1tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/4150/1... · web viewnấm mốc và ứng dụng...
TRANSCRIPT
LƠI CẢM ƠN
Trươc hêt, tôi xin bày tỏ lòng biêt ơn chân thành và sâu săc tơi PGS. TS.
Nông Văn Hải – Phó Viện trưởng, Giám đốc Phòng thí nghiệm trọng điểm Công
nghệ gen, Trưởng phòng Công nghệ ADN Ưng dung, Viện Công nghệ sinh học-
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đa tân tinh hương dân và diu dăt tôi
trong quá trinh hoàn thành luân văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Quyền Đinh Thi, Chủ nhiệm đề tài
“Nghiên cứu sản xuất và ứng dung chê phẩm đa enzyme có chất lượng cao từ
các vi sinh vât tái tổ hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dung thức ăn chăn nuôi”,
thuộc Chương trinh trọng điểm cấp Nhà nươc: “Phát triển và ứng dung Công
nghệ sinh học trong lĩnh vực Nông nghiệp và phát triển nông thôn đên 2020”do
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ tri, đa tạo điều kiện cho tôi được
tham gia nghiên cứu, hoàn thành luân văn theo hương nghiên cứu của đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thây cô giáo Khoa Sinh – Trương Đại học
Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội đa giảng dạy và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trinh học tâp và thực hiện luân văn.
Tôi xin bày tỏ biêt ơn tơi toàn thể các cán bộ Phòng Công nghệ ADN Ưng
dung - Viện Công nghệ sinh học đăc biệt là TS. Lê Thị Thu Hiền và KS. Vũ Hải
Chi đa giúp đỡ và chi bảo tôi rất tân tinh trong suốt thơi gian thực hiện luân văn.
Cuối cung, tôi xin gửi tơi gia đinh, bạn be và đồng nghiệp lòng biêt ơn sâu
săc vi sự quan tâm, động viên và góp y cho tôi trong suốt quá trinh học tâp và
hoàn thành luân văn.
Học viên
Nguyễn Thị Mai Hương
NHƯNG TƯ VIÊT TĂT
AS Acetosyringone
ATP Adenosine triphosphate
bp Base pair
DNA Deoxyribonucleic acid
dNTP Deoxynucleoside triphosphate
ddNTP Dideoxynucleoside triphosphate
EDTA Ethylene diamine tetra acetic acid
EtBr Ethidium bromide
xylB Xylanase B
Hph Hygromycin photpotransferase encoding gene
IM Induction medium
kb Kilo base
kDa Kilo Dalton
LB Luria – Bertani
LC Luria – Complete
MES (2 – N – morpholine) – ethane sulfonic acid
PCR Polymerase Chain Reaction
RNase Ribonuclease
RNA Ribonucleic acid
SDS Sodium Dodecyl Sulphate
TAE Tris – acetate – EDTA
vir Virulence region
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................5
Chương 1 – TỔNG QUAN.........................................................................................7
1.1. Xylanase và ứng dụng trong công nghệ sản xuất thức ăn chăn nuôi...................7
1.1.1. Xylanase và sự phân hủy sinh học xylan..........................................................7
1.1.2. Ứng dụng xylanase trong sản xuất thức ăn chăn nuôi......................................9
1.2. Nấm mốc và ứng dụng của công nghệ chuyển gen............................................10
1.2.1. Giới thiệu về nấm mốc....................................................................................10
1.2.2. Agrobacterium và ứng dụng trong công nghệ chuyển gen thực vật và nấm...12
1.2.3. Chuyển gen vào nấm mốc thông qua A. tumefaciens......................................17
1.2.3.1. Kỹ thuật chuyển gen vào nấm mốc A. niger................................................17
Chương 2 – NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU......................24
2.1. Nguyên liệu........................................................................................................24
2.1.1. Nguyên liệu.....................................................................................................24
2.1.2. Hóa chất..........................................................................................................24
2.1.3. Thiết bị............................................................................................................26
2.2. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................26
2.2.1. Các phương pháp sử dụng để nối ghép gen....................................................26
2.2.2. Biến nạp vào tế bào E. coli và A. tumefaciens................................................30
2.2.3. Phương pháp điện di trên gel agarose.............................................................32
2.2.4. Nhân gen bằng kỹ thuật PCR..........................................................................33
2.2.5. Phương pháp tách chiết DNA plasmid lượng nhỏ..........................................34
2.2.6. Phân tích DNA plasmid tái tổ hợp bằng enzyme giới hạn..............................36
2.2.7. Xác định trình tự gen và xử lý số liệu bằng các phần mềm chuyên dụng.......37
2.2.8. Phương pháp nuôi nhiễm A. tumefaciens và A. niger.....................................38
Chương 3 – KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN.................................................................41
3.1.1. Lắp ghép xylB vào vector trung gian..............................................................44
3.1.2. Lắp ghép cấu trúc biểu hiện hph vào vector trung gian..................................50
3
3.1.3. Kiểm tra sự có mặt của cấu trúc biểu hiện xylB và hph trong vector trung gian
(pKS_xylB_hph)........................................................................................................56
3.2. Thiết kế Ti plasmid mang hai cấu trúc biểu hiện xylB và hph...........................57
3.2.1. Lắp ghép đoạn gen mang hai cấu trúc biểu hiện xylB và hph trong vector
trung gian vào Ti plasmid.........................................................................................57
3.2.2. Kiểm tra sự có mặt của xylB và hph trong vector tái tổ hợp Ti plasmid.........58
3.3. Tạo chủng vi khuẩn A. tumefaciens mang vector biểu hiện pCB_xylB_hph....62
3.3.1. Biến nạp Ti plasmid tái tổ hợp vào A. tumefaciens.........................................62
3.3.2. Kiểm tra sự có mặt của xylB và hph trong Agrobacterium.............................62
3.4. Kết quả chuyển vector biểu hiện xylB và hph vào A. niger thông qua A.
tumefaciens................................................................................................................64
3.4.1. Kết quả nuôi nhiễm.........................................................................................64
3.4.2. Chọn lọc thể nấm chuyển gen trên môi trường kháng sinh............................67
KẾT LUẬN...............................................................................................................69
KIẾN NGHỊ..............................................................................................................70
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................71
4
MỞ ĐẦU
Trong nhiều năm gần đây, nhu cầu sử dụng enzyme có nguồn gốc từ vi sinh
vật ngày càng tăng, đặc biệt là enzyme xylanase. Xylanase được sử dụng trong
nhiều ngành sản xuất công nghiệp trên toàn thế giới [18, 29]. Một trong những ứng
dụng quan trọng của xylanase là được dùng để bổ sung vào thức ăn chăn nuôi. Sự
có mặt của xylanase trong thức ăn chăn nuôi có tác dụng thúc đẩy quá trình tiêu
hóa, từ đó cải thiện hệ vi sinh vật đường ruột của động vật [4, 13]. Ngoài ra,
xylanase còn được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác ví dụ: phân hủy rác thải; làm
trắng trong công nghiệp sản xuất giấy… [22, 29].
Trong tự nhiên, rất nhiều loại vi khuẩn và nấm mốc tiết ra xylanase [22], trong
đó xylanase do nấm mốc tiết ra được quan tâm hơn cả bởi chúng có hàm lượng cao
và ổn định. Nấm mốc Aspergillus hay còn gọi là nấm sợi, là nhóm nấm đa dạng và
phân bố rộng trong tự nhiên. Với tiềm năng vô cùng phong phú, Aspergillus được
quan tâm nghiên cứu và ứng dụng trong sản xuất enzyme cũng như trong các ngành
nghiên cứu cơ bản về cơ chế sinh lý và sinh hóa và cơ chế di truyền vi sinh vật từ
nhiều năm nay trên thế giới [9, 11].
Do nhu cầu sử dụng xylanase trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực sản xuất
thức ăn chăn nuôi ngày càng tăng. Bởi vậy, nghiên cứu sản xuất và ứng dụng
enzyme xylanase có chất lượng cao, ổn định từ các vi sinh vật tái tổ hợp nhờ công
nghệ chuyển gen đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu [22, 31]. Chuyển
gen vào nấm dựa trên nền tảng của công nghệ DNA tái tổ hợp, để cải biến hệ gen
của nấm mốc nhằm đáp ứng nhu cầu của con người về các sản phẩm protein cũng
như enzyme để sản xuất trên qui mô công nghiệp. Hơn nữa, kỹ thuật chuyển gen
cho phép chọn lựa promoter đặc hiệu cũng như các chủng vi sinh vật chuyển gen
mong muốn, nhờ vậy đặc tính của enzyme tái tổ hợp đã được cải thiện [22].
Hiện nay, kỹ thuật chuyển gen thông vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens
được sử dụng phổ biến trên thế giới để chuyển gen vào thực vật. Bởi đây là một hệ
5
thống chuyển gen có hiệu suất cao, ổn định và đơn giản. Agrobacterium đã và đang
được nghiên cứu, áp dụng để chuyển gen vào nấm mốc [3, 9].
Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Thiêt kê vector
biểu hiện gen ma hóa xylanase trong nấm mốc”
Đề tài được thực hiện tại Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ gen và
Phòng Công nghệ DNA ứng dụng – Viện Công nghệ sinh học.
Mục tiêu và nội dung nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu
Sử dụng các kỹ thuật sinh học phân tử và công nghệ chuyển gen để thiết kế Ti–plasmid tái tổ hợp mang gen mã hóa xylanase và gen kháng hygromycin B. Trên cở sở đó tạo các chủng vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens tái tổ hợp phục vụ công tác chuyển gen mã hóa xylanase và gen kháng hygromycin B vào A. niger.
Nội dung nghiên cứu
- Thiết kế vector tách dòng trung gian pKS_xylB_hph dựa trên vector pBluescript II KS (-) mang hai cấu trúc biểu hiện gen mã hóa xylanase và gen kháng hygromycin B:(GpdA promoter + xylanase gene + TrypC terminator) và (GluA promoter + hph gene + TrypC terminator).
- Thiết kế Ti plasmid tái tổ hợp pCB_xylB_hph dựa trên vector pCAMBIA1300 mang hai cấu trúc biểu hiện biểu hiện gen mã hóa xylanase và gen kháng hygromycin B: (GpdA promoter + xylanase gene + TrypC terminator) và (GluA promoter + hph gene + TrypC terminator.
- Tạo các chủng vi khuẩn A. tumefaciens mang vector biểu hiện pCB_xylB_hph để làm nguyên liệu chuyển gen vào nấm mốc.
- Chuyển vector biểu hiện pCB_xylB_hph vào nấm mốc A. niger thông qua vi khuẩn A. tumefaciens.
6
Chương 1 – TỔNG QUAN
1.1. Xylanase và ứng dụng trong công nghệ sản xuất thức ăn chăn nuôi
1.1.1. Xylanase và sự phân hủy sinh học xylan
Xylanase (Endo – 1,4 – ß – xylanase (1,4 – D – xylan xylanohydrolase: E.C.
3.2.1.8)) là enzyme quan trọng nhất tham gia thủy phân xylan [13, 29]. Xylanase
thủy phân xylan bằng cách cắt đứt các liên kết ß – 1,4– glycoside, tạo thành các
xylo – oligo [30]. Tuy nhiên, do cấu trúc của xylan rất phức tạp nên để phân cắt nó
hoàn toàn cần một lượng lớn enzyme xylanase [19]. Xylanase được tách chiết từ vi
khuẩn, nấm chẳng hạn như: Trichoderma, Bacillus, Cryptococcus, Aspergillus,
Penicillium, Aureobasidium, Fusarium, Chaetomium, Phanerochaete, Rhizomucor,
Humicola, Talaromyces…[22].
Hình 1. 1: Cấu trúc hóa học của xylan
Xylan là thành phần chính cấu tạo nên hemicellulose của thành tế bào thực vật
và là một trong số hợp chất polysaccharide quan trọng nhất trong tự nhiên [12, 28].
Xylan chủ yếu tìm thấy trong cấu trúc thứ cấp của thành tế bào thực vật và tạo thành
pha giữa giữa lignin và các hợp chất polysaccharide khác [29]. Xylan cũng là một
trong những polysaccharid phổ biển nhất trong các loài thực vật thông thường,
chiếm 30% tổng trọng lượng khô trong sinh khối thực vật nhiệt đới. Với cây gỗ
mềm ở vùng ôn đới, xylan ít phổ biến hơn và chiếm khoảng 8% tổng trọng lượng
7
khô [29]. Như vậy, vô tình xylan đã trở thành một trong những thành phần có trong
thức ăn chăn nuôi [28].
Xylan đa dạng về cấu trúc và khối lượng phân tử. Xylan là polymer không
đồng nhất, mạch thẳng, gồm các đơn phân d – xylose được liên kết với nhau bằng
liên kết ß – 1,4 – glycoside. Trong tự nhiên, chúng được thay thế một phần bằng
acetyl 4 – 0 – methyl – d – glucuronosyl và arabinofuranosyl tạo thành cấu trúc
polymer không đồng nhất. Tác động của xylan về mặt cấu trúc vẫn còn chưa rõ ràng
bởi những khó khăn trong việc tách chiết xylan từ nguyên liệu trong tự nhiên mà
không bị biến đổi hay mất đi một số cấu trúc ban đầu của xylan cũng như sự liên kết
của nó với các thành phần khác [18, 23, 29].
Vi sinh vật tham gia tích cực vào việc phân hủy xylan, đặc biệt là vi sinh vật
tiết ra enzyme xylanase. Ứng dụng của xylanase đã được Hoppe - Seyler báo cáo từ
hơn một trăm năm qua [18]. Sự phân hủy sinh học bộ khung cấu tạo nên xylan phụ
thuộc chủ yếu vào hai lớp enzyme: endo – 1,4 – ß - xylanase (1,4 – ß – D –
xylanohydrolase; EC 3.2.1.8), lớp enzyme này thủy phân liên kết 1,4 – ß - Glucosid
nối với xylose và ß – xylosidases (1,4 – ß – D – xylan xylanohydrolase; EC
3.2.1.37), lớp enzyme này thủy phân xylobiose và xylooligosaccharid ngắn nhờ hoạt
động của enzyme endo – xylanase. Các enzyme loại mạch nhánh (debranching
enzyme) chẳng hạn như α – glucuronidase và α – L – arabinifuranosidase và
esterase chẳng hạn như acetylxylan esterases và ferulyl và p – coumaroyl esterase sẽ
loại bỏ mạch nhánh acetyl và mạch nhánh phenol [29]. Ở cây gỗ rắn, xylan có công
thức O – acetyl – 4 – O – methylglucuron – oxylan. Arabino – 4 – O –
methylglucuroxylan tìm thấy trong cây gỗ mềm và arabinoxylan rất điển hình trong
cây cỏ và thực vật bình thường khác [13].
Sự đa dạng của xylan dẫn đến sự đa dạng của enzyme xylanase [13]. Xylanase
tiết ra từ vi sinh vật được chia làm hai họ enzyme thủy phân chính: họ 10 và họ 11
dựa trên trình tự tương đồng của amino acid [28]. Xylanase thuộc họ 10 nhìn chung
có khối lượng phân tử lớn (>30 kDa), đa dạng và phức tạp hơn (có thể thủy phân
8
cellulose và xylan), trong khi xylanase thuộc họ 11 có khối lượng phân tử nhỏ hơn
(khoảng 20 kDa) và đặc hiệu hơn đối với xylan [13, 29].
Xylanase có trong nhiều loài sinh vật trong tự nhiên, ở sinh vật nhân sơ và
sinh vật nhân chuẩn và đã được tìm thấy cả trong vi khuẩn ở nước, nấm, tảo biển,
côn trùng. Cho đến nay, hầu hết xylanase được chiết xuất từ vi khuẩn và nấm [13,
29]. Trong đó, nấm sợi là nguồn vi sinh vật tiềm năng nhất để chiết xuất xylanase
với hàm lượng cao [13, 29]. Trong nhiều thập kỉ gần đây, xylanase còn được tách
chiết từ nấm gây bệnh trên các cây ngũ cốc nói riêng và vi sinh vật gây bệnh thực
vật nói chung [29]. Hơn nữa, nhiều vi sinh vật tiết enzyme xylanase phân hủy xylan
cũng có thể phân hủy cellulose do sự tương đồng của các liên kết (1,4 – ß –
glucosid) giữa hai enzyme celllulase và xylanase. Một số loài Bacillus chỉ tiết ra
xylanase, trong khi nhiều loài nấm sợi lại tiết ra lượng lớn protein ngoại bào và tạo
thành xylanase thường kèm theo cả enzyme phân hủy cellulose, chẳng hạn như một
số loài thuộc Trichoderma, Penicillium và Aspergillus [29]. Do đó, để ứng dụng
xylanase đạt hiệu quả cao nhất cần phải loại bỏ ảnh hưởng của cellulase, hoạt động
và bền vững với nhiệt độ. Ngày nay, xylanase đã và đang được chú trọng nghiên
cứu rộng rãi trên toàn thế giới, từ Châu Âu, đến Châu Á và được áp dụng trong
nhiều ngành công nghiệp [13, 30].
1.1.2. Ưng dung xylanase trong sản xuất thức ăn chăn nuôi
Xylanase được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Xylanase hỗ trợ quá
trình tẩy trắng trong công nghiệp sản xuất giấy thay vì phải sử dụng các hóa chất
độc hại; xylanase tham gia quá trình xử lý rác thải nông, lâm nghiệp [8]; trong công
nghiệp sản xuất bánh, xylanase được dùng để làm tăng độ phồng và giảm độ dính
của bánh; xylanase được dùng trong công nghiệp sản xuất đồ uống, sản xuất nhiên
liệu [20, 29].
Một trong những ứng dụng quan trọng của xylanase là được dùng để bổ sung
vào thức ăn chăn nuôi. Sự có mặt của xylanase trong thức ăn chăn nuôi làm giảm độ
9
nhớt trong đường tiêu hóa, giảm rối loạn tiêu hóa, tăng cường hấp thu thức ăn, nhờ
vậy cải thiện hệ vi sinh vật đường ruột, giúp phân thải ra khô hơn [4, 5, 13, 27].
Ngoài xylanase, một số enzyme khác cũng được dùng để bổ sung vào thức ăn
chăn nuôi, bao gồm: mananase, ß – glucanase và cellulase, α – amylase, protease và
phytase. Các loại enzyme này đều được sử dụng rộng rãi trong nhiều năm qua trên
toàn thế giới, từ Châu Âu, đến Châu Mĩ và Châu Á [5, 13, 27].
Do tiềm năng ứng dụng trong nhiều lĩnh vực mà xylanase đã thu hút mạnh mẽ
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Xylanase tách chiết từ Aspergillus đã được
tách dòng và biểu hiện thành công. Đặc tính của enzyme này cũng đã được phân
tích [13]. Những thành tựu trên là cơ sở để nghiên cứu tạo sinh vật chuyển gen mã
hóa xylanase vào vật chủ mong muốn với mục đích thu lượng lớn enzyme phục vụ
cho các ngành sản xuất công nghiệp.
1.2. Nấm mốc và ứng dụng của công nghệ chuyển gen vào nấm mốc thông qua
A. tumefaciens
1.2.1. Giơi thiệu về nấm mốc
Nấm mốc hay còn gọi là nấm sợi là vi sinh vật đa dạng nhất trong tự nhiên.
Ước tính có khoảng 1,5 triệu loài nấm, trong đó chiếm số lượng lớn là các loài
thuộc chi Aspergillus. Chúng là các vi sinh vật nhân chuẩn bậc thấp, sinh bào tử và
sống hoại sinh nhờ khả năng sinh enzyme để phân hủy các hợp chất hữu cơ [8, 22].
Aspergillus là một chi thuộc ngành Eumycota và gồm rất nhiều loài phổ biến, ví dụ:
A. niger, A. oryzae... Giống như các loài khác trong chi Aspergillus, A. niger sinh
bảo tử có màu đen, vì thế chúng còn được gọi là mốc đen [33]. A. niger gây ảnh
hưởng đến các sản phẩm nông sản sau khi thu hoạch nhưng chúng ít gây bệnh cho
con người so với một số loài thuộc chi Aspergillus chẳng hạn như A. flavus, A.
fumigatus. A. niger cũng đã được sử dụng từ rất lâu trong sản xuất thực phẩm, sản
xuất citric acid, gluconic acid gluconic [33].
Nhờ khả năng tiết enzyme với hàm lượng cao, A. niger được sử dụng phổ biến
trong sản xuất thực phẩm và được coi là loài một vi sinh vật quan trọng trong sản
10
xuất công nghiệp [10, 13]. Ngoài ra, chúng còn được sử dụng trong sản xuất bánh,
rượu, bia. Dựa trên lịch sử ứng dụng lâu đời trong sản xuất thực phẩm lên men, A.
niger đã được coi là vi sinh vật an toàn và thân thiện với con người, mặc dù một số
chủng (chiếm khoảng 3 – 10%) có thể sản xuất ra một số chất chuyển hóa thứ cấp
gây độc trong điều kiện lên men như mycotoxin nhưng với hàm lượng rất thấp.
Kỹ thuật chuyển gen đã được áp dụng để chuyển các gen mong muốn vào thực
vật, nấm (nấm men) nhằm nâng cao năng suất, kháng sâu bệnh và nâng cao chất
lượng sản phẩm [22]. Chuyển gen vào A. niger đã được khai phá từ những năm cuối
thập kỉ 80 và đầu thập kỉ 90, trong gen mã hóa enzyme là một trong những mục tiêu
được quan tâm nhất. Hiện nay, nhiều loại enzyme được sử dụng trong các ngành
sản xuất công nghiệp, đặc biệt là các enzyme có nguồn gốc từ vi sinh vật tái tổ hợp
bằng kỹ thuật di truyền bởi đặc tính của chúng đã được cải thiện [31]. A. niger là
loài có khả năng sinh enzyme với hàm lượng cao và ổn định, do đó chúng trở thành
vật chủ để biểu hiện các loại enzyme mong muốn [9, 10, 31].
Chuyển gen vào nấm thường được tiến hành theo hai cách: trực tiếp và gián
tiếp. Kỹ thuật chuyển gen trực tiếp được thực hiện bằng xung điện, polyethylene
glycol (PEG), và bom vi tiêu để chuyển gen vào thể nguyên sinh, bào tử, hay thể sợi
nấm. Ngoài các kỹ thuật trên, một số các kỹ thuật chuyển gen khác được áp dụng ví
dụ: chuyển gen nhờ các transposon hay nhờ các enzyme giới hạn. Tuy nhiên, các kỹ
thuật này bộc lộ nhiều nhược điểm, chẳng hạn như tần suất tái tổ hợp tương đồng
thấp; có thể chuyển nhiều loại gen, kể cả những gen không mong muốn [11, 16]; có
thể tạo ra những vùng gen không mã hóa hoặc sau khi chuyển gen thường xảy ra
hiện tượng sắp xếp lại genome hoặc tồn tại những trình tự có tốc độ sao mã cao
[12]. Ngoài các kỹ thuật chuyển gen trực tiếp, chuyển gen có thể được thực hiện
một cách gián tiếp thông qua vi khuẩn A. tumefaciens. Phương pháp này đã và đang
được nghiên cứu và ứng dụng để chuyển gen vào nấm mốc [1, 9, 12].
11
1.2.2. Agrobacterium và ứng dung trong công nghệ chuyển gen thực vât và nấm
1.1.2.1. Giới thiệu về vi khuẩn đất Agrobacterium tumefaciens
Trong tự nhiên, chúng ta thường gặp ở vùng cổ rễ các loài thực vật hai lá mầm
một loại khối u gồm khối các tế bào không phân hóa và phát triển không có tổ chức.
Những tế bào trong khối u này mất khả năng phân cực và phân chia liên tục giống
như tế bào ung thư ác tính ở động vật.
Hình 1. 2: Khối u thực vật do Agrobacterium [18]
Theo cơ chế hình thành, người ta phân biệt hai loại khối u chính: khối u di
truyền và khối u cảm ứng. Khối u di truyền thường xuất hiện ở một vài cặp lai có
tính hòa hợp không cao ở một nhiễm sắc thể riêng rẽ nào đó, đặc biệt khi lai các loài
khác của chi thuốc lá Nicotiana hoặc của chi rau cải Brassica. Loại khối u cảm ứng
được biết đến nhiều nhất là mụn cây do loài vi khuẩn A. tumefaciens gây nên [1].
Agrobacterium là chi vi khuẩn Gram âm (–), bao gồm các loài gây bệnh kí
sinh và vi sinh vật sống trong đất. A. tumefaciens là loài vi khuẩn đất có khả năng
chèn gen của mình vào tế bào vật chủ và sau đó sử dụng bộ máy của sinh vật chủ để
biểu hiện các gen này dưới dạng hợp chất dinh dưỡng cho chúng. A. tumefaciens sẽ
tạo ra các khối u thực vật gần điểm tiếp nối giữa rễ và thân, gây ra những nốt sần ở
cây (bệnh mụn cây–crown gall disease) [12, 18].
Cơ chế hình thành loại khối u cảm ứng này được nghiên cứu từ nhiều năm nay
và mang lại nhiều thành tựu quan trọng trong chuyển gen thực vật [18]. A.
tumefaciens được sử dụng như một hệ thống trung gian hữu hiệu để chuyển gen vào
nhiều loài nấm, chẳng hạn như A. awamori, A. fumigatus, Penecillium digitatums
[18, 19]. Không chỉ vậy, chuyển gen thông qua A. tumefaciens cũng đã được áp
dụng để chuyển gen vào tế bào người [26].
12
Đến nay người ta đã khám phá được bản chất phân tử của quá trình cảm ứng
phát sinh khối u do vi khuẩn A. tumefaciens gây ra ở thực vật. Trước hết là quá trình
nhiễm khuẩn ở vùng tế bào của cây bị thương. Các tế bào bị thương tiết ra những
hợp chất polyphenol thu hút các tế bào vi khuẩn A. tumefaciens. Tuy nhiên, vi
khuẩn không thâm nhập vào tế bào thực vật mà chỉ chuyển gen vào chúng một đoạn
DNA nhỏ (T – DNA: tranferred DNA) nằm trên một loại plasmid đặc biệt và gây
nên trình trạng phát sinh khối u. Plasmid đặc biệt là Ti plasmid (tumor inducing)
[12, 26]. T – DNA sẽ tạo ra khối u thực vật và sự phát triển của khối u sau đó sẽ
không phụ thuộc vào sự có mặt của vi khuẩn Agrobacterium [19, 29].
1.2.2.1. Ti plasmid
Ti plasmid là một phân tử DNA vòng tương đối lớn, kích thước khoảng 150
kb – 200 kb. Tuy nhiên chỉ một đoạn 2 kb – 3 kb có khả năng thâm nhập vào
genome của tế bào chủ. Đó là đoạn T – DNA [19, 26]. T – DNA được xác định bởi
trình tự ở hai đầu khoảng 25 bp gọi là vùng biên (T – DNA borders), phần còn lại
ngoài vùng biên sẽ không có chức năng gì trong quá trình chuyển gen [12, 26].
Trên T – DNA có các gen tạo khối u. Gen tạo khối u sau khi gắn vào hệ gen
của tế bào chủ sẽ tham gia quá trình sinh tổng hợp auxin và cytokinin. Đây là các
hợp chất gây nên sự phân chia tế bào liên tục và dẫn đến hình thành các khối u [12,
26]. Nhờ đặc điểm này, người ta có thể loại bỏ khả năng gây hại của T – DNA bằng
cách thay các gen tạo khối u (oncogenes) nằm trong 2 đầu vùng biên bằng các gen
mong muốn. Khi các gen tạo khối u bị loại bỏ, tế bào hoặc mô thực vật chuyển gen
sẽ phát triển bình thường [1, 22]. Gen tổng hợp opine cần thiết để tổng hợp opine
[12, 26]. Hợp chất này không được tổng hợp trong Agrobacterium mà chỉ được tổng
hợp trong tế bào vật chủ vì gen điều khiển sự biểu hiện của gen sinh tổng hợp opine
chỉ hoạt động trong tế bào nhân chuẩn [2]. Bằng cách này, vi khuẩn cảm ứng tế bào
chủ tạo ra năng lượng và nguồn nitơ cần thiết cho chúng [12, 26].
Ngoài ra, Ti plasmid còn gồm 2 hệ gen: hệ gen gây độc vir và gen sinh tổng
hợp opine. Vùng gen độc vir nằm trên Ti plasmid gồm nhiều gen độc khác nhau
cùng tham gia quá trình vận chuyển T – DNA [11]. Khi xâm nhiễm vào tế bào vật
13
chủ, các gen gây độc vir được biểu hiện, chuyển T – DNA sang tế bào chủ và khối u
được tạo thành do sự hình thành auxin và cytokinin. Đây là các chất gây nên sự
phân chia tế bào liên tục [2, 12], dẫn đến thay đổi sự cân bằng hormon thực và hình
thành các khối u. Tỷ lệ auxin so với cytokin tạo ra từ các gen vir sẽ quyết định hình
thái khối u. Bên cạnh những gen chức năng, Ti plasmid gồm gen sinh tổng hợp
amino acid hiếm, ví dụ: Một loại u tạo octopine và loại khác tạo nopanine, vì vậy
người ta phân biệt 2 loại Ti plasmid là loại nopalin và loại octopine. Trình tự
nucleotid của chúng chỉ khác nhau ở trình tự gen mã hóa các enzyme tham gia sinh
tổng hợp nopalin và octopin [1].
Agrobacterium tumefaciens chủ yếu lây nhiễm thực vật qua các vết thương.
Thực vật bị thương sẽ ứa ra hợp chất amino acid, trong đó đường và acid vô cơ là
những yếu tố thu hút vi khuẩn xâm nhiễm bằng cách hóa hướng động. Khi vi khuẩn
tiến đến vết thương trên cây, chúng tấn công vào bề mặt và tổng hợp các sợi
cellulose, đồng thời thực vật tiết ra các hợp chất phenol, chẳng hạn như
acetosyringone (AS), một hợp chất thường được sử dụng để cảm ứng gen vir. Một
hệ thống điều hòa gồm hai thành phần cấu thành từ protein độc virA và virG được
hoạt hóa nhờ sự có mặt của AS. Protein nhiễm sắc thể, chvE tương tác với virA làm
tăng mức độ biểu hiện của gen vir trong môi trường có hợp chất monosaccharide.
AS kích thích virA, một thụ thể liên kết màng, và virA kích thích virG. VirG bị kích
thích sẽ tương tác với các yếu tố kích thích trên đoạn khởi đầu (promoter) điều
khiển khung đọc (operon) của virA, virB, virC, virD, virE và virG và kết quả là làm
tăng mức độ biểu hiện [12, 26].
.
14
Hình 1. 3: Mô hình xâm nhiễm của A. tumefaciens vào tế bào thực vật [19]
VirC và virD đều bị endonuclease phân cắt, hai gen này liên kết với biên phải
của T – DNA và cắt T – DNA sợi đơn ra khỏi Ti plasmid. Ngay lập tức trình tự này
liên kết với virE2 để tránh tác dụng của endonuclease và hiện tượng tự bắt cặp lại.
VirB2 – B11 hình thành T – pilus và kích thích virE2 đã được bao bọc bởi T – DNA
dạng sợi đơn chuyển sang tế bào đích [12, 26]. Trong tế bào chủ, T – DNA sẽ hoạt
động cùng gen nhân và mã hóa ra hormon và opine. Hormon kích thích sự phát triển
của tế bào chủ, opine là nguồn dinh dưỡng cho vi khuẩn A. tumefaciens. Tuy nhiên,
cho đến nay người ta vẫn chưa biết được đầy đủ cơ chế chính xác của quá trình này
[26]. Trong tế bào vật chủ, đầu cùng C của virE2 hướng tới DNA trong nhân và sẽ
hòa nhập vào hệ gen của tế bào chủ. Nếu không có trình tự tương đồng giữa trình tự
gen của tế bào chủ và T – DNA được chuyển, T – DNA sẽ hòa nhập một cách ngẫu
nhiên vào hệ gen của tế bào chủ. Tuy nhiên, nếu những đoạn gen mà có độ tương
cao với hệ gen của tế bào chủ, chúng sẽ tái tổ hợp tương đồng. Tần suất tái tổ hợp
15
Tế bào chủ
Nhân
Vết thương
thành tế bào
thực vât
Vết thương
thành tế bào
thực vât
T-DNA
đa hòa nhập
Tế bào chất
Preotein tương tác
với virD2
Preotein
tương tác
Phức hợp T
Phức hợp T
hoàn thiện
tương đồng khác nhau khi chuyển những đoạn gen có kích thước khác nhau, nhưng
hiệu quả chuyển gen sẽ tăng khi giảm tỷ lệ các đoạn tương đồng [26].
Hiện nay người ta đã thành công trong việc cải biến Ti plasmid bằng cách cắt
bỏ hấu hết các đoạn gen gây phát triển khối u, chỉ để lại đoạn gen vir và phần T –
DNA tối thiểu mang điểm ghép gen. Loại vector này đang được sử dụng rất hiệu
quả trong việc đưa DNA lạ vào tế bào vật chủ [1].
1.2.2.2. Các hệ thống vector dùng trong chuyển gen nhờ vi khuẩn Agrobacterium
* Vector liên hợp (cointegrate)
Vì kích thước Ti plasmid quá lớn nên thao tác với chúng rất khó khăn. Giải
pháp cho việc này là chuyển vùng T – DNA lên một vector nhỏ hơn. Điều này là
hoàn toàn có thể nhờ gen vir đóng vai trò vận chuyển gen vào tế bào chủ. Hệ thống
này gọi là hệ thống vector liên kết. Cả gen tiền ung thư và gen tổng hợp opine ở
dạng T – DNA hoang dại đều được thay thế bởi gen chọn lọc (gen kháng kháng
sinh). Gen sinh tổng hợp opine trên Ti plasmid cũng bị loại bỏ và chỉ giữ lại gen vir
cần thiết cho việc hình thành bộ máy và cấu trúc đảm cho việc sao chép bền vững
của plasmid trong A. tumefaciens.
Vector liên hợp là một Ti plasmid vector mang một số đoạn chức năng của
một vector thông thường khác của E. coli, và thường gồm những phần sau: i) Một vị
trí thích hợp cho phép ghép nối các đoạn gen quan tâm (gen of interest = GOI),
thường là có nguồn gốc từ một plasmid của vi khuẩn E. coli; ii) Gen chỉ thị có tính
kháng kháng sinh để chọn lọc hoạt động được trong E. coli và A. tumefaciens; iii)
Gen chọn lọc hoạt động được ở tế bào thực vật; iv) Đoạn khởi đầu của E. coli,
không hoạt động ở A. tumefaciens. Như vậy, vector liên hợp thực chất là vector lai
có chỗ cho GOI đi nhờ như một hành khách vào trong tế bào thực vật [1].
* Vector nhị thể (binary vector)
Hệ vector nhị thể đặc trưng bởi việc phân cắt Ti plasmid thành hai phần riêng
biệt: Ti plasmid và vector T – DNA
Khắc phục tình trạng khó nhân bản trong A. tumefaciens, loại vector nhị thể
được thiết kế bao gồm các phần như sau: i) Vị trí ghép nối đa điểm; ii) Đoạn khởi
16
đầu tái bản hoạt động cả ở E. coli và A. tumefaciens; iii) Gen chọn lọc hoạt động
được ở cả vi khuẩn và thực vật.; iv) gen có khả năng vận chuyển (như oriV, oriT,
trfA), chỉ cần khi chuyển gen thông qua A. tumefaciens, không cần khi chuyển gen
trực tiếp; v) Đoạn T – DNA ngoại biên (border), đặc biệt là đoạn ngoại biên phải
bắt buộc phải có. Ngoài ra còn một số thành phần phụ trợ khác như đoạn kích thích
vận chuyển T – DNA [1, 19].
Hệ vector nhị thể được thiết kế bao gồm hai plasmid tự tái bản. Loại vector
vận tải mang GOI giữa đoạn ngoại biên của T – DNA và một plasmid hỗ trợ có gen
vir đảm nhiệm chức năng vận chuyển vào tế bào thực vật. Plasmid hỗ trợ được cải
biến từ các Ti plasmid bình thường bằng cách loại bỏ gen kích thích tế bào thực vật
phát triển thành khối nhưng vẫn duy trì khả năng thâm nhập vào tế bào thực vật [1].
Với các kiểu plasmid như trình bày trên có thể tiến hành chuyển gen gián tiếp
thông Agrobacterium vào nhiều loài nấm mốc khác nhau [1, 9, 11].
1.2.3. Chuyển gen vào nấm mốc thông qua A. tumefaciens
1.2.3.1. Kỹ thuât chuyển gen vào nấm mốc A. niger
Nhờ khả năng chuyển DNA sang tế bào vật chủ và phổ vật chủ rộng mà
chuyển gen nhờ A. tumefaciens trở thành kỹ thuật thông dụng để chuyển gen vào
nhiều đối tượng khác nhau, ví dụ: thực vật, vi sinh vật [22, 26]. Nhiều loài thực vật
chuyển gen nhờ Agrobacterium, trong đó chiếm số lượng lớn là các cây nông
nghiệp, chẳng hạn như khoai tây, cà chua, đậu tương, cây bông và cây lúa đã mang
lại năng suất và chất lượng cao, chống chịu với sâu bệnh [3, 9]. Đối với vi sinh vật,
nấm men Saccharomyces serevisiae là đối tượng được sử dụng phổ biến nhưng lại
không phải là vật chủ tối ưu để chuyển gen nhờ Agrobacterium. Hiệu suất chuyển
gen nhờ Agrobacterium vào nấm men thấp hơn so với chuyển gen vào thực vật và
thấp hơn so với các phương pháp truyền thống, ví dụ: xung điện [9].
Chuyển gen thông qua Agrobacterium đã được Nyilasi ứng dụng để chuyển
gen kháng hygromycin B vào Zygomycetes [15]. Agrobacterium cũng được sử
dụng để chuyển gen vào nấm sợi, chẳng hạn như: Aspergillus, Fusarium,
17
Penicillium, Trichoderm, Neurospora, trong đó phổ biến nhất là các loài
Aspergillus, bao gồm: A. awamori, A. nidulans, A. niger [22].
Bảng 1. 1: Các loài nấm được dùng trong chuyển gen thông qua
Agrobacterium [9]
Ngành Phân ngành Lớp Bộ Họ Loài
Myxomycota
Eumycota Mastigomycoina
Zygomycotina
Ascomycotina Ascomycetes Eurotiales Eurotiaceae Aspergillus nidulans
Sphaeriales Sordariaceae Neurospora crassa
Basidiomycotina Homobasidiomycetes Agaricales Agaricaceae Agaricus bisporus
Tricholomataceae Pleurotus ostreatus
Deuteromycotiana Deuteromycetes Hyphomycetes Aspergillus niger
Aspergillus awamori
Fusarium solani
Fusarium graminearum
Trichoderma reesei
Coelomycetes Melanconiaceae Colletotrichuni gloeosporioides
Chuyển gen vào nấm mốc gián tiếp thông qua A. tumefaciens gồm một số
bước sau: i) trước hết gen cần chuyển phải được nối ghép với một vector tách dòng
của A. tumefaciens; ii) gen mong muốn phải được nối ghép vào giữa biên phải và
biên trái của vector tách dòng để lợi dụng cơ chế chuyển gen của loài vi khuẩn này;
iii) vector tái tổ hợp mang gen mong muốn phải được biến nạp vào tế bào A.
tumefaciens có mang các vùng gen độc trong DNA của chúng, các gen độc sẽ cảm
ứng vi khuẩn chuyển gen quan tâm sang tế bào chủ khi có mặt các chất cảm ứng;
iv) chủng vi khuẩn chuyển gen sẽ được tiến hành nuôi nhiễm với bào tử nấm A.
niger trong môi trường có bổ sung chất cảm ứng AS; v) nấm chuyển gen được chọn
lọc và phân biệt với nấm không được chuyển gen dựa trên đặc tính của đoạn DNA
được chuyển vào nấm hoặc dựa trên sự biểu hiện của gen được chuyển. Nấm
18
chuyển gen tiếp tục được nuôi cấy trên môi trường chọn lọc để làm ổn định nguồn
gen [11, 22].
Như vậy, phương pháp chuyển gen vào nấm mốc thông qua Agrobacterium
không khác nhiều so với phương pháp chuyển gen vào thực vật. Đó là chúng đều
cần một sinh vật chuyển gen gián tiếp, một Ti plasmid tái tổ hợp đã ghép nối đoạn
gen mong muốn, và đều phải có mặt chất cảm ứng… Tuy nhiên, với nấm mốc, quá
trình chuyển T- DNA nhờ Agrobacterium được thực hiện thông qua quá trình nuôi
chung (nuôi nhiễm) trên một giá thể đặc biệt là các màng lọc để thuận lợi cho việc
chuyển màng sang môi trường chọn lọc thể chuyển gen [9].
1.2.3.2. Thuân lợi và khó khăn
* Thuận lợi
Chuyển gen vào nấm mốc thông qua vi khuẩn A. tumefaciens có nhiều ưu
điểm và thuận lợi so với các các phương pháp truyền thống ví dụ: xung điện, PEG,
bởi các lý do sau:
Nguyên liệu từ nấm để nuôi nhiễm cùng với A. tumefaciens vô cùng
đa dạng. Chúng có thể là bào tử, là thể nguyên sinh, hạt cầu, thể sợi nấm hay bào tử
nảy mầm và thậm chí cả cặn tế bào [9, 11, 16]. Nhờ ưu điểm này đã loại bỏ được
những trở ngại khi tái sinh thể nguyên sinh khi sử dụng kỹ thuật PEG. Phương pháp
chuyển gen truyền thống vào Mucor dựa trên phương pháp PEG đòi hỏi phải có thể
nguyên sinh hình thành từ khuẩn ty. Mặc dù hiệu suất chuyển gen cao, nhưng trên
thực tế, phương pháp này đòi hỏi một lượng lớn enzyme để chuẩn bị thể nguyên
sinh [18]. Hơn nữa, hiệu suất tái sinh thể nguyên sinh thường gặp nhiều khó khăn
và ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố chẳng hạn như điều kiện sinh trưởng của bào tử nảy
mầm (thành phần môi trường, thời gian nuôi cấy). Ngoài ra, phương pháp chuyển
gen nhờ thể nguyên sinh phải không những đòi hỏi phải tối ứu đối với các enzyme
dùng để chuẩn bị thể nguyên sinh [11] mà còn tốn thời gian và tiền của [17].
Tần suất chuyển gen cao: Hầu hết chuyển gen vào nấm thông qua
Agrobacterium có tần suất cao hơn so với các phương pháp truyền thống [9, 11, 16].
Chuyển gen vào A. awamori thông qua Agrobacterium có hiệu suất cao gấp 400 lần
19
so với các phương pháp chuyển gen trực tiếp bằng PEG [9]; Với vật chủ là
Colletotrichum gloeosporioides, hiệu suất chuyển gen nhờ Agrobacteium cao gấp 5
– 10 so với chuyển gen nhờ tế bào trần; Với một số vật chủ khác, chẳng hạn như
Neurospora crassa, Trichoderma reesei, hiệu suất chuyển gen nhờ Agrobacterium
tương tự với hiệu suất chuyển gen nhờ tế bào trần đã được tối ưu [9]. Tương tự,
chuyển gen vào A. fumigatus thông qua vi khuẩn Agrobacterium, hiệu suất chuyển
gen cao gấp 2 lần so với chuyển gen nhờ các hạt cầu [16].
Chuyển được những đoạn DNA có kích thước lớn. So với các phương
pháp cũ chuyển gen vào tế bào trần chỉ có thể chuyển được những đoạn DNA có
kích thước khoảng 40 kb, đoạn DNA ngoại lai nhỏ nhất có thể chuyển vào tế bào
thực vật nhờ A. tumefaciens có thể lên đến 150 kb [9].
Các thể chuyển gen nhờ Agrobacterium thu được đều có copy duy
nhất, và gen được chuyển hòa nhập một cách ngẫu nhiên vào genome của tế bào
chủ [11, 16].
Phương pháp chuyển gen vào nấm mốc thông Agrobacterium là
phương pháp nền tảng trong sản xuất thực phẩm bởi các chủng nấm mốc không
chứa các yếu tố kháng kháng sinh vi khuẩn [9].
Ngoài ra, chuyển gen nhờ Agrobacterium là phương pháp thuận lợi để nghiên
cứu chức năng của gen, nghiên cứu tạo gen đột biến [11, 29].
* Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi trên, chuyển gen vào nấm mốc thông qua A.
tumefaciens cũng có bất lợi đó là không thích hợp để tạo ra chủng vi sinh vật nhằm
thu lượng lớn sản phẩm protien do chỉ hòa nhập một sao duy nhất T – DNA trong
khi cần nhiều bản sao để biểu hiện ra sản phẩm của gen. Tuy nhiên, nhược điểm này
có thể khắc phục dễ dàng nhờ chuyển lượng lớn phân tử T – DNA có mang gen
mong muốn hoặc thay đổi điều kiện khi nuôi nhiễm hoặc thay đổi gen chọn lọc
[11]. Như vậy, rõ ràng hệ thống chuyển gen nhờ Agrobacterium là một hệ thống
chuyển gen hiệu quả, đơn giản và là một công cụ hữu ích để chuyển gen vào nấm
mốc [9, 11, 12, 16].
20
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển gen vào nấm mốc thông qua
Agrobacterium
Chuyển gen vào nấm thông qua A. tumefaciens là phương pháp được áp dụng
phổ biến bởi tính ổn định, đơn giản và hiệu suất cao [13, 16]. Tuy nhiên, hiệu suất
chuyển gen vào nấm thông qua Agrobacterium cũng khác nhau khi sử dụng các loài
nấm khác nhau. Do đó, để hiệu suất chuyển gen đạt được cao nhất, các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình chuyển gen cần được tối ưu hóa [18].
Nguyên liệu nấm
Một trong những thuận lợi của phương pháp chuyển gen nhờ Agrobacterium
là nguyên liệu ban đầu dùng cho chuyển gen gen rất đa dạng. Nguyên liệu để nuôi
chung với A. tumefaciens có thể là bào tử, thể nguyên sinh, thể sợi nấm… đều có
thể chuyển gen thành công và hiệu suất chuyển gen ở các trường hợp này là ngang
nhau. Trong khi một số loài nấm lại yêu cầu các nguyên liệu rất cụ thể. Một số loài
thuộc zygomycetes chẳng hạn như Rhizopus oryzae, Mucor circinelloides, chỉ xuất
hiện thể chuyển gen nếu nguyên liệu ban đầu là thể nguyên sinh; với loài
Coccidioides immitis chuyển gen chỉ có thể sử dụng bào tử mầm; hiệu suất chuyển
gen ở Agaricus bisporus khi dùng bào tử mầm làm nguyên liệu ban đầu sẽ cao hơn
so với dùng thể sợi nấm [12].
Một nhân tố khác ảnh hưởng đến hiệu suất chuyển gen vào nấm là thời gian
bảo quản bào tử nấm. Nguyên liệu được bảo quản trong thời gian dài sẽ giảm hiệu
quả chuyển gen trong quá trình nuôi nhiễm hoặc giảm tỷ lệ nảy mầm của bào tử so
với nguyên liệu mới [12].
Agrobacterium và tế bào chủ
Chủng giống sử dụng cho cho chuyển gen thông qua Agrobacterium cũng rất
đa dạng, ví dụ: LBA 4404, EHA 105, LBA 1100. Hiệu suất chuyển gen khi sử dụng
các chủng trên là như nhau nên thật khó để kết luận được sử dụng chủng nào là tốt
nhất. Mỗi chủng nấm mang lại hiệu quả khác nhau với tế bào chủ khác nhau. Ngoài
ra, với cùng một hiệu suất chuyển gen cũng rất đa dạng khi chuyển gen vào nấm
21
được phân lập theo những cách khác nhau. Bởi vậy, không thể đưa ra kết luận
chủng Agrobacterium nào thích hợp để chuyển gen vào nấm [12].
Nồng độ chất cảm ứng
Trong hầu hết các nghiên cứu, AS được bổ sung trong giai đoạn nuôi nhiễm
bởi đây là hợp chất cảm ứng gen vir cần thiết cho việc chuyển T – DNA. Nhưng
trong quá trình nuôi cấy Agrobacterium không cần thiết bổ sung AS, nhiều trường
hợp còn dẫn đến giảm hiệu suất biến nạp, chẳng hạn như đối với vật chủ là
Fusarium oxysporum, Magnaporthe grisea [11, 12].
Tỷ lệ nuôi nhiễm
Yếu tố ảnh hưởng lớn đến hiệu suất chuyển gen là tỷ lệ nuôi nhiễm giữa vi
khuẩn Agrobacterium và nấm mốc. Cần xác định tỷ lệ thích hợp cho mỗi chủng
nấm [11]. Tăng tế bào Agrobacterium hoặc nấm có thể làm tăng hiệu suất chuyển
gen. Tuy nhiên, cả hai yếu tố trên đều phải có những giới hạn nồng độ nhất định.
Nếu bổ sung quá nhiều A. tumefaciens, hiệu suất chuyển gen có thể giảm do cạnh
tranh dinh dưỡng và mật độ vi khuẩn quá dày, hơn nữa sẽ gặp khó khăn trong việc
giết chết Agrobacterium khi chuyển sang môi trường chọn lọc thể nấm chuyển gen.
Ngược lại, quá nhiều bào tử nấm, việc phân lập từng tế bào sau quá trình nuôi
nhiễm sẽ gặp nhiều khó khăn [12]. Do vậy, quá trình nuôi nhiễm có thể thử nghiệm
nhiều tỷ lệ khác nhau để chọn được tỷ lệ phù hợp sao cho hiệu suất cao nhất [11].
Điều kiện cùng nuôi nhiễm
Điều kiện cùng nuôi nhiễm là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến hiệu suất chuyển gen. Điều kiện nuôi nhiễm nấm và Agrobacterium bao gồm
thời gian, nhiệt độ và màng lọc. Nhiệt độ nuôi nhiễm có thể từ 22° – 37°C, song
nhiệt độ tối ưu cho quá trình nuôi nhiễm từ 22° – 25°C, trong thời gian từ 2 – 3
ngày. Ngoài ra, nhiều loại màng lọc khác nhau như cellulose, nitrocellulose,
Hybond N+ cũng sẽ cho hiệu suất chuyển gen khác nhau [11, 12].
Ngoài các yếu tố trên, còn một số các yếu khác cũng có thể ảnh hưởng đến
hiệu suất chuyển gen chẳng hạn như nồng độ chất kháng sinh, hoặc cũng có thể do
22
Quy trình chuyển gen không phù hợp với tế bào chủ. Do vậy, để đạt hiệu suất
chuyển gen cao nhất, điều kiện chuyển gen cần phải được tối ưu [12].
23
Chương 2 – NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nguyên liệu
2.1.1. Nguyên liệu
Vector và chủng giống
Vector tách dòng pJET1.2/Blunt của hãng Fermentas; Vector pBluescript II
KS (–) của hãng Stratagene; Vector biểu hiện Vector pCAMBIA1300. Các
vector này được lưu giữ tại Phòng công nghệ ADN ứng dụng – Viện Công
nghệ sinh học. Vector biểu hiện pAN7.1 – GluA do Phòng Công nghệ sinh
học enzyme – Viện Công nghệ sinh học cung cấp.
Các chủng vi sinh vật: Agrobacterium tumefaciens CV58C1 – pGV2260 của
hãng Clontech (Mỹ); E. coli DH5α và E. coli DH10b của hãng Gibco BRL
Life Technology (Mỹ). Các chủng giống này được lưu giữ tại Phòng Công
nghệ ADN ứng dụng – Viện Công nghệ sinh học.
A. niger VTCC – F – 017; gen mã hóa xylanase phân lập từ A. niger do
Phòng công nghệ sinh học enzyme – Viện Công nghệ sinh học cung cấp.
Các cặp mồi dùng trong PCR:
Cặp mồi đặc hiệu cho hph:
hph1: 5’ – TTC GAT GTA GGA GGG CGT GGA T – 3’
hph2: 5’ – CGC GTC TGC TGC TCC ATA CAA G – 3’
Mồi đặc hiệu cho xylB:
XylBF: 5’ – GAA GGA TCC GAA TAT GCT CAC CAA G – 3’
XylBR: 5’ – TCA GCA GGA TCC TAC TGA ACA GTG – 3’
SeqXylF: 5’ – TCCGAAGTAGGTAGAGCGAGTA – 3’
2.1.2. Hóa chất
Enzyme giới hạn: Sma I, Hind III, Eco RI, Eco RV, Bgl II, Not I, Nco I, Kpn
I của hãng Fermentas và Biolab.
24
1
Các hoá chất dùng cho kỹ thuật PCR (đệm, MgCl2, dNTPs, enzyme Taq
polymerase); Kit tinh sạch sản phẩm PCR GeneJETTM Gel Extraction Ki; Kit
tinh sạch DNA plasmid Wizard®SV của hãng Promega (Mỹ). Kit tách dòng
CloneJETTM PCR Cloning Kit của hãng Fermentas.
Các hoá chất dùng để tách DNA tổng số, DNA plasmid của các hãng
Amersham Bioscience (Anh), Sigma (Mỹ), Merck (Đức).
Các chất kháng sinh: ampicillin; kanamycin; rifamycin; cefotaxim;
hygromycin B
Môi trường nuôi cấy vi sinh vật:
Bảng 2. 1: Môi trường nuôi cấy các chủng vi sinh vật
Môi trường/1l
LB YEB SOC LC IM
Cao nấm men
5 g 10 g 5 g 5 g -
Tripton 10 g - 20 g 10 g -
Pepton - 10 g - - -
NaCl 10 g 5 g 10 mM 8 g -
Agar 15 g 15 g - 15 g 15 g
Hóa chất khác
- Saccharose: 5 gMgSO4.7H2O: 2 mM
KCl: 2,5 mM MgSO4:10 mM MgCl2: 10 mM Glucose: 20 mM
- 0, 8 ml K2HPO4 1,25 M, pH: 4,820 ml MN* buffer (30 gMgSO4. 7H2O; 15 g NaCl)1 ml CaCl2. 2 H2O 1%10 ml FeSO4 0,01%5 ml các nguyên tố vi lượng**2,5 ml NH4NO3 20%10 ml Glycerol 50%40 ml MES 1 M, pH: 5,55 ml glucose 20%
* MN buffer: 30 g MgSO4. 7H2O; 15 g NaCl, 1 l H2O
25
** Các nguyên tố vi lượng: 100 mg ZnSO4. 7H2O; 100 mg H3BO3; 100 mg
MnSO4. H2O; 100 mg CuSO4. 5H2O; 100 mg Na2MoO4. 2H2O; bổ sung H2O đến
100 ml, khử trùng.
2.1.3. Thiêt bị
Tủ lạnh sâu –20°C, –70°C (Sanyo, Nhật Bản); Lò vi sóng (Samsung, Hàn
Quốc); Pipetman các loại (Gilson, Pháp); Cân phân tích (Mettler Toledo 10–4g,
Thụy Sĩ); Máy đo pH (Mettler, Thụy Sĩ); Máy ly tâm lạnh cao tốc; Máy ly tâm
Eppendorf (Eppendorf 5415C, Đức); Máy PCR (MJ Research, Inc., Mỹ); Máy soi
DNA (Minitransilluminator BioRad, Mỹ); Máy điện di (PowerPac 300, BioRad,
Mỹ); Box cấy; Bể ổn nhiệt; Nồi khử trùng.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Các phương pháp sử dung để nối ghép gen
* Chuẩn bị vector và gen mong muốn cho phản ứng nối ghép gen
– Tinh chế đoạn gen và vector: Để nối ghép gen vào một vector, trước hết
chúng phải được với cùng một enzyme cắt giới hạn để tạo đầu cắt tương ứng cho
phản ứng nối ghép gen. Ngoài ra, để phản ứng đạt hiệu suất cao cần tinh chế đoạn
gen hoặc vector trước khi tiến hành lai. Phản ứng cắt lượng lớn để thôi gel và tinh
sạch đoạn gen và vector quan tâm như sau:
Thành phần phản ứng cắt:
H2O: 48 µl
Buffer: 10 µl
Vector/plasmid: 40 µl
Enzyme cắt giới hạn: 2 µl
Tổng thể tích: 100 µl
Ủ 37° – 2 giờ
– Khử phosphate đối với vector
Nguyên tăc:
26
DNA plasmid sau khi cắt bằng enzyme hạn chế được loại nhóm phosphat ở
đầu 5' nhờ enzyme phosphatase kiềm được tách từ ruột bê (CIP = Calf Intestinal
Alkaline Phosphatase). Mục đích nhằm tránh hiện tượng đóng vòng trở lại của
vector.
Phương pháp:
DNA plasmid (10 – 20 g) được ủ với enzyme giới hạn trong 1 giờ. Lấy
khoảng 0,3 g điện di trên gel agarose 0,8% cùng với chỉ thị phân tử là DNA
plasmid chưa xử lý bằng enzyme. Nếu như quá trình cắt chưa hoàn toàn, bổ
sung thêm enzyme giới hạn và ủ tiếp.
Khi DNA đã được cắt hoàn toàn, chiết mẫu với phenol : chloroform và tủa
DNA bằng hai thể tích ethanol trong 15 phút ở 0°C. Ly tâm thu DNA ở 4°C,
12000 vòng/phút (v/p) trong 10 phút. Hoà cặn trong 90 l 10 mM Tris.Cl (pH
8,3). Lấy khoảng 200 ng DNA điện di kiểm tra. Mẫu còn lại được giữ ở –
20°C.
Thêm 10 l dung dịch đệm dùng cho CIP và một lượng enzyme thích hợp, ủ ở
điều kiện tương ứng.
Chú ý: Lượng enzyme cần dùng và điều kiện ủ phụ thuộc vào đoạn cắt DNA
mang đầu dính hay đầu bằng.
Bảng 2. 1: Điều kiện khử photphat của các loại đầu dính
Lượng enzyme Điều kiện ủ
Đầu
dính
5'
1 unit / 100
pmoles*
ở 37°C trong 30 phút
Đầu
bằng
1 unit / 2 pmoles ở 37°C trong 15 phút. Sau đó thêm một lượng
enzyme và tiếp tục ủ ở 55°C trong 45 phút.
* 2 g DNA mạch thẳng dài 5 kb khoản 1,4 pmoles.
Sau khi ủ, thêm vào mẫu SDS và EDTA (pH 8,0) đến nồng độ cuối cùng tương
ứng là 0,5 % và 5 mM. Trộn đều và thêm proteinase K 100 g/ml. Ủ 30 phút ở
56°C. Proteinase K dùng để hoà tan CIP nhằm loại bỏ chúng hoàn toàn giúp cho
27
quá trình gắn gen vào vector có hiệu quả. CIP cũng có thể bị làm bất hoạt bằng
cách ủ 1 giờ ở 65°C hoặc 75°C trong 10 phút cùng với 5 mM EDTA (pH 8,0).
Sau đó làm nguội phản ứng ở nhiệt độ phòng. Chiết DNA một lần bằng phenol,
một lần bằng phenol : chloroform. Bổ sung Na – acetate 3M, pH 7,0 (nếu pH =
5,2 như thông thường thì EDTA trong dung dịch sẽ bị kết tủa khi nồng độ > 5 –
10 mM) theo tỷ lệ thể tích 1: 10. Trộn đều và thêm 2 lần thể tích ethanol 100%.
Đảo đầu ống Eppendorf vài lần. Giữ ở 0°C trong 15 phút.
Ly tâm 12000 v/p, 10 phút, 4°C để thu DNA. Rửa cặn bằng ethanol 70%, ở 4°C.
Làm khô DNA và hoà trong TE (pH 7,6) và bảo quản ở – 20°C.
Phản ứng khử phosphate được tiến hành như sau:
H2O: 29 µl
Buffer CIAP: 5 µl
CIAP: 1 µl
Vector: 15 µl
Tổng thể tích: 50 µl
Ủ 37° – 1giờ và dừng phản ứng ở 65° – 15 phút
* Tinh chê các đoạn DNA và vector tách dòng trên gel agarose
Để chuẩn bị nguyên liệu cho các phản ứng ghép nối gen với vector, ngoài
các vector có sẵn trong các bộ Kit tách dòng như pJET1.2, pBluescript II KS(-),
trong nội dung nghiên cứu này vector biểu hiện, vector tách dòng trung gian, sản
phẩm PCR được kiểm tra bằng điện di trên gel 0,8 % agarose, sau đó cắt phần gel
có băng DNA mong muốn và thu lại DNA bằng Kit tinh sạch Wizard®SV. Quy
trình tinh sạch DNA gồm các bước sau:
Làm tan gel
Sau khi điện di xong, cắt phần gel chứa băng DNA tương ứng gel và chuyển vào
ống Eppendorf, xác định lượng gel đã cắt được.
Bổ sung dung dịch gắn màng với tỉ lệ 10 µl dung dịch/10 mg gel.
Vortex và ủ ở 50 - 65˚C cho đến khi gel tan hoàn toàn.
Gắn DNA
28
Đưa cột SV vào ống Collection (cột tinh sạch).
Chuyển hỗn hợp gel đã tan vào cột tinh sạch, ủ ở nhiệt độ phòng trong 1 phút.
Ly tâm 12000 v/p trong 1 phút, bỏ phần dịch ở cột Collection.
Rửa màng
Bổ sung 700 µl dung dịch rửa màng (đã bổ sung cồn). Ly tâm 12000 v/p trong 1
phút, loại bỏ phần dịch phía ở ống phía dưới cột Collection.
Rửa lại 1 lần bằng cách bổ sung tiếp 500 µl dung dịch rửa, ly tâm 12000 v/p
trong 5 phút. Loại bỏ phần dịch ở ống phía dưới cột Collection.
Ly tâm tiếp cột 12000 v/p trong 1 phút, để ở nhiệt độ phòng trong 5 phút để bay
hơi hết lượng cồn còn lại.
Thu DNA
Nhẹ nhàng chuyển cột SV sang 1 ống Eppendorf 1,5 ml sạch.
Bổ sung 50 µl nước không có nuclease, ủ ở nhiệt độ phòng trong 1 phút, ly tâm
12000 v/p trong 1 phút.
Loại bỏ cột SV và giữ DNA ở 4˚C hoặc -20˚C.
Kiểm tra nồng độ DNA bằng cách điện di trên gel 0,8 % agarose.
* Phản ứng ghép nối
Phản ứng nối ghép ở đây được thực hiện theo Kit tách dòng CloneJETTM PCR
Cloning Kit của hãng Fermentas. Đây là phương pháp được thiết kế đặc biệt để tách
dòng gen mong muốn (hoặc sản phẩm PCR nói chung) được nhân lên bằng enzyme
Taq DNA polymerase hoặc đã được cắt bằng enzyme giới hạn có vị trí nhận biết
điểm cắt tương ứng.
Quy trinh nối ghép gen:
Vetor và đoạn DNA ngoại lai sau khi được xử lý bằng enzyme giới hạn, tinh
chế và được tiến hành nối ghép theo phản ứng như sau:
29
H2O: 5µl
T4 ligase buffer : 2µl
Vector: 2µl
T4 DNA ligase: 2µl
Sản phẩm cắt enzyme: 9µl
Tổng thể tích: 20µl
Hỗn hợp phản ứng được trộn nhẹ nhàng và ủ ở 0° – 18°C trong 16 giờ.
- Phương pháp ghép nối các đoạn DNA vào vector: các đoạn gen và vector sau
khi được xử lý bằng enzyme giới hạn phù hợp sẽ được ghép nối với nhau nhờ
enzyme T4 ligase, phản ứng thực hiện ở 14˚C trong 12 giờ. Đặc biệt trong nội dung
nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng tính chất đặc biệt của 2 loại enzym giới hạn Bam
HI (GGATCC) và Bgl II (AGATCT) có 4 điểm nhận biết ở giữa giống nhau, tạo ra
đầu dính giống nhau là GATC. Nhờ vào đặc điểm này mà người ta có thể tiến hành
ghép nối đoạn DNA được cắt bằng Bam HI với đoạn DNA được cắt bằng Bgl II, khi
đó trong phân tử DNA lai điểm cắt của hai enzyme này bị thay đổi.
2.2.2. Biên nạp vào tê bào E. coli và A. tumefaciens
* Biên nạp vào tê bào E. coli
Nguyên tăc:
Màng tế bào vi khuẩn dưới tác động của hoá chất hoặc điện trường sẽ bị thay
đổi trở nên xốp, mỏng hơn và tạo các lỗ khiến cho các phân tử DNA có thể chui
vào. Sau đó, các tế bào được phục hồi lại trên môi trường nuôi cấy và các thể biến
nạp sẽ được phát hiện trên môi trường chọn lọc.
Phương pháp chuẩn bị tê bào khả biên E. coli H10b hoăc E. coli DH5α:
Nhặt một khuẩn lạc cấy ria lên đĩa LB đặc, ủ ở 37°C qua đêm.
Nhặt 1 khuẩn lạc trên đĩa ủ qua đêm và nuôi trong 2 ml môi trường LB lỏng,
nuôi lắc 37°C qua đêm.
Chuyển 300 µl dịch nuôi cấy sang 30 ml môi trường LB lỏng, nuôi lắc 37°C
trong 3 giờ.
30
Chuyển dịch nuôi cấy sang ống ly tâm đã được làm lạnh trên đá, ly tâm 5000
v/p, 4°C trong 10 phút để thu cặn.
Hòa tan cặn nhẹ nhàng (có thể dùng đầu côn để làm tan tế bào) trong 0.7 đến
1.5 ml dung dịch CaCl2 (tùy theo lượng tế bào nhiều hay ít), ly tâm 5.000 v/p,
4°C, 10 phút để thu cặn.
Tiếp tục lặp lại bước trên 1–2 lần.
Bổ sung glycerol 60% theo tỷ lệ 1 : 2 so với lượng CaCl2 dùng để rửa, dùng
pipet trộn đều nhẹ nhàng.
Hút 80 µl – 100 µl vào ống Eppendorf 1.5 ml đã được giữ lạnh trên đá và cất
ngay trên đá hoặc bảo quản ở tủ –80°C.
Tế bào khả biến có thể dùng ngay hoặc để trên bình đá hay cất vào tủ lạnh dùng
trong 3 ngày hoặc làm lạnh bằng nitơ lỏng và bảo quản ở –80°.
Quy trinh biên nạp:
Đặt tế bào khả biến E. coli DH10b hoặc E.coli DH5α vào đá khoảng 30 phút nếu
tế bào khả biến cất giữ ở – 80°C.
Bổ sung 5l sản phẩm của phản ứng ghép nối ở trên vào mỗi ống tế bào E. coli
DH10b hoặc E. coli DH5α, đảo nhẹ và ủ trong đá 15 phút.
Sốc nhiệt ở 42°C trong 70 giây, đặt ngay vào đá 5 phút.
Bổ sung 300 l môi trường LB lỏng, nuôi lắc 37°C trong 1 giờ.
Cấy trải toàn bộ dịch nuôi ra đĩa LB đặc có bổ sung ampicillin hoặc kanamycin
(50mg/ml).
Nuôi ở 37°C qua đêm, chọn các khuẩn lạc.
* Phương pháp biên nạp vào tê bào A. tumefaciens
Chuẩn bị tê bào khả biên A. tumefaciens
Làm mới giống trên môi trường thạch YEB có bổ sung kháng sinh thích hợp.
Nuôi cấy lắc vi khuẩn trong 2 ml môi trường LB ở 28°C, 6 – 8 giờ.
Lấy 1 ml dịch vi khuẩn trên nuôi cấy tiếp ở 28°C qua đêm trên 100 ml môi
trường LB lỏng + 0,1% glucose đến khi OD660nm đạt 1– 1,5.
31
Làm lạnh mẫu trong đá 15 phút, ly tâm 5000 v/p, 20 phút để thu cặn tế bào Rửa
cặn 3 lần trong 10 ml 1 mM HEPES (N–2–hydroxyethylpiperazine–N’–2–
ethanesulfonic acid) pH 7,0; 1 lần trong 10 ml 10% glycerol.
Cặn hòa lại trong 500 – 700 l 10% glycerol.
Chia 100 l dịch tế bào vào mỗi ống Eppendorf, làm lạnh trong nitơ lỏng và bảo
quản ở – 80°C.
Quy trinh biên nạp vào A. tumefaciens bằng phương pháp xung điện
Vector được đưa qua cột thôi gel để tinh sạch, nồng độ sau khi qua cột tinh sạch
là 40 – 50 ng/µl.
Làm tan tế bào khả biến (TBKB) trên đá 30 phút.
Thêm 5 – 10 µl sản phẩm DNA ngoại lai.
Để trên đá 10 phút, cuvet được ngâm cồn, chiếu đèn tím khử trùng rồi làm lạnh
trong đá 5 phút, sau đó bổ sung dịch TBKB vào trong cuvet.
Xung điện ở 25F, 2,5kV, 400Ω.
Bổ sung 800 µl SOC vào cuvet, chia ra 3 ống Eppendorf, lắc ở 28°C trong 2 giờ.
Trải đĩa với lượng lần lượt là 10 µl, 20 µl, 100 µl, 200 µl lên đĩa môi trường đặc
YEB có bổ sung rifamycin, kanamycin, ampicillin và nuôi ở 28°C trong 2 ngày.
Nhặt nuôi một số khuẩn lạc trong 5 ml – 7 ml YEB bổ sung kháng sinh thích
hợp.
2.2.3. Phương pháp điện di DNA trên gel agarose
Nguyên tăc:
Nguyên tắc của phương pháp điện di dựa vào đặc tính cấu trúc của các nucleic
acid. Nucleic acid là các đại phân tử tích điện âm, nên dưới tác động của dòng điện
một chiều các đoạn DNA có khối lượng và kích thước khác nhau sẽ di chuyển trong
điện trường từ cực âm sang cực dương.
Quy trinh:
Agarose 0,8% được đun sôi, để nhiệt độ hạ xuống khoảng 50° – 60°C, đổ dung
dịch agarose vào khay gel đã cài sẵn răng lược thích hợp. Sau khoảng 30 phút,
32
khi gel đã đông cứng, tháo lược, đặt khay gel vào bể điện di. Đổ đệm TAE 1X
ngập cách mặt gel khoảng 2 mm.
Tra mẫu: Mẫu DNA trộn cùng với đệm tra mẫu theo tỷ lệ thích hợp, tra mẫu vào
các giếng trên bản gel.
Tiến hành điện di với dòng điện 1 chiều có hiệu điện thế 100V, cường độ dòng
điện 60 – 80 mA, quan sát sự di chuyển của vệt màu bromophenol blue để
ngừng vào thời gian phù hợp (thường sau khoảng 30 phút).
Nhuộm DNA bằng EtBr: Bản gel được lấy ra khỏi khuôn và ngâm vào dung
dịch EtBr (nồng độ 10 g/ml) trong thời gian 20 phút trên máy lắc nhẹ. Sau đó
rửa sạch bản gel bằng nước cất.
Quan sát và chụp ảnh: Gel được quan sát dưới ánh sáng tử ngoại. Quan sát thấy
DNA hiện lên dưới dạng các vạch sáng. Ảnh điện di được chụp trên máy Bio –
Rad với tia UV có bước sóng 320 nm.
2.2.4. Nhân gen bằng kỹ thuât PCR
Phản ứng chuỗi polymerase do Mullis và cộng sự sáng chế ra năm đầu những
năm 80 của thế 19. Kỹ thuật này cho phép nhân nhanh số lượng không hạn chế
nguyên bản một đoạn DNA mong muốn từ hệ gen của cơ thể sinh vật. Nguyên tắc
của kỹ thuật PCR là sử dụng DNA polymerase chịu nhiệt, ví dụ Taq DNA
polymerase được tách chiết từ vi khuẩn Thermus aquaticus để tổng hợp trong ống
nghiệm các đoạn DNA mới từ mạch khuôn trong môi trường có dư các dNTP và
cặp mồi đặc hiệu.
Một chu kỳ PCR bao gồm ba bước được lặp lại nhiều lần [25]:
Biến tính DNA từ dạng sợi kép sang dạng sợi đơn bằng cách nâng cao nhiệt độ
lên 94° – 95°C trong thời gian ngắn.
Tiếp hợp đoạn mồi (primer) thông qua hạ nhiệt độ xuống 50° – 60°C. Hai đoạn
mới là các oligonucleotide dài khoảng 15 – 30 base sẽ tổng hợp theo nguyên tắc
bổ sung với đoạn DNA tương đồng ở hai đầu của đoạn DNA cần nhân.
33
Enzyme polymerase tổng hợp phân tử DNA kéo dài từ đoạn mồi. Để tránh hiện
tượng tiếp hợp không đặc hiệu, phản ứng tiếp hợp được thực hiện ở 72°C.
Như vậy, sau mỗi chu kỳ phản ứng từ 1X đoạn DNA cần nhân sẽ có 2X đoạn
được tổng hợp, sau n chu kỳ sẽ có 2n bản sao đoạn DNA mong muốn, chiều dài
thực tế của đoạn DNA được nhân bản bằng đúng khoảng cách giữa hai đầu xuất
phát của hai đoạn mồi.
PCR bao gồm các thành phần sau đây:
Một đoạn DNA khuôn.
Một cặp mồi đặc hiệu có chiều dài 15 nucleotide – 30 nucleotide.
Bốn loại deoxyribonucleotide triphosphate (dATP, dTTP, dGTP, dCTP).
Enzyme DNA polymerase chịu nhiệt.
Phản ứng kết thúc, điện di kiểm tra 8 μl sản phẩm PCR trên gel agarose 0,8%.
Thành phần phản ứng chạy PCR:
dNTPs (10 mM) : 1l
Buffer (10 X) : 2.5l
Primer F (10 µM): 1l
Primer R (10 µM): 1l
Taq (5 U/ul): 0.2l
H2O: 18.3l
DNA plasmid: 2l
Tổng thể tích: 25 l
Chu trình nhiệt cho phản ứng PCR của gen mã hóa xylanase và hph:
94°C 92°C 60°C 72°C 72°C 4°C
5 phút 43 giây 1 phút 1 phút 25chu kỳ 10 phút
2.2.5. Phương pháp tách chiêt DNA plasmid lượng nhỏ
Tế bào chứa plasmid cần tách chiết sẽ được nuôi cấy và để nhân lên đến giai
đoạn cuối pha log. Tế bào sau đó được phá vỡ bằng kiềm và các chất tẩy rửa mạnh
34
có trong dung dịch I và dung dịch II. DNA nhiễm sắc thể và protein trong tế bào
được loại ra nhờ dung dịch III. DNA plasmid được kết tủa bằng cồn và thu lại nhờ
ly tâm với tốc độ 12000 v/p.
* Quy trinh tách DNA plasmid từ E. coli
Cấy một khuẩn lạc vào ống penicillin đã bổ sung 2 ml môi trường LB lỏng chứa
kháng sinh thích hợp. Nuôi qua đêm ở 37°C trong điều kiện lắc 200 v/p.
Lưu ý:
Thể tích ống penicillin phải lớn gấp 4 lần thể tích nuôi cấy.
Các ống phải đậy nắp không chặt quá.
Dịch nuôi phải được nuôi cấy trong điều kiện lắc nhẹ.
Chuyển 1,5 ml dịch nuôi sang ống Eppendorf. Ly tâm ở 11000 v/p ở 4°C trong
30 giây. Loại bỏ dịch môi trường để thu cặn tế bào. Lưu giữ những dịch nuôi
cấy chưa sử dụng hết ở 4°C.
Làm tan cặn tế bào trong 100 l dung dịch Sol I (giữ trong đá) bằng máy vortex.
Bổ sung 200 l dung dịch Sol II (mới pha) vào mỗi Eppendorf. Đậy nắp chặt,
đảo ngược Eppendorf vài lần và giữ trên đá trong 1 phút. Không được vortex.
Bổ sung 150 l dung dịch Sol III. Đậy nắp chặt, đảo ngược Eppendorf vài lần và
giữ ở 0°C trong 3 – 5 phút.
Ly tâm 12000 v/p trong 5 phút ở 4°C và hút chuyển dịch sang ống mới.
Bổ sung một thể tích tương đương phenol : chloroform. Đảo lẫn hai pha bằng
cách vortex và ly tâm ở 12000 v/p trong 2 phút ở 4°C. Hút chuyển pha trên sang
ống mới.
Tủa nucleic acid bằng cách bổ sung 2 lần thể tích ethanol 98%. Trộn đều bằng
vortex và giữ ở – 20°C trong 3 giờ.
Thu tủa bằng cách ly tâm 12000 v/p trong 20 phút ở 4°C.
Loại sạch ethanol và bổ sung 1 ml ethanol 70%. Ly tâm thu tủa 12000 v/p trong
8 phút ở 4°C.
Làm khô tủa bằng máy SpeedVac trong 5 phút hoặc để mở nắp trong 15 phút ở
nhiệt độ phòng.
35
Hoà tan DNA trong 50 l H2O khử in vô trùng (hoặc 50 l TE pH 8) chứa 20
g/ml RNase.
Kiểm tra DNA trên gel agarose 0,8 % và giữ mẫu ở – 20°C.
* Quy trinh tách DNA plasmid từ Agrobacterium
Ly tâm 6000 v/p trong 5 phút để thu tủa tế bào.
Bổ sung 10% lyzozyme vào dịch Sol I, bổ sung 150 µl Sol I vào 1 ống ppendorf,
đánh tan.
Bổ sung 150 µl Sol I, lắc đều + 150 µl Sol III, đảo đều, bổ sung 1 µl RNAse 1
mM/µl, ủ 37oC trong 1h, ly tâm 12000 v/p trong 15 phút, thu dịch.
Bổ sung 1ml EtOH 100%, ủ 3h, sau đó ly tâm 12000 v/p trong 15 phút, thu tủa,
bổ sung 30 µl H2O.
Điện di 8 µl để kiểm tra DNA plasmid bằng agarose 0.8%
2.2.6. Phân tích DNA plasmid tái tổ hợp bằng enzyme giơi hạn
Để xác định chính xác DNA ngoại lai đã được chèn vào vector mong muốn,
DNA plasmid mang gen tái tổ hợp đã lựa chọn được cắt bằng enzyme giới hạn để
kiểm tra. Enzyme hạn chế là một nuclease nội bào có khả năng nhận biết các đoạn
DNA với các trình tự nucleotide nhất định, bám vào đoạn DNA đó và cắt cả hai sợi
của phân tử DNA. Các enzyme hạn chế thường được sử dụng để cắt DNA: (i) Tạo
đầu bằng, như Sma I, Eco RV cắt hai sợi DNA tại cùng một điểm tạo hai đầu bằng
không có khả năng tự bắt cặp trở lại; (ii) Tạo đầu dính, như Hind III, Bam HI cắt
theo vị trí lệch nhau trên hai sợi tạo các đầu dính bổ sung có thể bắt cặp trở lại.
Sau khi đã tách dòng thành công bằng các vector tách dòng, DNA plasmid thu
được từ tách chiết plasmid tái tổ hợp cần kiểm tra lại trình tự đoạn gen được nhân
bằng kỹ thuật cắt enzyme giới hạn. Enzyme giới hạn được sử dụng để cắt kiểm tra
bao gồm: Eco RI và Kpn I, Sma I, Hind III, Bgl II, Nco I, Not I. Các dung dịch đệm
thích hợp cho từng loại enzyme như sau:
36
Eco RI Dung dịch đệm Eco RI
Sma I Dung dịch đệm Tango
Hind III Dung dịch đệm R
Kpn I Dung dịch đệm Kpn I
Bgl II Dung dịch đệm Tango
Nco I Dung dịch đệm Tango
Not I Dung dịch đệm Tango
Phản ứng cắt được tiến hành với thành phần:
H2O: 5.8 µl
Buffer: 1.0 µl
DNA plasmid: 3.0 µl
Enzyme cắt: 0.2 µl
Tổng thể tích: 10 µl
Hỗn hợp phản ứng được trộn nhẹ nhàng và ủ ở 37°C trong 1, 5 giờ và kiểm tra
kết quả bằng điện di agarose 0,8%.
2.2.7. Xác định trinh tự gen và xử ly số liệu bằng các phân mềm chuyên dung
* Nguyên tăc chung
Trình tự đoạn nucleotide quan tâm được xác định dựa trên nguyên tắc của
phương pháp Sanger: tạo ra các đoạn DNA một sợi hơn kém nhau một nucleotide,
kết thúc bởi các ddNTP đã được đánh dấu huỳnh quang. Để tạo ra các đoạn kết thúc
bằng các loại ddNTP khác nhau, chúng tôi tiến hành PCR sử dụng BigDye
Terminator v3.1 Cycle Sequencing Kit đã có chứa sẵn các hóa chất cần thiết của
phản ứng nhân gen để xác định trình tự như dNTP, ddNTPs, DNA polymerase …
Do đó, chỉ cần bổ sung thêm DNA khuôn (sản phẩm PCR hoặc DNA plasmid tinh
sạch) và mồi phù hợp. Phản ứng được thực hiện trong một ống vì 4 loại ddNTP đã
được đánh dấu bằng các màu khác nhau. Thành phần của phản ứng khuếch đại gen
để đọc trình tự bao gồm: Mồi 3,2 pM, DNA plasmid 200 ng, BigDye và đệm tương
ứng với tổng thể tích 15 µl.
37
Chu trình nhiệt cho phản ứng PCR trong máy GenAmp® PCR System 9700
như sau: 96˚C - 1 phút; (96˚C - 10 giây; 50˚C - 5 giây; 60˚C - 4 phút) x 25 chu kỳ.
Sau đó sản phẩn được giữ ở 4˚C.
* Tinh sạch sản phẩm PCR bằng phương pháp tủa EtOH/EDTA
Bổ sung vào sản phẩm PCR 5 µl EDTA 125 mM, 60 µl EtOH 100% và để hỗn
hợp ở nhiệt độ phòng trong 15 phút. Sau đó ly tâm 12000 v/p, 15 phút để tủa
DNA có trong đó.
Bỏ EtOH, rửa tủa bằng 60 µl EtOH 70%. Ly tâm 10000 v/p trong 10 phút.
Làm khô tủa và bổ sung 10 µl Hi-DiTM Formamide để biến tính ở 95˚C trong 5
phút.
Sau bước này, nguyên liệu được đưa vào máy đọc trình tự tự động ABI
PRISMTM 3100 Genetic Analyzer.
Các ống được điện di trong ống vi mao quản 80 cm x 50 µl.
Kết quả được thu thập và xử lý bằng phần mềm ABI PRISMTM 3100 – Avant
Data Collection v2.0 và DNA Sequencing Analysis 5.2.
* Phân tích trinh tự gen
Kết quả giải trình tự gen được phân tích trên máy tính bằng các phần mềm
Sequencing Analysis 5.2, Bioedit; Seqscape 2.5 và so sánh với trình tự của đoạn
DNA với trình tự chuẩn.
2.2.8. Phương pháp nuôi nhiễm A. tumefaciens và A. niger
* Chuẩn bị nấm sợi A. niger để thu bào tử
Cấy ria từ ống giữ chủng A. niger trong glycerol ở – 80°C lên đĩa nuôi cấy có
chứa môi trường PDA. Dịch còn lại giữ ở – 20°C.
Ủ đĩa nuôi cấy ở 30°C trong 3 ngày, trong tối.
Thu hoạch bào tử nấm: bổ sung 5 ml nước muối sinh lý vô trùng và dùng que
trải gạt nhẹ nhàng lên bề mặt thạch để thu bào tử.
38
Chuyển bào tử qua màng lọc vào ống falcon 15 ml và tiếp tục bổ sung thêm 5ml
nước muối sinh lý.
Ly tâm 10 phút, 8000 v/p, ở nhiệt độ phòng, bỏ dịch nổi và hòa tan cặn trong
1ml nước muối sinh lý.
Xác định nồng độ bào tử và pha loãng đến nồng độ cuối cùng là 107 bào tử/ml
bằng môi trường IM.
* Chuẩn bị chủng A. tumefaciens
A. tumefaciens mang Ti plasmid tái tổ hợp được cấy ria lên môi trường LC có
bổ sung kháng sinh rifampicin 50 mg/ml để ngăn ngừa sự lây nhiễm các vi
khuẩn khác và bổ sung đồng thời cả kanamycin 50 mg/ml để chọn lọc A.
tumefaciens có mang Ti plasmid tái tổ hợp. Ủ đĩa ở 28°C trong 2 ngày
Nhặt 2 khuẩn lạc trên đĩa nuôi cấy cho vào 20 ml môi trường LC đã bổ sung 50
mg/ml rifampicin và 50 mg/ml kanamycin, nuôi lắc ở 28°C, 250 v/p trong 24
giờ.
Ly tâm dich nuôi cấy trong Eppendorf 1.5 ml trong 10 phút, 6000 v/p ở nhiệt độ
phòng. Bỏ dịch nổi, thu cặn và tiếp tục rửa cặn bằng cách hòa tan cặn trong 250
µl dung dịch IM. Ly tâm 6000 v/p trong 5 phút ở nhiệt độ phòng, bỏ dịch nổi.
Hòa tan cặn trong 5 ml dung dịch IM có chứa 5µl AS nồng độ 0.2M
Ủ dịch nuôi cấy ở 28°C từ 4 giờ – 5 giờ, lắc 100 v/p.
Đo OD600nm và pha loãng ra nồng độ cuối cùng là 0.8 (4.108 – 5.108 vi khuẩn/ml).
* Nuôi nhiễm A. tumefaciens và A. niger:
Trộn 100 µl tế bào A. tumefaciens (OD600nm = 0.8) và 100 µl bào tử nấm (nồng
độ = 107 bào tử/ml).
Sử dụng kẹp vô trùng đặt màng lọc lên đĩa petri có chứa môi trường thạch IM đã
bổ sung AS 0.2M.
Dùng pipet hút 200 µl hỗn hợp bào tử nấm và vi khuẩn lên trên màng lọc và trải
đều bằng que trải.
Ủ đĩa ở 24°C trong 3 ngày.
* Chọn lọc nấm chuyển gen:
39
Dùng kẹp vô trùng chuyển màng lọc có hỗn hợp dịch nuôi cấy lên đĩa môi
trường PDA đã bổ sung cefotaxim (50 mg/ml) và hygromycin (50 mg/ml)
Ủ đĩa ở 30°C trong 3 ngày, trong tối cho đến khi xuất hiện bào tử.
Nhặt khuẩn lạc sang môi trường chọn lọc để làm sạch và phân lập riêng rẽ từng
bào tử.
Giữ chủng và tiến hành các thí nghiệm kiểm tra cần thiết
40
Chương 3 – KÊT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Gen mã hóa xylanase muốn được chuyển vào nấm mốc A. niger thông qua A.
tumefaciens thì phải được gắn vào giữa hai vùng biên phải và trái (LB và RB) của T
– DNA trên Ti plasmid. Để giải phóng T – DNA có đoạn DNA ngoại lai, A.
tumefaciens được nuôi chung với bào tử nấm trong môi trường có bổ sung chất cảm
ứng AS, cảm ứng gen vir để chuyển gen mong muốn sang tế bào chủ. Nấm mốc
chuyển gen được chọn lọc dựa trên đặc tính của đoạn DNA ngoại lai hoặc biểu hiện
ra sản phẩm protein. Thông thường, cơ thể chuyển gen được chọn lọc trên môi
trường có bổ sung kháng sinh thích hợp [8].
Tiến hành khảo sát một số vector pCAMBIA1300, chúng tôi lựa chọn Ti
plasmid vector pCB1300 vì vùng T – DNA của vector này có vị trí nhận biết của
nhiều enzyme giới hạn phù hợp với chiến lược thiết kế vector đã đặt ra. Để tạo
chủng Agrobacterium làm nguyên liệu chuyển gen vào nấm, việc đầu tiên là thiết kế
Ti plasmid vector biểu hiện, vector này được kí hiệu pCB_xylB_hph gen mã hóa
xylanase (xylB) và gen kháng hygromycin B (hph).
Vector tái tổ hợp Ti plasmid được kiểm tra bằng cắt enzyme giới hạn hoặc
PCR hoặc giải trình tự gen trước khi chuyển vào Agrobacterium. Chủng vi khuẩn A.
tumefaciens mang vector biểu hiện pCB_xylB_hph được nuôi nhiễm với bào tử nấm
A. niger. Nấm chuyển gen sẽ được tiếp tục chọn lọc trên môi trường có bổ sung chất
kháng sinh thích hợp. Toàn bộ quy trình thiết kế vector biểu hiện gen mã hóa
xylanase trong nấm mốc được thể hiện chi tiết qua sơ đồ sau:
41
42
43
3.1. Thiết kế vector trung gian (pKS_xylB_hph) mang hai cấu trúc biểu
hiện xylB và hph
3.1.1. Lăp ghép xylB vào vector trung gian
Để thiết kế vector trung gian pKS_xylB_hph, xylB và hph được lắp ghép vào
vector trung gian pKS–. Tuy nhiên, cấu trúc biểu hiện xylB và hph trong nấm mốc
lại nằm trên vector pAN7.1 – GluA. Do vậy, hai cấu trúc trên được đưa lần lượt vào
vector trung gian. Trước hết là tiến hành thiết kế vector trung gian mang cấu trúc
biểu hiện xylB dựa trên vector pAN7.1 – GluA, tạo thành vector tái tổ hợp được kí
hiệu là pAN_xylB.
3.1.1.1. Thiết kế vector tái tổ hợp pAN_xylB mang xylB
Muốn gen hoạt động và biểu hiện ra sản phẩm protein, gen phải nằm trong
một kết cấu hoàn chỉnh gồm đoạn khởi đầu ở phía trước và đoạn kết thúc ở phía sau
gen, đoạn khởi đầu và kết thúc này sẽ điều khiển gen hoạt động trong tế bào chủ
thích hợp [6, 22, 39]. Bởi vậy, để xylB biểu hiện được, trình tự DNA mang mã di
truyền của xylB phải được lắp ghép đúng chiều vào giữa đoạn khởi đầu và đoạn kết
thúc trên vector pAN7.1 – GluA [22].
Trước hết, trình tự của xylB được nối ghép vào vector tách dòng pJET1.2 để
nhân lên lượng lớn, sau đó vector tái tổ hợp được cắt bằng enzyme Bgl II để thu lại
đoạn gene mang trình tự xylB làm nguyên liệu lắp ghép vào vector pAN7.1 – GluA.
Để có thể nối ghép xylB vào vector pAN7.1 – GluA, vector pAN7.1 – GluA phải
được cắt mở vòng bằng enzyme giới hạn. Giữa đoạn khởi đầu và đoạn kết thúc điều
khiển khiển hoạt động của xylB có vị trí nhận biết của enzyme giới hạn Bam HI, do
đó enzyme Bam HI được sử dụng để cắt vector pAN7.1 – GluA.
44
Hình 3. 2: Điện di đồ kiểm tra sản phẩm tinh sạch của vector pAN7.1 –
GluA và gen mã hóa xylanase
M: Marker 1 kb
1: Sản phẩm cắt của vector pAN7.1 – GluA bằng enzyme Bam HI
2: Sản phẩm cắt của gen mã hóa xylanase bằng enzyme Bgl II
Vector pAN7.1 – GluA được mở vòng bằng Bam HI nên sản phẩm cắt thu
được trên điện di đồ (Hình 3. 2) là một băng duy nhất có kích thước khoảng 8,3 kb.
Sản phẩm cắt enzyme của gen mã hóa xylanase có kích thước khoảng 0,7 kb. Hai
đoạn DNA này có kích thước phù hợp với lý thuyết. Do đó, chúng sẽ được tinh sạch
và nối ghép với nhau nhờ T4 DNA ligase. Do trình tự nhận biết điểm cắt của Bgl II
tương đồng với trình tự cắt của Bam HI nên chúng có thể nối ghép dễ dàng. Sản
phẩm nối ghép được biến nạp vào E. coli để thu lượng lớn DNA plasmid tái tổ hợp.
Trước tiên, các tế bào trong dịch nuôi cấy được thu nhận bằng cách ly tâm thu
tủa. Tiếp đó chúng được xử lý bằng dung dịch I (có tác dụng rửa sạch tế bào), sau
đó phá màng tế bào bằng dung dịch II. Các cấu trúc của tế bào cũng như các liên kết
hydro trong phân tử bị phá vỡ. SDS cùng với EDTA trong dung dịch II còn có vai
trò ức chế các nuclease do EDTA liên kết các ion Mg2+ (yếu tố cần thiết cho hoạt
động của các nuclease), vì vậy ngăn không cho các nuclease phân giải DNA trong
quá trình tách chiết. Tế bào vi khuẩn E. coli có chứa hai dạng DNA: DNA nhiễm
sắc thể của E. coli và DNA plasmid nên việc tách riêng, làm sạch DNA plasmid là
45
Kb M 1 2
~ 8,3 kb
~ 0,7 kb
8
0, 75 0,5
rất quan trọng. DNA plasmid được tách riêng dựa trên sự khống chế thời gian xử lý
các dung dịch I, II, III. DNA nhiễm sắc thể có kích thước phân tử lớn lại liên kết
chặt chẽ với protein trong phức chất nucleoprotein nên khoảng thời gian ngắn
không kịp thoát ra ngoài. Trong khi đó, các phân tử DNA plasmid mạch vòng đã
được giải phóng ra môi trường. Khi môi trường được xử lý tiếp với dung dịch III thì
pH môi trường trở về khoảng acid yếu gắn với điểm đẳng điện của DNA. Vì vậy,
DNA plasmid dễ bị kết tủa bằng cồn và được kiểm tra kích thước bằng phương
pháp điện di trên gel agarose 0,8%.
Hình 3. 3: Điện di đồ kiểm tra plasmid tái tổ hợp mang xylB
1 – 15: Plasmid tái tổ hợp của các dòng khuẩn lạc (kí hiệu pAN_xylB từ (1 – 15))
16: Đối chứng – vector pAN7.1 – GluA
Theo lý thuyết, các plasmid mang đoạn gen ngoại lai sẽ có kích thước lớn hơn
plasmid không được chèn thêm đoạn gen ngoại lai (hay được gọi là plasmid gốc).
Do vậy, độ cao thấp của các băng trên hình ảnh điện di sản phẩm tách plasmid so
với băng đối chứng là cơ sở ban đầu để dự đoán dòng nào đã được chèn thêm đoạn
DNA ngoại lai. Trên điện di đồ (Hình 3.3), hầu hết DNA plasmid tái tổ hợp đều cao
hơn so với DNA plasmid đối chứng. 4 plasmid có thứ tự từ giếng 1 – 4 tương ứng
với các dòng khuẩn lạc có kí hiệu pAN_xylB1; pAN_xylB2, pAN_xylB3 và
pAN_xylB4 được tinh sạch và dùng làm khuôn cho PCR sử dụng cặp mồi đặc hiệu
cho xylB: XylB – F và XylB – R kiểm tra sự có mặt của xylB trong vector pAN –
GluA.
46
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16
Hình 3. 4: Điện di đồ kiểm tra sự có mặt của xylB trong vector tái tổ hợp
pAN_xyB bằng PCR
M:Marker 1 kb
1 – 5: Sản phẩm PCR của dòng khuẩn lạc pAN_xylB6– 10
Trên điện di đồ (Hình 3. 4), các băng ở giếng 1 – 5 tương ứng với dòng khuẩn
lạc pAN_xylB(6 – 10), đều có kích thước khoảng 0,7 kb, bằng với kích thước lý
thuyết của gen xylB. Do đó, chúng tôi khẳng định đã nối ghép thành công xylB vào
vector pAN7.1 – GluA.
PCR được sử dụng để kiểm tra chiều gắn của đoạn xylB trên vector pAN -
GluA. Tuy nhiên, PCR bằng cặp mồi đặc hiệu của xylB không thể phân biệt được
chiều gắn của xylB vì chúng chỉ nhân lên đúng trình tự của xylB. Kỹ thuật cắt
enzyme giới hạn cũng không thể áp dụng được bởi không lựa chọn được enzyme
phù hợp. Chính vì thế chúng tôi đã thiết kế mồi SeqXylB – F kết hợp với mồi XylB
– R để kiểm tra chiều gắn của xylB bằng kỹ thuật PCR. Mồi SeqXylB – F sẽ bắt cặp
với trình tự trên đoạn khởi đầu GpdA của xylB, mồi XylB – R sẽ bắt cặp trên trình
tự xylB. Nếu xylB lắp ghép đúng chiều vào giữa đoạn khởi đầu và đoạn kết thúc thì
47
Kb M 1 2 3 4 5
~ 0,7 kb 0,7
kích thước sản phẩm PCR sẽ khoảng 1,2 kb; ngược lại nếu lắp không đúng chiều
PCR sẽ không có sản phẩm.
Hình 3. 5: Điện di đồ kiểm tra chiều gắn của xylB trong vector tái tổ hợp
pAN_xylB bằng PCR sử dụng cặp mồi Seq – F và XylB – R
M: Marker 1 kb
1 – 5: Sản phẩm PCR của các dòng pAN_xylB (6 – 10)
Sản phẩm PCR của plasmid tái tổ hợp ở giếng số 1 và giếng số 3 (Hình 3. 5)
tương ứng với dòng khuẩn lạc có kí hiệu pAN_xylB1 và pAN_xylB3 xuất hiện băng
đặc hiệu với kích thước khoảng 1,2 kb. Kích thước này đúng bằng kích thước lý
thuyết. Như vậy, chúng tôi đã chọn được dòng plasmid tái tổ hợp mang xylB lắp
đúng chiều vào giữa đoạn khởi đầu và đoạn kết thúc trên vector pAN7.1 – GluA.
Dòng plasmid pAN_xylB6 và pAN_xylB8 được nuôi lượng lớn và giữ chủng nhằm
phục vụ cho các nghiên cứu sau.
3.1.1.2. Lắp ghép xylB trong vector pAN_xylB vào vào vector trung gian
Sản phẩm để nối ghép vào vector trung gian pKS– là cấu trúc gồm: đoạn khởi
đầu + xylB + đoạn kết thúc (GpdA + xylB + TrypC) hay còn gọi là cấu trúc biểu
hiện xylB, cấu trúc này có kích thước khoảng 4,2 kb. Enzyme Eco RI và Sma I được
dùng để cắt hoàn toàn cấu trúc (GpdA + xylB + TrypC) trên vector tái tổ hợp
48
Kb M 1 2 3 4 5
~ 1,2 kb 1.5 1
pAN_xylB. Theo lý thuyết, sản phẩm cắt enzyme thu được 4 băng, trong đó có hai
băng có kích thước tương đương nhau, khoảng 4, 2 kb nên rất khó phân tách. Đó là
hai đoạn tương ứng với đoạn gen có cấu trúc biểu hiện xylB và một đoạn khác cũng
cắt từ vector pAN_xylB. Vì vậy, plasmid tái tổ hợp cần tiếp tục được kiểm tra lại
bằng kỹ thuật PCR và kỹ thuật cắt enzyme giới hạn.
Sau khi lựa chọn một số dòng cao hơn đối chứng âm (vector pAN7.1 – GluA).
DNA plasmid của các dòng khuẩn lạc này được tinh sạch và kiểm tra sự có mặt của
cấu trúc biểu hiện xylB trong vector tái tổ hợp pKS_xylB bằng PCR sử dụng cặp
mồi SeqXylB – F và XylB – R.
Hình 3. 6: Điện di đồ kiểm tra sự có mặt của cấu trúc biểu hiện xylB trên
vector trung gian bằng PCR
M: Marker 1 kb
1 – 4: Sản phẩm PCR của các dòng khuẩn lạc pKS_xylB(1, 3, 8, 9))
Trên điện đồ (Hình 3. 6), sản phẩm PCR rất đặc hiệu với kích thước khoảng
1,2 kb, sáng và rất đặc hiệu phù hợp với tính toán lý thuyết. Như vật, chúng đã
chuyển thành công gen mã hóa xylanase vào vector trung gian pKS-. Như vậy,
chúng đã chuyển thành công gen mã hóa xylanase vào vector trung gian và vector
này bước đầu được kí hiệu là pKS_xylB. Các plasmid tái tổ hợp được kiểm tra bằng
cắt enzyme Sma I và Eco RI. Hai enzyme có điểm cắt ngoại, tức là điểm cắt ở hai
đầu đoạn gen ngoại lai trên vector tái tổ hợp pKS_xylB. Theo lý thuyết, sản phẩm
49
Kb M 1 2 3 4
~ 1,2 kb 1,5 1
cắt enzyme của plasmid tái tổ hợp pKS_xylB sẽ có kích thước khoảng 3 kb và 4,2
kb.
Hình 3. 7: Điện di đồ kiểm tra plasmid tái tổ hợp pKS_xylB bằng
enzyme Sma I và Eco RI
M: Marker 1 kb
P: plasmid tái tổ hợp pKS_xylB9
pKS: Sản phẩm cắt của khuẩn lạc pKS_xylB bằng enzyme Sma I và Eco RI
Vì cấu trúc GpdA promoter + xylB gene + TrypC terminator được cắt bằng
Sma I và Eco RI để nối ghép vào vector KS- cũng đã được cắt bằng hai enzyme
tương tự nên điểm cắt của hai enzyme này không bị mất đi. Do đó vector tái tổ hợp
KS_xylB có thể dễ dàng được kiểm tra sự có mặt của xylB bằng cách cắt kiểm tra
bằng Sma I và Eco RI. Sản phẩm cắt enzyme của tất cả các mẫu được kiểm tra trên
hình ảnh điện di (Hình 3. 7) đều gồm 2 băng có kích thước phù hợp với tính toán lý
thuyế: 4,2 kb (kích thước của đoạn gen ngoại lai (GpdA promoter + xylB gene +
TrypC terminator) và khoảng 3 kb (kích thước của vector KS-)). Như vậy, chúng tôi
khẳng định đã chuyển thành công cấu trúc (GpdA promoter + xylB gene + TrypC
terminator) vào vector trung gian.
3.1.2. Lăp ghép cấu trúc GluA promoter + hph gene + TrypC terminator vào
vector trung gian
Cấu trúc (GluA promoter + xylB gene + TrypC terminator) đã được lắp ghép
thành công vào vector trung gian, tạo thành vector tái tổ hợp pKS_xylB. Tuy nhiên,
50
6
2,5
pKS pKS pKS M Kb
~ 4,2 kb ~ 3 kb
việc chọn lọc/ sàng lọc các thể tái tổ hợp thông thường cần sự có mặt của các gen
chỉ thị như các gen kháng kháng sinh [20]. Trên cơ sở vector pAN7.1 – GluA nhận
được từ Phòng Công nghệ sinh học enzyme, chúng tôi tiến hành thiết kế vector tái
tổ hợp mang gen kháng kháng sinh (hph) để làm nguyên liệu lắp ghép tiếp vào
vector trung gian.
3.1.2.1. Thiết kế vector tái tổ hợp pJET_hph
Hph không thể lắp ghép trực tiếp vào vector trung gian vì theo chiến lược thiết
kế vector đã đề ra, cấu trúc biểu hiện gen mã hóa xylanase và gen kháng
hygromycin B nằm trên vector trung gian sẽ được chuyển vào Ti plasmid bằng cách
cắt mở vòng Ti plasmid và vector trung gian bằng enzyme Kpn I do không chọn
được enzyme khác thích hợp. Do đó, hai đầu của đoạn gen có cấu trúc biểu hiện
xylB và hph trên vector trung gian phải là vị trí nhận biết của Kpn I. Trên vector
trung gian đã được ghép nối với xylB chỉ có một điểm cắt của Kpn I. Muốn xuất
hiện điểm cắt thứ hai của Kpn I, chúng tôi phải chuyển qua một vector pKS– khác
và tạo thành vector tái tổ hợp có kí hiệu pKS_hph. Trên vector pKS– cũng có điểm
cắt của Kpn I, tuy nhiên nếu chuyển trực tiếp cấu trúc biểu hiện hph từ vector tái tổ
hợp pKS_hph sang vector trung gian sẽ làm mất điểm cắt của Kpn I, hoặc vẫn chỉ
có một điểm cắt của Kpn I và vector trung gian được tạo thành sẽ rất khó để tinh
chế và nối ghép với Ti plasmid vector vì không có enzyme nào thích hợp cho cả hai
vector trên. Do vậy, cấu trúc biểu hiện hph nằm trên vector tái tổ hợp pKS_hph
được tách dòng bằng vector pJET1.2.
* Lăp ghép hph vào vector pKS–
Vector pAN – GluA được cắt bằng enzyme Sma I và Hind III để thu đoạn gen
gồm (đoạn khởi đầu GluA + hph + đoạn kết thúc TrypC) và nối ghép với vector
nhận pKS– cũng được cắt bằng hai enzyme tương tự. Sản phẩm nối ghép được biến
nạp vào E. coli. Các DNA plasmid sẽ được điện di trên gel agarose 0,8 % cùng với
đối chứng âm (vector pKS– không có đoạn chèn), một số plasmid đại diện ở các
mẫu cao hơn đối chứng âm được dùng để kiểm tra sự có mặt của hph bằng kỹ thuật
PCR bằng cặp mồi đặc hiệu của hph: hph1 và hph2.
51
Hình 3. 8: Điện di đồ kiểm tra sự có mặt của hph trong vector tái tổ hợp
pKS_hph bằng kỹ thuật PCR
M: Marker 100bp
1 – 9: sản phẩm PCR của plasmid tái tổ hợp pKS_hph (kí hiệu pKS_hph (1 –
9)
Sản phẩm PCR của tất cả các dòng khuẩn lạc đều xuất hiện một băng duy nhất
có kích thước khoảng 0,6 kb (Hình 3. 8). Kích thước này phù hợp với kích thước lý
thuyết. Do đó, chúng tôi khẳng định đã chuyển được hph vào vector pKS–. DNA
của các dòng plasmid tái tổ hợp pKS_hph (1 – 3) được dùng làm khuôn để tổng hợp
cấu trúc gen bao gồm (đoạn khởi đầu GluA + hph + đoạn kết thúc TrypC) bằng kỹ
thuật PCR sử dụng cặp mồi M13. Sản phẩm PCR nhận được là cấu trúc gồm (đoạn
khởi đầu GluA + hph + đoạn kết thúc TrypC) và sản phẩm PCR được dùng làm
đoạn chèn vào vector pJET1.2.
* Lăp ghép hph trong vector tái tổ hợp pKS_hph vào vector pJET1.2
Theo lý thuyết, sản phẩm PCR khi sử dụng cặp mồi M13 với khuôn là DNA
plasmid pKS_hph có kích thước khoảng 2,5 kb.
52
kb M 1 2 3 4 5 6 7 8 9
0,6
Hình 3. 9: Điện di đồ kiểm tra sản phẩm PCR bằng mồi M13 của các
plasmid tái tổ hợp pKS_hph
1 – 3: Sản phẩm PCR của các dòng khuẩn lạc (kí hiệu pKS_hph (1–3))
M: Marker 1 kb
Kết quả PCR bằng cặp mồi M13 (Hình 3. 9) thu được một băng đặc hiệu có
kích thước khoảng 0,6 kb. Sản phẩm PCR được nhân lên bằng enzyme đầu bằng, do
đó chúng tôi đã gắn vào vector tách dòng đầu bằng pJET1.2 của hãng Fermentas
được sử dụng rộng rãi tại các phòng thí nghiệm trên thế giới. Vector này chứa điểm
khởi đầu sao chép nên có khả năng sao chép độc lập với hệ gen của tế bào chủ
E.coli. Trên vector có gen kháng chất kháng sinh (bla), nên chỉ có những tế bào nào
có mang vector này mới có thể sống được trong môi trường có ampicillin. Đồng
thời trên vector pJET1.2 còn chứa gen gây chết eco47IR mã hoá cho enzyme phân
huỷ DNA nhân khi tồn tại trong tế bào vật chủ. Vì vậy vector gắn thêm đoạn ngoại
lai sẽ làm lệch khung đọc của gen khiến enzyme được tổng hợp không còn hoạt tính
như trước nữa. Thêm vào đó, vùng MCS (Multiple Cloning Site) của vector có chứa
điểm nhận biết của nhiều enzyme hạn chế như Kpn I, Xho I, Xba I…nhằm phục vụ
cho việc cắt kiểm tra sau khi đã tách dòng. Ngoài ra, trên vector mang trình tự hai
mồi pJET1.2 xuôi và ngược nằm về hai phía của điểm gắn sản phẩm PCR cho phép
nhân đoạn PCR được gắn vào sau tách dòng với số lượng lớn, phục vụ cho việc xác
định trình tự gen.
53
~2,5kb
kb
3
2,5
kb M 1 2 3
Sản phẩm PCR của cấu trúc biểu hiện gen hph được tiến hành gắn với vector
pJET1.2, sau đó biến nạp các sản phẩm nối ghép vào tế bào khả biến E.coli chủng
DH5α (là loại vi khuẩn được dùng khá phổ biến tại các phòng thí nghiệm vì chúng
có khả năng tái bản cao). Các tế bào khả biến sau đó được nuôi cấy trên môi trường
LB đặc có bổ sung amp (50 µg/ml) ở 37˚C qua đêm. Kết quả chúng tôi thu được rất
nhiều khuẩn lạc và đã tiến hành tách chiết DNA plasmid của các khuẩn lạc này. Sau
khi sơ bộ sàng lọc các dòng mang plasmid kích thước lớn hơn vector pJET1.2 (Hình
3. 10), chúng tôi đã xử lý enzyme giới hạn Sma I và Not I với 3 dòng khuẩn lạc
pJET_hph (1 – 3).
Hình 3. 10: Điện di đồ kiểm tra plasmid tái tổ hợp pJET_hph mang cấu
trúc (đoạn khởi đầu GluA + hph + đoạn kết thúc TrypC)
1 – 23: DNA plasmid của các dòng khuẩn lạc (kí hiệu là pJET_hph (1 – 23)
24: Đối chứng – vector pJET1.2
Vì ghép nối GluA promoter + hph + TrypC ter vào vector pJET1.2, chúng đã
được xử lý với enzyme Sma I và Not I nên điểm cắt của hai enzyme không bị mất
đi, chúng trở thành điểm cắt ở hai đầu của đoạn gen ngoại lai chèn vào vector
pJET1.2. Trên điện di đồ (Hình 3. 11), sản phẩm cắt của các dòng tái tổ hợp
pJET_hph (1 – 3) bằng enzyme Sma I và Not I đều gồm 2 đoạn tương ứng với hai
băng có kích thước là 2,5 kb (kích thước của cấu trúc (đoạn khởi đầu GluA + gen
hph + đoạn kết thúc TrypC) và 3 kb (kích thước của vecotr pJET1.2). Do đó, chúng
54
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24
tôi khẳng đã lắp ghép thành công cấu trúc biểu hiện gen kháng hygromycin B
(GluA promoter + gen hph + TrypC ter) trong vector tái tổ hợp pKS_hph vào vector
pJET1.2. Plasmid tái tổ hợp pJET_hph được nuôi lượng lớn để dùng làm nguyên
liệu cho thiết kế vector trung gian mang gen mã hóa xylanase và gen kháng
hygromycin B pKS_xylB_hph.
Hình 3. 11: Điện di đồ kiểm tra plasmid tái tổ hợp pJET1_hph bằng cắt
enzyme Sma I và Not I
M: Marker 1 kb
1 – 3: Sản phẩm cắt của các dòng khuẩn lạc (kí hiệu pJET_hph (1 – 3) bằng
Sma I và Not I
3.1.2.2. Lắp ghép cấu trúc biểu hiện hph trong vector tái tổ hợp pJET_hph vào
vector trung gian
Cấu trúc biểu hiện xylB đã được nối ghép vào vector trung gian mà không làm
mất điểm cắt của Sma I và Not I. Hơn nữa, điểm cắt của Kpn I trên vector tái tổ hợp
pJET_hph cũng sẽ không bị mất nếu cắt vector tái tổ hợp pJET_hph bằng enzyme
Not I vì Not I nằm phía sau Kpn I. Do đó, vector tái tổ hợp pJET1.2 và vector trung
gian được cắt bằng enzyme Sma I và Not I, sau đó nối ghép lại với nhau bằng T4
DNA ligase. Sản phẩm nối ghép được biến nạp vào tế bào E. coli. DNA plasmid
của các dòng khuẩn lạc đã được tách chiết và kiểm tra sự có mặt của gen mã hóa
xylanase và gen kháng hygromycin B bằng kỹ thuật PCR và kỹ thuật cắt enzyme.
55
Kb M 1 2 3
3
2,5
~ 3 kb
~ 2,5 kb
3.1.3. Kiểm tra sự có măt của cấu trúc biểu hiện xylB và hph trong vector trung
gian (pKS_xylB_hph)
Theo lý thuyết, khi xử lý vector trung gian đã mang cả hai xylB và hph bằng
Kpn I, sản phẩm cắt thu được là hai đoạn có kích thước 6,4 kb và 3 kb, trong đó 6,4
kb là kích thước tương ứng với hai cấu trúc biểu hiện xylB và hph và 3 kb là kích
thước của vector pKS-. Phản ứng cắt enzyme được thực hiện ở điều kiện nhiệt độ
37°C trong 1,5 giờ.
Hình 3. 12: Điện di sản đồ sản phẩm cắt plasmid tái tổ hợp
pKS_xylB_hph bằng enzyme Kpn I
1. DNA plasmid pKS_xylB_hph
M: Marker 1 kb
2 – 3: Sản phẩm cắt của plasmid tái tổ hợp có kí hiệu
pKS_xylB_hph(9, 18) bằng enzyme Kpn I
Vì kích thước của sản phẩm cắt enzyme lớn, DNA plasmid được điện di
cùng để làm đối chứng. Nhờ vậy dễ dàng phân biệt được sản phẩm cắt enzyme
trong những trường hợp xử lý enzyme không hoàn toàn hoặc enzyme không hoạt
động. Trên điện di đồ (Hình 3. 12), sản phẩm cắt enzyme của 2 dòng plasmid trên
giếng số 2 và giếng số 3 gồm hai băng rất rõ nét. Một băng có kích thước khoảng 3
kb (kích thước của vector pKS–); một băng có kích thước 6,4 kb (kích thước của cả
cấu trúc biểu hiện xylB và hph có trong vector trung gian). Kích thước này hoàn
56
~ 6,4
~ 3
kb 1 M 2 3 kb
6
3
toàn phù hợp với kích thước lý thuyết. Để khẳng định chính xác trình tự được
chuyển vào là trình tự xylB và trình tự hph, dòng plasmid tái tổ hợp có kí hiệu
pKS_xylB_hph9 được tiếp tực kiểm tra bằng kỹ thuật PCR.
Hình 3. 13: Điện di đồ kiểm tra sự có mặt của xylB và hph trong vector
trung gian pKS_xylB_hph9
M: Marker 100 bp
1: Sản phẩm PCR của hph
2: Sản phẩm PCR của gen xylB
Sản phẩm PCR của xylB và hph rất đặc hiệu (Hình 3. 13) và có kích thước
đúng bằng kích thước lý thuyết: xylB có kích thước khoảng 0,7 kb và hph có kích
thước khoảng 0,6 kb. Do vậy, chúng tôi khẳng định đã thiết kế thành công vector
trung gian pKS_xylB_hph mang hai cấu trúc biểu hiện xylB và hph. Dòng plasmid
tái tổ hợp có kí hiệu pKS_xylB_hph được nuôi lượng lớn để dùng cho các nghiên
cứu thiết kế vector biểu hiện gen mã hóa xylanase.
3.2. Thiết kế Ti plasmid mang hai cấu trúc biểu hiện xylB và hph
3.2.1. Lăp ghép đoạn gen mang hai cấu trúc biểu hiện xylB và hph trong vector
trung gian vào Ti plasmid
Để thiết kế Ti plasmid tái tổ hợp, vector pCAMBIA1300 được sử dụng làm
vector nhận và đoạn chèn được thu nhận lại từ vector trung gian có kí hiệu
57
~ 0,7 kb ~ 0,6 kb
Kb M 1 2
0,6
pKS_xylB_hph cùng được cắt bằng enzyme Kpn I. Kpn I có vị trí cắt ở hai đầu của
hai cấu trúc biểu hiện xylB và hph nằm trên vector trung gian, do đó khi xử lý vector
trung gian bằng Kpn I, chúng tôi sẽ thu được đoạn gen mong muốn để nối ghép với
vector pCB1300, tạo thành vector biểu hiện. Vector này có cấu trúc bao gồm: (đoạn
khởi đầu GpdA + xylB + đoạn kết thúc TrypC) và (đoạn khởi đầu GluA + hph +
đoạn kết thúc TrypC). Đoạn DNA chèn và vector nhận sau khi được cắt bằng
enzyme giới hạn Kpn I và thu lại nhờ tinh chế sản phẩm trên gel agarose sẽ được
nối ghép với nhau bằng phản ứng lai dưới sự hỗ trợ của enzyme T4 DNA ligase. Ti
plasmid tái tổ hợp tạo thành mang hai cấu trúc biểu hiện gen mã hóa xylanase và
gen kháng hygromycin B, có kích thước phân tử khoảng 15,4 kb. Kích thước này
lớn hơn so với kích thước của vector pCB1300 do vậy, dưới điện trường, DNA
plasmid của Ti plasmid tái tổ hợp pCB_xylB_hph sẽ di chuyển chậm hơn so với
DNA plasmid của vector pCB1300. Một số khuẩn lạc được nhặt nuôi trong môi
trường LB lỏng có bổ sung kháng sinh kanamycin (50 mg/ml) ở 37°C qua đêm, sau
đó kiểm tra DNA plasmid để lựa chọn các dòng cao hơn trên hình ảnh điện ảnh di
để tiến hành kiểm tra sự có mặt của xylB trong Ti plasmid tái tổ hợp.
3.2.2. Kiểm tra sự có măt của xylB và hph trong vector tái tổ hợp Ti plasmid
Dòng khuẩn lạc có kí hiệu pCB_xylB_hph lần lượt được cắt kiểm tra bằng một
enzyme là Kpn I, Bgl II và kết hợp hai enzyme Bgl II và Nco I.
Enzyme giới hạn Kpn I để dùng để cắt vector trung gian pKS_xylB_hph với
mục đích tinh chế đọan gen cần nối ghép với vector pCB1300 và vector nhận
pCB1300 cũng được cắt mở vòng bằng Kpn I nên điểm cắt của Kpn I không bị mất.
Vì vậy, khi xử lý DNA plasmid tái tổ hợp pCB_xylB_hph bằng enzyme giới hạn
Kpn I, kết quả thu được là hai đoạn gen có kích thước là 9 kb và 6,4 kb tương ứng
với kích thước của pCB1300 và đoạn gen mang hai cấu trúc biểu hiện xylB và hph.
Trên hình ảnh điện di (Hình 3. 14), sản phẩm cắt DNA plasmid tái tổ hợp bằng
enzyme Kpn I gồm hai băng với kích thước phù hợp với tính toán lý thuyết. Vector
pCB1300 được dùng để làm đối chứng chỉ có một băng duy nhất với kích thước
58
khoảng 9 kb. Như vậy, chúng tôi khẳng định đã chuyển được toàn bộ kết cấu gen
mã hóa xylanase và gen kháng hygromycin B vào Ti plasmid.
Hình 3. 14: Điện di đồ sản phẩm cắt enzyme của Ti plasmid tái tổ hợp mang hai cấu trúc biểu hiện gen xylB và hph
1: Vector pCB1300 đối chứng2: Ti plasmid pCB_xylB_hph đối chứng3: pCB1300 cắt bằng Kpn I4: Plasmid pCB_xylB_hph cắt bằng Kpn I5: pCB1300 cắt bằng Bgl II6: Plasmid pCB_xylB_hph cắt bằng Bgl IIM: Marker 1 kb7: Plasmid pCB_xylB_hph cắt bằng Bgl II và Nco I8: pCB1300 cắt bằng Bgl II và Nco I
Tiến hành khảo sát thêm một số điểm cắt của enzyme giới hạn trên vector tái
tổ hợp pCB1300_xylB_hph, enzyme Bgl II và Nco I được dùng để cắt điểm cắt nội
trên đoạn gen mang hai cấu trúc (GpdA promoter + xylB gene +trypC terminator) và
(GluA promoter + hph gene + TrypC terminator). Vì Bgl II có vị trí nhận biết trên
gen mã hóa xylB, nên Bgl II sẽ cắt mở vòng vector tái tổ hợp pCB1300_xylB_hph.
Vector pCB1300 không có vị trí cắt của Bgl II do đó, DNA plasmid của pCB1300
sẽ không bị cắt, trên điện di đồ vẫn là sản phẩm DNA plasmid tái tổ hợp. Tương tự,
Nco I có vị trí nhận biết trên gen mã hóa hph nên khi xử lý DNA plasmid tái tổ hợp
bằng Bgl II và Nco I, kết quả sẽ gồm hai băng có kích thước khoảng 10,6 kb và 4,7
kb. Đồng thời, vector pCB1300 được cắt cùng với Ti plasmid tái tổ hợp
pCB_xylB_hph để làm đối chứng. Với cả hai phương án xứ lý bằng enzyme giới
trên đều không có điểm cắt trên vector pCB1300 do đó dễ dàng nhận thấy sự khác
59
~15,4 ~10,7~ 9 ~ 6,4 ~ 4,7
1 2 3 4 5 6 M 7 8 kb
biệt giữa sản phẩm cắt của vector pCB1300 và vector lasmid tái tổ hợp
pCB1300_xylB_hph trên điện di đồ. Như vậy, chúng tôi có thể khẳng định đã
chuyển được đoạn gen mang hai cấu trúc biểu hiện xylB và hph vào vector
pCB1300. DNA plasmid tái tổ hợp được tách chiết lượng lớn và tinh sạch cho phản
ứng xác định trình tự.
Đoạn gen quan tâm được xác định trình tự theo phương pháp Sanger trên
máy xác định trình tự tự động ABI Avant 3100. Trình tự nucleotide của mỗi mẫu
được xác định cả hai chiều xuôi và chiều ngược. Trình tự được xử lý bằng các phần
mềm ABI PRIMS 3100 Avant Data Collection v1.0 và DNA Sequencing Analysis
v5. 2. Trình tự gen thu được tiếp tục được so sánh với các trình tự chuẩn trong ngân
hàng gen Quốc tế EMBL/ Genbank/ DDBJ hoặc các trình tự ban đầu của gen nhờ
các phần mềm Seqscrape v2. 6 và Bioedit v7. 0. 9 để kiểm tra độ chính xác của
trình tự gen.
10 20 30 40 50 60 ....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|XylB ATGCTCACCAAGAACCTTCTCCTCTGCTTTGCCGCGGCTAAGGCTGCTCTGGCTGTCCCC M L T K N L L L C F A A A K A A L A V P
70 80 90 100 110 120 ....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|XylB CACGACTCTGTCGCCCAGCGTTCGGATGCCTTGCACATGCTCTCTGAGCGCTCGACCCCG H D S V A Q R S D A L H M L S E R S T P
130 140 150 160 170 180 ....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|XylB AGCTCGACCGGCGAGAACAACGGCTTCTACTACTCCTTCTGGACCGACGGCGGTGGCGAC S S T G E N N G F Y Y S F W T D G G G D
190 200 210 220 230 240
....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|XylB GTGACCTACACCAACGGAGATGCTGGTGCCTACACTGTTGAGTGGCCCAACGTGGGCAAC V T Y T N G D A G A Y T V E W P N V G N
250 260 270 280 290 300 ....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|
60
XylB TTTGTCGGTGGAAAGGGCTGGAACCCCGGAAGTGCGCAGGACATCACCTACAGCGGCACC F V G G K G W N P G S A Q D I T Y S G T
310 320 330 340 350 360 ....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|XylB TTCACCCCTAGCGGCAACGGCTATCTCTCCGTCTATGGCTGGACCACTGACCCCCTGATC F T P S G N G Y L S V Y G W T T D P L I
370 380 390 400 410 420 ....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|XylB GAGTACTACATCGTCGAGTCCTACGGCGACTACAACCCCGGCAGTGGAGGCACATACAAG E Y Y I V E S Y G D Y N P G S G G T Y K 430 440 450 460 470 480 ....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|XylB GGCACCGTCACCTCGGACGGATCCGTTTACGATATCTACACGGCTACCCGTACCAATGCT G T V T S D G S V Y D I Y T A T R T N A
490 500 510 520 530 540 ....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|XylB GCTTCCATTCAGGGAACCGCTACCTTCACTCAGTACTGGTCCGTCCGCCAGAACAAGAGA A S I Q G T A T F T Q Y W S V R Q N K R 550 560 570 580 590 600 ....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|XylB GTTGGCGGAACTGTTACCACCTCCAACCACTTCAATGCTTGGGCTAAGCTGGGAATGAAC V G G T V T T S N H F N A W A K L G M N
610 620 630 640 650 660 ....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|XylB CTGGGTACTCACAACTACCAGATCGTGGCTACCGAGGGTTACCAGAGCAGTGGATCTTCG L G T H N Y Q I V A T E G Y Q S S G S S
670 ....|....|....|...XylB TCCATCACTGTTCAGTAA S I T V Q *
Hình 3. 15: Trình tự gen và trình tự amino acid của gen xylanaseChúng tôi sử dụng phần mềm Bioedit để phân tích và so sánh trình tự giải mã
được của xylB với các trình tự gen này đã công bố trên ngân hàng gen EMBL. Kết
quả, đoạn gen đã được giải mã có độ dài 678 bp, mã hóa cho 205 amino acid (23
kDa). Như vậy, gen mã hóa xylanase được chuyển vào nấm sẽ là mã hóa enzyme
61
xylanase thuộc họ 11. Đây là những enzyme rất đặc hiệu trong việc phân hủy xylan
[13, 29]. Như vậy, chúng tôi đã thiết kế thành công Ti plasmid tái tổ hợp mang hai
cấu trúc biểu hiện gen xylanase và gen kháng hygromycin B. Vector này còn được
gọi là vector biểu hiện gen mã hóa xylanase.
3.3. Tạo chủng vi khuẩn A. tumefaciens mang vector biểu hiện pCB_xylB_hph
3.3.1. Biên nạp Ti plasmid tái tổ hợp vào A. tumefaciens
Để tạo ra được nguyên liệu chuyển gen thực vật, Ti plasmid tái tổ hợp
pCB_xylB_hph phải được chuyển vào một tế bào để làm ổn định nguồn gen. Hơn
nữa, tế bào sinh vật này phải có khả năng chuyển gen quan tâm vào vật chủ mong
muốn. Cho đến nay, chuyển gen nhờ Agrobacterium đã và đang được áp dụng rộng
rãi trong chuyển gen vào thực vật và một số vi sinh vật chẳng hạn như nấm, vi
khuẩn. Các nghiên cứu trên thế giới về thiết kế vector tái tổ hợp biểu hiện trong
nấm thường sử dụng đoạn khởi đầu GpdA promoter. GpdA là một promoter đặc
hiệu cho nấm. Promoter này có nguồn gốc từ A. nidulans và A. bisporus [22].
Phương pháp biến nạp được sử dụng phổ biến là sốc nhiệt tuy nhiên hiệu suất
không cao bằng phương pháp xung điện. Hơn nữa vector biểu hiện có kích thước
lớn do đó chúng tôi đã lựa chọn phương pháp xung điện để biến nạp vào A.
tumefaciens và sử dụng chủng vi sinh vật này làm nguyên liệu chuyển gen vào nấm
sợi. Chủng A. tumefaciens được sử dụng là chủng có mang một loại plasmid trợ
giúp (helper plasmid) mà trên plasmid có mang gen kháng ampicillin, plasmid này
hỗ trợ chuyển T – DNA vào tế bào chủ, do đó trên môi trường chọn lọc cho A.
tumefaciens, ngoài rifamycin, chúng tôi còn bổ sung thêm kháng sinh ampicillin để
chọn lọc cho chủng có mang plasmid trợ giúp. Sau khi biến nạp, tế bào mang vector
biểu hiện được chọn lọc trên môi trường YEB đặc có bổ sung kháng sinh rifamycin,
ampicillin để chọn lọc A. tumefaciens và kanamycin để chọn lọc A. tumefaciens có
mang plasmid tái tổ hợp.
62
3.3.2. Kiểm tra sự có măt của xylB và hph trong Agrobacterium
Các dòng plasmid tái tổ hợp trước tiên được cắt kiểm tra bằng enzyme giới
hạn Kpn I. Các khuẩn lạc A. tumefaciens có chứa Ti-plasmid tái tổ hợp tạo được
nhờ xung điện được phát hiện bằng phương pháp chọn lọc trên môi trường đặc hiệu,
tách chiết DNA plasmid và tiếp tục được biến nạp trở lại tế bào E. coli và tiến hành
các thí nghiệm phân tích phân tử tiếp theo. Sở dĩ cần phải thực hiện bước biến nạp
trở lại DNA plasmid vào trong tế bào vi khuẩn E. coli vì số lượng bản sao của
plasmid tái tổ hợp này trong tế bào Agrobacterium rất ít, không đủ để tiến hành các
thí nghiệm kiểm tra sự có mặt của các kết cấu gen đưa vào.
Các plasmid dự đoán có mang vector biểu hiện pCB1300_xylB_hph được
tinh sạch và dùng làm khuôn cho phản ứng PCR với hai cặp mồi nhân xylB và hph.
Kết quả PCR trên hình 3. 16 cho thấy, chúng tôi đã đưa được plasmid tái tổ hợp
pCB_xylB_hph vào trong tế bào A. tumefaciens. Các dòng sau biến nạp được dùng
làm nguyên liệu để chuyển vào nấm.
Hình 3. 16: Điện di đồ kiểm tra sự có mặt của xylB trong Agrobacteirum bằng PCR
1–7: Sản phẩm PCR của plasmid tái tổ hợp tách từ Agrobacterium
M: Marker 100 bp
Vì cấu trúc biểu hiện gen xylB đã được chuyển cùng với cấu trúc biểu hiện gen
hph vào A. tumefaciens. Do vậy, dòng plasmid tái tổ hợp tách từ Agrobacterium tiếp
tục được kiểm tra bằng PCR sử dụng cặp mồi đặt hiệu của gen hph.
63
0,6 ~ 0,7
1 2 3 4 5 6 7 M kb
Trên điện đồ (Hình 3. 17) sản phẩm PCR rất đặc hiệu với kích thước khoảng
0,6 kb. PCR là phương pháp đơn giản, hiệu quả và nhanh chóng để xác định chính
xác cấu trúc của gen đã chuyển vào Agrobacterium.
Hình 3. 17: Điện di đồ kiểm tra sự có mặt của hph trong Agrobacteirum bằng PCR
1–7: Sản phẩm PCR của gen hph
M: Marker 100 bp
Như vậy, chúng tôi đã tạo được chủng Agrobacterium CV58C1 - pGV2260
mang vector biểu hiện pCB_xylB_hph. Các dòng khuẩn lạc sau khi kiểm tra sẽ được
lưu giữ để làm nguyên liệu chuyển gen vào nấm.
3.4. Kết quả chuyển vector biểu hiện xylB và hph vào A. niger thông qua A.
tumefaciens
3.4.1. Kêt quả nuôi nhiễm
Nồng độ bào tử thích hợp để nuôi nhiễm với Agrobacterium khoảng 108 bào
tử/ml. Tế bào Agrobacterium đã được hoạt hóa trong môi trường IM lỏng có bổ
sung AS. Nhờ sự có mặt của chất cảm ứng AS, các gen vir trở nên hoạt hóa, và quá
trình chuyển gen vào nấm mốc được diễn ra dưới sự hỗ trợ của các gen vir. Bào tử
nấm và tế bào Agrobacterium được nuôi nhiễm theo nhiều tỷ lệ khác nhau: 1: 1; 1:
3 và 1: 5. Hỗn hợp Agrobacterium và A. niger được trải đều lên màng lọc đã được
đặt sẵn trên bề mặt của hai loại môi trường, môi trường IM đặc có bổ sung AS và
môi trường IM đặc không bổ sung AS. Đĩa nuôi nhiễm được ủ ở 24 °C trong 3
64
1 2 3 4 5 6 7 M kb
~ 0,6 kb 0,6
ngày. Kết quả thu được rất khác nhau trên các đĩa nuôi nhiễm với tỷ lệ khác nhau. Ở
đĩa nuôi nhiễm theo tỷ lệ 1:1 và 1: 3 xuất hiện ít nấm, chúng phát triển không đều so
với đĩa nuôi nhiễm theo tỷ lệ 1: 5 (Hình 3. 18). Theo Beijersbergen và các tác giả
khác (2001), tỷ lệ nuôi nhiễm giữa A. niger và Agrobacterium là 1 : 1 [9]; theo
Sugui và các tác giả khác (2004), tỷ lệ nuôi nhiễm A. fumigatus và Agrobacterium
là 1 : 10 [16].
Sau 3 ngày nuôi cấy ở 37°C, bào tử nấm đã xuất hiện tương đối nhiều trên tất
cả các đĩa nuôi cấy. Sự phát triển mạnh của bào tử nấm có thể do nồng độ bào tử
nấm ban đầu bổ sung trong giai đoạn nuôi nhiễm quá cao, hoặc thời gian nuôi cấy
quá dài và ở nhiệt độ cao. Điều này có thể khắc phục được bằng cách giảm nồng độ
bào tử nấm nuôi nhiễm, giảm thời gian và nhiệt độ nuôi nhiễm [11].
Hình 3. 18: Kết quả nuôi nhiễm Agrobacterium và A. niger trên hai loại
môi trường khác nhau
A: Môi trường IM có bổ sung AS
B: Môi trường IM không bổ sung AS.
Đĩa nuôi nhiễm được nuôi ở 24°C trong 3 ngày kết quả thu được không cao.
Nguyên nhân có thể do nhiệt độ và thời gian cho quá trình nuôi nhiễm chưa tối ưu.
Theo Beijersbergen và các tác giả khác (2001), điều kiện nuôi nhiễm giữa A. niger
và Agrobacterium là 2 ngày ở nhiệt độ phòng [9]. Theo Michielse và các tác giả
65
A B
B
khác (2008), nhiệt độ tối ưu cho quá trình nuôi nhiễm là từ 20°C – 25°C [11, 12].
Song, có thể nhiệt độ nuôi nhiễm khác nhau khi sử dụng các loài nấm khác nhau,
chẳng hạn như, theo nghiên cứu của Sugui và các tác giả khác (2004), nhiệt độ tối
ưu cho giai đoạn nuôi nhiễm Agrobacterium và A. awamori là 24°C trong 2 ngày
[16].
Tỷ lệ bào tử nấm xuất hiện trên môi trường nuôi nhiễm có bổ sung AS mọc tốt
hơn so với môi trường không bổ sung AS. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với nhiều
nghiên cứu về chuyển gen vào nấm nhờ Agrobacterium trên thế giới [9, 11, 12].
Theo Beijersbergen và các tác giả khác (2001), AS ảnh hưởng rõ rệt lên hiệu suất
nuôi nhiễm giữa A. niger và Agrobacterium. Trên môi trường chọn lọc thể chuyển
gen đã không xuất hiện khuẩn lạc nào nếu trong giai đoạn nuôi nhiễm không được
bổ sung thêm AS. Ngược lại, nếu giai đoạn nuôi nhiễm có bổ sung AS thì xuất hiện
5 - 6 khuẩn lạc trên môi trường chọn lọc bằng kháng sinh kháng hygromycin B [9].
Kết quả này cũng tương tự với kết quả của Wang và các tác giả khác (2008) khi
nghiên cứu chuyển gen vào nấm P. digitatum thông qua Agrobacterium [17]. Theo
nghiên Michielse và cs (2008), AS ảnh hưởng và cần thiết trong giai đoạn cùng
nuôi, bởi nó cảm ứng gen vir chuyển T – DNA vào tế bào chủ, mặc dù AS không
thật sự cần thiết trong giai đoạn chuẩn bị nguyên liệu nuôi nhiễm [9, 11]. Mặc dù
hiệu suất chuyển gen vào nấm sợi thông qua Agrobacterium có thể bị ảnh hưởng
bởi nhiều yếu tố, tuy nhiên, rõ ràng có thể thấy AS làm giảm hiệu suất chuyển gen.
Do vậy, bổ sung AS trong giai đoạn nuôi nhiễm là cần thiết để đạt hiệu suất chuyển
gen cao nhất [9, 11, 12].
Khảo sát ảnh hưởng của màng lọc lên hiệu suất nuôi nhiễm, chúng tôi thử
nghiệm hai loại màng lọc là cellulose và nitrocellulose. Kết quả là bảo tử đều mọc
trên cả hai loại màng lọc, tuy nhiên chúng có sự phân bố khác nhau. Trên đĩa được
sử dụng màng cellulose, nấm phát triển tốt hơn và mọc đều hơn trên khắp bề mặt
giấy, trên đĩa được sử dụng màng nitrocellulose, nấm phát triển yếu hơn và thành
từng cụm với màu đen sẫm so với đĩa nuôi nhiễm dùng màng cellulose. Qua kết quả
nuôi nhiễm trên hai loại màng lọc, nuôi nhiễm trên màng cellulose nấm mọc tốt hơn
66
so với màng nitrocellulose. Mặc dù màng lọc nitrocellulose được sử dụng phổ biến
nhất trong nuôi nhiễm với A. tumefaciens và nấm sợi [16], song trong một số nghiên
cứu, hiệu suất chuyển gen rất thấp khi dùng màng nitrocellulose [12]. Không chỉ
vậy, theo nghiên cứu của Sugui và các tác giả khác (2004), hiệu suất nuôi nhiễm
trên màng nitrocellulose thấp hiệu suất nuôi nhiễm trên cellulose, chẳng hạn như
nuôi nhiễm Agrobacterium với A. fumigatus trên màng nitrocelluse đã không xuất
hiện khuẩn lạc nào [16]. Tuy nhiên, theo Michielse và các tác giả khác (2005), hiệu
suất chuyển gen thấp hơn khi nuôi nhiễm trên màng nitrocellulose hoặc Hybon C, ví
dụ như khi nuôi nhiễm Agrobacterium và A. infestans trên màng nitrocellulose, kết
quả là không xuất hiện khuẩn lạc nào nhưng kết quả lại hoàn toàn ngược lại khi thay
màng nitrocellulose bằng màng Nytran hoặc Hybon N+ [12]. Nguyên nhân của sự
khác nhau trên đến nay vẫn chưa được biết rõ, song có thể thành phần hóa học của
màng lọc ảnh hưởng đến sự phân bố và phát triển của Agrobacterium và bào tử nấm
cũng như ức chế sự tương tác để vận chuyển T – DNA dẫn đến làm giảm hiệu suất
chuyển gen [16].
3.4.2. Chọn lọc thể nấm chuyển gen trên môi trương kháng sinh
Các đĩa nuôi nhiễm theo tỷ lệ 1 : 5 trên môi trường có bổ sung AS sẽ được
dùng cho nghiên cứu chọn lọc thể nấm chuyển gen trên môi trường chọn lọc có bổ
sung kháng sinh hyhromycin và cefotaxim.
Màng lọc từ các đĩa nuôi nhiễm được tiếp tục sang môi trường chọn lọc PDA
có bổ sung hygromycin (50mg/ml) và cefotaxim (50 mg/ml). PDA là môi trường
đặc hiệu cho sự phát triển của nấm và hygromycin B là kháng sinh ức chế sự phát
triển của nấm [18]. Màng lọc được chuyển sang môi trường chọn lọc và đĩa được ủ
ở 37°C trong 3 ngày. Chúng tôi mới chỉ chọn được một khuẩn lạc duy nhất xuất
hiện trên đĩa. Để sống sót trên môi trường có hygromycin, khuẩn lạc này chắc chắn
phải mang gen kháng hygromycin, hơn nữa phải kháng lại cả cefotaxim vì
cefotaxim là chất kháng sinh ức chế sự phát triển của Agrobacterium [11]. Do đó có
thể khẳng định, khuẩn lạc trên không phải là Agrobacterium mà là dòng khuẩn lạc
67
của nấm mang gen kháng hygromycin B. Kết quả nuôi nhiễm trong nghiên cứu
tương đối thấp so với hiệu suất chyển gen của các nghiên cứu khác trên thế giới.
Hiệu suất chuyển gen vào P. digitatum nhờ vi khuẩn Agrobacterium rất cao, từ 97%
– 100% [17]. Kết quả nuôi nhiễm không cao có thể do giai đoạn chuẩn bị vật liệu
chủng giống không tốt, hoặc do chủng giống Agrobacterium không phù hợp với A.
niger. Theo Beijersbergen và các tác giả khác (2001), chuyển gen vào nấm mốc A.
niger, chủng Agrobacterium được sử dụng để nuôi nhiễm là LBA1100 [9]. Chuyển
gen vào nấm mốc A. awamori, chủng Agrobacterium được sử dụng là các chủng có
kí hiệu LBA100a, LBA1119 hay EHA105, LBA1126 [12]. Nhiều nghiên cứu chứng
minh, chuyển gen vào nấm thông qua Agrobacterium A281 có hiệu suất cao hơn so
với các chủng khác, chẳng hạn như chuyển gen vào Criphonectria paratosis thông
qua Agrobacterium A281 có hiệu suất cao hơn Agrobacterium LBA4404 [12].
Sự phát triển mạnh của nấm cũng có thể ảnh hưởng đến hiệu suất chuyển gen
do sự cạnh tranh dinh dưỡng. Hơn nữa, chủng nấm để nuôi nhiễm khi được chuẩn
bị mới sẽ cho hiệu suất cao hơn so với vật liệu bảo quản trong thời gian dài [1]. Bào
tử nấm dùng trong nuôi nhiễm đã được bảo quản ở 4°C trong 1 tuần, do đó có thể
đây cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả nuôi nhiễm. Ngoài ra, giai đoạn xử
lý Agrobacterium để thu cặn tế bào cũng có thể ảnh hưởng đến Ti plasmid, dẫn đến
hiệu suất nuôi nhiễm thấp.
Nấm chuyển gen sau khi chọn lọc trên môi trường có bổ sung kháng sinh
hygromycin B sẽ tiếp tục được nuôi lượng lớn trong môi trường DPA lỏng để thu
cặn tế bào. DNA tổng số tách từ khuẩn lạc này được dùng làm khuôn cho phản ứng
PCR. Trên hình ảnh điện di, sản phẩm PCR cuả gen kháng hygromycin B thu được
rất đặc hiệu, tương ứng với kích thước 0,6 kb. Điều này cho thấy, chúng tôi đã
chuyển thành công thành công vector biểu hiện vào nấm mốc A. niger thông qua vi
khuẩn A. tumefaciens.
Hiện nay, chuyển gen nhờ vi khuẩn Agrobacterium không chỉ giới hạn ở một
số loài nấm thuộc chi Aspergillus [3] mà nó còn được áp dụng trên nhiều loài nấm
khác nhau như P. digitatum, M. circinelloides, C. albicals [1, 2, 38]. Trong nghiên
68
cứu, A. niger được sử dụng làm tế bào chủ để chuyển gen bởi nó là loài an toàn,
cho năng suất và chất lượng enzyme xylanase, và đây là loài rất phổ biến trong tự
nhiên[8].
69
KÊT LUẬN
1. Đã thiết kế thành công vector biểu hiện (Ti plasmid tái tổ hợp) được kí hiệu là
pCB_xylB_hph mang gen mã hóa xylanase và gen kháng hygromycin B trên cơ
sở vector trung gian pKS_xylB_hph.
2. Đã tạo được chủng vi khuẩn Agrobacterium mang vector biểu hiện gen mã hóa
xylanase pCB_xylB_hph để làm nguyên liệu chuyển gen vào nấm.
3. Bước đầu xây dựng quy trình nuôi nhiễm A. tumefaciens mang Ti plasmid tái tổ
hợp pCB_xylB_hph và bào tử nấm A. niger.
4. Bước đầu chọn lọc được nấm mốc A. niger chuyển gen trên môi trường chọn lọc
bằng kháng sinh hygromycin B.
70
KIÊN NGHỊ
1. Tiếp tục hoàn thiện quy trình chuyển gen mã hóa xylanase vào nấm mốc A.
niger thông qua A. tumefaciens.
2. Kiểm tra nấm chuyển gen bằng kỹ thuật PCR sử dụng cặp mồi đặc hiệu cho hph
và xylB.
3. Xác định hoạt tính của enzyme xylanase trong môi trường có bổ sung cơ chất
thích hợp.
71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lê Trần Bình, Phan Văn Chi, Nông Văn Hải, Trương Nam Hải, Lê Quang Huấn
(2003), Áp dụng kỹ thuật sinh học phân tử trong nghiên cứu tài nguyên sinh vật
Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.
2. Lê Trần Bình, Hồ Hữu Nhị, Lê Thị Muội (1997), Công nghệ sinh học thực vật
trong cải tiến giống cây trồng, Nhà xuất bản Nông nghiệp, tr. 72 – 74.
3. Lê Thị Thu Hiền (2003), “Tạo chủng vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens mang
gen kháng côn trùng để chuyển vào cây trồng”, Luận văn Tiến sĩ sinh học, Viện
Công nghệ sinh học, Hà Nội.
4. Nguyễn Sỹ Lê Thanh, Quyền Đình Thi (2009), “Nhân dòng và phân tích trình tự
gen mã hóa xylanase từ A. niger DSM1957”, Báo cáo Hội nghị Công nghệ Sinh
học toàn quốc, Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên, tr. 701 – 704.
5. Nguyễn Thị Thu Thủy, Nguyễn Văn Thuật, Đỗ Thị Tuyên, Quyền Đình Thi
(2009), “Biểu hiện và đánh giá tính chất hóa lý của xylanase tái tổ hợp từ chủng
A. oryzae VTCC – F187 trong Pichia pastoris GS115”, Báo cáo Hội nghị Sinh
học toàn quốc, Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên, tr. 710 – 714.
Tiếng Anh
6. Alasdair D. I., Bruun R. T. (2000), Promoter, Patent WO 0078975.
7. Angeles J. G. C., Laurena A. C., Tecson M. E. M. (2005) “Extraction of
genomic DNA from the lipid – polysaccharide, and polyphenol – rich coconut
(Cocos nucifera L.)”, Plant Molecular Biology Reporter, 23, pp. 297a – 297.
8. Krisana A., Rutchadaporn S., Jarupan G., Lily E., Sutip T., Kanyawim K.
(2004), “Endo–1,4–ß–xylanase B from Aspergillus cf.niger BCC14405
isolated in Thailand: purification, characterization and gene isolation”,
Journal of Biochemistry and Molecular Biology, 38 (1), pp. 17 – 23.
9. Beijersbergen (2001), United States Patent, US 6.255.155 B1.
72
10. Ruiz – Diez B. (2002), “Strategies for the transformation of filamentous fungi:
A reviews”, Journal of Applied Microbiology, 92, pp. 189 – 195.
11. Michielse B. C, Hooykaas P. J. J., van den Hondel C. A. M. J. J. , Ram F. J. A.
(2008), “Agrobacterium – mediated transformation of the filamentous fungus
Aspergillus awamori”, Protocol.
12. Michielse B. C., Hooykaas P. J. J., van den Hondel C. A. M. J. J., Ram F. J. A.
(2005), “Agrobacterium – mediated transformation as a tool for functional
genomics in fungi”, Review article.
13. Chantasingh D., Pootanakit K., Champreda V., Kanokratana P., Eurwilaichitr L.
(2005), “Cloning, expression, and characterization of a xylanase 10 from
Aspergillus terreus (BCC129) in Pichia pastoris”, Protein Expression and
Purification, 46, pp. 143 – 149.
14. Holster M., De Waele D., Depicker A., Messens E., Van Montagu M., Schell J.
(1987), “Transfection and transformation of A. tumefaciens”, Molecular and
General Genetics 163, pp. 181–187.
15. Nyilasi I. (2004), “Investigation of the application of the Agrobacterium –
mediated transformation in Zygomycetes”, Acta Biologica Szegediensis, 48
(1–4): 73.
16. Sugui A. Z, Chang C. Y., Kwon–Chung K.J. (2004), “Agrobacterium
tumefaciens – mediated transformation of Aspergillus fumigatus: an efficient
tool for insertional mutagenesis and targeted gene disruption”, Applied and
Environmental Microbiology, 71 (4), pp. 1798 – 1802.
17. Wang Z-Y., Li H-Y. (2008), “Agrobacterium tumefaciens – mediated genetic
transformation of the phytopathogenetic fungus Penecillium digitatum”,
Journal of Zhejiang University SCIENCE B, 9(10), pp. 823–828.
18. Nyilas I., Acs K., Papp T., Nagy E., Vagvolgyi C. (2005), “Agrobacterium
tumefaciens – mediated transformation of Mucor circinellnoides”, Fonia
Microbiology, 50 (5), pp. 415 – 420.
73
19. Hanif M. (2004), Chracterization of small GTPase Cdc42 from the
ectomycorrhizal fungus Suillus bovinus and Agrobacterium tumefaciens –
mediated transformation of fungi, University of Helsinki.
20. Kheng P. P., Omar C. I. (2004), “Xylanase production by a local fungal isolate,
Aspergillus niger USM AI 1 via solid state fermentation using palm kernel
cake (PKC) as substrate”, Songklanakarin Journal Science Technology, 27
(2), pp. 325 – 336.
21. Deng P., Li D., Cao Y., Lu W., Wang C. (2006), “Cloning of a gene encoding an
acidophilic endo – ß – 1,4 – xylanase obtained from Aspergillus niger
CGMCC1067 and constitutive xpression in Pichia pastoris”, Enzyme and
Microbial Technology, 39, pp. 1096 – 1102.
22. Romaine (2005), United States Patent, US 6, 964, 866 B2.
23. Beg Q. K., Kapoor M., Mahajan L., Hoondal G. S.(2001), “Microbial xylanase
and their industrial application: A review”, Applied Microbial
Biotechnology, 56, pp. 326– 338.
24. Sambrook J., Fritsch E.F., Maniatis T. (2001), "Molecular Cloning: A laboratary
manual". Cold Spring Harbor Laboratory Press, Cold Spring Harbor.
25. Stewart C.N.Jr., Via L.E.(1993) A rapid CTAB DNA isolation technique useful
for RAPD fingerprinting and other PCR applications, BioTechniques, 14, pp.
748–751.
26. Stanton B Gelvin, (2003), “Agrobacterium mediated plant transformation: the
biology behind the “Gene – Jockeying” tool”, Microbiology and Molecular
Biology Reviews, 67(1), pp. 16 – 37.
27. Cosson T., Pe’rez A.M., Vendrell, Gonza’lez Teresa B., Rene D., Taillade P.,
Brufau J. (1999), “Enzymatic assays for xylanase and ß–glucanase feed
enzyme”, Animal Feed Science and Technology, 77, pp. 345 – 353.
28. Krengel U., Dijkstra W. B. (1996), “Three – dimensional structure of endo – 1,4
– ß – xylanase I from Aspergillus niger: Molecular basis for its low pH
optimum”, Journal of Molecular Biology, 263, pp. 70 – 78.
74
29. Degefu Y. (2003), Cloning and characterization of xylanase gene from
phytopathogenetic fungi with a special reference to Helminthosporium
turcicum, the cause of the northern leaf blight of maize, University of
Helsinki.
30. Lu L., Yang Z., Yuan H. (2008), “Production, purification and characterization
of an alkaliphilic endo–ß–1,4–xylanase from a microbial community
EMSD5”, Enzyme and Microbial Technology, 43, pp. 343 – 348.
31. Olempska–Beer Z. S., Merker R. I., Ditto M.D., Dinovi M. J. (2006), “Food –
processing enzymes from recombinant microorganism – a revew”,
Regulatory Toxicology and Pharmacology, 45, pp. 144 – 158.
32. Zuccarello G. C., Critchley A. T., Smith J., Sieber V., Lhonneur G.B., West J.A.
(2006) Systematics and genetic variation in commercial Kappaphycus and
Eucheuma (Solieriaceae, Rhodophyta), Journal of Applied Phycology.
33. http://en.wikipedia.org/wiki/Aspergillus_niger
34. http://arabidopsis.info/students/paaras/t_dna.htm ]
35. http://wolfson.huji.ac.il/expression/vector/vec-anat.html
75