bÀi luẬn vỀ dỰ ĐỊnh nghiÊn cỨu
TRANSCRIPT
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới, hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) ngân hàng diễn
ra với quy mô và giá trị tăng lên qua thời gian. Ở Việt Nam, hoạt động này
gắn liền với tiến trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và diễn ra ngày càng
mạnh mẽ trên mọi phương diện. Với vai trò là “hệ thống huyết mạch” của
nền kinh tế, ngành Ngân hàng luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của mọi
quốc gia. Vì thế, nghiên cứu về M&A ngân hàng cũng luôn là đề tài có tính
thời sự.
Thứ nhất, trong môi trường toàn cầu hóa hiện nay, mua bán và sáp
nhập (M&A) đã trở thành một xu hướng đầu tư nước ngoài chính. Lĩnh vực
ngân hàng cũng không nằm ngoài xu hướng này. Trên thế giới đã chứng
kiến nhiều cuộc M&A giữa các ngân hàng lớn như JP Morgan Chase mua
Bank One (năm 2004) và mua Bear Tearn (năm 2008), Barclays PLC mua
ANB Amro (năm 2007), Mitsubishi Tokyo Financial Group mua UFJ
Holding (năm 2005), Bank of America mua lại Fleet Boston Financial (năm
2003), Capital One và ING Direct USA (9 tỷ đô la Mỹ, năm 2011),
FirstMerit Bank và Citizens Republic Bancorp (912 triệu đô la Mỹ, năm
2013), Old National Bank và United Bank & Trust (173 triệu đô la Mỹ, năm
2014)… Điều này cho thấy M&A ngân hàng đã và đang trở thành một xu
hướng trong bối cảnh hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa. Ngành ngân hàng là
lĩnh vực có nhiều thương vụ M&A nhiều thứ hai sau lĩnh vực năng lượng
giai đoạn 2010–2012. ASEAN là khu vực nóng nhất của M&A ngành dịch
vụ tài chính, năm 2012 đạt mức cao nhất từ trước tới nay, tăng trưởng đến
70% so với năm 2011.
2
Tại Việt Nam, M&A ngân hàng hình thành và gắn liền với mỗi giai
đoạn phát triển của đất nước, gắn với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đó
là: (i) M&A giai đoạn sau khủng hoảng tài chính Châu Á (1997-2004) với
việc sắp xếp, chấn chỉnh hoạt động của 14 ngân hàng thương mại; (ii) Giai
đoạn Việt Nam bắt đầu gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (2005-2011)
với việc chuyển đổi 12 ngân hàng cổ phần nông thôn sang ngân hàng
TMCP đô thị; và (iii) giai đoạn Việt Nam tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế
(2011-2015) với việc tiến hành M&A đối với 9 ngân hàng thương mại cổ
phần yếu kém.
M&A ngân hàng tại Việt Nam đang trên đà phát triển, tuy nhiên, so
với M&A ngân hàng diễn ra trên thế giới và khu vực, hoạt động này ở Việt
Nam vẫn còn non trẻ cả về số lượng, tính chất và giá trị thương vụ…
Thứ hai, M&A là công cụ hữu hiệu trong việc giúp Chính phủ sử
dụng làm công cụ quản lý nền kinh tế, quản lý hệ thống TCTD, đồng thời
M&A giúp ngân hàng thực hiện chiến lược kinh doanh nâng cao năng lực
cạnh tranh, mở rộng thị trường, tận dụng lợi thế, tăng quy mô, thậm chí
tránh được phá sản…
Thứ ba, Việt Nam đang trên đà hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình
này đi kèm với những thuận lợi, cơ hội, thách thức… buộc Việt Nam phải
hòa vào “sân chơi” chung, do vậy những tác động, ảnh hưởng của kinh tế
thế giới cũng sẽ làm phát sinh các vấn đề trong nước, trong đó có những tác
động trực tiếp tới lĩnh vực ngân hàng, buộc hệ thống ngân hàng phải đối
mặt với những thách thức này.
Thứ tư, Việt Nam đã từng trải qua giai đoạn thành lập quá nhiều các
ngân hàng quy mô nhỏ, năng lực quản trị điều hành kém, xuất hiện tình
trạng sở hữu chéo, cơ cấu cổ đông không bền vững, nợ xấu tăng, đối diện
với nguy cơ mất vốn… làm ảnh hưởng tới hệ thống TCTD và nền kinh tế.
3
Điều này đòi hỏi Việt Nam cần phải làm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng
và M&A là một trong những giải pháp hữu hiệu.
Thứ năm, mặc dù trên thực tế, hoạt động M&A ngân hàng đã và đang
tiếp tục diễn ra, nhưng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa
hoàn thiện, thị trường tài chính – ngân hàng, nền tảng, khung pháp lý, văn
bản hướng dẫn, kinh nghiệm, quy trình triển khai hoạt động này ở Việt Nam
còn thiếu, chưa đầy đủ, chưa đáp ứng theo kịp yêu cầu thực tiễn.
Thứ sáu, trên thế giới và khu vực, M&A ngân hàng đã diễn ra từ lâu,
nhưng với đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, M&A ngân hàng có nhiều
điểm cần phải được nghiên cứu làm rõ để đưa ra những kiến nghị, giải pháp
phù hợp.
Thứ bảy, bản thân Nghiên cứu sinh đang công tác tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) - Ngân hàng
Thương mại Nhà nước lớn nhất tại Việt Nam. Hiện nay, Agribank đang
trong quá trình đẩy mạnh triển khai Đề án tái cơ cấu, bước đầu triển khai
sắp xếp lại mạng lưới và đổi mới hoạt động kinh doanh theo hướng Ngân
hàng hiện đại, tăng trưởng, an toàn, hiệu quả, bền vững nhằm thực hiện chủ
trương của Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam trong việc cơ cấu lại hệ
thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, do đó lựa chọn
nghiên cứu đề tài này là phù hợp và thiết thực đối với công việc và lĩnh vực
công tác của Nghiên cứu sinh.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án sẽ trình bày những vấn đề cơ bản về lý luận, phân tích và
đánh giá khái quát M&A trong lĩnh vực ngân hàng trên thế giới, rút ra
những bài học kinh nghiệm chung đối với M&A ngân hàng. Trên cơ sở
nghiên cứu M&A ngân hàng Việt Nam, chỉ ra những thành công hay thất
bại, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các hoạt động
4
M&A trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam ở góc độ quản lý nhà nước đối
với hoạt động M&A ngân hàng.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận án trả lời được các câu
hỏi nghiên cứu chủ yếu sau:
+ Cơ sở lý luận và thực tiễn của M&A trong lĩnh vực ngân hàng thời
gian qua là gì? Đặc điểm chung của thế giới và đặc thù của Việt Nam?
+ Các hoạt động M&A trong lĩnh vực Ngân hàng trên thế giới, khu
vực từ 1990- 2010 có những đặc điểm chủ yếu gì? Những thành công, tồn
tại? Nguyên nhân? (Có cập nhật số liệu đến 2014 để đảm bảo tính thời sự
của vấn đề nghiên cứu).
+ Vì sao Việt Nam phải tiến hành M&A trong lĩnh vực Ngân hàng và
thực trạng M&A ngân hàng tại Việt Nam hiện nay?
+ Việt Nam có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm gì từ hoạt
động M&A trên thế giới (thành công, hạn chế) và Việt Nam cần phải làm
gì, đề xuất giải pháp để hoạt động M&A ngân hàng Việt Nam trong thời
gian tới đạt hiệu quả hơn?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các lý luận cơ bản và thực tiễn
về M&A trong lĩnh vực ngân hàng.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu M&A trong lĩnh vực
ngân hàng dưới giác độ quản lý nhà nước đối với hoạt động M&A ngân hàng.
+ Phạm vi không gian: Ngoài Việt Nam, luận án sẽ tập trung nghiên
cứu M&A trong lĩnh vực ngân hàng trên thế giới, khu vực gồm: Mỹ, Châu
Âu, Đông Á, Mỹ Latinh để có đánh giá nhiều chiều, đa dạng… và tập trung
5
nghiên cứu M&A ngân hàng tại quốc gia châu Á có hoàn cảnh và thực tế
tương đồng, phù hợp với Việt Nam, trong đó điển hình là Hàn Quốc.
+ Phạm vi thời gian: Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề trên trong
khoảng thời gian chủ yếu từ năm 1990 đến năm 2010 và có cập nhật đến
thời điểm 2014 nhằm đảm bảo tính thời sự của vấn đề nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp chung
Để giải quyết các mục đích mà đề tài hướng đến, NCS xây dựng
khung nghiên cứu, bao gồm việc đặt mục tiêu nghiên cứu, phân chia hợp lý,
logic các chương mục để giải quyết vấn đề nghiên cứu xuyên suốt, có mối
quan hệ, đối chiếu giữa lý luận, thực tiễn và giải pháp thông qua sử dụng
phương pháp tiếp cận hệ thống, biện chứng, kết hợp logic với lịch sử, để
xây dựng kết cấu và nội dung của các chương mục. Kết hợp phương pháp
thống kê, chuẩn đối so sánh để phân tích, chứng minh, xử lý số liệu, tình
hình và khái quát thành những luận điểm có căn cứ lý luận và thực tiễn.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, NCS sử dụng các
phương pháp nghiên cứu: thống kê và xử lý số liệu có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu, tổng hợp và phân tích hệ thống, mô tả và so sánh để nghiên cứu
và trình bày các vấn đề đặt ra.
Sử dụng phương pháp thống kê lịch sử, phương pháp mô tả và
phương pháp tổng hợp để phân tích và đánh giá các trường hợp M&A điển
hình trong lĩnh vực ngân hàng trên thế giới.
Sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp so sánh để phân
tích đặc điểm của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam, liên hệ kinh nghiệm thế
giới đề xuất giải pháp, gợi ý chính sách để Nhà nước hoàn thiện công cụ
quản lý thông qua M&A, cũng như quy trình tiến hành M&A trong lĩnh vực
ngân hàng hiệu quả phù hợp với đặc thù của Việt Nam.
6
NCS cũng sẽ quan tâm tới kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có và bổ
sung, phát triển những luận cứ khoa học và thực tiễn mới trong việc thực
hiện các mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
4.2. Nguồn số liệu
Nguồn số liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu được NCS khai thác từ
nguồn số liệu của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương
mại Việt Nam; tài liệu về M&A ngân hàng trên thế giới và khu vực được
tham khảo từ các công trình nghiên cứu đã được công bố, đảm bảo độ tin
cậy và tính chính xác của nguồn dẫn.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Về giá trị lý luận:
Luận án đã đề cập, chỉ ra được những điểm còn hạn chế trong việc
phân biệt giữa các khái niệm, định nghĩa về M&A (hợp nhất, sáp nhập, mua
lại); đồng thời bổ sung thêm khái niệm mới “Mua lại & tiếp nhận nợ”
(P&A) trong hoạt động M&A.
- Về giá trị thực tiễn:
+ Thực tiễn thế giới: Tổng hợp, phân tích, đánh giá được hoạt động
M&A ngân hàng ở một số khu vực trên thế giới; Chỉ ra được kinh nghiệm
của thế giới trong tiến hành M&A ngân hàng với vai trò là công cụ quản lý
nền kinh tế của Nhà nước trong việc xử lý khủng hoảng, làm lành mạnh hệ
thống TCTD, đồng thời cách thức tiến hành M&A hiệu quả; Đúc kết được
những nhân tố tác động đến việc thành công, thất bại, nêu ra được những
đối tượng cần có mặt trên thị trường M&A… từ đó rút ra được bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam.
+ Thực tiễn Việt Nam: Luận án đưa ra một cái nhìn tổng quát hoạt
động M&A ngân hàng gắn với quá trình phát triển kinh tế đất nước ở các giai
7
đoạn trước đây và ở giai đoạn Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế; Cách thức
tiến hành M&A ngân hàng ở mỗi thời kỳ; Khẳng định M&A ngân hàng là
một xu thế tất yếu và chỉ ra được các nhân tố tác động, động cơ của hoạt
động này; Chỉ ra được bản chất M&A ngân hàng và đặc thù M&A ngân hàng
của Việt Nam; đồng thời đưa ra được những dự báo về xu hướng, hình thức
M&A ngân hàng sẽ diễn ra trong thời gian tới tại Việt Nam.
- Về giải pháp:
+ Luận án đã làm rõ M&A ngân hàng là một công cụ quản lý nhà
nước: Đưa ra được những gợi ý chính sách, giải pháp tầm vĩ mô đối với
Nhà nước như: Hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN,
hoàn thiện hành lang pháp lý; Sớm chuẩn hóa và chủ động thực hiện lộ
trình M&A ngân hàng gắn với quá trình triển khai cơ cấu lại hệ thống
TCTD; Phát huy vai trò của Bảo hiểm tiền gửi và các cơ quan có liên quan;
Nghiên cứu xây dựng Hệ thống Mạng an toàn tài chính quốc gia; Hình
thành các tổ chức xếp hạng, đánh giá tín nhiệm các ngân hàng cũng như các
tổ chức tư vấn M&A ngân hàng…
+ Chỉ ra được cách thức, quy trình tiến hành M&A ngân hàng hiệu
quả để các NHTM tham khảo trước khi tiến hành M&A.
6. Bố cục nội dung của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
được chia làm 4 Chương gồm:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về M&A ngân hàng
Chương 3: M&A ngân hàng trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam
Chương 4: Gợi ý giải pháp đối với M&A ngân hàng tại Việt Nam
8
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu và tài liệu xuất bản về M&A.
Hầu hết các tài liệu thường đề cập dưới góc độ hướng dẫn tiến hành hoạt
động M&A. Trong đó có các cuốn sách đã được dịch ra tiếng Việt và xuất
bản tại Việt Nam dưới đây.
Frankel M.E.S, “M&A Mua lại & Sáp nhập căn bản: Các bước quan
trọng trong quá trình mua bán doanh nghiệp và đầu tư”, Nhà xuất bản Tri
Thức năm 2009. Cuốn sách cung cấp một tầm nhìn và kiến thức căn bản về
những bước quan trọng và đặc tính của hầu hết các vụ giao dịch M&A, các
bước căn bản để tiến hành một thương vụ M&A. Những kiến thức trong
cuốn sách này cung cấp một nền tảng giúp hiểu được M&A để từ đó có thể
đi chuyên sâu về những lĩnh vực chuyên biệt.
Scott Moeller và Chris Brady, “M&A Mua lại & Sáp nhập thông
minh: Kim chỉ nam trên trận đồ sáp nhập và mua lại”, Nhà xuất bản Tri
Thức năm 2009. Cuốn sách bàn luận về cách thức tổ chức và thực thi một
kế hoạch M&A hiệu quả thông qua việc sử dụng các phương pháp tình báo
doanh nghiệp.
Galpin T.J và Herndon M., “Cẩm nang hướng dẫn M&A Mua lại &
sáp nhập: Các công cụ hỗ trợ quy trình hợp nhất ở mọi cấp độ”, Nhà xuất
bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh năm 2009. Các tác giả đã đưa ra
những công cụ, khuôn mẫu và tiến trình gắn kết hai tổ chức một cách hiệu
quả hơn từ kinh nghiệm của chính các tác giả. Trong đó, các tác giả đã tiến
hành nghiên cứu về tình trạng hợp nhất M&A, những kết quả các ví dụ điển
hình của các công ty quản lý hợp nhất thành công cùng với những thảo luận
về cách ứng phó với những tình huống trong việc mua lại và sáp nhập, trong
9
đó chủ yếu là các tình huống do quá trình hợp nhất chưa được dứt điểm
hoặc do không được quản lý tốt.
Sherman A.J và Hart M.A, “Mua lại và Sáp nhập từ A đến Z”, Nhà
xuất bản Tri thức năm 2009. Cuốn sách nghiên cứu các khái niệm và thuật
ngữ cơ bản trong M&A, đồng thời đưa ra những nguyên tắc cơ bản, các quy
trình thực hiện, kỹ thuật sử dụng trong M&A. Ngoài ra, các tác giả còn đề
cập đến những rủi ro và cạm bẫy tiềm ẩn trong các vụ mua lại và sáp nhập,
những thách thức sau giao dịch và các lựa chọn thay thế M&A.
Xét trên góc độ nghiên cứu về M&A, NCS đánh giá cao các công
trình nghiên cứu như: Blunck B.W., “Creating and Appropriating Value
from Mergers and Acquisitions – A Merger Wave Perspective”, luận án tiến
sỹ tại Đại học Aarhus năm 2008. Qua phân tích nguyên nhân và kết quả của
hoạt động M&A, tác giả tìm ra hai nguyên nhân tạo làn sóng mua lại và sáp
nhập. Thứ nhất, sự tồn tại của làn sóng sáp nhập một phần xuất phát từ các
yếu tố riêng biệt trong các ngành và đặc điểm của kinh tế toàn cầu. Cụ thể
là do ảnh hưởng của đặc điểm từng ngành và nền kinh tế dẫn đến các trào
lưu sáp nhập trong ngành và nền kinh tế đó. Thêm vào đó các công ty có
đặc điểm chung về ngành công nghiệp liên kết, cách thức tổ chức và sở hữu
công ty có thể chia sẻ cách thức điều khiển và động cơ tiềm ẩn cho sáp
nhập. Thứ hai, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các vụ sáp nhập và mua lại ở các
cấp độ công ty và nền kinh tế cho thấy các vụ sáp nhập công ty được sử
dụng như một công cụ trong cuộc chiến cạnh tranh với các công ty đối thủ.
Min Hang, “2+2=5: Pursuing M&A Synergy Realization in China”,
luận văn thạc sỹ tại trường Đại học Lund năm 2002. Tác giả đã kết hợp yếu
tố kinh doanh và pháp luật liên quan đến vấn đề M&A với nhau và kết hợp
các trường hợp thực nghiệm, để khám phá cách thức hiệu quả mà Trung
Quốc nhận được sức mạnh tổng hợp của M&A và giải quyết các vấn đề hội
10
nhập M&A tại Trung Quốc trong thực hành và theo đuổi sức mạnh tổng
hợp với sự nỗ lực cả từ quan điểm quản lý pháp lý.
Trong lĩnh vực ngân hàng, Demirgüç-Kunt, Levine, và Min (1998)
“Opening to Foreign Banks: Issues of Stability, Efficiency” tập trung
nghiên cứu làn sóng sáp nhập ngân hàng ở Mỹ, xuyên biên giới giữa các
nền kinh tế phát triển. Claessens và Jansen (2000) “The Internationalization
of Financial Services: Issues and Lessons for DevelopingCountries”, Clark,
Cull, Peria, và Sanchez (2001) “Foreign Bank Entry: Experience,
Implications for Developing Countries, and Agenda for Further Research”
nghiên cứu việc sát nhập qua biên giới của các nước đang phát triển. Các
nghiên cứu dựa trên hai giả thuyết: đầu tiên, đó là một nền tảng "kinh tế vi
mô", bao gồm lợi thế nhờ quy mô, việc bãi bỏ các quy định, và những thúc
đẩy do kỹ thuật thay đổi, là nền tảng cho làn sóng sáp nhập tài chính toàn
cầu; thứ hai, làn sóng sáp nhập của Hoa Kỳ tạo nên mô hình toàn cầu. Các
liên kết giữa các vụ sáp nhập, hiệu quả và kinh nghiệm của Mỹ được thể
hiện qua trường hợp của các ngân hàng lớn của Mỹ, vì sau khi trải qua hợp
nhất liên tục từ năm 1981, các ngân hàng này có lợi hơn so với các ngân
hàng lớn ở các khu vực khác. Thực tế là các ngân hàng lớn nhất Hoa Kỳ
gần đây đã tăng quy mô tương đối so với thị trường Mỹ, trong khi các ngân
hàng lớn nhất ở khu vực, quốc gia khác lại nhỏ hơn so với thị trường của
các quốc gia đó. Do đó, các tác giả cho rằng mua lại và sáp nhập có thể dẫn
đến tăng quy mô, hiệu quả và năng lực sức cạnh tranh.
Gary (2002) trong bài nghiên cứu “The global bank merger wave:
Implication for developing country” xem xét lại nguyên nhân và tác động
của làn sóng sáp nhập ngân hàng toàn cầu, đặc biệt là tại các nền kinh tế
đang phát triển. Tác giả cho rằng các vụ sáp nhập trong lĩnh vực tài chính
có thể do nhu cầu tìm kiếm khách hàng tiêu dùng, hoặc tìm kiếm khách
hàng sản xuất, hoặc cả hai.
11
Thời gian trong và sau khủng hoảng tài chính thế giới 2007-2009,
xuất hiện nhiều bài nghiên cứu về tác động của khủng hoảng lên M&A
ngân hàng, đặc biệt là của châu Âu và Mỹ. Nhiều tác giả nhận định khủng
hoảng là một cơ hội tốt cho hoạt động M&A ngân hàng (Berger và
Bouwman, 2009; Acharya, Shin và Yourlmazer, 2011, Beltratti và Paladino,
2013). Tuy nhiên mức độ rủi ro cũng tăng lên do các áp lực bên ngoài
doanh nghiệp như cải cách thể chế và các quy định kiểm soát từ chính phủ
(Group of Thirty, 2009).
Ở Việt Nam, hầu hết các nghiên cứu chỉ tập trung vào mua lại và sáp
nhập nói chung. Pricewater House (2009) đã đưa ra báo cáo về tình hình
mua lại và sáp nhập ở Việt Nam và đưa ra nhận định triển vọng năm 2010.
Tháng 4/2010 đã diễn ra Diễn đàn mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A)
Việt Nam 2010 với chủ đề “Cùng hướng tới những thương vụ thành công”.
Tại diễn đàn, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số nhận định như: Theo ông
Andy Hồ, Giám đốc đầu tư Quỹ Vina Capital, hiện có khoảng 50% thương
vụ sáp nhập là không thành công do không tìm được tiếng nói chung trong
định giá doanh nghiệp, trong việc nắm quyền điều hành, sắp xếp lại nhân
sự… Hay bà Yvonne Cox, Giám đốc điều hành Đông Nam Á của Towers
Watson, yếu tố nhân sự và các vấn đề văn hoá, như sự bất đồng về văn hoá,
được xem là những tác nhân thường thấy nhất trong những vụ mua bán và
sáp nhập. Nếu không có chiến lược và kế hoạch cụ thể trước và sau khi mua
bán, sáp nhập, và việc đánh giá các rủi ro thì việc sáp nhập rất dễ thất bại.
Theo ông Nguyễn Công Ái, Phó tổng giám đốc Công ty TNHH KPMG Việt
Nam thì M&A được xem là hoạt động tích cực để doanh nghiệp phát triển
kinh doanh, nhưng hiện nay hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đang quyết
định các vụ M&A một cách cảm tính.
12
Một số tài liệu chính thức có giá trị tương đối cả về mặt tổng hợp
thực tiễn và lý thuyết nghiên cứu về M&A bằng tiếng Việt có thể liệt kê
dưới đây như:
Lê Viết Thái (2005), “Chuyên đề về hành vi tập trung kinh tế”, đề tài
nghiên cứu cấp Bộ về thể chế cạnh tranh trong điều kiện phát triển thị
trường tại Việt Nam, Viện nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại (nay là
Bộ Công thương), là nghiên cứu khá sớm tại Việt Nam về M&A trên góc độ
tập trung kinh tế và chống độc quyền.
Bài nghiên cứu của Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức (2007) “Thâu
tóm và hợp nhất: nhìn từ khía cạnh quản trị công ty” trên Tạp chí Quản lý
Kinh tế, chủ yếu giới thiệu một số khái niệm cơ bản liên quan đến hoạt
động M&A dưới góc độ lý thuyết về quản trị công ty. Nghiên cứu được
thực hiện trong bối cảnh khái niệm M&A còn tương đối mới mẻ và đang trở
thành một chủ đề nóng trong nước ở thời kỳ cơn sốt của thị trường tài chính
ngân hàng và đầu tư nước ngoài năm 2007. Nghiên cứu này phần nào đáp
ứng được nhu cầu của người đọc tìm hiểu những khái niệm ban đầu về
M&A, tuy nhiên phạm vi và độ sâu của nghiên cứu này còn hạn chế.
Báo cáo “Tập trung kinh tế ở Việt Nam: hiện trạng và dự báo” của
Cục quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương (2008) là một nghiên cứu khá đầy
đủ và nghiêm túc về thực trạng hoạt động M&A ở Việt Nam, khung khuôn
khổ pháp lý, những tác động có thể có của M&A đối với tập trung kinh tế.
Đáng chú ý, báo cáo có những kiến nghị tư vấn chính sách tương đối cụ thể
về xây dựng thể chế điều tiết hoạt động M&A ở nước ta. Qua nghiên cứu
này, Cục quản lý cạnh tranh đã thể hiện phần nào vai trò tiên phong trong
hệ thống các thể chế quản lý nhà nước trên lĩnh này. Tuy nhiên, báo cáo của
Cục Quản lý cạnh tranh chỉ bao quát những vấn đề liên quan đến chức năng
quản lý nhà nước của cơ quan này.
13
Tại Việt Nam, “Diễn đàn mua bán sáp nhập và kết nối đầu tư hàng
đầu Việt Nam” (http://www.mavietnamforum.com/) được Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đứng ra tổ chức hằng năm nhằm đánh giá các thương vụ trong năm,
doanh số, kết quả M&A.
Bên cạnh các nghiên cứu khá phong phú về M&A ngân hàng trên thế
giới, nghiên cứu về M&A ngân hàng ở Việt Nam và đi sâu cụ thể về các
yếu tố tác động vào sự thành công của việc mua lại và sáp nhập trong lĩnh
vực ngân hàng ở Việt Nam hầu như rất ít. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung
vào tình hình hiện trạng của hệ thống ngân hàng Việt Nam, và đưa ra đề
xuất M&A như là một biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả hoạt động
của các ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
Một số nghiên cứu tại Việt Nam có liên quan đến đề tài như:
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành “Hoạt động mua bán, sáp nhập
các ngân hàng thương mại Việt Nam – trực trạng và giải pháp” của TS
Nguyễn Thị Loan thông qua khảo sát các ngân hàng thương mại và chuyên gia
về hoạt động M&A ngân hàng tại Việt Nam trong thời gian tới đã nêu các điều
kiện, yếu tố thúc đẩy cũng như cản trở hoạt động M&A ngân hàng đó là: nhận
thức về vai trò của hoạt động M&A của các bên tham gia, chất lượng nguồn
nhân lực, thông tin chưa thực sự minh bạch, môi trường pháp lý…
Luận văn thạc sỹ kinh tế “Hoạt động mua bán sáp nhập tại các ngân
hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam hiện nay” (năm 2012) của tác giả
Nguyễn Thị Lan Hương đã bước đầu khái quát được một số nội dung cơ bản
của hoạt động M&A ngân hàng tác động đến nền kinh tế và các ngân hàng.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện “Mua bán và sáp nhập
doanh nghiệp – kinh nghiệm của các nước và bài học cho Việt Nam” (năm
2012) của ThS Đỗ Khắc Hưởng (Học viện Tài chính) đã đề cập đến thực
trạng M&A ngân hàng tại Việt Nam, đề cập đến một số động lực cũng như
14
thách thức đối với hoạt động này, đề xuất một số giải pháp đối với M&A
ngân hàng.
Trong loạt bài nghiên cứu “M&A - Từ khái niệm đến xu thế tất yếu”,
đăng trên tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ tháng 9/2010; “Cách thức và
quy trình thực hiện hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng” đăng trên
Tạp chí Khoa học và đào tạo ngân hàng tháng 10/2013; “Giải pháp tăng
cường hoạt động M&A ngân hàng tại Việt Nam” đăng trên Tạp chí Tài
chính số tháng 3/2015, “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp ngân hàng sau
M&A” đăng trên Tạp chí Lao động và Công đoàn tháng 5/2015, Thạc sỹ
Nguyễn Trung Dũng đã tổng hợp thông tin, phân tích tình hình hiện trạng
hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay liên hệ với hoạt động M&A ở một
số quốc gia và chỉ ra rằng M&A sẽ là một xu thế tất yếu trong hệ thống
ngân hàng của Việt Nam. Nói cách khác hoạt động M&A trong hệ thống
ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới sẽ diễn ra mạnh mẽ. Sự thành công
hay thất bại của các thương vụ này không chỉ ảnh hưởng đến chính các
ngân hàng đó mà còn ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế nói chung, do ngân
hàng là loại hình kinh doanh đặc thù, tác động lớn đến đời sống của người
dân, doanh nghiệp và sự ổn định kinh tế xã hội quốc gia. Do đó phân tích
tổng hợp kinh nghiệm thành công và thất bại trong hoạt động M&A ngân
hàng trên thế giới, dự báo và gợi ý chính sách đối với M&A ngân hàng tại
Việt Nam là cần thiết và hữu ích đối với cả ngân hàng và Chính phủ Việt
Nam trong việc quản lý và phát triển hệ thống TCTD trong thời gian tới.
Đầu những năm 90 của thế kỷ XX cũng là thời điểm bắt đầu làn sóng
M&A thứ năm trên thế giới. Hoạt động M&A nói chung và lĩnh vực ngân
hàng nói riêng tại Hàn Quốc phát triển mạnh vào những năm 90. Hơn nữa,
tại Hàn Quốc, tái cơ cấu lĩnh vực ngân hàng là một trong những biện pháp
chính để vượt qua khủng hoảng sau cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á
1997. Việc mở cửa thị trường tài chính tín dụng cho nước ngoài và cơ cấu
15
lại hệ thống ngân hàng Hàn Quốc làm cho M&A trong lĩnh vực ngân hàng
tác động không chỉ ở cấp vi mô mà cả vĩ mô ở nước này. Do vậy Hàn Quốc
là quốc gia có nhiều kinh nghiệm phong phú trong quản lý và phát triển
M&A ngân hàng theo cơ chế thị trường, với cách thức quản lý và điều tiết
của Nhà nước tương đối tương đồng với Việt Nam. Vì vậy nghiên cứu kinh
nghiệm M&A trong lĩnh vực ngân hàng của Hàn Quốc (bên cạnh các khu
vực và quốc gia khác trên thế giới) sẽ mang đến nhiều bài học đa dạng và
hữu ích cho Việt Nam. Những bài học được rút ra từ nghiên cứu này sẽ bổ
sung mảng kiến thức hiện đang khan hiếm tại Việt Nam, phục vụ cho công
tác tham khảo, nghiên cứu và giảng dạy.
Mặc dù đã có những cách thức tiếp cận khác nhau về M&A ngân
hàng, tuy nhiên các nghiên cứu chưa khái quát được đầy đủ “bức tranh”
chung về M&A trên thế giới, cũng như chưa đúc rút được đầy đủ những bài
học kinh nghiệm đối với M&A ngân hàng nói chung, đặc biệt là ở góc độ
vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động M&A ngân hàng, trong khi
đó đây là những nội dung quan trọng và hữu ích có giá trị tham khảo đối với
M&A ngân hàng Việt Nam còn tương đối non trẻ diễn ra trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN đặc thù của Việt Nam và vai trò của Nhà
nước trong quản lý hệ thống TCTD hết sức quan trọng nhằm điều hành
chính sách tiền tệ, đảm bảo sự ổn định lưu thông tiền tệ và an toàn cho cả hệ
thống ngân hàng, qua đó thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh
tế... Mặt khác, thực tiễn M&A ngân hàng Việt Nam có sự phát triển vượt
bậc từ 2011 đến nay so với các giai đoạn trước đó, các nghiên cứu có liên
quan được đề cập ở trên chưa cập nhật kịp thời hoạt động này để từ đó có
thể đề xuất những giải pháp phù hợp và sát với thực tiễn của M&A ngân
hàng Việt Nam… Đây là những “khoảng trống” cần tiếp tục được nghiên
cứu một cách có hệ thống ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau.
16
Xuất phát từ thực tiễn tình hình nghiên cứu và tính cấp thiết của vấn
đề, với kiến thức chuyên ngành ngân hàng được đào tạo và kinh nghiệm
làm việc trong lĩnh vực ngân hàng trên 20 năm, NCS mạnh dạn tiếp cận và
tiến hành nghiên cứu đề tài về hoạt động mua lại và sáp nhập trong lĩnh vực
ngân hàng ở một số nước trên thế giới giai đoạn 1990-2014 và rút ra những
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam với mong muốn góp phần cung cấp một
lượng thông tin phong phú có giá trị làm tài liệu tham khảo đối với các cơ
sở đào tạo, đối với các ngân hàng và cơ quan quản lý tại Việt Nam muốn
quan tâm tìm hiểu về M&A ngân hàng.
17
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ M&A NGÂN HÀNG
Chương này sẽ trình bày tổng quan lý luận các vấn đề cơ bản về
M&A ngân hàng thông qua nghiên cứu, làm rõ khái niệm, sự khác biệt,
động cơ và những nhân tố tác động đến thành công và thất bại của M&A
trong lĩnh vực ngân hàng; đồng thời đề cập đến vấn đề quản lý nhà nước đối
với M&A ngân hàng và quy trình cơ bản để tiến hành M&A ngân hàng hiệu
quả. Kết quả nghiên cứu ở chương này sẽ là nền tảng lý luận để nghiên cứu
thực tiễn M&A ngân hàng trên thế giới và Việt Nam.
2.1. Sáp nhập và mua lại (M&A)
Thuật ngữ "Merger and Acquisition" (viết tắt là M&A) có rất nhiều
tên gọi khi dịch ra tiếng Việt như “sáp nhập và mua lại”, “mua lại và sáp
nhập” , “mua bán và sáp nhập” hay “thâu tóm và hợp nhất”. Trong đề tài
này, thuật ngữ “sáp nhập và mua lại” (M&A) sẽ được sử dụng thống nhất.
Về lý thuyết, sáp nhập và mua lại ngân hàng (M&A) được xem xét dưới hai
góc độ chủ yếu là góc độ kinh tế như một vấn đề của quản trị chiến lược
ngân hàng và tài chính ngân hàng, và góc độ pháp lý như khung pháp lý để
thực hiện giao dịch M&A.
Hoạt động M&A có nhiều hình thức và thường được phân loại theo
mức độ liên kết (M&A theo chiều dọc, M&A theo chiều ngang và M&A
hình thành tập đoàn), phân theo phạm vi lãnh thổ (M&A trong nước và
M&A xuyên biên giới), phân theo cơ cấu tài chính (M&A mua, M&A hợp
nhất) và phân loại theo phương thức ra quyết định quản lý (M&A đồng
thuận và M&A không đồng thuận)....
Các thuật ngữ “sáp nhập” và “mua lại” thường không có sự phân biệt
rõ ràng về nội hàm và thường được sử dụng thay thế lẫn nhau. Tuy nhiên
18
trên thực tế chúng có những điểm khác biệt. Phân biệt hai thuật ngữ này về
nghĩa pháp lý là một điều quan trọng khi nghiên cứu về M&A.
2.1.1. Sáp nhập (Merger)
Theo Từ điển các khái niệm, thuật ngữ tài chính Investopedia, sáp
nhập (Mergers) xảy ra khi các ngân hàng (thường là các ngân hàng có cùng
quy mô) đồng ý tiến tới thành lập một ngân hàng mới mà không duy trì sở
hữu và hoạt động của các ngân hàng thành phần. Chứng khoán của các ngân
hàng thành phần sẽ bị xoá bỏ và ngân hàng mới sẽ phát hành chứng khoán
thay thế. Theo định nghĩa kỹ thuật do David L.Scott đưa ra trong cuốn
“Wall Street Words: An A to Z Guide to Investment Terms for Today’s
Investor” (Từ Phố Wall: Hướng dẫn từ A đến Z về các điều khoản đầu tư
cho các nhà đầu tư hiện nay) thì sáp nhập là sự kết hợp của hai hay nhiều
ngân hàng, trong đó có tài sản và trách nhiệm pháp lý của các ngân hàng
này được một ngân hàng khác tiếp nhận.
Tóm lại, sáp nhập là sự kết hợp của hai hay nhiều ngân hàng để trở
thành một ngân hàng lớn hơn, hoặc dưới sự kiểm soát của một ngân hàng.
Những hoạt động này thường dựa trên cơ sở tự nguyện và bao gồm việc
chuyển đổi hoặc thanh toán bằng tiền mặt cho các ngân hàng mục tiêu; hoặc
khi các cổ đông của một hoặc nhiều ngân hàng sáp nhập trao đổi cổ phiếu
tự nguyện; hoặc dùng một hoạt động pháp lý để trở thành cổ đông của ngân
hàng nhận sáp nhập; hoặc bởi tất cả các cổ đông của ngân hàng mua lại cổ
phần của mình trao đổi trên cơ sở tự nguyện hoặc một hoạt động hợp pháp
để đổi lấy cổ phần của ngân hàng mới thành lập [38]. Sáp nhập có thể là
một sự tiếp quản, nhưng kết quả là việc hình thành một ngân hàng với một
tên mới hoặc tên thương mại mới. Ví dụ: Năm 1996, thương vụ trị giá 25 tỷ
đô la Mỹ giữa Union Bank sáp nhập với Bank of California để trở thành
Union Bank of California.
19
2.1.2. Mua lại (Acquisition)
Mua lại hay thâu tóm (Acquisitions), theo từ điển Investopedia, là
hoạt động thông qua đó các ngân hàng tìm kiếm lợi nhuận kinh tế nhờ quy
mô, hiệu quả và khả năng chiếm lĩnh thị trường. Các ngân hàng thâu tóm sẽ
mua ngân hàng mục tiêu, không có sự thay đổi về chứng khoán hoặc sự hợp
nhất thành ngân hàng mới. Theo David L.Scott, mua lại có thể là việc mua
một bộ phận hay thậm chí toàn bộ ngân hàng.
Mua lại là một sự tiếp quản khi một ngân hàng mua một ngân hàng
khác. Hoạt động này có thể diễn ra một cách thân thiện hay thù địch. Trong
trường hợp hoạt động mua lại diễn ra thân thiện, hai ngân hàng hợp tác về
đàm phán, nhưng trong trường hợp mua lại diễn ra thù địch, ngân hàng mục
tiêu hoặc không sẵn sàng để bán, hoặc quản lý của ngân hàng mục tiêu
không nhận thức được ý định của người mua. Mua lại thường xảy ra với
việc một ngân hàng lớn hơn mua một ngân hàng nhỏ hơn. Tuy nhiên, đôi
khi một ngân hàng nhỏ hơn có thể có được quyền kiểm soát công tác quản
lý của các ngân hàng lớn hơn. Một ví dụ điển hình của hoạt động mua lại đó
là tháng 01/2009, tập đoàn Bank of America mua lại Ngân hàng Meril
Lynch.
2.1.3. Phân biệt giữa mua lại và sáp nhập
Trong quản trị ngân hàng có hai điểm mấu chốt nhất đó là quyền sở
hữu và quyền quản lý, trong đó quyền sở hữu vẫn mang ý nghĩa quan trọng
hơn cả. Mặc dù xu hướng quản trị hiện đại tách biệt quyền sở hữu và quản
lý, nhưng thực chất quyền sở hữu có ý nghĩa quyết định trong việc bầu Hội
đồng quản trị và qua đó lựa chọn người quản lý, đồng thời quyết định chiến
lược phát triển, phương án phân chia lợi nhuận và xử lý tài sản của ngân
hàng. Các khái niệm M&A, sáp nhập/hợp nhất hay mua lại/thâu tóm đều
xoay quanh mối tương quan này.
20
Xét về quản trị ngân hàng, sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền
điều hành ở các ngân hàng đã cho phép cổ đông có thể thực hiện chuyển
nhượng quyền sở hữu của mình đối với ngân hàng mà không hề làm ảnh
hưởng đến tình hình kinh doanh của ngân hàng đó. Cổ phần hóa đã giúp
quyền sở hữu ngân hàng trở thành một loại hàng hóa đặc biệt. Đây chính là
đối tượng để các hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng trở nên phổ
biến.
Để phân biệt giữa sáp nhập và mua lại, có cách hiểu như sau: nếu như
một ngân hàng chiếm lĩnh được hoàn toàn một ngân hàng khác và đóng vai
trò người chủ sở hữu mới thì việc giành quyền kiểm soát ngân hàng đối tác
được gọi là mua lại. Trên góc độ pháp lý, ngân hàng bị mua lại sẽ ngừng
hoạt động, ngân hàng tiến hành mua lại tiếp quản hoạt động kinh doanh của
ngân hàng kia, tuy nhiên cổ phiếu của ngân hàng đi mua lại vẫn được tiếp
tục giao dịch bình thường. Nói cách khác, mua lại hay thâu tóm là khái
niệm được sử dụng để chỉ một ngân hàng tìm cách nắm giữ quyền kiểm soát
đối với một ngân hàng khác thông qua thâu tóm toàn bộ hoặc một tỷ lệ số
lượng cổ phần hoặc tài sản của ngân hàng mục tiêu đủ để có thể khống chế
toàn bộ các quyết định của ngân hàng đó.
Mua lại cũng là hoạt động xảy ra khi một ngân hàng mua lại một
phần hay toàn bộ cổ phần hoặc toàn bộ tài sản của một ngân hàng khác, coi
đó như một chi nhánh của mình, ngân hàng đi mua lại và ngân hàng mục
tiêu vẫn có thể tồn tại và độc lập về mặt pháp lý. Thương hiệu của ngân
hàng bị mua lại có thể được giữ nguyên hay bị thay đổi tùy theo quyết định
của ngân hàng tiến hành mua lại. Mục tiêu của ngân hàng đi mua lại ngân
hàng khác là nhằm đạt được lợi thế quy mô, tăng hiệu quả hoạt động kinh
doanh và tăng thị phần.
Trong khi đó sáp nhập với hợp nhất là hoạt động xảy ra khi các ngân
hàng, thường là các ngân hàng trong cùng một ngành (ngân hàng đầu tư,
21
ngân hàng bán lẻ, ngân hàng chuyên doanh…) đồng ý hợp lại thành một
ngân hàng mới có quy mô lớn hơn và có sức cạnh tranh cao hơn. Kết quả
của việc sáp nhập là cho ra đời một ngân hàng mới, khác biệt với các ngân
hàng trước khi hợp nhất. Ngân hàng mới này có thể sử dụng một tên hoàn
toàn khác so với các ngân hàng hợp nhất hoặc tên của ngân hàng mới là sự
kết hợp tên của các ngân hàng hợp nhất.
Vì vậy, sáp nhập là sự hợp nhất toàn bộ cổ phiếu của các ngân hàng
tham gia, nhưng mua lại chỉ cần nắm giữ số cổ phần đủ để chi phối các hoạt
động của ngân hàng. Theo ông Lưu Minh Đức [2], sự khác biệt giữa việc
sáp nhập và mua lại có thể được giải thích bởi quyền kiểm soát ngân hàng.
Trong trường hợp mua lại, chủ sở hữu ngân hàng có quyền thay đổi Ban
điều hành và chuyển hướng kinh doanh của ngân hàng mục tiêu. Trong
trường hợp sáp nhập, nó đòi hỏi sự hợp tác. Chủ sở hữu của cả hai ngân
hàng có quyền ngang nhau trong việc quyết định cơ cấu của Ban điều hành
và hoạt động của ngân hàng mới thành lập.
Theo nghĩa rộng và được chấp nhận phổ biến ở các nước có nền kinh
tế phát triển, một thương vụ được coi là sáp nhập (merger) hay mua lại
(acquisition) phụ thuộc vào việc thương vụ đó có được diễn ra một cách
thân thiện (friendly takeover) giữa hai bên hay diễn ra một cách thù địch
(hostile takeover) - là khi một ngân hàng thực hiện sáp nhập, mua lại mà
ngân hàng mục tiêu không chấp nhận.
Về mặt bản chất khái niệm và hệ quả pháp lý, sáp nhập và mua lại là
khác biệt. Tuy nhiên, nếu xét về tác động thực tế đối với quản trị ngân hàng
thì ranh giới phân biệt giữa chúng nhiều khi lại rất mong manh. Chẳng hạn,
trong trường hợp việc thâu tóm 100% ngân hàng mục tiêu được thực hiện
thông qua phương thức hoán đổi cổ phiếu (stock swap) thì vụ mua lại đó
không có gì khác so với một vụ sáp nhập. Ngân hàng chủ động mua lại
không sử dụng thặng dư vốn của mình để mua 100% cổ phần của ngân hàng
22
mục tiêu, mà sẽ cho phép cổ phiếu của ngân hàng mục tiêu được hoán đổi
(theo tỷ lệ hợp lý dựa trên giá thị trường) thành cổ phiếu của mình. Kết quả,
cổ đông của ngân hàng mục tiêu cũng sẽ trở thành một bộ phận cổ đông của
ngân hàng sáp nhập. Phương thức này cũng được sử dụng trong các vụ sáp
nhập. Cổ đông của hai ngân hàng cũ đều trở thành cổ đông của ngân hàng
mới với số cổ phiếu đã được hòa nhập theo một tỷ lệ nhất định tương ứng
với trị giá cổ phiếu họ sở hữu trước đây. Trong thực tế cũng có trường hợp
một vụ mua lại mang danh nghĩa một vụ sáp nhập. Thông thường khi một
ngân hàng mua lại ngân hàng khác cho phép ngân hàng bị mua lại tuyên bố
rằng hai bên sáp nhập – dù trên góc độ kỹ thuật, đó là vụ mua lại. Thậm chí,
đa số thương vụ sáp nhập thường không có được sự đồng thuận của hai bên,
bên thực hiện thường sẽ dùng nhiều cách để thâu tóm và công chúng thường
không biết được những tranh giành khốc liệt đằng sau.
2.1.4. M&A trong luật của Việt Nam
Khái niệm M&A được đề cập đến trong một số văn bản quy phạm
pháp luật của Việt Nam như Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu
tư, Luật cạnh tranh, Luật các Tổ chức Tín dụng.
- Luật Đầu tư năm 2005 thừa nhận hai hình thức M&A là sáp nhập và
mua lại doanh nghiệp. Hoạt động sáp nhập và mua lại doanh nghiệp được
coi là một trong những hình thức đầu tư trực tiếp (Điều 21, chương 4, Luật
Đầu tư số 59/2005/QH11, ngày 29/11/2005). Việc mua lại doanh nghiệp có
thể được thực hiện dưới hình thức mua lại một phần hoặc toàn bộ doanh
nghiệp hoặc chi nhánh.
- Luật Doanh nghiệp năm 2005 xem xét sáp nhập, hợp nhất doanh
nghiệp như hình thức tổ chức lại doanh nghiệp xuất phát từ nhu cầu tự thân
của doanh nghiệp. Theo đó, điều 153 của Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy
định “sáp nhập doanh nghiệp là một hoặc một số doanh nghiệp cùng loại
(gọi là doanh nghiệp bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một doanh nghiệp
23
khác (gọi là doanh nghiệp nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang doanh nghiệp nhận sáp nhập,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp sáp nhập”. Điều 152 của
Luật Doanh nghiệp 2005 định nghĩa “hợp nhất” là “Hai hoặc một số doanh
nghiệp cùng loại (sau đây gọi là doanh nghiệp bị hợp nhất) có thể hợp nhất
thành một doanh nghiệp mới (sau đây gọi là doanh nghiệp hợp nhất) bằng
cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang
doanh nghiệp hợp nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của các doanh nghiệp bị
hợp nhất”. Như vậy hai trường hợp hợp nhất và sáp nhập theo Luật Doanh
nghiệp thực chất chỉ tương đương với thuật ngữ “merger”.
- Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định: “Sáp nhập doanh nghiệp là
việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ
và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm
dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập. Mua lại doanh nghiệp là việc
một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp
khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh
nghiệp bị mua lại”. Luật Cạnh tranh cũng đề cập đến hợp nhất doanh nghiệp
- là việc “hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa
vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng
thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất”. Theo quy định
của Luật Cạnh tranh, việc sáp nhập doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp
và mua lại doanh nghiệp là hành vi tập trung kinh tế. Do đó, việc sáp nhập,
hợp nhất, mua lại doanh nghiệp bị cấm trong trường hợp việc sáp nhập, hợp
nhất, mua lại doanh nghiệp tạo ra thị phần kết hợp của các doanh nghiệp
tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan.
Ví dụ: Trước khi hợp nhất thì Công ty A là một pháp nhân độc lập,
Công ty B là một pháp nhân độc lập. Khi Công ty A hợp nhất với Công ty B
để trở thành Công ty C thì sau khi hợp nhất, Công ty A với tư cách là một
24
pháp nhân độc lập không còn tồn tại, Công ty B với tư cách là một pháp
nhân độc lập cũng không tồn tại mà chỉ còn Công ty C mà thôi. Trường hợp
mua lại thì sau khi Công ty A bị Công ty B mua lại thì Công ty A có thể còn
tồn tại hoặc không tồn tại với tư cách là một pháp nhân độc lập tuỳ thuộc
vào chiến lược của Công ty mẹ. Hoàn toàn có trường hợp Công ty mẹ chỉ
đóng vai trò chủ sở hữu mà không can thiệp chút nào vào hoạt động của
Công ty con. Tuy nhiên trong phần lớn các trường hợp Công ty mẹ sẽ có tác
động nhất định đến các chiến lược lớn và quan trọng của Công ty con. Công
ty mua lại được gọi là Công ty mẹ. Khoản đầu tư của Công ty mẹ được gọi
là khoản "Đầu tư vào Công ty con" theo chuẩn mực kế toán hiện hành.
Công ty mẹ không nhất thiết phải sở hữu toàn bộ Công ty con mà chỉ cần
nắm quyền kiểm soát. Tuy không sở hữu toàn bộ nhưng trên báo cáo tài
chính của Công ty mẹ phải hợp nhất báo cáo của Công ty con. Theo quy
định tại Chuẩn mực Kế toán Việt Nam số 25, nếu một Công ty nắm giữ trên
50% cổ phần của một Công ty khác thì Công ty đó được gọi là Công ty mẹ
và phải hợp nhất báo cáo tài chính của Công ty con.
Mặc dù Luật Chứng khoán không quy định cụ thể và đưa ra khái
niệm M&A như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh nhưng
nó cũng đã có những quy định về hạn chế tập trung kinh tế trên thị trường
chứng khoán như các quy định về “cổ đông lớn”, các hành vi bị cấm như
giao dịch nội gián, thao túng thị trường của cá nhân, tổ chức để mua bán
chứng khoán có lợi cho mình hoặc cho người khác, hoặc thông đồng để
thực hiện việc mua, bán chứng khoán nhằm tạo thị trường giả, thao túng,
làm giá thị trường…
- Luật các Tổ chức tín dụng (số 47/2010/QH12, ngày 16/6/2010) có
đề cập tới các khái niệm, các trường hợp và thủ tục về chia tách, hợp nhất,
sáp nhập, thanh lý, giải thể, phá sản. Đây có thể coi là “xương sống” của
mọi hoạt động có liên quan tới hệ thống TCTD của Việt Nam. Luật này quy
25
định về việc thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại,
giải thể tổ chức tín dụng; việc thành lập, tổ chức, hoạt động của chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài,
tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng. Như vậy, có thể khẳng
định hoạt động M&A ngân hàng tại Việt Nam chịu chi phối và ràng buộc
chủ yếu bởi Luật các Tổ chức tín dụng hiện hành.
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam hiện hành, sáp nhập và mua lại
doanh nghiệp được xem xét dưới nhiều góc độ: như một trong các hành vi
tập trung kinh tế, như một trong những hình thức tổ chức lại doanh nghiệp
và như một trong những hình thức đầu tư trực tiếp.
2.1.5. Định nghĩa M&A trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng ở Việt
Nam
Theo Thông tư 04/2010/TT-NHNN, ngày 11 tháng 02 năm 2010
Quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng. Trong Thông tư
này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Sáp nhập tổ chức tín dụng: là hình thức một hoặc một số tổ chức
tín dụng (sau đây gọi là tổ chức tín dụng bị sáp nhập) sáp nhập vào một tổ
chức tín dụng khác (sau đây gọi là tổ chức tín dụng nhận sáp nhập) bằng
cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ
chức tín dụng nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của tổ chức tín
dụng bị sáp nhập.
2. Hợp nhất tổ chức tín dụng: là hình thức hai hoặc một số tổ chức tín
dụng (sau đây gọi là tổ chức tín dụng bị hợp nhất) hợp nhất thành một tổ
chức tín dụng mới (sau đây gọi là tổ chức tín dụng hợp nhất) bằng cách
chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức tín
dụng hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các tổ chức tín dụng bị
hợp nhất.
26
3. Mua lại tổ chức tín dụng: là hình thức một tổ chức tín dụng (sau
đây gọi là tổ chức tín dụng mua lại) mua toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và
lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng khác (tổ chức tín dụng bị mua lại).
Sau khi mua lại, tổ chức tín dụng bị mua lại trở thành công ty trực thuộc của
tổ chức tín dụng mua lại.
4. Tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập: gồm tổ chức tín dụng nhận
sáp nhập và tổ chức tín dụng bị sáp nhập.
5. Tổ chức tín dụng tham gia hợp nhất: gồm tổ chức tín dụng hợp
nhất và tổ chức tín dụng bị hợp nhất.
6. Tổ chức tín dụng tham gia mua lại: gồm tổ chức tín dụng mua lại
và tổ chức tín dụng bị mua lại.
7. Tổ chức tín dụng đại diện: là tổ chức tín dụng bị hợp nhất được các
tổ chức tín dụng bị hợp nhất còn lại ủy quyền làm đầu mối xử lý các vấn đề
liên quan đến việc hợp nhất các tổ chức tín dụng.
8. Cơ quan có thẩm quyền quyết định của tổ chức tín dụng: là cơ
quan có thẩm quyền quyết định việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín
dụng theo quy định tại Điều lệ của tổ chức tín dụng và pháp luật hiện hành.
9. Tổ chức tín dụng mẹ: là tổ chức tín dụng nước ngoài sở hữu trên
50% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam.
10. Chủ sở hữu: là các cổ đông (đối với tổ chức tín dụng cổ phần),
Nhà nước (đối với tổ chức tín dụng nhà nước), các bên tham gia góp vốn
liên doanh (đối với tổ chức tín dụng liên doanh), tổ chức tín dụng mẹ và các
thành viên góp vốn (đối với tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài), các
thành viên góp vốn (đối với tổ chức tín dụng hợp tác).
Ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp đặc thù, hoạt động
trong lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Khác với các doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực khác, ngân hàng là định chế tài
27
chính trung gian với chức năng thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi,
cấp tín dụng, cung cấp dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Ðối tượng kinh
doanh của ngân hàng không phải là hàng hóa, dịch vụ thông thường như các
ngân hàng khác mà là hàng hóa đặc biệt (tiền mặt, vàng, giấy tờ có giá và
các dịch vụ thanh toán...), dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả
các loại hàng hóa khác. Xuất phát từ đặc thù đó, hoạt động huy động vốn
tiền gửi tiết kiệm và cấp tín dụng của ngân hàng được kiểm soát và điều
chỉnh rất chặt chẽ bằng các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành
trong từng thời kỳ. Do đó, hoạt động M&A ngân hàng cần có văn bản quy
phạm pháp luật chuyên biệt hướng dẫn, điều chỉnh cho phù hợp với lĩnh vực
kinh doanh đặc thù này, đáp ứng yêu cầu tại Ðiều 153 Luật Các tổ chức tín
dụng 2010 và bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy hoạt động
M&A trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ở Việt Nam ngoài việc phải tuân
thủ các quy định trong Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh,
Luật các Tổ chức tín dụng, còn phải được sự chấp thuận của Ngân hàng
Nhà nước và tuân thủ theo quy định trong Thông tư số 04/2010/TT-NHNN
về việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại các tổ chức tín dụng. Thông tư này thay
thế cho Quyết định số 241/1998/QĐ-NHNN5 ngày 15/07/1998).
2.1.6. Các hình thức M&A ngân hàng tại Việt Nam
Tại Việt Nam, các hình thức sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín
dụng được quy định tại Thông tư 04/2010/TT-NHNN, ngày 11/02/2010
Quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng như sau:
- Các hình thức sáp nhập:
+ Ngân hàng, công ty tài chính, tổ chức tín dụng hợp tác sáp nhập
vào một ngân hàng.
+ Công ty tài chính sáp nhập vào một công ty tài chính.
+ Công ty cho thuê tài chính sáp nhập vào một công ty cho thuê tài chính.
- Các hình thức hợp nhất:
28
+ Ngân hàng được hợp nhất với ngân hàng, công ty tài chính, tổ chức
tín dụng hợp tác để thành một ngân hàng.
+ Các công ty tài chính hợp nhất thành một công ty tài chính.
+ Các công ty cho thuê tài chính hợp nhất thành một công ty cho thuê
tài chính.
- Các hình thức mua lại:
+ Một ngân hàng được mua lại công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính.
+ Một công ty tài chính được mua lại công ty cho thuê tài chính.
Hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại các tổ chức tín dụng chỉ gồm
ba hình thức: (i) Ngân hàng được M&A với các tổ chức tín dụng khác; (ii)
Một ngân hàng được M&A với một Ngân hàng, công ty tài chính, tổ chức
tín dụng hợp tác để thành một Ngân hàng; (iii) Một Ngân hàng được mua
lại một công ty tài chính, một công ty cho thuê tài chính. Các tổ chức tín
dụng sau khi tiến hành hợp nhất, sáp nhập, hoặc mua lại phải đảm bảo đáp
ứng điều kiện về vốn pháp định theo quy định của pháp luật.
Như vậy, việc hợp nhất, sáp nhập trong lĩnh vực tài chính ngân hàng
chỉ được diễn ra giữa các tổ chức tín dụng cùng hình thức pháp lý mà không
áp dụng đối với các tổ chức tín dụng có hình thức pháp lý khác nhau. Điều
đó có nghĩa là các tổ chức tín dụng nước ngoài không được phép mua lại,
sáp nhập tổ chức tín dụng yếu kém của Việt Nam. Pháp luật hiện hành của
nước ta chỉ cho phép tổ chức tín dụng nước ngoài được thành lập và hoạt
động ở Việt Nam dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên
hoặc 2 thành viên trở lên (ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoặc ngân hàng
liên doanh), trong khi các ngân hàng thương mại trong nước hầu như được
thành lập hoặc được chuyển đổi sang hoạt động dưới hình thức ngân hàng
cổ phần (ngoại trừ Agribank đang hoạt động dưới hình thức Công ty TNHH
1 thành viên). Ngoài ra, hoạt động mua lại một phần hoặc toàn bộ tài sản,
29
quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng khác cũng không
được đề cập tới.
Sau khi nghiên cứu các khái niệm trên thế giới và Việt Nam về
M&A, theo tác giả luận án, khái niệm M&A ngân hàng có thể hiểu thống
nhất như sau:
Mua lại và Sáp nhập (M&A) ngân hàng đó là hoạt động mà ở đó diễn
ra sự kết hợp hoặc mua lại của hai hoặc nhiều ngân hàng với nhau thông
qua việc chuyển một phần hoặc toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của các ngân hàng tham gia nhằm đạt được mục tiêu của mỗi
ngân hàng, đồng thời tạo ra những giá trị mới cho ngân hàng sau khi tiến
hành M&A. Trong đó, hoạt động sáp nhập là sự hợp nhất của hai hoặc
nhiều ngân hàng với nhau để tạo ra một ngân hàng mới và chấm dứt sự tồn
tại của các ngân hàng tham gia, còn hoạt động mua lại, đó thường là sự
thâu tóm của ngân hàng mạnh hơn đối với ngân hàng yếu hơn và các ngân
hàng đó vẫn tồn tại.
2.2. Động cơ thúc đẩy hoạt động M&A ngân hàng
Tại khối ngành ngân hàng Mỹ, tham vọng đứng đầu ngành ngân hàng
trong lãnh thổ Mỹ là động lực khiến Bank of America mua lại Merill Lynch
với giá 50 tỷ USD.Việc mua lại này đã cho ra đời tập đoàn tài chính hùng
mạnh nhất thế giới. Theo đó, Bank of America đã trở thành ngân hàng
thương mại lớn nhất tại Mỹ tính theo lượng tiền gửi và lượng vốn hóa thị
trường và là ngân hàng thành viên thuộc Tập đoàn bảo hiểm tiền gửi Mỹ
(FDIC). Qua đây, Bank of America thu tới 90% lợi nhuận từ thị trường nội
địa nước Mỹ. Bên cạnh đó, mục tiêu của ngân hàng là luôn đứng đầu tại
ngành ngân hàng nội địa Mỹ và ngân hàng này đã làm được điều đó thông
qua hàng loạt thương vụ thâu tóm trong đó có việc mua lại chi nhánh ngân
hàng ABN Amro tại Bắc Mỹ và Tập đoàn ngân hàng tài chính Lasalle với trị
giá 21 tỷ đô la Mỹ, mua lại đại gia thẻ tín dụng MBNA với giá 35 tỷ đô la.
30
Từ ví dụ nêu trên có thể thấy động cơ thúc đẩy hoạt động M&A trong
lĩnh vực ngân hàng đó là:
- Mở rộng thị trường: Đây là động cơ quan trọng hàng đầu cho các
thương vụ M&A ngân hàng. Một ngân hàng luôn muốn mở rộng quy mô
sang các vùng lãnh thổ chưa từng tham gia, mở rộng các loại hình sản phẩm
dịch vụ tiềm năng, mở rộng phân khúc khách hàng. Muốn thế, ngân hàng có
ý định này phải thành lập mới các chi nhánh hoặc tiến hành M&A với các
ngân hàng khác, và đây là một trong những cách thức được công nhận là
tốn ít thời gian, chi phí mà vẫn đạt hiệu quả.
- Hiệu ứng kinh tế nhờ quy mô: Là sự gia tăng doanh thu của ngân
hàng đối với bất kỳ dịch vụ hay danh mục dịch vụ nào mà không làm cho
chi phí của ngân hàng tăng lên do sử dụng tốt hơn các nguồn lực sẵn có của
mình.
- Hiệu ứng kinh tế nhờ phạm vi: Một ngân hàng có thể tiết kiệm chi
phí hoạt động khi ngân hàng có thể cung cấp nhiều loại hình dịch vụ bởi vì
một số nguồn lực như kỹ năng quản lý, cơ sở kỹ thuật sẽ được sử dụng có
hiệu quả hơn trong việc tạo ra một danh mục sản phẩm đa dạng so với chỉ
tạo ra một dịch vụ. Ngân hàng có thể tiết kiệm chi phí thông qua việc chia
sẻ hệ thống giao dịch và trụ sở, tiết kiệm được chi phí thông tin và quản lý…
- Hiệu quả hoạt động: Các nghiên cứu chỉ ra rằng, các ngân hàng tuy
có cùng quy mô, cung cấp những SPDV giống nhau thì chi phí cho mỗi
SPDV đầu ra của mỗi ngân hàng khác nhau là khác nhau. Lý giải vấn đề
này đó chính là sự khác nhau trong hiệu quả hoạt động, hiệu quả sử dụng
nguồn nhân lực, vốn, công nghệ, các yếu tố đầu vào khác…
2.3. Định nghĩa và cách đo lường M&A thành công
2.3.1. Định nghĩa M&A thành công
Có hai định nghĩa khác nhau về một M&A thành công như sau [16]:
31
Thứ nhất, theo cách tiếp cận tài chính cổ điển, một M&A thành công
khi giá trị sau sáp nhập của ngân hàng hợp nhất cao hơn so với tổng giá trị
ngân hàng mua lại trả cho ngân hàng mục tiêu và giá trị của các ngân hàng
mua lại trước khi sáp nhập. Như vậy theo cách tiếp cận này, một M&A
thành công khi giá trị của ngân hàng tạo thành vượt quá chi phí của tổng
đầu tư.
Cách tiếp cận thứ hai là theo thị trường tài chính. Thị trường tài chính
thường định nghĩa một M&A thành công khi giá trị của ngân hàng kết hợp
vượt quá tổng của các giá trị của các thực thể riêng biệt trước khi được sáp
nhập. Như vậy theo thị trường tài chính, tổng giá trị tổng hợp từ việc sáp
nhập bằng với chênh lệch giữa giá trị của ngân hàng kết hợp và tổng giá trị
ban đầu của từng ngân hàng riêng lẻ.
Sự khác biệt giữa hai định nghĩa M&A thành công này là đáng kể,
bởi vì giá mua lại thường xuyên vượt quá giá trị của ngân hàng mục tiêu
theo định giá của thị trường. Vì để mua lại cổ phần, ngân hàng mua lại
thường phải trả một khoản phí rủi ro/hay phần thưởng (premium) cho cổ
đông của ngân hàng mục tiêu. Giá mua lại trên mỗi cổ phiếu trong nhiều
trường hợp là cao hơn so với giá thực tế của cổ phiếu từ 40% đến 60% [42].
Chi phí cho các cổ đông của ngân hàng mục tiêu này có thể được xem như
một sự trả công đối với phần cổ phiếu họ đang nắm giữ (vì bên mua kỳ
vọng vào giá trị tương lai của cổ tức và sự tăng giá của cổ phiếu).
Các ngân hàng thu mua sẵn sàng trả phí này cho các cổ đông một khi
các nhà quản lý cho rằng sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn nhiều dựa trên sức
mạnh tổng hợp có được từ hợp nhất. Vì vậy, nếu chúng ta xác định lại giá phải
trả cho ngân hàng mục tiêu bằng giá trị của ngân hàng đó cộng với phí rủi ro
trên, thì một M&A thành công khi lợi nhuận ròng cho ngân hàng mua lại, là
giá trị hiện tại ròng của ngân hàng mới trừ đi phí rủi ro, lớn hơn không.
32
Cho dù định nghĩa M&A thành công nào thì biểu hiện thực tế của
một vụ sáp nhập thành công là tạo ra giá trị. Các lợi ích của việc sáp nhập là
nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí [34]. Việc sáp nhập sẽ giúp gia tăng
doanh thu do tăng số lượng khách hàng và dịch vụ cung cấp, cắt giảm chi
phí do tích hợp hệ thống thông tin và các chức năng hỗ trợ, và gia tăng sức
mạnh thị trường do kết hợp hai hoặc nhiều ngân hàng với nhau.
Lập luận cổ điển này dựa trên việc tăng doanh thu do việc nâng cao
hiệu quả quản lý. Điều này dựa trên giả định rằng việc quản lý của ngân
hàng mua lại là tốt hơn của ngân hàng bị mua lại [36]. Tiết kiệm chi phí chỉ
đạt được nếu tạo ra được một ngân hàng hiệu quả hơn thông qua việc loại
bỏ các phòng ban và nhân viên dư thừa hoặc thông qua cung cấp một hỗn
hợp các sản phẩm và dịch vụ thu nhiều lợi nhuận hơn. Ngoài ra, sức mạnh
thị trường tăng lên có thể làm tăng hiệu suất.
Những lý do cơ bản cho các quyết định M&A này liên quan nhiều
đến sức mạnh tổng hợp dự kiến được hình thành sau khi sáp nhập. Tuy
nhiên, khoản phí rủi ro/phần thưởng phải trả như trên thường không được
xem xét đầy đủ trong các quyết định M&A.
2.3.2. Cách đo lường thành công của một thương vụ M&A
2.3.2.1. Giá cổ phiếu tại thời điểm công bố M&A
Theo quan điểm của thị trường tài chính, lợi nhuận cổ phiếu bất
thường xung quanh thời điểm công bố sáp nhập phản ánh việc nắm giữ cổ
phiếu tạo ra bao nhiêu giá trị. Vì vậy có thể định nghĩa một thương vụ thành
công nếu có một lợi nhuận bất thường dương. Đây là tiền đề quan trọng làm
nền tảng cho phương pháp đánh giá sự thành công của một M&A theo quan
điểm của thị trường tài chính [15]. Phương pháp lợi nhuận bất thường đánh
giá một vụ sáp nhập thành công tại thời điểm công bố dựa nếu giá cổ phiếu
xung quanh thời điểm đó vượt quá những thay đổi dự kiến.
33
Ưu điểm của phương pháp này là nó kết hợp tất cả thông tin sẵn có
về triển vọng thành công của việc sáp nhập nên nó phản ánh kỳ vọng của thị
trường tài chính về việc sáp nhập đó sẽ thành công trong việc tạo ra giá trị
như thế nào. Điều kiện giả định ở đây là thị trường tài chính có hiệu quả và
sự thay đổi của giá chứng khoán phải phản ánh tất cả các thông tin đã có về
việc sáp nhập tại thời điểm công bố, bao gồm cả sức mạnh tổng hợp có thể
được tạo ra từ việc sáp nhập. Ngoài ra, phương pháp này có sẵn thông tin
ngay sau khi công bố M&A.
Hạn chế của cách tiếp cận này là nhiều trường hợp giá cổ phiếu
không phản ánh hoàn toàn và hiệu quả các thông tin liên quan đến việc sáp
nhập tại thời điểm công bố, đặc biệt là trong một giao dịch sáp nhập phức
tạp. Ngoài ra, một yếu tố khác làm cho phương pháp này thiếu hiệu quả là
sự lạc quan quá mức về quản lý do dựa trên hiệu suất trong quá khứ của các
bên tham gia trong các vụ sáp nhập, mà các ngân hàng trước đó có doanh số
cao, tăng trưởng tài sản, và lợi nhuận. Ví dụ, Rhoades (1998) [48] nhận thấy
rằng những ngân hàng mua lại các ngân hàng hấp dẫn có xu hướng hoạt
động kém hiệu quả trong giai đoạn sau khi bị mua.
2.3.2.2. Giá cổ phiếu sau khi hoàn thành M&A
Để giảm bớt một phần sự phụ thuộc vào hiệu quả thị trường chứng
khoán tại thời điểm sáp nhập, một phương pháp khác được đưa ra, đó là
đánh giá trên sự thay đổi giá cổ phiếu của các ngân hàng sáp nhập trong dài
hạn [23]. Mục đích chính của phương pháp này là kiểm tra hiệu quả xử lý
thông tin của thị trường tài chính. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có thể
được sử dụng để xác định sự thành công hay thất bại của một vụ sáp nhập.
Định nghĩa một vụ sáp nhập thất bại nếu giá cổ phiếu của ngân hàng bị sáp
nhập có lợi nhuận bất thường âm trong một khoảng thời gian tương đối hợp
lý sau khi hoàn thành xong các thủ tục sáp nhập (thường là từ ba tới năm
34
năm). Định nghĩa một vụ sáp nhập thành công sẽ là ngược lại: cổ phiếu có
lợi nhuận bất thường dương trong khoảng thời gian ba tới năm năm.
Ưu điểm trực tiếp của phương pháp này là nó xem xét cả các yếu tố
bất ngờ của thông tin sáp nhập khi sử dụng dữ liệu giá cổ phiếu sau khi
hoàn thành một thỏa thuận. Do phương pháp này chỉ đánh giá sự thành công
của một thương vụ M&A sau ba hoặc vài năm sau khi hoàn thành hợp
đồng, nên nó không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định quản lý thực hiện
tại thời điểm thông báo sáp nhập hay quá trình đàm phán. Tuy nhiên,
phương pháp này liên quan đến hiệu quả sau sáp nhập trong dài hạn nên đặc
điểm của các ngân hàng trước khi sáp nhập và và nội dung thỏa thuận vẫn
cung cấp những đầu mối hữu ích cho các nhà quản lý và các nhà đầu tư của
các ngân hàng nhận sáp nhập. Nghiên cứu của Rau và Vermaelen
(1998)[47] cho thấy hiệu suất sau sáp nhập có quan hệ ngược chiều với hiệu
suất trước khi sáp nhập. Loughran và Vijh (1997) [40] thấy rằng những vụ
sáp nhập theo phương thức đàm phán và tăng giá cổ phiếu kém hiệu quả
trong dài hạn.
2.3.2.3. Hiệu qủa kinh doanh sau khi hoàn thành sáp nhập
Theo cách tiếp cận này, thành công của một vụ sáp nhập được xác
định bởi hiệu suất hoạt động có được cải thiện so với trước khi sáp nhập
không. Với cách tiếp cận này, Healy, Palepu, và Ruback (1992) [31] dùng
chỉ số lợi nhuận trước thuế trên tài sản để đánh giá hiệu suất hoạt động của
các vụ sáp nhập. Tuy nhiên, theo quan điểm của các cổ đông, cải thiện hiệu
suất hoạt động sau khi hoàn thành một thỏa thuận sáp nhập chỉ là một phần
của lợi ích sáp nhập. Phần kia chính là sự tăng giá của cổ phiếu. Lợi nhuận
được cải thiện chỉ đại diện cho một cách đo lường chưa đầy đủ và gián tiếp
của việc tạo ra giá trị cho các cổ đông trong một vụ sáp nhập, bởi vì cải
thiện lợi nhuận chỉ được đo trong một năm, không giống như giá cổ phiếu là
hướng tới tương lai và tính cả những lưu chuyển tiền tệ trong tương lai.
35
2.4. Những nhân tố tác động đến M&A ngân hàng
Những yếu tố nào tác động đến hiệu suất của của các thương vụ
M&A trong lĩnh vực ngân hàng luôn là câu hỏi nghiên cứu cơ bản trong
chiến lược của các ngân hàng và nghiên cứu trong lĩnh vực tài chính về
M&A. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong lịch sử có 5 làn sóng M&A
trên thế giới từ những năm 1890, trong đó làn sóng M&A ngân hàng trên
thế giới bắt đầu ở Mỹ vào những năm 1980. Sự tồn tại của các làn sóng
M&A có nghĩa là từng thương vụ sáp nhập chịu ảnh hưởng của các yếu tố ở
cấp ngành và nền kinh tế. Mặt khác, sự tương quan lẫn nhau giữa các vụ sáp
nhập và mua lại (do đó mới hình thành nên làn sóng) ngụ ý rằng một chuỗi
các vụ sáp nhập là một phần của một trò chơi cạnh tranh. Do đó, quan hệ
nhân quả của hoạt động sáp nhập vượt ra ngoài cấp độ cá nhân ngân hàng.
Những yếu tố vượt trên mức độ cá nhân ngân hàng này có tác động đến
quyết định khiến kết quả của chuỗi các vụ sáp nhập có thể là tạo ra giá trị,
chiếm đoạt hoặc phá hủy. Vì vậy có thể chia các nhân tố tác động đến hoạt
động M&A trong lĩnh vực ngân hàng thành các cấp độ ngân hàng và cấp độ
nền kinh tế.
2.4.1. Các nhân tố ở cấp độ ngân hàng
Dựa trên các nghiên cứu về hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng ở
Mỹ và châu Âu, nhìn chung có 8 nhân tố làm cho một thương vụ M&A thất
bại, đó là: Trả giá quá cao; Đặc điểm sở hữu và quản lý; Đặc điểm ngạo mạn
của giám đốc điều hành (CEO); Hợp tác giữa các tầng lớp quản lý đứng đầu;
Kinh nghiệm; Nhân viên khủng hoảng; Xung đột văn hóa; và Tiến trình hợp
nhất.
2.4.1.1. Trả giá quá cao
Hầu hết các nhà nghiên cứu giả định rằng “mua lại” xảy ra trong một
thị trường cạnh tranh cao thì giá cũng được đẩy lên. Tuy nhiên, thực tế lại
36
cho thấy giá trị mang lại của một thương vụ M&A nhận được lại nằm trong
tương lai. Do vậy, rủi ro là khó tránh khỏi.
Khi tính giá trị hiện tại ròng của các hợp nhất trong tương lai, thường
sử dụng tỷ lệ chiết khấu tương đối cao, giả định về doanh thu lợi nhuận
cũng thường là sai. Các phân tích này thường diễn ra bí mật với hạn chế
đáng kể về thời gian, thường không có đủ số liệu, và có ảnh hưởng rất lớn
từ chủ sở hữu ngân hàng. Một khía cạnh khác là do sự phức tạp và tốc độ
cần thiết để tiến hành một thương vụ M&A, do vậy rất khó khăn cho việc
quyết định một thương vụ vừa có tầm nhìn rộng mà lại chi tiết về các cơ hội
mua lại [51]. Tóm lại, khả năng đánh giá sai chất lượng của một thương vụ M&A
là khá cao bằng chứng cho thấy trên 65% các thương vụ M&A đều thất bại.
Ngoài ra, các cú hích như sự thúc giục của lãnh đạo, sự tác động từ
các đối thủ khác cũng tham gia vào thương vụ, và ảnh hưởng của các cố
vấn, tư vấn bên ngoài làm cho việc trả giá đôi khi bị cao hoặc bị “hớ” để
hoàn tất giao dịch. Các cú hích này lại thường khó kiểm soát và không thể
dự đoán trước [45].
2.4.1.2. Đặc điểm sở hữu và quản lý ngân hàng
Vai trò của các bên trong quá trình mua lại, đặc biệt là những người
tham gia trong việc đàm phán giá của giao dịch cũng là một nhân tố ảnh
hưởng đến sự thành công của một thương vụ M&A [49]. Tập trung vào vấn
đề quan hệ giữa lợi ích của các giám đốc điều hành và cổ đông trong một vụ
sáp nhập và mua lại, một số nghiên cứu đã thấy rằng khoản thù lao (lương,
thưởng) cho giám đốc điều hành tăng lên theo quy mô của ngân hàng, bất
kể hiệu suất của ngân hàng đó. Vì vậy, dường như các CEO có động cơ
khuyến khích M&A để tăng quy mô chứ chưa hẳn vì lợi ích mang lại cho
ngân hàng.
37
2.4.1.3. Đặc điểm ngạo mạn của Giám đốc điều hành (CEO)
Một số nghiên cứu cũng phát hiện ra ảnh hưởng của tính cách ngạo
mạn của Giám đốc điều hành (CEO) đến sự thất bại của các thương vụ
M&A [43]. Sự ngạo mạn hay quá tự tin, quyết định dựa trên cảm tính có thể
dẫn đến các quyết định thiếu vững chắc. Nếu CEO tin rằng họ có thể tạo ra
lợi nhuận cao hơn lợi nhuận thông thường từ một vụ mua lại, thì các CEO
này có khả năng sẽ trả giá cho thương vụ M&A quá cao, nhất là khi Giám đốc
điều hành cũng là chủ tịch Hội đồng quản trị thì tình huống này càng dễ xảy ra.
2.4.1.4. Hợp tác giữa các tầng lớp quản lý đứng đầu
Một số nghiên cứu về ảnh hưởng của khả năng làm việc cùng nhau
của hai nhóm quản lý hàng đầu của hai ngân hàng sau khi kết hợp đã cho
thấy nếu hai nhóm quản lý thỏa thuận trước và thực sự nhất trí về mục tiêu
chiến lược của việc mua lại, và thực hiện nó sau khi mua thì hiệu suất của
ngân hàng mới sẽ được cải thiện thông qua hợp tác lành mạnh [20]. Nhưng
ngược lại, nếu thỏa thuận trước và sau sáp nhập không khớp với nhau, thì
xung đột có thể xảy ra và có thể cản trở việc đạt được các mục tiêu. Nghiên
cứu của Datta (1991) [22] cũng cho thấy sự khác biệt về phong cách của
tầng lớp quản lý hàng đầu có một ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sáp
nhập.
2.4.1.5. Kinh nghiệm về M&A
Hiển nhiên rằng nếu càng có nhiều kinh nghiệm về M&A, sẽ càng
chịu ít rủi ro về giá trị tiềm năng. Haleblian và Finkelstein (1999) [29] lập
luận rằng đường cong kinh nghiệm liên quan đến sáp nhập và mua lại là
hình chữ U. Trong thương vụ mua lại đầu tiên, các nhà quản lý không có
kinh nghiệm trước đó và do đó sẽ mắc nhiều sai lầm. Tuy nhiên khi kinh
nghiệm được tích lũy, các nhà quản lý có thể tránh được những sai lầm đã
mắc phải trước đó và xử lý tình huống phù hợp với tình hình hiện tại tốt
38
hơn. Một lần kinh nghiệm thất bại đã được đúc rút, các nhà quản lý phát
triển khả năng xử lý thích hợp, dẫn đến sự phân bố hình chữ U. Có nhiều
bằng chứng thấy rằng các ngân hàng mua lại các ngân hàng tương tự như
ngân hàng mình, hay các ngân hàng đã từng có hoạt động M&A trong quá
khứ có hiệu suất hoạt động tốt hơn.
2.4.1.6. Nhân viên khủng hoảng
Bên cạnh những giả thuyết về sự thất bại của các thương vụ M&A
xung quanh các lý do tài chính và kinh tế, kinh nghiệm…, có nhiều nhà
nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết về nguyên nhân bắt nguồn từ nguồn nhân
lực, sự khác biệt về văn hóa giữa các ngân hàng tham gia sáp nhập, quản lý
quá trình kết hợp tổng thể, và những nỗ lực cụ thể nhằm hội nhập sau M&A.
Hầu hết các vấn đề ảnh hưởng xấu đến hiệu suất của một ngân hàng hợp nhất
được cho là từ nội bộ của các nhà thu mua và động lực trong thực thể
mới[17]. Vì sáp nhập và mua lại mang đến những thay đổi lớn trong cuộc
sống của các thành viên trong tổ chức, và bởi vì cũng chính những thành viên
có thể gây tổn hại hoặc nâng cao kết quả của việc sáp nhập, cho nên bắt buộc
phải chú ý đến khía cạnh con người trong các vụ sáp nhập. Phản ứng cơ bản
của con người như giảm cam kết, giảm năng suất, các cuộc đấu tranh quyền
lực trong tổ chức, vận động chính trị trong văn phòng, và mất các thành viên
chủ chốt trong tổ chức, là những tổn thất của các thương vụ M&A.
Haspeslagh và Jemison (1991) [30] cũng tập trung vào khía cạnh
nhân viên trong quá trình hội nhập của một thương vụ M&A. Họ cho rằng
một bầu không khí kích thích mọi người sự sẵn sàng làm việc cùng nhau là
rất quan trọng. Các rào cản đối với việc hợp tác trong một thương vụ M&A,
như những lo ngại về mất việc làm, mất năng lượng và tài nguyên, quá trình
thay đổi, thay đổi hệ thống khen thưởng, và những sợ hãi của việc không
biết rõ…, nên được quản lý và kiểm soát.
39
2.4.1.7. Xung đột văn hóa
Một trường phái cho rằng vai trò của văn hóa ngân hàng, và quá trình
tiếp thu văn hóa lẫn nhau sau khi sáp nhập hoặc mua lại, đóng vai trò quyết
định tới sự thành công tài chính của việc sáp nhập. Những vấn đề về con
người sẽ trầm trọng hơn khi văn hóa quốc gia, doanh nghiệp hay kinh doanh
của hai tổ chức này không tương thích. Có hai nguồn văn hóa trong một tổ
chức. Đầu tiên là cách tổ chức hoàn thành các mục tiêu của nó, các giá trị
và niềm tin làm nền tảng cho những thói quen này. Ngoài ra, một tổ chức có
thể có nhiều nền văn hóa trong nó. Những thách thức gặp phải khi sáp nhập
hai văn hóa khác nhau là một trong hai hoặc cả hai cần phải thay đổi. Vì
vậy vấn đề này không chỉ là nhận thức văn hóa, mà còn là quản lý thay đổi
văn hóa trong thời kỳ hòa nhập. Quá trình tiếp thu và điều chỉnh văn hóa
gồm ba giai đoạn: tiếp xúc, xung đột và thích ứng [18]. Rõ ràng, một ngân
hàng càng nhanh chóng thích ứng sẽ càng giảm những nguy cơ xung đột bất
lợi. Cũng có giả định rằng khi càng có nhiều sự tương đồng về văn hóa của
ngân hàng mục tiêu và ngân hàng thu mua, sẽ càng ít gặp phải các vấn đề về
hội nhập và tiếp thu văn hóa.
Quá trình tiếp thu văn hóa là phương pháp ưa thích cho cả ngân hàng
mua và được mua. Từ quan điểm của các ngân hàng bị mua, quá trình họ
mong muốn được quyết định bởi mức độ mà họ đánh giá giá trị văn hóa
riêng của mình và tìm cách bảo vệ nó, và nhận thức của họ về độ hấp dẫn
của văn hóa bên mua. Ví dụ như nếu ngân hàng bị mua đánh giá cao văn
hóa của mình và không thấy văn hóa của ngân hàng mua lại hấp dẫn, thì quá
trình tiếp thu văn hóa của họ có khả năng là tách rời, trong đó họ sẽ tìm
cách tránh né văn hóa của ngân hàng thâu tóm.Từ quan điểm của ngân hàng
mua lại, hai yếu tố quyết định quá trình tiếp nhận văn hóa đó là: (1) mức độ
khoan dung, chấp nhận một nền đa văn hóa hay là tìm kiếm một văn hóa
thống nhất; và (2) mức độ liên hệ giữa ngân hàng bị sáp nhập. Nếu giữa hai
40
ngân hàng có sự nhất trí về chế độ ưu tiên của tiếp thu văn hóa, sẽ giảm
thiểu những căng thẳng trong quá trình này và phương thức tiếp nhận văn
hóa sẽ tạo điều kiện cho việc thực hiện sáp nhập [46].
2.4.1.8. Tiến trình hợp nhất
Haspeslagh và Jemison (1991) [30] xác định có ba vấn đề trong quá
trình hợp nhất, đó là: (1) Sự linh hoạt của chiến lược; (2) Quản lý con người
và (3) Khoảng trống lãnh đạo. Trong khi tất cả các cuộc mua lại đều đối mặt
với những vấn đề này, nghiên cứu chỉ ra rằng những thương vụ thành công
được quản lý năng động, trong khi những thương vụ thất bại thì không. Thất
bại xảy ra khi quản lý không thể điều chỉnh chiến lược hội nhập của mình
với các thông tin mới. Việc quản lý sự thay đổi trong hội nhập của các
thương vụ M&A rất quan trọng.
Tóm lại, để tránh cho thương vụ M&A thất bại, các nhà quản lý
không nên trả giá quá cao, nên nhận thức được lợi ích cá nhân, kiểm soát sự
quá tự tin, đảm bảo sự hỗ trợ nhau trong quản lý, phát triển kinh nghiệm và
năng lực trong việc định giá và hội nhập, quản lý nhân viên và cảm xúc của
các bên liên quan khác, xây dựng một sự tương đồng văn hóa, tập trung vào
quá trình hội nhập... Có được những ý tưởng rõ ràng về nguyên nhân của
những khó khăn gặp phải trong các thương vụ M&A sẽ giúp các nhà quản
lý thực hiện trong thực tế tốt hơn.
2.4.2. Các nhân tố ở cấp độ vĩ mô và thế giới
2.4.2.1. Môi trường kinh tế trong nước và quốc tế
Có nhiều bằng chứng thực nghiệm cho thấy làn sóng sáp nhập xảy ra
ở cấp ngành ngân hàng khi các ngân hàng phản ứng với những thay đổi
đáng kể trong ngành được gây ra bởi những cú sốc kinh tế nói chung hoặc
trong ngành nói riêng. Những cú sốc kinh tế làm nhu cầu tái cơ cấu trong
ngành ngân hàng tăng lên rất nhiều. M&A thường là phương pháp điều
41
chỉnh rẻ nhất so với các phương pháp khác như đầu tư nội bộ [50]. Lý do là
vì M&A tránh dư thừa nhân viên, trụ sở và kỹ thuật, v.v.
Trong những cú sốc kinh tế, một thương vụ M&A có thể được định
giá quá cao. Nếu không có định giá quá cao, khuyến khích và hoặc tạo cơ
hội thực hiện cho thị trường hoán đổi cổ phiếu, làn sóng sáp nhập không
xảy ra.
Ngoài ra, những thay đổi về điều kiện kinh tế có thể thúc đẩy hoặc
buộc các nhà quản lý phải đa dạng hóa tài sản hay thay đổi chiến lược kinh
doanh thông qua M&A. Điều này khiến cho các nhà quản lý có động lực
hoặc cơ hội lớn theo đuổi mục tiêu của mình. Khi đó, làn sóng sáp nhập có
thể thúc đẩy các nhà quản lý muốn thâu tóm các ngân hàng khác nhằm đạt
đến quy mô làm cho ngân hàng họ thích ứng với sự thay đổi của nền kinh tế
hoặc vì lý do buộc họ phải tiến hành quản lý để tránh bị thâu tóm bởi các
ngân hàng khác.
2.4.2.2. Môi trường thể chế, pháp luật của nước sở tại
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng các quốc gia có các quy định bảo vệ
cổ đông ở mức độ cao có nhiều hoạt động M&A hơn và trong các thương
vụ M &A xuyên quốc gia, các ngân hàng mục tiêu thường là các nước ít
bảo vệ cổ đông nhỏ hơn so với các ngân hàng thu mua [33]. Nghiên cứu
cũng chỉ ra thêm, ngân hàng mục tiêu được mua lại bởi một ngân hàng có
mức độ bảo vệ cổ đông lớn hơn có thể nâng cao hiệu quả của ngân hàng
mục tiêu nơi có môi trường pháp lý và thể chế nghèo nàn. Các đặc tính của
môi trường pháp lý và thể chế của nước mà ngân hàng thu mua và ngân
hàng mục tiêu hoạt động có thể giải thích các tác động khác nhau về giá trị
cổ phần của cổ đông trong các thương vụ M&A xuyên biên giới.
Về mặt lý thuyết, Nhà nước cần tập trung điều chỉnh sáp nhập, mua
lại doanh nghiệp theo hai nhóm vấn đề sau: (a) các quy định chung áp dụng
cho tất cả các thương vụ M&A; (b) các quy định riêng của từng ngành áp
42
dụng đặc thù cho M&A của doanh nghiệp trong các ngành đó. Trong nhóm
vấn đề thứ nhất, hai nội dung chủ yếu cần chú ý là (i) chống hạn chế cạnh
tranh và (ii) bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số và minh bạch hóa giao
dịch của các bên liên quan.
Trong một nền kinh tế, việc tạo ra một nhóm doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường sẽ dẫn đến hạn chế cạnh tranh. Vì thế Nhà nước cần có
cơ chế để kiểm soát các quá trình sáp nhập, mua lại để hình thành một
nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường và không để một doanh
nghiệp độc quyền.
2.5. Quản lý Nhà nước đối với M&A ngân hàng tại Việt Nam
2.5.1. Khái niệm về Quản lý nhà nước đối với M&A ngân hàng
Quản lý nhà nước (QLNN) đối với M&A ngân hàng được hiểu là sự
tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước đối với hoạt động
M&A ngân hàng nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Nói cách khác, Chính phủ,
cơ quan quản lý nhà nước (ở Việt Nam thông qua Ngân hàng Nhà nước)
đóng vai trò định hướng, dẫn dắt hoạt động M&A và hỗ trợ các ngân hàng
về kỹ thuật, hỗ trợ về thông tin và hỗ trợ về cơ chế... đồng thời cũng là cơ
quan giám sát, kiểm soát mọi hoạt động M&A của hệ thống TCTD nhằm
quản lý nền kinh tế và đảm bảo an toàn của hệ thống.
2.5.2. Nội dung QLNN đối với M&A ngân hàng
- Có định hướng phát triển hoạt động M&A ngân hàng:
Tại Thông báo số 191-TB/TW ngày 01/9/2005 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, Bộ Chính trị khẳng định: “Việc tiếp tục đổi mới, phát
triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng là một nhiệm vụ
quan trọng cấp bách trước mắt cũng như chiến lược lâu dài của Đảng và
Nhà nước để góp phần phát triển kinh tế, xã hội và công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”.
43
Đề án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số
112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 đã chỉ rõ định hướng phát triển hệ thống
ngân hàng theo hướng: Cải cách căn bản, triệt để và phát triển toàn diện hệ
thống các TCTD theo hướng hiện đại, hoạt động đa năng để đạt trình độ
phát triển trung bình tiên tiến trong khu vực ASEAN với cấu trúc đa dạng
về sở hữu, về loại hình tổ chức tín dụng, có quy mô hoạt động lớn hơn, tài
chính lành mạnh, đồng thời tạo nền tảng đến sau năm 2010 xây dựng được
hệ thống các TCTD hiện đại, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực Châu Á,
đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng, có khả
năng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
Quan điểm của Đảng, Nhà nước và NHNN về đổi mới và phát triển
hệ thống ngân hàng nhằm xây dựng một hệ thống ngân hàng an toàn, hiệu
quả, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế là nhất quán và kiên định thực
hiện với lộ trình và giải pháp phù hợp trong từng thời kỳ. Văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XI nêu rõ quan điểm về phát triển hệ thống ngân
hàng: “Tiếp tục cổ phần hóa và cơ cấu lại ngân hàng thương mại; áp dụng
các thông lệ và chuẩn mực mới phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện
Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển an toàn, bền vững
của các ngân hàng trong nước”. Quan điểm phát triển, tư tưởng chỉ đạo của
Đảng về đổi mới hệ thống ngân hàng trong xây dựng và thực hiện Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 thể hiện rõ: “Cơ cấu lại thị
trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương
mại và các tổ chức tài chính;… từng bước giảm tỷ lệ cung cấp vốn cho đầu
tư cho phát triển từ hệ thống ngân hàng thương mại; nâng cao chất lượng
các hoạt động dịch vụ ngân hàng. Cấu trúc lại hệ thống ngân hàng thương
mại và các tổ chức tài chính theo hướng sáp nhập, hợp nhất các ngân hàng
thương mại, các tổ chức tài chính nhỏ để có số lượng phù hợp các ngân
44
hàng thương mại và tổ chức tài chính có quy mô và uy tín, hoạt động lành
mạnh, bảo đảm tính thanh khoản và an toàn hệ thống”. Trong 5 năm tới,
củng cố, chấn chỉnh và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng là nhiệm vụ cấp bách
của ngành Ngân hàng để cùng với tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư
công và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn
kinh tế và tổng công ty nhà nước nhằm thực hiện thành công chủ trương tái
cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng”.
Tiếp tục đổi mới và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo đường lối,
chủ trương của Đảng và chỉ đạo của Chính phủ, quan điểm và nguyên tắc
cơ bản của NHNN đối với quá trình tái cơ cấu ngân hàng, trong đó có M&A
ngân hàng như sau:
Thứ nhất, phát triển một hệ thống ngân hàng đa dạng về sở hữu, quy
mô và loại hình nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế về dịch vụ
ngân hàng từ thành thị tới nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Về quy mô, hệ
thống ngân hàng có các ngân hàng lớn đủ sức cạnh tranh trong khu vực; có
các ngân hàng lớn làm trụ cột trong hệ thống ngân hàng; có những ngân
hàng vừa và nhỏ, TCTD phi ngân hàng hoạt động có hiệu quả trong một
phân khúc thị trường thích hợp và đáp ứng nhu cầu dịch vụ ngân hàng mỗi
tầng lớp trong xã hội. Quan điểm này của NHNN đã được Thống đốc
NHNN tiếp tục khẳng định tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành Ngân
hàng những tháng cuối năm 2011 được tổ chức tại Hà Nội ngày 7/9/2011:
Không phân biệt quy mô của ngân hàng nhưng vấn đề quan trọng nhất là
ngân hàng đang tồn tại phải hoạt động an toàn, lành mạnh và có hiệu quả.
Thứ hai, đảm bảo nâng cao tính an toàn, lành mạnh của hệ thống
ngân hàng.
Thứ ba, việc sáp nhập, mua bán, hợp nhất ngân hàng theo nguyên tắc
tự nguyện, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ
kinh tế của các bên có liên quan.
45
Thứ tư, tái cơ cấu ngân hàng được triển khai dưới nhiều hình thức,
biện pháp và theo lộ trình thích hợp. Căn cứ vào đặc điểm của ngân hàng cụ
thể sẽ có hình thức và biện pháp hợp lý.
Sáp nhập, mua lại, hợp nhất ngân hàng hàng là xu hướng tất yếu
khách quan hiện nay để nâng cao khả năng cạnh tranh. Sáp nhập, mua lại,
hợp nhất ngân hàng đem lại giá trị gia tăng lớn hơn so với khi các ngân
hàng đứng riêng rẽ nhờ đạt được lợi ích kinh tế theo quy mô lớn hơn, tăng
uy tín, thương hiệu, giảm chi phí, khai thác tối đa lợi thế kinh doanh của các
bên tham gia, phát triển cơ sở khách hàng, màng lưới phân phối,… Do đó,
xu hướng sáp nhập, hợp nhất ngân hàng có thể xảy giữa các ngân hàng lớn
với nhau, giữa ngân hàng lớn và ngân hàng nhỏ, giữa các ngân hàng nhỏ với
nhau.
- Thiết lập hành lang pháp lý góp phần thúc đẩy hoạt động M&A
ngân hàng và kiểm soát, hạn chế các tác động tiêu cực:
+ Hành lang pháp lý này sẽ tạo điều kiện để xác lập giao dịch, địa vị
của bên mua, bên bán, hậu quả pháp lý sau khi kết thúc giao dịch. Với vai
trò là người quản lý trực tiếp đối với hệ thống NHTM, nghiên cứu, xây
dựng hệ thống văn bản quy định và hướng dẫn tạo hành lang pháp lý đồng
bộ và hợp lý, tạo điều kiện cho việc cơ cấu lại tổ chức và nâng cao chất
lượng hoạt động của các NHTM thông qua hoạt động M&A. Ví dụ, quy
định một cách cụ thể về thủ tục, quyền lợi và trách nhiệm của các bên liên
quan trong hoạt động sáp nhập và mua lại. Việc quy định rõ ràng cụ thể hơn
về trách nhiệm và quyền lợi của các chủ thể tham gia trong giai đoạn hậu
sáp nhập và mua lại sẽ giúp tránh được những mâu thuẫn nội bộ giữa các
chủ thể sau khi sáp nhập và mua lại. Kiểm soát, hạn chế các tác động tiêu
cực của hoạt động M&A như hành vi “tập trung kinh tế”, dẫn đến những
tiêu cực do độc quyền sau hoạt động M&A.
46
+ Các quy định về nội dung liên quan đến M&A cùng với việc xác
lập về mặt hình thức: Cùng với việc xác lập về mặt hình thức của hoạt động
sáp nhập và mua lại, các vấn đề về mặt nội dung M&A ngân hàng được quy
định đầy đủ, bởi vì hoạt động sáp nhập và mua lại còn có nhiều nội dung
liên quan đến định giá doanh nghiệp, giải quyết các vấn đề tài chính, cổ
phần, cổ phiếu, người lao động, thuế, phí... của ngân hàng trong quá trình
và sau khi sáp nhập và mua lại.
+ Đảm bảo thông thoáng và giám sát thời gian xét duyệt các quy định
về thủ tục pháp lý khi thực hiện M&A nhằm góp phần hạn chế những thủ
tục hành chính nặng nề gây lãng phí thời gian và chi phí thực hiện.
+ Quy định rõ về ràng buộc trách nhiệm giữa các đối tượng tham gia
hoạt động M&A và trách nhiệm của ngân hàng đối với quyền lợi của người
lao động, cổ đông cũng là vấn đề cần thiết để mang lại sự thành công trước
và sau M&A.
Ở Việt Nam, hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động
M&A đã được đề cập trong Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh
tranh, Luật Chứng khoán. Lĩnh vực ngân hàng còn có Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Luật Các tổ chức tín dụng. Trên cơ sở các văn pháp có liên
quan, ngày 11/02/2011 NHNN đã ban hành Thông tư số 04/2010/TT-
NHNN quy định việc sáp nhập, hợp nhất và mua lại tổ chức tín dụng nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ
chức tín dụng. Ngoài ra, NHNN sẵn sàng hỗ trợ kỹ thuật cho các ngân hàng
có nguyện vọng sáp nhập, hợp nhất.
Nhìn chung, các quy định pháp lý của nhà nước hướng đến sự chặt
chẽ và hiện đại, dự báo rủi ro có thể xảy ra để điều chỉnh các hành vi đa
dạng và liên tục thay đổi của hoạt động M&A. Sự điều hành phối hợp giữa
NHNN và các cơ quan có thẩm quyền đối với việc quản lý sáp nhập và mua
47
lại ngân hàng để hạn chế tình trạng độc quyền theo nhóm có thể diễn ra khi
thương vụ sáp nhập và mua lại quá lớn và chi phối hoạt động của thị trường tài
chính ngân hàng gây ảnh hưởng không tốt đến toàn hệ thống và cả nền kinh tế.
- NHNN đóng vai trò là “bàn tay hữu hình” dẫn dắt, định hướng lộ
trình thúc đẩy hoạt động M&A ngân hàng:
+ Với vai trò quản lý trực tiếp và định hướng cho hệ thống NHTM,
NHNN phát huy vai trò chủ động trong việc phổ biến rộng rãi các kiến thức
về mua lại, sáp nhập, thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo
chuyên đề với sự tham gia của các lãnh đạo các ngân hàng để chia sẻ các
kiến thức, kinh nghiệm về mua bán sáp nhập đã diễn ra. NHNN hỗ trợ cho
các ngân hàng trong quá trình tìm hiểu về mua lại, sáp nhập để nâng cao
nhận thức của các chủ thể ngân hàng, từ đó các ngân hàng sẽ có bước chuẩn
bị dần dần về mọi mặt cho các thương vụ mua bán sáp nhập trong tương lai.
Sự hỗ trợ về mặt thông tin từ phía NHNN có tác dụng giúp các
NHTM không bị lép vế trong việc đàm phán mua bán sáp nhập hoặc có thể
hạn chế, ngăn ngừa hoạt động sáp nhập mang tính chất “thôn tính” của các
ngân hàng nước ngoài.
+ NHNN xây dựng các cơ chế chính sách để thúc đẩy hoạt động mua
lại, sáp nhập, hợp nhất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngân
hàng.
Để thúc đẩy các ngân hàng nhỏ tìm đến sáp nhập, hợp nhất với nhau,
NHNN đầu mối nối kết các TCTD trong hoạt động M&A, có các chính sách
ưu đãi như hỗ trợ về mặt thủ tục hành chính khi sáp nhập, về việc ưu đãi khi
tham gia các giao dịch với NHNN, về dự trữ bắt buộc... tạo ra động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sự liên kết các ngân hàng lại với nhau.
+ NHNN cập nhật các quy định về việc thành lập mới các ngân hàng
theo hướng chặt chẽ và nghiêm ngặt hơn, nhằm đảm bảo cho các ngân hàng
48
ra đời sau này có được quy mô vốn lớn hơn, năng lực tài chính cao hơn và
an toàn hơn, tránh được tình trạng thành lập ngân hàng quy mô nhỏ, năng
lực quản trị yếu kém, đồng thời nhằm định hướng các luồng vốn đầu tư
trong nền kinh tế khi đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng thay vì để thành lập
ngân hàng mới sẽ hướng đến đầu tư vào các ngân hàng hiện có để củng cố
sức mạnh cho các ngân hàng này, nâng cao tiềm lực tài chính giúp các ngân
hàng lớn có thể mua lại các ngân hàng nhỏ hơn để nâng cao sức cạnh tranh.
+ NHNN đặt ra các quy định cho hoạt động sáp nhập bắt buộc.
- NHNN thực hiện việc theo dõi, giám sát quá trình M&A của các
ngân hàng nhằm đảm bảo sự an toàn trong hoạt động của hệ thống TCTD
và để quá trình này đi đúng “quỹ đạo”, đạt được các mục tiêu đã đề ra:
+ NHNN theo dõi, giám sát các chiến lược, kế hoạch bán cổ phần của
các NHTM, đặc biệt là các NHTM nhỏ.
+ NHNN xem xét, giám sát để hạn chế sự xâm nhập, kiểm soát vào
ngành Ngân hàng với giá rẻ của các nhà đầu tư nước ngoài thay vì đề nghị
thành lập mới một ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
+ Hoạt động kiểm tra, giám sát sẽ giúp quá trình M&A giữa các ngân
hàng không bị rối và NHNN luôn ở vị thế chủ động.
Kiểm tra, giám sát M&A ngân hàng có tác dụng giúp hoạt động này
diễn ra minh bạch, rõ ràng, đồng thời vừa đảm bảo tính cạnh tranh trên thị
trường, vừa chú trọng đến vấn đề bảo vệ quyền lợi khách hàng khi các
thương vụ M&A xảy ra. Hoạt động kiểm tra, giám sát này thực sự hiệu quả
khi có sự phối hợp chặt chẽ và phát huy vai trò của các cơ quan có liên quan
như Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước,
Bảo hiểm tiền gửi…
2.6. Quy trình cơ bản tiến hành M&A hiệu quả
Hoạt động M&A cần tuân thủ theo một quy trình chung gồm các
bước sau đây:
49
- Lập kế hoạch chiến lược và xác định động cơ của thương vụ: nhằm
xác định rõ mục tiêu chiến lược trong hoạt động M&A, trên cơ sở đó để đưa
ra các quyết định, tiêu chí phù hợp. Thông thường, các tiêu chí sẽ được xác
định tương đối cụ thể gồm tiêu chí “mềm” và “cứng”. Các tiêu chí “cứng”
gồm quy mô vốn, tổng thu nhập, số lượng cán bộ nhân viên…; tiêu chí
“mềm” gồm kỹ năng nghiệp vụ, văn hóa doanh nghiệp, khách hàng, các
mối quan hệ…
- Tìm kiếm và xác định ngân hàng mục tiêu: nhằm nhận diện toàn bộ
ứng viên tiềm năng, sàng lọc danh sách ứng viên tiềm năng, thực hiện đánh
giá sâu hơn danh sách ứng viên tiềm năng và tiếp cận mục tiêu.
- Tiến hành đàm phán sơ bộ: nhằm có những thỏa thuận sơ bộ với
nhau về phương thức tiến hành giữa các bên trong quá trình diễn ra đàm
phán. Thông thường có hai loại thỏa thuận hay được sử dụng, đó là: Thỏa
thuận bí mật và Thỏa thuận nguyên tắc. Và hầu hết các thỏa thuận này đều
không mang tính chất ràng buộc.
- Xây dựng kế hoạch M&A chi tiết: Sau khi đàm phán sơ bộ, Ngân
hàng thực hiện hoạt động M&A nên xem xét và điều chỉnh chiến lược đã đề
ra cho sát và phù hợp với tình hình thực tế nhằm đảm bảo cho thương vụ
M&A thành công khi tiến hành chính thức.
- Khảo sát đánh giá toàn diện ngân hàng mục tiêu: Công việc này
được thực hiện sau khi các bên kết thúc giai đoạn đàm phán sơ bộ và đã ký
kết bản thỏa thuận nguyên tắc. Ba lĩnh vực chính cần được tiến hành khảo
sát đó là: Thương mại, tài chính và pháp luật, cùng một số vấn đề khác nếu
thấy cần thiết. Việc đánh giá này nhằm đánh giá đúng thực trạng tất cả các
mặt hoạt động của ngân hàng mục tiêu, từ đó tìm thấy những ưu điểm cũng
như những hạn chế cần phải được cải tổ lại…
- Định giá: Việc định giá này nhằm xác định giá trị ngân hàng bị mua
lại dưới góc độ của một thực thể độc lập, xác định những giá trị tăng thêm
50
từ hoạt động M&A, xác định mức giá sẽ trả cho mỗi cổ đông bên bán, xác
định nguồn tài trợ vốn, từ vay nợ hay huy động vốn chủ sở hữu, phương
thức thanh toán cho cổ đông…
- Đàm phán, ký kết thỏa thuận cuối cùng và thực hiện M&A: Đây là
khâu cuối cùng trong quy trình thực hiện M&A. Ngân hàng đi sáp
nhập/mua lại sẽ có đàm phán thỏa thuận cuối cùng với ngân hàng mục tiêu
với kết quả cuối cùng là lập được 1 hợp đồng mua bán trong đó quy định
chi tiết và có tính bắt buộc thi hành với tất cả các bên tham gia về các vấn
đề trong giao dịch như tài chính, cơ cấu, quyền, nghĩa vụ của các bên... Và
sau khi hợp đồng này đã được ký kết, các bên sẽ tiến hành tiếp các thủ tục
pháp lý cần thiết như trình Đại hội đồng cổ đông mỗi bên phương án M&A,
lập hồ sơ về việc M&A, hợp nhất trình các cơ quan có thẩm quyền xem xét
phê duyệt. Sau khi hoàn tất các thủ tục pháp lý này, các bên tham gia sẽ tiến
hành hoạt động M&A.
Tóm lại, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, M&A nói chung và
M&A ngân hàng đang ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Do đó, thông qua nghiên cứu để nắm được những lý luận cơ bản nhất của
hoạt động này, cũng như tìm hiểu vấn đề quản lý nhà nước đối với M&A
ngân hàng, quy trình tiến hành M&A hiệu quả… sẽ có tác dụng hữu ích đối
với các bên quan tâm và tham gia quá trình M&A.
51
CHƯƠNG 3
M&A NGÂN HÀNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Lĩnh vực tài chính ngân hàng trong vài thập niên gần đây luôn dẫn
đầu về số thương vụ cũng như giá trị trong hoạt động M&A trên toàn thế
giới. Tuy các làn sóng M&A trong lĩnh vực tài chính ngân hàng diễn ra
muộn hơn so với các lĩnh vực khác, nhưng hoạt động này lại ảnh hưởng lớn
đến hoạt động kinh tế- xã hội của từng quốc gia và khu vực. Trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay, hoạt động M&A xuyên biên giới trong lĩnh vực này
càng ngày phát triển mạnh mẽ. Do vậy, thông tin chung về M&A trong lĩnh
vực ngân hàng của các khu vực lớn chính là Mỹ, Châu Âu, Đông Á, Mỹ La
tinh và trường hợp của Hàn Quốc sẽ cung cấp một bức tranh tổng quát về
hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng trên thế giới. Lựa chọn những
khu vực này và riêng Hàn Quốc để nghiên cứu bởi tại Mỹ, châu Âu, Đông
Á, Mỹ La tinh, hoạt động M&A ngân hàng diễn ra sớm, sôi động với nhiều
thương vụ, có nhiều kinh nghiệm đã được đúc rút từ đây. Riêng Hàn Quốc
là quốc gia châu Á có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về văn hóa,
xuất phát điểm về kinh tế, đặc biệt có sự tương đồng về hệ thống ngân hàng
trước khi tiến hành M&A trên phương diện có nhiều ngân hàng nhỏ, phân
tán, thiếu những ngân hàng đủ lớn làm trụ cột, về mối quan hệ giữa hệ
thống ngân hàng, Chính phủ và khối doanh nghiệp nhà nước… Hàn Quốc
đã rất thành công khi tiến hành M&A ngân hàng nhằm tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng sau khủng hoảng tài chính và đây là những kinh nghiệm, bài học
quý đối với M&A ngân hàng Việt Nam.
52
3.1. M&A ngân hàng trên thế giới
3.1.1. M&A ngân hàng tại Mỹ
Trước khi làn sóng sáp nhập ngân hàng ở Mỹ diễn ra, các ngân hàng
bị giới hạn hoạt động cấp bang trong thời gian dài. Họ không thể mở rộng
mạng lưới chi nhánh của mình sang các bang khác. Các quy định này dần
được xóa bỏ khi các ngân hàng bị suy thoái kéo dài bắt đầu vào năm 1981.
Nguyên nhân của cuộc suy thoái này là do các vấn đề tín dụng từ các khoản
vay của Mỹ Latinh, các khoản vay tại các khu vực dầu mỏ trong nước, vốn
vay bất động sản thương mại và sáp nhập doanh nghiệp, cùng với việc sụp
đổ của lĩnh vực tiết kiệm. Điều này dẫn đến các vụ sáp nhập ngân hàng
được chính phủ hỗ trợ chiếm tỷ trọng lớn ở Mỹ từ năm 1982 đến năm 1989.
Hoạt động sáp nhập của các ngân hàng tại Mỹ trong giai đoạn này đã
làm thay đổi lý thuyết về quản lý chống độc quyền. Trước đó, cơ quan quản
lý thực hiện theo hướng dẫn của Luật chống độc quyền và Đạo luật Công ty
về nắm giữ Ngân hàng năm 1956 và 1970 hạn chế các công ty trong các
hoạt động mở rộng ngân hàng, nhằm hạn chế các yếu tố mà các công ty có
sức mạnh độc quyền sẽ khai thác. Trong giai đoạn này, khái niệm độc
quyền được chuyển thành “khả năng cạnh tranh ưu việt” trong lĩnh vực
ngân hàng, và cho phép các nhà quản lý liên bang loại bỏ các hạn chế địa lý
trong việc chấp thuận sáp nhập cho các ngân hàng bị khủng hoảng sẽ được
tiến hành M&A mà không bị giới hạn về mặt địa lý. Cục Dự trữ liên bang
sử dụng các quy định này linh hoạt để "hiện đại hóa" luật ngân hàng Mỹ.
Các nhân viên điều tiết hoạt động này ngày càng dựa vào tiền đề rằng ngành
ngân hàng bị đóng băng và đổi mới tài chính cần được cho phép thực hiện
các biện pháp làm tăng vốn và tín dụng… giúp các ngân hàng vượt qua
khủng hoảng.
53
Tại Mỹ, các quỹ tương hỗ đã thu hút các khoản tiết kiệm của nhiều
hộ gia đình giàu có và tầng lớp trung lưu, trong khi nhiều công ty phi tài
chính lớn bắt đầu vay trực tiếp trên thị trường chứng khoán và trái phiếu
doanh nghiệp với chi phí thấp hơn. Theo đó, các ngân hàng lớn đã bị ảnh
hưởng nghiêm trọng vì mất các khách hàng cơ bản này. Do vậy, các ngân
hàng phản ứng với cuộc tấn công kép này bằng việc thay đổi hai chiến lược:
Chiến lược bán lẻ và chiến lược thứ cấp và vì vậy dẫn tới các thương vụ sáp
nhập nhằm mở rộng thị trường, cụ thể:
+ Chiến lược thứ nhất là chiến lược ngân hàng bán lẻ cao cấp: Các
ngân hàng sử dụng phương pháp này để xác định một tập hợp khách hàng
thích hợp mà nó có thể cung cấp cả hai dịch vụ ngân hàng truyền thống gồm
cho vay tiêu dùng ngắn hạn, vay thế chấp dài hạn, dịch vụ lưu ký, và các
dịch vụ phi truyền thống như các quỹ tương hỗ, bảo hiểm và tư vấn đầu tư.
Chiến lược này đã được phát triển từ cuối những năm 1970 (đây là làn sóng
M&A thứ nhất), ngân hàng tiên phong trong hoạt động này là Citibank và
Wells Fargo. Trong khi đó, bù giá chéo trước đây đã được mở rộng giữa các
tầng lớp khách hàng trong các dòng sản phẩm, trợ cấp chéo đã được thực
hiện giữa các dòng sản phẩm trong các tầng lớp khách hàng. Phí và lệ phí
được giảm cho các khách hàng ưu tiên, là những người sẽ mua nhiều dịch
vụ ngân hàng; tăng lệ phí đối với khách hàng chỉ sử dụng dịch vụ ngân hàng
cơ bản.
+ Chiến lược thứ hai là một sự chuyển hướng từ chuyển đổi kỳ hạn
thanh toán và thu nhập dựa trên lãi suất sang bán hàng trên thị trường thứ
cấp và phái sinh, và thu nhập dựa vào thu phí: Rất nhiều doanh thu thu từ
các hộ gia đình giàu có là các loại phí, được thúc đẩy bởi sự phát triển của
thị trường cho vay thứ cấp và sự tham gia của các ngân hàng trong việc
quản lý danh mục đầu tư của các hộ gia đình. Các ngân hàng lớn cũng
chuyển trọng tâm của họ trong việc phục vụ khách hàng doanh nghiệp bằng
54
cách chủ yếu cung cấp các dịch vụ chuyển tiền cho các các doanh nghiệp
nhỏ; đối với các công ty lớn có thể có nguồn tài chính ở những nguồn khác,
ngân hàng cung cấp một loạt các dịch vụ quản lý rủi ro- bao gồm các phái
sinh tài chính, bảo hiểm rủi ro tỷ giá hối đoái, và hợp đồng vay dự phòng
(các dòng tín dụng). Chi phí lãi vay chiếm tỷ trọng ngày càng giảm trong
tổng chi phí của ngân hàng từ năm 1982; thu nhập từ nguồn không phải lãi
suất chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng thu nhập của ngân hàng từ
năm 1978 [25].
Những thay đổi này hướng đến các khách hàng ưu tiên trên thị trường
và các dịch vụ thu phí đang hỗ trợ lẫn nhau: các khách hàng được các ngân
hàng tìm kiếm nhiều nhất là những đối tượng sẽ sử dụng các dịch vụ tài
chính tiêu chuẩn - thẻ tín dụng, các tài khoản tiền gửi chuyên biệt và đầu tư,
và các khoản vay thế chấp.
Hoạt động thu phí cũng dẫn các ngân hàng đến việc xem xét sáp nhập
nhằm mở rộng hệ thống sản phẩm. Một ngân hàng tìm cách tạo doanh thu
bằng dịch vụ chuyển tiền có thể mở rộng thu nhập từ phí phục vụ bằng
nhiều giao dịch chuyển tiền hơn hoặc những dịch vụ gia tăng của các giao
dịch này. Vì vậy, sáp nhập với nhà cung cấp bảo hiểm, công ty môi giới,
ngân hàng đầu tư, và những đối tượng khác làm tăng cường phạm vi của
các hoạt động tạo ra phí để thu.
Các ngân hàng ban đầu có thể tăng doanh thu bằng cách thu hút nhiều
khách hàng thu phí trong khu vực thị trường của họ, và sau đó cung cấp
nhiều dịch vụ đáp ứng các nhu cầu tài chính của các khách hàng chính. Một
khi các khách hàng hiện tại bị bão hòa, tốc độ tăng trưởng phụ thuộc vào
mở rộng địa bàn khách hàng. Điều này có thể được thực hiện bằng cách
mua các ngân hàng đang tồn tại và các khách hàng của chúng, hoặc bằng
cách xây dựng chi nhánh mới tại khu vực thị trường của các ngân hàng
khác. Hai lựa chọn chiến lược này có thể thay thế nhau. Sáp nhập được ưa
55
chuộng hơn mở rộng bằng cách xây mới vì phương thức xây mới chỉ được
phép hoàn toàn từ năm 1994, và nói chung là đắt hơn việc mua mạng lưới
chi nhánh của các ngân hàng khác. Khoảng một nửa trong tổng số 6350 vụ
sáp nhập ngân hàng sau năm 1980 là sáp nhập nhằm mở rộng thị trường, và
chiếm tỷ lệ ngày càng tăng từ giữa những năm 1980.
Tạo ra các đại ngân hàng (megabank) là giai đoạn thứ hai của làn
sóng sáp nhập ngân hàng ở Mỹ với sự tham gia của Phố Wall. Giai đoạn
này có sự tham gia của các nhà môi giới chứng khoán.
Có hai hình thức chi trả trong các vụ sáp nhập ngân hàng ở Mỹ: hoán
đổi vốn chủ sở hữu và trả tiền mặt. Hình thức phổ biến sử dụng trong vụ sáp
nhập ngân hàng là hoán đổi vốn chủ sở hữu bằng cổ phần. Hình thức thứ hai
thực hiện khi các ngân hàng mua lại trả tiền mặt cho các cổ phiếu của ngân
hàng được mua lại, họ tăng đòn bẩy đến chừng nào lợi nhuận ròng dương.
Tăng quy mô của hoạt động ngân hàng sẽ làm tăng lợi nhuận và do đó làm
tăng giá trị thương hiệu. Các vụ giao dịch mua vốn chủ sở hữu bằng tiền
mặt như vậy là tương đối hiếm trong các vụ sáp nhập ngân hàng tại Mỹ.
Tốc độ của các vụ sáp nhập trên thị trường ngân hàng bán lẻ của Mỹ
chậm lại sau năm 1997, khi cuộc khủng hoảng châu Á đã dẫn đến một sự
suy giảm lớn trong giá cổ phiếu ngân hàng. Tuy nhiên, một giai đoạn mới
trong làn sóng sáp nhập ngân hàng bắt đầu từ năm đó: sáp nhập (hoặc hợp
nhất) nhằm đạt được ngân hàng quy mô lớn cấp toàn cầu. Ngày càng có
nhiều ngân hàng siêu lớn đang cạnh tranh để phục vụ khách hàng cao cấp
xuyên biên giới.
Trong giai đoạn mới này chỉ có vài đại ngân hàng của Mỹ tham gia
mua các ngân hàng siêu lớn nước ngoài. Trường hợp lớn nhất là Chase mua
lại ngân hàng đầu tư Anh Robert Fleming Holdings với giá 7,7 tỷ đô la Mỹ
vào tháng 4 năm 2000. Nhưng tháng 9 năm 2000, nó đã bị JP Morgan, ngân
56
hàng thương mại lớn thứ năm nước Mỹ, mua lại với giá 36 tỷ đô la Mỹ. Mô
hình kết hợp này với trụ sở tại Mỹ của các đại ngân hàng bắt đầu hình thành
vào năm 1997, dẫn đến tháng 4 năm 1998, khi Citicorp và Travelers Group,
tập đoàn bảo hiểm khổng lồ, tạo ra một công ty dịch vụ tài chính lớn nhất
thế giới lúc đó với một hợp đồng trị giá 70 tỷ USD. Những vụ sáp nhập này
là nỗ lực để tạo ra các phiên bản khác nhau của việc hình thành các siêu thị
tài chính. Các thể chế này cung cấp dịch vụ ngân hàng hay gần giống như
ngân hàng cho các khách hàng bán lẻ của ngân hàng. Ví dụ như Morgan
Stanley tháng 2 năm 1997 đã mua Dean Witter, Discovery, hãng môi giới
bán lẻ lớn thứ ba và nhà cung cấp thẻ tín dụng hàng đầu ở Mỹ [54].
Giai đoạn mới trong sáp nhập này cũng đã chứng kiến việc các đại
ngân hàng gia nhập vào thị trường Mỹ. Trong những năm đầu thập kỷ 80
của thế kỷ 20, một số ngân hàng Anh và Nhật Bản đã gia nhập vào thị
trường ngân hàng bán lẻ New York và California. Sự gia nhập của ngân
hàng nước ngoài vào ngân hàng đầu tư Mỹ bắt đầu vào năm 1988 khi Credit
Suisse mua ngân hàng đầu tư tư nhân First Boston. Các vụ tương tự diễn ra
nhiều hơn cho đến cuối những năm 1990, sau khi cuộc khủng hoảng tài
chính đã làm suy yếu một số ngân hàng mạnh trước đây. Vào tháng Hai
năm 1999, Deutsche Bank đã mua lại Bankers Trust như một công cụ để
xây dựng năng lực cho ngân hàng thương mại và đầu tư [19]. Vào tháng bảy
năm 2000, ngân hàng UBS của Thụy Sĩ đã mua lại công ty môi giới
PaineWebber với giá 12 tỷ USD. Một tháng sau, Credit Suisse First Boston,
đã hiện diện trên toàn cầu trong lĩnh vực đầu tư và ngân hàng tư nhân, bảo
hiểm và quản lý tài sản, đồng ý mua lại công ty môi giới Donaldson, Lufkin
& Jenrette. Động thái này được thiết kế để đưa Credit Suisse First Boston
trở thành một trong những công ty tiên phong trong bảo lãnh phát hành,
cùng với Goldman Sachs và Morgan Stanley Dean Witter.
57
Ba yếu tố làm cho làn sóng sáp nhập ở Mỹ đặc biệt: thứ nhất, sự tồn
tại của rất nhiều ngân hàng do chính sách biên giới giữa các bang và diện
tích lãnh thổ rộng lớn của Mỹ; thứ hai, quy mô lớn của thị trường ngân hàng
Mỹ, và sự thịnh vượng của nhiều ngân hàng trong thị trường này; thứ ba, sự
thống trị thế giới của các thể chế thị trường vốn của Mỹ. Với việc chính phủ
Hoa Kỳ sẵn sàng bảo lãnh việc mua lại, nhiều ngân hàng suy thoái là mục
tiêu lựa chọn cho việc sáp nhập của các ngân hàng quan tâm đến các thị
trường mới vào những năm 1980. Nhiều vụ sáp nhập được thực hiện để
theo đuổi hoạt động ngân hàng bán lẻ cao cấp là do quy mô lớn của thị
trường trung gian của Mỹ. Hình thành các đại ngân hàng để có quy mô lớn
hơn do sự cạnh tranh khốc liệt giữa các đại ngân hàng trong các hoạt động
của các công ty lớn.
Trong thời kỳ khủng hoảng ngân hàng tại Mỹ, M&A ngân hàng
thường diễn ra dưới hình thức “Mua lại & tiếp nhận nợ” (P&A). Hình thức
này thường được thực hiện dưới sự bảo lãnh hay chỉ đạo của cơ quan chính
phủ có thẩm quyền, như Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC)
ở Mỹ. Đây là hình thức được ưa chuộng nhất vì những ưu điểm vượt trội
trong ba biện pháp giải quyết khủng hoảng ngân hàng hiện nay là P&A, hỗ
trợ ngân hàng mở (OBA) và chi trả tiền gửi (Pay-of).
Hỗ trợ ngân hàng mở là giải pháp được các cơ quan chức năng như
Ngân hàng nhà nước, hay cơ quan bảo hiểm tín dụng, sử dụng để hỗ trợ cho
các ngân hàng hay tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm tín dụng được xác
định là có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Tổ chức tài chính hay các ngân
hàng này có thể nhận được hỗ trợ theo hình thức cho vay trực tiếp, mua lại
các tài sản có hoặc gánh vác các khoản nợ hoặc gửi tiền vào ngân hàng có
vấn đề và bảo lãnh khoản vay. Tại Mỹ, FDIC cung cấp hỗ trợ tài chính cho
các ngân hàng hoặc tổ chức tiết kiệm được bảo hiểm có nguy mất khả năng
thanh toán qua giao dịch OBA. Chính sách hỗ trợ tài chính của FDIC được
58
phê duyệt từ năm 1950, song đến năm 1971 thì hoạt động này mới chính
thức bắt đầu được triển khai.
Quá trình áp dụng hình thức hỗ trợ OBA cho thấy giải pháp này đã
mang lại hiệu quả nhất định trong việc xử lý các tổ chức tài chính bị mất
khả năng thanh toán và có nguy cơ đổ vỡ, giảm thiểu sự bất ổn đối với cộng
đồng. Tuy nhiên, bên cạnh đó OBA vẫn có những nhược điểm như: các
khoản nợ bất thường vẫn được duy trì tại ngân hàng hoặc tổ chức tiết kiệm
gặp khó khăn; các khách hàng có khoản tiền gửi không được bảo hiểm và
các chủ nợ cũng được bảo vệ bởi các giao dịch OBA, vì vậy làm giảm tính
kỷ cương thị trường; các tổ chức tài chính yếu kém được phép duy trì hoạt
động và cạnh tranh với các tổ chức không được hỗ trợ.
Từ năm 1971 tới 1992, FDIC đã thực hiện thành công một số giao
dịch hỗ trợ OBA cho các ngân hàng, như Ngân hàng First Penn vào năm
1980, Continental Illinois National Bank and Trust Company vào năm
1984, First City vào năm 1988. Cho đến năm 1989, FDIC bắt đầu hạn chế
cung cấp giao dịch hỗ trợ ngân hàng mở. Từ năm 1992 đến nay, không có
một giao dịch OBA nào được thực hiện do những nhược điểm của biện
pháp này.
Chi trả tiền gửi là việc thực hiện cam kết thanh toán khoản tiền gửi
được bảo hiểm (bao gồm cả gốc và lãi theo một mức độ nhất định) của tổ
chức bảo hiểm tín dụng cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm.
Việc chi trả tiền bảo hiểm sẽ được thực hiện khi tổ chức tham gia bảo hiểm
tín dụng chấm dứt hoạt động và bị mất khả năng thanh toán.
Tại Mỹ, giải pháp chi trả tiền gửi chỉ được thực hiện nếu FDIC không
nhận được một giá thầu nào cho giao dịch P&A đáp ứng nguyên tắc chi phí
thấp nhất. Trước đây, FDIC chủ yếu sử dụng biện pháp chi trả để xử lý các
tổ chức bị đổ vỡ. Tuy nhiên, sau khi ngành ngân hàng lâm vào tình trạng
khó khăn, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng ngân hàng những năm 1980,
59
FDIC nói riêng và các cơ quan quản lý ngân hàng nói chung đã thực hiện
nhiều biện pháp xử lý khác nhằm giảm chi phí so với biện pháp chi trả cho
người gửi tiền được bảo hiểm tiền gửi.
Trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua, có 11 ngân hàng
bị đổ vỡ được FDIC xử lý bằng hình thức chi trả tiền gửi, chiếm tỷ lệ 4%
trong tổng số ngân hàng bị đổ vỡ. First Bank of Beverly Hills là một trong
số các ngân hàng được FDIC chi trả tiền gửi trong năm 2009. First Bank of
Beverly Hills bị đóng cửa bởi Vụ Các định chế tài chính California và FDIC
được chỉ định là cơ quan tiếp nhận xử lý ngân hàng này. Tính đến
31/12/2008, ngân hàng này có tổng tài sản trị giá 1,5 tỷ đô la Mỹ và tổng
tiền gửi 1 tỷ đô la Mỹ, trong đó ước tính có khoảng 179.000 đô la không
được bảo hiểm. FDIC chịu trách nhiệm chi trả toàn bộ số tiền gửi được bảo
hiểm (bao gồm cả gốc và lãi) lên tới 250.000 đô la/người gửi tiền. FDIC
ước tính chi phí đổ vỡ của ngân hàng này xấp xỉ 394 triệu đô la Mỹ.
Việc tăng hạn mức chi trả kịp thời từ 100.000 đô la lên 250.000 đô la áp
dụng từ 3/10/2008 đến 31/12/2010 là một phần trong gói cứu trợ 700 tỷ đô la
của Chính phủ Mỹ nhằm giải cứu thị trường tài chính, góp phần làm cho người
gửi tiền an tâm và tin tưởng hơn. Vì vậy, hầu như không có cuộc đột biến rút
tiền gửi lớn hoặc hoảng loạn nào xảy ra. Đây có thể coi là thành công đáng ghi
nhận của chính sách Bảo hiểm tiền gửi cùng với các chính sách khác của
Chính phủ Mỹ trong việc kiềm chế khủng hoảng tài chính thời gian qua, cuộc
khủng hoảng được đánh giá là lớn nhất 100 năm trở lại đây.
Mua lại & tiếp nhận nợ (P&A) là giao dịch một tổ chức tài chính mạnh
mua lại một phần hoặc toàn bộ tài sản của tổ chức tài chính bị mất khả năng
thanh toán hoặc bị đổ vỡ và gánh vác một phần hoặc tất cả các khoản nợ, bao
gồm các khoản tiền gửi được bảo hiểm. Mục đích của giao dịch P&A nhằm
hạn chế rủi ro, giải cứu ngân hàng đổ vỡ, góp phần đảm bảo ổn định hệ thống
tài chính quốc gia. Kết quả của giao dịch này là các tổ chức tham gia Bảo hiểm
60
tiền gửi được liên kết và sáp nhập với các tổ chức mạnh hơn. Vì trong giao
dịch này, tổ chức mua lại phải nhận một phần hay tất cả các khoản nợ của bên
bị mua lại, nên để thuc đẩy giao dịch này các cơ quan chức nằng thường sẽ hỗ
trợ các ngân hàng mua lại để hoàn thành giao dịch.
Tại Mỹ, có nhiều loại giao dịch P&A khác nhau khi thỏa thuận mang
tính nguyên tắc được phép thay đổi. Bởi mỗi tình huống ngân hàng đổ vỡ là
khác nhau, các điều khoản của thỏa thuận nên linh hoạt đủ để thu được giá
trị lớn nhất cho tài sản do FDIC quản lý. Trong trường hợp của FDIC, có
các loại giao dịch P&A sau đây FDIC đã thực hiện, đó là: P&A cơ bản,
P&A khoản cho vay, P&A giản ước, P&A quyền chọn, P&A nhóm tài sản,
P&A toàn bộ ngân hàng và hai loại P&A mang tính chuyên môn hóa hơn là
P&A chia sẻ tổn thất và ngân hàng bắc cầu.
P&A là phương pháp xử lý ngân hàng và tổ chức tiết kiệm đổ vỡ phổ
biến nhất được FDIC thực hiện. Kể từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu 2007-2008 đến nay, đã có 277 ngân hàng đổ vỡ được FDIC
xử lý (số liệu đến tháng 8/2010). Trong đó, số ngân hàng được FDIC chọn
phương pháp xử lý mua và nhận nợ chiếm tới 93%. Trường hợp xử lý của
FDIC đối với đổ vỡ của Douglass National Bank là một ví dụ.
Douglass National Bank là một trong số ngân hàng đầu tiên được bảo
hiểm bị đổ vỡ trong năm 2008. Tính đến ngày 22/10/2007, ngân hàng này
có 58,5 triệu đô la tài sản và 53,8 triệu đô la tổng tiền gửi. Ngày 25/1/2008,
cơ quan kiểm soát tiền tệ Mỹ (OCC) đã quyết định đóng cửa Douglass do
thua lỗ và các vấn đề trong các khoản cho vay, đồng thời chỉ định FDIC là
cơ quan tiếp nhận xử lý ngân hàng này. Ban giám đốc của FDIC đã phê
duyệt việc đảm đương tất cả các khoản tiền gửi của Douglass Bank cho
Liberty Bank và Trust Company. Tất cả các khách hàng gửi tiền của
Douglass National Bank sẽ tự động trở thành khách hàng gửi tiền của ngân
hàng mua lại. Ba văn phòng của ngân hàng này sẽ được mở lại vào ngày thứ
61
2 tiếp theo với tư cách là các chi nhánh của Liberty Bank và Trust. Ngay
trong tuần, các khách hàng của Douglass có thể truy cập tiền của họ bằng
cách viết séc, hoặc bằng cách sử dụng thẻ ghi nợ hoặc thẻ ATM. Để đảm
nhận tất cả khoản tiền gửi của ngân hàng bị đổ vỡ, Liberty Bank và Trust
Company sẽ mua lại khoảng 55,7 triệu đô la tài sản của Douglass National
theo giá trị sổ sách, trừ đi khoản chiết khấu 6,1 triệu đô la. FDIC sẽ giữ lại
khoảng 2,8 triệu đô la tài sản để xử lý tiếp. Theo FDIC, phương án xử lý
này là lựa chọn giải pháp chi phí thấp nhất và FDIC ước tính chi phí của
quỹ bảo hiểm tiền gửi cho việc xử lý này là 5,6 triệu đô la.
Với những ưu điểm nổi trội, P&A được xem là giải pháp có chi phí
thấp hơn chi phí ước tính cho việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm, ít gây rối
loạn hơn so với việc thực hiện chi trả và được những người gửi tiền của
ngân hàng quan tâm nhất vì sẽ hỗ trợ quá trình tái cơ cấu ngân hàng hoặc
thanh lý tài sản của ngân hàng theo hình thức nhanh nhất và hiệu quả nhất.
Tại Mỹ, “ngân hàng bắc cầu” là một trong các hình thức giao dịch
P&A. Ngân hàng bắc cầu là ngân hàng tạm thời được thành lập và điều
hành bởi cơ quan chức năng (như trường hợp ở Mỹ là FDIC) để nắm giữ
các tài sản và “đảm trách” các khoản nợ của ngân hàng có vấn đề cho đến
khi giải pháp xử lý cuối cùng có thể được hoàn thành.
FDIC quy định thời gian tồn tại tối đa đối với ngân hàng bắc cầu là 3
năm. Tuy nhiên, ngân hàng bắc cầu chỉ được thành lập khi các phân tích
của FDIC thể hiện rõ ràng chi phí hoạt động ước tính của ngân hàng bắc cầu
phải thấp hơn chi phí cho việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm. Ban giám
đốc của FDIC lựa chọn ra Chủ tịch Hội đồng quản trị và chỉ định Ban giám
đốc cho ngân hàng bắc cầu để kiểm soát hoạt động hàng ngày của ngân
hàng. Trong thời gian tồn tại, ngân hàng bắc cầu tiếp tục hoạt động phục vụ
khách hàng nhằm mục đích cải thiện khả năng thanh toán, cơ cấu lại tài sản
nợ, làm trong sạch bảng cân đối trước khi rao bán, qua đó tăng thêm độ hấp
62
dẫn đối với các khách hàng muốn mua lại ngân hàng và giảm nhẹ gánh
nặng chi trả cho FDIC.
Trong số các ngân hàng đổ vỡ thời gian qua được FDIC xử lý, trường
hợp của Ngân hàng IndyMac là một điển hình. Đây là ngân hàng cho vay
bất động sản hàng đầu nước Mỹ với tổng tài sản lên tới 32 tỷ đô la Mỹ. Vụ
đổ vỡ của IndyMac được cho là lớn thứ 2 trong lịch sử nước Mỹ, chỉ đứng
sau ngân hàng quốc gia Continental với tổng tài sản trên 40 tỷ đô la Mỹ bị
sụp đổ vào năm 1984 do tổn thất về cho vay thế chấp bằng chứng khoán.
Sự đổ vỡ của IndyMac do tăng trưởng tín dụng cao trong một thời
gian dài thông qua việc cho vay thiếu chặt chẽ trong thời kỳ bong bóng bất
động sản, khi thị trường nhà đất sụt giảm và chứng khoán tụt dốc đã làm
“tổn thương” tới ngân hàng cũng như khả năng thanh toán. Sự đổ vỡ của
IndyMac dự tính liên quan đến 1 tỷ đô la, vượt quá mức giới hạn số tiền của
khoảng 10.000 người được bảo hiểm bởi FDIC. Chính từ điều này, FDIC đã
chọn giải pháp thiết lập một “Ngân hàng bắc cầu” và tiến hành mở lại hoạt
động bình thường của ngân hàng IndyMac ngay ngày hôm sau, nhằm ổn
định trật tự xã hội, nâng cao niềm tin đối với công chúng và tránh sự đổ vỡ
lan truyền.
Trước một IndyMac với tổng tài sản lên tới 32 tỷ đô la Mỹ, liên quan
tới đông đảo dân chúng, trong bối cảnh thị trường tài chính tiền tệ tụt dốc dễ
bị tổn thương và nguy cơ khủng hoảng kinh tế ở mức cao thì việc lựa chọn
giải pháp ngân hàng bắc cầu là một sư lựa chọn tối ưu. Với quyết định này
của FDIC, hơn 200.000 khách hàng của IndyMac đã được bảo vệ toàn bộ và
hầu như không có các dư chấn xấu tác động lên thị trường tài chính tiền tệ
hay hệ thống ngân hàng.
Có thể thấy hoạt động M&A ngân hàng Mỹ được diễn ra theo ba
hướng chính đó là: (i) Một số ngân hàng gặp khủng hoảng, vỡ nợ hoặc gần
như vỡ nợ, kết hợp với các đối thủ cạnh tranh tiềm năng quan tâm đến việc
63
tăng thêm thị phần; (ii) Sự mở rộng của hoạt động ngân hàng bán lẻ cao cấp
như một phương pháp cung cấp dịch vụ chi phối; (iii) Các ngân hàng lớn
muốn đạt đến quy mô toàn cầu và các biện pháp quản lý nhà nước đối với
hoạt động M&A ngân hàng tại Mỹ chủ yếu là Mua lại & tiếp nhận nợ
(P&A), hỗ trợ ngân hàng mở (OBA) và chi trả tiền gửi (Pay-of), trong đó
biện pháp P&A được ưa chuộng nhất bởi những ưu điểm của biện pháp này.
3.1.2. M&A ngân hàng tại châu Âu
Hệ thống ngân hàng châu Âu được đặc trưng bởi sự phân mảnh và lợi
thế nhà nước mạnh, đó là các ngân hàng chuyên về phát hành trái phiếu và
giao dịch tiền tệ ở đất nước của họ [24]. Ở các quốc gia lớn hơn, lợi thế sân
nhà kết hợp với các dòng thu nhập cao và tương đối ổn định có nghĩa là lợi
nhuận ổn định.
Hơn nữa, cấu trúc vĩ mô ở châu Âu làm cho việc sáp nhập ngân hàng ở
khu vực này không mạnh mẽ. Một mặt, Châu Âu là một thị trường khổng lồ
với nhiều khách hàng trong thị trường trung gian thịnh vượng. Mức tăng
trưởng và thu nhập kinh tế vĩ mô của khu vực này nói chung là cao. Hơn nữa
các nước châu Âu đã thực hiện cắt giảm các quy định quản lý từ giữa những
năm 1980 [44]. Và một thị trường chung châu Âu, hứa hẹn một sự tăng trưởng
về khách hàng của các ngân hàng theo định hướng mở rộng địa bàn. Mặt khác,
hoạt động của các ngân hàng đang hoạt động lại không khuyến khích sáp nhập
và cũng không khuyến khích sự vươn ra do hạn chế trong lịch sử phân bổ vốn
trên thị trường tín dụng. Ví dụ, các ngân hàng lớn của Pháp cho đến gần đây
vẫn là các ngân hàng thuộc sở hữu của chính phủ, các ngân hàng lớn của Đức
chủ yếu là sở hữu chéo và có mối quan hệ lâu dài với các tập đoàn lớn. Sự
khác biệt trong cấu trúc và các quy định về ngân hàng cũng như sự khác biệt
trong văn hóa ngân hàng giữa các quốc gia đã ngăn cản các vụ sáp nhập xuyên
biên giới. Chi phí để gia nhập vào các nước khác lại cao, các rào cản pháp lý
và văn hóa làm cho các vụ sáp nhập không có khả năng cắt giảm chi phí bằng
64
cách đóng cửa các chi nhánh không cần thiết. Bối cảnh này dẫn đến việc các
ngân hàng có các chiến lược M&A thụ động. Những yếu tố này đã ngăn chặn
các cuộc sáp nhập ngân hàng.
Tuy nhiên, tình trạng này đã thay đổi, vì mối quan hệ mật thiết giữa các
tập đoàn phi tài chính và các ngân hàng đã bắt đầu bị phá vỡ. Ngoài ra, hai yếu
tố bên ngoài tác động vào quá trình này gồm các công ty bên ngoài, đặc biệt là
công ty Mỹ, và sự ra đời của liên minh tiền tệ châu Âu và đồng Euro [52]. Các
công ty có trụ sở tại Mỹ đã có thể thâm nhập thị trường tài chính châu Âu, đặc
biệt là trong các hoạt động của ngân hàng đầu tư. Điều này bắt đầu phá vỡ
mạng lưới với sức ảnh hưởng cấp quốc gia được xây dựng qua nhiều thập kỷ
giữa ngân hàng và công ty ở khu vực này. Hai yếu tố này buộc các ngân hàng
lớn của châu Âu phải thay đổi chiến lược. Họ buộc phải sáp nhập. Các ngân
hàng trong nước phải củng cố để chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo, giai đoạn
chỉ còn lại hầu hết các ngân hàng xuyên biên giới. Các ngân hàng tham gia sáp
nhập gồm hai loại: những ngân hàng từ các nước châu Âu nhỏ để mở rộng
hoạt động ra nước ngoài nhằm đạt được quy mô cạnh tranh toàn cầu; và các
đại ngân hàng từ các thị trường lớn.
Một ví dụ về một ngân hàng trong thị trường nhỏ nhưng đầy tham
vọng là ABN Amro của Hà Lan. Ngân hàng này là kết quả của sự hợp nhất
giữa Algemene Bank Nederland (ABN) và Ngân hàng Amsterdam-
Rotterdam vào tháng 12 năm 1999. ABN nói riêng đã thành lập được một
mạng lưới quốc tế. Việc sáp nhập này làm đóng cửa nhiều chi nhánh và cắt
giảm các chi phí khác, thúc đẩy doanh thu thuần của nó. ABN Amro đồng
thời thực hiện hai hướng chiến lược khác nhau.
Đầu tiên, ngân hàng này tìm kiếm những thị trường nhỏ đã có sẵn
trên thị trường chứng khoán trong nước và toàn cầu. Đây là ngân hàng đầu
tiên phát hành sản phẩm tài chính chứng khoán hóa ở Hà Lan vào tháng 9
năm 1997, và đi tiên phong trong việc bán trái phiếu dựa trên web vào
65
tháng ba năm 2001. Ngân hàng này cũng đã mở rộng môi giới và sự hiện
diện trên thị trường, ví dụ như ngân hàng đã thâm nhập vào thị trường bảo
hiểm rủi ro.
Thứ hai, Ngân hàng ABN Amro đã tích cực mở rộng hoạt động ngân
hàng cho khách hàng tiêu dùng xuyên biên giới, đặc biệt là ở châu Á và Mỹ
Latinh. Đây là một trong số ít các ngân hàng xuyên biên giới tham gia vào
hoạt động ngân hàng cho khách hàng tiêu dùng, phương pháp tiếp cận của
nó tương tự như các ngân hàng bán lẻ cao cấp trên thị trường Mỹ.
ABN Amro mua lại Bank of Asia của Thái Lan vào đầu năm 1998,
và vào giữa năm 1998 trở thành ngân hàng quốc tế đầu tiên tại Kazakhstan.
Cuối năm 1998, Ngân hàng ABN Amro của Hà Lan trở thành ngân hàng
đầu tiên được phép vào Bắc Kinh, và cũng mua lại Banco Real, ngân hàng
lớn thứ tư ở Brazil, với mức giá 2,1 tỷ đô la Mỹ. Nó cũng hoạt động với
mạng lưới chi nhánh tại Costa Rica, Guatemala, Hungary, và Nam Phi. Tại
Mỹ, Ngân hàng ABN Amro đã bán ngân hàng European American Bank trụ
sở tại New England của nó cho Citibank, điều này cho phép nó tập trung
vào thế mạnh của mình ở miền trung tây Hoa Kỳ, nơi nó sở hữu LaSalle
Bank tại bang Illinois và Standard Federal ở Michigan.
Một ngân hàng Hà Lan đầy tham vọng khác là Internationale
Nederlanden Group (ING). Ngân hàng này cũng sử dụng sáp nhập để trở
thành một "siêu thị tài chính" quy mô lớn. Cũng giống như Citigroup, tổ
chức này kết hợp hoạt động bảo hiểm và ngân hàng thương mại. ING đã
được tạo ra trong một cuộc sáp nhập năm 1991 với một ngân hàng có trụ sở
ở Mỹ Latinh. Nó mua Barings vào năm 1995, sau khi ngân hàng này bị
khủng hoảng bởi nhà đầu cơ ngoại tệ Nick Leeson. Sau đó nó cũng mua lại
Equitable of Iowa. Vào cuối năm 1997, nó mua Cruz Blanca Securos de
Vida, một công ty bảo hiểm nhân thọ Chile, và BBL của Hà Lan. Nó cũng
đã mua tài sản ngân hàng ở Đức. ING đã xây dựng được vốn hóa thị trường
66
của nó, và từ năm 1999 ở châu Âu chỉ đứng sau UBS. Tuy nhiên ING vẫn
chưa thành công trong việc gia nhập vào nhóm đầu các siêu ngân hàng ở
châu Âu. Nó đã nỗ lực mua lại Credit Commercial de France bằng cách đưa
ra lời đề nghị mua cao hơn 15% giá trị thị trường của CCF, nhưng bị thất
bại vào tháng 12 năm 1999.
Điều này phản ánh một khuyết tật riêng trong tình hình châu Âu - sự
kháng cự sáp nhập xuyên biên giới của các ngân hàng trên nhiều quốc gia.
Không có một cuộc mua lại nào của các ngân hàng Pháp cho đến khi ngân
hàng HSBC của Anh mua CCF vào tháng Tư năm 2001. Hầu hết các vụ sáp
nhập, thậm chí là lớn nhất, là kết hợp phòng thủ trong biên giới đất nước.
Đây là trường hợp cuộc đấu thầu của Banque Nationale de Paris (BNP) vào
tháng 3 năm 1999 để có được cả Paribas và Societe General, ngay sau khi
hai tổ chức này công khai khẳng định sự quan tâm của họ với một cuộc
“hôn nhân” bình đẳng. Paribas là một ngân hàng đầu tư, trong khi hai tổ
chức kia chủ yếu là các ngân hàng thương mại, vì vậy việc sáp nhập này
mang lại tiềm năng trong cả hai trong việc cắt giảm chi phí và mở rộng
nhóm sản phẩm [55]. BNP đã thành công trong việc mua lại Paribas vào
tháng 6 năm 1999. Vào tháng 5 năm 2001, BNP mua lại BancWest ở
Hawaii để thúc đẩy các hoạt động ngân hàng cho khu vực tư nhân, quản lý
tài sản và bảo hiểm ở Mỹ, và mở ra khả năng mở rộng hơn nữa trên thị
trường ngân hàng Mỹ.
Tương tự, ngân hàng của Italia cũng tham gia vào một loạt các vụ sáp
nhập phòng thủ. Tháng ba năm 1999, hai tập đoàn ngân hàng lớn nhất thực
hiện đấu giá sáp nhập, là UniCredito Italiano với Banca Commerciale
Italiana (BCI), và Sanpaolo IMI với Banca di Roma. Cả hai thương vụ này
đều bị thúc đẩy bởi những cân nhắc cắt giảm chi phí, và nhằm mục đích
tăng vốn hóa thị trường. Vào tháng sáu năm 1999, ngân hàng lớn thứ tư của
Ý, Banca Intesa, sáp nhập với ngân hàng lớn thứ năm là Banca
67
Commerciale Italiana (BCI). Hợp nhất ngân hàng kiểu phòng ngự ở Ý xảy
ra thời gian gần đây bởi vì nhiều ngân hàng lớn chỉ gần đây mới được tư
nhân hóa.
Sáp nhập phòng thủ ở Tây Ban Nha đã được tiến hành từ lâu trước
đó. Ví dụ, Banco Central Hispanomericano (BCH) được thành lập vào năm
1992 bởi một vụ sáp nhập phòng thủ thực hiện khi xuất hiện ý tưởng thị
trường chung châu Âu. Vào tháng Giêng năm 1999, ngân hàng lớn nhất Tây
Ban Nha là Banco Santander, củng cố vị trí của mình bằng cách kết hợp với
ngân hàng lớn thứ ba, BCH. Ngân hàng lớn thứ hai của Tây Ban Nha,
Banco Bilbao Vizcaya, được tạo ra trong một cuộc sáp nhập của hai ngân
hàng ở Basque năm 1988. Những vụ sáp nhập phòng thủ khắp châu Âu này
đã cho phép đóng cửa chi nhánh, cắt giảm chi phí và gia tăng vốn hóa thị
trường. Hai ngân hàng lớn này của Tây Ban Nha đã sử dụng mua lại để có
một vai trò hàng đầu trong thị trường ngân hàng Mỹ Latinh.
Điều này đưa chúng ta đến thể loại thứ hai của sáp nhập qua biên giới
ở châu Âu là các đại ngân hàng tìm kiếm quy mô toàn cầu trong lĩnh vực
ngân hàng đầu tư, có khả năng phục vụ các tập đoàn và bảo lãnh các vấn đề
để tăng cơ cấu quy mô. Các ngân hàng tư nhân của Đức có một thị phần rất
nhỏ trong thị trường tiền gửi quốc gia, vì các ngân hàng quốc doanh thống
trị hoạt động này, vì vậy họ là những người đi tiên phong trong các nỗ lực
tăng quy mô. Những nỗ lực này thậm chí có thể được hiểu là phản ứng
phòng thủ đối với những thay đổi trên thị trường. Cũng như những nơi khác
ở châu Âu, các ngân hàng lớn nhất của Đức đã phản ứng lại với những áp
lực và triển vọng của tự do hóa châu Âu bằng một loạt các vụ sáp nhập.
Phải kể đến nỗ lực sáp nhập của ngân hàng lớn nhất của Đức, Deutsche
Bank (DB), với Dresdner vào giữa năm 1999.
DB đã tìm kiếm được một công thức thành công trong một thời gian.
Nó đã cắt giảm một phần năm nhân viên bán lẻ của mình từ năm 1992. DB
68
mua ngân hàng thương mại Anh Morgan Grenfell năm 1989. Sau đó, vào
giữa năm 1998, nó đã mua lại Bankers Trust với giá 9 tỷ USD, vì Deutsche
nhận ra nó cần giải quyết điểm yếu của mình ở Mỹ, nơi tạo ra 60% lệ phí
ngân hàng đầu tư toàn cầu. Động thái này, như đã nói ở trên, làm cho các
đại ngân hàng châu Âu khác săn lùng các ngân hàng đầu tư hàng đầu của
Mỹ như JP Morgan, Paine Webber, và Lehman Brothers. DB cuối cùng đã
thành công trong công cuôc tìm kiếm lâu dài của mình khi Euromoney xếp
nó là ngân hàng hàng đầu thế giới vào tháng 7 năm 2000. Ngân hàng này
đang chuyển đổi thành một cỗ máy kiếm tiền mà cuối cùng đưa Deutsche
gần với các ngân hàng đầu tư lâu năm như Goldman Sachs và Morgan
Stanley [26].
Qua các nghiên cứu điển hình của hoạt động M&A ngân hàng tại
châu Âu đặt ra vấn đề về xu hướng tất yếu của M&A xuyên quốc gia có tác
động từ những yếu tố: (1) Tình hình kinh tế và mối quan hệ kinh tế toàn
cầu; (2) Phương thức tiến hành M&A của châu Âu từ phòng thủ chuyển
sang tấn công để đảm bảo duy trì được tốc độ phát triển và nâng cao năng
lực cạnh tranh.
3.1.3. M&A ngân hàng tại Đông Á
Bất kỳ phân tích vốn tài chính châu Á nào cũng phải bắt đầu từ Nhật
Bản, nền kinh tế và thể chế tài chính ảnh hưởng lớn đến các nước khác
trong khu vực Đông Á. Các ngân hàng chính của Nhật Bản có lịch sử quan
hệ chặt chẽ với ngành công nghiệp giống như các ngân hàng lớn của Đức.
Các nhóm lãnh đạo chính phủ và keiretsu (tài phiệt công nghiệp ở Nhật
Bản) đầy quyền lực nắm giữ các nguồn lực tài chính, kiểm soát và khai thác
các mục tiêu của công ty và chính phủ. Hiệu quả cao của các tập đoàn của
Nhật Bản dẫn đến việc các ngân hàng của nước này phải tìm kiếm các
nguồn lực đầu tư mới, bao gồm cả bất động sản và trái phiếu cuối những
năm 1980. Điều này góp phần vào sự bùng nổ nền kinh tế bong bóng ở
69
Nhật Bản, dẫn đến các ngân hàng Nhật Bản phải quản lý một khối lượng rất
lớn tài sản và khó kiểm soát các khoản cho vay kém hiệu quả và không có
khả năng thanh toán. Tất yếu, dẫn đến các ngân hàng của nước này trở nên
mất khả năng chi trả.
Để giải quyết cuộc khủng hoảng ngân hàng này, một trong những
biện pháp là khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài và sáp nhập. Các
ngân hàng lớn của Nhật Bản chủ yếu bị thúc đẩy bởi suy thoái đã tham gia
vào một loạt các vụ sáp nhập phòng thủ, kèm theo hỗ trợ của chính phủ
trong việc giải quyết nợ xấu. Năm 1990, Ngân hàng Mitsui và Ngân hàng
Taiyo Kobe hợp nhất tạo thành ngân hàng Sakura. Năm 1991, Ngân hàng
Kyowa và Ngân hàng Saitama tạo thành Ngân hàng Asahi. Vào tháng tư
năm 1996, Ngân hàng Tokyo và Ngân hàng Mitsubishi đã sáp nhập thành
ngân hàng lớn nhất Nhật Bản Tokyo-Mitsubishi.
Những cuộc sáp nhập với phương châm "càng lớn càng tốt". Năm
1999, một làn sóng sáp nhập phòng thủ lại được tiến hành. Ngân hàng
Industrial Bank of Japan (IBJ), Fuji Bank, và Dai-Ichi Kangyo kết hợp để
tạo thành Tập đoàn tài chính Mizuho, ngân hàng lớn nhất thế giới, vào
tháng tám năm 1999. Chỉ hai tháng sau, Sakura và Sumitomo kết hợp thành
Sumitomo Mitsui. Vào tháng ba năm 2000, Sanwa, Tokai, và Asahi đồng ý
sáp nhập thành ngân hàng Sanwa. Một tháng sau đó, bốn tổ chức là Ngân
hàng Tokyo Mitsubishi, Mitsubishi Trust, Nippon Trust, và Tokyo Trust, đã
đồng ý thành lập Tập đoàn tài chính Mitsubishi Tokyo. Tuy nhiên chỉ có
quan hệ đối tác Sumitomo Mitsui là có một cơ cấu lãnh đạo thống nhất. Các
ngân hàng khác chỉ dừng lại ở chiến lược, lợi ích tốt nhất mà các vụ sáp
nhập này có thể mang lại chỉ là cắt giảm chi phí.
Trong một thập kỷ thời kỳ hậu bong bóng, hầu như tất cả các ngân
hàng lớn của Nhật Bản đã được sáp nhập hoặc gợi ý cho sáp nhập. Nhiều
nhà phân tích ủng hộ việc sáp nhập và bãi bỏ quy định, ngay cả khi không
70
hy vọng các bước này sẽ giải quyết được vấn đề nợ xấu của các ngân hàng
hoặc khôi phục lại sự tăng trưởng kinh tế vĩ mô của Nhật Bản [32]. Các
ngân hàng lớn còn sống sót của Nhật Bản đã dần dần cắt giảm liên kết của
họ với các công ty phi tài chính lớn mà trước đây họ hợp tác.
Trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998,
hầu hết các quốc gia Đông Á đều xuất hiện hoạt động M&A và nó diễn ra ở
tất cả các quốc gia bị khủng hoảng.
Những kinh nghiệm sáp nhập xuyên biên giới ở các nước Đông Nam
Á khác (không tính Trung Quốc và Hồng Kông) cũng tương tự như Hàn
Quốc. Đó là các cuộc sáp nhập do suy thoái, trong đó các đối tác nước
ngoài mua lại các tài sản ngân hàng với giá rất rẻ. HSBC đã rất tích cực
trong việc mua các ngân hàng thông qua việc mua bán như vậy [53]. Hai
trường hợp ngoại lệ ở châu Á không bị cuộc khủng hoảng tài chính ảnh
hưởng là Singapore và Đài Loan. Các ngân hàng của cả hai nước này đã
tránh được phần lớn những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu
Á. Phần lớn các ngân hàng tại Đài Loan vẫn còn nguyên vẹn. Trong khi đó
ngân hàng Singapore tham gia mua các ngân hàng châu Á khác. Ngân hàng
United Overseas (UOB) và Ngân hàng Phát triển Singapore (DBS) đã rất
tích cực trong việc sáp nhập, mua lại xuyên biên giới. UOB đã mua các
ngân hàng của Thái Lan và Philippines; The Development Bank of
Singapore Limited (DBS) của Singapore, ngân hàng lớn nhất Đông Nam Á,
đã mua các ngân hàng ở Philippines, Thái Lan và Hồng Kông. Điều thú vị
là, chính phủ Singapore để đảm bảo sự sống còn của họ như một đối thủ
cạnh tranh toàn cầu đã thúc đẩy bốn ngân hàng lớn nhất Singapore sáp nhập
chỉ còn lại hai [41].
Đặc thù hoạt động M&A của khu vực Đông Á và Đông Nam Á cho
thấy quá trình M&A chủ yếu được tiến hành “nội bộ” diễn ra trong nước
với sự điều tiết của Chính phủ với những biện pháp như nới lỏng các quy
71
định về sở hữu, tỷ lệ nắm giữ, và thu hút đầu tư nước ngoài nhằm giải quyết
các vấn đề về nợ xấu và sự yếu kém của hệ thống tài chính – ngân hàng.
3.1.4. M&A ngân hàng tại Châu Mỹ La tinh
Ngân hàng Mỹ Latinh trước khi tự do hóa chủ yếu bao gồm hai loại
nhóm ngân hàng: tập đoàn tài chính sở hữu bởi gia đình và các tổ chức của
nhà nước. Các tổ chức của nhà nước thường có nhiệm vụ chức năng riêng
biệt và đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển quốc gia.
Giống như ở Hàn Quốc, một vài đại ngân hàng đa quốc gia có hoạt động
hạn chế tại các thị trường Mỹ Latinh, và chúng thường là một di sản thuộc
địa hay thực dân kiểu mới. Sự tham gia của các đại ngân hàng đa quốc gia
nước ngoài này tăng mạnh vào cuối những năm 1970 khi châu Mỹ La tinh
tích tụ nợ. Vỡ nợ của các quốc gia đi vay dẫn đến áp lực đáng kể buộc các
quốc gia này phải tự do hóa, và dẫn đến sự trì trệ của “thập kỷ bị đánh mất”,
siêu lạm phát đã tái phát ở một vài quốc gia. Tăng trưởng trì trệ và ngoại
hối thiếu hụt làm suy yếu các ngân hàng trong nước và xói mòn thị trường
cho vay trong nước. Vào đầu những năm 1990, các quốc gia này đã tự do
hóa đáng kể thị trường tài chính của họ và nới lỏng quy định của họ về sở
hữu nước ngoài đối với doanh nghiệp trong nước, bao gồm cả các ngân
hàng. Điều này dẫn đến làn sóng mua lại của ngân hàng nước ngoài trên hầu
hết các nước Mỹ Latinh trong năm 1990 và 2000.
Trường hợp ấn tượng nhất là Mexico. Tự do hóa kinh tế đưa Mexico
đến tư nhân hóa các ngân hàng trọng điểm quốc gia và thuộc sở hữu nhà
nước trong đầu những năm 1990, trong đó có ba ngân hàng lớn nhất là
Banamex, Bancomer, và Serfin. Các nhà đầu tư Mexico đã mua lại cả ba
ngân hàng này. Các khoản vay có vấn đề và việc tham gia vào các hoạt
động rửa tiền ma túy làm suy yếu các tổ chức này. Đồng peso đã sụt giảm
mạnh vào tháng 12 năm 1994 đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới các ngân hàng
này. Cả ba ngân hàng đều đi tìm các tổ chức nước ngoài để tăng vốn chủ sở
72
hữu của họ. Kết quả là Banamex đồng ý liên minh với Aegon của Hà Lan
vào tháng 10 năm 1995, GE Capital và JP Morgan đảm bảo an toàn tài
chính cho Serfin vào năm 1995 và 1996, và hai ngân hàng Canada và Aetna
đã mua cổ phần vốn chủ sở hữu của Bancomer vào năm 1996.
Chính phủ Mexico đã có nhiều bước đi để hỗ trợ các tổ chức yếu. Ví
dụ như tháng 12 năm 1995 chính phủ đã đồng ý tiếp nhận các khoản nợ xấu
của Banamex. Nhưng bắt đầu từ tháng 7 năm 1996, Serfin và Bancomer lại
dính líu vào việc rửa tiền ma túy. Hai ngân hàng này đã bị một tòa án Mỹ
kết tội vào tháng 3 năm 1999. Serfin đã bị chính phủ tịch thu vào tháng bảy
năm 1999. Các khoản nợ xấu của nó đã được bán vào tháng mười năm
1999. Đến tháng mười hai năm 1998, các ngân hàng nước ngoài được phép
trở thành chủ sở hữu chính của các ngân hàng Mexico. Trong đó, Serfin đã
được HSBC mua cổ phần vào năm 1997, và sau đó được bán cho Santander
vào tháng năm năm 2000. Banamex cạnh tranh với Banco Bilbao của Tây
Ban Nha để mua Bancomer, nhưng thất bại. Bancomer đã được Banco
Bilbao mua với giá 1,4 tỷ USD vào tháng Sáu năm 2000. Aetna sau đó bán
hết cổ phần của mình trong Bancomer vào tháng Chín năm 2000. Citigroup
mua lại Banamex vào tháng 7 năm 2001; vào tháng mười một năm 2001, nó
thông báo sa thải 7800 nhân viên. Vào tháng Giêng năm 2002, Aegon bán
cổ phần của mình trong Banamex cho Citigroup.
Trong thực tế, sự tương tác của cuộc khủng hoảng tài chính và hỗ trợ
chính phủ đã mở đường cho sự thâm nhập sâu qua biên giới vào thị trường
ngân hàng Mỹ Latinh. Tại Mexico, các ngân hàng châu Âu, châu Á và Mỹ
chiếm 78% tất cả các tài sản ngân hàng trong năm 1999 và 79,8% năm
2000. Trường hợp của Mexico là đặc biệt vì một mình nước này trải qua
một cuộc khủng hoảng tiền tệ vào giữa những năm 1990. Tuy nhiên, các
ngân hàng nước ngoài cũng đã xâm chiếm khắp Nam Mỹ. Tại Argentina,
các ngân hàng nước ngoài chiếm 24,6% tài sản ngân hàng vào năm 1999, và
73
28,5% tài sản ngân hàng năm 2000. Tại Brazil, các ngân hàng nước ngoài
chiếm 20,4% tài sản ngân hàng trong năm 1999 và 33,6% trong năm 2000;
ở Chile, 39,3% năm 1999 và 44,6% trong năm 2000.
Tại Brazil, ABN Amro đã mua Banco Real, ngân hàng lớn thứ tư,
vào năm 1998. Do gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh, mức độ nợ xấu,
và thiếu vốn, các ngân hàng Mỹ Latinh buộc phải theo đuổi các vụ sáp
nhập. Tuy nhiên, Brazil là một ngoại lệ trong mô hình mua lại ngân hàng
trong nước yếu kém của các ngân hàng nước ngoài. Brazil là một thị trường
lớn, hấp dẫn các ngân hàng nước ngoài [21]. Một số ngân hàng trong nước
của Brazil kinh doanh khá tốt sau khi kế hoạch đồng Real được thực hiện
vào năm 1994. Ngược lại, họ đã có thể đảo ngược bằng cách mua lại một số
ngân hàng nước ngoài trên thị trường ngân hàng Brazil. Itau mua lại BFB,
một công ty con của Credit Lyonnais Pháp, vào tháng Bảy năm 1995, và
vào tháng 12 năm 2001, Itau cũng công bố kế hoạch mua Banque
Sudameris, một công ty con của IntesaBci SpA của Ý. Khi hầu như tất cả
các ngân hàng quốc doanh của Brazil đã có khả năng chi trả, chúng đã được
chào bán và đây là những cuộc cạnh tranh giữa các ngân hàng trong và
ngoài nước. Banco Bradesco mua Banco do Estado da Bahia vào tháng sáu
năm 1999, và Banco Mercantil mua Sao Paulo vào tháng Giêng năm 2002,
Itau sáp nhập với Ngân hàng Banco do Estado do Parana vào tháng 10 năm
2000. ABN-Amro mua Banco do Estado de Pernambuco vào tháng 11 năm
1998, và Santander mua ngân hàng phát triển quốc doanh lớn nhất,
Banespa, vào tháng 11 năm 2000.
Tác động gia nhập vào hoạt động ngân hàng của các ngân hàng nước
ngoài trên thị trường các nước Mỹ La tinh sắc nét hơn so với các nước châu
Á. Sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài vào Mexico và Brazil phản
ánh động cơ chủ yếu là tìm kiếm khách hàng. Sáp nhập để tìm kiếm nguồn
vay là vấn đề chính vì cuộc khủng hoảng ngân hàng quốc gia và tái phát
74
siêu lạm phát đã xói mòn khả năng và việc sẵn sàng cho vay của các ngân
hàng. Brazil Chile, Ecuador và Venezuela có tỷ lệ nợ trên tài sản thấp như
các nước Nam Á. Thị trường ngân hàng thương mại Mỹ Latinh cơ mức độ
tập trung cao. Tại Brazil, Chile, Colombia, 10 ngân hàng lớn nhất có tỷ lệ
nợ trên tài sản thấp hơn đáng kể so với các ngân hàng khác.
Các ngân hàng nước ngoài vào thị trường ngân hàng châu Mỹ Latinh
thường với mục đích tìm kiếm khách hàng có kết quả kinh doanh tốt giống
như ở châu Á. Tuy nhiên họ lại miễn cưỡng tham gia vào các hoạt động cho
vay hơn những ngân hàng nước ngoài tham gia vào thị trường châu Á. Cuộc
khủng hoảng ở Argentina cho thấy các mối nguy hiểm trong hoạt động ngân
hàng ở châu Mỹ Latinh. Bốn trong số năm ngân hàng thương mại hàng đầu
tại Argentina thuộc sở hữu nước ngoài, và cuộc khủng hoảng ở nước này đã
làm cho họ phải xem xét lại vị trí của mình tại thị trường các nước Mỹ
Latinh. FleetBoston xem xét việc rút ra hay ngừng toàn bộ hoạt động ngân
hàng của minh ở Argentina. Các ngân hàng BBV và Santander của Tây Ban
Nha cũng có động thái tương tự. Các ngân hàng Tây Ban Nha, cũng như
J.P. Morgan và các ngân hàng khác của Mỹ đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi
cuộc khủng hoảng này. Việc tìm kiếm các khách hàng có kết quả kinh
doanh tốt là rất khó vì những vấn đề trong cấu trúc vĩ mô của các nước này.
Tuy nhiên, thiệt hại ngân hàng lớn ở nước ngoài ở Argentina đã tạo cho các
ngân hàng trong nước của Brazil một lợi thế cạnh tranh trong việc mua lại
các ngân hàng tầm trung và củng cố vị trí của họ.
Tóm lại, sự lây lan của làn sóng sáp nhập toàn cầu trong ngành ngân
hàng đã làm thay đổi hoạt động ngân hàng và các chức năng kinh tế của
ngân hàng. Sáp nhập ngân hàng ở Mỹ đã tạo điều kiện cho việc chuyển đổi
của các ngân hàng từ cơ chế tiết kiệm-đầu tư tổng hợp và vốn chỉ tập trung
vào các thị trường địa phương sang cung cấp dịch vụ mua bán các tài sản.
Sáp nhập có thể được phân loại thành mục đích tìm kiếm mở rộng khách
75
hàng, tìm kiếm mở rộng sản xuất, hoặc cả hai. Các đại ngân hàng phát triển
rất tích cực thông qua sáp nhập để tìm kiếm khách hàng, là các hộ gia đình
giàu có với thu nhập và tài sản đáng kể, cho các sản phẩm dựa trên thu phí
và các tài sản được chứng khoán hóa. Họ tìm kiếm trên quy mô toàn cầu
cùng một cách như vậy cho các hoạt động cho vay.
Sáp nhập và mua lại ngân hàng ở các nước đang phát triển, đặt biệt là
M&A xuyên biên giới, có nhiều ý kiến tranh luận trái chiều. Các cuộc
khủng hoảng đồng peso Mexico năm 1994, cuộc khủng hoảng tài chính
Đông Á năm 1997-98, khủng hoảng tiền tệ Nga-Brazil 1998-1999, và gần
đây là khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 dẫn đến một số nhà kinh
tế theo định hướng thị trường xem xét lại những kết quả đạt được của tự do
hóa tài chính và dòng chảy tài chính tự do.
Một số người cho rằng các nền kinh tế đang phát triển có thể phát
triển nhanh hơn nếu họ áp đặt một số hạn chế về di chuyển vốn qua biên
giới. Việc mở cửa thị trường tiền tệ và chứng khoán có thể làm giảm phúc
lợi kinh tế của các nền kinh tế đang phát triển. Đáng chú ý nhất là các nhà
kinh tế của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã phát hiện ra rằng
tự do hóa tài chính làm tăng khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng, và
các hiệu ứng lan truyền của các cuộc khủng hoảng tài chính là lớn và tốn
kém. IMF cho rằng cuộc khủng hoảng châu Á là minh chứng cho thấy
những yếu kém trong hệ thống tài chính, và quản trị thấp có thể làm suy yếu
các nền kinh tế [35].
Trong khi những nhà hoạch định chính sách của IMF và Ngân hàng
Thế giới ngày càng đặt câu hỏi liệu dòng vốn chảy qua biên giới có tác
dụng tích cực đối với nền kinh tế quốc gia, họ cũng đồng ý rằng việc nâng
cao quản trị tài chính là cần thiết cho một nền kinh tế toàn cầu ổn định và
thịnh vượng. Ở đây, nhu cầu được bảo vệ khỏi những bất ổn định và sụp đổ
tài chính đưa đến một làn sóng sáp nhập toàn cầu, đó hợp nhất giữa các
76
ngân hàng để đạt được các yêu cầu hiện đại hóa và sửa chữa những yếu
kém. Vì vậy, về nguyên tắc, một làn sóng sáp nhập ngân hàng toàn cầu có
thể đảm bảo thị trường cởi mở hơn và dòng chảy xuyên biên giới tự do hơn
sẽ mang đến mức phúc lợi cao hơn.
3.2. M&A ngân hàng tại Hàn Quốc
Phần này sẽ phân tích kinh nghiệm M&A trong lĩnh vực ngân hàng
tại Hàn Quốc, là quốc gia có hoàn cảnh và thực tế tương đồng với Việt
Nam. Trên thực tế, công cuộc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở mỗi một
quốc gia là đặc thù, xét đến điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội ở mỗi nước
là khác nhau. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng không giống với bất kỳ
một quốc gia nào khác, song có những nét tương đồng với các nước châu Á
như Hàn Quốc, trên phương diện hệ thống ngân hàng Việt Nam có nhiều
ngân hàng nhỏ, phân tán, thiếu những ngân hàng đủ lớn làm trụ cột; tương
đồng về văn hóa, mối quan hệ của hệ thống ngân hàng và khối doanh
nghiệp nhà nước.
M&A đóng vai trò quan trọng trong quá trình cải cách hệ thống ngân
hàng của Hàn Quốc từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 đến
nay. Cùng với việc tăng tỷ lệ sở hữu ngân hàng trong nước của nước ngoài,
M&A là hai biện pháp chính để làm lành mạnh hóa hệ thống tài chính ngân
hàng và tăng hiệu quả của các ngân hàng nước này của chính phủ Hàn
Quốc. Các biện pháp này được đánh giá là hiệu quả và tiếp tục được đẩy
mạnh từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 cho đến nay.
Để hiểu được nguyên nhân thúc đẩy làn sóng M&A trong lĩnh vực ngân
hàng ở Hàn Quốc những năm 2000, trước tiên phải xem xét tình hình kinh
tế và hệ thống ngân hàng Hàn Quốc trước khủng hoảng tài chính châu Á
1997-1998. Sau đó, đề tài sẽ phân tích sự thành công và thất bại của M&A
trong lĩnh vực ngân hàng tại Hàn Quốc từ khủng hoảng tài chính châu Á
1997 cho đến nay.
77
3.2.1. Hiện trạng của hệ thống ngân hàng ở Hàn Quốc trước
khủng hoảng tài chính châu Á 1997
Hàn Quốc là nền kinh tế hàng đầu của châu Á. Trong vòng 3 thập kỷ
từ đầu những năm 60 đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Hàn Quốc đã
thành công trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và trở
thành một nước công nghiệp phát triển.
Một trong những đặc điểm quan trọng của quá trình công nghiệp hóa
ở Hàn Quốc là sự phát triển mạnh mẽ của các tập đoàn kinh tế lớn
(chaebol). Tuy nhiên, sự lớn mạnh của các chaebol lại phụ thuộc rất lớn vào
chính sách của chính phủ và sự hỗ trợ vốn từ hệ thống ngân hàng. Do đó, có
thể nói, sự phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc phụ thuộc chủ yếu vào mối
quan hệ chặt chẽ giữa ngân hàng, chính phủ và các chaebol.
Trong một thời gian dài, với chính sách hướng về xuất khẩu, chính
phủ Hàn Quốc đã tập trung mọi sự hỗ trợ cho các chaebol. Theo các quy
định của Chính phủ, các ngân hàng thương mại Hàn Quốc phải cho các
chaebol vay với lãi suất thấp. Hơn thế, Chính phủ sẵn sàng đứng ra bảo lãnh
cho những khoản vay này trong những trường hợp doanh nghiệp phá sản
hay thua lỗ.
Vì vậy, các khoản vay của chaebol chiếm một tỷ lệ rất lớn trong hệ
thống ngân hàng thương mại. Có ngân hàng cho một doanh nghiệp vay tới
45% tổng dư nợ tín dụng. Thậm chí, tổng dư nợ của một tập đoàn chaebol
tại một ngân hàng có thể lên tới 300% tổng nguồn vốn của ngân hàng đó.
Do Chính phủ can thiệp quá sâu vào quá trình kinh doanh của các
ngân hàng, đặc biệt là việc giới hạn lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp,
nên lợi nhuận của hệ thống ngân hàng Hàn Quốc thuộc loại thấp nhất trong
các nền kinh tế mới nổi vào thời điểm đó. Việc ỷ lại vào sự bảo lãnh của
Chính phủ trong các dự án cho vay cũng đã làm giảm đi sự cạnh tranh về
78
giá giữa các ngân hàng và hạn chế khả năng của các ngân hàng trong việc
tính toán chi phí và xây dựng cho mình chính sách tín dụng hợp lý. Vì vậy,
rủi ro đến với hệ thống ngân hàng là điều không thể tránh khỏi. Đặc biệt là
vấn đề nợ xấu, đây là vấn đề lớn nhất trong hệ thống ngân hàng Hàn Quốc
lúc bấy giờ. Bởi vì tâm lý "ngân hàng không bao giờ sụp đổ" vì đã có Chính
phủ hỗ trợ, nên các ngân hàng liên tục mở rộng hoạt động cấp tín dụng, bỏ
qua công tác kiểm soát rủi ro cần thiết. Năm 1998, tỷ lệ nợ xấu của ngân
hàng Hàn Quốc lên tới 112 nghìn tỷ won (tương đương 8,9%).
3.2.2. M&A ngân hàng - biện pháp hữu hiệu được Chính phủ
Hàn Quốc sử dụng nhằm khắc phục khủng hoảng trong hệ thống ngân
hàng sau khủng hoảng tài chính châu Á 1997
Khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra và kéo Hàn Quốc vào
vòng xoáy thì hệ thống ngân hàng Hàn Quốc đã bộc lộ tất cả những yếu
kém của mình. Bốn tháng sau khi cuộc khủng hoảng nổ ra, từ tháng
11/1997, Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu thực thi một chương trình cải cách
toàn diện ngành ngân hàng. Chương trình tái cơ cấu tài chính này được
chính phủ Hàn Quốc thực hiện làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu từ năm
1998 đến 2000. Giai đoạn này thực hiện ba loại sáp nhập. Loại đầu tiên là
thực hiện sáp nhập năm ngân hàng vỡ nợ vào năm ngân hàng khỏe mạnh
dưới hình thức “Mua lại & tiếp nhận nợ” (P&A). Loại thứ hai là ba nhóm
các ngân hàng tương đối tốt được chính phủ Hàn Quốc khuyến khích tự
nguyện sáp nhập. Loại thứ ba là một vụ sáp nhập tự nguyện của hai ngân
hàng. Việc tái cơ cấu giai đoạn 2 được bắt đầu vào năm 2001 tập trung vào
việc khôi phục lợi nhuận ngân hàng. Giai đoạn cải cách cơ cấu này đã đưa
ra hệ thống các tổ chức,công ty tài chính và cho phép sáp nhập giữa các
ngân hàng lớn hơn, kết quả là xuất hiện một số ít các ngân hàng siêu lớn.
Ở giai đoạn một, để giải quyết vấn đề nợ xấu và cải cách hệ thống
ngân hàng, chính phủ Hàn Quốc đầu tiên thành lập Ủy ban Giám sát tài
79
chính (FSC) vào tháng 3 năm 1998. Công việc đầu tiên của FSC là thực
hiện phân loại ngân hàng theo tiêu chuẩn Basel I, theo đó ngân hàng khỏe
mạnh là ngân hàng có hệ số an toàn vốn (CAR) không nhỏ hơn 8. Các ngân
hàng được chia làm 3 nhóm: nhóm những ngân hàng không đáp ứng đủ các
tiêu chuẩn về an toàn vốn theo Basel I (CAR <8%) và không có khả năng
hồi phục, nhóm có CAR<8% nhưng có khả năng hồi phục, và nhóm các
ngân hàng đáp ứng được yêu cầu CAR tối thiểu. Nhóm thứ nhất bị buộc
chấm dứt hoạt động độc lập, sáp nhập với ngân hàng có tình hình tài chính
tốt hơn. Với nhóm ngân hàng thứ hai được yêu cầu sáp nhập với nhau.
Những ngân hàng có tình hình tài chính tốt cũng được khuyến khích sáp
nhập để hình thành ngân hàng mới có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả hơn,
cung cấp đa dạng các dịch vụ và đủ sức phát triển trong bối cảnh cạnh tranh
ngày càng quyết liệt.
FCS đã xác định được 12 trong tổng số 24 ngân hàng Hàn Quốc
không đủ khả năng tồn tại, và sau đó, yêu cầu 5 ngân hàng bị đình chỉ giấy
phép ngay lập tức và 7 ngân hàng còn lại chỉ được hoạt động trên cơ sở có
điều kiện. 5 ngân hàng bị ngừng hoạt động sau đó được các ngân hàng còn
khả năng hoạt động mua lại là Ngân hàng Dongwha, Ngân hàng Daedong,
Ngân hàng Dongnam, Ngân hàng Kyungki và Ngân hàng Chung Chong.
Những khoản nợ không sinh lời của các ngân hàng này được Cơ quan quản
lý tài sản Hàn Quốc đứng ra mua. Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc còn
hỗ trợ cho các ngân hàng được cơ cấu lại bằng việc cấp thêm vốn thông qua
trái phiếu chính phủ do Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Hàn Quốc phát hành và
được Chính phủ bảo lãnh. Nếu tài sản và nguồn vốn của các ngân hàng phải
đóng cửa bị mất giá trong quá trình mua lại hay sáp nhập thì Chính phủ Hàn
Quốc cũng sẽ đứng ra bù đắp cho những thiệt hại này.
Chính phủ Hàn Quốc cũng yêu cầu 7 ngân hàng được phép hoạt động
có điều kiện phải hợp nhất với nhau hoặc tự tìm đối tác nước ngoài có khả
80
năng về vốn và kinh nghiệm trong quản lý ngân hàng để hợp tác. Trong
những trường hợp đặc biệt, FSC có thể mua lại những khoản nợ không sinh
lời và tái cấp vốn cho các ngân hàng này với những điều kiện như: phải
giảm 45 - 50% nhân viên, sắp xếp lại hoạt động của bộ máy lãnh đạo, củng
cố hệ thống mạng lưới chi nhánh, đảm bảo tìm kiếm được đối tác để hợp
nhất hay đối tác nước ngoài, và phải thay thế bộ máy điều hành cũ bằng đội
ngũ chuyên gia ngân hàng trong nước và quốc tế. Chính phủ thúc đẩy việc
sáp nhập Ngân hàng Thương mại của Hàn Quốc và Ngân hàng Hanil để tạo
thành Hanvit Ngân hàng, việc sáp nhập của Ngân hàng Choongbuk và Ngân
hàng Kangwon để tạo Ngân hàng Cho Heung và sự tiếp quản của các-dài
hạn Ngân hàng tín dụng của Ngân hàng trong Kukmin năm 1999.
Tuy nhiên, trên thực tế, mọi việc diễn ra không suôn sẻ như dự kiến
vì 5 trong số các ngân hàng lớn nhất của Hàn Quốc đã bị quốc hữu hóa sau
khi hoàn thành việc tái cơ cấu. Hơn thế nữa, 5 ngân hàng này lại nắm giữ
phần lớn những khoản vay của 30 chaebol lớn nhất. Một lý do khác nữa là
tại Hàn Quốc, Chính phủ sở hữu hầu hết các NHTM nên việc tham gia vào
tái cơ cấu các chaebol của các ngân hàng thực chất cũng là do Chính phủ
thực hiện. Do đó, trên thực tế, Chính phủ Hàn Quốc vẫn là nơi chịu gánh
nặng cuối cùng. Tính tới cuối tháng 9/1998, Chính phủ Hàn Quốc đã chi tới
16 nghìn tỷ Won để mua lại các khoản nợ khó đòi trị giá khoảng 36 nghìn
tỷ won. Tới cuối năm 2003, Chính phủ Hàn Quốc phải chi tới 161 nghìn tỷ
won để ổn định khu vực tài chính và tái cấp vốn cho hệ thống ngân hàng.
Để tạo hành hàng lang pháp lý cho việc tiến hành sáp nhập các ngân
hàng và tổ chức tài chính, đầu tiên chính phủ Hàn Quốc ban hành Luật Tập
đoàn tài chính, cho phép sự ra đời của hình thức Tập đoàn tài chính, thông
qua hình thức sáp nhập và mua lại các định chế tài chính yếu kém, các ngân
hàng địa phương. Bên cạnh đó, Luật Ngân hàng cũng được ban hành nhằm
quy định chặt chẽ hơn vai trò, nhiệm vụ của hội đồng quản trị, nâng cao
81
chất lượng quản trị doanh nghiệp với việc yêu cầu có sự tham gia nhiều hơn
của các thành viên hội đồng quản trị độc lập và Ban kiểm soát cũng được
gia tăng quyền hạn, nghĩa vụ.
Tái cơ cấu hệ thống tài chính ngân hàng giai đoạn hai là việc chuyển
dịch cơ cấu tập trung vào khôi phục lợi nhuận ngân hàng. Giai đoạn này bắt
đầu vào năm 2001 với việc ra đời tập đoàn Woori Holding, được tạo ra từ
sự sáp nhập của Ngân hàng Hanvit, Ngân hàng Kwangju, Ngân hàng
Kyungnam và Ngân hàng Hòa Bình (theo Đạo luật Công ty cổ phần tài
chính năm 1999). Và cuối "giai đoạn hai", sáp nhập giữa Ngân hàng
Kukmin và Ngân hàng thương mại và bất động sản và Shinhan Financial
Holding Co tạo thành từ sự sáp nhập của Ngân hàng Shinhan và Ngân hàng
Cheju. Việc hợp nhất ngân hàng sau khủng hoảng tài chính châu Á đã dẫn
đến một sự gia tăng đáng kể sự tập trung hóa thị trường trong nước trong hệ
thống ngân hàng. Các vụ sáp nhập ngân hàng đã dẫn đến việc giảm số
lượng ngân hàng từ 26 vào giữa năm 1997 xuống còn 14 vào năm 2004, từ
đó tạo ra các ngân hàng lớn. Ba ngân hàng lớn nhất tăng thị phần cho vay
của họ từ 28% lên 51% và tỷ trọng của họ về tiền gửi từ 28% lên 53%. Cuối
cùng, Vòng M&A thứ hai vào năm 2005 và 2006 bằng việc Ngân hàng Citi
mua Hanmi Bank, và Standard Charter Bank mua lại Ngân hàng Korea First
(đổi tên là ngân hàng SC Korea First Bank) và Ngân hàng Shinhan mua
Ngân hàng Cho Heung. Đến cuối năm 2006, số lượng các ngân hàng
thương mại Hàn Quốc đã bị thu hẹp xuống còn 11.
Điểm nhấn thứ hai là Chính phủ cho phép nâng tỷ lệ sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài tham gia vào hệ thống ngân hàng Hàn Quốc. Sự tham gia
của các tổ chức ngân hàng quốc tế đã giúp đem lại làn gió mới về năng lực
quản trị rủi ro, tiềm lực tài chính, đồng thời cải thiện đáng kể hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ và tác phong hoạt
động chuyên nghiệp.
82
Kết quả của chương trình cải cách, số lượng ngân hàng Hàn Quốc sau
tái cấu trúc đã giảm 40%, từ 33 ngân hàng (năm 1997) xuống còn 19 ngân
hàng (năm 2002) nhưng quy mô vốn, chất lượng tài sản trên bảng cân đối
kế toán, năng lực cạnh tranh và khả năng sinh lợi được gia tăng rõ rệt. Bảng
1 tổng kết các thương vụ M&A trong lĩnh vực ngân hàng tại Hàn Quốc từ
năm 1997 cho đến 2005.
Bảng 3.1: Phân loại Ngân hàng thương mại Hàn Quốc giai đoạn 1995- 2005
Năm 1
1995
1
1996
1
1997
1
1998
1
1999
2
2000
2
2001
2
2002
2
2003
2
2004
2
2005
Số lượng
NH
2
25
2
25
2
26
2
20
1
17
1
17
1
15
1
14
1
14
1
14
1
14
Các Ngân
hàng chi
phối có
quy mô
toàn quốc
(72%)
Commercial Hanvit
Woori Hanil
Peace
Korea First (vẫn giữ tên “SC Korea First” đến năm 2005)
Korea Exchange
Kookmin
Kookmin Kookmin
Daedong
Dongnam
Housing & Commercial
Cho Hung
Cho Hung Kangwon
Chungbuk
Các Ngân
hàng có
quy mô
toàn quốc
mới
(10%)
Shinhan Shinhan
Dongwha
KorAm KorAm (vẫn giữ tên “Korea Citi” đến năm 2004)
Kyungki
Hana H
Hana Hana Hana
Chungchong
Boram
Seoul
Các Ngân
hàng khu
vực
(18%)
Daegu
Pusan
Kwangju
Cheju
Jeonbuk
Kyongnam
83
(Bảng Phân loại Ngân hàng thương mại Hàn Quốc giai đoạn 1995- 2005) Các số
liệu trong ngoặc đơn chỉ ra tỷ lệ tổng tài sản tại thời điểm năm 1997. Năm 1997, có 08 ngân
hàng chi phối có quy mô toàn quốc (Commercial, Hanil, Korea First, Korea Exchange,
Kookmin, Housing & Commercial, Cho Hung, và Seoul), 04 ngân hàng có quy mô toàn
quốc mới (Shinhan, KorAm, Hana, và Boram), và 14 ngân hàng khu vực (Peace, Daedong,
Dongnam, Kangwon, Chungbuk, Dongwha, Kyungki, Chungchong, Daegu, Pusan, Kwanju,
Cheju, Jeonbuk, và Kyongnam). (Nguồn: Ngân hàng Hàn Quốc)
3.2.3. M&A ngân hàng - biện pháp củng cố hệ thống ngân hàng ở
Hàn Quốc sau khủng hoảng tài chính 2007
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 bắt đầu với cuộc
khủng hoảng dưới chuẩn tại Mỹ và sau đó dẫn đến vấn đề thanh khoản
trong các ngân hàng ở Mỹ, chỉ ảnh hưởng tới các nền kinh tế châu Á chủ
yếu ở sự gia tăng những lo ngại rủi ro đầu tư. Không giống như nhiều ngân
hàng ở châu Âu và Mỹ, các ngân hàng Hàn Quốc có rất ít tiếp xúc trực tiếp
với nợ dưới chuẩn nhưng phụ thuộc nhiều vào nợ nước ngoài ngắn hạn cho
các nhu cầu tài chính ngân hàng. Vì vậy sự lo sợ chính của các ngân hàng
Hàn Quốc trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 là nhà đầu
tư nước ngoài sẽ ồ ạt rời khỏi thị trường trong nước và tạo ra tình trạng
thiếu thanh khoản trong hệ thống ngân hàng trong nước. Vấn đề càng trầm
trọng hơn bởi sự sụt giảm tiếp theo giá trị của Won Hàn Quốc so với đồng
USD (từ 936 won vào tháng một năm 2008 xuống còn 1510 won vào cuối
tháng 11 năm 2008), cùng với chỉ số giá chứng khoán Hàn Quốc (KOSPI)
giảm (từ mức cao nhất là 1897 vào tháng 12 năm 2007 xuống mức thấp là
1063 vào tháng 2 năm 2009).
Việc quá phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài nước ngoài luôn luôn là
một vấn đề đối với các ngân hàng Hàn Quốc vì những nhu cầu của họ trong
việc mở rộng hoạt động cả trong nước và ngoài nước để tăng quy mô tài
sản.
84
Tuy nhiên, mặc dù lĩnh vực ngân hàng đã được củng cố đáng kể từ
sau khủng hoảng tài chính châu Á, ngân hàng Hàn Quốc vẫn nhạy cảm với
những thách thức của thị trường toàn cầu do mô hình ngân hàng của họ.
Nền kinh tế Hàn Quốc bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu trong số các nước châu Á, tốc độ tăng trưởng âm 20% vào
năm 2009. Về thanh khoản ngân hàng, tuy tỷ lệ tái đầu tư trung bình của
các khoản vay kỳ hạn ngắn hạn (từ 2 ngày đến 1 năm) vẫn ổn định: 86,9%
năm 2008, 99,9% năm 2009, 91,3% năm 2010 và 101,3% trong năm 2011,
vay nợ nước ngoài dài hạn của các ngân hàng giảm khi thị trường tín dụng
quốc tế đóng cửa, xuống từ 11,3 tỷ USD năm 2007 còn 6,23 tỷ USD năm
2008 và sau đó xuống còn 4,25 tỷ USD vào năm 2009. Những vấn đề thanh
khoản gia tăng cùng với tỷ lệ cho vay không đạt tiêu chuẩn của các ngân
hàng từ 0,72% vào tháng 12 năm 2007 lên 1,14% vào tháng 12 năm 2008,
lên 1,24% vào tháng 12 năm 2009 và 1,90% vào tháng 12 năm 2010. Điều
này sau đó đã buộc Chính phủ Hàn Quốc thành lập Quỹ tái cấp vốn ngân
hàng 20 nghìn tỷ KRW (tương đương 13,5 tỷ USD) và cung cấp bảo lãnh
chính phủ cho khoản nợ 100 tỷ USD nợ nước ngoài của các ngân hàng. Vào
cuối tháng 3 năm 2009, tuy nhiên, chỉ có 4 nghìn tỷ won (2,7 tỷ USD) đã
được đầu tư vào 08 ngân hàng trong nước thông qua việc mua nợ và vốn.
Cấu trúc của hệ thống ngân hàng và sự phụ thuộc vào vốn nước ngoài ngắn
hạn đã có một ảnh hưởng lớn, mặc dù ngắn hạn, trong lĩnh vực ngân hàng
và sau đó tác động vào nền kinh tế thực. Mặc dù Chính phủ Hàn Quốc đã
đưa ra các yêu cầu mới về vốn điều lệ vào năm 2009, tỷ lệ an toàn vốn
trung bình của ngành vẫn ở mức 14% tài sản vào tháng 9 năm 2009 khi so
sánh với mức tối thiểu của BIS là 8%.
Bởi vì quy mô của các ngân hàng Hàn Quốc là khá nhỏ so với các đối
thủ cạnh tranh quốc tế chính của họ, trong những năm gần đây đã dẫn đến
việc kêu gọi thành lập các ngân hàng lớn thông qua M&A như giữa Ngân
85
hàng Kookmin và Woori, hoặc Ngân hàng Woori và Ngân hàng Phát triển
Hàn Quốc, để các ngân hàng trong nước có thể cạnh tranh trong ngành dịch
vụ tài chính toàn cầu. Do đó, Hàn Quốc lại một lần nữa tiến hành một quá
trình hợp nhất ngân hàng. Năm 2013 việc mua lại Ngân hàng Korea
Exchange của Tập đoàn tài chính Hana là thương vụ M&A ngân hàng lớn
thứ ba châu Á. Giá trị của thương vụ này lên đến 5,72 tỷ USD, đưa Hàn
Quốc trở thành nước đứng đầu về tổng giá trị M&A trong lĩnh vực ngân
hàng tại châu Á, đạt 5,9 tỷ USD năm 2013.
3.2.4. Đánh giá kết quả M&A trong lĩnh vực ngân hàng tại Hàn
Quốc
Vì sự hạn chế về thời gian và số lượng M&A trong lĩnh vực ngân
hàng tại Hàn Quốc sau khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới 2007-2008
(chỉ có một vụ M&A thực hiện năm 2013) nên luận án chỉ đánh giá sự
thành công M&A trong lĩnh vực ngân hàng tại nước này trong thời gian
trước 2007. Có thể khẳng định quá trình cải cách hậu khủng hoảng và phục
hồi tại Hàn Quốc đã thành công và nhanh chóng. Một trong những yếu tố
quan trọng nhất góp phần phục hồi thành công và nhanh chóng của Hàn
Quốc từ cuộc khủng hoảng 1997-1998 là việc thành lập các cơ chế giải
quyết khủng hoảng hiệu quả. Các nhiệm vụ để giải quyết các ngân hàng và
tổ chức tài chính yếu kém gồm: (1) Đánh giá các danh mục đầu tư của ngân
hàng; (2) Xác định khả năng tồn tại của các ngân hàng; (3) Đưa ra giải pháp
cho các ngân hàng không còn khả năng tồn tại; (4) Nhanh chóng làm sạch
các tài sản xấu và nợ xấu từ các tổ chức tài chính gặp khó khăn; và (5) Tái
cấp vốn cho các ngân hàng có khả năng tồn tại và bảo vệ người gửi tiền để
lấy lại niềm tin vào hệ thống ngân hàng. Đối với ba nhiệm vụ đầu tiên, Ủy
ban giám sát tài chính (FSC) đã được thành lập như là cơ quan giám sát
thống nhất và độc lập đối với các ngân hàng, các công ty chứng khoán và
bảo hiểm. Đối với hai nhiệm vụ (4) và (5), hai Tổng công ty quốc doanh -
86
Tổng công ty Quản lý tài sản Hàn Quốc (KAMCO) và Tổng công ty Bảo
hiểm tiền gửi Hàn Quốc (KDIC) đã được thành lập ngay sau khi cuộc
khủng hoảng nổ ra vào năm 1997.
KAMCO đã được thành lập vào tháng 11 năm 1997 như một Quỹ
quản lý nợ xấu của Chính phủ Hàn Quốc*. Đồng thời, Tổng Công ty Bảo
hiểm tiền gửi Hàn Quốc (KDIC) cũng đã được mở rộng để có thể cung cấp
hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tài chính gặp khó khăn thông qua tái cơ cấu
vốn, bơm thanh khoản và thanh toán bù trừ nợ xấu cho các tổ chức tài
chính. Ngoài ra, KDIC cũng mở rộng các chương trình bảo vệ người gửi
tiền ngay sau khi cuộc khủng hoảng nổ ra bằng cách tạm thời bảo đảm cho
tất cả người gửi tiền trong vòng ba năm đến tháng 12 năm 2000.
Nhiệm vụ chính của KAMCO là giải quyết nợ xấu (NPL) một cách
hiệu quả và góp phần vào việc tái cơ cấu hiệu quả lĩnh vực tài chính Hàn
Quốc trong thời kỳ hậu khủng hoảng 1997. Hoạt động của KAMCO gồm 5
chức năng: (1) Quản lý và điều hành hoạt động của Quỹ tài sản nợ xấu; (2)
Mua lại và xử lý nợ xấu của các tổ chức tài chính; (3) Thực hiện chương
trình giải quyết các công ty trong tình trạng nguy hiểm; (4) Quản lý tài sản
của chính phủ và giải quyết các khoản nợ thuế; và (5) Hỗ trợ sự phục hồi tín
dụng tiêu dùng.
Trong thời kỳ hậu khủng hoảng 1997-2006, KAMCO đã trả tổng
cộng 38,8 nghìn tỷ won để mua tổng cộng 111 nghìn tỷ won nợ xấu.
KAMCO áp dụng các phương pháp khác nhau để xử lý nợ xấu một cách
* KAMCO thực chất là sự mở rộng của SeongupKongsa, cơ quan giúp các tổ chức tài chính thu hồi nợ
xấu khó đòi và được đổi thành KAMCO từ ngày 31/12/1999. KAMCO là một công ty quản lý tài sản
công, giống như RTC (Mỹ), Securum (Thụy Điển), Arsenal (Phần Lan) và Danaharta (Malaysia).
KAMCO tương tự như RTC của Mỹ ở khía cạnh cả hai cố gắng xử lý nợ xấu càng nhanh càng tốt hơn là
tối đa hóa tốc độ hồi phục. Tuy nhiên,KAMCO đã bắt đầu chú trọng hơn vào tốc độ phục hồi bằng cách sử
dụng các loại công cụ chuyển đổi cơ cấu. Hơn nữa, KAMCO đã thành lập CRC và CRV, là các công ty
liên doanh với các ngân hàng đầu tư nước ngoài như Morgan Stanley, Dean Witter, Sonnenblick Goldman
và Lehman Brothers (trước năm 2008). Xem chi tiết trong Korea Asset Mgmt. Corp.,
http://kamco.or.kr/eng.html
87
hiệu quả và đã thu hồi được 415 nghìn tỷ won vào cuối năm 2006 [27]. Vì
vậy, KAMCO đã thu hồi được nhiều hơn số tiền ban đầu được bơm vào
Quỹ, giảm thiểu gánh nặng cho người nộp thuế. Đây là một trong những
câu chuyện thành công trong việc xử lý nợ xấu mà các nước khác có thể áp
dụng [39]. Mặt khác, KDIC được tăng thêm 95,5 nghìn tỷ won và đã chi
tổng cộng 130 nghìn tỷ won cho các hoạt động tái cấp vốn ngân hàng (63,5
nghìn tỷ won), bơm thanh khoản cho các tổ chức tài chính yếu kém (18,5
nghìn tỷ won), các khoản thanh toán bảo hiểm tiền gửi (30,3 nghìn tỷ won),
và mua tài sản có vấn đề (17,3 nghìn tỷ won). Khoảng hai phần ba quỹ công
được huy động thông qua phát hành trái phiếu của KAMCO và KDIC.
Chính phủ Hàn Quốc tài trợ phần ngân sách thiếu hụt cho tái cơ cấu tài
chính thông qua một ngân sách đặc biệt, tiền vay nước ngoài, quỹ quản lý
tài sản nhà nước, và một số phương pháp khác. Số tiền này lên đến 22,6
nghìn tỷ won vào tháng 8 năm 2001. Đến tháng 12 năm 2006, hơn 50% các
quỹ công đã được khôi phục thông qua việc thực hiện hiệu quả việc duy trì,
kinh doanh và chuyển giao của các dự án quỹ công [37].
Có một vài điểm đáng chú ý ở đây. Thứ nhất, mặc dù Hàn Quốc
không có kinh nghiệm và chuyên môn trong việc xử lý một số lượng lớn nợ
xấu, nhưng nhiệm vụ này đã được thực hiện nhanh chóng và thành công.
Thứ hai, khi xử lý một khối lượng lớn nợ xấu được mua với giá giảm,
KAMCO đã sử dụng nhiều cách sáng tạo khác nhau để có được lợi nhuận
cao nhất có thể, như đấu giá công khai, bán trực tiếp, đấu thầu quốc tế, áp
dụng quỹ tương hỗ cơ cấu doanh nghiệp (CRVs) hoặc công ty tái cơ cấu
doanh nghiệp (CRCs ), phát hành tài sản đảm bảo (ABS), và hoán đổi nợ -
vốn chủ sở hữu. Thứ ba, vấn đề nợ xấu của các tổ chức tài chính tại Hàn
Quốc đã được giải quyết một cách nhanh chóng và dứt khoát. Chỉ hai ngày
sau khi được thành lập, KAMCO đã mua tổng cộng 4,4 nghìn tỷ won nợ
xấu từ Ngân hàng Cheil (hay còn gọi là Korea First Bank) và 2,9 nghìn tỷ
88
won của Ngân hàng Seoul. Cho đến tháng 8 năm 2001 KAMCO đã mua
tổng mệnh giá 99,5 nghìn tỷ won nợ xấu và đã trả 38,2 nghìn tỷ won. Thứ
tư, các biện pháp cứu trợ nên bao gồm các biện pháp thoát ra với khung thời
gian rõ ràng, trong đó phải gồm một kế hoạch bàn giao các ngân hàng quốc
doanh cấp toàn quốc thuận tiện và sớm nhất cho khu vực tư nhân. Thứ năm,
mặc dù các kế hoạch giải cứu đã được thực hiện kịp thời và dứt khoát, các
kế hoạch cũng phải linh hoạt và dễ thích nghi. KAMCO và KDIC cũng đã
bơm thanh khoản ngắn hạn cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức
tài chính khác bằng cách mua lại các thỏa thuận mua lại trái phiếu của các
ngân hàng gặp khó khăn và cung cấp tín dụng trực tiếp cho họ.
Hình 3.1: Ảnh hưởng của cải cách tài chính ở Hàn Quốc: xóa tài
sản xấu và nâng tỷ lệ an toàn vốn BIS
(Nguồn: Ngân hàng Hàn Quốc)
Bảng 3.2: Lợi nhuận của các ngân hàng thương mại cấp toàn quốc
Đơn vị tính: Nghìn tỷ won
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Lợi nhuận trước thuế -10,1 -1,3 -1,8 3,6 3,7 0,25 6,0 10,1
Tỷ suất lợi nhuận trên
VCSH (%)
-48,63 -24,3 -10,81 16,30 10,95 0,87 18,23 20,52
89
Tỷ suất lợi nhuận trên tài
sản (%)
-,2099 -1,42 -0,53 0,79 0,56 0,04 0,89 2,25
(Nguồn: FSS)
Các phương pháp xử lý nợ xấu khác nhau của KAMCO cũng có
những tác động tích cực khác. Trung gian tài chính như CRV lần đầu tiên
đã được thông qua tại Hàn Quốc. Việc sáp nhập và mua lại trên thị trường
đã được kích thích, và các phương pháp tái cơ cấu doanh nghiệp trở nên
hiệu quả hơn. Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong giải quyết nợ xấu với
KAMCO đã trở thành một hình mẫu cho các nước khác ở châu Á và Đông
Nam Á học tập.
3.3. Bài học kinh nghiệm đối với hoạt động M&A ngân hàng Việt
Nam
Từ nghiên cứu các lý luận chung về M&A và M&A ngân hàng, và
thực tiễn M&A ngân hàng tại Mỹ, Châu Âu, Châu Mỹ La tinh, Đông Á,
Hàn Quốc, NCS đã tiếp cận, tổng hợp, phân tích và đối chiếu những nội
dung có liên quan đến M&A ngân hàng nhằm làm sáng tỏ các vấn đề
nghiên cứu, từ đó, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm chung cho hoạt
động M&A ngân hàng nói chung và M&A ngân hàng Việt Nam nói riêng.
Đây là những bài học có tính “nền tảng”, cốt lõi đối với M&A ngân hàng và
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam có thể vận dụng, bởi
Việt Nam là một quốc gia có hoạt động M&A ngân hàng ở giai đoạn bắt
đầu phát triển cả về số lượng và chất lượng.
- Thứ nhất, sử dụng M&A linh hoạt và hiệu quả nhằm xây dựng hệ
thống tài chính, ngân hàng vững mạnh, hiện đại, đồng thời thông qua các
giải pháp hỗ trợ sáp nhập, hợp nhất để hình thành nên các ngân hàng, tập
đoàn tài chính lớn, hiện đại có thể phát triển an toàn, bền vững trong điều
kiện hội nhập.
90
Trong quá trình phát triển kinh tế, và sự vận động của kinh tế toàn
cầu, quá trình hội nhập tạo ra các dòng chảy về vốn, dịch chuyển các dòng
đầu tư gắn với sự biến động của hệ thống chính trị tạo ra các cú sốc về tài
chính, khi đó tất yếu tác động tới nền kinh tế của mỗi quốc gia và hệ thống
tài chính, ngân hàng luôn chịu ảnh hưởng. Trong bối cảnh đó, hoạt động
M&A diễn ra như một xu thế tất yếu, một số ngân hàng gặp khủng hoảng,
vỡ nợ hoặc gần vỡ nợ, kết hợp với các đối thủ cạnh tranh tiềm năng quan
tâm đến việc tăng thêm thị phần; các ngân hàng chuyển chiến lược hoạt
động; các ngân hàng lớn muốn mở rộng quy mô khu vực và toàn cầu… dù
là mục đích nào thì các ngân hàng đều sử dụng M&A như một giải pháp
thích hợp và hiệu quả. Trong đó, M&A xuyên biên là xu hướng chủ đạo.
Tuy nhiên, việc xác định tỷ lệ sở hữu của “yếu tố nước ngoài” bao nhiêu là
“vừa đủ” buộc mỗi quốc gia phải có tính toán cụ thể, tránh tình trạng lệ
thuộc và mất kiểm soát của hệ thống như trường hợp tại các quốc gia châu
Mỹ La tinh (điển hình là Argentina). Hoạt động M&A diễn ra theo hình
thức “tấn công” sẽ đem lại sự chủ động và dễ đạt được các kết quả như
mong muốn hơn.
- Thứ hai, cơ sở pháp lý cho hoạt động M&A ngân hàng phải đầy đủ
và rõ ràng. Chức năng, quyền hạn của cơ quan được giao nhiệm vụ làm đầu
mối thực hiện nghiệp vụ M&A phải được ghi rõ trong các Luật về Ngân
hàng Trung ương, Luật các TCTD, Luật giám sát an toàn hoạt động, Luật
Bảo hiểm tiền gửi, Luật phá sản và các Luật khác có liên quan nhằm bảo
đảm tính đồng bộ của nghiệp vụ này.
Hành lang pháp lý được thiết lập sẽ tạo điều kiện để M&A ngân hàng
phát triển theo chiều hướng tích cực, đồng thời khống chế được các tác
động xấu của hoạt động này vì M&A thường dẫn tới “sự tập trung kinh tế”
hay dẫn đến sự xuất hiện của các ngân hàng có khả năng thao túng thị
trường. Hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động M&A ngân hàng có hai vấn
91
đề quan tâm hàng đầu đó là bảo vệ tính cạnh tranh của thị trường và bảo vệ
quyền lợi của cổ đông, nhất là cổ đông thiểu số. Vì thế, hành lang pháp lý
cho M&A ngân hàng phải đảm bảo tính đồng bộ và sự quan tâm của các cơ
quan có liên quan.
- Thứ ba, cần thiết lập các cơ quan đầu mối thực hiện M&A như: Hệ
thống mạng an toàn tài chính quốc gia, Cơ quan Quản lý tài sản quốc gia,
Quỹ tái cấp vốn ngân hàng, Công ty tư vấn giám sát M&A; Công ty trong
nước uy tín xếp hạng tín nhiệm TCTD; Công ty thống kê thông tin và số
liệu hoạt động các NHTM…
Việc phân chia chức năng, quyền hạn giữa các cơ quan này phải rõ
ràng và được ghi trong Luật, đồng thời các cơ quan này phải phối hợp chặt
chẽ với nhau để tránh xảy ra mâu thuẫn về nhiệm vụ. Trong đó, cần phải
chọn và chỉ định một cơ quan đầu mối đứng ra chịu trách nhiệm thực hiện
M&A. Cơ quan đầu mối này phải được trao những quyền hạn đặc biệt về
pháp lý, tư pháp để có thể chủ động hoàn thành nhiệm vụ, đặc biệt trường
hợp xảy ra khủng hoảng hệ thống, giống như KAMCO và FSC của Hàn Quốc.
- Thứ tư, các cơ quan trong Hệ thống mạng an toàn tài chính quốc gia
cần dự báo các khả năng rủi ro và hoạch định chính sách thích hợp cho từng
tình huống.
Công tác dự báo này rất cần thiết và nội dung dự báo phải sát với tình
hình thực tiễn nhằm giúp hoạt động M&A đi đúng lộ trình, đúng “đường
ray”, không bị chệch hướng và đạt được các mục tiêu đề ra.
- Thứ năm, phải xây dựng cơ chế chính thức về chia sẻ thông tin. Quy
định rõ các thông tin gì có thể được chia sẻ và ai là người chia sẻ cũng như
phải có quy định rõ ràng loại thông tin, mức độ chi tiết và tần suất của
thông tin có thể được trao đổi. Tính bảo mật của thông tin được trao đổi
giữa các bên phải luôn được tôn trọng.
92
Trong hoạt động M&A ngân hàng, việc định giá ngân hàng muốn
chính xác, giải quyết dung hòa lợi ích giữa các bên tham gia, đòi hỏi phải có
lượng thông tin liên quan một cách chính thống, đầy đủ và chính xác. Vì
thế, việc xây dựng và chia sẻ dữ liệu thông tin về giá cổ phiếu ngân hàng,
hệ số định mức tín nhiệm, hệ số tài chính ngân hàng, chỉ số chứng khoán,
bảng cân đối tài sản ngân hàng, giá tài sản… và các thông tin có liên quan
là rất cần thiết.
- Thứ sáu, cần có phương pháp định giá tài sản ngân hàng chính xác
cũng như sự minh bạch về cách thức và phương pháp định giá. Trên thực tế
việc định giá ngân hàng dựa vào số liệu sổ sách, bảng cân đối kế toán, tài
sản hữu hình, tài sản vô hình có giá trị lớn (thương hiệu, bản quyền sáng
chế, sản phẩm dịch vụ truyền thống, uy tín tay nghề đội ngũ lãnh đạo nhân
viên…), vì thế lựa chọn được phương pháp định giá tài sản chính xác, sát
với giá trị thực tế của tài sản, giá trị doanh nghiệp, cùng với cơ chế triển
khai minh bạch, công khai, sẽ đảm bảo được lợi ích của các bên tham gia
M&A và thúc đẩy hoạt động này diễn ra thuận lợi, đạt hiệu quả; đồng thời
sẽ hạn chế được tình trạng đầu cơ, thao túng thị trường ngân hàng, trục lợi
cho nhóm lợi ích…
- Thứ bảy, xây dựng quy trình xử lý khủng hoảng hệ thống. Cần xác
định rõ thế nào là khủng hoảng hệ thống, quy định cụ thể công việc, quyền
hạn của từng cơ quan trong Hệ thống mạng an toàn tài chính khi tiến hành
xử lý khủng hoảng nếu có.
Trên thực tế, M&A ngân hàng không hẳn đem lại kết quả tốt, mà có
những mặt trái của nó như làm xuất hiện mâu thuẫn, bất đồng nội bộ, thậm
chí làm suy yếu năng lực quản trị, năng lực tài chính của ngân hàng sau
M&A. Ở quy mô càng lớn, mâu thuẫn nội bộ càng nhiều thì nguy cơ đổ vỡ
ngân hàng sau M&A càng cao, và sự an toàn của hệ thống ngân hàng sẽ bị
ảnh hưởng là điều khó tránh khỏi. Do đó, cần lường trước và có quy trình,
93
“kịch bản” xử lý khủng hoảng nếu xảy ra là một nội dung cần làm đối với
M&A ngân hàng.
Tóm lại, thông qua những nội dung đề cập nêu trên, chương 3 đã tập
trung phân tích thực tiễn hoạt động M&A ngân hàng diễn ra trên thế giới để
thấy rằng M&A ngân hàng đã và đang tiếp tục là xu thế tất yếu. Qua đó, đã
rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu đối với hoạt động M&A
ngân hàng nói chung để có thể làm tài liệu tham khảo cho M&A ngân hàng
của Việt Nam.
94
CHƯƠNG 4
GỢI Ý GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI M&A NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
Cùng với việc tìm hiểu, phân tích thực trạng M&A ngân hàng tại Việt
Nam đã diễn ra trong thời gian vừa qua, chương 4 đưa ra các dự báo về xu
hướng M&A ngân hàng sẽ diễn ra trong thời gian sắp tới, đồng thời đề xuất
những gợi ý về chính sách và giải pháp có tính vĩ mô đối với Nhà nước
trong quản lý hoạt động M&A ngân hàng và giải pháp có tính vi mô đối với
các Ngân hàng Thương mại nhằm góp phần thúc đẩy và đưa quá trình M&A
ngân hàng tại Việt Nam đạt hiệu quả cao hơn.
4.1. Tổng quan M&A ngân hàng Việt Nam thời gian qua
4.1.1. Khái quát thực trạng ngân hàng Việt Nam
Từ khi thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (ngày 06/5/1951)
đến nay), nay là Ngân hàng Nhà nước, hệ thống TCTD tại Việt Nam gồm
có: 05 NHTM NN (trong đó 04 ngân hàng đã cổ phần hóa, gồm: NHTMCP
Ngoại thương Việt Nam, NHTMCP Công thương Việt Nam, NHTMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông
Cửu Long. Còn duy nhất Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam chưa cổ phần hóa); 01 Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam;
01 Ngân hàng Phát triển Việt Nam; 34 NHTM CP; 04 Ngân hàng liên
doanh; 50 Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và 05 Ngân hàng 100% vốn
nước ngoài; 18 Công ty tài chính cổ phần; 12 Công ty tài chính thuê mua;
01 Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương và 915 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở
đang hoạt động.
Trong số 04/05 NHTM Nhà nước được cổ phần hóa, có 03 ngân hàng
đã niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, đó là: NHTMCP Ngoại
thương Việt Nam, NHTMCP Công thương Việt Nam, NHTMCP Đầu tư và
95
Phát triển Việt Nam; và 02 ngân hàng có sự tham gia của nhà đầu tư chiến
lược nước ngoài, cụ thể: NHTMCP Ngoại thương Việt Nam hợp tác chiến
lược với Ngân hàng TNHH Mizuho – một thành viên của Tập đoàn Tài
chính Mizuho (Nhật Bản). NHTMCP Công thương Việt Nam phát hành
thêm cổ phần cho Ngân hàng Bank of Tokyo Mitsubishi (BTMU). Các
NHTM Nhà nước bảo đảm an toàn thanh khoản, tiếp tục đóng vai trò chủ
đạo trong hệ thống các TCTD về vốn, tài sản, huy động vốn và tín dụng, cụ
thể: Vốn điều lệ chiếm 30,8% tổng vốn điều lệ toàn hệ thống, hiệu quả kinh
doanh cao hơn so với mức bình quân toàn hệ thống, thị phần tài sản tăng
liên tục, thị phần huy động tăng trở lại sau sự sụt giảm vào năm 2013, tiếp
tục giữ vị trí chi phối về thị phần tín dụng (đạt trên 52%). Tỷ lệ nợ xấu của
khu vực này thấp hơn so với mức bình quân cả hệ thống. Qua đó cho thấy,
NHTM Nhà nước tiếp tục giữ vai trò dẫn dắt và chi phối thị trường.
Bảng 4.1: Tỷ lệ ROA, ROE và CAR của NHTM Nhà nước và
hệ thống ngân hàng Việt Nam (2011- tháng 8/2014)
Hệ số Ngân hàng/Thời gian 2011 2012 2013 8/2014
ROA NHTM Nhà nước 0,92% 0,76% 0,65% 0,61%
Hệ thống Ngân hàng 1% 0,48% 0,50% 0,45%
ROE NHTM Nhà nước 12,46% 11,37% 8,10% 7,67%
Hệ thống Ngân hàng 10,81% 3,97% 5,56% 5,09%
Tỷ lệ nợ xấu (CAR) NHTM Nhà nước 3,18% 2,75% 3,88%
Hệ thống Ngân hàng 4,08% 3,61% 3,9%
(Nguồn: Báo cáo giám sát việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong lĩnh vực
đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống Ngân hàng theo Nghị quyết số
10/2011/QH13 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2011- 2015)
Các TCTD tại Việt Nam hiện nay đa số có quy mô nhỏ, có sản phẩm
dịch vụ (SPDV) tương tự nhau. Số lượng TCTD hiện có là quá lớn đối với
96
quy mô và tính chất của nền kinh tế Việt Nam khi so sánh với các nền kinh
tế khác trong khu vực. (Hàn Quốc – nền kinh tế lớn thứ 12 trên thế giới có
khoảng 20 ngân hàng; Thái Lan – nền kinh tế lớn hơn Việt Nam có không
quá 20 ngân hàng; Malaysia có khoảng 10 ngân hàng). Chính vì số lượng
ngân hàng quá nhiều đã xuất hiện áp lực cạnh tranh gay gắt, cùng với đó
quy định pháp luật chưa chặt chẽ… dẫn đến cạnh tranh thiếu lành mạnh,
thiếu minh bạch, tạo nên sự thiếu an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng và sự phát triển thiếu bền vững của mỗi Ngân hàng.
4.1.2. Thực trạng hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam
4.1.2.1. Giai đoạn diễn ra sau khủng hoảng tài chính châu Á
(1997- 2004)
Ở giai đoạn này, hoạt động M&A ngân hàng diễn ra rất ít và mang
tính bắt buộc nhiều hơn tự nguyện, chủ yếu thực hiện theo chỉ đạo của
NHNN nhằm mục đích nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM
Việt Nam theo Đề án “Chấn chỉnh và sắp xếp lại các NHTM CP Việt Nam”
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 212/1999/QĐ-
TTg ngày 29/10/1999 và Quyết định số 241/QĐ-NHNN của NHNN về sáp
nhập, hợp nhất, mua lại TCTD CP Việt Nam. Cụ thể:
Năm 1999, NHTM CP Phương Nam tiếp tục sáp nhập với Ngân hàng
Đại Nam (trước đó vào năm 1997, NHTM CP Phương Nam tiến hành sáp
nhập với NHTM CP Nông thôn Đồng Tháp), năm 2001 sáp nhập với Ngân
hàng Châu Phú, năm 2002 mua lại QTD Định Công (Hà Nội), năm 2003
sáp nhập với NHTM CP Nông thôn Cái Sắn (Cần Thơ). Nếu như trước khi
sáp nhập, NHTM CP Phương Nam chỉ có 01 Hội sở chính và 01 chi nhánh,
sau sáp nhập, Ngân hàng này có hệ thống mạng lưới phát triển mạnh tại TP
Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp, Đà Nẵng, Bình
Thuận, với 32 đơn vị: 01 Sở Giao dịch, 12 chi nhánh loại I, 17 chi nhánh
loại II, 01 Phòng giao dịch, 01 công ty quản lý quỹ và khai thác tài sản.
97
Bên cạnh đó, có các vụ sáp nhập ngân hàng khác, đó là:
Năm 2001, NHTM CP Đông Á mua lại NHTM CP Tứ giác Long
Xuyên (An Giang), năm 2004, NHTM CP Nông thôn Tân Hiệp (Kiên
Giang) sáp nhập vào NHTM CP Đông Á.
Năm 2002, NHTM CP Thạnh Thắng (Cần Thơ) sáp nhập vào NHTM
CP Sài Gòn Thương Tín.
Năm 2003, NHTM CP Tây Đô sáp nhập vào NHTM CP Phương
Đông; Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam mua lại NHTM CP Nam
Đô; Công ty Tài chính Sài Gòn (SFC) hợp nhất với NHTM CP Đà Nẵng để
hình thành nên NHTM CP Việt Á.
Bảng 4.2: Một số thương vụ sáp nhập điển hình giai đoạn 1997 – 2004
Thời gian Ngân hàng thu mua Ngân hàng mục tiêu
1997 NHTMCP Phương Nam NHTMCP Đồng Tháp
1999 NHTMCP Phương Nam NHTMCP Đại Nam
2000 NHTMCP Phương Nam Quỹ Tín dụng nhân dân Định Công
Thanh Trì, Hà Nội
2001 NHTMCP Phương Nam NHTMCP Châu Phú
2001 NHTMCP Đông Á NHTMCP Tứ Giác Long Xuyên
2002 NHTMCP Sài Gòn Thương Tín NHTMCP Thạnh Thắng
2003 NHTMCP Đà Nẵng Công ty Tài chính Sài Gòn SFC thành
lập NHTMCP Việt Á
2003 NHTMCP Phương Nam NHTMCP Nông thôn Cái sắn
2003 NHTMCP Phương Đông NHTMCP Nông thôn Tây Đô
2003 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam
Ngân hàng Nam Đô
2004 Ngân hàng Đông Á NHTMCP Nông thôn Tân Hiệp
(Nguồn: Tổng hợp từ Website của các Ngân hàng)
98
4.1.2.2. Giai đoạn Việt Nam bắt đầu gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới - WTO (2005- 2011)
Kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài (năm 2005), Luật Doanh nghiệp
(năm 2005), Luật Chứng khoán (năm 2006) có hiệu lực, đặc biệt với Quyết
định 1577/QĐ-NHNN ngày 09/8/2006 của Ngân hàng Nhà nước về việc
phê duyệt Đề án cơ cấu lại NHTMCP nông thôn, cùng với sự kiện Việt
Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào
07/11/2006, hoạt động M&A ngân hàng mới thực sự diễn ra tại Việt Nam.
M&A ngân hàng giai đoạn này diễn ra nhằm chỉnh sửa mô hình
NHTMCP cho đúng quy định của Luật các TCTD, tạo điều kiện để các
ngân hàng được hoạt động trong một “sân chơi” bình đẳng, tránh tình trạng
chia cắt thị trường bằng các quy định hành chính; Giảm bớt số lượng các
NHTMCP nhỏ, từng bước hình thành những ngân hàng có tiềm lực vốn lớn,
công nghệ hiện đại, có đủ năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế; đồng thời thực hiện chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đó là
nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam.
M&A ngân hàng giai đoạn này diễn ra dưới các hình thức chủ yếu:
Ngân hàng trong nước bán cổ phần cho ngân hàng nước ngoài, các công ty
tài chính, tập đoàn nước ngoài; hoặc các NHTM CP trong nước mua, bán cổ
phần lẫn nhau; tuy nhiên chưa có trường hợp nào ngân hàng của Việt Nam
mua lại ngân hàng nước ngoài.
Các trường hợp điển hình:
- NHTM CP trong nước bán cổ phần cho đối tác nước ngoài:
+ NHTM CP Xuất nhập khẩu (Eximbank): đến tháng 6/2007 ký thỏa
thuận bán 500 tỷ đồng vốn điều lệ cho 16 đối tác chiến lược là các tập đoàn
kinh doanh có uy tín trong nước, giá bán gấp 8 lần mệnh giá, tương đương
4.000 tỷ đồng. Tháng 8/2007, NH này tiếp tục bán 25% cổ phần cho 04 nhà
99
đầu tư chiến lược nước ngoài gồm: Sumitomo Mitsui Banking Corporation
(15%), nhà đầu tư VOF Investment Limited – British Virgin Island (5%),
Mirae Asset Hàn Quốc (4,5%), Mirae Asset Maps (0.5%) với giá bán 6,43%
lần mệnh giá cổ phiếu Eximbank, thu về gần 400 triệu USD. Qua đây,
Eximbank vừa tăng sức mạnh về năng lực tài chính, vừa tiếp nhận cách thức
quản trị điều hành, công nghệ ngân hàng hiện đại, vừa có thể nâng cao sức
cạnh tranh trong việc cung ứng các SPDV ngân hàng hiện đại (thanh toán
quốc tế, mua bán ngoại tệ, kiều hối...), trở thành một trong những NHTM
CP lớn tại Việt Nam.
+ NHTM CP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank): Tháng 12/2005,
Techcombank đã bán 10% cổ phần với trị giá 27 triệu USD, tháng 7/2007
bán tiếp 5% cổ phần cho HSBC và trở thành NHTM CP lớn thứ 3 tại Việt
Nam, được HSBC hỗ trợ về kỹ thuật. HSBC trở thành cổ đông chiến lược
chiếm 20% vốn cổ phần tính đến cuối năm 2011, nhanh chóng tham gia sâu
hơn vào thị trường ngân hàng tại Việt Nam. Qua đó, Techcombank được
nâng tầm quy mô về vốn điều lệ, tổng tài sản, mạng lưới, thương hiệu...
+ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB): Tháng 10/2007, VCB
thỏa thuận sở hữu 10% vốn điều lệ của NHTM CP Quân đội (MB), trở
thành cổ đông chiến lược của MB. VCB bán 15% vốn cổ phần cho cổ đông
nước ngoài Mizuho để đưa mức vốn điều lệ lên 23.174 tỷ đồng, dẫn đầu hệ
thống TCTD trong năm này.
+ Ngân hàng Phương Đông (OCB): Tháng 2/2008 bán 10% vốn điều
lệ cho Ngân hàng BNP Paribas (Pháp). Đến 20/01/2012, OCB có mức vốn
điều lệ 3.000 tỷ đồng, BNP nắm giữ 20% vốn cổ phần.
+ Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank): Tháng 3/2008 bán 15% vốn
điều lệ cho Maybank của Malaysia, giúp Maybank nắm giữ 20% trong tổng
số 4.200 tỷ đồng vốn điều lệ của ABBank.
100
+ Ngân hàng TMCP ngoài quốc doanh (VP Bank, nay là Ngân hàng
Thịnh Vượng): Tháng 5/2008 bán tổng cộng 15% vốn điều lệ cho Tập đoàn
OCBC – Tập đoàn tài chính lớn thứ 3 Singapore.
+ Ngân hàng TMCP Phương Nam: Đã bán 10% cổ phần tương đương
480 tỷ đồng cho Ngân hàng UOB – Ngân hàng lớn nhất ở Singapore. Thông
qua đó, Ngân hàng TMCP Phương Nam được UOB hỗ trợ về phát triển sản
phẩm, công nghệ, nhân sự.
Bảng 4.3: NHTM CP trong nước bán cổ phần cho đối tác nước ngoài
Ngân hàng thu mua Ngân hàng mục tiêu Tỷ lệ nắm
giữ cổ phần
Ngân hàng OCBC- Singapore NHTMCP Ngoài quốc doanh 15%
Ngân hàng HSBC NHTMCP Kỹ thương 20%
Common Wealth Bank Of Australia Ngân hàng TMCP Quốc Tế 20%
Tập đoàn tài chính UOB NHTMCP Phương Nam 15%
Ngân hàng BNP Baribas NHTMCP Phương Đông 20%
Standard Chartered Bank NHTMCP Á Châu 15%
Ngân hàng Sumitomo Mitsui NHTMCP Xuất nhập khẩu 15%
Citigroup Inc Ngân hàng MCP Đông Á 10%
MayBank Ngân hàng TMCP An Bình 20%
Mizoho Bank Ngân hàng TMCP Ngoại thương 15%
The Tokyo-Mishibishi Banking Cop. Ngân hàng TMCP Công thương 20%
(Nguồn: Tổng hợp từ Website các Ngân hàng)
- Các NHTM CP trong nước mua, bán cổ phần lẫn nhau:
Việc mua bán cổ phần lẫn nhau giữa các NHTM CP trong nước thực
chất là sở hữu cổ phần chéo nhằm hỗ trợ nhau trong thực hiện việc tăng vốn
điều lệ, phát triển công nghệ ngân hàng, SPDV, thanh khoản… hỗ trợ thanh
101
khoản và nghiên cứu chính sách kinh doanh của ngân hàng mục tiêu. Có thể
thấy rõ điều này qua các trường hợp cụ thể sau:
+ Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank): Bán cổ
phần cho các ngân hàng, Công ty tài chính, Công ty chứng khoán mua trong
nước như ACB, Công ty CP Đầu tư chứng khoán Bảo Việt, Công ty Tài
chính dầu khí, Công ty Đầu tư Tài chính Sài Gòn Á- Âu, Quỹ Đầu tư chứng
khoán Việt Nam.
+ Ngân hàng TMCP Gia Định (nay là Ngân hàng Bản Việt): Bán cổ
phần cho Liên doanh quản lý chứng khoán Vietcombank, Ngân hàng Sài
Gòn Thương tín, ACB.
+ Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh: Bán cổ phần cho
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín.
+ Ngân hàng TMCP Phương Đông: Bán cổ phần cho Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín.
+ Ngân hàng TMCP Quốc tế: Bán cổ phần cho Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông nghiệp Việt Nam.
+ Ngân hàng TMCP Đại Dương: Bán cổ phần cho Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam, Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn Cầu và Công ty Tài chính Dầu khí.
+ Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB): Mua cổ phần của Ngân hàng
Việt Nam Thương Tín, Ngân hàng Đại Á, Ngân hàng TMCP Kiên Long.
+ Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín: Mua cổ phần của Ngân
hàng TMCP Quân Đội và NHTM CP Phát triển Nhà – Hà Nội.
Năm 2011, có khoảng 25 NHTM CP Việt Nam tăng vốn với tổng số
vốn tăng thêm hơn 46.000 tỷ đồng. Đến cuối năm 2011, còn 03 ngân hàng
gồm SCB, PG Bank và Bao Viet Bank chưa hoàn thành việc tăng vốn lên
tối thiểu 3.000 tỷ đồng.
102
Bảng 4.4: Các NHTM CP trong nước mua, bán cổ phần lẫn nhau
Ngân hàng thu mua Ngân hàng mục tiêu
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)
NHTMCP Gia Định
Liên doanh Quản lý ĐT chứng khoán Vietcombank
NHTMCP Sài Gòn Thương Tín
NHTMCP Á Châu
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) NHTMCP Phát triển Nhà TP Hồ Chí
Minh NHTMCP Sacombank
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)
NHTMCP Quốc tế Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam (Agribank)
NHTMCP Sacombank NHTMCP Quân đội
NHTMCP Sacombank NHTMCP Nhà Hà Nội
NHTMCP Á Châu
NHTMCP Việt Nam Thương Tín
NHTMCP Đại Á
NHTMCP Kiên Long
NHTMCP VP Bank NHTMCP Mỹ Xuyên
NHTMCP Á Châu
NHTMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam
Công ty Cổ phần Đầu tư chứng khoán Bản Việt
Công ty Tài chính Dầu khí
Quỹ Đầu tư chứng khoán Việt Nam
Công ty Cổ phần đầu tư tài chính Sài Gòn Á- Âu
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
NHTMCP Đại Dương NHTMCP Dầu khí Toàn cầu
Công ty Tài chính Dầu khí
(Nguồn: Tổng hợp từ Website các Ngân hàng)
103
4.1.2.3. Giai đoạn Việt Nam thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế
(2011 - đến nay)
M&A ngân hàng giai đoạn này diễn ra tương tự như hai giai đoạn
trước nhưng với quy mô tài sản lớn hơn và có tính phức tạp hơn trước.
Tham gia M&A ở giai đoạn này hầu hết cũng là các ngân hàng đã từng
tham gia M&A ở hai giai đoạn trước đây (NHTMCP Đệ Nhất, Việt Nam
Tín Nghĩa, Sài Gòn, Nhà Hà Nội, Nam Việt, Phương Tây, Đại Tín, Dầu khí
toàn cầu).
Ngày 01/3/2012, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 254/QĐ-
TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn
2011- 2015”. Đây được xem là một nỗ lực về mặt pháp lý sớm nhất và quan
trọng nhất trong việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, tạo hành lang rộng để
xử lý các ngân hàng yếu kém và đề ra một lộ trình cho đến năm 2015. Theo
đó, Việt Nam cần phát triển một hệ thống các tổ chức tín dụng có quy mô
lớn hơn, chất lượng và hiệu quả hoạt động tốt hơn. Đồng thời, trong bối
cảnh Việt Nam đang mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng thì hệ
thống các tổ chức tín dụng cũng cần phải được củng cố và phát triển để có
đủ khả năng tận dụng cơ hội phát triển mới và đối phó với những thách
thức, “cú sốc” từ bên ngoài, chẳng hạn khủng hoảng, biến động bất lợi của
thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế.
Trong giai đoạn này, M&A ngân hàng diễn ra theo hướng “tập trung
lành mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động của các tổ
chức tín dụng; cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ
chức tín dụng; nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong
hoạt động ngân hàng” như đã được đề cập trong Quyết định 254/QĐ-TTg
và đến nay đã đạt được một số kết quả tích cực tạo nền tảng cho việc đẩy
nhanh, vững chắc M&A các tổ chức tín dụng trong giai đoạn tiếp theo.
104
Hoạt động M&A gắn với hoạt động tái cơ cấu ngân hàng. Trong số 9
ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém được xác định từ năm 2012,
NHNN đã phê duyệt 8 phương án cơ cấu lại (1 ngân hàng đang trong quá
trình đàm phán giai đoạn cuối cùng với một ngân hàng nước ngoài). Một số
ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém xác định trong năm 2013 đang
được NHNN áp dụng các biện pháp giám sát chặt chẽ và chỉ đạo xây dựng
phương án tái cơ cấu. Sau khi sáp nhập, hợp nhất hoặc phương án cơ cấu lại
được NHNN chấp thuận, các ngân hàng đã và đang tích cực triển khai các
giải pháp cơ cấu lại toàn diện về tài chính, hoạt động, quản trị và khắc phục
các sai phạm dưới sự giám sát của NHNN. Đến nay, hầu hết các ngân hàng
yếu kém được cơ cấu lại theo các phương án được duyệt đều có tình hình
hoạt động ổn định và cải thiện hơn so với thời điểm bắt đầu thực hiện cơ
cấu lại. NHNN đã kiểm soát được tình hình của các ngân hàng thương mại
cổ phần yếu kém. Khả năng chi trả của các ngân hàng yếu kém đã được cải
thiện đáng kể, tài sản của Nhà nước và quyền lợi của người gửi tiền được
bảo đảm, TCTD tiếp tục hoạt động hiệu quả đóng góp vào thành công
chung của ngành Ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại nhà nước đã xây dựng và trình NHNN để
phê duyệt phương án cơ cấu lại, bao gồm cả công ty con từ nay đến năm
2015, phù hợp với thực trạng hoạt động của từng ngân hàng. Hoàn thành cổ
phần hóa 4 ngân hàng thương mại nhà nước, trong đó 3 ngân hàng đã niêm
yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và có sự tham gia của nhà đầu tư
chiến lược (Vietcombank, BIDV và Vietinbank). Agribank chưa tiến hành
cổ phần hóa nhưng NHNN đã phối hợp với các bộ liên quan xây dựng và
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án cơ cấu lại gắn với xử lý
những sai phạm, yếu kém phát hiện qua thanh tra và tái cơ cấu của các công
ty con. Thời gian qua, Agribank đã tiến hành triển khai cơ cấu lại tổ chức
105
bộ máy, mạng lưới và nhân lực, xử lý nợ xấu, cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản
có, điều chỉnh lại hoạt động đầu tư.
Đối với các công ty tài chính và cho thuê tài chính, NHNN đã có văn
bản chỉ đạo các tổ chức tín dụng phi ngân hàng xây dựng và trình NHNN
phương án tái cơ cấu, đồng thời, đề nghị các tập đoàn, tổng công ty nhà
nước là chủ sở hữu thực hiện tái cơ cấu các tổ chức tín dụng này. Hiện nay,
đa số các tổ chức tín dụng phi ngân hàng đã trình hoặc đang hoàn thiện
phương án để trình NHNN theo hướng thoái vốn, bán lại, sáp nhập, hợp
nhất hoặc tự củng cố, chấn chỉnh. Một số tổ chức tín dụng phi ngân hàng
quá yếu kém, chi phí tái cơ cấu quá lớn so với lợi ích đem lại từ việc duy trì
hoạt động cũng được xem xét xử lý thông qua giải thể, phá sản.
Đối với các quỹ tín dụng nhân dân, NHNN đã chỉ đạo triển khai
quyết liệt và đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại. NHNN phối hợp với các địa
phương, cơ quan liên quan hoàn thành việc tổng kết thực hiện Chỉ thị số
57/CT-TW ngày 10/10/2000 của Bộ Chính trị về củng cố, hoàn thiện và
phát triển hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, qua đó đánh giá những kết quả
đạt được, tồn tại, nguyên nhân và đề xuất biện pháp tiếp tục hoàn thiện mô
hình quỹ tín dụng nhân dân, thực hiện các nội dung tái cơ cấu theo Đề án đã
được Chính phủ phê duyệt. NHNN đã chuyển đổi quỹ tín dụng nhân dân
trung ương thành ngân hàng hợp tác xã. NHNN tăng cường giám sát, thanh
tra và xử lý các quỹ tín dụng nhân dân yếu kém, đẩy nhanh quá trình giải
thể, phá sản, thanh lý các quỹ tín dụng nhân dân không có khả năng phục
hồi. Đối với những quỹ tín dụng nhân dân mất khả năng thanh khoản tạm
thời được NHNN, ngân hàng hợp tác xã, quỹ an toàn hệ thống hỗ trợ thanh
khoản...
106
Bảng 4.5: Các thương vụ M&A toàn phần
TT Tổ chức cũ Tổ chức mới Năm
M&A
1
NH TMCP Đệ Nhất
NH TMCP Tín Nghĩa
NH TMCP Sài Gòn
NH TMCP Sài Gòn (SCB) 2011 Hợp
nhất
2 NH TMCP Liên Việt
Công ty Tiết kiệm Bưu điện NH TMCP Bưu điện Liên Việt 2011
Sáp
nhập
3 Shinhan Vietnam
Shinhan Vina Shinhan Vietnam 2011
Sáp
nhập
4
NH TMCP Nhà Hà Nội (HBB)
NH TMCP Sài Gòn - Hà Nội
(SHB)
NH TMCP Sài Gòn - Hà Nội
(SHB) 2012
Sáp
nhập
5
Tập đoàn Thiên Thanh và các
cá nhân
NH Đại Tín (Trust Bank)
Ngân hàng TMCP Xây dựng
Việt Nam(VNCB) 2013 Mua lại
6
HD Bank
Công ty tài chính Việt Société
Générale (SGVF)
HD Finance 2013 Mua lại
7
Tổng Công ty Tài chính CP Dầu
khí Việt Nam(PVFC)
NH Phương Tây (Westernbank)
NH TMCP Đại chúng
(PVCombank) 2013
Hợp
nhất
8
Ngân hàng LD Lào Việt (LVB)
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam (BIDV)
Ngân hàng TMCP BIDV chi
nhánh Chương Dương và Bến
Nghé tiếp nhận toàn bộ tài sản
2013 Chuyển
giao
9 HD Bank
NH TMCP Đại Á (Đai A Bank)
NH TMCP Phát triển nhà TP
Hồ Chí Minh (HD Bank) 2013
Sáp
nhập
(Nguồn: Tổng hợp từ Internet)
4.2. Tính chất của M&A ngân hàng Việt Nam
4.2.1. Trường hợp hợp nhất giữa 03 ngân hàng gồm Ngân hàng
Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB), NHTM CP Đệ Nhất (FCB) và
NHTM CP Việt Nam Tín Nghĩa (TNB) thành 01 ngân hàng mới –
NHTM CP Sài Gòn (SCB):
NHNN mua lại giá 0 đồng (năm 2014)
107
- Thực trạng của SCB, FCB, TNB trước hợp nhất:
+ Vào thời điểm 2011, cả ba ngân hàng này đều do 01 nhóm nhà đầu
tư và công ty liên kết nắm quyền kiểm soát, mặc dù hầu như không có cá
nhân nào chính thức xuất hiện là cổ đông lớn sở hữu trên 5% tổng giá trị cổ
phần; Cả 03 NH này đều tài trợ tài chính cho nhiều hoạt động đầu tư khác
nhau của các doanh nghiệp do cùng chủ kiểm soát.
+ NH tài trợ cho doanh nghiệp của cùng 01 cổ đông lớn (TNB mua
trái phiếu doanh nghiệp của Vạn Thịnh Phát. Ngày 11/9/2010, Vạn Thịnh
Phát phát hành trái phiếu DN với tổng trị giá 6.000 tỷ đồng. TNB nắm giữ
toàn bộ giá trị 6.000 tỷ đồng trái phiếu DN của Vạn Thịnh Phát, trong khi
vốn chủ sở hữu của NH lúc đó là 3.902 tỷ đồng. Vì là trái phiếu DN nên tài
sản này của NH được xếp vào mục chứng khoán đầu tư giữ đến ngày đáo
hạn và được xem là khác với dư nợ tín dụng. Đến Quý III/2011, TNB còn
giữ 2.200 tỷ đồng trái phiếu Vạn Thịnh Phát, bằng 54,8% vốn chủ sở hữu
của NH).
+ NH đầu tư vốn vào cổ đông của chính NH thông qua hoạt động ủy
thác đầu tư (Năm 2011, TNB đã ủy thác cho Công ty CP Quản lý Quỹ Đầu
tư chứng khoán Thái Dương – Thai Duong Capital 8.000 tỷ đồng và toàn bộ
được đầu tư vào cổ phiếu của 03 công ty là Công ty CPĐT Vạn Thịnh Phát
1.518 tỷ đồng, Công ty CPĐT An Đông 2.730 tỷ đồng, Công ty CPĐT Đại
Trường Sơn 3.752 tỷ đồng. Cả 03 công ty này đều có cổ đông lớn là Công
ty TNHH Vạn Thịnh Phát.
- Thực trạng sau hợp nhất 03 Ngân hàng SCB, FCB, TNB thành
Ngân hàng mới SCB:
Ngày 06/12/2011, NHNN quyết định chủ trương hợp nhất SCB,
FCB, TNB (Công văn số 9326/NHNN-TTGSNH). Sau hợp nhất, 03 NH bị
hợp nhất chấm dứt hoạt động. NH sau hợp nhất sẽ tiếp nhận và thực thi các
108
quyền của chủ sở hữu đối với toàn bộ tài sản và chịu trách nhiệm về tất cả
các khoản nợ của 03 NH bị hợp nhất. Tỷ lệ hoán đổi cổ phiếu phổ thông của
03 NH bị hợp nhất thành cổ phiếu của NH mới là 1:1. Cùng ngày có quyết
định hợp nhất, BIDV ký thỏa thuận hợp tác chiến lược toàn diện với 03 NH
(BIDV tham gia vào quá trình hợp nhất 03 NH theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ và BIDV cho 03 NH bị hợp nhất vay tổng cộng 2.400 tỷ đồng và
BIDV sẽ đại diện cho phần vốn Nhà nước đã cho 03 NH vay). NH mới sau
hợp nhất là SCB đã được NHNN hỗ trợ cho tái cấu trúc theo hướng M&A
và tái cấp vốn khoảng 18.000 tỷ đồng để hỗ trợ thanh khoản, mở rộng kinh
doanh, từng bước đi vào ổn định phát triển. Sau hợp nhất, SCB đạt được
một số chỉ tiêu cơ bản nổi trội và trở thành NHTMCP có vốn điều lệ lớn thứ
3 trong hệ thống NHTM CP hiện nay.
Bảng 4.6: Một số chỉ tiêu của SCB trước và sau hợp nhất
Đơn vị tính: Tỷ đồng
TT Chỉ tiêu Trước khi
hợp nhất
(9/2011)
Sau khi hợp
nhất (2010)
Đến
31/12/2012
Đến
31/12/2013
1 Vốn điều lệ 4.193 9.185 10.583 12.294
2 Tổng vốn huy động 40.900 84.729 79.192 147.098
3 Tổng dư nợ 41.200 68.600 84.154 89.003
4 Lợi nhuận trước thuế 530 1.328 77.199 59.781
(Nguồn: Theo Báo cáo của Ngân hàng TMCP Sài Gòn – SCB)
4.2.2. Trường hợp sáp nhập giữa NHTM CP Phát triển Nhà Hà
Nội (HBB) vào NHTM CP Sài Gòn – Hà Nội (SHB)
- Phân tích tình hình hoạt động của 02 NH trước sáp nhập:
+ SHB: Phân tích tình hình hoạt động của SHB trên các khía cạnh:
Tổng tài sản, chất lượng tài sản, Nguồn vốn huy động, Kết quả kinh doanh,
cho thấy: Tổng tài sản tăng qua hằng năm; Chất lượng tài sản khá tốt, tốc độ
109
tăng trưởng tài sản chủ yếu phụ thuộc vào mức độ tăng trưởng tín dụng và
các khoản đầu tư; Nợ xấu vào thời điểm năm 2011 2,33% thấp hơn nhiều so
với tỷ lệ nợ xấu của toàn ngành NH vào lúc đó là 3,39%; Nguồn vốn huy
động chủ yếu từ tiền gửi của Tổ chức kinh tế và cá nhân. Tỷ lệ huy động
vốn tăng nhanh qua các năm. Tỷ lệ ROA đạt 1,75% cao hơn so với toàn
ngành NH cùng thời điểm là 1,19%. ROE bình quân 22,6% cao hơn mức
bình quân toàn ngành là 20,38%.
+ HBB: Phân tích tình hình hoạt động của SHB trên các khía cạnh:
Tổng tài sản, chất lượng tài sản, Nguồn vốn huy động, Kết quả kinh doanh,
cho thấy: HBB tập trung cho vay (2.745 tỷ đồng) và đầu tư trái phiếu (600
tỷ đồng) của các công ty thuộc Tập đoàn Vinashin, chiếm đến 83% vốn điều
lệ của NH. Khi Vinashin gặp khó khăn, mất khả năng thanh khoản, đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tình hình thanh khoản của HBB. Tổng tài sản của
HBB tăng qua các năm, tăng 24% năm 2009, tăng 30% năm 2010 và giảm
dần, đến thời điểm sáp nhập tháng 2/1012 tổng tài sản giảm 11%. Tiền gửi
và cho vay các TCTD giảm dần. Tỷ lệ ROA đạt 1% thấp hơn so với toàn
ngành NH. ROE 5% thấp hơn mức bình quân toàn ngành NH là 10,56%. Hệ
số an toàn vốn bị ảnh hưởng…
- Tình hình SHB sau sáp nhập:
Tỷ lệ nợ xấu 12,88%, nợ quá hạn tăng cao 21,32%, nguyên nhân
chính do SHB phải ôm nợ xấu phát sinh từ các khoản cho vay Tập đoàn
Vinashin của HBB trước đây. Lỗ lũy kế phát sinh 1.829 tỷ đồng… Kết quả
cho thấy, SHB sau sáp nhập không mang lại lợi nhuận cao hơn trước khi
sáp nhập, do phải gánh chịu các khoản nợ xấu phải xử lý cho HBB trước
đây. Tuy nhiên, hoạt động M&A đã cải thiện hoàn toàn hiệu quả kỹ thuật
cho HSB và củng cố được nguồn nhân lực mạnh cho hoạt động của NH sau
M&A.
110
4.2.3. Một số thương vụ M&A ngân hàng khác
- Thương vụ giữa ABBANK với IFC và Maybank:
Ngày 23/04/2013, tại Hà Nội, Ngân hàng TMCP An Bình
(ABBANK) đã công bố phát hành cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài là
Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) và Ngân hàng Maybank, sau khi hai tổ
chức này thực hiện việc chuyển đổi bắt buộc trái phiếu thành cổ phiếu phổ
thông ghi danh vào ngày 18/4/2013 theo hợp đồng ba bên ký kết tháng
12/2010. Với việc chuyển đổi theo hợp đồng này, IFC trở thành cổ đông lớn
của ABBANK với tỷ lệ sở hữu 10% và Maybank tiếp tục sở hữu 20% vốn
điều lệ. Như vậy, IFC và Maybank đã trở thành cổ đông lớn của ABBANK
cùng với các tập đoàn kinh tế lớn là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và
Công ty Cổ phần Xuất Nhập khẩu Tổng hợp Hà Nội (Geleximco). Theo quy
định của pháp luật hiện hành, các cổ đông nước ngoài được phép sở hữu tối
đa 30% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam và tại ABBANK tỉ lệ này
đã chạm đỉnh. Với sự tham gia góp vốn của IFC, và phần vốn nhằm duy trì
tỷ lệ sở hữu cổ phần 20% của Maybank, vốn điều lệ của ABBANK tăng từ
gần 4.200 tỷ đồng lên gần 4.800 tỷ đồng.
- Thương vụ WesternBank và PVFC:
Ngày 12/9/2013, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có Quyết định số
2018/QĐ-NHNN về việc hợp nhất Ngân hàng TMCP Phương Tây và Tổng
công ty tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam thành NH TMCP Đại Chúng
(PVcombank) với mức vốn điều lệ là 9.000 tỷ đồng. Ngân hàng đảm bảo
mức vốn điều lệ thực có không thấp hơn mức vốn pháp định theo quy định
của pháp luật. Tổng cộng mạng lưới Pvcombank bao gồm 102 điểm giao
dịch trong đó có 1 hội sở, 30 chi nhánh, 67 phòng giao dịch và 4 quỹ tiết
kiệm.
111
Cũng theo kế hoạch hợp nhất, PVFC và Westernbank đã đưa ra lộ
trình tới 4 năm để xử lý nợ xấu, giảm dần tỷ lệ này xuống 4,2% cuối năm
2012, 3,61% cuối 2013 và 3,34% vào cuối năm 2015.
- Thương vụ Đại Á Bank và HD Bank:
Vào cuối tháng 9/2013, Đại hội cổ đông của hai ngân hàng Đại Á
(25/9) và HDbank (28/9) đã diễn ra và đã thông qua đề án hợp nhất hai ngân
hàng. Sau khi sáp nhập DaiABank vào HDBank, ngân hàng mới vẫn lấy
tên là Ngân hàng TMCP Phát triển nhà Thành phố Hồ Chí Minh (HDBank),
vốn điều lệ tăng từ 5.000 tỷ đồng lên 8.100 tỷ đồng (trong đó có 3.100 tỷ
đồng từ DaiABank) với tổng số tài sản lên tới 77.244 tỷ đồng. Mục tiêu tài
chính trong 3 năm tiếp theo sẽ tăng tổng tài sản từ 77.244.663 triệu đồng lên
92.656.913 triệu đồng năm 2014 và 111.979.427 triệu đồng năm 2015, tăng
20,4%.
Cùng với đó lợi nhuận trước thuế sẽ tăng từ 723.197 triệu đồng năm
2013 lên 1.001.022 triệu đồng năm 2014 và 1.302.476 triệu đồng năm 2015.
Vốn điều lệ tăng từ 8.100 tỷ đồng lên 9.325 tỷ đồng năm 2015.
Việc chuyển đổi vốn cổ phần sẽ tính theo công thức cổ đông sở hữu 1
cổ phiếu của DaiABank sẽ được chuyển đổi ngang bằng 1 cổ phiếu của
HDBank (trị giá 10.000 đồng/cổ phiếu). Theo đó, tất cả cổ đông hiện hữu
của DaiABank sẽ trở thành cổ đông HDBank.
Ngày 23-11 tại TPHCM, Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà Thành
phố Hồ Chí Minh (HDBank) đã tổ chức lễ công bố hai quyết định của Ngân
hàng Nhà nước về sáp nhập Ngân hàng TMCP Đại Á (DaiABank) vào
HDBank và mua lại Công ty TNHH Một thành viên tài chính Việt- Societe
(SGVF).
- NHTM CP Nam Việt (Navibank) đổi tên thành NHTM CP Quốc
Dân và tìm kiếm cơ hội M&A
112
Căn cứ quyết định số 86/QĐ-NHNN ngày 22/01/2014 của NHNN
Việt Nam về việc thay đổi tên gọi của Ngân hàng Nam Việt, kể từ ngày
19/05/2014 Ngân hàng TMCP Nam Việt chính thức đổi tên thành Ngân
hàng TMCP Quốc Dân. Ngân hàng TMCP Quốc Dân kế thừa toàn bộ quyền
lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của Ngân hàng TMCP Nam Việt. Mọi chức năng
hoạt động của Ngân hàng TMCP Quốc Dân không thay đổi. Ngoài ra,
Navibank cũng tìm kiếm đối tác chiến lược, cơ hội mua bán, sáp nhập
(M&A) và tăng vốn.
4.2.4. Tính chất của các thương vụ M&A ngân hàng tại Việt Nam
Qua nghiên cứu các trường hợp M&A ngân hàng tại Việt Nam đã
diễn ra trên thực tế cho thấy rõ bản chất của các thương vụ M&A ngân hàng
tại Việt Nam đó là:
- Tăng quy mô của Ngân hàng sau M&A trên các khía cạnh: Tăng về
vốn điều lệ, tổng vốn huy động, tổng dư nợ, lợi nhuận… cũng như cải thiện
hiệu quả kỹ thuật, củng cố nguồn nhân lực mạnh cho hoạt động kinh doanh
sau M&A…
- Hoạt động M&A ngân hàng tại Việt Nam diễn ra chủ yếu thực hiện
lộ trình tăng vốn điều lệ tối thiểu theo quy định của NHNN để giảm bớt các
NHTM quy mô nhỏ, yếu kém, từng bước hình thành những ngân hàng có
tiềm lực vốn lớn, công nghệ hiện đại, có đủ năng lực cạnh tranh trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hoạt động M&A ngân hàng góp phần củng cố, chấn chỉnh hệ thống
ngân hàng Việt Nam theo định hướng phát triển của Chính phủ, NHNN
Việt Nam, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt
Nam với ngân hàng nước ngoài. M&A ngân hàng góp phần làm lành mạnh
hóa hệ thống ngân hàng, giải quyết tình trạng sở hữu chéo, xử lý nợ xấu…
113
- M&A ngân hàng chỉ mới xuất hiện trường hợp ngân hàng Việt Nam
bán cổ phần cho các Tập đoàn tài chính, ngân hàng nước ngoài, chưa có
trường hợp ngân hàng Việt Nam mua lại ngân hàng nước ngoài.
- M&A ngân hàng tại Việt Nam diễn ra mang tính bắt buộc nhiều hơn
tự nguyện.
4.3. Kết quả hoạt động M&A ngân hàng tại Việt Nam thời gian qua
4.3.1. Kết quả đạt được
- Xét ở góc độ đối với vai trò quản lý của NHNN:
+ Tạo được sự thuận lợi về quản lý nhà nước, góp phần lành mạnh
hóa hệ thống ngân hàng Việt Nam: Bước đầu đã giảm thiểu được một số
NHTM CP yếu kém, thiếu năng lực cạnh tranh, mất khả năng thanh khoản
như NHTM CP Việt Hoa, Mê Kông… giảm số lượng ngân hàng trong hệ
thống (từ khi bắt đầu thực hiện Đề án cơ cấu lại năm 2001, số lượng NHTM
CP giảm xuống đáng kể từ 50 xuống còn 36), tạo điều kiện cho NHNN
thuận lợi trong quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng, góp phần
làm lạnh mạnh hóa hệ thống ngân hàng; Bắt buộc các NHTM tăng vốn điều
lệ tối thiểu và thực hiện chỉ số an toàn vốn (CAR) đối với các NHTM CP;
Định hướng các NHTM CP Việt Nam vận hành theo chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
+ Bước đầu tạo cơ sở cho hoạt động M&A ngân hàng và từng bước
hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động này: Hệ thống ngân hàng Việt Nam
ở giai đoạn mới được hình thành chỉ có 04 NHTM trụ cột, nhưng trong quá
trình vận hành theo nền kinh tế thị trường có nhiều ngân hàng TMCP ra đời,
hành lang pháp lý từng bước được hình thành, hoàn thiện. Thành công nổi
bật của hoạt động M&A ngân hàng đó là bước đầu tạo dựng được một số
quy định pháp lý trong một số bộ luật, luật như: Bộ luật dân sự, Luật cạnh
tranh (2005), Luật doanh nghiệp (2005), Luật đầu tư (2005), Luật các Tổ
114
chức tín dụng (2010). Quy định của NHNN về M&A tổ chức tín dụng cổ
phần Việt Nam được quy định tại Quyết định 241/1998/NHNN và Thông tư
04/2010/NHNN.
- Xét ở góc độ đối với các NHTM CP:
+ Hỗ trợ các ngân hàng quy mô nhỏ, năng lực tài chính yếu kém có
cơ hội thoát khỏi sự phá sản để từng bước phát triển
Đối với các ngân hàng thực hiện M&A có sự gia tăng quy mô vốn, tài
sản…; đối với các ngân hàng tham gia M&A có điều kiện, cơ hội nâng cao
năng lực cạnh tranh về nguồn vốn, quy mô tài sản sinh lời, hiệu quả kinh
doanh…
+ Tinh giảm nhân sự, tiết giảm chi phí, thu gọn bộ máy hoạt động:
Củng cố, kiện toàn, tăng cường nhân sự các cấp phù hợp với tình hình đặc
điểm của ngân hàng sau M&A; Sau M&A, ngân hàng có bộ máy nhân sự
tinh gọn do giảm bớt một số phòng ban, chi nhánh không cần thiết; Tiết
giảm được nhiều chi phí trong hoạt động kinh doanh do một số phòng ban,
bộ phận nghiệp vụ sau M&A trở thành giao dịch nội bộ của ngân hàng.
+ Hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh, thiếu bình đẳng: Khắc
phục và giảm thiểu tình trạng cạnh tranh không bình đẳng, thiếu minh bạch
giữa các ngân hàng với nhau trong việc thu hút khách hàng, huy động vốn,
tài trợ cho vay, giảm phí thanh toán…
+ Chủ trương chấn chỉnh, củng cố ngân hàng đúng sẽ góp phần hỗ trợ
các NHTM CP tiếp tục hoạt động và phát triển: Các NHTM CP đã tiến hành
M&A đến nay vẫn hoạt động ổn định, phát triển phù hợp với chủ trương
của Chính phủ, NHNN trong tiến trình củng cố, lành mạnh hóa hệ thống
ngân hàng Việt Nam.
Hoạt động M&A đã tạo cơ hội để các ngân hàng này tồn tại, phát
triển, nâng cao năng lực cạnh tranh, dần thích nghi với môi trường thường
115
xuyên thay đổi của nền kinh tế thị trường, tiếp tục góp phần duy trì sự ổn
định của hệ thống ngân hàng Việt Nam, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh
tế.
+ Tạo cơ hội, điều kiện hình thành các tập đoàn tài chính ngân hàng
tại Việt Nam trong tương lai: Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt
Nam ngày càng tăng lên, thể hiện số lượng ngân hàng đối tác chiến lược
tham gia mua cổ phần NHTM CP trong nước ngày càng nhiều lên, đi kèm
với đó là liên kết về công nghệ ngân hàng, SPDV… ngày càng mở rộng.
Đây sẽ là tiền đề để hình thành tập đoàn tài chính ngân hàng tại Việt Nam
theo như định hướng của Chính phủ, đến 2015 phấn đấu Việt Nam có được
ít nhất 01 Tập đoàn tài chính ngân hàng có đủ sức cạnh tranh trong khu vực.
+ Rút ra được các bài học kinh nghiệm quý báu có ích cho hoạt động
của ngân hàng sau M&A: Thông qua M&A, kinh nghiệm thành công, thất
bại của ngân hàng yếu kém được tổng kết, đúc rút là bài học quý cho chính
ngân hàng tham gia hoạt động này trong quá trình triển khai hoạt động kinh
doanh sau M&A.
4.3.2. Hạn chế
- Hoạt động M&A ngân hàng ở Việt Nam còn khiêm tốn so với các
nước trong khu vực.
- M&A diễn ra theo xu hướng các ngân hàng “khỏe” tiến hành M&A
với TCTD “yếu” và hầu hết theo chỉ đạo của NHNN, chưa tự nguyện tham gia.
- Giá trị giao dịch khi tiến hành M&A nhỏ.
- Thông tin liên quan đến các thương vụ này chưa được công bố rộng
rãi và đầy đủ nên rất khó khăn để các bên liên quan tìm hiểu học hỏi kinh
nghiệm.
116
- M&A mới chỉ dừng lại là giải pháp đóng vai trò để cứu vãn các
ngân hàng đang trên bờ vực phá sản, tránh sự đổ vỡ hệ thống ngân hàng
nhằm thực hiện mục tiêu củng cố, lành mạnh hóa các ngân hàng thương mại.
- Hoạt động M&A ngân hàng diễn ra trên thực tế gặp những khó
khăn nhất định trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan như: Quyền lợi
giữa các nhóm cổ đông của ngân hàng sáp nhập và ngân hàng bị sáp nhập;
Văn hóa doanh nghiệp; hành lang pháp lý…
4.4. Yếu tố ảnh hưởng đến M&A ngân hàng Việt Nam
4.4.1. Hành lang pháp lý
Khung pháp lý quy định, luật điều chỉnh M&A ngân hàng chưa đồng
bộ, hành lang pháp lý chưa được xây dựng theo định hướng kinh tế thị
trường.
Hiện tại, các quy định có liên quan được đề cập rải rác trong Luật
Cạnh tranh, Luật Doanh nghiệp, Luật các TCTD, Quyết định
241/1998/NHNN, Thông tư 04/2010/NHNN, mới nhất là Nghị định số
01/2014/NĐ-CP. Mặc dù hoạt động ngân hàng trên thực tế đã có những
thay đổi khá nhiều, trong khi đó, các văn bản có tính pháp lý này chỉ đề cập,
điều chỉnh việc mua lại của các chủ thể thông qua con đường mua lại tài
sản, mà chưa điều chỉnh việc mua lại của các chủ thể ngân hàng qua
phương thức mua lại cổ phần của ngân hàng mục tiêu. Hiện Nhà nước đang
khống chế tỷ lệ sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài
nhưng trong thời gian tới sẽ có nhiều thay đổi về tỷ lệ sở hữu theo lộ trình
hội nhập, việc M&A thông qua con đường sở hữu cổ phiếu phát hành là
điều tất yếu sẽ diễn ra. Nội dung này mới được quy định tại Nghị định số
01/2014/NĐ-CP về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của TCTD
Việt Nam mới được ban hành ngày 03/01/2014.
117
Tiến trình bổ sung nội dung về hoạt động M&A ngân hàng vào Luật
các TCTD còn chậm.
(Xem Phụ lục: Danh mục một số văn bản pháp luật liên quan đến
M&A ngân hàng tại Việt Nam)
4.4.2 Quản lý nhà nước về M&A ngân hàng
Hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động chủ yếu theo định hướng
của Chính phủ thông qua NHNN quản lý, việc phá sản ngân hàng chưa có
luật định, cho nên khi xảy ra sự đổ vỡ hàng loạt Hợp tác xã tín dụng, Chính
phủ và NHNN vừa xây dựng luật, đồng thời vừa phải xử lý hậu quả…
Nhiều ngân hàng TMCP Việt Nam hoạt động thiếu sự bền vững.
Trong khi đó, Chính phủ và NHNN chưa mạnh dạn cho phá sản các ngân
hàng TMCP yếu kém. NHNN chưa có kinh nghiệm trong thực hiện các thủ
tục pháp lý để cho các TCTD phá sản nên phải thận trọng trong từng khâu,
từng bước xử lý, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, thêm vào đó, NHNN quá
thận trọng… Những lý do nêu trên khiến thời gian diễn ra hoạt động này dài
và ảnh hưởng tới khả năng thành công của hoạt động M&A.
4.4.3 Môi trường kinh tế vĩ mô
Do nền kinh tế Việt Nam thời gian qua chưa thực sự mở cửa cho thị
trường tài chính, cho nên đến nay tại Việt Nam vẫn chưa có các giao dịch
M&A giữa các ngân hàng “khỏe”, hoạt động lành mạnh với nhau, cũng như
chưa có các hoạt động M&A xuyên quốc gia nhằm khai thác một cách triệt
để bản chất thực sự của hoạt động M&A đó là phát huy sự cộng hưởng về
năng lực tài chính, công nghệ, nhân sự, thị trường… của các ngân hàng
tham gia.
Với lý do nêu trên cùng với sự thụ động trong tiếp cận vấn đề nên các
ngân hàng TMCP trong nước chưa hiểu biết đầy đủ về các giao dịch M&A,
thiếu kinh nghiệm, tư duy, tầm nhìn về hoạt động này.
118
4.5. Dự báo về M&A ngân hàng Việt Nam thời gian tới
4.5.1. Nhân tố góp phần thúc đẩy hoạt động M&A ngân hàng
Việt Nam thời gian tới
Kinh tế Việt Nam đang trên đà hội nhập kinh tế quốc tế, việc thực thi
các hiệp định tự do hóa thương mại, mở cửa lĩnh vực tài chính đang đến rất
gần. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, các NHTM CP nhỏ đang gặp rất
nhiều khó khăn trong quản trị thanh khoản, kinh doanh. Ngành ngân hàng
đã đi qua giai đoạn 1 quá trình sàng lọc, tái cơ cấu nhưng mới chỉ dừng lại ở
xử lý những ngân hàng yếu kém nhất trong hệ thống. Bước sang giai đoạn
2, sẽ có những TCTD mạnh hơn và thông qua đó để xử lý các ngân hàng
yếu kém, các ngân hàng lớn phải nhận ngân hàng nhỏ hoặc có những TCTD
sẽ do NHNN trực tiếp xử lý. Hoạt động M&A ngân hàng sẽ được NHNN
triển khai quyết liệt trong thời gian tới đây. Chính vì thế, M&A ngân hàng
tại Việt Nam được dự báo sẽ nở rộ trong thời gian tới.
- Thị trường Việt Nam ngày càng xuất hiện thêm nhiều ngân hàng
mới, không chỉ có các tập đoàn tài chính, mà ngay cả các Tập đoàn ở những
lĩnh vực khác như dệt may, viễn thông, bảo hiểm, năng lượng… cũng lên kế
hoạch thành lập ngân hàng. Mặt khác, NHNN đã chấp thuận cho phép
HSBC và Standard Chartered thành lập 02 ngân hàng con 100% vốn và có
nhiều hồ sơ của ngân hàng nước ngoài xin thành lập ngân hàng đang chờ
được duyệt.
- Các NHTM lớn đang sở hữu một phần vốn điều lệ của các ngân
hàng cổ phần, hoặc thông qua hình thức liên doanh, liên kết với các ngân
hàng với nhau nhằm tận dụng thế mạnh của nhau. Các ngân hàng quốc
doanh đang tìm cách có cổ phần tại các NHTM để chuẩn bị cho các cuộc
sáp nhập tập đoàn (Vietcombank đang có cổ phần tại các NHTM khác như
GiaDinh Bank, Eximbank, VIBBank, OCB…).
119
- Các tập đoàn tài chính nước ngoài đang tìm cách trở thành đối tác
chiến lược của các NHTM CP trong nước đang có vị trí ưu thế. Bởi vì việc
mua lại một tỷ lệ cổ phần của Ngân hàng trong nước được thực hiện dễ
dàng hơn rất nhiều so với thủ tục xin thành lập một ngân hàng con 100%
vốn ngoại.
- Chủ trương của NHNN hạn chế việc thành lập các ngân hàng mới,
thay vào đó tiến hành M&A các ngân hàng trong nước với nhau, các định
chế tài chính như công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty đầu tư tài
chính… hình thành tập đoàn tài chính lớn để tránh phá sản, đổ vỡ không
mong muốn. Trong tương lai gần, Nhà nước sẽ cho phép thành lập 01 Tập
đoàn tài chính ngân hàng đầu tiên có đủ năng lực cạnh tranh trong khu vực.
- Bản thân các NHTM CP có quy mô nhỏ trên mọi phương diện
mong muốn thông qua hoạt động M&A để có cơ hội nâng cao năng lực tài
chính, tiết giảm chi phí, nâng cao ứng dụng công nghệ ngân hàng, đa dạng
hóa và nâng cao chất lượng SPDV, tăng tính linh hoạt, năng động, mở rộng
thị trường, mạng lưới…
4.5.2. Hình thức M&A ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới
- M&A diễn ra giữa các ngân hàng nhỏ
Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ ban
hành về danh mục vốn pháp định của các ngân hàng năm 2010 phải đạt
3.000 tỷ đồng đối với các NHTM, các NH đầu tư, các NH liên doanh liên
kết, đạt 5.000 tỷ đồng đối với các NH phát triển và các chi nhánh của các
ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là 15 triệu USD. Ngày 25/8/2010,
NHNN ban hành Quyết định 2020/2010/QĐ-NHNN về việc thành lập tổ
đánh giá bổ sung sửa đổi Nghị định 141, trong đó nội dung quan trọng là
nâng vốn pháp định của các NHTM lên 5.000 tỷ đồng vào năm 2012 và
10.000 tỷ đồng vào năm 2015.
120
Trong số gần 20 NHTM phải tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng, mới
có khoảng một nửa trong số đó NHTM hoàn thành lộ trình. Việc chịu sức
ép về tăng vốn điều lệ, cùng với hoạt động trong điều kiện kinh tế còn nhiều
thách thức đặt ra, các ngân hàng nhỏ dần bộc lộ sự lúng túng trong quản trị
điều hành, yếu kém trong thanh khoản… Để nâng cao năng lực tài chính và
khả năng cạnh tranh, các ngân hàng nhỏ buộc phải nghĩ đến giải pháp liên
kết với nhau nhằm phát huy các giá trị cộng hưởng sau M&A, với hình thức
ban đầu thành lập các liên hiệp ngân hàng gồm 3-5 ngân hàng nhỏ, vẫn duy
trì tư cách pháp nhân riêng của từng ngân hàng và chỉ thành lập Hội đồng
tín dụng thống nhất, chính sách tín dụng thống nhất, đường lối chiến lược
thống nhất, sáp nhập các bộ phận dịch vụ, hệ thống thanh toán thẻ,
marketing, truyền thông…; Hình thức tiếp theo, sau khi đạt được mức độ
hòa hợp nhất định, các ngân hàng nhỏ sẽ tiến tới sáp nhập hoàn toàn thành
một khối thống nhất để hình thành một pháp nhân mới.
Do các ngân hàng nhỏ cơ sở kỹ thuật như nhau và không có điểm nổi
trội nên phải tốn thời gian và chi phí cho hoạt động nghiên cứu, phát triển
và tìm chiến lược kinh doanh mới, quản lý mới cho ngân hàng sau sáp nhập.
- Ngân hàng lớn tiến hành sáp nhập, mua lại ngân hàng nhỏ
Đây là xu thế nhiều khả năng xảy ra nhất trong thời gian sắp tới khi
các ngân hàng nhỏ không đáp ứng được các điều kiện trong bối cảnh cạnh
tranh, hội nhập, các ngân hàng lớn âm thầm tiến hành chiến lược mở rộng
thị trường, thị phần.
Hoạt động M&A sẽ diễn ra như sau: Giai đoạn đầu, các ngân hàng
lớn sẽ tham gia góp vốn, liên doanh, liên kết, trở thành cổ đông chiến lược
với các ngân hàng nhỏ hơn; Giai đoạn tiếp theo, các ngân hàng lớn sẽ tiến
hành sáp nhập, mua lại các ngân hàng nhỏ.
121
Các ngân hàng lớn và ngân hàng nhỏ có những dòng sản phẩm khác
nhau, phân khúc thị trường không đồng nhất, khác nhau về văn hóa… nên
giai đoạn đầu sau M&A sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tạo nên sự hòa
hợp để đạt được những giá trị như mong đợi.
- M&A giữa các ngân hàng cùng quy mô (trung bình, lớn) cùng chiến
lược phát triển
M&A giữa các ngân hàng cùng quy mô sẽ diễn ra khi thị trường tài
chính ngân hàng phát triển đạt mức tương đối ổn định, các nguồn lực được
khai thác tương đối toàn diện. Hoạt động này sẽ đem đến kết quả hình thành
nên những ngân hàng có quy mô lớn, tăng khả năng cạnh tranh với các tập
đoàn tài chính quốc gia.
M&A giữa các ngân hàng cùng quy mô lớn, trung bình, cùng chiến
lược phát triển sẽ được thực hiện thông qua các hình thức: Giữ cổ phiếu
chéo với nhau thông qua góp vốn liên doanh, đầu tư mua cổ phần và hợp tác
liên kết trong nhiều lĩnh vực như tín dụng, sản phẩm thẻ, công nghệ thông
tin…; hoặc tiến hành sáp nhập với nhau để hình thành các ngân hàng mạnh
hơn.
Hình thức M&A này có khả năng thực hiện khi nền tài chính phát
triển khá cao và ổn định. Khi các nguồn lực được khai thác triệt để, thị
trường đã khai thác hiệu quả và đạt đến mức bão hòa, lúc đó cần có sự sáp
nhập của các ngân hàng để giảm chi phí hoặc tăng khả năng mở rộng thị
trường sang những thị trường mới hơn để khai thác. Tuy nhiên, việc đàm
phán cho hoạt động sáp nhập ngân hàng giữa các nhà quản trị và điều hành
sẽ khó khăn hơn do ngân hàng nào cũng có thế mạnh riêng có và không
muốn đánh mất vị trí hiện có.
- Sáp nhập xuyên biên giữa các tổ chức tài chính nước ngoài với các
ngân hàng trong nước
122
Thời gian vừa qua, đã có một số ngân hàng nước ngoài mua cổ phần
của một số NHTM CP trong nước để trở thành cổ đông chiến lược. Tại các
nước trong khu vực, hoạt động này đều đã bước vào giai đoạn thu hút
nguồn vốn đầu tư trực tiếp thông qua hình thức các ngân hàng nước ngoài
mua phần lớn cổ phần của các ngân hàng trong nước, trong đó Hàn Quốc,
Thái Lan, Inđônêxia đã cho phép nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ
100% cổ phiếu của các ngân hàng trong nước, tại Philippines, tỷ lệ này là
50%, Malaysia tỷ lệ này là 30%. Qua đây ghi nhận sự ảnh hưởng tích cực
của các ngân hàng nước ngoài, tuy nhiên ngân hàng trong nước vẫn giữ vai
trò hạt nhân đối với sự phát triển một nền tài chính ổn định vì các ngân
hàng này thực hiện các chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, còn các ngân
hàng nước ngoài tập trung mục đích duy nhất vì lợi nhuận.
Trong bối cảnh tự do hóa tài chính theo lộ trình của WTO mà Việt
Nam đã gia nhập, xu hướng M&A xuyên biên sẽ là xu hướng tất yếu vì các
ngân hàng nước ngoài ưa chuộng việc mua lại các ngân hàng trong nước
thay cho việc thành lập ngân hàng mới nhằm tiết kiệm chi phí và thời gian
gia nhập thị trường khi luật pháp Việt Nam cho phép.
Hình thức M&A xuyên biên này được thực hiện theo các giai đoạn:
Ngân hàng nước ngoài trở thành cổ đông chiến lược của các ngân hàng
trong nước theo tỷ lệ tối đa cho phép; Ngân hàng nước ngoài tiến hành mua
đứt các ngân hàng trong nước khi lộ trình tự do hóa được mở ra hoàn toàn.
Hình thức M&A xuyên biên này sẽ có trở ngại lớn nhất đó là sự khác
biệt về văn hóa làm việc đối với chính nhân viên và khách hàng truyền
thống. Mặt khác, sự thay đổi chính sách vĩ mô của Chính phủ, các chính
sách tài chính tiền tệ nói chung cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động này.
- Sáp nhập ngân hàng để thành lập tập đoàn tài chính ngân hàng
123
Các NHTM không chỉ cạnh tranh với nhau, mà còn cạnh tranh với
các định chế tài chính khác như công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty
chứng khoán. Việc sáp nhập ngân hàng để hình thành nên tập đoàn tài chính
ngân hàng sẽ góp phần đa dạng hóa sản phẩm, tạo ra chuỗi giá trị mới cho
khách hàng, khai thác được lợi thế tổng thể… từ đó tạo ra được những lợi
thế cạnh tranh mới.
Đối với ngân hàng quốc doanh: Nhà nước sẽ tiến hành cổ phần hóa
hình thành ngân hàng mẹ là trung tâm của tập đoàn, lựa chọn các cổ đông
chiến lược cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các TCTD có
tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý, uy tín quốc tế…
mua cổ phiếu và tham gia quản lý điều hành ngân hàng; Chuyển đổi các
công ty trực thuộc (chứng khoán, bảo hiểm, cho thuê tài chính, mua bán
nợ…) sang mô hình công ty cổ phần và thành lập tập đoàn tài chính ngân
hàng.
Đối với các ngân hàng tư nhân: Tiến hành M&A với các công ty tài
chính, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài chính
và các ngân hàng khác để thành lập tập đoàn tài chính ngân hàng.
Sáp nhập để hình thành tập đoàn tài chính ngân hàng đối mặt với rủi
ro gia tăng về quy mô, không đạt được tính kinh tế, rủi ro gia nhập thị
trường mới có thể làm tăng chi phí quản lý. Mặt khác, việc sáp nhập này
gặp trở ngại vì có quá nhiều công ty, nhiều sản phẩm, phạm vi hoạt động
rộng khắp, văn hóa làm việc khác nhau, lịch sử phát triển khác nhau… nên
sẽ rất mất nhiều thời gian để tiến hành M&A.
- NHTM CP trong nước mua lại các công ty tài chính
Các NHTM CP mua lại các công ty tài chính của các Tập đoàn, Tổng
Công ty… nhằm thực hiện chiến lược phát triển kênh sản phẩm dịch vụ
124
ngân hàng bán lẻ, dịch vụ tài chính cá nhân với chi phí rẻ do tận dụng được
mạng lưới, nhân sự… sẵn có của các công ty tài chính.
4.5.3. Dự báo các thương vụ M&A ngân hàng có khả năng diễn
ra trong tương lai
Bảng 4.7: Vốn điều lệ của một số NHTM Việt Nam
Tên ngân hàng Tên giao dịch Vốn điều lệ
(tỷ đồng)
Ngày cập
nhật
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam
Agribank 29.605 31/12/2014
NHTMCP Ngoại thương Việt Nam Vietcombank 26.650 30/06/2014
NHTMCP Đầu tư và Phát triển VN BIDV 28.112 30/3/2014
NHTMCP Công thương Việt Nam Vietinbank 37.234 08/7/2014
NHTMCP Phát triển Nhà đồng bằng
sông Cửu Long
MHB 2.708 31/5/2011
Ngân hàng Chính sách xã hội VN VBSP 15.000 2013
Ngân hàng Phát triển Việt Nam VDB 10.000 2013
NHTMCP Á Châu ACB 9.377 30/6/2012
NHTMCP Tiên Phong TP Bank 5.550 01/6/2014
NHTMCP Đông Á DAB 5.000 12/10/2012
NHTMCP Đông Nam Á SeaBank 5.335 31/10/2010
NHTMCP Đại Dương OceanBank 5.350 01/6/2014
NHTMCP An Bình ABBank 4.800 11/2011
NHTMCP Bắc Á BacABank 3.700 05/8/2014
NHTMCP Dầu khí Toàn cầu GPBank 3.018 31/12/2010
NHTMCP Hàng hải Việt Nam Maritime Bank 8.000 06/12/2011
125
NHTMCP Kỹ thương Việt Nam Techcombank 8.878 01/4/2011
NHTMCP Kiên Long KienLongBank 3.000 12/2010
NHTMCP Nam Á Nam A Bank 3.000 24/10/2011
NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng VP Bank 6.347 20/2/2014
NHTMCP PT TP Hồ Chí Minh HD Bank 8.100 02/3/2014
NHTMCP Phương Nam Southern Bank,
PNB
4.000 19/12/2011
NHTMCP Phương Đông OCB 3.400 31/12/2010
NHTMCP Quân Đội MB 11.256 23/11/2013
NHTMCP Đại chúng PVcomBank 9.000 16/9/2013
NHTMCP Quốc tế VIB 4.000 17/6/2010
NHTMCP Sài Gòn SCB 12.295 09/12/2011
NHTMCP Sài Gòn Công Thương SaigonBank 3.080 31/12/2012
NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội SHB 8.866 12/9/2013
NHTMCP Sài Gòn Thương Tín Sacombank 12.425 09/12/2011
NHTMCP Việt Á VietABank 3.098 26/7/2010
NHTMCP Bảo Việt Bao Viet Bank 3.150 31/12/2011
NHTMCP Việt Nam Thương Tín VietBank 3.000 23/9/2010
NHTMCP Xăng dầu Petrolimex PG Bank 3.000 27/9/2010
NHTMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam Eximbank 12.355 19/7/2010
NHTMCP Bưu điện Liên Việt LienVietPostBank 6.460 29/6/2011
NHTMCP Phát triển Mê Kông MDB 3.750 13/11/2009
NHTMCP Xây dựng Việt Nam VNCB 7.500 02/6/2010
(Nguồn: Website các NHTM)
126
Năm 2012, vốn điều lệ toàn hệ thống tăng 11,29% và đến cuối năm
2013 vốn điều kệ của toàn hệ thống là 423,98 nghìn tỷ đồng, tăng 31,8
nghìn tỷ đồng (8,12%) so với cuối năm 2012.
Năm 2013, NHNN đã chấp thuận cho 13 TCTD (10 NHTM, 02
TCTD phi ngân hàng, 01 NH liên doanh) và 03 chi nhánh nước ngoài đề
nghị tăng vốn điều lệ với số tiền 30.718,8 tỷ đồng và 110 triệu USD.
Đến tháng 4/2014, vốn điều lệ toàn hệ thống đạt 430,4 nghìn tỷ đồng,
tăng 0,98% so với cuối năm 2013.
Đến nay, hầu hết các TCTD đã đảm bảo vốn pháp định theo quy định
của Chính phủ, ngoại trừ 02 NH liên doanh là Việt Thái và VID Public
đang được chỉ đạo cơ cấu lại*.
Trong số các ngân hàng thương mại đang hoạt động độc lập, có
khoảng 20 ngân hàng có vốn điều lệ từ trên 3.000 tỷ đồng đến dưới 5.500 tỷ
đồng có nguy cơ và phải tiến hành lựa chọn giải pháp M&A. Trong đó:
- M&A ngân hàng dự kiến sẽ diễn ra trong năm 2015:
+ Vietcombank – Saigon Bank
+ BIDV – Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long
(MHB)
+ Vietinbank – Oceanbank hoặc PG Bank
+ Ngân hàng Phương Nam (Southern Bank) – Ngân hàng Sài Gòn
Thương Tín (Sacombank)
+ Ngân hàng Mê Kông (MDB) – Ngân hàng Hàng hải (Maritime
Bank)
+ GP Bank - LienVietPostBank
* Theo Báo cáo giám sát việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong lĩnh vực đầu tư công, DNNN và hệ
thống ngân hàng theo Nghị quyết số 10/2011/QH13 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2011- 2015 (trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8).
127
- Một số thương vụ tìm đối tác đầu tư tiềm năng trong tương lai:
+ Eximbank: Chủ tịch HĐQT xin ĐHCĐ ủy quyền cho HĐQT
nghiên cứu và lập đề án sáp nhập trong 3-5 năm tới.
+ NH Hàng Hải: NH xin cổ đông ủy quyền cho việc quyết định góp
vốn, mua trên 20% cổ phần tại các TCTD khác.
+ NH An Bình: HĐQT xin phép đại hội tìm kiếm cơ hội và đối tác là
các NHCP để thảo luận khả năng M&A.
+ NH Phương Nam: Cổ đông ủy quyền cho HĐQT quyết định chủ
trương M&A.
+ NH Quân Đội: Ngân hàng Quân Đội tiếp tục tìm cơ hội sáp nhập.
+ NH GPBank - UOB (Singapore): UOB đàm phán để mua lại 100%
GPBank
4.6. Gợi ý giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động M&A ngân
hàng ở Việt Nam
Trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn hoạt động M&A đã được nghiên
cứu tại chương 2 và chương 3, đối chiếu và so sánh với đặc thù của Việt
Nam, NCS mạnh dạn đưa ra những đề xuất, gợi ý giải pháp đối với hoạt
động M&A ngân hàng tại Việt Nam trong thời gian tới như sau:
Năm 2020 là thời điểm ngành Ngân hàng Việt Nam hội nhập với
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Với mục tiêu đến năm 2017 chỉ còn
khoảng 20 NHTM trong hệ thống cùng với việc hình thành các ngân hàng
tầm cỡ khu vực… Trên cơ sở bám sát nội dung Đề án phát triển ngành
Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày
24/5/2006, bám sát những mục tiêu quan trọng phát triển ngành ngân hàng
đến năm 2020 được đề ra trong Đề án này, để góp phần tăng hiệu quả hoạt
128
động M&A ngân hàng tại Việt Nam, cần tập trung thực hiện các giải pháp
chính sau đây:
4.6.1. Giải pháp vĩ mô về phía Nhà nước
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN,
hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động M&A ngân hàng
Đây là giải pháp có ý nghĩa nền tảng nhằm thúc đẩy quá trình M&A
ngân hàng phát triển.
Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2006. Để phù hợp với lộ trình hội
nhập kinh tế quốc tế đã được Việt Nam cam kết, Chính phủ Việt Nam và
NHNN cần phải tiến hành rà soát tổng thể, đối chiếu các quy định, pháp luật
hiện hành về tính tương thích, phù hợp với các quy định của quốc tế trong
lĩnh vực ngân hàng, dịch vụ tài chính. Từ đó, việc sửa đổi, xây dựng các
quy định, chính sách, cơ chế phải đảm bảo phù hợp các thông lệ quốc tế,
các quy định về kiểm soát hoạt động ngân hàng, tỷ lệ an toàn vốn, phòng
ngừa và xử lý rủi ro, tỷ lệ dự trữ bắt buộc…
Trên thực tế, về cơ bản, các văn bản quy phạm pháp luật được ban
hành thời gian qua đã bước đầu hỗ trợ tích cực cho hoạt động M&A ngân
hàng, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho NHNN và các TCTD trong việc
triển khai các biện pháp thực hiện M&A. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp
của thực tiễn cần xử lý và quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật,
nên một số văn bản chưa được ban hành kịp thời, chưa đảm bảo được tính
phù hợp và thống nhất, tính đầy đủ và đồng bộ, tính hiệu lực chưa cao…
M&A ngân hàng Việt Nam đang hoạt động theo Thông tư 04/2010,
đây là văn bản dưới Luật, đồng thời hoạt động này còn chịu sự chi phối của
Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật dân sự,
Luật các tổ chức tín dụng. Tất cả những quy định này mới chỉ mang tính
hình thức khung cho hoạt động M&A, chưa có quy định chuẩn về định giá
129
tài sản ngân hàng, cổ phiếu, cổ phần, chủ đầu tư được mua cổ phần ngân
hàng, các giao dịch M&A ngân hàng công khai, minh bạch, quyền lợi của
cổ đông, quyền lợi của người lao động, chính sách thuế, bảo hiểm tiền
gửi… Do đó, NHNN cần tham mưu cho Chính phủ xây dựng nội dung quy
định hoạt động M&A ngân hàng, phá sản ngân hàng… bổ sung vào Luật
các TCTD nhằm hoàn chỉnh hành lang pháp lý, đồng thời đưa ra những
định hướng rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động M&A ngân hàng
tại Việt Nam, qua đó góp phần giải quyết hiệu quả các trường hợp gian lận
trong M&A ngân hàng.
- Nâng cao vai trò quản lý nhà nước và chỉ đạo, điều hành của
NHNN đối với hoạt động M&A ngân hàng; gắn quá trình M&A ngân hàng
với quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng
Ngày 01/3/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
254/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng
giai đoạn 2011- 2015”.
Mục tiêu cơ cấu lại hệ thống các TCTD, đó là: Cơ cấu lại căn bản,
triệt để và toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng để đến năm 2020 phát
triển được hệ thống các tổ chức tín dụng đa năng theo hướng hiện đại, hoạt
động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô,
loại hình có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền tảng công nghệ,
quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về
hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính,
ngân hàng của nền kinh tế. Trong giai đoạn 2011 - 2015, tập trung lành
mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động của các tổ
chức tín dụng; cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ
chức tín dụng; nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong
hoạt động ngân hàng. Phấn đấu đến cuối năm 2015 hình thành được ít nhất
130
1 - 2 ngân hàng thương mại có quy mô và trình độ tương đương với các
ngân hàng trong khu vực.
Quan điểm cơ cấu lại hệ thống các TCTD được nêu rõ:
Thứ nhất, cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng và từng tổ chức tín
dụng là một quá trình thường xuyên, liên tục nhằm khắc phục những khó
khăn, yếu kém và chủ động đối phó với những thách thức để các tổ chức tín
dụng không ngừng phát triển một cách an toàn, hiệu quả, vững chắc và đáp
ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.
Thứ hai, củng cố, phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng đa dạng về
sở hữu, quy mô và loại hình phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển của
nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Hệ thống các tổ chức tín
dụng bao gồm các ngân hàng lớn, hoạt động lành mạnh đóng vai trò làm trụ
cột trong hệ thống, có khả năng cạnh tranh trong khu vực, đồng thời có
những ngân hàng vừa và nhỏ, tổ chức tín dụng phi ngân hàng nhằm đáp ứng
tốt hơn nhu cầu dịch vụ ngân hàng của mọi tầng lớp trong xã hội: Nâng cao
vai trò, vị trí chi phối, dẫn dắt thị trường của các tổ chức tín dụng Việt Nam,
đặc biệt là bảo đảm các ngân hàng 100% vốn của Nhà nước và ngân hàng
có cổ phần chi phối của Nhà nước (sau đây gọi chung là ngân hàng thương
mại nhà nước) thật sự là lực lượng chủ lực, chủ đạo của hệ thống các tổ
chức tín dụng,đồng thời có đủ năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Thứ ba, khuyến khích việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại các tổ chức
tín dụng theo nguyên tắc tự nguyện, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền
và các quyền, nghĩa vụ kinh tế của các bên có liên quan theo quy định của
pháp luật. Để bảo đảm an toàn, ổn định của hệ thống, một sốtổ chức tín
dụng có mức độ rủi ro, nguy cơ mất an toàn cao sẽ được áp dụng các biện
pháp xử lý đặc biệt theo quy định của pháp luật.
131
Thứ tư, thực hiện cơ cấu lại toàn diện về tài chính, hoạt động, quản trị
của các tổ chức tín dụng theo các hình thức, biện pháp và lộ trình thích hợp.
Hình thức và biện pháp cơ cấu lại tổ chức tín dụng được áp dụng phù hợp
với đặc điểm cụ thể của từng tổ chức tín dụng.
Thứ năm, không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng
ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước. Quá trình chấn chỉnh, củng cố và cơ cấu
lại hệ thống các tổ chức tín dụng hạn chế tới mức thấp nhất tổn thất và chi
phí của ngân sách nhà nước cho xử lý những vấn đề của hệ thống các tổ
chức tín dụng.
Quá trình tái cơ cấu, cổ phần hóa các NHTM và hoạt động M&A có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Quá trình tái cơ cấu, cổ phần hóa NHTM
diễn ra nhanh sẽ là nguồn cung dồi dào, động lực đẩy nhanh quá trình
M&A. Trên thực tế, đối với thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam đang
trên đường hội nhập với quốc tế, các NHTM luôn là đối tượng hấp dẫn đối
với khu vực tư nhân cũng như các nhà đầu tư nước ngoài, tài sản của các
NHTM nhà nước thường được đánh giá cao.
Với việc xác định M&A ngân hàng là cần thiết và có quan hệ mật
thiết với quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD, cổ phần hóa các NHTM,
NHNN cần sớm chuẩn hóa lộ trình M&A các NHTMCP và thực hiện M&A
như một giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng hệ thống tài chính, ngân hàng
vững mạnh, hiện đại.
Trong quá trình xử lý khủng hoảng hoặc có nguy cơ rủi ro hệ thống
TCTD, ngân hàng Nhà nước cần phân chia hoạt động M&A thành 2 giai
đoạn: (i) giai đoạn xử lý nóng, loại bỏ dứt điểm các ngân hàng yếu kém
(từng bước xóa bỏ khái niệm “nhà nước sẽ không để phá sản ngân hàng”)
và (ii) giai đoạn cải thiện tiến tới nâng cao chất lượng hoạt động của các
ngân hàng tiến hành M&A.
132
Để đạt được mục tiêu còn khoảng 20 NHTM CP vào năm 2017-
2020, Việt Nam cần khẩn trương chủ động xây dựng lộ trình M&A các
NHTM CP theo hướng giới hạn số lượng các NHTM CP trong nước và
phân định số lượng NHTM hiện có theo hướng sau:
+ Xây dựng “xương sống” của hệ thống ngân hàng Việt Nam gồm
các NHTM CP nhà nước (Vietcombank, Vietinbank, BIDV) và Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Agribank.
+ Định hướng xây dựng 1-2 tập đoàn tài chính ngân hàng lớn tầm cỡ
khu vực trên cơ sở lựa chọn tiến hành M&A các NHTM CP Việt Nam có đủ
điều kiện, phù hợp lợi ích nhóm cổ đông, tương đồng về văn hóa, cùng
chung mục tiêu định hướng phát triển, cùng quy mô hoạt động.
+ Lựa chọn 3-5 NHTM CP có quy mô nhỏ nhất trong số các ngân
hàng hiện có, cho duy trì hoạt động và quy định giới hạn một số nghiệp vụ
(mạng lưới, giới hạn về tín dụng, về huy động, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ an toàn
vốn…). Nếu các ngân hàng này không tuân thủ thực hiện sẽ giải thể, phá sản.
Nếu hoạt động M&A ngân hàng thực hiện theo lộ trình được xây
dựng, NHNN sẽ thuận lợi hơn trong quản lý nhà nước về hoạt động này
cũng như hoạt động ngân hàng nói chung, góp phần lành mạnh hóa và thực
hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam.
- Nghiên cứu xây dựng các mô hình, các tổ chức tham gia, giám sát
M&A ngân hàng phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, chú ý phát
huy vai trò của Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam trong quá trình này; đồng thời
xây dựng các công cụ hỗ trợ và kiểm soát hoạt động Trước-Trong và Sau
của quá trình M&A ngân hàng
Nghiên cứu thiết lập Hệ thống Mạng an toàn tài chính quốc gia, Cơ
quan Quản lý tài sản quốc gia, Quỹ tái cấp vốn ngân hàng, Công ty tư vấn
133
giám sát M&A; Công ty trong nước uy tín xếp hạng tín nhiệm TCTD; Công
ty thống kê thông tin và số liệu hoạt động các NHTM.
Các cơ quan này có đủ năng lực, quyền hạn và năng lực tài chính để
có thể hoàn thành nhiệm vụ, đặc biệt trường hợp xảy ra khủng hoảng hệ
thống. Việc phân chia chức năng, quyền hạn giữa các thành viên phải rõ
ràng và được ghi trong Luật, đồng thời các thành viên phải phối hợp chặt
chẽ với nhau để tránh xảy ra mâu thuẫn về nhiệm vụ.
Trong đó, cần phải chọn và chỉ định một cơ quan đầu mối đứng ra
chịu trách nhiệm thực hiện M&A; Cơ quan đầu mối này phải được trao
những quyền hạn đặc biệt về pháp lý, tư pháp để có thể chủ động thực hiện
M&A. Trong đó cần dự báo các khả năng rủi ro và hoạch định chính sách
phù hợp cho từng tình huống; Chịu trách nhiệm thực hiện M&A; được trao
những quyền hạn đặc biệt về pháp lý, tư pháp, năng lực tài chính… để có
thể chủ động thực hiện M&A ngân hàng.
Trong trường hợp chưa triển khai được phương án nêu trên, Chính
phủ có thể giao việc giám sát triển khai hoạt động M&A ngân hàng cho Ủy
ban Giám sát Tài chính quốc gia Việt Nam nhằm tăng cường thanh tra, giám
sát để hỗ trợ M&A TCTD và đảm bảo an toàn khi thực hiện hoạt động này.
Trong M&A ngân hàng cần chú ý nâng cao vai trò của Bảo hiểm
Tiền gửi Việt Nam nhằm đảm bảo sự an toàn của hoạt động này. Kể từ năm
2011 là năm bắt đầu hợp nhất các ngân hàng Đệ Nhất, Tín Nghĩa và Sài
Gòn thành NH TMCP Sài Gòn (SCB), thương vụ sáp nhập NH TMCP Nhà
Hà Nội vào NH TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) cũng như các thương vụ
M&A ngân hàng trong năm 2013, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN)
đều đã chính thức gửi tới dân chúng nói chung và người gửi tiền nói riêng
thông điệp sẽ bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền trong mọi trường hợp.
Trong năm 2013, Quỹ Tín dụng Nhân dân Cơ sở Trần Cao tại Hưng Yên
134
phá sản do rủi ro đạo đức của ban lãnh đạo của Quỹ. BHTGVN đã tiến hành
chi trả số tiền bảo hiểm tiền gửi đợt 1 là 4.940.458.900 đồng cho 172 người
gửi tiền. Qua đó thực hiện đúng cam kết của BHTGVN đồng thời củng cố
niềm tin của người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Để kiểm soát quá trình Trước – Trong – Sau hoạt động M&A ngân
hàng, các cơ quan quản lý nhà nước (thành lập theo kiến nghị của NCS) cần
tiến hành đánh giá các danh mục đầu tư của ngân hàng; Xác định khả năng
tồn tại của các ngân hàng; Đưa ra giải pháp cho các ngân hàng không còn
khả năng tồn tại; Nhanh chóng làm sạch các tài sản xấu và nợ xấu từ các tổ
chức tài chính gặp khó khăn; và Tái cấp vốn cho các ngân hàng có khả năng
tồn tại và bảo vệ người gửi tiền để lấy lại niềm tin vào hệ thống ngân hàng;
Mua lại các khoản nợ; bán đấu giá tài sản; Bơm thêm vốn thông qua trái
phiếu Chính phủ do cơ quan Bảo hiểm tiền gửi phát hành... đồng thời ban
hành quy định buộc các TCTD phải thực hiện các điều kiện hoạt động theo
tiêu chuẩn Basel đúng lộ trình; cắt giảm đội ngũ nhân sự; sắp xếp lại bộ
máy lãnh đạo; củng cố hệ thống mạng lưới; thay thế, bổ sung đội ngũ lãnh
đạo có chất lượng; bổ sung các thành viên Hội đồng quản trị độc lập và tăng
quyền hạn, nghĩa vụ của Ban kiểm soát.
- Ban hành quy định, quy trình chuẩn về định giá tài sản trong hoạt
động ngân hàng, đồng thời xây dựng quy định chuẩn lựa chọn các tổ chức
có uy tín, chuẩn mực nghề nghiệp để thực hiện việc định giá tài sản ngân hàng
Định giá trong hoạt động M&A ngân hàng phải được đặc biệt quan
tâm, bởi hiện nay, việc định giá tài sản ngân hàng do các ngân hàng tự đưa
ra phương thức định giá. Thời gian vừa qua, các ngân hàng nhỏ, yếu thanh
khoản, mất khả năng chi trả được Chính phủ và NHNN cho vay tái chiết
khấu, tái cấp vốn tín dụng thông qua các NHTM CP này cầm cố trái phiếu,
tái thế chấp các tài sản của doanh nghiệp, khách hàng cá nhân để được
135
NHNN cấp vốn hỗ trợ thanh khoản, do đó khó tránh rủi ro trong việc Nhà
nước mất vốn hay khó thu hồi vốn của Nhà nước từ các ngân hàng này.
Do nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi sang kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế, chưa có những tiêu chuẩn định lượng cụ thể để lựa
chọn, nhất là đối với các tài sản vô hình trong lĩnh vực ngân hàng. Vì thế,
thành lập các tổ chức định giá mức độ tín nhiệm (Credit Rating Agency –
CRA) đóng vai trò là tổ chức trung gian hoạt động độc lập chuyên về định
giá rủi ro của các ngành kinh tế, các chương trình đầu tư của Chính phủ là
rất cần thiết.
Việc đánh giá xếp hạng tín nhiệm cũng như rủi ro của CRA sẽ giúp
các ngân hàng thuận lợi hơn khi thẩm định cho vay, còn các nhà đầu tư có
cơ sở để thẩm định lại, dự báo tình hình phát triển ngân hàng, định giá cổ
phiếu ngân hàng để quyết định đầu tư, mua bán cổ phần, qua đó góp phần
thúc đẩy hoạt động M&A phát triển.
Bảng 4.8: Xếp hạng 10 tổ chức tư vấn M&A hàng đầu thế giới
Ngân hàng Số lượng thương vụ
giao dịch
Tổng trị giá
(triệu USD)
Xếp hạng
Goldman Sachs 309 593.411 1
Morgan Stanley 246 451.770 2
JP Morgan 227 441.000 3
Credit Suisse 209 356.701 4
Barclays Capital 148 321.417 5
BOA Merrill Lynch 213 315.788 6
Citigroup 170 296.214 7
Deutsche Bank 177 260.684 8
Lazard 180 230.722 9
UBS Investment Bank 209 226.506 10
(Nguồn: Mergermarket M&A Round- up for Year End 2011)
136
- Xem xét nâng tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tham
gia M&A với các ngân hàng trong nước
Ngày 03/01/2014, Chính phủ ban hành Nghị định 01/2014/NĐ-CP về
việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam.
Theo đó, quy định sở hữu cổ phần đối với nhà đầu tư nước ngoài như sau:
Tỷ lệ sở hữu cổ phần của một cá nhân nước ngoài không được vượt quá 5%
vốn điều lệ của 01 TCTD Việt Nam; Tỷ lệ sở hữu cổ phần của 01 tổ chức
nước ngoài không được vượt quá 15% vốn điều lệ của 01 TCTD Việt Nam;
Tỷ lệ sở hữu cổ phần của 01 nhà đầu tư chiến lược nước ngoài không được
vượt quá 20% vốn điều lệ của 01 TCTD Việt Nam; Tỷ lệ sở hữu cổ phần
của 01 nhà đầu tư nước ngoài và người có liên quan của nhà đầu tư nước
ngoài đó không được vượt quá 20% vốn điều lệ của 01 TCTD Việt Nam;
Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá
30% vốn điều lệ của 01 NHTM Việt Nam.
Tuy nhiên, muốn hoạt động M&A ngân hàng tại Việt Nam có những
bước đi nhanh hơn theo kịp lộ trình hội nhập, cạnh tranh với các ngân hàng
khu vực và thế giới, Chính phủ cần xem xét nâng tỷ lệ sở hữu cổ phần của
các nhà đầu tư nước ngoài tham gia M&A với các ngân hàng trong nước.
- Bắt buộc các NHTM CP phải niêm yết giá cổ phiếu ngân hàng trên
sàn giao dịch chứng khoán, thực hiện minh bạch và công khai thông tin tài
chính trước khi thực hiện M&A
NHNN bắt buộc các NHTM CP công bố tình hình tài chính trung
thực, đầy đủ, chính xác, kịp thời. Đối với những giao dịch cổ phần, cổ phiếu
ngân hàng tham gia M&A phải được thực hiện qua sàn giao dịch chứng
khoán công khai mới hợp pháp trong hoạt động giao dịch M&A ngân hàng.
Đối với những giao dịch cố ý thâu tóm ngân hàng gây ảnh hưởng
không tốt đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng và tình hình kinh tế- xã
137
hội, cần phải có biện pháp chế tài mạnh, thậm chí bắt buộc bồi thường thiệt
hại nếu có đối với ngân hàng.
- Tăng cường truyền thông nhận biết cho cộng đồng về hoạt động
M&A là một xu thế tất yếu và M&A xuyên biên là xu hướng chủ đạo
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, càng hội nhập sâu thì càng
xuất hiện nhiều tác động lớn đến hệ thống tài chính ngân hàng, do vậy, Việt
Nam cần chủ động trong hoạt động M&A, coi M&A là một giải pháp thích
hợp và hiệu quả, một xu hướng tất yếu, trong đó M&A ngân hàng toàn cầu
(xuyên biên) có thể đảm bảo thị trường cởi mở hơn và dòng chảy vốn xuyên
biên giới tự do hơn sẽ mang đến mức phúc lợi cao hơn. M&A xuyên biên
cũng là 1 hình thức đầu tư nước ngoài phổ biến, mang lại cơ hội và lợi
nhuận cho các ngân hàng Việt Nam (các giao dịch M&A tấn công).
- Nên xem xét, bổ sung, làm rõ khái niệm “Mua lại & tiếp nhận
nợ”(P&A), vấn đề tập trung kinh tế... trong M&A ngân hàng tại Việt Nam
“Mua lại & tiếp nhận nợ” (Purchase & Assumption - P&A) là
phương thức xử lý ngân hàng phổ biến. Trong giao dịch P&A, tài sản của
ngân hàng không khỏe mạnh được một ngân hàng hoặc nhóm nhà đầu tư
khác tiếp nhận. Nghiệp vụ P&A gồm nhiều hình thức giao dịch đặc
biệt, như ‘chuyển giao toàn bộ - chia sẻ tổn thất’ và ‘ngân hàng bắc cầu’.
Tùy điều kiện để lựa chọn loại hình P&A. Nếu P&A toàn bộ, tất cả tài sản
được chuyển cho ngân hàng tiếp nhận; nếu P&A một phần, tùy thỏa thuận
để quyết định phần tài sản nào được chuyển giao. P&A được lựa chọn khi
đây là giải pháp ít tốn kém so với thanh lý và chi trả bảo hiểm.
Tại Mỹ, P&A là cách thức phổ biến nhất trong ba nghiệp vụ cơ bản
(P&A, chi trả và thanh lý, và hỗ trợ ngân hàng mở) được Tổng công ty BHTG
liên bang (FDIC) áp dụng trong khủng hoảng. Giá trị tài sản mua lại được
138
FDIC xác định sau khi đánh giá chất lượng. Số vụ đổ vỡ FDIC xử lý từ 2007-
2011 theo hình thức chuyển giao toàn bộ/ chia sẻ tổn thất chiếm đa số.
Ở Việt Nam hiện nay, hai trường hợp được Ngân hàng Nhà nước tiếp
quản với giá 0 đồng là Ngân hàng Xây dựng và Ocean Bank có thể được coi
là một hình thức “Ngân hàng bắc cầu”, bởi nếu sau khi giải quyết nợ xấu và
tái cơ cấu lại các ngân hàng này, Ngân hàng Nhà nước có thể tiến hành giải
thể hoặc bán ngân hàng đó cho một tổ chức/cá nhân khác để tiếp tục hoạt
động kinh doanh.
Mặt khác, cần lưu ý làm rõ vấn đề tập trung kinh tế trong M&A ngân
hàng tại Việt Nam: Theo Luật Cạnh tranh ban hành năm 2004, hành vi mua
lại, sáp nhập, hợp nhất có thể dẫn tới tập trung kinh tế, dẫn đến những tiêu
cực do độc quyền sau hoạt động M&A. Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh, Quy
định sáp nhập, hợp nhất, mua lại mới ban hành (Thông tư 04) chưa làm rõ
các vấn đề về “tập trung kinh tế”, đặc biệt liên quan đến ngành Ngân hàng.
Nếu các ngân hàng tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50%
trên thị trường liên quan thì phải thông báo cho cơ quan cạnh tranh biết
trước khi tiến hành tập trung kinh tế, và trường hợp tập trung kinh tế chiếm
trên 50% thị phần trên thị trường có liên quan là hoàn toàn bị cấm. Tuy
nhiên, hiện nay, các ngân hàng đang cung cấp các dịch vụ trọn gói rất phổ
biến. Một ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng một gói dịch vụ bao
gồm nhiều dịch vụ như cho vay, bảo lãnh, thư tín dụng, chiết khấu hối
phiếu... Vì vậy, cần quy định rõ cách tính thị phần là theo từng dịch vụ hay
theo gói dịch vụ, để tránh trường hợp áp dụng sai có thể dẫn đến không thể
tiến hành mua lại, sáp nhập thành công do vi phạm quy định về tập trung
kinh tế của Luật Cạnh tranh. Vì tính đặc thù của ngành Ngân hàng trong
cạnh tranh từng loại dịch vụ, nên quy định của pháp luật về mua lại, sáp
nhập nên quy định cụ thể, việc sử dụng phương pháp tính thị phần theo từng
139
dịch vụ riêng biệt thường sẽ cho kết quả chính xác hơn, nhằm tránh trường
hợp ngân hàng lợi dụng cách tính tính để gây nên tình trạng độc quyền.
- Ngoài ra, Nhà nước cần có những giải pháp đồng bộ khác như:
Quy định ràng buộc trách nhiệm của ngân hàng tham gia M&A đối với
quyền lợi của người lao động và cổ đông của ngân hàng; các quy định tăng
cường giám sát việc thực hiện nghĩa vụ thuế của các bên tham gia M&A;
tăng cường đào tạo nâng cao trình độ nhận thức của các nhà quản trị và các
nhà quản lý trong lĩnh vực này; xây dựng được quy trình xử lý khủng hoảng
hệ thống nếu xảy ra khi tiến hành M&A…; chỉ đạo các Bộ, Ban, Ngành có
liên quan tăng cường phối hợp, hỗ trợ hoạt động M&A ngân hàng đạt hiệu
quả cao nhất.
4.6.2. Giải pháp vi mô về phía Ngân hàng thương mại
- NHTM Việt Nam cần thay đổi tư duy, nhận thức về M&A, coi M&A là
giải pháp quan trọng thực hiện tái cơ cấu ngân hàng trong bối cảnh hiện nay
Các NHTM cần nhìn nhận M&A là một trong những giải pháp hữu
hiệu cho sự phát triển lâu dài, giúp các bên tham gia trở nên mạnh hơn trên
mọi phương diện.
- M&A NHTM Việt Nam xuất phát từ tự nguyện liên kết
Hiện nay, mỗi NHTM tại Việt Nam đều tự xem mình là chủ thể cạnh
tranh riêng, chưa có tính liên kết một cách tự nguyện nhằm tăng sức mạnh
tổng hợp, năng lực cạnh tranh. Hoạt động M&A ngân hàng đã diễn ra thời
gian qua chủ yếu theo định hướng và sắp xếp của NHNN.
Để tăng tính hiệu quả, sự thành công của M&A ngân hàng đòi hỏi
chính các NHTM tham gia hoạt động này tự nguyện trên nguyên tắc các
bên cùng có lợi nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
140
- Các NHTM cần đặc biệt lưu ý một số vấn đề quan trọng trong cách
thức, quy trình thực hiện M&A:
+ Cần chú trọng đến việc xác định mục tiêu khi thực hiện M&A: Xác
định rõ mục tiêu là cơ sở nền tảng để ngân hàng xác định các nội dung cần
thực hiện cho hoạt động M&A, đồng thời là cơ sở để ngân hàng đánh giá
kết quả của thương vụ, xác định được đối tác phù hợp, các nội dung cần
thương thảo, các công việc cần thực hiện trong quá trình đàm phán để thực
hiện M&A.
+ Cần phân tích kỹ đối tác và cẩn trọng trong quá trình đàm phán:
Khi tìm những ngân hàng mục tiêu, cần tìm hiểu, phân tích kỹ đối tác ở các
khía cạnh sau: lĩnh vực hoạt động có phù hợp không, thế mạnh về nguồn
lực và sự kết hợp các nguồn lực của đối tác có thể giúp ngân hàng đạt được
mục tiêu đề ra không; giá trị hiện tại của ngân hàng mục tiêu; giá trị của
ngân hàng có gia tăng không sau M&A; khả năng tương thích của các bên
tham gia…
Đàm phán là quá trình bàn thảo trực tiếp để các ngân hàng tham gia
đưa ra quyết định cuối cùng có thực hiện M&A hay không. Kết quả của
đàm phán sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động này trong tương lai, nên sự
thận trọng trong đàm phán là một nguyên tắc bắt buộc. Những người tham
gia đàm phán phải là người am hiểu, có trình độ chuyên môn, có tinh thần
trách nhiệm. Nội dung đàm phán thành công khi đạt được sự thống nhất ở
những nội dung sau: quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi M&A được
tiến hành; mức giá giao dịch; tiến trình để hợp nhất; vị trí của các nhà quản
trị cấp cao của các bên sau M&A.
+ Lựa chọn phương pháp định giá phù hợp: Định giá ngân hàng là
việc vô cùng quan trọng, có tác động rõ nét đến kết quả thương vụ M&A.
Kết quả định giá ngân hàng sẽ là cơ sở cho việc thỏa thuận giao dịch M&A.
141
Đối với ngân hàng đi mua, định giá chính xác ngân hàng mục tiêu sẽ giúp
tránh tình trạng đặt giá mua quá cao so với năng lực thực tế của đối tác. Đối
với ngân hàng mục tiêu, việc định giá chính xác sẽ giúp tránh được tình
trạng bị thâu tóm do chấp nhận giá bán thấp hơn giá trị thực tế.
Việc định giá ngân hàng tùy thuộc khá nhiều vào ý muốn chủ quan
của người thực hiện, là công việc thực sự khó. Do đó, tùy thuộc vào từng
thương vụ mà lựa chọn phương pháp định giá phù hợp.
- Cần chú trọng các vấn đề sau M&A, đặc biệt phải có chiến lược
phát triển nguồn nhân lực, văn hóa, thương hiệu sau M&A ngân hàng
Việc hoàn thành M&A chỉ là sự khởi đầu mới và cần một quá trình
mới có thể đánh giá hoạt động này có thành công hay không. Do đó, lập kế
hoạch cho quá trình hợp nhất hậu M&A, đặc biệt có chiến lược phát triển
nguồn nhân lực, văn hóa sau M&A một trong những giải pháp rất quan
trọng. Nguồn nhân lực là nhân tố nền tảng quyết định sự thành công hay
thất bại của hoạt động M&A. Do đó, các NHTM tham gia M&A sẽ đạt kết
quả như mong đợi nếu có chiến lược phát triển nguồn nhân lực chú trọng về
chất lượng, số lượng, trong đó nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu
cầu đóng vai trò quyết định.
Sự hòa hợp về văn hóa doanh nghiệp cũng đóng vai trò cốt yếu đối
với thành công của hoạt động M&A ngân hàng.
Các ngân hàng cũng cần nhận thức giá trị thương hiệu có dấu ấn quan
trọng đối với khách hàng. Việc xây dựng thương hiệu thành công sẽ giúp
ngân hàng hoạt động thuận lợi, vững chắc. Con đường xây dựng thương
hiệu này hữu hiệu nhất đó là chuỗi giá trị của ngân hàng gồm: chất lượng
dịch vụ, tác phong làm việc chuyên nghiệp, uy tín…
142
- Các ngân hàng cần tích cực học hỏi kinh nghiệm thực hiện M&A
của các nước trong khu vực và thế giới, đồng thời hiểu sâu, nắm rõ quy
trình, cách thức thực hiện M&A
Hoạt động M&A trong khu vực và thế giới đã diễn ra từ lâu, cho nên
học hỏi kinh nghiệm thực hiện M&A sẽ giúp các ngân hàng tránh được
những rủi ro, đi tắt đón đầu, rút ngắn được khoảng cách về công nghệ, trình
độ quản trị điều hành…
143
KẾT LUẬN
Thông qua nghiên cứu, phân tích lý thuyết và thực tiễn M&A ngân
hàng một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam, luận án đã làm sáng tỏ một
số vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sau đây:
- Thứ nhất, luận án đã khái quát và hệ thống hóa cơ sở lý luận về M&A
nói chung và tập trung chủ yếu về M&A trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng;
tổng kết được những vấn đề lý luận làm cơ sở cho việc tìm hiểu và nghiên cứu
hoạt động M&A ngân hàng, đồng thời phát hiện một số điểm còn thiếu, hạn chế
về lý luận để tiếp tục nghiên cứu bổ sung nhằm hỗ trợ công tác giảng dạy,
nghiên cứu và thực tiễn hoạt động M&A ngân hàng tại Việt Nam hiệu quả, nhất
là ở góc độ quản lý nhà nước đối với hoạt động M&A ngân hàng.
- Thứ hai, luận án đã tiến hành nghiên cứu thực tiễn hoạt động M&A
ngân hàng trên thế giới và khu vực từ thị trường Mỹ, Châu Âu, Châu Mỹ La
tinh, Đông Á..., đặc biệt là M&A ngân hàng tại Hàn Quốc - quốc gia châu Á
có nhiều đặc điểm tương đồng với Việt Nam để tổng kết những nhân tố
thành công và thất bại trong M&A ngân hàng của các nước. Trên cơ sở đó,
rút ra được những bài học kinh nghiệm đối với hoạt động này tại Việt Nam
về sử dụng M&A ngân hàng linh hoạt, hiệu quả; thiết lập cơ sở pháp lý, các
cơ quan đầu mối thực hiện M&A; xây dựng cơ chế chính thức về chia sẻ
thông tin; phương pháp định giá tài sản ngân hàng chính xác; xây dựng quy
trình xử lý khủng hoảng hệ thống…
- Thứ ba, trên nền tảng về nghiên cứu lý luận, ý nghĩa thực tiễn và
phân tích thực trạng M&A ngân hàng tại Việt Nam trong thời gian vừa qua,
NCS đã rút ra được bản chất của hoạt động này, từ đó có những gợi ý chính
sách có tính khả thi, có khả năng ứng dụng, phù hợp với M&A ngân hàng
Việt Nam, trong đó có thể kể đến các gợi ý về thay đổi nhận thức của cộng
đồng về hiệu quả và lợi ích của M&A mang lại chứ không chỉ là 1 công cụ
quản lý của nhà nước; gợi ý việc nới rộng tỷ lệ sở hữu của các nhà sở hữu
nước ngoài trong các ngân hàng thương mại của Việt Nam; chia các giai
đoạn tiến hành M&A; xác định thời điểm áp dụng phương thức “M&A
phòng thủ và tấn công”’; đề xuất các biện pháp tiến hành Trước-Trong và
144
Sau M&A; gợi ý thành lập các cơ quan, tổ chức tham gia hỗ trợ, giám sát
hoạt động M&A ngân hàng...
- Thứ tư, từ xu thế tất yếu, đòi hỏi giải quyết các vấn đề nội tại của hệ
thống TCTD trong nước và lộ trình thực hiện tái cơ cấu hệ thống TCTD,
NCS đã đưa ra được những dự báo về xu hướng và những thương vụ M&A
ngân hàng tại Việt Nam sẽ diễn ra trong thời gian sắp tới.
- Thứ năm, để giải quyết những vấn đề còn tồn tại có liên quan đến hoạt
động M&A ngân hàng tại Việt Nam, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn,
đối chiếu, so sánh với đặc thù của Việt Nam, luận án đã đưa ra những đề xuất về
gợi ý chính sách và giải pháp có tính thiết thực gồm (i) nhóm giải pháp có tính
vĩ mô về phía Nhà nước và (ii) nhóm giải pháp có tính vi mô về phía NHTM
nhằm đưa hoạt động M&A ngân hàng đạt hiệu quả cao hơn trong thời gian tới
đây. Đây là những giải pháp cơ bản để đẩy nhanh quá trình M&A cũng như
giúp cho hoạt động này đạt hiệu quả cao hơn tại Việt Nam.
Bên cạnh những nội dung đã đạt được, NCS cũng nhận thấy luận án còn
những hạn chế nhất định. Việc tiếp cận thông tin về “sức khỏe”, số liệu hoạt
động của các TCTD chưa niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán còn
khó khăn; Các công trình nghiên cứu, tài liệu có liên quan đến M&A ngân hàng
tại Việt Nam còn hạn chế; Kết quả, thông tin về các thương vụ M&A ngân hàng
tại Việt Nam (trước, trong và sau M&A) khó được tiếp cận hoặc ở tình trạng
được công bố nhưng với thông tin chưa đầy đủ… ngoài ra, hoạt động M&A
ngân hàng ở Việt Nam còn non trẻ về số lượng thương vụ cũng như tính chất,
quy mô, vì vậy, số liệu về hoạt động M&A ngân hàng tại Việt Nam đề cập trong
luận án này chưa được cập nhật đầy đủ như mong muốn của NCS… Do vậy, tác
giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô, đồng nghiệp, những ai
quan tâm đến vấn đề này để tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện. Luận án này là
bước khởi đầu để NCS tiếp tục có những nghiên cứu chuyên sâu hơn về vấn đề
M&A ngân hàng trong thời gian tới.
145
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Báo cáo giám sát việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong lĩnh
vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống Ngân hàng theo Nghị
quyết số 10/2011/QH13 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội
5 năm 2011- 2015, Quốc hội khóa XIII, 2011.
2. Lưu Minh Đức, "Thâu tóm và hợp nhất nhìn từ khía cạnh quản trị
ngân hàng: Lý luận, Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam", (năm
2008, số 15-7+8, trang 38-44), Tạp chí Quản lý kinh tế,
http://www.vjol.info/index.php/QLK/article/view/691
3. Bùi Tấn Định (2007), “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các
ngân hàng thương mại Việt Nam khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO)”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, trường Đại học kinh
tế TP Hồ Chí Minh.
4. Chính phủ Việt Nam (2006), “Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg về
việc phê duyệt đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020”.
5. Galpin T.J và Herndon M. (2009), “Cẩm nang hướng dẫn M&A
Mua lại & sáp nhập: Các công cụ hỗ trợ quy trình hợp nhất ở mọi cấp độ”,
Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
6. Frankel M.E.S (2009), “M&A Mua lại & Sáp nhập căn bản: Các
bước quan trọng trong quá trình mua bán doanh nghiệp và đầu tư”, Nhà
xuất bản Tri Thức.
146
7. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, “Quy chế sáp nhập, hợp nhất và
mua lại tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam kèm theo Quyết định
241/1998/QĐ-NHNN”, 1998
8. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, “Tài liệu triển khai nhiệm vụ
Ngân hàng”, 2008- 2014
9. Quốc hội Việt Nam, “Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam”, 1997
10. Quốc hội Việt Nam, “Sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín
dụng”, 2004
11. Scott Moeller và Chris Brady, “M&A Mua lại & Sáp nhập thông
minh: Kim chỉ nam trên trận đồ sáp nhập và mua lại”, Nhà xuất bản Tri
Thức năm 2009
12. Sherman A.J và Hart M.A, “Mua lại và Sáp nhập từ A đến Z”,
Nhà xuất bản Tri thức năm 2009.
13. Thái Bảo Anh, “Tham luận về khung pháp lý liên quan tới vấn đề
sáp nhập và mua lại doanh nghiệp ở Việt Nam” tại trang web:
baolawfirm.com.vn, 2006
14. Vũ Việt Phong, “Xu hướng sáp nhập ngân hàng trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế”, tạp chí Hỗ trợ phát triển, số 18, tháng 12/2007
Tài liệu tiếng Anh
15. Andrade, G., Mitchell, M., and Stafford, E. (2001). New evidence
and perspectives on mergers, Journal ofEconomic Perspectives, vol. 15(2),
pp. 103–20.
16. Beitel, Schiereck and. Wahrenburg (2004). Explaining M&A
success in European banks. European Financial Management, 10, pp. 109–
140
147
17. Birkinshaw, Julian, Bresman, and Håkanson. (2000). Managing
the post-acquisition integration process:How the human integration and
task integrationprocesses interact to foster value creation. Journal
ofManagement Studies 37 (3): 395-425.
18. Blake R.R., Monton J.S. (1984). How to Achieve Integration on
the Human Side of the Merger. Organizational Dynamics, 13 (3), 41-56.
19. Brown A. (2000). No one puts it all together like Deutsche Bank.
The Economist, June 3, 2000.
20. Caprio, G., Laeven, L., Levine, R., (2007). Governance and bank
valuation. Journal of Financial Intermediation 16, 584–617.
21. Carvalho, Fernando Cardim (2001). The Recent Expansion of
Foreign Banks in Brazil: First Results. Paperpresented in the workshop
“European Banks and the Brazilian Financial System,” Centre forBrazilian
Studies, University of Oxford, December 3, 2001.
22. Datta, Deepak K. (1991). Organizational fit and
acquisitionperformance: Effects of post-acquisition integration.Strategic
Management Journal 12 (4): 281-97.
23. DeLong, G.L. (2001).Stockholder gains from focusing versus
diversifying bank mergers.Journal of Financial Economics, 59, pp. 221 -
252.
24. Dermine, Jean (1996). European Banking with a Single Currency,
Working Paper 96-54, 1996, Philadelphia: Financial Institutions Center,
Wharton School, University of Pennsylvania.
25. DeYoung, Robert (1994). Fee-Based Services and Cost Efficiency
in Commercial Banks. Working Paper 94-3, Economic and Policy Analysis,
Office of the Comptroller of the Currency, April 1994.
148
26. Guyon, Janet (2000). The Emperor and the Investment Bankers:
How Deutsche Lost Dresdner, Fortune141(9), May 1, 2000.
27. KAMCO (2004). White paper on Non-performaning Loans
Resolution Fund
28. Korea Asset Mgmt. Corp., http://kamco.or.kr/eng.html
29. Haleblian, Jerayr, and Sydney Finkelstein. (1999). The
influenceof organization acquisition experience on acquisitionperformance:
A behavioral learning theoryperspective. Administrative Science Quarterly
44:29-56.
30. Haspeslagh, Philippe C., and David B. Jemison. (1991).Managing
acquisitions. New York: Free Press.
31. Healy, Paul M., Krishna G., and Richard S.(1992). Does
corporate performance improve after mergers? Journal of Financial
Economics 31:135-75
32. Helweg, M. Diana (2000).Japan: A Rising Sun?,Foreign Affairs,
July/August 2000, pages 26-39.
33. Hudgins, S.C. and Seifert, B. (1996).Stockholders and
international acquisitions of financialfirms: an emphasis on banking.
Journal of Financial Services Research, 10, pp. 163 -180.
34. Houston, J.F., James, C.M. and Ryngaert, M.D. (2001).Where do
merger gains come from? Bank mergers from the perspective of insiders
and outsiders. Journal of FinancialEconomics, 60(2,3), pp. 285 - 331.
35. International Monetary Fund (1998).The IMF’s Response to the
Asian Crisis, International Monetary Fund,Washington DC, June 15, 1998.
149
36. Jensen, M. and Ruback, R. (1983). The market for corporate
control: The scientificevidence, Journal ofFinancial Economics, vol. 11(1),
pp. 5–50.
37. Joon-Kyung Kim (2007).KDI,Public Funds and Post-Crisis
Corporate and Financial Restructuring in Korea, presented at the
International Forum on Non- Performing Asset Funds, April 2007.
38. Laurance Rabinowitz, "Weinberg and Blank on takeovers and
mergers", Sweet and Maxwell, Published (1989) Re: 37 Apr 2008 para.1-
1004
39. Lee Myung-Bak, Op-Ed.(2009).How Korea Solved Its Banking
Crisis: The World Can Learn from Our Experience in the Late ‘90s, WALL
ST. J., Mar. 27, 2009
40. Loughran, Tim, and VijhM.(1997). Do long-termshareholders
benefit from corporate acquisitions?Journal of Finance 52:1765-90.
41. Low, Linda (2001).The Political Economy of Chinese Banking in
Singapore, Mimeo, Department of BusinessPolicy, National University of
Singapore, January 2001
42. Moeller, Sara B., Frederik P. Schlingemann, and René M.
Stulz(2007).How do diversity of opinion andinformation asymmetry affect
acquirer returns? Review of Financial Studies, 20, 2047-2078.
43. Morck, R., Schleifer, A. and Vishny, R.W. (1990).Do managerial
objectives drive bad acquisitions?Journal of Finance, 45 (1), pp. 31 - 48.
44. Mullineux, Andy W., and Victor Murinde (2001).Global Trends
in Finance and Corporate Governance: Is There Still Scope for Regional
Variation?, mimeo, Department of Economics, University of Birmingham,
January 2001.
150
45. Myers, S.C. and Majluf, N.S. (1984). Corporate financing and
investment decisions when firms have information that investors do not
have. Journal of Financial Economics,13(6), pp. 187 - 221.
46. Nahavandi, Malekzadeh(1988). Acculturation in Mergers and
Acquisition, Academy of Management Review, Vol. 13, pp. 79-90.
47. Rau, RaghavenderaP., and VermaelenT. (1998. Glamour,value
and the post-acquisition performance of acquiringfirms. Journal of
Financial Economics 49:223-53.
48. Rhoades S.A., (1998). The efficiency effects of bank mergers: An
overview of case studies of nine mergers, Journal of banking and Finance
22, pp.273–291
49. Shawky, H.A., Kild, T. and Staas, C.F. (1996). Determinants of
bank merger premiums. Journalof Economics and Finance, 20, pp. 117 -
131.
50. Subrahmanyam, V., Rangan, N. and Rosenstein, S. (1997). The
role of outside directors inbank acquisitions. Financial Management, 26 (3),
pp. 23 - 26.
51. Tourani-Rad A. and Van Beek L. (1999). Market valuation of
European bank mergers, European Management Journal 17, pp.532-540
52. The Economist, March 13, 1999.
53. The Economist, May 15, 1999.
54. The Economist, March 17, 2001.
55. The Economist, July 21, 2001.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Trung Dũng (2010), M&A - Từ khái niệm đến xu thế tất
yếu. Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ - số tháng 9/2010.
2. Nguyễn Trung Dũng (2013), Cách thức và quy trình thực hiện hoạt
động M&A trong lĩnh vực ngân hàng. Tạp chí Khoa học và đào tạo ngân
hàng- số tháng 10/2013.
3. Nguyễn Trung Dũng (2015), Giải pháp tăng cường hoạt động
M&A ngân hàng tại Việt Nam. Tạp chí Tài chính - số tháng 3/2015.
4. Nguyễn Trung Dũng (2015), Xây dựng văn hóa doanh nghiệp ngân
hàng sau M&A. Tạp chí Lao động và Công đoàn - số tháng 5/2015.