phẦn mỞ ĐẦu -...

44
1 PHN MĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Điều 19 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Mọi người có quyn sng. Tính mạng con người được pháp lut bo hộ ng i tưc đoạt tn mạng trái lut. Thế nhưng, trong những năm qua, tình hình tội phạm giết người ở nước ta có diễn biến rất phức tạp, với tính cht gây án manh động, tàn bo, liều lĩnh ngày càng gia tăng 1 . Tuy chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng số tội phạm về trật tự xã hội 2 , nhưng loại tội phạm này đã gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, tước đi sinh mạng của nhiều người, gây mất an ninh, trật tự, hoang mang, bức xúc trong dư luận xã hội. Để điều tra, khám phá các ván Giết người, Cơ quan tiến hành tố tụng, chủ yếu là cơ quan điều tra, phải tiến hành hoạt động thu thập dấu vết, vật chứng một cách hợp pháp, kịp thời, đầy đủ; sau đó phải bảo quản nguyên vẹn, tránh lẫn lộn, hư hỏng, mất mát, nhằm giữ nguyên giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Với vai trò là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, khi giải quyết các vụ án Giết người, Viện kiểm sát nhân dân, cụ thể là Kiểm sát viên, phải tiến hành nhiều hoạt động theo đúng nhiệm vụ, quyền hạn luật định. Trong đó, thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng có ý nghĩa nhất định, đảm bảo các hoạt động này được thực hiện một cách hợp pháp, khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác; những vi phạm pháp luật khi tiến hành thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng phải được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh, nhằm góp phần giải quyết hiệu quả các vụ án Giết người. Bên cạnh những thành công đã đạt được khi thực hành quyền công tố , kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án Giết người, thực tiễn cho thấy hoạt động này của một số Kiểm sát viên vẫn còn 1 Phát biu ca Thiếu tướng HSĩ Tiến, Cục trưởng cc Cnh sát hình s- BCông an, ti Hi nghgiao ban Lực lượng Cnh sát hình stoàn quốc năm 2015; 2 Theo sliu Báo cáo tng kết công tác ca Cc Cảnh sát điều tra ti phm vtrt txã hi (C14) và ca Cc Thng kê ti phm Vin kim sát nhân dân ti cao, trong 6 năm (t2011 đến 2016), trung bình mỗi năm ở nước ta, lực lượng Cảnh sát nhân dân phát hiện khoảng hơn 50.000 vụ phạm tội về trật tự xã hội, trong đó số vụ án giết người xảy ra khoảng 1.300 vụ, chiếm tỉ lệ 2,6%;

Upload: others

Post on 29-Aug-2019

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý nhất, là nhân

tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Điều 19 Hiến pháp nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Mọi người có

quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ ng i tư c

đoạt t n mạng trái luật”. Thế nhưng, trong những năm qua, tình hình tội

phạm giết người ở nước ta có diễn biến rất phức tạp, với tính chất gây án

manh động, tàn bạo, liều lĩnh ngày càng gia tăng1. Tuy chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ

trong tổng số tội phạm về trật tự xã hội2, nhưng loại tội phạm này đã gây ra

hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, tước đi sinh mạng của nhiều người, gây mất

an ninh, trật tự, hoang mang, bức xúc trong dư luận xã hội.

Để điều tra, khám phá các vụ án Giết người, Cơ quan tiến hành tố tụng,

chủ yếu là cơ quan điều tra, phải tiến hành hoạt động thu thập dấu vết, vật

chứng một cách hợp pháp, kịp thời, đầy đủ; sau đó phải bảo quản nguyên vẹn,

tránh lẫn lộn, hư hỏng, mất mát, nhằm giữ nguyên giá trị chứng minh tội

phạm và người phạm tội trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Với vai trò là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp, khi giải quyết các vụ án Giết người, Viện kiểm sát nhân dân, cụ

thể là Kiểm sát viên, phải tiến hành nhiều hoạt động theo đúng nhiệm vụ,

quyền hạn luật định. Trong đó, thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thu

thập, bảo quản dấu vết, vật chứng có ý nghĩa nhất định, đảm bảo các hoạt

động này được thực hiện một cách hợp pháp, khách quan, toàn diện, đầy đủ,

chính xác; những vi phạm pháp luật khi tiến hành thu thập, bảo quản dấu vết,

vật chứng phải được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh,

nhằm góp phần giải quyết hiệu quả các vụ án Giết người.

Bên cạnh những thành công đã đạt được khi thực hành quyền công tố,

kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án Giết

người, thực tiễn cho thấy hoạt động này của một số Kiểm sát viên vẫn còn

1 Phát biểu của Thiếu tướng Hồ Sĩ Tiến, Cục trưởng cục Cảnh sát hình sự - Bộ Công an, tại Hội nghị giao

ban Lực lượng Cảnh sát hình sự toàn quốc năm 2015; 2 Theo số liệu Báo cáo tổng kết công tác của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (C14) và của

Cục Thống kê tội phạm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trong 6 năm (từ 2011 đến 2016), trung bình mỗi

năm ở nước ta, lực lượng Cảnh sát nhân dân phát hiện khoảng hơn 50.000 vụ phạm tội về trật tự xã hội, trong

đó số vụ án giết người xảy ra khoảng 1.300 vụ, chiếm tỉ lệ 2,6%;

Page 2: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

2

nhiều hạn chế, thiếu sót, chưa đáp ứng được công tác đấu tranh phòng chống

tội phạm này như: Hoạt động kiểm sát còn mang tính hình thức, sơ sài, chất

lượng yêu cầu điều tra đối với việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng còn

hạn chế… Điều này đã ảnh hưởng lớn hiệu quả giải quyết các vụ án Giết

người; nhiều vụ án đã bị hủy để điều tra, xét xử lại nhiều lần do có vi phạm tố

tụng liên quan đến việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng dẫn đến chứng

cứ không có giá trị chứng minh, thậm chí làm oan cho người vô tội.

Để khắc phục các hạn chế trên cần đầu tư nghiên cứu một cách có hệ

thống để tìm ra nguyên nhân những hạn chế, thiếu sót và trên cơ sở đó, đề

xuất các giải pháp mang tính khoa học và khả thi nhằm nâng cao chất lượng

thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết vật chứng

trong các vụ án Giết người. Vì thế, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Một số

giải p áp nâng c o c ất lượng t ực àn quyền c ng tố, kiểm sát việc t u

t ập, ảo quản dấu vết, vật c ứng trong các vụ án Giết người” làm đề tài

nghiên cứu khoa học năm 2016.

2. Mục đích nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hành

quyền công tố, kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các

vụ án Giết người, chỉ ra một số hạn chế, thiếu sót của Kiểm sát viên khi tiến

hành hoạt động này, xác định nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, thiếu sót

đó và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố,

kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án Giết

người trên thực tế.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về một số vấn đề lý luận và

hạn chế, thiếu sót của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát

việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án Giết người và

những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, thiếu sót đó.

- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu làm rõ một số khái niệm có

liên quan cũng như nội dung của hoạt động này thực hành quyền công tố,

kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án Giết

người. Ngoài ra, đề tài còn tập trung làm rõ một số hạn chế, thiếu sót điển

hình của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động

điều tra liên quan đến việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng như khám

Page 3: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

3

nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét… trong một số vụ án Giết

người có oan, sai hoặc quá trình điều tra, truy tố, xét xử kéo dài tại các địa

phương như Sóc Trăng, Bình Phước, Tiền Giang, Long An trong thời gian từ

năm 2011 đến năm 20163.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy

vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối

của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam về đấu tranh và phòng ngừa tội phạm ở nước ta.

Đề tài được nghiên cứu bằng các phương pháp nghiên cứu cụ thể:

Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm, phương pháp so sánh, phương

pháp khảo sát thực tế, phỏng vấn chuyên gia.

5. Tình hình nghiên cứu

Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật

chứng trong các vụ án giết người đã được một số tác giả nghiên cứu dưới góc

độ là một số hoạt động của Kiểm sát viên khi giải quyết các vụ án giết người

trong giai đoạn điều tra như: iểm sát việc tuân t eo p áp luật trong oạt

động điều tr các vụ án Giết người của tác giả Lê Đức Xuân; Áp dụng p áp

luật t ực àn quyền c ng tố trong gi i đoạn điều tr tội giết người củ Viện

kiểm sát n ân dân ở tỉn Bắc Gi ng của tác giả Nguyễn Văn Lượng… Tuy

nhiên, chưa có công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, phân tích, đánh

giá về hạn chế, thiếu sót của Kiểm sát viên khi tiến hành hoạt động này,

nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, thiếu sót đó và đề xuất giải pháp cụ thể

nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thu thập,

bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án giết người trên thực tế. Do đó,

việc nghiên cứu đề tài “Một số giải p áp nâng c o c ất lượng t ực àn

quyền c ng tố và kiểm sát việc t u t ập, ảo quản dấu vết, vật c ứng trong

các vụ án Giết người” không trùng lặp về nội dung so với các công trình

nghiên cứu khác.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

- Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung lý

luận về thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng cũng như về thực hành quyền

3 Một số vụ án đã xảy ra trước thời điểm năm 2011 nhưng quá trình điều tra, truy tố, xét xử kéo dài đến năm

2011

Page 4: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

4

công tố và kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án

giết người.

- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài được vận dụng để

góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thu

thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án giết người trong thực tiễn.

Ngoài ra, đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và

nghiên cứu của giảng viên, học viên, cán bộ ngành Kiểm sát hoặc là tài liệu

tham khảo hữu ích cho những người quan tâm, nghiên cứu vấn đề này.

7. Bố cục của đề tài

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, kết cấu của đề tài gồm 3 chương; cụ thể:

Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố, kiểm sát

việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án Giết người.

Chƣơng 2: Một số hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn

chế, thiếu sót đó khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thu thập, bảo

quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án Giết người.

Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành

quyền công tố, kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các

vụ án Giết người.

Page 5: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

5

CHƢƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ,

KIỂM SÁT VIỆC THU THẬP, BẢO QUẢN DẤU VẾT, VẬT CHỨNG

TRONG CÁC VỤ ÁN GIẾT NGƢỜI

1.1. Một số vấn đề lý luận liên quan đến việc thu thập, bảo quản

dấu vết, vật chứng trong các vụ án Giết ngƣời

1.1.1. Một số vấn đề lý luận về dấu vết, vật chứng trong các vụ án giết

người

1 1 1 1 ái niệm Dấu vết ìn sự

Trong lịch sử phát triển của khoa học hình sự nói chung và kỹ thuật

hình sự nói riêng, khái niệm dấu vết hình sự luôn là vấn đề được các nhà

nghiên cứu quan tâm. Nội dung khái niệm dấu vết hình sự chính là cơ sở

phương pháp luận để nhận thức đúng sự hình thành, tồn tại của dấu vết cũng

như phương pháp, phương tiện phát hiện, ghi nhận, thu lượm và đánh giá dấu

vết, phục vụ cho các hoạt động điều tra, phòng ngừa tội phạm.

Thuyết phản ánh của triết học Mác-Lênin đã chỉ ra rằng: Các sự vật,

hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan với sự tác động qua lại lẫn nhau.

Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại độc lập, tách biệt hoàn toàn với môi

trường vật chất xung quanh. Trong mối quan hệ tác động qua lại đó, mỗi đối

tượng vừa là đối tượng tác động, đồng thời cũng là đối tượng nhận tác động.

Hệ quả của quá trình tác động đó, tất yếu sẽ xuất hiện quá trình phản ánh.

Do đó, khi một vụ việc mang tính hình sự xảy ra, tất yếu tồn tại quá

trình tác động giữa các chủ thể, công cụ, phương tiện và môi trường vật chất

tự nhiên. Quá trình tác động này đương nhiên làm xuất hiện các phản ánh vật

chất, đó chính là hệ thống các dấu vết hình sự.

Như vậy, dấu vết hình sự có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau

như: Tồn tại ở dạng vật thể và các chất cụ thể; làm biến đổi cấu hình vật chất

vốn có; thể hiện đặc điểm của chúng trên các vật chất khác… Dù tồn tại ở

hình thức nào thì dấu vết hình sự cũng có thể được tri giác thông qua các giác

quan của con người.

Do có quan hệ tất yếu với vụ việc mang tính hình sự nên dấu vết hình

sự chứa đựng những thông tin hữu ích, có thể giúp cho các chủ thể nhận thức

Page 6: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

6

được diễn biến của vụ việc cũng như xác định các vấn đề có liên quan đến vụ

việc đó.

Tóm lại, có thể hiểu rằng: Dấu vết ìn sự là n ững p ản án vật c ất

ìn t àn và tồn tại trong mối qu n ệ tất yếu v i tội p ạm oặc n ững sự

việc m ng t n c ất ìn sự, cần được t u t ập, sử dụng để điều tr , xử lý

n ững sự việc này t eo quy đ n củ p áp luật”4.

Khái niệm trên đã thể hiện được bản chất của dấu vết hình sự, mối quan

hệ của dấu vết hình sự với vụ việc xảy ra, đồng thời nêu lên được sự cần thiết

của việc nghiên cứu dấu vết hìn sự trong điều tra, xử lý vụ việc mang tính

hình sự nói chung và vụ án hình sự nói riêng.

1.1.1.2. Khái niệm Vật chứng

Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 xác định khái niệm vật

chứng như sau: “Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, p ương tiện phạm

tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng n ư tiền

bạc và vật chất có giá tr chứng minh tội phạm và người phạm tội”5.

Như vậy, vật chứng trước hết phải là “vật”, có thể tồn tại dưới dạng thể

rắn, thể lỏng hoặc thể khí mà con người có thể nhận biết được thông qua các

giác quan: thị giác, khứu giác, thính xác, vị giác và xúc giác.

Dưới góc độ logic, khái niệm về vật chứng tại Điều 74 Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2003 chưa hoàn chỉnh về cấu trúc, bởi lẽ: Khái niệm vật chứng

đó chỉ đề cập đến ngoại diên của khái niệm vật chứng, chứ chưa đề cập đến

nội hàm của nó. Theo tác giả, vật chứng là vật có giá tr chứng minh tội phạm

và người phạm tội cũng n ư các tìn tiết khác cần thiết cho việc giải quyết

đúng đắn vụ án hình sự.

Vật có giá trị chứng minh tội phạm là vật chứng minh cho cấu thành tội

phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành tội phạm giảm

nhẹ cũng như các tình tiết khác có ý nghĩ tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự của người phạm tội. Ví dụ: Trong vụ án Giết người, đối tượng

đổ lọ thuốc độc vào giếng nước sinh hoạt của gia đình nạn nhân, thì lọ thuốc

độc là vật chứng để chứng minh cho việc người phạm tội đã thực hiện hành vi

giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người là tình tiết

4 Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an (Đề tài khoa học cấp Bộ mã số BK93-061-001), trang 31;

5 Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định: “Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, p ương tiện

phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá tr chứng minh

tội phạm và người phạm tội hoặc có ý ng ĩ trong việc giải quyết vụ án”

Page 7: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

7

tăng nặng định khung theo điểm l khoản 1 Điều 93 của Bộ luật hình sự năm

1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 2009).

Vật có giá trị chứng minh người phạm tội là những vật chứng minh cho

tư cách chủ thể tội phạm của một người phạm tội, hay nói cách khác, những

vật có giá trị xác định đúng một người nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội

cũng như những đặc điểm khác thuộc nhân thân người đó. Ví dụ: Chiếc dép

của người phạm tội (xác minh được) thu được tại hiện trường vụ giết người…

Vật có giá trị chứng minh các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết

đúng đắn vụ án là những vật mà trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá vật đó có thể

khai thác những thông tin có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án như bồi

thường thiệt hại…

Mặc dù dấu vết hình sự và vật chứng đều tồn tại dưới dạng vật chất,

đều chứa đựng những thông tin nhất định phản ánh diễn biến, bản chất sự

việc, tuy nhiên dấu vết hình sự không phải là vật chứng, bởi bản chất, quy luật

hình thành của dấu vết hình sự và vật chứng là khác nhau. Dấu vết hình sự là

những phản ánh vật chất, hình thành do quá trình tác động lẫn nhau và quá

trình phản ánh của các hệ thống vật chất tồn tại trong không gian, thời gian,

địa điểm nhất định, liên quan trực tiếp đến vụ việc mang tính hình sự. Còn vật

chứng là vật có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội cũng như các

tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Sự tồn tại

của những vật này không phụ thuộc vào quá trình tác động lẫn nhau và quá

trình phản ánh của hệ thống vật chất tồn tại trong không gian, thời gian, địa

điểm nhất định, liên quan trực tiếp đến vụ án hình sự. Trong một số trường

hợp, dấu vết hình sự và vật chứng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đó là

khi, vật chứng chính là vật mang vết hoặc là vật gây vết6.

Như vậy, tại hiện trường các vụ án hình sự luôn tồn tại hệ thống những

dấu vết, vật chứng có liên quan đến tội phạm và người phạm tội. Những dấu

vết, vật chứng đó cần phải được thu thập và bảo quản để phục vụ cho việc

khai thác, đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự cụ thể.

1.1.1.3. Khái niệm dấu vết, vật chứng trong các vụ án giết người

Giết người là một tội phạm hình sự cụ thể, được quy định tại Điều 93

Bộ luật hình sự năm 2009 và tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015. Mặc dù

cả hai điều luật này đều không đưa ra khái niệm cũng như dấu hiệu cơ bản

6 Trong trường hợp này, có thể hiểu, vật gây vết chính là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội.

Page 8: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

8

của tội phạm Giết người, tuy nhiên, qua nghiên cứu khái niệm tội phạm7 và

thực tiễn xử lý tội phạm Giết người, tác giả cho rằng: “Tội phạm giết người là

hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy đ nh trong Bộ luật hình sự, do người

có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, nhằm cố ý tư c đoạt tính mạng

củ người khác một cách trái pháp luật ”

Trên cơ sở khái niệm về dấu vết hình sự, vật chứng và nhận thức về tội

phạm Giết người như đã nêu trên, tác giả xin đưa ra khái niệm dấu vết, vật

chứng trong các vụ án giết người như sau:

Dấu vết hình sự trong vụ án Giết người là những phản ánh vật chất,

hình thành và tồn tại trong mối quan hệ tất yếu với vụ án Giết người, cần

được phát hiện, thu thập, đánh giá và sử dụng trong công tác đấu tranh và phòng

ngừa tội phạm.

Vật chứng trong vụ án Giết người là vật có giá trị chứng minh tội phạm

và người phạm tội cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết

đúng đắn vụ án Giết người.

1.1.1.4. Vai trò của dấu vết, vật chứng đối v i việc giải quyết vụ án Giết

người

Do có những thuộc tính như tính phản ánh, tính khách quan, tính không

gian, thời gian, tính logic, tính hợp pháp, dấu vết, vật chứng trong các vụ án

giết người có vai trò quan trọng đối với việc giải quyết vụ án. Điều này thể

hiện qua các nội dung sau:

Một là, dấu vết, vật chứng là cơ sở để xác đ nh bản chất sự việc

Dấu vết hình sự là hệ quả tất yếu của những tác động xảy ra trong quá

trình diễn biến của sự việc. Mỗi hành vi của chủ thể tác động, mỗi sự tác động

trong quá trình xảy ra sự việc đều được phản ánh lại bằng một hoặc nhiều dấu

vết tương ứng. Dấu vết hình sự chứa đựng những thông tin phản ánh về

nguyên nhân hình thành cũng như cơ chế hình thành ra chính dấu vết hình sự

đó. Do đó, trên cơ sở nghiên cứu dấu vết hình sự có thể xác định bản chất sự

việc có phải là vụ án giết người, vụ án cố ý gây thương tích hay chỉ là vụ tai

nạn hoặc tự sát. Ngoài ra, từ dấu vết hình sự có thể xác định địa điểm, thời

gian xảy ra vụ án, phương thức, thủ đoạn gây án, công cụ, phương tiện phạm

tội cũng như xác định được số lượng thủ phạm, trình độ và các thông tin khác

về đối tượng gây án… Đây chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng

7 Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2009;

Page 9: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

9

của hoạt động điều tra ban đầu các vụ án giết người mà đặc biệt là những vụ

giết người không quả tang, từ đó làm cơ sở quan trọng để xây dựng kế hoạch

điều tra cụ thể.

Hai là, dấu vết, vật chứng là cơ sở để xác lập chứng cứ phục vụ công

tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án giết người.

Trong tố tụng hình sự, để có cơ sở giải quyết đúng đắn vấn đề trách

nhiệm hình sự của người phạm tội cũng như bảo vệ tốt quyền và lợi ích chính

đáng của Nhà nước, của tổ chức, công dân, kể cả bản thân người phạm tội,

tránh được oan, sai, bỏ sót, lọt tội phạm và người phạm tội, đòi hỏi các cơ

quan và người tiến hành tố tụng phải thu thập, kiểm tra, bảo quản, đánh giá và

sử dụng chứng cứ một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và hợp pháp.

Khoản 2 Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Điều 87 Bộ luật tố tụng

hình sự 2015 quy định chứng cứ được xác định bởi những nguồn sau: Vật

chứng; Lời khai củ người làm chứng, người b hại, nguyên đơn dân sự, b

đơn dân sự, người có quyền lợi, ng ĩ vụ liên qu n đến vụ án, người b bắt,

người b tạm giữ, b can, b cáo; Kết luận giám đ nh; Biên bản về hoạt động

điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác. Như vậy, Bộ luật tố tụng hình sự

đã quy định rõ vật chứng là một loại nguồn chứng cứ, có ý nghĩa đối với việc

giải quyết vụ án hình sự nói chung và vụ án giết người nói riêng.

Mặc dù không được pháp luật quy định cụ thể, tuy nhiên, với nội hàm

phong phú của mình, kết hợp với hoạt động chuyển hóa chứng cứ, dấu vết

hình sự cũng là cơ sở cho việc xác định chứng cứ thông qua hai loại nguồn là

vật chứng và kết luận giám định.

Như vậy, từ dấu vết, vật chứng, cơ quan tiến hành tố tụng có thể khai

thác những thông tin có thật, có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm

tội cũng như những tình tiết khác cần thiết đối với việc giải quyết vụ án Giết

người cụ thể.

Ba là, dấu vết, vật chứng có giá tr truy nguyên người phạm tội

Những dấu vết như dấu vết đường vân, dấu vết máu, lông tóc, dấu vết

chất bài tiết… đã được khoa học nghiên cứu và xác định có thể truy nguyên

trực tiếp những con người đã để lại các dấu vết đó với đầy đủ các cơ sở khoa

học. Những dấu vết, vật chứng là các đồ dùng cá nhân của thủ phạm để lại ở

hiện trường vụ án Giết người tại hiện trường có thể truy nguyên gián tiếp kẻ

phạm tội…

Page 10: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

10

Ngoài ra, theo khoa học điều tra, dấu vết, vật chứng trong các vụ án

hình sự nói chung và trong các vụ án Giết người nói riêng còn là căn cứ để

tiến hành thực nghiệm điều tra, đánh giá các tài liệu, chứng cứ, thông tin khác

như lời khai của thủ phạm, người làm chứng…

Những phân tích nêu trên cho thấy: Dấu vết, vật chứng có ý nghĩa quan

trọng, thậm chí trong nhiều trường hợp có tính quyết định đối với việc giải

quyết vụ án hình sự nói chung và vụ án Giết người nói riêng. Do đó, chúng

cần phải được thu thập, bảo quản một cách hợp pháp, đúng đắn.

1.1.2. Một số vấn đề lý luận về thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng

1 1 2 1 ái niệm t u t ập dấu vết, vật c ứng

Bộ luật tố tụng hình sự không nêu khái niệm thế nào là thu thập dấu

vết, vật chứng. Tuy nhiên, theo Từ điển tiếng Việt8, thu thập là “góp n ặt và

tập ợp lại”. Giới nghiên cứu khoa học ở nước ta cũng không đưa ra khái

niệm thu thập dấu vết, vật chứng nhưng lại có nêu ra nhiều khái niệm thu thập

chứng cứ. Theo đó, thu thập chứng cứ bao gồm các hành vi phát hiện, lập

biên bản ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ. Ý kiến khác lại tách phần

phát hiện, bảo quản ra khỏi hoạt động thu thập chứng cứ khi xác định “phát

iện c ứng cứ là tìm n ững vật, iện tượng, dấu vết, sự kiện, tài liệu… có t ể

c ứng min n ững tìn tiết củ vụ án” còn “t u t ập c ứng cứ là việc người

có t ẩm quyền áp dụng các iện p áp t eo quy đ n củ p áp luật tố tụng

ìn sự để g i n ận và t u giữ c ứng cứ làm c o c úng có đầy đủ giá tr

c ứng min và iệu lực sử dụng9”. Mặc dù, việc trình bày các khái niệm là

khác nhau nhưng nhìn chung các khái niệm này đều thống nhất ở chỗ hoạt

động thu thập chứng cứ là hoạt động do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện

theo trình tự thủ tục luật định để phát hiện, thu giữ, bảo quản các thông tin

được xác định là chứng cứ.

Kết hợp các quan điểm về thu thập chứng cứ với khái niệm chứng cứ

và nguồn chứng cứ, có thể đưa ra khái niệm thu thập dấu vết, vật chứng như

sau: T u t ập dấu vết, vật c ứng là oạt động do cơ qu n tiến àn tố tụng

t ực iện n ằm p át iện, g i n ận, t u lượm dấu vết, thu giữ vật c ứng t eo

trìn tự, t ủ tục do Bộ luật tố tụng ìn sự quy đ n . Trong đó:

8 Từ điển Tiếng việt (2005), Nxb. Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học, Viện ngôn ngữ học;

9 Nguyễn Văn Cừ (2005), Chứng cứ trong luật TTHS Việt Nam, Nxb. Tư pháp;

Page 11: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

11

P át iện dấu vết, vật c ứng là tìm tòi, sàng lọc ra những dấu vết, đồ

vật có chứa đựng thông tin được xác định là chứng cứ, từ đó có cơ sở tiến

hành các hoạt động nghiệp vụ tiếp theo.

G i n ận dấu vết, vật c ứng là việc lưu giữ lại hình ảnh của dấu vết,

vật chứng theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng hình sự và phương pháp của kỹ

thuật điều tra hình sự, biểu hiện bằng việc lập biên bản, ghi âm, chụp ảnh, vẽ

sơ đồ để mô tả, ghi lại những thông tin mà dấu vết, vật chứng chứa đựng.

T u lượm dấu vết, t u giữ vật c ứng là tách dấu vết, vật chứng ra khỏi

môi trường xung quanh nhằm mục đích bảo vệ giá trị chứng minh của nó,

phục vụ cho việc chứng minh và giải quyết vụ án.

Dấu vết, vật chứng trong vụ án hình sự nói chung và vụ án Giết người

nói riêng được thu thập qua các hoạt động điều tra như: Khám nghiệm hiện

trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết thân thể, khám người, chỗ ở, chỗ

làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm10

. Ngoài ra,

cơ quan tiến hành tố tụng còn thu thập dấu vết, vật chứng thông qua việc tiếp

nhận những dấu vết, vật chứng do cá nhân, tổ chức giao nộp. Tuy nhiên, thực

tiễn cho thấy việc phát hiện, ghi nhận, thu lượm dấu vết, thu giữ vật chứng

trong các vụ án Giết người chủ yếu được tiến hành thông qua hoạt động khám

nghiệm hiện trường và khám nghiệm tử thi.

Từ những dấu vết, vật chứng đã được thu thập, thông qua việc giám

định, kết hợp với việc đánh giá một cách toàn diện những thông tin đã thu

thập được, Cơ quan tiến hành tố tụng có thể xác định cơ chế gây tổn thương

cũng như nguyên nhân chết của bị hại từ đó có cơ sở xác định bản chất sự

việc, đó có phải là vụ án Giết người không hay chỉ là một vụ tai nạn, tự sát

hoặc bệnh lý. Đối với những vụ phạm tội quả tang, việc thu thập dấu vết, vật

chứng cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định tội, xác định tính chất,

mức độ nguy hiểm của hành vi, từ đó có đường lối xử lý phù hợp đối với

người phạm tội trong từng trường hợp cụ thể.

Như vậy, việc thu thập dấu vết, vật chứng giữ vai trò quan trọng, thậm

chí mang tính quyết định đối với việc giải quyết vụ án hình sự. Ngoài ra, để

có thể sử dụng các dấu vết, vật chứng nhằm khai thác các chứng cứ chứng

minh tội phạm và người phạm tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, cơ

quan có thẩm quyền phải tiến hành bảo quản những dấu vết, vật chứng này.

10

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định thêm hoạt động khám xét phương tiện, dữ liệu điện tử;

Page 12: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

12

1.1.2.2. Khái niệm bảo quản dấu vết, vật chứng

Theo Từ điển Tiếng việt11

, bảo quản là giữ gìn, tr ng nom để khỏi ư

hỏng, hao hụt. Như vậy, có thể hiểu rằng: Bảo quản dấu vết, vật chứng là giữ

gìn tính nguyên vẹn của dấu vết, vật chứng, tránh làm mất mát, thất lạc hoặc

làm ư ỏng dấu vết, vật chứng. Trong đó, ảo quản dấu vết bao gồm cả việc

bảo quản bản thân dấu vết và vật mang vết12

nhằm bảo đảm khả năng sử

dụng dấu vết và vật mang vết.

Như đã phân tích tại mục 1.1.1, dấu vết, vật chứng tồn tại dưới dạng vật

chất nên đương nhiên sẽ bị biến đổi do các quá trình lý học, hóa học, sinh học

diễn ra chính trong nội tại của nó. Ngoài ra, dấu vết, vật chứng còn có thể bị

tác động của môi trường như điều kiện nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, thời tiết...

hoặc tác động của con người, côn trùng, súc vật... Những yếu tố đó ảnh hưởng

đến sự tồn tại của dấu vết, vật chứng và đương nhiên sẽ ảnh hưởng đến giá trị

chứng minh của dấu vết, vật chứng đối với vụ án hình sự. Chính vì thế, việc

giữ gìn tính nguyên vẹn, tránh làm mất mát, thất lạc hoặc làm hư hỏng dấu

vết, vật chứng giữ vai trò quan trọng đối với việc giải quyết vụ án hình sự nói

chung và các vụ án giết người nói riêng. Nếu dấu vết, vật chứng không được

bảo quản tốt dẫn đến bị hư hỏng, biến đổi, mất mát hay thất lạc sẽ làm giảm

giá trị chứng minh của các chứng cứ khai thác được từ các dấu vết, vật chứng

đã được thu thập. Vì vậy, yêu cầu đối với hoạt động bảo quản dấu vết, vật

chứng là phải được thực hiện một cách hợp pháp, kịp thời, đầy đủ và đúng

phương pháp.

Để tạo hành lang pháp lý cho việc tiến hành hoạt động thu thập, bảo

quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án hình sự nói chung cũng như các vụ

án giết người nói riêng, pháp luật đã ban hành các quy định cụ thể trong Bộ

luật tố tụng hình sự13

và các văn bản dưới luật như: Quy chế quản lý kho vật

chứng ban hành kèm theo Nghị định số 18/2002/NĐ-CP ngày 18/02/2002 của

Chính phủ, Thông tư số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005

của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Nghị định

số 70/2013/NĐ-CP ngày 02 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ… Trong quá

trình thực hiện các hoạt động thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng, cơ quan

11

Từ điển Tiếng việt (2005), Nxb. Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học, Viện ngôn ngữ học; 12

Vật mang dấu vết tội phạm là một loại vật chứng theo quy định tại Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự năm

2003; 13

Các quy định rải rác trong các chương V, XII, XIII Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và tại Chương VI,

XIII, XIV Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Page 13: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

13

và người có thẩm quyền phải tuyệt đối tuân thủ các quy định về thẩm quyền,

trình tự, thủ tục cũng như nguyên tắc tiến hành các hoạt động nêu trên, góp

phần có hiệu quả vào việc giải quyết các vụ án hình sự nói chung và các vụ án

Giết người nói riêng.

1.2. Khái niệm và nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát

việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong vụ án Giết ngƣời

1.2.1. Khái niệm “Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc thu

thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong vụ án Giết ngƣời”

Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân hiện hành đều quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân

dân đó là: “Viện kiểm sát n ân dân là cơ qu n t ực àn quyền c ng tố, kiểm

sát oạt động tư p áp…”

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất được giao chức

năng thực hành quyền công tố. Theo đó, thực hành quyền công tố là oạt

động củ Viện kiểm sát n ân dân trong tố tụng ìn sự để t ực iện việc uộc

tội củ N à nư c đối v i người p ạm tội, được t ực iện ng y từ k i giải

quyết tố giác, tin áo về tội p ạm, kiến ng k ởi tố và trong suốt quá trìn

k ởi tố, điều tr , truy tố, xét xử vụ án ìn sự14, nhằm bảo đảm mọi hành vi

phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử

kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan

người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội…

Ngoài chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân còn

có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Theo quy định tại Điều 4 Luật tổ

chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì: “ iểm sát oạt động tư p áp là

oạt động củ Viện kiểm sát n ân dân để kiểm sát t n ợp p áp củ các

àn vi, quyết đ n củ cơ qu n, tổ c ức, cá n ân trong oạt động tư p áp,

được t ực iện ng y từ k i tiếp n ận và giải quyết tố giác, tin áo về tội

p ạm, kiến ng k ởi tố và trong suốt quá trìn giải quyết vụ án ìn sự ”

Dựa theo các quy định nêu trên, có thể xác định rằng: Đối tượng của

hoạt động kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng đó là việc tuân

theo pháp luật của những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong việc thu thập,

bảo quản, dấu vết, vật chứng thông các hoạt động điều tra như: Khám nghiệm

14

Khoản 1 Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014;

Page 14: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

14

hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết thân thể, khám xét15

hoặc

khi tiếp nhận những đồ vật, tài liệu do các cá nhân, tổ chức giao nộp. Còn đối

tượng của hoạt động thực hành quyền công tố trong toàn bộ quá trình giải

quyết vụ án Giết người nói chung và đối với việc thu thập, bảo quản dấu vết,

vật chứng nói riêng đều chính là tội phạm và người phạm tội Giết người cụ thể.

Từ những khái niệm nêu trên, tác giả cho rằng: T ực àn quyền c ng

tố và kiểm sát việc t u t ập, ảo quản dấu vết, vật c ứng trong các vụ án Giết

người là hoạt động nhằm thực hiện chức năng t ực hành quyền công tố và

kiểm sát hoạt động tư p áp của Viện kiểm sát n ân dân, trong đó Viện kiểm

sát nhân dân sử dụng tổng hợp những quyền năng p áp lý để kiểm sát việc

tuân theo pháp luật củ các cơ qu n có t ẩm quyền khi tiến hành việc t u

t ập, ảo quản dấu vết, vật c ứng và đề ra yêu cầu điều tr đối v i hoạt động

này khi cần thiết nhằm ảo đảm mọi àn vi p ạm tội, người p ạm tội Giết

người p ải được p át iện, k ởi tố, điều tr , truy tố, xét xử k p t ời, ng iêm

min , đúng người, đúng tội, đúng p áp luật…

Thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thu

thập, bảo quản dấu vết vật chứng trong các vụ án hình sự nói chung và vụ án

Giết người nói riêng, Kiểm sát viên sẽ thực hành quyền công tố đối với việc

thu thập và bảo quản dấu vết, vật chứng. Việc làm tốt công tác kiểm sát việc

tuân theo pháp luật sẽ hỗ trợ, tạo điều kiện cho hoạt động thực hành quyền

công tố được tốt hơn; ngược lại, việc làm tốt hoạt động công tố cho phép đi

sâu, làm rõ vi phạm pháp luật trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố

tụng. Hai hoạt động này đều vì mục đích cuối cùng của quá trình giải quyết

vụ án hình sự đó là đảm bảo việc truy cứu trách nhiệm hình sự có căn cứ,

đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.

1.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát việc thu thập,

bảo quản dấu vết, vật chứng trong vụ án Giết người

Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu

vết, vật chứng trong các vụ án Giết người, Kiểm sát viên cần bảo đảm thực

hiện tốt những nội dung sau:

Một là, Kiểm sát viên phải trực tiếp tham gia kiểm sát các hoạt động

điều tra liên qu n đến việc thu thập, dấu vết, vật chứng mà pháp luật quy định

15

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về hoạt động khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật,

thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định thêm hoạt động khám xét

phương tiện, dữ liệu điện tử ;

Page 15: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

15

phải có mặt Kiểm sát viên khi tiến hành như: Khám nghiệm hiện trường,

khám nghiệm tử thi theo quy định tại Điều 150, 151 Bộ luật Tố tụng Hình sự

năm 2003.

Việc trực tiếp tham gia kiểm sát từ khi bắt đầu đến khi kết thúc khám

nghiệm giúp Kiểm sát viên kịp thời phát hiện các vi phạm về thẩm quyền, thủ

tục, cách thức thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng của các cơ quan, người

tham gia khám nghiệm và đưa ra yêu cầu khắc phục khi cần thiết.

Khi kiểm sát các hoạt động này, Kiểm sát viên cần lưu ý một số vấn đề sau:

- Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc thành lập các Hội đồng khám

nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thẩm quyền, thủ tục tiến hành thu

lượm dấu vết, thu giữ vật chứng theo đúng quy định pháp luật.

- Kiểm sát viên kiểm sát hoạt động chuyên môn của các thành viên

trong Hội đồng khám nghiệm

Trong quá trình tham gia kiểm sát hoạt động khám nghiệm, Kiểm sát

viên phải đảm bảo việc phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản dấu vết, vật

chứng của các thành viên trong Hội đồng khám nghiệm được thực hiện đúng

cách, đúng trình tự, thủ tục quy định tại các Điều 77; 95; 150 và 154 Bộ luật

tố tụng hình sự năm 2003. Bên cạnh đó, các thành viên trong Hội đồng phải

hết sức cẩn thận tránh làm mất đi các dấu vết, hoặc tạo thêm những dấu vết

mới do sự bất cẩn trong quá trình thực hiện hoạt động chuyên môn.

Theo Quy chế về công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường,

khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra, việc tiến hành giám định16

thì khi

kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên

có thể chụp ảnh, vẽ sơ đồ hiện trường, xem xét tại chỗ dấu vết, đồ vật, tài liệu

liên quan đến vụ án, lấy lời khai và ghi âm lời khai của người bị hại, người

làm chứng…, các tài liệu này được lưu trong hồ sơ kiểm sát điều tra vụ án.

Đây là quy định không mang tính bắt buộc đối với Kiểm sát viên, do vậy tuỳ

từng trường hợp cụ thể mà Kiểm sát viên có thể thực hiện một hoặc một số

hoạt động nêu trên. Kiểm sát viên cần ghi chép tỷ mỷ các số liệu đo đạc tại

hiện trường, các hoạt động của Điều tra viên, Giám định viên, Kỹ thuật viên,

đặc điểm của các vật nghi là vật chứng tại hiện trường… để đối chiếu trước

khi ký xác nhận vào biên bản khám nghiệm hiện trường.

16

Ban hành kèm theo Quyết định số 421/QĐ-VKSTC ngày 17 tháng 10 năm 2014 của Viện trưởng Viện

kiểm sát nhân dân tối cao;

Page 16: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

16

Kiểm sát viên phải kiểm tra, đối chiếu thực tế hoạt động khám nghiệm,

các dấu vết, vật chứng thu thập được với biên bản do Điều tra viên lập xem có

phản ánh đúng, đầy đủ diễn biến của cuộc khám nghiệm không, các đặc điểm

của dấu vết, vật chứng không. Chỉ khi nào thấy đúng và đầy đủ, Kiểm sát viên

mới ký vào biên bản.

Đối với các hoạt động liên quan đến việc thu thập, dấu vết, vật chứng

mà pháp luật không quy định phải có mặt Kiểm sát viên thì nếu không trực

tiếp tham gia kiểm sát hoạt động đó, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ nội

dung, hình thức biên bản khám xét, thu giữ đồ vật, tài liệu... do người có thẩm

quyền lập, đảm bảo hoạt động khám xét, thu giữ đó được tiến hành theo đúng

quy định pháp luật.

Hai là, Kiểm sát viên phải kiểm tra thủ tục và nội dung của các biên

bản tố tụng liên qu n đến việc thu thập dấu vết, vật chứng

Kiểm sát viên phải kiểm tra chặt chẽ thủ tục và việc lập các biên bản tố

tụng liên quan đến hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,

xem xét dấu vết thân thể, thu giữ đồ vật, tài liệu… đảm bảo tuân thủ đúng quy

định pháp luật. Ngoài ra, Kiểm sát viên cần lưu ý việc ghi chép các nội dung,

mô tả dấu vết, vật chứng trong các biên bản phải đúng với diễn biến của cuộc

khám nghiệm, khám xét; đúng với thực trạng của dấu vết, vật chứng về giá trị

đo lường, kích cỡ, hình thể, đặc điểm... để tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý

đúng đắn vụ án. Việc làm này giúp hạn chế tình trạng “vô hiệu hóa” giá trị

chứng minh của các chứng cứ khai thác được từ các dấu vết, vật chứng đã thu

thập được do vi phạm thủ tục tố tụng hoặc thiếu sót trong việc ghi chép biên

bản thu giữ mặc dù đó chính là những dấu vết, vật chứng có ý nghĩa đối với

việc giải quyết vụ án.

Ba là, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ, đảm bảo đúng t ủ tục

trong việc lập và mở niêm phong

Kiểm sát viên phải xem xét loại dấu vết, vật chứng nào cần phải niêm

phong, giám định ngay và loại dấu vết, vật chứng nào cần có cách thức bảo

quản riêng để có yêu cầu phù hợp đối với người thực hiện. Ví dụ, đối với dấu

vết máu, tinh dịch không được niêm phong ngay mà sau khi thu dấu vết phải

để khô tự nhiên rồi mới niêm phong. Nếu không để khô dấu vết máu, tinh

dịch trước khi niêm phong thì dưới tác động của môi trường, khí hậu nóng,

ẩm tại Việt Nam thì dấu vết đó sẽ bị thối, ảnh hưởng đến việc giám định.

Page 17: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

17

Ngoài ra, Kiểm sát viên cần kiểm tra cụ thể việc niêm phong, mở niêm

phong phải đảm bảo đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ

tục thông qua kiểm tra biên bản niêm phong mà mở niêm phong đã được lập

và đưa vào hồ sơ vụ án.

Bốn là, Kiểm sát viên cần lưu ý vấn đề kiểm sát việc chuyển giao vật

chứng giữ các cơ qu n có thẩm quyền trong quá trình giải quyết vụ án.

Hoạt động chuyển giao vật chứng giữa các cơ quan trong quá trình giải

quyết vụ án có liên quan mật thiết đến việc bảo quản dấu vết, vật chứng. Bởi,

sau khi được thu thập, dấu vết, vật chứng sẽ được chuyển giao giữa các cơ

quan có thẩm quyền nhằm phục vụ công tác giám định, xem xét, đánh giá

chứng cứ. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 200317

, việc

chuyển giao dấu vết, vật chứng được thực hiện giữa các Cơ quan tiến hành tố

tụng với nhau18

hoặc giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với cơ quan giám

định.

Kiểm sát viên cần kiểm sát chặt chẽ về thủ tục, thời hạn chuyển giao

vật chứng giữa các cơ quan có thẩm quyền nêu trên để đảm bảo không để xảy

những sai phạm trong quá trình chuyển giao dấu vết, vật chứng, làm ảnh

hưởng đến việc giải quyết các vụ án Giết người.

Năm là, Kiểm sát viên k p thời đề ra yêu cầu điều tr đối v i việc thu

thập, bảo quản dấu vết, vật chứng p ù ợp v i t n c ất, nội dung, đặc điểm

củ từng vụ án;

Kiểm sát viên có thể đề ra yêu cầu điều tra bằng lời nói hoặc văn bản.

Thông qua việc yêu cầu điều tra, Kiểm sát viên thể hiện rõ quan điểm của

mình trong việc thu thập dấu vết, vật chứng trong quá trình khám nghiệm,

khám xét... giúp ích rất nhiều cho Điều tra viên trong khi tiến hành các hoạt

động này.

Nội dung của yêu cầu điều tra đối với việc thu thập, bảo quản dấu vết,

vật chứng phải tùy vào tính chất, nội dung, đặc điểm của từng vụ án, nhưng

cơ bản phải đảm bảo các nội dung sau:

17

Theo quy định tại Điều 116, Điều 162, Khoản 1, Khoản 4 Điều 166 và Điều 174 Bộ luật Tố tụng Hình sự

năm 2003; 18

Dấu vết, vật chứng có thể được chuyển giao giữa các cơ quan liên ngành Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,

Toà án với nhau hoặc giữa các cơ quan trong cùng một ngành để giải quyết có hiệu quả vụ án hình sự.

Page 18: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

18

- Yêu cầu việc thu giữ, bảo quản các dấu vết, vật chứng phải được tiến

hành một cách khách quan, kịp thời, đúng cách và hợp pháp; Việc lập các

biên bản phải đảm bảo về nội dung, hình thức theo quy định pháp luật.

- Yêu cầu việc vẽ sơ đồ hoặc ghi các biên bản khám nghiệm, khám xét,

thu giữ... phải chính xác, mô tả chi tiết đặc điểm, vị trí của các dấu vết, vật

chứng đã phát hiện và thu lượm, thu giữ được.

- Yêu cầu về việc thu thập các dấu vết, vật chứng nhằm xác định các

nội dung như: Thời gian chết của nạn nhân; nạn nhân chết có sự tác động từ

bên ngoài không, tính chất các thương tích, vật gây nên các thương tích và

thời gian gây ra các thương tích đó; nguyên nhân dẫn tới nạn nhân chết, nhóm

máu của nạn nhân, trước khi chết nạn nhân đã ăn uống gì, nếu là phụ nữ thì ở

bộ phận sinh dục của nạn nhân có tinh trùng không; nếu nạn nhân chết do

ngạt thở thì có phải chết do tác động bên ngoài tới đường hô hấp hay không;

các dấu vết ở cổ (nếu có), xuất hiện lúc nạn nhân còn sống hay sau khi đã

chết; nếu nạn nhân chết do thuốc độc thì ở trong phủ tạng và trong máu nạn

nhân có chất độc gì, liều lượng bao nhiêu, có đủ để gây nên cái chết cho nạn

nhân không; chết do ngạt ôxit cacbon cũng phải lấy phủ tạng để xét nghiệm

độc tố; nếu nạn nhân bị giết và bị cắt ra làm nhiều phần thì nhờ sự giúp đỡ

của giám định viên để xác định các phần đã tìm thấy của một hay nhiều

người, lứa tuổi, giới tính, tình trạng thể chất của nạn nhân, thủ phạm đã dùng

phương tiện gì để chia cắt xác nạn nhân, chú ý các bao túi đựng có đặc điểm

gì; trường hợp nạn nhân bị đốt cháy phải xem xét các bộ phận còn sót lại của

tư trang, thân thể và chú ý đặc điểm hai hàm răng để có cơ sở nhận dạng, truy

tìm tung tích của nạn nhân.

Các nội dung đề ra phải rõ ràng, cụ thể và có chất lượng, không nêu

chung chung hoặc nêu không rõ ý; những vấn đề đương nhiên Điều tra viên

phải làm hoặc sử dụng các chiến thuật, phương pháp tiến hành khám nghiệm

hiện trường thì không cần nêu. Kiểm sát viên chỉ đề ra những nội dung cần

thiết” để củng cố chứng cứ, hoàn thiện đầy đủ thủ tục tố tụng bảo đảm cho

việc giải quyết vụ án.

Ngoài ra, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ, bảo đảm các yêu cầu

điều tra đã đề ra phải được thực hiện đầy đủ. Nếu Điều tra viên đề nghị, Kiểm

sát viên có trách nhiệm giải thích rõ nội dung những yêu cầu điều tra. Trường

hợp Điều tra viên không nhất trí thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó

Page 19: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

19

Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, kiến

nghị với Thủ trưởng Cơ quan điều tra giải quyết. Nếu do điều kiện khách

quan mà Cơ quan điều tra không thực hiện được đầy đủ các yêu cầu điều tra

thì phải nêu rõ lý do trong Bản kết luận điều tra vụ án.

Bên cạnh đó, Kiểm sát viên cần phối hợp cùng Điều tra viên bàn bạc

hướng điều tra, phương cách thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng, cảm hoá

đối tượng điều tra, truy tố để họ tự giác giao nộp hoặc khai báo về nơi cất giấu

vật chứng, đấu tranh với tội phạm giả mạo vật chứng, làm lạc hướng điều tra…

Như đã phân tích ở phần trên, dấu vết, vật chứng có ý nghĩa quan trọng,

thậm chí trong một số trường hợp mang tính quyết định đối với việc giải

quyết các vụ án giết người. Nếu cơ quan có thẩm quyền làm tốt hoạt động thu

thập, bảo quản dấu vết, vật chứng sẽ góp phần tích cực vào hiệu quả đấu

tranh, khám phá tội phạm và người phạm tội. Chính vì thế, hoạt động thực

hành quyền công tố và kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng

của Viện kiểm sát nhân dân mang ý nghĩa quan trọng không kém. Hoạt động

này đảm bảo việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng được thực hiện một

cách, nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ, đúng phương pháp,theo đúng thẩm

quyền, thủ tục luật định, tránh việc làm giảm hoặc mất đi giá trị chứng minh

của các chứng cứ khai thác được từ những dấu vết, vật chứng đã thu thập được.

Page 20: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

20

CHƢƠNG II

MỘT SỐ HẠN CHẾ, THIẾU SÓT VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG

HẠN CHẾ, THIẾU SÓT CỦA KIỂM SÁT VIÊN KHI THỰC HÀNH

QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC THU THẬP, BẢO QUẢN

DẤU VẾT, VẬT CHỨNG TRONG CÁC VỤ ÁN GIẾT NGƢỜI

Để góp phần giải quyết có hiệu quả các vụ án giết người, Kiểm sát viên

cần làm tốt hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc thu thập, bảo

quản dấu vết, vật chứng, đảm bảo các hoạt động này được thực hiện theo

đúng quy định pháp luật.

Thực tiễn cho thấy, trong những năm gần đây, hoạt động này đã được

Kiểm sát viên các cấp thực hiện tương đối tốt, góp phần tích cực vào công tác

điều tra, khám phá các vụ án giết người. Rất nhiều vụ án giết người đã được

giải quyết nhanh chóng, buộc người phạm tội phải chịu sự trừng phạt thích

đáng của pháp luật, trong đó có những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, gây

hoang mang, lo lắng trong dư luận. Điển hình như vụ thảm sát 6 người tại ấp

2, xã Minh Hưng, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xảy ra vào ngày

07.7.2016. Trong vụ án này, các Kiểm sát viên đã làm tốt công tác kiểm sát

thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng, đảm bảo các hoạt động phát hiện, ghi

nhận, thu giữ, bảo quản dấu vết, vật chứng thực hiện đúng quy định pháp luật

từ khi khám nghiệm hiện trường đến khi vụ án được đưa ra xét xử ở các cấp.

Chính từ những dấu vết, vật chứng như chiếc điện thoại, cuộn băng keo, dây

sạc điện thoại, dấu vân tay, dấu vết máu, con dao…, các cơ quan tiến hành tố

tụng đã nhanh chóng xác định được hung thủ của vụ án là Nguyễn Hải Dương

và Vũ Văn Tiến sau ba ngày kể từ khi xảy ra vụ án. Hoặc như vụ án giết

người, hiếp dâm trẻ em xảy ra ngày 12/4/2012, tại thôn Hiệp Thành, xã Cam

Thịnh Đông, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Trong vụ án này, từ dấu

vết rạn chân chim xung quanh hai vết xước trên xương sọ ở khu vực trán của

nạn nhân mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định được chính xác hành

vi phạm tội của Trương Quế Lâm đối với nạn nhân Lê Thị Thanh Nga, buộc

bị cáo phải chịu án tử hình.

Mặc dù các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng

trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, tuy nhiên vẫn còn nhiều vụ án oan,

sai, quá trình điều tra, xử lý kéo dài. Chỉ riêng tại các địa phương thuộc khu

Page 21: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

21

vực phía Nam19

, trong 6 năm (Từ năm 2011 đến năm 2016), có 253 bị

cáo/114 vụ án giết người, chiếm tỷ lệ 10,43% tổng số bị cáo và 7,06% tổng số

vụ án do Viện kiểm sát cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và Viện phúc

thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý20. Trong đó, hầu hết các vụ án này

đều có những sai sót, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng liên quan đến việc

phát hiện, ghi nhận, thu thập và bảo quản dấu vết, vật chứng. Điều này chứng

tỏ hoạt động của một số Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố và kiểm

sát việc thu thập dấu vết, vật chứng trong những vụ án này vẫn còn nhiều hạn

chế, thiếu sót, dẫn đến việc điều tra, truy tố, xét xử nhiều vụ án còn kéo dài

hoặc thậm chí gây oan, sai. Do đó, để việc giải quyết các vụ án Giết người đạt

hiệu quả cao hơn, nhất thiết phải nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động thực

hành quyền công tố, kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong

các vụ án Giết người của các Kiểm sát viên. Muốn đạt được điều này, trước

hết cần xác định được những hạn chế, thiếu sót cụ thể của Kiểm sát viên khi

tiến hành các hoạt động này cũng như xác định những nguyên nhân, điều kiện

dẫn đến thực trạng như trên để từ đó có những giải pháp phù hợp trong thời

gian tới.

2.1. Một số hạn chế, thiếu sót của Kiểm sát viên khi thực hành

quyền công tố, kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong

các vụ án Giết ngƣời

2.1.1. Kiểm sát viên chưa nghiêm túc kiểm sát về trình tự, thủ tục,

thẩm quyền tiến hành các hoạt động của cơ quan có thẩm quyền liên quan

đến việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng

Thực tiễn cho thấy, trong một số trường hợp, mặc dù dấu vết, vật chứng

đã thu thập là khách quan, có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội

nhưng hoạt động thu thập dấu vết, vật chứng này lại vi phạm về thẩm quyền,

trình tự, thủ tục. Nếu những vi phạm này được khắc phục kịp thời sẽ không

làm ảnh hưởng đến giá trị chứng minh của các dấu vết, vật chứng đã thu giữ.

Tuy nhiên, do Kiểm sát viên không kiểm tra hoặc chỉ kiểm tra mang tính hình

thức về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thành phần Hội đồng khám nghiệm…

vào thời điểm trước, trong và sau khi tiến hành các hoạt động thu thập, bảo

19

Các tỉnh từ Thừa Thiên Huế đến Cà Mau; 20

Số liệu thống kê của Viện kiểm sát cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Page 22: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

22

quản dấu vết, vật chứng nên không phát hiện vi phạm do đó không yêu cầu

khắc phục cơ quan có thẩm quyền khắc phục kịp thời.

Điển ìn n ư vụ án Nguyễn Văn Đồng tại tỉn Bìn P ư c

Khoảng 10h ngày 28.1.2013, Nguyễn Văn Đồng lái xe gắn máy đến

nhà ông Trần A Ửng chơi. Lúc đó, tại nhà ông Ửng có vợ là bà Hà Nàm Củ

và các con ông là Trần Ký Moi, Trần Ký Thảo và Trần Ký Cường. Đồng và

Ửng uống rượu và đánh bài xì phé ăn tiền, mỗi ván thắng thua số tiền là 1.000

đồng đến 2.000 đồng ở ngoài vườn, gần sân nhà Ửng.

Đến khoảng 14h chiều cùng ngày, cháu Moi, con ông Ửng, lái xe gắn

máy chở bà Củ đến quán tạp hóa tại thôn 6, xã Đ.L gần đó để mua đồ dùng

gia đình. Lúc này, ở nhà có cháu Thảo và Cường. Đang đánh bài, ông Ửng

dừng chơi vì thấy con nhỏ là cháu Cường khóc và đến bế Cường. Do nghỉ

chơi bài đột ngột, Đồng không đồng ý, cãi nhau với ông Ửng rồi dẫn đến xô

xát giữa hai bên. Đồng cầm cục gạch Tàu và 1 khúc cây đánh ông Ửng làm

rách da đầu chảy máu, viên gạch vỡ làm 4 mảnh. Ông Ửng bỏ ra ngồi gần

giếng nước cách nhà 11m, Đồng chạy đến đánh tiếp rồi đẩy ông Ửng rơi

xuống giếng. Thấy vậy, con ông Ửng là cháu Thảo dẫn cháu Cường đi ra

đường sau nhà đứng khóc chờ mẹ và chị về. Đồng lái xe gắn máy chạy về nhà

mình. Một lúc sau, cháu Moi chở bà Củ về đến nhà, thấy Thảo và Cường

đang đứng ngoài đường khóc và nói với mẹ và chị là ông Ửng bị chết. Những

người hàng xóm đi làm rẫy thấy Đồng đầu không đội mũ bảo hiểm, lái xe gắn

máy chạy ngược chiều trên đường; khi họ đến nhà ông Ửng, nghe vợ con ông

Ửng nói ông bị chết nên đã đi báo công an.

Ngày 29.1.2013, Đồng bị bắt để điều tra về hành vi “giết người”. Tại

bản kết luận giám định pháp y của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh B.kết

luận: “Trần A Ửng có 3 vết t ương dập rác d đầu do vật tầy có cạn tác

động Nạn n ân tử vong do ngạt nư c ấp, suy ấp cấp”. Bản kết luận

giám định của Phân viện Khoa học hình sự tại TPHCM, kết luận: “Các dấu

vết g i t u trên đồng ồ (đồng ồ t u giữ củ Đồng), trên nền n à và trên t y

qu y giếng đều là máu người P ân t c AND, đây là máu củ nạn n ân Trần

A Ửng”.

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố Đồng về tội “Giết

người” và đề nghị tòa sơ thẩm tuyên Đồng mức án tù chung thân. Tòa án nhân

dân tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm, tuyên bố Nguyễn Văn Đồng không

Page 23: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

23

phạm tội “Giết người” do có vi p ạm ng iêm trọng t ủ tục tố tụng k i t u giữ,

c uyển gi o, niêm p ong dấu vết, vật c ứng củ vụ án… làm ảnh hưởng tới

tính khách quan của chứng cứ, cụ thể là:

Khi mời Đồng lên làm việc, phát hiện Đồng có đeo một chiếc đồng hồ

có dính vết máu nên Công an xã Đ.L đã thu giữ chiếc đồng hồ này nhưng

không lập biên bản niêm phong, khi chuyển giao cho Cơ quan điều tra để

trưng cầu giám định cũng không thể hiện bằng biên bản, làm ảnh hưởng tới

tính khách quan của chứng cứ. Bên cạnh đó, Công an xã Đ.L thu giữ vật

chứng là cây gỗ dài 1,17m và viên gạch tàu nhưng không niêm phong theo

quy định tại điểm a khoản 2 Điều 75 Bộ luật tố tụng hình sự; thực nghiệm

điều tra nhưng không tuân thủ quy định tại Điều 153 Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2003. Ngoài những vi phạm liên quan đến việc thu thập, bảo quản dấu

vết, vật chứng nêu trên, vụ án này còn có các vi phạm khác liên quan đến việc

xác định tư cách giám hộ của người làm chứng là người chưa thành niên; sai

phạm trong việc lập biên bản ghi lời khai, làm ảnh hưởng đến tính khách quan

của nội dung khai báo của những người tham gia tố tụng. Vụ án này, Viện

kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước kháng nghị và Tòa án nhân dân cấp cao

tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm tuyên hủy toàn bộ bản án sơ

thẩm để điều tra, xét xử lại.

Thực tế cho thấy, có trường hợp, Kiểm sát viên đã không phát hiện vật

chứng do cơ quan điều tra thu thập là không khách quan, vi phạm nghiêm

trọng về cách thức thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng do đó ảnh hưởng

trực tiếp đến việc giải quyết vụ án.

Điển ìn n ư vụ án Hồ Duy Hải ở tỉn Long An.

Buổi sáng ngày 14/01/2008, hai nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng (23

tuổi) và Nguyễn Thị Thu Vân (21 tuổi) được phát hiện đã chết tại Bưu điện

Cầu Voi, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Nạn nhân Hồng bị cắt lìa cuống

họng, trên mặt có nhiều thương tích, nằm ngửa bên dưới chân cầu thang, áo bị

cuốn lên khỏi ngực. Bên cạnh đó, thi thể Nguyễn Thị Thu Vân (21 tuổi) trong

tư thế nằm ngửa, đầu gối lên đùi trái của Ánh Hồng, chân trái dang ra và gác

lên một cái ghế xếp khung inox, cổ có vết cắt và trên đầu có nhiều dấu vết do

vật cứng va chạm. Số tiền 1.400.000 đồng, một số điện thoại, sim card và nữ

trang cũng biến mất khỏi hiện trường...

Page 24: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

24

8 giờ 10 phút ngày 14.01.2008, 1 điều tra viên của phòng PC14, 03 cán

bộ phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh và 1 kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Long An, tiến hành khám nghiệm hiện trường. Tuy nhiên, trong

quá trình khám nghiệm hiện trường, Hội đồng khám nghiệm đã không chú ý

xem xét để thu giữ những đồ vật liên quan đến dấu vết trên cơ thể nạn nhân

như cái thớt, chiếc ghế inox, con dao nên sau này bị can khai ra đó là hung

khí dùng để tấn công các nạn nhân thì cái thớt, con dao đã bị thất lạc không

tìm lại được21

. Để hoàn thiện “chứng cứ” buộc tội đối với Hồ Duy Hải, Công

an Điều tra tỉnh Long An đã yêu cầu anh Thu22

đi mua một con dao mới có

kiểu dáng, kích thước tương tự con dao đã bị đốt giao lại công an sau đó cho

Hồ Duy Hải nhận dạng. Việc này đã được anh Thu xác nhận vào ngày

21.3.2008. Ngoài ra, ngày 24/6/2008, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã yêu cầu

chị Nguyễn Thị Thu Hiếu (bạn của nạn nhân) đi mua tấm thớt gỗ tròn (có

đường kính 27cm, độ cao 4cm) được chị Hiếu xác nhận là giống với chiếc

thớt ở Bưu cục Cầu Voi mà chị đã nhìn thấy chị Hồng và chị Vân (hai nạn

nhân) thường sử dụng để giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra để bổ sung

hồ sơ. Việc này được lập biên bản vào lúc 13h50 ngày 26.6.2008 tại phòng

Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội - Công an tỉnh Long An. Sau đó,

con dao và chiếc thớt được các cơ quan tiến hành tố tụng coi là vật chứng để

buộc tội Hồ Duy Hải. Đây là một trong những vi phạm tố tụng nghiêm trọng

dẫn đến việc vụ án bị hủy để điều tra, xét xử lại nhiều lần.

2.1.2. Kiểm sát viên không kịp thời phát hiện sai sót trong các thao

tác nghiệp vụ của cơ quan điều tra và cơ quan chuyên môn khi thu thập

dấu vết, vật chứng

Thực tiễn cho thấy việc thu thập dấu vết, vật chứng chủ yếu được thực

hiện thông qua hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

Mặc dù trực tiếp tham gia kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường,

khám nghiệm tử thi, tuy nhiên một số Kiểm sát viên chỉ thụ động chứng kiến

hoặc thiếu sự quan sát, đánh giá hoặc thiếu kiến thức đối với hoạt động của

điều tra viên, cán bộ kỹ thuật hình sự, bác sĩ pháp y… nên không phát hiện

21

Ngày 15.01.2008, một số dân phòng được nhân viên Bưu cục Cầu Voi nhờ dọn dẹp hiện trường và phát

hiện một con dao, sau đó có hỏi ý kiến ông S. (công an huyện Thủ Thừa). Tuy nhiên, ông S. nói: “Con dao

này sạch không có máu chắc không gì đâu, thôi bỏ đi”. Họ lấy con dao này cạo máu dưới nền gạch, sau đó

nhân viên bưu điện yêu cầu đốt đi. Ngày hôm sau, Công an huyện Thủ Thừa yêu cầu các dân phòng tìm lại

con dao nhưng khi bới đống tro đã đốt thì không tìm thấy gì nữa. Về tấm thớt tại hiện trường cũng thất lạc, không

thu giữ lại được; 22

Người làm chứng của vụ án.

Page 25: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

25

những sai sót của chủ thể này khi tiến hành các hoạt động chuyên môn nhằm

thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng. Điều này dẫn đến tình trạng sau một

thời gian dấu vết, vật chứng đã bị mất, lẫn lộn, biến đổi so với trạng thái ban

đầu, không thể khắc phục được, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả giải quyết các vụ

án giết người.

Điển ìn n ư vụ án Lê Bá Mai tại tỉn Bìn P ư c23

:

Ngày 12/11/2004, Lê Bá Mai thấy bé Thị Út (11 tuổi, ngụ xã An

Khương, huyện Hớn Quảng, tỉnh Bình Phước) và Thị Hằng đang mót sắn gần

nơi Mai làm nên nảy sinh ý định giao cấu. Mai lấy xe máy chạy đến rủ Út đến

khu vườn mít ở gần đó rồi dùng tay đánh vào gáy Út bất tỉnh để hiếp dâm.

Thực hiện xong hành vi đồi bại, Mai thấy Út còn sống và sợ bị tố cáo nên lấy

quần của Út siết cổ Út đến chết.

Biết Út đã chết, Mai vùi xác vào một cây mít và trở về chòi tắm rửa, ăn

cơm như không có chuyện gì xảy ra. Đến ngày 16/11/2004, người thân của Út

phát hiện thi thể Út trong vườn mít (thuộc trang trại của ông Dương Bá Tuân)

trong tình trạng không mặc quần, xác đã phân hủy.

Tại hiện trường, Cơ quan điều tra phát hiện vết lốp xe máy. Điều này

phù hợp với lời khai của nhân chứng Thị Hằng về việc “M i đã c ở út đi

bằng xe máy...”. Tuy nhiên, đối với dấu vết lốp xe máy ở hiện trường, cơ quan

khám nghiệm chỉ chụp hình mà không dùng thạch cao để đúc khuôn để thu

dấu vết vân lốp xe mặc dù việc đúc khuôn là cách thức bắt buộc để thu lượm

dấu vết lõm như dấu vân lốp xe trong trường hợp này.

Đây là một trong những cơ sở để Viện phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí

Minh ban hành Kháng nghị giám đốc thẩm Số 30/VKSTC-V3 ngày 12-12-

2006 kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 1345/2005/HSPT ngày

23 Ngày 17/11/2004 Lê Bá Mai bị Công an huyện Bình Long tạm giữ và ngày 19/11/2004 Cơ quan điều

tra Công an tỉnh Bình Phước khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với Lê Bá Mai. Tại bản án hình sự sơ thẩm

số 11/2005/HSST ngày 16/3/2005, Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước áp dụng điểm c, g khoản 1 Điều 93;

khoản 4 Điều 112; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 50 Bộ luật hình sự xử phạt Lê Bá Mai tử hình về tội “Giết

người” và 18 năm tù về tội “hiếp dâm trẻ em”. Tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là tử hình.

Ngày 30/3/2005 Lê Bá Mai kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo kêu oan và cho rằng mình không phải là thủ phạm việc làm đơn kháng

cáo xin giảm nhẹ hình phạt là do cán bộ trong trại tạm giam đọc cho viết.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 1345/2005/HSPT ngày 04/8/2005, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối

cao tại thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối

với Lê Bá Mai. Sau đó, Lê Bá Mai tiếp tục kêu oan...

Page 26: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

26

04/8/2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí

Minh, đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ

tục giám đốc thẩm huỷ bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và bản án hình sự

sơ thẩm số 11/2005/HSST ngày 16.3.2005 của Toà án nhân dân tỉnh Bình

Phước đã tuyên Lê Bá Mai phạm tội Giết người và Hiếp dâm trẻ em, để điều tra lại

theo thủ tục chung24

.

Sau khi vụ án được điều tra, xét xử lại nhiều lần, cơ quan điều tra mới

yêu cầu trưng cầu giám định xác định sự đồng nhất giữa vết lốp xe máy tại

hiện trường với lốp xe của Lê Bá Mai nhưng cơ quan trưng cầu giám định

không thể thực hiện được do không có mẫu giám định (khuôn đúc thạch cao

vết vân lốp xe). Dựa trên bản ảnh chụp lại dấu vân lốp xe tại hiện trường,

ngày 13/8/2008, Phân viện Khoa học hình sự tại TP.HCM kết luận: “Dấu vết

vân lốp xe để lại ở hiện trường… v i vết vân lốp bánh xe sau xe mô tô biển số

53SB-445725… là cùng một loại vân lốp; n ưng dấu vết vân lốp để lại ở hiện

trường k ng đủ yếu tố giám đ nh truy nguyên chiếc lốp xe cụ thể”.

Như vậy, mặc dù trong vụ án này, Kiểm sát viên đã trực tiếp tham gia

kiểm sát khám nghiệm hiện trường nhưng lại không phát hiện sai sót trong

việc thu dấu vết vân lốp xe tại hiện trường của cơ quan chuyên môn. Lúc này,

cho dù Kiểm sát viên có đề ra yêu cầu điều ra thì Cơ quan điều tra cũng

không thể thu lại dấu vết lốp xe đã tồn tại ở hiện trường vào thời điểm tiến

hành khám nghiệm trước đây vì dấu vết này đã không còn nữa. Điều này đã

ảnh hưởng đến việc chứng minh sự liên quan của Lê Bá Mai đối với vụ án,

dẫn đến việc vụ án phải điều tra, xét xử nhiều lần26

.

2.1.3. Kiểm sát viên không kiểm sát chặt chẽ quá trình chuyển giao

dấu vết, vật chứng theo hồ sơ vụ án giữa các cơ quan có thẩm quyền

Để phục vụ cho công tác khai thác, đánh giá chứng cứ trong quá trình

giải quyết vụ án Giết người, sau khi được thu thập, các dấu vết, vật chứng cần

phải được chuyển giao giữa các cơ quan có thẩm quyền theo đúng trình tự, 24

Ngày 05.02.2007, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành quyết định giám đốc thẩm số

02/2007/HS-GĐT ngày 5-2-2007 quyết định: “Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 1345/2005/HSPT ngày

04.8.2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án hình sự sơ thẩm

số 11/2005/HSST ngày 16.3.2005 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước về vụ án Lê Bá Mai phạm tội “Hiếp

dâm trẻ em” và “Giết người” để điều tra lại theo quy định của pháp luật”. 25Xe moto này là phương tiện mà Lê Bá Mai đã dùng để chở Út theo lời khai của nhân chứng Thị Hằng.

26 Vụ án phải xét xử nhiều lần (07 lần), gần 10 năm mới kết thúc; quá trình điều tra, truy tố, xét xử lại vụ án

này đã cơ bản khắc phục được những thiếu sót, vi phạm; bản án phúc thẩm sau cùng năm 2013 có hiệu lực

pháp luật kết án Lê Bá Mai tù chung thân về các tội “hiếp dâm trẻ em, giết người” đến nay chưa có căn cứ

kết luận Lê Bá Mai bị oan.

Page 27: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

27

thủ tục luật định. Tuy nhiên, trong một số vụ án, việc chuyển giao các dấu vết,

vật chứng chưa được quan tâm đúng mức nên để xảy ra việc mất mát, lẫn lộn,

tráo đổi các dấu vết, vật chứng đã thu thập được. Tình trạng này xảy ra một

phần do Kiểm sát viên không kiểm sát chặt chẽ quá trình chuyển giao dấu vết,

vật chứng theo hồ sơ vụ án giữa các cơ quan có thẩm quyền, không yêu cầu

các cơ quan này lập biên bản giao nhận, dẫn đến tình trạng dấu vết, vật chứng

trong một số vụ án bị hư hỏng, mất mát, lẫn lộn nhưng không kết luận được

sai sót xảy ra ở khâu nào. Trong một số trường hợp, Kiểm sát viên cũng

không phát hiện ra sai sót này, thậm chí sử dụng chính kết quả không chính

xác này để truy tố.

Trong vụ án Lê Bá Mai, lời khai của nhân chứng và bị can xác định

12.11.2004, Mai mặc áo xanh, đội nón lá, lưng đeo bình xịt inox, đi xe máy

màu xanh chở Thị Út đi. Phần bửng xe có để một can nhựa, phần ghi đông

treo thùng nước đá màu đỏ. Ngày 18.11.2004, công an đến nơi Mai ở để khám

xét, thu giữ đồ vật, tài sản, lục soát khắp nơi nhưng không có bình đá màu đỏ

và bình xịt màu xanh như lời khai của Thị Hằng, nên chỉ thu giữ nón, quần áo

của Mai. Tuy nhiên, sau đó, một điều tra viên của vụ án đã tự ý thêm vào

hàng cuối của biên bản thu giữ đồ vật tài liệu “01 thùng đựng đá màu đỏ”.

Việc làm này sau đó bị Viện kiểm sát nhân dân Tối cao phát hiện và đã nêu rõ

trong bản kháng nghị giám đốc thẩm27

.

Giải trình về việc tự ý thêm dòng chữ trên vào biên bản thu giữ đồ vât

ngày 18.11.2004, Điều tra viên L. viết: “Sau khi xét hỏi b can khoảng 30

ngày sau khi Mai b bắt… t i có đến đ a bàn cùng v i đồng c B, Trưởng

c ng n xã An ương và đồng c S, c ng n viên xã An ương, đến chòi

của anh Dương Bá Tuân nơi M i làm t uê t ì k ng có i ở chòi. Số người

làm thuê cho anh Tuân không có mặt lúc này khoảng 14h. Tôi quan sát trong

chòi thấy có 01 ìn đựng nư c đá màu đỏ theo lời khai của b can Lê Bá Mai

nên t i đã t u giữ và nhập vào k o, do sơ suất t i c ư lập biên bản thu giữ

nên tôi ghi thêm vào biên bản tạm giữ đồ vật, tài sản do đồng chí P. lập là 01

t ùng đựng đá màu đỏ”28

Sau khi Tòa án nhân dân Tối cao tuyên hủy 2 bản án buộc tội Lê Bá

Mai giết người và hiếp dâm trẻ em để điều tra lại. Ngày 15.5.2009, Điều tra

27

Kháng nghị giám đốc thẩm Số 30/VKSTC-V3 ngày 12-12-2006; 28

Bút lục 350, 351 trong hồ sơ vụ án Lê Bá Mai.

Page 28: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

28

viên L đến trang trại của ông Dương Bá Tuân (nơi Mai làm thuê) rồi vào nơi

ở của Mai để tiếp tục thu giữ vật chứng. Lúc đó, ông Dương Bá Phong (cháu

của ông Dương Bá Tuân) đã giao nộp can nhựa vuông loại 40 lít (40 cm x 40

x 30cm) và 1 bình xịt inox màu trắng.

Ngày 30.8.2013, Tòa án nhân dân Tối cao tại TP HCM xử phúc thẩm

đã tuyên trả lại cho ông Tuân 01 can nhựa màu nâu xám có kích thước 40 x

28 cm x 30 cm, nhỏ hơn can nhựa mà Điều tra viên đã thu giữ vào ngày

15.5.2009. Qua hoạt động thực nghiệm của Đoàn giám sát oan sai trong tố

tụng hình sự29, xác định không thể “ nhét” được chiếc can nhựa vuông loại 40

lít vào bửng của chiếc xe (loại Honda Cup 86). Vì thế có thể khẳng định rằng,

cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Phước vào thời điểm thực

nghiệm hiện trường vụ án Lê Bá Mai, đã tráo đổi 1 can nhựa khác mỏng hơn

để có thể bỏ được vào bửng xe Honda Cup 86 rồi tiến hành thực nghiệm hiện

trường nhằm hợp thức hóa vụ án nhưng Viện kiểm sát tỉnh Bình Phước đã

không phát hiện vấn đề này, dẫn đến sử dụng chính chiếc can do Cơ quan

điều tra công an tỉnh Bình Phước tráo đổi làm cơ sở để chứng minh sự liên

quan của Lê Bá Mai đối với vụ án thông qua việc đối chiếu sự phù hợp giữa

lời khai của nhân chứng Thị Hằng với những đồ vật có liên quan đến Lê Bá Mai.

2.1.4. Kiểm sát viên không kiểm sát chặt chẽ việc ghi nhận kết quả

thu thập dấu vết, vật chứng; không đối chiếu giữa các biên bản tố tụng liên

quan đến hoạt động thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng

Một số Kiểm sát viên không kiểm sát chặt chẽ việc ghi nhận kết quả

thu thập thể hiện trong các biên bản khám nghiệm, khám xét, thu giữ đồ vật,

tài liệu, các biên bản liên quan đến việc bảo quản dấu vết, vật chứng như biên

bản niêm phong, mở niêm phong, biên bản bàn giao…, không đối chiếu nội

dung các biên bản này với thực tế diễn biến của cuộc khám nghiệm, khám xét,

với các đặc điểm của dấu vết, vật chứng về kích cỡ, hình thể, màu sắc… làm

ảnh hưởng đến giá trị chứng minh của các thông tin khai thác từ “dấu vết, vật

chứng” đã thu thập được.

Điển ìn n ư trong vụ án Hồ Duy Hải

Biên bản khám nghiệm hiện trường vụ án này vào ngày 14.01.2008, thể

hiện: C ân trái nạn n ân Vân gác lên một cái g ế xếp k ung g ế ằng inox,

29

Báo cáo của Đoàn giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội về “Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp

luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự

theo quy định của pháp luật” năm 2014.

Page 29: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

29

mặt g ế ằng nệm mút màu x n , trên mặt nệm có dấu vết máu quyện và dấu

vết dép d n n ững ạt cơm k , trên c ân g ế ằng sắt trắng d n máu.

Chiếc ghế này có đặc điểm: “ i xếp g ế lại có c iều c o là 0,98m; Tem đảm

ảo c ất lượng rác mất một góc n ỏ ở ên p ải p dư i; mã số HPN2

447052”. Tuy nhiên, cơ quan điều tra không thu giữ chiếc ghế inox này ngay

khi khám nghiệm hiện trường mà đến ngày 25.3.2008, mới lập biên bản thu

giữ một chiếc ghế inox có đặc điểm: “ ung g ế c iều c o 67cm k oảng

các từ lưng dự đến nệm, ngồi 25 cm, từ nệm ngồi xuống đất 45 cm; tem ảo

đảm c ất lượng Hò P át mã số HPM2 44705” Như vậy, chiếc ghế đã thu

giữ vào ngày 25.3.2008 không phải là chiếc ghế có tại hiện trường vụ án ngày

14.01.2008. Kiểm sát viên đã không kiểm tra nội dung; so sánh, đối chiếu các

biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ đồ vật với nhau, cũng

như với đặc điểm thực tế của chiếc ghế đã được thu giữ nên không phát hiện

vấn đề này. Thậm chí, sau đó, chiếc ghế thu ngày 25.3.2008 đã được Hội

đồng xét xử sơ thẩm cho Hải nhận dạng tại phiên tòa và Hải đã xác nhận đúng

là chiếc ghế đã sử dụng khi gây án.

Như vậy, trong vụ án này, Kiểm sát viên được phân công đã không

kiểm sát chặt chẽ việc ghi nhận kết quả thu thập dấu vết, vật chứng; không

đối chiếu giữa các biên bản tố tụng liên quan đến hoạt động thu thập, bảo

quản dấu vết, vật chứng nên không phát hiện những mâu thuẫn có liên quan

đến dấu vết, vật chứng đã thu thập được. Những sai sót này đã ảnh hưởng lớn

đến việc giải quyết vụ án dẫn đến việc phải điều tra, xét xử nhiều lần.

2.1.5. Chất lượng yêu cầu điều tra đối với việc thu thập, bảo quản

dấu vết, vật chứng còn hạn chế

Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 37 và khoản 2 Điều 112 Bộ luật

tố tụng hình sự năm 2003 thì việc đề ra yêu cầu điều tra là một trong những

nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên khi được phân công thực hành quyền

công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ án giết

người nói riêng. Thực hiện tốt việc đề ra yêu cầu điều tra sẽ góp phần làm cho

công tác điều tra, xử lý vụ án đảm bảo khách quan, toàn diện và đầy đủ,

không làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Một yêu cầu điều tra có

chất lượng phải đảm bảo cả về hình thức và nội dung. Nếu yêu cầu điều ra

được đề ra bằng thức văn bản thì văn bản này phải được soạn thảo và ban

hành theo mẫu quy định. Nội dung yêu cầu điều tra phải đảm bảo cụ thể, rõ

Page 30: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

30

ràng, đúng trọng tâm và cần thiết để làm rõ tất cả các vấn đề pháp lý của vụ

án, có tính khả thi, không mang tính hình thức.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hoạt động đề ra yêu cầu điều tra của Kiểm

sát viên trong quá trình giải quyết các vụ án giết người còn rất hạn chế, chủ

yếu là về nội dung của yêu cầu điều tra. Nhiều trường hợp, Kiểm sát viên đề

ra yêu cầu điều tra mang tính hình thức, nội dung còn chung chung, không có

tác dụng đối với công tác điều tra nói chung và công tác thu thập, bảo quản

dấu vết, vật chứng nói riêng. Nhiều trường hợp, mặc dù những dấu vết, vật

chứng cần thiết đã được thu thập trong hồ sơ vụ án nhưng Kiểm sát

viên vẫn đề ra yêu cầu thu thập những dấu vết, vật chứng đó. Ngược lại, một

số trường hợp cần thiết phải thu giữ thêm những dấu vết, vậtt chứng tại hiện

trường nhưng Kiểm sát viên lại không đề ra yêu cầu điều tra.

Trong vụ án Hồ Duy Hải ở Long An, hai nạn nhân đều là phụ nữ. Tư

thế của nạn nhân tại hiện trường cho thấy nạn nhân có khả năng bị hiếp dâm:

Nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng bị cắt lìa cuống họng, trên mặt có nhiều

thương tích, nằm ngửa bên dưới chân cầu thang, áo bị cuốn lên khỏi ngực. Thi

thể Nguyễn Thị Thu Vân trong tư thế nằm ngửa, đầu gối lên đùi trái của Ánh

Hồng, chân trái dang ra và gác lên một cái ghế xếp. Do đó, việc thu giữ những

dấu vết để xác định nạn nhân có bị hiếp dâm hay không rất cần thiết.

Biên bản khám nghiệm tử thi đối với thi thể Ánh Hồng ghi:“Vạt trư c

áo tuột lên p cổ để lộ nguyên p ần trư c c iếc áo ngực C iếc áo ngực

cũng tuột về p trên để lộ 2 đầu vú…Cơ qu n sin dục k ng s ng

t ương, có t d c n ầy trong âm đạo, màng trin có n iều vết rác cũ,…”.

Tình trạng quần áo và kết quả khám bộ phận sinh dục cho thấy, khả

năng nạn nhân bị hiếp dâm là rất cao. Tuy nhiên, bác sĩ pháp y đã không thu

dịch nhầy này để giám định đó là dịch gì, dịch âm đạo phụ nữ hay tinh dịch,

ảnh hưởng đến việc xác định tình tiết khách quan của vụ án.

Biên bản khám nghiệm tử thi đối với thi thể Thu Vân có ghi: “…Cơ

qu n sin dục k ng s ng t ương, màng trin nguyên vẹn, k ng d c …”.

Nhận định này cũng không loại trừ khả năng việc nạn nhân bị giao hợp lạc

chỗ. Theo quy trình chung về giám định pháp y thì: “Trong các vụ án tìn

dục, k i ng i t ực iện gi o ợp ở dạng lạc c ỗ, lấy tăm ng và p ết k n từ

niêm mạc miệng và trực tràng ở tử t i cả hai gi i… i ng i các tội p ạm

Page 31: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

31

tìn dục nên lấy nư c rử tăm ng l u ở d xung qu n các ộ p ận sin

dục và ậu môn”30

.

Như vậy, bác sĩ pháp y cần phải tiến hành các hoạt động này nhằm thu

thập những dấu vết có thể xác định nạn nhân có bị xâm hại tình dục không.

Tuy nhiên, khi khám nghiệm tử thi nạn nhân Thu Vân, bác sĩ pháp y cũng đã

không thực hiện các hoạt động nêu trên và Điều tra viên cũng không có ý kiến gì.

Mặc dù, có tham gia kiểm sát việc khám nghiệm tử thi trong vụ án này

nhưng Kiểm sát viên lại không yêu cầu thu những dấu vết cần thiết để trưng

cầu giám định. Do đó, không có chứng cứ xác thực về việc Hồ Duy Hải có

thực hiện việc giao cấu với hai nạn nhân hay không từ đó xác định sự phù hợp

những tình tiết của vụ án với động cơ gây án của Hồ Duy Hải. Điều này dẫn

đến nhiều ý kiến nghi ngờ kết qủa giải quyết vụ án này của các cơ quan tiến

hành tố tụng.

Như vậy, có thể thấy rằng những sai phạm, hạn chế của Kiểm sát viên

khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật

chứng chủ yếu xảy ra khi thực hiện công tác kiểm sát khám nghiệm hiện

trường, khám nghiệm tử thi. Những hạn chế trên đây ảnh hưởng rất nhiều đến

việc giải quyết các vụ án giết người. Nhiều vụ án phải xét xử nhiều lần, kéo

dài qua nhiều năm, thậm chí Tòa án tuyên bị cáo vô tội, trực tiếp ảnh hưởng

đến uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, cần phải nâng cao hơn

nữa chất lượng hoạt động này trong thời gian tới nhằm góp phần có hiệu quả

vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm này trên thực tế. Để làm được

điều này, theo tác giả phải tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên.

2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót của Kiểm sát viên

khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết,

vật chứng trong các vụ án Giết ngƣời

Qua nghiên cứu thực tiễn hoạt động giải quyết các vụ án giết người tại

một vài địa phương ở khu vực phía Nam có các vụ án giết người oan, sai, giải

quyết kéo dài như trên, cũng như nhận định, đánh giá của một số Viện kiểm

sát nhân dân các cấp, tác giả nhận thấy chất lượng thực hành quyền công tố,

kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án giết người

còn hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau như: Tình hình tội phạm giết

30

Quy định chung giám định pháp y tử thi do Viện Pháp y Quốc gia xây dựng.

Page 32: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

32

người ngày càng diễn biến phức tạp, đối tượng thực hiện tội phạm với thủ

đoạn tinh vi, che giấu dấu vết kỹ lưỡng, gây khó khăn cho việc chứng minh

tội phạm; hiện trường vụ án bị xáo trộn, không còn nguyên vẹn, nhân chứng

không hợp tác... Tuy nhiên, mục tiêu đề tài hướng tới chính là tìm ra những

nguyên nhân cơ bản, bao gồm những nguyên nhân chủ quan từ phía Viện

kiểm sát nhân dân và một số nguyên nhân khách quan ảnh hưởng trực tiếp

đến chất lượng hoạt động này, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cụ thể

nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thu thập,

bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án giết người trong thời gian tới. Do

đó, tác giả xin phân tích một số nguyên nhân chủ yếu như sau:

2.2.1. Nguyên nhân chủ quan

Một là, một số Kiểm sát viên thiếu tinh thần trách nhiệm, chưa nhận

thức đúng vị trí, tầm quan trọng của các hoạt động điều tra liên quan đến việc

thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng; không chấp hành nghiêm túc các quy

định của Bộ luật tố tụng hình sự, Quy chế nghiệp vụ của ngành, chưa làm tốt

vai trò, trách nhiệm của mình trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm

sát việc thu thập, dấu vết, vật chứng nên khi tiến hành nhiệm vụ được giao chỉ

qua loa, sơ sài, mang tính hình thức.

Hai là, nhiều Kiểm sát viên còn hạn chế về năng lực, kiến thức nghiệp

vụ, khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, đánh giá dấu vết, hiện trường... do

đó không thể phát hiện những sai sót của cán bộ khi tiến hành hoạt động

khám nghiệm để kịp thời đưa ra các yêu cầu điều tra thu thập thêm dấu vết,

vật chứng, mở rộng hiện trường… hoặc xác định các hướng điều tra tiếp theo

để xác định sự thật khách quan của vụ án.

Ba là, lãnh đạo một số Viện kiểm sát nhân dân còn hạn chế trong công

tác quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động nghiệp vụ. Qua nghiên cứu các vụ

án oan, sai cho thấy, có lúc, có việc Lãnh đạo các đơn vị chưa thận trọng, cân

nhắc khi phân công Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ giải quyết các vụ án

hình sự, trong đó có các vụ án giết người. Trong quá trình giải quyết vụ án,

Lãnh đạo một số đơn vị “khoán trắng” cho Kiểm sát viên, chưa làm hết trách

nhiệm, không kiểm tra chặt chẽ Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn

theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và Quy chế nghiệp vụ; không chỉ

đạo xử lý kịp thời các vướng mắc trong quá trình Kiểm sát viên thực hiện

nhiệm vụ. Bên cạnh đó, Lãnh đạo Viện, Lãnh đạo Phòng thiếu sâu sát, chỉ căn

Page 33: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

33

cứ vào báo cáo của Kiểm sát viên, không trực tiếp kiểm tra tài liệu, chứng cứ

trong hồ sơ nên không phát hiện được những thiếu sót trong quá trình thu

thập, bảo quản dấu vết, vật chứng để chỉ đạo khắc phục.

Bốn là, việc kiểm điểm, xử lý trách nhiệm đối với Lãnh đạo, Kiểm sát

viên để xảy ra vi phạm trong kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật

chứng trong các vụ án giết người tại một số đơn vị thực hiện không nghiêm

túc. Việc kiểm điểm chỉ mang tính hình thức, chưa nghiêm túc nhìn nhận,

đánh giá, đặc biệt là chỉ ra các nguyên nhân chủ quan. Qua kiểm điểm đều xác

định nguyên nhân vi phạm chủ yếu là do nhận thức, đánh giá việc thu thập,

bảo quản dấu vết, vật chứng chưa đầy đủ, vì vậy chỉ kiểm điểm ở mức độ rút

kinh nghiệm và khiển trách. Có nơi chậm kiểm điểm hoặc kiểm điểm không

đầy đủ trách nhiệm của Lãnh đạo, Kiểm sát viên có liên quan do đó chưa đảm

bảo tính răn đe và tác động đến ý thức của Lãnh đạo, Kiểm sát viên trong quá

trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

2.2.2. Nguyên nhân khách quan

Một là, mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng Công an, Viện Kiểm sát,

Tòa án, Cơ quan thi hành án hình sự và trong một số vụ án giết người chưa

chặt chẽ khi tiến hành hoạt động thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng đặc

biệt là trong hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, cụ thể:

Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra Công an các tỉnh và các Cơ

quan chuyên môn khác và với Viện kiểm sát nhân dân các địa phương cũng

như quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát cấp trên và cấp dưới trong một số

trường hợp chưa được tốt, nên có nhiều trường hợp vụ việc không được báo

kịp thời cho Viện kiểm sát có thẩm quyền để tiến hành kiểm sát cuộc khám

nghiệm hoặc có thông báo nhưng chậm nên trong một số vụ án giết người khi

Kiểm sát viên có mặt thì hoạt động khám nghiệm đã được tiến hành do đó

Kiểm không thể quan sát, đánh giá toàn diện diễn biến của cuộc khám nghiệm

cũng như hoạt động thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng làm ảnh hưởng

việc đề ra yêu cầu điều tra và kiểm sát hoạt động này trong quá trình giải

quyết vụ án.

Theo quy định của pháp luật thì Cơ quan điều tra Công an cấp tỉnh của

các địa phương trong quá trình tiến hành khám nghiệm hiện trường các vụ án

giết người có chức năng: chủ trì cuộc khám nghiệm hiện trường, nhưng thực

tiễn có vụ án giết người xảy ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp huyện chủ trì

Page 34: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

34

khám nghiệm hoặc có trường hợp, Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp tỉnh đã mời

không đúng thành phần Hội đồng khám nghiệm, mời các nhà chuyên môn

không đúng chức năng của họ nên hiệu quả công tác khám nghiệm thu thập

dấu vết rất hạn chế, nhưng Kiểm sát viên không nắm được thành phần nên

không có ý kiến, bỏ qua nhiều dấu vết, sai sót khi tiến hành khám nghiệm, sau

này rất mất thời gian để dựng lại hiện trường khám nghiệm lại, hiệu quả

không được cao vì dấu vết đã thay đổi, thậm chí có trường hợp dẫn tới không

khám phá được vụ án.

Hai là, cơ sở vật chất, trang thiếu bị phục vụ yêu cầu công tác còn

nghèo nàn, lạc hậu; chế độ, chính sách đãi ngộ đối với Kiểm sát viên chưa

được quan tâm đúng mức

Ngoài những nguyên nhân như đã phân tích nêu trên thì khó khăn, lạc

hậu về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác cũng ảnh hưởng

không nhỏ đến chất lượng của hoạt động này của Kiểm sát viên. Ở các Viện

kiểm sát địa phương không được trang bị đầy đủ công cụ, phương tiện kỹ

thuật mà thông qua đó kiểm sát được chân thực các hoạt động của Điều tra

viên và những người tham gia tố tụng khác khi tiến hành các hoạt động liên

quan đến việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng như, cụ thể như:

Ngành chưa trang bị đầy đủ cho các Kiểm sát viên các địa phương

phương tiện đi lại để kịp thời đến hiện trường. Kiểm sát viên đến hiện trường

không được trang bị những công cụ hỗ trợ như: máy ảnh, máy ghi âm, ghi

hình, các dụng cụ đo, vẽ, quần áo bảo hộ chuyên dụng... do đó chỉ kiểm sát

đơn giản bằng mắt hoặc thủ công, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm

sát. Đây cũng là một trong những vấn đề đặt ra đối với Ngành trong việc đầu

tư trang thiết bị đầy đủ cho Kiểm sát viên khi tiến hành kiểm sát điều tra tại

hiện trường cũng như kiểm sát khám nghiệm tử thi, khai quật tử thi…

Bên cạnh đó, chính sách đãi ngộ còn chưa thỏa đáng; đời sống của các

Kiểm sát viên còn nhiều khó khăn khiến nhiều cán bộ thiếu an tâm công tác,

không yêu nghề, không tập trung và đầu tư đúng mức cho công tác chuyên

môn nghiệp vụ. Đây cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến chất

lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết trong

các vụ án Giết người nói riêng và trong việc giải quyết các vụ án hình sự nói

chung của một bộ phận Kiểm sát viên trong ngành Kiểm sát nhân dân.

Page 35: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

35

CHƢƠNG 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THỰC

HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC THU THẬP, BẢO QUẢN

DẤU VẾT, VẬT CHỨNG TRONG CÁC VỤ ÁN GIẾT NGƢỜI

Trên cơ sở xác định và phân tích những nguyên nhân như đã nêu, tác

giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động này trong

thời gian tới, cụ thể như sau:

3.1. Nhóm giải pháp về tổ chức cán bộ

Kiểm sát viên là những người được giao nhiệm vụ thay mặt Viện kiểm

sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động thu thập bảo quản, dấu vết, vật

chứng trong các vụ án giết người nói riêng. Do đó, việc xây dựng đội ngũ

Kiểm sát viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực và trách nhiệm để thực hiện

có hiệu quả nhiệm vụ được giao là rất quan trọng và cần áp dụng một số giải

pháp như sau:

3.1.1. Tăng cường năng lực cho đội ngũ Kiểm sát viên

Một là, trong giai đoạn hiện nay, hai cơ sở đào tạo của Ngành cần đầu

tư xây dựng giáo trình, mời giảng viên có kinh nghiệm, trình độ để đào tạo

chuyên sâu các kỹ năng kiểm sát khám nghiệm hiện trường; khám nghiệm tử

thi; kỹ năng đề ra yêu cầu điều tra; xây dựng chương trình bồi dưỡng chuyên

sâu về kiến thức khoa học điều tra nói chung và đối với tội phạm Giết người

nói riêng.

Hai là, tăng cường công tác tự đào tạo tại chỗ; theo đó, cần lựa chọn,

xây dựng hồ sơ kiểm sát các vụ án Giết người điển hình được xem là các vụ

án mẫu để cán bộ, Kiểm sát viên học tập rút kinh nghiệm. Chú trọng công tác

tổng kết thực tiễn, xây dựng chuyên đề rút kinh nghiệm để tổ chức những lớp

tập huấn chuyên đề hoặc bồi dưỡng chuyên sâu nhằm trang bị kiến thức, kỹ

năng cho cán bộ Kiểm sát viên để phục vụ yêu cầu công tác. Tổ chức sinh

hoạt nghiệp vụ khi có Thông báo rút kinh nghiệm qua những vụ án khi cấp

trên hủy, sửa hoặc những vấn đề cần rút kinh nghiệm thông qua vụ án cụ thể

đã giải quyết nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát việc thu thập bảo quản dấu

vết, vật chứng nói chung và công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều

tra, kiểm sát xét xử các vụ án giết người nói riêng.

Page 36: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

36

Bên cạnh đó, việc trao đổi kinh nghiệm giữa các địa phương, đơn vị,

giữa các Kiểm sát viên, Kiểm tra viên cần được tăng cường hơn nữa. Điều

này sẽ giúp các Kiểm sát viên trẻ, mặc dù có thể ít kinh nghiệm, chưa thuần

thục kỹ năng kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, nhưng

vẫn có thể thực hiện tốt nhiệm vụ được giao ngay khi được phân công, góp

phần tích cực vào việc giải quyết các vụ án Giết người.

3.1.2. Chú trọng công tác bố trí, sử dụng cán bộ

Trên cơ sở đánh giá cán bộ, Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân cấp

huyện, cấp tỉnh cần ưu tiên sắp xếp, bố trí Kiểm sát viên có trình độ, năng lực

chuyên môn và khả năng phù hợp làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố,

kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án giết người,

đặc biệt là đảm nhận nhiệm vụ kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám

nghiệm tử thi. Đó phải là những Kiểm sát viên bản lĩnh, sắc sảo, có phương

pháp và khả năng quan sát hiện trường, suy luận, phân tích, tổng hợp, đánh giá

chứng cứ tốt; nắm chắc quy định pháp luật về thu thập, bảo quản dấu vết, vật

chứng, am hiểu về khoa học điều tra hình sự, linh hoạt trong giao tiếp, ứng xử.

Ngoài ra, Lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp có thể bố trí thêm một Kiểm sát

viên đi cùng để học hỏi kinh nghiệm của Kiểm sát viên trực tiếp đảm nhận

nhiệm vụ kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

3.2. Nhóm giải pháp về quản lý điều hành, quan hệ phối hợp và

tổng kết, rút kinh nghiệm

3.2.1. Đề cao vai trò, trách nhiệm quản lý, chỉ đạo hoạt động nghiệp

vụ của Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong công tác giải quyết

án giết người

Một là, trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải

quyết các vụ án hình sự nói chung và các vụ án Giết người nói riêng, Lãnh

đạo Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải nêu cao trách nhiệm, đặc biệt là

người đứng đầu. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần phải áp

dụng các biện pháp quản lý, chỉ đạo, điều hành một cách quyết liệt để khắc

phục các hạn chế, tồn tại trong hoạt động nghiệp vụ; phải quán triệt và thực

hiện đầy đủ các yêu cầu nghiệp vụ quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự,

Quy chế nghiệp vụ của ngành và các chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân tối cao, việc thực hiện các yêu cầu nghiệp vụ cần lưu ý những kinh

nghiệm thực tế đối với loại tội giết người.

Page 37: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

37

Hai là, Lãnh đạo các đơn vị cấp huyện, cấp tỉnh phải chỉ đạo, hướng

dẫn, kiểm tra các hoạt động nghiệp vụ của Kiểm sát viên trong việc đề ra yêu

cầu điều tra và kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các

vụ án giết người. Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải chỉ đạo công

việc một cách quyết liệt và thực sự thể hiện vai trò, trách nhiệm của mình đối

với công việc, phải khách quan khi xem xét ý kiến đề xuất của Kiểm sát viên,

nhất là các ý kiến trái với quan điểm của Lãnh đạo đơn vị.

3.2.2. Tăng cường công tác phối hợp liên ngành và trong Ngành

Một là, cần xây dựng quy chế phối hợp trong việc thu thập, bảo quản,

chuyển giao dấu vết, vật chứng giữa các Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ

quan Thi hành án để tạo cơ sở cho việc thực hiện hoạt động này một cách nhịp

nhàng trên thực tế.

Hai là, cần tăng cường, đổi mới nội dung mối quan hệ giữa các cơ quan

và người có thẩm quyền trong quá trình điều tra tội phạm giết người đặc biệt

là trong hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi là một việc

làm hết sức cần thiết. Sự đổi mới này sẽ góp phần tích cực nâng cao hiệu quả

công tác phát hiện, ghi nhận, thu giữ, bảo quản, đánh giá dấu vết trong các

vụ án giết người nói riêng và công tác điều tra, xử lý tội phạm giết người

nói chung.

Các đơn vị kiểm sát thông qua họp liên ngành, họp giao ban với Cơ

quan điều tra cùng cấp, cần bàn bạc, thống nhất các quy định về việc cung cấp

thông tin cần thiết, đảm bảo tất cả các vụ việc trước khi tiến hành khám

nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi đều được Cơ quan điều tra thông báo

kịp thời cho Viện kiểm sát và Viện kiểm sát có đủ thời gian tham gia kiểm sát

khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

Ba là, trong quá trình kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật

chứng của các vụ án giết người, Kiểm sát viên phải vừa thực hiện việc kiểm

sát việc tuân theo pháp luật của Điều tra viên, Giám định viên và những người

tham gia tố tụng tại hiện trường vừa có sự phối hợp trong việc đưa ra những ý

kiến góp ý vào thủ tục, trình tự và phương pháp khám nghiệm, phát hiện, thu

thập dấu vết, vật chứng, đề ra yêu cầu đối với Điều tra viên, Giám định viên,

Kỹ thuật viên tiến hành những biện pháp nghiệp vụ để xác minh, thu thập

những tình tiết có liên quan đến vụ án.

Page 38: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

38

Trong quan hệ phối hợp giữa những người tiến hành khám nghiệm và

hoạt động kiểm sát khám nghiệm, Kiểm sát viên và Điều tra viên cũng như

các thành viên tham gia khám nghiệm khác cần xây dựng mối quan hệ dân

chủ trong việc bàn bạc cách thức, phương pháp khám nghiệm trên cơ sở tôn

trọng lẫn nhau và vì trách nhiệm chung.

3.2.3. Tăng cường kiểm tra, tổng kết, rút kinh nghiệm

Một là, Viện kiểm sát cấp trên cần tăng cường kiểm tra nghiệp vụ theo

chuyên đề việc về việc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc thu thập,

bảo quản dấu vết, vật chứng và thanh tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm để

kịp thời phát hiện và rút kinh nghiệm về những vi phạm thiếu sót của Viện

kiểm sát nhân dân cấp dưới. Tập trung kiểm tra đánh giá quy trình thực hiện

nhiệm vụ của Lãnh đạo và Kiểm sát viên. Đồng thời phải phúc tra lại những

nội dung của các đoàn thanh tra, kiểm tra đơn vị đã kết luận trước đó.

Hai là, Viện kiểm sát cấp trên cần làm tốt công tác tổng kết thực tiễn,

hướng dẫn nghiệp vụ, nhất là các quy định mới đang có nhận thức chưa thống

nhất liên quan đến việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng, để tháo gỡ kịp

thời những khó khăn, vướng mắc trong giải quyết án hình sự nói chung và án

giết người nói riêng.

Ba là, Viện kiểm sát cấp trên phải định kỳ thông báo rút kinh nghiệm,

kiến nghị về các vi phạm, thiếu sót trong công tác kiểm sát việc thu thập, bảo

quản dấu vết, vật chứng dẫn đến Tòa án tuyên không phạm tội hoặc hủy án để

điều tra, xét xử lại để địa phương nắm rõ nhằm tránh lặp lại các vi phạm, thiếu

sót tương tự.

Bốn là, thực hiện nghiêm túc việc kiểm điểm và xử lý trách nhiệm đối

với cán bộ, Kiểm sát viên để xảy ra vi phạm, đặc biệt là trong công tác kiểm

sát khám nghiệm hiện trường, kiểm sát việc khám xét, phải công bằng trong

kiểm điểm và quy trách nhiệm, tránh tình trạng khi xảy ra vi phạm thì Kiểm

sát viên chịu trách nhiệm nặng hơn Lãnh đạo hoặc Viện kiểm sát cấp dưới

kiểm điểm, Viện kiểm sát cấp trên hướng dẫn nghiệp nhưng không kiểm điểm

trách nhiệm.

Page 39: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

39

3.3. Nhóm giải pháp về tăng cƣờng cơ sở, vật chất, phƣơng tiện kỹ thuật;

chính sách đãi ngộ

3.3.1. Tăng cường đầu tư cơ sở, vật chất, phương tiện kỹ thuật cho

Viện kiểm sát nhân dân các cấp

Một trong những giải pháp quan trọng, cần sớm thực hiện để nâng cao

chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc thu thập, bảo

quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án giết người đó là cần tăng cường đầu

tư kinh phí từ các nguồn có thể để trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật cho Viện

kiểm sát nhân dân các địa phương để đáp ứng được cho công tác chuyên môn.

Trong đó, chú trọng việc trang bị đầy đủ những trang thiết bị, phương tiện kỹ

thuật cần thiết cho Kiểm sát viên khi tiến hành các hoạt động khám nghiệm

hiện trường, khám nghiệm tử thi như khẩu trang, kính lúp, máy ảnh, quần áo

bảo hộ chuyên dụng… nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động kiểm sát

khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, từ đó góp phần nâng cao chất

lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật

chứng trong các vụ án giết người.

3.3.2. Áp dụng chính sách đãi ngộ phù hợp với Kiểm sát viên trực

tiếp làm công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi

Để nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát

việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án giết người, ngoài

những biện pháp nêu trên, việc áp dụng chính sách đãi ngộ về chăm sóc y tế,

nghỉ dưỡng đối với Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác kiểm sát khám

nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi là rất cần thiết. Bởi để làm tốt hoạt

động này, Kiểm sát viên cần trực tiếp tham gia kiểm sát khám nghiệm hiện

trường, khám nghiệm tử thi. Thực tiễn cho thấy việc có mặt tại hiện trường,

đặc biệt là những hiện trường có tử thi đã phân hủy và khi khám nghiệm tử thi

đều ảnh hưởng nhất định đến sức khỏe của những cán bộ trực tiếp tham gia

kiểm sát cũng như cán bộ tiến hành khám nghiệm. Chính vì vậy, ngoài chế độ

phụ cấp đang được áp dụng hiện hành, thiết nghĩ lãnh đạo các Viện kiểm sát

cần quan tâm, tạo điều kiện cho các Kiểm sát viên được nghỉ ngơi, hồi phục

sức khỏe sau khi kiểm sát khám nghiệm, giúp Kiểm sát viên đảm bảo tốt chất

về thể chất và tinh thần, để có thể tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Thiết nghĩ, nếu các giải pháp nêu trên được thực hiện một cách đồng bộ

và thống nhất sẽ góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động thu thập,

Page 40: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

40

bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án giết người nói riêng cũng như

trong việc giải quyết các vụ án hình sự nói chung của các Kiểm sát viên

ngành Kiểm sát nhân dân trong thời gian tới.

Page 41: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

41

KẾT LUẬN

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm Giết người với

sự gia tăng số vụ, số người phạm tội, phương thức, thủ đoạn phạm tội tinh vi,

xảo quyệt, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã có nhiều nỗ lực, góp phần tích

cực vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm giết người, giữ vững an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Về cơ bản công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc thu thập,

bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án giết người bảo đảm thực hiện

đúng theo quy định pháp luật và quy chế nghiệp vụ của Ngành; đã phát hiện,

khắc phục được nhiều tồn tại, thiếu sót trong hoạt động thu thập, bảo quản dấu

vết, vật chứng; nhờ đó tình hình án giết người oan, sai đã được hạn chế đáng

kể so với trước đây. Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu của

Hiến pháp năm 2013 thì hoạt động này của Viện kiểm sát nhân dân cụ thể là

của Kiểm sát viên còn nhiều hạn chế, vi phạm, ảnh hưởng đến quá trình giải

quyết các vụ án giết người.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này một phần do Lãnh đạo

Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã không thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong

công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm

sát điều tra; Kiểm sát viên không thực hiện đúng và đầy đủ trách nhiệm được

pháp luật quy định, công tác kiểm điểm, xử lý kỷ luật chưa được đặt ra…

Ngoài ra, những nguyên nhân khách quan khác như: cơ sở vật chất, trang thiết

bị phục vụ cho công tác còn nhiều khó khăn; chính sách đãi ngộ đối với Kiểm

sát viên còn chưa thỏa đáng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của

hoạt động này.

Để nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát

việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án hình sự nói chung

và trong các vụ án giết người nói riêng, đề tài đã mạnh dạn đề xuất 03 nhóm

giải pháp về quản lý điều hành; về công tác cán bộ và tăng cường đầu tư về cơ

sở vật chất, chính sách đãi ngộ. Thiết nghĩ, nếu các giải pháp nêu trên được

thực hiện một cách đồng bộ và thống nhất sẽ góp phần nâng cao hơn nữa chất

lượng hoạt động thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án giết

người nói riêng cũng như trong việc giải quyết các vụ án hình sự nói chung

của các Kiểm sát viên ngành Kiểm sát nhân dân trong thời gian tới.

Page 42: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

42

Do điều kiện nghiên cứu và kinh phí của Đề tài còn hạn chế, trong khi

có nhiều vấn đề cần giải quyết, chắc chắn còn nhiều nội dung chưa được sâu

sắc. Tác giả rất mong các đồng chí tham gia đóng góp để Đề tài được hoàn

thiện hơn./.

Page 43: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

43

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

01. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003;

02. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

03. Luật Giám định tư pháp năm 2012;

04. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014;

05. Quy chế quản lý kho vật chứng (Ban hành kèm theo Nghị định số

18/2002/NĐ-CP ngày 18.02.2002 của Chính phủ);

06. Quy chế về công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám

nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra, việc tiến hành giám định (Ban hành

kèm theo Quyết định số 421/QĐ-VKSTC ngày 17.10. 2014 của Viện

trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

07. Thông tư số 06/1998/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BCA – BTC –

BTP ngày 24.10.1998 về Hướng dẫn một số vấn đề về bảo quản và xử lý

tài sản là vật chứng, tài sản bị kê biên trong quá trình điều tra, truy tố, xét

xử vụ án hình sự;

08. Thông tư số 06/2003/TT – BCA (V19) ngày 12.3.2003, hướng dẫn thực

hiện một số điều của Quy chế quản lý kho vật chứng trong lực lượng

Công an nhân dân;

09. Thông tư số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07.9.2005 của Viện

kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng Về quan hệ phối

hợp giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong việc thực hiện một số

quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;

10. Nguyễn Ngọc Anh, Sổ tay pháp luật của điều tra viên,Nx Tư P áp, 2006;

11. Dương Thanh Biểu, Một số vấn đề rút ra trong công tác khám nghiệm

hiện trường, khám nghiệm tử thi trong một số vụ án có oan sai gần đây,

Tạp c iểm sát số 11/6 – 2006;

12. Nguyễn Văn Cừ, Chứng cứ trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nx Tư

P áp, năm 2005;

13. Đỗ Văn Chỉnh, Xử lý vật chứng trong vụ án hình sự, Tạp c Tò án

n ân dân số 18/2006;

14. Lê Thị Kim Chung, Vi phạm pháp luật trong thực tiễn giải quyết các vụ

án hình sự, Nx Tư P áp, 2006;

Page 44: PHẦN MỞ ĐẦU - tkshcm.edu.vntkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/De_tai_khoa_hoc_14_12.2016...Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là vốn quý

44

15. Nguyễn Anh Định, Kết luận giám định trong tố tụng hình sự, ó luận

tốt ng iệp cử n ân luật k ó 24 niên k ó 1999 – 2004;

16. Nguyễn Mạnh Hà, Bảo quản và xử lý vật chứng theo quy định của

BLTTHS 2003, Tạp c Tò án n ân dân số 2/2005;

17. Dương Thị Thu Hà, Vướng mắc về trách nhiệm ra quyết định chuyển vật

chứng, Tạp chí Tòa án nhân dân, kỳ I tháng 11 (số 21), 2008;

18. Trương Công Khoa, Hoạt động khám nghiệm hiện trường trong tố tụng

hình sự Việt Nam, Luận văn T ạc sĩ Luật ọc 2006;

19. Nguyễn Ngọc Kiện, Bàn về hoạt động kiểm sát việc thu thập, bảo quản,

đánh giá và chuyển giao vật chứng, Tạp chí Kiểm sát số 7/2007;

20. Nguyễn Văn Lượng, Áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong

giai đoạn điều tra tội giết người của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Bắc

Giang, Luận văn T ạc sĩ Luật ọc năm 2012;

21. Lê Trung Mão, Trao đổi về chứng cứ pháp lý trong tố tụng hình sự, Tạp

chí Công an n ân dân, số 11/1995;

22. Nguyễn Nông, Công tác giám định trong tố tụng hình sự, Tạp c Tò án

n ân dân, số 2/1995;

23. Hồ sơ một số vụ án Giết người oan, sai lưu tại Viện kiểm sát cấp cao tại

Thành phố Hồ Chí Minh

24. Phạm Minh Tuyên, Những vướng mắc khi áp dụng điều 75 Bộ luật tố

tụng năm 2003, Tạp c Tò án n ân dân số 19/2004;

25. Lê Đức Xuân, Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra

các vụ án Giết người, Đề tài k o ọc cấp Trường năm 2014;

26. Tòa án nhân dân tối cao, Những bất nhất trong việc thực thi BLTTHS

2003, ỷ yếu ội t ảo củ TAND tối c o p ối ợp v i Cơ qu n ợp tác

củ N ật Bản tổ c ức tại TP Cà M u;

27. Viện ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng việt, Nx Đà Nẵng, 2005;

28. Viện kiểm sát cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Án hình sự do Viện

kiểm sát truy tố, Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội hoặc hủy để điều

tra, xét xử lại thuộc các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam, C uyên đề

năm 2016;

29. Viện Khoa học hình sự, Đề tài khoa học cấp Bộ mã số BK93-061-001)

30. Viện Pháp y Quốc gia, Quy định chung giám định pháp y tử thi.