hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minhhcma.vn/uploads/2017/10/4/luan an hanh.pdf ·...

184
HC VIN CHÍNH TRQUC GIA HCHÍ MINH NGUYN THHNG HNH CÁC ĐẢNG BTRƯỜNG ĐẠI HC CÔNG LP THÀNH PHHÀ NI LÃNH ĐẠO NÂNG CAO CHT LƯỢNG ĐÀO TO ĐẠI HC GIAI ĐON HIN NAY LUN ÁN TIN SĨ KHOA HC CHÍNH TRCHUYÊN NGÀNH: XÂY DNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYN NHÀ NƯỚC Mã s: 62 31 02 03 HÀ NI - 2017

Upload: others

Post on 19-Feb-2020

3 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH

CÁC ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP

Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO NÂNG CAO

CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC

GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

Mã số: 62 31 02 03

HÀ NỘI - 2017

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH

CÁC ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP

Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO NÂNG CAO

CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC

GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

Mã số: 62 31 02 03

Người hướng dẫn khoa học : PGS,TS Nguyễn Minh Tuấn

HÀ NỘI - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và

được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Hà Nội, ngày tháng năm 2017

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Hồng Hạnh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

6 1.1 Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 6 1.2. Những giá trị khoa học của các công trình tổng quan và

những vấn đề luận án cần làm rõ

26 Chương 2:

CÁC ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

29

2.1. Đào tạo trình độ đại học và nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học ở Việt Nam

29

2.2. Các trường đại học công lập và các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội - đặc điểm, vai trò

46

2.3. Lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học của các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội – nội dung, phương thức lãnh đạo

53 Chương 3 CÁC ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở THÀNH

PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

65 3.1. Thực trạng lãnh đạo nâng cao chất lượng đào đạo trình độ đại học

của các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội

65 3.2. Nguyên nhân và những kinh nghiệm bước đầu 103

Chương 4

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG LÃNH ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC CỦA CÁC ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2025

113

4.1. Dự báo những nhân tố tác động và phương hướng tăng cường lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học của các đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội

113 4.2. Những giải pháp chủ yếu tăng cường lãnh đạo nâng cao chất

lượng đào tạo trình độ đại học của các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội đến năm 2025

124

KẾT LUẬN 147 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 149 TÀI LIỆU THAM KHẢO 150 PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHXH Bảo hiểm xã hội

CBQL Cán bộ quản lý

CBVC Cán bộ viên chức

CNH - HĐH Cộng nghiệp hóa - hiện đại hóa

CNXH Chủ nghĩa xã hội

DN Doanh nghiệp

GD&ĐT Giáo dục và đào tạo

GDĐH Giáo dục đại học

GS Giáo sư

GV Giáo viên

HN Hà Nội

KH&CN Khoa học và công nghệ

NCKH Nghiên cứu khoa học

NCS Nghiên cứu sinh

Nxb Nhà xuất bản

PGS Phó giáo sư

ThS Thạc sỹ

TS Tiến sĩ

TSKH Tiến sĩ khoa học

WTO Tổ chức thương mại thế giới

XHCN Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU TRONG PHỤ LỤC LUẬN ÁN

Phụ lục 1: Danh sách các trường đại học, học viện công lập trên địa bàn hà nội

Phụ lục 2 : Số liệu tổ chức các hội nghị

Phụ lục 3 : Về công tác chuyên môn

Phụ lục 4 : Đánh giá phân loại tổ chức cơ sở đảng

Phụ lục 5: Số liệu về công tác phát triển đảng

Phụ lục 6: Phân tích đội ngũ đảng viên

Phụ lục 7: Công tác kiểm tra, giám sát

Phụ lục 8: Phiếu trưng cầu ý kiến

Phục lục 9: Tổng hợp kết quả trưng cầu ý kiến

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng

sâu rộng của Việt Nam hiện nay, việc phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

trở thành “sức mạnh mềm” quốc gia, là nhân tố quan trọng quyết định thành bại của tiến

trình hội nhập. Nhận thức rõ điều này, trong những năm qua Đảng và Nhà nước luôn luôn

quan tâm đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất

lượng cao. Đây là động lực mạnh mẽ và cũng là mục tiêu của công cuộc đổi mới, đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên

đất nước ta. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh:

Phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả

giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và

nhu cầu học tập của nhân dân [42, tr.115].

Giáo dục đại học, nhất là ở các trường đại học công lập có tính quyết định chất

lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Giáo dục đại học trong các

trường công lập ở Hà Nội lại càng có vai trò quan trọng, có tính dẫn dắt, định hướng đối

với hệ thống giáo dục đại học cả nước. Bởi với vị thế là trung tâm chính trị, kinh tế, văn

hóa, khoa học - kỹ thuật của cả nước, Thủ đô Hà Nội cũng đồng thời là trung tâm giáo

dục đào tạo, tập trung 33 trường đại học công lập với gần 200 ngành đào tạo, là nơi học

tập và rèn luyện thường xuyên cho hơn 300 nghìn sinh viên với số lượng gần 15 nghìn

giảng viên. Đào tạo của các trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội là môi trường

tốt để phát triển và bồi dưỡng nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đắc lực

và đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do đó, chất lượng đào tạo

đại học ở các trường đại học công lập thực sự là vấn đề đáng quan tâm và cũng chỉ đạt kết

quả khi được sự lãnh đạo đúng đắn, trước hết của các đảng bộ trường đại học.

Trong thời gian qua, các đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội đã quan tâm

đầu tư, xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng hệ đào tạo này, đạt kết quả đáng

ghi nhận: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, nội dung đào tạo, gắn đào tạo với

việc cung ứng nhân lực chất lượng cao của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước, xứng tầm với vị trí là địa bàn trọng điểm. Tuy nhiên, chất lượng đào

tạo trình độ đại học ở các trường này cũng vẫn còn nhiều hạn chế: nội dung giáo dục

đào tạo chưa thật sự phong phú, đa dạng và đổi mới, phù hợp với sự phát triển đa

ngành nghề, đa lĩnh vực khi hội nhập quốc tế; khâu đánh giá, kiểm tra chất lượng đào

tạo chưa thật sự hữu hiệu, còn tồn tại tiêu cực, có nơi chạy theo thành tích; chưa có

định hướng chiến lược lâu dài để có những bước đi phù hợp với nhu cầu trong từng

giai đoạn của thị trường… Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên có thể kể đến

công tác lãnh đạo của các đảng bộ trường: một số quyết định về vấn đề này của cấp uỷ

còn chưa thật cụ thể, rõ ràng, cơ sở lý luận và thực tiễn của một số điểm chưa thật vững

chắc nên tính khả thi thấp. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước còn chậm. Trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý của khá nhiều cấp uỷ và cán bộ

chủ chốt các trường còn nhiều hạn chế, bất cập. Việc phát huy vai trò của ban giám hiệu

nhà trường trong lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo còn thiếu tính chủ động, nội dung,

phương thức lãnh đạo của nhiều đảng bộ trường chưa được đổi mới mạnh mẽ, nhìn chung

còn lúng túng.

Trong giai đoạn hiện nay, đào tạo trình độ đại học ở nước ta nói chung, Hà Nội nói

riêng đang trước nhu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hội nhập quốc tế đang

mang đến nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra những thách thức gay gắt cho các trường

đại học trong quá trình phát triển và khẳng định chất lượng đào tạo, có nắm bắt và khai

thác được những cơ hội đó, hay để nó trôi đi phụ thuộc chủ yếu vào tầm nhìn, chiến

lược, phương thức điều hành của những nhà lãnh đạo, quản lý. Nếu không đổi mới tư

duy, nhận thức, không thay đổi cách lãnh đạo, điều hành, quản lý giáo dục đại học

theo kiểu thời bao cấp thì thách thức ngày càng lớn. Do đó, việc nghiên cứu, tìm giải

pháp phát huy ưu điểm, khắc phục những yếu kém, tăng cường sự lãnh đạo của các đảng

bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội đối với nâng cao chất lượng đào tạo trình

độ đại học đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước thực sự là vấn đề rất cần thiết và cấp bách. Để góp phần giải quyết vấn đề nêu

trên, nghiên cứu sinh đã chọn nghiên cứu đề tài:“Các đảng bộ trường đại học công

lập ở thành phố Hà Nội lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo đại học giai đoạn

hiện nay” để thực hiện Luận án tiến sĩ khoa học Chính trị, chuyên ngành Xây dựng

Đảng và Chính quyền nhà nước.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các đảng bộ trường đại

học công lập ở thành phố Hà Nội lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại

học giai đoạn hiện nay, luận án đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu tăng cường

sự lãnh đạo của các đảng bộ trường đối với nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại

học đến năm 2025.

2.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:

- Tổng quan các công trình khoa học tiêu biểu trong nước và nước ngoài liên

quan trực tiếp đến đề tài luận án.

- Làm rõ những căn cứ lý luận và thực tiễn về các đảng bộ trường đại học công

lập ở thành phố Hà Nội lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học giai

đoạn hiện nay.

- Làm rõ vị trí, vai trò, đặc điểm của các trường đại học công lập, các đảng bộ trường

đại học công lập ở Hà Nội hiện nay. Làm rõ các khái niệm công cụ: chất lượng đào tạo,

nâng cao chất lượng đào tạo, nội dung, phương thức lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo

trình độ đại học của các đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội.

- Khảo sát thực tiễn, đánh giá đúng thực trạng lãnh đạo nâng cao chất lượng đào

tạo trình độ đại học của các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội từ năm

2010 đến nay, chỉ ra được ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm từ

thực tiễn lãnh đạo của các đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội.

- Dự báo những nhân tố thuận lợi, những khó khăn, thách thức, xác định phương

hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo nâng cao chất

lượng đào tạo trình độ đại học đến năm 2025 của các đảng bộ trường đại học công lập

ở thành phố Hà Nội.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng

Đối tượng nghiên cứu của luận án là các đảng bộ trường đại học công lập ở

thành phố Hà Nội lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học giai đoạn hiện

nay.

3.2. Phạm vi

- Thời gian khảo sát: Luận án tập trung nghiên cứu, khảo sát sự lãnh đạo của

các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội đối với nâng cao chất lượng

đào tạo trình độ đại học từ năm 2010 đến nay. Phương hướng và giải pháp được đề

xuất trong luận án có giá trị đến năm 2025.

- Không gian: Giáo dục đại học gồm các trình độ: cao đẳng, đại học, thạc sĩ,

tiến sĩ. Luận án chỉ tập trung nghiên cứu, khảo sát sự lãnh đạo của các đảng bộ trường

đại học công lập ở thành phố Hà Nội đối với nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại

học.

Luận án tiến hành khảo sát sự lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ

đại học của 33 đảng bộ trường đại học công lập trên địa bàn Hà Nội với các số liệu từ

năm 2010 đến nay, không nghiên cứu vấn đề này đối với các trường thuộc khối an

ninh, cảnh sát và quân đội.

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn

- Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng về giáo dục - đào

tạo..

- Cơ sở thực tiễn: Hoạt động đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo trình độ

đại học ở các trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội dưới sự lãnh đạo của các

đảng bộ trường đó. Luận án có sử dụng báo cáo tổng kết, báo cáo thống kê về công tác

đào tạo của các trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, luận án sử dụng tổng

hợp các phương pháp như: phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic, phân

tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu, phương pháp chuyên gia, thống kê,

so sánh, tổng kết thực tiễn...

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

- Khái niệm chất lượng đào tạo trình độ đại học và các yếu tố cấu thành chất

lượng đào tạo trình độ đại học; lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học

của các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội.

- Những kinh nghiệm thực tiễn bước đầu về sự lãnh đạo của các đảng bộ trường

đại học công lập ở thành phố Hà Nội đối với công tác nâng cao chất lượng đào tạo

trình độ đại học từ 2010 đến nay.

- Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học dưới sự

lãnh đạo của các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội đến năm 2025.

6. Ý nghĩa thực tiễn

- Luận án có thể là tài liệu tham khảo cho các đảng bộ trường đại học công lập

ở thành phố Hà Nội trong việc lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học

từ nay đến năm 2025.

- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học,

giảng dạy và học tập môn Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.

7. Kết cấu luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án

gồm 04 chương 9 tiết.

Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Chương 2: Các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố hà nội lãnh đạo

nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học - những vấn đề lý luận và thực tiễn

Chương 3: Các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội lãnh đạo

nâng cao chất lượng đào tạo Đại học - thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm

Chương 4: Phương hướng và giải pháp chủ yếu tăng cường lãnh đạo nâng cao

chất lượng đào tạo trình độ Đại học của các Đảng bộ trường Đại học công lập ở thành

phố Hà Nội đến năm 2025

Chương 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1.1. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài

Giáo dục đại học và chất lượng đào tạo trình độ đại học là vấn đề được nhiều

học giả nước ngoài quan tâm từ khá sớm. Các nghiên cứu về chất lượng giáo dục đi

theo logic từ bản chất của khái niệm chất lượng, chất lượng giáo dục đến chất lượng

giáo dục đại học. Thực tế, các nghiên cứu về chất lượng giáo dục đại học đưa ra những

quan niệm khác nhau về chất lượng với nhiều góc độ tiếp cận.

1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về đào tạo trình độ đại học và chất lượng đào tạo

trình độ đại học

* Sách

- Serbrenia J. Sims, Total Quality Management in Higher Education: Is it

Working? why Or why Not?(Quản lý tổng hợp chất lượng giáo dục đại học: công việc cần

thiết?) [131].

Nội dung cuốn sách nhấn mạnh tầm quan trọng của việc các trường đại học

hiện nay cần xem xét nghiên cứu và thực hiện nghiêm túc về việc nâng cao chất lượng

ở cả hai khâu: đào tạo và quản lý. Bên cạnh đó, tác giả cũng cho rằng nên xem xét để

quản lý chất lượng đào tạo một cách toàn diện chính là một phương pháp quan trọng

để đạt được những mục tiêu của đào tạo. Một chiến lược phát triển toàn diện và khả

năng thích ứng với với môi trường đại học nói chung và các trường đại học cụ thể nói

riêng là cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học.

- John R. Dew, Molly McGowan Nearing, Continuous Quality Improvement in

Higher Education (Tiếp tục cải thiện chất lượng giáo dục đại học) [143].

Nội dung cuốn sách đã khẳng định có một sự khác biệt rất lớn giữa các tổ chức

giáo dục đại học thông thường và những đơn vị đã ứng dụng một loạt các phương pháp

tiếp cận để cải tiến liên tục (CI). Hai tác giả của cuốn sách là Dew và Nearing đã thừa

nhận rằng những định hướng sai lầm có thể tồn tại nhưng bài học từ những sai lầm đó có

thể giúp các nhà quản lý giáo dục đại học trong việc cải cách để nâng cao chất lượng đào

tạo với từng bối cảnh cụ thể tại từng trường đại học khác nhau. Cuốn sách cung cấp những

thông tin cơ bản bằng cách đưa ra các quan điểm lịch sử về các tổ chức tiên phong trong

cải tiến giáo dục đại học (CI). Ngoài ra, nó cũng cung cấp những hiểu biết về cách để có

được thông tin phản hồi liên quan thông qua các cuộc khảo sát và nhóm tập trung. Các tác

giả cũng đã đưa ra cách thức để giải quyết các vấn đề quy hoạch chiến lược từ một góc độ

CI và bao gồm các khái niệm để cải thiện chương trình học.

- Stephen J. Rosow, Thomas Kriger, Transforming Higher Education:

Economy, Democracy, and the University (Cải cách giáo dục đại học: Từ góc độ tài

chính, dân chủ và trường đại học) [132].

Nội dung cuốn sách đã khẳng định: Các trường đại học đang trong quá trình

thay đổi và thậm chí là đang biến đổi. Các bài viết đã tập trung làm sáng tỏ những

chuyển đổi đang diễn ra của giáo dục đại học và các khả năng biến đổi trong điều

kiện hiện tại của nó. Chỉ bằng cách xem các trường đại học như một công trình có

giá trị lịch sử chúng ta có thể đánh giá những nguy cơ và cơ hội trong những điều

kiện mới của giáo dục đại học và xác định một tiến trình hợp lý cho tương lai. Các

bài viết trong cuốn sách này đã đánh giá sự phát triển gần đây tại các trường đại

học nói riêng và giáo dục đại học nói chung.

- Svein Kyvik: The Dynamics of Change in Higher Education, Expansion and

Contraction in an Organisational Field (Những động lực thay đổi trong giáo dục đại

học: Mở rộng hay thu hẹp trong công tác tổ chức) [133].

Tác giả cuốn sách cho rằng: Tại hầu hết các nước Tây Âu, giáo dục đại học

đang ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng và phát triển với một tốc độ nhanh

chóng. Một trong những hướng phát triển là mở thêm các trường đại học bên ngoài,

một phần thông qua việc thành lập các viện nghiên cứu mới và một phần thông qua

việc nâng cấp các trường chuyên nghiệp và dạy nghề thành trường cao đẳng hoặc cao

hơn. Xu hướng chính tại các nước này là hình thành một hệ thống nhị phân với số

lượng sinh viên ngày càng tăng lên cao hơn ở những khu vực đại học chuyên ngành

(college) so với các trường đại học tổng hợp (university). Tuy nhiên, lại chưa có nhiều

công trình nghiên cứu về sự khác biệt cũng như xu hướng phát triển này của giáo dục

đại học. Vì vậy, mục đích của cuốn sách là để nâng cao sự hiểu biết của người đọc về

các quá trình này, thông qua các khái niệm phát triển và quan điểm lý thuyết mà có thể

cung cấp những hiểu biết mới về các hiện tượng phức tạp. Cuốn sách này được dựa

trên một số lượng lớn các nghiên cứu về giáo dục đại học ở Na Uy và các nước Tây

Âu khác.

Tác giả Brubacher, J.S. trong nghiên cứu On the philosophy of higher education (Về

triết lý của giáo dục đại học), San Francisco Jossey-Bass đã khẳng định:

Chất lượng giáo dục đại học được thể hiện ở việc đạt được những trách nhiệm

xã hội mà giáo dục đại học phải gánh vác. Đại học với ý nghĩa là trung tâm tri

thức, trung tâm chuyển giao tri thức thì chất lượng giáo dục đại học chính là

kết quả sáng tạo tri thức, chuyển giao tri thức, xây dựng và phát triển nguồn

nhân lực của quốc gia. Chất lượng giáo dục đại học được hợp thành từ chất

lượng của các trường đại học. Không thể có một nền giáo dục có chất lượng

nếu chất lượng của đa số trường đại học ở mức thấp kém, không hoàn thành

được sứ mệnh mà xã hội giao phó cho nó. [109]

Tác giả Frazer Malcolm trong nghiên cứu “Quality in Higher Education: An

International Perspective” (Chất lượng đại học: nhìn từ quan điểm quốc tế) in Diana

Green, ed., What is quality in higher education?(Điều gì làm nên chất lượng giáo dục

đại học) London: Society for research into higher education (chất lượng giáo dục đại

học: một cách tiếp cận xã hội) [115] đã đưa ra quan niệm về chất lượng giáo dục đại học

ở một góc độ khác. Tác giả quan niệm giáo dục đại học có trách nhiệm đào tạo, phát

triển nguồn nhân lực để tạo ra mặt bằng chất lượng nguồn nhân lực chất lượng ngày

càng cao trong phân công lao động toàn cầu. Chất lượng giáo dục đại học là chất lượng

nguồn nhân lực của quốc gia. Tuy nhiên, điều này cũng không hoàn toàn phản ánh hết

được các khía cạnh của chất lượng giáo dục đại học. Bởi lẽ, chất lượng nguồn nhân lực

quốc gia phụ thuộc vào nhiều nhân tố. Mặt khác, bản thân nguồn nhân lực có trình độ

đại học chỉ là một bộ phận của nguồn nhân lực quốc gia. Vì vậy, việc quan niệm chất

lượng giáo dục đại học là chất lượng nguồn nhân lực quốc gia chưa thực sự là một cách

tiếp cận phù hợp và đầy đủ.

Tác giả Vương Nhất Bình quan niệm chất lượng giáo dục đại học thể hiện ở việc

đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn đặt ra đối với sinh viên tốt nghiệp đại học. Đó là việc

đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn: đạo đức, kiến thức, năng lực, kỹ năng, khả năng, sức

khoẻ, chỉ số IQ, EQ. Các tiêu chuẩn này được thể hiện ở những chỉ báo khác nhau.

Đạo đức được thể hiện qua các tiêu chí: trách nhiệm xã hội, các giá trị văn hoá - đạo

đức như sự khoan dung, trách nhiệm, ý thức công dân...; kiến thức thể hiện ở sự hiểu

biết về cơ sở khoa học chung và chuyên ngành; năng lực thể hiện ở khả năng thu thập

và đánh giá, lựa chọn và xử lý thông tin, năng lực phê phán và biện chứng, năng lực

học tập suốt đời; kỹ năng được thể hiện ở khả năng vận dụng tri thức; khả năng gắn

liền với các chỉ báo về khả năng giao tiếp, khả năng ngôn ngữ, tư duy tích luỹ tri

thức... Tuy nhiên, cách tiếp cận về chất lượng giáo dục đại học này đi sâu vào tiêu chí

đánh giá hơn là phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả về chất lượng giáo dục đại

học.

Ở một góc tiếp cận theo triết lý phát triển, David Andrew Turner trong nghiên

cứu “Quality in higher education” (Chất lượng giáo dục đại học), Sense Publishers

[116] đã khẳng định: chất lượng giáo dục đại học là một khái niệm động và không

ngừng biến đổi qua thời gian. Mục đích của trường đại học truyền thống từ đào tạo

tinh hoa đã chuyển thành đại học đại chúng diện rộng. Tác giả quan niệm chất lượng

giáo dục đại học được biểu hiện ở việc giáo dục đại học đáp ứng được nhu cầu của

sinh viên trong mỗi thời điểm cụ thể và thúc đẩy tương lai của họ phát triển (“high

quality education is education that meets the needs of the student at that particular

moment, and promotes their future development”). Tác giả cũng làm rõ hơn quan

niệm của mình bằng việc chỉ ra việc đáp ứng nhu cầu của người học được lượng hoá

bằng nhu cầu về kiến thức, nhu cầu về kỹ năng nghề nghiệp, nhu cầu về khả năng

thích ứng và nền tảng để phát triển trong tương lai. Có thể nhận thấy, quan niệm về

chất lượng giáo dục đại học của tác giả là khá khái quát. Bản thân việc xác định đáp

ứng nhu cầu của người học là một vấn đề không dễ lượng hoá bởi lẽ nhu cầu của mỗi

người là không đồng nhất khi họ học đại học. Mặt khác, nhu cầu của cá nhân có sự

thay đổi theo theo thời gian, vì vậy, việc đánh giá chất lượng giáo dục đại học qua

việc đo lường mức độ đáp ứng nhu cầu không phải là một thước đo lúc nào cũng hiệu

quả. Tuy nhiên, một điểm đáng lưu ý trong quan niệm của tác giả là cách tiếp cận vấn

đề, chất lượng giáo dục đại học không phải là chất lượng do bản thân cơ sở giáo dục

khẳng định hay tuyên bố mà phải được đánh giá từ chính người học, từ việc họ có đạt

được mục tiêu của mình sau khi dự học và họ có cảm nhận thấy đào tạo trình độ đại học

đã cho họ một tương lai.

Ở một góc độ toàn diện và hệ thống, các tác giả Harvey và Green [116] đã hệ

thống hoá các quan niệm về chất lượng giáo dục đại học. Theo các tác giả, trên thế

giới có sáu quan niệm về chất lượng giáo dục đại học: chất lượng là sự vượt trội; chất

lượng là sự hoàn hảo nhất quán; chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu; chất lượng

được đánh giá bằng chi phí tài chính; chất lượng được phản ánh ở giá trị chuyển đổi,

tạo ra giá trị gia tăng. Giá trị gia tăng là một thước đo về chất lượng về việc trải

nghiệm giáo dục thúc đẩy phát triển kiến thức, năng lực và kỹ năng của sinh viên đến

mức độ nào. Tuy nhiên, bản thân quan niệm chất lượng là sự vượt trội hay sự hoàn

hảo nhất quán mang ý nghĩa lý thuyết hơn là tính ứng dụng vì thiếu hệ thống đo

lường. Việc đánh giá chất lượng giáo dục đại học phù hợp với mục tiêu cần phải làm

rõ mục tiêu của người học, nhà trường, xã hội hay tất cả các chủ thể. Chi phí tài chính

có thể là một thước đo nhưng việc so sánh hiệu quả tài chính với chất lượng giáo dục

đại học không phải là một vấn đề đơn giản. Chất lượng tạo ra giá trị gia tăng nhưng cơ

sở nào để đánh giá giá trị gia tăng đó đem đến những giá trị thực tiễn cho người học,

nhà nước và cộng đồng xã hội cũng là một vấn đề cần tiếp tục được làm rõ.

* Bài báo đăng trên các tạp chí khoa học

- Darryl S.L. Jarvis, Regulating higher education: Quality assurance and neo-

liberal managerialism in higher education - A critical introduction (Quản lý giáo dục

đại học: Bảo đảm chất lượng và lý thuyết quản lý tự do mới trong giáo dục đại học -

Sự gợi mở quan trọng) [112].

Tác giả đã luận giải việc xây dựng hệ thống cơ quan đảm bảo chất lượng (QA)

đã và đang dần trở thành một trong những cách thức hiệu quả để quản lý chất lượng

đào tạo giáo dục đại học trên thế giới. Theo một ước tính, gần một nửa các nước trên

thế giới hiện nay có hệ thống đảm bảo chất lượng hoặc cơ quan quản lý QA cho giáo

dục đại học. Tác giả bài viết cũng tập trung nghiên cứu về sự hình thành và phát triển

hệ thống các cơ quan bảo đảm chất lượng như một cách thức hiệu quả để nâng cao

chất lượng giáo dục và đào tạo trình độ đại học.

- Ulrich Teichler, Higher Education Research (Nghiên cứu Giáo dục Đại học) [128].

Nghiên cứu về đảm bảo chất lượng giáo dục và đào tạo trình độ đại học là một

phần quan trọng trong nghiên cứu hệ thống giáo dục. Tác giả cho rằng: Nâng cao chất

lượng đào tạo trình độ đại học không chỉ là đào tạo về mặt lý luận mà còn là phấn đấu

để đưa lý luận vào thực tiễn với yêu cầu đặt ra là đào tạo những kiến thức mang tính

ứng dụng cao. Vì thế, việc cải cách chương trình và phương thức đào tạo trình độ đại

học đang là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Mối quan tâm này đang ngày

càng phổ biến nhưng mức độ tại mỗi quốc gia là chưa đồng đều.

- Zaneta Simanaviciene, Vilda Giziene, Edmundas Jasinskas, Arturas

Simanavicius, Assessment of Investment in Higher Education: State Approach (Đánh giá

sự đầu tư trong giáo dục đại học: Nhìn từ phía nhà nước) [137].

Tác giả đã đánh giá những hạn chế và lợi ích của việc đầu tư ngân sách nhà

nước vào công cuộc cải cách giáo dục đại học. Việc đầu tư cho cải cách giáo dục đại

học đang phải đối mặt với những vấn đề chính sau đây: thiếu dữ liệu và sự chậm trễ

của dữ liệu. Vì vậy, cần tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của nhà nước bởi vì

một phần đầu tư không nhỏ ngân sách nhà nước được dùng để chi trả cho các

nghiên cứu và thực hiện cải cách giáo dục. Câu hỏi lớn được tác giả đặt ra là “Liệu

những đầu tư ngân sách nhà nước vào cải cách giáo dục đại học có đem lại những

lợi ích như mong muốn?” Đồng thời bài viết cũng đề cập tới vấn đề chảy máu chất

xám bởi những phương thức đào tạo thụ động mà một số trường đại học đang áp

dụng.

* Luận văn, luận án.

- Connie L Copeland, Quality student assessment in higher education (Đánh

giá chất lượng sinh viên đại học) [110].

Bằng việc kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tế, kết quả luận văn

đã đánh giá được thực trạng chất lượng quản lý và đào tạo trình độ đại học tại Đại học

Samford. Với những nội dung nghiên cứu chính là: Đánh giá thực trạng vận hành của

các phòng ban chức năng tại các trường đại học nói chung và tại Đại học Samford

nói riêng; Làm sáng tỏ sự tương đồng và mối liên kết trong các hoạt động đào tạo

giữa các tổ chức, các trường đại học và các đơn vị thuộc tổ chức (các phòng ban

chức năng); Đưa ra một số giải pháp xây dựng chương trình đào tạo giáo dục đại

học tại Đại học Samford theo mô hình đào tạo phát triển tài năng của Alexander

Astin.

1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về lãnh đạo, quản lý đào tạo trình độ đại

học và nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học

* Sách

- Alexander J Michaels, Higher Education Correspondence Study in the Soviet

Union (Nghiên cứu chính sách giáo dục đại học ở Liên Xô) [105].

Nội dung chính của cuốn sách là nghiên cứu, điều tra và mô tả quá trình cải

cách giáo dục đại học của Liên Xô và vai trò lãnh đạo, định hướng của Đảng Cộng sản

Liên Xô trong suốt quá trình cải cách. Tác giả đã khẳng định, cùng với những định

hướng lãnh đạo của Đảng, quá trình cải cách giáo dục đại học ở Liên Xô đã thu được

những thành tựu đáng ghi nhận, đặc biệt trong việc đổi mới cách thức đào tạo và

phương thức giảng dạy.

- The leadership challenge (Thử thách của lãnh đạo) của James M.Kouzes,

Barry Z.Posner [141].

Cuốn sách mô tả về những sáng tạo mà các nhà lãnh đạo đã làm chuyển đổi các

thử thách thành những thành công đáng chú ý. Nội dung cuốn sách gồm 7 phần: các

nhà lãnh đạo làm gì và các cử tri mong đợi những gì; phương pháp hiện đại; truyền

cảm hứng cho một tầm nhìn chia sẻ; tiến trình của thách thức; cho phép những người

khác hành động; khuyến khích sự nhiệt tình; tổ chức kỷ niệm các giá trị và chiến

thắng; mọi người đều là nhà lãnh đạo.

Đây là cuốn sách trình bày cách thức để các nhà lãnh đạo động viên những người

khác muốn làm nên những điều phi thường trong các tổ chức. Cuốn sách trình bày về kỹ

năng mà các nhà lãnh đạo thường chuyển đổi các giá trị thành các hành động, tầm nhìn

thành hiện thực, những trở ngại thành sự đổi mới, sự chia rẽ thành đoàn kết, rủi ro thành

thành tựu. Cuốn sách này có giá trị tham khảo trong quá trình tìm kiếm những giải pháp

nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.

- Transforming public leadership for the 21st century - Transformational

trends in governance and democracy (Sự biến đổi của lãnh đạo công ở thế kỷ 21- Sự

biến đổi của các xu hướng quản trị và nền dân chủ) của Ricardo S.Morse, Terry

F.Buss, C.Morgan Kinghorn [130].

Cuốn sách này là tập hợp rất nhiều bài nghiên cứu chung quanh chủ đề sự chuyển

đổi của lãnh đạo công trong thế kỷ 21. Cuốn sách gồm 4 phần, được chia thành các vấn

đề: chính trị, hành chính và lãnh đạo công; lãnh đạo khung; lãnh đạo và sự hợp tác; lãnh

đạo sự thay đổi trong các bối cảnh khác nhau. Các tác giả của cuốn sách cho rằng trong

thế kỷ 21, bên cạnh những thuận lợi, các quốc gia phải đối mặt với nhiều thách thức như

dân số già, lực lượng lao động tăng chậm, chủ nghĩa khủng bố và các mối đe dọa khác về

an ninh; các vấn đề toàn cầu, bệnh dịch… Do đó, các nhà lãnh đạo công nên tuân theo 6

nguyên tắc: xây dựng kế hoạch tập trung vào các kết quả; thúc đẩy và truyền cảm hứng

hành động; lựa chọn giải pháp trên cơ sở phân tích thực tế kỹ lưỡng; tư duy đổi mới và

tích cực thu thập thông tin; có đối tác trong suốt tiến trình lãnh đạo; thực hiện trách nhiệm

của một người quản lý, luôn tìm kiếm các kết quả tích cực nhưng không đặt tổ chức, quốc

gia của mình vào các nguy cơ trong tương lai xa. Cuốn sách chứa đựng những tri thức bổ

ích về lãnh đạo công trong thế kỷ 21 với đầy những biến động và thách thức. Vấn đề là

cần nhận diện những thử thách trong thời gian tới và có phương pháp đúng, có nguyên tắc

chuẩn mực để vượt qua.

- Bin Wu, John Morgan, Chinese Higher Education Reform and Social Justice (Cải

cách giáo dục đại học Trung Quốc đối với công bằng xã hội) [106].

Tác giả cuốn sách đã trình bày tổng quan về thực trạng của giáo dục đại học ở

Trung Quốc trong bối cảnh vận động của kinh tế và xã hội. Đồng thời, tác giả cũng

nhấn mạnh thực trạng mất cân đối trong phát triển giáo dục tại các trường đại học ở

Trung Quốc. Qua đó, khẳng định vai trò của Đảng Cộng sản cũng như Chính quyền

Trung Quốc trong việc giải quyết tình trạng bất bình đẳng nhằm nâng cao chất lượng

đào tạo trình độ đại học. Nhiều câu hỏi đã được đặt ra như: Những hạn chế của những

cải cách mới trong chính sách giáo dục đại học và giải pháp cho những vấn đề này?

Cách thức để chính phủ Trung Quốc có thể giải quyết thực trạng mất cân đối trong

phát triển giáo dục tại các trường đại học. Những bài học kinh nghiệm từ các quốc gia

khác trên thế giới.

* Bài báo đăng trên các tạp chí khoa học

- Dan Wang; Dian Liu; Chun Lai, Expansion of higher education and the

employment crisis: policy innovations in China (Mở rộng quy mô giáo dục đại học và

khủng hoảng việc làm: đổi mới chính sách ở Trung Quốc) [111].

Mục đích chính của tác giả bài viết là xem xét các sáng kiến về chính sách cải

cách chương trình đào tạo trình độ đại học ở Trung Quốc để giải quyết cuộc khủng hoảng

thất nghiệp sau đại học - hệ quả của sự mở rộng đào tạo không mang tính ứng dụng trong

giáo dục đại học trong thập kỷ qua. Tác giả cũng tập trung làm nổi bật các biện pháp quan

trọng mà chính phủ Trung Quốc đã ban hành và thực thi để giảm bớt các vấn đề về giáo

dục và nâng cao triển vọng việc làm cho sinh viên tốt nghiệp đại học. Thông qua đó,

khẳng định vai trò quan trọng của đảng và chính quyền trong việc cải cách nhằm nâng cao

hiệu quả đào tạo trình độ đại học ở Trung Quốc.

- Qiang Zha, The Chinese Model of Development and the Higher Education

Policy (Mô hình và chính sách phát triển giáo dục đại học của Trung Quốc) [122].

Tác giả đã khẳng định: Chính phủ Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều vào các

chương trình đào tạo trình độ đại học để nâng cấp một số trường đại học theo hướng

trở thành một trong những trường đại học hàng đầu của thế giới. Động thái này đã gây

ra một cuộc cạnh tranh trên toàn thế giới trong nỗ lực để tạo ra các trường đại học

đẳng cấp thế giới. Qua đó phản ánh vai trò trong việc định hướng chính sách của Đảng

và chính quyền Trung Quốc trong việc lãnh đạo công tác đào tạo trình độ đại học và

nâng cao chất lượng giáo dục đại học.

* Luận văn, luận án.

- Wen - Hsing Yeh, The alienated academy higher education in Republican

China (Học viện giáo dục đại học xa lạ ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) [139].

Luận án này nghiên cứu các vấn đề của sự tha hóa về văn hóa và chính trị của trí thức Trung Quốc hiện đại, với tham chiếu đặc biệt đến mối quan hệ giữa nhà trường và xã hội từ năm 1919 đến năm 1937. Thông qua đó khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục đại học đến sự phát triển văn hóa, chính trị, kinh tế - xã hội ở trung Quốc trong giai đoạn đổi mới. Luận văn cũng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc cải cách giáo dục. Cải cách cần xuất phát ngay từ chính hình thức thi đầu vào, cho đến phương thức giáo dục và đào tạo.

- Pham Xuan Thanh, The quality of postgraduate training in Vietnam: Definitions, criteria and measurement scales (Chất lượng đào tạo sau đại học ở Việt Nam: Quan niệm, tiêu chí và thước đo) [134].

Đây là đề tài nghiên cứu về thực trạng và phương hướng phát triển đào tạo trình độ đại học và sau đại học tại Việt Nam. Tác giả cũng đã nhận định: chất lượng và chương trình đào tạo đã trở thành vấn đề tranh cãi qua nhiều thời kì và cho đến thời điểm này vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau của các nhà khoa học. Tác giả phân tích sự cần thiết, thiết thực của việc nghiên cứu chất lượng đào tạo sau đại học. Trong đó phân

tích rõ ràng bối cảnh giáo dục đào tạo trước và sau năm 1954, thực trạng và chất lượng đầu ra sau đào tạo, các vấn đề nổi cộm còn tồn tại trong nền giáo dục nước nhà, tình trạng quá tải đầu ra sau đào tạo. Từ đó đặt ra những ưu tiên trong việc đào tạo, những mô hình đào tạo tiên tiến, phương pháp phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo, mục tiêu nghiên cứu và đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học và sau đại học.

- Linda M Wysong, Leadership behaviors and effectiveness in quality improvements at selected institutions of higher education (tạm dịch: Hoạt động lãnh đạo và hiệu quả trong cải tiến chất lượng tại các cơ sở giáo dục đại học được lựa chọn) [120].

Bằng việc kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tế, nội dung của luận văn tập trung làm rõ hai vấn đề chính:

Một là, nghiên cứu về mức độ ảnh hưởng của nhà lãnh đạo đến hiệu quả tổ chức và chất lượng đào tạo trong giáo dục đại học.

Hai là, đề xuất cách thức phát triển một công cụ khảo sát để đánh giá một cách chính xác hiệu quả tổ chức do áp dụng các quy trình cải tiến chất lượng đào tạo trình độ đại học.

- Hien Tran, The Transformation of Higher Education in Vietnam After Doimoi:

A Story of "Dualism", (Sự chuyển đổi của giáo dục đại học ở Việt Nam từ khi đổi mới:

Câu chuyện về "thuyết nhị nguyên ứng dụng” [117].

Nghiên cứu này được thực hiện để khảo sát những thay đổi trong quá trình cải cách giáo dục đại học ở Việt Nam kể từ khi Đổi mới. Nghiên cứu đã đưa ra hai tầm nhìn phát triển của giáo dục đại học ở Việt Nam: (1) "hướng thị trường" và "định hướng XHCN"; (2) tìm tiếng nói chung về việc định hình một "thuyết nhị nguyên ứng dụng" trong việc hiện đại hóa giáo dục đại học. Các chính sách nhị nguyên có nguồn gốc xuất phát từ một cuộc tranh luận mang tính xây dựng giữa cải cách và truyền thống trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam và ảnh hưởng của quốc tế thông qua một chương trình tái cấu trúc trong giáo dục đại học. Ba khía cạnh chính mà “chính sách nhị nguyên” nhấn mạnh là: đa dạng hoá các hình thức tổ chức, quyền tự chủ và hợp tác quốc tế. Nghiên cứu này bao gồm cả nghiên cứu định tính và định lượng. Thu thập dữ liệu và khảo sát số liệu đã được tiến hành tại các trường

đại học ở thành phố New York và London, và trong kho lưu trữ của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam.

- Jens Jungblut, Party Politics in Higher Education Policy – Partisan

Preferences (chính sách của đảng chính trị trong giáo dục đại học – sự lựa chọn của

mỗi đảng) [142].

Luận văn tập trung nghiên cứu đến vai trò của các đảng chính trị trong việc

định hướng chính sách nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đại học. Tác giả đã tiến hành

khảo sát và phân tích chính sách đào tạo giáo dục đại học tại bốn quốc gia với những

khác biệt về đảng phái, ở trong các khu vực và liên minh khác nhau là Anh, Hà Lan,

Na Uy và Đức.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước

1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về đào tạo trình độ đại học và chất lượng

đào tạo trình độ đại học

* Đề tài khoa học

- Hồ Vũ Khuê Ngọc, So sánh quá trình toàn cầu hóa giáo dục Đại học Việt

Nam với các nước trong khu vực - Một số vấn đề cần suy ngẫm” [73]. Bài viết này tác

giả đã chỉ ra tác động của quá trình toàn cầu hóa, các vấn đề tồn đọng của hệ thống

giáo dục đại học đã trở nên nhức nhối và gây tranh luận hơn bao giờ hết trong xã hội

Việt Nam hiện nay. Toàn cầu hóa giáo dục đại học ở Việt Nam vừa là một cơ hội vàng,

đồng thời cũng là một thách thức to lớn trên con đường phát triển của đất nước. Nếu hệ

thống giáo dục đại học Việt Nam thực hiện thành công quá trình toàn cầu hóa này thì

tương lai về một nước Việt Nam phát triển có thể hình dung được. Ngược lại, nếu quá

trình toàn cầu hóa giáo dục đại học thất bại thì Việt Nam khó có thể đuổi kịp các quốc gia

trong khu vực và trên thế giới trong nhiều lĩnh vực.

- Nguyễn Đức Chính, Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học [16].

Đây công trình nghiên cứu cấp Nhà nước đã được hội đồng khoa học nhà nước

chính thức nghiệm thu với mức đánh giá xuất sắc vào năm 2002. Kết quả của đề

tài là tài liệu cung cấp cơ sở lí luận khoa học về đánh giá và kiểm định chất lượng

giáo dục đại học, những kinh nghiệm hay trong lĩnh vực này của nhiều nước trên

thế giới và các nước trong khu vực. Đề tài đã giới thiệu bộ tiêu chí đánh giá chất

lượng và điều kiện đảm bảo chất lượng dùng cho các trường đại học Việt Nam.

Bộ tiêu chí này đã chính thức được Hội đồng khoa học Nhà nước thông qua và đề

nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo sử dụng làm công cụ đánh giá chất lượng đào tạo

trong các trường đại học Việt Nam.

- TS Lê Thị Thu Thủy, Nghiên cứu đề xuất nội dung hoàn thiện các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường đại học Việt Nam. [87].

Đề tài đã hệ thống hóa được những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm định chất

lượng trường đại học và tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường đại học. Từ việc khảo

sát và đánh giá được thực trạng áp dụng bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường đại

học Việt Nam trong những năm vừa qua, các tác giả đã chỉ rõ những điểm chưa phù

hợp của bộ tiêu chuẩn và nguyên nhân của nó. Đề tài đã làm rõ được sự cần thiết phải

hoàn thiện các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường đại học Việt Nam, đưa ra được

định hướng để hoàn thiện. Đề tài đã đề xuất những nội dung hoàn thiện các tiêu chuẩn

đánh giá chất lượng trường đại học Việt Nam theo hướng phù hợp với sự phát triển

của hệ thống giáo dục Việt Nam, tạo thuận lợi và nâng cao chất lượng kiểm định các

trường, phù hợp với xu thế phát triển của giáo dục đại học trên thế giới, đáp ứng được

yêu cầu của hội nhập trong lĩnh vực giáo dục của Việt Nam, đồng thời đưa ra các giải

pháp để triển khai hiệu quả việc đánh giá chất lượng các trường đại học.

* Sách

- Đoàn Duy Lục, Cù Đức Hoà, Nguyễn Đức Chỉnh, Giáo dục đại học Việt Nam

[66]. Cuốn sách giới thiệu và cung cấp các dấu mốc cơ bản về lịch sử giáo dục đại học

nước ta đến thập niên đầu thế kỉ XXI từ đó cho thấy những bước phát triển của giáo

dục đại học nước nhà đang ngày càng khẳng định vị trí, vai trò cung cấp nguồn lao

động có tay nghề và trình độ cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Cuốn sách cũng đã

mô tả hệ thống và cấu trúc giáo dục đại học ở Việt Nam qua các thời kỳ với đầy đủ

chức năng, bộ phận của các cấp quản lý . Trong cuốn sách tác giả đã tóm tắt chiến

lược phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam bao gồm chính sách phát triển; mục tiêu,

nhiệm vụ, đội ngũ giảng viên; quy mô, ngành nghề thời gian đào tạo... của từng trường

đại học, cao đẳng của Việt Nam. Tuy nhiên do phạm vi nghiên cứu quá rộng nên việc

bàn về phát triển giáo dục đại học ở một địa bàn cụ thể như Hà Nội mới chỉ dừng lại ở

mức độ điểm qua.

- Trần Thị Bích Liễu, Nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Mĩ: Những giải

pháp mang tính hệ thống và định hướng thị trường [62].

Cuốn sách được chia làm hai phần: Phần 1 Các giải pháp nâng cao chất

lượng giáo dục đại học ở Mĩ. Đây là những quan điểm khác nhau của các nhà giáo

dục Mĩ về chất lượng GDĐH. Qua đó tác giả tổng kết các ý kiến để đưa ra quan

điểm chung mang tính tổng hợp đối với khái niệm chất lượng GDĐH, các đơn vị

đo chất lượng giáo dục và phân loại chất lượng giáo dục theo các mức độ. Cuốn

sách cũng đã khái quát một số đặc điểm của hệ thống GDĐH ở Mĩ với các đặc

trưng của nó như tính đa dạng và tính tư nhân hóa cao. Phần 2: Chất lượng giáo

dục đại học Việt Nam. Những bài học giáo dục đại học của Mĩ từ đó rút ra giải

pháp và mục tiêu để nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam.

- Nguyễn Phương Nga, Nguyễn Quý Thanh, Giáo dục đại học: Một số thành tố

của chất lượng [71]. Đây là nghiên cứu tập hợp gồm 6 phần được sắp xếp theo lôgic

của quá trình đào tạo từ những yếu tố đầu vào cho đến những yếu tố đảm bảo chất

lượng bên trong các trường đại học nhằm để đo lường, đánh giá phương pháp giảng

dạy và học tập tích cực trong môi trường đại học: Phần I: Đào tạo và phát triển nguồn

nhân lực chất lượng cao thông qua giáo dục đại học. Phần II: Cải tiến thi tuyển sinh

đại học sau 4 năm nhìn lại, Phần III: Kết quả nghiên cứu chỉ số thông minh IQ của

sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội. Phần IV: Sinh viên đánh giá giáo viên - thử

nghiệm công cụ và mô hình. Phần V: Internet và hoạt động học tập của sinh viên.

Phần VI: Quan hệ giữa học vị khoa học của giáo viên và kết quả học tập của sinh viên

- Nguyễn Hữu Châu, Chất lượng giáo dục - những vấn đề lí luận và thực tiễn [15].

Cuốn sách cung cấp những quan niệm cơ bản về chất lượng giáo dục và đánh

giá chất lượng giáo dục ở bậc phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại

học.Trên cơ sở đó đề xuất hệ thống các tiêu chí và chỉ số cơ bản trong đánh giá chất

lượng giáo dục. Bên cạnh đó cuốn sách còn đề cập đến một số vấn đề thực tiễn đang

diễn ra ở các bậc giáo dục để thấy được những bất cập còn tồn tại, từ đó có những giải

pháp để nâng cao chất lượng ở từng bậc giáo dục sao cho phù hợp. Sách hơn 600 trang

bố cục chặt chẽ, chia làm 4 phần (Phần chung: Chất lượng giáo dục phổ thông; Chất

lượng giáo dục nghề nghiệp; Chất lượng giáo dục đại học).

- Hoàng Anh, Phan Ngọc Liên, Dương Xuân Ngọc, Tư tưởng Hồ Chí Minh về

giáo dục và vận dụng vào đào tạo trình độ đại học hiện nay [2].

Cuốn sách trình bày nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ

Chí Minh về giáo dục theo từng thời kỳ gắn với cuộc đời hoạt động cách mạng của

Người cũng như của đất nước. Đồng thời cuốn sách phân tích nội dung tư tưởng Hồ

chí Minh về giáo dục vào việc nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học hiện nay.

Từ việc phân tích một số vấn đề trong công tác đào tạo trình độ đại học hiện nay như

chất lượng sinh viên, đội ngũ giảng viên, nội dung, chương trình đào tạo, phương pháp

giảng dạy, việc đề xuất những giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục

và nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học hiện nay.

- Nguyễn Tiến Đạt, So sánh giáo dục Việt Nam với các nước trên thế

giới [30].

Cuốn sách tiếp cận ở một khía cạnh mới trong lĩnh vực giáo dục đặc biệt ở góc

độ so sánh để bạn đọc có góc nhìn toàn diện hơn về hệ thống giáo dục của các quốc

gia có mối quan hệ hợp tác mật thiết với Việt Nam. Cuốn sách tập trung giới thiệu vào

các chỉ số, tỷ lệ và số liệu giáo dục, đây là một công trình thuộc lĩnh vực giáo dục so

sánh có giá trị khoa học xã hội cao, góp phần xây dựng nền giáo dục của Việt Nam.

* Bài báo đăng trên các tạp chí khoa học

- Phan Thanh Long, Bài học kinh nghiệm trong đánh giá chất lượng giáo dục đại

học của Hoa Kỳ [63].

Tác giả trình bày những kinh nghiệm kiểm tra đánh giá chất lượng giáo dục đại

học Hoa Kỳ: bản chất của kiểm định đánh giá chất lượng (là quá trình quyết định giá

trị của một hoạt động, một chương trình, một người hay một sản phẩm) mục đích của

việc kiểm định đánh giá (cung cấp thông tin về sự biến đổi và tiến bộ của sinh viên,

tạo nên trách nhiệm giải trình đối với các cơ quan bên ngoài, đánh giá chương trình,

phân tích tính hiệu quả trong chi tiêu và đặt ra các mục tiêu giáo dục) nội dung kiểm

định đánh giá (thu thập đánh giá của giáo viên và sinh viên về tất cả các chương trình

đại học; thăm dò ý kiến của sinh viên mới vào trường về hoàn cảnh xuất thân, sở thích,

mong muốn và thái độ của họ...) tác dụng của việc kiểm định đánh giá.

- Lê Văn Hảo, Những xu thế chung của giáo dục đại học và các mô hình phát

triển tài chính đại học [53]. Tác giả đã khái quát 10 xu hướng chung của giáo dục đại

học trên thế giới: nhu cầu học tập ở đại học không ngừng gia tăng, hệ thống trường

học phát triển, đối tượng người học đa dạng, nguồn tài chính đại học phong phú, tính

tự chủ và tự chịu trách nhiệm xã hội được tăng cường, mức độ tư nhân hóa giáo dục

đại học ngày càng tăng, mức độ đóng góp của người học ngày càng lớn, quy mô của

nhà nước cho trường đại học gắn với chất lượng, chi phí đào tạo trình độ đại học được

chú ý, xếp hạng đại học được quan tâm. Về mô hình phát triển tài chính đại học, có 4

mô hình: giáo dục đại học công lập miễn phí hoặc học phí thấp, chi phí đại học được

hoàn trả sau khi sinh viên tốt nghiệp, gia tăng học phí kết hợp với mở rộng các chính

sách hỗ trợ, mở rộng hệ thống đại học tư. Xu thế giáo dục Việt Nam cũng không nằm

ngoài quy luật và sự vận động chung, vấn đề là nên chọn ưu tiên phát triển theo mô

hình nào tương ứng với từng giai đoạn phát triển, chú ý sự phát triển bền vững và đạt

hiệu quả cao.

- Đỗ Đình Thái, Năng lực chất lượng- yếu tố hình thành văn hóa chất lượng

trong trường đại học [83].

Trong lĩnh vực giáo dục- đào tạo, chất lượng luôn là “vấn đề thời sự”. Một trong

những yếu tố quan trọng hỗ trợ định hình các giá trị chất lượng trong quá trình hình

thành văn hóa chất lượng trong trường đại học, với mục tiêu nâng cao và cải tiến chất

lượng liên tục là năng lực chất lượng của cá nhân và tập thể. Giá trị chất lượng là tài

sản quý báu và vô giá của mọi thành viên trong một trường đại học và được tích hợp

vào văn hóa tổ chức vốn đã tồn tại nhằm hình thành văn hóa chất lượng, đẩy mạnh các

hoạt động trong nhà trường.

- Phạm Công Nhất, Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế [74].

Tác giả nêu lên một số bất cập trong giáo dục đại học ở Việt Nam tác động tiêu cực

đến sự phát triển kinh tế xã hội: chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo chưa đáp ứng

được yêu cầu của thực tế; hạn chế về khả năng nghiên cứu và công bố các kết quả

nghiên cứu; làm suy giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đất nước trong điều

kiện hội nhập quốc tế. Tác giả đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại

học, tập trung chủ yếu vào các hướng: cần xây dựng triết lý giáo dục chung cho nền

giáo dục nước nhà; đổi mới tư duy giáo dục cần gắn với xây dựng xã hội học tập, bảo

đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình và

phương pháp dạy học theo hướng hội nhập quốc tế; đổi mới vai trò của các cơ quan

quản lý nhà nước trong tổ chức giáo dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế.

* Luận án Tiến sĩ:

- Nguyễn Bá Cần, Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam

hiện nay [14].

Luận án đã làm rõ những vấn đề cơ bản về chính sách phát triển giáo dục đại

học trong nền kinh tế thị trường. Tác giả cho rằng, sản phẩm giáo dục đại học là loại

sản phẩm dịch vụ, nhưng nó không thích hợp với việc mua - bán hàng hóa. Khi so

sánh với các loại dịch vụ khác thì sản phẩm dịch vụ giáo dục đại học có tính đặc thù -

đó là những người công dân có ích cho chính mình, có trách nhiệm với gia đình, xã hội và

quốc gia. Thông qua việc đánh giá thực trạng chính sách phát triển giáo dục đại học

những năm đổi mới vừa qua. Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách

phát triển giáo dục đại học ở nước ta những năm tới. Theo tác giả, chính sách phát triển

giáo dục đại học cần hướng mạnh đến chính sách quản lý chất lượng, bảo đảm hiệu quả

kinh tế, hiệu quả xã hội của đào tạo trình độ đại học, tạo ra những khuôn khổ, thiết chế để

thúc đẩy sự phát triển chất lượng giáo dục đại học.

- Nguyễn Văn Sơn, Cơ cấu và chất lượng tri thức giáo dục đại học ở nước ta

hiện nay [77].

Tác giả đã phân tích một số khái niệm như trí thức, trí thức giáo dục đại học, vài

nét về quá trình hình thành và phát triển, đặc điểm, vai trò đội ngũ trí thức giáo dục

đại học Việt Nam. Từ thực trạng cơ cấu và chất lượng trí thức giáo dục đại học tác

giả đưa ra những giải pháp chủ yếu để xây dựng trí thức giáo dục đại học đó là: Đổi

mới nội dung, phương pháp đào tạo ở đại học và sau đại học; Đổi mới công tác

tuyển chọn trí thức giáo dục đại học; Đổi mới cơ chế quản lý trí thức giáo dục đại

học; Tạo hệ thống động lực để nâng cao chất lượng trí thức giáo dục đại học; Tạo

môi trường thuận lợi cho trí thức giáo dục đại học phát triển và phát huy tiềm năng,

trí tuệ.

- Nguyễn Thị Thanh Hà, Đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong

đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa [47] .

Tác giả đã tổng quan và đánh giá được tương đối đầy đủ và toàn diện các công

trình nghiên cứu liên quan đến đề tài được công bố trong thời gian qua. Tác giả đã làm

rõ những vấn đề lý luận về tri thức giáo dục đại học (trong đó tập trung luận giải về vai

trò của giảng viên đại học), các khái niệm công cụ như tri thức, tri thức giáo dục đại

học, nguồn nhân lực chất lượng cao và vai trò của đội ngũ tri thức giáo dục đại học

trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa. Tác giả cũng đã đánh giá đến các yếu tố tác động đến đội ngũ trí thức giáo dục

đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Từ thực trạng đội ngũ

tri thức giáo dục đại học, tác giả đã chỉ ra một số vấn đề đặt ra đối với đội ngũ tri thức

giáo dục đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay. Tác

giả đã xác định và phân tích khá rõ ba quan điểm cơ bản mang tính định hướng, chỉ

đạo việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong đào tạo nguồn

nhân lực chất lượng cao. Từ những định hướng đó, luận án đã đề xuất 6 nhóm giải

pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa. Các giải pháp khá hệ thống đi từ vấn đề nhận thức công tác đào tạo, bồi

dưỡng, sử dụng trí thức giáo dục đại học; đổi mới nội dung, chương trình giáo dục đại

học; đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả của người học; bản thân đội ngũ

trí thức giáo dục đại học cần nỗ lực vươn lên. Các nhóm giải pháp này được luận giải

tương đối rành mạch và cụ thể.

1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng về công tác đào

tạo trình độ đại học và nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học

* Sách

- Nguyễn Duy Bắc, Quan điểm về phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực

chất lượng cao qua văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI [3]. Tác giả đề xuất cần tổ chức lại bộ

máy quản lý nhà nước về giáo dục- đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của đất nước, theo

hướng có một cơ quan (Bộ Giáo dục) thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về giáo dục

(bao gồm giáo dục mầm non và phổ thông) và một cơ quan (Bộ Đào tạo và Phát triển nhân

lực) thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và

phát triển nguồn nhân lực quốc gia.

- Tạ Ngọc Tấn, Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân tài - một số kinh

nghiệm của thế giới [81].

Cuốn sách là một công trình nghiên cứu rất công phu về phát triển giáo dục và

đào tạo ở một số nước trên thế giới; xu hướng nổi bật của nền giáo dục đại học thế kỷ

XXI; khả năng cạnh tranh, quản lý giáo dục đại học và bàn về văn hóa dạy học... Vấn

đề phát triển giáo dục và đào tạo ở một số nước trên thế giới như: chiến lược phát triển

giáo dục ở Nga thế kỷ XXI, đại học Đức, cải cách chương trình giảng dạy ở Nga,

Trung Quốc, Anh; chính sách giáo dục của Thụy Điển, Na uy, Phần Lan..; hệ thống

giáo dục Hoa Kỳ, thế kỷ đại học Châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore...). Cuốn

sách còn cung cấp danh mục 217 công trình nghiên cứu về giáo dục và đào tạo của

nhiều nước trên thế giới nhằm phục vụ lãnh đạo và bạn đọc nghiên cứu về giáo dục và

những chủ trương, chính sách và bài học kinh nghiệm của thế giới để vận dụng vào

điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

* Bài báo đăng trên các tạp chí khoa học

- Trần Khánh Đức trong nghiên cứu Kinh nghiệm và những xu hướng quốc tế về

chất lượng, quản lí cải thiện chất lượng giáo dục đại học tại một số nước Châu Á [34]

đã phân tích kinh nghiệm quản lý chất lượng của các trường đại học ở Thái Lan, Hàn

Quốc. Những kinh nghiệm về xây dựng khung đánh giá, chuẩn mực chất lượng, định

hướng mục tiêu và trách nhiệm của nhà nước có thể là những cơ sở quan trọng để

đánh giá về thực tiễn quản lý chất lượng của bản thân mỗi cơ sở giáo dục và của nhà

nước.

- Lê Xuân Nam, Vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các trường đại học, cao

đẳng ngoài công lập trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay [68].

Bài viết phân tích về vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các trường đại học,

cao đẳng ngoài công lập trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt vai trò của tổ

chức đảng trong việc tham gia nâng cao chất lượng công tác chuyên môn còn tồn

đọng nhiều yếu kém.

- Nguyễn Thanh Sơn, Thực trạng về công tác lãnh đạo của Ðảng và quản lí nhà

nước đối với các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập thuộc Ðảng ủy khối các

trường đại học, cao đẳng Hà Nội [76].

Bài báo đưa ra những kết quả của trường ngoài công lập đã đạt được, vấn đề quản

lí của các trường ngoài công lập và công tác xây dựng Đảng trong các trường đại học, cao

đẳng ngoài công lập thuộc Đảng bộ khối các trường trên địa bàn Hà Nội

* Luận án Tiến sĩ

- Nguyễn Đức Cường, Hoàn thiện pháp luật về quản lý các trường đại học, cao

đẳng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học Việt Nam hiện nay [24]. Tác giả đã

phân tích, chỉ ra những hạn chế trong pháp luật về quản lý nhà nước đối với các trường

đại học và đề xuất các giải pháp xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp

luật khuyến khích vận dụng quy luật thị trường trong quản lý và quản trị giáo dục đại học,

thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện mô hình “giả thị trường” giáo

dục đại học; xây dựng khung thể chế nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và chuyển

từ nhà nước quản lý sang nhà nước giám sát giáo dục đại học; đổi mới công tác tổ chức

thiết kế và thực thi chính sách phát triển giáo dục đại học; mở rộng hợp tác và hội nhập

quốc tế của giáo dục đại học.

- Lê Thị Kim Dung, Hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học ở Việt Nam hiện

nay [25] đã chỉ ra rằng do những yếu tố chủ quan, trình độ quản lý nhà nước và giáo

dục chưa theo kịp với thực tiễn và nhu cầu phát triển. Nền kinh tế đã chuyển từ kế

hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng ngành

giáo dục vẫn chưa thoát khỏi quan niệm và cách làm của cơ chế kế hoạch hoá tập

trung bao cấp, chậm đề ra các định hướng chiến lược và chính sách vĩ mô đúng đắn để

xử lý mối tương quan giữa quy mô, chất lượng, hiệu quả giáo dục. Nhiều vấn đề lý

luận phát triển giáo dục trong giai đoạn mới chưa được nghiên cứu đầy đủ để làm căn

cứ cho các chủ trương, chưa phối hợp tốt và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nhà

nước và của xã hội, chậm đổi mới cả về tư duy và phương thức quản lý. Các văn bản

quy phạm pháp luật về giáo dục chưa được ban hành kịp thời. Công tác pháp chế

ngành chưa được quan tâm đúng mức, đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế chưa đủ

mạnh, thiếu kinh nghiệm thực tế. Vấn đề tuyên truyền, phổ biến kiểm tra việc thực

hiện pháp luật về giáo dục vẫn chưa được coi trọng và quan tâm của các ngành, các

cấp. Các văn bản quy phạm pháp luật ban hành, nhưng chưa được phổ biến, tuyên

truyền rộng rãi đến toàn thể nhân dân, các cơ quan đoàn thể là các đối tượng thi hành

để họ biết, hiểu và thực hiện đúng các quy định. Bên cạnh đó, trong một bộ phận cán

bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu

chưa được nhận thức đầy đủ và chưa phát huy tác dụng chỉ đạo trong hành động. Ở

không ít địa phương, mối quan hệ liên kết, phối hợp giữa các ngành, các cấp, các lực

lượng xã hội với ngành giáo dục chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ; việc kết hợp giáo dục

nhà trường với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội tuy đã được quan tâm nhưng thiếu

những biện pháp cụ thể. Giáo dục vẫn được xem như là công việc riêng của ngành

giáo dục, chưa tạo được sự liên kết, phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp, các lực

lượng xã hội. Tác giả đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học với

trọng tâm hướng đến xây dựng Luật giáo dục đại học.

- Nguyễn Thị Thu Hà, Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học

[46] đã chỉ ra cơ sở lý luận về hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học. Theo tác

giả, hiệu lực quản lý nhà nước là mức độ thực hiện đúng chức năng, quyền lực của cơ

quan quản lý nhà nước về giáo dục đại học khi ban hành các quyết định đúng thẩm

quyền, phù hợp với quy luật khách quan, tác động tích cực đến hoạt động giáo dục đại

học, được cấp dưới, các cơ sở giáo dục đại học và nhân dân thực hiện nghiêm túc

nhằm đạt mục tiêu đã định. Những bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại

học là về thể chế chính trị và pháp luật, về tổ chức và vận hành bộ máy, về nguồn lực

thực hiện. Luận án đã đưa ra một số tiêu chí đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước về

giáo dục đại học bao gồm: năng lực xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp

luật về giáo dục đại học, có chiến lược hội nhập quốc tế, xây dựng một số cơ sở giáo

dục đại học xuất sắc và một số ngành mũi nhọn được thừa nhận trong khu vực và quốc

tế, có cơ chế tài chính nhằm đa dạng hoá nguồn lực cho giáo dục đại học, bộ máy

quản lý giáo dục đại học phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, đối tượng quản lý, có khả

năng tổ chức thực hiện tốt các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục đại học và

thực hiện tốt giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về giáo dục đại học. Luận án

cũng trình bày thực trạng quản lý nhà nước về giáo dục đại học về xây dựng văn bản

quy phạm pháp luật, về tổ chức bộ máy, về tổ chức thực hiện văn bản pháp luật, về

thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật. Trên cơ sở thực trạng này, tác giả đã đưa

ra quan điểm, mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục

đại học. Các giải pháp được đề cập đến bao gồm: đổi mới tư duy quản lý nhà nước về

giáo dục đại học, kiện toàn bộ máy quản lý, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chính

sách nhằm hướng đến thúc đẩy sự phát triển của giáo dục đại học.

1.2. NHỮNG GIÁ TRỊ KHOA HỌC CỦA CÁC CÔNG TRÌNH TỔNG QUAN

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN LÀM RÕ

1.2.1. Những giá trị khoa học của các công trình tổng quan

Những vấn đề liên quan đến giáo dục, giáo dục đại học, nâng cao chất lượng

giáo dục đại học, Đảng lãnh đạo giáo dục nói chung được các nhà khoa học nghiên

cứu công phu, đóng góp quan trọng về mặt học thuật, chứa đựng giá trị khoa học lớn.

Điều đó cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục đại học đối với sự nghiệp xây

dựng và phát triển đất nước. Hầu hết các công trình đều đã đạt được giá trị cả về lý

luận và thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả luận án nghiên cứu các đảng bộ

trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo

trình độ đại học.

Thông qua tổng quan tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài

luận án, tác giả khái quát một số nội dung cơ bản sau:

Một là, các công trình nghiên cứu đã hệ thống hóa một số cách tiếp cận về giáo

dục đào tạo nói chung và đào tạo trình độ đại học nói riêng trên nhiều bình diện đa

dạng và phong phú từ việc nhận thức, suy ngẫm về vấn đề đào tạo trình độ đại học

hiện nay cho đến nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các công trình còn bàn về vận dụng quan điểm của

chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết chính sách, tạo động lực

và nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học trong thời kỳ đổi mới đất nước và hội

nhập quốc tế.

Bên cạnh phân tích những thành tựu, các tác giả còn chỉ ra những hạn chế, yếu

kém trong chất lượng đào tạo trình độ đại học hiện nay. Nhiều bài viết đã phân tích

xác đáng, mạnh dạn chỉ ra cơ hội, thách thức và những vấn đề đặt ra đối với việc nâng

cao chất lượng đào tạo trình độ đại học trong tình hình hiện nay.

Hai là, với phạm vi nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, các tác giả đã làm rõ

chất lượng công tác đào tạo trình độ đại học, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự

nghiệp giáo dục nói chung và đối với đào tạo trình độ đại học nói riêng. Đặc biệt, thời

gian gần đây, sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, của

nền kinh tế tri thức đã đặt ra thách thức đối với Việt Nam về nâng cao chất lượng đào

tạo trình độ đại học nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Qua đó các công trình đã đánh giá những

thành tựu, chỉ ra những hạn chế, yếu kém của đào tạo trình độ đại học ở Việt Nam, đòi

hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng, sự vào cuộc của các cấp, bộ,

ngành đối với đào tạo trình độ đại học, góp phần nâng cao chất lượng của công tác đào

tạo trình độ đại học.

Ba là, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về các đảng bộ trường

đại học công lập ở thành phố Hà Nội lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại

học đầy đủ và hệ thống dưới góc độ của khoa học Xây dựng đảng thuộc chuyên ngành

Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước.

Tuy nhiên, giá trị các công trình nghiên cứu nêu trên góp phần gợi mở và là hệ

thống tài liệu tham khảo quan trọng để tác giả kế thừa có chọn lọc, định hướng những

vấn đề khoa học và một số hướng tiếp cận mới cho tác giả, đặt ra những vấn đề cần

tiếp tục làm sáng tỏ.

1.2.2. Những vấn đề cơ bản luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ

Thứ nhất, khái quát những căn cứ lý luận và thực tiễn về các đảng bộ trường đại

học công lập ở thành phố Hà Nội lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học

giai đoạn hiện nay. Đặc biệt làm rõ vị trí, vai trò, đặc điểm của các trường đại học công

lập, các đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội hiện nay. Trình bày rõ các vấn đề về

các đảng bộ trường đại học công lập lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại

học, những vấn đề có tính nguyên tắc về sự lãnh đạo của các đảng bộ trường đại học công

lập đối với nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học ở Hà Nội.

Thứ hai, khảo sát thực tiễn, đánh giá đúng thực trạng chất lượng đào tạo trình

độ đại học và thực trạng lãnh đạo của các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố

Hà Nội đối với nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học từ năm 2010 đến nay, chỉ

ra được ưu, khuyết điểm, kết quả, nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm đồng thời

xác định những vấn đề đặt ra trong quá trình tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của các

đảng bộ trường đại học công lập đối với nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học.

Thứ ba, từ những dự báo các nhân tố thuận lợi, khó khăn, thách thức đối với

việc tăng cường sự lãnh đạo của các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà

Nội đối với nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học trong thời gian tới, đề xuất

mục tiêu, phương hướng và những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của các

đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội đối với nâng cao chất lượng đào

tạo trình độ đại học đến năm 2025.

Chương 2

CÁC ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở THÀNH PHỐ

HÀ NỘI LÃNH ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ

ĐẠI HỌC - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1. ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO

TẠO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM

2.1.1. Đào tạo trình độ đại học - khái niệm, đặc điểm, vai trò

2.1.1.1. Khái niệm đào tạo trình độ đại học

* Đào tạo

Khái niệm đào tạo được tiếp cận từ những khía cạnh khác nhau tùy thuộc góc

độ nhìn nhận của mỗi nhà nghiên cứu.

Có ý kiến cho rằng đào tạo là một hoạt động quan trọng trong nhà trường mà

nội dung của nó được thực hiện theo thứ tự thời gian với những phương thức xác định

nhằm đạt tới mục đích hình thành nên một mẫu nhân cách theo mục tiêu đã hướng

đích.

Từ điển Giáo dục học định nghĩa:

Đào tạo là quá trình chuyển giao có hệ thống, có phương pháp những kinh

nghiệm, những tri thức, những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, chuyên môn,

đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị tâm

thế cho người học để họ sẵn sàng đi vào cuộc sống lao động tự lập, góp

phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. [55, tr. 76].

Có thể thấy nội hàm của khái niệm đào tạo phản ánh những thuộc tính bản chất

là tiến hành những tác động nhằm trang bị cho người học một hệ thống tri thức và kỹ

năng, kỹ xảo nghề nghiệp nhất định, đồng thời rèn luyện tác phong, đạo đức và niềm

say mê đối với nghề nghiệp, hình thành thái độ, hành vi trong thực hiện các hoạt động,

quan hệ giao tiếp và rèn luyện phẩm chất đạo đức theo một mô hình nhân cách xác

định. Điều này cũng có nghĩa là với các loại hình nhà trường khác nhau, dù cho mục

tiêu và thời gian đào tạo không giống nhau thì đào tạo vẫn là quá trình thực hiện

những tác động cải biến, hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách của người học

dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của tập thể sư phạm. Quá trình này diễn

ra với mục tiêu, chương trình, phương pháp, quy trình… cụ thể, gắn với từng bậc học

(đào tạo trình độ đại học, đào tạo sau đại học…), gắn với từng loại hình đào tạo cụ thể

(đào tạo chính quy, đào tạo không chính quy…). Sau khi hoàn thành quá trình đào tạo

nghề nghiệp ở một trình độ nhất định, người học nhận được văn bằng tốt nghiệp tương

ứng.

* Đào tạo trình độ đại học

Theo Ronald Barnett [123], có 4 khái niệm thông dụng nhất về giáo dục đại học:

i) Giáo dục đại học là một dây chuyền sản xuất mà đầu ra là nguồn nhân lực đạt

chuẩn. Theo quan điểm này, giáo dục đại học là một quá trình trong đó người học

được quan niệm như những sản phẩm được cung ứng cho thị trường lao động. Giáo

dục đại học trở thành “đầu vào” tạo nên sự phát triển và tăng trưởng của thương mại

và công nghiệp;

ii) Giáo dục đại học là đào tạo để trở thành nhà nghiên cứu. Theo cách nhìn

này, giáo dục đại học là thời gian chuẩn bị để tạo ra những nhà khoa học và nhà

nghiên cứu thực thụ, những người sáng tạo ra những kiến thức mới;

iii) Giáo dục đại học là quản lý việc tổ chức giảng dạy một cách hiệu quả. Cách

tiếp cận này nhấn mạnh đến chức năng cốt lõi của giáo dục đại học là giảng dạy kiến

thức, kỹ năng cho người học;

iv) Giáo dục đại học là mở rộng cơ hội trong cuộc sống cho người học . Theo

cách tiếp cận này, giáo dục đại học được xem như một cơ hội để người học được tham

gia vào quá trình phát triển bản thân bằng các thể thức học tập thường xuyên và linh

hoạt. Có thể nói, ở đây có tính liên hoàn giữa bốn khái niệm này của giáo dục đại học;

chúng liên quan và tích hợp với nhau để tạo ra bức tranh toàn cảnh về tính chất riêng

biệt của giáo dục đại học (higher education).

Luật Giáo dục đại học quy định rõ: “Đại học là cơ sở giáo dục đại học bao gồm

tổ hợp các trường cao đẳng, trường đại học, viện nghiên cứu khoa học thành viên

thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ chức theo hai cấp, để đào tạo các trình

độ của giáo dục đại học” [65, tr.8-9].

Theo Từ điển Giáo dục học, đào tạo trình độ đại học được hiểu là

Bậc học đào tạo trình độ học vấn chuyên môn cao có mục tiêu đào tạo

người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân

dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương ứng với

trình độ đào tạo, có sức khỏe đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tố

quốc [55, tr.122].

Ở Việt Nam hiện nay, mặc dù chưa có định nghĩa chính thức về giáo dục đại

học, nhưng có thể hiểu giáo dục đại học là hình thức tổ chức giáo dục cho các bậc học

sau giai đoạn bậc phổ thông với các trình độ đào tạo: gồm trình độ cao đẳng, trình độ

đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.

Đào tạo trình độ đại học tuy vẫn hướng tới việc cung cấp những kiến thức cơ

bản làm nền tảng cho hiểu biết chung của con người, nhưng đó không phải là mục

đích duy nhất. Đào tạo trình độ đại học còn phải cung cấp những kiến thức làm nền

tảng cho việc tiếp cận chuyên môn sâu theo từng ngành nghề cụ thể, bên cạnh đó là

những kiến thức theo từng chuyên ngành hẹp để biến những người được đào tạo thành

những chuyên gia trong lĩnh vực đó. Bản chất của việc học tập ở bậc đại học là biến

quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, theo đó người học phải chủ động trong

việc tự mình tìm kiếm, chiếm lĩnh, làm chủ tri thức. Việc đào tạo vì thế cũng không

nhằm mục đích khiến người được đào tạo ghi nhớ và lặp lại càng nhiều càng tốt những

kiến thức được lĩnh hội, mà quan trọng hơn là tạo cho họ năng lực chuyển hóa, biến

những tri thức thu nhận được thành sức mạnh nội tại, khả năng tự xử lý những tình

huống nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống. Quá trình đào tạo trình độ đại học cũng

đồng thời phải tạo cho người học khả năng dựa trên nền kiến thức đã thu nhận được

để sáng tạo nên tri thức mới, và sáng tạo ngay trong quá trình học tập tại trường đại

học. Cho nên hoạt động đào tạo ở bậc đại học còn gắn với hoạt động nghiên cứu khoa

học và chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ - đây được coi là hai chức năng

chính của trường đại học.

2.1.1.2. Đặc điểm của đào tạo trình độ đại học

Với tư cách là một cấp đào tạo, đào tạo trình độ đại học có các đặc điểm cơ

bản sau:

Một là, đào tạo trình độ đại học là một bậc đào tạo cao nhất trong hệ thống giáo dục

quốc dân. Nó bao gồm các bậc sau trung học như cao đẳng, đại học và sau đại học, gồm cả

một số cơ sở giáo dục bậc đại học hay cao đẳng như các trường huấn nghệ và trường kinh

doanh có trao văn bằng học thuật hay cấp chứng chỉ chuyên nghiệp. Các cơ sở giáo dục đại

học không chỉ bao gồm các trường đại học và viện đại học mà còn các trường chuyên

nghiệp, trường sư phạm, trường cao đẳng, trường đại học công lập và tư thục hệ hai năm và

các viện kỹ thuật. Điều kiện nhập học căn bản đối với hầu hết các cơ sở giáo dục đại học là

phải hoàn thành giáo dục trung học với độ tuổi nhập học thông thường hiện nay là khoảng

18 tuổi.

Đào tạo trình độ đại học bao gồm các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu, thực

tập (như trong các trường y khoa và nha khoa). Cụ thể là: giáo dục tổng quát, thường

bao gồm đáng kể những yếu tố lý thuyết và trừu tượng cùng với những khía cạnh

ứng dụng; giáo dục chú trọng đến các ngành khoa học xã hội bao gồm các

ngành nhân văn, khoa học, nghệ thuật; giáo dục mang tính huấn luyện, kết hợp cả

việc giảng dạy lý thuyết lẫn những kỹ năng thực hành; giáo dục chuyên nghiệp như

trong các ngành kiến trúc, kinh doanh, luật, y khoa v.v...

Hai là, đào tạo trình độ đại học có tính lịch sử - cụ thể.

Hoạt động giáo dục đại học của trường đại học chịu ảnh hưởng bởi các quan

điểm, ý chí chủ quan của người lãnh đạo, quản lý. Các yếu tố này tác động qua việc

dành sự đầu tư cho hoạt động đào tạo trình độ đại học hay không, giải quyết các vấn

đề nảy sinh trong quá trình đào tạo trình độ đại học ra sao. Ngoài ra, các yếu tố về

trình độ phát triển kinh tế, khoa học công nghệ, văn hóa xã hội là các yếu tố tác động

trực tiếp đến hoạt động của trường đại học qua nhu cầu sử dụng sinh viên được đào

tạo, sử dụng các kết quả nghiên cứu của trường đại học, phát triển và bảo tồn các thành

tựu văn hóa.

Thực tế cho thấy, hoạt động đào tạo không tồn tại một cách độc lập mà chịu

sự tác động qua lại, sự chi phối của từng yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa…

cũng như mối quan hệ giữa các yếu tố trên với nhau. Mặt khác, cũng cần nhận thức

rằng sản phẩm đào tạo chỉ có khả năng đáp ứng yêu cầu, kỳ vọng của xã hội tại một

thời điểm cụ thể. Khi những yêu cầu của xã hội đối với sản phẩm đào tạo có sự thay

đổi, điều chỉnh, tức là mục tiêu, nhiệm vụ đào tạo phải có những điều chỉnh, thay đổi

theo, nếu không muốn bị tụt hậu, nếu không muốn sản phẩm đào tạo bị đánh giá thấp

hay không được xã hội chấp nhận. Điều này cũng có nghĩa là tùy từng thời kỳ phát

triển của đất nước, tùy thuộc yêu cầu kinh tế - xã hội đất nước trong thời kỳ đó mà

đánh giá, xác định nhu cầu, kỳ vọng của xã hội đối với ngành học, lấy đó làm cơ sở

để điều chỉnh mục tiêu đào tạo cho phù hợp, và chất lượng đào tạo của các trường

phải luôn bám sát và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Mục tiêu chung

của giáo dục đại học là cung cấp nguồn nhân lực được đào tạo nhằm thúc đẩy sự phát

triển kinh tế - xã hội đất nước. Cho nên, tính hợp lý và hiệu quả của hoạt động đào tạo

cũng có tính lịch sử - đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ lịch sử nhất định với những

mục tiêu nhất định.

Ba là, đào tạo trình độ đại học gắn liền với nghiên cứu khoa học.

Đây là đặc điểm khác biệt lớn giữa đào tạo trình độ đại học và các bậc đào tạo

khác, nghiên cứu khoa học có vai trò đặc biệt quan trọng trong giáo dục và hình thành tri

thức mới. Đây được xem là một trong những yếu tố quan trọng nhằm nâng cao chất lượng

đào tạo, tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Nghiên

cứu khoa học có tầm quan trọng đặc biệt trong giáo dục đại học vì không những góp phần

nâng cao chất lượng đào tạo mà còn tạo ra những tri thức mới, sản phẩm mới phục vụ cho

sự phát triển của nhân loại. Với tầm quan trọng như vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2,

Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ: Các

trường đại học phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học, công nghệ, chuyển giao và ứng

dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống.

Để khoa học, công nghệ đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, các nhà

nghiên cứu, những người làm công tác khoa học, nhất là giảng viên tại các trường

đại học phải là lực lượng nòng cốt trong việc nghiên cứu và ứng dụng các kết quả

nghiên cứu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyết định số 418/QĐ-TTg của

Thủ tướng Chính phủ (11-4-2012) về Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ

giai đoạn 2011- 2020 chỉ rõ: "Phát triển khoa học công nghệ cùng với giáo dục đào

tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước nhanh và

bền vững" [90].

Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 2-11-2005 của Chính phủ về Đổi mới cơ bản

và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 đã quy định “bố trí tối thiểu

1% ngân sách nhà nước hàng năm để các cơ sở giáo dục đại học thực hiện các nhiệm vụ

khoa học và công nghệ” [18], còn Điều 42 của Luật Giáo dục đại học yêu cầu xây dựng

chính sách ưu tiên đầu tư phát triển khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học.

Để kết hợp chặt chẽ đào tạo, đặc biệt là đào tạo sau đại học với nghiên cứu Nghị quyết 14

cũng “Quy định cụ thể nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của giảng viên, gắn việc đào tạo

nghiên cứu sinh với việc thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ. Có chính sách

phù hợp để sinh viên, học viên cao học tích cực tham gia nghiên cứu khoa học” [18].

Bốn là, đào tạo trình độ đại học đề cao quá trình tự học, tự lĩnh hội tri thức của người

học. Đây là tiêu chí về phẩm chất quan trọng cần tập trung phát huy khi dạy và học ở đại

học. Bản chất của quá trình tự học là phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác của

người học nhằm làm chủ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, tạo điều kiện phát triển nhận thức

và hoạt động thực tiễn. Tự học không những nâng cao hiệu quả học tập của người học

khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn rèn luyện cho sinh viên phương pháp, khả

năng độc lập nghiên cứu và làm việc trong suốt cuộc đời. Tự học là yêu cầu, là cách

học ở bậc trung học chuyên nghiệp, đó là phương thức dạy học lấy người học làm

trung tâm, phát huy cao nhất khả năng phát hiện, giải quyết vấn đề một cách chủ động,

sáng tạo của người học , giảng viên chỉ đóng vai trò định hướng và kích thích ý thức tự

học của người học.

Mặt khác, đây còn là yêu cầu đặt ra trong đào tạo trình độ đại học hiện nay -

trong thời đại mà khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng như hiện nay, nhà trường

dù tốt đến mấy cũng không thể đáp ứng hết nhu cầu học tập của người học cũng như

đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội. Vì vậy, bồi dưỡng năng lực tự học cho

người học là một công việc có vị trí cực kì quan trọng trong các nhà trường đại học.

Chỉ có tự học, tự bồi đắp tri thức bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau

mỗi người học mới có thể bù đắp được những thiếu khuyết về tri thức khoa học, về

đời sống xã hội. Từ đó có được sự tự tin trong cuộc sống, công việc bởi năng lực toàn

diện của mình.

2.1.1.3. Vai trò của đào tạo trình độ đại học

Trong xã hội hiện đại công đào tạo trình độ đại học đóng vai trò là “hệ thống

nuôi dưỡng” của mọi lĩnh vực trong đời sống, là nguồn cung cấp nhân lực tối cần thiết

để phục vụ các công tác quản lý, quy hoạch, thiết kế, giảng dạy và nghiên cứu. Một

quốc gia muốn phát triển về khoa học công nghệ và tăng trưởng về kinh tế thì nhất thiết

phải có cả hai yếu tố: một hệ thống giáo dục đại học và một lực lượng lao động. Việc phát

triển những ngành công nghệ bản địa cũng như năng lực trong lĩnh vực nông nghiệp, an

toàn thực phẩm và các ngành công nghiệp khác của chúng ta chính là nhờ có một hạ tầng

giáo dục đại học. Giáo dục đại học còn tạo ra các cơ hội cho học tập suốt đời, cho phép

con người cập nhật các kiến thức và kỹ năng thường xuyên theo nhu cầu của xã hội. Với

tư cách là một tập hợp các hoạt động, công tác đào tạo trình độ đại học có vai trò sau:

Thứ nhất, công tác đào tạo trình độ đại học đóng vai trò quan trọng trong việc

tìm kiếm và trau dồi tri thức mới, kiếm tìm chân lý, thường xuyên xem xét lại ý nghĩa

của những kiến thức và niềm tin cũ dưới ánh sáng của những nhu cầu mới và khám

phá mới.

Thứ hai, công tác đào tạo trình độ đại học nắm giữ vai trò lãnh đạo phù hợp

trong mọi lĩnh vực của đời sống, phát hiện những con người có tài năng và giúp họ

phát triển tối đa tiềm năng của mình bằng cách trau dồi hiểu biết, phát triển năng lực

trí tuệ, bồi dưỡng các mối quan tâm, các thái độ, các giá trị đạo đức cũng như giá trị

tinh thần đúng đắn.

Thứ ba, công tác đào tạo trình độ đại học cung cấp cho xã hội những con người

được đào tạo trong các lĩnh vực nông nghiệp, nghệ thuật, y dược, khoa học và công

nghệ cũng như những ngành nghề khác; những người này sẽ là những cá nhân đầy đủ

năng lực và có ý thức trách nhiệm cao đối với cộng đồng.

Thứ tư, đào tạo trình độ đại học luôn nuôi dưỡng và khích lệ ở cả giảng viên và

sinh viên những thái độ và giá trị cần thiết cho sự phát triển bền vững, tốt đẹp của cá

nhân và xã hội, và từ đó nhân rộng những thái độ và giá trị này ra cho cả cộng đồng.

Kết quả của công tác đào tạo trình độ đại học đã góp phần thúc đẩy chất lượng sống và

công bằng xã hội, giảm thiểu những khác biệt về văn hoá xã hội thông qua việc nâng

cao chất lượng đào tạo.

2.1.2. Chất lượng đào tạo trình độ đại học - quan niệm, các yếu tố cấu thành

và tiêu chí đánh giá

2.1.2.1. Quan niệm về chất lượng đào tạo trình độ đại học

Như đã phân tích ở trên, đào tạo trình độ đại học có tính lịch sử cụ thể. Cũng vì vậy,

quan niệm về chất lượng đào tạo trình độ đại học ở nước ta có sự thay đổi qua các thời kỳ.

* Giai đoạn từ 1985 trở về trước: Chất lượng = Tuyển chọn khắt khe

Giáo dục đại học Việt Nam cho đến giữa thập niên 1980 vẫn cơ bản là giáo dục

tinh hoa.Vì vậy, trong giai đoạn này vấn đề chất lượng giáo dục đại học hầu như

không được đặt ra. Có thể nói, trong một thời gian dài, hệ thống giáo dục đại học Việt

Nam đã quan niệm quản lý chất lượng giáo dục đồng nghĩa với việc kiểm soát đầu vào

thông qua các kỳ thi tuyển mang tính cạnh tranh cao độ.

Trong thời gian này, đảm bảo chất lượng được thực hiện bằng phương pháp

kiểm soát chất lượng (quality control). Ngoài việc kiểm soát đầu vào như đã nêu trên,

chất lượng đầu ra cũng được kiểm soát thông qua hoạt động thi cử, công nhận tốt

nghiệp và cấp phát văn bằng theo những quy định được áp đặt từ trên xuống. Bên cạnh

đó, việc kiểm soát chất lượng hoạt động được thực hiện thông qua hệ thống thanh-

kiểm tra nhằm giám sát những hoạt động cốt lõi. Tuy nhiên, tác động và hiệu quả của

hệ thống thanh-kiểm tra không cao, vì chỉ nhấn mạnh việc phát hiện và xử phạt những

hoạt động cố tình làm sai lệch những quy định và chuẩn mực sẵn có, mà không đặt ra

mục tiêu tìm hiểu để cải thiện liên tục và toàn diện nhằm đáp ứng ngày càng cao

những yêu cầu thay đổi của cuộc sống.

Một hệ thống khép kín và có tính hướng nội cao độ như đã nêu, cho dù có dựa

trên những con người thực sự lỗi lạc, cũng không thể đáp ứng được đầy đủ mọi yêu cầu

của thực tế. Tuy nhiên, trong tình hình chính trị xã hội ít biến động do đóng cửa của giai

đoạn trước 1985, việc thay đổi phương pháp quản lý trong giáo dục đại học không phải là

một nhu cầu cấp bách. Mọi việc chỉ khởi động theo chiều hướng cách tân từ khi

Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó gồm cả đổi mới giáo dục đại học,

từ giữa thập niên 1980.

* Giai đoạn 1986-2003: Chất lượng = Nguồn lực đầy đủ

Năm 1986 đánh dấu sự bắt đầu của công cuộc đổi mới giáo dục đại học tại Việt

Nam, trong đó một trong những mục tiêu quan trọng của việc đổi mới giáo dục đại học

tại Việt Nam là tăng cường “khả năng cung ứng” của các cơ sở giáo dục, mở rộng tối đa

cơ hội tiếp cận cho người học. Để đạt mục tiêu này, trong vòng gần hai thập niên kể từ khi

giáo dục đại học Việt Nam bắt đầu đổi mới, rất nhiều biện pháp đã được thực hiện để đạt

được mục tiêu nói trên, mà kết quả là số lượng người học cũng như các cơ sở giáo dục đại

học của Việt Nam đã tăng lên một cách đột biến.

Sự gia tăng về quy mô và số lượng đòi hỏi phải có hai điều kiện cơ bản là sự gia

tăng tương ứng về nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực), và một cơ chế quản lý mới đi

kèm với năng lực lãnh đạo và quản lý phù hợp với quy mô mới để có thể duy trì - chứ

chưa nói đến việc cải thiện - chất lượng của giáo dục đại học. Tuy nhiên, trong vòng

gần hai thập niên đổi mới vừa qua, giáo dục đại học của Việt Nam đã chỉ chú trọng đến

việc tăng cường nguồn lực (chủ yếu thông qua học phí do người học đóng góp và kinh phí

cấp từ ngân sách nhà nước), mà chưa quan tâm đúng mức đến vai trò quan trọng của cơ

chế và năng lực lãnh đạo và quản lý của toàn hệ thống.

Quan điểm chất lượng đồng nghĩa với nguồn lực đầy đủ của giai đoạn này thể

hiện rất rõ qua việc tăng cường cấp kinh phí từ ngân sách cho các đại học quốc gia và

các trường được chọn vào danh sách “trọng điểm đầu tư”, trong khi chưa hề có các cơ

chế hoàn chỉnh để giám sát và đánh giá hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực để đạt

được mục tiêu mong muốn. Chính vì quan điểm phiến diện này mà sau gần hai thập

niên đổi mới với tỷ lệ ngân sách dành cho giáo dục tăng lên đều đặn, chất lượng giáo dục

đã không những không tăng lên mà còn giảm sút. Tình trạng này cho thấy việc áp dụng

những phương pháp quản lý mới để đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục đại học đã

trở thành một yêu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay.

* Giai đoạn từ 2004 đến nay: Chất lượng = Đáp ứng mục tiêu

Năm 2004, một loạt các văn bản quản lý nhà nước ở tầm quốc gia đã khẳng

định rõ chủ trương đổi mới quản lý bằng cách áp dụng kiểm định chất lượng, một cách

làm xuất phát từ nền giáo dục đại học Hoa Kỳ và đang trở thành một phương thức

quản lý chất lượng được áp dụng rộng rãi trên thế giới từ thập niên 1990

Nghị quyết số 37-2004/QH11 của Quốc hội khoá XI thông qua ngày 3-12-2004

đã chỉ rõ "Lấy việc quản lý chất lượng làm nhiệm vụ trọng tâm; thực hiện việc kiểm

định chất lượng giáo dục hàng năm"[78]

Ngày 02-8-2004 Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Chỉ thị số 25/2004/CT-

BGD&ĐT về nhiệm vụ ngành giáo dục trong năm học 2004- 2005, trong đó yêu cầu

các cấp quản lý giáo dục, các trường đại học và cao đẳng trong toàn quốc "khẩn trương

xây dựng và hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và triển khai hoạt động của hệ thống khảo

thí và kiểm định chất lượng giáo dục".[4]

Ngày 04-5-2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Văn bản hợp nhất số

06/VBHN-BGDĐT ngày 04 -5 - 2014, Quyết định ban hành quy định về tiêu chuẩn

đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học. [10]

Với quan niệm cho rằng chất lượng là sự đáp ứng tiêu chuẩn, chúng tôi cho

rằng việc xác định và đánh giá chất lượng giáo dục đại học cũng phải dựa trên xuất

phát điểm và căn cứ vào mục đích đào tạo ở bậc đại học. Mục đích chung của giáo dục

đại học là cung cấp nguồn nhân lực được đào tạo nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế -

xã hội đất nước. Chính vì vậy, chất lượng đào tạo “liên quan chặt chẽ với yêu cầu kinh

tế xã hội của đất nước. Sản phẩm đào tạo được xem là có chất lượng cao khi nó đáp

ứng tốt mục tiêu đào tạo mà yêu cầu của kinh tế - xã hội đặt ra…” [8]. Điều này có

nghĩa là tùy từng giai đoạn phát triển của đất nước, tùy thuộc yêu cầu kinh tế - xã hội

đất nước trong giai đoạn đó mà mục tiêu đào tạo của các trường cũng có sự biến đổi,

điều chỉnh cho phù hợp, và chất lượng đào tạo của các trường phải luôn bám sát và

đáp ứng yêu cầu kinh tế - xã hội đất nước.

2.1.2.2. Các yếu tố cấu thành chất lượng đào tạo trình độ đại học

Chất lượng đào tạo trình độ đại học là kết quả của sự tương tác giữa nhiều yếu

tố. Trong các nghiên cứu về chất lượng giáo dục, các yếu tố cấu thành chất lượng giáo

dục được tiếp cận theo những khía cạnh khác nhau. SEAMEO (1999) đưa ra mô hình

các yếu tố tổ chức (Organizational Elements Model), chất lượng giáo dục đại học dựa

trên 5 yếu tố để đánh giá như sau: Đầu vào (sinh viên, cán bộ trong trường, cơ sở vật

chất, chương trình đào tạo, quy chế); quá trình đào tạo (phương pháp và quy trình đào

tạo); kết quả đào tạo (mức độ hoàn thành khóa học, năng lực đạt được và khả năng

thích ứng của sinh viên); đầu ra (sinh viên tốt nghiệp, kết quả nghiên cứu và các dịch

vụ khác đáp ứng nhu cầu kinh tế và xã hội); hiệu quả (kết quả của giáo dục đại học và

ảnh hưởng của nó đối với xã hội).

Ở góc độ tiếp cận theo quy trình, chất lượng giáo dục đại học được nhìn nhận là

kết quả của 3 yếu tố: đầu vào, quá trình đào tạo và đầu ra. Một số nền giáo dục đại học

như Hoa Kỳ khi xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục đại học đã dựa

trên cách tiếp cận quy trình này để đưa ra hệ thống tiêu chí đánh giá.

Các phân tích trên cho thấy, cho dù có cách tiếp cận khác nhau nhưng nhìn

chung, các cách tiếp cận đều nhấn mạnh đến những yếu tố cơ bản cấu thành nên chất

lượng đào tạo trình độ đại học.

Thứ nhất, yếu tố quản lý đào tạo. Công tác quản lý đào tạo bao gồm quản lý ở

tầm vĩ mô và vi mô. Ở tầm vĩ mô, các chính sách quản lý, phát triển giáo dục đại học

có ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận hành của một nền giáo dục. Tư duy, cách tiếp cận

quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo

dục đại học. Điều này được thể hiện ở các khía cạnh khác nhau. Thông qua thông tin

về thị trường lao động, cơ quan quản lý nhà nước định hướng cho các cơ sở giáo dục

đại học biết mình cần tập trung đào tạo nguồn nhân lực ở lĩnh vực nào và chất lượng

như thế nào để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động...Với những thiết chế ràng

buộc, nhà nước có thể tạo ra khuôn khổ pháp lý, điều kiện cần thiết để đảm bảo chất

lượng giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu theo các cấp độ khác nhau. Quản lý nhà nước

về giáo dục đại học với cách tiếp cận phù hợp, thiết lập cơ chế quản lý chất lượng hiệu

quả tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học phát huy năng lực đào tạo, sẽ là nền

tảng để bảo đảm chất lượng giáo dục đại học.

Ở tầm vi mô, quản trị tại mỗi cơ sở giáo dục là nhân tố trực tiếp tác động đến

chất lượng đào tạo. Nhà quản lý có tầm nhìn, xác định được mục tiêu của cơ sở giáo

dục, hoạch định được đường hướng, phát triển, có biện pháp quản lý chất lượng đào

tạo, phát triển giảng viên, đổi mới, nâng cao chất lượng chương trình sẽ là một trong

những nhân tố đảm bảo chất lượng của sinh viên sau khi tốt nghiệp.

Thứ hai, yếu tố giảng viên. Chất lượng đội ngũ giảng viên quyết định cơ bản

chất lượng đào tạo. Cho dù hệ thống giáo dục và phương thức giáo dục đã thay đổi

nhiều so với trước đây thì quy luật thầy giỏi sẽ đào tạo nên trò giỏi vẫn được khẳng

định. Chính vì vậy, số lượng, chất lượng giảng viên sẽ tác động mạnh, thường xuyên và

lâu dài đến chất lượng giáo dục đại học. Sự thiếu hụt đội ngũ giảng viên cả về số lượng

và chất lượng sẽ kéo theo sự sụt giảm, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cho dù các

yếu tố khác có được đảm bảo.

Thứ ba, yếu tố người học. Đầu vào của thành tố “người học” cũng là một khâu

quyết định đến chất lượng đào tạo. Sự tăng cao về số lượng sinh viên, chất lượng đầu

vào thấp sẽ khó khăn trong việc bảo đảm chất lượng đào tạo. Bên cạnh đó, vấn đề nền

tảng của người học thì trách nhiệm, thái độ học tập của người học cũng sẽ ảnh hưởng

đến chất lượng, kết quả đào tạo. Sự thờ ơ, vô trách nhiệm với kết quả học tập của người

học, nhận thức không đầy đủ về việc học đại học, coi việc được trở thành sinh viên đại

học là mục tiêu cuối cùng sẽ làm cho mục tiêu chất lượng đào tạo không thể đạt được

cho dù có sự nỗ lực của nhà quản lý, giảng viên và sự đầy đủ về cơ sở vật chất phục vụ

đào tạo.

Thứ tư, nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo. Nội dung chương trình

đào tạo, phương pháp đào tạo là yếu tố quan trọng trong quá trình đào tạo. Sự phù hợp

hay không phù hợp, sự hiện đại, cập nhật hay lạc hậu của nội dung, chương trình,

phương pháp đào tạo sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục đại học. Với nội dung,

chương trình đào tạo lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn, sinh viên tốt nghiệp sẽ

không có năng lực để thích ứng với thực tiễn, chất lượng giáo dục đại học sẽ không thể

đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa

phương, của quốc gia và thị trường lao động toàn cầu trong bối cảnh toàn cầu hoá. Ngược

lại, nội dung, chương trình đào tạo tốt sẽ nhân thêm giá trị cho nỗ lực của giảng viên và

sinh viên, tạo thêm động lực cho người dạy và người học, tạo cơ sở để có chất lượng đào

tạo phù hợp. Phương pháp đào tạo gắn liền với phương thức truyền tải nội dung, chương

trình. Sự đổi mới về phương pháp đào tạo sẽ tạo hiệu ứng đối với phương pháp giảng dạy,

phương pháp học tập. Chính vì vậy, phương pháp đào tạo phù hợp với nội dung, chương

trình, mong đợi, kỳ vọng của người học là một điều kiện quan trọng để chất lượng giáo

dục đại học được đảm bảo.

Thứ năm, tổ chức đào tạo là một yếu tố quan trọng cấu thành chất lượng giáo

dục đại học. Tổ chức đào tạo là sự kết hợp, nâng cao hiệu quả của các yếu tố đầu vào.

Một đội ngũ giảng viên tốt, chương trình đào tạo tốt và người học có năng lực phù hợp

nhưng không tổ chức đào tạo hiệu quả cũng sẽ dẫn đến chất lượng đào tạo không đáp

ứng được mong đợi, kỳ vọng, không thực sự tương xứng với chất lượng của các yếu tố

đầu vào. Tổ chức đào tạo bao gồm nhiều nội dung như mức độ đa dạng hoá các hình thức

đào tạo, đáp ứng yêu cầu học tập của người học theo quy định; đào tạo theo học chế niên

chế hay tín chỉ, tính linh hoạt trong hoạt động đào tạo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho

người học; kế hoạch và phương pháp đánh giá hợp lý các hoạt động giảng dạy của giảng

viên; chú trọng việc triển khai đổi mới phương pháp dạy và học, phương pháp đánh giá

kết quả học tập của người học theo hướng phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu và

làm việc theo nhóm của người học; phương pháp và quy trình kiểm tra đánh giá được đa

dạng hoá, đảm bảo nghiêm túc, khách quan, chính xác, công bằng và phù hợp với hình

thức đào tạo, hình thức học tập, mục tiêu môn học và đảm bảo mặt bằng chất lượng giữa

các hình thức đào tạo; đánh giá được mức độ tích luỹ của người học về kiến thức chuyên

môn, kỹ năng thực hành và năng lực phát hiện, giải quyết vấn đề, có cơ sở dữ liệu về hoạt

động đào tạo của nhà trường, tình hình sinh viên tốt nghiệp, tình hình việc làm và thu

nhập sau khi tốt nghiệp, có kế hoạch đánh giá chất lượng đào tạo đối với người học sau

khi ra trường và kế hoạch điều chỉnh hoạt động đào tạo cho phù hợp với yêu cầu của xã

hội...

Thứ sáu, yếu tố cơ sở vật chất và đầu tư tài chính. Cơ sở vật chất phục vụ đào

tạo trình độ đại học rất đa dạng và mỗi cơ sở giáo dục, mỗi ngành đào tạo có những

yêu cầu riêng. Yếu tố cơ sở vật chất ở đây rất đa dạng, trong đó cần chú ý đến yếu tố

mặt bằng, diện tích cơ sở giáo dục đại học trên một sinh viên, hệ thống thư viện,

phòng học, phòng thí nghiệm, bảo đảm những điều kiện cần thiết cho việc dạy và học

được thực hiện và thực hiện có hiệu quả. Mức độ hợp lý trong đầu tư tài chính cho

giáo dục đại học là yếu quan trọng trong bảo đảm chất lượng. Với đầu tư tài chính quá

thấp thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Định

mức phân bổ tài chính theo đầu sinh viên hay theo chất lượng, kết quả đào tạo cũng sẽ

tác động đến định hướng quản lý chất lượng ở mỗi cơ sở giáo dục đại học.

Thứ bảy, yếu tố nghiên cứu khoa học và công nghệ. Nghiên cứu khoa học được

xem là chìa khoá để nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Sự gắn kết giữa nghiên cứu

và đào tạo, một mặt, sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, mặt khác,

kết quả nghiên cứu tạo ra những cơ sở quan trọng cho việc đổi mới chương trình, nội

dung đào tạo, phương pháp đào tạo, những nhân tố để đảm bảo chất lượng giáo dục

đại học.

Dưới góc độ nghiên cứu chuyên ngành, tác giả nhấn mạnh và đề cao yếu tố

quản lý và yếu tố tổ chức đào tạo, mà trực tiếp và cụ thể là đảng bộ lãnh đạo, Ban

Giám hiệu các trường đại học công lập giữ vai trò quản lý, điều hành nâng cao chất

lượng đào tạo trình độ đại học.

2.1.2.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo trình độ đại học

Đào tạo trình độ đại học là một quá trình, vì vậy, các tiêu chí đánh giá chất lượng

đào tạo trình độ đại học phải bao quát được các yếu tố đầu vào, quy trình và đầu ra. Tuy

nhiên, các tiêu chí này cần phải được xây dựng và đánh giá với trọng số khác nhau. Bởi lẽ

chất lượng đào tạo trình độ đại học được phản ánh và thể hiện đầy đủ nhất ở chất lượng

đầu ra, chất lượng sinh viên sau khi tốt nghiệp. Ở các quốc gia, các tiêu chí đánh giá chất

lượng đào tạo trình độ đại học có những sự khác biệt nhất định về từng chỉ số cụ thể, tuy

nhiên, nhìn chung, cách tiếp cận xây dựng các tiêu chí được xây dựng theo cách tiếp cận

hệ thống quá trình. Có thể khái quát, các tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo trình độ đại

học thường được xây dựng bao gồm:

- Tiêu chí về mục tiêu và nhiệm vụ: Mức độ cụ thể, rõ ràng của mục tiêu; định

hướng đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, được điều chỉnh theo hướng nâng cao

chất lượng, phù hợp với điều kiện thực tiễn...;

- Tiêu chí về giáo viên và cán bộ quản lý: trình độ cán bộ quản lý, trình độ

giảng viên, tỷ lệ giảng viên có học vị tiến sĩ, tỷ lệ sinh viên/giảng viên; số giờ giảng

trung bình của giảng viên; cơ cấu giảng viên, cán bộ quản lý...

- Tiêu chí về chương trình, giáo trình: Mục tiêu chương trình, cấu trúc, nội

dung, phương pháp và hình thức đào tạo, cách thức đánh giá kết quả đào tạo, được

xây dựng và điều chỉnh phù hợp với sự tham của giảng viên, các chuyên gia, các đơn

vị tuyển dụng...;

- Tiêu chí về thành phần sinh viên:điểm trung bình của thí sinh được tuyển vào

đại học; mức độ được cập nhật thông tin về chương trình đào tạo, cách thức kiểm tra,

đánh giá, quy chế, chính sách đào tạo...

- Tiêu chí về cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ đào tạo: bao gồm các chỉ số về ngân sách tài trợ, thư viện, phòng học, các thiết bị hỗ trợ học tập...; - Tiêu chí về tổ chức và quản lý: cơ cấu tổ chức hợp lý phù hợp với yêu cầu thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ...; - Tiêu chí về hoạt động dạy và học: kế hoạch đào tạo, giám sát việc thực hiện kế hoạch, việc đánh giá, thời gian đào tạo...; - Tiêu chí về nghiên cứu khoa học: ngân sách nhà trường dành cho nghiên cứu khoa học; các nghiên cứu được tài trợ; số lượng giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học; số bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí quốc tế; số lần trích dẫn bài báo; số bằng sáng chế; số giảng viên được mời chủ tọa các hội nghị quốc gia, quốc tế; số nghiên cứu sinh nước ngoài theo học... - Tiêu chí về sinh viên tốt nghiệp: năng lực của sinh viên tốt nghiệp, hiệu quả đào tạo của cơ sở giáo dục đại học; phần trăm sinh viên tốt nghiệp có việc làm; lương, thu nhập trung bình, sự hài lòng của đơn vị tuyển dụng; phần trăm sinh viên quay lại trường tiếp tục theo học ở bậc học cao hơn; phần trăm sinh viên tốt nghiệp theo học sau đại học tại các trường khác...

2.1.3. Nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học ở Việt Nam

Từ những phân tích trên đây có thể định nghĩa: Nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học là việc đảm bảo và không ngừng cải thiện các yếu tố biện chứng cấu thành chất lượng đào tạo phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và của quốc gia ở mỗi thời kỳ phù hợp với triết lý giáo dục thời đại, bảo đảm và đáp ứng được sự kỳ vọng, mong đợi của đối tượng liên quan, cộng đồng xã hội về tâm lực, trí lực, thể lực của nguồn nhân lực đại học.

Như vậy, từ khái niệm trên có thể thấy nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại

học trong giai đoạn hiện nay gồm những vấn đề cơ bản sau đây:

Thứ nhất, xây dựng chiến lược phát triển trường đại học, sứ mệnh, tầm nhìn của

nhà trường.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, trong đó có hội nhập về giáo

dục và đào tạo, yêu cầu của nhà tuyển dụng về chất lượng nhân lực ngày càng cao, sự cạnh

tranh về chất lượng nhân lực từ các cơ sở đào tạo trình độ đại học trong và ngoài nước, kể

cả từ khu vực tư ngày càng trở nên khắc nghiệt, các đảng bộ trường đại học công lập không

thể không chú trọng vấn đề cải tiến và không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo để khẳng

định vị trí, vai trò của mình trong đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn hiện nay. Chiến lược phát triển trường đại

học sẽ xác định rõ định hướng mục tiêu chiến lược và các giải pháp chủ yếu trong quá

trình vận động và phát triển, là cơ sở quan trọng cho các quyết sách của ban lãnh đạo

nhà trường cũng như toàn thể cán bộ, giảng viên và sinh viên trong nhà trường. Đây

cũng là cơ sở để mỗi nhà trường nhận thức rõ về những giá trị cốt lõi mà nhà trường

cần phấn đấu đạt được để tự định vị mình trong hệ thống giáo dục đại học Thủ đô nói

riêng, của đất nước nói chung để nêu cao quyết tâm, nỗ lực thực hiện trong thực tiễn

nhằm đạt được mục tiêu đề ra.

Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên.

Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, giảng viên đủ về số lượng, đảm bảo

về chất lượng, có phẩm chất và năng lực đạt chuẩn của bậc đào tạo trình độ đại học.

Công tác quản lý giáo dục đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao về khoa học và thực tiễn,

bởi đặc thù về tính học thuật và nghệ thuật sư phạm và quản lý giáo dục do đó cần

phải chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Sự phát triển giáo dục

không ngừng kéo theo nhiều thay đổi phức tạp cho môi trường và đối tượng quản

lý, đòi hỏi người quản lý không chỉ bằng kinh nghiệm cảm tính, bằng thói quen chủ

quan mà cần được thực hiện trên cơ sở khoa học và thực tiễn đã được nghiên cứu

và thực nghiệm một cách khả thi. Cần phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục

theo hướng chuẩn hoá, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, nâng cao chất

lượng, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống,

lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Thứ ba, tổ chức quản lý chất lượng đào tạo, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất

phục vụ đào tạo

Căn cứ tiềm lực của từng trường đại học để phát triển quy mô đào tạo một cách

hợp lý để nâng cao chất lượng đào tạo. Các trường Đại học xây dựng cơ chế phối hợp

với các viện, trung tâm và xác định rõ trách nhiệm, quyền lợi của các bên tham gia

để sử dụng có hiệu quả nguồn lực hiện có. Tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường

với các tổ chức, doanh nghiệp, nhà tuyển dụng trong: phát triển chương trình, địa

bàn học tập, hướng dẫn, rèn luyện tay nghề và sử dụng lao động. Phối hợp với nhà

tuyển dụng đánh giá năng lực của sinh viên ra trường theo cam kết với xã hội.

Tăng cường đầu tư và nâng cao hiệu quả hoạt động của thư viện trường, trang

Web của nhà trường. Trang bị các dụng cụ, máy móc vật tư cho phòng thí nghiệm,

xưởng phục vụ học tập. Ưu tiên nguồn lực xây dựng cho được các mô hình rèn nghề

và thực tập nghề nghiệp của sinh viên. Đẩy mạnh xã hội hóa về mô hình rèn nghề và

thực tập trong các trường đại học.

Thứ tư, xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh.

Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo,

sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên. Đấu tranh chống quan liêu,

tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực trong đơn vị. Thực hiện đúng các

nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ

tự phê bình và phê bình; thực hiện có nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt

đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến

đấu.

Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu,

thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; xây dựng kế hoạch và tạo điều kiện để đảng

viên thực hiện nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt.

Xây dựng cấp uỷ có đủ phẩm chất, năng lực, hoạt động có hiệu quả, được đảng

viên và quần chúng tín nhiệm. Nói chung, bí thư cấp uỷ phải là cán bộ lãnh đạo của

đơn vị, tiêu biểu cho đảng bộ, chi bộ, đoàn kết, tập hợp được cán bộ, đảng viên và

quần chúng.

Cấp uỷ thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành điều lệ,

nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Quy định của

Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm. Định kỳ hằng năm, cấp uỷ tổ

chức để quần chúng tham gia góp ý về sự lãnh đạo của tổ chức đảng và vai trò tiền

phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.

2.2. CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP VÀ CÁC ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI - ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ

2.2.1. Đặc điểm, vai trò của các trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội 2.2.1.1. Đặc điểm Bên cạnh các đặc điểm chung của hệ thống các trường đại học công lập trên cả

nước như: Về cơ chế quản lý và bộ máy tổ chức hoạt động; Về nguồn tài chính và cơ chế quản lý tài chính… so với các trường ngoài công lập. Tác giả khái quát đặc điểm các trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội so với các trường công lập cả nước trên những vấn đề sau:

Một là, các trường đại học công lập ở Hà Nội là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao quan trọng của cả nước. Đây là vinh dự và niềm tự hào của các trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội, thực tế cho thấy, phần lớn nguồn nhân lực được đào tạo tại các trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội thời gian qua đã phát huy được năng lực và sức sáng tạo, có đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và nhiều lĩnh vực đời sống xã hội khác trên khắp mọi miền đất nước. Hiện nay, theo thống kê, trên địa bàn thành phố Hà Nội có 33 trường đại học công lập trực thuộc hầu hết các bộ, ngành Trung ương, hằng năm đào tạo khoảng 300.000 sinh viên chính quy các hệ, đang tổ chức đào tạo gần 200 ngành nghề bậc đại học và sau đại học, đồng thời góp phần đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho các nước bạn như: Lào, Campuchia, Môzămbích…

Hai là, các trường đại học công lập ở Hà Nội là nơi tập trung đông đảo nhân lực khoa học, nhà giáo, trí thức tiêu biểu. Hiện nay, các trường đại học công lập có gần 1.000 giáo sư và phó giáo sư; trên 2.000 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; hơn 6.000 thạc sĩ; gần 11.000 cử nhân, kỹ sư và tương đương [Phụ lục số 6]. Đây là nguồn lực quan trọng nhất đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng đào tạo cho Thủ đô và cả nước.

Ba là, nhiều trường đại học công lập ở Hà Nội có bề dày lịch sử hình thành và phát triển so với các trường đại học trong phạm vi cả nước. Đóng chân trên địa bàn Thủ đô - trung tâm chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật lâu đời của cả nước, cùng với đặc điểm về cơ chế quản lý giáo dục quốc dân ở nước ta, do đó hầu hết các trường đại học công lập trên địa bàn Hà Nội được thành lập từ rất sớm, có quá trình phát triển gắn bó chặt chẽ với những bước ngoặt cách mạng của đất nước. Nhiều trường đại học được thành lập trong điều kiện cách mạng đất nước còn rất non trẻ, phải đảm nhận nhiều nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của đất nước về đào tạo nguồn cán bộ, nguồn nhân lực đáp ứng sự nghiệp cách mạng đang đặt ra. Rất nhiều trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội trở thanh “con chim đầu đàn” của đào tạo trình độ đại học cả nước, có vai trò dẫn dắt, hỗ trợ cho sự phát triển và lan tỏa của giáo dục quốc dân ở nước ta.

Bốn là, nhiều trường đại học công lập ở Hà Nội là các trường đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực. Đây vừa là chủ trương đào tạo toàn diện của Đảng và Nhà nước ta, vừa là yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước, một số trường đang đi đầu trong việc mở các chuyên ngành đào tạo mới, hoặc liên kết với các trường đại học nước ngoài, các doanh nghiệp, các địa phương để mở thêm ngành đào tạo, không ngừng đáp ứng và đón đầu nhu cầu về nguồn nhân lực có chất lượng cao hiện nay và trong tương lai. Hiện nay, đã hình thành mô hình trường đại học đa ngành như mô hình trường đại học quốc gia Hà Nội.

2.2.1.2. Vai trò Các trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội đóng vai trò quan trọng đối với

sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thể hiện khái quát qua các mặt sau:

Sự ra đời và hoạt động của các trường đại học công lập thể hiện vai trò của

Nhà nước đối với giáo dục đại học. Nhà nước thông qua các hoạt động của trường đại học

công lập để điều tiết các nguồn lực xã hội sao cho có hiệu quả nhất, từ đó điều tiết cơ cấu

đào tạo nhân lực hợp lý, duy trì và phát triển giáo dục đào tạo. Thông qua các trường đại

học công lập, Nhà nước muốn đầu tư nhằm đảm bảo lợi ích công về giáo dục đại học. Lợi

ích này lan tỏa ra toàn xã hội, đảm bảo tất cả mọi người đều có cơ hội bình đẳng tiếp cận

với giáo dục đại học.

Trường đại học công lập là nơi triển khai các chính sách đầu tư phát triển giáo dục

đại học của quốc gia. Các trường đại học công lập thuộc sở hữu Nhà nước, được Chính

phủ hoặc chính quyền ở các địa phương cấp ngân sách để triển khai các chính sách phát

triển giáo dục đại học của chính quyền các cấp. Ví dụ như các trường đại học công lập

được Quỹ đào tạo nhân tài cung cấp kinh phí để đào tạo nhân tài như ở Hàn Quốc. Hoặc

được Chính phủ đầu tư thành các trường đại học trọng điểm như ở Trung Quốc. Ở Việt

Nam các trường đại học công lập được Nhà nước giao kinh phí, tài sản, cơ sở vật chất để

thực hiện các mục tiêu và chính sách ưu tiên đầu tư cho giáo dục đào tạo của đất nước.

Trường đại học công lập giữ vai trò định hướng cho hoạt động và sự phát

triển của hệ thống giáo dục đại học của quốc gia. Các trường đại học công lập định

hướng cho phát triển các chương trình đào tạo bằng cách bổ sung, hoàn thiện các

chương trình đã có sẵn, xây dựng các chương trình đào tạo mới phù hợp với xu thế

phát triển của xã hội; định hướng cho nghiên cứu khoa học thông qua việc xây dựng

các nhóm nghiên cứu mạnh, duy trì các hướng nghiên cứu cơ bản, triển khai các

hướng nghiên cứu mới,…

Trường đại học công lập có sứ mạng đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực chất

lượng cao, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đáp ứng nhu cầu phát triển

của đất nước. Trong hệ thống giáo dục đại học, các trường đại học công lập có lợi thế

hơn các trường tư thục về điều kiện đảm bảo chất lượng như đội ngũ cán bộ, cơ sở vật

chất, học liệu, thư viện để thực hiện được các sứ mạng nêu trên.

2.2.2. Đặc điểm, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các đảng bộ trường đại

học công lập ở thành phố Hà Nội

2.2.2.1. Đặc điểm

Một là, phần lớn các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội có

thời gian thành lập sớm, có bề dày truyền thống trong lãnh đạo công tác giáo dục -

đào tạo. Đây là đặc điểm nổi bật của đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà

Nội so với các địa phương khác. Có thể nói rằng cùng với quá trình thành lập các

trường trong điều kiện đất nước vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, các nhà trường vừa

đảm nhiệm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho kháng chiến, đồng thời trực tiếp

tham gia vào công cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc như: sơ tán, cử cán bộ, sinh viên

nhập ngũ, lên đường ra tiền tuyến… Nhiều cán bộ, đảng viên của các đảng bộ nhà

trường không những góp phần to lớn vào sự nghiệp giáo dục quốc dân, mà còn tham

gia có hiệu quả vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Những đóng góp to lớn đó đã hun đúc

nên truyền thống của các đảng bộ nhà trường, cổ vũ, động viên to lớn cho cán bộ, đảng

viên trong việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của các đảng bộ trong giai đoạn

hiện nay

Hai là, các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội có mô hình tổ

chức đa dạng và khá phức tạp. Theo số liệu thống kê hiện nay có 33 tổ chức đảng của

các trường đại học công lập trên địa bàn Thủ đô với 9.622 đảng viên, sinh hoạt tại 648,

đảng bộ bộ phận [Phụ lục số 6]. Hầu hết là tổ chức cơ sở đảng, trong đó có nhiều đảng

bộ cơ sở được trao quyền hạn và chức năng trên cơ sở do có số lượng đảng viên đông

đảo, một số đảng bộ có mô hình tổ chức nhiều tầng nấc như Đảng bộ trường Đại học

Quốc gia Hà Nội: trong đảng bộ có đảng bộ bộ phận; đảng bộ trực thuộc, chi bộ trực

thuộc đảng bộ bộ phận, chi bộ trực thuộc đảng bộ trực thuộc...; đảng bộ cấp trên cũng

không thống nhất, phần lớn các đảng bộ là trực thuộc đảng ủy các trường đại học Hà Nội,

một số đảng bộ trực thuộc đảng ủy các bộ, ban, ngành Trung ương, công an, quốc phòng,

một số đảng bộ trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo… Đặc điểm này quy định, trên thực tế

một trường đại học có thể có nhiều đơn vị chủ quản và thiếu đồng nhất về mô hình hoạt

động, cơ chế phối hợp.

Ba là, các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội đang có sự

kiện toàn và chuyển tiếp mạnh mẽ về đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hiện nay đảng bộ các

trường đang có sự chuyển tiếp mạnh mẽ về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Theo đó,

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ngày càng trẻ hơn, năng động và có khả năng ngoại

ngữ ngày càng cao. Về cơ cấu đội ngũ cán bộ cũng có những thay đổi mạnh mẽ, nếu

như trước đây đội ngũ cán bộ, giảng viên chủ yếu được đào tạo tại Liên Xô và các

nước xã hội chủ nghĩa, phần lớn kinh qua chiến tranh, thì nay nguồn cán bộ rất đa

dạng, chủ yếu được đào tạo bài bản, được trưởng thành từ nhiều nơi đào tạo khác

nhau, tiếp cận từ nhiều nên giáo dục khác nhau: từ trong nước, các nước châu Âu, Bắc

Mỹ, châu Á… tạo ra tính đa dạng trong học thuật và tư duy khoa học.

2.2.2.2. Vai trò

Vai trò của các đảng bộ trường đại học công lập lãnh đạo công tác đào tạo trình

độ đại học thể hiện ở những nội dung sau:

Một là, lãnh đạo xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ,

công tác chuyên môn của nhà trường, đơn vị theo đúng đường lối, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước, hoàn thành nghĩa vụ của nhà trường đối với cấp ngành,

nâng cao đời sống tinh thần của cán bộ, giảng viên.

Hai là, lãnh đạo cán bộ, giảng viên, sinh viên giám sát mọi hoạt động của nhà

trường theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề cao tinh

thần trách nhiệm, phát huy tính chủ động sáng tạo, không ngừng cải tiến lề lối, phương

pháp làm việc, phương pháp giảng dạy, nâng cao hiệu quả công tác, hoàn thành tốt các

nhiệm vụ được giao.

Ba là, lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở đơn vị, phát

huy quyền làm chủ của cán bộ, giảng viên, sinh viên, đấu tranh chống quan liêu,

tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác trong công tác đào tạo, nhất

là những tiêu cực trong quản lý điểm của sinh viên, công tác tuyển sinh, cấp phát

văn bằng...

Bốn là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh

chính trị và trật tự an toàn xã hội trong đơn vị. Đoàn kết, bảo vệ chính trị nội bộ, bảo

vệ tài sản của Nhà nước nói chung và của nhà trường nói riêng… Đảng ủy nhà trường

phải tạo ra môi trường thuận lợi để cán bộ, giảng viên, sinh viên có thể tiến hành công

tác công tác đào tạo trình độ đại học có hiệu quả.

2.2.2.3.Chức năng, nhiệm vụ

Căn cứ Quy định số 97-QĐ/TW của Ban Bí thư, ngày 22- 3- 2004 về "Chức năng,

nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong các đơn vị sự nghiệp (trường học, bệnh viện,

viện nghiên cứu”, theo đó đảng bộ các trường đại học có các nhiệm vụ sau:

- Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng

Lãnh đạo xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ, công tác

chuyên môn của đơn vị theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước, hoàn thành nghĩa vụ của đơn vị đối với Nhà nước, nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần của cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quần chúng giám sát mọi hoạt động của đơn vị

theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề cao tinh thần

trách nhiệm, phát huy tính chủ động sáng tạo, không ngừng cải tiến lề lối, phương

pháp làm việc, nâng cao hiệu quả công tác, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

Lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở đơn vị, phát huy

quyền làm chủ của cán bộ, đảng viên và quần chúng, đấu tranh chống quan liêu,

tham nhũng, lãng phí, trù dập, ức hiếp quần chúng và các hiện tượng tiêu cực khác,

nhất là những tiêu cực trong tuyển sinh, cấp văn bằng, chứng chỉ, khám chữa bệnh,

nghiên cứu khoa học và trong các hoạt động văn hoá, thể thao...

Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh chính

trị và trật tự an toàn xã hội trong đơn vị. Đoàn kết nội bộ, đề cao tinh thần cảnh

giác cách mạng, đấu tranh chống âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù

địch; giữ gìn bí mật quốc gia, bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ tài sản của Nhà nước

và của đơn vị.

- Lãnh đạo công tác tư tưởng

Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên và quần chúng; phát huy truyền

thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, xây dựng tinh thần làm chủ, tình đoàn kết,

hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau trong công nhân, viên chức; kịp thời nắm bắt tâm tư,

nguyện vọng của cán bộ, đảng viên, quần chúng để giải quyết và báo cáo lên cấp

trên.

Kịp thời phổ biến, quán triệt để cán bộ, đảng viên và quần chúng nắm vững và

chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các chủ

trương, nhiệm vụ của đơn vị, thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị,

kiến thức và năng lực công tác cho cán bộ, đảng viên.

Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quần chúng đấu tranh chống các quan điểm sai

trái, tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bản vị, những hành vi nói, viết và làm trái với

đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; những biểu hiện mất dân

chủ, gia trưởng, độc đoán, tác phong quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, tinh thần

hợp tác và ý thức tổ chức, kỷ luật; phòng, chống sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức,

lối sống của cán bộ, đảng viên.

- Lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ

Cấp uỷ lãnh đạo xây dựng và thực hiện chủ trương về kiện toàn tổ chức, sắp

xếp bộ máy và quy chế hoạt động của đơn vị.

Cấp uỷ lãnh đạo xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và

nhận xét, đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ

luật... đối với cán bộ thuộc thẩm quyền quản lý của cấp uỷ. Lãnh đạo việc thực hiện

các quyết định đó. Chú trọng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nhân tài.

Cấp uỷ đề xuất ý kiến để cấp trên xem xét, quyết định các vấn đề về tổ chức và

cán bộ của đơn vị thuộc thẩm quyền của cấp trên.

- Lãnh đạo các đoàn thể nhân dân

Lãnh đạo các đoàn thể nhân dân trong đơn vị xây dựng tổ chức vững mạnh,

thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của mỗi đoàn thể; phát

huy quyền làm chủ của cán bộ, đảng viên và quần chúng, đẩy mạnh các phong trào thi

đua, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.

Lãnh đạo các đoàn thể nhân dân và cán bộ, đảng viên, quần chúng trong đơn vị

tham gia xây dựng và bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,

các chủ trương, nhiệm vụ của đơn vị.

- Xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên

Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch,

vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ

đảng viên, nhất là việc phát hiện và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí

và các biểu hiện tiêu cực trong đơn vị. Thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh

hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình; thực

hiện có nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, bảo

đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu.

Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu,

thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; xây dựng kế hoạch và tạo điều kiện để đảng

viên thực hiện nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt.

Cấp uỷ xây dựng kế hoạch, biện pháp quản lý đảng viên, phân công nhiệm vụ

và tạo điều kiện cho đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao; thực hiện tốt việc giới

thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, đảng uỷ cơ sở và

gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Làm tốt công tác động viên, khen

thưởng, kỷ luật đảng viên; biểu dương, khen thưởng kịp thời những cán bộ, đảng viên có

thành tích xuất sắc, xử lý nghiêm, kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ

Đảng, pháp luật của Nhà nước. Làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên, bảo

đảm về tiêu chuẩn và quy trình; chú trọng đối tượng là đoàn viên Thanh niên cộng sản Hồ

Chí Minh và những quần chúng ưu tú, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ.

Xây dựng cấp uỷ có đủ phẩm chất, năng lực, hoạt động có hiệu quả, được đảng

viên và quần chúng tín nhiệm. Nói chung, bí thư cấp uỷ phải là cán bộ lãnh đạo của

đơn vị, tiêu biểu cho đảng bộ, chi bộ, đoàn kết, tập hợp được cán bộ, đảng viên và

quần chúng.

Cấp uỷ thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành điều lệ,

nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Quy định của Bộ

Chính trị về những điều đảng viên không được làm. Định kỳ hằng năm, cấp uỷ tổ chức

để quần chúng tham gia góp ý về sự lãnh đạo của tổ chức đảng và vai trò tiền phong,

gương mẫu của cán bộ, đảng viên. 2.3. LÃNH ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC

CỦA CÁC ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI -

NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO

Lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học là toàn bộ các hoạt

động của các đảng bộ trường đại học công lập đề ra chủ trương, nghị quyết đúng đắn

về đào tạo trình độ đại học; tổ chức, động viên mọi nguồn lực tham gia với tinh thần chủ

động, sáng tạo, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện nhằm đảm bảo và không ngừng cải

thiện các yếu tố biện chứng cấu thành nên chất lượng đào tạo phù hợp với yêu cầu đào tạo

nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và của đất nước ở mỗi

thời kỳ, đáp ứng được sự kỳ vọng, mong đợi của đối tượng liên quan, cộng đồng xã hội về

tâm lực, trí lực, thể lực của nguồn nhân lực đại học, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Như vậy, chủ thể lãnh đạo công tác đào tạo trình độ đại học là các đảng bộ trường

đại học công lập; đối tượng lãnh đạo của các đảng bộ là công tác đào tạo trình độ đại học.

Các đảng bộ trường đại học công lập lãnh đạo công tác đào tạo gồm: Đảng bộ

lãnh đạo các tổ chức đảng trong toàn đảng bộ và đội ngũ cán bộ, giảng viên, đảng viên

thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của đảng bộ về công tác đào tạo

trình độ đại học; Đảng bộ lãnh đạo các tổ chức trong trường đại học công lập… thực

hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác đào tạo trình độ

đại học theo chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, mà trọng tâm là lãnh đạo các tổ

chức trong trường đại học công lập, trong đó cần coi trọng lãnh đạo xây dựng và phát

huy vai trò của cấp ủy, người đứng đầu trong công tác đào tạo trình độ đại học.

2.3.1. Nội dung lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học của

các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội

Nội dung lãnh đạo của Đảng là những công việc đã được xác định Đảng phải

làm để thực hiện nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng và những nhiệm vụ trong từng

khoảng thời gian nhất định, trong một nhiệm kỳ đại hội Đảng đối với từng lĩnh vực đời

sống xã hội, từng tổ chức trong hệ thống chính trị và các tổ chức khác là nội dung lãnh

đạo của Đảng trong khoảng thời gian và đối với lĩnh vực, tổ chức đó.

Nội dung lãnh đạo của Đảng phụ thuộc và chịu sự chi phối bởi nhiệm vụ chung

và nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, mà trực tiếp nhất, là nhiệm vụ của từng giai

đoạn cách mạng. Đây là những vấn đề phải giải quyết đạt kết quả tốt để từng bước thực hiện

thắng lợi nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng đó. Nội dung lãnh đạo của Đảng cũng gợi mở,

định hướng cho Đảng lựa chọn và sử dụng phương thức thích hợp để thực hiện tốt nội dung

lãnh đạo.

Theo PGS, TS Đỗ Ngọc Ninh [69] nội dung lãnh đạo của Đảng là những quyết

định của Đảng về đường lối, chủ trương, chính sách đối với công tác xây dựng nội bộ

Đảng; các tổ chức, các lực lượng, các lĩnh vực hoạt động của Đảng và việc chỉ đạo thực

hiện các quyết định đó, nhằm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.

Như vậy, có thể hiểu nội dung lãnh đạo của đảng bộ các trường đại học công

lập ở thành phố Hà Nội nhằm nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học trong giai

đoạn hiện nay gồm:

Một là, lãnh đạo xây dựng chiến lược phát triển trường đại học, sứ mệnh, tầm

nhìn của nhà trường trên cơ sở bám sát chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển

giáo dục đại học, chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam.

Chiến lược phát triển trường đại học sẽ xác định rõ định hướng mục tiêu chiến

lược và các giải pháp chủ yếu trong quá trình vận động và phát triển, là cơ sở quan

trọng cho các quyết sách của ban lãnh đạo nhà trường cũng như toàn thể cán bộ, giảng

viên và sinh viên trong nhà trường. Đây cũng là cơ sở để mỗi nhà trường nhận thức

rõ về những giá trị cốt lõi mà nhà trường cần phấn đấu đạt được để tự định vị mình

trong hệ thống giáo dục đại học Thủ đô nói riêng, của đất nước nói chung để nêu

cao quyết tâm, nỗ lực thực hiện trong thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu đề ra.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, trong đó có hội nhập về giáo

dục và đào tạo, yêu cầu của nhà tuyển dụng về chất lượng nhân lực ngày càng cao,

sự cạnh tranh về chất lượng nhân lực từ các cơ sở đào tạo trình độ đại học trong và

ngoài nước, kể cả từ khu vực tư ngày càng trở nên khắc nghiệt, các đảng bộ trường

đại học công lập không thể không chú trọng vấn đề cải tiến và không ngừng nâng

cao chất lượng đào tạo để khẳng định vị trí, vai trò của mình trong đào tạo nguồn

nhân lực đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai

đoạn hiện nay.

Trên cơ sở chiến lược phát triển dài hạn, đảng bộ trường đại học cần cụ thể hóa

thành chương trình hành động, lãnh đạo xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chủ

trương, nhiệm vụ, công tác chuyên môn hàng năm của trường đại học theo đúng

đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hoàn thành nghĩa vụ của đơn

vị đối với Nhà nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, đảng viên và

quần chúng.

Hai là, lãnh đạo làm tốt công tác tư tưởng trong nhà trường để đảm bảo quán

triệt thông suốt, thống nhất nhận thức, thống nhất hành động, tạo tâm lý phấn khởi, tin

tưởng và quyết tâm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, giảng viên, nhân viên trong thực

hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường.

Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên và quần chúng, giảng viên và sinh

viên; phát huy truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, xây dựng tinh thần làm

chủ, tình đoàn kết, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau; kịp thời nắm bắt diễn biến tư tưởng,

tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên, quần chúng để giải quyết và báo cáo lên

cấp trên.

Kịp thời phổ biến, quán triệt để cán bộ, đảng viên và quần chúng nắm vững và

chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các chủ

trương, nhiệm vụ của đơn vị, thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị,

kiến thức và năng lực công tác cho cán bộ, đảng viên.

Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quần chúng đấu tranh chống các quan điểm sai

trái, tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bản vị, những hành vi nói, viết và làm trái với

đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; những biểu hiện mất dân

chủ, gia trưởng, độc đoán, tác phong quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, tinh thần

hợp tác và ý thức tổ chức, kỷ luật; phòng, chống sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức,

lối sống của cán bộ, đảng viên.

Ba là, lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ để đảm bảo cung cấp đủ nguồn nhân

lực có chất lượng phục vụ nhiệm vụ đào tạo trình độ đại học và đào tạo đảm bảo chất

lượng tốt.

Để phát triển giáo dục, cần phải có sự tương hỗ của nhiều yếu tố: nguồn tài

chính, nguồn lực con người, cơ sở vật chất, sự hỗ trợ của xã hội. Trong các yếu tố đó,

giảng viên và cán bộ quản lý là nhân tố không thể gì thay thế được, họ chính là điều

kiện tiên quyết đảm bảo chất lượng giáo dục quốc gia. Các nghiên cứu trong và ngoài

nước chỉ ra rằng: Phát triển đội ngũ giảng viên - “cỗ máy cái” trong nhà trường - là

một trong những nhân tố quyết định việc nâng cao chất lượng dạy và học và phát triển

hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay. Giảng viên là người đi đầu trong việc

đổi mới chương trình và phương pháp giảng dạy, quyết định việc tổ chức đào tạo trong

thực tiễn để biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo của người học, định

hướng, dẫn dắt, tổ chức cho việc phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu của người

học. Quá trình đào tạo trình độ đại học với tôn chỉ “lấy người học làm trung tâm” có

thể hiện thực hóa ở mức nào cũng tùy thuộc vào vai trò của người thầy - thúc đẩy,

khuyến khích, cổ vũ người học tỏa sáng để trở thành trung tâm của quá trình đào tạo.

Để làm tiền đề cho nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học, đội ngũ

giảng viên phải được phát triển đủ về số lượng, có phẩm chất và năng lực đạt

chuẩn của bậc đào tạo trình độ đại học. Năng lực chuyên môn, năng lực giảng

dạy, năng lực nghiên cứu là những năng lực tối thiểu của giảng viên đại học. Trên

cơ sở những năng lực này, các cơ sở đào tạo căn cứ vào đặc thù lĩnh vực nghề

nghiệp đào tạo để xác định những yêu cầu có tính chất đặc thù đối với đội ngũ

giảng viên cơ hữu.

Song song với việc phát triển đội ngũ giảng viên, cần đặc biệt chú trọng bồi

dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Công tác quản lý giáo dục đòi hỏi tính chuyên

nghiệp cao về khoa học và thực tiễn, bởi đặc thù về tính học thuật và nghệ thuật

sư phạm và quản lý giáo dục. Sự phát triển giáo dục không ngừng kéo theo nhiều

thay đổi phức tạp cho môi trường và đối tượng quản lý, đòi hỏi người quản lý

không chỉ bằng kinh nghiệm cảm tính, bằng thói quen chủ quan mà cần được thực

hiện trên cơ sở khoa học và thực tiễn đã được nghiên cứu và thực nghiệm một

cách khả thi. Cần phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục theo hướng chuẩn

hoá, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, nâng cao chất lượng, đặc biệt

chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm

nghề nghiệp và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Bốn là, lãnh đạo huy động các nguồn lực phục vụ hoạt động đào tạo.

Là các trường công lập được cấp ngân sách để triển khai đào tạo trình độ đại

học không có nghĩa là các trường thụ động đợi kinh phí hoạt động. Đào tạo trình độ

đại học hướng tới việc đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, gắn với nhu

cầu thị trường lao động và yêu cầu ngày càng cao về năng lực người được đào tạo đòi hỏi

sự đầu tư ngày càng nhiều và càng hiện đại cho hệ thống trang thiết bị, cơ sở thực hành,

thực tập, rèn luyện nghề. Nếu chỉ trông chờ vào ngân sách Nhà nước thì các trường công

lập sẽ luôn đi sau về công nghệ.

Các đảng bộ trường đại học công lập cần xác định đúng đắn vị trí, vai trò của

hoạt động hợp tác quốc tế trong đào tạo để có chỉ đạo triển khai các nội dung hợp tác

phù hợp với mục tiêu, sứ mệnh và tầm nhìn của nhà trường. Giao lưu, hợp tác quốc tế

trong đào tạo tạo cơ hội tiếp xúc, tìm hiểu kinh nghiệm đào tạo trên phạm vi quốc tế,

từ đó tìm kiếm, lựa chọn và học hỏi ứng dụng những yếu tố phù hợp cho hoạt động

đào tạo của nhà trường. Hợp tác quốc tế trong đào tạo không chỉ dừng lại ở trao đổi

giảng viên, sinh viên, liên kết đào tạo quốc tế… mà bao gồm cả các hoạt động hội

thảo, nghiên cứu khoa học. Đó là những cơ hội để giao lưu về học thuật, học hỏi kinh

nghiệm và huy động nguồn tài chính phục vụ hoạt động đào tạo của nhà trường.

Bên cạnh đó, cần có sự chỉ đạo tăng cường liên kết, hợp tác với các đơn vị sử

dụng nhân lực được đào tạo từ nhà trường, một mặt huy động sự tham gia của họ vào

hoạt động đào tạo thông qua việc tiếp nhận và hướng dẫn sinh viên thực tế, thực tập

trong môi trường làm nghề, mặt khác có thể tranh thủ cơ sở vật chất hiện đại của họ để hỗ

trợ cho quá trình đào tạo lý thuyết trong nhà trường. Cũng thông qua đó có thể thu nhận

thông tin phản hồi về chất lượng đào tạo của nhà trường, nắm bắt nhu cầu tuyển dụng và

yêu cầu cụ thể về chất lượng nhân lực để kịp thời có những điều chỉnh về nội dung,

phương pháp đào tạo nhằm đáp ứng nhanh nhất, hiệu quả nhất nhu cầu của thị trường lao

động.

Năm là, lãnh đạo công tác xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh, phát huy

vai trò nòng cốt của tổ chức đảng trong trường đại học song song với việc phát huy vai

trò của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường.

Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch,

vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ

đảng viên, nhất là việc phát hiện và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí

và các biểu hiện tiêu cực trong đơn vị. Thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh

hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình; thực

hiện có nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, bảo

đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu.

Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu,

thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; xây dựng kế hoạch và tạo điều kiện để đảng

viên thực hiện nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt.

Cấp uỷ xây dựng kế hoạch, biện pháp quản lý đảng viên, phân công nhiệm

vụ và tạo điều kiện cho đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao; thực hiện tốt

việc giới thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ,

đảng uỷ cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Làm tốt

công tác động viên, khen thưởng, kỷ luật đảng viên; biểu dương, khen thưởng kịp

thời những cán bộ, đảng viên có thành tích xuất sắc, xử lý nghiêm, kịp thời những

cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Làm tốt công

tác tạo nguồn và phát triển đảng viên, bảo đảm về tiêu chuẩn và quy trình; chú

trọng đối tượng là đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và những quần

chúng ưu tú, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ.

Xây dựng cấp uỷ có đủ phẩm chất, năng lực, hoạt động có hiệu quả, được đảng

viên và quần chúng tín nhiệm. Nói chung, bí thư cấp uỷ phải là cán bộ lãnh đạo của

đơn vị, tiêu biểu cho đảng bộ, chi bộ, đoàn kết, tập hợp được cán bộ, đảng viên và

quần chúng.

Cấp uỷ thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành điều lệ,

nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Quy định của

Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm. Định kỳ hằng năm, cấp uỷ tổ

chức để quần chúng tham gia góp ý về sự lãnh đạo của tổ chức đảng và vai trò tiền

phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.

2.3.2. Phương thức lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học

của các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội

Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, cho rằng: “phương thức” là

phương pháp và hình thức tiến hành [103, tr.1351]; “phương pháp” là cách thức tiến

hành để có hiệu quả cao [103, tr.1351].

Như vậy, "phương thức" là hình thức và phương pháp, hay cách thức tiến hành

công việc để có hiệu quả cao. "Phương thức" tiến hành đúng đắn, phù hợp với công

việc sẽ đem lại hiệu quả cao; ngược lại, phương thức tiến hành không đúng, không phù

hợp sẽ đem lại hiệu quả thấp, thậm chí không đạt hiệu quả. Vì vậy, vấn đề rất quan

trọng phải quan tâm, lựa chọn cho được phương thức tiến hành phù hợp với công

việc. Để đạt được điều đó, phải xuất phát từ công việc, trên cơ sở công việc để lựa

chọn phương thức tiến hành. Tuy nhiên, đây là vấn đề rất khó khăn, phức tạp.

Phương thức lãnh đạo của Đảng tập trung ở việc xác định đúng đắn đường lối,

mục tiêu thể hiện trong các cương lĩnh, nghị quyết của Đảng; ở tính thuyết phục của

công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục của Đảng; ở việc toàn Đảng, mỗi đảng viên

luôn tự rèn luyện, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu về mọi mặt, hết lòng hết sức

phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thực sự là “người đày tớ trung thành của nhân

dân”, trở thành ngọn cờ dẫn đường, vận động, thuyết phục nhân dân tự nguyện đi theo,

ủng hộ Đảng, phấn đấu thực hiện thắng lợi đường lối, mục tiêu của Đảng.

Phương thức lãnh đạo có mối liên hệ hữu cơ với nội dung lãnh đạo, nội dung

nào thì đòi hỏi phải có phương thức ấy cho phù hợp nhưng không thể ngược lại. Như

vậy, nội dung lãnh đạo quyết định phương thức lãnh đạo và có tính khách quan. Từ đó,

phương thức lãnh đạo cũng phải mang tính khách quan cụ thể.

Có thể nói, phương thức lãnh đạo của Đảng bao gồm các công cụ lãnh đạo, hệ

thống các mối liên hệ và cơ chế liên hệ giữa Đảng với xã hội, với Nhà nước, với hệ

thống chính trị; hệ thống các phương pháp tiếp cận và phong cách lãnh đạo. Các yếu tố

này thể hiện ở tất cả các phương diện hoạt động của Đảng. Do đó, khi chúng ta

nói “Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương”, “bằng tổ chức kiểm tra”, “bằng hành

động gương mẫu của đảng viên” v.v.. là chúng ta đã nhấn mạnh một cách đầy đủ đến

các yếu tố công cụ, phương pháp, phong cách, tức là phương thức lãnh đạo của Đảng

nhằm đưa nội dung lãnh đạo thành kết quả hiện thực.

Từ những phân tích trên, có thể quan niệm: Phương thức lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học của các đảng bộ trường đại học công lập là hệ thống các hình thức, phương pháp, cách thức, quy trình, quy chế, quy định, lề lối làm việc, tác phong công tác mà đảng bộ sử dụng để tác động vào các tổ chức đảng, đảng viên, các tổ chức trong các trường đại học nhằm thực hiện thắng lợi nội dung lãnh đạo công tác đào tạo của đảng bộ.

Trên cơ sở quan niệm nêu trên, phương thức lãnh đạo của các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội đối với công tác đào tạo trong giai đoạn hiện nay gồm các hình thức, phương pháp chủ yếu sau:

- Lãnh đạo bằng chủ trương, nghị quyết, chiến lược, chương trình, quy chế, quy định về công tác đào tạo trình độ đại học

Đây là phương thức lãnh đạo quan trọng nhất, đồng thời là phương thức lãnh đạo

đặc trưng của đảng bộ đối với công tác đào tạo. Do vậy, tùy theo từng nội dung cần lãnh

đạo, đối tượng lãnh đạo cụ thể và yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong từng thời kỳ, các đảng bộ

trường đại học công lập xây dựng chủ trương, nghị quyết, chỉ thị và các định hướng lãnh

đạo công tác đào tạo. Trong đó, nêu quan điểm, tư tưởng chủ đạo, chỉ ra mục tiêu cần đạt

tới, phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nhà trường, nâng cao chất

lượng công tác đào tạo.

Trong quá trình đề ra chủ trương, nghị quyết, chỉ thị và các định hướng lớn lãnh

đạo công tác đào tạo, căn cứ vào nội dung cũng như tầm quan trọng của vấn đề cần

giải quyết để xác định tổ chức nào có đủ thẩm quyền ban hành nghị quyết, chỉ thị lãnh

đạo công tác đào tạo (đại hội đại biểu đảng bộ, ban chấp hành đảng bộ, ban thường vụ

Đảng uỷ, thường trực Đảng ủy). Điều này, bên cạnh căn cứ vào tính chất của vấn đề

còn phải căn cứ vào các quy định phân cấp quản lý đào tạo của các trường đại học

công lập, phù hợp với quy định chung của Trung ương.

Do vị trí đặc biệt của nội dung phương thức lãnh đạo này, nên yêu cầu đặt ra

mang tính nguyên tắc đó là các nghị quyết, chỉ thị và các định hướng lớn về công tác

đào tạo phải thực sự là những định hướng giá trị đúng đắn, sáng suốt, phù hợp quy luật

khách quan, không trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, hệ thống pháp luật của Nhà

nước và điều quan trọng hơn là sát, phù hợp với thực tiễn công tác đào tạo của các

trường đại học công lập.

- Lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục tổ chức đảng, đảng viên để thực hiện nghị quyết, chủ trương về công tác đào tạo.

Tuyên truyền, thuyết phục khơi dậy và huy động tiềm năng, trí tuệ, kinh nghiệm, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, giảng viên, hướng vào xây dựng đội ngũ cán bộ là một nội dung tích cực, có tác dụng to lớn để các đảng bộ trường đại học công lập lãnh đạo công tác đào tạo, phát huy sức mạnh đội ngũ cán bộ, giảng viên, đảng viên tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị và các định hướng lớn của các đảng bộ trường đại học công lập về công tác đào tạo.

- Lãnh đạo thông qua phân công, phân cấp quản lý cán bộ,giảng viên; phát huy vai trò quản lý nhà nước của nhà trường; vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống nhà trường.

Xuất phát từ quan điểm của Đảng về công tác cán bộ, trong đó cán bộ và công tác cán bộ luôn giữ vai trò “then chốt” trong xây dựng hệ thống chính trị nên các đảng bộ trường đại học công lập phải thực hiện tốt phương thức lãnh đạo này.. Vì nắm cán bộ và công tác cán bộ chính là nắm nhân tố con người trong tổ chức. Tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể mạnh hay yếu phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ trong Đảng, chính quyền và các đoàn thể, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt. Nắm chắc công tác cán bộ, giải quyết tốt các khâu cán bộ, đó là điều kiện cơ bản có ý nghĩa quyết định nhất trong xây dựng củng cố tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể.

Từ việc nắm chắc công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ, giảng viên trong toàn đảng bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử tham gia cơ quan lãnh đạo của nhà trường, các đoàn thể, đảng bộ chi phối và điều khiển hoạt động của nhà trường, đoàn thể trong

trường theo định hướng chính trị của đảng bộ. - Lãnh đạo bằng công tác tổ chức, xây dựng các tổ chức và đội ngũ cán bộ làm

công tác đào tạo. Công tác đào tạo của các trường đại học có ý nghĩa to lớn, góp phần vào kết quả

việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,

qua đó các đảng bộ trường đại học công lập lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện,

góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển chung của công tác đào tạo. Việc xây

dựng các tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác đào tạo góp phần nâng cao hiệu lực,

hiệu quả công tác đào tạo của các đảng bộ.

- Lãnh đạo thông qua vai trò của tổ chức đảng, vai trò tiền phong gương mẫu

của đội ngũ đảng viên.

Phương thức lãnh đạo của các đảng bộ trường đại học công lập đối với công tác

đào tạo bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên trong trường, nhất

là đảng viên giữ các cương vị lãnh đạo trong bộ máy nhà trường, làm theo và thực hiện

tốt định hướng chính trị theo chủ trương, đường lối của Đảng.

Các vị trí lãnh đạo trong các trường đại học công lập đều do đảng viên nắm giữ.

Vì vậy, việc tăng cường giáo dục, rèn luyện đảng viên, nâng cao phẩm chất chính trị,

đạo đức lối sống; nâng cao năng lực lãnh đạo, khả năng vận động quần chúng, năng

lực tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao chính là nâng cao phẩm chất, năng lực

của đội ngũ công chức nhà nhà nước, đoàn thể. Thông qua đội ngũ đảng viên này, triển

khai toàn diện hiện thực hóa chủ trương, nghị quyết của đảng bộ.

- Lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát

Kiểm tra là một chức năng lãnh đạo của Đảng nhằm đánh giá đúng đắn kết quả

việc tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, những ưu điểm,

khuyết điểm, những khó khăn, vướng mắc khi triển khai thực hiện những vấn đề về

công tác cán bộ, từ đó có điều chỉnh, bổ sung kịp thời.

Hoạt động kiểm tra, giám sát của các đảng bộ ở trường đại học công lập đối với công tác đào tạo của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể, đặc biệt thông qua kiểm tra các cá nhân đảng viên giữ những trọng trách trong nhà trường, đoàn thể. Việc kiểm tra của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên giữ trọng trách trong cơ quan, đoàn thể phải trở thành nhiệm vụ thường xuyên, đảm bảo cho Đảng nắm vững bộ máy nhà nước, đoàn thể chấp hành sự lãnh đạo của Đảng.

Phương thức và nội dung lãnh đạo của các đảng bộ trường đại học công lập đối với công tác đào tạo quan hệ mật thiết với nhau, và là hai vấn đề rất quan trọng về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo. Phương thức lãnh đạo của các đảng bộ đối với công tác đào tạo, chịu sự ràng buộc, chi phối bởi nội dung lãnh đạo của các đảng bộ đối với công tác này. Ngoài ra phương thức lãnh đạo của đảng đối với công tác đào tạo còn phụ thuộc vào đặc điểm và năng lực lãnh đạo của từng đảng bộ; vào tình hình đào tạo của nhà trường; vào đặc điểm, năng lực thực hiện nhiệm vụ công tác đào tạo của mỗi cán bộ, đảng viên… Vì vậy, để lãnh đạo công tác đào tạo đạt hiệu quả, nhất là lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương bảy, khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục đào tạo thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần nhận thức sâu sắc những điều này. Cần xác định đúng đắn nội dung lãnh đạo trên cơ sở đó tạo lập phương thức lãnh đạo công tác đào tạo đúng đắn, phù hợp với nội dung lãnh đạo, tránh tuỳ tiện.

Sự lãnh đạo của các đảng bộ trường đại học công lập đối với công tác đào tạo là hoạt động liên quan trực tiếp đến một lực lượng rất to lớn, luôn vận động và phát triển rất nhanh trong các nhà trường, nhất là trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo công tác đào tạo, các đảng bộ trường đại học công lập cần điều chỉnh, bổ sung nội dung lãnh đạo, trên cơ sở đó, điều chỉnh phương thức lãnh đạo cho phù hợp.

Tiểu kết chương 2

Giáo dục đại học có vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân ở mỗi quốc gia. Các đảng bộ của trường đại học chính là hạt nhân chính trị và có vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo nâng cao chất lượng công tác đào tạo trình độ đại học. Các đảng bộ các trường đại học công lập lãnh đạo công tác đào tạo trong giai đoạn hiện nay gồm các nội dung như: Cụ thể hóa chiến lược và chính sách phát triển giáo dục đại học của Đảng và Nhà nước; Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường; Lãnh đạo công tác tư tưởng; Lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ; Lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội; Xây dựng tổ chức đảng. Để thực hiện thắng lợi nội dung lãnh đạo đó thì có phương thức lãnh đạo phù hợp như: Lãnh đạo bằng chủ trương, nghị quyết, chiến lược, chương trình, quy chế, quy định về công tác đào tạo trình độ đại học; Lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục tổ chức đảng, đảng viên để thực hiện nghị quyết, chủ trương về công tác đào tạo; Lãnh đạo thông qua phân công, phân cấp quản lý cán bộ,giảng viên; phát huy vai trò quản lý nhà nước của nhà trường; vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống nhà trường; Lãnh đạo bằng công tác tổ chức, xây dựng các tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác đào tạo; Lãnh đạo thông qua vai trò của tổ chức đảng, vai trò tiền phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên; Lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát.

Chương 3 CÁC ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở THÀNH PHỐ

HÀ NỘI LÃNH ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

3.1. THỰC TRẠNG LÃNH ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO ĐẠO ĐẠI

HỌC CỦA CÁC ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở THÀNH PHỐ HÀ

NỘI

3.1.1. Ưu điểm

3.1.1.1. Ưu điểm trong thực hiện nội dung lãnh đạo

Thứ nhất, tất cả các đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội đã

lãnh đạo xây dựng và công bố chiến lược phát triển nhà trường, định hướng mục tiêu,

sứ mệnh đào tạo và tầm nhìn, các giá trị cốt lõi mà nhà trường hướng tới.

Đây là nội dung quan trọng hàng đầu, luôn được các đảng bộ trường đại học ở

thành phố Hà Nội quan tâm lãnh đạo. Các chiến lược phát triển nhà trường được xây dựng

trên cơ sở cụ thể hóa chiến lược và chính sách phát triển giáo dục đại học của Đảng và

Nhà nước trong lĩnh vực đào tạo của nhà trường, phù hợp với các chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; công cuộc đổi mới giáo

dục đại học Việt Nam. Hầu hết các trường có kế hoạch phát triển trung hạn 2010-2015,

tầm nhìn đến năm 2020. Một số đảng bộ trường đại học đã xây dựng chiến lược phát triển

dài hạn, định hướng tầm nhìn đến năm 2030 như Đảng bộ Đại học Bách khoa Hà Nội.

Hầu hết các đảng bộ trường đại học đã xác định việc xây dựng sứ mệnh, tầm

nhìn, chính sách, nguồn lực, nhu cầu xã hội là những yếu tố rõ ràng và quan trọng

trong chiến lược phát triển của mỗi trường đại học. Tất cả những điều đó là cơ sở,

động lực thức đẩy mạnh mẽ công tác đảm bảo chất lượng. Cụ thể như:

Đối với trường Đại học Sư phạm Hà Nội, sứ mệnh của nhà trường được xác

định là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài cho hệ thống giáo

dục quốc dân và toàn xã hội; nghiên cứu khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng thuộc

các lĩnh vực khoa học tự nhiên, xã hội và nhân văn, Giáo dục đạt trình độ tiên tiến;

cung cấp dịch vụ giáo dục và khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Tầm nhìn đến năm 2020 Trường Đại học Sư

phạm Hà Nội sẽ là trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực có uy tín trong khu vực và thế

giới.

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội phát triển theo hướng đại học nghiên

cứu với quy mô trên 35.000 sinh viên; là một trong những trung tâm đào

tạo và nghiên cứu khoa học hàng đầu của quốc gia; là nơi tập trung các

chuyên gia, giảng viên trình độ cao; các chương trình đào tạo liên kết quốc

tế có uy tín trên thế giới; cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại với các dịch

vụ hoàn hảo. Nhà trường đã xây dựng giá trị cốt lõi là: “Mô phạm - Sáng

tạo - Cống hiến” [39].

Đảng bộ Đại học Bách khoa Hà Nội đã chỉ đạo xây dựng và thông qua Đề án

"Hiện đại hóa trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2006-2020 “Quy hoạch

tổng thể xây dựng và phát triển trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2006-

2030”. Mục tiêu của Đề án là:

Xây dựng trường Đại học Bách khoa Hà Nội thành đại học nghiên cứu,

đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực đạt trình độ và chất lượng quốc tế; một

trung tâm nghiên cứu khoa học và kỹ thuật hiện đại; hội nhập hệ thống

đại học khu vực và thế giới; là địa chỉ hợp tác và đầu tư tin cậy, hấp dẫn

đối với xã hội, các tổ chức, các cơ quan đào tạo và nghiên cứu, giới

doanh nghiệp, tài chính trong và ngoài nước [36].

Nhận thức rõ vị trí, vai trò của nhà trường, Đảng bộ trường Đại học Kinh tế

quốc dân xác định rõ sứ mệnh của mình là cho xã hội các sản phẩm đào tạo, nghiên

cứu khoa học, tư vấn, ứng dụng và chuyển giao công nghệ có chất lượng cao, có

thương hiệu và danh tiếng, đạt đẳng cấp khu vực và quốc tế về lĩnh vực kinh tế, quản

lý và quản trị kinh doanh, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới. Trường Đại học Kinh tế

quốc dân cũng xác định:

Tầm nhìn đến năm 2020, phấn đấu phát triển thành trường đại học định

hướng nghiên cứu, trường đại học đa ngành có uy tín, đạt chất lượng

đẳng cấp khu vực và quốc tế trong lĩnh vực quản lý kinh tế, quản trị

kinh doanh và một số lĩnh vực mũi nhọn khác. Phấn đấu trong những

thập kỷ tới, trường được xếp trong số 1000 trường đại học hàng đầu

trên thế giới [37].

Những trường hợp cụ thể trên đây cho thấy các đảng bộ trường đại học công lập

luôn quan tâm cụ thể hóa chiến lược và chính sách phát triển giáo dục đại học của

Đảng và Nhà nước thành mục tiêu, chiến lược và sứ mệnh đào tạo phù hợp với chức

năng, nhiệm vụ và lĩnh vực đào tạo chuyên biệt của nhà trường. Thực tế chỉ ra rằng,

chỉ khi xác định được xứ mệnh, mục tiêu phù hợp, các trường sẽ có sự phát triển vững

chắc, chất lượng đào tạo được xã hội chấp nhận.

Thứ hai, lãnh đạo, định hướng nâng cao chất lượng nội dung, chương trình

đào tạo, phương thức đào tạo

Cùng với quá trình đổi mới của hệ thống các trường đại học trong toàn quốc,

các đảng bộ trường đại học công lập trên địa bàn Hà Nội đã lãnh đạo nhà trường tiến

hành đổi mới toàn diện các mặt hoạt động trong đó có đổi mới về công tác đào tạo.

Đổi mới trước hết là đổi mới nội dung, chương trình giảng dạy đảm bảo yêu cầu đào

tạo toàn diện “dạy người, dạy nghề”, để từ đó tạo nguồn nhân lực đồng bộ có phẩm

chất chính trị, đạo đức tốt, có sức khỏe, có năng lực thực hành nghề nghiệp, có khả

năng tự nghiên cứu và phát triển.

Đổi mới nội dung, chương trình theo yêu cầu và chỉ đạo của Bộ Giáo dục và

Đào tạo được xác định là nhiệm vụ căn bản để không ngừng đảm bảo và nâng cao chất

lượng đào tạo. Thực hiện Thông tư 07/2015/TT-BGDĐT ngày 16-4-2015 của Bộ

trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Quy định về khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về

năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của

giáo dục đại học và quy trình xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo

trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ, các đảng bộ trường đại học đều chỉ đạo tiến hành điều

chỉnh, đổi mới, hoàn thiện chương trình khung và theo hướng đa dạng hóa, chuẩn hóa,

hiện đại hóa. Nhiều trường đã triển khai công tác đánh giá chương trình đào tạo theo

định kỳ 2 năm/lần, điều chỉnh chương trình khung theo định kỳ 4 năm/lần, mở mới và

hoàn thiện các chương trình tiên tiến, chương trình chất lượng cao... Tiếp tục triển

khai thực hiện và phát triển các chương trình đào tạo thuộc Nhiệm vụ chiến lược của

mỗi trường, xây dựng và phát triển ngành, chuyên ngành đạt chuẩn quốc tế; từng bước

phát triển một số bộ môn, khoa, đơn vị đạt chuẩn quốc tế; phát triển các chương trình

đào tạo liên kết quốc tế; tăng cường tiếp nhận các chương trình đào tạo tiên tiến của

các nước phát triển; xây dựng và phát triển các chương trình đào tạo liên ngành, mũi

nhọn, có nhu cầu xã hội cao và những lĩnh vực khoa học mới.

Năm 2015, trường Đại học Thủy lợi đã tiến hành rà soát, hoàn chỉnh thêm một

bước các chương trình đào tạo hiện có, mở mới 3 ngành đào tạo bậc đại học (Kỹ thuật

xây dựng công trình giao thông, Quản lý xây dựng, Kỹ thuật trắc địa - bản đồ) và 3

chương trình đào tạo thạc sĩ bằng tiếng Anh (Intergrated Water Resources

Management, Natural Disaster Management, Coastal Engineering an Coastel Zone

Management).

Nhà trường hiện đang đào tạo 21 chương trình bậc đại học, trong đó có 2

chương trình tiên tiến bằng tiếng Anh, 15 chuyên ngành đào tạo bậc cao

học, trong đó có 4 chương trình đào tạo bằng tiếng Anh, 9 chương trình đào

tạo bậc tiến sĩ [38].

Đại học Bách khoa Hà Nội đã triển khai "Đề án đổi mới mô hình và chương

trình đào tạo" nhằm hội nhập với nền giáo dục đại học thế giới, phù hợp với điều kiện

kinh tế và yêu cầu đội ngũ nhân lực có trình độ cao của đất nước. Mô hình đào tạo

mới với các hệ đào tạo: Cử nhân công nghệ, cử nhân kỹ thuật, thạc sỹ khoa học, thạc

sỹ kỹ thuật và tiến sỹ đã được Bộ Giáo dục và đào tạo cho phép thí điểm thực hiện.

Bên cạnh đó Trường cũng đã chỉnh lý và xây dựng chương trình đào tạo dài hạn 5

năm và chương trình đào tạo liên thông từ cao đẳng, cao đẳng nghề lên đại học theo

hình thức vừa làm vừa học. Chương trình đào tạo mới đã rút kinh nghiệm từ thực tiễn,

chú trọng đến việc cân đối thời gian giữa lý thuyết, bài tập, thực hành, thí nghiệm,

nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo.

Nhà trường tiếp tục củng cố, xây dựng và mở rộng các chương trình đào

tạo đặc biệt. Chương trình đào tạo hệ kỹ sư tài năng tiếp tục được đổi mới

để vừa nâng cao chất lượng vừa đáp ứng với yêu cầu của phương thức đào

tạo tín chỉ. Chương trình Kỹ sư chất lượng cao tiếp tục được Hiệp hội kỹ sư

Châu Âu đánh giá, công nhận bằng tốt nghiệp cho giai đoạn 2013- 2016

[36].

Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập của các trường là nội dung ưu tiên

hàng đầu trong đổi mới công tác đào tạo. Đổi mới phương pháp đào tạo theo 3

tiêu chí: trang bị cách học, phát huy tính chủ động của người học; sử dụng công

nghệ thông tin và truyền thông trong hoạt động dạy và học; khai thác tốt các

nguồn tư liệu giáo dục mở và nguồn tư liệu trên mạng Internet; dạy học gắn liền

với thực hành, tạo ra không khí học tập mới, phong cách học hiện đại, người học

có thể đối thoại, hội thoại, thầy hướng dẫn trò học tập và thực hành; nâng cao kỹ

năng giảng dạy tích cực cho đội ngũ cán bộ để đáp ứng nhu cầu đổi mới phương

pháp đào tạo…

Hoàn chỉnh hệ thống đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của sinh viên, tiến

hành test hóa và chuẩn hóa các test lượng giá sinh viên, thực hiện sàng lọc mạnh trong

quá trình đào tạo. Nhiều trường đã triển khai hình thức thi trắc nghiệm khách quan

trên máy vi tính. Công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra thi được thực hiện thường

xuyên. Chủ động phòng ngừa và ngăn chặn không để xảy ra tình trạng đào tạo kỹ

năng, kỹ xảo làm bài, học gian thi lận, bằng thật học giả. Xử lý nghiêm minh những

trường hợp vi phạm quy chế thi, kiểm tra kể cả người học và người dạy. Công khai

toàn bộ kết quả học tập và rèn luyện của sinh viên trên mạng giúp cho sinh viên dễ

theo dõi và có hướng phấn đấu.

Thứ ba, lãnh đạo nâng cao chất lượng công tác tổ chức - cán bộ; xây dựng đội

ngũ giảng viên, cán bộ khoa học có chất lượng cao

Đội ngũ cán bộ, giảng viên, cán bộ nghiên cứu khoa học có vai trò quan trọng

quyết định đến nâng cao chất lượng đào tạo. Để xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên

đáp ứng yêu cầu công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới, đảng ủy, Ban Giám

hiệu các trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có các nghị quyết

chuyên đề lãnh đạo thực hiện công tác cán bộ và triển khai đến từng cán bộ, đảng viên

trong đảng bộ. Nghị quyết đề ra các chủ trương, giải pháp tích cực, đồng bộ, nhằm xây

dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu một cách phù

hợp.

Các đảng bộ trường coi trọng trước hết việc thực hiện tốt công tác quy hoạch,

sắp xếp cán bộ, phân cấp quản lý theo thẩm quyền. Trong quy hoạch đã chú trọng phát

hiện, bồi dưỡng nguồn cán bộ lãnh đạo, chủ trì phòng, khoa, bộ môn, đơn vị; kết hợp

chặt chẽ việc sắp xếp cán bộ lãnh đạo, chỉ huy với kiện toàn cấp ủy; thực hiện tốt

phương châm xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lượng theo biểu biên chế, chức danh

cán bộ, nhưng phải lấy chất lượng làm chính, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục, vững

chắc giữa các thế hệ.

Thực hiện phương châm tự đào tạo, nhiều trường đã chủ động mở các lớp đào

tạo giảng viên trẻ, có triển vọng, đối tượng chủ yếu là số sinh viên đã tốt nghiệp, được

giữ lại trường và cán bộ, chuyên viên chưa được đào tạo nghiệp vụ sư phạm nhưng có

năng khiếu và khả năng phát triển tốt. Việc làm này không chỉ đảm bảo người học

được trang bị, củng cố những kiến thức cơ bản, mà còn có điều kiện vận dụng, liên hệ

vào thực tiễn của các trường, góp phần giải quyết kịp thời sự thiếu hụt cán bộ quản lý

và giảng viên; tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển tiếp theo của bản thân họ.

Nhiều trường coi trọng nghiên cứu, vận dụng kịp thời những thành tựu mới của khoa

học quản lý vào công tác quản lý, giảng dạy; thường xuyên cử cán bộ, giảng viên đi

thực tế ở các đơn vị, địa phương nhằm tích lũy kinh nghiệm thực tiễn, nâng cao năng

lực toàn diện cho họ.

Để đội ngũ cán bộ, giảng viên phấn khởi, yên tâm công tác, nhiều đảng bộ đã

quan tâm lãnh đạo nhà trường coi trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chính

sách cán bộ. Ngoài việc tổ chức thực hiện tốt các chế độ, chính sách đã ban hành, các

đảng bộ còn chủ động chỉ đạo đề ra nhiều biện pháp cụ thể chăm lo đời sống vật chất,

tinh thần của cán bộ, giảng viên.

Từ hiệu quả lãnh đạo của các đảng bộ, chất lượng đội ngũ giảng viên của

các trường đại học công lập ở Hà Nội không ngừng được nâng lên. Theo thống kê

khảo sát năm 2016 ở 33 đảng bộ, có hơn 4.000 đảng viên có trình độ lí luận chính

trị cử nhân, cao cấp và trung cấp (chiếm khoảng 45% tổng số đảng viên). Trong

tổng số 1.221 giáo sư, phó giáo sư thì 1.006 người là đảng viên (82,4 %); 2.709

tiến sĩ khoa học, tiến sĩ thì 1.894 người là đảng viên (69,9%); 4.887 thạc sĩ thì

2.135 đảng viên (43,7%); 8.793 cử nhân có 2.691 là đảng viên (30,6%); chỉ có

18,2% đảng viên trong số những người chưa có trình độ đại học. [Phụ lục số 6].

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ giỏi

về chuyên môn nghiệp vụ, tâm huyết với nghề và hết lòng vì sinh viên. Số tiến sĩ trên

số giảng viên đã vượt qua 55%.

Tính đến tháng 12-2015, số cán bộ giảng viên của trường là 2.008 người,

trong đó có 1.237 là cán bộ giảng dạy, 787 cán bộ phục vụ và hành chính.

Tuổi bình quân của cán bộ trên dưới 38 tuổi. Năm 2010, trường có 20 giáo

sư, 15 phó giáo sư, 632 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học thì đến tháng 12/2015, số

giáo sư của trường là 21 người, 189 phó giáo sư và 681 tiến sĩ và tiến sĩ

khoa học [36].

Công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ trẻ cũng đã nhận được sự quan tâm đặc

biệt. Trong thời gian tập sự, cán bộ trẻ được giao nhiệm vụ cụ thể dưới sự hướng dẫn

của một cán bộ có kinh nghiệm. Đối với các giảng viên trẻ, ưu tiên hàng đầu của

Trường và các Khoa, Viện là đào tạo chuyên môn, nâng cao trình độ. Vì vậy, giai đoạn

2010-2015, trường đã cử 45 cán bộ đi học cao học, 160 cán bộ đi học nghiên cứu sinh,

156 cán bộ đi thực tập nâng cao và 35 cán bộ thực tập sau Tiến sĩ. Hiện nay đang có

42 cán bộ đi học Cao học, 160 cán bộ đi làm nghiên cứu sinh và 37 cán bộ đi thực tập

sau Tiến sĩ [36].

Đảng ủy trường Đại học Thủy lợi đặc biệt quan tâm đến công tác bồi dưỡng

nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ cho

đội ngũ cán bộ, giảng viên.

Giai đoạn 2010-2015, đã có 11 cán bộ, giảng viên được cử đi học Cao cấp lý

luận chính trị, 176 người được cử đi đào tạo trình độ thạc sĩ và tiến sĩ. Tính

đến 31-3-2015, đội ngũ cán bộ giảng dạy của trường có 535 giảng viên, trong

đó có 10 giáo sư, 48 phó giáo sư, 152 tiến sĩ (chiếm 28,4%), 313 thạc sĩ

(chiếm 58,5%). So với đầu nhiệm kỳ, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ được

nâng từ 20,2% lên 28,4%, tỷ lệ giảng viên có trình độ thạc sĩ được nâng từ

52,1% lên 58,5%, đưa tỷ lệ chung giảng viên có trình độ thạc sĩ trở lên chiếm

86,9% (so với 72,3% đầu nhiệm kỳ) [38].

Đây chính là những số liệu minh chứng sống động về sự quan tâm, chỉ đạo sát

sao của các đảng bộ nhà trường đối với công tác phát triển và nâng cao chất lượng đội

ngũ cán bộ, giảng viên - yếu tố có tính chất quyết định cho việc nâng cao chất lượng

đào tạo trong các nhà trường.

Thứ tư, lãnh đạo nâng cao chất lượng công tác phối hợp giữa các tổ chức trong

nhà trường; công tác phối hợp, chuyển giao công nghệ đào tạo với các tổ chức, doanh

nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước

Thời gian qua, giáo dục đại học của nước ta nói chung, đại học công lập trên địa

bàn Hà Nội đã phát triển nhanh về quy mô, đa dạng về loại hình đào tạo, ngành đào

tạo. Để sinh viên sau khi được đào tạo đáp ứng được yêu cầu của tổ chức, doanh

nghiệp, Nhà nước đã có chủ trương khuyến khích các trường đại học liên kết với các

tổ chức, doanh nghiệp (DN) ngay từ khâu đào tạo, nghiên cứu khoa học. Có thể kể đến

một số mô hình liên kết, như:

Mô hình của trường Đại học Bách khoa Hà Nội: Đại học Bách khoa Hà Nội đã

xây dựng quan hệ hợp tác với hơn 250 trường đại học, viện nghiên cứu và tổ chức giáo

dục quốc tế của 35 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hiện nay Đại học Bách

khoa Hà Nội là thành viên của 7 hiệp hội và mạng lưới các trường đại học khu vực và

quốc tế, năm 2014 tham gia mạng lưới AOTULE- Hiệp hội các trường đại học kỹ

thuật hàng đầu khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Một trong những thành công nổi

bật của Trường thể hiện qua sự hợp tác với Công ty cổ phần Bóng đèn phích nước

Rạng Đông trong hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Quan hệ

hợp tác này đã mang lại nhiều đề tài, dự án và tăng cường năng lực nghiên cứu cho

Trường; đồng thời, góp phần tạo nên sự tăng trưởng vượt bậc của Rạng Đông. Hiện

nay, hai bên đã có nhiều dự án chung, trong đó có dự án xây dựng hai phòng thí

nghiệm chung (01 đặt tại Rạng Đông và 01 tại trường Đại học Bách khoa Hà Nội),

mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho cả hai bên.

Các mối quan hệ hợp tác quốc tế đã tạo điều kiện để trường tăng cường năng

lực cán bộ, giảng viên. Hàng năm, trường cử ra nước ngoài khoảng 450 lượt cán bộ và

sinh viên tốt nghiệp đi thực tập, nghiên cứu, trao đổi học thuật, đi thăm quan, dự hội

nghị, hội thảo..., trong đó có nhiều cán bộ trẻ đi học dài hạn, làm nghiên cứu sinh, học

cao học. Đẩy mạnh hợp tác với các đại học có uy tín của các nước phát triển như Mỹ,

Nhật, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Hà Lan, Bỉ, Nga... Trao đổi và hợp tác đào tạo, phát triển

Chương trình Đào tạo Quốc tế thành mô hình đào tạo phối hợp cập nhật chương trình

tiên tiến của nước ngoài, được các đối tác và doanh nghiệp đánh giá cao. Hàng trăm

cán bộ đã được hỗ trợ tham gia các dự án nâng cao năng lực, kỹ năng giảng dạy theo

dự án HEEAP- Hành trình phát triển và đổi mới (Hoa Kỳ). Tổng số 65 đề tài nghiên

cứu với kinh phí 58,5 tỉ đồng từ hợp tác song phương trong các dự án, đề tài nghị định

thư và mối quan hệ giữa các trường đại học với nhau. Phối hợp với các đối tác trong

mạng lưới tổ chức hơn 70 hội nghị, hội thảo, xê-mi-na quốc tế tại Đại học Bách khoa

Hà Nội . Trong 5 năm qua, hoạt động hợp tác quốc tế đã giúp huy động hơn 30 triệu

USD đầu tư cho cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học, học bổng cho

cán bộ và sinh viên đi học tập ở nước ngoài. Hiện nay, thông qua hợp tác quốc tế,

Trường đang xúc tiến tìm kiếm các nguồn tài trợ cho việc xây dựng các phòng thí

nghiệm tập trung và các trung tâm nghiên cứu quốc tế, tiến tới xây dựng các “Cụm

nghiên cứu cạnh tranh” tại Đại học Bách khoa Hà Nội: các Dự án ODA (Hỗ trợ phát

triển chính thức) do Cơ quan phát triển hợp tác Quốc tế của các nước tài trợ như Dự án

cao su (Nhật Bản), Dự án Xử lý chất thải rắn (Hàn Quốc), Dự án Siêu máy tính (Ấn

Độ) và các Phòng thí nghiệm do các doanh nghiệp tài trợ (6 phòng thí nghiệm trị giá

11,1 tỉ đồng), nâng cấp thiết bị cho các phòng thí nghiệm qua các đối tác nước ngoài:

7,2 tỉ đồng (Tecktronix, Intel Galileo, Cadence...) Trường cũng đã và đang đẩy mạnh

việc phối hợp nghiên cứu khoa học với các đối tác quốc tế thông qua các Viện nghiên

cứu, Trung tâm nghiên cứu hỗn hợp MICA (khoáng vật), NAVIS (đầu tư),... được

thành lập theo mô hình cùng điều hành hoặc qua hợp tác giữa các Viện chuyên môn

của Trường với các Trường đại học, Viện nghiên cứu hay các tổ chức Quốc tế.

Thông qua hợp tác quốc tế, nhiều chương trình đào tạo, tín chỉ, bằng cấp đào tạo của

Đại học Bách khoa Hà Nội đã được nhiều trường đối tác nước ngoài công nhận: Đại học

Bách khoa Hà Nội cũng công nhận tín chỉ từ các trường đối tác nước ngoài như Hàn Quốc,

Nhật Bản, các trường đại học Châu Âu trong các dự án Erasmus Mundus, một số trường

ĐH tại Hoa Kỳ (Portland State, Massachusetts Dartmouth, Iowa). Nhờ đó, vị thế của

Trường cũng được nâng cao.

Trong đào tạo lĩnh vực kinh tế, trường Đại học Kinh tế quốc dân đã đi đầu trong

việc phát triển các mối quan hệ hợp tác đào tạo và nghiên cứu với hơn 100 cơ sở giáo

dục uy tín ở hơn ba mươi quốc gia trên thế giới. Nhà trường cũng đã phát huy vai trò

tích cực trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế cho nước Cộng hòa dân chủ

nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia...

Đối với chính sách khuyến khích các trường đại học tăng cường hợp tác quốc

tế, nhiều trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội coi đó như một tiêu chí, thước

đo về chất lượng, thương hiệu của trường đại học. Việc đánh giá dựa vào: (1) Số

lượng chương trình hợp tác, liên kết đào tạo có hiệu quả với các trường đối tác nước

ngoài; (2) Số lượng sinh viên nước ngoài đang theo học ở tại trường. Hiện nay mô

hình hợp tác của các trường rất đa dạng, mỗi trường với thế mạnh riêng của mình đã

tìm được các đối tác phù hợp. Các trường khi tiến hành thiết lập quan hệ đối tác, sẽ

phải tự tìm hiểu đối tác của mình có thế mạnh gì, lợi thế gì để hợp tác.

Hoạt động hợp tác quốc tế được cấp ủy, ban giám hiệu các trường trong đảng bộ

chú trọng, đẩy mạnh. Chất lượng hợp tác quốc tế ngày càng phát triển theo chiều sâu. cấp

ủy, ban giám hiệu các trường tích cực mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo với các trường đại

học trên thế giới, số lượng các dự án đào tạo, hội thảo quốc tế, công trình khoa học hàng

năm tăng lên. Các ngành nghề, lĩnh vực họp tác liên tục được mở rộng và đa dạng hóa.

Trong 5 năm, các trường đã ký hơn 200 dự án hợp tác đào tạo, liên kết với nước ngoài;

165 công trình hợp tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ với các trường đại

học và tổ chức quốc tế; 164 hội thảo khoa học quốc tế; 335 hội thảo liên kết giữa các

trường; trao đổi gần 300 lượt giảng viên, sinh viên học tập, nghiên cứu với các đối tác

nước ngoài; tổ chức hàng trăm lượt sinh viên tham gia các cuộc thi tay nghề trong khu

vực và quốc tế [Phụ lục 3]. Quan hệ họp tác quốc tế được mở rộng đã hỗ trợ hiệu quả các

hoạt động phát triển chung của nhà trường, nâng cao năng lực đào tạo, đổi mới chương

trình, phương pháp giảng dạy, đẩy mạnh nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, đào tạo

nguồn nhân lực và phát triển cơ sở vật chất theo hướng hiện đại hóa, hội nhập vào nền

giáo dục chung của khu vực và thế giới.

Thứ năm, lãnh đạo làm tốt công tác xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh,

nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ trường, phát huy vai trò hạt

nhân chính trị ở trường đại học.

Công tác xây dựng đảng luôn được các đảng bộ trường đại học công lập chú trọng,

đảm bảo vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Các đảng uỷ trường đã có những

biện pháp tích cực, thường xuyên nhằm nâng cao nhận thức lý luận và bản lĩnh chính trị,

củng cố niềm tin vào lý tưởng cách mạng của Đảng, phát huy vai trò tiên phong gương

mẫu của đảng viên, giảng viên.

Các Đảng ủy đã chú trọng chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; củng cố

vai trò của chi bộ trong việc lãnh đạo, thực hiện tốt nhiệm vụ của đơn vị; hướng dẫn nội

dung sinh hoạt chi bộ; tiếp tục rút kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp hữu hiệu, thiết thực,

nâng cao chất lượng của hoạt động quan trọng này; đảm bảo thường xuyên cung cấp cho

đảng viên những thông tin mới bổ sung nhận thức, hoặc gợi ý và cung cấp tài liệu để mỗi

đảng viên có thể tự nghiên cứu, nâng cao trình độ. Các Đảng ủy trường đã thực hiện tốt

nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng; tiến hành công tác nhân sự đúng quy

trình, đảm bảo tín nhiệm cao của cấp ủy, đặc biệt là đồng chí bí thư; luôn tạo thuận lợi cho

sự phối hợp công tác giữa cấp uỷ Đảng và quản lý chính quyền.

Nhiều năm nay, Thành uỷ Hà Nội, Ban Đại học của Thành uỷ, các đảng bộ các

trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội coi trọng công tác phát triển đảng viên là

sinh viên. Từ năm 1995, Thành uỷ Hà Nội ra Quy định 100 QĐ/TU về "Chức năng

nhiệm vụ của chi bộ đảng trong các đảng bộ trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội", nêu

rõ trách nhiệm của các chi bộ trong công tác phát triển đảng viên. Nhờ vậy công tác

phát triển đảng viên là sinh viên có chuyển biến tích cực. Năm 2011, số đảng viên là

sinh viên được kết nạp đã chiếm 60% trong tổng số hơn 841 đảng viên mới. Năm

2012, trong tổng số 1065 đảng viên được kết nạp đã có 657 sinh viên [Phụ lục 5]. Các

cấp uỷ đảng, đặc biệt là các chi uỷ thực sự coi trọng công tác phát triển đảng viên.

Trong nghị quyết đại hội từng nhiệm kỳ đều xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm; hằng

năm có kế hoạch cụ thể và tổ chức triển khai nghiêm túc. Trong nghị quyết, kế hoạch

xác định rõ chỉ tiêu, thời hạn, biện pháp, phân công cụ thể đảng viên giúp đỡ các đối

tượng. Chú trọng khâu tạo nguồn đối tượng đảng là sinh viên ngay từ năm thứ nhất.

Đảng uỷ các trường chỉ đạo phòng Đào tạo, phòng Quản lý sinh viên, phòng Công tác

chính trị... lựa chọn những sinh viên có học lực khá, giỏi khi học đại học, sinh viên

được tuyển thẳng vào đại học và có lý lịch tốt...để theo dõi, bồi dưỡng trong quá trình học

tập, rèn luyện tại trường. Trong sinh hoạt hằng tháng, chi bộ kiểm điểm việc thực hiện

nghị quyết, kế hoạch trên. Các ban chi uỷ chú trọng gắn công tác phát triển đảng viên với

xây dựng chi bộ, đảng bộ trong sạch vững mạnh. Hiện nay, đảng bộ các trường đều xây

dựng tiêu chuẩn chọn đoàn viên sinh viên ưu tú học lớp bồi dưỡng kiến thức về Đảng. Số

sinh viên được kết nạp vào Đảng của các trường trên địa bàn Hà Nội tăng nhanh

Thực hiện chỉ thị số 12-CT/TU ngày 09- 10- 2012 và Kế hoạch số 40-KH-ĐU

ngày 15-3-2013 của Đảng ủy Khối về Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong

đội ngũ trí thức và sinh viên thuộc Đảng bộ thành phố Hà Nội, công tác phát triển

Đảng trong các trường đại học công lập đã có những chuyển biến đáng kể, nhất là phát

triển đảng trong sinh viên. Nhiều đảng bộ đã tổ chức hội nghị, hội thảo về công tác

phát triển đảng nhằm đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng

công tác phát triển đảng viên mới là sinh viên trong đảng bộ, điển hình là Đại học

Thủy lợi, Đại học Bách khoa Hà Nội…

Đảng bộ Đại học Bách khoa Hà Nội trong nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã kết nạp

được 462 đảng viên mới (tính đến tháng 12/2014), trong đó có 298 đảng viên là sinh

viên. Đảng ủy Trường đã mở 10 lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng cho 1.115 quần

chúng ưu tú và 5 lớp bồi dưỡng cho 515 đảng viên dự bị [36]. Đồng thời, các lớp bồi

dưỡng nhận thức về Đảng cho đảng viên mới kết nạp thường xuyên được tổ chức

nhằm nâng cao nhận thức lý luận, củng cố niềm tin vào lý tưởng cách mạng của Đảng

để rèn luyện bản lĩnh chính trị, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của người đảng

viên trong đơn vị.

Đảng ủy trường Đại học Thủy lợi trong giai đoạn từ đầu năm 2012 đến 30-4-

2015 đã mở 8 lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng cho 1.490 quần chúng ưu tú và 8 lớp

bồi dưỡng đảng viên mới cho 460 đảng viên dự bị, kết nạp được 488 đảng viên trong

đó có 358 đảng viên là sinh viên (chiếm 73%), 150 đảng viên là cán bộ viên chức

(chiếm 27%), trung bình mỗi năm hết nạp được hơn 150 đảng viên mới [38].

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ luôn được Đảng uỷ và các cấp uỷ các trường

quan tâm. Qua nhiều kênh khác nhau, Đảng uỷ, Ban Giám hiệu, Công đoàn các nhà

trường thường xuyên nắm bắt tình hình tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên và

sinh viên; triển khai thực hiện các quy định của Đảng về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng,

tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao ý thức cảnh giác trước nguy cơ diễn biến

hòa bình và sự phá hoại của các thế lực thù địch, giữ gìn ổn định chính trị, bảo vệ cán bộ,

tạo cơ sở để tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Nhìn chung, công tác thẩm

định hồ sơ lý lịch, chính trị của người xin vào đảng, cán bộ quy hoạch... được các đảng ủy

nhà trường chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, đúng quy định.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XI Những vấn đề

cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, các đảng ủy nhà trường đều xây dựng các kế

hoạch, hướng dẫn và tiến hành nghiêm túc việc tổ chức kiểm điểm, tự phê bình và phê

bình đối với tập thể Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản

lý theo đúng hướng dẫn và kế hoạch. Việc tổ chức kiểm điểm, tự phê bình và phê bình

đối với cấp dưới cũng được chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả.

Công tác kiểm điểm, đánh giá chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở đảng hàng

năm đều được các đảng ủy chỉ đạo triển khai đúng quy trình, đúng kế hoạch, đảm bảo

dân chủ, công khai và nghiêm túc. Đảng bộ trường Đại học Thủy lợi hàng năm có

trung bình 96% số đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, trong đó có

15,4% đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; có 77% số tổ chức đảng thuộc Đảng

bộ trường được công nhận là tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, không có tổ chức

đảng yếu kém. Hàng năm Đảng bộ trường đều được công nhận là Đảng bộ trong sạch

vững mạnh.

3.1.1.2. Ưu điểm trong thực hiện phương thức lãnh đạo

Thứ nhất, lãnh đạo bằng chủ trương, nghị quyết, chiến lược, chương trình, quy

chế, quy định về nâng cao chất lượng công tác đào tạo trình độ đại học.

Trên cơ sở bám sát và cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, các đảng bộ

trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội đã kịp thời phổ biến, quán triệt và

chỉ đạo thực hiện bằng việc ban hành các nghị quyết, chương trình hành động sát hợp với

điều kiện thực tiễn của từng trường.

Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khóa XI

về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp

hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và

hội nhập quốc tế”, các đảng bộ đã tập trung chỉ đạo đổi mới công tác lãnh đạo của

Đảng, công tác quản lý điều hành của Ban Giám hiệu, xây dựng chương trình, giáo

trình, đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, kiểm tra, đánh giá công tác thi cử,

tuyển sinh. Công tác nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, chủ động

trong hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo, tranh thủ tiếp cận công nghệ dạy học

hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến, nâng cao chất lượng đào tạo.

Các tổ chức đảng trong nhà trường đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện

chức năng, nhiệm vụ theo Quy định số 98-QĐ/TW của Ban Bí thư ngày 22-3-2004,

đây là căn cứ chính trị quan trọng cho sự lãnh đạo của các đảng bộ đối với mọi mặt

hoạt động của các trường đại học, góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ

chính trị của các trường đại học công lập.

Trong lãnh đạo công tác đào tạo, đảng bộ các trường đại học công lập ở Hà

Nội đã khẳng định được vai trò hạt nhân chính trị, phát huy vai trò lãnh đạo nhà

trường, hoàn thành tốt nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch đề ra, lãnh đạo cán bộ,

giảng viên đề cao tinh thần trách nhiệm, tham gia xây dựng và thực hiện có hiệu quả

nhiệm vụ chính trị của cơ quan theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật

của Nhà nước. Sự lãnh đạo thường xuyên và hiệu quả của các đảng bộ đối với công

tác đào tạo là nhân tố quyết định sự phát triển giáo dục đại học ở các trường đại học

công lập Hà Nội.

Các đảng bộ đã lãnh đạo cán bộ, giảng viên trong các trường đại học công lập trên

địa bàn thành phố Hà Nội phát huy tính chủ động, sáng tạo, làm tốt chức năng tham mưu,

nghiên cứu, đề xuất và kiến nghị với lãnh đạo nhà trường về những vấn đề chưa hợp lý

như: vấn đề về tuyển sinh và thực hiện quy chế thi từng năm học; chủ trương, chính sách,

chế độ của nhà trường đối với nhà giáo, cán bộ, công chức…

Công tác xây dựng cơ sở vật chất bảo đảm cho công tác giảng dạy; thực

hiện tốt các chế độ, chính sách đối với đội ngũ giảng viên được chú trọng. Xây

dựng cơ sở vật chất, giảng đường, trang thiết bị giảng dạy và học tập hiện đại; xây

dựng hệ thống thư viện, tư liệu giảng dạy và học tập; xây dựng hệ thống công nghệ

thông tin hỗ trợ giảng dạy tích hợp, tập trung và hiện đại đáp ứng tối đa nhu cầu

học tập và giảng dạy.

Đảng ủy Đại học Bách Khoa đã đề ra Chương trình hành động thực hiện Nghị

quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa XI) với mục tiêu cơ bản là “Đổi mới tư

duy, tập trung hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu

khoa học hướng tới sản phẩm đầu ra, nâng cao vị thế của Đại học Bách Khoa và phục

vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Trên tinh thần chỉ đạo

đó của Đảng ủy, nội dung, lộ trình và các giải pháp nhằm đổi mới mạnh mẽ và căn

bản, toàn diện công tác đào tạo ở Đại học Bách Khoa theo hướng tiếp tục đẩy mạnh và

nhanh hơn nữa xây dựng và phát triển Đại học Bách Khoa theo mô hình đại học

nghiên cứu, thực hiện đào tạo chất lượng cao, trình độ cao, trên cơ sở giữ vững và phát

huy giá trị cốt lõi và truyền thống thế mạnh hàng đầu về khoa học cơ bản, vai trò trụ

cột trong hệ thống giáo dục Việt Nam; đồng thời xây dựng những giá trị mới, những

ngành mới tiên phong, liên ngành; gắn chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu, đảm bảo

chuẩn đầu ra có chất lượng cao, góp phần phục vụ đắc lực sự nghiệp CNH, HĐH,

nhanh chóng để đến năm 2015 có một số chương trình đào tạo đạt chuẩn khu vực và

quốc tế; đến năm 2020, Đại học Bách Khoa cơ bản đạt các tiêu chí của đại học nghiên

cứu tiên tiến trong khu vực, một số tiêu chí đạt chuẩn đại học tiên tiến đẳng cấp quốc

tế.

Thứ hai, lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục tổ

chức đảng, đảng viên để thực hiện thắng lợi nghị quyết, chủ trương về công tác đào tạo

và nâng cao chất lượng đào tạo

Trong những năm qua, tình hình an ninh chính trị diễn biến phức tạp, các thế

lực thù địch không ngừng tuyên truyền xuyên tạc chống phá Đảng và Nhà nước; kinh

tế thế giới suy thoái tác động đến tình hình trong nước, đời sống nhân dân gặp nhiều

khó khăn, ảnh hưởng đến tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, giảng viên và

sinh viên. Đảng ủy Khối đã chỉ đạo kịp thời với tinh thần sâu sát, quyết liệt nên tình

hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong Khối tiếp tục được đảm bảo, góp

phần nâng cao nhận thức, củng cố, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên, giảng

viên và sinh viên với Đảng, tạo sự đồng thuận trong toàn đảng bộ.

- Đổi mới công tác triển khai quán triệt thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng

Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị

quyết của Đảng, các cấp ủy đảng đã có nhiều đổi mới trong tổ chức học tập theo

hướng thiết thực, hiệu quả, gắn với nhiệm vụ chính trị của các trường đại học, cao

đẳng. Công tác phổ biến, quán triệt các nghị quyết Trung ương (khóa XI) được tổ

chức nghiêm túc, kịp thời đến toàn thể cán bộ, đảng viên trong các trường. Đã có

nhiều cách làm đổi mới, sáng tạo: đồng chí Bí thư cấp ủy trực tiếp phổ biến Nghị

quyết Trung ương đến cán bộ, đảng viên, chọn những nội dung phù hợp với nhiệm vụ

chính trị của đơn vị. Nổi bật là triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương

lần thứ 4,6,8,9 (khóa XI) và chương trình hành động của Thành ủy Hà Nội, của Đảng

ủy Khối về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; về “Phát triển

khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hỏa, hiện đại hóa trong điều

kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; về “Đổi

mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện

đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập

quốc tế” và về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu

phát triển bền vững đất nước”. Các cấp ủy đảng đã thực hiện tốt kiểm điểm theo tinh thần

Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khóa XI) và tích cực thực hiện các giải pháp

khắc phục những tồn tại, hạn chế sau kiểm điểm nên đã có chuyển biến rõ nét về tư

tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Đồng thời, ngay sau khi học tập nghị

quyết, các tổ chức cơ sở đảng đã tập trung triển khai xây dựng chương trình, kế hoạch, đề

án cụ thế hóa nội dung nghị quyết phù hợp với chiến lược phát triển nhà trường.

Các đảng bộ đã tổ chức quán triệt, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành

phố lần thứ XV và 9 chương trình công tác lớn của Thành uỷ Hà Nội, trọng tâm là

Chương trình 01-CTr/TU, ngày 18- 8- 2011 về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức

chiến đấu của các cấp ủy đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; năng lực quản lý,

điều hành của bộ máy chính quyền; chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, đoàn

thể nhân dân các cấp giai đoạn 2011 - 2015”, Chỉ thị số 12-CT/TU ngày 09- 10-

2012 của Bản Thường vụ Thành ủy “về việc đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên

trong đội ngũ trí thức và học sinh, sinh viên thuộc Đảng bộ thành phố Hà Nội”, Đảng

bộ Khối đã chủ động, sáng tạo, cụ thế hóa các chỉ thị, nghị quyết của Thành ủy bằng

nhiều chương trình, kế hoạch có tính đột phá, phù hợp với điều kiện đặc thù của khối,

như: Chương trình 04 về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đẩu của các cấp ủy

đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên trong Đảng bộ Khối , các trường Đại học, Cao

đẳng Hà Nội”; Chương trình 05 về “Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát

khối các trường đại học, cao đẳng Hà Nội”; Chương trình 06 về “Nâng cao chất

lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ sinh viên khối các trường đại

học, cao đẳng Hà Nội”; Kế hoạch 40 về “Đấy mạnh công tác phát triển đảng viên

trong đội ngũ trí thức và học sinh, sinh viên thuộc Đảng bộ Khối các trường Đại học,

Cao đẳng Hà Nội”... đã góp phần quan trọng giáo dục lý tưởng và niềm tin đối với

Đảng cho cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ trí thức trẻ và sinh viên; giữ nghiêm kỷ

luật, kỷ cương của Đảng, tạo chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng Đảng,

nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.

- Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, nắm bắt dư luận, định

hướng tuyên truyền

Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và Hội đồng nhân dân các cấp

nhiệm kỳ 2011 - 2016, cử tri khối các trường đại học, cao đẳng Hà Nội đã tham gia bỏ

phiếu với tỷ lệ 99,66%, đảm bảo dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật. Tổ chức tuyên

truyền và lấy ý kiến đóng góp vào Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2013 và Luật Giáo

dục Đại học. Tổ chức các hội nghị thông tin tình hình thời sự trong nước và quốc tế

cho đội ngũ cán bộ chủ chốt và đảng viên. Tuyên truyền chủ trương, quan điểm của

Đảng và Nhà nước về công tác biên giới trên đất liền, công tác biển, đảo; an ninh tư

tưởng và đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô, đặc biệt là việc Trung

Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép tại thềm lục địa, vùng đặc quyền

kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông. Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, Thành

ủy, Đảng ủy Khối tập trung chỉ đạo quyết liệt, linh hoạt, xử lý tốt các tình huống đột

xuất; chủ động nắm chắc tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên, giảng viên, sinh

viên; tăng cường công tác quản lý, giáo dục đoàn viên, sinh viên nâng cao cảnh giác

trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Do làm tốt công tác tuyên

truyền nên tình hình an ninh, chính trị trong khối tiếp tục ổn định, không có sinh viên

tham gia tuần hành, biểu tình trái quy định; đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các chuyên gia

và sinh viên nước ngoài, nhất là sinh viên người Trung Quốc. Qua các hoạt động, có thể

khẳng định sinh viên rất quan tâm đến diễn biến chính trị của đất nước. Đây cũng là cơ

hội để sinh viên nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức học tập để bảo vệ và xây dựng Tổ

quốc.

- Nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm

chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, giảng viên và sinh viên

Thời gian vừa qua, công tác giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị,

đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên, giảng viên và sinh viên tiếp tục được

các cấp ủy đảng chú trọng. Triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình 06-

CTr/ĐUK của Đảng ủy khối ngày 15- 11- 2012 về “Nâng cao chất lượng công tác

giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên khối các trường đại học, cao đắng Hà Nội”,

cấp ủy cơ sở tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng đạo đức, lối sống trong

cán bộ, đảng viên, giảng viên gắn với triển khai học tập tuần sinh hoạt chính trị - công

dân đầu khóa cho sinh viên; quan tâm “rèn đức, luyện tài” cho sinh viên thể hiện lòng

yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc. Công tác đấu tranh phòng, chống các tệ nạn xã hội

được chú trọng, kịp thời đề ra các biện pháp hiệu quả nhằm ngăn chặn ma túy và các

tệ nạn khác xâm nhập học đường, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sinh

viên. Công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị cho quần chúng ưu tú và đảng

viên mới theo quy định của Trung ương luôn được cấp ủy các trường quan tâm. Thông

qua các lớp bồi dưỡng giúp cho quần chúng ưu tú và đảng viên mới nâng cao nhận

thức về chính trị, tư tưởng, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước.

- Đẩy mạnh “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” nay là

Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Hội

nghị Trung ương lần thứ 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện

nay”; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;

ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu

hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động

của mỗi cán bộ, đảng viên

Việc đẩy mạnh “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được

triển khai sâu rộng, gắn với thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4

(khóa XI) và tiếp theo là Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khoá XII) về

“Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội

bộ” và các cuộc vận động của các bộ, ngành, nhất là ngành giáo dục đã có sức lan tỏa

trong các trường đại học, cao đẳng. Cấp ủy cơ sở đã đưa nội dung học tập và làm theo

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đi vào nề nếp trong sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt của các

đoàn thể quần chúng. Thực hiện cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức, bổ sung tiêu chí tu

dưỡng, rèn luyện phẩm chất, lối sống theo chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực công tác; gắn

nội dung chuyên đề hàng năm với việc triển khai các nhiệm vụ trọng tâm của đơn vị.

Các cấp ủy đảng, ban giám hiệu căn cứ hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo

quan tâm chỉ đạo việc giảng dạy, học tập các môn học lý luận Mác- Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh ở các hệ đào tạo. Chỉ đạo phòng, khoa chuyên môn, đoàn thể chính trị tổ

chức hoạt động thực tế cho sinh viên với nhiều hình thức phong phú: hội thảo, tọa

đàm, hội thi Olympic các môn Lý luận chính trị và Tư tưởng Hồ Chí Minh, tham quan

các di tích lịch sử...

Các đảng bộ đã nghiêm túc tổ chức các hội nghị sơ kết việc triển khai thực hiện

Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 20-KH/TU của Thành ủy Hà Nội.

Sau 05 năm triển khai thực hiện có thể khẳng định việc học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh của Đảng bộ đã có hiệu quả rõ rệt: cán bộ lãnh đạo gương mẫu,

giản dị; giảng viên tận tụy, thân thiện, trách nhiệm; cán bộ phòng, ban, khoa làm việc

đúng giờ, nghiểm túc; công tác đánh giá cán bộ, giảng viên và sinh viên công bằng, khách

quan, đúng quy chế; thực hiện tiết kiệm chi phí hành chính... ở các trường, xuất hiện

nhiều tẩm gương điển hình tiên tiến trong việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,

đã có ý nghĩa giáo dục sâu sắc cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và sinh viên.

Trên cơ sở triển khai kịp thời, hiệu quả công tác phổ biến, quán triệt các chỉ

thị, nghị quyết của cấp trên, các đảng bộ trường đại học đã tạo cơ sở cho đội ngũ

giảng viên các trường nghiên cứu, vận dụng, tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết

tùy theo lĩnh vực công tác của mình, góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng đào

tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ đại học phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thứ ba, lãnh đạo thông qua việc nâng cao chất lượng phân công, phân cấp quản

lý cán bộ, giảng viên; phát huy vai trò quản lý của nhà trường; trách nhiệm của các tổ

chức, người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống nhà trường

Hoạt động lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp công tác giữa Đảng ủy, Ban Giám

hiệu, các đoàn thể trong từng trường đã thành nền nếp và có hiệu quả rõ rệt, đặc

biệt mối quan hệ phối hợp giữa Đảng ủy Khối các trường Đại học, Cao đẳng với

Ban Cán sự Đảng các Bộ chủ quản, các đảng bộ trực thuộc được chặt chẽ, hiệu

quả.

Các đảng bộ đã tập trung chăm lo xây dựng, củng cố kiện toàn hệ thống chính

trị, phát huy vai trò của các Hội, các thiết chế văn hóa trong nhà trường, đặc biệt là vai

trò nòng cốt chính trị của tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên, hội sinh viên trong các

trường. Nâng cao chất lượng mô hình sinh viên tình nguyện, tham gia các hoạt động

đền ơn, đáp nghĩa. Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, thể thao, các phong trào thi đua

yêu nước, cổ vũ, động viên đoàn viên, hội viên thi đua học tập tốt, rèn luyện tốt, phấn

đấu hoàn thành các nhiệm vụ chính trị của trường, tạo môi trường thuận lợi cho sinh

viên được cống hiến và trưởng thành. Các cấp ủy, Ban lãnh đạo nhà trường tăng

cường làm tốt công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong nhà

trường.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương

(khóa XI) về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, với vai trò, vị trí

của các trường đại học công lập trên địa bàn thành phố, các đảng bộ đã lãnh đạo

các trường đại học xây dựng kế hoạch phát triển tổng thể theo từng giai đoạn dựa

trên các nguồn lực vốn có và khai thác triệt để thế mạnh nội lực và cơ hội khách

quan để tiếp tục hoàn thiện và phát triển mô hình các trường đại học căn cứ theo

Nghị định số 16 của Chính phủ, Luật Giáo dục Đại học, Điều lệ trường Đại học;

đồng thời, hiện đại hóa phương thức quản lý, vừa đảm bảo sự chỉ đạo tập trung,

thống nhất, vừa phân cấp để phát huy thế chủ động, năng động, tự chủ của các

trường và sức sáng tạo của các nhà giáo, nhà khoa học, gắn kết nhuần nhuyễn đào

tạo với nghiên cứu trong từng giảng viên, từng khoa, từng khâu, từng công đoạn

của quá trinh lao động sáng tạo.

Về công tác đoàn thể

Các Đảng uỷ và Ban Giám hiệu các trường đã quan tâm, lãnh đạo tốt công tác

đoàn thể, nhất là công đoàn, đoàn thanh niên, hội sinh viên, hội cựu chiến binh, hội

cựu giáo chức, hội khuyến học góp phần xây dựng và củng cố hệ thống chính trị trong

nhà trường. Hoạt động của các đoàn thể trong khối đã có nhiều đổi mới, hiệu quả,

mang lại lợi ích thiết thực cho đoàn viên, hội viên.

Tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa X)

về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ” và triển khai thực hiện Chương trình 06-CTr/ĐUK

của Đảng ủy Khối về “Nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho

sinh viên khối các trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội” đã quan

tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác đoàn thanh niên, hội sinh viên trong tình hình mới. Chú

trọng việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên, sinh viên;

quan tâm tuyên truyền, định hướng tư tưởng cho sinh viên trước tình hình phức tạp

của Biển Đông, tình hình an ninh chính trị trong khối; triển khai sâu rộng và có hiệu

quả Cuộc vận động “Tuổi trẻ học tập và làm theo lời Bác”, '“Học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đảng ủy, tổ chức công đoàn các trường tiếp

tục đổi mới phương thức hoạt động theo phương châm hướng về cơ sở, đáp ứng

nguyện vọng, bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động, chăm lo

đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, viên chức và nhân viên, quan tâm công

tác khuyến học, khuyến tài cho con em các đoàn viên. Công đoàn các trường tích

cực hưởng ứng phong trào thi đua dạy tốt - học tốt, ủng hộ người nghèo, đồng bào

bị thiên tai, hỗ trợ giáo dục miền núi... Trong 05 năm, hàng trăm lượt công đoàn

các trường liên tục được công nhận danh hiệu “Công đoàn cơ sở trong sạch, vững

mạnh ”, hàng chục tổ chức công đoàn trường đã được Đảng và Nhà nước tặng

thưởng Huân chương Lao động, được Thủ tướng Chính phủ và Tổng Liên đoàn

Lao động tặng Cờ thi đua, Bằng khen về những thành tích trong công tác.

Thứ tư, lãnh đạo bằng nâng cao chất lượng công tác tổ chức, xây dựng các tổ

chức và đội ngũ cán bộ làm công tác đào tạo

Nắm vững quan điểm, phương châm chỉ đạo theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị

lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về chiến lược cán bộ, các

Đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội đã đặc biệt coi trọng công tác tổ chức cán

bộ. Với mục tiêu xuyên suốt là đổi mới toàn diện, đồng bộ, triệt để từ tư duy, nhận

thức tư tưởng đến các hành động, do đó công tác cán bộ trong những năm qua đã luôn

được cấp ủy đảng chỉ đạo, thống nhất. Việc đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm, luân

chuyển, khen thưởng, kỷ luật, bãi miễn cán bộ cơ bản thực hiện đúng nguyên tắc, quy

định của Đảng.

Trên cơ sở xác định xây dựng đội ngũ cán bộ là vấn đề có ý nghĩa then chốt,

chiến lược đối với sự phát triển của các trường đại học ở Thủ đô, các đảng bộ trường đại

học luôn chỉ đạo việc quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ theo hướng hiện đại, đa cấp,

có trình độ, phẩm chất, năng lực tổ chức và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đào tạo,

thích ứng với cơ chế và yêu cầu đổi mới của giáo dục đại học. Nhờ vậy, đội ngũ cán bộ,

giảng viên của các trường ngày càng được nâng cao về chất lượng, tăng cường về số

lượng, hợp lý về cơ cấu.

Đảng ủy, Ban Giám hiệu các trường đại học công lập ở Hà Nội đã lập kế hoạch

đào tạo, bồi dưỡng giảng viên theo từng giai đoạn với một số biện pháp cụ thể như:

Vừa khuyến khích, vừa bắt buộc giảng viên tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên

môn, ngoại ngữ, năng lực sư phạm; ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các

phương tiện hiện đại để đổi mới phương pháp dạy và học. Giảng viên được cử đi bồi

dưỡng, nâng cao trình độ miễn giờ giảng, giữ nguyên lương, được hỗ trợ kinh phí.

Khuyến khích giảng viên học thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài. Các trường đại học đã chủ

động hợp tác đào tạo với nhiều trường đại học, viện nghiên cứu trên thế giới. Làm tốt

việc này là Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Hà Nội, Đại học Công nghiệp Hà Nội...

Hằng năm, các trường đại học công lập ở Hà Nội đã lựa chọn những sinh viên

có học lực giỏi, ưu tiên những sinh viên - đảng viên được tiếp tục đào tạo sau đại học,

trở thành giảng viên trong trường... Bằng cách làm trên đã động viên, khuyến khích

đội ngũ đảng viên là giảng viên, chuyên viên, sinh viên tích cực phấn đấu vươn lên về

mọi mặt.

Thứ năm, lãnh đạo thông qua vai trò của tổ chức đảng, vai trò tiền phong

gương mẫu của đội ngũ đảng viên.

Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có 33 tổ chức cơ sở đảng của các trường đại học

công lập với 9.622 đảng viên sinh hoạt ở 648 chi bộ. Nhìn chung, đội ngũ đảng viên ở

các trường đại học công lập ở Hà Nội có bản lĩnh chính trị vững vàng, giữ được phẩm

chất đạo đức, lối sống của người đảng viên cộng sản. Hằng năm qua đánh giá, phân

tích chất lượng, tỷ lệ đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạt 22%, hoàn thành tốt

nhiệm vụ 65% và hoàn thành nhiệm vụ 10%, số không hoàn thành nhiệm vụ là 3%

[Phụ lục 4].

Xây dựng đảng bộ nhà trường trong sạch vững mạnh, thực hiện thắng lợi Nghị

quyết Đại hội Đảng các cấp, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XII, Chỉ

thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về việc “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;

ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu

hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ”, Chương trình số 01-CTr/TU ngày

18/8/2011 của Thành ủy Hà Nội về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các

cấp uỷ đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; năng lực quản lý, điều hành của bộ máy

chính quyền; chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân các

cấp giai đoạn 2011 - 2015; Chương trình số 04/CTr-ĐUK ngày 27- 3- 2012 về nâng

cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy đảng và chất lượng đội ngũ đảng

viên trong Đảng bộ Khối các trường đại học, cao đẳng Hà Nội.

Hàng năm, từng tổ chức đảng trong các trường đại học công lập ở Hà Nội đều

thực hiện việc đăng ký xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, làm cơ sở

để phấn đấu, đã tạo chuyển biến về nhận thức trong các cấp ủy và đội ngũ cán bộ, đảng

viên, tác phong làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiên phong, gương mẫu và tinh

thần trách nhiệm đối với công việc. Năm 2015, có 23 đảng bộ, chi bộ cơ sở đạt tiêu

chuẩn trong sạch vững mạnh, (trong đó có 12 đảng bộ, chi bộ sơ sở đạt trong sạch

vững mạnh tiêu biểu); 8 đảng bộ, chi bộ cơ sở hoàn thành tốt nhiệm vụ; 02 đảng bộ,

chi bộ cơ sở hoàn thành nhiệm vụ và 01 không hoàn thành nhiệm vụ [Phụ lục 4].

Các đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội thực sự là hạt nhân đoàn kết quy

tụ trí tuệ, tình cảm, hành động của mọi thành viên trong nhà trường. Từ cấp uỷ, đảng

viên đến cán bộ quản lý, các tổ chức quần chúng cùng đông đảo đội ngũ cán bộ, giảng

viên, sinh viên đều hướng về một mục đích: “Tất cả vì thế hệ trẻ, thi đua dạy tốt,

học tốt”. Các đảng ủy viên phát huy vai trò, trách nhiệm và tính tiên phong trong

công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, thực hiện tốt vai trò lãnh đạo với tư cách

vừa là thành viên Ban chấp hành Đảng bộ, vừa là lãnh đạo chủ chốt của nhà trường.

Từng đảng viên trong Đảng bộ không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống,

không vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm; học tập và rèn

luyện nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được

giao.

Đảng bộ lấy hoạt động dạy và học kiến thức văn hoá, khoa học làm điểm tựa

cho các hoạt động khác, coi đó là nền tảng vững chắc để nhân cách sinh viên phát triển

toàn diện. Thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc của đảng uỷ và các quy định của

Đảng về họp thường lệ chi bộ, đảng bộ; họp thường lệ chi ủy, đảng ủy; sinh hoạt

chuyên đề…

Công tác lãnh đạo các tổ chức đoàn thể quần chúng được các cấp ủy đảng quan

tâm chỉ đạo, phát huy vị trí, vai trò của hệ thống chính trị của nhà trường trong tổ

chức thực hiện thắng lợi mục tiêu nghị quyết chi bộ, đảng bộ và nhiệm vụ xây dựng,

phát triển nhà trường . Chất lượng hoạt động của các tổ chức quần chúng không ngừng

được nâng cao, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, tích cực

tham gia công tác quản lý và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, tham gia giới

thiệu những công đoàn viên, đoàn viên ưu tú cho tổ chức đảng để bồi dưỡng kết nạp

vào Đảng.

Thứ sáu, lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát

Công tác kiểm tra, giám sát là một khâu quan trọng trong công tác lãnh đạo của

các cấp ủy đảng. Công tác kiểm tra, giám sát là để giữ vững kỷ cương, kỷ luật của

đảng, để xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân

dân với Đảng. Trong thời gian qua, các đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội rất

quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác đào tạo góp phần

thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức trong

Đảng bộ.

Ngay từ đầu mỗi nhiệm kỳ, các đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội đều xây

dựng chương trình, kế hoạch, kiểm tra, giám sát của nhiệm kỳ, trong đó nhấn mạnh việc

thực hiện các nội dung của công tác đào tạo. Nội dung kiểm tra hướng vào việc quán triệt,

cụ thể hóa và lãnh đạo thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Trung ương, các

nghị quyết, quyết định của Đảng ủy, ban thường vụ đảng ủy và của cấp ủy về công tác đào

tạo trong việc chấp hành các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng. Đối tượng được xác

định kiểm tra là cấp uỷ trực thuộc Đảng uỷ thuộc cả khối đảng, chính quyền và các đoàn

thể; đảng viên là người đứng đầu các cơ quan, tổ chức trong hệ thống giáo dục đào tạo.

Các đảng bộ và ủy ban kiểm tra đã xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát theo

Điều lệ Đảng; thường xuyên nghe báo cáo về tình hình công tác kiểm tra, giám sát, thi

hành kỷ luật đảng và giải quyết đơn, thư tố cáo tại cơ sở; cho ý kiến lãnh đạo, chỉ đạo

về các cuộc kiểm tra, giám sát. Trong giai đoạn từ 2010-2015, Đảng ủy Khối và Ủy

ban Kiểm tra Đảng ủy Khối đã kiểm tra 484 lượt tổ chức cơ sở đảng, cấp ủy và ủy ban

kiểm tra đảng ủy cơ sở đã kiểm tra 1.729 lượt chi bộ về việc thi hành Điều lệ Đảng,

thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, chương trình, kế hoạch của

Thành ủy, Đảng ủy Khối; kiểm tra được 1.582 lượt tổ chức đảng về việc thu, chi

tài chính đảng... Công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi

phạm được cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp xác định là nhiệm vụ trọng tâm, chủ

động thu thập thông tin, nắm tình hình, khảo sát và lập kế hoạch kiểm tra 34 đảng

viên khi có dấu hiệu vi phạm; kết quả kiểm tra kết luận 12 đảng viên có vi phạm

phải thi hành kỷ luật [Phụ lục 7]. (Nội dung vi phạm chủ yếu về: phẩm chất đạo

đức, lối sống, quy định những điều đảng viên không được làm, thiếu trách nhiệm,

buông lỏng vai trò lãnh đạo, quản lý, vi phạm công tác đào tạo, tuyển sinh...).

Công tác giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp được tăng cường và

triển khai thực hiện có hiệu quả. Nội dung giám sát chủ yếu tập trung vào việc thực

hiện các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, tiêu chuẩn cấp ủy viên, thực hiện nhiệm

vụ được giao, quản lý đảng viên và phát triển Đảng trong đội ngũ trí thức và sinh

viên. Trong 5 năm, Đảng ủy Khối và các đảng ủy, chi bộ cơ sở đã thực hiện giám sát

chuyên đề 858 lượt tổ chức cơ sở đảng và 1.393 lượt đảng viên; giám sát thường

xuyên 4.982 lượt tổ chức cơ sở đảng và 16.501 lượt đảng viên.

Công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng

viên được thực hiện tốt. Cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã xem xét 207 đơn, thư

khiếu nại, tố cáo và giải quyết xong đảm bảo đúng quy định, hạn chế đơn, thư

vượt cấp [Phụ lục 7]. Những đơn, thư còn lại không giải quyết do là đơn, thư mạo

tên, giấu tên, đơn đã được cấp có thẩm quyền giải quyết, kết luận, nay tố cáo lại

nhưng không có nội dung mới, những đơn, thư không đúng thẩm quyền giải

quyết. Nội dung đơn, thư khiếu nại, tố cáo chủ yếu về công tác quản lý cán bộ,

đảng viên, nguyên tắc tập trung dân chủ, đạo đức lối sống, những điều đảng viên

không được làm...

Công tác thi hành kỷ luật đảng được thực hiện đúng trình tự, nguyên tắc, thủ

tục. Cấp ủy các cấp và ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối đã thi hành kỷ luật 01 tổ chức

đảng và 78 đảng viên do vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống và quy định những điều

đảng viên không được làm; thiếu trách nhiệm, buông lỏng vai trò lãnh đạo, quản lý,

làm trái các quy định của Đảng và Nhà nước, vi phạm trong công tác giáo dục, đào

tạo, tuyển sinh, chính sách kế hoạch hóa gia đình...

Công tác củng cố, kiện toàn ủy ban kiểm tra các cấp và cán bộ chủ chốt của ủy

ban kiểm tra được tiến hành thường xuyên gắn với tập huấn về nghiệp vụ công tác

kiểm tra, giám sát, đảm bảo đủ về số lượng, chất lượng, hoàn thành nhiệm vụ theo quy

định của Điều lệ Đảng.

Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã phát huy

ưu điểm, kịp thời khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, cảnh báo, phòng ngừa,

ngăn chặn vi phạm đối với tổ chức đảng và đảng viên từ khi còn manh nha, không để

trở thành những sai phạm lớn, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong thực hiện các

nhiệm vụ chính trị.

3.1.2. Hạn chế

3.1.2.1. Hạn chế trong thực hiện nội dung lãnh đạo

Thứ nhất, lãnh đạo nâng cao chất lượng cụ thể hóa chiến lược và chính sách

phát triển giáo dục đại học của Đảng và Nhà nước thành mục tiêu, chiến lược và sứ

mệnh đào tạo của nhà trường

Vai trò quan trọng nhất của các đảng bộ các trường đại học là xác định tầm

nhìn và chiến lược phát triển. Điều này có liên quan đến việc phải trả lời được các câu

hỏi như: Giáo dục đại học là để làm gì? Những mục tiêu mà đất nước cần đạt đến là

gì? Với những người học đại học nên đặt ra mục tiêu chiến lược như thế nào? Sẽ đạt

được những mục tiêu ấy bằng cách nào? Bằng những loại hình trường gì? Theo mô

hình nào? Trong thời gian bao lâu?

Các trường đại học trên thế giới thường hướng đến ba mục tiêu chính để đào tạo

sinh viên: trang bị kiến thức nghề nghiệp chuyên môn; hướng dẫn sinh viên ứng dụng

chuyên môn đã học vào công việc thực tế; nâng cao trình độ nhận thức văn hóa cho

sinh viên. Nếu dựa vào ba mục tiêu này, các trường đại học sẽ có những giải pháp cụ

thể để đào tạo sinh viên phát triển một cách toàn diện, nhưng các trường đại học của

Việt Nam thường lại hướng tới những mục tiêu to lớn, không cụ thể như: trung thành

với Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội..., nên nhiều lúc chính các cấp quản lý của nhà

trường cũng mơ hồ về mục tiêu quản lý, giảng dạy và sinh viên cũng mơ hồ về mục

tiêu học của mình. Do đó, một số đảng bộ chưa xác định được một cách chính xác tầm

nhìn dài hạn trong công tác nhà trường.

Mặt khác, nhiều đảng bộ trường còn lúng túng trong việc xác định xu hướng

đào tạo của trường là như thế nào? theo qui định của Luật Giáo dục đại học, ngay từ

việc phát triển trường theo định hướng nào (nghiên cứu, ứng dụng hay vừa nghiên cứu

vừa ứng dụng) cũng do các nhân tố ngoài trường quyết định là chính. Bởi vì theo quy định

của Luật thì “cơ sở giáo dục đại học được phân tầng thành: Cơ sở giáo dục đại học định

hướng nghiên cứu; Cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng dụng; Cơ sở giáo dục đại học

định hướng thực hành”; mỗi tầng lại gồm các hạng; và “căn cứ kết quả xếp hạng, cơ quan

quản lý nhà nước có thẩm quyền quyết định kế hoạch ưu tiên đầu tư, giao nhiệm vụ và cơ

chế quản lý đặc thù đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập.

Cùng với nó là tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, khi các trường đại

học chưa khẳng định và phát triển bản sắc văn hóa lành mạnh thì rất dễ bị ảnh hưởng

bởi các luồng văn hóa không lành mạnh khác như: đào tạo chạy theo số đông mà

không quan tâm đến chất lượng, đào tạo với mục tiêu bằng cấp... Chính những điều

này đã làm xói mòn đạo đức nhà giáo, một trong những nền tảng quan trọng nhất để

xây dựng mục tiêu, chiến lược, sứ mệnh nhà trường lành mạnh.

Bên cạnh đó, ban lãnh đạo của nhà trường, đặc biệt là hiệu trưởng (thường là

bí thư, hoặc phó bí thư đảng bộ) của các trường đại học được quyết định theo nhiệm

kỳ, trong khi đó mỗi nhà trường đều có lịch sử tồn tại và sự phát triển riêng của nó.

Sự phát triển qua thời gian đã tạo ra những giá trị nhất định cho từng nhà trường.

Điều này đòi hỏi ban lãnh đạo, đặc biệt là hiệu trưởng phải thực sự tâm huyết để tìm

ra những giá trị tích cực của nhà trường, từ đó phát huy những giá trị có tính đặc

trưng, khác biệt về bản sắc với các trường khác. Muốn làm được điều này, hiệu

trưởng nhà trường phải xây dựng triết lý giáo dục cho trường mình. Triết lý giáo dục

là cốt lõi của nhà trường, phản ánh tầm nhìn và tâm huyết của ban lãnh đạo đối với

sự phát triển của nhà trường, là công cụ tốt nhất để thống nhất hành động của mọi

thành viên trong nhà trường. Tuy nhiên hiện nay, các trường đại học công lập trên

địa bàn Hà Nội nói riêng, cả nước nói chung gặp nhiều khó khăn để có thể xây dựng

được triết lý giáo dục, vì hiệu trưởng là người được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ công

tác, nên phần lớn những quyết định chỉ mang tính chất ngắn hạn, cục bộ mà thiếu đi

việc xây dựng chiến lược phát triển tổng thể. Vì vậy, tính cho đến thời điểm hiện

nay, một số trường không có tuyên bố sứ mệnh và triết lý hành động của riêng mình,

một số các trường đại học có tuyên bố sứ mệnh, tầm nhìn thì dường như vẫn thiếu

các chiến lược phù hợp và quyết tâm cao để biến nó thành hiện thực.

Thứ hai, lãnh đạo, định hướng nâng cao chất lượng nội dung, chương trình

đào tạo, phương thức đào tạo

Trong thời gian qua, mặc dù đảng bộ các trường đại học công lập ở thành thành

phố Hà Nội đã chú trọng lãnh đạo nhà trường nâng cao chất lượng nội dung, chương

trình đào tạo, phương thức đào tạo, tuy nhiên nội dung kiến thức đào tạo còn nặng về

lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa tạo được sự thống nhất gắn mục tiêu đào tạo với

mục tiêu tìm kiếm việc làm đối với người học, chương trình học còn nặng với thời

lượng lớn. Một thống kê và so sánh cho thấy, thời gian học 4 năm ở một lớp đại học

tại Việt Nam là 2.138 giờ so với Mỹ là 1.380 giờ. Như vậy chương trình học ở Việt

Nam dài hơn 60% so với Mỹ. Thời gian học nhiều như vậy nên người học khó tránh

khỏi việc rơi vào trạng thái luôn bị áp lực hoàn thành các chương trình môn học, ít có

thời gian để tự học, tự nghiên cứu, hoặc tham gia các hoạt động xã hội khác. Nhìn

chung, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chương trình giáo dục đại học tại nước ta nói

chung đang tỏ ra bất cập và kém hiệu quả.

Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đại học, các trường đại học công

lập ở thành phố Hà Nội hiện nay nhìn chung chưa tiếp cận với các phương pháp và

hình thức tổ chức dạy học đại học phổ biến của thế giới. Nhằm mục tiêu “nhấn mạnh

đến kỹ năng xử lý vấn đề đặt ra trong cuộc sống hơn là tập trung vào việc làm đầy

kiến thức đã có sẵn”, việc áp dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học của

các trường đại học trên thế giới thường rất linh hoạt, dựa trên tinh thần đề cao vai trò

của người học, tạo điều kiện tối đa cho người học có thể tự học, tự nghiên cứu. Chúng

ta vẫn còn nặng quan niệm “nền giáo dục cần trang bị cho người học một lượng kiến

thức càng nhiều càng tốt để họ có thể có một nền tảng vững chãi khi ra trường” nên

vai trò, vị trí của người học chưa thực sự được quan tâm. Các phương pháp và hình

thức tổ chức dạy học còn khá lạc hậu. Phương pháp giảng dạy không hiệu quả, quá

phụ thuộc vào các bài thuyết trình và ít sử dụng các kỹ năng học tích cực, kết quả là

có ít sự tương tác giữa sinh viên và giảng viên trong và ngoài lớp học; quá nhấn mạnh

vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu thuộc lòng mà không nhấn mạnh vào việc học khái

niệm hoặc học ở cấp độ cao (như phân tích và tổng hợp), dẫn đến hậu quả là học hời

hợt thay vì học chuyên sâu; sinh viên học một cách thụ động. Mặc dù, những năm gần

đây, theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhiều trường đại học công lập ở Hà

Nội đã áp dụng phương pháp giảng dạy cho sinh viên theo phương thức tín chỉ, nhưng

theo đánh giá của nhiều chuyên gia, đào tạo tín chỉ ở Việt Nam hiện chưa thực sự

đúng với tinh thần của tín chỉ. Cách dạy, học vẫn còn chưa thoát khỏi tinh thần niên

chế. Sự đổi mới về phương pháp giảng dạy trong các trường đại học ở nước ta hiện

nay nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Các thiết bị giảng dạy, như máy chiếu, video...

chỉ là phương tiện hỗ trợ để nâng cao chất lượng giảng dạy, điều quan trọng hơn cả là

sự nhận thức rằng giáo dục phải mang tính sáng tạo, tinh thần trách nhiệm thể hiện

qua việc cải tiến về phương pháp và chương trình học vẫn chưa được chú trọng.

Thứ ba, lãnh đạo nâng cao chất lượng công tác tổ chức - cán bộ; xây dựng đội

ngũ giảng viên, cán bộ khoa học có chất lượng cao

Một là, tỷ lệ giáo viên cơ hữu so với số lượng sinh viên rất thấp. Do quy mô

đào tạo tăng nhanh, trong khi biên chế đội ngũ giảng viên tăng chậm, làm cho tỷ lệ

giảng viên so với sinh viên ngày càng giảm. Tỷ lệ này đang ở mức báo động và hết sức

gay gắt. Chỉ tính 5 trường đại học công lập khối ngành kinh tế ở Hà Nội thì phổ biến

tỷ lệ một giáo viên có tới gần 100 sinh viên, gấp 3 lần so với cấp tiểu học và gấp nhiều

lần so với tỷ lệ này ở các đại học khác trong khu vực và trên thế giới. Do tình trạng

thiếu giảng viên, dẫn đến hệ số giờ đứng lớp của giảng viên ở các trường hiện nay là

khá cao. Đây cũng là nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên.

Theo Quyết định số 64/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, giảng

viên có chức danh càng cao thì số giờ giảng dạy càng nhiều (Giáo sư, GVCC = 360 giờ;

Phó giáo sư, GVC = 320 giờ ; Giảng viên = 280 giờ). Đây đã là số giờ chuẩn tương đối

nhiều, song trên thực tế, ở khá nhiều trường đại học, cao đẳng, số giờ mà giảng viên thực

dạy còn lớn hơn nữa, thường là gấp đôi số định mức, thậm chí có người dạy tới 1.000 -

1.500 tiết/năm. Hệ số giờ giảng cao, không những ảnh hưởng tới sức khỏe của giáo viên,

mà còn làm cho giáo viên không có thời gian tự nghiên cứu, đi khảo sát thực tế, bồi dưỡng

thêm về kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao tay nghề, tiếp thu kiến thức mới.

Hai là, đội ngũ cán bộ, giảng viên còn hạn chế về năng lực sáng tạo, chưa thật

sự có những ý tưởng mới, những giải pháp hữu ích, có hiệu quả cao để phục vụ cho sự

phát triển kinh tế - xã hội. Đây cũng là hạn chế chung của đội ngũ cán bộ giảng dạy ở

nhiều ngành và nhiều trường khác nhau. Số công trình nghiên cứu khoa học được đang

tải từ các tạp chí có uy tín trong và ngoài nước còn hạn chế.

Ba là, mặc dù đã có những bước tiến nhanh trong vấn đề xây dựng đội ngũ,

nhưng so với yêu cầu và nhiệm vụ của bản thân các trường đại học và nhu cầu phát

triển kinh tế xã hội thì chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy của chúng ta vẫn còn thấp

so với yêu cầu. Đội ngũ trí thức chưa hoàn toàn thực sự là động lực thúc đẩy sự phát

triển khoa học và phát triển kinh tế xã hội.

Bốn là, chất lượng đội ngũ không đồng đều trong các cơ sở đào tạo. Thực tế ở

Hà Nội cho thấy, có trường đại học lực lượng rất hùng hậu, nhiều cán bộ giảng dạy đầu

ngành quy mô và chất lượng đào tạo tốt. Tuy nhiên, có trường còn thiếu và yếu về đội ngũ

cán bộ, chất lượng đào tạo cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội.

Năm là, quá trình đào tạo đội ngũ chưa liên tục, thống nhất và có sự chênh lệch

giữa các trường đại học công lập trên địa bàn Hà Nội. Thực tế đã cho thấy rằng, đội ngũ

cán bộ giảng dạy có học hàm, học vị thì hầu hết đã cao tuổi, khả năng cống hiến cho

khoa học và giáo dục đào tạo không còn lâu dài. Trong khi đó, đội ngũ giảng viên trẻ

tuổi chưa thật sự đủ điều kiện để thay thế các bậc đàn anh đi trước. Mặt khác, tập quán

“tự túc tự cấp” đội ngũ cán bộ, giảng viên đã làm cho lực lượng của các trường ngày

càng yếu đi. Phần lớn các trường đại học, nhất là những trường lâu năm, thường chỉ giữ

lại những sinh viên do chính trường mình đào tạo ra để làm giảng viên. Trừ một số

trường hợp trúng tuyển đi học nước ngoài sau khi tốt nghiệp đại học, trong suốt thời

gian học đại học, cao học và làm nghiên cứu sinh, những sinh viên này chỉ biết các thầy

ở trường mình, hầu như không tiếp xúc với những chuyên gia khác, những trường phái

khác. Đó là chưa kể nhiều trường hợp những người có chức có quyền và giảng viên giữ

lại trường con cháu mình, mặc dù những học trò này không hẳn là những sinh viên xuất

sắc.

Thứ tư, lãnh đạo nâng cao chất lượng công tác phối hợp giữa các tổ chức trong

nhà trường; công tác phối hợp, chuyển giao công nghệ đào tạo với các tổ chức, doanh

nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước

Mặc dù các trường đại học đã có rất nhiều có gắng trong công tác phối hợp,

chuyển giao công nghệ đào tạo với các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài

nước nhưng vẫn chưa tạo được sự liên thông giữa các chuẩn mực giáo dục đại học

trong nước và quốc tế; khả năng liên thông kiến thức giữa các cơ sở giáo dục đại học

công lập ở Hà Nội hiện nay còn rất hạn chế, ít thừa nhận và tiếp nhận các kết quả đào

tạo của nhau, nên người học rất khó khăn khi chuyển trường, ngành học. Việc liên

thông kiến thức giữa các cơ sở giáo dục đại học trong nước và ngoài nước lại càng khó

khăn hơn do có sự khác biệt về mục tiêu, nội dung và phương pháp đào tạo giữa các cơ

sở giáo dục đại học trong nước và quốc tế (trừ các chương trình liên kết đào tạo theo

thỏa thuận). Điều này không những gây khó khăn cho người học khi muốn chuyển đến

cơ sở giáo dục ngoài nước, mà ngay cả việc công nhận văn bằng, chứng chỉ của các cơ

sở giáo dục trong nước tại các nước mà người học chuyển đến định cư hoặc công tác

cũng không phải dễ dàng.

Xét về tổng thể, việc hợp tác giữa các trường đại học công lập và DN ở Hà Nội

còn hạn chế về số lượng, chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công

nghệ còn nhiều bất cập, chưa theo kịp sự thay đổi của nền kinh tế. Trong khi đó, sự

thiếu hụt thông tin từ cả hai phía, thiếu đầu mối liên lạc trong việc hợp tác là rào cản

không nhỏ của việc liên kết này. Việc hợp tác giữa các trường đại học và DN là chưa

nhiều. Phần lớn các trường đại học công lập ở Hà Nội chủ yếu thiết lập mạng lưới

khoảng 10 DN đối tác chiến lược. Số lượng DN hợp tác ngắn hạn, không thường

xuyên có sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm trường.

3.1.2.2. Hạn chế trong thực hiện phương thức lãnh đạo

Thứ nhất, lãnh đạo bằng chủ trương, nghị quyết, chiến lược, chương trình, quy

chế, quy định về công tác đào tạo trình độ đại học.

Việc tổ chức triển khai, nghiên cứu quán triệt nghị quyết của Trung ương về

giáo dục - đào tạo trình độ đại học ở một số cấp uỷ, đơn vị còn chưa sâu sắc, cán bộ,

giảng viên tham gia đảm bảo về số lượng nhưng chất lượng chưa cao. Một số cấp uỷ

xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện nghị quyết còn mang tính hình thức, rập

khuôn, ít sáng tạo; mục tiêu, nhiệm vụ đề ra chưa sát thực tế đào tạo của nhà trường,

giải pháp thực hiện còn chung chung, chưa xác định rõ những vấn đề trọng tâm, trọng

điểm trong phát triển giáo dục đại học.

Vẫn còn nhiều bất cập khi chưa phân định rõ ràng, cụ thể về sứ mạng, chức năng và mối tương quan của các loại hình cơ sở giáo dục đại học trong hệ thống.

Bên cạnh đó, cơ chế “bộ chủ quản”, “trường trực thuộc” cũng hạn chế quyền tự

chủ của các cơ sở giáo dục đại học, vô hiệu hóa tác dụng của hội đồng trường. Điều

đáng lưu tâm là chủ trương xóa cơ chế “bộ chủ quản” dù đã được đặt ra từ lâu nhưng

cho đến nay chưa có biện pháp nào được đưa ra để thực hiện chủ trương này.

Thứ hai, lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục tổ

chức đảng, đảng viên để thực hiện nghị quyết, chủ trương về công tác đào tạo

Một số cấp ủy viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa thường xuyên quán triệt và

thực hiện tốt chủ trương đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng,

giáo dục pháp luật cho cán bộ, giảng viên và sinh viên trong nhà trường. Thực tiễn

cho thấy nghị quyết lãnh đạo của một số Đảng bộ tuy có đề cập đến công tác giáo dục

chính trị, nhưng chưa thật cụ thể, vẫn còn dừng lại ở quan điểm, chỉ tiêu chung chung,

mang tính định hướng (có nơi còn bê nguyên nghị quyết cấp trên áp vào cấp mình)

chưa có chủ trương, biện pháp lãnh đạo cụ thể, thiết thực sát với tình hình nhà trường;

chưa cụ thể hóa thành mục tiêu, chỉ tiêu phấn đấu cho các đối tượng cụ thể.

Do chưa phát huy đầy đủ vai trò trách nhiệm, nên một số cấp ủy, cán bộ

lãnh đạo còn thiếu tích cực trong triển khai tiến hành công tác giáo dục chính trị,

tư tưởng chưa kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục chính trị với nắm bắt và định hướng

tư tưởng.

Việc nắm tình hình, kiểm tra và rút kinh nghiệm đối với các đơn vị chưa làm

thường xuyên, vẫn còn dựa vào báo cáo của cấp dưới là chủ yếu. Khả năng bao quát

nắm tình hình tư tưởng cán bộ, giảng viên mà nhất là sinh viên còn hạn chế; năng lực tham

mưu đề xuất về công tác giáo dục chính trị, công tác quản lý tư tưởng còn nhiều bất cập,

chưa thực sự làm tốt công tác định hướng, dự báo xu hướng tư tưởng và xử lý những diễn

biến tư tưởng trong hoạt động thực tiễn của Đảng bộ nhà trường.

Tính chiến đấu trong giáo dục chính trị, tư tưởng còn chưa cao, việc phê phán

quan điểm sai trái và những hiện tượng tiêu cực trong nhà trường còn thiếu sắc

bén.Trong các nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng, hiệu quả giáo dục đạo đức, pháp

luật, lối sống cho cán bộ, giảng viên và sinh viên chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra,

chưa đủ sức thuyết phục góp phần dứt điểm các vụ việc vi phạm, chưa tạo nên sức

mạnh tập thể để đấu tranh phê phán những biểu hiện của lối sống thực dụng, tự do

buông thả của một số sinh viên. Khuynh hướng hình thức, chạy theo thành tích trong

chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác giáo dục chính trị vẫn còn hiện tượng khá phổ

biến.

Thứ ba, lãnh đạo thông qua phân công, phân cấp quản lý cán bộ, giảng viên;

phát huy vai trò quản lý của nhà trường; trách nhiệm của các tổ chức, người đứng đầu

các tổ chức trong hệ thống nhà trường.

Việc xây dựng quy chế phối hợp công tác giữa Ban Cán sự Đảng các bộ, ngành

chủ quản các trường với Đảng ủy Khối các trường đại học, cao đẳng Hà Nội vẫn chưa

được thực hiện. Nhìn chung trong hệ thống các trường đại học công lập trên địa bàn

Thủ đô, các trường mới đang trong giai đoạn xây dựng quy chế phối hợp giữa Đảng

ủy, Ban Giám hiệu và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, chưa ban hành Quy chế

cụ thể. Chính vì vậy, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy đảng đôi khi còn

lúng túng, chưa khoa học và chưa dứt điểm. Chẳng hạn trong một số nhà trường chưa

làm rõ công tác tổ chức cán bộ thông qua Đảng ủy hay chịu sự chỉ đạo trực tiếp của

Hiệu trưởng nhà trường.

Một số cấp uỷ và Ban Giám hiệu còn lúng túng, chậm đổi mới phương thức hoạt

động, phương pháp quản lý, điều hành còn nhiều bất cập, chưa tạo ra động lực đủ mạnh

để phát huy năng lực sáng tạo, tự chủ và tự chịu trách nhiệm của nhà trường.

Về công tác phối hợp trong tổ chức quản lý của hệ thống giáo dục đại học là sự

phân tán trách nhiệm quản lý cho quá nhiều bộ và nhiều tỉnh thành chủ quản. Việc

chia cắt các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục đại học giữa Bộ Giáo dục và Đào

tạo với các bộ ngành khác đã làm cho việc quản lý nhà nước đối với hệ thống giáo dục

chồng chéo, phân tán, thiếu thống nhất. Theo Điều 56 Luật GD: “Tổ chức Đảng Cộng sản

Việt Nam trong nhà trường lãnh đạo nhà trường và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp

và pháp luật”. Trong khi đó, quyền tự chủ được tái khẳng định trong Luật Giáo dục đại

học (GDĐH) năm 2012: “Cơ sở giáo dục đại học tự chủ trong các hoạt động chủ yếu

thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, KH&CN, hợp tác

quốc tế, bảo đảm chất lượng giáo dục đại học.” Về học thuật, lần đầu tiên các trường

được tự chủ xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ cao đẳng, đại

học, thạc sĩ, tiến sĩ; tự chủ xác định chỉ tiêu tuyển sinh; tự in phôi bằng, cấp bằng cho tất

cả các trình độ mà trường đào tạo.

Hội đồng trường ở trường đại học công lập được trao quyền rất lớn, nhưng

không có quyền bầu và miễn nhiệm hiệu trưởng nên về nguyên tắc hiệu trưởng không

phải chịu trách nhiệm trước Hội đồng mà chỉ chịu trách nhiệm trước cấp trên, giống

người đứng đầu tổ chức thuộc hệ thống hành chính hơn là người đứng đầu tổ chức tự

quản. Hội đồng trường thường do hiệu trưởng làm chủ tịch, do đó, Hội đồng đóng vai

trò tư vấn hơn là một Hội đồng quyền lực. Mặt khác, ở các trường đại học công lập Việt

Nam, tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường

lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo thực hiện có

hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ, công tác của đơn vị. Mối quan hệ giữa tổ chức Đảng

với Hội đồng trường chưa được Luật GDĐH quy định rõ nên Hội đồng trường chỉ mang

tính hình thức, không có thực quyền. Như vậy, đây đang là những bất cập, hạn chế

trong công tác phối hợp về công tác tổ chức - cán bộ.

Thứ tư, lãnh đạo bằng công tác tổ chức, xây dựng các tổ chức và đội ngũ cán

bộ làm công tác đào tạo.

Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các trường đại học công lập

ở thành phố Hà Nội còn chưa kịp thời, bị động, đôi lúc gây khó khăn cho việc bố trí

cán bộ lãnh đạo. Đảng ủy của một số trường đại học chưa mạnh dạn đề ra những giải

pháp bứt phá phát triển công tác đào tạo trình độ đại học, đôi khi còn rập khuôn, ít

sáng tạo. Trình độ chuyên môn và năng lực quản lý của một số lãnh đạo chưa đáp ứng

yêu cầu nhiệm vụ; công tác bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý trong ngành giáo dục đại

học có trường hợp chưa thực sự khách quan, vì công việc. Việc thực hiện quy trình

công tác tuyển chọn, điều động, luân chuyển, quy hoạch, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm cán

bộ và giảng viên ở một số trường còn chưa thực sự nghiêm túc, còn có biểu hiện cá

nhân, cục bộ. Cơ chế phát hiện, sử dụng người có đức, có tài còn có nhiều bất cập.

Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, chế độ đãi ngộ, chính sách cán bộ, giảng viên nhất là

những cán bộ đã được đào tạo ở nước ngoài chưa tạo được động lực thu hút, khuyến

khích, phát huy năng lực, ý chí phấn đấu vươn lên của đội ngũ cán bộ, giảng viên và

những sinh viên có kết quả học tập cao.

Đội ngũ cán bộ, giảng viên có nơi còn hạn chế về trình độ (nhất là ngoại ngữ và

tin học). Hệ thống giáo trình, giáo án nhìn chung chưa cập nhật kịp thời tri thức mới

theo sự phát triển của xã hội. Công tác đánh giá đầu ra của sinh viên có lúc, có nơi

chưa được thực hiện nghiêm túc. Công tác dạy nghề chưa được quan tâm đúng mức.

Chưa có những giải pháp mang tính đột phá để khuyến khích đội ngũ giảng viên tích

cực nghiên cứu khoa học.

Cách thức quản lý, sử dụng đội ngũ giảng viên hiện nay không phát huy hết

tiềm năng của cả đội ngũ và từng cá nhân, không kích thích được sự phấn đấu trong

chuyên môn; không sàng lọc được dễ dàng và thường xuyên những người yếu kém.

Cơ chế, chính sách đãi ngộ chưa tương xứng, vẫn dựa chủ yếu vào khối lượng giảng

dạy và thâm niên công tác mà không căn cứ vào thành tích và khả năng nghiên cứu

của cá nhân; chưa bảo đảm cho giảng viên có cuộc sống đủ để có thể toàn tâm, toàn ý

cho việc bảo đảm chất lượng hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

Thứ năm, lãnh đạo thông qua vai trò của tổ chức đảng, vai trò tiền phong

gương mẫu của đội ngũ đảng viên.

Chất lượng sinh hoạt chi bộ ở một số đơn vị chậm đổi mới, sinh hoạt định kỳ còn

mang tính hình thức, nặng về chuyên môn, tính chiến đấu, tinh thần phê bình và tự phê bình

chưa cao. Công tác quản lý đảng viên, chuyển sinh hoạt Đảng cho đảng viên đã nghỉ hưu,

sinh viên tốt nghiệp ra trường và đảng viên đi công tác nước ngoài chưa kịp thời. Công tác

phát triển đảng viên mới đạt kết quả tích cực nhưng vẫn chưa thực sự phát huy hết tiềm

năng. Việc xét duyệt kết nạp Đảng, công nhận đảng viên chính thức, chuyển sinh hoạt

Đảng ở một số tổ chức cơ sở đảng còn khó khăn. Công tác đánh giá, xếp loại chất lượng tổ

chức cơ sở đảng, đảng viên có nơi còn chạy theo thành tích, chưa thực chất.

Một bộ phận cán bộ, đảng viên, giảng viên chưa nhận thức đầy đủ, chưa có ý

thức tự giác phát huy quyền, trách nhiệm xây dựng, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ

sở. Công tác tuyên truyền giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên có tiến bộ, song

chưa toàn diện; vẫn còn một bộ phận sinh viên sống thiếu lý tưởng, ít quan tâm đến

tình hình chính trị - xã hội, thiếu ý thức trong học tập, thực dụng, sa sút về đạo đức,

lối sống, sa vào tệ nạn xã hội, cá biệt có trường hợp vi phạm pháp luật. Việc tổ chức

gặp gỡ, đối thoại giữa các cẩp ủy đảng, chính quyền với sinh viên ở một số trường

chưa thường xuyên. Công tác đào tạo cán bộ trẻ mới chú trọng đến đào tạo chuyên

môn, chưa quan tâm nâng cao trình độ lý luận chính trị do quy định về độ tuổi và tư

duy “xếp hàng” vẫn còn tồn tại ở một số trường. Việc bình xét thi đua, khen thưởng

vẫn còn hiện tượng nể nang, luân phiên khen thưởng giữa các đơn vị và cá nhân, chưa

xây dựng được điển hình tiêu biểu.

Ở một số trường đại học công lập thành phố Hà Nội còn thiếu cán bộ chuyên

trách làm công tác đảng, nhất là cán bộ nghiệp vụ. Do vậy, việc chuẩn bị hồ sơ ở

nhiều trường bị kéo dài; công tác xác minh, thẩm tra lý lịch, nhất là của những sinh

viên ở miền Trung, miền Nam gặp nhiều trở ngại, kéo dài... đã làm giảm đáng kể số

sinh viên được kết nạp vào Đảng mỗi năm. Bên cạnh đó, quy trình, thủ tục xét, kết

nạp một quần chúng vào Đảng cũng chưa đổi mới, quá phức tạp, đôi khi máy móc,

thiếu linh hoạt và mất nhiều thời gian.

Thứ sáu, lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát.

Một số cấp uỷ, ủy ban kiểm tra các cấp chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát còn hạn chế, chưa phản ánh tình hình thực tiễn; chưa coi trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện chỉ thị,

nghị quyết và thi hành Điều lệ Đảng. Việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo chưa đảm bảo quy định, vẫn còn tình trạng đơn, thư vượt cấp. Còn nể nang, né tránh trong kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Kỷ luật, kỷ cương ở một số tổ chức cơ sở đảng chưa nghiêm, tinh thần đoàn kết, nhất trí chưa thật tốt.

Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy đối với tổ chức đảng và cán bộ, giảng

viên trong các nhà trường vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là việc kiểm tra, giám sát các

cấp ủy viên cùng cấp hoạt động trong các trường đại học công lập. Công tác này chưa

được tiến hành thường xuyên, chậm phát hiện những điểm vướng mắc và những sai

lầm, khuyết điểm trong quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của Đảng ủy để giải quyết kịp thời. Nhiều vụ tiêu

cực, tham nhũng của cán bộ,giảng viên, đảng viên trong nhà trường không phải do

công tác kiểm tra, giám sát phát hiện ra, mà do nhân dân, các phương tiện thông tin

đại chúng phát hiện, do mâu thuẫn nội bộ dẫn đến tố cáo lẫn nhau, các cơ quan chức

năng điều tra, xác minh mới xử lý được.

Thực tế kiểm tra, giám sát chỉ phát huy tác dụng trong phạm vi những chương

trình, chế độ, chính sách liên quan trực tiếp, thiết thực đến quyền lợi, nghĩa vụ của cán

bộ, giảng viên trong các trường đại học. Hoạt động của ban thanh tra của một số

trường đại học còn chưa phát huy hết hiệu lực, Uỷ ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra ở

một số trường chưa đủ mạnh, chưa ngang tầm với nhiệm vụ. Chất lượng dân chủ đại

diện còn thấp, vai trò các đoàn thể chưa thực sự rõ nét, đa số chạy theo phong trào.

Việc lãnh đạo kiểm tra, giám sát của Đảng ủy đối với công tác đào tạo mặc dù đã được tiến hành thường xuyên song kết quả chưa cao. Việc phát hiện và xử lý sai phạm chưa kịp thời, ít có tác dụng răn đe, giáo dục.

Công tác kiểm tra, giám sát chưa phát huy hiệu quả trong phát hiện những

gương điển hình, những cách làm đem lại hiệu quả, để biểu dương, khen thưởng kịp

thời và nhân rộng điển hình tiên tiến, thúc đẩy thực hiện nghị quyết; chậm phát hiện

những bất cập giữa nghị quyết với thực tiễn sinh động của môi trường đào tạo để tham

mưu cho cấp ủy điều chỉnh kịp thời.

Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng ủy, ủy ban kiểm tra Đảng ủy nhà trường

đối với các tổ chức đảng, các đơn vị, phòng, ban trong quá trình cụ thể hóa nghị quyết

của Đảng ủy nhà trường thành chương trình, kế hoạch hoạt động chưa kịp thời, thậm

chí còn buông lỏng. Việc đôn đốc, nhắc nhở tổ chức thực hiện các nghị quyết của

Đảng ủy về một số chính sách đối với giảng viên, quản lý sinh viên về tư tưởng, lối

sống chưa chặt chẽ.

Công tác giám sát hoạt động của các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên trong

các phòng ban nhất là đối với những cán bộ chủ chốt còn nhiều lúng túng, có những

biểu hiện hình thức, hiệu quả thấp, chưa thực hiện được chức năng ngăn chặn các sai

phạm của cán bộ, đảng viên và sinh viên ngay từ khi mới manh nha.

3.2. NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM BƯỚC ĐẦU

3.2.1 Nguyên nhân

3.2.1.1. Nguyên nhân của ưu điểm

Thứ nhất, chiến lược phát triển giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước đã tạo

điều kiện để các đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội tiếp thu, vận dụng vào lãnh

đạo công tác đào tạo.

Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc và rõ hơn vai

trò đặc biệt quan trọng và ý nghĩa to lớn của giáo dục đào tạo mà đặc biệt là đào tạo

trình độ đại học.Các vấn đề lý luận về chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong điều

kiện mới đã được nghiên cứu và ngày càng hoàn thiện hơn. Những kết quả tổng kết

thực tiễn, phát triển lý luận về chiến lược phát triển giáo dục đào tạo của Đảng, nhất là

những vấn đề lý luận về phát triển giáo dục đào tạo của Đảng thể hiện trong Cương

lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH; Văn kiện Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ X, XI, XII, Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI và trong Cương lĩnh

xây dựng đất nước (bổ sung và phát triển năm 2011) là cơ sở lý luận của việc lãnh đạo

công tác đào tạo của các đảng bộ trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà

Nội trong những năm qua.

Việc tiếp thu và vận dụng có hiệu quả những thành tựu lý luận quan trọng của

Đảng ta về phát triển giáo dục đào tạo của Đảng đối với giáo dục đào tạo nói chung,

đối với đào tạo trình độ đại học nói riêng là nhân tố quan trọng hàng đầu của kết quả

lãnh đạo công tác đào tạo của các Đảng bộ trường đại học công lập trên địa bàn thành

phố Hà Nội.

Thứ hai, cùng với các trường đại học trong cả nước và trong khu vực, các trường

đại học công lập ở Hà Nội trong mấy năm qua đã phát triển khá vững mạnh và góp phần

tích cực vào hiệu quả lãnh đạo của các đảng bộ đối với công tác đào tạo.

Phẩm chất, năng lực đội ngũ cấp ủy, cán bộ và viên chức các trường, trong đó

đặc biệt là có tầm nhìn và khả năng hoạch định chiến lược, sự đồng thuận trong thực

hiện mục tiêu chung và ý chí vươn lên không ngừng để hoàn thành nhiệm vụ; đời

sống vật chất và tinh thần của đội ngũ cán bộ, giảng viên ở các trường đại học công lập

ở Hà Nội được quan tâm cải thiện. Điều này đã làm cho cán bộ, giảng viên toàn tâm,

toàn ý gắn bó với công việc. Hầu hết các trường đại học công lập ở Hà Nội đều đang

tiếp tục mở rộng và phát triển quy mô đào tạo đa ngành, đa cấp, định hướng nghề

nghiệp-ứng dụng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao nguồn nhân lực của đất nước; có

nhiều hoạt động nâng cao chất lượng giảng dạy, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và

chuyển giao công nghệ, có cơ hội tiếp cận các chương trình nghiên cứu trọng điểm của

quốc gia; tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học; tăng cường cơ sở vật chất, trang

thiết bị, kiện toàn cơ cấu tổ chức quản lý; các tổ chức chính trị ở các trường đại học

công lập ở Hà Nội không ngừng lớn mạnh về tổ chức lực lượng và quy mô hoạt động;

Công tác phát triển đảng viên mới trong sinh viên luôn nhận được sự quan tâm và chỉ

đạo sâu sát của các đảng bộ;

Thứ ba, sự lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi của cấp uỷ, các tổ chức

cơ sở đảng trực thuộc, các đơn vị, khoa phòng, các đoàn thể trong trường và chính

quyền trên địa bàn thành phố đối với quá trình lãnh đạo công tác đào tạo của các đảng

bộ trường đại học công lập ở Hà Nội.

Các trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội đã nhận thức sâu

sắc vai trò lãnh đạo của các đảng bộ đối với công tác đào tạo nói riêng và đối với phát

triển sự nghiệp giáo dục đào tạo nói chung, đây chính là nhân tố chủ yếu tạo nên kết

quả phát triển toàn diện của công tác đào tạo trình độ đại học. Bởi vậy, Đảng ủy, Ban

lãnh đạo các trường đã tích cực, chủ động tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều

kiện thuận lợi công tác đào tạo đạt kết quả, coi đó là trách nhiệm và chức năng lãnh

đạo của đảng bộ nhà trường.

Thứ tư, quá trình hội nhập với các trào lưu đổi mới mạnh mẽ trong giáo dục

đang diễn ra ở quy mô toàn cầu, tạo cơ hội thuận lợi cho các trường đại học công lập ở

Hà Nội tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục hiện đại; tận

dụng các kinh nghiệm quốc tế để đổi mới và phát triển, làm thu hẹp khoảng cách phát

triển các trường đại học công lập ở Hà Nội với các trường đại học ở miền Bắc và cả

nước.

Hợp tác quốc tế về giáo dục được mở rộng, tạo điều kiện cho các trường đại học

công lập ở Hà Nội có thể liên kết để đào tạo đội ngũ giảng viên có trình độ cao, trao đổi

nhiều vấn đề học thuật và tiếp thu kinh nghiệm quản lý để từng bước xác lập hướng phát

triển, nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực.Đây chính là điều kiện thuận lợi để các

đảng bộ trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội lãnh đạo công tác đào tạo

đạt kết quả cao.

3.2.1.2. Nguyên nhân của hạn chế

Thứ nhất, một số cấp uỷ đảng, nhà trường chưa nhận thức đầy đủ về chủ

trương, đường lối của Đảng về giáo dục, đào tạo.

Một số quan điểm, chủ trương đúng đắn của Đảng về công tác đào tạo chưa

được các đảng bộ tổ chức quán triệt một cách sâu sắc, thực hiện nghiêm túc và vận

dụng phù hợp trong các trường đại học công lập.

Từ sự nhận thức chưa đầy đủ nên một số cấp ủy thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư đúng mức cho công tác đào tạo. Sự quan tâm của cấp uỷ cơ sở một số trường mới dừng lại trên nghị quyết, chưa tạo ra hiện thực sinh động trong cuộc sống, thiếu quan tâm, sâu sát trong chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác đào tạo ở các trường đại học. Vẫn còn tình trạng “khoán trắng” cho khoa, phòng ban chuyên môn, trong khi các khoa, phòng, ban chuyên môn lại có tư tưởng ỷ lại cho lãnh đạo nhà trường.

Cấp uỷ đảng ở một số trường chưa quan tâm đúng mức công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cách mạng đối với đội ngũ cán bộ, giảng viên và cán bộ quản lý ngành giáo dục. Chưa làm cho họ nhận thức hết tầm quan trọng của công tác đào tạo trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Việc sơ kết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm về lãnh đạo công tác đào tạo của các đảng bộ trường đại học ở Hà Nội chưa được nhiều Đảng ủy coi trọng và duy trì thành nền nếp thường xuyên.

Hai là, tổ chức bộ máy, cán bộ, giảng viên và chất lượng hoạt động của các đơn vị, phòng ban tham mưu ở một số trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội chưa đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng công tác đào tạo.

Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác đào tạo phụ thuộc rất lớn vào chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên của nhà trường và việc đổi mới đội ngũ cán bộ giảng viên. Trong thời gian qua việc đổi mới đội ngũ cán bộ, giảng viên, đổi mới các phòng ban tham mưu của các trường đại học công lập ở Hà Nộ nhìn chung chưa mạnh mẽ trên một số khâu của công tác tổ chức, cán bộ, chưa tạo ra bước chuyển biến căn bản về vấn đề này.

Chức năng, nhiệm vụ của các phòng, ban tham mưu của các trường đại học công lập còn có những điểm chưa cụ thể, sát với tình hình công tác đào tạo. Tiêu chuẩn và cách chọn cán bộ vào làm việc trong các phòng ban, nhìn chung còn nhiều hạn chế, theo cách cũ. Cách làm này không thể loại trừ được các mối quan hệ phức tạp, dẫn đến xem nhẹ tiêu chuẩn, thậm chí có những trường hợp, những cán bộ, giảng viên do không có khả năng giảng dạy, không bố trí được công việc ở các khoa chuyên môn trong trường được chuyển về các phòng, ban làm công tác tham mưu.

Ba là, ở nhiều nơi Đảng ủy chưa động viên và phát huy mạnh mẽ vai trò và

trách nhiệm của các tổ chức đoàn thể tham gia vào quá trình nâng cao chất lượng công

tác đào tạo của nhà trường bằng những giải pháp đem lại hiệu quả cao.

Ở nhiều nhà trường, Đảng ủy chưa thực sự quan tâm một cách thường xuyên

đến việc phát huy vai trò và trách nhiệm của các tổ chức đoàn thể tham gia vào quá

trình nâng cao chất lượng công tác đào tạo của nhà trường. Trong quá trình này, vai trò

của khá nhiều tổ chức còn mờ nhạt, thậm chí một số tổ chức dường như đứng ngoài

cuộc.

Chưa có nhiều hình thức, phương pháp đem lại hiệu quả cao để phát huy vai trò

và trách nhiệm của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường tham gia quá trình đổi mới

nâng cao chất lượng công tác đào tạo. Bên cạnh đó các tổ chức đoàn thể ở không ít

nơi chưa nhận thức sâu sắc vai trò và trách nhiệm của mình đối với quá trình này, nên

chưa tích cực, chủ động tham gia, hoặc tham gia một cách hình thức vào những thời

điểm cần thiết. Việc giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức đoàn thể đối với hoạt

động của Đảng ủy, Ban lãnh đạo, cán bộ, giảng viên trong nhà trường còn nhiều lúng

túng, hình thức, hiệu quả chưa cao.

Bốn là, thách thức - yêu cầu ngày càng cao về chất lượng đào tạo trong thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chính yêu cầu ngày càng cao về chất lượng của sinh viên tốt nghiệp, sự cạnh tranh

giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo, khẳng định thương hiệu và vị thế của các trường đại

học công lập ở Hà Nội trong mối liên hệ với sự vận động, phát triển kinh tế - xã hội của

địa phương và khu vực miền Bắc và cả nước. Các đảng bộ trường đại học ở Hà Nội chưa

thực sự phát huy năng lực, vai trò, hiệu quả lãnh đạo, nhạy bén trong tư duy khoa học,

nhanh chóng đổi mới phương pháp quản lý và tổ chức đào tạo cho phù hợp với xu thế

phát triển chung của thế giới. Một số đảng bộ chưa quyết tâm khắc phục mọi khó khăn,

giữ vững truyền thống, còn có tình trạng mất đoàn kết, chưa chú trọng nâng cao năng lực

lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn đảng bộ, phát huy dân chủ, kỷ cương, vận động tối đa

các nguồn lực để phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu đặt ra.

Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới

mà nhất là cuộc cách mạng khoa học lần thứ tư (cách mạng 4.0) có thể làm cho khoảng

cách kinh tế và tri thức giữa Việt Nam và các nước ngày càng gia tăng. Hội nhập quốc

tế không chỉ tạo cơ hội cho giáo dục phát triển mà còn chứa đựng nhiều hiểm họa, đặc

biệt là nguy cơ xâm nhập của những giá trị văn hóa và lối sống xa lạ làm xói mòn bản

sắc dân tộc. Chiến lược phát triển của các trường đại học ở Hà Nội vẫn chưa chú trọng

nhiều đến sự thay đổi trong phương pháp quản lý, đổi mới phương thức giáo dục để

nhà trường thật sự trở thành không gian văn hóa, địa chỉ văn hóa và là môi trường giáo

dục mang tính định hướng đạo đức, lối sống, hình thành bản lĩnh cho sinh viên.

3.2.2. Những kinh nghiệm bước đầu từ thực tiễn lãnh đạo nâng cao chất

lượng đào tạo trình độ đại học của các đảng bộ trường đại học công lập ở thành

phố Hà Nội

Thứ nhất, phải tổ chức học tập, nghiên cứu, quán triệt và triển khai một cách

nghiêm túc, có hiệu quả các nghị quyết của Đảng về giáo dục và đào tạo để nâng cao

nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên và của tất cả mọi người dân, làm

cho mọi người hiểu rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của giáo dục, đào tạo, những chủ

trương, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục, đào tạo nói chung

và công tác giáo dục đại học. Coi đây là yếu tố đầu tiên, tạo ra sự chuyển biến mạnh

mẽ trong tư tưởng, và hành động của mỗi người về giáo dục và đào tạo trong thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Nghị quyết của Trung ương Đảng cần phải sớm được cụ thể hoá bằng các kế

hoạch, chương trình hành động cụ thể của Đảng uỷ cũng như các cấp uỷ đảng trong hệ

thống các trường đại học để lãnh đạo tổ chức thực hiện bảo đảm phù hợp trong từng

thời gian. Ban lãnh đạo nhà trường căn cứ vào nghị quyết, kế hoạch, chương trình của

Đảng ủy và của cấp uỷ cấp mình thể chế hoá thành các quyết định, kế hoạch, chương

trình đề án...cụ thể để tổ chức thực hiện một cách có hiệu quả công tác đào tạo trình độ

đại học. Định kỳ tổ chức sơ, tổng kết tìm ra những ưu điểm để phát huy, những mặt

thiếu sót để khắc phục, tạo sự chuyển biến rõ rệt trong việc thực hiện nghị quyết.

Các đảng bộ phải tổ chức học tập, quán triệt nghiêm túc các nghị quyết của

Đảng, nghiêm túc kiểm điểm đánh giá các thành tích đã đạt được, làm rõ trách

nhiệm của đơn vị mình về những tồn tại, yếu kém của công tác đào tạo để có biện

pháp chấn chỉnh công tác quản lý. Xây dựng có kế hoạch chương trình cụ thể, tổ

chức thực hiện, kịp thời đề xuất những việc phải làm để thực hiện thắng lợi nghị

quyết.

Mỗi nhiệm kỳ công tác, các cấp uỷ đảng phải xây dựng và ra nghị quyết chuyên

đề về công tác đào tạo. Các ban xây dựng đảng của đảng bộ nhà trường có trách nhiệm

giúp Đảng ủy nắm chắc tình hình của chất lượng công tác đào tạo, giúp cho công tác

lãnh đạo, chỉ đạo được sâu sát, kịp thời. Đồng thời quan tâm xây dựng các tổ chức

đảng trong nhà trường trở thành những đơn vị vững mạnh, trong sạch. Coi trọng

trách nhiệm của người đứng đầu các khoa, phòng, ban, đổi mới công tác quản lý

trường học; tập trung phát huy nhân tố con người, khơi dậy ý thức trách nhiệm,

lòng nhiệt tình và năng lực của đội ngũ giảng viên, cán bộ làm công tác quản lý.

Nghị quyết của Đảng cần phải thực hiện đồng bộ trong các đơn vị khoa phòng,

các tổ chức cơ sở đảng, căn cứ vào nghị quyết của Đảng bộ, chỉ đạo cụ thể hoá thành

kế hoạch để nâng cao chất lượng công tác đào tạo.

Thứ hai, giữ vững đoàn kết thống nhất trong tập thể đảng bộ trên cơ sở quan

điểm, đường lối, nghị quyết, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, phải coi

việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo là trách nhiệm của toàn thể cán bộ, đảng

viên trong nhà trường.

Đoàn kết là nhân tố quan trọng, là sức mạnh để các đảng bộ trường đại học

công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội lãnh đạo thực hiện có hiệu quả công tác đào

tạo của nhà trường. Đó là việc liên kết các cán bộ, giảng viên, nhân viên, các thành

viên trong nhà trường thành một tập thể đoàn kết thống nhất, vững mạnh về mọi mặt,

hết lòng vì mục tiêu giáo dục của nhà trường, mỗi công đoàn viên xác định rõ mục

đích phấn đấu, tư tưởng vững vàng, thân ái với đồng nghiệp, luôn nêu cao tinh thần

thẳng thắn phê bình và tự phê bình, mỗi người đều coi lợi ích tập thể là lợi ích cá nhân,

danh dự cá nhân là danh dự tập thể. Tập thể cán bộ, giảng viên trong nhà trường luôn tận

tình giúp đỡ, động viên dìu dắt nhau cùng tiến bộ, thực hiện phê bình và tự phê với tinh

thần cầu thị. Chính vì thế mọi việc đều được giải quyết một cách thấu tình đạt lí, không để

trở thành vấn đề nổi cộm, gây mất đoàn kết trong nội bộ nhà trường.

Tinh thần đoàn kết còn được thể hiện ở mối quan hệ giữa Ban Giám hiệu, lãnh

đạo nhà trường với đội ngũ cán bộ, giảng viên, đó là mối quan hệ gần gũi, cảm thông,

là sự góp ý chân thành, cởi mở, không mang tính áp đặt, mệnh lệnh. Lãnh đạo nhà

trường phải luôn biết nắm bắt tâm tư nguyện vọng của cán bộ, giảng viên, phân công

công việc hay giải quyết những thắc mắc để không gây ức chế, cũng như sự hiểu lầm

giữa giảng viên với nhau. Sự đoàn kết nhất trí trong nhà trường chính là sức mạnh để

Đảng bộ lãnh đạo công tác đào tạo đạt hiệu quả cao.

Công tác đào tạo trong trường đại học là một nhiệm vụ to lớn và lâu dài, có ý

nghĩa quan trọng, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,

do đó mà Đảng bộ nhà trường phải tạo được sự đồng thuận, huy động sức mạnh của

toàn thể cán bộ, giảng viên, tất cả các tổ chức đoàn thể tham gia vào việc thực hiện

các nghị quyết của Đảng bộ về công tác đào tạo.

Thứ ba, coi trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo cả về chính trị, tư tưởng và tổ

chức, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với công tác đào tạo.

Trước hết công tác giáo dục chính trị tư tưởng phải đặt lên hàng đầu, các cấp uỷ

đảng phải thường xuyên quan tâm làm tốt công tác tuyên truyền, quán triệt về quan

điểm đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục đào tạo,

tuyên truyền những gương người tốt, việc tốt trong công tác đào tạo trình độ đại học

để mọi người học tập và làm theo, phải khơi dậy lòng tự hào và những giá trị truyền

thống tốt đẹp của dân tộc. Đồng thời với việc tăng cường đào tạo bồi dưỡng về chuyên

môn nghiệp vụ, kỹ năng sư phạm thì cần tăng cường giáo dục lý luận chính trị, đạo

đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, giảng viên trong các trường đại học. Quan tâm xây

dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong các đoàn thể, trong ngành, trong các

cơ sở giáo dục, trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực hiện thường xuyên công tác

phê bình và tự phê bình, tạo mọi điều kiện để mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức cơ sở

đảng và đơn vị giáo dục phát huy năng lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ.

Hàng năm các cấp uỷ đảng phải chỉ đạo rà soát thống kê nhu cầu học tập của

sinh viên, đánh giá đúng thực trạng hệ thống quy mô trường, lớp, số lượng, chất lượng

đội ngũ cán bộ, giảng viên,sinh viên để có kế hoạch kiện toàn tổ chức bộ máy, tuyển

chọn, bố trí sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, giáo viên cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ.

Kiểm tra, giám sát là một chức năng lãnh đạo, do đó muốn nâng cao chất lượng

đào tạo trình độ đại học thì phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các

cơ sở giáo dục đại học. Thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát sẽ kịp thời biểu dương

khen thưởng những việc làm tốt, đồng thời chỉ ra những thiếu sót, khuyết điểm để

khắc phục sửa chữa, phải kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ, giáo viên và sinh

viên có vi phạm. Cần đề cao trách nhiệm của người đứng đầu nhà trường, xây dựng

tiêu chí về đánh giá, xếp loại hiệu trưởng các trường đại học, khơi dậy ý thức trách

nhiệm, lòng nhiệt tình và năng lực của đội ngũ cán bộ, giảng viên. Đẩy mạnh cuộc vận

động tự học, tự rèn luyện và tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ học vấn, trình

độ chuyên môn của cán bộ, giảng viên trong.

Thứ tư, tập trung đổi mới tất cả các khâu của công tác cán bộ, nhằm xây dựng

đội ngũ cán bộ, giảng viên mà nhất là cán bộ lãnh đạo ở các trường đại học công lập

có chất lượng tốt đáp ứng nhiệm vụ được giao.

Đội ngũ cán bộ, giảng viên mà nhất là cán bộ lãnh đạo ở các trường đại học

công lập là hai lực lượng chủ yếu quyết định kết quả thực hiện công tác đào tạo của

nhà trường. Thực tế hoạt động của các trường đại học công lập trên địa bàn thành phố

Hà Nội cho thấy, phải đổi mới đồng thời hai loại cán bộ này và phải đặt trong tổng thể

việc đổi mới đội ngũ cán bộ của toàn trường dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ; đặc biệt

coi trọng đổi mới chi ủy và những cán bộ đứng đầu các trường đại học, thì việc lãnh

đạo của các đảng bộ trường đại học công lập đối với công tác đào tạo mới đạt kết quả.

Đảng ủy, nhất là bí thư Đảng ủy và người đứng đầu các trường đại học có tác động và

chi phối rất lớn tới công tác đào tạo của nhà trường. Bí thư và các đồng chí trong Ban

thường vụ thường đồng thời giữ các chức danh trong Ban Giám hiệu, Hội đồng nhà

trường. Lề lối làm việc, tác phong công tác, năng lực tư duy, tầm nhìn và khả năng

thiết kế những chủ trương, giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của các đảng bộ đối với công

tác đào tạo và năng lực tổ chức thực hiện của những cán bộ này quyết định thành công

của các đảng bộ trong lãnh đạo công tác đào tạo đối với các trường đại học. Vì vậy

trong thực hiện các khâu của công tác cán bộ cần xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ

được giao và cương vị phụ trách của từng cán bộ để tập trung đào tạo, bồi dưỡng theo

chức danh cán bộ. Nhờ thực hiện tốt những công việc này nên nhiều trường đại học đã

có động ngũ cán bộ chủ chốt có chất lượng và đã thành công trong việc nâng cao chất

lượng công tác đào tạo.

Thứ năm, quan tâm kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các

cơ quan tham mưu giúp việc Đảng uỷ về công tác đào tạo trong các trường đại học

công lập

Thường xuyên quan tâm kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của

Ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo, Uỷ ban Kiểm tra, Văn phòng Đảng uỷ và các tổ chức

đoàn thể (Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh,

Hội sinh viên...). Tăng cường sự phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể của nhà

trường với cấp uỷ đảng, chính quyền thành phố Hà Nội trong công tác lãnh đạo, chỉ

đạo phát triển công tác đào tạo. Các nhà trường cần chú trọng nâng cao chất lượng

công tác tham mưu giúp Đảng uỷ xây dựng dự thảo các văn bản, nghị quyết, kịp thời

lãnh đạo, chỉ đạo các nội dung trong công tác đào tạo. Đồng thời các nhà trường phải

bố trí phân công cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất, thường xuyên làm tốt công tác

tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân; thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm

tra, giám sát việc thực hiện các chương trình hành động của Đảng ủy, thực hiện các

Nghị quyết của Trung ương và nghị quyết đại hội Đảng bộ đã đề ra về công tác đào

tạo, bảo đảm các nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả thiết thực.

Tiểu kết chương 3

Trong những năm qua các đảng bộ trường đại học công lập trên địa bàn thành

phố Hà Nội đã lãnh đạo công tác đào tạo đã đạt kết quả quan trọng: Đảng bộ đã lãnh

đạo cán bộ, giảng viên đề cao tinh thần trách nhiệm, tham gia xây dựng và thực hiện

có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của cơ quan theo đúng đường lối, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở trong nhà trường; lãnh

đạo công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và sinh viên bằng nhiều

hình thức, bảo đảm chất lượng, góp phần xây dựng đoàn kết thống nhất trong Đảng,

tạo đồng thuận trong nhà trường; Công tác phát triển đảng viên, đào tạo, bôi dưỡng và

xây dựng tổ chức đảng cũng đạt được nhiều thành tích; việc đánh giá, quy hoạch, bổ

nhiệm, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật, bãi miễn cán bộ cơ bản thực hiện đúng

nguyên tắc, quy định của Đảng; công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần thực hiện

thắng lợi nhiệm vụ chính trị, nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức trong Đảng bộ.

Tuy nhiên, sự lãnh đạo của các đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội đối với công

tác đào tạo vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Những hạn chế, yếu kém đó, do các

nguyên nhân khách quan và chủ quan, song nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.

Nhận thức sâu sắc những hạn chế, yếu kém, nguyên nhân của những hạn chế,

yếu kém đó và rút ra những bài học kinh nghiệm là những nhân tố rất quan trọng để

các đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội tìm những giải pháp khả thi, đổi mới có

hiệu quả sự lãnh đạo của mình đối với công tác đào tạo trong những năm tới.

Chương 4

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG

LÃNH ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC

CỦA CÁC ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP

Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2025

4.1. DỰ BÁO NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TĂNG

CƯỜNG LÃNH ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC

CỦA CÁC ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở HÀ NỘI

4.1.1. Dự báo những nhân tố tác động đến việc nâng cao chất lượng lãnh đạo

công tác đào tạo của đảng bộ các trường Đại học công lập ở Hà Nội.

4.1.1.1. Sự tác động của những nhân tố quốc tế và khu vực

- Yêu cầu của phát triển nền kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa, khu vực

hóa

Sự phát triển nền kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa đòi hỏi nguồn nhân

lực của mỗi quốc gia cần phải được nâng tầm về chất lượng. Năng lực cạnh tranh của

quốc gia không thể dựa trên nguồn nhân lực số đông và giá rẻ. Năng lực cạnh tranh

quốc gia phải dựa trên năng suất lao động mà năng suất lao động được tạo dựng bởi

nguồn nhân lực có chất lượng cao. Trong nền kinh tế thế kỷ XXI, nguồn nhân lực chất

lượng cao mới tạo nên lợi thế cạnh tranh, tạo nên sức bật cho mỗi quốc gia. Chính vì

vậy, chất lượng đào tạo trình độ đại học cần có cách tiếp cận từ yêu cầu xây dựng

nguồn nhân lực cho nền kinh tế tri thức, cho toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Sự gia

tăng về quy mô giáo dục đại học không thể bỏ quên mục tiêu về chất lượng giáo dục

đại học. Đảng và Nhà nước cần phải tư duy lại mục tiêu của giáo dục đại học, bảo đảm

nguồn nhân lực đại học có thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động trong

nước, khu vực và quốc tế.

Thế giới đang tiến sâu vào kỷ nguyên hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri

thức. Tri thức như động lực chính cho tăng trưởng, trở thành vốn quý, đóng vai trò có

tính quyết định và là yếu tố cạnh tranh quan trọng giữa các quốc gia. Nhiều quốc gia

phát triển trên thế giới thành công nhờ dựa vào đào tạo trình độ đại học để xây dựng

tiềm lực tri thức mạnh, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao và nền khoa học - công

nghệ đạt trình độ tiên tiến. Vì lẽ đó, đầu tư phát triển các đại học hàng đầu có khả năng

cạnh tranh toàn cầu đã và đang trở thành xu thế của thời đại.

Cùng với quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ ở nhiều lĩnh vực, toàn

cầu hóa giáo dục đại học hướng đến việc trao đổi học thuật, trao đổi giảng viên, sinh viên,

công nhận giá trị bằng cấp đào tạo, chuyển đổi tín chỉ giữa các hệ thống giáo dục; triển

khai và công bố các kết quả nghiên cứu chung giữa các nhà khoa học; tạo sự liên thông,

hợp tác cùng phát triển giữa các đại học ở nhiều quốc gia khác nhau. Các đại học hàng

đầu đang tích cực tham gia vào quá trình này, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là phương thức

thúc đẩy sự phát triển. Tuy nhiên, toàn cầu hoá giáo dục đại học cũng là thách thức nếu

các đại học không nắm bắt được cơ hội và tranh thủ được lợi ích từ quá trình này.

Không chỉ thực hiện nhiệm vụ truyền thống là đào tạo nguồn nhân lực chất

lượng cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ tiên tiến, các đại học hàng đầu

rất chú trọng triển khai chuyển giao tri thức, gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp và

cộng đồng. Nhiều mô hình hợp tác đại học - doanh nghiệp, đại học - địa phương đã

thành công nhờ việc triển khai một cách sáng tạo các hoạt động phát triển tiềm lực của

mỗi bên.

Các trường đại học không chỉ là những đơn vị làm việc cho địa phương hay đất

nước mình, mà còn phục vụ cho cả thế giới. Với nhịp điệu thay đổi nhanh chóng trên

thế giới thông qua toàn cầu hóa, các quốc gia trên thế giới cùng với các dân tộc, các

nền văn hóa, các định chế tổ chức trong đó có các trường đại học, đang trở thành

những thực thể đan quyện vào nhau, có tương quan với nhau và liên kết với nhau hết

sức chặt chẽ. Để chuẩn bị cho sinh viên của chúng ta bước vào một thế giới đang đổi

thay nhanh chóng, để tăng cường và thúc đẩy các khám phá khoa học, để thực hiện

những nhiệm vụ mà chúng ta đã cam kết, và để duy trì năng lực cạnh tranh của chúng

ta, các trường đại học phải có những năng lực mang tính toàn cầu và những mối quan

hệ có tính chất quốc tế dưới nhiều hình thức. Các trường đại học cần chuẩn bị cho sinh

viên của mình trở thành những thành viên tích cực trong một thế giới mà biên giới

quốc gia ngày càng trở thành không còn mấy ý nghĩa. Nhu cầu duy trì năng lực cạnh

tranh trên thế giới đòi hỏi các trường đại học tạo ra nguồn nhân lực có năng lực toàn

cầu và có khả năng nghiên cứu ở đỉnh cao. Mỗi trường đều có trách nhiệm bảo đảm

cho sinh viên của mình được chuẩn bị đầy đủ cho những thử thách của thế kỷ XXI và

hiệu quả của việc đó là một phép thử đối với chất lượng đào tạo của các trường.

Có nhiều nguyên nhân cả nội tại và ngoại tại thúc đẩy việc quốc tế hóa các

trường đại học. Có những chứng cứ rất mạnh cho thấy các trường đại học được quốc tế

hóa hoạt động tốt hơn nhiều trong cả đào tạo lẫn nghiên cứu khoa học. Điều này

thường được thể hiện qua việc đào tạo được những sinh viên có kiến thức mang tính

chất quốc tế và năng lực mang tính xuyên văn hóa; đạt được những chuẩn mực quốc

tế; duy trì năng lực cạnh tranh; đẩy mạnh phát triển tri thức trong những vấn đề về sự

tương thuộc giữa các quốc gia; nghiên cứu những vấn đề đang đặt ra cho quốc gia và

quốc tế; hoạt động vì tiến bộ xã hội; đánh giá cao sự đa dạng văn hóa và dân tộc của

một quốc gia qua đó duy trì ổn định an ninh quốc tế và những quan hệ hòa bình.

Nhu cầu quốc tế hóa khiến ngày nay các trường đại học không thể phát triển mà

không chú trọng tới hợp tác quốc tế và hoạt động theo những chuẩn mực quốc tế nhằm

đạt được sự thừa nhận, đồng thời duy trì khả năng cạnh tranh của mình trong một môi

trường toàn cầu.

Trong khu vực, Cộng đồng kinh tế ASEAN (viết tắt là AEC – ASEAN

Economic Community) chính thức hình thành cuối năm 2015, mà Việt Nam là một

thành viên. AEC là một thị trường đơn nhất với năm yếu tố: hàng hóa, dịch vụ, đầu tư,

vốn và lao động. Trong đó, để chuẩn bị cho nguồn lao động có chất lượng dịch chuyển

tự do trong khu vực, giáo dục đại học đóng vai trò khá quan trọng. Để nâng cao chất

lượng giáo dục đại học trong khu vực nói chung, tạo cơ sở hướng đến việc công nhận

bằng cấp rộng rãi trong khu vực, kể từ năm 1998, tổ chức giáo dục đại học ASEAN

(viết tắt là AUN) đã thành lập mạng lưới đánh giá chất lượng chung cho các trường đại

học trong tổ chức (AUN-QA). Điều quan trọng là khi thị trường chung AEC hình

thành, các tổ chức giáo dục này sẽ giúp người học được đào tạo theo chương trình đạt

chuẩn khu vực và đứng trước nhiều cơ hội việc làm trong khối ASEAN. Một số trường

đại học đã nhìn trước được ích lợi của việc tham gia chuẩn đánh giá chung của khu

vực. Ở Việt Nam hiện nay có ba trường đại học là thành viên chính thức của AUN,

gồm Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học

Cần Thơ. Chất lượng giáo dục đại học Việt Nam đã có những tiến bộ nhanh chóng về

chất lượng giảng dạy ở các trường đại học những năm gần đây. Nếu tiếp tục được tạo

điều kiện tốt thì giáo dục đại học ở Việt Nam sẽ vươn lên các thứ hạng cao trong khu

vực..

- Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình

thành xã hội thông tin và thay đổi phương thức giáo dục hiện đại

Cách mạng khoa học - công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển công nghệ thông tin

và truyền thông được ứng dụng trên quy mô rộng lớn ở mọi lĩnh vực của đời sống xã

hội, đặc biệt trong giáo dục.

Công nghệ thông tin thúc đẩy một nền giáo dục mở, giúp mọi người tiếp cận rất

nhiều thông tin, thông tin đa chiều, rất nhanh, rút ngắn mọi khoảng cách, thu hẹp mọi

không gian, tiết kiệm “chưa từng có” về thời gian; từ đó, con người phát triển nhanh hơn

về kiến thức, nhận thức, trí tuệ và tư duy. Do thông tin nhiều chiều nên hoạt động giáo dục

tất yếu phải dân chủ hơn, hạn chế áp đặt một chiều, tự do tư tưởng tốt hơn đối với người

học, nhờ vậy, tư duy độc lập phát triển, dẫn đến năng lực phát triển.

Ngày nay, khoa học phát triển như vũ bão, kiến thức nhân loại nhiều vô kể, bổ

sung mới liên tục và nhanh chóng, người dạy không thể truyền thụ hết, không thể cập

nhật và truyền thụ kịp. Đổi mới giáo dục phải chuyển nền giáo dục từ chủ yếu là

truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực người học, bằng cách giúp người học

phương pháp tiếp cận và cách tự học, cách giải quyết vấn đề. Việc truyền thụ, cung

cấp kiến thức, dần dần sẽ do công nghệ thông tin đảm nhận, giải phóng người thầy

khỏi sự thiếu hụt thời gian, để người thầy có thể tập trung giúp người học phương pháp

tiếp cận và giải quyết vấn đề, tổ chức các hoạt động học tập gắn với thực tiễn nhằm

phát triển năng lực của người học.

Giáo dục từ xa trở thành một thế mạnh của thời đại, tạo nên một nền giáo dục

mở, thích ứng với nhu cầu của từng người học. Mặt khác, có yếu tố phát triển công

nghệ thông tin và truyền thông, các ngành nghề biến đổi liên tục, ngành nghề cũ

nhanh chóng mất đi, nhiều ngành nghề mới nhanh chóng xuất hiện, yêu cầu kỹ năng

tổng hợp thay kỹ năng hẹp, do đó phương thức đào tạo tín chỉ và liên thông tỏ ra

thích hợp. Hơn thế nữa, sự phát triển của các phương tiện truyền thông, mạng viễn

thông, công nghệ thông tin tạo thuận lợi cho giao lưu và hội nhập văn hoá, nhưng

cũng tạo điều kiện cho sự du nhập những giá trị xa lạ ở mỗi quốc gia. Cuộc đấu tranh

gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, ngăn chặn những yếu tố ảnh hưởng đến

an ninh của mỗi quốc gia đang diễn ra.

- Sự hợp tác và cạnh tranh giữa các trường đại học diễn ra mạnh mẽ

Chưa bao giờ, cuộc cạnh tranh giữa những cơ sở đào tạo trình độ đại học trên

thế giới trong việc thu hút học viên quốc tế lại quyết liệt như hiện nay. Các trường đại

học khắp nơi trên thế giới đều đánh giá tương lai của họ trên cơ sở số sinh viên

theo học và sự phát triển của các chương trình đào tạo cấp bằng, nên các nhà quản

lý và giảng viên đều thấy họ nhất thiết phải xác định trọng tâm toàn cầu cho công

việc của mình. Toàn cầu hóa có thể thúc đẩy các trường tự đánh giá điểm mạnh của

mình trong việc tạo ra tri thức cho khu vực và tham gia hợp tác với những trường

đại học hàng đầu của các quốc gia khác.

Cuộc đua trong việc thu hút học viên quốc tế giữa các trường đại học đang trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Một trong những cách mà các trường đại học ở các nước làm hiện nay là liên kết đào tạo và phối hợp về chương trình giảng dạy. Chẳng hạn như trường kinh doanh INSEAD nổi tiếng của Pháp cho phép sinh viên của họ tự do đi lại giữa ký túc xá ở Pháp với cơ sở của trường ở Singapore. Ngày càng có nhiều trường tìm kiếm những cách tiếp cận tương tự. Một báo cáo của Hội đồng giáo dục Mỹ cho biết, có 131 trường tư nhân của Ấn Độ đã tìm cách thiết lập các mối liên hệ với các trường đại học ở nước ngoài, và một nửa số học viện giáo dục có chất lượng cao ở Anh cung cấp các cơ hội học tập ở Trung Quốc…

Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới

(WTO) tạo cơ hội cho kinh tế nước ta phát triển đồng thời mở ra thời cơ mới cho phát

triển giáo dục đại học. Đây là thách thức lớn nhưng cũng là cơ hội vàng, là bước ngoặt

để giáo dục đại học Việt Nam phát triển sớm đuổi kịp được các nền giáo dục hiện đại

trên thế giới. Việc Việt Nam gia nhập WTO, đặc biệt là việc nước ta ngày càng hội

nhập sâu rộng, toàn diện vào cộng đồng quốc tế đã tạo điều kiện cho gia tăng hàng hóa

nhập khẩu, kỹ thuật và dịch vụ hỗ trợ cho phát triển giáo dục đại học. Hiệp định chung

về Thương mại và dịch vụ (the General Agreement on Trades and Services- GATS),

đại diện cho thỏa thuận thương mại đa phương của hơn 100 quốc gia dưới sự điều

hành của WTO. Giáo dục là một trong những dịch vụ nằm trong phạm vi điều chỉnh

của GATS. Sẽ có ngày càng nhiều những trường đại học nước ngoài tiếp tục kết hợp

với các trường đại học trong nước như những nhân tố toàn cầu làm tăng giá trị của tri

thức, đồng thời cũng là thách thức đối với các trường đại học Việt Nam trong việc tiếp

cận với các chuẩn mực đào tạo trình độ đại học hiện đại.

Tóm lại, toàn cầu hóa đang diễn ra với một tốc độ rất nhanh. Khoa học và kỹ

thuật đang phát triển nhanh chóng. Hiện đại hóa, công nghiệp hóa, và hội nhập quốc tế

đang thay đổi đất nước chúng ta từng ngày. Những thử thách này tạo ra bối cảnh cho

việc phát triển giáo dục đại học, làm gia tăng những cơ hội quan trọng trong thị trường

nhân lực và thị trường cho những sản phẩm khoa học chất lượng cao. Nó cũng đồng

thời đẩy mạnh sự hợp tác và cạnh tranh giữa các trường đại học. Trong bối cảnh sôi

động của các xu hướng phát triển của đời sống xã hội hiện đại, đào tạo trình độ đại học

các nước đã và đang phải đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức to lớn, đặc biệt là vấn

đề giải quyết các mối quan hệ giữa quy mô-chất lượng và hiệu quả đào tạo; giữa đào

tạo và nghiên cứu khoa học, dịch vụ; giữa nhu cầu và nguồn lực cho phát triển...

4.1.1.2. Sự tác động của nhân tố trong nước

* Những nhân tố thuận lợi

Sau hơn 30 năm đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu

quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh, cơ sở vật

chất kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước. Trong những năm qua, giáo dục đại học công lập ở nước ta có

nhiều phát triển, góp phần đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học phục vụ sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều 48 của Luật Giáo dục năm 2005

đã khẳng định “Nhà nước tạo điều kiện để trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong

hệ thống giáo dục quốc dân”[65]. Như vậy, ở Việt Nam hệ thống các trường công lập

được Nhà nước xem là có vai trò quan trọng nhất.

Để thực hiện chiến lược phát triển giáo dục quốc gia, Nhà nước đã ban hành

chính sách, pháp luật thuận lợi cho giáo dục đại học phát triển, ngày 18- 06- 2012,

Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - khóa XIII thông qua Luật Giáo

dục Đại học. Sự ra đời của Luật là nhằm thể chế hóa Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam về việc “cần đổi mới căn bản, toàn diện nền

giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội

nhập quốc tế”[41], tạo cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất cho sự phát triển của giáo

dục đại học, chuẩn hóa các mục tiêu giáo dục Việt Nam đảm bảo sự hài hòa giữa trình

độ giáo dục thế giới với yêu cầu phát triển, đổi mới đất nước. Luật Giáo dục Đại học

hướng đến đổi mới phương pháp quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng đào tạo của

toàn hệ thống giáo dục quốc dân, phát huy mạnh mẽ được năng lực, sức sáng tạo của

đội ngũ nhà giáo, các nhà quản lý và sinh viên, đảm bảo thực hiện thành công mục tiêu

xây dựng nguồn nhân lực chất lượng ngày càng cao, làm nền tảng xây dựng sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị

quyết số 77/NQ-CP ngày 24-12- 2014 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt

động của các cơ sở giáo dục đại học công lập. Theo đó, Chính phủ tạo điều kiện cho

các cơ sở giáo dục đại học công lập đổi mới toàn diện về đào tạo và nghiên cứu khoa

học, tổ chức bộ máy, nhân sự, tài chính. Đây sẽ là cơ hội để các trường đại học phát

huy tốt vai trò, vị trí của mình, đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển của ngành giáo

dục và đào tạo. Đồng thời tích cực tham gia, đóng góp vào công tác kiểm định, xếp

hạng đại học, xây dựng trung tâm học liệu quốc gia.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa về kinh tế, với đường lối đa phương hóa, đa dạng

hóa quan hệ quốc tế, văn hóa nước ta có cơ hội tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và

sáng tạo những giá trị văn hóa mới. Cơ chế thị trường huy động được sự tham gia của

các thành phần kinh tế sản xuất, phổ biến các sản phẩm văn hóa, kích thích một số

ngành sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật xuất hiện, mở ra khả

năng giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, tạo tiền đề cho việc phát triển “công

nghiệp văn hóa”. Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu và toàn diện, tạo cơ hội

thuận lợi cho Nhà trường có thể tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến; có điều kiện để học

tập kinh nghiệm xây dựng, phát triển của các trường đại học trong khu vực và thế giới.

Đất nước đang trong thời kỳ phát triển về cơ cấu dân số, với 2/3 dân số trong độ

tuổi lao động, trong đó đến hơn 86% lực lượng chưa được đào tạo nghề. Nhu cầu lực

lượng lao động có trình độ cao nhằm đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước trong thời gian tới đang là cơ hội rất lớn để các trường đại học mở rộng và phát

triển đào tạo.

Nhiều trường đại học công lập ở Hà Nội có lịch sử phát triển lâu dài, một số

trường là trung tâm đào tạo trình độ đại học hàng đầu của cả nước, vị thế, uy tín về

chất lượng đào tạo đã được khẳng định không ngừng đổi mới các lĩnh vực hoạt động,

tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển về mọi mặt.

* Những nhân tố khó khăn

- Thứ nhất, xuất phát điểm của giáo dục Việt Nam còn thấp, môi trường giáo

dục vĩ mô còn nhiều yếu kém. Cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều các cơ sở đào

tạo nước ngoài tại Việt Nam. Xu hướng du học tại chỗ đang tạo nhiều áp lực cạnh

tranh không chỉ về sức hút đối với sinh viên mà còn cả đối với nguồn giáo viên có

trình độ cao. Các hình thức hợp tác, liên kết đào tạo cũng đặt ra nhiều thách thức và

đòi hỏi về ngành nghề đào tạo mới, về chất lượng trường đại học, về sản phẩm đào tạo,

về tự do hoá cung ứng dịch vụ đào tạo trình độ đại học.

- Thứ hai, trong quá trình xây dựng các trường đại học chất lượng cao, vẫn còn

gặp khó khăn trong chuyển giao chương trình đào tạo, trình độ đội ngũ giảng viên, hệ

thống các chuyên ngành đào tạo trong các trường đại học Việt Nam chưa hoàn thiện.

Quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế, văn hóa và các hoạt động khác là một thách

thức, đòi hỏi giáo dục đào tạo nước ta phải vươn lên đạt chuẩn khu vực và quốc tế;

thúc đẩy các cơ sở giáo dục cần nhanh chóng nâng cao chất lượng đào tạo, đồng thời

tạo thêm nguồn lực bổ sung về thông tin, tri thức, chuyên gia, tài chính để nâng cao

trình độ giáo dục, rút ngắn khoảng cách với các cơ sở đào tạo tiên tiến trong khu vực,

trên thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu và đánh mất vị thế.

- Thứ ba, nguồn lực đầu tư cho giáo dục đại học ở Việt Nam còn chưa đáp ứng

yêu cầu thực tiễn, sự phân bổ nguồn lực đầu tư không đồng đều giữa các trường đại

học trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Điều này dẫn đến sự khập khiễng trong

tốc độ phát triển, quy mô và chất lượng đào tạo của các trường đại học Việt Nam.

- Thứ tư, chất lượng công tác nghiên cứu khoa học của các trường đại học Việt

Nam chưa cao. Hầu hết các nền giáo dục tiên tiến của các quốc gia trong khu vực và

trên thế giới hiện nay đều có khả năng tạo ra một đội ngũ các nhà khoa học đông đảo

có trình độ nghiên cứu và công bố các kết quả nghiên cứu trong nước và quốc tế với số

lượng lớn. Cùng với xu thế hội nhập quốc tế, số lượng và chất lượng các công trình

công bố trên các ấn phẩm khoa học quốc tế trở thành thước đo quan trọng, chỉ số

khách quan không chỉ phản ánh sự phát triển khoa học - công nghệ cũng như hiệu suất

khoa học mà còn phản ánh trình độ và chất lượng thực tế nền giáo dục của mỗi quốc

gia. Tại Việt Nam, những năm gần đây, mặc dù đã có sự quan tâm của nhiều cơ sở

giáo dục trong việc tạo cơ chế khuyến khích các nhà khoa học tập trung nghiên cứu và

công bố các kết quả nghiên cứu trong nước và quốc tế, nhưng kết quả vẫn còn hạn chế,

thậm chí có xu hướng ngày càng tụt hậu xa hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực

và trên thế giới. Việt Nam hiện nay có khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư, 24.000

tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ. Theo thống kê của Viện Thông tin khoa học (ISI), trong

giai đoạn 1996 - 2011, Việt Nam mới có 13.172 công trình khoa học công bố trên các

tập san quốc tế có bình duyệt, bằng khoảng 1/5 của Thái Lan (69.637), 1/6 của Ma-lai-

xi-a (75.530), và 1/10 của Xin-ga-po (126.881). Trong khi đó, dân số Việt Nam gấp 17

lần dân số Xin-ga-po, gấp 3 lần Ma-lai-xi-a và gần gấp rưỡi Thái Lan. Không chỉ ít về

số lượng, chỉ số ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam

cũng thấp nhất so với các nước trong khu vực. Thứ hạng khiêm tốn này cũng nhất

quán với số bằng sáng chế được đăng ký ở Mỹ và chỉ số sáng tạo do Tổ chức Sở hữu

trí tuệ thế giới (WIPO) xếp hạng.

- Thứ năm, khoảng cách về chất lượng đào tạo trình độ đại học của Việt Nam

với đào tạo trình độ đại học của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới còn lớn và

nếu không kịp thời tập trung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo

hướng đẩy mạnh xã hội hóa, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực giáo dục với lộ trình phù

hợp…Thực tế cho thấy, sự bất cập, hạn chế trong giáo dục đại học ở nước ta hiện nay

không chỉ tác động trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực, mà sâu xa hơn có thể làm

suy giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày

càng sâu rộng. Theo Báo cáo về Tính cạnh tranh năng lực toàn cầu 2013 - 2014 của

Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) được thực hiện với 148 nước, tính hiệu quả của hệ

thống giáo dục Việt Nam được xếp ở vị trí 67/148. Ở hạng mục giáo dục đại học và

đào tạo, Việt Nam đứng thứ 95 trong bảng xếp hạng, thứ 7 trong các nước ASEAN,

sau Xin-ga-po (thứ 2), Ma-lai-xi-a (thứ 46), Bru-nây (thứ 55), Thái Lan (thứ 66), In-

đô-nê-xi-a (thứ 64), Phi-líp-pin (thứ 67). Điều đáng nói là, trong số 12 tiêu chí then

chốt giúp nâng cao hiệu quả cạnh tranh của nền kinh tế, sức khỏe và giáo dục cơ sở

được WEF xếp vào tiêu chí thứ 4, chất lượng giáo dục và đào tạo cấp cao xếp tiêu chí

thứ 5.

4.1.2. Mục tiêu, phương hướng tăng cường lãnh đạo nâng cao chất lượng

đào tạo trình độ đại học của các đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội

4.1.2.1. Mục tiêu

Nâng cao năng lực lãnh đạo của các đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội sẽ

tác động đến công tác nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học. Phát huy những

thành tích đã đạt được, không ngừng cải tiến, rút kinh nghiệm, khắc phục khó khăn,

đẩy mạnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy đối với các tổ chức cơ sở đảng theo

hướng khoa học và hiệu quả. Chú trọng lãnh đạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt

động của các tổ chức đoàn thể chính trị trong khối.

Phát huy tiềm năng, thế mạnh của các trường đại học tập trung đẩy mạnh thực

hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị

Trung ương lần thứ 8 (khóa XI). Không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo nguồn

nhân lực, nghiên cứu khoa học, hợp tác trong đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu học tập

của xã hội và thực hiện công bằng trong giáo dục. Xây dựng văn hóa trong giáo dục -

đào tạo, phấn đấu trở thành Đảng bộ tiêu biểu về lối sống và phong cách ứng xử văn

hóa, xứng tầm là một trong những trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao

hàng đầu của Thủ đô và cả nước. Xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh và

phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội

nhập quốc tế.

4.1.2.2. Phương hướng

Tiếp tục phát huy sức mạnh đoàn kết trong toàn Đảng bộ, nâng cao năng lực lãnh

đạo, sức chiến đấu của cấp ủy đảng và đội ngũ đảng viên; phấn đấu xây dựng tổ chức cơ

sở đảng trong sạch, vững mạnh ở tất cả các trường đại học; vận dụng sáng tạo đường lối

của Đảng về giáo dục - đào tạo, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng và hiệu

quả giáo dục - đào tạo; xây dựng nền giáo dục mở, có cơ cấu và phương thức hợp lý, phát

triển giáo dục - đào tạo thực chất, bền vững; đẩy mạnh hợp tác và chuyển giao công

nghệ; khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, nguồn lực để nâng cao vị trí của các trường

đại học đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tể - xã hội của Thủ đô và đất

nước.

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ các trường Đại học công lập đối với công

tác đào tạo trình độ đại học, thì phải không ngừng kiện toàn và củng cố, tiếp tục đổi mới

phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng,

bảo đảm đủ mạnh để lãnh đạo nhà trường, đoàn thể và toàn xã hội quan tâm tập trung đầu

tư hơn nữa cho phát triển giáo dục đại học, phải phát huy mạnh mẽ những thành quả đã

đạt được, đồng thời sớm khắc phục những mặt tồn tại yếu kém trong thời gian qua theo

các phương hướng sau:

Một là, tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Ban

Chấp hành Trung ương Đảng, của Bộ Chính trị, của Chính phủ, của Đảng uỷ các nhà

trường về phát triển và nâng cao chất lượng công tác đào tạo.

Hai là, thực hiện tốt Luật Giáo dục và quy định hướng dẫn của Chính phủ về

lĩnh vực giáo dục.

Ba là, huy động cao nhất mọi nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển và nâng

cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh, tạo điều

kiện cho sự nghiệp giáo dục phát triển. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú

trọng hơn việc giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, đạo đức, lối sống. Tạo sự chuyển

biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục đại học theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến.

Xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục đại học tâm huyết

với nghề và xứng tầm với trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Thủ

đô của cả nước.

4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG LÃNH ĐẠO NÂNG CAO

CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC CỦA CÁC ĐẢNG BỘ TRƯỜNG

ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2025

4.2.1. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên,

trước hết là ban thường vụ, thường trực Đảng ủy, cán bộ chủ chốt về vai trò lãnh

đạo của các Đảng bộ trường công lập ở Hà Nội đối với việc nâng cao chất lượng

công tác đào tạo trình độ đại học

Giáo dục đào tạo nói chung và đào tạo trình độ đại học nói riêng trong giai đoạn

hiện nay là vấn đề rất quan trọng, liên quan và tác động trực tiếp đến việc đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp uỷ,

tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết và chủ yếu là của Đảng uỷ, nhất là

ban thường vụ Đảng uỷ, đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt của hệ thống các

trường đại học. Để công tác đào tạo đạt kết quả, trước hết phải nâng cao nhận thức của

các tổ chức và cán bộ, đảng viên, nhất là những lực lượng chủ yếu trực tiếp chỉ đạo và

tiến hành công việc này.

Thực tiễn cho thấy, trường đại học nào có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng,

vai trò lãnh đạo của các đảng bộ đối với công tác đào tạo thì nơi đó công tác đảm bảo

và nâng cao chất lượng đào tạo đạt kết quả tốt và ngược lại. Vì vậy, để nâng cao chất

lượng lãnh đạo công tác đào tạo của các đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội

trong thời gian tới, trước hết phải tạo ra sự thống nhất cao về nhận thức tư tưởng trong

toàn Đảng về tầm quan trọng của công tác đào tạo trình độ đại học hiện nay. Toàn thể

cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo trong Ban Giám hiệu nhà trường, các đồng

chí Đảng ủy viên phải nhận thức sâu sắc về vai trò lãnh đạo của các đảng bộ đối với

công tác đào tạo trong các trường đại học công lập ở Hà Nội. Thứ hai, cần đổi mới tư

duy giáo dục hiện nay theo định hướng: đào tạo trình độ đại học cần gắn với xây dựng

xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; hệ thống giáo dục được

chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế; giữ vững định

hướng xã hội chủ nghĩa và mang đậm bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2025, nền

giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến ở khu vực như Nghị quyết Hội nghị Trung

ương 8 khóa XI của Đảng khẳng định. Thứ ba, cần nhận thức sâu sắc về hệ tiêu chuẩn,

tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo trình độ đại học hiện đại và các điều kiện bảo đảm

chất lượng đào tạo trình độ đại học. Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đào tạo trình độ

đại học được ban hành làm công cụ để trường đại học tự đánh giá nhằm không ngừng

nâng cao chất lượng đào tạo và để giải trình với các cơ quan chức năng, xã hội về thực

trạng chất lượng đào tạo; để cơ quan chức năng đánh giá và công nhận trường đại học

đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục; để người học có cơ sở lựa chọn trường và nhà

tuyển dụng lao động tuyển chọn nhân lực. Hiện nay, trên thế giới có tiêu chí khác nhau

với những trọng số khác nhau để đánh giá và xếp hạng đại học. Các tiêu chí này kết

hợp và tương tác lẫn nhau hướng tới mục tiêu sản xuất ra 3 nhóm sản phẩm chính

của một đại học đẳng cấp quốc tế gồm: (1) Sinh viên tốt nghiệp với trình độ cao, có

khả năng làm việc ở nhiều nơi trên thế giới; (2) Kết quả nghiên cứu đỉnh cao, thể

hiện qua số lượng bài báo quốc tế, sách chuyên khảo, bằng phát minh, sáng chế.;

(3) Kết quả chuyển giao tri thức và công nghệ để giải quyết những vấn đề lớn hoặc

đóng góp cho đất nước. Trên cơ sở và căn cứ về tiêu chuẩn, tiêu chí chất lượng đào

tạo trình độ đại học, các đảng bộ cần lãnh đạo định hướng nhà trường áp dụng

những chuẩn mực chung chất lượng đào tạo trình độ đại học ở nước ta, trong khu

vực và thế giới theo lộ trình và bước đi thích hợp với điều kiện và nguồn lực của

mỗi trường.

Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, chính quyền, cán bộ, đảng

viên về tầm quan trọng, vai trò lãnh đạo của các đảng bộ đối với công tác đào tạo cần

tập trung làm tốt những công việc sau:

Một là, tổ chức học tập, quán triệt các văn kiện của Đảng về giáo dục đào tạo

trong toàn đảng bộ nhà trường, trước hết trong các cấp uỷ, cán bộ lãnh đạo quản lý chủ

chốt trong các trường đại học công lập. Trong đó, đặc biệt chú ý đến những vấn đề về

đổi mới căn bản giáo dục đào tạo được thể hiện trong Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày

04-11-2013, Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa XI của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tiếp tục nghiên cứu, cụ thể hóa nội dung các nghị quyết, chỉ thị của Trung

ương Đảng, của Đảng ủy khối các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội về công tác đào

tạo trình độ đại học.Tiếp tục nghiên cứu Nghị quyết Trung ương hai (khóa VIII), Kết

luận số 14 Hội nghị Trung ương sáu (khóa IX) về phát triển giáo dục - đào tạo và

phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo đến năm 2010; Chỉ thị số 40- CT/TW của

Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo

và cán bộ quản lý giáo dục; Chỉ thị số 11 - CT/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội

học tập... Đặc biệt cần tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-

11-2013, Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa XI của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng Cộng sản Việt Nam về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng

yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT của Bộ

Giáo dục và Đào tạo ngày 01- 11- 2007 về “Ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh

giá chất lượng giáo dục trường đại học”; Thông tư số: 04/2016/TT-BGDĐT của Bộ

Giáo dục và Đào tạo, ngày 14- 3- 2016 về “Ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá

chất lượng chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học”.

Đảng ủy nhà trường cần đổi mới phương thức nghiên cứu, quán triệt các nghị

quyết của Trung ương Đảng, trong đó có nghị quyết về giáo dục đào tạo, theo hướng

đa dạng hình thức, thông qua nhiều kênh thông tin, qua nhiều phương tiện và công cụ

khác nhau. Sau khi triển khai nghị quyết, yêu cầu người học phải viết bài thu hoạch,

nêu rõ những nhận thức của mình đối với những nội dung của nghị quyết. Có như vậy

mới nâng cao chất lượng học tập nghị quyết nói chung, nghị quyết về giáo dục đào tạo

nói riêng.

Cấp uỷ, Ban Giám hiệu, Hội đồng nhà trường chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các

mục tiêu, nhiệm vụ, các dự án đã đề ra trong Chương trình phát triển giáo dục giai

đoạn 2010 - 2020. Rà soát, bổ sung những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện

đẩy nhanh phát triển giáo dục đến năm 2020.

Hai là, thường xuyên quán triệt trong chi bộ và trong các tổ chức quần chúng

về vị trí quan trọng của công tác đào tạo theo quan điểm của Đảng, vai trò lãnh đạo

của các đảng bộ đối với công tác đào tạo của nhà trường.

Các đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội cần tuyên truyền giáo dục để

nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm của từng đảng viên trong Đảng bộ. Đồng

thời tuyên truyền về vai trò lãnh đạo của các đảng bộ đối với nâng cao chất lượng của

công tác đào tạo trình độ đại học trong các trường đại học công lập ở Hà Nội.

Đưa vào kế hoạch công tác hàng tháng của các chi bộ nội dung công tác đào tạo,

coi đây là nhiệm vụ hàng đầu được quan tâm chỉ đạo sâu sát.Thường xuyên kiểm tra,

giám sát việc thực hiện nội dung, chương trình kế hoạch đã đề ra, kịp thời khắc phục

những yếu kém, hạn chế trong quá trình giảng dạy và học tập của đội ngũ thầy cô giáo

và sinh viên.Đổi mới tư duy về giáo dục và đào tạo, gắn đào tạo với việc định hướng

nghề nghiệp; thực hiện đào tạo một cách thực chất, tránh “Bệnh thành tích”; kiên

quyết đấu tranh với mọi biểu hiện tiêu cực trong giáo dục.

Ba là,có các phương thức hợp lý để nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức,

viên chức trong nhà trường và các đoàn viên, hội viên của các tổ chức đoàn thể về tăng

cường sự lãnh đạo của các đảng bộ nhà trường đối với công tác đào tạo, để các tổ chức

này tham gia tích cực, có hiệu quả vào quá trình đổi mới công tác đào tạo của các

trường đại học công lập.

Quán triệt, nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức của các phòng

ban, đoàn viên, hội viên của các tổ chức đoàn thể về những nội dung lãnh đạo công tác

đào tạo liên quan trực tiếp đến hoạt động của các tổ chức này, để họ có thể tham gia có

hiệu quả vào việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo của nhà trường; đồng thời các

tổ chức đoàn thể sẽ nhận thức rõ trách nhiệm tham gia vào công việc này.

Các phòng, ban chức năng, các khoa chuyên môn là đối tượng lãnh đạo của

Đảng uỷ, trực tiếp tiếp nhận và thực hiện những chủ trương, giải pháp của Đảng ủy

về công tác đào tạo. Đồng thời, phản ánh và đóng góp những ý kiến bổ ích để Đảng

ủy điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh những chủ trương, giải pháp nhằm tăng cường sự

lãnh đạo của các đảng bộ đối với công tác đào tạo. Bởi vậy, cần coi trọng nâng cao

nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, giảng viên trong các nhà trường về sự

lãnh đạo của các đảng bộ đối với công tác đào tạo, nhất là những nội dung cụ thể,

liên quan trực tiếp đến chức trách, nhiệm vụ của từng đơn vị và với từng chức danh

cán bộ, công chức, giảng viên.

Các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, nhất là ban lãnh đạo của từng đoàn

thể có vai trò rất quan trọng đối với hiệu quả lãnh đạo của các đảng bộ đối với công

tác đào tạo. Các tổ chức này cùng với đoàn viên, hội viên của mình có trách nhiệm

tham gia vào quá trình thực hiện sự lãnh đạo của các đảng bộ đối với công tác đào

tạo, đồng thời giám sát, phản biện xã hội đối với quá trình đó. Bởi vậy, cần coi

trọng nâng cao nhận thức của các tổ chức đoàn thể để hoạt động của các tổ chức

này có hiệu quả, vừa thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm vừa thực hiện tốt chức năng

giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động lãnh đạo công tác đào tạo của các

đảng bộ trường đại học công lập ở Hà Nội.

Bốn là, sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng của nhà trường, hệ thống

truyền thanh, các bản tin đưa nội dung tuyền truyền, phổ biến chủ trương, quan điểm

của các đảng bộ, của cấp ủy nhà trường về vai trò lãnh đạo của các đảng bộ đối với

công tác đào tạo vào chương trình phát thanh, truyền thanh định kỳ và vào nội dung

của các ấn phẩm sách, báo, bản tin nội bộ.

Các phương tiện thông tin đại chúng và trang web của nhà trường có vai trò rất

quan trọng trong việc nâng cao nhận thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, giảng

viên và sinh viên về sự lãnh đạo của các đảng bộ đối với công tác đào tạo. Đảng ủy

cần coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo các bộ phận này đưa nội dung tuyền truyền, phổ biến

chủ trương, quan điểm của Đảng và của cấp ủy nhà trường về sự lãnh đạo của các

đảng bộ đối với công tác đào tạo vào nội dung, chương trình hoạt động định kỳ; chú ý

phát hiện cổ vũ, động viên những sáng kiến kinh nghiệm của tổ chức đảng, cán bộ,

đảng viên thực hiện tốt chủ trương, giải pháp của các đảng bộ đối với công tác đào tạo

trình độ đại học.

4.2.2. Lãnh đạo tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, giảng viên các trường đại học công

lập ở Hà Nội

Cán bộ, giảng viên trong các trường đại học là nhân tố quyết định chất lượng

của công tác đào tạo của mỗi nhà trường. Để đảm bảo cho sự lãnh đạo công tác đào tạo

của đảng bộ các trường đại học đạt kết quả cao thì phải xây dựng đội ngũ cán bộ,

giảng viên có chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của các trường đại học. Do đó,

đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục đủ

về số lượng, đảm bảo về chất lượng là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao

chất lượng đào tạo của các trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội.

Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ giảng viên đại học có phẩm chất đạo

đức, đủ về số lượng, có trình độ chuyên môn cao, phong cách giảng dạy tiên tiến và

hiện đại. Việc đổi mới phải được tác động bằng các chính sách dựa trên quy luật thị

trường để phát triển tiến hoá, không nên dùng các biện pháp cưỡng bức, áp đặt, gây

đảo lộn lớn như hiện nay. Lãnh đạo các trường đại học phải có tâm, có tầm, phải tạo

được sự ủng hộ của cấp trên, tạo được niềm tin của cấp dưới và phải thực sự dũng cảm

trong thực hiện cải cách giáo dục. Để thực hiện điều đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý, đặc

biệt là người đứng đầu cần có tư duy đổi mới. Chẳng hạn, cần thay xu hướng xét hồ sơ

lý lịch, dựa vào bằng cấp khi tuyển dụng giảng viên đại học bằng việc tuyển chọn coi

trọng đánh giá năng lực nhân sự trên các khía cạnh kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và

sự phù hợp về tâm lý của cá nhân với tính chất phát triển giáo dục đại học công việc

thông qua các bài thi lý thuyết, thực hành, xử lý tình huống và trắc nghiệm tâm lý.

Hoặc cần có tư duy đổi mới trong việc thu hút và tìm kiếm nguồn nhân lực giảng viên

theo nguyên tắc “việc tìm người” thay cho nguyên tắc “người tìm việc” nhằm đảm bảo

được đội ngũ giảng viên có chất lượng cao. Để thực hiện được điều đó, pháp luật phải

quy định rõ và chặt chẽ tiêu chuẩn người đứng đầu. Điều kiện tiên quyết trong tiêu

chuẩn người đứng đầu là phải có tri thức sâu rộng về quản lí giáo dục. Kiến thức và

tầm nhìn về quản lí giáo dục của người đứng đầu cơ sở giáo dục phải được đặt lên

hàng đầu trong tiêu chí lựa chọn. Mặt khác, người đứng đầu phải biết lắng nghe, biết

tập hợp sức mạnh khoa học từ những nhà chuyên môn về giáo dục, về quản lí hành

chính, thống nhất trong công tác qui hoạch và quyết đoán trong công tác xây dựng,

kiến thiết, quản lí, vận hành cơ sở giáo dục đại học. Đồng thời, cần phải quy định rõ

nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ báo cáo, giải trình, trách nhiệm của người đứng đầu và

kèm theo cơ chế kiểm soát hiệu quả để hạn chế tình trạng lạm quyền của cá nhân

người có trách nhiệm. Đó là việc quy định rõ quy trình bổ nhiệm hoặc thi tuyển người

đứng đầu thật chặt chẽ; quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ báo cáo, giải trình,

trách nhiệm của người đứng đầu, và đảm bảo cơ chế giám sát, kiểm tra, xử lý với các

vi phạm của người đứng đầu. Trước mắt cần thực hiện một số biện pháp cơ bản sau

đây: Thay đổi cách chọn cán bộ quản lý để đảm bảo dùng đúng mặt mạnh của từng

người qua thể hiện thực tế. Cần có tổng kết, đánh giá lại thực trạng ở mỗi kỳ bổ nhiệm

để tìm phương hướng giải pháp mới. Cán bộ hành chính ở các trường đại học cũng

phải được đào tạo theo chuyên môn để sử dụng, đề bạt theo kiểu chuyên môn hoá.

Về đội ngũ cán bộ, giảng viên, cần thực hiện tốt những điểm chủ yếu sau đây:

Một là, cụ thể hoá tiêu chuẩn các chức danh cán bộ, giảng viên trong các trường

Đại học công lập.

Cán bộ, giảng viên trong các trường đại học công lập là những người cán bộ rất

đặc biệt. Họ vừa có tiêu chuẩn của một người cán bộ nhà nước nói chung, đồng thời lại

có những tiêu chuẩn riêng của những người thầy, người cán bộ làm trong ngành giáo

dục. Do đó, cần phải cụ thể hoá cả đức và tài của cán bộ, giảng viên trong các trường

đại học công lập. Cần căn cứ vào tiêu chuẩn chung của cán bộ, tiêu chuẩn riêng của

cán bộ, giảng viên trong các trường đại học công lập, chức năng, nhiệm vụ của từng

chức danh cán bộ, yêu cầu của nhiệm vụ chính trị của đảng bộ nhà trường, đặc điểm

của thành phố Hà Nội để cụ thể hóa các tiêu chuẩn.

Trên cơ sở các tiêu chí về chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy, thực hiện tốt

công tác tạo nguồn (cử đi đào tạo hoặc ký hợp đồng đào tạo), tuyển chọn và sử dụng

hợp lý đội ngũ giảng viên. Các đảng bộ cần lãnh đạo nhà trường đổi mới quy trình

tuyển chọn cán bộ, giảng viên. Quy trình tuyển chọn cán bộ giảng dạy và nghiên cứu

hiện nay đang tuân thủ các quy định chung của tuyển chọn công chức, viên chức. Quy

trình hiện tại hầu như không có các yếu tố đặc thù cho môi trường hàn lâm, trong khi

tính chất công việc của các nhân sự hàm lâm lại rất khác so với công việc thông

thường của một viên chức nhà nước. Một đặc thù quan trọng của môi trường đại học

hiện đại là lấy khả năng nghiên cứu khoa học làm tiêu chí số một. Tiêu chí hàng đầu

cho việc tuyển dụng giảng viên và giáo sư đại học phải là khả năng nghiên cứu khoa

học. Chỉ có những người “sống và thở” ở tiền tuyến của tri thức nhân loại mới có khả

năng hiểu và truyền tải những kiến thức nền tảng và những phát kiến tiên tiến nhất cho

lực lượng lao động trí óc tương lai.

Hai là, đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, quy hoạch cán bộ lãnh đạo,

quản lý trong các trường đại học công lập; coi trọng xây dựng quy hoạch cho nhiệm kỳ

trước mắt và các nhiệm kỳ tiếp theo. Khắc phục tình trạng phổ biến hiện nay là xây

dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các trường đại học chủ yếu cho nhiệm

kỳ kế tiếp; tạo sự liên thông giữa quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý của nhà trường

với quy hoạch cán bộ của thành phố Hà Nội. Định kỳ rà soát bổ sung vào quy hoạch

những nhân tố mới có triển vọng và đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không có khả

năng phát triển hoặc có sai lầm, khuyết điểm lớn.

Đối với việc xây dựng đội ngũ giảng viên kế cận, cần phải có chiến lược cụ thể,

đồng bộ cho việc đào tạo đội ngũ, cán bộ, giảng viên trẻ, đồng thời phát hiện những

sinh viên ưu tú để rèn luyện, bồi dưỡng họ trở thành cán bộ, giảng viên của nhà

trường. Đây chính là nguồn cán bộ dồi dào cho công tác tạo nguồn cán bộ, giảng viên

trong các trường Đại học công lập.

Ba là, thường xuyên bồi dưỡng, nâng cấp trình độ cho đội ngũ cán bộ giảng dạy

bằng nhiều hình thức theo các tiêu chí chất lượng đã được chuẩn hóa. Theo đó tập

trung vào những nội dung sau: (1) Bồi dưỡng kiến thức và kĩ năng sư phạm cho đội

ngũ giảng viên. Giảng viên đại học vừa là một nhà khoa học vừa là một nhà giáo. Vì

thế họ cần có kiến thức và năng lực sư phạm tốt, vừa để giảng dạy trên cương vị của

mình vừa có thể biết được mình phải làm gì và làm như thế nào khi cần nâng cao chất

lượng dạy học. Việc bồi dưỡng kiến thức và kĩ năng sư phạm cho đội ngũ giảng viên

là điều phải làm thường xuyên, nhiều đợt, nhiều cấp độ, nhiều hình thức. Về cấp độ

bồi dưỡng kiến thức và kĩ năng sư phạm - Cấp độ 1: Bồi dưỡng kiến thức cơ bản về

tâm lí học và lí luận dạy học đại học để giáo viên biết kiến thức về đối tượng mình dạy

và về quá trình dạy học, một số phương pháp dạy học thông thường ở đại học. Cấp độ

2: Bồi dưỡng kiến thức về phương pháp dạy học tích cực. Cấp độ 3: Tổ chức trao đổi,

tổng kết từ đơn vị đến hội thảo toàn trường. (2) Bồi dưỡng kiến thức và kĩ năng về

công nghệ thông tin cho đội ngũ giảng viên dưới góc độ phương pháp dạy học. Trong

các nội dung bồi dưỡng phương pháp dạy học không thể không nói đến việc bồi dưỡng

kiến thức về công nghệ thông tin cho đội ngũ giảng viên. Chúng ta đều biết tầm quan

trọng của công cụ mạnh mẽ, thuận tiện và đầy hiệu quả này trong dạy học hiện đại.

Người giảng viên không thể không biết sử dụng máy tính vào các công việc như: sử

dụng các phần mềm dạy học, dạy học bằng chương trình Microsoft PowerPoint, khai

thác sử dụng mạng internet để cập nhật nội dung dạy học, dạy học qua mạng, trao đổi

thông tin giữa các đồng nghiệp trong trường, ngoài trường và quốc tế, giữa thầy và trò,

quản lý việc học của sinh viên. Muốn vậy, trước hết lãnh đạo các trường cần thực hiện:

(i) Xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng dần mức đầu tư để hiện đại hóa thiết bị về công nghệ

thông tin trong trường, tạo điều kiện dễ dàng cho giảng viên và sinh viên học tập,

nghiên cứu và sử dụng. (ii) Phát triển giáo trình điện tử trên mạng, cài đặt các phần

mềm dạy học tiên tiến để giáo viên các trường có thể tận dụng tối đa Hệ thống hỗ trợ

dạy và học (Learning Management System - LMS). (iii) Có chính sách khen thưởng

hay hỗ trợ chế độ đối với những giảng viên, sinh viên đã sử dụng hiệu quả công nghệ

thông tin cho dạy và học, cũng như có những biện pháp chế tài thích đáng đối với các

đối tượng yếu kém.

Cùng với việc đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ và những kiến

thức khác, cần đặc biệt coi trong giáo dục về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối

sống, phong cách làm việc khoa học, gắn kết chặt chẽ với công tác phòng, chống tham

nhũng, quan liêu, lãng phí. Coi trọng đào tạo, bồi dưỡng theo các chức danh cán bộ

quản lý giáo dục; đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng xử lý tình huống trong công tác đào tạo

của cán bộ và bồi dưỡng cập nhật kiến thức cần thiết.

Đa dạng hóa các hình thức, biện pháp giáo dục; cùng với việc tổ chức các lớp học

tập trung theo chương trình, nên tăng cường các báo cáo chuyên đề, thông báo thời sự,

chính sách; tổ chức toạ đàm, hội thảo, thi tìm hiểu về những vấn đề liên quan trực tiếp

đến công việc của cán bộ, giảng viên các trường đại học công lập. Coi trọng giáo dục,

rèn luyện thông qua sinh hoạt và hoạt động của các tổ chức, như: sinh hoạt cấp ủy, chi

bộ, sinh hoạt tổ bộ môn, chuyên môn, hay sinh hoạt tự phê bình và phê bình... Qua đó,

giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, bồi dưỡng rèn luyện, nâng cao đạo đức cách

mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, đấu tranh ngăn ngừa những nhận thức, việc làm sai trái.

Bốn là, trên cơ sở quy hoạch cán bộ cần đẩy mạnh luân chuyển cán bộ trong

quy hoạch để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thực tiễn, nâng cao năng lực tổ chức

thực tiễn. Phối hợp chặt chẽ với Ban tổ chức thành ủy dưới sự chỉ đạo của ban thường

vụ thành ủy để luân chuyển cán bộ một cách liên thông giữa các trường đại học với

nhau và các cơ quan trên địa bàn Hà Nội; khắc phục một cách căn bản tình trạng luân

chuyển cán bộ khép kín trong nội bộ của trường đại học.

Năm là, đổi mới việc quản lý, đánh giá, lựa chọn, kiểm tra, giám sát cán bộ,

giảng viên cả cán bộ đương chức và cán bộ trong quy hoạch. Cần lấy kết quả hoàn

thành nhiệm vụ, phiếu đánh giá của sinh viên về chất lượng bài giảng của giảng viên...

làm căn cứ chủ yếu để đánh giá cán bộ, giảng viên trong các trường đại học công lập.

Cần coi trọng quả lý cán bộ, giảng viên về quan hệ xã hội và về xử lý, giải quyết

những vấn đề liên quan đến các lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra tiêu cực như: công tác

tuyển sinh, quản lý hồ sơ sinh viên, quản lý điểm thi...

Sáu là, coi trọng việc tự học, tự rèn luyện của cán bộ, giảng viên trong các

trường đại học công lập, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, giảng viên thực hiện có

hiệu quả việc này; phát huy mạnh mẽ vai trò của các đoàn thể nhân dân đối với xây

dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên, nhất là trong giám sát hoạt động

của họ.

4.2.3. Lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức bộ máy và mối quan

hệ công tác trong các trường đại học công lập

Tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24- 12- 2014

của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học

công lập, theo đó, tự chủ đại học có ba nội dung chủ yếu là: Tự chủ công tác tổ chức -

điều hành; tự chủ hoạt động và tự chủ tài chính. Như vậy, Nghị quyết số 77/NQ-

CP nhằm mục tiêu đổi mới toàn diện về đào tạo và nghiên cứu khoa học, tổ chức bộ

máy, nhân sự, tài chính. Về tổ chức bộ máy, nhân sự, các trường đại học có quyền tự

chủ quyết định thành lập mới, sáp nhập, chia, tách, giải thể; quy định chức năng,

nhiệm vụ, quy chế hoạt động của các tổ chức trực thuộc. Bên cạnh đó, quyết định cơ

cấu và số lượng người làm việc; tuyển dụng viên chức, nhân viên hợp đồng lao động

sau khi được Hội đồng trường thông qua; ký kết hợp đồng làm việc và hợp đồng lao

động, quản lý, sử dụng và chấm dứt hợp đồng theo quy định của pháp luật; giao kết

hợp đồng lao động với giảng viên, nhà khoa học là người nước ngoài để bảo đảm nhu

cầu giảng dạy, nghiên cứu khoa học.

Thực hiện tốt mối quan hệ công tác lãnh đạo, điều hành, trong đó tập trung vận

hành và giải quyết tốt ba mối quan hệ cơ bản: (1) mối quan hệ của cấp ủy đảng với

Hiệu trưởng; (2) mối quan hệ của cấp ủy đảng với Hội đồng trường; (3) mối quan hệ

của Hiệu trưởng với Hội đồng trường.

Về mối quan hệ thứ nhất, về thực chất chính là quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với

cá nhân phụ trách. Thực tiễn cho thấy, cơ quan nào thực hiện tốt nguyên tắc tập thể lãnh

đạo, cá nhân phụ trách thì tổ chức đảng luôn đoàn kết, thống nhất, trong sạch vững

mạnh; định ra được các chủ trương, phương hướng đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng

lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Trái lại, nếu vi phạm nguyên tắc tập thể

lãnh đạo, cá nhân phụ trách thì nội bộ mất đoàn kết, hiệu lực lãnh đạo thấp, mắc phải sai

lầm, khuyết điểm.

Về mối quan hệ thứ hai, chúng ta biết rằng ở các trường đại học công lập, tổ

chức Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ

trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lãnh đạo thực hiện có hiệu quả

các chủ trương, nhiệm vụ, công tác của đơn vị, từ chiến lược phát triển dài hạn, kế

hoạch hằng năm đến tổ chức, nhân sự, tài chính, các hoạt động đào tạo, nghiên cứu

khoa học và mọi hoạt động khác của nhà trường. Trong khi đó, mối quan hệ giữa tổ

chức Đảng với Hội đồng trường chưa được Luật Giáo dục đại học quy định rõ, Cho

nên, có lúc, có nơi Hội đồng trường chỉ mang tính hình thức, không có thực quyền.

Do đó, các đảng bộ trường đại học cần có cơ chế phát huy vị trí, vai trò của Hội

đồng trường.

Về mối quan hệ thứ ba, theo Luật Giáo dục đại học, Hội đồng trường ở trường

đại học công lập được trao quyền rất lớn, nhưng không có quyền bầu và miễn nhiệm

hiệu trưởng nên về nguyên tắc hiệu trưởng không phải chịu trách nhiệm trước Hội

đồng mà chỉ chịu trách nhiệm trước cấp trên, giống người đứng đầu tổ chức thuộc hệ

thống hành chính hơn là người đứng đầu tổ chức tự quản. Hội đồng trường thường do

hiệu trưởng làm chủ tịch, do đó, Hội đồng đóng vai trò tư vấn hơn là một Hội đồng

quyền lực.

Củng cố các tổ chức trong hệ thống chính trị của các trường theo quy định

của Điều lệ trường đại học và được cụ thể hóa trong quy chế về tổ chức và hoạt

động của các trường; Kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng lề lối, phương pháp làm

việc của các phòng, khoa, các bộ môn trực thuộc các Trường theo hướng tinh gọn,

hoạt động hiệu quả. Thường xuyên xem xét, cải tiến bộ máy và hệ thống quản lý

chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà trường.

Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của trường đại học công lập, Đảng ủy lãnh đạo

xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong

nhà trường một cách cụ thể, rõ ràng, tránh chồng chéo, trùng lặp. Từ đó, kiện toàn

tổ chức bộ máy hoạt động của nhà trường, tổ chức bộ máy phải gọn nhẹ, khoa học,

hoạt động có hiệu quả. Từ chức năng, nhiệm vụ các khoa, phòng, ban của các

trường đại học đã được xác định, tập trung xây dựng, kiện toàn các đơn vị chức

năng vững mạnh.

Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của các khoa, phòng, ban theo quy định của Luật

Giáo dục cần cụ thể hoá phù hợp với từng trường đại học nhưng không trái với quy định

của Luật, để thuận tiện cho việc thực hiện.

Đảng ủy lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc của các

đơn vị chức năng, trong đó, quy định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của từng chức

danh cán bộ, công chức, nhất là những cán bộ đứng đầu các khoa, phòng ban trong các

trường đại học công lập.

Nâng cao chất lượng các cuộc họp thường kỳ, họp giao ban của Ban Giám hiệu

nhà trường với lãnh đạo các khoa, phòng bằng cách tích cực cải tiến chế độ hội họp theo

hướng chuẩn bị chu đáo nội dung, triệu tập họp đúng đối tượng, dân chủ, tăng cường

thảo luận, tranh luận, tiết kiệm thời gian, thiết thực, hiệu quả. Khắc phục tình trạng hội

họp nhiều, nội dung giản đơn, ít trao đổi thảo luận, chủ yếu là phổ biến công việc.

4.2.4. Lãnh đạo nâng cao chất lượng hiệu quả công tác hợp tác và chuyển

giao công nghệ đào tạo trình độ đại học

Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu sắc và toàn diện của nước ta với các

nước trên thế giới và khu vực, việc đào tạo nguồn nhân lực không chỉ đáp ứng nhu cầu

trong nước mà còn tham gia vào việc phân công lao động, hợp tác và chuyển giao

công nghệ đào tạo. Việc hợp tác và chuyển giao công nghệ cần tập trung vào ba nội

dung lớn sau đây:

Một là, hợp tác quốc tế và chuyển giao công nghệ đào tạo. Theo đó, cần thiết

phải tổ chức một sự liên kết ngày càng chặt chẽ và toàn diện với các cơ sở đào tạo và

nghiên cứu khóa học, đặc biệt là ở các nước có nền công nghiệp phát triển. Sự liên kết

ấy không chỉ là trường với trường mà là sự liên kết đan xen giữa trường với viện, từ

đó nhà trường có thể mở rộng, không chỉ là tầm nhìn mà còn tạo ra các kênh thông tin

thông thoáng để thu nhận những kiến thức mới. Cần coi trọng, nhanh chóng tiếp thu,

kế thừa và tận dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật của các nước tiên tiến trên

thế giới phục vụ cho sự phát triển.

Hai là, đề cao và xác lập mối quan hệ liên kết với các cơ sở đào tạo ở trong

nước, bởi lẽ ở từng cơ sở đào tạo thế mạnh về các yếu tố, cơ bản của việc nâng cao

chất lượng đào tạo là không giống nhau và từ đó đòi hỏi phải có sự liên kết với nhau

nhằm bổ sung và hạn chế những khiếm khuyết hiện có và tạo cho sự phát triển bền

vững trong tương lai, bao gồm việc sử dụng năng lực đào tạo, cơ sở vật chất của đào

tạo.

Ba là, hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp. Quan hệ hợp tác giữa

các trường đại học và doanh nghiệp là yếu tố cốt lõi trong việc xây dựng hệ thống giáo

dục đại học gắn liền yêu cầu thực tiễn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Mối quan

hệ trường đại học và doanh nghiệp mang lại nhiều lợi ích trực tiếp cho cả hai bên và

cho xã hội. Ðể gắn kết giữa trường đại học và doanh nghiệp, các trường đại học cần

thành lập trung tâm quan hệ với doanh nghiệp, giúp quản lý hoạt động hợp tác được

thống nhất, bảo đảm tính chuyên môn hóa và hiệu quả quản lý. Trung tâm quan hệ với

doanh nghiệp không thể hoạt động độc lập mà phải kết hợp chặt chẽ với mạng lưới

cán bộ quản lý, giảng viên, cựu sinh viên. Ngoài ra, trường đại học cần xây dựng các

chính sách quy định chung về các hình thức, nội dung, cơ chế hợp tác, chính sách đãi

ngộ, biện pháp bảo đảm chất lượng trong các mối quan hệ giữa nhà trường và doanh

nghiệp. Tích hợp các nội dung hợp tác với doanh nghiệp trong các quy định chuyên

môn và tài chính hiện hành. Thí dụ: cơ chế chi trả thù lao cho doanh nghiệp tham gia

hợp tác cần được cụ thể hóa trong quy chế chi tiêu nội bộ; quy trình phát triển chương

trình đào tạo; quy trình tổ chức hoạt động thực hành, thực tập; quy trình đánh giá kết

quả học tập của sinh viên. Ðể chủ động tìm kiếm, hình thành, củng cố và phát triển

mối quan hệ với các doanh nghiệp, nhà trường cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về

các doanh nghiệp đối tác qua thông tin cung cấp của các cán bộ, giảng viên, nhân viên

hoặc phối hợp các hiệp hội nghề nghiệp, các cơ quan quản lý ở địa phương để tìm

kiếm thông tin về những doanh nghiệp tiềm năng. Tổ chức các sự kiện (hội nghị, hội

thảo, chương trình giao lưu...) là cách nhanh nhất để thu hút sự tham gia của đại diện

doanh nghiệp và truyền tải các thông tin tới họ. Qua các chương trình này sẽ là cơ hội

để trường đại học trao đổi thông tin, giới thiệu về nhà trường và làm thay đổi quan

niệm của các doanh nghiệp về hoạt động hợp tác, hình thành mối quan hệ thiện chí

giữa hai bên.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hợp tác và chuyển giao công nghệ

đào tạo trình độ đại học, cần tập trung vào các giải pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, xây dựng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trung và dài

hạn, thường xuyên cập nhật thông qua việc xây dựng các chương trình nghiên cứu, mở

rộng và nâng cao chất lượng các đề tài hướng sản phẩm công nghệ tiên tiến và khả

năng chuyển giao cho doanh nghiệp hiệu quả cao.

Thứ hai, xây dựng các trung tâm nghiên cứu mở, phòng thí nghiệm đầu tư

tập trung, mời các chuyên gia nước ngoài sang làm việc và tham gia quản lý khoa

học, triển khai dự án nghiên cứu. Tạo điều kiện đầu tư cho các trung tâm để có môi

trường nghiên cứu tốt cho các nhóm nghiên cứu mạnh và tiềm năng.

Thứ ba, khuyến khích cán bộ tích cực, năng động, sáng tạo trong các đề xuất,

tham gia tuyển chọn đề tài, dự án trong các lĩnh vực của Nhà nước và địa phương.

Thứ tư, đa dạng hóa các loại hình nghiên cứu khoa học, phát triển hợp tác quốc

tế tập trung phục vụ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ.

Thứ năm, gắn kết nghiên cứu khoa học với việc nâng cao chất lượng đào tạo,

đặc biệt là đào tạo sau đại học.

Thứ sáu, thực hiện công tác sở hữu trí tuệ, bảo hộ thành quả nghiên cứu.

Thứ bảy, chủ động triển khai chuyển giao công nghệ qua hệ thống doanh nghiệp

của Trường, gắn kết quả và sản phẩm nghiên cứu với thực tiễn sản xuất và thương mại

hóa sản phẩm phục vụ xã hội.

Thứ tám, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất để hình thành các trung tâm nghiên

cứu mạnh, tạo môi trường nghiên cứu mang tính hội nhập nghiên cứu cao.

4.2.5. Chú trọng công tác phát triển đảng viên, phát huy vai trò của các tổ

chức quần chúng trong các trường đại học công lập ở Hà Nội

4.2.5.1. Chú trọng công tác phát triển đảng viên trong các trường dại học

công lập ở Hà Nội

Công tác phát triển đảng viên là nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác xây

dựng tổ chức Đảng nói riêng, xây dựng Đảng nói chung. Mục tiêu của công tác phát

triển đảng viên mới nhằm củng cố, xây dựng, nâng cao sức chiến đấu, năng lực lãnh

đạo của Đảng, trẻ hóa đội ngũ cán bộ, tạo nguồn thừa kế cho các tổ chức cơ sở Đảng

tại địa phương, đơn vị mình, nhằm bổ sung nguồn cán bộ cho Đảng thay thế đội ngũ

cán bộ lớn tuổi, góp phần xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh. Nhận

thức sâu sắc công tác phát triển đảng viên là một nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng

trong công tác xây dựng đảng, đảng bộ các trường đại học công lập ở Hà Nội đã coi

trọng công tác phát triển đảng viên, nhất là phát triển đảng viên trong sinh viên, từng

bước nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học của nhà trường.

Công tác phát triển đảng viên trong các đảng bộ trường đại học công lập trên địa

bàn thành phố Hà Nội hiện nay đang có những vấn đề đặt ra như nhận thức chưa đầy đủ

về công tác phát triển đảng của một số cấp ủy đảng; vấn đề tạo nguồn; động cơ phấn đấu

vào Đảng của một bộ phận sinh viên... những khó khăn, hạn chế trên nếu không được

nhận thức và giải quyết sẽ gây khó khăn cho công tác phát triển đảng viên trong các

trường đại học trong thời gian tới.

Để đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong cán bộ, giảng viên và sinh

viên ở các trường đại học công lập ở Hà Nội trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ

một số biện pháp sau:

Thứ nhất, củng cố, kiện toàn, xây dựng các cấp ủy đảng trong nhà trường trong

sạch, vững mạnh thực sự là chủ thể phát triển đảng viên. Chất lượng lãnh đạo của các

cấp ủy đảng là một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa quyết định

tới năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ các trường đại học.

Thứ hai, chủ động làm tốt và đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo

dục lý tưởng cách mạng cho cán bộ, giảng viên mà nhất là đối với sinh viên trong tình

hình mới. Tập trung vào một số nội dung như giáo dục truyền thống cách mạng, nâng cao

ý thức tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống; đổi mới hoạt động tuyên truyền; giáo dục

thông qua dư luận xã hội; sử dụng hợp lý các phương tiện thông tin đại chúng vào việc

định hướng giá trị và giác ngộ lý tưởng cách mạng cho sinh viên. Đổi mới việc đánh giá

sinh viên, thống nhất nhận thức về công tác phát triển đảng viên trong sinh viên góp phần

quan trọng trong việc định hướng cho công tác phát triển đảng viên là sinh viên trong thực

tiễn.

Thứ ba, tăng cường sự theo dõi, giúp đỡ của của cấp ủy, các chi bộ đảng trong nhà

trường đối với công tác phát triển đảng viên. Phát triển Đảng ở các đảng bộ trường đại học

công lập trên địa bàn Hà Nội là trách nhiệm chính trị - xã hội của nhiều lực lượng, tổ

chức, cơ quan, đoàn thể có liên quan đến công tác đào tạo, giáo dục.

Thứ tư, quán triệt và cụ thể hóa tiêu chuẩn đảng viên trong cán bộ, giảng viên và

sinh viên. Thực tế công tác phát triển đảng viên trong cán bộ, đảng viên của các đảng bộ

trường đại học ở thành phố Hà Nội mà nhất là công tác phát triển đảng viên là sinh viên

đòi hỏi mỗi đảng viên và tập thể chi bộ thái độ nghiêm túc, khách quan, khoa học khi xem

xét, đánh giá sinh viên, xây dựng tiêu chuẩn đảng viên là sinh viên cho Đảng bộ mình.

Mỗi đảng viên cần phải phát huy tính Đảng trong việc xem xét kết nạp cán bộ, giảng viên,

sinh viên vào Đảng.

4.2.5.2. Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể tham gia xây dựng Đảng bộ

và xây dựng nhà trường; nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đoàn-hội

Các tổ chức đoàn thể trong nhà phải coi công tác xây dựng Đảng vừa là trách

nhiệm vừa là yêu cầu tất yếu khách quan của sự nghiệp cách mạng.Các trường đại học

công lập cần vận động tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên tích cực hưởng ứng chủ

động phối hợp với nhà trường, các cấp uỷ đảng cùng cấp tham gia xây dựng Đảng với

hình thức và cách làm phong phú, đa dạng.

Các tổ chức chính trị xã hội chủ động, sáng tạo xây dựng và triển khai các

chương trình, kế hoạch hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm đảm bảo lợi

ích chính đáng của các thành viên tổ chức, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ

chung của Nhà trường đặc biệt là công tác chính trị tư tưởng, các nhiệm vụ chuyên môn

và công tác giới thiệu quần chúng ưu tú vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tổ chức cho công đoàn viên, đoàn viên thanh niên tham gia góp ý phê bình đảng

viên, chi bộ, đảng bộ nhà trường. Vận động đoàn viên tích cực tham gia chống tiêu cực,

tham nhũng cửa quyền, mất dân chủ ở đơn vị mình với tinh thần thẳng thắn, tin tưởng,

chân thành, chống việc lợi dụng phê bình để vu cáo, đả kích cá nhân, xây dựng chi bộ,

đảng bộ nhà trường trong sạch vững mạnh, nhằm đảm bảo sự đoàn kết nhất trí để hoàn

thành nhiệm vụ chính trị của mình.

Các tổ chức đoàn thể chủ động tham mưu với cấp uỷ cùng cấp đề ra kế hoạch,

biện pháp giáo dục, bồi dưỡng, giúp cho cán bộ, giảng viên, sinh viên phấn đấu trở

thành đảng viên. Đồng thời, giới thiệu những đoàn viên ưu tú của mình để chi bộ, đảng

bộ xem xét kết nạp. Xây dựng kế hoạch, chỉ tiêu bồi dưỡng cảm tình, đối tượng và kết

nạp đảng viên mới cho từng cơ sở trong trường học. Công đoàn, Đoàn Thanh niên chủ

động tham mưu cho cấp uỷ nhà trường: mở các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị, điều lệ

Đảng, tiêu chuẩn cảm tình, đối tượng Đảng. Lãnh đạo công đoàn, đoàn trường cần bố

trí các đồng chí là đảng viên, để các đồng chí đảng viên này có điều kiện kèm cặp,

theo dõi, giúp đỡ công đoàn viên của mình thuộc diện đối tượng, cảm tình.

Thực hiện tốt cuộc vận động “Công đoàn tham gia đẩy mạnh công tác xây dựng

Đảng trong đội ngũ cán bộ, giảng viên, công nhân viên”, đây là đợt sinh hoạt chính trị

rộng lớn, liên tục, có ý nghĩa củng cố niềm tin đối với Đảng, nâng cao tinh thần trách

nhiệm ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu vươn lên cả về mặt đạo đức tác

phong, về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để trở thành người trí thức xã hội chủ nghĩa.

Cũng qua cuộc vận động xây dựng Đảng, Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ

Chí Minh cần thúc đẩy mạnh mẽ phong trào thi đua “hai tốt”, phong trào của phụ nữ

“giỏi việc trường, đảm việc nhà”, các cuộc vận động “dân chủ, kỷ cương, tình thương,

trách nhiệm” dân chủ hoá, xã hội hoá, vừa có chiều sâu, vừa có hiệu quả thiết thực trong

việc lập lại kỷ cương dạy và học, trong việc đấu tranh chống lại các hiện tượng tiêu cực,

tham nhũng, trong việc xây dựng và củng cố tổ chức đảng để các chi bộ, đảng viên thực

sự là hạt nhân lãnh đạo, đoàn kết nội bộ, góp phần thực hiện thắng lợi các nghị quyết

của Đảng về giáo dục và đào tạo.

Tăng cường và phát huy vai trò lãnh đạo về chính trị của Đảng ủy và cấp ủy các

chi bộ đối với đối với tổ chức Công đoàn, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên trường; nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ

chức đoàn-hội và ở các đơn vị nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của trường và

của các tổ chức đoàn thể. Đảng ủy lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện có hiệu quả Nghị

quyết của Đảng ủy về các biện pháp tạo điều kiện cho Đoàn thanh niên, Hội sinh viên

và chi bộ sinh viên hoạt động trong điều kiện đào tạo theo tín chỉ; tổ chức sơ kết, rút

kinh nghiệm sau một năm triển khai thực hiện.

Đảng ủy lãnh đạo công tác giới thiệu, bố trí cán bộ làm công tác Công đoàn,

Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên, Hội Cựu chiến binh, đảm bảo cơ cấu đại diện của các

tổ chức chính trị, xã hội quan trọng trong cấp ủy các cấp. Ban Chấp hành Công đoàn,

Đoàn Thanh niên giới thiệu những người có đạo đức trong sáng, có năng lực chuyên

môn nghiệp vụ, có uy tín với quần chúng, có khả năng tập hợp đoàn kết nội bộ, để cấp

uỷ xem xét cất nhắc và quyết định. Công đoàn và Đoàn Thanh niên phải chủ động tham

gia với đảng ủy nhà trường về quy hoạch cán bộ, về công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao

trình độ chuyên môn trong việc chuẩn hoá đội ngũ về xây dựng chương trình kế hoạch

giảng dạy nghiên cứu khoa học.

4.2.6. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ, đổi

mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác đào tạo trình độ

đại học

4.2.6.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ

Để xây dựng các chi bộ, đảng bộ cơ sở của các trường đại học trong sạch vững

mạnh, đủ sức lãnh đạo thực hiện mục tiêu phát triển nhà trường cần thực hiện các giải pháp

sau:

Một là, Đảng uỷ tiếp tục rà soát và kiện toàn các chi bộ đảng trực thuộc Đảng

bộ Nhà trường phù hợp với đặc điểm tình hình của trường và từng đơn vị; xây dựng và

ban hành Quy chế phối hợp công tác giữa Đảng ủy và Ban giám hiệu nhà trường; quan

hệ công tác giữa cấp ủy chi bộ và lãnh đạo các đơn vị thuộc trường; thực hiện nghiêm túc

nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường thảo luận tập thể, thống nhất về chủ trương,

định hướng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo các vấn đề thuộc thẩm quyền của các cấp ủy

đảng; thực hiện phê bình và tự phê bình trước hết trong Ban thường vụ, Ban chấp hành

Đảng bộ và cấp ủy các chi bộ trực thuộc; đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp sinh

hoạt của cấp uỷ và chi bộ theo hướng tập trung bàn và quyết định các công việc cụ thể,

thiết thực đối với đảng bộ, chi bộ mình.

Hai là, xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở trong sạch vững mạnh về chính trị, tư

tưởng và tổ chức. Chi bộ phải là nơi đầu tiên nắm bắt, phát hiện, kịp thời uốn nắn,

chấn chỉnh khi vụ việc mới phát sinh, xem xét, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng,

thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ kỷ luật và tăng cường đoàn kết thống nhất trong

Đảng. Chi bộ, đảng bộ cơ sở trong các trường đại học giữ vững vai trò lãnh đạo toàn

bộ các hoạt động của nhà trường nhằm thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Đảng;

chính sách, pháp luật của nhà nước trên tất cả các lĩnh vực: văn hoá, xã hội, an ninh,

quốc phòng... trong đó quan trọng nhất là các nghị quyết của Đảng về công tác giáo

dục và đào tạo.

Thông qua vai trò lãnh đạo, chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận, bằng sự gắn bó mật thiết của đội ngũ cán bộ, đảng viên với quần chúng, nắm được tâm tư, nguyện vọng của quần chúng để từ đó tham gia với cơ quan cấp trên, với Đảng và nhà nước để định ra đường lối, chính sách, chủ trương, kế hoạch công tác đúng đắn, thúc đẩy các mặt công tác nói chung, trong đó then chốt là công tác giáo dục và đào tạo. Các chi bộ trong nhà trường phải trực tiếp giáo dục đội ngũ cán bộ, giảng viên và sinh viên thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các kế hoạch, công tác của cấp trên, không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy và học. Những đảng viên của chi bộ giữ vai trò chủ chốt trong nhà trường như hiệu trưởng, chủ tịch công đoàn, bí thư đoàn trường sẽ là hạt nhân lãnh đạo trong các bộ phận đó.

Ba là, công tác xây dựng chi bộ tốt tức là các mặt công tác của nhà trường đều đảm bảo đúng quy chế theo ngành dọc chỉ đạo: dạy đúng, đủ chương trình, đúng thời gian quy định, đảm bảo dạy đúng nguyên lý giáo dục mà Luật Giáo dục đã đề ra.

Các chi bộ, đảng bộ lãnh đạo đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản

của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của

người học; Công tác tuyển sinh và quản lý đào tạo tiếp tục được thực hiện theo

hướng nâng cao chất lượng đầu vào, kiểm soát chặt chẽ đầu ra. Lãnh đạo đổi mới

căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào

tạo, bảo đảm trung thực, khách quan. Công tác kiểm định chất lượng giáo dục được

triển khai thực hiện theo 10 tiêu chuẩn kiểm định chất lượng trường đại học của Bộ

Giáo dục và Đào tạo để người học có niềm tin vào chất lượng giáo dục của các

trường đại học ở Thủ đô; nhà tuyển dụng lao động an tâm tuyển chọn nhân lực do

các trường đại học ở Hà Nội cung cấp. Lãnh đạo đổi mới căn bản công tác quản lý

giáo dục, đào tạo. Công tác quản lý giáo dục, đào tạo phải bảo đảm dân chủ, thống

nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi

trọng quản lý chất lượng.

Bốn là, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Xây dựng chi bộ trong sạch

vững mạnh trên cơ sở đội ngũ đảng viên hiện có chưa đủ, mà còn tiếp tục kết nạp

đảng viên mới để đảm bảo tính quy luật phát triển của Đảng. Trong sự tồn tại và phát

triển của mình Đảng phải thường xuyên bổ sung vào hàng ngũ những lực lượng mới,

ưu tú trong phong trào xây dựng nhà trường của quần chúng. Trong nhà trường cần

phải có đủ số lượng đảng viên để giữ vị trí đứng đầu các bộ phận, có như vậy thì sự

chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng mới lan toả tới tất cả các bộ phận trong ngành giáo dục,

muốn có nhiều đảng viên phải hướng vào những giảng viên, cán bộ ưu tú trong các tổ

chức quần chúng: Công đoàn, Đoàn Thanh niên. Đề cao trách nhiệm của chi bộ trong việc

quản lý đảng viên.

Xây dựng chi bộ trong nhà trường trong sạch vững mạnh, một trong những

nhiệm vụ cần được quan tâm là: đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi

Đảng. Cần quán triệt nội dung Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XII của

Đảng đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hoá, biến chất tham nhũng, cơ hội, gây

chia rẽ, bè phái, trù dập ức hiếp quần chúng, kiên quyết xoá tên trong danh sách đảng

viên những người không còn tha thiết với Đảng, giảm sút ý chí chiến đấu, không tích

cực với nhiệm vụ đảng viên, không được quần chúng tín nhiệm và những đảng viên bỏ

sinh hoạt Đảng.

Trong tình hình hiện nay, trong ngành giáo dục cũng đã xuất hiện nhiều tiêu

cực như: thương mại hoá giáo dục, chạ trường, xin điểm, vi phạm quy chế thi, cử, mua

bán bằng. Vì thế việc đưa ra khỏi Đảng những giảng viên vi phạm quy chế giáo dục là

nhằm giữ cho đội ngũ đảng viên trong sạch vững mạnh; tổ chức đảng được củng cố,

năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu được tăng cường, uy tín và ảnh hưởng của Đảng

trong nhân dân được tăng lên.

Năm là, tổ chức đảng trong các trường học trên cơ sở đánh giá kết quả qua việc

tự phê bình và phê bình, phải có kế hoạch phấn đấu xây dựng tổ chức đảng trong sạch

vững mạnh.Kế hoạch phải đánh giá đúng thực chất điểm mạnh điểm yếu và nguyên

nhân, đặc biệt là tìm ra nguyên nhân yếu kém, đề ra các biện pháp khắc phục và định

thời gian phấn đấu trong sạch vững mạnh. Trong đó, cần xác định rõ nội dung về

thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng; giữ

gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng; giữ vai trung tâm đoàn kết nhất trí trong nhà

trường, thực hiện tốt nội dung công tác cán bộ theo phân cấp; nâng cao chất lượng

đội ngũ cán bộ đảng viên; lãnh đạo tốt các tổ chức quần chúng, xây dựng và thực

hiện nghiêm chỉnh Luật Cán bộ, công chức (2008), Luật Viên chức (2010); lãnh đạo

chặt chẽ công tác thi đua, khen thưởng.

Sáu là, thực hiện tốt công tác kiểm tra, giảm sát. Đảng bộ đẩy mạnh việc thực

hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng và các nghị quyết của

BCH Trung ương; chỉ đạo việc rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy trình kiểm tra, giải

quyết khiếu nại, tố cáo, thi hành kỷ luật để thống nhất thực hiện trong toàn đảng bộ,

hướng tới mục đích kiểm tra chủ yếu để chủ động phòng ngừa vi phạm, khắc phục thiếu

sót, khuyết điểm… nếu phát hiện vi phạm phải xử lý nghiêm minh để ngăn ngừa, giáo

dục chung.

Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát chuyên ngành, thanh tra hành chính,

thanh tra đổi mới chương trình giáo dục đại học phải được thực hiện nghiêm túc

đúng kế hoạch, công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo phải được xử

lý kịp thời, góp phần tích cực vào việc hoàn thành các nhiệm vụ mục tiêu của nhà

trường.

Xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục và đào tạo, kiên

quyết xử lý các tình trạng tiêu cực trong thi cử, tuyển sinh, xét tuyển. Đổi mới cơ chế

quản lý, bồi dưỡng cán bộ, sắp xếp chấn chỉnh và nâng cao năng lực của bộ máy quản

lý giáo dục và đào tạo. Hoàn thiện hệ thống thanh tra giáo dục, tăng cường cán bộ

thanh tra, tập trung vào thanh tra chuyên môn.

Trên cơ sở khảo sát, kiểm tra đánh giá thực trạng giáo dục và đào tạo hàng năm,

các đảng uỷ nhà trường cần chỉ đạo kịp thời, sâu sát tới các cấp uỷ, chi bộ cơ sở.

4.2.6.2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của các đảng bộ

Đảng uỷ phát huy hơn nữa tính chủ động, trách nhiệm trong việc ban hành, tổ

chức thực hiện các nghị quyết thường kỳ và các nghị quyết chuyên đề; trong các kỳ

họp cần chú trọng việc nắm bắt tình hình, đánh giá, rút kinh nghiệm và hàng năm tổ

chức sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết của Đảng ủy. Cấp ủy các chi bộ

trực thuộc xây dựng các nghị quyết, chương trình, kế hoạch cụ thể để triển khai lãnh

đạo các công tác tại đơn vị, đặc biệt đối với những vấn đề quan trọng, cấp bách của

đơn vị; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, cụ thể đối với việc thực hiện các nghị

quyết, chương trình, kế hoạch đã đề ra.

Đảng uỷ tiếp tục chủ trương mở rộng dân chủ trong Đảng kết hợp với việc thực

hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; xây dựng cơ chế đối thoại giữa lãnh đạo của Đảng

ủy, Ban giám hiệu và các đoàn thể chính trị với cán bộ, đảng viên, sinh viên; tổ chức

thực hiện chế độ Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng tiếp cán bộ, giáo viên và sinh viên, lắng

nghe ý kiến, nguyện vọng chính đáng của cán bộ, giáo viên và sinh viên qua đó tập

trung chỉ đạo, giải quyết những vấn đề được quan tâm; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ

thông tin trong hoạt động chỉ đạo, điều hành, giao ban công tác, trao đổi tài liệu, thông

tin chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút

kinh nghiệm trong công tác đào tạo.

Tiểu kết chương 4

Thế giới đương đại đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão của khoa học -

công nghệ, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và làm thay đổi sâu sắc diện mạo của

nền kinh tế - xã hội trong từng quốc gia, từng khu vực. Việt Nam đang hội nhập ngày

càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới với những cơ hội và thách thức mở ra rất lớn.

Giáo dục đại học Việt Nam cũng đang chuyển mình theo hướng hội nhập. Rõ ràng, cơ

hội đang mở ra, thách thức đang đến với giáo dục đại học Việt Nam nói chung và đại

học công lập ở thành phố Hà Nội nói riêng. Khai thác tốt cơ hội, nhận rõ những thách

thức để có những chủ trương, biện pháp khắc phục, chính là những vấn đề cần quan

tâm của các trường đại học trong mục tiêu và nhiệm vụ đổi mới giáo dục đại học hiện

nay. Và để tăng cường, phát huy tốt hơn nữa vai trò lãnh đạo của các đảng bộ trường

đại học công lập ở Hà Nội đối với việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo tại trường

đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong thời gian tới cần phải tiến hành

hiệu quả, đồng bộ nhiều giải pháp. Đó là: (1) Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các

cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, trước hết là ban thường vụ, thường trực Đảng

ủy, cán bộ chủ chốt về vai trò lãnh đạo của các Đảng bộ trường công lập ở Hà Nội đối

với việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo trình độ đại học. (2) Lãnh đạo tăng

cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội

ngũ cán bộ, giảng viên các trường đại học công lập ở Hà Nội. (3) Đổi mới, nâng cao

chất lượng tổ chức bộ máy và mối quan hệ công tác trong các trường đại học công lập.

(4) Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác hợp tác và chuyển giao công nghệ đào tạo

trình độ đại học. (5) Chú trọng công tác phát triển đảng viên, phát huy vai trò của các

tổ chức quần chúng trong các trường đại học công lập ở Hà Nội. (6) Nâng cao năng

lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo của các

cấp ủy đảng đối với công tác đào tạo trình độ đại học.

KẾT LUẬN

Trong thế kỷ XXI, với sự phát triển nền kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu

hóa đòi hỏi nguồn nhân lực của mỗi quốc gia cần phải được nâng tầm về chất lượng

chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp, chính vì vậy nguồn nhân lực chất

lượng cao sẽ tạo nên lợi thế cạnh tranh, tạo nên sức bật cho mỗi quốc gia. Đối với

nước ta, việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, ngày càng tiệm cận với trình

độ nguồn nhân lực các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới là sứ mệnh chủ

yếu của các trường đại học, trong đó các trường đại học công lập có vị trí, vai trò quan

trọng, trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt của các cơ sở đào tạo trình độ đại học, nhất

là khi nước ta thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về hội nhập trong tương lai gần,

giáo dục đại học đại học công lập sẽ đứng trước những thách thức nghiêm trọng, đòi

hỏi các đảng bộ trường đại học công lập nói chung, các đảng bộ trường đại học công

lập ở Hà Nội - một trung tâm của cả nước về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ,

cần nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện đối với nhà trường, đặc biệt là nâng cao hiệu

quả chất lượng công tác đào tạo, để tiếp tục đưa các trường đại học công lập ở thành

phố Hà Nội là những con chim đầu đàn của giáo dục đại học ở nước ta. Trước hết, các

đảng bộ trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội cần nhận diện một cách đầy đủ,

toàn diện những cơ hội và thách thức trong việc cạnh tranh và nâng cao vị thế đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước trong giai đoạn hiện nay; thứ hai, các

đảng bộ trường đại học công lập cần quán triện sâu sắc những vấn đề có tính nguyên

tắc trong việc đảm bảo sự lãnh đạo của đảng bộ đối với hội đồng nhà trường, ban giám

hiệu và các tổ chức chính trị - xã hội tại các trường đại học công lập ở Hà Nội trong

việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo đáp ứng nhu cầu của hội nhập quốc tế, đồng

thời bảo đảm định hướng về phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ phù hợp với mục

tiêu xây dựng nhân cách con người mới theo quan điểm của Đảng; thứ ba, các đảng bộ

trường đại học công lập ở thành phố Hà Nội cần quan tâm xây dựng đảng bộ trong

sạch, vững mạnh; xem xét, thực hiện sáng tạo, đồng bộ, có hiệu quả những giải pháp

lãnh đạo nâng cao chất lượng công tác đào tạo trình độ đại học theo những kiến nghị

sau đây: (1) Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, cán bộ,

đảng viên, trước hết là ban thường vụ, thường trực Đảng ủy, cán bộ chủ chốt về vai trò

lãnh đạo của các Đảng bộ trường công lập ở Hà Nội đối với việc nâng cao chất lượng

công tác đào tạo trình độ đại học. (2) Lãnh đạo tăng cường công tác đào tạo, bồi

dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, giảng viên các

trường đại học công lập ở Hà Nội. (3) Đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức bộ máy

và mối quan hệ công tác trong các trường đại học công lập. (4) Nâng cao chất lượng

hiệu quả công tác hợp tác và chuyển giao công nghệ đào tạo trình độ đại học. (5) Chú

trọng công tác phát triển đảng viên, phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng trong

các trường đại học công lập ở Hà Nội. (6) Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến

đấu của các đảng bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công

tác đào tạo trình độ đại học. Cần lưu ý rằng, mỗi đảng bộ có đặc điểm và điều kiện

riêng, do đó không thể áp dụng rập khuôn, máy móc kinh nghiệm hay cách làm có sẵn

nào đó, việc lãnh đạo của các đảng bộ cần được xem xét trên tiêu chí cuối cùng là sự

phát triển bền vững của nhà trường và chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo đáp

ứng đến đâu nhu càu của nền kinh tế và xã hội, cần được coi chất lượng nguồn nhân

lực là thước đo cao nhất cho sự lãnh đạo của các đảng bộ nhà trường.

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2011), “Giáo dục- Chìa khóa cho phát

triển bền vững”, Tạp chí Khoa học chính trị, (5), tr.54-58.

2. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2013), “Những yêu cầu mới với đội ngũ báo

cáo viên trong tình hình hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và

Truyền thông , (5), tr. 58-60.

3. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2013), “Đẩy mạnh thực hành tiết kiệm,

chống lãng phí theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện

nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (209), tr.7-10.

4. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2013), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để

đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước ta”, Tạp chí Thông tin

khoa học chính trị- Hành chính, (6), tr. 50-55.

5. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2013), “Hồ Chí Minh về giáo dục và giáo

dục đại học”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (6), tr.42-43.

6. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2015), “Giáo dục đại học với việc đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí

Giáo dục & Xã hội, (5), tr. 27-29.

7. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2016), “Một số vấn đề về công tác đào tạo ở

Đảng bộ khối các trường đại học, cao đẳng Hà Nội hiện nay”, Tạp

chí Giáo dục & Xã hội, (11), tr. 244-246.

8. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2016), “Đảng bộ khối các trường đại học,

cao đẳng Hà Nội lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trong tình

hình hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (253).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A- TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Tạ Thị Kiều An và các tác giả (2004), Quản lý chất lượng trong các tổ chức, Nxb Thống kê, Hà Nội.

2. Hoàng Anh, Phan Ngọc Liên, Dương Xuân Ngọc (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại học hiện nay, Sách chuyên khảo, Nxb Chính trị quốc gia, HN.

3. Nguyễn Duy Bắc (2014) Quan điểm về phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực chất lượng cao qua văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, Nxb Lý luận chính trị.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo(2004), Chỉ thị số 25/2004/CT-BGD&ĐT về nhiệm vụ ngành giáo dục trong năm học 2004- 2005.

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo(2006), Tài liệu tập huấn Tự đánh giá, Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục.

6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quyết định số 45/2007/QĐ- BGDĐT ngày 15/8/2007 ban hành Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ.

7. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo(2009), Thông tư số 09/2009/TT-BGDĐT ngày 7/5/ 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân.

8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Đổi mới quản lý hệ thống giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội

9. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 37/2012/TT-BGDĐT ngày 30-10 -2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học.

10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Văn bản hợp nhất số 06/VBHN-BGDĐT ngày 04 -5 - 2014, Quyết định ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường Đại học.

11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Thông tư số 07/2015/TT-BGDĐT ngày

16 -4-2015 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của giáo dục đại học và quy trình xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ.

12. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), Thông tư số 04/2016/TT- BGDĐT ngày 14/3/2016 về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học.

13. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học, Thành phố Đà Nẵng.

14. Nguyễn Bá Cần (2009), Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội.

15. Nguyễn Hữu Châu (2008), Chất lượng giáo dục: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Nguyễn Đức Chính (2002), Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học, Đề tài khoa học cấp Nhà nước.

17. Phạm Đức Chính (2009), Vai trò quản lý của Nhà nước trong giáo dục đại học - góc nhìn từ lý thuyết kinh tế học hiện đại, Hội thảo khoa học 9-10/12/2009, Trường đại học giáo dục, ĐHQG Hà Nội.

18. Chính phủ (2005), Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02 - 11 - 2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam.

19. Chính phủ (2006), Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Lụât Giáo dục.

20. Chính phủ (2006), Nghị định 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

21. Chính phủ (2013), Nghị định số 42/201S/NĐ-CP ngày 09-5-2013 về tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục.

22. Chính phủ (2014), Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24 - 10 - 2014 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở

giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017 23. Mai Ngọc Cường (2008), Tự chủ tài chính ở các trường đại học công lập

Việt Nam, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 24. Nguyễn Đức Cường (2009), Hoàn thiện pháp luật về quản lý các trường

đại học, cao đẳng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

25. Lê Thị Kim Dung (2012), Hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học: 62.38.01.01, Đại học Quốc gia Hà Nội.

26. Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Khảo sát tình trạng việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp, 2011.

27. Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh (2004), Kỷ yếu Hội thảo các giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng giáo dục đại học, Thành phố Hồ Chí Minh.

28. Đại học Quốc gia Hà Nội, Chiến lược phát triển Đại học Quốc gia Hà Nội đến năm 2020 tầm nhìn 2030, 2014.

29. Nguyễn Tiến Đạt (2006), Kinh nghiệm và thành tựu phát triển giáo dục và đào tạo trên thế giới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

30. Nguyễn Tiến Đạt (2015), So sánh giáo dục Việt Nam với các nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia.

31. Trần Khánh Đức (2000), Xây dựng quy trình và thử nghiệm kiểm định các trường trung học kỹ thuật- nghề nghiệp, Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, Báo cáo khoa học tổng kết đề tài B98-52-29, Hà Nội, 2000.

32. Trần Khánh Đức (2002), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp, Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, Báo cáo khoa học tổng kết đề tài B2000-TĐ52-44, Hà Nội, 2002.

33. Trần Khánh Đức (2004), Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân lực theo ISO & TQM, Nxb Giáo dục.

34. Trần Khánh Đức (2005), “Kinh nghiệm và những xu hướng quốc tế về chất lượng, quản lý cải thiện chất lượng giáo dục đại học tại một số nước Châu Á”, Tạp chí Giáo dục (118), tr.44 - 46, 27.

35. Trần Khánh Đức (2007), “Kinh tế tri thức và phát triển chương trình đào tạo đại học hiện đại”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn (23).

36. Đảng bộ trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Hà Nội 2016.

37. Đảng bộ trường Đại học kinh tế quốc dân, Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Hà Nội 2016.

38. Đảng bộ trường Đại học Thủy lợi, Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Hà Nội 2015.

39. Đảng bộ trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Hà Nội 2015.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

43. Nguyễn Quang Giao (2009), “Đảm bảo chất lượng giáo dục và kinh nghiệm của một số trường đại học trên thế giới”, Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng (4), tr.125 - 129.

44. Nguyễn Quang Giao (2010), Khái niệm chất lượng giáo dục đại học với cách tiếp cận thông qua khách hàng, Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng, (3).

45. Ngô Văn Hà (2009) Đảng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục đại học ở miền Bắc (1954- 1975), Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

46. Nguyễn Thị Thu Hà (2012), Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

47. Nguyễn Thị Thanh Hà (2014), Đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 48. Phạm Minh Hạc (2002), Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội. 49. Bùi Văn Hải (2009), Tỉnh uỷ Bắc Giang lãnh đạo phát triển giáo dục phổ

thông trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

50. Đặng Xuân Hải, ISO - Một hướng tiếp cận trong việc bảo đảm chất lượng ở trường đại học.

51. Vũ Ngọc Hải, Đặng Bá Lãm, Trần Khánh Đức (2007), Giáo dục Việt Nam đổi mới và phát triển hiện đại hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

52. Vũ Ngọc Hải - Trần Khánh Đức (2003), Hệ thống giáo dục hiện đại trong những năm đầu thế kỷ XXI - Việt Nam và Thế giới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

53. Lê Văn Hảo (2012), “ Những xu thế chung của giáo dục đại học và các mô hình phát triển tài chính đại học”, Tạp chí giáo dục, (280).

54. Đỗ Thuý Hằng (2012), Đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục, Nxb Hà Nội.

55. Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo (2001), Từ điển giáo dục học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

56. Trần Thị Hoài (2009), Nghiên cứu đánh giá thẩm định chương trình giáo dục đại học, Luận án tiến sĩ Quản lý giáo dục. Đại học quốc gia Hà Nội

57. Cấn Thị Thanh Hương (2011), Nghiên cứu quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trong giáo dục đại học ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục, Đại học quốc gia Hà Nội

58. Duy Thị Hải Hường (2013), “ Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển giáo dục ở các tỉnh miền núi phía Bắc (1954- 1965)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (6), tr. 29 - 33

59. Đặng Bá Lãm (2006), Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XXI: Chiến lược phát triển giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

60. Đặng Bá Lãm (chủ biên) (2005), Quản lý nhà nước về giáo dục: Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

61. Liên hiệp các trường đại học Việt Nam (2002), Kỷ yếu hội thảo công tác quản lý đào tạo, tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 5-

6/4/2002. 62. Trần Thị Bích Liễu (2008), Nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Mĩ:

Những giải pháp mang tính hệ thống và định hướng thị trường, Nxb Đại học Sư phạm.

63. Phan Thanh Long (2010), “Bài học kinh nghiệm trong đánh giá chất lượng giáo dục đại học của Hoa Kỳ”, Tạp chí giáo dục, (238).

64. Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Nguyễn Hữu Châu (chủ biên) (2012), Giáo dục đại học Việt Nam, những vấn đề chất lượng và quản lý, Báo cáo thường niên giáo dục Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

65. Luật Giáo dục đại học 2012 (2014), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 66. Đoàn Duy Lục (chủ biên), Cù Đức Hoà, Nguyễn Đức Chỉnh (2004),

Giáo dục đại học Việt Nam, Nxb Giáo dục. 67. Lê Phước Minh (2004), Hoàn thiện chính sách tài chính cho giáo dục đại

học Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Đại học 68. Lê Xuân Nam (2005), “Vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các trường

đại học, cao đẳng ngoài công lập trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”, Tạp chí Lịch sử Đảng (3), tr. 31 – 37

69. Đỗ Ngọc Ninh (2007), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (1), tr.8-10.

70. Ngân hàng thế giới (2008), Việt Nam: giáo dục đại học và kỹ năng cho tăng trưởng”.

71. Nguyễn Phương Nga, Nguyễn Quý Thanh (đồng chủ biên- 2007), Giáo dục đại học: Một số thành tố chất lượng, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội

72. Phạm Thành Nghị (2000), Quản lý chất lượng giáo dục đại học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

73. Hồ Vũ Khuê Ngọc (2001), So sánh quá trình toàn cầu hóa giáo dục Đại học Việt Nam với các nước trong khu vực - Một số vấn đề cần suy ngẫm, Đề tài khoa học thuộc Bộ Giáo dục đào tạo, Hội thảo khoa học “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và cao đẳng Việt Nam

74. Phạm Công Nhất (2014), “Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế”, Tạp chí Lí luận chính trị, (10), tr. 21 - 25

75. Hoàng Phê (chủ biên) (2009), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

76. Nguyễn Thanh Sơn (2013), “Thực trạng về công tác lãnh đạo của Ðảng và quản lí nhà nước đối với các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập thuộc Ðảng ủy khối các trường đại học, cao đẳng Hà Nội“, Tạp chí giáo dục (316), tr. 17-19.

77. Nguyễn Văn Sơn (2001), Cơ cấu và chất lượng tri thức giáo dục đại học ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

78. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị quyết số 37- 2004/QH11 ngày 3/12/2004 về giáo dục.

79. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2013.

80. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Giáo dục đại học năm 2012 và văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

81. Tạ Ngọc Tấn (Chủ biên) (2012), Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân tài - một số kinh nghiệm của thế giới. Nxb Lý luận chính trị, HN.

82. Trịnh Ngọc Thạch (2012), Mô hình quản lý đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong giáo dục đại học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

83. Đỗ Đình Thái (2013), “Năng lực chất lượng- yếu tố hình thành văn hóa chất lượng trong trường đại học”, Tạp chí giáo dục (322), tr. 23 - 27

84. Phạm Xuân Thanh (2005), “Kiểm định chất lượng giáo dục đại học”, Tạp chí giáo dục (115).

85. Nguyễn Đình Thao (2008), “Về đảm bảo chất lượng giáo dục ở Việt Nam”, Tạp chí Quản lý Nhà nước (148).

86. Lâm Quang Thiệp (2005), “Giải quyết bài toán quan hệ giữa số lượng và

chất lượng của giáo dục đại học nước ta”, Tạp chí Giáo dục số (109),

tr.6-7,23.

87. TS Lê Thị Thu Thủy (2014), Nghiên cứu đề xuất nội dung hoàn thiện các

tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường đại học Việt Nam. Mã số:

B2012-8-12 (Bộ Giáo dục và Đào tạo)

88. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày 22

tháng 9 năm 2010 về việc ban hành Điều lệ trường đại học.

89. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27

tháng 7 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng

lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2006 - 2020.

90. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định 418/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4

năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ năm 2012 phê duyệt "Chiến

lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020”.

91. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6

năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ năm 2012 phê duyệt "Chiến

lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020”.

92. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg ngày 26

tháng 6 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh Quy

hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006 -

2020.

93. Trần Quốc Toản (2004), Đổi mới giáo dục đại học và hội nhập quốc tế,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

94. Lê Thanh Tùng (2006), “Tài chính với việc phát triển giáo dục đại học ở

Việt Nam”, Tạp chí Tài chính (4), tr.35-37.

95. Thái Duy Tuyên (2004), “Tìm hiểu vấn đề chất lượng giáo dục”, Tạp chí

phát triển giáo dục (4).

96. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), tập I, Hội đồng quốc gia chỉ đạo

biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.

97. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), tập I, Hội đồng quốc gia chỉ đạo

biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.

98. Từ điển giáo dục học (2001), Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.

99. Đặng Ứng Vận (2006), Phát triển giáo dục Việt Nam trong cơ chế thị

trường, Báo cáo tổng hợp kết quả đề tài NCKH do Văn phòng Hội

đồng quốc gia giáo dục đại học chủ trì.

100. Đặng Ứng Vận (2006), “Phát triển giáo dục đại học trong cơ chế thị

trường: Cơ sở lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Khoa học giáo dục (9),

tr.7-11.

101. Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục (2002), Chiến lược phát triển giáo

dục: kinh nghiệm của các quốc gia, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

102. Đỗ Công Vịnh (2001), Nghiên cứu các giải pháp quản lý chất lượng đào

tạo ở bậc đại học phù hợp với đổi mới giáo dục đại học hiện nay,

Viện Khoa học Giáo dục, Báo cáo tổng kết đề tài B 98-49-74, Hà

Nội.

103. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa - thông tin,

Hà Nội.

104. World Bank, B áo cáo nghiên cứu “Giáo dục đại học Việt Nam: Khủng

hoảng và sự ứng phó” năm 2008.

B - TÀI LIỆU NƯỚC NGOÀI 105. Alexander J Michaels (1973), Higher Education Correspondence Study in the

Soviet Union, 183p.

106. Bin Wu, John Morgan (2015), Chinese Higher Education Reform and Social

Justice, Routledge, 174p.

107. Bogue, E. and Saunders, R. (1992), The Evidence for Quality. San Francisco:

Jossey-Bass.

108. Brooks, R. L. (2005), Measuring University Quality, Review of Higher

Education, 29(1), pp. 1-22.

109. Brubacher, J.S, On the philosophy of higher education, San Francisco Jossey-

Bass.

110. Connie L Copeland (1997). Quality student assessment in higher education

111. Dan Wang; Dian Liu; Chun Lai (2012). Expansion of higher education and the

employment crisis: policy innovations in China, On the Horizon, p. 336-

344.

112. Darryl S.L. Jarvis (2014). Regulating higher education: Quality assurance and neo-

liberal managerialism in higher education - A critical introduction Policy and

Society, Volume 33, Issue 3, September 2014, Pages 155-166

113. David Andrew Turner, Quality in higher education, Sense Publishers

(September 23, 2011).

114. Ellis, R. (1993), Quality assurance for university teaching: Issues and

approaches. In Ellis, R. (Ed.). Quality Assurance for University Teaching,

London: Open University.

115. Frazer, Malcolm (1994), “Quality in Higher Education: An International

Perspective” in Diana Green, ed., What is quality in higher education?

London: Society for research into higher education, 1994, pp. 101-111.

116. Harvey va Green (1993), Quality in Education and Training, pp.44-50.

117. Hien Tran (2009). The Transformation of Higher Education in Vietnam After

Doimoi: A Story of "Dualism", St. John's University, 256p.

118. Gerard Postiglione, “Chinese Higher Education for the Twenty-First Century”

in Higher Education in Developing Countries, tr. 154.

119. Gornitzka A., Maassen P. (2000), Hybrid steering approaches with respect to

European HE, CHEPS, PERGAMON.

120. Linda M Wysong (2000). Leadership behaviors and effectiveness in quality

improvements at selected institutions of higher education Ph. D.

University of Nebraska, Lincoln.

121. Oxford advanced learner’s dictionary, 7th edition, Oxford university press

122. Qiang Zha (2015), The Chinese Model of Development and the Higher

Education Policy, Volume 44 of the series Higher Education Dynamics pp

335-351.

123. Ronald Barnett (1990), The Idea of Higher Education (Buckingham: Open

University Press and SRHE, 1990)

124. Sallis Edward (1993), Total quality Management in Education. Kogan

PageEducational Management Series, Philadelphia - London

125. Southeast Asian Ministersof Education Organization, (2003), Framework for

Regional Quality Assurance Cooperation in Higher Education

126. Tan J. (2006), “Singapore”, HE in South-East Asia, UNESCO, Bangkok,

pp.159-186.

127. Taylor J., Miroiu A. (2002), Policy-Making, Strategic Planning, and

Management of HE, Papers on HE, UNESCO, Bucharest.

128. Ulrich Teichler (2015). Higher Education Research International

Encyclopedia of the Social & Behavioral Sciences (Second Edition), 2015,

Pages 862-869.

129. The task force on HE and society (2000), HE in developing countries: Peril

and Promise, WB, Washington D.C.

130. Ricardo S.Morse, Terry F.Buss, C.Morgan Kinghorn (2007), Transforming

public leadership for the 21st century - Transformational trends in

governance and democracy ., Nxb. M.E. Sharpe, 2007.

131. Serbrenia J. Sims (1995). Total Quality Management in Higher Education: Is it Working? why Or why Not? Greenwood Publishing Group, 201p.

132. Stephen J. Rosow, Thomas Kriger (2012). Transforming Higher Education: Economy, Democracy, and the University, Lexington Books, 264p.

133. Svein Kyvik (2008), The Dynamics of Change in Higher Education: Expansion and Contraction in an Organisational Field, Springer Science & Business Media, 226p.

134. Pham Xuan Thanh (2000): The quality of postgraduate training in Vietnam: Definitions, criteria and measurement scales.

135. Ulrich Teichler (2015). Higher Education Research, International Encyclopedia of the Social & Behavioral Sciences (Second Edition), 2015, Pages 862-869.

136. Van Vught, F. (1991). Higher education quality assessment in Europe: The next step. Paper presented at the 39th bi-annual conference on ‘the Standing Conference of Rectors, Presidents and Vice-chancellors of the Europe Universities’ on October 17-18th in Utrecht, the Netherlands.

137. Zaneta Simanaviciene, Vilda Giziene, Edmundas Jasinskas, Arturas Simanavicius (2015). Assessment of Investment in Higher Education: State Approach, Procedia - Social and Behavioral Sciences, Volume 191, 2 June 2015, Pages 336-341

138. Warren Piper, D. (1993), Quality Management in niversities,Canberra: AGPS 139. Wen - Hsing Yeh (1984), The alienated academy higher education in

Republican China, Ph.d. University of California, Berkeley. 140. World Economic Forum, Global competitiveness report 141. James M.Kouzes, Barry Z.Posner, The leadership challenge. Nxb. Jossey Bass,

2005 142. Jens Jungblut (2012), Party Politics in Higher Education Policy – Partisan

Preferences, Coalition Positions and Higher Education Policy in Western Europe, Faculty of Educational Sciences, Department of Education

143. John R. Dew, Molly McGowan Nearing (2004). Continuous Quality Improvement in Higher Education, Greenwood Publishing Group, 194p.

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

DANH SÁCH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, HỌC VIỆN CÔNG LẬP

TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

TT Tên chính thức Chuyên ngành Năm

thành lập Địa bàn

1 Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Kỹ thuật 1956 Quận Hai Bà Trưng

2 Trường Đại học Công đoàn Đa ngành quản

trị - kinh tế - dịch vụ

15/5/1946 Quận Đống Đa

3 Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải

Giao thông vận tải 29/11/1945 Quận Thanh Xuân

4 Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Đa ngành Kỹ thuật 10/8/1898 Quận Bắc Từ

Liêm

5 Trường Đại học Dược Hà Nội Dược 1902 Quận Hoàn Kiếm

6 Trường Đại học Điện lực Kỹ thuật điện 1898 Quận Bắc Từ Liêm

7 Trường Đại học Giao thông vận tải Giao thông 15/11/1945 Quận Đống Đa

8 Trường Đại học Hà Nội Đa ngành 1959 Quận Thanh Xuân

9 Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội Kiến trúc 17/9/1969 Quận Thanh Xuân

10 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội Kiểm sát viên 2013 Quận Hà Đông

11 Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp Kinh tế - Kỹ thuật 1956 Quận Hai Bà

Trưng

12 Trường Đại học Kinh tế quốc dân Kinh tế 25/1/1956 Quận Hai Bà Trưng

13 Trường Đại học Lao động – Xã hội Kinh tế, lao động, xã hội 2005 Quận Cầu Giấy

14 Trường Đại học Lâm nghiệp Đa ngành 1964 Huyện Chương Mỹ

15 Trường Đại học Luật Hà Nội Pháp luật 1979 Quận Đống Đa

16 Trường Đại học M ỏ địa chất Đa ngành 1966 Quận Bắc Từ Liêm

17 Trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp Mỹ thuật 1949 Quận Đống Đa

18 Trường Đại học M ỹ thuật Việt Nam Mỹ thuật 27/10/1924 Quận Hai Bà

Trưng

19 Trường Đại học Ngoại thương Kinh tế, thương mại 15/10/1960 Quận Đống Đa

20 Trường Đại học Nội vụ Hà Nội Nội vụ 2011 Quận Tây Hồ

21 Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội Nghệ thuật 17/12/1980 Quận Cầu Giấy

22 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Sư phạm 11/10/1951 Quận Cầu Giấy

23 Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật trung ương Nghệ thuật 1970 Quận Thanh Xuân

24 Trường Đại học Sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội Thể dục thể thao 8/1961 Huyện Chương

Mỹ

25 Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường

Tài nguyên, môi trường 23/3/2010 Quận Bắc Từ

Liêm

26 Trường Đại học Thương mại Thương mại 1960 Quận Cầu Giấy

27 Trường Đại học Thủy lợi Thủy lợi 1959 Quận Đống Đa

28 Trường Đại học Văn hóa Hà Nội Văn hóa 26/3/1959 Quận Đống Đa

29 Trường Đại học Xây dựng Hà Nội Xây dựng 1966 Quận Hai Bà Trưng

30 Trường Đại học Y Hà Nội Y khoa 1902 Quận Đống Đa

31 Trường Đại học Răng Hàm Mặt Y khoa răng hàm mặt 15/10/2002 Quận Hoàn Kiếm

32 Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Đa ngành 6/1/1959

(lên đại học 2014)

Quận Cầu Giấy

33 Trường Đại học Y tế Công cộng Y khoa 26/4/2001

Quận Ba Đình

Cơ sở mới hoạt động từ 2016: Quận Bắc Từ

Liêm

PHỤ LỤC 2: THỐNG KÊ SỐ HỘI NGHỊ ĐÃ TỔ CHỨC GIAI ĐOẠN 2010 - 2015

NĂM 2010 NĂM 2011 NĂM 2012 NĂM 2013 NĂM 2014 NĂM 2015 TỔNG

NHIỆM KỲ

HỘI NGHỊ Số

lớp

Lượt

người

tham dự

Số

lớp

Lượt

người

tham

dự

Số

lớp

Lượt

người

tham dự

Số lớp

Lượt

người

tham dự

Số lớp

Lượt

người

tham dự

Số lớp

Lượt

người

tham dự

Số

lớp

Lượt

người

tham dự

Học tập quán triệt

Nghị quyết TW 0 0 132 21.538 154 22.542 148 23.194 162 24.176 84 14.744 680 106.194

Học tập chuyên đề tư

tưởng, tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh

0 0 50 12.159 53 12.565 61 13.126 61 13.155 55 12.585 280 63.590

Nghe tình hình thời sự

trong nước, quốc tế 24 5.648 55 13.825 50 13.218 60 15.457 55 15.067 42 8.337 286 71.552

(Nguồn tổng hợp từ Đảng ủy Khối và thống kê của tác giả)

PHỤ LỤC 3: THỐNG KÊ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIAI ĐOẠN 2010 - 2015

STT NỘI DUNG NĂM 2010 NĂM 2011 NĂM 2012 NĂM 2013 NĂM 2014 NĂM 2015 1 Đề tài nghiên cứu cấp Nhà

nước 45 47 104 179 130 155

2 Đề tài nghiên cứu cấp bộ, tương đương và cấp trường

1.274 1.325 1.265 1.389 1.115 1.318

3 Bài báo, công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành trong nước

1.379 1.394 1.954 1.982 1.229 1.894

4 Bài báo, công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành quốc tế

324 340 345 379 415 514

5 Dự án hợp tác, đào tạo liên kết với nước ngoài

12 22 31 37 57 47

6 Công trình hợp tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ với các trường Đại học và tổ chức quốc tế

12 21 34 31 47 20

7 Hội thảo khoa học quốc tế 5 14 28 34 33 50 8 Hội thảo liên kết giữa các

trường 15 25 43 54 56 142

9 Hội thảo trao đổi giảng viên, sinh viên, học tập nghiên cứu với đối tác nước ngoài

15 34 54 36 46 84

(Nguồn tổng hợp từ Báo cáo của các trường)

PHỤ LỤC 4: PHÂN LOẠI TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG CÁCTRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở HÀ NỘI

NĂM 2010 NĂM 2011 NĂM 2012 NĂM 2013 NĂM 2014 NĂM 2015 CHỈ TIÊU Tổng

số Tỷ lệ Tổng

số Tỷ lệ Tổng

số Tỷ lệ Tổng

số Tỷ lệ Tổng

số Tỷ lệ Tổng

số Tỷ lệ

A. Số tổ chức cơ sở Đảng có đến cuối năm

30 31 31 32 33 33

1 - Số TCCSĐ được đánh giá chất lượng:

30 30 30 30 31 33

Kết quả đánh giá: + Trong sạch, vững mạnh 20 66,67 22 73,33 22 73,34 20 64,52 23 69,70 Trong đó: Trong sạch, vững mạnh tiêu biểu

15 75,00 12 54,54 10 45,45 12 60,00 12 52,17

+ Hoàn thành tốt nhiệm vụ 9 30,00 7 23,33 6 20,00 9 29,02 8 24,24 + Hoàn thành nhiệm vụ 1 3,33 1 3,33 1 3.33 1 3,23 1 3,03 + Yếu kém 1 3,33 1 3,23 1 3,03 2 - Số TCCSĐ chưa được đánh giá chất lượng do mới thành lập

0

1

0

1

2

0

B. Số chi bộ, đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng bộ cơ sở

485

520

525

527

534 535

Kết quả đánh giá: + Trong sạch, vững mạnh 335 69,07 385 74,03 397 75,62 401 76,09 408 76,40 450 84,11 Trong đó: Trong sạch, vững mạnh tiêu biểu

165 49,25 186 48,31 211 53,14 225 56,10 211 51,72 285 63,33

+ Hoàn thành tốt nhiệm vụ 130 26,81 115 22,11 102 19,43 112 21,25 115 21,54 62 11,59 + Hoàn thành nhiệm vụ 20 4,12 20 3,84 26 4,95 14 2,66 11 2,06 23 4,30 + Yếu kém

(Nguồn tổng hợp từ Đảng ủy Khối và thống kê của tác giả)

PHỤ LỤC 5: CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP

Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015Tính từ năm

2010 đến năm 2015

I - Mở lớp bồi dưỡng lý luận chính trị 1. Lớp bồi dưỡng nhận thức Đảng + Số lớp mở 28 37 40 54 50 69 278 + Số lượng học viên 5.485 6.735 7.248 9.102 8.853 11.482 48.905 2 - Lớp bồi dưỡng Đảng viên mới + Số lớp mở 30 35 39 44 40 53 241 + Số lượng học viên 1.832 2.114 2.248 2.575 2.458 3.232 20.616 II - Đảng viên mới kết nạp 245 841 1.065 1.249 1.368 2.594 14.459 + Sinh viên, học sinh 140 507 657 880 962 1.587 4.733 + Cán bộ, giáo viên 105 334 408 369 406 1.007 2.629 III – Phân tích Đảng viên mới kết nạp 1. Tuổi đời: + Từ 18 - 30 tuổi 110 495 505 609 768 1.273 3.760 + Từ 31 - 40 tuổi 96 252 327 435 434 1.252 2.796 + Từ 41 - 50 tuổi 25 68 152 124 112 50 531 + Từ 51 tuổi trở lên 14 26 81 81 54 19 275 2. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: + CN kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ 1 22 9 12 12 0 56 + Trung học chuyên nghiệp 1 16 15 25 23 5 141 + Cao đẳng 15 145 139 133 143 103 678 + Đại học 175 428 535 637 749 1.100 3.624 + Thạc sỹ 45 218 339 389 385 1.352 2.728 + Tiến sỹ 8 12 25 53 56 34 188

(Nguồn tổng hợp từ Đảng ủy Khối và thống kê của tác giả)

PHỤ LỤC 6: PHÂN TÍCH CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP

CHỈ TIÊU Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 1. Đảng viên trong danh sách 6.252 6.828 7.300 8.261 8.873 9.622 II. Phân tích đội ngũ 1. Tuổi đời: + 18 – 30 tuổi 2.389 38,21 2.518 36,88 2.425 33,22 2.015 24,39 2.187 24,65 3.472 36,08 + 31 – 40 tuổi 2.047 32,76 2.475 36,25 2.358 32,30 2.636 31,91 3.521 39,68 2.748 28,56 + 41 – 50 tuổi 1.401 22,41 1.264 18,51 1.223 16,76 2.010 24,33 1.872 21,10 1.736 18,04 + 51- 60 tuổi 352 5,63 486 7,12 1.169 16,01 1.382 16,73 1.087 12,25 1.496 15,55 + 61 tuổi trở lên 63 1,01 85 1,24 125 1,71 218 2,64 206 2,32 170 1,77 2. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ + CN kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ

154 2,46 150 2,19 132 1,81 152 1,85 145 1,63 105 1,09

+ Trung học chuyên nghiệp 143 2,29 145 2,12 125 1,71 157 1,90 167 1,88 176 1,83 + Cao đẳng 676 10,81 650 9,52 374 5,12 304 3,68 326 3,67 308 3,20 + Đại học 2.807 44,90 2.247 32,91 2.848 39,01 4.135 50,05 3.749 42,26 2.369 24,62 + Thạc sĩ 1.456 23,29 2.434 35,65 2.635 36,10 2.168 26,24 3.205 36,12 5.327 55,36 + Tiến sỹ 1.016 16,25 1.202 17,61 1.186 16,25 1.345 16,28 1.281 14,44 1.337 13,90 3. Học hàm + Phó giáo sư 350 425 423 453 524 685 + Giáo sư 105 123 95 101 106 132 4. Trình độ lý luận chính trị + Sơ cấp 3090 3.436 3.193 3.469 3.176 3.131 + Trung cấp 2331 527 3.269 3.875 3.746 3.142 + Cao cấp, cử nhân 831 865 838 890 871 832

(Nguồn tổng hợp từ Đảng ủy Khối và thống kê của tác giả)

PHỤ LỤC 7: CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT GIAI ĐOẠN 2011 - 2015

Nội dung Đơn vị tính

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

Tổng số

1. Kiểm tra Đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm - Tổng số Đảng viên được kiểm tra ĐV 3 7 15 4 5 34 - Số Đảng viên qua kiểm tra có vi phạm ĐV 1 3 6 1 1 12

- Số Đảng viên bị xử lý kỷ luật sau kiểm tra ĐV 1 3 6 1 1 12 2. Kiểm tra tổ chức Đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật

- Đảng ủy Khối TCĐ 28 76 45 35 33 217 - UBKT Đảng ủy Khối TCĐ 15 8 12 12 16 63

- Cấp cơ sở TCĐ 358 389 415 547 435 2.144 3. Giám sát chuyên đề và giám sát thường xuyên tổ chức Đảng và Đảng viên GSCĐ với tổ chức Đảng TCĐ 125 176 218 123 216 858 GSCĐ với Đảng viên ĐV 130 294 316 368 285 1.393 GSTX với tổ chức Đảng TCĐ 598 684 1.145 1.434 1.124 4.985 GSTX với Đảng viên ĐV 2.734 3.545 3.864 3.778 2580 16.401 4. Thi hành kỷ luật Đảng

- Đối với tổ chức Đảng TCĐ 0 1 0 0 0 1 - Đối với Đảng viên ĐV 13 25 19 11 10 78

5. Giải quyết tố cáo - ĐUK và UBKT ĐUK 0 0 1 2 1 4 - Cấp cơ sở 6 11 12 11 8 48

6. Giải quyết khiếu nại kỷ luật Đảng Số đơn thư khiếu nại được giải quyết Đơn/đơn 15 56 34 47 55 207 Kết quả giải quyết

+ Giữ nguyên hình thức kỷ luật ĐV 15 51 32 46 45 189 + Tăng hình thức kỷ luật ĐV 0 0 0 1 0 1 + Giảm hình thức kỷ luật ĐV 0 5 2 0 0 7

+ Xóa hình thức kỷ luật ĐV 0 0 1 0 1 2 (Nguồn tổng hợp từ Đảng ủy Khối và thống kê của tác giả)

1

PHỤ LỤC 8 PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

(Đối với đảng viên là cán bộ quản lý cấp khoa, phòng, ban thuộc các trường đại học công lập)

Đồng chí thân mến! Để góp phần nghiên cứu các giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của các đảng bộ trường đại học công lập ở Thành phố Hà Nội nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại học giai đoạn hiện nay, chúng tôi muốn xin ý kiến đồng chí về một số vấn đề dưới đây. Mỗi vấn đề được chuẩn bị dưới dạng câu hỏi và các phương án trả lời. Đồng ý với phương án nào đồng chí hãy đánh dấu chéo (x) vào ô vuông ( ) bên phải; với câu hỏi khác, đồng chí trả lời theo nội dung câu hỏi. Đồng chí không cần phải ghi tên và đơn vị của mình vào phiếu này. Xin cảm ơn đồng chí!

Đồng chí cho biết cảm nhận của mình trong chấp hành nghị quyết lãnh đạo của tổ chức đảng nơi đồng chí sinh hoạt? Rất phấn khởi, tin tưởng nghị quyết và tự nguyện chấp hành 1Cảm thấy bình thường, vì đó là nhiệm vụ 2Cảm thấy bị áp đặt, không thật thoải mái, nhưng vẫn chấp hành 3Cảm thấy không muốn chấp hành nghị quyết 4

1

Khó trả lời 5Đồng chí đánh giá như thế nào về chất lượng nghị quyết lãnh đạo của tổ chức đảng nơi đồng chí sinh hoạt? Xác định đúng và trúng nhiệm vụ chính trị của đơn vị trong thời điểm cụ thể, có tính thuyết phục cao

1

Còn chung chung, hình thức, chưa sát hợp tình hình thực tiễn của đơn vị

2

Viển vông, xa rời thực tiễn 3

2

Không quan tâm 4 3. Xin đồng chí đánh giá về mức độ ảnh hưởng của đảng bộ trường đại học nơi đồng chí công tác đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học hiện nay?

Mức độ đánh giá Nội dung đánh giá Ảnh

hưởng lớn

Ít ảnh hưởng

Không ảnh

hưởng

Khó trả lời

1. Mức độ ảnh hưởng đến việc lãnh đạo xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ, công tác chuyên môn của nhà trường

2

2. Mức độ ảnh hưởng đến việc lãnh đạo cán bộ, giảng viên, sinh viên thực hiện giám sát hoạt động của nhà trường theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

3. Mức độ ảnh hưởng đến việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở đơn vị, phát huy quyền làm chủ của cán bộ, giảng viên, sinh viên, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác trong công tác đào tạo.

4. Mức độ ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa đơn vị với cấp trên, đơn vị bạn và địa phương

5. Ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong đơn vị. Đoàn kết, bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ tài sản của Nhà nước nói chung và của nhà trường nói riêng…

6. Ảnh hưởng đến xây dựng đảng bộ nhà trường trong sạch, vững mạnh, đảng bộ vững mạnh toàn diện

Theo đồng chí, các yếu tố chủ yếu nào dưới đây của đảng bộ trường đại học nơi đồng chí công tác trực tiếp quyết định việc lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo? - Chất lượng của cấp uỷ, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên 1- Chất lượng của đối tượng lãnh đạo 2- Nguyên tắc, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với các đơn vị hành chính, sự nghiệp

3

- Đặc điểm tổ chức, hoạt động, yêu cầu nhiệm vụ của đảng bộ nhà trường 4- Sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng uỷ cấp trên 5- Sự phối hợp giữa các nhà trường với địa phương 6

4

- Khó trả lời 7Xin đồng chí cho biết ý kiến về sự cần thiết nâng cao chất lượng đào tạo của trường đại học nơi đồng chí công tác giai đoạn hiện nay? - Cấp bách 1- Cần thiết, nhưng không cấp bách 2- Bình thường, vì đó nhiệm vụ thường xuyên 3- Không cần thiết vì đó chỉ là một trong số các nhiệm vụ chính trị của nhà trường

4

5

- Khó trả lời 56 Theo đồng chí, việc tăng cường sự lãnh đạo của đảng bộ trường đại học đồng

3

chí đang công tác đối với nâng cao chất lượng đào tạo đại học thể hiện ở nội dung nào? - Tiến hành thường xuyên liên tục trong hoạt động lãnh đạo và công tác xây dựng Đảng của đảng bộ nhà trường

1

- Nâng cao toàn diện sự lãnh đạo của đảng bộ nhà trường trên các nhiệm vụ, các mặt công tác, các lĩnh vực theo phạm vi chức năng, nội dung, quyền hạn của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng.

2

- Chấp hành đúng nguyên tắc, Điều lệ Đảng, cơ chế lãnh đạo của Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, luật pháp Nhà nước.

3

- Phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, của các tổ chức trong lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo của đảng bộ.

4

- Khó trả lời 5Theo đồng chí, để tăng cường sự lãnh đạo của đảng bộ trường đại học đồng chí đang công tác đối với nâng cao chất lượng đào tạo đại học cần tập trung vào những nội dung nào dưới đây? - Nâng cao chất lượng sinh hoạt (sinh hoạt lãnh đạo, sinh hoạt học tập, sinh hoạt tự phê bình và phê bình) của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp thuộc đảng bộ nhà trường

1

- Nâng cao chất lượng chấp hành nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt đảng, quy chế, quy định, chế độ, hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng.

2

- Nâng cao chất lượng quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết của cấp trên và cấp mình sát với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị.

3

- Nâng cao chất lượng kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, kịp thời giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.

4

7

- Nâng cao chất lượng đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ, đảng viên, đặc biệt đội ngũ cán bộ chủ trì về đảng và chính quyền các cấp trong nhà trường.

5

Theo đồng chí sự lãnh đạo của đảng bộ trường đại học đồng chí đang công tác với việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học có những ưu điểm nào dưới đây? - Đã lãnh đạo nâng cao chất lượng cụ thể hóa chiến lược và chính sách phát triển giáo dục đại học của Đảng và Nhà nước thành mục tiêu, chiến lược và sứ mệnh đào tạo của nhà trường

1

- Đã lãnh đạo, định hướng nâng cao chất lượng nội dung, chương trình đào tạo, phương thức đào tạo

2

- Đã lãnh đạo nâng cao chất lượng công tác tổ chức - cán bộ; xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học có chất lượng cao

3

8

- Đã lãnh đạo nâng cao chất lượng công tác phối hợp giữa các tổ chức trong nhà trường; công tác phối hợp, chuyển giao công nghệ đào tạo với các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước.

4

4

- Khó trả lời 6 Theo đồng chí, những ưu điểm trên bắt nguồn từ những nguyên nhân nào dưới đây? - Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện để đảng bộ trường tiếp thu, vận dụng vào lãnh đạo công tác đào tạo.

1

- Trường trong mấy năm qua đã phát triển khá vững mạnh và góp phần tích cực vào hiệu quả lãnh đạo của đảng bộ đối với công tác đào tạo.

2

- Sự lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi của cấp uỷ, các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc, các đơn vị, khoa phòng, các đoàn thể trong trường và chính quyền trên địa bàn thành phố đối với quá trình lãnh đạo công tác đào tạo của đảng bộ trường.

3

- Quá trình hội nhập với các trào lưu đổi mới mạnh mẽ trong giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu, tạo cơ hội thuận lợi cho trường tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục hiện đại

4

9

- Nguyên nhân khác (ghi cụ thể):

6

Theo đồng chí sự lãnh đạo của đảng bộ trường đại học đồng chí đang công tác đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học có những hạn chế nào dưới đây? - Cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt việc quán triệt, cụ thể hóa quan điểm, nghị quyết của Đảng, của cấp ủy cấp trên, nghị quyết lãnh đạo còn chung chung, chưa thật sát với đặc điểm, tính chất, nhiệm vụ của nhà trường.

1

- Đảng bộ trường còn lúng túng trong việc xác định xu hướng đào tạo của trường

2

- Kết quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị trung tâm của nhà trường chưa cao.

3

- Kết quả xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện có đơn vị chưa thật vững chắc, Chất lượng hoạt động của tổ chức chính trị xã hội còn hạn chế.

4

- Công tác xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở đảng bộ trường còn hạn chế nhất định, chưa đáp ứng tốt yêu cầu, mục tiêu xác định

5

10

- Khó trả lời 6Theo đồng chí, những hạn chế trên bắt nguồn từ những nguyên nhân nào dưới đây? - Cấp uỷ đảng, nhà trường chưa nhận thức đầy đủ về chủ trương, đường lối của Đảng về giáo dục, đào tạo.

1

- Tổ chức bộ máy, cán bộ, giảng viên và chất lượng hoạt động của các đơn vị, phòng ban tham mưu ở trường chưa đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng công tác đào tạo.

2

11

- Đảng ủy chưa động viên và phát huy mạnh mẽ vai trò và trách nhiệm 3

5

của các tổ chức đoàn thể tham gia vào quá trình nâng cao chất lượng công tác đào tạo của nhà trường bằng những giải pháp đem lại hiệu quả cao. - Thách thức - yêu cầu ngày càng cao về chất lượng đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

4

- Nguyên nhân khác (ghi cụ thể):

7

Để tăng cường sự lãnh đạo của đảng bộ trường đại học đồng chí đang công tác đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học giai đoạn hiện nay, theo đồng chí cần thực hiện tốt những giải pháp nào dưới đây? - Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, trước hết là ban thường vụ, thường trực đảng ủy, cán bộ chủ chốt về vai trò lãnh đạo của đảng bộ trường đối với việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo đại học - Lãnh đạo tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, giảng viên trường - Đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức bộ máy và mối quan hệ công tác trong trường đại học - Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác hợp tác và chuyển giao công nghệ đào tạo đại học - Chú trọng công tác phát triển đảng viên, phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng trong trường đại học

12

- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với công tác đào tạo đại học

Xin đồng chí cho biết đôi nét về bản thân * Loại cán bộ Cấp ủy 1; Tham gia giảng dạy 3; * Trình độ Cử nhân 1; Thạc sĩ 2 ; Tiến sĩ 3; Phó Giáo sư 4 Giáo sư 5; * Thâm niên công tác tại trường Dưới 10 năm 1; Từ 10-15 năm 2; Từ 16-20 năm 3; Từ 21- 25 năm 4; Trên 25 năm 5

Một lần nữa xin chân thành cảm ơn đồng chí!

6

PHỤC LỤC 9

TỔNG HỢP KẾT QUẢ TRƯNG CẦU Ý KIẾN

Tác giả luận án đã phát 236 phiếu điều tra cho đảng viên là cán bộ quản lý cấp khoa, phòng, ban thuộc các trường đại học công lập sau:

TT Tên trường Số phiếu phát ra

Số phiếu thu về

Số phiếu hợp lệ

1 Đại học Bách khoa Hà Nội 116 109 107 2 Đại học Văn hóa 58 58 57 3 Đại học Công nghiệp Hà Nội 62 61 60

Tổng 236 228 224 Trong số 224 người trả lời, có 172 người tham gia cấp ủy (chiếm 76,8%), 181 người có tham gia công tác giảng dạy (chiếm 80,8%). Trình độ thạc sĩ có 26 người (chiếm 11,6%); tiến sĩ 198 người (88,4%). Có chức danh Phó Giáo sư: 76 người (34%), Giáo sư: 6 (0,26%). Thâm niên nghề nghiệp Dưới: 10 năm : 5 người; Từ 10-15 năm 74 người; Từ 16-20 năm: 32 người; Từ 21- 25 năm: 105 người; Trên 25 năm: 8 người

Một lần nữa xin chân thành cảm ơn đồng chí!

Kết quả xử lý phiếu như sau: Ý kiến về việc chấp hành nghị quyết lãnh đạo của tổ chức đảng nơi đồng chí sinh hoạt: Rất phấn khởi, tin tưởng nghị quyết và tự nguyện chấp hành 71=31,7% Cảm thấy bình thường, vì đó là nhiệm vụ 98=43,8% Cảm thấy bị áp đặt, không thật thoải mái, nhưng vẫn chấp hành 22=9,8% Cảm thấy không muốn chấp hành nghị quyết 0

1

Khó trả lời 33=14,7% Đánh giá về chất lượng nghị quyết lãnh đạo của tổ chức đảng nơi đồng chí sinh hoạt: Xác định đúng và trúng nhiệm vụ chính trị của đơn vị trong thời điểm cụ thể, có tính thuyết phục cao

153= 68,30%

2

Còn chung chung, hình thức, chưa sát hợp tình hình thực tiễn 55= 24,55%

7

của đơn vị Viển vông, xa rời thực tiễn 0 Không quan tâm 16=7,14%

3. Đánh giá về mức độ ảnh hưởng của đảng bộ trường đại học nơi đồng chí công tác đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học hiện nay:

Mức độ đánh giá Nội dung đánh giá

Ảnh hưởng lớn Ít ảnh hưởngKhông

ảnh hưởng Khó trả lời

1. Mức độ ảnh hưởng đến việc lãnh đạo xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ, công tác chuyên môn của nhà trường

123 = 54,91% 77 = 34,38% 2 = 0,89% 22 = 9,82%

2. Mức độ ảnh hưởng đến việc lãnh đạo cán bộ, giảng viên, sinh viên thực hiện giám sát hoạt động của nhà trường theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

32 = 14,29% 154 =

68,75% 5 = 2,23% 33 = 14,73%

3. Mức độ ảnh hưởng đến việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở đơn vị, phát huy quyền làm chủ của cán bộ, giảng viên, sinh viên, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác trong công tác đào tạo.

121 = 54,02% 64 = 28,57% 12= 5,36% 27 = 12,05%

4. Mức độ ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa đơn vị với cấp trên, đơn vị bạn và địa phương

15 187 11 11

5. Ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong đơn vị. Đoàn kết, bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ tài sản của

28 = 12,50% 97 = 43,30% 81 = 36,16% 18 = 8,04%

8

Nhà nước nói chung và của nhà trường nói riêng… 6. Ảnh hưởng đến xây dựng đảng bộ nhà trường trong sạch, vững mạnh, đảng bộ vững mạnh toàn diện

201 = 89,73% 23 = 10,27% 0 0

Các yếu tố trực tiếp quyết định việc lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo của đảng bộ trường đại học nơi đồng chí công tác: - Chất lượng của cấp uỷ, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên

43= 19,19%

- Chất lượng của đối tượng lãnh đạo 38 = 16,96% - Nguyên tắc, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với các đơn vị hành chính, sự nghiệp

15 = 6,96%

- Đặc điểm tổ chức, hoạt động, yêu cầu nhiệm vụ của đảng bộ nhà trường

47 = 20,98%

- Sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng uỷ cấp trên 56 = 25% - Sự phối hợp giữa các nhà trường với địa phương 15 = 6,96%

4

- Khó trả lời 10 = 4,46% Ý kiến về sự cần thiết nâng cao chất lượng đào tạo của trường đại học nơi đồng chí công tác giai đoạn hiện nay: - Cấp bách 84= 37,50% - Cần thiết, nhưng không cấp bách 56 = 25% - Bình thường, vì đó nhiệm vụ thường xuyên 68 = 30,36% - Không cần thiết vì đó chỉ là một trong số các nhiệm vụ chính trị của nhà trường

0

5

- Khó trả lời 16 = 7,14% Về việc tăng cường sự lãnh đạo của đảng bộ trường đại học đồng chí đang công tác đối với nâng cao chất lượng đào tạo đại học thể hiện ở nội dung: - Tiến hành thường xuyên liên tục trong hoạt động lãnh đạo và công tác xây dựng Đảng của đảng bộ nhà trường

75 = 33,48%

- Nâng cao toàn diện sự lãnh đạo của đảng bộ nhà trường trên các nhiệm vụ, các mặt công tác, các lĩnh vực theo phạm vi chức năng, nội dung, quyền hạn của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng.

45 = 20,09%

6

- Chấp hành đúng nguyên tắc, Điều lệ Đảng, cơ chế lãnh đạo của Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, luật pháp Nhà nước.

42 = 18,75%

9

- Phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, của các tổ chức trong lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo của đảng bộ.

57 = 25,44%

- Khó trả lời 5 = 2,23% Để tăng cường sự lãnh đạo của đảng bộ trường đại học đồng chí đang công tác đối với nâng cao chất lượng đào tạo đại học cần tập trung vào những nội dung: - Nâng cao chất lượng sinh hoạt (sinh hoạt lãnh đạo, sinh hoạt học tập, sinh hoạt tự phê bình và phê bình) của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp thuộc đảng bộ nhà trường

46 =20,54%

- Nâng cao chất lượng chấp hành nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt đảng, quy chế, quy định, chế độ, hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng.

44 = 19,64%

- Nâng cao chất lượng quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết của cấp trên và cấp mình sát với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị.

52 = 23,21%

- Nâng cao chất lượng kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, kịp thời giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.

47 = 20,98%

7

- Nâng cao chất lượng đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ, đảng viên, đặc biệt đội ngũ cán bộ chủ trì về đảng và chính quyền các cấp trong nhà trường.

35 = 15,63%

Về sự lãnh đạo của đảng bộ trường đại học nơi đồng chí đang công tác với việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học có những ưu điểm: - Đã lãnh đạo nâng cao chất lượng cụ thể hóa chiến lược và chính sách phát triển giáo dục đại học của Đảng và Nhà nước thành mục tiêu, chiến lược và sứ mệnh đào tạo của nhà trường

43 = 19,19%

- Đã lãnh đạo, định hướng nâng cao chất lượng nội dung, chương trình đào tạo, phương thức đào tạo

65 = 29,02%

- Đã lãnh đạo nâng cao chất lượng công tác tổ chức - cán bộ; xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học có chất lượng cao

58 = 25,89%

- Đã lãnh đạo nâng cao chất lượng công tác phối hợp giữa các tổ chức trong nhà trường; công tác phối hợp, chuyển giao công nghệ đào tạo với các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước.

52 = 23,21%

8

- Khó trả lời 6 = 2,68% 9 Những ưu điểm trên bắt nguồn từ những nguyên nhân:

10

- Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện để đảng bộ trường tiếp thu, vận dụng vào lãnh đạo công tác đào tạo.

45 = 20,09%

- Trường trong mấy năm qua đã phát triển khá vững mạnh và góp phần tích cực vào hiệu quả lãnh đạo của đảng bộ đối với công tác đào tạo.

67 = 29,91%

- Sự lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi của cấp uỷ, các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc, các đơn vị, khoa phòng, các đoàn thể trong trường và chính quyền trên địa bàn thành phố đối với quá trình lãnh đạo công tác đào tạo của đảng bộ trường.

65 = 29,01%

- Quá trình hội nhập với các trào lưu đổi mới mạnh mẽ trong giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu, tạo cơ hội thuận lợi cho trường tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục hiện đại

47 = 20,98%

- Nguyên nhân khác (ghi cụ thể): 0 Về sự lãnh đạo của đảng bộ trường đại học đồng chí đang công tác đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học có những hạn chế: - Cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt việc quán triệt, cụ thể hóa quan điểm, nghị quyết của Đảng, của cấp ủy cấp trên, nghị quyết lãnh đạo còn chung chung, chưa thật sát với đặc điểm, tính chất,nhiệm vụ của nhà trường.

28 = 12,5%

- Đảng bộ trường còn lúng túng trong việc xác định xu hướng đào tạo của trường

39 = 17,41%

- Kết quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị trung tâm của nhà trường chưa cao.

48 = 21,42%

- Kết quả xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện có đơn vị chưa thật vững chắc, Chất lượng hoạt động của tổ chức chính trị xã hội còn hạn chế.

35 = 15,63%

- Công tác xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở đảng bộ trường còn hạn chế nhất định, chưa đáp ứng tốt yêu cầu, mục tiêu xác định

44 = 19,64%

10

- Khó trả lời 30 = 13,39% Những hạn chế trên bắt nguồn từ những nguyên nhân: 11 - Cấp uỷ đảng, nhà trường chưa nhận thức đầy đủ về chủ trương, đường lối của Đảng về giáo dục, đào tạo.

15 = 6,69%

11

- Tổ chức bộ máy, cán bộ, giảng viên và chất lượng hoạt động của các đơn vị, phòng ban tham mưu ở trường chưa đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng công tác đào tạo.

75 = 33,48%

- Đảng ủy chưa động viên và phát huy mạnh mẽ vai trò và trách nhiệm của các tổ chức đoàn thể tham gia vào quá trình nâng cao chất lượng công tác đào tạo của nhà trường bằng những giải pháp đem lại hiệu quả cao.

66 = 29,46%

- Thách thức - yêu cầu ngày càng cao về chất lượng đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

57 = 25,45%

- Nguyên nhân khác (ghi cụ thể):

11 = 4,91%

Để tăng cường sự lãnh đạo của đảng bộ trường đại học đồng chí đang công tác đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học giai đoạn hiện nay, cần thực hiện tốt những giải pháp: - Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, trước hết là ban thường vụ, thường trực đảng ủy, cán bộ chủ chốt về vai trò lãnh đạo của đảng bộ trường đối với việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo đại học

75 = 33,48 %

- Lãnh đạo tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, giảng viên trường

58 = 25,89 %

- Đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức bộ máy và mối quan hệ công tác trong trường đại học

65 = 29,02 %

- Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác hợp tác và chuyển giao công nghệ đào tạo đại học

48 = 21,43%

- Chú trọng công tác phát triển đảng viên, phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng trong trường đại học

54 = 24,11%

12

- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với công tác đào tạo đại học

85 = 37,95%