nhưng Ngài hiểu biết như Đức Chúa Trời khi Ngài phán với người đàn bà Sa-ma-ri "Ngươi đã có năm đời chồng, còn người mà ngươi hiện có chẳng phải là chồng ngươi" (Giăng 4: 6, 17, 18). Trong thuyền, Chúa ngủ như mọi người song lời phán của Ngài là lời phán của Đức Chúa Trời, khi Ngài đứng dậy quở sóng gió và biển thì liền yên lặng như tờ (Ma-thi-ơ 8: 24,26). Sáng hôm sau, Chúa đói như một người, song mạng lịnh của Ngài là mạng lịnh của Đức Chúa Trời. Khi Chúa thấy cây vả chỉ có lá mà không có trái thì phán "Mầy chẳng khi nào sanh trái nữa! Cây vả tức thì khô đi" (Ma-thi-ơ 21: 18-19). Khi đứng trước mộ La-xa-rơ, Chúa khóc vì cảm động như một người, song Ngài kêu một tiếng như Đức Chúa Trời nên La-xa-rơ từ mồ bước ra (Giăng 11: 35, 43, 44). Ngài chết trên thập tự giá như một người, song sống lại khỏi phần mộ như Đức Chúa trời. Ngày nọ, Chúa hỏi các môn đồ "Theo lời người ta nói thì Con người là ai?"- Kẻ nầy nói Ngài là Giăng Báp-tít, kẻ kia nói Ngài là Ê-li, kẻ khác nói Ngài là Giê-rê-mi hay một tiên tri nào đó. Chúa hỏi "Còn các ngươi thì xưng ta là ai?" Phi-e-rơ đại diện thưa "Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống". Chúa cho Phi-e-rơ là có phước, vì được Đức Chúa Trời bày tỏ cho nên ông biết Ngài như vậy. Phước thay cho ai biết Giê-xu như vậy, vì Ngài là Cứu Chúa có một không hai của loài người, ngoài Ngài ra không có một Cứu Chúa nào khác. Bài học cho chúng ta: Chúa Giê-xu Christ là con người toàn hảo về mọi phương diện. Cuộc sống của Ngài là cuộc sống gương mẫu cho chúng ta, để ai nấy "Noi dấu chân Ngài" (I Phi-e-rơ 2: 21). Chúa muốn chúng ta có một đời sống như Ngài trong sự thánh khiết và công nghĩa (Ê-phê-sô 4: 24). Song muốn đạt được nếp sống đạo đức đó, không phải chúng ta cố gắng mà được, bèn là nhận lấy sự sống của Ngài là sự sống thánh khiết và công nghĩa, cũng gọi là sự sống đời đời. Sự sống nầy không bao giờ tìm được ngoài Chúa Giê-xu. Nên muốn có sự sống nầy, chúng ta phải có Chúa Giê-xu, tức là tiếp nhận Ngài, xin Ngài bước vào ngự trị đời mình. Chừng ấy Chúa sẽ tái diễn cuộc đời của Ngài trong chúng ta, làm cho chúng ta mỗi ngày một giống như Chúa hơn trong cách ăn ở của mình. Đó là lý do Phao-lô đã sẵn sàng chấp nhận mọi sự đau đớn như sự đau đớn của người đàn bà sinh nở cho đến chừng Đấng Christ thành hình trong tín đồ, tức là ai nấy đều thấy Ngài trong họ (Ga-la-ti 4: 19). Chúa Giê-xu có quyền năng vô cùng để ăn ở thánh khiết, đồng thời Ngài cũng có quyền năng giúp đỡ bất cứ ai nhờ cậy Ngài để ăn ở thánh khiết như Ngài. Vậy chúng ta hãy khao khát một đời sống thánh khiết đến nỗi sẵn

Page 79: Nhu LieuTruong Chua Nhat

79

sàng phục tùng Ngài trọn vẹn, hầu cho chính Đức Chúa Trời hành động trong chúng ta, để ai nấy vừa muốn vừa làm điều đẹp ý Ngài (Phi-líp 2: 13). Có người hỏi một tín đồ: Tại sao anh không hút thuốc lá, không xem hát, không đánh bạc và làm một số điều khác, mặc dầu Kinh thánh không cấm? Tín đồ đáp: Tôi không làm những điều đó chẳng phải tại Kinh thánh cấm hay không, song tôi muốn ăn ở giống như Chúa Giê-xu yêu dấu của tôi. CÂU HỎI. 1. Chúa Giê-xu là ai? 2. Cuộc đời của Ngài là toàn hảo có nghĩa gì? 3. Sự giảng dạy của Ngài là toàn hảo có nghĩa gì? 4. Mọi hành động của Ngài là toàn hảo có nghĩa gì? 5. Kể ra vài trường hợp mà Chúa hành động như vừa là con người vừa là Con ĐCT? 6. Cuộc đời toàn hảo của Chúa Giê-xu có tương quan gì với chúng ta? 7. Làm sao để chúng ta có một cuộc đời thánh khiết và công nghĩa như Ngài? 8. Chúng ta xưng mình là con cái Chúa thì chúng ta muốn giống ai?

Page 80: Nhu LieuTruong Chua Nhat

80

BÀI SỒ 19

Giê-Xu Christ Là Cứu Chúa Bị Chối Bỏ KINH THÁNH: Mác 15: 21-41. Câu gốc: "Người đã bị người ta khinh dể và chán bỏ, từng trải sự buồn bực, biết sự đau ốm, bị khinh như kẻ mà người ta che mặt chẳng thèm xem; chúng ta cũng chẳng coi người ra gì" Ê-sai 53: 3. Mục đích: Cho chúng ta thấy rằng Giê-xu Christ mà người ta chối bỏ, đã chịu chết cho chúng ta được sống. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chủ nhật: Ngài yên lặng khi bị lên án Thi thiên 38: 13; Ê-sai 53: 7 Ma-thi-ơ 26: 43; 27: 12-14. Thứ Hai: Ngài chịu khổ vì người khác Ê-sai 53: 12; Ma-thi-ơ 8: 7. Thứ Ba: Ngài chịu khổ vì tội nhân Ê-sai 53: 12; I Cô-rinh-tô 15: 3. Thứ Tư: Ngài chịu chết chung với kẻ cướp Ê-sai 53: 9-12; Ma-thi-ơ 27: 38. Thứ Năm: Tay chân Ngài bị đâm Thi thiên 22: 16; Xa 12: 10 Giăng 20: 27. Thứ Sáu: Ngài bị sỉ nhục Thi thiên 22: 6-8 Mác 15: 29-30; Ma-thi-ơ 27: 39. Thứ Bảy: Chúng cho Ngài uống dấm Thi thiên 69: 21 Ma-thi-ơ 27: 34- 48; Giăng 19: 29. Chúa Giê-xu giáng sinh là một điều kỳ diệu không tiền hoán hậu. Hơn nữa, Ngài đã sống cuộc đời hoàn toàn thánh thiện, nêu gương cao quí cho muôn đời soi chung. Dầu vậy, Ngài giáng sinh không phải để sống lâu như người đời, mà để chết đền tội cho nhân loại. Điều nầy không phải là việc ngẫu nhiên, song nằm trong chương trình của Đức Chúa Trời đã hoạch định từ buổi sáng thế (Khải huyền 13: 8). Khi bắt đầu chức vụ, Chúa Giê-xu đã nhiều lần, trong nhiều trường hợp khác nhau phán rằng Ngài sẽ chịu khốn khổ, chịu chết và đến ngày thứ ba sẽ sống lại (Ma-thi-ơ 12: 39-40; 16: 21; 17: 22-23; 20: 17-19; 21: 33-39 v.v...) Xin hãy đọc đối chiếu LỜI TIÊN TRI với sự ứng nghiệm để thấy rõ Giê-xu là Cứu Chúa bị chối bỏ. Mọi sự đã được mô tả theo sự biết trước của Đức Chúa Trời.

Page 81: Nhu LieuTruong Chua Nhat

81

I. Tình Trạng Của Loài Người. Đọc 3 đoạn đầu của thơ Rô-ma, chúng ta thấy Phao-lô mô tả tình trạng tuyệt vọng của con người: Các dân ngoại ban đều đã phạm tội (1: 18-32). Dân Do Thái cũng phạm tội (2: 1-3: 8). 3. Cả thế gian đều phạm tội (3: 9-20). Người Do thái có luật pháp cũng phạm tội như người ngoại bang không có luật pháp mà chỉ có lương tâm. Văn minh như người Hy-lạp cũng phạm tội như người dã man. Tự do như người La-mã cũng phạm tội như người nô lệ. Dân tộc nào cũng có tôn giáo, song chính tôn giáo của họ bày tỏ sự hư hỏng của lòng họ. Vì họ thờ hình tượng của loài người hoặc của điểu thú, côn trùng, cách ăn ở của họ rất bại hoại, vì trong họ có đầy dẫy những sự xấu xa gian ác. Họng như huyệt mả mở ra, môi có nọc độc rắn hổ mang, miệng đầy những lời nguyền rủa và cay đắng, chân lanh lẹ làm đổ máu. Họ chẳng có tìm kiếm Chúa, chẳng tôn thờ Chúa, chẳng cảm tạ Chúa, chẳng kính sợ Chúa. Vì vậy, cả thiên hạ đều phạm tội trước mặt Ngài, chúng ta hết thảy đều ở trong số đó. Chẳng có phân biệt chi hết, vì mọi người đều đã phạm tội.

II. Phương Cách Cứu Rỗi Của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời nổi thạnh nộ khi loài người phạm tội (Rô-ma 1: 18), song đồng thời Ngài rất thương yêu, muốn cho họ được cứu rỗi. Vì vậy, từ buổi sáng thế Ngài đã có phương cách, và Chúa Giê-xu, Con Độc sanh của Ngài đã thi hành phương lược ấy. Thật là kỳ diệu! Loài người đáng ghét, Chúa lại yêu; đáng bỏ, Chúa lại tìm; đáng phạt, Chúa lại cứu; đáng nghịch, Chúa lại hòa. Tình yêu của Chúa không thể đo lường, không lời mô tả, cao hơn trời, sâu hơn biển, dài rộng hơn cả không gian và thời gian, và vô tận, đời đời. Làm sao chúng ta thấu hiểu Đấng vinh hiển ở nơi cao tột, lại xuống nơi đê hèn cùng tột, Đấng vô hạn lại mặc lấy hình người hữu hạn, Đấng chí thánh lại mang lấy mọi tội lỗi của chúng ta, Đấng hằng sống lại phải chết và chết cách khổ nhục trên thập tự giá. Kinh thánh chép "Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban con một của Ngài..." (Giăng 3: 16). Chúa Giê-xu phán "Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống của mình" (Giăng 15: 13). Phao-lô mô tả rằng chết vì người nghĩa hoặc người lành cũng là việc hi hữu, nhưng Chúa Giê-xu lại chết vì tội nhân, chết vì kẻ thù (Rô-ma 5: 6-8). Chỉ có Chúa làm việc đó với tình thương kỳ diệu của Ngài. Chúng ta hãy sấp mặt cúi đầu, tuôn đổ lòng mình ra mà cảm tạ, tôn thờ Chúa Ba Ngôi.

Page 82: Nhu LieuTruong Chua Nhat

82

III. Sự Hy Sinh Của Chúa Giê-Xu: (Mác 15: 21-41). Giê-xu là Đấng từ trời giáng thế, thánh khiết, quyền năng. Một lời phán của Ngài đủ khiến cho mọi phong ba, bão tố im lặng như tờ, một lời phán của Ngài đủ khiến cho mọi bệnh tật nào cũng được lành, một lời phán của Ngài đủ khiến cho kẻ chết sống lại, một lời phán của Ngài đủ khiến cho ma quỉ run rẩy và lui ngay, một lời phán của Ngài sẽ có hơn 12 đạo thiên sứ đến hầu việc Ngài (Ma-thi-ơ 26: 53). Thế mà Ngài tình nguyện cho những con người yếu đuối như vậy trói Ngài rồi đóng đinh Ngài trên thập tự giá. Đến nỗi, họ cho Ngài uống rượu hòa với mộc dược, song Ngài không uống. Những người sắp bị đóng đinh, người ta thường cho uống như vậy để say sưa, đê mê, hầu cho đỡ đau đớn (Châm ngôn 31: 6-7). Song Chúa Giê-xu vì nhân loại, tình nguyện uống cạn chén thạnh nộ của Đức Chúa Trời mà không muốn được giảm bớt một phần nào trong sự cay đắng của nó. Họ đóng đinh Ngài giữa hai tên trộm cướp là có ý nhục mạ Ngài, liệt Ngài vào hạng rác rến của xã hội. Song không ngờ, họ đã cho Ngài cơ hội cứu được một trong hai tên trộm cướp đó (Lu-ca 23: 41-43). Họ chế giễu Ngài là đã cứu kẻ khác mà không cứu được mình. Họ thách đố Ngài xuống khỏi thập tự giá để họ tin. Họ tưởng rằng những mũi đinh to sẽ giữ Ngài trên thập tự giá và quyền lực của cường quốc La-mã không bao giờ xuống khỏi đó. Song họ không biết rằng dầu có muôn vàn mũi đinh to, dầu tất cả quyền lực trên thế gian hiệp lại cũng không giữ Chúa trên thập tự giá, mà chỉ có tình thương của Ngài đối với nhân loại buộc chặt Ngài tại đó mà thôi. Nếu Ngài không tình nguyện chịu chết như vậy, toàn thể nhân loại sẽ tuyệt vọng đời đời. Trên thập tự giá, Chúa Giê-xu đã kêu lên lên một tiếng thê thảm "Đức Chúa Trời tôi ơi, Đức Chúa Trời tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi?" Tiếng ấy vang lên từ một linh hồn đã bị Đức Chúa Trời bỏ rơi trong cảnh cô đơn, bị dứt phép thông công, bị ném ra khỏi thiên đàng. Trước đó Chúa Giê-xu đã từng phán "Đấng đã sai ta đến vẫn ở cùng ta chẳng để ta ở một mình, vì ta hằng làm sự đẹp lòng Ngài" (Giăng 8: 29). Đó là niềm an ủi vô biên của Ngài. Song khi chịu chết trên thập tự giá thì "Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta" (II Cô-rinh-tô 5: 21), nên Ngài bị Đức Chúa Trời từ bỏ. Đức Chúa Trời là ánh sáng, là sự sống, là tình thương, là mọi sự, nên khi bị Đức Chúa Trời từ bỏ là khốn nạn vô cùng. Đó là Chúa Giê-Xu đã nếm mùi địa ngục vì chúng ta. Anh trộm cướp bên cạnh Chúa Giê-xu còn được an ủi, nên nói rằng "Hình ta chịu xứng với việc ta làm", song Ngài không được an ủi như vậy vì Ngài hoàn toàn vô tội. Sự đau đớn của xác thể không nguy hiểm bằng sự đau đớn của tâm hồn. Khi anh trộm cướp chỉ đau đớn xác thể, nên họ chưa chết khi Chúa Giê-xu đã chết. Còn Ngài không những đau đớn trong xác thể mà nhất là đau đớn trong tâm hồn, vì bị Đức Chúa Trời lìa bỏ, đã làm cho trái tim của Ngài vỡ tan, nên Ngài đã trút linh hồn (Giăng 19: 34). Sự đau đớn đó, chúng ta không bao giờ hiểu thấu. Nó cho chúng ta biết một điều là tội lỗi của chúng ta nhiều quá, sự hình phạt của chúng ta nặng quá, song Chúa đã tình nguyện chết để cứu chúng ta.

Page 83: Nhu LieuTruong Chua Nhat

83

Cảm tạ Chúa, dầu bao nhiêu người đã chạy trốn, vẫn có các bà đứng đó nhìn mọi diễn tiến. Nếu bây giờ, người chung quanh có hỏi: Các bà không thẹn mà theo một cứu Chúa bị đóng đinh sao? Các bà không sợ khi người ta biết các bà cũng là môn đồ của Giê-xu sao?- Chắc các bà sẽ đáp: Các ông không cần hỏi, thấy chúng tôi đứng đây là đủ biết rồi! Dân Do thái đã chối bỏ Cứu Chúa Giê-xu, vì ngoan cố và vô tín. Xưa nay vẫn có người chối bỏ Ngài vì hổ thẹn và sợ hãi. Các bạn có chối bỏ Ngài không? thiết tưởng trước tình thương kỳ diệu của Chúa chúng ta phải nói rằng "Dầu trời long đất lở, chúng tôi chẳng chối bỏ Ngài". (Rô-ma 8: 35-39). CÂU HỎI 1. Chúa Giê-xu giáng sinh, chịu chết và sống lại có phải là việc tình cờ xảy ra không? Tại sao chúng ta biết được? 2. Tình trạng của loài người xưa nay thế nào? 3. Làm sao chúng ta biết người Do thái với người ngoại bang, người văn minh với người dã man, người tự chủ với người nô lệ đều giống nhau? (Rô-ma 3: 21). 4. Phương cách cứu rỗi của Đức Chúa Trời là gì? 5. Động cơ nào khiến Chúa phải làm việc đó? 6. Làm sao chúng ta biết Chúa Giê-xu tình nguyện chịu chết? 7. Tại sao Chúa không chịu uống rượu hòa với mộc dược? 8. Tại sao người ta đóng đinh Chúa giữa hai tên trộm cướp? 9. Sức mạnh nào đã giữ Chúa trên thập tự giá? 10. Trên thập tự giá Chúa kêu "Đức Chúa Trời tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi" có nghĩa gì? Tại sao trái tim của Chúa phải vỡ ra và Ngài chết trước hai tên trộm cướp? Cứ đứng dưới chân thập tự giá của Chúa, các bà nói gì?

Page 84: Nhu LieuTruong Chua Nhat

84

BÀI SỐ 20

Phép Lạ Ở Gô-Gô-Tha KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 27: 45- 54. Câu gốc: "Thầy đội và những lính cùng với người canh giữ Đức Chúa Giê-xu, thấy đất rúng động và những đều xảy đến, thì sợ hãi mà nói rằng: thật người nầy là Con Đức Chúa Trời." Ma-thi-ơ 27: 54. Mục đích: Cho chúng ta thấy rằng những phép lạ nầy đã xảy ra khi Chúa Giê-xu chịu chết để chứng tỏ Ngài là Con Đức Chúa Trời. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chủ Nhật: Sự tối tăm. Ma-thi-ơ 27: 45-50; Mác 15: 33-37 Thứ Hai: Bức màn bị xé. Ma-thi-ơ 27: 51; Hê-bơ-rơ 9: 1-8; 10: 19-22 Thứ Ba: Cơn động đất. Ma-thi-ơ 27: 51-54 Thứ Tư: Phần mộ mở ra. Ma-thi-ơ. 27: 52-53 Thứ Năm: Các thánh sống lại. Ma-thi-ơ. 27: 52-52 Thứ Sáu: Chuyện thập tự giá. Giăng 19: 16-37 Thứ Bảy: Phép lạ của tình thương. Giăng 3: 13-17; I Giăng 4: 7-12 Sự giáng sinh của Chúa Giê-xu không giống ai, sự chết của Ngài cũng khác hẳn mọi người. Đời sống của Ngài là tuyệt đẹp, không có ai sánh kịp. Thập tự giá là một hình cụ nhục nhã, gớm ghê, song khi Chúa Giê-Xu chết trên đó, Ngài đã biến nó thành một biểu tượng vinh hiển mà chúng ta đã thấy trên các cơ quan từ thiện như bệnh viện hội Hồng thập tự. Thập tự giá đau thương mà Chúa đã chịu trở thành nguồn phước cho tội nhân. Dầu Chúa chết giữa hai tên trộm cướp, song sự chết của Ngài cũng như sự giáng sinh của Ngài có nhiều phép lạ cặp theo. Các phép lạ đó là các chứng nhân nói lên Giê-xu là Con Đức Chúa Trời, bình đẳng với Đức Chúa Trời. Có 3 phép lạ kể ra sau đây:

I. Sự Tối Tăm Bao Phủ Cả Xứ (Ma-thi-ơ 27: 45). Sau khi Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên thập tự giá 3 tiếng đồng hồ, thì cả xứ đều tối tăm suốt 3 tiếng nữa, tức là từ 12 giờ trưa đến 3 giờ chiều. Hiện tượng nầy không phải là nhật thực vì nhật thực chỉ kéo dài 7 phút thôi. Hơn nữa, Chúa chịu đóng đinh nhằm ngày lễ Vượt Qua và lễ ấy cử hành lúc trăng tròn, nên không thể nào trong một ngày

Page 85: Nhu LieuTruong Chua Nhat

85

trăng tròn lại có nhật thực được. Đang giữa trưa của một ngày mùa hạ, mặt trời chiếu sáng, thình lình sự tối tăm bao trùm che khuất mặt trời. Đó là việc chỉ một mình Đức Chúa Trời làm được. Khi Chúa Giê-xu thi hành chức vụ, người Do thái cứ đòi Ngài cho họ xem một dấu lạ từ trời, để họ tin Ngài là Đấng Mê-si của họ và là Cứu Chúa của thế gian (Ma-thi-ơ 16: 1; Lu-ca 11: 16). Bây giờ, trên thập tự giá, Ngài cho họ xem một dấu lạ từ trời: Sự tối tăm. Trước thảm kịch Con Đức Chúa Trời chịu chết vì tội nhân, muôn vật mặc một màu tang, trong im lặng u buồn. Trước thảm kịch đó, muôn vật cuối đầu che mặt lại không mặt nào dám nhìn. Trong dòng lịch sử nhân loại từ đầu chí cuối, không có sự chết của ai đáng ghi nhớ và được cảm động bằng sự chết của Chúa Giê-xu. Bức màn đen đã phủ trên đồi Gô-gô-tha và cả xứ Do thái để biểu hiện tội lỗi và tình trạng tuyệt vọng của nhân loại. Thiết tưởng 3 tiếng đồng hồ đó là thời gian thê lương, ảm đạm nhất xưa nay. Dân Do thái và chính quyền La-mã đã làm một việc mà kết quả của nó là trời đất tối tăm và muôn vật âu sầu. Song đâu phải chỉ có dân Do thái và chính quyền La-mã đóng đinh Chúa Giê-xu, mà toàn thể nhân loại đã đóng đinh Ngài. Nếu chúng ta không phạm tội, nếu không vì yêu chúng ta, đâu có cảnh Chúa Giê-xu chết trên thập tự giá. Đó vừa là một thảm kịch, vừa là một phép lạ chứng minh Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời.

II. Bức Màn Trong Đền Thờ Bị Xé Làm Hai (Ma-thi-ơ 27: 50-51). Trong đền tạm tại đồng vắng cũng như trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, thì giữa nơi thánh và nơi chí thánh có một bức màn từ trên phủ xuống, phân rẽ hai nơi. Không ai được phép vào nơi chí thánh, chỉ thầy tế lễ mỗi năm được vào đó một lần với chậu huyết trong tay để làm lễ chuộc tội, rồi trở ra (Xuất Ê-díp-tô ký 26: 31-35; 30-10; Hê-bơ-rơ 9: 1-27). Vì nơi chí thánh là Ngôi của Đức Chúa Trời. Dân sự chỉ được đến hành lang, thầy tế lễ chỉ được đến nơi thánh. Song không ai được phép để vượt qua bức màn để vào nơi chí thánh, trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Nếu ai làm vậy sẽ ngã chết lập tức. Trường hợp đó cũng như ngày nay có những chỗ mà chúng ta thấy tấm bảng với hai chữ cấm vào. Trải qua các đời, nhân loại biết có Đức Chúa Trời, song Ngài ở xa quá. "Vãn hỏi kêu chẳng thấu trời". Nhưng thật ra Ngài không ở xa chỉ vì tội lỗi của chúng ta đã làm xa cách chúng ta với Ngài và che khuất mặt Ngài khỏi chúng ta (Ê-sai 59: 1-2). Dân Y-sơ-ra-ên khao khát đến gần Ngài nhưng không thể nào đến được, vì không ai có thể cất bức màn ấy đi. Mãi đến khi Chúa Giê-xu chết trên thập tự giá, lúc Ngài kêu lên một tiếng lớn "Mọi sự đã trọn" (Giăng 19: 30), rồi trút linh hồn thì bức màn trong đền thờ tức thì bị xé

Page 86: Nhu LieuTruong Chua Nhat

86

làm hai, từ trên chí dưới. Đây là chính tay Đức Chúa Trời đặt vào nên bức màn mới bị xé từ trên chí dưới. Khi xé bức màn đó, Đức Chúa Trời công khai tuyên bố với toàn thể nhân loại là sự cứu chuộc đã hoàn thành, con đường vào nơi chí thánh đã mở toang, tội nhân được tự do trực tiếp đến gần Ngài, nhờ sự chết chuộc tội của Chúa Giê-xu trên thập tự giá. Kể từ đó tấm bảng "cấm vào" bị cất đi và thay vào đó tấm bảng "mời vào" (Hê-bơ-rơ 10: 19-22). Vì vậy, chính Chúa Giê-xu đã phán trước "Ta là đường đi, ... chẳng bởi ta, không ai được đến cùng Cha" (Giăng 14: 6). Bức màn bị xé là một phép lạ lớn lao chứng minh sự chết của Chúa Giê-xu có hiệu lực mở một con đường từ hành lang vào nơi chí thánh tức là từ đất lên trời. Ngài thật là Con Đức Chúa Trời, Cứu Chúa của nhân loại.

III. Đất Rúng Động Và Mồ Mã Mở Ra (Ma-thi-ơ 27: 51-54). 1. Đất rúng động: Đây không phải là một cơn động đất như thường có song nó chỉ xảy ra trong phạm vi đồi Gô-gô-tha để chứng minh sự chết của Chúa Giê-xu là sự chết của Đấng Cứu Thế. 2. Mồ mả mở ra: Phần mộ của các người Do Thái ở trong các vầng đá, nên khi đất rúng động thì làm các vầng đá bể ra, phần mộ cũng đồng thời được mở và thi hài của các thánh đồ sống lại. Việc nầy cũng chỉ xảy ra trong phạm vi đồi Gô-gô-tha, tương quan đến nghĩa trang gần đó. Các thánh đồ không ra khỏi phần mộ cho đến khi Chúa Giê-xu sống lại vào ngày thứ ba. Họ có hiện ra cho nhiều người tại Giê-ru-sa-lem cũng thấy. Họ không sống lại như Chúa Giê-xu, song sống lại như La-xa-rơ. Việc đó nói lên sự chết của Chúa Giê-xu có một quyền lực vô cùng mạnh mẽ đã phá tan sự chết, đem sự sống cho kẻ chết, báo trước sự sống lại của tín đồ trong ngày tái lâm. Một loạt phép lạ đã liên tiếp xảy ra đánh mạnh vào mắt, vào tai, vào trí, vào lòng của người Do Thái ngoan cố, vô tín, nói cho họ nghe, chỉ cho họ thấy, dạy cho họ biết Giê-xu không phải là con người lộng ngôn, không phải là tay gian ác như họ đã vu khống mà là Đức Chúa Trời, Đấng Cứu Thế có một không hai. Qua các phép lạ đó, thầy đội La-mã cũng hoảng hốt kêu lên " Thật, người nầy là Con Đức Chúa Trời". Cả dân chúng đã thấy nông nỗi làm vậy đều đấm ngực mà trở về (Lu-ca 23: 48). Nếu Đấng Christ là Con Đức Chúa Trời thì sự chết của Ngài là "Đấng Christ đã theo kỳ hạn chịu chết vì kẻ có tội... là Đấng Christ vì chúng ta chịu chết" (Rô-ma 5: 6-8) "Ngài là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi" (Ga-la-ti 2: 20). Chúa chết để đem chúng ta ra khỏi nơi tội lỗi, tối tăm, tuyệt vọng đến nơi sáng lạ lùng. Chúa chết để mở một con đường vào nơi chí thánh, đem chúng ta đến gần Đức Chúa Trời, trước ngôi thi ân, Chúa chết để phá tan quyền lực của tử thần, đem chúng ta qua sự sống và sự sống đời đời.

Page 87: Nhu LieuTruong Chua Nhat

87

"Nên chúng ta hãy lấy lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong mà đến gần Chúa" để tôn thờ, cảm tạ, ca ngợi và phục vụ Ngài. CÂU HỎI 1. Bằng cớ nào cho chúng ta biết sự chết của Chúa Giê-xu không phải là sự thất bại, nhục nhã? 2. Chúa Giê-xu chết có cặp theo các phép lạ nào? 3. Mọi phép lạ đó có công dụng để chứng minh việc gì? 4. Cả xứ đều tối tăm có ý nghĩa gì? 5. Bức màn bị xé có ý nghĩa gì? 6. Đất rúng động, mồ mả mở ra có ý nghĩa gì? 7. Trước các phép lạ đó, thầy đội La-mã đã nói gì? 8. Trước các phép lạ đó, dân chúng đã làm gì? 9. Bây giờ, trước các phép lạ đó chúng ta phải nói gì và làm gì? 10. Đối với các bạn, Chúa Giê-xu là ai? Tại sao Ngài phải chịu chết?

Page 88: Nhu LieuTruong Chua Nhat

88

BÀI SỐ 21

Sự Sống Lại Của Chúa Giê-Xu Christ KINH THÁNH: I Cô-rinh-tô 15: 1-58 Câu Gốc: "Vậy nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Giê-xu ra và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu" Rô-ma 10: 9. Mục đích: Cho chúng ta thấy rằng sự sống lại của Chúa Giê-xu là nền tảng của đức tin Cơ-đốc-nhân. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chúa-Nhật: Lời chứng về sự sống lại I Cô-rinh-tô 15: 1-11 Thứ Hai: Tầm quan trọng của sự sống lại I Cô-rinh-tô 15: 12-20 Thứ Ba: Phương cách sống lại I Cô-rinh-tô 15: 35-50 Thứ Tư: Chiến thắng sự chết I Cô-rinh-tô 15: 51-58 Thứ Năm: Hy vọng của Cơ-đốc-nhân Rô-ma 8: 10-18 Thứ Sáu: Giê-xu Christ sống lại Giăng 20: 1-18 Thứ Bảy: Một thân thể thuộc linh Giăng 20: 19-29 Sự sống lại của Chúa Giê-xu cũng như sự giáng sinh và sự chết của Ngài đều là những sự kiện lịch sử, không ai chối cải được. Đó là những lẽ thật trọng đại làm nền tảng cho đức tin của chúng ta. Cứu Chúa của chúng ta vốn có từ trước vô cùng, tự hữu, hằng hữu (Mi-chê 5: 1; Giăng 1: 1-3; 8: 58; Cô-lô-se 1: 17). Ngài đã hóa thân làm người tại trần gian 33 năm, Ngài đã tình nguyện chịu chết vì nhân loại trên thập-tự-giá và Ngài đã sống lại khỏi phần mộ. Thế là Ngài đắc thắng tội lỗi, ma-quỉ, thế gian, sự chết. Không còn một kẻ thù nào đứng nổi trước mặt Ngài. Đó là niềm quan lạc của chúng ta. Có một nhà thông thái kia muốn lập một tôn giáo để cứu nhân độ thế. Ông đã viết một bộ sách rất lớn, rất đầy đủ giáo lý, tín điều, rồi gởi đến các bằng hữu, cũng thuộc hạng thông thái để nhờ họ xem và phê phán. Sau một thời gian chờ đợi, kết quả hầu hết bằng hữu của ông đều hoan nghinh nhiệt liệt về tinh thần và khả năng của ông với hy vọng ông sẽ thành công và họ cũng sẵn sàng cộng tác với ông nữa. Song chỉ có một người yêu cầu được gặp ông để đặt vài câu hỏi mà nếu ông giải đáp thỏa đáng thì người cũng hoan nghinh và cộng tác như các bạn khác. Thế là hai nhà thông thái đã gặp nhau, và các câu hỏi được đặt ra như sau:

Page 89: Nhu LieuTruong Chua Nhat

89

1. Nếu anh đã lập một tôn giáo, và trong vòng các tín đồ của anh có người nghèo khó, anh có vui lòng chia cơm xẻ áo cho họ không? Đáp: Tôi xin vui lòng. 2. Nếu trong vòng tín đồ của anh có người phạm pháp phải ngồi tù, anh có vui lòng ngồi tù thay cho người đó không? Đáp: Tôi xin vui lòng. 3. Nếu trong vòng tín đồ của anh có người phạm pháp phải bị án tử hình, anh có vui lòng chết thay cho người đó không? Sau một hồi suy nghĩ, ông cũng đáp: Tôi xin vui lòng. 4. Nếu anh đã chết, thì có thể sống lại được không? Không cần suy nghĩ, ông đáp ngay: Rất tiếc, không được. Người bạn nói: Nếu anh không thể sống lại, tôi xin anh đừng lập tôn giáo, vì anh đã chết thì tôn giáo của anh cũng là tôn giáo chết và tôn giáo chết không cứu ai được. Ha-lê-lu-gia! Chúa Giê-xu Christ đã sống lại!

I. Ban Đầu Các Môn Đồ Buồn Bã. Dầu Chúa đã nhiều lần nhiều cách tuyên bố trước các môn đồ và dân chúng rằng Ngài sẽ chịu đóng đinh trên thập-tự-giá, rồi đến ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Song đó là một phép lạ vĩ đại, xưa nay chưa từng có, nên không những dân chúng mà đến các môn đồ, họ cũng không tin (Mác 16: 11-13; Lu-ca 24: 11-21; Ma-thi-ơ 27: 63). Những kẻ theo Ngài đã chứng kiến cảnh Ngài bị đòn vọt, bị đóng đinh, bị giáo đâm, thi hài của Ngài được khâm liệm và được đặt trong thạch mộ, thì họ hoàn toàn thất vọng. Đến ngày thứ ba, đứng trước mộ trống, Ma-ri Ma-đơ-len khóc sướt mướt vì tưởng có ai đã trộm thi hài của Chúa mình đi rồi. Phi-e-rơ và Giăng nghe báo tin mộ trống, không biết thi hài của Chúa ở đâu nên cũng vội vàng đến xem, nhưng không tin Ngài đã sống lại.

II. Kế Đó Các Môn Đồ Ngạc Nhiên. Sau khi sống lại, Chúa Giê-xu đã hiện ra với các môn đồ nhiều lần, nhiều cách suốt 40 ngày: 1. Ngài đã hiện ra với Ma-ri Ma-đơ-len. Bà đi thuật lại cho các môn đồ rằng mình đã thấy Chúa và Ngài đã phán cùng bà (Giăng 20: 11-18). 2. Ngài đã hiện ra với hai bà khác. Họ rất vui mừng ôm chân Ngài, thờ lạy Ngài, rồi chạy báo tin cho các môn đồ, hãy qua Ga-li-lê để gặp Ngài tại đó (Ma-thi-ơ 28: 8-10).

Page 90: Nhu LieuTruong Chua Nhat

90

3. Ngài đã hiện ra với hai môn đồ đi về làng Em-ma-út mà giải thích cho các lời tiên tri trong kinh-thánh có tương quan đến Ngài. Khi biết Chúa thật đã sống lại, họ trở lại Giê-ru-sa-lem để thuật cho các môn đồ biết (Lu-ca 24: 13-35). 4. Ngài hiện ra với các môn đồ khi họ họp nhau trong một nhà, lần này vắng mặt Thô-ma. Ngài đưa tay, chân và sườn cho họ xem. Biết Chúa thật đã sống lại, ai nấy vui mừng trong ngạc nhiên (Lu-ca 24: 36-43; Giăng 20: 19-23). 5. Ngài hiện ra với các môn đồ có cả Thô-ma. Sau khi gặp Chúa, các môn đồ thuật lại cho Thô-ma, song ông không tin nên một tuần lễ sau, Chúa hiện ra với môn đồ có cả Thô-ma. Bấy giờ Thô-ma đã phủ phục dưới chân Chúa, thưa rằng: "Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi" (Giăng 20: 24,-29). 6- Ngài đã hiện ra với Phi-e-rơ, chúng ta không thấy ghi rõ trong trường hợp nào (Lu-ca 24: 34, I Cô-rinh-tô 15: 5). 7. Ngài đã hiện ra với các môn đồ khi họ đánh cá trên bờ biển Ga-li-lê Chúa đã ăn uống và trò chuyện với họ cách thân mật và lâu dài (Giăng 21: 1-25). 8. Ngài đã hiện ra với các môn đồ trên một hòn núi tại Ga-li-lê và truyền mạng lịnh cuối cùng cho họ (Ma-thi-ơ 28: 16-20; Mác 16: 14-18) - Chắc lần nầy cũng có mặt 500 người khác (I Cô-rinh-tô 15: 6). 9. Ngài đã hiện ra với các môn đồ lần cuối cùng tại Giê-ru-sa-lem và phán dạy họ (Lu-ca 24: 44-49). 10. Ngài đã hiện ra cho Gia-cơ (I Cô-rinh-tô 15: 7). 11. Ngài đã hiện ra với các môn đồ trên núi Ô-li-ve và thăng thiên (Lu-ca 24: 50-53; Mác 16: 19; Công vụ các sứ đồ 1: 9-11). 12. Ngài đã hiện ra với Phao-lô trên con đường đi đến Đa-mách (Công vụ các sứ đồ 9: 3-6; I Cô-rinh-tô 15: 8). Qua những lần Chúa hiện ra như vậy, Ngài đã thay đổi thái độ của các môn đồ, từ buồn bã đến ngạc nhiên rồi vui mừng lắm.

III. Cuối Cùng Các Môn Đồ Tin Quyết Và Can Đảm. Họ không còn thất vọng nên không còn buồn bã mà vui mừng; họ không còn nghi ngờ, nên không còn sợ hãi mà tin quyết và can đảm. Họ không còn khoanh tay bó gối ngồi trong phòng và đóng cửa kín mít, song đã đứng dậy, mở cửa ra đem Tin lành cho mọi người khắp mọi nơi (Công vụ các sứ đồ 1: 8).

Page 91: Nhu LieuTruong Chua Nhat

91

Lời làm chứng của các môn đồ luôn luôn nhấn mạnh về sự sống lại của Chúa Giê-xu, vì đó là sự kiện hùng hồn nhất nói lên Ngài là Con Đức Chúa Trời, Cứu Chúa của nhân loại, đồng thời lên án dân Y-sơ-ra-ên và chính quyền La-mã đã đóng đinh Ngài trên thập tự giá là đã phạm tội rất nặng mà họ cần phải ăn năn (Công vụ các sứ đồ 2: 32-36; 3: 14-15; 4: 10; 5: 30; 10: 40). Làm chứng như vậy , họ bị bắt bớ đủ cách: đe dọa, cấm đoán, đánh đòn, bỏ tù, ném đá, chém đầu. Song họ đã can đảm nói ra sự thật mà họ đã nghe, đã thấy, đã biết chắc chắn. Kết quả Hội thánh ngày càng tiến bộ. Không những làm chứng và giảng dạy mà khi viết thơ, các sứ đồ cũng đã nhấn mạnh về sự sống lại của Chúa Giê-xu (Rô-ma 1: 3-4; Ê-phê-sô 1: 20; Phi-líp 2: 9-11; Cô-lô-se 3: 1; I Tê-sa-lô-ni-ca 1: 10...) Nhất là trong thơ I Cô-rinh-tô 15: 1-58: 1. Tin lành là Chúa Giê-xu Christ chịu chết vì tội chúng ta, bị chôn, sống lại và hiện ra cho nhiều người (I Cô-rinh-tô 15: 1-11). 2. Chúa Giê-xu Christ sống lại là bằng cớ chắc chắn rằng tội lỗi của chúng ta đã được Đức Chúa Trời tha thứ (I Cô-rinh-tô 15: 12-19). 3. Chúa Giê-xu Christ sống lại là bằng cớ chắc chắn rằng thân thể của tín đồ chết sẽ sống lại và thân thể của tín đồ đang sống sẽ được biến hóa khi Ngài tái lâm (I Cô-rinh-tô 15: 20-27). 4. Chúa Giê-xu Christ sống lại là một sức mạnh thúc đẩy chúng ta hầu việc Ngài một cách dư dật luôn (I Cô-rinh-tô 15: 58). Khi Chúa Giê-xu chưa chịu chết và sống lại, Ngài có một thân thể đói khát, mệt mỏi, cần phải ăn uống và ngủ nghỉ. Sau khi sống lại, Ngài có một thân thể kỳ diệu, không như vậy nữa, thậm chí Ngài cũng không bị các định luật vật lý chi phối, nên cửa đang đóng Ngài đã đi vào, không cần phương tiện nào cả Ngài đã được cất bổng lên trời giữa các đám mây. Nguyện quyền phép sự sống lại của Chúa hành động trong chúng ta cũng như đã hành động trong các môn đồ và sứ đồ, hầu chúng ta cũng có kinh nghiệm diệu kỳ như họ.

Page 92: Nhu LieuTruong Chua Nhat

92

CÂU HỎI 1. Nền tảng của đức tin chúng ta là gì? 2. Tại sao các môn đồ thất vọng khi Chúa chịu chết? 3. Tại sao Chúa phải hiện ra với các môn đồ đến 12 lần? 4. Hãy lần lượt kể ra những trường hợp khác nhau Chúa đã hiện ra với các môn đồ? 5. Bạn thích trường hợp nào hơn hết? 6. Cuối cùng các môn đồ có thái độ nào về sự sống lại của Chúa ? 7. Xin kể lại các diễn tiến trong đời sống của các môn đồ khi chứng kiến sự sống lại của Chúa? 8. Khi làm chứng hoặc viết thư, các môn đồ nhấn mạnh lẽ thật nào? 9. Sự sống lại của Chúa Giê-xu là bằng cớ chắc chắn của những sự gì? 10. Sau khi Chúa Giê-xu sống lại, thân thể của Ngài khác hơn trước thể nào?

Page 93: Nhu LieuTruong Chua Nhat

93

BÀI SỐ 22

Chúa Giê-Xu Christ Thăng Thiên kinh thánh: Hê-bơ-rơ 7: 23-28; 8: 6-13. Câu gốc: "Bởi đó Ngài có thể cứu toàn vẹn những kẻ nhờ Ngài mà đến gần Đức Chúa Trời, vì Ngài hằng sống để cầu thay cho những kẻ ấy." Hê-bơ-rơ 7: 25. Mục đích: Dạy rằng nhờ Chúa Giê-xu Christ đã thăng thiên và Ngài hiện đang sống để cầu thay cho chúng ta, chúng ta có sức mạnh để thi hành sứ mạng mà Ngài đã giao phó. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chúa Nhật: Thầy tế lễ cả của chúng ta Hê-bơ-rơ 9: 1-14 Thứ Hai: Sự hy sinh của Ngài Hê-bơ-rơ 10: 11-25 Thứ Ba: Thầy tế lễ cả của thời xưa Lê-vi-ký 16: 1-34 Thứ Tư: Bức màn bị xé Ma-thi-ơ 27: 45-46 Thứ Năm: Một thầy tế lễ cả toàn hảo Hê-bơ-rơ 7: 11-28 Thứ Sáu: Chúa Giê-xu là Đấng Trung Bảo Ê-phê-sô 2: 13-22 Thứ Bảy: Chỉ có một Đấng Trung Bảo I Ti-mô-thê 2: 1-6; I Giăng 2: 1 Sau khi sống lại, Chúa Giê-xu đã thăng thiên, kế đó Đức Thánh Linh giáng lâm. Nhưng không phải Đức Chúa Giê-xu đã chấm dứt công việc của Ngài đâu mà vẫn còn tiếp tục cho đến nay và cho đến khi Ngài trở lại để đem chúng ta về với Ngài (Giăng 14: 2-3; Công-vụ các sứ đồ 1: 9-11).

I. Chúa Giê-xu Tiếp Tục Công Việc Của Ngài Trên Đất. (Ma-thi-ơ 28: 16-20) Chúa có quyền hành trên trời và dưới đất, Ngài sai các môn đồ đi truyền giảng Tin lành và hứa cùng họ, làm việc với họ luôn cho đến tận thế. Trước khi lên thập tự giá, Chúa hứa ban Đức Thánh Linh đến với các môn đồ "Ta không để các ngươi mồ côi đâu, Ta sẽ đến cùng các ngươi... Nội ngày đó, các ngươi sẽ nhận biết rằng Ta ở trong Cha Ta, các ngươi ở trong Ta và Ta ở trong các ngươi" (Giăng

Page 94: Nhu LieuTruong Chua Nhat

94

14: 18-20). Vậy Chúa vẫn tiếp tục ở với các môn đồ, ở trong các môn đồ, cùng làm việc với họ và làm việc qua họ trong công tác truyền giảng Tin lành cho nhân loại. Chúa Giê-xu đã hiện ra với Phao-lô trên con đường Đa-mách và chinh phục ông trở nên sứ đồ của Ngài (Công vụ các sứ đồ 9: 3-6). Khi Phao-lô truyền giảng cho các dân tộc, đã nhiều lần Ngài hiện ra với ông để ban lịnh, để an ủi (Công vụ các sứ đồ 18: 9-10; 23: 11). Không những trong đời các sứ đồ mà cho đến ngày nay và cho đến cuối cùng, Chúa vẫn ở với chúng ta trong mọi nơi , cộng tác với chúng ta trong mọi việc của Ngài; lúc nào chúng ta cũng thấy sự hiện diện của Ngài, cũng nghe tiếng phán dạy của Ngài. Chúa đi giữa Hội thánh biết công việc của mỗi người nên Ngài khen, Ngài trách, Ngài khuyên, Ngài hứa, Ngài cảnh cáo (Khải huyền đoạn 2 và 3). Chúng ta cảm tạ Chúa vì Ngài đang làm việc Ngài trong Hội thánh.

II. Chúa Giê-xu Làm Việc Của Ngài Trên Trời. (Hê-bơ-rơ 7: 23-28) Chúa Giê-xu là Đấng vô sở bất tại, cùng một lúc Ngài ở với tất cả con cái Ngài trên thế giới mà cũng đồng thời ngự bên hữu Đức Chúa Trời (Công vụ các sứ đồ 7: 55; Hê-bơ-rơ 1: 3; I Phi-e-rơ 3: 22). Tại đó Ngài cầu thay cho chúng ta. Đời xưa, dân Y-sơ-ra-ên được thầy tế lễ cả cầu thay cho họ. Mỗi năm một lần, thầy tế lễ cả được vào nơi chí thánh để làm lễ chuộc tội cho dân chúng. Song khi làm lễ ấy xong, phải ra ngay chứ không được phép ở lại đó. Ngoài ra, thầy tế lễ là người hay chết nên bị thay đổi luôn. Ngày nay, chúng ta có Chúa Giê-xu là một thầy tế lễ cả, có những đặc điểm mà các thầy tế lễ của dân Y-sơ-ra-ên ngày xưa không có: 1. Các thầy tế lễ cả của dân Y-sơ-ra-ên dâng huyết con sinh, còn Chúa Giê-xu dâng chính huyết Ngài một lần đủ cả để làm lễ chuộc tội đời đời cho chúng ta (Hê-bơ-rơ 9: 12). 2. Vì huyết Ngài được dâng lên một lần đủ cả nên sau khi dâng xong, Ngài ngồi bên hữu Đức Chúa Trời, chứ không như thầy tế lễ cả của dân Y-sơ-ra-ên phải đi ra (Hê-bơ-rơ 1: 3). 3. Các thầy tế lễ cả của dân Y-sơ-ra-ên vì sự chết mà phải thay đổi luôn, không giữ được chức vụ lâu dài, còn Chúa Giê-xu sống đời đời, nên Ngài hằng cầu thay cho chúng ta (Hê-bơ-rơ 7: 24-25). 4. Các thầy tế lễ cả của dân Y-sơ-ra-ên chỉ vào nơi chí thánh dưới đất do tay người làm ra, còn Chúa Giê-xu vào nơi chí thánh trên trời do Đức Chúa Trời dựng nên (Hê-bơ-rơ 8: 1-2).

Page 95: Nhu LieuTruong Chua Nhat

95

5. Đang khi các thầy tế lễ cả của dân Y-sơ-ra-ên mỗi năm một lần vào nơi chí thánh, thì bức màn vẫn còn phủ xuống, con đường vào nơi chí thánh chưa được mở, còn khi Chúa Giê-xu vào nơi chí thánh trên trời thì bức màn liền bị xé hai từ trên chí dưới, và con đường đã được mở cho mọi người đến gần Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 27: 50-51). Vậy, thầy tế lễ cả của dân Y-sơ-ra-ên chỉ làm tượng trưng thôi, còn Chúa Giê-xu mới là thầy tế lễ cả thật, có đủ tư cách đem chúng ta đến gần Đức Chúa Trời trong nơi chí thánh trên trời. Vì Ngài đang ngồi tại đó để cầu thay cho chúng ta, nên có lời mời gọi ân cần và tha thiết "Vậy chúng ta hãy vững lòng đến gần nơi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng... Nên chúng ta hãy lấy lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong mà đến gần Chúa" (Hê-bơ-rơ 4: 16; 10: 22). Với chức vụ cầu thay của Chúa Giê-xu bên hữu Đức Chúa Trời, Phao-lô thách đố "Còn ai chống nghịch với chúng ta? Ai kiện chúng ta? Ai lên án chúng ta? Ai phân rẽ chúng ta?" Ông quả quyết rằng: hoạn nạn, khốn cùng, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo, sự chết, sự sống, thiên sứ, kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao, bề sâu hoặc một vật nào đều chẳng có thể phân rẽ, chống nghịch, cáo kiện, lên án chúng ta cả (Rô-ma 8: 31-39)

III. Chúa Giê-xu Làm Việc Của Ngài Trong Chúng Ta (Hê-bơ-rơ 8: 6-13) Ngoài việc ở với chúng ta để cùng làm việc với chúng ta, cầu thay cho chúng ta bên hữu Đức Chúa Trời, Chúa Giê-xu còn làm việc của Ngài trong đời sống chúng ta. Trong giao ước cũ mà Đức Chúa Trời đã lập với dân Y-sơ-ra-ên qua Môi-se khi họ được giải phóng khỏi Ê-díp-tô, thì luật pháp mà Chúa ban cho họ được Ngài viết trên bảng đá, nên dân Y-sơ-ra-ên đã không giữ được(Xuất Ê-díp-tô ký 19: 4-5; 24: 1-8). Vì vậy Đức Chúa Trời đã nhờ miệng tiên tri Giê-rê-mi mà hứa sẽ lập với họ một giao ước mới. Chúa Giê-xu đã thực hiện giao ước đó khi Ngài lập tiệc thánh. Vì vậy, Kinh thánh có hai phần: Cựu Ước và Tân Ước (Giê-rê-mi 31: 31-34). So sánh hai giao ước ấy thì giao ước mới tốt hơn giao ước cũ (Hê-bơ-rơ 8: 6-13). Xin kể các lẽ sau đây: 1. Giao ước cũ được lập bởi Môi-se, giao ước mới được lập bởi Chúa Giê-xu (Lu-ca 22: 20; I Cô-rinh-tô 11: 25). 2. Giao ước cũ được đóng ấn bởi huyết con sinh, giao ước mới được đóng ấn bởi huyết Chúa Giê-xu. 3. Giao ước cũ, luật pháp được viết ra trên bảng đá; giao ước mới, luật pháp được viết trên bảng lòng (Ê-xê-chi-ên 36: 26-27; Hê-bơ-rơ 8: 8-10).

Page 96: Nhu LieuTruong Chua Nhat

96

4. Giao ước cũ dân Y-sơ-ra-ên không giữ được, nên đã bị thay thế bởi giao ước mới. Giá trị của hai giao ước khác nhau, nên ơn phước cũng khác nhau. Bốn phước hạnh của giao ước mới là: 1. Đức Chúa Trời để luật pháp trong trí và ghi tạc vào lòng (Hê-bơ-rơ 8: 10a). Luật pháp bày tỏ bản tính của Đức Chúa Trời, nên được để luật pháp trong trí và ghi tạc vào lòng là làm cho người đó được dự phần vào bản tánh của Chúa, được sự sống của Ngài. Chim bay trên trời, cá lội dưới nước là tại Chúa đã ghi tạc luật của Ngài trong chúng nó. Trái cam ngọt, trái ớt cay cũng như vậy. Đó là lý do dân Y-sơ-ra-ên không giữ được luật pháp, mặc dầu họ rất muốn, còn chúng ta giữ được (II Cô-rinh-tô 3: 3). 2. Được thuộc về Đức Chúa Trời và Ngài thuộc về chúng ta (Hê-bơ-rơ 8: 10b): Nhờ Chúa để luật pháp Ngài vào trí và ghi tạc vào lòng chúng ta mà chúng ta đương nhiên thuộc về Chúa và đồng thời Chúa cũng thuộc về chúng ta. Tất cả các loại máy móc đều được ghi tên của xưởng sản xuất, quyển sách cũng mang tên người chủ. Phao-lô nói rằng ông mang dấu vết của Chúa Giê-xu là nói ông thuộc về Ngài (Ga-la-ti 6: 17). 3. Được biết Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 8: 11): Người được Chúa ghi tạc luật pháp Ngài vào lòng là được thuộc về Đức Chúa Trời, cũng được biết Ngài. Đây không có nghĩa là biết qua loa như biết người hàng xóm mà biết rõ ràng thân mật như cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè. Càng biết Chúa chúng ta càng tin cậy Ngài, càng yêu mến Ngài đến nổi tận hiến đời mình cho Ngài. Môi-se ước ao biết Chúa hơn (Xuất Ê-díp-tô ký 33: 13). Phao-lô cũng ước ao như vậy (Phi-líp 3: 10-11). 4. Được tha tội (Hê-bơ-rơ 8: 12): Được tha tội là phước hạnh cuối cùng song cũng là phước hạnh đầu tiên, là nền tảng cho 3 phước hạnh kia. Nhờ được tha tội mà chúng ta được Chúa ghi tạc luật pháp vào lòng, được thuộc về Chúa, được biết Chúa. Đây là phước hạnh mà Đa-vít đã phải la lên "Phước cho người nào được tha sự vi phạm mình... Phước thay cho người nào được Đức Giê-hô-va không kể gian ác cho" (Thi thiên 32: 1-2) Trên đây là những công việc vĩ đại mà Chúa Giê-xu đã làm, đang làm và sẽ còn làm trong chúng ta. Nguyện chúng ta hưởng được tất cả phước hạnh Chúa dành cho.

Page 97: Nhu LieuTruong Chua Nhat

97

CÂU HỎI 1. Tại sao chúng ta biết dầu Chúa Giê-xu thăng thiên, công việc Ngài chưa chấm dứt? 2. Hiện nay ở trên trời Chúa đang làm gì? 3. Tại sao chúng ta biết Chúa Giê-xu là thầy tế lễ cả của chúng ta cao trọng hơn thầy tế lễ cả của dân Y-sơ-ra-ên? 4. Vì được Chúa Giê-xu ngồi bên hữu Đức Chúa Trời để cầu thay nên Phao-lô thách đố như thế nào? 5. Tại sao giao ước mới tốt hơn giao ước cũ? 6. Được Chúa để luật pháp vào trí và ghi tạc vào lòng có nghĩa gì? 7. Được thuộc về Chúa và Chúa thuộc về mình có nghĩa gì? 8. Chúng ta phải biết Chúa đến mực độ nào? 9. Tại sao được tha tội là phước hạnh lớn nhất?

Page 98: Nhu LieuTruong Chua Nhat

98

BÀI SỐ 23

Đời Sống Mới Thay Cho Đời Sống Cũ KINH THÁNH: Giăng 3: 1-16. Câu gốc: "Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới, những sự cũ đã qua đi, này mọi sự đều trở nên mới." II Cô-rinh-tô 5: 17 Mục đích: Giúp tín hữu tìm hiểu và ham thích lời Chúa để họ có thể trở nên người mới trong Ngài. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chúa Nhật: Bắt đầu cuộc sống mới Giăng 3: 1-16 Thứ Hai: Đời sống mới trong Đấng Christ II Cô-rinh-tô 5: 11-17 Thứ Ba: Đời sống đời đời trong Đấng Christ I Giăng 5: 9-13 Thứ Tư: Tin là cần thiết Giăng 6: 40-47 Thứ Năm: Được sống trong Đấng Christ Ê-phê-sô 2: 1-7 Thứ Sáu: Được sống với Đấng Christ Ga-la-ti 2: 20 Thứ Bảy: ĐCT có thể thay đổi đời sống con người I Cô-rinh-tô 6: 9-11 Những bài học vừa qua cho chúng ta biết Chúa Giê-xu đã hoàn thành công cuộc cứu rỗi. Tin nhận Ngài, không những chúng ta được tha thứ tội lỗi trong quá khứ, mà đồng thời cũng được sanh lại trở nên con cái Đức Chúa Trời để ai nấy có một đời sống mới thay cho đời sống cũ. Mỗi người phải sống theo sự sống mình đang có. Khi chưa tin Chúa chúng ta có sự sống cũ, tức sự sống bại hoại do A-đam lưu truyền. Nhưng từ khi tin Chúa, chúng ta được sinh lại (Giăng 1:12-13), cũng gọi là được dựng nên mới (II Cô-rinh-tô 5: 17). Nhờ đó, chúng ta có một nếp sống ngày càng giống như Chúa chúng ta khi Ngài còn ở tại trần gian. Vậy hôm nay chúng ta học về sự sanh lại.

I. Ý Nghĩa Của Sự Sanh Lại. Chúa Giê-xu đã bảo Ni-cô-đem "Nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời... không được vào nước Đức Chúa Trời. Chớ lấy làm lạ

Page 99: Nhu LieuTruong Chua Nhat

99

về điều ta đã nói với ngươi: Các ngươi phải sanh lại (Giăng 3: 3-7). Ni-cô-đem bối rối hỏi: "Người đã già thì sanh lại làm sao được? Có thể nào trở vào lòng mẹ mà sanh lại lần thứ hai sao?" Sanh lại không phải là trở vào lòng mẹ để được sanh ra lần thứ hai. Đó là việc bất năng và cũng không cần thiết. Nếu có thể trở vào lòng mẹ để sanh ra 10 lần cũng vô ích. Vì "Hễ ai sanh bởi xác thịt là xác thịt". Cha mẹ là xác thịt, sanh con cũng xác thịt thôi. Chúng ta được sanh ra lần thứ nhất bởi cha mẹ, bấy giờ chúng ta phải được sanh ra lần thứ hai bởi Đức Chúa Trời.

II. Cần Thiết Của Sự Sanh Lại. Nếu không được sanh lại bởi Đức Chúa Trời thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời, không thể vào nước Đức Chúa Trời, tức là không được cứu rỗi. Sanh lại không phải là việc có thể có, có thể không mà nhất định phải có, nếu muốn được cứu rỗi. Tại sao? Nếu không được sanh lại bởi Đức Chúa Trời, người đó không thuộc về Ngài, không phải con cái Ngài, nên người đó không tương hợp với nước Ngài và nước Ngài cũng không tương hợp với người đó (Khải huyền 21: 8; 22: 15). Thử đem một người chưa được sanh lại vào nước Đức Chúa Trời như thử đem con chim xuống nước, con cá lên không. Vì vậy, mỗi người cần được sanh lại bởi Đức Chúa Trời để được thuộc về Ngài, trở nên con cái Ngài, dự phần bản tánh Ngài, thừa hưởng cơ nghiệp Ngài. Nếu Ni-cô-đem cần phải được sanh lại, thì không ngoại trừ ai cả, vì ông ấy là người Do thái thuộc về hệ phái Pha-ri-si nổi tiếng là ngoan đạo. Ông cũng là một trong 70 nhân viên tòa công luận, học thức và giàu có. Thế mà ông cũng cần được sanh lại như bất cứ tội nhân nào. Không thể đem việc đi nhà thờ, cầu nguyện, hát thánh ca, dâng tiền, chịu phép báp-têm, dự tiệc thánh thay cho sự sanh lại được. Sự sanh lại là gốc rễ, còn mọi việc trên là bông trái. Nếu bông trái không ra từ gốc rễ thì là bông trái giả, bằng giấy mà thôi! Giu-đa đã theo Chúa ba năm, hành động y như một môn đồ, không ai nghi ngờ chi về ông cả, thậm chí trong đêm cuối cùng, ông cũng dự tiệc với Chúa. Nhưng sau đó, ông hướng dẫn bọn người gian ác đến vườn Ghết-sê-ma-nê bắt Ngài. Giu-đa, có thể dối gạt mọi người, song không thể dối gạt Chúa nên cuối cùng ông đã đi đến nơi của ông (Công vụ các sứ đồ 1: 25). Con cọp ở trong chuồng sắt vẫn là con cọp như lúc nó ở ngoài rừng, con rắn thay da vẫn là con rắn độc dữ. Nếu không được sanh lại bởi Đức Chúa Trời, thì con cái của tín đồ, mục sư, truyền đạo vẫn "dối trá hơn mọi vật và rất là xấu xa" (Giê-rê-mi 17: 9). Thay đổi chỗ ở, thay đổi bộ áo không quan trọng gì, cần phải thay đổi tấm lòng do sự sanh lại. Vậy trừ khi không muốn được cứu rỗi, kỳ dư ai nấy phải được sanh lại.

III. Biểu Hiệu Của Một Người Đã Được Danh Lại. Chúa phán "Gió muốn thổi đi đâu thì thổi, người nghe tiếng động nhưng không biết gió đến từ đâu và cũng không biết đi đâu. Hễ người nào sanh ra bởi Thánh linh cũng như vậy".

Page 100: Nhu LieuTruong Chua Nhat

100

Không ai thấy gió, không ai bắt gió trong tay, song ai cũng biết có gió, vì nghe, vì cảm xúc những hiện tượng từ gió phát ra. Khi không có gió, cát bụi nằm yên, lá cây bất động, mặt biển phẳng lặng, lá cờ rũ xuống, ai nấy cảm thấy nóng bức. Nhưng khi có gió, cát bụi tung lên, lá cây xao động, mặt biển nổi sóng, cờ bay phất phới. Ai nấy cũng đều thấy được các hiện tượng ấy, nghe tiếng vi-vu, cảm xúc mát mẻ... và biết rằng có gió. Một người được sanh lại thì có những hiện tượng do Đức Thánh linh làm ra như gió mà trước kia chưa bao giờ có. Một biến động đã xảy ra từ bên trong đổi mới việc làm, lời nói, tư tưởng, ý chí, mục đích, nguyện vọng của người đó. Người đó sẽ thôi làm điều mình muốn làm mà làm điều Chúa muốn mình làm, chấm dứt cuộc đời tội lỗi mà bắt đầu cuộc đời đạo đức. Hai sứ đồ Giăng và Phi-e-rơ nêu lên 4 hiện tượng như sau: 1. Không phạm tội, không thể cứ phạm tội (I Giăng 3: 9): Người chưa được sanh lại thì thích phạm tội, miệt mài trong tội và xúi giục kẻ khác cùng phạm. Song người đã được sanh lại thì gớm ghiếc tội, chống trả tội, tránh xa tội. Nếu có lỡ lầm vấp phạm thì buồn rầu, đau đớn và hết lòng ăn năn để được Chúa tha thứ, chứ không thể nào phạm tội thêm. 2. Thương yêu anh em mình (I Giăng 3: 14): Người đã được sanh lại là từ cõi chết qua cõi sống, nên có một hiện tượng rõ ràng là thương yêu anh em mình. Tất cả chúng ta là con một cha, anh em một nhà, chi thể của một thân, vui cùng vui, buồn cùng buồn, chia sẻ, an ủi lẫn nhau. Không những thương yêu anh em trong Hội thánh địa phương mình mà cũng thương yêu anh em trong Hội thánh khắp nơi trên thế giới nữa. 3. Thắng hơn thế gian (I Giăng 5: 4): Thế gian gồm có: Mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, kiêu ngạo của đời sống, tức là danh, lợi, quyền và mọi thú vui trần tục. Những điều này rất hấp dẫn đối với người đời, song không là gì đối với những người đã được sanh lại. Người đã được sanh lại từ trên cao, ước ao những gì thuộc về Trời (Cô-lô-se 3: 1-3). 4. Gớm ghiếc tội lỗi, ham thích lời Chúa (I Phi-e-rơ 2: 1-2): Người đã được sanh lại từ bỏ tội lỗi, ham thích Lời Chúa như con trẻ mới đẻ ham thích sữa mẹ vậy. Con trẻ ấy lớn lên và mạnh mẽ một cách dễ thường. Con trẻ mới đẻ không ham thích gì bằng sữa mẹ. Người được sanh lại không ham thích gì bằng lời Chúa.

IV. Bí Quyết Được Sanh Lại (Giăng 3: 14-16). Vậy thì làm sao để được sanh lại? Sanh lại là việc của Đức Chúa Trời, song chúng ta có bổn phận tuân theo hai điều: 1. Nhận mình có tội: Chúng ta cũng như dân Y-sơ-ra-ên, chẳng khác loài rắn độc (Ma-thi-ơ 3: 7; 23: 33) đang bị rủa sả, nhưng Chúa Giê-xu hoàn toàn vô tội đã tình nguyện mang lấy tội lỗi của chúng ta và chịu rủa sả thay cho chúng ta (Ga-la-ti 3: 13).

Page 101: Nhu LieuTruong Chua Nhat

101

Con rắn bị treo trên cây sào là hình ảnh của Chúa Giê-xu bị treo trên thập-tự-giá vì chúng ta (Dân số ký 21: 4-9). 2. Nhận Giê-xu làm cứu Chúa của mình: Bởi tin nhận như vậy, Đức Chúa Trời tha thứ cho chúng ta, ngự vào đời sống chúng ta, tái tạo chúng ta trở nên con cái Ngài, tức là làm cho chúng ta được sanh lại (Giăng 2: 12-13). Khi dân Y-sơ-ra-ên được giải phóng khỏi Ê-díp-tô, qua biển Đỏ, vào đồng vắng, thì họ không còn nước uống. Đến Ma-ra có nước, song đắng quá không thể uống được. Môi-se kêu cầu Chúa, Ngài chỉ cho ông một khúc gỗ, ông lấy liệng xuống nước, nước bèn hóa ra ngọt (Xuất Ê-díp-tô ký 15: 22-25). Lòng của chúng ta như nước tại Ma-ra. Khúc gỗ kia như thập-tự-giá của Chúa. Nhận mình có tội, tin Chúa chịu chết đền tội cho mình, chúng ta được tha thứ, được sanh lại tức là có đời sống mới thay cho đời sống cũ. CÂU HỎI 1. Sanh lại có nghĩa gì? 2. Tại sao phải được sanh lại mới vào nước Đức Chúa Trời? 3. Tại sao Giu-đa đã theo Chúa mà cuối cùng phải hư mất? 4. Khi một người đã được sanh lại thì có những hiện tượng nào? 5. Một người đã được sanh lại thì không thể phạm tội được, có nghĩa gì? 6. Một người đã được sanh lại thì thắng hơn thế gian, có nghĩa gì? 7. Một người đã được sanh lại thì ham thích gì? 8. Nếu muốn sanh lại bởi Đức Chúa Trời, mọi người phải làm gì? 9. Nước đắng tại Ma-ra hóa ngọt có sự dạy dổ gì cho chúng ta? 10. Qua bài học này, bạn đã biết mình đã được sanh lại hay chưa?

Page 102: Nhu LieuTruong Chua Nhat

102

BÀI SỐ 24

Đức Thánh Linh KINH THÁNH: Công vụ các sứ đồ 2: 1-21 Câu gốc: "Lúc nào thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật: Vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến" Giăng 15: 13 Mục đích: Dạy rằng Đức Chúa Thánh Linh ngự vào lòng chúng ta là Đấng Yên Ủi, Đấng Dẫn Dắt và Đấng Dạy Dỗ chúng ta. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chúa Nhật: Đức Thánh Linh giáng lâm Giô-ên 2: 25-32 Thứ Hai: Lời hứa về Đức Thánh Linh Giăng 16: 7-15 Thứ Ba: Đức Thánh Linh sẽ đến Giăng 14: 16-26 Thứ Tư: Đức Thánh Linh đến Công vụ các sứ đồ 2: 1-21 Thứ Năm: Đức Thánh Linh và Cơ đốc nhân Giăng 3: 3-6; 16: 13-14 I Cô-rinh-tô 3: 16; 6: 19 Thứ Sáu: Bước đi trong Thánh Linh Rô-ma 8: 1-10 Thư Bảy: Được dẫn dắt bởi Thánh Linh Rô-ma 8: 11-17 Trước khi thăng thiên, Chúa Giê-xu đã hứa ban Đức Thánh Linh đến ở với và trong các môn đồ, vì Ngài không muốn họ bị cô đơn. Khi Chúa sắp thăng thiên, Ngài bảo họ ở lại trong thành Giê-ru-sa-lem đợi Đức Thánh Linh giáng lâm để ai nấy sẽ mặc lấy quyền năng, hầu làm chứng cho Ngài khắp mọi nơi. Dầu không biết rõ mọi sự sẽ ra sao, các môn đồ tin cậy, vâng lời và chờ đợi Đức Thánh Linh.

I. Đức Thánh Linh Giáng Lâm. Công vụ các sứ đồ 2: 1-13 Nhằm ngày lễ Ngũ Tuần của dân Do thái, tức là 50 ngày sau khi Chúa sống lại, 10 ngày sau khi Ngài thăng thiên, thì Đức Thánh Linh giáng lâm. Đang khi các môn đồ họp lại một chỗ để thờ phượng, thình lình họ nghe tiếng gió thổi ào ào, thấy những lưỡi bằng lửa đậu trên mỗi người. Thế là ai nấy được đầy dẫy Thánh Linh, khởi sự nói các thứ tiếng

Page 103: Nhu LieuTruong Chua Nhat

103

ngoại quốc để ca tụng Đức Chúa Trời. Các dân từ 15 xứ khác nhau đến dự lễ Ngũ Tuần trong ngày đó đều được nghe các môn đồ ca tụng Đức Chúa Trời bằng tiếng mẹ đẻ của dân ấy, khiến cho ai nấy phải ngạc nhiên và sợ hãi. Trên đây hoàn toàn là một phép lạ. Phép lạ là một hiện tượng siêu nhiên, sức người không làm nổi, nên chỉ có Đức Chúa Trời làm. Trong trường hợp này, Chúa làm phép lạ để cho mọi dân tộc có mặt tại Giê-ru-sa-lem bấy giờ điều thấy nghe và hiểu được quyền năng của Đức Thánh Linh. Khi các dân tộc ấy trở về xứ mình, họ thuật lại phép lạ, hầu chuẩn bị và mở đường cho công cuộc truyền giáo mà Phi-líp, Phi-e-rơ, Phao-lô sẽ thực hiện sau đó. Vì vậy, ngày Đức Thánh Linh giáng lâm là ngày trọng đại trong lịch sử Hội thánh.

II. Quyền Năng Của Đức Thánh Linh. (Công vụ các sứ đồ 2: 14-21) Đức Thánh Linh ví như gió và lửa. Gió rất mạnh mẽ làm cây ngã, đá lăn, nhà sập, thì Đức Thánh Linh có quyền phép đập đổ mọi trở lực san thành bình địa. Lửa tiêu hủy mọi rác rến, lửa làm cho nóng cháy, các máy móc nhờ sức lửa mà chạy được. Cũng vậy, Đức Thánh Linh tẩy uế lòng người, làm cho sốt sắng, ban cho năng lực phi thường. Hơn một tháng trước, Phi-e-rơ đã sợ hãi, đến đổi ba lần chối Chúa trước mặt những con đòi. Nhưng khi được đầy dẫy Thánh Linh, ông dũng cảm lạ lùng, dám đứng trước mặt mấy ngàn người là những kẻ đã từng dự phần đóng đinh Chúa Giê-xu trên thập tự giá, mà giải thích sự việc cho họ hiểu. Ông nói rằng các môn đồ không phải say rượu như họ tưởng, song đầy dẫy Thánh Linh. Ông rất bình tỉnh và sáng suốt, nhờ lời tiên tri Giô-ên mà trưng dẫn để chứng minh cho mọi người thấy rõ hiện tượng này đã được dự ngôn từ xưa. Đồng thời ông cũng trưng dẫn Thi thiên 16 để chứng minh sự chết và sống lại của Chúa Giê-xu đã được tiên tri Đa-vít dự ngôn. Cuối cùng, ông long trọng tuyên bố rằng Đức Chúa Trời đã tôn Giê-xu là Chúa và cứu Chúa của nhân loại, rồi ông kết án dân Y-sơ-ra-ên đã đóng đinh Ngài trên thập-tự-giá. Khi ai nấy chịu cảm động la lên Anh em ơi, chúng tôi phải làm chi?", ông khuyên họ ăn năn để được tha thứ. Có ba ngàn người đã tin nhận Giê-xu làm cứu Chúa của mình. Không ai có thể thay đổi đời sống của một người như Phi-e-rơ. Chỉ có Thánh Linh quyền năng. Không ai có thể chinh phục ba ngàn người tin nhận Giê-xu làm cứu Chúa mà trước đó 50 ngày, họ đã đồng thanh la lên "Hãy đóng đinh hắn trên thập-tự giá". Trải qua 20 thế kỷ đã có hàng triệu triệu người được Đức Thánh Linh thay đổi đời sống của họ từ ô uế ra thánh khiết, từ sợ hãi ra can đảm, từ yếu đuối ra mạnh mẽ, từ nguội lạnh ra sốt sắng, từ đê hèn ra cao thượng, từ kẻ thù ra bạn hữu, từ kẻ bắt bớ ra môn đồ.

Page 104: Nhu LieuTruong Chua Nhat

104

III. Công Việc Của Đức Thánh Linh Trong Lòng Người. Đức Thánh Linh là một trong ba ngôi Đức Chúa Trời, Đức Chúa Cha là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Con là Đức Chúa Trời, Đức Thánh Linh là Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh có tư tưởng, ý chí, cảm xúc, hành động như Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh khôn ngoan, thánh khiết, yêu thương, nhân từ như Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh toàn ái, toàn tri, toàn năng, vô sở bất tại như Đức Chúa Trời. Chúng ta đang sống trong thời đại của Đức Thánh Linh. Công việc của Ngài thật vĩ đại, phước hạnh có quan hệ đến mỗi chúng ta. 1. Ngài an ủi chúng ta (Giăng 14: 16): Sau khi làm cho chúng ta được sanh lại, trở nên con cái Đức Chúa Trời, Đức Thánh Linh tiếp tục an ủi chúng ta trong mọi cảnh ngộ. Không có nỗi đau buồn nào mà Ngài không an ủi được. Không có ai an ủi chúng ta bằng Ngài, nhờ Ngài mà chúng ta được an ủi, cũng nhờ Ngài, chúng ta an ủi kẻ khác. Ai có Ngài, người đó sẽ trở thành con trai của sự an ủi (Công vụ các sứ đồ 4: 36). 2. Ngài dạy dỗ, nhắc lại cho chúng ta mọi điều (Giăng 14: 26): Đức Thánh Linh dạy dỗ những điều mới, nhắc lại những điều cũ, cả hai bổ túc lẫn nhau để giúp chúng ta hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời. Ngài là giáo sư tốt nhất của chúng ta từng dạy những lẽ thật không hề có ai dạy được. Ai nấy hãy xin Chúa dạy dỗ và sẵn sàng nghe tiếng dịu dàng, nhỏ nhẹ của Ngài. 3. Ngài làm chứng về Chúa Giê-xu cho chúng ta (Giăng 15: 26): Nhờ Đức Thánh Linh, chúng ta biết và tin nhận Giê-xu làm cứu Chúa , nhờ Ngài chúng ta sâu nhiệm hơn trong đức tin đến Chúa Giê-xu. Chúng ta không thể tự mình biết Chúa Giê-xu, vì "Nếu không cảm Đức Thánh Linh, cũng chẳng ai xưng Giê-xu là Chúa" (I Cô-rinh-tô 12: 3). 4. Ngài cáo trách tội lỗi của chúng ta (Giăng 16: 8-11): Nhờ Ngài soi sáng mà chúng ta thấy được chân tướng của mình, nghĩa là biết mình có tội. Mọi người đều có tội, song có người ngoan cố dám nói mình không có tội, lại có người biết mình có tội, song rất mù mờ không biết tội là gì. Nếu không được Đức Thánh Linh cáo trách, thúc giục tín đồ cũng không thể ăn năn những lỗi lầm của mình. Vậy, xin Thánh Linh cho mỗi chúng ta thấy rõ mình là người thế nào, và đem chúng ta đến sự ăn năn. 5. Ngài dẫn chúng ta vào tất cả lẽ thật (Giăng 16: 13): Tất cả lẽ thật đã được ghi chép trong Kinh thánh mà Đức Thánh Linh là tác giả. Muốn hiểu biết lẽ thật, chúng ta phải nhờ Ngài dắt dẫn. Hãy luôn luôn sống trong sự hiện diện của Ngài, bước theo Ngài từng bước một. Hãy cung kính xin Ngài giải thích lời của Ngài cho chúng ta. Dầu có Kinh thánh trong tay, xưa nay đã có lắm người lầm lạc, giải sai ý nghĩa, chuốc lấy sự hư mất cho mình và cho người khác nữa (II Phi-e-rơ 3: 16). 6. Ngài ban mọi ân tứ để Hội thánh được gây dựng (I Cô-rinh-tô 12: 11): Có 17 ân tứ khác nhau do Đức Thánh Linh ban phát cho mọi con cái của Ngài. Nếu chúng ta có

Page 105: Nhu LieuTruong Chua Nhat

105

ân tứ gì là đã nhận nơi Ngài, và nhận nơi Ngài để gầy dựng Hội thánh. Kẻ được ân tứ này, người được ân tứ khác, không ai có một cớ rất nhỏ nào để khoe khoang mà chỉ có những cớ rất lớn để cảm tạ và ca ngợi Chúa thôi. "Bởi vì, ai phân biệt ngươi với người khác? Ngươi há có điều chi mà chẳng đã nhận lãnh sao? Nếu ngươi đã nhận lãnh, thì sao còn khoe mình như chẳng từng nhận lãnh" (I Cô-rinh-tô 4: 7). 7. Ngài đầy dẫy trong chúng ta (Ê-phê-sô 5: 18): Nếu muốn được Chúa Thánh Linh an ủi, dạy dỗ, làm chứng, cáo trách, dẫn dắt, ban mọi ân tứ, chúng ta phải xin Ngài ngự trị đời sống chúng ta cách trọn vẹn. Chúng ta phải tận hiến cho Chúa, làm đền thờ cho Ngài. Bởi sự đầy dẫy của Ngài, chúng ta mới có thể sống cuộc đời đắc thắng thánh khiết, mới đủ tư cách và khả năng để phục vụ Ngài. Chúng ta hãy nhờ Đức Thánh Linh mà cầu nguyện, dâng tiền, học hỏi, giảng dạy, làm chứng v.v... "Chúng ta... là kẻ cậy Thánh Linh của Đức Chúa Trời mà hầu việc Đức Chúa Trời , khoe mình trong Đấng Christ, mà không để lòng tin cậy trong xác thịt bao giờ" (Phi-líp 3: 3). CÂU HỎI 1. Trước khi thăng thiên, Chúa Giê-xu đã hứa và dặn dò các môn đồ như thể nào? 2. Đức Thánh Linh giáng lâm bao nhiêu ngày sau khi Chúa Giê-xu sống lại? 3. Hiện tượng của Đức Thánh Linh giáng lâm là gì? 4. Quyền năng của Đức Thánh Linh đã làm gì cho Phi-e-rơ? 5. Quyền năng của Đức Thánh Linh đã làm gì cho ba ngàn người? 6. Xin kể ra một vài công việc của Đức Thánh Linh? 7. Xin giải thích việc Đức Thánh Linh cáo trách chúng ta? 8. Đầy dẫy Thánh Linh có nghĩa gì? 9. Làm sao để được đầy dẫy Thánh Linh?

Page 106: Nhu LieuTruong Chua Nhat

106

BÀI SỐ 25

Ân Điển Của Đức Chúa Trời KINH THÁNH: Rô-ma 3: 21-26; 6: 14-19 Câu gốc: "Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình" Ê-phê-sô 2: 8-9 Mục đích: Cho tín hữu biết rằng sự cứu rỗi là một đặc ân của Đức Chúa Trời ban cho cách vô điều kiện cho loài người chúng ta. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chúa Nhật: Luật pháp và ân điển. Lu-ca 10: 25-28; Giăng 1: 17 II Cô-r. 4: 6; Ê-phê-sô 2: 8-9 Thứ Hai: Trước luật pháp mọi người đều phạm tội. Rô-ma 3: 9-20 Thứ Ba: Ân diển của Đức Chúa Trời. Rô-ma 3: 21-31 Thứ Tư: Chúng ta được cứu nhờ ân điển của Đấng Christ. Ma-thi-ơ 20: 28 II Cô-r. 5: 21; Ga-la-ti 3: 13 Thứ Năm: Chúng ta được giữ gìn trong sự sống của Đấng Christ. Rô-ma 5: 1-15; I Ti-mô thê 2: 6; I Phi-e-rơ 1: 18-19 Thứ Sáu: Chúng ta nhờ cậy ân điển của Chúa. Rô-ma 6: 11-23 Thứ Bảy: Hãy đi và đừng phạm tội nữa. Giăng 8: 1-11 Ân điển hoặc ân sủng là ân huệ lớn lao của người trên ban cho kẻ dưới một cách không điều kiện. Tại nhà trường, một học sinh được ban thưởng với điều kiện phải có điểm cao. Đó không phải là ân điển. Ân điển của Đức Chúa Trời là sự biểu lộ tình thương vô lượng của Ngài đối với kẻ không xứng đáng gì cả. Bởi ân điển của Đức Chúa Trời ban cho loài người mọi sự một cách không điều kiện, tức là không tùy thuộc loài người tốt hay xấu, mà tùy thuộc sự nhân từ, thương xót của Ngài.

Page 107: Nhu LieuTruong Chua Nhat

107

I. Chúng Ta Được Cứu Bởi Ân Điển Của Đức Chúa Trời. (Rô-ma 3: 21-26) Kinh thánh lên án các dân ngoại bang, dân Do thái và toàn thể nhân loại điều đã phạm tội (Rô-ma 1: 18-3: 20). "Và họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Đức Chúa Giê-xu Christ" (Rô-ma 3: 24). Chúng ta, cả thảy là những tội nhân khốn nạn, không thể làm gì để được cứu rỗi, cũng chẳng ai có thể cứu rỗi chúng ta. Song bởi ân điển của Đức Chúa Trời, Chúa Giê-xu đã giáng thế, tình nguyện chịu chết trên thập-tự-giá làm của lễ chuộc tội chúng ta. Nhờ tin nhận công lao cứu chuộc đó, chúng ta được kể là công bình, vì đứng trong địa vị công bình của Chúa Giê-xu. Ấy chẳng phải bởi việc làm của chúng ta nên chẳng ai có một cớ nhỏ để khoe mình, mà chỉ có cớ để cảm tạ Chúa thôi. Người tội lỗi lại thích khoe khoang, muốn làm một việc gì để được cứu rỗi, hơn là chỉ nhờ ân điển của Chúa. Song người không biết rằng càng cố gắng càng thất bại. Đa-vít nói "Tôi bị lún trong bùn sâu, nơi không đụng cẳng, bị chìm trong nước sâu, dòng nước ngập tôi" (Thi thiên 69: 2). Đa-vít như người bị rơi vào chỗ đất lầy, bị lún xuống mãi mà không có chỗ nào vững chắc để đặt chân, nên càng vẫy vùng càng bị lún xuống mau hơn. Ông bị dòng nước lôi cuốn và nhận chìm trong hoàn cảnh đó, người tội lỗi phải tuyệt vọng, chỉ chờ chết mà thôi. Đa-vít đã kêu cầu Chúa và được Ngài giải cứu "Ngài cũng đem tôi lên khỏi hầm gớm ghê, khỏi vũng bùn lấm, Ngài đặt chân tôi trên hòn đá và làm cho bước tôi vững bền" (Thi thiên 40: 2). Ê-sai mô tả loài người đã trở nên một vật ô uế, một khối tội lỗi. Dầu có gắng làm việc công bình để có cớ khoe khoang, song trước mặt Đức Chúa Trời, các việc công bình đó như một chiếc áo bẩn thỉu, mà kẻ mặc vào chỉ chuốc lấy cho mình sự hổ thẹn. Ai nấy như một chiếc lá héo, còn tội ác của mình như một ngọn gió đùa mình đi (Ê-sai 64: 6). Trái lại, ân điển của Chúa như một lễ phục của chàng rể và cô dâu trong ngày thành hôn (Ê-sai 61: 10). Cảm tạ Đức Chúa Trời, Ngài đã cho chúng ta được cứu rỗi bởi đức tin đến Chúa Giê-xu, trong đó có sự tha thứ, xưng công bình, tái sanh, nên thánh, lựa chọn, kêu gọi, hy vọng một cách chắc chắn. Mọi sự đó không ai có thể mua được bằng tiền bạc, hay bằng công đức riêng. Song ai nấy có thể nhận được một cách vô điều kiện bởi ân điển của Chúa.

II. Được Sống Bởi Ân Điển Của Đức Chúa Trời. (Rô-ma : 14-19) Sau khi được cứu bởi ân điển, chúng ta cũng sống bởi ân điển mỗi ngày của đời mình. Có người đã lầm hiểu một cách tai hại rằng sau khi đã được cứu bởi ân điển, chúng ta có thể nhờ sức riêng của mình mà giữ luật pháp không? Đành rằng luật pháp là thánh

Page 108: Nhu LieuTruong Chua Nhat

108

thiện, song không ai có thể nhờ sức riêng mà giữ trọn luật pháp, Phao-lô nói "Vì chúng ta không thuộc dưới luật pháp, nhưng thuộc dưới ân điển, thì chúng ta sẽ phạm tội hay sao? Chẳng hề như vậy!" (Rô-ma 6: 15). Trái lại, ân điển giúp chúng ta không những làm trọn luật pháp, mà làm trổi hơn nữa. Ông chủ nào, nô lệ nấy, vì nô lệ phải hoàn toàn vâng phục ông chủ. Ông chủ xấu, nô lệ cũng xấu; ông chủ tốt, nô lệ cũng tốt. Khi trước chúng ta làm nô lệ cho tội lỗi, nên ai nấy phải phạm tội. Bây giờ, chúng ta đã được Chúa Giê-xu đổ huyết ra mua chuộc và vì vậy, chúng ta thuộc về Ngài, trở nên nô lệ của Ngài. Là nô lệ của Chúa, chúng ta vâng phục Ngài và ăn ở thánh khiết như Ngài. Luật pháp và ân điển trái nhau. Luật pháp đòi hỏi, ân điển ban cho. Luật pháp bảo phải làm để được, còn ân điển bảo phải tin để được. Luật pháp lên án, rủa sả; còn ân điển tha thứ, rửa sạch. Phao-lô đã cố gắng giữ luật pháp, song đồng thời ông bắt bớ Hội thánh của Chúa. Nhưng ông đã được cứu bởi ân điển, rồi được kêu gọi làm sứ đồ để suốt đời nhờ ân điển mà hầu việc Ngài. Ông nói "Tôi đã làm nhiều việc hơn các người khác, nhưng nào phải tôi, bèn là ân điển của Đức Chúa Trời đã ở cùng tôi" (I Cô-rinh-tô 15: 10). Khi ông kêu cầu Chúa cứu mình khỏi sự yếu đuối, thì Chúa bảo "Ân điển ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối" (II Cô-rinh-tô 12: 9). Vì vậy, về sau ông nói "Tôi làm được mọi sự, nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi" (Phi-líp 4: 13). Chúa Giê-xu đã sống cuộc đời thánh khiết tại trần gian. Bây giờ Ngài muốn tiếp tục sống cuộc đời đó trong mỗi chúng ta, nếu ai nấy tôn thờ Ngài làm Chúa của đời mình. Khi được Chúa ngự trị trong lòng mình, chúng ta không sống theo luật pháp là mắt đền mắt, răng đền răng, yêu người lân cận, ghét kẻ thù nghịch như sự công bình của các thầy thông giáo và người Pha-ri-si, mà trổi hơn họ là yêu kẻ thù nghịch và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ mình (Ma-thi-ơ 5: 38-45). Chúa Giê-xu đã cầu nguyện cho kẻ đóng đinh Ngài "Lạy Cha, xin tha cho họ" (Lu-ca 23: 34). Ngài đã tiếp tục sống cuộc đời đó trong Ê-tiên, nên ông ấy cũng đã cầu nguyện cho kẻ ném đá mình "Lạy Chúa, xin đừng đổ tội này cho họ (Công vụ các sứ đồ 7: 60). Bởi ân điển, Chúa đã cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi cảnh nô lệ tại Ê-díp-tô song chưa hết, cũng bởi ân điển đó, Ngài chăm nuôi, dẫn dắt bảo vệ họ suốt 40 năm trong đồng vắng, cho đến khi đưa họ vào tận Ca-na-an đượm sữa và mật. Họ đã được cứu bởi ân điển và cũng đã được sống bởi ân điển. Nếu không nhờ ân điển của Chúa, dân Y-sơ-ra-ên không thể nào sống nổi 40 năm trong đồng vắng, chúng ta cũng vậy. Phi-e-rơ khuyên "Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa" (II Phi-e-rơ 3: 18). Trong ân điển vô lượng vô biên của Chúa, dầu chúng ta có tấn tới đến đâu cũng không bao giờ hết. Ân điển đó như dòng sông vô tận không bao giờ cạn. Dầu nhu cầu của chúng ta có lớn đến đâu, thì đối với ân điển của Chúa, nó vẫn còn là nhỏ mọn quá. Phao-lô khuyên "Hãy cậy ân điển trong Đức Chúa Giê-xu Christ mà làm cho mình mạnh mẽ" (II Ti-mô-thê 2: 1). Ân điển cao thâm, dư dật của Chúa làm cho người yếu đuối trở nên mạnh, người nghèo trở nên giàu, người hèn hạ trở nên cao trọng.

Page 109: Nhu LieuTruong Chua Nhat

109

CÂU HỎI 1. Ân điển của Chúa có nghĩa gì? 2. Tại sao chúng ta không thể nhờ việc công bình của mình để được cứu? 3. Được cứu bởi ân điển của Chúa có nghĩa gì? 4. Đa-vít nói thể nào về lúc ông chưa được cứu và sau khi được cứu? 5. Được sống bởi ân điển có nghĩa gì? 6. Nhờ ân điển của Chúa, chúng ta có thể sống thế nào? 7. Luật pháp khác với ân điển ra sao? 8. Ân điển cao hơn luật pháp thể nào? 9. Hãy giải thích sự kiện dân Y-sơ-ra-ên được cứu bởi ân điển và được sống bởi ân điển trong 40 năm? 10. Tại sao chúng ta không có cớ khoe khoang?

Page 110: Nhu LieuTruong Chua Nhat

110

BÀI SỐ 26

Đức Tin Là Chìa Khóa Của Cuộc Đời KINH THÁNH: Rô-ma 10: 8-13; Hê-bơ-rơ 11:1-13. Câu gốc: "Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho cho kẻ tìm kiếm Ngài" Hê-bơ-rơ 11: 6 Mục đích: Cho chúng ta thấy rằng đức tin là con đường đưa tới sự sống, và chúng ta có thể làm được những việc lớn lao nhờ đức tin. Kinh Thánh Đọc Hằng Ngày Chúa Nhật: Ý nghĩa của đức tin Hê-bơ-rơ 11: 1-7 Thứ Hai: Đức tin của Áp-ra-ham và Sa-ra Hê-bơ-rơ 11: 8-9 Thứ Ba: Đức tin của Môi-se Hê-bơ-rơ 11: 23-29 Thứ Tư: Những anh hùng của đức tin Hê-bơ-rơ 11: 30-40 Thứ Năm: Nguồn gốc của đức tin Rô-ma 10: 8-17 Thứ Sáu: Đức tin của một phụ nữ ngoại bang Ma-thi-ơ 15: 21-28 Thứ Bảy: Đức tin càng thêm lên Lu-ca 17: 1-6 Mỗi ngày chúng ta sống bởi đức tin. Đưa tiền ra mua một vé xe, mua một con tem gởi thư, mua các thức ăn ngoài chợ đều là những hành động bởi đức tin. Đọc báo chí, nghe đài phát thanh, xem thông cáo của chánh phủ cũng là những hành động bởi đức tin. Dầu là tin nhau giữa người với người, song chúng ta phải tin để sống. Nếu chúng ta đã có thể tin người, sao lại không có thể tin Đức Chúa trời? Người ta thường nói dối vì hai lẽ: 1. Muốn lường gạt người khác. Hoặc là 2. Không đủ khả năng làm trọn lời hứa của mình. Song Đức Chúa Trời đã chẳng hề lừa gạt ai và Ngài là Đấng toàn năng, bất luận điều chi Ngài đã hứa, Ngài đều có thể làm. Vì vậy, chúng ta rất dễ mà tin Đức Chúa Trời.

Page 111: Nhu LieuTruong Chua Nhat

111

I. Được Cứu Bởi Đức Tin (Rô-ma 10: 8-13). Nhờ đức tin mà chúng ta nhận được ân điển của Chúa. Ân điển ban cho không điều kiện, song ta muốn được phải tin. Chúng ta không thể được một ơn phước nào từ Đức Chúa Trời, nếu chúng ta không tin: "Nhưng phải lấy đức tin mà cầu xin, chớ nghi ngờ, vì kẻ hay nghi ngờ giống như sóng biển, bị giao động và đưa đi đây đi đó. Người như thế chớ nên tưởng rằng mình lãnh được chi từ nơi Chúa" (Gia-cơ 1: 6-7). Chúa ban cho dân Y-sơ-ra ên xứ Ca-na-an làm cơ nghiệp, song "chúng ta thấy những người ấy không thể vào đó được vì cớ không tin" Hê-bơ-rơ 3: 19). Chúa Giê-xu đã hoàn thành sự cứu rỗi cho chúng ta trên thập-tự-giá và Ngài đã sống lại. Trước khi về trời, Ngài phán với các môn đồ "Hãy đi khắp thế gian, giảng Tin lành cho mọi người. Ai tin và chịu phép báp têm sẽ được rỗi, nhưng ai chẳng tin sẽ bị đoán phạt" (Mác 16: 15-16). "Vậy nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Giê-xu và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại thì ngươi sẽ được cứu, vì tin bởi trong lòng mà được sự công bình, còn bởi miệng làm chứng mà được sự cứu rỗi. Vả, Kinh thánh nói rằng: Kẻ nào tin sẽ chẳng bị hổ thẹn " (Rô-ma 10: 9-11).

II. Được Sống Bởi Tin (Hê-bơ-rơ 11: 1-13). Tất cả những người được cứu bởi đức tin, cũng được sống bởi đức tin. "Vì trong Tin lành nầy có bày tỏ sự công bình của Đức Chúa Trời bởi đức tin mà được, lại dẫn đến đức tin nữa, như có chép rằng: Người công bình sống bởi đức tin" (Rô-ma 1: 17). "Người công bình của ta sẽ cậy đức tin mà sống" (Hê-bơ-rơ 10: 38). Các vĩ nhân của Đức Chúa Trời được kinh thánh ghi chép lại đều là những người sống bởi đức tin. Bởi đức tin, A-bên dâng cho Đức chúa Trời một tế lễ tốt hơn của Ca-in. Bởi đức tin, Hê-nóc sống đẹp lòng Đức Chúa Trời. Bởi đức tin, Nô-ê thành tâm kính sợ đóng một chiếc tàu để cứu nhà mình. Bởi đức tin, Ap-ra-ham vâng lời Chúa gọi lìa Canh-đê qua Ca-na-an. Họ dám làm những việc lạ lùng, trở nên những con người vĩ đại, vì đã sống bởi đức tin. Danh sách các vĩ nhân của Đức Chúa Trời không phải chấm dứt vào cuối đoạn 11 của Hê-bơ-rơ đâu. Các vĩ nhân được ghi chép trong đó chỉ tượng trưng thôi. Trải qua 20 thế kỷ, con số vĩ nhân của Chúa đã tăng gia rất nhiều, một mình Chúa biết rõ. Nếu hết lòng yêu mến Chúa, chúng ta rất ước ao tên mình được ghi trong danh sách này. Điều kiện để được ghi tên trong danh sách vĩ nhân của Đức Chúa Trời là đời sống đức tin.

III. Nền Tảng Của Đức Tin. Đức tin mà chúng ta nói đây, không phải là tin nhảm, tin càn, tin ai, tin gì cũng được. Đối tượng duy nhất của đức tin là Đức Chúa Trời: A-bên tin Đức Chúa Trời, Hê-nóc tin Đức Chúa Trời, Nô-ê tin Đức Chúa Trời, Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời, nên Đức

Page 112: Nhu LieuTruong Chua Nhat

112

Chúa Trời không hổ thẹn mà xưng mình là Đức Chúa Trời của họ (Hê-bơ-rơ 11: 16). Đức Chúa Trời bảo và hứa, họ tin mỗi lời phán dạy của Ngài và làm theo. Bởi đức tin, họ đã tôn vinh Chúa và Chúa cũng tôn vinh họ. Ngày nay, chúng ta có toàn bộ Kinh thánh trong tay. Kinh thánh là quyển sách lời hứa, chứa đựng rất nhiều lời hứa rất quí, rất lớn của Chúa cho chúng ta. Chúa Giê-xu không hề phán: Có lẽ, phỏng chừng, mà luôn luôn "Quả thật, quả thật !" Ngài phán như thế rằng: "Trời đất sẽ qua, song lời ta nói chẳng bao giờ qua đâu" (Ma-thi-ơ 24: 35; Mác 13: 31). Chúng ta phải nhờ đức tin bám chặt mỗi một lời hứa của Chúa cho mình. Kinh thánh như một kho tàng vô tận mà mỗi chúng ta đều có phần trong đó. Nhờ đức tin, chúng ta khai thác kho tàng nầy để làm giàu cho sự sống thuộc linh của mình. Tin nhiều được nhiều, tin ít được ít, không tin không được gì cả. Khi dân Y-sơ-ra-ên vào Ca-na-an, Chúa hứa với họ "Phàm nơi nào bàn chân các ngươi đạp đến thì ta ban cho các ngươi" (Giô-suê 1: 3). Vậy, họ đi chậm đươc ít, đi mau được nhiều, không đi, không được gì hết. Ơn phước của Chúa như đại dương bao la, man mác, như dòng sông sâu rộng vô cùng chúng ta cần bao nhiêu cũng có, múc bằng vô luận cái gì cũng đày. Khi đứa em phá của trở về, và trước sự lầm bầm của anh cả, người cha nói: "Con ơi, con ở với cha luôn, hết thảy của cha là của con" (Lu-ca: 15: 31). Thế mà lâu nay, anh cả cứ cay đắng vì bị thiệt thòi, cho cha mình là bất công, hẹp lượng. Anh chưa hề biết lòng rộng rải của cha đối với mình. Chúng ta có thể như người anh cả đó. Đang khi Chúa bảo "Con ơi, hết thảy của cha là của con", chúng ta vẫn sống trong nghèo nàn, trong cay đắng, không ngớt lằm bằm, oán trách Chúa. Ghê thay là lòng vô tín ! Nó không tôn vinh Đức Chúa Trời mà sỉ nhục Ngài.

IV. Sự Phát Triển Của Đức Tin. Phải có đức tin mới sống đẹp lòng Đức Chúa Trời. Vì vậy, đức tin cần phát triển để ngày càng mạnh mẽ hơn. Để được phát triển, đức tin phải chịu thử thách. Đa-vít nói "Ngài tập tôi đánh giặc, đến nỗi cánh tay tôi vương nổi cung đồng" (Thi thiên 18: 34). Đức tin của Áp-ra-ham luôn luôn chịu thử thách. Nào là đói kém tại Ca-na-an, sự tranh giành của Lót, bà Sa-ra son sẻ, nhất là dâng Y-sác làm của lễ thiêu cho Đức Chúa Trời. Song nhờ chịu thử thách đức tin của Áp-ra-ham đã phát triển đúng mức (Hê-bơ-rơ 11: 17-19). Các môn đồ đi theo Chúa, không phải chỉ một lần mà họ có đức tin lớn mạnh đâu, song phải trải qua nhiều lần, nhiều cách bị thử thách. Lần thứ nhất họ qua biển với Chúa, gặp bão tố, Chúa quở một lời biển lặng, sóng yên. Họ hỏi nhau "Người nầy là ai mà gió và biển đều vâng lệnh người ? " (Ma-thi-ơ 8: 23-27). Lần thứ hai họ qua biển mà Chúa không đi cùng. Lối canh tư, họ còn đang lênh đênh giữa biển, thình lình họ thấy một bóng người đi bộ trên mặt biển, nên họ tưởng là ma mà la lên. Chúa phán "Các ngươi hãy yên lòng, ấy là ta đây, đừng sợ". Sau đó, các môn đồ quỳ lạy Ngài mà thưa rằng: "Thầy thật là Con Đức Chúa Trời" (Ma-thi-ơ 14: 22-33).

Page 113: Nhu LieuTruong Chua Nhat

113

Chúng ta phải sẵn sàng chịu thử thách để đức tin mình được phát triển. Chúa Giê-xu phán với Phi-e-rơ "Hỡi Si-môn, Si-môn, nầy, quỉ Sa-tan đã đòi sàng sảy ngươi như lúa mì. Song ta đã cầu nguyện cho ngươi, hầu cho đức tin ngươi không thiếu thốn" (Lu-ca 22: 31-32). Ngoài ra, chúng ta phải như các môn đồ, luôn luôn cầu nguyện: "Xin thêm đức tin cho chúng tôi" (Lu-ca 17: 5) Đức tin của chúng ta có nơi Chúa là một tài sản quí báu và lớn lao. Hãy đứng vững trong đức tin, hãy giữ gìn đức tin, đừng để kẻ cướp "giựt lột hết" (Lu-ca 10: 30). Mất đức tin là mất hết mọi sự rồi. CÂU HỎI 1. Trong cuộc sống giữa đồng bào, chúng ta đã sử dụng đức tin như thế nào? 2. Bởi đâu chúng ta nhận được ân điển của Chúa? 3. Bởi đâu dân Y-sơ-ra-ên không được vào Ca-na-an đượm sữa và mật? 4. Chúng ta đã nhờ đức tin mà được cứu, thì cũng nhờ đức tin mà được gì nữa? 5. Người sống đẹp lòng Đức Chúa Trời phải nhờ gì? 6. Nhờ đâu người ta trở thành vĩ nhân của Đức Chúa Trời? 7. Chúng ta tin gì? Tin ai? 8. Nền tảng của đức tin chúng ta là gì? 9. Làm sao để đức tin được phát triển?