Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

76
MINISTRY OF LABOUR - INVALIDS AND SOCIAL AFFAIRS (MOLISA) THE SOCIALIST REPUBLIC OF Viet Nam ột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo ngh hất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột ph ượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chấ ào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượn ghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạ ột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo ngh Đột phá chất lượng Đào tạo nghề BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở Việt Nam

Upload: vuhanh

Post on 01-Feb-2017

227 views

Category:

Documents


3 download

TRANSCRIPT

Page 1: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

MINISTRY OF LABOUR - INVALIDS AND SOCIAL AFFAIRS (MOLISA)

THE SOCIALIST REPUBLIC OF Viet Nam

Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá

Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở Việt Nam

Page 2: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

Xuất bản

Đơn vị phát hành:Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội/Tổng cục Dạy nghề (TCDN)

Tác giả: Tổng cục Dạy nghề

Báo cáo Tổng quan về đào tạo nghề ở Việt Nam được biên soạn dựa trên thông tin đầu vào của các nhóm chuẩn bị nội dung các chủ đề: • Tiêu chuẩn nghề (Cao Quang Đại, Ths. Nguyễn Quang Việt) • Hợp tác với doanh nghiệp (PGS. TS. Mạc Văn Tiến, Nguyễn Thị Lê Hương) • Tài chính cho Đào tạo nghề (Ths. Nguyễn Chiến Thắng) • Giáo viên dạy nghề (Ths. Lê Vinh, Ths. Trần Văn Nịch)

Biên tập: Nhóm biên tập của Tổng cục Dạy nghề gồm: Viện Nghiên cứu Khoa học Dạy nghề Vụ Kỹ năng nghề Vụ Giáo viên và Cán bộ quản lý Dạy nghề Vụ Kế hoạch và Tài chính Văn phòng Tổng cục Dạy nghề

Thiết kế: WARENFORM, Béc-lin

Ảnh: Nguyễn Công Tráng, Hà Nội Ralf Bäcker, Béc-lin

Nơi xuất bản: Hà Nội, Việt NamNgày xuất bản: Tháng 10/2012

Page 3: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

Hội nghị khu vực về Đào tạo nghề tại Việt Nam Ngày 10 và 11 tháng 10 năm 2012

Báo cáo tổng quan về Đào tạo nghề ở Việt Nam

Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

Page 4: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề
Page 5: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

Mục lục

I. Tổng quan tình hình dạy nghề ............................................................. 8

II. Thực trạng và định hướng một số lĩnh vực dạy nghề ...........................16

1. Xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia ................................................ 16 1.1. Bối cảnh xây dựng TCKNNQG ở Việt Nam ............................................................................. 16 1.2. Thực trạng xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia ........................................................ 18 1.3. Giải pháp .............................................................................................................................. 21

2. Đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề ........................... 26 2.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế ........................................................................................... 26 2.2. Thực trạng đội ngũ giáo viên dạy nghề .................................................................................. 26 2.3. Mục tiêu và giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề đến 2020 .................................34

3. Hợp tác với doanh nghiệp trong đào tạo nghề ..............................................40 3.1. Bối cảnh và khung chính sách về quan hệ hợp tác doanh nghiệp - dạy nghề .........................40 3.2. Thực trạng quan hệ hợp tác giữa doanh nghiệp và cơ sở dạy nghề ....................................... 42 3.3. Hợp tác với Cộng hòa Liên bang Đức thí điểm triển khai “gói” đào tạo nghề cho doanh nghiệp ..... 53 3.4. Một số định hướng, giải pháp hợp tác, gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong dạy nghề ........................................................................................... 57

4. Thực trạng tài chính đối với đào tạo nghề và một số đề xuất đổi mới cơ chế tài chính cho dạy nghề đến 2020 .......................................................64 4.1. Thực trạng tài chính đối với đào tạo nghề .............................................................................64 4.2. Một số đề xuất đổi mới cơ chế tài chính cho dạy nghề đến 2020 .......................................... 70

Page 6: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề
Page 7: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

Báo cáo tổng quan về Đào tạo nghề ở Việt Nam

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH DẠY NGHỀ

Page 8: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

Phản ánh về các chủ đề của hội nghị8

I. Tổng quan tình hình dạy nghề

Chính phủ Việt Nam đã khẳng định nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có nhân lực qua đào tạo nghề là một trong ba trụ cột tăng trưởng và phát triển bền vững kinh tế Việt Nam. Chất lượng nguồn nhân lực cũng là một trong ba khâu đột phá để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020. Do vậy, phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo nghề là yêu cầu, là đòi hỏi của đất nước, nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung. Trong thời gian qua, đặc biệt là 10 năm trở lại đây, dạy nghề Việt Nam đã được Nhà nước và xã hội quan tâm cả về đầu tư tài chính và các nguồn lực khác, nên đã có bước phát triển tích cực, từng bước đáp ứng được nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề cho các ngành kinh tế, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm, các ngành kinh tế mũi nhọn. Điều này được thể hiện ở một số điểm sau:

• Nhà nước Việt Nam đã thiết lập hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ và thống nhất về dạy nghề (gồm Luật Dạy nghề và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan); hình thành hệ thống dạy nghề theo hướng thực hành với 3 cấp trình độ chính quy là sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề và dạy nghề thường xuyên.

• Mạng lưới cơ sở dạy nghề mở rộng, phân bố tương đối hợp lý ở các ngành kinh tế, địa phương, vùng, miền. Năm 2011 cả nước có 136 trường cao đẳng nghề, 308 trường trung cấp nghề; 849 trung tâm dạy nghề (trong đó có 296 trung tâm ngoài công lập) và hơn 1000 cơ sở khác (các cơ sở giáo dục - đào tạo, doanh nghiệp,…) tham gia dạy nghề. Số cơ sở dạy nghề ngoài công lập chiếm 35,4%.

• Số lượng tuyển sinh dạy nghề tăng từ 887,3 ngàn người (ngoài công lập 170 ngàn) năm 2001 lên 1,860 triệu người (ngoài công lập 700 ngàn) năm 2011, tăng 2,01 lần, trong đó trình độ trung cấp nghề và cao đẳng nghề tăng 3,3 lần.

• Mạng lưới cơ sở dạy nghề mở rộng, quy mô đào tạo tăng đã góp phần nâng ty lệ lao động qua đào tạo nghề năm 2011 đạt 32%.

• Các nghề đào tạo được mở dần theo nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp, từng bước phù hợp với sự phát triển các ngành nghề trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Chương trình dạy nghề được xây dựng xuất phát từ thực tiễn sản xuất của doanh nghiệp.

Page 9: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

9Phản ánh về các chủ đề của hội nghị

Page 10: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM10

• Các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy nghề đã được chú trọng đầu tư phát triển như giáo viên dạy nghề (năm 2010 có khoảng 35.000 giáo viên dạy nghề tăng hơn 4 lần so với 2001); phát triển chương trình dạy nghề, cơ sở vật chất, thiết bị của các cơ sở dạy nghề…. Từ năm 2008 đã triển khai kiểm định chất lượng dạy nghề và đánh giá kỹ năng nghề cho người lao động. Ban hành hệ thống tiêu chí, tiêu chuẩn và qui trình kiểm định chất lượng.

• Các điều kiện đảm bảo chất lượng được cải thiện nên chất lượng và hiệu quả dạy nghề có bước chuyển biến tích cực, đào tạo nghề đã gắn với sử dụng lao động. Kỹ năng nghề của học sinh tốt nghiệp các CSDN đã được nâng lên. Theo đánh giá của các doanh nghiệp, 80% - 85% số lao động qua đào tạo nghề được sử dụng đúng trình độ đào tạo; 30% có kỹ năng nghề từ khá trở lên1. Ở một số nghề (nghề hàn, nghề dịch vụ nhà hàng, nấu ăn, thủy thủ tầu biển, thuyền trưởng, và một số nghề thuộc lĩnh vực viễn thông…), kỹ năng nghề của lao động Việt Nam đã đạt chuẩn quốc tế. Lao động qua đào nghề tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và đã đảm nhận được các vị trí công việc phức tạp mà trước đây phải do chuyên gia nước ngoài thực hiện; khoảng 70% học sinh tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, ở một số nghề và một số cơ sở dạy nghề ty lệ này đạt trên 90%.

• Dạy nghề cho lao động nông thôn đã bước đầu được chú trọng. Năm 2009, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020, theo đó, bình quân mỗi năm có khoảng 1 triệu lao động nông thôn được đào tạo nghề để chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ hoặc làm nông nghiệp hiện đại.

• Đã có một số cơ chế chính sách tạo cơ hội học nghề để mọi người có nhu cầu học nghề đều được tham gia học nghề một cách dễ dàng; đồng thời đã chú trọng đến việc xây dựng và ban hành chính sách ưu tiên dạy nghề cho những nhóm người yếu thế như: người dân tộc thiểu số, người nghèo, người tàn tật, và chính sách ưu tiên dạy nghề cho bộ đôi xuất ngũ, cho lao động thuộc vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất và dạy nghề cho lao động nông thôn. Dạy nghề không chỉ góp phần tích cực vào giải quyết việc làm trong nước mà còn góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho XKLĐ.

• Nguồn lực đầu tư cho dạy nghề đa dạng hóa, trong đó ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ đạo (chiếm khoảng 60%). Ngân sách nhà nước chi cho dạy nghề tăng dần qua các năm (năm 2001 chiếm 4,9% trong tổng

1 Điều tra Thị trường lao động của Tổng cục Dạy nghề năm 2006 và 2010.

Page 11: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

11BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo, năm 2010 khoảng 9%)2 .

• Phát triển dạy nghề ở khu vực ngoài công lập đạt được kết quả bước đầu. Nhà nước đã có chính sách đẩy mạnh phát triển dạy nghề ngoài công lập, đã huy động được khoảng 40% từ nguồn ngoài ngân sách nhà nước cho dạy nghề. Nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước đã đầu tư thành lập cơ sở dạy nghề. Năm 2001, số cơ sở dạy nghề ngoài công lập chiếm 22,88% đến năm 2011 tăng lên 35,4%, thu hút khoảng 30% học sinh vào học nghề trong các cơ sở dạy nghề ngoài công lập.

• Hợp tác quốc tế về dạy nghề đã được tăng cường cả ở tầm quốc gia và ở các cơ sở dạy nghề. Việt Nam đã lựa chọn một số nước thành công về dạy nghề trên thế giới và khu vực làm đối tác chiến lược, như Đức, Hàn quốc, Nhật bản, Malaysia…Thay mặt cho Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển Liên bang Đức, Hợp tác Phát triển Việt-Đức trong lĩnh vực ưu tiên “Phát triển Kinh tế Bền vững và Đào tạo nghề” tập trung hỗ trợ những nỗ lực phát triển hướng tới hệ thống Đào tạo nghề định hướng cầu. Để đạt được mục tiêu này, “Chương trình Đổi mới Đào tạo nghề Việt Nam” hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách đào tạo nghề và cũng đồng thời hợp tác với các đối tác Việt Nam để phát triển các cơ sở đào tạo nghề được lựa chọn. GIZ (Hợp tác Kỹ thuật) và Ngân hàng Tái thiết Đức KfW (Hợp tác Tài chính) cùng làm việc để tiếp tục phát triển các cơ sở đào tạo nghề được lựa chọn này. Từ năm 2006 đến nay, chương trình “Hỗ trợ kỹ thuật Dạy nghề” (hỗ trợ 11 cơ sở đào tạo nghề) đã được thực hiện xong, và “Chương trình Đào tạo nghề 2008” (hỗ trợ 5 cơ sở đào tạo nghề được lựa chọn dựa trên tiêu chí) cũng như hợp phần “Tư vấn Hệ thống Đào tạo nghề Việt Nam” đã và đang được triển khai. Tổng kinh phí của Hợp tác Việt-Đức về Đào tạo nghề từ năm 2006 là 47,6 triệu EURO và tập trung vào phát triển năng lực (bao gồm đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo nghề, tổ chức, phát triển mạng lưới và khung chính sách) hướng đến việc cải thiện định hướng cầu của hệ thống đào tạo nghề Việt Nam và nâng cao các điều kiện đảm bảo chất lượng của các cơ sở đào tạo nghề. Thông qua tư vấn chính sách, các chuyên gia của Đức và Việt Nam hợp tác trong việc hoàn thiện, giới thiệu và lập kế hoạch thực hiện các tài liệu chiến lược, các điều lệ và quy định pháp lý cho Đào tạo nghề (chẳng hạn như Chiến lược Phát triển Dạy nghề Việt Nam 2011-2020). Các hợp phần chương trình tiếp theo đang trong giai đoạn chuẩn bị, ví dụ “Trung tâm chất lượng cao về Đào tạo nghề LILAMA 2”, hợp phần này sẽ hỗ trợ Trường Cao đẳng nghề

2 Ngân sách nhà nước chiếm 60%, doanh nghiệp chiếm 10%, người học chiếm khoảng 20%, các nguồn khác chiếm 10%.

Page 12: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM12

LILAMA 2 để cung cấp đào tạo nghề chất lượng cao đạt chuẩn quốc tế với các nghề về cơ khí công nghiệp, cắt gọt kim loại (CNC), cơ điện tử và điện/điện tử công nghiệp.

Tuy nhiên, Dạy nghề ở Việt Nam vẫn còn hạn chế, đó là:

• Chất lượng đào tạo nghề, mặc dù đã có chuyển biến nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động về tay nghề và các kỹ năng mềm như tác phong công nghiệp, khả năng làm việc theo tổ, nhóm. Kỹ năng nghề, năng lực nghề nghiệp của lao động Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn so với các nước phát triển trên thế giới và trong khu vực.

• Cơ cấu đào tạo theo cấp trình độ và nghề đào tạo chưa hợp lý, chưa gắn bó hữu cơ với nhu cầu nhân lực của từng ngành, từng địa phương; chưa đáp ứng được nhu cầu nhân lực kỹ thuật chất lượng cao cho sản xuất và thị trường lao động. Dạy nghề cho lao động nông thôn để chuyển dịch sang khu vực công nghiệp và dịch vụ còn chậm.

• Các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy nghề còn bất cập; giáo viên dạy nghề còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng .

• Cơ chế chính sách quản lý và phát triển dạy nghề còn chưa đồng bộ.

• Việc chuyển đào tạo nghề từ năng lực sẵn có của cơ sở dạy nghề sang đáp ứng nhu cầu xã hội và thị trường lao động còn chậm.

• Chưa thiết lập được mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở dạy nghề. Sự tham gia của doanh nghiệp vào hoạt động dạy nghề còn thụ động, chưa có văn bản xác định doanh nghiệp là một trong những chủ thể của hoạt động dạy nghề.

• Về mặt nguyên tắc, Luật Dạy nghề công nhận tầm quan trọng của “năng lực thực hành” (Điều 12), hợp tác với doanh nghiệp, và thực hiện sản suất ở cơ sở đào tạo nghề cũng như lợi thế của việc đào tạo tư nhân và đào tạo dựa trên doanh nghiệp và học tập phi chính quy (Điều 55) và sự linh hoạt của việc cung cấp đào tạo nghề (các cơ sở đào tạo công, tư, dựa trên doanh nghiệp ở các bậc gồm trung học, cao đẳng, đại học và các bậc học khác…)

• Tuy nhiên, mối liên hệ chặt chẽ và được thể chế hóa giữa các doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo nghề chưa được thiết lập. Sự tham gia của các doanh nghiệp vào đào tạo nghề là rất bị động, có sự thiếu hụt về các văn bản pháp lý quan trọng và những quy định về cộng động doanh nghiệp và vai trò của họ như một bên liên quan của đào tạo nghề.

Page 13: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề
Page 14: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM14

Page 15: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG MỘT SỐ LĨNH VỰC DẠY NGHỀ

Báo cáo tổng quan về Đào tạo nghề

Page 16: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM16

II. Thực trạng và định hướng một số lĩnh vực dạy nghề

Hoạt động dạy nghề có nhiều lĩnh vực khác nhau, trong báo cáo này tập trung vào 4 lĩnh vực chính, đó là: (i) Tiêu chuẩn kỹ năng nghề; (ii) Đào tạo, phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề; (iii) Hợp tác với doanh nghiệp và (iv) Tài chính đối với dạy nghề.

1. Xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia

1.1. Bối cảnh xây dựng TCKNNQG ở Việt Nam Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và chất lượng lao động có kỹ năng nghề di chuyển trong khu vực ASEAN nói riêng mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia – nước có lao động di cư và nước tiếp nhận lao động di cư. Việc các nước ASEAN có chủ trương hài hòa các tiêu chuẩn kỹ năng và tiêu chuẩn năng lực nghề giữa các nước tiến tới công nhận lẫn nhau trình độ và văn bằng cho người lao động ở một số nghề phổ biến là hết sức cần thiết. Nội dung này đã được nhắc đến tại các diễn đàn, hội nghị của khối nhiều lần kể từ những năm 90 của thế ky trước. Gần đây nhất, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 17 năm 2010 tại Hà Nội, theo sáng kiến của Việt Nam, các nhà lãnh đạo ASEAN đã phê duyệt “Tuyên bố chung của các nhà Lãnh đạo ASEAN về phát triển nguồn nhân lực và kỹ năng cho phục hội kinh tế và phát triển” nêu rõ: “Chia sẻ những bài học tốt trong phát triển kỹ năng và nâng cao kỹ năng thông qua hợp tác khu vực nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của khung kỹ năng nghề như là một bước đi quan trọng hướng tới một bộ khung công nhận tay nghề lẫn nhau trong ASEAN”.

Trong điều kiện chưa có khung trình độ quốc gia bao gồm khung trình độ nghề quốc gia nên Việt Nam xây dựng khung trình độ kỹ năng nghề quốc gia với mục đích làm công cụ giúp cho: i) Người lao động định hướng phấn đấu nâng cao trình độ về kiến thức và kỹ năng của bản thân thông qua việc học tập hoặc tích lũy kinh nghiệm trong quá trình làm việc để có cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp. ii) Người sử dụng lao động có cơ sở để tuyển chọn lao động, bố trí công việc và trả lương hợp lý cho người lao động. iii) Các cơ sở dạy nghề có căn cứ để xây dựng chương trình dạy nghề tiếp cận chuẩn kỹ năng nghề quốc gia. vi) Cơ quan có thẩm quyền căn cứ để tổ chức thực hiện việc đánh giá cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động.

Page 17: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề
Page 18: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM18

Trong quá trình xây dựng khung trình độ kỹ năng nghề quốc gia Việt Nam đã tham khảo khung trình độ và các bộ tiêu chuẩn kỹ năng, tiêu chuẩn năng lực của các nước phát triển như Úc, Niu-Zi-Lân, Hàn Quốc, hay của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và một số nước trong khu vực như Malaysia, Thái Lan. Ngoài ra, Tổ chức INWENT (nay là GIZ) cũng đã hợp tác hỗ trợ trong việc đào tạo một số chuyên gia phương pháp xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề và hỗ trợ xây dựng ban hành tiêu chuẩn kỹ năng nghề Gia công trên máy CNC. Khung trình độ kỹ năng nghề quốc gia của Việt Nam có cấu trúc 05 bậc và tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia bao gồm các quy định về mức độ thực hiện và yêu cầu kiến thức, kỹ năng thái độ cần có để thực hiện các công việc của một nghề.

1.2. Thực trạng xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia Việc xây dựng Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia do các Bộ, ngành chủ trì, phối hợp với cơ quan, hội nghề nghiệp có liên quan tổ chức xây dựng. Các nghề thuộc các lĩnh vực khác nhau sẽ giao cho các Bộ, ngành thuộc lĩnh vực tương ứng xây dựng. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội có trách nhiệm quy định nguyên tắc, quy trình và tổ chức chỉ đạo các Bộ ngành trong việc xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia và chịu trách nhiệm quản lý các tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia sau khi ban hành.

Các tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia của Việt Nam được xây dựng theo phương pháp phân tích nghề nhằm xác định được các nhiệm vụ và công việc cần trong nghề với sự tham gia của các chuyên gia: giáo viên, nhà nghiên cứu và những chuyên gia trong nghề. Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia được xây dựng theo bậc trình độ kỹ năng nghề cho mỗi nghề. Bậc trình độ kỹ năng nghề được xác định dựa trên 3 nhóm tiêu chí chủ yếu: i) Phạm vi, độ khó và độ phức tạp của công việc; ii) Mức độ linh hoạt và sáng tạo trong thực hiện công việc; ii) Mức độ phối hợp và trách nhiệm trong thực hiện công việc.

Trong tất cả quy trình xây dựng Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia đều có sự tham gia của các thành viên đến từ doanh nghiệp (đại diện cho người sử dụng lao động, người lao động, các hội nghề nghiệp). Cơ cấu thành viên từ doanh nghiệp trong Ban chủ nhiệm xây dựng Tiêu chuẩn kỹ năng nghề chiếm ty lệ khoảng 50%. Trong tất cả các khâu từ Phân tích nghề, Phân tích công việc, Xây dựng danh mục các công việc đến Biên soạn tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia đều lấy ý kiến của ít nhất 30 chuyên gia có kinh nghiệm thực tiễn của nghề. Việc thẩm định các bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia trước khi cho ban hành trong hội đồng thẩm định có ít nhất 30% thành viên đang trực tiếp làm việc tại doanh nghiệp có nghề được xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia.

Page 19: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

19BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

Page 20: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM20

Kinh nghiệm đánh giá thử nghiệm và công nhận lẫn nhau về trình độ và kỹ năng kỹ thuật giữa các nước Tiểu vùng sông Mê Kông (GMS)

Năm 2010, trong khuôn khổ Dự án hỗ trợ kỹ thuật tư vấn và chính sách vùng với tên gọi “Thực hiện Khung chiến lược và Kế hoạch hành động phát triển nguồn nhân lực trong khu vực tiểu vùng Mê Kông mở rộng” do ADB tài trợ với nhánh kết quả thứ 2 là Khung thỏa thuận công nhận lẫn nhau về trình độ và kỹ năng kỹ thuật giữa các nước trong Tiểu vùng cho 3 nghề. Nghề Trực buồng và tòa nhà (Lào, Thái Lan thực hiện), Công nghệ ô tô (Việt Nam, Lào, Thái lan thực hiện) và Hàn (Lào, Việt Nam thực hiện). Kết quả là, một số học sinh học nghề ở 3 nước tham gia dự án trên đã được thử nghiệm đánh giá kỹ năng nghề theo bộ tiêu chuẩn năng lực tương ứng do ILO xây dựng. Trong đó 7/8 sinh viên của Việt Nam đã được công nhận và cấp chứng chỉ cho các đơn vị năng lực đánh giá. Đây là một trong những thử nghiệm quan trọng để đúc kết kinh nghiệm, xây dựng mô hình làm cơ sở tiến hành các bước tiếp theo, đặc biệt là xây dựng khung tiêu chuẩn năng lực chung cho một số nghề phổ biến trong khu vực. Theo đó, các quốc gia trong khu vực sẽ tiến tới công nhận lẫn nhau về trình độ và văn bằng chứng chỉ nghề giúp cho việc di chuyển lao động hiệu quả hướng tới Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015.

Hạn chế và nguyên nhân Xây dựng TCKNNQG có thể nói đã bước đầu huy động sự tham gia của các thành viên đến từ doanh nghiệp. Đây là điều kiện cần để bảo đảm chất lượng các bộ TCKNNQG. Tuy nhiên, sự tham gia chủ động và chủ yếu hiện nay vẫn là các cơ sở đào tạo trong khi vai trò của doanh nghiệp còn mờ nhạt và bị động. Điều này dẫn đến chất lượng các bộ TCKNNQG còn nhiều hạn chế.

Cấu trúc tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia

Cấu trúc của bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia gồm 3 cấu phần cơ bản:

1. Mô tả nghề: Mô tả phạm vi, vị trí làm việc, các nhiệm vụ chính cần phải thực hiện, điều kiện và môi trường làm việc, bối cảnh thực hiện các công việc, công cụ, máy, thiết bị, dụng cụ chủ yếu cần thiết để thực hiện các công việc của nghề.

2. Danh mục công việc: Liệt kê đầy đủ các công việc cần phải thực hiện và sắp xếp các công việc đó theo các bậc trình độ kỹ năng nghề.

3. Tiêu chuẩn thực hiện công việc: a) Mô tả công việc; b) Các tiêu chí thực hiện; c) Các kỹ năng và kiến thức thiết yếu; d) Các điều kiện thực hiện; e)Tiêu chí và cách thức đánh giá.

Page 21: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

21BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

Trên thực tế cũng chưa có những văn bản pháp lý nào quy định về nhiệm vụ và trách nhiệm của các doanh nghiệp về nội dung liên quan đến tiêu chuẩn kỹ năng nghề. Đồng thời hệ thống TCKNNQG cũng chưa được đưa vào để xử lý các quan hệ lao động và việc làm.

1.3. Giải pháp Xây dựng khung trình độ quốc gia (NQF) và khung trình độ nghề quốc gia (NVQF)

Một trong các mục tiêu của Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011-2020 là xây dựng khung trình độ nghề quốc gia. Chiến lược cũng xác định việc xây dựng khung trình độ nghề quốc gia tương thích với khung trình độ giáo dục quốc gia là giải pháp trọng tâm để phát triển dạy nghề. Tiếp sau đó, cần thể chế hóa những chính sách, chiến lược để hình thành cơ chế đưa khung trình độ nghề quốc gia vào thực tiễn, để áp dụng cho hệ thống giáo dục và dạy nghề cũng như xử lý các quan hệ lao động. Hơn nữa, Việt Nam cần có khung trình độ quốc gia tham chiếu khung trình độ khu vực để tiến tới công nhận lẫn nhau về trình độ và KNN giữa các nước trong Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015. Mỗi trình độ và mỗi nghề cần làm rõ những kỹ năng, năng lực cơ bản, đáp ứng yêu cầu thực tiễn nghề nghiệp. Đánh giá chuẩn đầu ra và bảo đảm chất lượng sẽ là điều kiện thực hiện việc công nhận văn bằng/trình độ kỹ năng lẫn nhau giữa Việt Nam và các nước trong khu vực và trên thế giới.

Xây dựng cơ chế chính sách để doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ vào xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng và tiêu chuẩn năng lực nghề

Page 22: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM22

• Trước hết, tăng cường tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức về mục đích, quy trình và lợi ích của tiêu chuẩn kỹ năng nghề và đánh giá kỹ năng nghề đối với doanh nghiệp.

• Xây dựng cơ chế chính sách điều chỉnh hoạt động đánh giá kỹ năng nghề bao gồm cơ chế hỗ trợ và đóng góp tài chính cho việc tham dự đánh giá kỹ năng nghề quốc gia cũng như chính sách đối với người có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia như: tiền lương, bảo đảm việc làm, liên thông trình độ, ...). Việc ban hành các văn bản quy định trên cần phải nhanh chóng thực hiện trong giai đoạn tới để có công cụ thực hiện đồng thời khuyến khích người lao động và người sử dụng lao động trong việc đánh giá kỹ năng nghề quốc gia.

• Quy định người hành nghề phải có chứng chỉ kỹ năng nghề hoặc chứng chỉ đã qua đào tạo, đặc biệt đối với những nghề độc hại, nguy hiểm hoặc dễ gây ảnh hưởng đến môi trường,… Việc tuyển dụng, trả lương sẽ theo trình độ kỹ năng, năng lực hành nghề hoặc văn bằng, chứng chỉ đã được kiểm định.

Thí điểm thành lập các Hội đồng kỹ năng nghề

Trong bối cảnh và điều kiện hiện nay của Việt Nam việc xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia do nhà nước (các Bộ, ngành) chủ trì và tổ chức thực hiện. Về lâu dài, hoạt động này phải do chính các doanh nghiệp và giới chủ sử dụng lao động chịu trách nhiệm chính thông qua các Hội đồng kỹ năng nghề. Việt Nam sẽ lựa chọn một số nghề phổ biến thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn để thí điểm thành lập các Hội đồng kỹ năng nghề có tham khảo kinh nghiệm của một số nước như Úc, Anh Quốc. Những Hội đồng này sẽ chịu trách nhiệm về xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề, chứng chỉ hành nghề cho người lao động thuộc lĩnh vực hoạt động kinh tế của mình.

Page 23: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

23BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

Page 24: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề
Page 25: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG, PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN DẠY NGHỀ

Báo cáo tổng quan về Đào tạo nghề

Page 26: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM26

2. Đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề

2.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế

Bối cảnh trong nướcChính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển Dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020 nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và Chiến lược phát triển nhân lực giai đoạn 2011 – 2020. Trong đó, đã lựa chọn giải pháp “Phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề” là một trong hai giải pháp đột phá để đổi mới và phát triển dạy nghề. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề.

Bối cảnh quốc tếTrong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi, quá trình quốc tế hoá sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng, chất lượng nguồn nhân lực được coi là yếu tố quyết định thắng lợi trong cạnh tranh phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Đồng thời cạnh tranh về nhân lực chất lượng cao cũng diễn ra mạnh mẽ hơn trên bình diện thế giới, khu vực và quốc gia.

Việc mở cửa thị trường sẽ tạo ra sự dịch chuyển lao động giữa các nước, đòi hỏi mỗi quốc gia càng phải chú ý nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của mình, hướng tới xuất khẩu lao động qua đào tạo ở những lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là trao đổi các chuyên gia, giáo viên dạy nghề. Tăng cường hợp tác và đối thoại quốc tế về xây dựng bộ chuẩn nghề nghiệp GVDN để tiến tới công nhận lẫn nhau giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới là một xu thế tất yếu.

2.2. Thực trạng đội ngũ giáo viên dạy nghề

Số lượng, chất lượng GVDN

• Tính đến hết năm 2011, tổng số giảng viên, giáo viên (gọi chung là giáo viên) dạy nghề ở trường CĐN, TCN, TTDN là 35.800 người, trong đó giáo viên dạy ở các trường nghề là 24.200 người (dạy ở các trường CĐN là 12.800 người, giáo viên dạy ở các trường TCN là 11.400 người), giáo viên dạy ở các TTDN là 11.600 người. Chia theo cấp trình độ giảng dạy có 6.880 giáo viên dạy chuyên môn nghề ở trình độ cao đẳng nghề, 8.630 giáo viên dạy chuyên môn nghề ở trình độ trung cấp nghề, 16.150 giáo viên dạy trình độ sơ cấp nghề và 4.140 giáo viên dạy môn chung.

Page 27: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

27BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

Page 28: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM28

• Chất lượng giáo viên từng bước được nâng lên cả về trình độ đào tạo, kỹ năng nghề và nghiệp vụ sư phạm dạy nghề: Về cơ bản giáo viên trong các trường nghề đã đạt chuẩn về trình độ đào tạo, trong đó giáo viên dạy trình độ cao đẳng nghề có trình độ thạc sỹ trở lên là 18,3%, giáo viên dạy trình độ trung cấp nghề có trình độ thạc sỹ trở lên là 5,4%; giáo viên dạy sơ cấp nghề có trình độ thạc sĩ trở lên là 1%; có 80,8% giảng viên dạy cao đẳng nghề, 71,2% giáo viên dạy trung cấp nghề đạt chuẩn nghiệp vụ sư phạm dạy nghề; hiện có 15,9% giáo viên chỉ dạy lý thuyết nghề, 25,7% giáo viên chỉ dạy thực hành nghề, khoảng 57,8% số giáo viên dạy tích hợp lý thuyết và thực hành nghề. Có 82% giáo viên ở trường CĐN và 65% giáo viên trường TCN đạt trình độ tiếng Anh từ A trở lên, trong đó trình độ C và cử nhân là 23% và 11%; có 80% giáo viên đạt trình độ Tin học từ A trở lên, trong đó trình độ C và cử nhân chiếm 13%.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy nghề

• Mô hình đào tạo, bồi dưỡng GVDN:

Đào tạo GVDN theo mạch thẳng: học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông vào học tại các trường Đại học SPKT hoặc các Khoa SPKT của các trường đại học thời gian đào tạo là 4,5 năm. Sau khi tốt nghiệp trở thành GVDN.

Đào tạo GVDN nối tiếp: người tốt nghiệp đại học, cao đẳng nghề, trung cấp nghề, người có tay nghề cao, nghệ nhân được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ sư phạm dạy nghề để trở thành GVDN.

• Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng GVDN: Hiện nay cả nước có 4 trường Đại học sư phạm kỹ thuật, 01 trường Cao đẳng sư phạm kỹ thuật, một số khoa sư phạm kỹ thuật thuộc các trường đại học, cao đẳng kỹ thuật và 25 khoa SPDN ở các trường CĐN phân bố trên cả nước để đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy nghề.

• Chương trình đào tạo, bồi dưỡng GVDN:

Chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm dạy nghề: Đã xây dựng, ban hành chương trình khung nghiệp vụ sư phạm dạy nghề cho giáo viên dạy trình độ TCN, CĐN; chương trình sư phạm dạy nghề cho giáo viên dạy trình độ SCN; chương trình bồi dưỡng kỹ năng dạy học cho người dạy nghề và 06 chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm nâng cao tiếp cận trình độ quốc tế City&Guilds.

Page 29: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

29BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kỹ năng nghề: Đã xây dựng và ban hành 28 chương trình, tài liệu bồi dưỡng kỹ năng nghề cho giáo viên dạy trình độ CĐN, TCN; 12 chương trình, tài liệu bồi dưỡng kỹ năng nghề cho giáo viên dạy trình độ SCN;

Chương trình, tài liệu bồi dưỡng Kỹ năng giảng dạy theo chương trình khung trình độ CĐN, TCN: Đã xây dựng, ban hành được 138 chương trình, tài liệu.

Chương trình, tài liệu bồi dưỡng công nghệ mới: Đã xây dựng, ban hành 51 chương trình tài liệu.

• Tính đến năm 2011 số lượng GV&CBQLDN đã được đào tạo, bồi dưỡng khoảng 50.000 lượt người.

Xây dựng cơ chế, chính sách đối với GVDN

• Hiện nay, GVDN được hưởng các chính sách chung đối với nhà giáo trong hệ thống giáo dục quốc dân và một số chế độ, chính sách riêng đối với GVDN như: chế độ làm việc, chế độ sử dụng, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ; chính sách về phụ cấp cho giáo viên khi dạy thực hành các nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và phụ cấp đặc thù cho GVDN cho người tàn tật, khuyết tật…

• Đã ban hànhThông tư quy định chuẩn nghề nghiệp đối với giáo viên dạy nghề làm cơ sở để xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng; chế độ, chính sách cho GVDN.

Hợp tác quốc tế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng GVDN

• Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã tích cực chủ động hợp tác với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới về lĩnh vực dạy nghề, trong đó có hợp tác về đào tạo, bồi dưỡng GVDN theo chương trình của các nước tiên tiến trong khu vực và quốc tế, cụ thể như sau :

• Trong khuôn khổ hợp tác Việt-Đức về Đào tạo nghề, GIZ phối hợp với TCDN và các cơ sở nghề đối tác thực hiện các khóa đào tạo nghề nâng cao về Công nghệ Cơ khí, Điện/Điện tử công nghiệp và Cơ điện tử cho hơn 300 giáo viên dạy nghề. Cùng với Tổng cục Dạy nghề và các cơ sở đào tạo nghề, GIZ đã thực hiện các khóa đào tạo về sư phạm tại Việt Nam cho khoảng 1500 lượt giáo viên dạy nghề. Ngoài ra, hơn 200 giáo viên trẻ đã được đào tạo nâng cao dài hạn tại Đức để tiếp cận với trình độ quốc tế. Những quan điểm về đào tạo nâng cao một cách

Page 30: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM30

toàn diện đã được xây dựng và thí điểm thành công nhằm tạo thuận lợi cho đào tạo nâng cao có hiệu quả đối với các giáo viên dạy nghề ở các lĩnh vực nêu trên và để có được kinh nghiệm về xây dựng một hệ thống nhất quán cho đào tạo nâng cao giáo viên dạy nghề. Phản ánh tầm quan trọng của kỹ năng thực hành cho việc thực hiện đào tạo nghề định hướng nhu cầu và thực hành, một lĩnh vực trọng tâm đã gồm một loạt các khóa đào tạo thực hành để xây dựng các năng lực nền tảng (ví dụ: làm việc với công cụ cầm tay trong lĩnh vực công nghệ cơ khí) cho giáo viên như một căn bản cần thiết hướng tới việc phát triển các năng lực nghề càn thiết cho giảng dạy và đào tạo những công nghệ hiện đại (ví dụ: CNC). Thêm vào đó, kiến thức và kỹ năng sư phạm có liên quan cũng đã được đề cập đến.

• - Phối hợp với Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ sư phạm dạy nghề cho 597 giáo viên theo chương trình sư phạm City&Guilds của Anh quốc và kiến thức kinh doanh, khởi sự doanh nghiệp.

• - Phối hợp với Vương quốc Bỉ (dự án APEFE) tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho 160 GVDN về phương pháp tiếp cận theo kỹ năng, phát triển phương tiện dạy học hiện đại và phương pháp sư phạm.

• - Phối hợp với Hợp chủng quốc Hòa Kỳ (Dự án Intel) tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề cho 25 GVDN.

• - Phối hợp với Trường Bách Khoa Singapore tổ chức đào tạo cho 50 GVDN về phát triển chương trình và đánh giá theo năng lực thực hiện.

• - Thí điểm tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề và nghiệp vụ sư phạm dạy nghề cho 145 giáo viên dạy một số nghề đầu tư cấp độ quốc tế và khu vực theo chương trình của Malaysia.

• - Trong khuôn khổ dự án Giáo dục kỹ thuật và Dạy nghề (nguồn vốn ADB) đã đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước và ngoài nước cho 2.219 lượt GV&CBQLDN về phát triển chương trình đào tạo, đánh giá kỹ năng, phát triển học liệu, tổ chức quản lý đào tạo nghề...

Đánh giá chung Mặt được

• Đã ban hành được chuẩn nghề nghiệp đối với GVDN (Thông tư 30/2010/TT-BLĐTBXH) làm cơ sở xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng chế độ, chính sách cho GVDN.

Page 31: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

31BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

• Bước đầu đã hình thành được mạng lưới các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng GVDN trên cả nước.

• Công tác đào tạo, bồi dưỡng GVDN từng bước được quan tâm, đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng nâng cao về nghiệp vụ sư phạm và kỹ năng nghề cho đội ngũ giáo viên dạy các nghề được đầu tư trọng điểm cấp độ khu vực và quốc tế. Đã thực hiện thí điểm đào tạo, bồi dưỡng GV dạy một số nghề theo chương trình tiên tiến của các nước trong khu vực và thế giới. Như một phần của Hợp tác Việt-Đức, cách tiếp cận được gọi là “đào tạo ba cấp độ” đã được phát triển và thí điểm cho nghề “Cắt gọt kim loại/CNC” trong hoạt động hợp tác với EBG để giáo viên có thể cung cấp đào tạo định hướng cầu ở trình độ quốc tế. Cách tiếp cận này đòi hỏi đào tạo thực hành có sự tích hợp chặt chẽ với đào tạo lý thuyết, bao gồm ba cấp độ cần thiết (đào tạo nền tảng rộng, đào tạo thực hành theo lĩnh vực cụ thể, và đào tạo chuyên môn hóa trong những điều kiện nơi làm việc) lồng ghép với những yêu cầu của nơi làm việc (trong tương lai).

• Việc xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng có nhiều đổi mới: các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm dạy nghề được cấu trúc theo modul với nội dung và thời gian đào tạo phù hợp; chương trình bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề được cập nhật, bổ sung theo sự thay đổi của kỹ thuật, công nghệ mới trong sản xuất.

Page 32: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM32

Hạn chế, tồn tại

• Về cơ chế chính sách đối với GVDN vẫn còn một số bất cập, chưa khuyến khích, thu hút những người có chuyên môn kỹ thuật, có tay nghề giỏi, có kinh nghiệm sản xuất vào đội ngũ GVDN, chưa có chính sách đãi ngộ nhằm tạo ra sự gắn bó, tâm huyết với nghề nghiệp (tiền lương đối với giáo viên dạy nghề còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu chuẩn giáo viên dạy nghề, chưa có chức danh nghề nghiệp riêng cho giáo viên dạy nghề…); chưa có chính sách đủ mạnh để khuyến khích và huy động doanh nghiệp tham gia đào tạo, bồi dưỡng GVDN…

• Đội ngũ GVDN còn thiếu về số lượng (ty lệ học sinh quy đổi trên giáo viên mới đạt 26 học sinh, sinh viên/giáo viên), hạn chế về trình độ kỹ năng nghề.

• Mạng lưới các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng GVDN phân bố chưa đồng đều, vùng đồng bằng Sông Cửu Long và khu vực phía Bắc các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng GVDN rất mỏng, chủ yếu tập trung ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng.

• Số nghề được đào tạo tại các trường sư phạm kỹ thuật còn ít (khoảng 40 nghề) so với số lượng các nghề hiện có trong danh mục nghề đào tạo, nên mức độ đáp ứng yêu cầu về cơ cấu nghề đào tạo của đội ngũ giáo viên dạy nghề còn hạn chế.

• Mô hình đào tạo, bồi dưỡng GVDN còn một số hạn chế:

Mô hình đào tạo GVDN theo mạch thẳng: Tuyển đối tượng là học sinh tốt nghiệp THPT sau khi tốt nghiệp đối tượng này đạt yêu cầu về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm nhưng lại hạn chế về trình độ kỹ năng nghề.

Mô hình đào tạo GVDN nối tiếp: Mô hình này đáp ứng được yêu cầu về cơ cấu nghề đào tạo, trong đó đối tượng đã tốt nghiệp cao đẳng nghề có kỹ năng thực hành nghề nhất định nhưng trình độ chuyên môn nghề chưa đạt yêu cầu nên chỉ có thể trở thành giáo viên dạy thực hành nghề khi được đào tạo nghiệp vụ sư phạm; đối tượng đã tốt nghiệp đại học có trình độ chuyên môn nghề nhưng lại hạn chế về kỹ năng thực hành nghề nên chỉ có thể trở thành giáo viên dạy lý thuyết khi họ được đào tạo nghiệp vụ sư phạm dạy nghề.

Page 33: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

33BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

Page 34: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM34

Nguyên nhân

• - Hiện nay, xã hội chưa đánh giá đúng vị trí, vai trò của GVDN trong việc đào tạo nguồn nhân lực, còn xem nhẹ so với GV ở các cấp học khác trong hệ thống giáo dục quốc dân.

• - Các cơ sở đào tạo GVDN chậm cải tiến chương trình đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GVDN.

• - Các CSDN chưa chủ động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên dạy nghề, đặc biệt là bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề.

2.3. Mục tiêu và giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề đến 2020

Mục tiêuĐào tạo GVDN đảm bảo đáp ứng số lượng, nâng cao chất lượng, đồng bộ cơ cấu ngành nghề đào tạo, cụ thể là: về số lượng đến năm 2015 có 51.000 giáo viên dạy nghề, trong đó dạy cao đẳng nghề 13.000 người, trung cấp nghề 24.000 người; đến năm 2020 có 77.000 giáo viên dạy nghề, trong đó dạy cao đẳng nghề 28.000 người, trung cấp nghề 31.000 người. Về chất lượng, đến năm 2014, 100% đội ngũ giáo viên dạy các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia được chuẩn hóa về trình độ đào tạo, kỹ năng và sư phạm nghề; 100% đội ngũ giáo viên dạy các nghề trọng điểm cấp độ khu vực và quốc tế được chuẩn hóa về kỹ năng nghề và năng lực sư phạm của các nước tiên tiến trong khu vực ASEAN và các nước phát triển trên thế giới; đến năm 2015, 100% đội ngũ giáo viên dạy các nghề không được đầu tư trọng điểm và giáo viên dạy sơ cấp nghề được chuẩn hóa về trình độ đào tạo, kỹ năng nghề và sư phạm nghề cấp độ quốc gia.

Giải pháp Để đạt được các mục tiêu nêu trên, cần thực hiện đồng bộ hệ thống các giải pháp cơ bản sau:

Một là, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách

Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định, chế độ, chính sách về đãi ngộ, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra, đánh giá đối với đội ngũ giáo viên dạy nghề: Xây dựng và ban hành Chức danh nghề nghiệp, Tiêu chuẩn nghiệp vụ chức danh nghề nghiệp, chuyển xếp lương cho giáo viên dạy nghề; quy định phụ cấp đối với giáo viên dạy cả lý thuyết và thực hành (dạy tích

Page 35: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

35BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

hợp); định kỳ 2 đến 5 năm giáo viên dạy nghề được bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật kỹ thuật, công nghệ mới, phương pháp giảng dạy…và đi thực tế sản xuất tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.

Hai là, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo GVDN

Thành lập Học viện dạy nghề; thành lập thêm các khoa sư phạm dạy nghề tại một số trường cao đẳng nghề; xây dựng 3 Trung tâm để đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề cho GVDN.

Page 36: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM36

Ba là, đổi mới hoạt động của các trường sư phạm kỹ thuật

Mở thêm các ngành nghề đào tạo mới; đa dạng hóa các mô hình đào tạo giáo viên dạy nghề để đảm bảo về số lượng, chất lượng và cơ cấu ngành nghề. Ngoài các mô hình đào tạo truyền thống, các mô hình liên thông lên đại học SPKT cho sinh viên tốt nghiệp các trường cao đẳng nghề và mô hình bồi dưỡng kỹ năng nghề cho GV đã tốt nghiệp đại học SPKT và đại học chuyên ngành cũng sẽ được triển khai thí điểm với sự hợp tác giữa Việt Nam - Đức và một số nước trong khu vực.

Bốn là, triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GVDN

• Đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng GVDN, chú trọng phương pháp thực hành, hoạt động nhóm; đổi mới nội dung và hình thức tổ chức thực tập sư phạm; phối hợp với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, định kỳ hàng năm đưa GVDN đi thực tế, rèn luyện kỹ năng nghề, chia sẻ kỹ thuật, công nghệ mới... tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.

• Đối với giáo viên dạy các nghề trọng điểm cấp độ quốc tế và khu vực ASEAN: Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng (trong nước và ngoài nước) cho giáo viên dạy các nghề trọng điểm cấp độ quốc tế, khu vực theo chương trình tiên tiến của nước ngoài theo hướng chuẩn hoá, đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng; đến năm 2015, đào tạo, bồi dưỡng cho khoảng 5.000 giáo viên.

• Đối với giáo viên dạy các nghề được đầu tư trọng điểm cấp độ quốc gia và các nghề không được đầu tư trọng điểm: Xây dựng chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề theo chuẩn quốc gia. Đến năm 2015 tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề và nghiệp vụ sư phạm cho 23.000 giáo viên đạt chuẩn quốc gia về trình độ đào tạo, kỹ năng nghề và sư phạm nghề.

• Đối với giáo viên dạy trình độ Sơ cấp nghề: được đào tạo, bồi dưỡng đạt chuẩn quốc gia về kỹ năng nghề và sư phạm dạy nghề.

Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế trong việc đào tạo bồi dưỡng GVDN

• Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc phát triển đội ngũ GVDN tiến tới trao đổi chuyên gia, giáo viên dạy nghề giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Mở rộng quan hệ hợp tác với một số nước có lĩnh vực dạy nghề phát triển trong khu vực ASEAN và châu Á (như Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản …), EU (như Cộng hòa Liên bang Đức, Vương quốc Anh,…) và Bắc Mỹ thông qua việc đưa GVDN đi đào tạo ở nước ngoài, hoặc mời chuyên gia nước ngoài đến đào tạo tại Việt Nam.

Page 37: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

37BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

• Tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học, trao đổi kinh nghiệm về đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GVDN.

• Khuyến khích, tạo điều kiện để các cơ sở dạy nghề trong nước chủ động mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài. Tạo hành lang pháp lý thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư, các doanh nghiệp nước ngoài phát triển cơ sở dạy nghề chất lượng cao, hợp tác đào tạo nghề tại Việt Nam.

Page 38: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề
Page 39: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

HỢP TÁC VỚI DOANH NGHIỆP TRONG ĐÀO TẠO NGHỀ

Báo cáo tổng quan về Đào tạo nghề

Page 40: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM40

3. Hợp tác với doanh nghiệp trong đào tạo nghề

3.1. Bối cảnh và khung chính sách về quan hệ hợp tác doanh nghiệp - dạy nghề

Bối cảnh kinh tế-xã hội và thị trường lao động tác động đến doanh nghiệp và dạy nghề ở VN

Nhà nước Việt Nam đã khẳng định “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược,…Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế và chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo”.

Chính phủ Việt Nam đang thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó có Đề án tái cấu trúc DNNN và tập trung phát triển TTLĐ. Điều này sẽ có tác động lớn đến doanh nghiệp và người lao động.

Theo kết quả điều tra lao động việc làm năm 2011, LLLĐ cả nước là 51,34 triệu người (chiếm 58,4% dân số), trong đó có 50,3 triệu lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Tính đến 1/1/2012, cả nước có 541.000 doanh nghiệp, trong đó có 375.000 doanh nghiệp đang hoạt động thực tế với khoảng 10 triệu lao động đang làm việc3.

Các hoạt động giao dịch trên thị trường lao động đã bước đầu phát triển. Các quan hệ lao động đã được thiết lập theo cơ chế thị trường; giá cả sức lao động đã phản ánh giá trị lao động trong TTLĐ. NSLĐ của lao động Việt Nam đã có sự cải thiện. Năm 2010, NSLĐ của lao động (tính theo giá trị) đạt 40,4 triệu đồng/người, gấp 2,06 lần so với năm 2005. Tuy nhiên, NSLĐ của Việt Nam vẫn còn rất thấp so với các nước trong khu vực4.

Chính sách hợp tác doanh nghiệp - dạy nghề (quá khứ, hiện tại) Về việc làm, dạy nghề và kết nối cung với cầu lao động

• Bộ luật lao động có một chương về “Học nghề, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề”, trong đó quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc dạy nghề, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ

3 GSO, Hà nội, 20124 Năm 2010, năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn Nhật Bản 38,8 lần, Hàn Quốc 16,2 lần,

Malaysia 6,6 lần, Thái Lan 2,3 lần, Trung Quốc 1,9 lần và Indonesia 1,4 lần - Xem trong Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011-2020. Hà nội, 2011

Page 41: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

41BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

Page 42: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM42

năng nghề cho người lao động... Các hình thức kết nối cung cầu cho thị trường lao động được tích cực thúc đẩy và hoạt động hiệu quả: đã hình thành mạng lưới dịch vụ việc làm với gần 140 Trung tâm giới thiệu việc làm ở tất cả các địa phương trên cả nước.

• Nhà nước đã ban hành một số chính sách nhằm tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ đào tạo nghề cho người lao động, cụ thể:

(i). Khuyến khích người lao động tham gia các khoá đào tạo nghề thông qua việc tạo điều kịên để người lao động vay vốn để đi học với lãi suất ưu đãi;

(ii). Khuyến khích DN tự đào tạo lao động thông qua việc cho phép doanh nghiệp tính chi phí đào tạo nhân lực vào chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm;

(iii). Đào tạo nghề miễn phí thông qua một số dự án dạy nghề cho một số đối tượng lao động thuộc nhóm yếu thế trong xã hội.

Về giá cả sức lao động

Đã và đang hoàn thiện các quy định luật pháp, chính sách về đổi mới cơ chế tiền lương theo hướng giao quyền tự chủ cho DN trong xác định chi phí tiền lương và trả lương cho người lao động dựa trên cơ sở NSLĐ, hiệu SXKD.

3.2. Thực trạng quan hệ hợp tác giữa doanh nghiệp và cơ sở dạy nghề

Cung ứng lao động qua đào tạo nghề cho các doanh nghiệp được thực hiện thông qua các CSDN ngoài doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề của doanh nghiệp và đào tạo tại chỗ làm việc trong doanh nghiệp. Báo cáo này chỉ tập trung vào dạy nghề tại doanh nghiệp và hợp tác giữa CSDN và doanh nghiệp.

a) Dạy nghề tại các CSDN của doanh nghiệp và tại nơi làm việc trong DN:

• Số lượng và cơ cấu cơ sở dạy nghề thuộc doanh nghiệp:

Đến nay, cả nước có gần 200 cơ sở dạy nghề thuộc các doanh nghiệp, trong đó có 119 trường TCN và CĐN (chiếm 27% trong tổng số trường CĐN, TCN), gồm 34 trường CĐN (chiếm 25% trong tổng số các trường CĐN) và 85 trường TCN (chiếm 28% trong tổng số các trường TCN).

Page 43: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

43BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

Hầu hết các TCT, các TĐKT mạnh đều có trường dạy nghề, đáp ứng một phần nhân lực cho tập đoàn, góp phần cung cấp cho xã hội. Các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn ĐTNN, DNTN có quy mô lớn đã chủ động tổ chức dạy nghề, bổ túc nghề, bồi dưỡng KNN cho người lao động theo yêu cầu của doanh nghiệp.

Trong tổng số CSDN thuộc doanh nghiệp, số CSDN thuộc khối DNTN chiếm 67%.

• Tuyển sinh và tuyển dụng sau đào tạo:

Trong thời gian gần đây chỉ tính riêng các trường của Tổng công ty đã tham gia đào tạo nghề với số lượng ngày càng tăng lên: năm 1998 đào tạo dài hạn được 15.300 người, năm 2006: 60.102 người, năm 2010 khoảng 100.000 người.

Nhiều trường thuộc các TĐKT lớn có quy mô đào tạo khá lớn như các trường của tập đoàn VINASHIN (hàng năm cung ứng khoảng 6.000- 7.000 CNKT và một vài năm tới sẽ đạt 12.000-13.000 người); trường

Page 44: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM44

của tập đoàn LILAMA (hàng năm cung ứng từ 3.000 đến 4.500 người có trình độ CĐN và TCN). Qua gần 40 năm hoạt động, trường CĐN dầu khí đã đào tạo, bồi dưỡng cho các DN dầu khí hơn 70.000 lượt người; đào tạo được hơn 15.000 CNKT với 27 nghề khác nhau...

Tính đến tháng 12/2011 cả nước có trên 283 KCN, KCX và KKT (gọi chung là KCN), đã thu hút gần 2 triệu lao động đang làm việc (cả trực tiếp và xung quanh các KCN). Ngoài việc nhận lao động từ các trường nghề, một số doanh nghiệp trong các KCN đã thực hiện ĐTN cho người lao động mới tuyển; đồng thời tổ chức đào tạo lại, hoặc bồi dưỡng tay nghề cho người lao động. Một số KCN đã hình thành trường dạy nghề hoặc TTDN bước đầu hoạt động hiệu quả như KCN Hà Nội, KCN Vĩnh Phúc, KCN Bắc Ninh, KCN Dung Quất, KCN Bình Dương,...

Việc doanh nghiệp tổ chức dạy nghề cho lao động dưới các hình thức khác nhau đang ngày càng trở nên phổ biến và có tác dụng tích cực nâng cao trình độ tay nghề và chất lượng lao động. Các doanh nghiệp tổ chức dạy nghề cho lao động theo 3 hình thức chủ yếu: kèm cặp tại chỗ làm việc, đào tạo tập trung tại doanh nghiệp và đào tạo tập trung ngoài doanh nghiệp, trong đó dạy nghề kèm cặp là phổ biến (chiếm 63,6% tổng số lao động được đào tạo).

• Kinh phí và nguồn lực đầu tư cho đào tạo

Trong tổng nguồn tài chính cho dạy nghề, nguồn từ doanh nghiệp chiếm khoảng 10%. Nguồn này chủ yếu hỗ trợ (gián tiếp hoặc trực tiếp) cho các cơ sở dạy nghề trong doanh nghiệp; một phần để đào tạo nghề cho lao động của doanh nghiệp ở các cơ sở dạy nghề ngoài doanh nghiệp.

Page 45: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

45BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

Qua điều tra nhanh của Tổng cục Dạy nghề, trong tổng kinh phí đào tạo nghề tại các cơ sở dạy nghề thuộc doanh nghiệp, kinh phí hỗ trợ từ các tập đoàn, tổng công ty mẹ (bao gồm cả các công ty con trực thuộc) chiếm khoảng 60%-70%.

b) Tham gia của doanh nghiệp vào dạy nghề và hoạt động gắn kết giữa cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp

• Tham gia của doanh nghiệp vào dạy nghề

Doanh nghiệp đã tham gia vào các hoạt động dạy nghề từ việc xác định danh mục nghề đào tạo, xây dựng nội dung chương trình đào tạo trên cơ sở phân tích nghề tới biên soạn giáo trình, tài liệu giảng dạy. Việc tham gia của doanh nghiệp vào dạy nghề ở cả hai cấp độ: cấp độ chính sách và cấp độ hoạt động đào tạo.

Ở cấp độ chính sách doanh nghiệp trực tiếp vào việc xây dựng danh mục nghề đào tạo, xây dựng tiêu chuẩn và đánh giá kỹ năng nghề quốc gia (KNNQG); xây dựng chương trình khung....

• Xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia (TCKNNQG):

Trong tất cả quy trình xây dựng TCKNNQG từ phân tích nghề, phân tích công việc, biên soạn tiêu chuẩn thực hiện công việc đến thẩm định đánh giá chất lượng các bộ TCKNNQG đều có sự tham gia của các thành viên đến từ doanh nghiệp. Số những thành viên này trong Ban

State Budget Learners Enterprises Institutions

Cơ cấu nguồn lực tài chính cho dạy nghề năm 2009

Hình 1: Cơ cấu nguồn lực tài chính cho dạy nghề

Nguồn : Tổng cục Dạy nghề

Cơ cấu nguồn lực tài chính cho dạy nghề năm 2009

63%21%

10%3% 3%

NSNN Người học Doanh nghiệp Các CSĐT Đầu tư NN

Page 46: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM46

chủ nhiệm xây dựng TCKNNQG chiếm khoảng 50%. Trong tất cả các khâu: Phân tích nghề, Phân tích công việc, Xây dựng danh mục các công việc, và Biên soạn TCKNNQG đều có sự tham gia của doanh nghiệp. Việc thẩm định các bộ TCKNNQG có sự tham gia của ít nhất 30% thành viên đang trực tiếp làm việc tại doanh nghiệp có nghề được xây dựng TCKNNQG.

Tổ chức biên soạn ngân hàng đề thi đánh giá KNNQG là những chuyên gia đã tham gia xây dựng TCKNNQG hoặc những người đã được cấp thẻ đánh giá viên KNN có kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất, nghiên cứu hoặc chuyển giao công nghệ, đào tạo nghề cho người lao động.

• Xây dựng chương trình khung và đào tạo:

Chương trình dạy nghề được xây dựng xuất phát từ thực tiễn sản xuất; trên cơ sở phân tích nhiệm vụ, công việc của người lao động, thiết kế các mô đun đào tạo tích hợp giữa lý thuyết và thực hành.

Doanh nghiệp cử chuyên gia tham gia xây dựng chương trình đào tạo nhằm tăng tính phù hợp với công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Các chuyên gia tham gia vào các công đoạn từ phân tích nhiệm vụ đến thiết kế các mô đun đào tạo.

Ở cấp độ hoạt động đào tạo, các chuyên gia, kỹ thuật viên, thợ giỏi của doanh nghiệp được mời đến cơ sở dạy nghề tham gia giảng dạy thực hành nghề cho học sinh; tham gia đánh giá kết quả học tập của học sinh và tham gia vào hội đồng thi tốt nghiệp cuối khóa của học sinh.

• Đóng góp kinh phí cho các hoạt động đào tạo

Doanh nghiệp hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên bao gồm: một phần tiền lương cho cán bộ, giáo viên các trường nghề; kinh phí xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị đào tạo. Một số doanh nghiệp hỗ trợ các trường nghề trực thuộc một phần kinh phí xây dựng cơ bản, xưởng thực hành, ký túc xá cho sinh viên hoặc hỗ trợ trang thiết bị đào tạo phù hợp với công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Kinh phí huy động chủ yếu từ các tập đoàn, tổng công ty (khoảng 56%), các phần còn lại từ nguồn đầu tư của các doanh nghiệp thuộc tập đoàn, tổng công ty, từ bộ chủ quản hay ngân sách nhà nước, từ học phí,... Kinh phí từ NSNN chủ yếu cho các DNNN (hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp)

Page 47: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

47BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

Page 48: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM48

• Các hình thức gắn kết, liên kết

Trong thời gian qua bước đầu có sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong dạy nghề. Gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp cơ nhiều ưu điểm: người học nghề được học những nghề phù hợp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp; các kiến thức và kỹ năng nghề mà người học tiếp thu được đáp ứng được lợi ích của cả người học và người sử dụng lao động. Người học nghề ngoài việc học lý thuyết nghề tại trường còn được thực tập ngay trên các máy móc, thiết bị đang sử dụng tại doanh nghiệp, giúp cho người học có thể vận dụng được những kiến thức đã học, đồng thời nâng cao được kỹ năng nghề. Việc gắn kết đào tạo trên đã làm tăng mối quan hệ hiểu biết giữa nhà trường và doanh nghiệp. Cơ sở đào tạo không phải tăng đầu tư cho việc mua sắm trang thiết bị thực hành, người học có thể tiếp thu bài học nhanh hơn. Về phía doanh nghiệp có thể sử dụng được những học sinh học nghề để tạo ra những sản phẩm mới hoặc có cơ hội lựa chọn được những người lao động có kỹ thuật tốt cho mình. Qua điều tra của Tổng cục Dạy nghề, có khoảng 40% số doanh nghiệp có nhu cầu đã thực hiện liên kết đào tạo với các cơ sở dạy nghề.

• Có nhiều hình thức hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp, như:

Tổ chức cho học sinh thực tập tại các doanh nghiệp thành viên, là hình thức hỗ trợ phổ biến đối với các doanh nghiệp cho các trường nghề trực thuộc. Ngoài ra doanh nghiệp hoặc tự tổ chức bồi dưỡng hoặc ký các hợp đồng đào tạo trực tiếp với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp. Bồi dưỡng

Hình 2: Cơ cấu kinh phí đào tạo nghề trong các doanh nghiệp

Kinh phí từ nguồn khác

Kinh phí của doanh nghiệp thuộc tập đoàn/tổng công ty

Kinh phí của tập đoàn/tổng công ty

Kinh phí từ các Bộ, ngành, ngân sách nhà nước

2009 2010 2011

Page 49: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

49BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

nẫng cao kỹ năng nghề, cập nhật chuyển giao kỹ thuật cụng nghệ mới cũng là hình thức phổ biến và phự hợp với nhu cầu và điều kiện thực hiện tại đa số các doanh nghiệp hiện nay.

Số lượng lao động làm việc tại doanh nghiệp đã được bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề

Số lượng đào tạo nghề theo 3 cấp trình độ

2009 2010 2011

• Doanh nghiệp đầu tư trang thiết bị thực hành cho trường; hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên để chi trả một phần tiền lương cho cán bộ, giáo viên các trường nghề; kinh phí xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị đào tạo. Một số doanh nghiệp hỗ trợ các trường nghề trực thuộc một phần kinh phí xây dựng cơ bản, nhất là xưởng thực hành, ký túc xá cho sinh viên hoặc hỗ trợ trang thiết bị đào tạo phù hợp với công nghệ sản xuất của doanh nghiệp.

• Cử chuyên gia và thợ giỏi trực tiếp giảng dạy, đánh giá kết quả học tập tại các trường nghề.

• Tiếp nhận học sinh sau khi tốt nghiệp các trường nghề vào làm việc tại doanh nghiệp. Do trong quá trình đào tạo đã có sự gắn kết giữa đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp, nên những học sinh tốt nghiệp các trường dạy nghề thuộc doanh nghiệp hầu hết được nhận vào làm việc tại các doanh nghiệp có liên quan. Ty lệ học sinh tốt nghiệp có việc làm ở các trường nghề thuộc doanh nghiệp đạt từ 90%-95%. Các trường thuộc doanh nghiệp không chỉ đào tạo nhân lực cho chính doanh nghiệp mà còn đào tạo cho các doanh nghiệp khác và xã hội. Qua điều tra nhanh của Tổng cục Dạy nghề, ty lệ học sinh sau khi tốt nghiệp làm việc tại doanh nghiệp chỉ khoảng 46% (đối với trình độ sơ cấp nghề và trung cấp nghề và khoảng 23% đối với trình độ cao đẳng nghề.

Hình 3: Tỷ lệ tương quan giữa số lượt người lao động được bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề và được đào tạo nghề theo 3 cấp trình độ

Page 50: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM50

Hình 4: Tỷ lệ tốt nghiệp và làm việc tại DN sau khi tốt nghiệp

Trình độ cao đẳng nghề

Trình độ trung cấp nghề”

Trình độ sơ cấp nghề

Học nghề dưới 3 tháng

Qua khảo sát có thể thấy các hình thức liên kết chủ yếu giữa nhà trường và doanh nghiệp là:

• Doanh nghiệp gửi lao động đến trường để nâng cao kiến thức nghề (chiếm khoảng 40% số doanh nghiệp);

• Doanh nghiệp có hợp đồng đào tạo với các trường ( 37,1%);

• Các doanh nghiệp nhận hướng dẫn học sinh, sinh viên thực tập tại doanh nghiệp (28,6%);

• Các thợ có tay nghề cao tham gia giảng dạy tại trường dạy nghề (5,7%);

• Doanh nghiệp nhận bồi dưỡng kỹ năng thực hành nghề cho giáo viên dạy nghề (gần 6%)....

Ngoài sự hợp tác trong đào tạo, giữa cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp có sự phối hợp tư vấn nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên. Về phía doanh nghiệp, đó là tư vấn về những công việc, những yêu cầu mà một người lao động cần có, để từ đó học sinh có thể lựa chọn nghề học phù hợp với khả năng và sở thích của mình. Về phía nhà trường, đó là tư vấn, giới thiệu về khả năng thu hút lao động của doanh nghiệp; tạo điều kiện cho sinh viên tiếp cận các thông tin về doanh nghiệp để họ có thể đến làm việc sau khi tốt nghiệp. Nhiều trường đã hình thành bộ phận làm công tác tư vấn nghề nghiệp cho học sinh và đã có sự phối hợp rất chặt chẽ với doanh nghiệp.

Proportion of graduates by qualification levelProportion of graduates working in enterprises by

qualification level

Proportion of graduates by qualification levelProportion of graduates working in enterprises by

qualification level

Proportion of graduates by qualification levelProportion of graduates working in enterprises by

qualification level

2009

2010

2011

6,7 31,0 26,3 36,0

29,6 55,4 43,6 23,1

13,3 24,9 23,9 37,9

14,7 42,7 42,8 31,4

11,8 25,7 24,1 38,4

24,2 39,8 53,1 42,8

Page 51: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

51BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

Page 52: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM52

Page 53: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

53BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

3.3. Hợp tác với Cộng hòa Liên bang Đức thí điểm triển khai “gói” đào tạo nghề cho doanh nghiệp

Từ năm 2006, thực hiện cam kết giữa hai Chính phủ Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức, “Chương trình Đổi mới Đào tạo nghề Việt Nam” đã được triển khai với các nội dung chính là: (i) Tăng số lượng sinh viên nghề tốt nghiệp có năng lực để tìm được việc làm trong một số lĩnh vực dạy nghề; (ii) Góp phần đáp ứng lao động qua đào tạo nghề theo nhu cầu của thị trường lao động; (iii) Đổi mới phương thức đào tạo theo định hướng thực hành ở các cơ sở đào tạo nghề và tại vị trí làm việc.

Cuối năm 2011, VNCKHDN với sự hỗ trợ của GIZ đã phát triển và thực hiện một nghiên cứu về “các gói đào tạo” cho các doanh nghiệp với mục đích để đáp ứng nhu cầu về các kỹ năng đặc thù cho mỗi vị trí làm việc thông qua việc nâng cao trình độ của người lao động trong doanh nghiệp. Hiện nay, một số khóa học đã được tổ chức cho các giáo viên nguồn được lựa chọn để nâng cao năng lực có liên quan đến việc phát triển các mô đun đào tạo trong khuôn khổ một chương trình đào tạo theo mô đun dựa trên việc phân tích nhu cầu đào tạo trong và cùng với các doanh nghiệp.

Kết quả của một Hợp tác Công-Tư do GIZ phối hợp với Hiệp hội Giáo dục Xã hội và Nghề nghiệp Châu Âu (EBG), các giáo viên được đào tạo nâng cao về cắt gọt kim loại truyền thống và CNC có thể thực hiện đào tạo nghề ban đầu định hướng thực hành ở các cơ sở đào tạo nghề của mình. Các giáo viên cũng đào tạo nâng cao cho đồng nghiệp trong cơ sở đào tạo nghề của mình và hỗ trợ việc đào tạo giáo viên trên toàn quốc. Cùng với khóa đào tạo bạn đầu, các giáo viên có năng lực sẽ thực hiện các khóa đào tạo cho người lao động trong doanh nghiệp. Theo cách này, các cơ sở đào tạo nghề cũng sẽ mở rộng lĩnh vực kinh doanh mới để cung cấp đào tạo cho người lao động trong doanh nghiệp và tạo chất lượng chuyên môn cho thị trường việc làm quốc tế.

Sự hợp tác của hai doanh nghiệp Đức (Bbraun và Messer) với Trường ĐHSPKT Hưng Yên do GIZ hỗ trợ, một chương trình đào tạo hợp tác ở cấp trình độ cao đẳng trong nghề Cơ điện tử đã được thí điểm. Đây là một hình thức mới của hợp tác giữa các cơ sở đào tạo nghề và các doanh nghiệp trong triển khai đào tạo định hướng thực hành theo nhu cầu của doanh nghiệp. Người học sẽ được đào tạo trong trường và trong doanh nghiệp thông qua một chương trình thực tập có hệ thống và có cấu trúc đã được thống nhất. Các nội dung đào tạo phản ánh nhu cầu của các doanh nghiệp thông qua việc cùng nhau xây dựng chương trình đào tạo. Sau 3 năm đào tạo, người tốt nghiệp sẽ có những cơ hội tốt để có việc làm trong doanh nghiệp. VNCKHDN sẽ giám sát chương trình để rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc nhân rộng mô hình này và cung cấp thông tin phản hồi cho quá trình phát triển hệ thống đào tạo nghề.

Page 54: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM54

Việc triển khai các mô hình đào tạo nghề hợp tác định hướng cầu nhấn mạnh vào đào tạo thực hành và áp dụng với các cơ sở đào tạo nghề đối tác trong Hợp tác Việt-Đức, cùng sử dụng các mô đun đào tạo nghề tiên tiến đã được xây dựng cũng như các tài liệu đào tạo và học tập để cung cấp đào tạo theo nhu cầu của nơi làm việc.

Trong khuôn khổ Chương trình Đổi mới Đào tạo nghề Việt-Đức, những sáng kiến tiếp theo được triển khai để tăng cường cho sự hợp tác với các cơ sở đào tạo nghề và các doanh nghiệp ở cấp độ chính sách và thể chế.

Đánh giá chung

Những kết quả đạt được:

Trong thời gian qua, việc dạy nghề cho doanh nghiệp và tại doanh nghiệp đã đạt được một số kết quả sau:

• Hệ thống dạy nghề đã chuyển hướng đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động và của doanh nghiệp. Quá trình xây dựng danh mục nghề, tiêu chuẩn kỹ năng nghề, chương trình dạy nghề... đã có sự tham gia tích cực của doanh nghiệp.

• Các cơ sở dạy nghề đã có những chuyển biến tích cực, đào tạo theo định hướng của thị trường lao động và nhu cầu của doanh nghiệp.

• Các doanh nghiệp đã chủ động dạy nghề để đáp ứng nhu cầu của chính mình. Dạy nghề tại nơi làm việc là hình thức tốt để bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho người lao động trong doanh nghiệp.

• Đã có những hình thức hợp tác, liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nghề.

• Hoạt động gắn kết giữa CSDN và doanh nghiệp là hình thức hoạt động có hiệu quả, đưa lại lợi ích thiết thực cho cả hai bên. Đối với CSDN có tính chuyên nghiệp theo hướng chuẩn hoá. Đối với doanh nghiệp có được lực lượng lao động có tay nghề phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh, tiết kiệm chi phí đào tạo.

Những hạn chế và nguyên nhân:

Hạn chế

Mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng quan hệ hợp tác của doanh nghiệp với đào tạo nghề còn có những hạn chế, đó là:

Page 55: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

55BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

• Việc xây dựng TCKNNQG hiện nay còn gặp khó khăn vì trong bối cảnh thực tế hiện nay tại Việt Nam chưa có khung trình độ nghề quốc gia. Sự tham gia chủ động và chủ yếu hiện nay vẫn là các cơ sở đào tạo.

• Số lượng các trường nghề trong doanh nghiệp còn ít, quy mô đào tạo còn nhỏ; nhiều trường chưa đáp ứng được nhu cầu của bản thân doanh nghiệp, các doanh nghiệp vẫn phải tuyển dụng lao động qua đào tạo nghề từ ngoài doanh nghiệp.

• Cơ cấu ngành, nghề đào tạo vẫn chưa thật phù hợp với cơ cấu ngành, nghề của doanh nghiệp; chưa bổ sung thường xuyên các nghề đào tạo mới theo yêu cầu của doanh nghiệp.

• Chương trình đào tạo được đổi mới nhưng chưa kịp với sự phát triển của khoa học công nghệ, học sinh được đào tạo hệ thống kỹ năng cơ bản theo chuyên ngành nhưng thiếu sự sáng tạo, linh hoạt theo đặc thù của doanh nghiệp.

• Việc huy động đội ngũ chuyên gia, kỹ sư giỏi của DN tham gia đào tạo, thỉnh giảng, kiểm tra, đánh giá chất lượng chưa được tiến hành thường xuyên và liên tục.

• Đối với các trường thuộc DNNN, từ 2006 nhà nước không cấp kinh phí chi thường xuyên; các trường này có năng lực đào tạo cao nhưng do quy hoạch chưa tốt nên đào tạo cho các tập đoàn, TCT chưa nhiều hoặc không phù hợp nhu cầu.

• Các DNTN và ĐTNN chỉ đào tạo và sử dụng theo nhu cầu từ những người chưa có nghề, chưa tham gia đào tạo cho xã hội, do chưa có cơ chế chính sách khuyến khích hoặc ràng buộc trách nhiệm.

• Người lao động qua đào tạo nghề, kỹ năng thực hành và khả năng thích ứng với sự thay đổi công nghệ của doanh nghiệp còn hạn chế.

• Huy động đầu tư của doanh nghiệp vào hoạt động dạy nghề được thực hiện thông qua việc khuyến khích là chủ yếu. Quỹ hỗ trợ học nghề được quy định từ năm 2006 tại Luật Dạy nghề, tuy nhiên, đến nay Quỹ này vẫn chưa thực hiện được do chưa có các hướng dẫn thi hành Luật cụ thể cũng như các cơ chế quản lý và sử dụng nguồn vốn của Quỹ.

• Việc tham gia của DN vào các hoạt động đào tạo cả ở tầm chính sách và đào tạo trực tiếp chưa có tính ràng buộc rõ ràng do chưa có cơ chế, chính sách cụ thể.

Page 56: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM56

Nguyên nhân

• Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động dạy nghề chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Cơ chế, chính sách của nhà nước đối với trường nghề thuộc doanh nghiệp mặc dù đã có sự điều chỉnh nhưng còn chậm và thiếu đồng bộ. Một số chính sách đã ban hành (thuế, tín dụng ưu đãi, học phí...) nhưng chưa phát huy hiệu quả, chưa thực sự khuyến khích trường nghề thuộc doanh nghiệp ổn định và phát triển.

• Chưa có cơ chế thống nhất, rõ ràng đối với các loại hình trường nghề thuộc doanh nghiệp nhà nước, nhất là trường thuộc DNNN đã cổ phần.

• Các văn bản dưới luật về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong hoạt động dạy nghề còn thiếu, không ràng buộc được các doanh nghiệp có trách nhiệm.

• Nhận thức về trách nhiệm của doanh nghiệp đối với dạy nghề chưa đầy đủ. Các doanh nghiệp chưa ý thức được sự phát triển bền vững của doanh nghiệp phải trên cơ sở nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của mình.

Page 57: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

57BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

• Các Bộ, ngành chủ quản cũng chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của các trường nghề thuộc doanh nghiệp nên chưa có sự quan tâm, đầu tư đúng mức cho sự phát triển trường nghề thuộc doanh nghiệp.

• Giữa Nhà trường và doanh nghiệp chưa có tiếng nói chung về thông tin, dự báo nhu cầu về lao động của doanh nghiệp; một số doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc nâng cao tay nghề cho công nhân đang làm việc và quyền lợi của người lao động sau khi nâng cao trình độ, tay nghề.

3.4. Một số định hướng, giải pháp hợp tác, gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong dạy nghề

Định hướng Đào tạo theo hướng cầu đã trở thành cách tiếp cận đào tạo có hiệu quả đang và sẽ được thực hiện ở tất cả các quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế giới. Đào tạo nghề theo nhu cầu của thị trường lao động và doanh nghiệp là một trong những quan điểm chỉ đạo đã được nêu rõ trong Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011-2020.

• Gắn phát triển dạy nghề với chiến lược phát triển các khu công nghiệp, các lĩnh vực công nghiệp và các tập đoàn kinh tế.

• Ưu tiên đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề cho doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn.

• Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, trang thiết bị; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.

• Tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp trong quá trình đào tạo và sử dụng lao động. Doanh nghiệp chủ động nguồn nhân lực của mình trên cơ sở chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp. Đối với lao động kỹ thuật chất lượng cao thông qua hợp đồng, liên kết với cơ sở dạy nghề để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Tuỳ điều kiện khả năng của doanh nghiệp và cơ sở dạy nghề để bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động.

• Đảm bảo sự tương thích giữa đào tạo và nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp cả về quy mô, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ đào tạo; tăng nhanh ty lệ người học được đào tạo nghề trong các doanh nghiệp và tại nơi làm việc.

Page 58: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM58

Giải pháp:

a) Về cơ chế chính sách:

Xây dựng cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề,

gồm:

• Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề

• Chính sách quy định trách nhiệm của doanh nghiệp khi tiếp nhận lao động qua đào tạo nghề; (tiền lương tối thiểu đối với những người qua ĐTN tương ứng với từng trình độ và đặc thù nghề nghiệp)

• Chính sách đối với chuyên gia, nhân viên kỹ thuật có tay nghề cao của doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề…

• Các doanh nghiệp có hoạt động dạy nghề, chi phí đào tạo được tính trong giá thành.

• Chính sách sử dụng người lao động qua đào tạo nghề (tại cơ sở dạy nghề tại doanh nghiệp) và tự nâng cao tay nghề trong quá trình làm việc.

• Tăng cường sự tham của các Hội nghề nghiệp. Cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan nhà nư ớc về lao động với đại diện giới chủ, đại diện giới thợ, đại diện của các hội nghề nghiệp và cơ sở dạy nghề trong việc xác định nhu cầu của doanh nghiệp về lao động và xây dựng danh mục, tiêu chuẩn nghề.

• Hoàn thiện cơ chế chính sách để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Đức phối hợp với các cơ sở dạy nghề Việt Nam xây dựng các chương trình đào tạo, phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.

b) Gắn kết giữa dạy nghề với thị trường lao động và sự tham gia của doanh nghiệp

Đối với cơ sở dạy nghề

• Chủ động xác định số lượng nghề đào tạo, quy mô đào tạo trên cơ sở năng lực của cơ sở và nhu cầu của doanh nghiệp; chủ động xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp. Đổi mới

Page 59: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

59BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

Page 60: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM60

phương pháp, quy trình đào tạo, lấy học sinh, người học nghề làm trung tâm và nhu cầu của doanh nghiệp làm định hướng đào tạo.

• Có sự tham gia của doanh nghiệp trong quá trình đào tạo: trong Hội đồng nhà trường; trong việc xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình; trong quá trình giảng dạy; kiểm tra, đánh giá kết quả học tập.

• Tham gia bồi dưỡng, nâng cao cao kiến thức nghề cho người lao động đã có KNN được đào tạo tại doanh nghiệp hoặc tích lũy được trong quá trình lao động.

• Hình thành bộ phận quan hệ doanh nghiệp trong các cơ sở dạy nghề để nắm bắt nhu cầu của doanh nghiệp và hợp tác với doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo; đẩy mạnh việc ký hợp đồng đào tạo với doanh nghiệp.

• Tổ chức thu thập thông tin về học nghề sau khi tốt nghiệp.

• Thực hiện tư vấn nghề nghiệp cho người học.

Đối với doanh nghiệp:

• Doanh nghiệp phải có chiến lược, kế hoạch phát triển nhân lực phù hợp với chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh.

• Phát triển cơ sở dạy nghề tại doanh nghiệp; đẩy mạnh dạy nghề tại chỗ và bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho người lao động.

• Doanh nghiệp có trách nhiệm chính trong việc đào tạo nghề cho doanh nghiệp của mình (tự tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho lao động của doanh nghiệp; phối hợp với cơ sở dạy nghề để cùng đào tạo, đặt hàng đào tạo).

• Có trách nhiệm đóng góp vào quỹ hỗ trợ học nghề; đồng thời trực tiếp tham gia vào các hoạt động đào tạo nghề như: xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề, xác định danh mục nghề, xây dựng chương trình đào tạo, đánh giá kết quả học tập của người học nghề, tham gia đánh giá KNN cho người lao động qua đào tạo...

• Doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp thông tin về nhu cầu việc làm (số lượng cần tuyển dụng theo nghề và trình độ đào tạo, yêu cầu về thể lực, năng lực khác…) và các chế độ cho người lao động (tiền lương, môi trường và điều kiện làm việc, phúc lợi…) cho các cơ sở dạy nghề; đồng thời thường xuyên có thông tin phản hồi cho cơ sở dạy nghề mức độ hài lòng đối với “sản phẩm” đào tạo của cơ sở dạy nghề.

Page 61: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

61BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

• Tạo điều kiện cho học sinh các trường nghề thực tập tại doanh nghiệp; giáo viên dạy nghề được đi thực tế tại doanh nghiệp.

• Cung cấp sản phẩm mới của doanh nghiệp cho CSDN làm thiết bị đào tạo.

• Tổ chức đào tạo nghề tại doanh nghiệp với nhiều hình thức khác nhau cho những lao động tuyển mới chưa qua đào tạo nghề và nâng cao kỹ năng nghề; cấp chứng chỉ nghề cho người lao động.

• Tạo điều kiện cho người lao động được học tập nâng cao trình độ.

Page 62: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề
Page 63: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

Báo cáo tổng quan về Đào tạo nghề

THỰC TRẠNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI CƠ

CHẾ TÀI CHÍNH CHO DẠY NGHỀ ĐẾN 2020

Page 64: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM64

4. Thực trạng tài chính đối với đào tạo nghề và một số đề xuất đổi mới cơ chế tài chính cho dạy nghề đến 2020

4.1. Thực trạng tài chính đối với đào tạo nghề

Nguồn tài chính đầu tư cho đào tạo nghề

Trong những năm gần đây, với sự quan tâm của các cấp, các ngành, sự nỗ lực, cố gắng của cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề và các cơ sở dạy nghề, sự thay đổi về nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, các nguồn lực đầu tư cho dạy nghề đã có bước chuyển tích cực:

• Ngân sách Nhà nước chi cho đào tạo nghề tăng liên tục từ 4,9% năm 2001 lên 9% năm 2010 trong tổng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo. Trong đó: chi thường xuyên tăng 3 lần, chi xây dựng cơ bản tăng 5 lần, chi CTMTQG cho dạy nghề tăng 6 lần.

• Nguồn lực chi cho dạy nghề đã bước đầu phát triển theo xu hướng xã hội hoá. Cơ cấu bình quân nguồn đầu tư cho dạy nghề giai đoạn 2001-2010 là: NSNN khoảng 60%, đóng góp của người học nghề 20%, đóng góp của doanh nghiệp 5%, các nguồn khác khoảng 15%.

• Nguồn lực đầu tư cho dạy nghề tăng đã góp phần quan trọng đưa dạy nghề nước ta phục hồi sau một thời gian dài bị suy giảm, từng bước được đổi mới và phát triển, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong SXKD, dịch vụ phục vụ phát triển kinh tế- xã hội. Việc mở rộng mạng lưới CSDN và việc Nhà nước ban hành các chính sách hỗ trợ dạy nghề đối với người dân tộc thiểu số, bộ đội xuất ngũ, người nghèo, người tàn tật, lao động nông thôn v.v. đã tạo cơ hội cho nhiều người được học nghề và góp phần thực hiện công bằng xã hội.

Những tồn tại và nguyên nhân

Nền kinh tế Việt Nam đã chuyển mạnh sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên cơ chế tài chính cho giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng chuyển rất chậm, về cơ bản vẫn là cơ chế tài chính mang nặng tính bao cấp, thể hiện trên các mặt huy động, phân bổ, sử dụng nguồn lực đầu tư..., cụ thể là:

Về cơ chế huy động nguồn đầu tư cho đào tạo nghề

Page 65: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

65BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

• Nguồn lực đầu tư từ NSNN cho đào tạo nghề :

Bình quân trong 5 năm qua, tổng chi NSNN cho đào tạo nghề đạt 0,4% GDP là còn quá thấp so với yêu cầu thực tế đào tạo nghề. Trong khi đó các nước trong liên minh Châu Âu chi cho dạy nghề (năm 2003) trên 1% GDP (như Phần Lan là: 1,1% GDP; Cộng hoà Czech, Hungary, Hà Lan, Slovakia là 1% GDP, Thuỵ Sỹ là 1,08% GDP). Vì vậy, chưa tạo động lực phát triển mạnh dạy nghề đáp ứng nhu cầu nguồn lao động có tay nghề cho sự nghiệp CNH, HĐH. Mặt khác, các nguồn lực huy động từ nguồn trái phiếu Chính phủ, thu xổ số kiến thiết... chỉ dành đầu tư cho các bậc giáo dục - đào tạo khác, đào tạo nghề chưa được quan tâm.

Tốc độ tuyển sinh học nghề trong các năm qua tăng gấp 3 lần so với tốc độ tăng nguồn lực đầu tư từ NSNN cho đào tạo nghề. Ngân sách Nhà nước chỉ đảm bảo cho đào tạo nghề theo tốc độ tăng NSNN bình quân hàng năm. Trong khi các nguồn lực tài chính khác đầu tư cho đào tạo nghề không tăng; giá cả vật tư, nguyên nhiên vật liệu thực hành tăng nhanh, lạm phát năm sau cao hơn năm trước... Như vậy, dẫn đến kinh phí đầu tư cho một suất học nghề liên tục bị giảm xuống trong thời gian qua.

Do thiếu nguồn đầu tư cho đào tạo nghề, nên Ngân sách Nhà nước bố trí dàn trải, nhiều khoản chỉ được chi “cầm chừng”, không được bố trí ngân sách tới ngưỡng cần thiết. Do đó, thời gian đầu tư bị kéo dài nên việc sử dụng nguồn ngân sách kém hiệu quả.

Nguồn lực tài chính chưa đáp ứng được việc tập trung đầu tư hoàn chỉnh theo từng nghề, từng nhóm nghề, từng trường trọng điểm tiếp cận trình độ khu vực, quốc tế, vùng kinh tế trọng điểm, các vùng khó khăn như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ...

Page 66: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM66

• Nguồn đóng góp của người học :

Chính sách học phí học nghề tuy đã được sửa đổi, nhưng cũng chỉ đáp ứng được khoảng 20% trong tổng chi cho đào tạo nghề. Vì đối với đào tạo nghề việc chi phí đầu tư về cơ sở vật chất, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu thực tập rất tốn kém.

Mức đóng học phí của người học nghề hiện nay chưa cao, nhưng so với người học nghề là những người có thu nhập thấp, thì mức đóng học phí hiện hành là rất khó khăn. Vì vậy, nếu tăng mức đóng học phí của người học nghề trên 20% trong tổng chi cho đào tạo nghề, để đạt mục tiêu: tính đúng, tính đủ chi phí, đồng thời đảm bảo chất lượng đào tạo nghề và có tích lũy cho các cơ sở dạy nghề là không thực hiện được. Mặt khác, nếu tăng học phí lên nữa thì người học nghề sẽ không có khả năng đóng góp, không học nghề nữa, điều này sẽ ảnh hưởng đến qui mô tuyển sinh. Nhưng, nếu giữ mức đóng học phí như hiện hành hoặc giảm mức học phí, thì sẽ không đảm bảo được chất lượng dạy và học nghề.

Chính sách học phí còn một số điểm bất cập, trong khi đầu tư từ ngân sách tăng không đáng kể (thậm chí bị cắt giảm như trường hợp của các cơ sở đào tạo thuộc doanh nghiệp nhà nước) đã gây khó khăn cho người học nghề ở một số nghề đòi hỏi phải chi phí đào tạo lớn, cơ hội việc làm và thu nhập cao.

Việc quy định miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học nghề và cơ chế thu học phí còn nhiều thủ tục gây khó khăn cho người học. Những đối tượng học nghề ở mức cận nghèo sẽ không có cơ hội tiếp cận học nghề chất lượng cao ở một số cơ sở dạy nghề có thương hiệu, vì phải nộp học phí cao theo chương trình đào tạo nghề chất lượng cao.

• Nguồn đóng góp của doanh nghiệp :

Hiện nay, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ở Việt Nam chưa thực hiện đóng góp kinh phí cho đào tạo nghề với trách nhiệm là “người sử dụng lao động đã qua đào tạo nghề”; mức đóng góp 5% trong tổng chi cho học nghề như hiện nay là quá thấp. Do chưa có cơ chế chính sách để khuyến khích doanh nghiệp tham gia một cách tích cực, chủ động vào hoạt động dạy nghề (kể cả dạy nghề tại doanh nghiệp và hoạt động phối kết hợp với cơ sở dạy nghề) nên chưa huy động được tối đa nguồn lực từ phía doanh nghiệp.

• Nguồn thu sự nghiệp, thu sản xuất kinh doanh của các cơ sở dạy nghề

Thực tế, nguồn thu từ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ... tại

Page 67: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

67BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

các cơ sở dạy nghề ở Việt Nam hiện nay là không lớn. Một phần do cơ sở vật chất của các cơ sở dạy nghề còn nhiều hạn chế nên việc tận dụng để tăng cường nguồn thu là không đáng kể. Hơn nữa các cơ sở dạy nghề vẫn còn tư tưởng trông chờ, y lại, e ngại khi thay đổi cơ chế quản lý; chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động nhằm khai thác tối đa nguồn thu trong đào tạo nghề.

Chưa triển khai thực hiện việc đánh giá phân loại, xếp hạng các cơ sở dạy nghề để tạo ra thương hiệu cạnh tranh giữa các cơ sở dạy nghề; Việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các cơ sở dạy nghề còn chậm. Nên các cơ sở dạy nghề không phát huy được tiềm lực thế mạnh của mình để chủ động hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ tạo ra nguồn thu cho đơn vị.

• Nguồn vay và đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước

Nguồn vay và đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hiện nay chiếm ty trọng khoảng 15% trong tổng chi cho đào tạo nghề. Nhưng các cơ chế chính sách tài chính đối với nguồn kinh phí này biểu hiện nhiều bất cập như:

Nguồn vốn vay trong và ngoài nước cho đào tạo nghề còn hạn chế về số lượng và chất lượng; thủ tục giải ngân còn nhiều phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều cơ quan. Vì vậy, vốn giải ngân thường là chậm, kéo dài thời gian dự án và thường không giải ngân hết được số vốn vay theo Hiệp định đã ký, dẫn đến vốn đối ứng cũng không được bố trí đủ, không đạt được hiệu quả từ nguồn vốn này;

Thực chất hiện nay chúng ta chưa có cơ chế huy động, sử dụng nguồn đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho dạy nghề, nên khi có cơ hội được tài trợ, cho, tặng thì một số cơ sở dạy nghề không dám tiếp nhận. Mặt khác, người tự nguyện muốn đóng góp cho dạy nghề thì chưa có được thông tin đầy đủ; trình tự, thủ tục chưa rõ, chưa thực sự thuận lợi.

Về cơ chế phân bổ Ngân sách Nhà nước cho đào tạo nghề

• Hiện tại cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề không nắm được tổng nguồn ngân sách toàn ngành dạy nghề. Theo chức năng quản lý nhà nước thì Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phải được phối hợp cùng với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư tham gia phân bổ ngân sách cho toàn ngành dạy nghề. Nhưng thực tế Bộ LĐTBXH mới chỉ được tham gia phân bổ ngân sách CTMTQG, còn ngân sách chi thường xuyên và chi XDCB thì chưa tham gia;

Page 68: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM68

• Tính gắn kết giữa mục tiêu đào tạo nghề và phân bổ ngân sách hàng năm chưa thực sự thúc đẩy phát triển dạy nghề. Do quản lý ngân sách theo kiểu truyền thống, không gắn kết việc cấp phát ngân sách với việc thực hiện các mục tiêu đào tạo nghề, nên dẫn đến hiệu quả thấp; các nhà quản lý ngân sách chỉ công bố được những số lớn về chi ngân sách cho dạy nghề mà không quan tâm đến cơ cấu và qui mô đào tạo theo cấp trình độ dạy nghề..., nên việc phân bổ và sử dụng các nguồn ngân sách chưa mang lại kết quả và hiệu quả như mong muốn;

• Tầm nhìn ngắn hạn, thiếu chủ động về nguồn ngân sách cho dạy nghề. Do việc phân bổ dự toán và quản lý ngân sách như hiện nay chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, từng năm một, chưa có tầm nhìn trung hạn, dài hạn. Bởi vì, việc phân bổ ngân sách hiện nay bị chi phối bởi quá nhiều nguyên tắc quản lý ngân sách. Như: cứ hết năm ngân sách thì số dự toán hết hiệu lực; việc quyết toán chỉ chú trọng đến việc thực hiện chi ngân sách có hết dự toán hay không? chứ chưa quan tâm nhiều đến mục tiêu đào tạo nghề, hiệu quả sử dụng nguồn ngân sách;

• Việc phân bổ ngân sách cho dạy nghề hiện nay dựa trên cơ sở nguồn thu ngân sách, qui mô tuyển sinh ‘‘đầu vào’’, không chưa dựa trên chất lượng, hiệu quả đào tạo ‘‘đầu ra’’; Phân bổ nguồn lực tài chính dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm; không ưu tiên phân bổ tập trung hoàn thiện theo nghề trọng điểm, ngành trọng điểm, theo cấp trình độ của cơ sở đào tạo quốc tế, khu vực hoặc trọng điểm...

Về cơ chế sử dụng nguồn lực tài chính cho đào tạo nghề

• Còn có khoảng cách rất lớn giữa nhu cầu thực tế sử dụng đủ kinh phí cho đào tạo nghề với số dự toán thực cấp cho dạy nghề hiện nay. Bởi vì, các nguồn lực tài chính cho dạy nghề hiện tại đầu tư theo số tuyệt đối là rất thấp (khoảng 04%/GDP), nhưng qui mô tuyển sinh đào tạo nghề năm sau tăng khoảng 16% so với năm trước. Cùng với việc giá cả tăng, lạm phát, giao ngân sách hàng năm chậm không kịp giải ngân, phải trả lại kho bạc nhà nước... dẫn đến suất đầu tư cho dạy nghề càng giảm, bỏ xa khoảng cách so với nhu cầu thực tế kính phí phải chi cho đào tạo nghề đảm bảo chất lượng;

• Việc ban hành các cơ chế chính sách sử dụng nguồn lực tài chính cho dạy nghề còn nặng về tính lý thuyết, chủ trương, chưa thực tế với chi tiêu cho dạy nghề. Cơ chế, chính sách tài chính chưa tạo động lực và tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân sử dụng nguồn NSNN trong đào tạo nghề; Cơ chế quản lý chi NSNN cũng không tạo ra sự tự chủ. Nhiều chính sách, chế độ chi NSNN cho dạy nghề còn có tính chất cản trở việc thực hiện đầu tư.

Page 69: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

69BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

Page 70: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM70

4.2. Một số đề xuất đổi mới cơ chế tài chính cho dạy nghề đến 2020

Về quan điểm và nguyên tắc đổi mới cơ chế tài chính cho dạy nghề

• Đầu tư cho dạy nghề là đầu tư phát triển;

• Đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư cho dạy nghề phải trên cơ sở tính đủ chi phí đào tạo nghề theo từng cấp trình độ đào tạo, từng nhóm nghề, từ đó có giải pháp huy động các nguồn lực tài chính đầu tư nhằm đảm bảo yêu cầu về qui mô đào tạo, về chất lượng dạy nghề và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội;

• NSNN giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư cho dạy nghề, đồng thời phải đẩy mạnh xã hội hoá nhằm huy động toàn xã hội chăm lo cho sự nghiệp dạy nghề;

• Đổi mới cơ chế, chính sách tài chính cho dạy nghề theo hướng nâng cao hiệu quả huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực đầu tư, gắn đào tạo nghề với nhu cầu của thị trường lao động; tập trung nguồn lực để tăng nhanh số lượng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo nghề.

Về xác định nhu cầu tài chính cho dạy nghề đến năm 2020

Trên cơ sở ‘‘Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011-2020’’, Bộ LĐTBXH dự kiến nhu cầu đầu tư cho dạy nghề đến năm 2020 là khoảng 250.000 ty đồng, trong đó:

• Chi thường xuyên: 105.000 ty đồng; • Chi đầu tư phát triển: 95.000 ty đồng; • Chi CTMTQG: 50.000 ty đồng.

Dự kiến phương án huy động nguồn đầu tư cho dạy nghề đến 2020:

• NSNN là 150.000 ty đồng, chiếm 60% tổng chi NSNN cho dạy nghề và tăng từ 8% năm 2010 lên khoảng 15% vào năm 2020 trong tổng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục, đào tạo, tương đương khoảng 0,8-1,1% GDP;

• Nguồn huy động xã hội hoá (học phí, viện trợ không hoàn lại, đóng góp của doanh nghiệp, thu sự nghiệp, thu SXKD; nguồn thu sổ số kiến

Page 71: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

71BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

thiết, trái phiếu Chính phủ...) là: 100.000 ty đồng, chiếm 40% (trong đó: học phí 50.000 ty đồng, chiếm 50% nguồn huy động xã hội hoá và bằng khoảng 47,6% tổng chi thường xuyên cho dạy nghề).

Giải pháp đổi mới cơ chế tài chính cho dạy nghề đến năm 2020

a. Đổi mới cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho dạy nghề

• Nguồn NSNN đóng vai trò chủ đạo: Do, đào tạo nghề với đặc thù là đầu tư lớn về cơ sở vật chất thiết bị, chi phí tốn kém về nguyên nhiên vật liệu thực hành; đối tượng học nghề chủ yếu là người nghèo. Như vậy, NSNN vẫn phải đóng vai trò chủ đạo, tăng về số tuyệt đối chi cho dạy nghề, để thực hiện chủ trương đào tạo nghề theo các cấp trình độ đạt chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH; phổ cập nghề cho người lao động...; NSNN cần phải tiếp tục ưu tiên chi 60% trong tổng chi cho dạy nghề, để đạt ty lệ 12% trong tổng chi NSNN cho giáo dục, đào tạo vào năm 2013 và ở mức 15% trong giai đoạn 2015-2020. Trong đó:

Nhu cầu chi thường xuyên cho dạy nghề được xác định trên cơ sở nhu cầu về số lượng, cơ cấu trình độ lao động qua đào tạo nghề và mức chi phí thường xuyên tối thiểu dự kiến cho từng cấp trình độ dạy nghề đối với đào tạo nghề đại trà. Đối với, mức chi phí đào tạo nghề chất lượng cao ở cấp độ quốc tế, khu vực, trọng điểm quốc gia, dự kiến như sau:

Trình độ cao đẳng nghề: Năm 2013 dự kiến chi là 10trđ/hs/năm và tăng dần lên mức 18trđ/hs/năm vào năm 2020.

Trình độ trung cấp nghề: Năm 2013 dự kiến là 8trđ/hs/năm và tăng dần lên mức 15trđ/hs/năm vào năm 2020.

Trình độ sơ cấp nghề: Năm 2013 dự kiến là 5trđ/hs/khoá và tăng dần lên mức 8trđ/học sinh/khoá vào năm 2020.

Lương giáo viên dạy nghề: Trên cơ sở lộ trình cải cách tiền lương của Chính phủ, nhu cầu tiền lương cho giáo viên và CBQL dạy nghề giai đoạn 2011-2020 là 52.500 ty đồng, chiếm 50% chi thường xuyên.

Vốn đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề, được xác định trên cơ sở nhu cầu vốn đầu tư hoàn chỉnh cho từng nghề, từng ngành, từng cơ sở đào tạo. Cụ thể: sẽ ưu tiên tập trung đầu tư hoàn chỉnh toàn diện cho 26 nghề đạt trình độ quốc tế; 49 nghề đạt trình độ

Page 72: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM72

khu vực và 107 nghề đạt cấp độ trọng điểm quốc gia, với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam có 40 trường đào tạo nghề chất lượng cao.

• Học phí dạy nghề được tính toán, xây dựng theo nguyên tắc

Mức học phí phải được xây dựng dựa trên cơ sở tính đủ chi phí đào tạo theo từng cấp trình độ, ngành nghề đào tạo. Đối với cơ sở dạy nghề ngoài công lập, học phí phải đảm bảo đủ trang trải các chi phí thường xuyên, có tích lũy để đầu tư phát triển; đối với cơ sở dạy nghề công lập, học phí là khoản bổ sung cùng với NSNN và các nguồn khác để đảm bảo chi phí đào tạo;

Nhà nước phải đảm bảo ngân sách để thực hiện chế độ miễn, giảm học phí cho các đối tượng chính sách, người nghèo, người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, học sinh học ở ngành nghề Nhà nước khuyến khích đào tạo, ngành nghề nặng nhọc, độc hại khó tuyển trong các cơ sở dạy nghề (không kể đó là cơ sở công lập hay ngoài công lập);

Tiếp tục hỗ trợ ngân sách để thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với học sinh, sinh viên, đặc biệt là học sinh học nghề được vay vốn tín dụng để trang trải các chi phí cho sinh hoạt, học tập; Chuyển chế độ miễn học phí đối với học sinh, sinh viên các trường sư phạm sang chế độ ưu tiên cho vay trong cả quá trình học tập, khi ra trường nếu làm giáo viên thì sẽ được xoá nợ;

Giảm ty trọng đóng học phí hiện nay là 20% xuống khoảng 15% trong tổng chi cho dạy nghề, bằng cách tăng ty trọng đóng góp của các doanh nghiệp từ 5% hiện nay lên 10% trong giai đoạn 2015-2020. Nhằm tăng qui mô tuyển sinh học nghề và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đồng thời nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp là người sử dụng lao động qua đào tạo nghề.

• Nguồn đóng góp của doanh nghiệp cho đào tạo nghề

Phải xây dựng cơ chế chính sách để huy động tối đa sự tham gia của doanh nghiệp (tất cả doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế), dưới các hình thức như tổ chức đào tạo nghề tại doanh nghiệp, đầu tư cơ sở dạy nghề; liên kết với các cơ sở dạy nghề để giáo viên, học sinh được thực tập nghề trong thực tiễn sản xuất... và phải có nghĩa vụ đóng kinh phí vào Quỹ hỗ trợ phát triển đào tạo nghề, trên số lao động qua đào tạo nghề đang làm việc tại doanh nghiệp. Tổng số đóng góp của doanh nghiệp phải đảm bảo 10% trong tổng số

Page 73: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

73BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

đầu tư cho đào tạo nghề trong giai đoạn từ 2015-2020.

• Nguồn thu của cơ sở dạy nghề từ hoạt động sản xuất, dịch vụ

Mở rộng sản xuất gắn với việc thực tập của học sinh trong các cơ sở dạy nghề nhằm nâng cao kỹ năng thực hành cho học sinh và tạo nguồn thu để bổ sung kinh phí đào tạo. Đến năm 2015, 100% số trường trung cấp nghề, trường cao đẳng nghề công lập thực hiện hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động dạy nghề, phục vụ xã hội. Đồng thời tạo ra nguồn thu để đầu tư cho đào tạo nghề đạt từ 3 -5% trong tổng số đầu tư cho đào tạo nghề.

• Nguồn vay và đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước

Mặc dù nguồn vốn vay nước ngoài cho dạy nghề sẽ giảm dần trong thời gian tới. Nhưng các khoản đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước sẽ tăng dần. Chính phủ phải xây dựng cơ chế chính sách về hợp tác, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dạy nghề theo hướng thông thoáng, thuận lợi nhằm huy động tối đa sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; Ưu tiên các Dự án vay vốn nước ngoài để đầu tư phát triển dạy nghề, đặc biệt là các Dự án hỗ trợ kỹ thuật; đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị; phát triển chương trình, học liệu; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề.

b. Đổi mới cơ chế phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước chi cho dạy nghề

Cơ chế phân bổ NSNN cho đào tạo nghề

• Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trách nhiệm nắm được tổng nguồn lực tài chính đối với toàn ngành dạy nghề, có quyền và tham gia cùng với Bộ Tài chính, Bộ KH-ĐT trong việc phân bổ, giao dự toán NSNN hàng năm cho dạy nghề;

• Phân bổ NSNN có trọng tâm, trọng điểm để đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng dạy nghề, đặc biệt là vốn đầu tư để phát triển các cơ sở dạy nghề tiếp cận trình độ quốc tế, khu vực, trường trọng điểm quốc gia; đồng thời đảm bảo kinh phí cho dạy nghề trình độ cao đẳng, trung cấp theo qui mô đào tạo hàng năm;

• Ưu tiên phân bổ ngân sách đầu tư cho những cơ sơ dạy nghề khó khăn trong tuyển sinh và cơ sở vật chất, thiết bị, thuộc các tỉnh Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, các cơ sở dạy nghề thuộc các huyện có ty lệ hộ nghèo cao, vùng căn cứ địa cách mạng; những ngành, nghề cần cho phát triển kinh tế - xã hội nhưng khó tuyển sinh (chi phí đào tạo cao, người học không muốn học...);

Page 74: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM74

• Đến 2015, phải ban hành được định mức chi phí cho từng cấp trình độ đào tạo, từng nhóm nghề, từng nghề để làm căn cứ giao dự toán ngân sách, đồng thời đảm bảo chất lượng đào tạo nghề và tạo sự công bằng trong đào tạo giữa các ngành, nghề, giữa các vùng miền...

Cơ chế sử dụng NSNN trong đào tạo nghề:

• Từng bước chuyển cơ chế cấp phát NSNN cho dạy nghề theo “đầu vào” như hiện nay sang cơ chế chi trả kinh phí đào tạo nghề theo “đầu ra” cụ thể là:

Nhân rộng đặt hàng dạy nghề cho những nghề đào tạo chất lượng cao. Mở rộng đối tượng và ưu tiên các đối tượng người học là: người có công với cách mạng, người nghèo, người dân tộc thiểu số...; tiến tới thực hiện cơ chế đấu thầu, đặt hàng đào tạo nghề đối với tất cả các cơ sở dạy nghề được kiểm định chất lượng đủ điều kiện đào tạo nghề theo nhu cầu của người sử dụng. Nguồn Ngân sách Nhà nước để thực hiện cơ chế đấu thầu, đặt hàng dạy nghề đạt 50% tổng số chi NSNN cho dạy nghề vào năm 2015; 90% vào năm 2020;

Thực hiện giao dự toán NSNN cho dạy nghề theo thời gian trung hạn 3 - 5 năm. Nhà nước và cơ sở dạy nghề chủ động xác định được nguồn lực tài chính cho đào tạo nghề trong khoảng thời gian trung hạn; đảm bảo được tính nhất quán của việc phân bổ và giao dự toán NSNN cho dạy nghề, gắn việc giao dự toán NSNN với kết quả “đầu ra” của dạy nghề. Với cơ chế chính sách này sẽ vừa cụ thể hoá chính sách ưu tiên bố trí NSNN cho các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm của dạy nghề trong từng thời kỳ, vừa đảm bảo được tính bền vững của chi NSNN và đảm bảo đạt được các mục tiêu của dạy nghề đã được xác định;

• Xây dựng bộ tiêu chí và quy trình đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn NSNN chi cho dạy nghề để làm căn cứ đánh giá hiệu quả chi NSNN cho dạy nghề./.

Page 75: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

75BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM

Page 76: Đột phá chất lượng Đào tạo nghề

TVET Quality Breakthrough

Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá Chất lượng Đào tạo nghề Đột phá

Đột phá chất lượng Đào tạo nghề